TẦNG 17:
ĐỊNH TỨ CÁT, TAM KỲ, BÁT MÔN, CỬU TINH;
TỬ, PHỤ, TÀI, QUAN, HUYNH ĐỆ,
LỘC MÃ, QUÝ NHÂN, ĐÁO PHƯƠNG, ĐỊNH CỤC
Co dãn 60 long thấu địa, gọi là thiên Kỷ, hay thấu địa quang bảo đó là mộ thừa khí; đưa khí tốt vào huyệt, Tiên Thánh nói: Núi sông có linh thiên mà không có chủ; hài cốt có chủ nhưng không có linh thiêng. Người chết còn linh gì được ? Chẳng qua là cái khí thiêng của núi sông tụ lại, là chân long kết huyệt, chung đúc khí tinh anh lại 1 chỗ, làm cho hài cốt ấm áp, trong sạch, thì cái tinh khí ấy truyền vào con cháu, được thấm nhuần mà phát sanh ra người tinh anh v.v…
Như: 12 vị thiên can lai long, trong vòng đó có 1 huyệt gặp được vị châu bảo, còn xê dịch sang hai bên tả, hữu là vị cô hư, sát diệu, không vong. Cách một huyệt hỏa khanh ở bên tả và hữu lại có 2 huyệt có thể kết được. Như vậy là có 3 huyệt phát phúc. Như: trong 12 long địa chi nhập thủ, thì mỗi long có 2 huyệt, là chân bảo. Trong 12 chi, mỗi chi có 5 chữ Tý, cộng lại thành 60 hoa Giáp hợp với 12 thiên can trước là 72 long xuyên sơn nhập thủ chỗ tọa huyệt.
Khi đặt La kinh thì phải đặt ở chỗ kết huyệt, thừa đúng chỗ lý khí của loan đầu, mà chỉ dùng xem 60 long thấu địa thôi, xuyên sơn long không cần phải dùng đến ở đó. Lấy thấu khí vào quan, ở sau huyệt, khoảng 8 thước (thước Đông phương). Những long thuộc về địa chi, ở giữa chỗ phùng (2 mép khép lại) là hỏa khanh, tối kỵ, không nên đặt quan tài vào đó, mà phải thấu vào long huyệt châu bảo, ở 2 bên tả, hữu hỏa khanh. Học giả khi đăng sơn xem đất, trước phải chiêm nghiệm những ngôi đất cũ, từ xưa nay, hãy còn danh tiếng tích, thì mới biết phép thừa khí, phân biệt được xấu, tốt đã, sau mới đoạt được Thần công, thắng tạo hóa.
Sau đây, trình bày về 24 ngôi châu bảo thấu địa long và liệt đô về kỳ môn, tử, phụ, tài, quan, quý nhân, lộc mã, ngũ thân, sa, thủy.
GIẢI THÍCH VỀ TỬ, PHỤ, TÀI, QUAN, HUYNH ĐỆ GỌI LÀ NGŨ THÂN
Thấu địa kỳ môn lục Giáp, chia làm 2 thứ độn là âm và dương:
1- Dương sinh ở Giáp Tý, là dương độn thì thuận khởi lục nghi nghịch bá tam kỳ
2- Âm sinh ở Giáp Ngọ, là âm độn thì nghịch khởi lục nghi thuận bá tam kỳ.
Sự cần thiết là thu được sơn của tứ cát, phác được thủy của tam kỳ, tọa vào các phương lộc, mã, quý nhân, phải kỵ cho ngũ hành quan sát tránh chỗ âm, dương, sai thác, bỏ những tinh thần án phục, thì lấy được những độ thanh kỳ của bát can. Lấy đó mà lượng sa, tính thủy thì không sai.
Phép định huyệt thì lấy hỗn thiên Giáp Tý làm chủ trong 60 long, 12 chi, mỗi chi chiếm 5 ngôi. Chia các tinh độ thuộc ngũ hành của 6 Giáp Tý ra, thừa khí ở đó. 60 thấu địa long, tọa huyệt làm nội quái, do hỗn thiên Giáp Tý để xét sơn thủy tốt, xấu làm cần thiết, lấy quý nhân, lộc mã, hoặc tam kỳ là Ất, Bính, Đinh, tứ cát là kim, thủy, nhật, nguyệt. Ngũ thân là sa, thủy, tử, phụ, tài, quan, huynh đệ để tọa huyệt, hợp được sơn của 8 phương. Nếu được kim, thủy, nhật, nguyệt chiếu hướng, hoặc được tam kỳ tú bạt là sơn hữu lực, hoặc các phương tử, phụ, tài, quan, huynh đệ, có cao phong viên tú hữu lực; hoặc quý nhân, lộc mã cũng phù hợp hóa là đất thượng hạng. Quyết định phát xuất công hầu, khanh tướng, sinh người trung trinh, nhân hậu, anh tài. Còn nếu hợp được tam kỳ, tứ cát, tất sinh ra người kinh khôi, hào kiệt, liệt sĩ, anh hung. Pháp này đời nay hiếm người biết đến.
Tiên Thánh tạo ra các quẻ kỳ môn là để sử dụng các tinh độ biết cách tự nhiên mà xuất. Các học giả hậu thế phần nhiều là chưa biết nay lục ra thêm 4 tầng để khỏi bị thất truyền, dùng hay không tùy ý.
Khí Bính Tý ở chính long Nhâm, là tiết đại tuyết, hạ cục, khởi đầu từ Giáp Tý, Mậu Thân là phù dâu, là nghịch độn tại cửu cung, là quẻ trạch thủy Khôn, thuộc kim, sơ hào là
khuê mộc lang chủ trì (trì thế)