Kinh Việt

Tác giả Bài
Thần Báo
  • Số bài : 67
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2008
  • Nơi: Lynnwood, Washington
Kinh Việt - 25.06.2008 22:57:00
Kinh Việt
 
soạn bởi Thần Báo Phạm Văn Bản

Việt Ðức 1, ngày 20 tháng 9 năm 1982
Sikew, Thailand



Chủ Tế: Thần Báo Phạm Văn Bản
tại Trường Đại Học Cộng Đồng Everett
(Hình của Nhật Báo Herald)
 
 


Là người dòng giống Lạc Long
Ðồng Bào ta nhớ thuộc lòng chin kinh
Tiên Rồng thứ nhất xác minh
Hiệp Song Hoàn Chỉnh trọn tình ai ơi
Thứ hai Trầu Cau diễn lời
Thân Thương nguyên lý làm đời sống chung
Thứ ba hướng tới trùng phùng
Chữ Ðồng: Bình Ðẳng Tột Cùng là đây
Tiết Liêu thứ bốn dựng xây
An Dân Thịnh Nước xum vầy ấm no
An Tiêm kinh tiếp chăm lo
Việc Làng Dân Chủ - đạo phò con dân
Vọng Phu thứ sáu góp phần
Chồng nào Vợ nấy chuyên cần tăng gia
Trương Chi thứ bảy ấy là
Căn nguyên hạnh phúc – tình ta sáng ngời
Mỵ Châu thứ tám truyền lời
Kinh Giữ Nước góp đời sĩ phu
Kết Kinh Phù Ðổng diệt thù
Dấn thân Cứu Nước cho dù gian nan
Chín kinh tóm tắt chứa chan
Tiên Rồng văn hóa bao ngàn năm qua.
 
 
 
 
Ban Giảng Viên Trường Hoa Tiên Rồng Mỹ Châu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.07.2008 02:28:12 bởi Thần Báo >

Thần Báo
  • Số bài : 67
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2008
  • Nơi: Lynnwood, Washington
RE: Kinh Việt - 25.06.2008 23:14:31
1. Kinh Tiên Rồng
 
 




Một Bọc Trăm Con  - Hình của Thày Bùi Văn Bảo
Một là trăm và trăm là một: Đồng Bào



Khai nguyên minh triết nước ta
Tiên Rồng phối hiệp – xây gia dựng đình
Từ đây thắm đượm ân tình
Trong con chung bọc – mẹ sinh một lần
Trọn tình trọn nghĩa ái ân
Mẹ cha xác quyết đôi phần như sau
Con người – hai nửa khác nhau
Năm mươi theo mẹ lên mau núi rừng
Nửa phần còn lại reo mừng
Theo cha xuống biển tưng bừng hoan ca
Cha Rồng lại nhắn nhủ là
“Khi cần thì gọi – có ta về liền!”
Tiên Rồng phát triển thường xuyên
Cháu con Tộc Việt khắp miền núi sông
 
* * * *
 
Tuyệt thay Chánh Thuyết Tiên Rồng
Ông Bà xây dựng cộng đồng an vui
Căn nguyên Nhận Diện Con Người
Tiên Rồng Song Hiệp – tạo đời toàn năng
Cha Rồng – biểu tượng nói rằng
Lực thân sinh động – Trí năng biến hòa
Và Tiên hiện hữu trong ta
Làm nên người thật ấy là nhân sinh
Me Tiên – biểu tượng chứng minh
Tâm tình thông hiệp – Tuệ linh vĩnh tồn
Con Người – nền tảng lập ngôn
Trí-Thân-Tâm-Tuệ trường tồn là đây
Tiếp theo công cuộc dựng xây
Cộng đồng Xã Hội xum vầy như sau
Hiệp hai hoàn chỉnh nhiệm màu
Trăm Con Một Bọc cùng nhau giúp đời
Trăm người trăm việc ai ơi
Căn cơ Gia Tộc tuyệt vời là đây
 
Chẳng như tà thuyết phương Tây
Duy tâm, duy lợi… chứa đầy bất công
Phân ngôi định cấp cộng đồng
Ðặt ra thống trị: chủ ông – tớ đày
Của tài vơ vét hàng ngày
Bắt dân đóng góp kéo cày như trâu
Cấp trên cứ thế mà giàu
Lừa khinh cấp dưới tóm thâu lợi quyền
Nào là đảng trị chính chuyên
Tự do – cũng bọn tuyên truyền hại dân
Con người đau khổ muôn phần
Biến thành con thú – ta cần xóa tan
Thay bằng xã hội thịnh an
Tiên Rồng – hồi phục dung nhan con người
 
Quân bình tỷ lệ: năm mươi
 Số con theo mẹ bằng người theo cha
Tương đồng tuyệt đối ấy là
Hiệp hai hoàn chỉnh – làm đà phát huy
Nguyên sinh vạn vật gẫm suy
Phê bình tiến hóa – cứu nguy loài người
Kỷ nguyên cách mạng sáng ngời
Tiên Rồng Mở Hội – tiếng cười hoan ca
 
Núi – sông giao hữu hài hòa
Siêu linh – vật chất thăng hoa muôn đời
Lý – tình minh định tuyệt vời
Thân thương – bình đẳng bao thời khắc ghi
Nước – nhà lúc thịnh lúc suy
Hợp tan – tan hợp diệu kỳ ngàn thu
 
Mỗi người: sống nét đặc thù
Trong nền Phúc Ðức luyện tu hàng ngày
Tinh thần – thể chất tỏ bày
Hiền hòa – dũng cảm hăng say giúp đời
Lo ăn mặc – cũng thảnh thơi
Cá nhân – tập thể xin mời lo toan
Sống nhân – lẫn trí kiện toàn
Hợp tình – hữu lý hiền ngoan Tiên Rồng
 
Gia đình: thuận vợ thuận chồng
Thương yêu kính trọng – hòa đồng việc chung
Sống tình lẫn nghĩa – ung dung
Vô nam dụng nữ - cũng cùng như nhau
Vợ chồng, con cháu trước sau
Việc làng việc nước – hãy mau trau dồi
Gái trai – hiếu thảo xứng đôi
Kính thờ Quốc Tổ - nhớ nôi Tiên Rồng
 
Cộng đồng: trên dưới, nhưng không
Lạm quyền thống trị: chủ ông – tớ đày
Thời nào mà chẳng nghèo – giàu
Chung giàn cuộc sống bí – bàu chẳng phân
 Tước thiên mà có tước nhân
Lý – tình đạo sống mười phân vẹn mười
Gia đình – gia tộc, loài người
Từ làng đến xã vui cười đoàn viên
 
An dân chính sách gắn liền
Vua – quan vì nhiệm khắp miền ấm no
Ðức – tài lãnh đạo chăm lo
Chẳng vì chức vị tự do lộng hành
Chớ đâu quân chủ chính chuyên
Thực ra dân chủ khắp miền lân bang
Phép vua thua với lệ làng
Chứng minh cuộc sống nhịp nhàng vì dân
Chăn dân mà lại ân cần
Ðáp ứng nguyện vọng toàn dân tỏ bày
Mưu cơ – đạo lý thẳng ngay
Quang minh chính đại – ra tay cứu đời
Sống theo văn hóa sáng ngời
Với người khuất mặt – với đời nhân sinh
 
