Bát Tiên Đắc Đạo

Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 4 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 93 bài trong đề mục
Tác giả Bài
bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
Bát Tiên Đắc Đạo - 30.06.2008 14:24:23
Khuyết Danh
Dịch : Nguyễn Bá Lân
text version : bevanng
Bát Tiên Đắc Đạo
Lời Nói Đầu

Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc nằm trong mảng "Văn học cổ điển Trung Quốc", gồm những tác phẩm được giới bình dân ưa chuộng, hoan nghênh đã lâu năm, truyền từ đời này sang đời nọ. Một đặc điểm khó phủ nhận là: mảng văn học đó có tính chất "văn học truyền khẩu", "văn học dân gian". Lúc đầu có thể do một hoặc một số người có văn tài, dựa vào truyền thuyết, huyền thoại hoặc lịch sử để kể lại sự tích của các anh hùng, liệt nữ, hoặc các vị thần tiên, đề cao trung hiếu, tiết nghĩa, mà sáng tác ra. Nhưng rồi, qua quá trình kể lại cho giới bình dân nghe, lại được sự sửa chữa, góp ý của những người này, nên cuối cùng bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là sự đóng góp của tập thể, không mang tên người sáng tác. Ngay cả những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng, như "Tam Quốc Chí" của La Quán Trung, "Thuỷ Hử truyện" của Thi Nại Am, "Tây du ký" của Ngô Thừa Ân, "Phong thần diễn nghĩa" của Hứa trọng Lâm..., lúc đầu người ta cũng không biết tên tác giả, sau này giới nghiên cứu tìm tòi mải, mới nêu ra được danh tính La Quán Trung, Thi Nại Am..vừa nêu trên, nhưng cũng không chắc lắm, vì có người cho rằng "Tam Quốc Chí" là của Thi Nại Am, hoặc của 2 thầy trò La và Thi cùng sáng tác. Vả lại, "tiểu truyện" của các tác giả cũng rất sơ sài và mơ hồ, có khi chỉ được ghi rất vắn tắt: kẻ ẩn dật đời Minh, ông già ở ẩn đời Thanh... ngoài ra, các bộ tiểu thuyết khác đều là "khuyết danh".
Bát Tiên Đắc Đạo cũng nằm trong trường hợp đó : tác giả không biết là ai, sống vào thời đại nào, nhưng qua những lời tác giả tự nhận là "Kẻ làm sách này" thỉnh thoảng lên tiếng, ta có thể đoán chừng đó là một nhà văn ở thời cận đại, có thể là ở cuối đời nhà Thanh, và đầu đời Dân Quốc. Đây chỉ là lời phỏng đoán, không lấy gì làm chắc chắn lắm. Nhưng thiết nghĩ việc đó cũng chẳng quan trọng gì.
Truyện này thuật lại sự tích của tám vị tiên, được dân gian truyền tụng. Đó là 1. Lý Thiết Quài 2. Hán Chung Ly 3.Lam Thái Hoà 4.Trương Quả Lão 5.Hà Tiên Cô 6. Lã Động Tân 7. Hàn Tương Tử 8.Tào Quốc Cửu. Tám vị thần tiên này sống ở nhiều thời đại khác nhau, ẩn cư ở Bồng Lai đảo, kết thành nhóm bạn, kéo nhau ra biển Đông Hải (Bát Tiên quá hải), giao chiến với vợ chồng lão long vương, đánh bại họ. Để kết nối Bát tiên lại với nhau, tác giả đã cho họ sống qua nhiều kiếp.
Truyện này gồm có 100 hồi , do nhà sách Xuất Bản Văn Học (Hà Nội ) Ấn Hành (2005), chuyển đổi thành text và trình bày bởi bevanng.


Hồi THứ 1



Mượn long đan, người tiên giúp hiếu tử
Nãy lòng tham, quan ác đòi thần châu


Người xưa thường nói: "Các vị thần tiên chẳng qua cũng chỉ là 1 những người phàm tục. Phàm nhân ai cũng có thể trở thành thần tiên, chỉ sợ lòng không kiên định mà thôi". Điều đó cho thấy tiên, phàm hai giới vốn chỉ là một. Đã có người phàm, tại sao người phàm lại không thể tu luyện để trở thành thần tiên ? Nếu các vị độc giả không tin, kẻ làm sách này xin đưa ra những chứng cứ, để mọi người cùng nghiên cứu nhé. Từ xưa đến nay, các vị thần tiên vốn cũng nhiều, nhưng các vị thần tiên được người đời nghe biết tới, ai nấy đều ngưỡng mộ, thì không đâu bằng tám vị thần tiên ở tám động phủ, mà người ngày nay xưng tụng là "Bát tiên".

Người làm sách này từ nhỏ vốn chuộng Đạo, đã từng đọc qua những kinh sách, những "thiên đình bí kíp" mà người đời ít ai được xem qua, đã từng đọc qua nhiều "kỳ thư”, đã biết tới những cố sự của các vị thần tiên, nói ra vị tất đã mấy ai tin. Thôi thì tôi xin kể lại sự việc "Bát tiên đắc đạo" từ đầu chí cuối ra sao, thuật lại hầu quí vị nghe chơi. Những sự tích này có lẽ ngay cả đàn bà, con trẻ cũng đã từng nghe qua, có lẽ còn rành hơn cả kẻ làm sách này nữa.

Việc Bát tiên đắc đạo trải qua rất nhiều năm, muốn kể lại cho có đầu có đuôi thì không gì bằng mượn sự tích của hai vị long quân, tức hai con rồng, làm dẫn chứng. Hai con rồng đó, một con ở Tây Thiên, một con ở Nam Hải.

Nguyên vào đời thái cổ, một dải đất Nam Thiềm Bộ Châu toàn là thủy quốc. Nơi đó có tên là Quán Khẩu, chính là nơi mà Ngọc Hoàng thượng đế phong cho người cháu gọi bằng cậu của ngài, là thần Nhị Lang cai quản. Vì thế, người ta thường gọi vị thần này là “Quán Khẩu Nhị Lang”. Ngày nay ở vùng Tứ Xuyên có một nơi tên là huyện Quán, chẳng biết có liên quan gì tới đất Quán Khẩu của thần nhị Lang hay không? Vào thời Nhị Lang trấn thủ Quán Khẩu, ngài thường hiển thần linh, giúp đỡ dân chúng, nên nhân dân ở vùng đất liền phụ cận rất sùng bái ngài, lập đền thờ, miếu mạo, bốn mùa hương khói. Nào ngờ ở thủy quốc đó lại có một lão long (rồng già), vì sợ oai linh của thần Nhị Lang mà suốt năm không dám xuất đầu lộ diện, cứ ẩn mình ở dưới đáy biển mà tu luyện, thọ tới hàng ngàn hàng vạn năm, đạt được tấm thân bất hoại. Nhị Lang thần thông quảng đại, việc gì cũng biết, sự gì cũng hay, nhưng thấy lão long khổ tu đã lâu năm, lại không hề xuất hiện hại người, nên cũng bỏ qua, chẳng lý tới hắn làm chi. Ở bờ biển gần đó, có một chàng hiếu tử, họ Bình, tên Hòa, vốn mồ côi cha từ nhỏ, nhờ bà mẹ góa Vương thị thủ tiết nuôi con, vỗ về chàng trở nên một thanh niên dũng mãnh. Nhưng bà Vương thị vì phải làm lụng quá vất vả để nuôi con, nên dần dà hai mắt mù tịt. Bình Hòa tìm trăm phương ngàn kế, cầu Thần khấn Phật, tìm đủ cách chữa trị mắt cho mẹ , nhưng cuối cùng vẫn không có kết quả. Chàng phẫn uất nói :

- Mẹ ta là người quá tốt, sao đến nỗi chịu thảm cảnh này ? Còn có thiên đạo nữa không ? Thần Phật còn linh thiêng nữa chăng ?

Vương thị biết con là người quá hiếu thảo, tìm đủ cách trị bệnh cho mẹ mà không được, nên quá phẫn uất mới nói những lời như vậy chứ hàng ngày con bà vẫn chịu thương chịu khó, không ngại vất vả kiếm tiền nuôi mẹ. Vì thế, bà rất được an ủi trong lòng. Thấy con thường có lời oán trời, trách người, bà tìm lời ngăn cản, khuyên can :

- Con ơi, mẹ tuy mù cả hai mắt, nhưng được người con hiếu thảo như con, chẳng những lo chữa mắt cho mẹ, còn vất vả kiếm tiền nuôi mẹ, mẹ cảm thấy rất hài lòng, dẫu hai mắt không nhìn thấy gì, cũng có sao đâu ?

Bình Hòa nói :

- Mẹ đừng nói vậy. Làm con mà hiếu thuận cùng cha mẹ là lẽ đương nhiên, là bổn phận của người làm con, chứ mẹ một đời trung hậu, trinh tiết, há nên chịu cảnh thảm thương thế này ? Con nhất định dẫu phải lên trời, xuống đất, cũng tìm cách chữa trị cho mẹ, bất luận thế nào cũng cầu xin được thuốc tiên, chữa cho mẹ sáng cặp mắt, con mới cam tâm !

Vương thị nghe con nói vậy đành cười xòa, bỏ qua. Trong khi đó Bình Hòa một mặt vẫn cần cù lao động, kiếm tiền nuôi mẹ, mặt khác vẫn không quên nghĩ cách trị khỏi bệnh mắt cho mẹ.

Một ngày kia, trong nhà hết sạch củi đun, Bình Hòa dậy thật sớm, lên núi chặt những cành cây khô, bó lại thành một bó, vác lên vai, tử từ xuống núi. Đi được nửa đường, chợt thấy một đạo nhân, tướng mạo thanh kỳ, tinh thần phiêu dạt. Qua các hành động, dường như từ con người ông ta toát ra một điều gì đặc biệt - gọi là thụy khí - nên Bình Hòa hiểu ngay ông này có một lai lịch rất lớn, vội hạ bó củi xuống, tiến lại gần, ngỏ lời chào hỏi :

- Tiên trưởng từ đâu tới đây ?

Đạo nhân cười, đáp :

- Ta không phải người tiên, chẳng qua chỉ là biết về y thuật, nên đi khắp nơi tìm người bệnh chữa trị làm phước thôi !

Bình Hòa xúc động trong lòng, vội hỏi :

Chẳng hay tiên sư có thể chữa lành cho người bị mù hai mắt đã lâu năm hay không ?

- Bệnh gì ta cũng có thể chữa được, chỉ trừ có bệnh mắt mà thôi?

Bình Hòa nghe vậy, bất giác thở "Phì ?" một tiếng, nhặt bó củi, vác lên vai, định đi. Đạo nhân liền cười, nói :

- Thằng bé này sao nóng nẩy quá vậy ?

Bình Hòa đáp :

- Trong nhà tôi chỉ còn một mẹ già. Mẹ tôi hoàn toàn khỏe mạnh. chỉ phải cặp mắt mù tịt, mà đạo nhân nói rằng bệnh gì cũng chữa khỏi, ngoại trừ bệnh mắt, hỏi sao tôi không thất vọng ? Có chuyện gì để nói với ông nữa chứ ?

Đạo nhân lại cười. đáp :

- Ta tuy không chữa được bệnh mắt, nhưng há lại không biết các thầy thuốc giỏi chữa mất hay sao ? Nếu ta không tiến cử, làm sao anh tìm ra được ?