Xét về kinh tế xứ mình
Thực thi bình sản dân tình an khang
Không thừa không thiếu rõ ràng
Kiệm cần liêm chính – lại càng thảnh thơi
Tấc vàng tấc đất xây đời
Mặc bền ăn chắc là lời huấn linh
Trăng thanh gạo trắng hữu tình
Tạo ra của cải là vì thân thương
 
Con người gắn bó quê hương
Quốc phòng quân sự khắp phương thuận hòa
Xã làng – tổ chức nước ta
Vừa làm kinh tế - vừa là chiến khu
Giữ làng giữ nước – bao thu
Toàn dân là lính diệt thù lập công
Có văn lẫn võ – hòa đồng
Giữ nhà giữ nước vợ chồng dân binh
Hỡi cô du kích chung tình
Bên anh diện địa – có mình có ta
Vừa lo giết giặc – mà là
Cứu người lương thiện – Tình Ca Ðồng Bào
 
Tiên Rồng – Ðạo sống tự hào
Thờ Trời mà cũng đề cao Thờ Người
Tại tâm – thể hiện vui tươi
Lễ nghi – chứng tỏ con người thiện tâm
Trên dương sống mãi như âm
Từng người – toàn thể đồng tâm giúp đời
Bao điều tôn giáo tuyệt vời
Thế nhưng chỉ nhận những lời thích nghi
Gia Tiên – Quốc Tổ khắc ghi
Tình chân thiện mỹ - không gì sánh hơn
 
Ngày nay nhân loại gặp cơn
Khiếm khuyết hạnh phúc – oán hờn kiếp sinh
Gây ra bao cảnh bất bình
Ðấu tranh giai cấp – đoạn tình anh em
 
Xin mời thế giới đến xem
Con đường nhân bản sẽ đem hiệp đồng
Ðó là Chánh Thuyết Tiên Rồng
Giúp cho nhân loại – chờ trông cứu người
 
Trăm Con Một Bọc tuyệt vời
Công bình bác ái sáng ngời là đây
Từ bi hỷ xã chứa đầy
Ta vâng Thánh Ý – đi xây Con Người.
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.06.2008 01:48:56 bởi Thần Báo >

Thần Báo
  • Số bài : 67
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2008
  • Nơi: Lynnwood, Washington
RE: Kinh Việt - 25.06.2008 23:44:10

2. Kinh Trầu Cau
 

 

 
Trầu Cau - Hình của Thày Bùi Văn Bảo


 
 
 
Kinh Dạy Cách Sống Tiên:
Nguyên Lý "Thân Thương Tột Cùng"
Thương Nhau Trọn Tình
Chết Cho Người Mình Thương
Dẫu Chết Cũng Vẫn Còn Thương
 
* * *
 

Thứ hai diễn tả tình người
Ông bà dẫn chứng cuộc đời Trầu Cau
Sinh đôi – hai đứa giống nhau
Tận tình đùm bọc – cơm rau cạnh kề
Có nàng chớm tuổi cặp kê
Luống mong mình có tóc thề sánh vai
Nàng nhìn tư cách anh hai
Kính trên nhường dưới – đức tài ngang nhau
Giúp nàng suy tính trước sau
Trao duyên gởi phận – lựa vào người anh
Chuyện tình đậm thắm xuân xanh
Vợ chồng hiệp nhất – anh em một nhà
 
Ngày kia trông cuốc hóa gà
Gặp em mà những tưởng là “hôn phu”
Người em đành quyết chu du
Dẫu rằng xa cách – cũng vì thương anh
Hành trình biển nhớ đoạn đành
Sống thiêng thác gởi – hóa thành đá vôi
 
Nhưng anh lòng luống bồi hồi
Nhớ em – chàng kiếm chốn đồi xa xăm
Khóc thương – tượng đá đang nằm
Người anh cũng chết biến nhằm cay cau
 
Thương chồng – nàng mãi âu sầu
Tìm nơi chồng chết hóa trầu giây leo
 
Từ đây lễ tết, cưới cheo
Ăn trầu – tập tục giàu nghèo như nhau
 
* * * *
 
Gẫm suy bài học Trầu Cau
Giống như hai đứa – nhắc nhau Tiên Rồng
 
Bởi chưng Bọc Mẹ hòa đồng
Thân Thương – nguyên lý sống lồng trong kinh
Ðể cùng Bình Ðẳng phân minh
Chứa chan nhân nghĩa – dân tình nước ta
Trăm Con Một Bọc – sinh ra
Ðồng Bào – cùng bọc mẹ cha sinh thành
 
Chu toàn trách nhiệm làm anh
Sánh duyên thiếu nữ – đặt thành tương quan
Ðến khi xảy chuyện bất an
Tình Người – giải quyết hoà chan sáng ngời
 
Chẳng như thiên hạ - xử đời
Vợ chồng khi cưới – sống rời anh em
Tổ Tiên ta lại những xem
Cuộc đời xung khắc lẫn kèm yêu thương
Cả ba – cùng chọn một đường
Ðồng sinh đồng tử - tình thương vẹn toàn
Dương âm – hằng sống bình an
Trầu Câu âu yếm che tàn Ðá Vôi
Vị cay thơm ngát hương môi
Hoà nhau thành máu – Chết rồi vẫn thương
 
Ước mơ nhân loại đã tường
Thương nhau trọn kiếp – nhẫn nhường khắc ghi
Sẵn sàng phải chết – xá chi
Dẫu rằng có chết – cũng vì thân thương
 
Sống trong xã hội bình thường
Trầu Cau – nền tảng là đường dựng xây
Gia đình gia tộc – xum vầy
Họ hàng làng nước – sống đầy thương yêu
Tương quan xét đến các chiều
Từ làng đến nước – một điều thân thương
Sáng soi chân lý ngàn phương
Trầu Cau – lời dạy thành chương dẫn đầu
 
Toàn dân – sống thực chung tầu
Thân Thương Bình Ðẳng – mưu cầu phát huy
Nước nhà – lâm cảnh biến nguy
Hiến thân bảo vệ - chẳng tùy cứ ai
Và nền văn hóa thoát thai
Ông bà, chú bác – nối dài kỷ cương
Anh em, con cháu – tỏ tường
Diễn tình cốt nhục Thân Thương Tột Cùng
 
Ngay nay tà thuyết nhìn chung
Phân chia giai cấp – sao cùng yêu thương?
Bởi chưng nền tảng khinh thường
Gây bao tàn sát – nhiễu nhương hận thù
Nhân quyền, cải tiến… tài bù
Bất công chồng chất – cho dù đấu tranh
 
Ta xem sự thể rành rành
I – you, nị - ngộ… tị ganh hàng ngày
Ðồng đẳng – là chữ giãi bày
Phân ngôi định cấp – tớ thày là đây
 
Chẳng như văn hóa phương Tây
Ðộc tài cộng sản … chứa đầy bất công
Ta theo Văn Hóa Tiên Rồng
Trầu Cau – căn cội Cộng Ðồng Thân Thương
 
Tình Người – xin hãy am tường
Tâm Tụê nơi Mẹ - yêu thương dẫn đầu
Triển khai Kinh tóm lại câu
Bao điều tàng ẩn nhiệm mầu chữ Song
Kết Kinh hiệp ý Chữ Ðồng
Diễn ra chữ Hiệp – Tiên Rồng là đây
 
Căn nguyên Song Hiệp giãi bày
Trăm Con Một Bọc – đi xây cuộc đời
Thân Thương Bình Ðẳng – sáng ngời
Chứng minh Sử Việt – ngàn đời đã qua
 
Tới nay công cuộc chúng ta
Giúp Dân Cứu Nước – vì là quê hương
Tái sinh xã hội kỷ cương
Phục hồi nguyên lý Thân Thương Tột Cùng.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.06.2008 01:50:40 bởi Thần Báo >

Thần Báo
  • Số bài : 67
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2008
  • Nơi: Lynnwood, Washington
RE: Kinh Việt - 25.06.2008 23:53:22
3. Kinh Chữ Ðồng
 
 

 

 
Chữ Ðồng Tiên Dung - Chuyện Tranh của Thày Bùi Văn Bảo
 
 
 

Kinh Dạy Cách Sống Rồng:
Nguyên Lý "Bình Ðẳng Tột Cùng"
Sống Với Nhau Bằng Con Người Thật
Con Người Tinh Tuyền
Ðừng Ðể Ngoại Vật Chia Cách Con Người
Chỉ Thấy Con Người - Lấy Con Người Làm Tiêu Chuẩn Căn Bản
Tài Của Giúp Người - Mọi Người Cùng Hưởng 

 
  
 
Thứ ba – Lời Dạy Sống Chung
Tổ Tiên kể chuyện Tiên Dung Chữ Ðồng
Sống trong xã hội Tiên Rồng
Căn nguyên Bình Ðẳng – hòa đồng việc chung
 
Có nàng công chúa Tiên Dung
Trăng tròn lẻ bóng – dạo cùng khắp nơi
Như tiên tung cánh giữa trời
Ðang mong tìm kiếm một nơi thanh bình
 
Kể ra cho rõ sự tình
Chữ Ðồng vất vưởng mỗi mình ven sông
Thương thay kiếp sống Cha Rồng
Áo cơm không đủ - chất chồng cô đơn
Sớm khuya lòng luống mong ơn
Tiên Rồng Song Hiệp thoát cơn đọa đày
Rồi chờ cũng có một ngày
Ước sao được vậy – kiếp này thảnh thơi
 
Sáng nay công chúa ghé nơi
Vây màn tắm gội – đất trời thăng hoa
Hiện nguyên mình ngọc thân ngà
Nào ngờ - dưới cát vốn là ẩn nhân
Nước trong – cuốn sạch bụi trần
Trôi theo lớp cát – hiện thân Chữ Ðồng
 
Cao xanh đã thắt chỉ hồng
Thấp cao hiệp nhất – vợ chồng nên duyên
Mẹ Tiên – bèn xuất bạc tiền
Xây làng dựng phố - khắp miền ấm no
Con dân – ra sức chăm lo
Lập nên cuộc sống tự do thanh bình
 
Cha Rồng cũng góp phần mình
Phép tiên đã luyện – tận tình dạy dân
Tạo ra sung túc muôn phần
Cộng đồng phát triển – đang cần bình an
Và rồi công cưộc liên can
Những gì thịnh vượng – vua quan lo sầu
Tiên Rồng – biến hóa nhiệm mầu
Dân làng – mọi sự tóm thâu Về Trời
 
* * * *
 
Đây Kinh Nền Tảng tuyệt vời
Làm Con Người Thật là lời khuyên chung
Ðề cao Bình Ðẳng Tột Cùng
Tổ Tiên lột tả nội dung Tiên Rồng
 
Tích xưa – thiên hạ thổi phồng
Công nương hoàng tử - mới đồng sánh đôi
Thứ dân – cũng phải hoa khôi
Môn đăng hộ đối – tranh ngôi sang giàu
 
Tạo ra giai cấp khác nhau
Ăn trên ngồi trốc – bí bàu đấu tranh
Bất công xã hội rành rành
Chủ nô chế độ - đoạn đành anh em
 
Ông bà nhưng lại đã đem
Cành vàng lá ngọc – dân đen hợp hòa
Tiên Dung trẻ đẹp như hoa
Giầu sang quyền thế - vậy mà yêu dân
Chữ Ðồng không khố che thân
Nghèo nàn mạt rệp – hưởng phần cưới tiên
 
Nàng Dung lưu lạc khắp miền
Chính mình nhận thức – và tiên lên bờ
Chàng Ðồng nào dám hững hờ
Ẩn mình dưới cát – đợi chờ cơ duyên
Thấp cao – ván đã đóng thuyền
Sinh Con Trăm Ðứa – hưởng quyền quốc gia
Như dân – trong nước một nhà
Lấy chi tài của – khiến ta chia lìa
 
Tiên Rồng văn hóa chiếu tia
Ðừng cho ngoại vật ngăn chia cuộc đời
Nơi đây Chỉ Thấy Con Người
Toàn dân hạnh phúc – tiếng cười đoàn viên
Thực thi Bình Ðẳng như Tiên
Ta noi gương Mẹ - dùng tiền nuôi dân
Gương Cha – cũng được góp phần
Tài năng biến hóa – chuyên cần dạy khuyên
 
Giúp dân Sống Thực căn nguyên
Phát huy toàn diện – vang truyền gần xa
Cháu con noi đức mẹ cha
Tài năng của cải chỉ là hỗ tương
Chớ dùng tài của đo lường
Phân ngôi định cấp – thân thương xa lìa
Rồi gieo giọt lệ đầm đìa
Ăn trên ngồi trốc – phân chia giàu nghèo
Gây ra cuộc sống cheo leo
Khinh khi cốt nhục – rắc gieo tương tàn
 
Tiên Rồng – xã hội thịnh an
Mọi người cùng hưởng – sẻ san gia tài
Chẳng dành hạnh phúc riêng ai
Về Trời – dẫn tới tương lai thanh bình
Từ người tới vật hữu sinh
Hoàn toàn được hưởng trong tình Thân Thương
 
Tuy rằng cũng có ít phường
Tham quyền lạm chức nhiễu nhương dân lành
Ðể răn những kẻ lộng hành
Toàn dân khinh bỉ - Sử xanh chê cười
 
Chẳng như văn hóa xứ người
Chủ nô – cổ võ coi người như trâu
Cấp cao sẵn thế làm giầu
Ðạp lên đồng loại – tóm thâu lợi quyền
 
Và nền Ðạo Việt lại khuyên
Góp chung Phúc Ðức – lưu truyền nghìn thu
Sống theo nguyên lý đặc thù
Tột Cùng Bình Ðẳng – chân tu Con Người.
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.06.2008 01:52:03 bởi Thần Báo >

Thần Báo
  • Số bài : 67
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2008
  • Nơi: Lynnwood, Washington
RE: Kinh Việt - 26.06.2008 00:55:03

Phạm Văn Bản
 
 
Nhìn Chung Ba Kinh Nền Tảng
 
1. Kinh Tiên Rồng: Nền tảng, ta rút ra nguyên lý của sự sinh hóa của vạn vật, đặc biệt căn cứ trên con người, tức nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp Hoàn Chỉnh. Với Kinh Tiên Rồng, chúng ta có được định nghĩa về con người! Hoàn chỉnh, toàn diện, đúng thực! (So với sinh vật kinh tế hay lao động của các chủ thuyết duy vật, duy lợi)... chúng ta cũng được nguyên lý của xã hội con người: Thân Thương Tột Cùng và Bình Ðẳng Tột Cùng.
 