Bình Hòa nghe có thầy thuốc giỏi, vội hạ bó củi xuống, hướng về phía đạo nhân chắp tay vái, nói :

- Tiểu tử rời khỏi nhà từ lâu, sợ mẹ trông mong, muốn về cho sớm, nên vừa rồi nói năng thất thố, xin đạo trưởng đừng trách.
Đạo trưởng là người xuất gia, giầu lòng từ bi, nếu quả thật biết được thầy thuốc giỏi, xin rộng lòng chỉ bảo cho tiểu tử được biết để tiểu tử tới thỉnh cầu ông ta. Nếu quả bệnh của mẹ tôi được chữa lành thì trước là đạo trưởng tích chứa được nhiều âm công, sau là tiểu tử nhất định sẽ có lễ tạ trọng hậu để đền ơn đạo trưởng.

Đạo nhân gật gù, mỉm cười, nói :

- Anh là một người nghèo rớt mồng tơi, suốt ngày phải kiếm tiến nuôi mẹ, gia cảnh chẳng khấm khá gì, lấy tiền đâu mà nói chuyện đền ơn ta ? Vả chăng, người xuất gia lấy từ bi làm gốc, ta cũng chẳng tính chuyện ơn nghĩa gì đâu. Thôi thôi, chúng ta gặp nhau đây, hẳn cũng là có duyên kiếp trước, bần đạo lại kính trọng anh hiếu thảo, mẹ anh tiết nghĩa, sẽ chỉ cho anh một chỗ mà đi tìm. Cách núi này chừng mười lăm dặm là vùng biển cả, ở đó có một con nghiệt long, tu luyện đã lâu năm. Mỗi ngày, cứ vào hai giờ tý và ngọ, nó lại ngoi đầu lên mặt nước để hít thở, đón lấy tinh hoa của mặt trời, mặt trăng. Miệng nó phun ra một hạt hồng châu, chiếu sáng khắp mặt nước. Đó là viên long đan do nó luyện lâu năm mà thành. Anh hãy tới ẩn nấp ở chỗ bờ nước, đợi khi rồng phun hạt châu lên cao, anh hãy niệm câu thần chú : "úm lý hống, lý hống ", đồng thời đưa tay ra vẫy một cái, hạt châu kia nhất định sẽ rơi vào tay anh. Anh có thể đem về cất kỹ trong nhà, treo hạt châu trong một căn phòng. Anh muốn cầu xin điều gì, chỉ việc đứng trước hạt châu, lâm râm khấn vái, tức thì điều ước muốn của anh sẽ được thực hiện. Về phần bệnh mắt của mẹ anh, chỉ cần cho bà tiếp xúc với ánh sáng do hạt châu phát ra, hai mắt bà sẽ được sáng tỏ trở lại.

Bình Hòa nghe vậy, tin chắc đây là một vị thần tiên, vội phục xuống lạy. Đạo nhân cười, đỡ dậy, nói :

- Chẳng cần đa lễ. Nhưng phải nhớ kỹ câu thần chú, sẽ nắm được viên hạt châu trong tay ! Nhưng nghiệt long thấy hạt châu rơi vào tay anh, nhất định sẽ tìm cách cướp đoạt lại. Khi đó, ta sẽ ở trong bóng tối giúp đỡ anh, không để xảy ra việc lầm lỡ, và anh chỉ việc can đảm chạy đi là xong !

Câu nói vừa dứt, một trận gió nổi lên, đạo nhân biến ra một luồng kim quang, giây lát mất tăm. Bình Hòa vừa ngạc nhiên vừa kinh hãi, hướng lên thinh không vái tạ. Sau đó, chàng vác bó củi lên vai, trở về nhà. Vì sợ mẹ kinh hãi, chàng không dám nói tí gì cho biết.

Đợi tới trống canh ba, còn lại một mình, Bình Hòa mở cửa sau ra đi, chạy như bay tới chỗ mà đạo nhân đã chỉ dẫn cho biết. Chọn được một khu lau sậy san sát, chàng ẩn thân trong đó, không dám thở mạnh, căng mắt nhìn về phía bờ nước. Tới đúng giờ tý, quả thấy một luồng hồng quang, từ dưới nước dâng lên, khiến các loài tôm cá kinh hãi chạy tán loạn, mất tăm. Luồng hồng quang vọt lên khỏi mặt nước. cao hơn một trượng, hướng về phía mặt trăng. Nó cứ lên lên, xuống xuống như thế mấy lần, đồng thời bên trong luồng sáng hồng đó lại xuất hiện một vật gì, mầu trắng như bạc. Bình Hòa núp đã lâu, thấy viên hồng châu xuất hiện, liền rời khỏi chỗ núp, định thần giây lát, nhớ lại câu thần chú : “úm lý hống, lý hống !", liền cất tiếng niệm, đồng thời đưa tay vẩy một cái, liền cảm thấy luồng hồng quang bay về phía mình, ánh sáng đập vào mắt chói lòa. Bình Hòa đưa cả hai tay ra hứng, cảm thấy một vật rơi vào tay Nhìn kỹ, quả thấy một viên hồng châu nằm trong tay, chiếu ánh sáng lung linh. Bình Hòa mừng không biết để đâu cho hết, liền nắm chặt lấy viên hồng châu, xoay mình tính bỏ đi. Bỗng đâu từ dưới đất, một trận cuồng phong nổi lên, nhắm hướng khóm lau sậy bay tới. Giây lát, trời đất tối tăm, mặt trăng mất ánh sáng. Bên tai nghe tiếng ầm vang như tiếng sấm, nhắm ngay đầu Bình Hòa lao xuống. Bình Hòa nắm chặt lấy viên hồng châu, đồng thời nằm phục xuống mặt đất, miệng hô to :

- Tiên sư cứu mạng ! Tiên sư cứu mạng !

Chợt nghe trên không trung có tiếng người hô to :

- Nghiệt long không được vô lễ ! Hãy nghe pháp chỉ của ta đây. Ta chính là Cứu Thiên Phiếu Diểu đạo nhân, xét ngươi tu luyện đã nhiều năm mà không thành chính quả, lại nghĩ tình Bình Hòa hiếu thuận, cảm động tới trời, nên ta muốn mượn viên long đan của ngươi, đem về chữa mắt cho mẹ anh ta, sau đó lại dùng viên long đan đó để cứu nhân độ thế, lập nhiều công đức. Sau khi ngươi mất long đan, thân xác khó nỗi bảo toàn, vậy sinh hồn ngươi cứ nương tựa chỗ này, không được dời xa nửa bước. Ba năm sau, Bình Hòa sẽ gặp tai nạn. Lúc đó, hồn anh ta sẽ nhập vào xác ngươi, cả hai sẽ hợp thân làm một và đều có kết quả tốt. Như thế chính là nhất cử lưỡng đắc, ngươi đừng đem lòng thù oán với anh ta nữa.

Câu nói vừa dứt, gió liền lặng, sấm liền ngưng một vầng trăng sáng lại treo lơ lửng trên bầu trời. Ở chỗ viên hồng châu xuất hiện lúc nãy, người ta thấy dưới nước ló ra một đầu rồng, vọng lên không trung mà lắc lư, gật gật vài cái, tỏ ý ưng thuận, rồi toàn thân rồng chìm xuống nước, không thấy đâu nữa. Bình Hòa ngơ ngác giây lát, vọng lên không trung kính cẩn vái lạy, rồi bò ra khỏi vùng lau sậy, mang hạt châu về nhà.

Lúc đó, phương Đông vừa rạng sáng, mặt trời lên cao, bà mẹ Bình Hòa đang ở trên giường mò mò mẫm mẫm tìm chiếc áo để khoác lên mình. Bình Hòa không dám làm kinh động tới mẹ. nhưng theo thói quen thường ngày, chàng chạy vào phòng mẹ thăm hỏi. Chàng chợt "A” lên một tiếng, vì thấy mẹ mở lớn hai mắt, nhìn trừng trừng, và cất tiếng hỏi :

- Con à, con cầm thứ gì trong tay đấy ? Nó có mầu hồng hồng, coi đẹp ghê !'

Bình Hòa thấy mẹ nhìn rõ mọi vật, vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Chàng xòe tay, đưa hạt hồng châu ra, để mẹ coi cho rõ. Bà nhảy xuống giường, đứng thẳng, nói to tiếng :

- Con à, con kiếm đâu ra bảo bối này ? Mẹ vừa nhìn thấy, đến sáng tỏ hai mắt, chẳng khác gì năm xưa !

Bà vừa nói, vừa đưa tay ra, có ý muốn đòi hạt hồng châu. Bình Hòa vội nói :

- Mẹ đừng nói vội, bảo bối này không phải thứ đồ chơi đâu. Để con nghĩ ra một cách đem treo nó lên, lúc đó mẹ tha hồ nhìn ngắm. Bảo đảm hai mắt mẹ từ nay sẽ sáng tỏ. không bao giờ mắc lại bệnh mù lòa nữa đâu.

Bà mẹ nghe lời, cùng Bình Hòa tiến vào căn phòng giữa nhà. Bình Hòa dùng một sợi dây, tìm cách treo hồng châu lên giữa phòng, liền thấy một luồng sáng hồng hồng tỏa ra, soi sáng cả căn phòng.

Từ đó về sau, chẳng những Vương thị sáng tỏ hai mắt, mà hai mẹ con còn luôn luôn tráng kiện, tinh thần lúc nào cũng sảng khoái. Lại thêm hạt minh châu này là như ý châu : hễ cần thứ gì, chỉ việc đứng trước hạt châu lâm râm khấn nguyện, là vật đó hiện ra ngay. Việc ăn uống, may mặc, mẹ con chẳng còn phải lo đến nữa.

Nhưng Bình Hòa vốn tính cứng cỏi, trong nhà dẫu có báu vật đó, chàng cũng không muốn ăn không ngồi rồi, mà hàng ngày vẫn lao động cần cù, dù ngày mưa hay nắng, lạnh hay nóng, chàng vẫn không hề nghỉ ngơi.

Một hôm, Vương thị nói với con trai :
- Con à, nay nhờ trời thương. đường y thực nhà ta không thiếu. cuộc sinh hoạt cũng thảnh thơi, sung túc, mà con nay tuổi cũng chẳng còn nhỏ, hãy để tâm tìm kiếm một vị cô nương tài mạo song toàn, mà sớm tính chuyện hôn nhân. Đó là tâm nguyện lớn nhất của mẹ.

Bình Hòa nghe vậy liền đáp :

- Lệnh của từ mẫu, hài nhi đương nhiên phải tuân theo. Nhưng từ lúc đội ơn người tiên ban cho hạt châu, chữa lành mắt cho mẹ con đã từng phát lời tâm nguyện là phải lập được năm trăm việc công đức, sau đó mới nghĩ tới chuyện hôn nhân. Từ lúc về nhà đến nay đã hơn một tháng, con nghĩ mãi mà chưa tìm ra dược việc công đức nào có thể thi triển, cho xứng đáng đây.

Vương thị nghe vậy hoát nhiên tỉnh ngộ, nói :

- Con à, việc đó chẳng khó gì. Theo mẹ nghĩ, điều mà tiên gia coi là quí báu nhất chính là cứu người giúp đời. Con đã có dụng cụ đó trong tay, sao không mau đem ra thi thố ? Chẳng những con có thể tích chứa được nhiều âm đức, mà còn giúp cho vị tiên sư và lão long gia lập được công hành.