2. Kinh Trầu Cau: Kinh Trầu Cau rút ra từ Bọc Mẹ Trăm Con của Kinh Tiên Rồng ra hai người (hai anh em sinh đôi) để áp dụng vào đời sống xã hội và đặc biệt nhấn mạnh, khai triển khía cạnh Thân Thương Tột Cùng của Kinh Tiên Rồng, của con người. Kinh Trầu Cau đặt nền tảng tương quan giữa người với người, nghĩa là: Thương nhau trọn tình, sẵn sàng chết vì thương, và dẫu có chết cũng vẫn còn thương. Vì là nền tảng tương quan giữa người với người, nên cũng là nền tảng sống thực của mọi xã hội, từ gia đình… tới nhân loại. 
 
3. Kinh Chữ Ðồng: Kinh Trầu Cau đã từ Bọc Mẹ Trăm Con của Kinh Tiên Rồng ra hai anh em để áp dụng Thân Thương Tột Cùng, thì để dạy bài học Bình Ðẳng Tột Cùng, Tổ Tiên ta lấy lại hình ảnh Tiên Rồng, Công Chúa Tiên Dung: đẹp, sang, giầu, được yêu thương, kính trọng quyền thế cao cả, tột cùng trong xã hội! Theo chữ nho, tiên là người ở núi (vì ghép chữ nhân với chữ sơn) thành chữ tiên, sướng như tiên, như núi của (vật chất).
 
Qủa là nàng tiên, Tiên Dung giáng trần đến với chàng Chữ Ðồng đói khổ, lang thang nơi bờ sông bãi sú kiếm ăn... có cái khố cũng vì hiếu mà liệm cho cha lúc người lìa trần.
 
Sống với nhau, phải thấy nhau bằng con người thật, con người tinh tuyền, con người không bị vật chất che phủ.
 
Chàng là rồng ẩn mình trong lòng đất (thủy phủ) khi công chúa Tiên Dung khuôn màn tắm gội… Nàng từ trời xuống, chàng từ đáy huyệt lên.
 
Nàng giầu sang tuyệt thế, chàng tệ hơn khố rách áo ôm… thế mà lại nên duyên! Xin hỏi xã hội như thế còn kẽ hở nào để ngăn cách, để phân chia giai cấp?
 
Và nhờ sự song hiệp Tiên Rồng, con người được hạnh phúc. Tiên Dung Chữ Ðồng giúp dân. Họ có cả một chương trình phát triển xã hội: giáo hóa dân chúng (dạy dân phép tiên), phát triển kinh tế (lập phố xá), ngoại thương (ra biển đi buôn), phát triển giao dịch, lưu thông (gậy thần rút đất) … và rồi khi Về Trời dân chúng cũng được về theo, thành tiên, hạnh phúc cực lạc!
 
Nhìn vào nguyên nhân thảm họa của nhân loại hôm nay, là vì các chủ thuyết đã nhận định sai lạc về Con Người, do đó đặt nền tảng gỉa tạo cho xã hội loài người. Khi quan niệm con người chỉ là con thú tiến bộ, hay sinh vật tiêu thụ và sản xuất…  khi chỉ nhìn được nhận với một số đặc tính mà chối bỏ những đặc tính khác… và khi chủ trương con người đối xử với nhau bằng hận thù, bằng đấu tranh, bằng mánh khóe thì làm sao có được hạnh phúc an vui?
 
Những sai lầm về nền tảng đó đã được Tổ Tiên ta giải quyết thỏa đáng với câu chuyện tinh túy của Con Cháu Tiên Rồng. Ý nghĩa kết hiệp giữa hai biểu tượng Tiên Rồng, tương đồng tuyệt đối, 50 theo mẹ 50 theo cha, và Một Bọc Trăm Con, đồng bào ruột thịt. Kinh Tiên Rồng qủa là bản văn nhận diện chính xác và trọn vẹn con người và xã hội con người.
 
Nhận ra con người gồm cả thân xác, trí khôn, tâm tình và thông hiệp với thế giới siêu linh. Con người là hiệp thể toàn nhất, tự tại và bất khả phân, nhưng con người bẩm sinh cũng là thành phần xã hội. Cùng một lúc, cùng có luôn 100 con người!
 
Kinh Tiên Rồng, ta đã giải quyết xung đột giữa hai chủ nghĩa cá nhân và tập thể, mà xác quyết rằng thế giới vận hành không phải do mâu thuẫn nội tại, mà nhờ Song Hiệp. Ở cấu thành cũng như mọi sinh hoạt con người, luôn luôn phải có sự hòa hiệp đúng đắn và đầy đủ giữa hai cấu tố tương đồng, được biểu trưng qua Tiên và Rồng, như cá nhân và tập thể, gia đình và làng nước, vật chất và tinh thần, kinh tế và đời sống, tình và lý, hữu và vô.
 
Các chủ thuyết hôm nay thất bại trong cố gắng tiêu diệt bất công vì tạo ra giai cấp mới. Nhưng Kinh Chữ Ðồng của văn hóa Việt, với chàng nghèo đói không khố mà sánh duyên nàng công chúa Tiên Dung, chẳng những đưa ra quan niệm, mà còn đặt ra những nguyên tắc và phương thức hành động để xã hội được thực sự bình đẳng, loại trừ giai cấp đặc quyền, lạm dụng, ỷ lại quyền thế.
 
Trước thế giới băng hoại, hận thù, mạnh được yếu thua, gia đình suy thoái, tan rã, và con người càng thêm cô độc bơ vơ… Kinh Trầu Cau đặt nền tảng cho sự liên hệ đích thực giữa người với người, cho cách sống thực những mối ràng buộc thiết yếu, thực tại và cao qúy của con người.
 
Không lý thuyết suông, mà chỉ cho ta phương thức thực tế, áp dụng từ trong cội nguồn, trong tâm tư, cho đến thể hiện nơi cuộc sống hằng ngày và thành quả sinh động trước mắt.
 
* * *
 
a. Biểu Tượng Tiên Rồng
 
Là biểu tượng, vì khi nói tới Tiên, chúng ta nghĩ tới ngay một hình ảnh xinh đẹp, dịu hiền, từ tâm, khoan dung, nhân ái... mà còn thoát tục, siêu phàm, như tiên giáng trần, trường sinh bất tử, sống động nhưng vượt thời gian, lẫn không gian.
 
Cũng vậy, Rồng biểu trưng cho oai dũng trổi vượt, sức mạnh vô song, sức sống vô tận, thiên biến vạn hóa, như linh như hiển, như thánh như thần... khi ẩn mình dưới đáy nước, lúc bay vút lên trời cao, làm mây làm mưa, giáng ơn giáng phúc.
 