Nghe mẹ nói, Bình Hòa mừng rỡ, nhẩy cỡn lên, thưa :

- Quả nhiên mẹ có kiến thức rất cao. hài nhi không sao nghĩ tới! Từ nay con sẽ đi khắp nơi, làm nghề thầy thuốc. Hễ gặp ai mắc chứng bệnh gì, con sẽ lấy viên hồng châu ra soi, bảo đảm bệnh gì cũng khỏi. Vả lại, thấy nhà nào quá nghèo khổ, đường y thực thiếu thốn đủ điều, con sẽ khấn nguyện trước hồng châu xin tiền bạc gạo thóc đem cho. Như vậy, không đầy một năm con sẽ lập được số công đức, đúng như lời tâm nguyện.

- Tốt lắm ! Con ta thấy việc nghĩa, hăng hái làm ngay, chẳng hề trễ nải ! Đã nghĩ ra được, nên làm ngay hôm nay, nhất định được lắm đó !

- Bảo bối đã trị được bệnh cho mẹ, đương nhiên sẽ trị được bệnh cho người khác. Con xin nghe lời mẹ, thực hiện ngay việc cứu giúp những người khốn khổ.

Từ đó, ngày ngày Bình Hòa mang theo viên hồng châu, đi du hành khấp nơi, hễ gặp người bệnh nào, liền đem hồng châu ra soi, bệnh gì cũng khỏi cấp kỳ.

Lúc đầu chữa bệnh cho những người quanh vùng, sau rồi đi xa hơn, chữa cho cả những người ở xa tít mù tắp. Bình Hòa thật lòng cứu người, chẳng những không đòi tiến chữa bệnh, đôi khi còn chu cấp cho con bệnh nghèo là khác.

Qua ba năm, Bình Hòa nổi danh thầy thuốc giỏi. xa gần đều nghe biết. Chàng lại vốn tính thẳng thắn, chẳng biết giấu giếm, dối gạt ai bao giờ. Hễ có người hỏi chàng học ở đâu mà có được bản lãnh cao như thế, Bình Hòa liền thú nhận mình chẳng có tài năng gì, mọi việc đều nhờ vào công lực của hồng châu mà thôi. Lại có người hỏi chàng kiếm đâu ra viên hồng châu đó, Bình Hòa cũng không giấu giếm, đem sự thực kể ra hết. Việc đó đã lôi cuốn sự chú ý của một người Người đó chẳng phải ai khác, mà là vị trưởng quan của địa phương Quán Khẩu, họ Mao tên Hổ. Nghe trong chỗ trị nhậm của mình có chuyện lạ kỳ như vậy, hắn kêu Bình Hòa tới hỏi cho biết. Nếu quả thực có vật báu đó, hắn sẽ dựa vào thế lực trưởng quan của mình mà đòi hỏi viên hồng châu. Nghĩ vậy rồi, hắn bàn bạc với vợ là Hồ thị. Hồ thị nói :

- Nếu được báu vật đó, trước hết có thể dùng để trị bệnh cho con gái chúng ta, nhưng nên đem nhiều tiền bạc mua chuộc anh kia thì hay hơn. Nếu cưỡng bức mà chiếm đoạt, e rằng dân chúng sẽ bàn tán, chê cười.

Mao Hổ nghe lời, phái hai sai nhân xuống làng thôn, truyền gọi Bình Hòa. Bình Hòa hỏi lý do, sai nhân nói :

- Tiểu thư của bản quan mắc phải chứng bệnh mê lẫn, mất trí. Nghe trong quí phủ có viên thần châu trị khỏi mọi chứng bệnh, quan lớn đặc biệt sai chúng tôi tới mời tiên sinh đem thần châu tới chữa thử một phen. Nếu quả thật tiểu thư chúng tôi được chữa lành bệnh, ắt có trọng thưởng.

Bình Hòa vào từ biệt mẫu thân để ra đi. Vương thị nghe nói có quan vời gọi, bất giác nhíu mày, nói :

- Con à việc dính dáng tới quan tư chẳng dễ dàng đâu. Con đi lần này nên cẩn thận.

Bình Hòa ứng tiếng đáp : - "Con đã hiểu”, và theo chân sai nhân, cùng về nha môn.

Mao Hổ nghe nói đã mời được thầy thuốc có thần châu, mừng rỡ trong lòng, đích thân ra cửa nghênh đón, tiếp đãi tử tế. Hỏi tới nguyên do có thần châu, và hiệu quả của nó thế nào, Bình Hòa cứ thật tình bẩm báo. Mao Hổ nghe nói, cũng bán tín bán nghi, mời Bình Hòa vào nhà trong, trị bệnh cho con gái. Bình Hòa theo chân quan tiến vào phòng trong, thấy tiểu thư sắc mặt trắng bệch như tờ giấy. Định thần nhìn kỹ, thấy rõ ràng cô gái bị yêu ma ốp vào thân. Bình Hòa lấy hồng châu ra, chiếu vế phía cô gái. Viên hồng châu này là vật linh thiêng, sơn tinh, dã quỉ nào mà chịu cho nổi ánh hồng quang do hạt châu phát ra ? Chỉ nghe một tiếng "ôi chao!", tiểu thư liền ngã vật ra phía sau. Bình Hòa vội thu linh châu và tiểu thư lại đứng bật dậy. Thấy cha mẹ đều đứng một bên, nàng bỗng khóc to tiếng, nói :

- Cha mẹ ơi, con đau đớn quá !

Vợ chồng Mao Hổ mừng rỡ quá lòng mong ước, hướng về phía Bình Hòa bái tạ :

- Tiểu nữ mắc chứng bệnh này đã được nửa năm, cứ ngơ ngẩn chẳng biết gì. Ngay cả người thân trong gia đình, nó cũng không nhận biết. Nay đội ơn tiên sinh đem thần vật chiếu vào, cháu lập tức tỉnh lại. Tiên sinh quả là ân nhân của gia đình chúng tôi.

Bình Hòa vội khiêm tốn từ tạ. Tiếu thư lại tự kể chuyện mình :

- Mùa xuân vừa rồi, tôi ở vườn hoa đằng sau ngoạn cảnh, bỗng một trận gió nổi lên, mang theo một mùi tanh tưởi xông vào mũi lên thẳng trên óc. Từ đó về sau, tôi làm gì, nói gì, cũng không có chủ ý, chẳng hiểu chuyện này ra sao nữa.

Bình Hòa nói :

- Chẳng cần nhắc tới nữa. Đây là một loại yêu tinh, không rõ là yêu tinh gì, đã ốp vào thân thể tiểu thư, để hưởng những thức ăn của nhân gian.

Mao Hổ mời Bình Hòa ra ngoại sảnh, sai bày tiệc thết đãi. Trong tiệc, hắn hỏi Bình Hòa có đồng ý bán lại hạt châu hay không. Bình Hòa cười đáp :

- Tiểu dân tuy được hạt châu này. nhưng không thể coi nó là của riêng tư. Sau này, hết hạn kỳ, vị tiên sư kia sẽ thu hồi lại, đem trả cho lão long. Vì thế. tiểu dân không thể nào đem hồng châu bán lại cho người khác. Vả lại. lão gia có nắm hạt châu này, cũng chẳng giữ được bao lâu, hà tất phải đòi hỏi vào lúc này ?

Mao Hổ cho rằng Bình Hòa tìm cách thoái thác. nên ráng tìm lời thương lượng thêm vài lần nữa, Bình Hòa còn giữ tính trẻ con, giận dữ lên tiếng :

- Tiểu dân được hạt châu này, trước là chữa bệnh mắt cho mẹ, sau là chữa trị cho người, cứu giúp người khốn khó, lập chút công đức Nếu nay để lại thần châu trong phủ lão gia, lão gia làm gì có thời giờ rảnh rỗi để đi khắp nơi chữa trị cho người đời, há chẳng phải uổng phí linh châu lắm sao ? Lão gia là người đại quí, đồ ăn thức mặc thứ gì cũng có, vật dụng thường ngày thứ gì mà chẳng toại nguyện ? Nay được vật này, chẳng qua cũng chỉ trân trọng cất kỹ một nơi, có dùng được vào việc gì đâu ? Như vậy chỉ khiến tiểu dân lầm lỡ việc hành đạo, lập công đức. Những việc như thế chỉ tổn hại cho người, chẳng lợi ích cho mình, tiểu dân dám khuyên lão gia chớ nên làm !

Mao Hổ nghe vậy, đùng đùng nổi giận, ra lệnh cho sai nhân bắt giữ Bình Hòa, cướp đoạt hạt châu, vu cho chàng tội yêu ngôn hoặc chúng, ra ngoài làm những chuyện bất qui. Bình Hòa thấy sai nhân tiến lại, định bắt mình, tức thì nổi giận, rời khỏi bàn tiệc, đưa chân phải đá phốc, trúng một người, lại tung một chưởng đánh ngã người nữa. Các sai nhân cất tiếng la ó, cùng cầm binh khí xông lại. Bình Hòa sợ có điều thất thố, cầm chắc hạt châu trong tay, miệng hô to :

- Lão gia bất tất phải giận dữ ! Các vị ca ca chẳng cần động thủ. Hãy nghe tiểu nhân nói một lời.

Mao Hổ cho rằng Bình Hòa tình nguyện hiến dâng hạt châu, vội bảo mọi người ngừng tay coi Bình Hòa định nói gì. Chàng thung dung bẩm báo :

- Lão gia là quan trưởng của tiểu nhân, lão gia đã có mệnh lệnh, tiểu nhân há dám cãi ? Nhưng quả thật hạt châu này tiểu nhân không có quyền chiếm giữ lâu ngày. Nếu tiểu dân đem dâng cho lão gia, mai mốtt người tiên trách cứ, lão long đòi lấy lại, tiểu dân không tránh đâu khỏi cái chết, còn mang tội danh là giữ gìn không cẩn thận nữa. Nếu không chiều theo ý lão gia, tiểu dân cũng chẳng tài nào ra thoát khỏi nha môn. Đàng nào thì cũng phái chết, chẳng thà tiểu dân chết trong quí phủ. Vỉ như chết đi còn có hiểu biết, tiểu dân còn có thể cầu xin tiên sư lượng thứ. Lão gia hãy coi đây, tiểu dân sẽ lập tức nuốt hạt châu này vào bụng. Sau đó nếu tiểu dân không chết, lão gia muốn chém, muốn giết tùy ý, tiểu dân chẳng dám có một lời oán thán.

Bình Hòa nói rồi, há rộng miệng, bỏ viên hồng châu to bằng trái mơ vào miệng, nuốt xuống. Mao Hổ thét sai nhân cướp đoạt lại, nhưng không còn kịp nữa. Chỉ thấy Bình Hòa biến đổi sắc mặt, lợt lạt như tờ giấy vàng, hai mắt mở trừng trừng, cập chân vội vã tiến ta khỏi cửa, đi mất. Mao Hổ cũng không dám ngăn cản, để mặc cho Bình Hòa rời khỏi nha môn.

Bình Hòa chạy thẳng về nhà, gặp mẹ liền phủ phục xuống đất, khóc lớn tiếng :

- Mẹ ơi, sao số mẹ khốn khổ thế này ? Hiện nay con không còn sống để phụng dưỡng mẹ nữa !

Vương thị kinh ngạc hỏi tại sao, Bình Hòa chỉ nói được một câu:

- Con đã nuốt hồng châu vào bụng mất rồi !

Vương thị nghe chưa hết câu, liền kinh hãi thất sắc, mặt lợt như đất thó, chỉ nói vắn tắt được một câu :

- Không xong rồi ! Hạt châu đó là long đan, con nuốt vào bụng sẽ biến thành rồng mất thôi !

Nói chưa dứt lời, đã thấy một trận gió lốc nổi lên, mây đen kéo tới Vương thị thấy trước mắt kim quang sáng lòa, và giữa không trung dường như có tiếng rồng ngâm. Định thần nhìn kỹ, quả nhiên thấy một con rồng vàng, uốn lượn giữa không trung. Nhìn lại chỗ Bình Hòa, chẳng thấy đâu nữa.

Hồi Thứ 2

Hai hàng nước mắt rồng nhỏ xuống, biển thành vũng "Ngóng Mẹ "
Một mũi gươm đâm lẩm, mớ mắt cho con rồng mù.


Thần Nhị Lang chợt cảm thấy máu nhồi lên tim, liền bấm đốt tay biết rõ việc Bình Hòa đang biến thành rồng. Lại thấy một luồng oán khí xông thẳng lên trời, ngài hiểu được Bình Hòa đã bị trưởng quan ức hiếp, ắt sẽ nghĩ tới chuyện báo thù rửa hận. Vạn nhất rồng kia uốn mình chuyển động, ắt là cả một vùng đất Quán Khẩu chu vi hai ngàn dậm sẽ hoàn toàn biến thành biển cả. Ngài vội ra lệnh cho Hoàng cân lực sĩ và thần binh hộ pháp mau chóng bắt con nghiệt long nhấn xuống đầm sâu, không đề cho nó tàn hại sinh linh. Lực sĩ và thần binh phụng pháp chỉ, vọt ngay lên không trung, đúng lúc nhìn thấy rồng đang giận dữ, mở mắt trừng trừng, ở trên nóc nhà của họ Bình, đăm đăm nhìn xuống bên dưới, có vẻ như lưu luyến không nỡ rời xa. Lực sĩ và thần binh vừa tính thi triển pháp lực, chợt thấy Phiếu Diểu chân nhân cưỡi mây bay đến. Chân nhân tươi cười nhìn đám lực sĩ, nói :

- Các vị chẳng cần phí công sức quan tâm tới chuyện này. Tiểu đạo cùng con vật kia có một mối quan hệ nhân quả, xin các vị cứ giao việc này cho tôi giải quyết, và trở về phục mệnh cùng thần Nhị Lang đi.

Đám lực sĩ thấy chân nhân tiến lại, có ý nể nang, chẳng dám cãi lời, liền cúi chào, rút lui. Phiếu Diều chân nhân dẫn dụ con rồng tiến về phía mặt nước, miệng niệm lâm râm, rồi hét to lên :

- Hỡi lão long ở dưới đáy nước kia, hóa thân của ngươi đã tới rồi, sao ngươi chưa xuất hiện, còn đợi tới chừng nào ?

Câu nói vừa dứt, một trận cuồng phong nổi lên trên mặt biển, từ dưới nước sâu thẳm, dường như có một con rồng bay lên, nhưng chỉ có hình bóng lờ mờ, chứ không phải thân xác đích thực. Hai con rồng gặp nhau, tỏ vẻ thân thiện, như đã từng quen biết.

Chân nhân đẩy cho hình bóng rồng tiến sát đầu con rồng đang ở giữa không trung, rồi vỗ tay ba cái. Giây lát, hình bóng rồng tiêu tan, hai con rồng nhập làm một. Chân nhân lên tiếng dặn dò :

- Từ nay ngươi hãy tạm ở đây tu luyện chừng năm chục năm, sau đó có thể lên thiên đình nhận sắc phong. Nếu ngươi có hành vi xằng bậy, ngang ngược, ta nhất định dùng phi kiếm chém ngươi đứt làm hai khúc.

Con rồng nhận pháp chỉ, gật đầu lạy tạ. Lúc sắp hạ xuống nước, nó tỏ ý lưu luyến không nỡ rời xa mẹ, cứ quay đầu lại ngó chừng ba lần, rồi hai hàng nước mắt rồng nhỏ xuống, biến thành một vũng biển. Ngày nay ở vùng Quán Khẩu, còn lại di tích của vũng biển đó, ngàn năm lưu truyền, gọi là vũng "Ngóng Mẹ".

Phiếu Diểu chân nhân giải quyết xong vụ công án, tính cưỡi mây bay đi, trở về động phủ. Đám mây vừa di động, chợt có một đám mây ngũ sắc từ từ bay tới. Phiếu Diểu chân nhân ngửng nhìn, chợt nhận ra vị sư huynh của mình, là Hỏa Long chân nhân. Hai vị tiên tiến lại gặp nhau, Hỏa Long chân nhân hỏi :

- Sư đệ tới đây làm gì ?

Phiếu Diều cười đáp :

- Vì việc nghiệt long, tôi phải tới đây. Vụ công án cũng vừa kết thúc tôi tính trở về động phủ ở núi Hành Sơn, để đợi sư huynh, hỏi thăm cho biết sư huynh đã giải quyết xong long án của mình chưa. Tình cờ lại gặp nhau đây, xin hỏi công việc của sư huynh hiện giờ ra sao ?

Hỏa Long cười đáp :

- Công việc chú giải quyết liên quan tới hóa long, tức là con rồng đã trưởng thành, đạt được linh tính, nên chú giải quyết cũng dễ dàng. Trái lại, ta phải giải quyết một con thằng long, tức là rồng chưa thuần thục, cần phải quan tâm câu thúc, vì thế mất nhiều công sức đó. Hiện giờ, ta phải đi Đông Hải, để giải quyết cho xong công án này đây.

- Đúng là cần giải quyết vụ này cho nhanh. Chẳng bao lâu nữa chốn hạ giới sẽ gặp phải thủy kiếp lớn lao, các vị thánh nhân trị thủy (1) cần mau chóng ra đời. Trong tương lai, sông nước và đất liền phân ranh rạch ròi. Lúc đó, hai con nghiệt long mới có dịp để xuất đầu lộ diện. Nếu để diên trì, anh em ta không tránh khỏi tội. Trước mặt tổ sư, chúng ta lấy gì để bẩm báo đây ?

- Đúng vậy ! Ta không có thời giờ để nói giỡn chơi với sư đệ nữa, phải nhanh chóng đi lo giải quyết công việc của ta đây.

Hai vị tiên chắp tay chào từ biệt nhau, Hỏa Long chân nhân vội vã tiến về phía Đông Nam, tới thẳng bờ biển miền Đông Hải, để lo cho xong công việc của mình.

---------------------------
(1) Trị Thủy : theo truyền thuyết, đời thượng cổ nước ngập tràn lan khắp nơi, vua Nghiêu mới sai ông thuần trị thủy, tức là khơi dòng chảy cho sông ngòi, đào nhiều kênh đào, dẫn nước vào sông lớn đổ ra biến. Nhờ vậy, dân chúng mới có đất đề canh tác và cất nhà ở. Sau vua Thuấn lại ông Hạ vũ tiếp tục công việc trị thủy trong nhiều năm.

Con thằng-long mà Hỏa Long chân nhân đề cập tới ở bên trên, xuất hiện ở phía Tây miền Đông Hải, nằm ngay trên sông Tiền Đường, nay thuộc bộ phận tỉnh Chiết Giang. Nơi đó nằm ở hạ lưu sông Tiền Đường, chỗ mà người ngày nay gọi là "Thất lý lung thủy, - dòng sông chảy xiết dài bảy dặm. Ở chỗ này, sông chảy qua một vùng núi non lởm chởm, tạo nên nhiều thác ghềnh. Có chỗ, nước từ trên cao đổ xuống, tạo nên một vực thẳm, sâu hun hút, người xưa gọi là "Phục long đàm" - đầm nước rồng ẩn. Đó chính là chỗ ẩn núp của thằng-long.

Tương truyền con rồng đó đã có được một cơ thể rồng vẩy giáp quanh mình, có mũi có miệng, lại thêm râu đầy đủ, chỉ sai một điểm duy nhất là cặp mắt, tu luyện không đủ thời gian, nên chưa mở ra được, để nhìn thế giới tươi đẹp, chúng sinh đông đảo. Vì rồng là con vật to lớn rềnh ràng, những loài tôm cá làm sao kháng cự lại được ? Mỗi khi gặp lúc rồng mù há miệng ra, những loài động vật kia cứ tự động chui vào bụng nó. Mỗi năm, nó tàn sát sinh vật không biết bao nhiêu mà kể. Cũng may, con rồng này đã sớm thông linh tính. lại có túc căn rất tốt : nó chỉ ăn no những loài tôm cá thôi, chứ không tấn công các thuyền bè qua lại trên sông, để nuốt người Tuy nhiên, vì thân thể quá lớn, mỗi khi nó chuyển mình, không tránh khỏi gây ra những đợt sóng dữ dội, gió nổi cuồn cuộn, nên tác hại cũng không nhỏ.

Không biết vào thời đại nào. tháng nào, năm nào, vị Hỏa Long chân nhân nói trên, đã cùng hai vị quan lớn trong triều đình, ngồi thuyền đi qua chỗ thác hềnh. gặp đúng lúc rồng mù xuất hiện. Chỉ trong giây lát, trời tối tăm, mặt trời mất ánh sáng con thuyền chân nhân đang ngồi chao đảo dữ dội. Chân nhân nổi giận, nói :

- Nghiệt súc nào dám ở đây mà hưng yêu tác quái ?

Liền gọi các thần thổ địa hai bên bờ sông tới hỏi, họ mới đem tình hình và đặc tính của con rồng kể hết cho chân nhân nghe.
Chân nhân nói :

- Cái thứ ti tiện, tu luyện chưa thành, sao dám vô lễ như thế ?

Hai vị tể quan mới hỏi :

- Có cách gì trị nó được không ?

Chân nhân gật đầu, đáp :

- Thứ súc vật nhỏ nhoi đó làm sao đương nổi một nhát kiếm của tôi ? Chỉ thương cho nó tu luyện đã lâu năm, lại chưa từng làm những chuyện bại hoại, nên tôi không nỡ trừ khử nó thôi !

Hai vị tể quan đều nói :

Thứ súc sinh đó làm gì có lòng tốt ? Hiện thời, hai mắt chưa mở ra, nên nó chưa gây ra những điều tệ hại. Đợi tới lúc nó tu thành cặp mắt sáng, khác nào cọp mọc đôi cánh, người phàm sao có thể chế ngự nổi nó ? Vì thế, nếu pháp sư muốn thu thập nó, thì không gì dễ dàng bằng làm ngay lúc này.

Chân nhân than rằng :

- Tội trạng chưa rõ, việc ác chưa thành, nỡ lòng nào mà khai sát giới ?

Tế quan rất có lòng thương dân, nghe chân nhân nói vậy, vẫn không đành bỏ qua cho rồng mù, mới nói :

- Tiên sư không chịu sát giới, nhưng hai chúng tôi là đại thần của triều đình, có trách nhiệm vì dân trừ hại, vậy xin pháp sư cho mượn gươm báu một lát. Nếu trời có trách phạt, chúng tôi tình nguyện cùng nhau chịu tội, không can dự gì tới pháp sư. Được không?

- Các vị đại nhân vì dân vì nước, làm gì có tội lớn ? Hai ngài đã nói vậy, bần đạo đành cho mượn thanh kiếm đeo bên mình.