Và khi nói chúng ta là kết tinh của việc Tiên Rồng phối hiệp, thì Tổ Tiên ta cũng đã diễn đạt nhận thức của các Ngài về Con Người. Bởi khi nói, chúng ta là dòng giống Tiên Rồng, thì Tổ Tiên ta muốn diễn tả: Con Người là một hiệp thể sinh động, là một kết tinh toàn hảo của mọi đặc tính bộc lộ qua hai biểu tượng Tiên và Rồng.
 
Là hiệp thể do Tiên Rồng phối hiệp, có nghĩa Con Người vừa biến hóa như Rồng lại vừa trường cửu như Tiên: vừa là hiệp thể siêu phàm, vừa trong thời không lại vừa vượt thời không, vừa linh động lại vừa thường hằng, vừa xinh đẹp dịu hiền lại vừa hùng dũng cương quyết, vừa tình vừa lý, vừa chan chứa yêu thương vừa uy lực vô song... 50 thuộc Tiên 50 thuộc Rồng, song hiệp hoàn chỉnh, hai bên quân bình.
 
Vì là truyền thuyết của dân Việt, nên khi Tổ Tiên ta nhấn mạnh đây là nguồn gốc của tất cả mọi người, thì cũng không loại trừ ai.
 
b. Tiên Rồng Song Hiệp
 
Tổ Tiên không chỉ diễn đạt những đặc tính nhận diện nơi Con Người mà còn đặc biệt nhấn mạnh tới các tỷ lệ giữa các đặc tính đó. Khi cha Rồng nói: Năm mươi con theo mẹ, năm mươi con theo cha, chính là xác quyết sự tương đồng tuyệt đối giữa hai nhóm đặc tính trong Con Người, một nửa do Mẹ một nửa do Cha, năm mươi phần trăm là Tiên, năm mươi phần trăm là Rồng.
 
Như vậy Con Người là một hiệp thể toàn hảo của hai nhóm đặc tính Tiên và Rồng tương đồng tuyệt đối. Con Người là kết tinh của Tiên Rồng song hiệp.
 
Trong toàn bộ nhận diện Con Người qua cuộc sống, văn hóa Việt khám phá ra rằng mọi đặc tính của Con Người đều có thể đúc kết trong biểu tượng Tiên Rồng Song Hiệp. Và Tiên Rồng Song Hiệp đã thấy bàng bạc khắp nơi trong mọi tương quan và sinh hoạt của Con Người.
 
Vì vậy, theo văn hóa Việt, Tiên Rồng Song Hiệp là nhận thức nền tảng thâm sâu nhất, vững chắc nhất trong việc nhận diện toàn thể Con Người.
 
Chúng ta có thể gọi dó là nguyên lý, Nguyên Lý Tiên Rồng Song Hiệp. Chữ song, chẳng những có nghĩa là hai, như lưỡng, nhị.. mà lại thêm ý niệm bằng nhau, như song toàn, vô song... để diễn tả 50 - 50. Chữ hiệp, thì chẳng những có nghĩa đồng ý với nhau, do chữ hợp thêm bộ thủy, mang ý hòa lẫn vào nhau… thành một hiệp thể tự tại toàn nhất.
 
Khi cha Rồng nêu rõ: Tiên lên núi, Rồng xuống biển, chính là muốn chú trọng tới sự vẹn toàn của mỗi nhóm đặc tính Tiên và Rồng được nhận diện trong Con Người.
 
Do Tiên Rồng phối hiệp, Con Người là một hiệp thể tự tại, toàn nhất và bất khả phân. Tuy nhiên không phải vì vậy mà những đặc tính của hai nhóm Tiên và Rồng bị pha chế hay biến đổi.
 
Mỗi nhóm vẫn nguyên vẹn và thể hiện đầy đủ mọi điểm đặc thù của mình, như đang sinh động nơi mỗi trường hợp thích hợp nhất, như Tiên đang ở núi cao, như Rồng đang vẫy vùng giữa biển khơi. 
 
Việc Cha Rồng nhắc nhở Mẹ Tiên: “Khi cần thì gọi, ta về ngay,” cũng là một nhận định đích xác về cuộc sống con người.
 
Tuy Con Người là hiệp thể toàn nhất Tiên Rồng Song Hiệp, nhưng trong thực tại cuộc sống, nhiều khi một số đặc tính lại tỏ lộ rõ rệt, trong khi một số đặc tính lại có thể như thiếu vắng.
 
Dầu vậy lúc cần thì phần thiếu vắng lại có mặt ngay. Nhóm đặc tính đó chỉ ẩn diện và luôn luôn hiện hữu trong Con Người. Ta không thể vì sự thiếu vắng bên ngoài mà chối bỏ sự hiện hữu của nó. Ví dụ: Sự ẩn diện hay bộc lộ còn có thể tùy thuộc vào một số điều kiện. Em bé mới sinh chưa đủ điều kiện thể xác để bộc lộ một số khả năng. Hoặc giả như người hư bộ óc thì không thể bộc lộ khả năng suy tư...
 
Và như thế, nhận thức về Con Người cần phải đầy đủ, trọn vẹn.
 
c. Nền Tảng Xã Hội Loài Người
 
c1. Đặc Tính Xã Hội Bẩm Sinh
 
Cũng với việc đặt nền tảng cho nhận thức về Con Người, truyền thuyết Tiên Rồng đặt nền tảng cho Xã Hội Loài Người.
 
Khi Tiên Rồng là biểu tượng cho hai nhóm đặc tính được nhận diện nơi Con Người, thì Một Bọc Trăm Con không còn là cái bao lúc nhúc một trăm đứa bé nữa.
 
Một Bọc Trăm Con chính là hình ảnh biểu trưng một nhóm người sống quây quần và liên hưởng với nhau mà ta gọi là cộng đoàn, hay xã hội.
 
Biểu tượng Tiên Rồng sinh Một Bọc Trăm Con nêu lên hình ảnh: ngay từ khởi thủy, khi khởi sinh loài người là đồng thời có cả Một Trăm Con Người cùng một lúc. Đã không chỉ một Con Người đơn độc. Hễ Con Người là có cộng đoàn, xã hội.
 
Đây là điểm tuyệt diệu đầu tiên của biểu tượng Một Bọc Trăm Con, văn hóa Việt xác quyết Đặc Tính Xã Hội Bẩm Sinh của Con Người.
 
Với biểu tượng Tiên Rồng Phối Hiệp, truyền thuyết Tiên Rồng xác quyết đặc tính hiệp thể tự tại của từng Con Người, và với Một Bọc Trăm Con, xác nhận đặc tính xã hội của mọi Con Người.
 
Hai đặc tính cá thể và xã hội được xác định đồng thời bởi biểu tượng Tiên Rồng, đã biểu lộ tính chất đặc biệt của văn hóa Việt.
 
Đây chính là nền tảng chỉ đạo trọn nếp sống dân Việt suốt mấy ngàn năm, và đã tạo một nền văn hóa đặc thù.
 
c2. Hai Nguyên Lý Xã Hội
 
Với biểu tượng Tiên Rồng phối hiệp và sinh ra Một Bọc Trăm Con, văn hóa Việt xác quyết rằng mọi Con Người trong xã hội đều cùng một mẹ một cha và được sinh ra cùng một lần.
 