Chân nhân nói rồi, lấy ra một thanh kiếm nhỏ, dài chừng một tấc. Nhưng vừa ra trước gió, nó liền biến thành hai. Chân nhân chỉ dẫn:

- Đây là thư kiếm, và đây là hùng kiếm. Theo thần thổ địa nói, thì con rồng này tu luyện thành rồng cái, nên ta phải sử dụng thư kiếm, mới chém nổi nó. Đại nhân nhất thiết không được lầm lẫn.

Tể quan tiếp nhận hai thanh kiếm, cầm trong tay, xem xét kỹ một hồi, thấy kiếm đó tuy chỉ dài một tấc, nhưng phát ra ánh sáng lấp lánh, một luồng khí lạnh xông tới tận mặt, lạnh buốt. Nhưng tể quan vẫn cất tiếng chê bai :

- Rồng lớn, kiếm nhỏ, làm sao sử dụng cho thích đáng ?

Chân nhân cười lớn tiếng, nói :

- Đại nhân đừng coi thường kiếm này. Bần đạo đã từng theo bà Nguyên Nữ học được "Thiên độn kiếm pháp", biết thanh kiếm này đã phải trải qua ba ngàn năm tôi luyện mới thành, có thể lớn có thể nhỏ, có lúc ẩn, có lúc hiện, tùy theo ước muốn của người sử dụng, luôn luôn được như ý. Bình thời không dùng tới, nó có thể nhỏ vô cùng; nay cần dùng tới, đại nhân muốn dài bao nhiêu, nó dài chừng đó, đến chừng muốn ngắn lại cỡ nào, nó ngắn cỡ đó. Vung tay ném một cái, nó bay vút đi, nhanh như gió, mà mũi kiếm lại vô cùng bén nhọn, quả là vật báu kỳ lạ của tiên gia, trên đời không có nổi đâu !

Tể quan mừng lắm. ông đang tìm kiếm xem rồng mù ở đâu, rồng ta đã chuyển động, chiếc thuyền lại một phen chao đảo. Chân nhân ngồi ở cuối thuyền, chỉ chỉ trỏ trỏ, hướng dẫn cho tế quan biết đầu rồng ở chỗ nào, vị tế gian cầm kiếm chợt hoang mang, bao nhiêu lời dặn dò của chân nhân lúc nãy quên sạch. ông ta vừa đưa tay ra ném, thanh hùng kiếm liền lao ra trước nhất. Chỉ thấy một luồng sáng xanh nhắm đầu rồng bay tới, chân nhân vội kêu lên :

- Lầm rồi ! Lầm rồi ? Sao lại sử dụng hùng kiếm ?

Nói chưa dứt lời, thanh kiếm kia đã trở lại trong tay tể quan.Chỉ trong giây lát, sóng gió nổi lên, trên mặt nước đột nhiên xuất hiện một đầu rồng cực kỳ to lớn, ở giữa đám mây mù, hướng về phía chân nhân và hai vị tể quan mà gật gật mười mấy lần liên tiếp sau đó rồng mới co mình lại, chìm dần xuống chỗ nước sâu thẳm, mất hút.

Hai vị tể quan chưa hết bàng hoàng, hôn mê thần trí, không thốt ra được nửa lời. Chân nhân cất tiếng than thở :

- Quả là có số định trước, sức người không thể vãn hồi. Nghiệt súc này ẩn thân dưới đáy nước, tu luyện đã nhiều năm, sinh ra đã sẵn thiện căn, chẳng dám hung hăng làm càn, nên được trời thương, miễn cho kiếp nạn. Vừa rồi, bần đạo không chịu trừ khử nó, cũng là thể hiện đức hiếu sinh của thượng đế, chẳng phải thứ nhân nghĩa nhỏ nhoi của người đời có thể sánh kịp. Nhưng hai ông lại không chịu nghe theo, cứ một mực muốn vì dân trừ hại. Ai ngờ trong lúc thảng thốt, không phân biệt giữa trống và mái, đã dùng lầm thanh kiếm của ta, hóa ra muốn hại nó lại trở thành thương tiếc nó, muốn giết nó lại là thành toàn cho nó. Số là con vật này đã luyện thành đầy đủ bộ phận trong cơ thể chỉ thiếu có cặp mắt. Nếu muốn luyện thành đôi mắt, nó phải mất ít ra là năm trăm năm công hạnh. Nay mũi kiếm đâm một nhát, đã phá vỡ hai hốc mắt, khiến cặp mắt rồng mở ra được. Há chẳng phải chúng ta đã giúp nó giảm bớt được năm trăm khổ công tu luyện đó sao ?

Hai vị tể quan nghe nói, cứ ngớ người ra nhìn nhau, chẳng biết nói sao. Chân nhân thu hồi kiếm báu; vừa rơi vào tay, hai thanh kiếm hợp lại làm một. Lúc đó, sóng đã lặng, gió đã yên, mặt trời đang chiếu sáng trên cao.

Định thần hồi lâu, tể quan mới cất tiếng hỏi :

- Làm sao pháp sư biết được nhát kiếm vừa rồi đã mở mắt cho rồng mù ? Vả lại, một nhát kiếm sao có thể phá được hai hốc mắt?

Chân nhân cười, đáp :

- Âm dương cảm thông nhau mà vạn vật sinh ra. Nếu là hai âm, hoặc hai dương, cùng tên gọi gặp nhau, thường thường chỉ sinh tai hại. Con vật kia tu luyện thành cơ thể rồng cái, đại nhân lại dùng dương kiếm đâm nó, thì dương khí vừa tới, ắt có âm khí tiếp ứng, tính là "tương cảm nhi sinh". Mũi kiếm của đại nhân đâm tới há chẳng có một tiến, một lui, đâm trúng hai hốc mắt hay sao ? Tất cả đều có số định trước, con vật này có lẽ chưa tới số tuyệt mạng, còn được ngồi mà hưởng phúc về sau, nên mới khiến bần đạo và hai vị đại nhân rong chơi ngày hôm nay, đâm lầm một nhát kiếm giúp cho mở hai mắt, há chẳng phải chuyện kỳ lạ lắm sao ?

Hai vị tế quan đều nói :

- Nếu đã nói vậy, trong tương lai nó hại đời, gây họa cho người, mọi tội lỗi đổ lên đầu chúng ta đó ? Pháp sư phải nghĩ cách thi thố phép thuật, diệt trừ nó đi, đừng để nó lưu độc trong nhân gian, mà tăng thêm tội trạng !

Chân nhân nói :

- Việc đó thì chưa hẳn. Hai vị đại nhân há chẳng thấy con rồng kia, trước khi thu mình nhập vào trong nước, đã hướng về phía chúng ta gật đầu nhiều lần đó sao ? Nó tỏ ra mười phần cảm kích, thành thật thi lễ. Chúng ta đã nhận lễ của nó, còn thù ghét nó làm chi ? Vả lại con vật này sẵn có thiện căn, không dám làm ác, hôm nay lại được hường phúc duyên, cho thấy nó không thuộc loại hung hăng làm ác. Còn chuyện tương lai, chúng ta bất tất phải quá lo nghi. Nếu nó tung hoành bạo ngược, tự nó sẽ gây nên họa, không tránh khỏi báo ứng.

Hai vị tể quan nghe vậy, lặng yên không nói. Chân nhân lại lên tiếng :

- Tuy nói vậy, bần đạo cũng phải đề phòng nó làm ác, sẽ thi thố chút pháp thuật để vời gọi nó lên đây, khuyên nhủ vài câu.

Nói rồi, đưa tay ra, nhắm về phía đáy nước vẫy gọi. Con rồng lớn tử tử nhô mình lên, lần này tỏ ra mười phần cẩn thận, và kính cẩn. không gây ra chút sóng gió nào. Nó nghiêng đầu, chào chân nhân. Hỏa Long chân nhân cất tiếng dặn dò :

- Ngươi tu luyện lâu năm, đạt được thân rồng, hôm nay lại được một mũi kiếm của bần đạo khai sáng hai mắt, phải nói rằng ngươi có phúc duyên không nhỏ đâu. Tử nay về sau, ngươi càng phải phấn chấn tinh thần, đừng nên trễ nải, biếng nhác, càng không được sát hại sinh linh quá nhiều, gây họa cho những lữ khách. Nếu ngươi cậy có chút tài năng, làm những điều xằng bậy, tính mạng ngươi khó nỗi bảo toàn, mà sau khi chết đi còn bị giam hãm dưới chín tầng địa ngục, vĩnh viễn không được siêu thăng ! Bây giờ, để giúp ngươi gắng gỏi thăng tiến, sớm đạt đại đạo, ta sẽ thiết lập một đập nước ở chỗ cách đây một trăm dặm. Tử nay về sau, ở trên sông này, bất cứ sinh vật nào tu đạo đều phải vượt qua được đập nước đó, mới có thể thoát ly trần tục, tiến lên tiên giới. Nếu không khổ công luyện tập, đừng nghĩ tới chuyện thừ thách. Vì đụng phải đập nước đó. mả không đủ tài năng để vượt qua, lập tức bị chém đứt đôi, mình một nơi. đầu một nẻo. Chẳng phải ta làm khó các ngươi. mà chỉ muốn giúp các ngươi cố gắng trong việc tu luyện, sớm đạt được tấm thân bất hoại, so với thần tiên không chút sai biệt.

Thằng long kính cẩn nghe lời huấn dụ. liên tiếp gật đầu mấy cái tỏ ý tâm phục. Chân nhân hét lên một tiếng : - Đi mau!, rồng kia lại gật đầu lần nữa, rồi mới từ từ lặn xuống.

Chân nhân làm xong công việc trên. chia tay cùng hai vị tể quan, trở về động phủ.

Phiếu Diểu chân nhân điềm hóa cho Bình Hòa ở Quán Khẩu, hợp nhất với lão long, cùng với Hỏa Long chân nhân, thành toàn cho rồng mù trên đây, đều là môn hạ của Lão Quân tổ sư. Hai vị chân nhân thành toàn cho hai con rồng, đều là do tình cờ, vô ý, sớm đã được Lão Quân hay biết, chấp thuận cho hai rồng, một bên Đông, một bên Tây, đều nhờ tay hai vị chân nhân uốn nắn mà thành đại đạo.

Hễ là loài vật mà thành tiên, đều phải trước nhất chuyển qua thân người. Phiếu Diểu chân nhân đã dùng phép hợp nhất hai hồn, để thành toàn cho lão long ở Quán Khẩu. Hỏa Long chân nhân cũng phải đặt ra một phép, làm sao có thể đem được rồng mù đầu thai vào bụng một người phàm để chuyển kiếp.

Sau khi từ biệt cùng Phiếu Diểu chân nhân, Hỏa Long chân nhân đã vội vã cười mây bay đi, tới thẳng Thất Lý Lung, biết được rồng mù sau khi được khai sáng hai mắt, đã nghiêm chỉnh tu hành, khổ công luyện tập được bảy, tám năm. Lúc đầu nó cũng chưa tránh khỏi nuốt các loài sinh vật vào bụng, về sau nó luyện tập dần dần, chỉ ăn những loài rong, cỏ, cũng không thấy đói. Nó lại luyện dược một số tài năng, có thể lớn, có thể nhỏ tùy ý, rõ ràng đã trở nên một thần long đắc đạo, thông huyền. Hoả Long chân nhân thấy vậy mừng lắm, liền dùng khẩu quyết vời nó lên khỏi mặt nước. Thần long gặp lại chân nhân, vui buồn lẫn lộn. tự kể lại những tuyệt chiêu của mình cho chân nhân nghe. Chân nhân ngỏ lời khen ngợi, dẫn nó ra chỗ đập nước. Thần long quả nhiên có thể thu nhỏ bằng một con lươn, vượt qua đập nước, hoàn toàn bình an.

Hồi Thứ Ba


Thử đạo tám, đã ra đập "Nghênh Rồng "
Giãi phàm thế nhập vào bụng hiếu nữ để đầu thai


Thần long muốn vượt qua cửa đập, điều thiết yếu là phải tuân thủ lời dặn dò của Hỏa Long chân nhân trước đây, tu luyện sao cho có thể biến hóa pháp thân cực nhỏ. Vượt qua được cửa đập mới kể như tu đạo thành công. Không vượt qua nổi, chẳng những toàn thể công lực đều vất đi hết, mà còn mất mạng dưới đao nhọn. Đó quả thực là chỗ vô cùng nguy hiểm. Có người nói Hỏa Long chân nhân đặt ra đập nước này là để thử thách lòng tu đạo của sinh vật, chung qui chỉ là khuyến khích chúng cố gắng phấn đấu, kiên trì luyện tập. Thật ra, đập nước này đối với các sinh vật chân thành tu đạo, chưa từng hại tới sinh mạng của chúng bao giờ. Trái lại những loài tà ma dưới đáy sông, luyện thành tà thuật, nghĩ chuyện lên bờ hại người, ắt phải qua cửa đập nước này. Cửa đập một khi đóng lại, tính mạng chừng khó nỗi bảo toàn. Người ta đồn rằng từ sau khi có đập nước này, vô số ác ma đã bị trừ khử. Về sau, các yêu vật đó biết được đập nước có đao nhọn lợi hại, mà không đi qua đập nước này cũng chẳng tài nào lên thoát mặt nước, nên chúng đành từ bỏ tà niệm, để tu theo chính đạo. Đó chính là công của Hỏa Long chân nhân khi thiết lập đập nước.
Thần long quả nhiên đạo hạnh viên mãn, chỉ thử một lần đã vượt qua được đập nước, chẳng chút thương tích nào. Thật tình, chân nhân đâu nỡ nhẫn tâm đẩy nó vào chờ chết ? Vì thế, lại có lời tương truyền rằng : đập nước này chẳng phải khí cụ đồ long (giết rồng), mà thật tình là nấc thang nghênh đón rồng bay lên trời. Vậy nên, người ta thường gọi đập nước này là đập "Nghênh Rồng”. Đập đó nằm ở trong Thất lý lung. Sau này, người ta ngoa truyền, nói rằng nó nằm ở nơi giang khẩu (chỗ sông đổ ra biển) sông Tiền Đường. Sự thật thế nào, ngày nay cũng chẳng biết đâu mà khảo chứng.
Bấy giờ, Hỏa Long chân nhân đứng ở trên mây nhìn xuống, thấy thần long đã vượt qua cửa đập, lòng rất vui mừng, liền đưa tay vẫy gọi. Thần long vội nhảy vọt lên, chân nhân mới dặn bảo :
- Ngươi đã khổ công tu luyện mấy trăm năm, công hạnh mười phần đã được tám, chín. Nay là lúc ngươi nên chuyển đổi sang thân xác người mới có thể lên trời nhận sắc phong, đứng vào hàng tiên ban.
Thần long tự động ngửng đầu lên, chân nhân đưa hai tay vịn chắc đầu rồng, nhắm chỗ cổ nó ấn mạnh, tìm ra được long châu, giữ trong tay. Lại phất tay áo một cái, đẩy cái xác cục mịch của nó xuống chỗ phục long đàm sâu thẳm nhất. Lại niệm chú dời non, đưa một trái núi lớn tới, đè xuống xác rồng, nát thành bùn. Từ đó về sau, chỗ "Phục long đàm" sâu muôn trượng mọc lên một trái núi cao. Những tảng đá nhỏ trên núi bay lả tả, rơi xuống lòng sông. Một dải đất quanh núi xuất hiện vô số thác ghềnh, là chỗ mà ngày nay người ta gọi là "Thất lý lung". Chuyện xảy ra từ đời xa xưa, người ta truyền miệng kể lại, không nhất thiết giống nhau.
Nhắc lại chuyện trước, xác rồng bị đè nén rồi, thần hồn của rồng còn há miệng rộng toác hoác, hướng về phía bàn tay chân nhân nắm long châu mà ngó đăm đăm, quấn quít bên mình chân nhân. Mắt thấy xác rồng bị núi đè nén rồi, chân nhân đột nhiên vỗ tay, cất tiếng cười vang. Cúi nhìn xuống, thấy hồn rồng vẫn quay đầu về phía đầm sâu, chân nhân lập tức đưa tay ra, đập lên đỉnh đầu rồng một phát, hét lên :
Ngươi còn chưa từ bỏ được cái xác thối tha, xấu xí đó hay sao?
Hồn rồng nghe vậy, vội lùi lại, lẽo đẽo đi theo chân nhân, mờ mờ ẩn ẩn du hành được hơn ba trăm dặm. Lúc đó, trời vừa rạng sáng, trong thôn làng nhiều người đã dậy sớm. Chân nhân hạ thấp đám mây xuống. chỉ tay về phía bờ sông, đang có một cô gái giặt quần áo, cất tiếng bảo rồng :
- Nghiệt súc, ngươi có thấy cô nương bên bờ sông kia hay không ? Cô gái đó tuổi vừa cài trâm (l), chính là một thiếu nữ. Hôm nay, ta sẽ đưa ngươi vào trong bụng cô gái, khiến cô cảm thụ mà hoài thai, chẳng khác nào trường hợp Ngọc Nữ hoài thai mà sinh ra tổ sư(2)
Như vậy, một là ngươi không bị ô uế pháp thân, hai là tỏ rõ ngươi sinh ra đời không giống với mọi người. Chừng nào cơ duyên đưa đến, ta lại tới, độ cho ngươi sinh ra yên ổn.
Nói rồi, chân nhân đưa cao long châu, hướng về phía cô gái ném xuống. Tức thì, giữa không trung mây mù giăng giăng, một trận kim quang bay thẳng vào miệng cô gái. Cô gái kinh hãi quá chừng, kêu lên một tiếng "ôi chao", ngã ngất ở bờ sông. Chân nhân bước lại gần bên cô, ghé tai dặn bảo :
- Hồ Tú Xuân nghe đây. Niệm tình cô thuần hiếu, ta đưa thần long tới làm con gái cô, cô hãy khéo dưỡng dục nó, trong tương lai sẽ được tốt lành.
Trong cơn hôn mê, Tú Xuân nghe lời dặn dò, gật đầu mà tỉnh. Tỉnh lại, cô thấy mặt trời chiếu trước mặt, nhiều người trong thôn tụ tập bên sông, bàn luận lăng xăng về chuyện khi không sấm nổ giữa trời. Thấy Tú Xuân cô nương ngồi ngơ ngác, tay nắm lấy vạt áo, họ xúm lại, hỏi cô :
- Cô có nghe thấy tiếng sấm hay không ?
Tú Xuân còn đang hoang mang, nghe hỏi tíu tít, nhất thời không thể trả lời. Mọi người thấy cô thần sắc kỳ dị, đều nói :
- Không xong rồi ! Nhất định là sét đánh đã khiến cô mê lú ! Mau mau đưa cô về nhà đi !
Vài người phụ nữ xúm vào, người dìu kẻ đỡ, cùng đưa Tú Xuân về nhà. Cha cô là Hồ Lão Nhi, mẹ cô là Thẩm thị, đang vì chuyện Tú Xuân đi giặt áo đã lâu, chưa thấy về, lại nghe có tiếng sấm nổ nữa, nên rất sợ con gái có chuyện, đang bàn tính việc ra bờ sông tìm kiếm. Nay thấy mọi người đưa cô về, ông bà vừa mừng vừa lo. Tú Xuân về tới nhà, thần trí đã ổn định lại. Lại vì sợ cha mẹ lo lắng, cô làm ra vẻ không gặp phải chuyện gì, quay nhìn lại mọi người. ngỏ lời cảm tạ. Lại nói với cha mẹ :
- Vừa rồi, một tiếng sấm vang lên, con nghe như có muôn ngàn tia kim quang chui vào trong bụng. khiến con hôn mê, ngã ra ! Cũng may có mấy chị em đưa con về nhà. Con đã ổn định tinh thần, cha mẹ bất tất phải quá lo lắng.
 
-----------------
 (1) cài trâm :  con gái chừng 15 tuổi bắt đầu cài năm (không để tóc xỏa như con nít nửa).
(2) Lão Tử (tôn xưng Lão Quân tổ sư) là tổ sư Đao giáo, nên các tín đồ bịa đặt cho ra vẻ ngài là người khác phàm, nói rằng ngài từ bên nách của mẹ ngài là bà Ngọc Nữ, mà chui ra. Truyền thuyết ấy không mấy ai tin, nên cũng ít được nhắc tới.