Xác quyết này khác biệt với nhiều nền tảng của văn hóa khác. Nhiều văn hóa đã phân chia xã hội loài người thành nhiều giai cấp, và chủ trương quyền thống trị là đặc ân thiên phú của một dòng họ, hoặc một giống dân. Ví dụ: Như văn hóa Hy Lạp dành quyền ăn trên ngồi trốc cho một nhóm tự cho mình là con rơi của các vị thần. Văn hóa Ấn Độ lại chủ trương con người sinh ra trong những giai cấp di truyền: ai sinh ở đầu Bruma là tăng lữ, sinh ở bụng là thương gia, sinh ở tay chân thì làm lính, làm nô lệ... Dân Do Thái thì cho rằng dòng giống của riêng họ được Tạo Hóa đặc tuyển và phải tuyệt diệt mọi giống dân cản trở họ... Chù thuyết Quốc Xã Đức lại cho rằng dân Arya da trắng thuần chủng được đặc quyền thống trị loài người.
 
Đang khi văn hóa Việt dùng biểu tượng Một Bọc Trăm Con để lưu truyền nền tảng của một Xã Hội Loài Người bình đẳng tột cùng và thân thương tột cùng.
 
Không có gì diễn tả đầy đủ sự bình đẳng giữa con người với con người bằng hình ảnh ngay ở cấu thành, ngay tự khởi nguyên, con người nào cũng được hưởng nhận cùng một sức sống từ mẹ từ cha, trong cùng một lúc. Mọi người đều ra đời cùng một lần trong một cái bọc.
 
Tự nguồn gốc, giữa con người không thể có bất cứ một dị biệt nào, chẳng những không dị biệt về sức sống, về di truyền, mà cũng không dị biệt về tuổi tác, hoặc về ngôi thứ giữa anh em. Mọi người hoàn toàn như nhau, hoàn toàn bằng nhau.
 
Qua biểu tượng Một Bọc Trăm Con, văn hóa Việt đã nêu lên nguyên lý sâu vững nhất cho Xã Hội Loài Người về bình đẳng, con người bình đẳng tự căn nguyên, Bình Đẳng Tột Cùng.
 
Ngoài ra, có xã hội nào thân thương bằng những anh em ruột thịt, cùng do một mẹ một cha. Tuy là anh chị em ruột nhưng cũng ít khi thương nhau đồng đều. Anh chị thường thương yêu chăm sóc cho em nhiều hơn là đứa em lo lắng cho anh chị. Do đó khi nhấn mạnh rằng mọi người cùng được sinh ra một lượt với nhau, Tổ Tiên muốn nhấn mạnh tới sự đồng nhất ngay cả trong tình yêu thương nhau.
 
Biểu tượng Một Bọc Trăm Con, trăm anh em giống nhau như đúc, giống nhau hoàn toàn về mọi phương diện. Giữa họ, không có gì dị biệt, nên không có gì xung khắc, cũng không có gì hạn chế hay cản trở họ thương nhau. Sự khắn khít giữa họ thực chan chứa, trọn vẹn, và đồng đều. Họ thương nhau tận tình.
 
Trong đời sống thực tế, không hề có những người được cha mẹ sinh ra cùng một lúc và hoàn toàn giống nhau. Vì vậy tình thân thương của Trăm Anh Em cùng Một Bọc, đã vượt quá mọi kinh nghiệm yêu thương thường tình của chúng ta. Đây là tình Thân Thương Tột Cùng.
 
Sự diễn đạt của Tổ Tiên thật là tuyệt vời!
 
Một Bọc Trăm Con, mọi người là Anh Em Cùng Một Bọc, là biểu tượng của Xã Hội Loài Người, mà cũng là diễn đạt hai nguyên lý nền tảng hoàn hảo thâm sâu nhất của Xã Hội loài người, là Bình Đẳng Tột Cùng và Thân Thương Tột Cùng.
 
Mọi người đều là Anh Em cùng Một Bọc Tiên Rồng, đều là Đồng Bào. Khi dùng chung cho mọi người trong nước, chữ đồng bào đã luôn nói lên truyền thống cao quý của văn hóa Tiên Rồng. Chúng ta cũng có thể dùng chữ đồng bào để chỉ tập thể, hay từng cá nhân. Ta gọi nhau là đồng bào để nhắc nhở rằng mình thì thực sự là anh em, do cùng một bọc Tiên Rồng. Mà là Con Người thì bất cứ ai cũng là đồng bào, Bình Đẳng và Thân Thương tột cùng.


 * * *

Sau ba kinh nền tảng cho con người và cuộc sống xã hội, tổ tiên ta lại dạy một cơ cấu quan trọng nhất, chi phối mạnh mẽ đời sống con người đó là nước, quốc gia.
 
Xin tiếp tục trở lại những bài vè Kinh Việt kế tiếp.
Xin qúy bạn đọc cho biết ý kiến - Đa tạ.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.06.2008 01:26:21 bởi Thần Báo >

Thần Báo
  • Số bài : 67
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2008
  • Nơi: Lynnwood, Washington
RE: Kinh Việt - 27.06.2008 01:42:49

4. Kinh Tiết Liêu
 
 

 
Bánh Dày Bánh Chưng -
Hình của Thày Bùi Văn Bảo
Kinh Dựng Nước
 

 




Thứ tư Tình Nước sáng tươi
Tiết Liêu – bài học Con Người An Dân
Làng giàu nước đẹp phải cần
Mẫu người tài đức giúp dân thái hòa
 
Vua Hùng – thánh chỉ ban ra
Cúng dâng lễ vật thì là truyền ngôi
Và rồi khắp chốn xa xôi
Ðã bao hoàng tử nổi trôi đi tìm
Tiết Liêu vốn tính lặng im
Suốt ngày quanh quẩn chẳng tìm đâu xa
Một hôm chàng gặp Cụ Gìa
Dạy làm kiểu bánh đậm đà hương say
Bánh chưng cùng với bánh dày
Chế từ lúa gạo - thường ngày nuôi dân
Rồi chàng luyện tập chuyên cần
Dâng lên của lễ - xứng phần làm vua
 
Từ đây lễ tết đầu mùa
Dày Chưng – là bánh tiễn đưa bàn thờ
 
* * * *
 
Có ai đã mấy khi ngờ
Việc vua việc nước – cần nhờ sứ nhân
Nước ngoài – văn hóa chỉ cần
Mẫu người cai trị thông phần dụng binh
Giết người cướp của thao tình
Miễn tranh vương gỉa – điển hình sử xanh
 
Nhưng nền Ðạo Việt tinh anh
Phải tìm lễ vật – mới dành ngôi vua
Khởi công bài học thi đua
Nhờ ơn Tộc Tổ - làm vua phải cần
Mang ra giáo hóa toàn dân
Tri ân thủ nghĩa – góp phần dựng xây
Non sông trăm họ xum vầy
Cùng nhau ăn qủa – nhớ cây người trồng
Vẫn theo tiêu chuẩn nghĩa công
Ông bà nhắc chuyện Tiên Rồng với câu
Long Quân Thánh Tổ - nhiệm mầu
Khi cần thì gọi – nơi đâu cũng về!
Bao phen linh ứng lời thề
Tổ là Hồn Nước – cận kề với dân
 