 
Vợ chồng Hồ lão nghe con nói chẳng khác bình thời, cảm thấy như được cất đi một khối đá trong lòng, vội mời mọi người vào nhà trong, pha trà thết đãi. Mọi người bàn bạc lăng xăng một hồi, ai cũng nói khi không sấm nổ ngang trời, ắt có điềm lạ gì đây. Rồi tự giải tán, ra về.
Tú Xuân không dám đem những lời người tiên dặn dò bẩm báo với cha mẹ. Nhưng từ hôm đó trở đi, cô thỉnh thoảng cảm thấy dường như trong bụng có cái gì động đậy. Lòng cô hoảng hốt, liệu rằng lời tiên đã dạy ắt không sai lầm. Cha mẹ ta đang nóng lòng trông một đứa con trai, nhân dịp này ta sẽ thề không lấy ai, ở vậy suốt đời để an ủi cha mẹ. Con gái là con nhà người, làm sao tiếp nối dòng hương hỏa ? Hết kiếp sống này, huyết mạch cha mẹ ta đành chấm dứt. Xét cho cùng, đó vẫn chưa phải chính lý. Nay căn cứ theo lời người tiên, dường như ta không chồng mà vẫn mang thai. chẳng là tốt đẹp lắm sao ? Tuy đứa bé sinh ra là con gái, nhưng nó lớn lên, ta cũng có thể kén được rể hiền, cũng có thể nói là tiếp nối được huyết mạch của tổ tiên. Há chẳng phải là điều lưỡng toàn hay sao ? Chỉ có điều rằng người khác không biết suy xét ta lại không thể thổ lộ thực tình, sau khi ta sinh con, hàng xóm láng giềng tha hồ nghị luận lăng xăng. Lúc đó, ta có trăm miệng cũng không thể biện bạch, há chẳng thẹn chết hay sao ?
Mỗi ngày cô cứ lo nghĩ như thế, rầu rĩ không an.
Qua năm sáu tháng, bụng cô ngày một lớn. Tú Xuân bồn chồn, không biết đường nào mà đi. Sớm chiều lo nghĩ thành bệnh, ăn uống không vô mặt vàng võ thân gầy tóp đi, tứ chi bải hoải.
Chứng bệnh đó so với mấy bà mang bầu cũng chẳng sai nhau bao nhiêu. Vợ chồng Hồ lão dường như có nhận biết, nhưng thấy Tú Xuân suất ngày ở trong nhà làm việc nội trợ, mỗi đêm đi ngủ chung giường với mẹ, làm gì có thời giờ mà làm chuyện tư tình ám muội ? Vì thế, ông bà chỉ nghi cô mắc chứng phình bụng. Thẩm thị thường tìm cách hỏi riêng con gái, nhưng Tú Xuân chỉ nói là sau hôm nghe sét đánh cô có mắc bệnh xoàng, trước sau vẫn không dám khai ra lời tiên dạy. Tới chừng đủ mười tháng, bụng cô đã lớn tướng, ai cũng đoán chắc cô đã có tin mừng. Tú Xuân nghe phong thanh, thẹn thùng chẳng dám đặt chân ra khỏi cửa.
Ngày khai hoa nở nhụy đã gần kề. Tú Xuân biết không thể dấu nổi nữa, đã đem lời tiên dặn dò bẩm báo với Thẩm thị, nhưng  cũng chỉ nói mí mí. Thẩm thị nghe con nói, nửa mừng nửa lo, vội nói lại cho Hồ lão hay. Hồ lão là người đọc sách, biết chuyện Ngọc Nữ hoài thai Lão Quân, mới gật gù, nói :
- Việc lạ trong thiên hạ xưa nay cũng nhiều. Nếu quả như lời Tú Nhi nói, đa phần là đứa bé sắp sinh là người có căn cơ rất lớn. Vả lại lúc Ngọc Nữ lâm bồn, Lão Quân tổ sư đã từ bên sườn mẹ mà chui ra. Nếu con gái chúng ta cũng ở trường hợp như thế, biết tìm đâu ra bà đỡ đặc biệt để giúp đỡ nó ?
Thẩm thị mừng rỡ, nói :
- Quả thật là người tiên giáng thai rồi. Nhất định sẽ được người tiên chiếu cố, sợ gì mà sợ ? Nhưng con gái chúng ta tuổi còn trẻ tính cả thẹn, mà không chồng mà chửa là chuyện hiếm có trên đời ông nói cứ như thể hoa trên trời rơi xuống, ai chịu tin chúng ta chứ ? Mai này, Tú Xuân không còn mặt mũi nào mà nhìn người khác đâu.
- Quả là chuyện nan giải. Hiện tại chỉ còn cách vợ chồng ta cứ đem nguyên nhân nói rõ cho mọi người cùng biết, người ta có đàm tiếu cũng chịu thôi. Không ai tìm ra chứng cứ gì, cũng không thể làm bại hoại danh tiếng Tú Nhi.
Thẩm thị nhận là phải. Vì thế, trước mặt mọi người, cặp vợ chồng già cứ đem tình thật ra nói. Chỉ vài ngày, chuyện đồn um lên, cả xóm đều biết. Có người tin có người không tin. Xét cho cùng, chuyện chẳng can dự gì tới mình, ai hơi đâu mà điều tra cho biết thật hay giả ? Cuối cùng, những người nghi ngờ Tú Xuân, vì không tìm ra danh tính gian phu, đành không dám phê bình bậy bạ. Bất quá mọi người chỉ hoài nghi trong dạ thôi.
Hôm đó tới lúc Tú Xuân lâm bồn. Như các sản phụ bình thường, cô cũng đau, xé gan xé ruột. Thông thường, các bà cảm thấy có vật gì từ trên rơi xuống, Tú Xuân lại cảm thấy đau từ dưới đau lên. Vợ chồng Hồ lão mời được một bà già trong thôn, có kinh nghiệm đỡ đẻ lâu năm, về lo cho Tú Xuân. Hỏi bà đỡ lý do tại sao, bà ta cũng không biết đường nào trả lời, chỉ nói :
- Tiểu thư được tiên thai, hoặc giả có điều khác thường, so với mọi người. cũng chưa biết được.
Hồ lão cũng có chút hiểu biết, nghĩ rằng bà đỡ này, ngay cả lý do sinh nở kỳ lạ cũng không biết, rõ ràng không thể đỡ đẻ được rồi. Vạn nhất rơi vào trường hợp từ mạng sườn sinh ra, ta thử tìm tòi vùng quanh đó, có thấy lỗ hổng lớn nào đâu ? Đem chuyện đó nói lại với Thẩm thị, Thẩm thị cũng phát hoảng.
Trong khi đó, Tú Xuân đau đớn đã tới lúc khẩn thiết. Từ sáng sớm tới giữa trưa, cô cảm thấy thai nhi đã vượt qua khỏi bụng. Cô cắn chặt hàm răng chịu đựng, rồi bỗng trợn trừng hai mắt, mê man bất tỉnh. Vợ chồng Hồ lão quính lên, chỉ biết cầu trời khấn Phật, và thiết lập một bàn thờ ông Thiên giữa sân, thành khẩn cầu xin ông tiên đã đưa tiên thai tới cho con gái mình, hãy mau mau cứu mạng ! Đang lúc náo loạn như thế, chợt nghe ngoài cửa có người lắc trước bản leng keng, miệng rao to tiếng :
- Chuyên đỡ đẻ khó đây ! Chuyên tiếp nhận quái thai đây !
Hồ lão nghe vậy mừng quá, nói :
- Đang lo là con gái ta sinh quái thai, lại được người này tự xưng là chuyên tiếp nhận quái thai, quả là may mắn lạ kỳ ! Có lẽ là con gái ta hiếu thuận, lòng thành đã thấu tới trời, nên trời mới sai người tiên xuống cứu nó đây !
Thẩm thị cũng mừng, vội ra cửa ngó xem. Thì ra là một đạo cô đã lớn tuổi, què quặt lại đen nhẻm, vừa khua leng keng, vừa rao lớn tiếng, đã đi xa được chừng mười bước. Thẩm thị vội vã đuổi theo, năn nỉ tiên cô cứu mạng :
- Xin tiên cô mau cứu mạng con gái tôi !
Đạo cô hỏi :
- Là đẻ bình thường, hay sinh quái thai ? Nếu là sinh đẻ bình thường, sao không để nó tự nhiên từ bên dưới chui ra ? Ta không can thiệp vào những chuyện này đâu. Nếu quả thật là quái thai, ta mới giúp cho một tay.
Thẩm thị vội nói :
- Đúng là quái thai ! Đúng là quái thai ! Là quái thai cực kỳ kỳ lạ ? Sư phụ mau mau vào đây. Để chậm trễ , không cứu nổi nữa đâu!
Đạo cô cười :
- Sinh trai đẻ gái, thì cũng như trái cây tới lúc chín phải rụng, việc gì mà quýnh lên thế ? Thôi thôi, bần đạo hôm nay từ xa tới, cũng chẳng có ý đỡ đẻ gì cả, tình cờ qua nhà ông bà lại gặp được quái thai này, cũng kể là có duyên với nhau, để ta theo bà vào xem thử.
Nói rồi chống nạng, khập khiễng quay trở lại. Thẩm thị sợ bà kia đi không nổi, có ý tới nâng đỡ, nào ngờ đạo cô tuy đi từ từ, Thẩm thị theo không kịp. Bà ta đi trước mấy bước, tới trước cửa nhà Thẩm thị, chẳng cần chỉ dẫn, đi thẳng vào nhà. Thẩm thị đuổi kịp, mới biết đạo cô là một dị nhân.
Thẩm thị dẫn đạo cô vào phòng. Vừa tới cửa đã nghe tiếng Tú Xuân từ bên trong kêu to : - Đau chết đi được !
Thẩm thị nghe kêu, hồn vía lên mây, không ngó tới đạo cô, lật đật tiến vào phòng, chạy tới chỗ Tú Xuân xem thử. Chỉ thấy cô hai mắt trợn ngược, chân tay buông thõng, nằm như cái xác không hồn. Thẩm thị không thể tự chủ, cất tiếng gào khóc :
- Tú Xuân con ơi ! Con nỡ lòng nào bỏ cha bỏ mẹ mà đi ? Hu hu, con hỡi là con ! Sao con chết khổ thế này ?
Bên ngoài, Hồ lão cùng một số bà con thân thích, bạn bè lối xóm ùn ùn kéo vào, bỏ mặc đạo cô, không thèm ngó ngàng tới. Hồ lão đang lúc thương tâm, chợt ngừng lên thấy đạo cô đang đứng trước thi hài Tú Xuân mà cười nhạt. Hồ lão nổi giận, nói :
- Đạo cô này chẳng chút lương tâm. Nhà người ta có người chết, đang lúc thương tâm, ngươi còn ở đó mà cười vui ? Còn chút nhân tính nào không đây ?
Đạo cô cất tiếng cười to hơn, nói :
- Nhà mấy người mời ta tới, không thèm hỏi han ta một tiếng, để mặc ta đứng lẻ loi, không chút đoái hoài, để bu quanh một người, tường đâu đã chết, mà khóc bù lu bù loa. Những cử động như thế, chẳng tức cười sao ?
Hồ lão chưa kịp trả lời, Thẩm thị đã chợt tỉnh ngộ, không ngó tới Tú Xuân nữa, mà nhảy xuống giường, gạt mọi người ra, chạy tới trước mặt đạo cô, quì xuống lạy, cất tiếng nài nỉ. Hồ lão không hiểu ất giáp ra sao, thấy vợ làm vậy cũng vội làm theo. Đạo cô cười nói:
- Đứng dậy đi đứng dậy đi ! Bất tất phải đa lễ. Bần đạo đã tới đây, phải nói rõ cho mọi người biết. Tiểu thư với ta đã có duyên từ trước. Nay mạng sống của cô nằm trong tay ta, lẽ nào ta rũ tay áo đang nhìn, không cứu ?
Lập tức bảo lấy một chén nước lạnh, hường về phía thi hài Tú Xuân phun ra một ngụi nước, rồi cất tiếng hét lên :
 - Con rồng ngang ngạnh kia, sao chưa chịu ra đời, còn đợi chừng nào ?
Nói chưa dứt lời, Tú Xuân đã mấp máy hai mắt, há miệng ra,cử động tay chân. Vợ chồng Hồ lão vui mừng nói :
- Con gái chúng ta được cứu rồi !
 Mọi người đều xưng tụng là chuyện kỳ lạ.
Tú Xuân ngồi bật dậy, "ọe !" lên một tiếng, nôn ra một trái cầu bằng thịt, nhảy tưng tưng trên mặt đất, phát ra thành tiếng, như thể quả cầu bằng kim loại. Lúc đầu, nó chỉ nhỏ bằng một viên đạn. Đạo cô lại phun một ngụm nước, trái cầu thịt phình to gấp mười lần. Mọi người đang bàn tán, cho là chuyện kỳ lạ, chợt nghe một tiếng nổ vang, như trời long đất lở, trái cầu thịt vỡ làm đôi.  Từ bên trong nhảy ra một cô bé, môi đỏ răng trắng mặt mày xinh tươi. Miệng cô bé lại ngậm một hạt châu nhỏ xíu, chỉ lớn bằng hạt cải phát ra ánh sắc năm màu, lấp lánh. Đạo cô vội tiến lại trước mặt cô bé, nhặt lấy hạt châu, bỏ vào miệng mình, nuốt đi. Vợ chồng Hồ lão cùng mọi người đều đứng ngây người ra nhìn.
Đang lúc lộn xộn, bất kỳ sản phụ nằm trên giường cất tiếng kêu đói, đòi ăn. Thẩm thị lúc đó quá vui sướng, hầu như quên cả Tú Xuân, nghe con đòi ăn, vội vã tiến lại, hỏi :
- Con cảm thấy thế nào ?
Tú Xuân lắc đầu, nói :
- Con chẳng thấy gì khác lạ, chỉ thấy đói bụng. Mẹ ơi, mau đem cơm tới cho con ăn đi.
Thẩm thị vội nói :
- Đàn bà mới đẻ thường yếu ớt, sao có thể cho ăn nhiều được ?
Tú Xuân chưa kịp đáp, đã nghe đạo cô nói :
- Không sao đâu ! Không sao đâu ! Ruột rỗng thì phải đói, cứ cho ăn thật no. Chẳng những là tiểu thư, ngay cả bần đạo cũng thèm rượu thịt đây.
Nghe đạo cô nói vậy, Thẩm thị yên tâm, một mặt sai người đi nấu cơm, mặt khác nhặt lấy hai mảnh vỡ của trái cầu thịt. Đạo cô vội ngăn cản, nói :  
- Đừng đựng tới thứ đó. Để bần đạo chỉ cho một chỗ mà cất giữ.
Nói rồi, quay nhìn lại, thấy bên cạnh giường có đặt một thùng gạo bằng gỗ, mới bảo đem trút hết gạo ra. Sau đó, đạo cô nhặt hai mảnh quả thịt cầu, ghép lại làm một. Vừa buông tay ra hai mảnh quả cầu đã khít lại, biến thành một quả cầu. Chỗ ghép liền dấu, chẳng có vết tích gì. Lại nhả từ trong miệng ra một cây kim, dài chừng ba tấc, dùng kim đâm vào quả cầu bảy chỗ, để lại bảy lỗ hổng. Sau đó, mới đem quả cầu bỏ vào trong thùng, nói :
- Trong tương lai, vật này có chỗ đắc dụng. Muốn có bất cứ đồ vật gì chỉ cần nhờ đứa bé thò tay vào lấy, là có ngay tức thời. Nên giữ gìn cẩn thận nhé.
Lúc đó, Thẩm thị đã quấn xong tã lót cho đứa bé, đặt nó lên giường, nằm bên cạnh Tú Xuân.
Sau đó, mọi người kéo nhau ra nhà ngoài ngồi chơi. Hồ lão mới hỏi đạo cô :
- Đạo cô bảo am ở đâu ? Pháp danh là gì ?
Đạo cô cười đáp :
- Người xuất gia xưng tên gì mà chẳng được ? Cần gì phải có pháp danh chứ ? Thí chủ thích gọi ta ra sao, ta đều nhận cả. Còn về chỗ ở, ta cũng không có chỗ ở nhất định. Bốn phương đâu cũng là nhà.
Hồ lão thấy bà ta nói năng có huyền lý, bất giác sinh lòng kính phục, mới hỏi :
- Tiểu nữ không chồng mà chửa. lại nhả thai nhi ra đằng miệng, và sinh ra trứng, chẳng biết lành dữ thế nào ? Xin chỉ bảo cho biết.
Đạo cô cười lớn tiếng, nói :
- Ta chẳng phải người tiên, làm sao biết được đạo lý đó ? Nhưng thiết nghĩ thí chủ giữ lòng trung hậu tiểu thư lại là gái thuần hiếu, ông Trời vốn có lòng từ bi, không thể đem điều bại hoại đến cho gia đình ta, đến nỗi khuynh gia bại sản, tổn hại gia phong đâu.
Hồ lão ngỏ lời cảm tạ.
Không bao lâu, Thẩm thị đã nhờ được người giúp đỡ, đem lên  một bàn tiệc chay, mời đạo cô ăn uống tự nhiên. Đạo cô không khách sáo, rượu rót ra chén uống cạn ngay, thức ăn gắp mời, không chê. ăn uống một hồi sạch bách. Rồi ngỏ lời cảm tạ, ra cửa đi mau. Vợ chồng Hồ lão vội ra theo để đưa tiễn, nhưng vừa tới cửa, đã không thấy tung tích đạo cô đâu nữa.
 Thẩm thị đổ lỗi cho chồng :
- Đạo cô này nhất định là người tiên. Sao ông không giữ bà ngồi lại một hồi, để tôi hỏi thăm vài câu ?
Hồ lão cười đáp :
- Người tiên sao có thể ở lâu trong nhà ta ? Bà thấy đó, bà ta vừa ra khỏi cửa, trong nháy mắt đã biến mất, đủ thấy bà ta vội vã đi ngay giữ lại cũng vô ích. Thiết nghĩ đứa bé mới sinh trong nhà ta, tuy là gái nhưng có phúc phận rất lớn, hơn hẳn con trai nhà khác. Vì thế mới có lai lịch kỳ lạ này, lại được người tiên tới đỡ đẻ cho. Vợ chồng ta chỉ nên nghe lời người tiên dặn bảo, khéo nuôi dưỡng dứa nhỏ, sau này sẽ được hưởng phúc vô cùng, hà tất phải quyến luyến với người tiên ?
Thẩm thị nhận là phải, không nhắc tới nữa.
Vợ chồng già cùng Tú Xuân cưng đứa bé như ngọc báu trên tay. Đứa bé cũng có điều kỳ lạ : sinh ra một tháng đã biết nói. Hồ lão đặt tên cho là Phi Long, đích thân dạy nó học chữ. Chưa đầy mười tuổi, nó đã đọc sách làu làu. Hồ lão vì tuổi già sức yếu, mới đưa nó tới một ông thầy tư thục trong thôn, nhờ thầy chỉ dẫn thêm. Học chung trương có bảy, tám đứa nhỏ, nam có nữ có, đều chừng trên dưới bảy, tám tuổi, chẳng những thiên tư thông tuệ không bằng Phi Long, mà nhân phẩm tính tình cũng thua kém, nên chúng thường mang dạ ganh ghét, thường toa rập nhau, tìm cách công kích khinh miệt cô bé. Phi Long giữ chắc lời mẹ dạy bảo, chỉ lấy việc học làm trọng, không đua hơi với chúng, việc gì cũng nhẫn nhịn cả. Vì thế, trong vòng vài năm, đôi bên tương an, không có chuyện gì xảy ra.
Một hôm, Phi Long học xong bài, ngồi yên trước bàn học, đợi thầy cho về. Bỗng có một bạn đồng học, vì không làm được bài đã nhờ phi Long gà cho vài câu. Phi Long sợ thầy biết được, không dám đáp ứng. Cậu học trò kia chê Phi Long nhát gan, trước còn chửi ngay bản thân cô. Sau thấy Phi Long không thèm trả lời, cậu
ta nói động tới mẹ cô là Tú Xuân, những gì Phi Long có mẹ không cha, mẹ cô không chồng mà chửa, cô rõ ràng là đứa con tư sinh, làm sao xứng đáng ngồi chung lớp với các bạn khác ? Phi Long là người hiếu thuận, biết lễ giáo, thấy vì chuyện riêng mình mà để liên lụy tới mẫu thân phải mang nhục, làm sao chịu nổi ? Ngay lúc thương thể đáp trả, cô đợi tan học mới khóc và thưa với thầy, nói cô không thể thụ nghiệp được nữa. Tiên sinh kinh ngạc hỏi tại sao, Phi Long nhất định giữ kín, không chịu nói. Về tới nhà, cô giấu luôn ông bà ngoại và mẹ, chỉ khóc thầm một mình. Vợ chồng Hồ lão nghi ngờ gạn hỏi :
Cháu ơi, có phải kẻ nào ăn hiếp cháu không ? Mau nói cho ngoại biết, để ngoại la nó một trận !
Phi Long lắc đầu, nói :
- Ông bà ngoại chẳng cần đa nghi. Đây là chuyện riêng của cháu, dẫu chết cháu cũng không nói ra đâu. Nhưng từ nay về sau, cháu cạch cái trường học đó, nhất định không tới đó nữa đâu !
Hồ lão thấy hỏi không ra đầu mối, càng thêm kinh ngạc. Khéo sao ông thầy cũng vừa tới nhà, hỏi chung một vấn đề. Chẳng ai hiểu ra sao, cứ như ở trong đám mây mù.
Phi Long đã quyết ý nghĩ học thì thôi đi, chẳng ai nhắc tới cô nữa. Nào ngờ mấy tháng sau, chuyện lại tùm lum, cũng bởi anh học trò hủy báng Phi Long gây ra.
Thấy Phi Long không tới trường, cậu ta càng tin những điều bịa đặt của mình là sự thật, lại tiếp tục bịa thêm nhiều chuyện động trời. Cậu nói chắc Tú Xuân có ngoại tình, còn bịa thêm những danh tính Trương Tam, Lý Tứ nào đó, đoan chắc đó là những gian phu, từng qua lại với Tú Xuân, và Phi Long là con tư sinh của một trong hai người đó. Vì sự tình đã tiết lậu, mẹ con cô không mặt mũi nào mà nhìn người khác, nên mẹ cô bắt cô bỏ học, không cho tới trường nữa.
Những lời đồn đại nhảm nhí đó tự nhiên cũng có nhiều người tin là thật. Một đồn mười, mười đồn trăm, chẳng bao lâu, câu chuyện đó đến tai vợ chồng Hồ lão. Thẩm thị nhân lúc có hai mẹ con với nhau, đem chuyện kể lại cho Tú Xuân nghe. Tú Xuân lặng lẽ chảy hai hàng nước mắt, không nói một câu.