Ðã bao hoàng tử vong thân
Ðua nhau vọng ngoại – tảo tần phương xa
Quên luôn báu vật quê nhà
An Dân Thịnh Nước – mới là xứng ngôi
Cần chi những của xa xôi
Gây ra mâu thuẫn – vua tôi trị vì
 
Nhưng đây Kinh Việt lại ghi
Tài tìm lễ vật – những gì An Dân
Tiết Liêu vận dụng toàn phần
Tâm Tuệ - tìm vật giúp dân hưởng nhờ
Thức ăn từ gạo đơn sơ
Thêm tài cải tiến – nào ngờ thơm ngon
Làm theo hình thể vuông tròn
Bảo Bình – hàm ý sống còn trong tên
Tuyệt thay chiếc bánh chưng rền
Lá xanh gạo trắng – nói lên thanh bình
Ta nhìn tấm bánh xinh xinh
Bên trong gói ghém bao tình quân dân
Muối tiêu đường đậu thịt nhân
Ngọt bùi cay đắng – chia phần sẻ san
Dựng nên cảnh sống thịnh an
Mọi người cùng hưởng – chứa chan công bằng
Cũng trong buổi hội hoa đăng
Bánh Dày nhuần nhuyễn – xin rằng chớ quên
Thời suy – loạn lạc nổi lên
Cứu nguy xã tắc – đạn tên không sờn
Sứ Nhân nặng nợ công ơn
Trước là Sống Thực - biết nhơn biết mình
Hai là Hồn Nước quang vinh
Cầu xin Tộc Tổ thương tình giúp cho
Ba là Lột Xác nguyên do
Gĩa từ cái cũ – ta lo sửa trì
Dân Thân – điều chót nhớ ghi
Anh em cộng tác – xá gì gian lao
Là con cháu Việt tự hào
Thực thi truyền thống đề cao Tiên Rồng
 
Tiết Liêu gương sáng khởi công
Sống theo Hồn Nước – hoà đồng toàn dân
Quyết tâm lột xác dấn thân
Dân an nước thịnh – tỏ phần tài năng
Trong Kinh Tổ đã dạy rằng
Phải luôn cải tiến - phát tăng nhu cầu
Ðưa ra quốc sách khởi đầu
Cộng theo cơ chế - nghèo giầu thích nghi
Cố công tìm kiếm những gì
Giúp dân sống thực – chớ vì quyền uy
Làm vua – tuân giữ nội quy
Thực hành Lời Tổ - cứu nguy dân lành
Lợi dân ích nước – hoàn thành
Cộng đồng hạnh phúc – sáng danh Tiên Rồng
 
Trong Kinh Dựng Nước Chữ Ðồng
Phúc thay! Toàn thể thưởng công Về Trời
Kinh Làng – Kinh Nước xây đời
Tiết Liêu hướng dẫn những lời An Dân
Căn cơ Việc Nước tạo phần
Quê hương thịnh vượng toàn dân huy hoàng
Hiệp theo thực thể rõ ràng
Việc Làng – phát triển nơi chàng An Tiêm
Biểu trưng dưa hấu uy nghiêm
Biến vùng sỏi đá thành niềm ước mong
 
Tổ Tiên muốn nói chữ Song
Tiên Rồng Song Hiệp – như trong từng bài
Tiết Liêu – Rồng lại trổ tài
Làm phần biến hóa – giúp Ngài gặp Tiên
Lời khuyên của Tổ gắn liền
Trường Tồn – nền tảng nơi Tiên đây rồi
Hai phần hoàn chỉnh – truyền ngôi
Tạo ra hiệp nhất một đôi song toàn
Ðạo Làm Vua – Ðạo Làm Quan
Kinh Tiên – Việc Nước hòa chan hai đàng
Kinh Rồng – nền tảng Việc Làng
Nước Làng Song Hiệp – vẻ vang giống dòng
 
Tiết Liêu – gói ghém bên trong
Công ơn Thánh Tổ - ghi lòng cháu con
Tình người tình nước – sắt son
Thực thi nguyện vọng sống còn nước dân
Chưng Dày – biểu tượng minh phân
Thanh bình loạn lạc – điều cần giải nguy
Giúp dân sống thực gẫm suy
Mẫu Người Lãnh Ðạo ẩn quy trong bài
Nơi đây nói đến chữ tài
Cái tài sáng tạo – cùng tài an dân.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.06.2008 01:54:07 bởi Thần Báo >

Thần Báo
  • Số bài : 67
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2008
  • Nơi: Lynnwood, Washington
RE: Kinh Việt - 27.06.2008 01:56:14

5. Kinh An Tiêm

 
 


Dưa Ðỏ -
Hình của Thày Bùi Văn Bảo
Kinh Dựng Làng
 




Thứ năm chú trọng “Trí Thân”
Việc Làng Phát Triển trong phần An Tiêm
Con dân bày tỏ nỗi niềm
Về nền dân chủ trang nghiêm nước nhà
 
Lời đồn sự nghiệp dèm pha
Người vua Hùng phạt chính là con nuôi
An Tiêm trong tuổi đôi mươi
Phải đày ra đảo vắng người hoang vu
Dầu chàng gắng sức công phu
Khai hoang khẩn đất đền bù ơn vua
Nhưng rồi cuộc sống vẫn thua
Càng thêm đói rách – ruộng chua nước phèn
Lang thang chốn lạ chưa quen
Mỏi mong hạnh phúc bao năm đi tìm
Sáng nay gặp gỡ cánh chim
Làm rơi hạt giống im lìm mọc lên
Thành giây dưa hấu mang tên
Vỏ xanh ruột đỏ dòn mềm thơm ngon
Chàng Tiêm ghi dấu dưa tròn
Thả trôi xuống biển – mỏi mòn trông tin
Lượm dưa – dân kéo đến xin
Thành ra làng xã – giữ gìn quê hương
Miền hoang phát triển phi thường
Dân làng trù phú kỷ cương thuận hòa
An Tiêm thay mặt làng ta
Chọn dăm trái hấu làm qùa dâng vua
 
Từ đây lễ tết đầu mùa
Trái dưa Cúng Tổ - dâng đưa trên bàn
 
* * * *
 
Ôi! Kinh Sống Thực chứa chan
Việc Làng Dân Chủ - tương quan Tiên Rồng
Sống trong thể chế hiệp đồng
Nước làng minh định việc công rõ ràng
Thân thương bình đẳng trong làng
Thuận trên hòa dưới nhịp nhàng kỷ cương
Cũng theo chủ nghĩa tỏ tường
Căn cơ gia tộc là đường dựng xây
Họ hàng lối xóm xum vầy
Sẻ san đùm bọc sống đầy tình thương
Ðồng bào ra sức tự cường
Ðắp nền dân chủ địa phương vững bền
Lễ nghi trống rộn chiêng rền
Tay cày tay súng tạo nên thanh bình
Lúa vàng nặng hạt ân tình
Tre xanh che chở có mình có ta
Ðó đây vang vọng ê, a…
Trầm hương đình miếu chan hòa khí thiêng
 
Rồng An Tiêm – vốn tính siêng
Trổ tài vùng vẫy láng giềng – đảo hoang
Cố công khai phá dựng làng
Ðào kinh dẫn thủy mở mang gieo trồng
Cũng như hình ảnh Chữ Ðồng
Bờ sông bến nước giúp Rồng gặp Tiên
Thoát cơn hoạn nạn triền miên
Trút bao thống khổ ưu phiền bơ vơ
Cơ trời nào mấy ai ngờ
An Tiêm – Chim Lạc tình cờ gặp nhau
Dầu như gío thoảng qua mau
Tiên Rồng Song Hiệp – đổi màu xanh tươi
Ðể mang hạnh phúc cho người
Lợi dân ích nước tiếng cười hân hoan
 
Phân minh cấp độ lo toan
Nước – Làng hai việc chu toàn khác nhau
Dấn thân – Việc Nước truyền rao
Nặng phần Tâm - Tuệ quy vào Tiết Liêu
Nêu cao truyền thống là điều
Sức Dân Hồn Nước – theo chiều lòng dân
Quốc gia vững mạnh phải cần
Tài năng sáng tạo góp phần canh tân
Việc Làng – cấp độ dấn thân
Nặng về Thân – Trí như phần An Tiêm
Thể theo đại chúng ngưỡng chiêm
Của – Tài thực tế là niềm ước mong
 
Hai Kinh tóm lại chữ Song
Tiên nào Rồng nấy – thong dong bao thời
Nói lên Hoàn Chỉnh tuyệt vời
Khác nền xã hội ngược đời hiện nay
Chủ trương cai trị phơi bày
Ðấu thầu dân chủ - hằng ngày rêu rao
Mỵ dân – chính sách đề cao
Phổ thông đầu phiếu – nhưng nào vì dân?
Trọng tâm tham chính chỉ cần
Cậy tài ỷ của bắt dân phục tòng
Vẽ rào pháp chế làm vòng
Quản cai trực chỉ từng lòng nhân dân
 
Tiên Rồng thể chế tuyệt trần
Nước Làng quyền bính định phân rõ ràng
Tạo thành hệ thống dọc – ngang
Chính quyền căn cứ theo làng mà thôi
Thuế sưu, lính tráng, tài bồi
Phân chia, cắt bổ… trong nôi bảo bình
Góp công góp đức chứng minh
Tận tâm vì nước – tỏ tình cháu con
An Tiêm có trái cây ngon
Dâng vua biếu nước làm tròn việc chung
Chàng Rồng đại diện dân vùng
Nói lên liên hệ nước cùng làng đây
 
Thực hành bài học xum vầy
Quê hương dân tộc tràn đầy tự do
Cái làng là chốn ấm no
Do dân tự lập – tự lo việc làng
Mở ra nếp sống huy hoàng
Toàn dân cùng hưởng thiên đàng Lạc Long.
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.06.2008 02:03:32 bởi Thần Báo >

Thần Báo
  • Số bài : 67
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2008
  • Nơi: Lynnwood, Washington
RE: Kinh Việt - 16.07.2008 04:55:48
 6. Kinh Vọng Phu
 
 
 
Ðơn sơ với khúc tình lòng
Diễn phần Trường Cửu như trong đề tài:
Bồng con ru điệu Nam Ai
Trông chồng – thương mãi thương hoài ngàn năm
 
Quê nhà – em vốn lo chăm
Quản chi bao chốn xa xăm tảo tần
Nuôi con - phụng dưỡng song thân
Ruộng vườn canh tác – mộ phần sửa sang
Việc nhà cho chí việc làng
Chiều chiều trông ngóng tin chàng phương xa
Eo xèo chì bấc rầy rà
Vững chân bàn thạch – nàng là Vọng Phu
Hóa thành núi đá ngàn thu
Trông ra cửa biển mịt mù lửa binh
 
Vào thời đất nước chiến chinh
Bao chàng trai Việt đáp tình non sông
Gĩa nhà thực hiện nghĩa công
Tỏ phần “biến hóa” của Rồng là đây
Gia đình – nền tảng dựng xây
Việc chung làm trọng niềm tây phải nhường
 
Nước làng lâm cảnh tai ương
Giúp chồng – ra tuyến tiền phương diệt thù
Hậu phương – em tiếp quân nhu
Ẵm con mong đón chiến khu khải hoàn
Nước nhà – phận sự song toàn
Chồng nào vợ nấy – lo toan đắp bồi
Và nền văn hóa thăng ngôi
Chức năng nam nữ - hiệp đôi Tiên Rồng
Gia đình thể hiện việc công
Tình nhà tình nước – vợ chồng cùng xây
 
Khác nền văn hóa phương Tây
Phong trào giải phóng… đang gây sai lầm
Con người – tan nát lương tâm
Cộng đồng cực hóa – dương âm một chiều
Ngụy danh – chính sách thủ tiêu
Chức năng làm mẹ - tạo điều nguy cơ
Khiến người con gái bơ vơ
Hóa thân đực rựa – hững hờ quyên sinh
Phá tan hạnh phúc gia đình
Biến thành loài thú dục tình mà thôi
 
Trầu Cau – nền tảng lứa đôi
Thương nhau trọn kiếp – chết rồi vẫn thương
Như em – gia đạo kính nhường
Hóa thành Người Ðá – thăng hương chan hòa
Vọng Phu – trọn đạo nước nhà
Biến lên Núi Ðá – thăng hoa trọn đời
 
Tổ Tiên nhắn nhủ những lời
Chức năng cha mẹ - góp đời Ðứa Con
Chẳng như cảnh vợ chồng son
Ðứa Con – biểu tượng Sống Còn Nước Dân
Nói lên diễm phúc tuyệt trần
Góp cho xã hội – sứ nhân Con Người
 
Kìa trông thiếu phụ đôi mươi
Thương chồng – thương với tiếng cười trẻ thơ
Ðảm đang kết chỉ se tơ
Tháng năm sừng sững nàng chờ chinh phu
Ðăm chiêu đứng ngóng chiến khu
Mong chàng hăng hái diệt thù cứu nguy
 
Việc chung – chồng xướng vợ tùy
Tiên Rồng Song Hiệp – hội quy Ðồng Bào
Anh thời việc nước đề cao
Giúp em – thể hiện phần nào làm dân
Em ơi – đang gánh góp phần
Giúp anh – làm trọn nghĩa ân với nhà
Nước non – phận sự đôi ta
Cùng nhau gánh vác sơn hà Việt Nam
Nghĩa công – chồng vợ cùng làm
Rồng sống nhờ nước – như Vàm Cửu Long
Trổ tài vùng vẫy khắp giòng
Tỏ phần biến hóa – mà hòng gặp Tiên
Non cao Hòn Vọng Phú Yên
Bồng con – nàng đợi đoàn viên cùng chàng
Nước non – cơ nghiệp của nàng
Chàng đi vì nước – vì nàng mà đi
 
Cho nên lý tưởng thực thi
Tiên Rồng Nền Tảng chẳng vì lợi danh
Chẳng như xã hội hiện hành
Tham gia chiến đấu chỉ tanh mùi tiền
Tạo ra cảnh sống đảo điên
Nhìn nhau gía trị đồng tiền mà thôi
 
Kết Kinh – hướng dẫn khúc nhôi
Chồng nào vợ nấy – xứng đôi Tiên Rồng.