Hồi Thứ 4

Chịu dèm pha không chồng mà chửa
Giãi lòng nga, liệt nữ nhảy sông.


Tú Xuân nghe mẹ nói, động lòng thương cảm, nước mắt như mưa. Từ hôm đó trở đi, chị kém ăn biếng nói, mặt mày đăm chiêu, trên trán hiện ra nhiều nếp nhăn. Lâu dần, thân hình tiều tụy, rõ ràng trong lòng có niềm tâm sự lớn lao, mà không thể giãi bày cùng người khác. Vài tháng sau, thân thể càng gầy gò, chẳng còn chút hứng thú nào : sống đấy mà chẳng khác chi người đã chết. Cha mẹ khổ công khuyên giải, chẳng chút kết quả.
Nào hay họa vô đơn chí, trong thôn bệnh dịch bỗng hoành hành, người chết không biết bao nhiêu mà kể, vợ chồng Hồ lão tiếp nối nhau qua đời. Mẹ con Tú Xuân khóc lóc bi ai, mua quan tài về tẩn liệm.
Sau đám tang một thời gian, một hôm Tú Xuân bỗng gọi Phi Long tới, hỏi :
- Này con, con có hiểu vì sao mẹ không chịu lấy chồng hay không ? Đã không có chồng, tại sao lại sinh ra con, con có biết hay không ?
Phi Long từ hôm nghe bạn đồng môn hủy báng mẹ cô, cô cũng thắc mắc, không hiểu lai lịch mình ra sao. Cô rất muốn biết vì sao mẹ cô không lấy chồng, lại có thể sinh ra cô. Theo lời người làng kể lại thì rõ ràng là lời của những kẻ hiếu sự, ưa chuyện kỳ quái, không thể nào tin được. Cô rất muốn biết sự thật, nhưng lại không thể mở miệng hỏi mẹ những chuyện như thế. Ngay cả hỏi ông bà ngoại, cô cũng không dám. Vì thế, lòng cô cũng rất phiền muộn, chờ một cơ hội thuận tiện, nhưng cơ hội lại không đến. Nay ông bà ngoại cô qua đời, chuyện này kể như trở thành một nghi án, cô không còn dịp nào để tìm hiểu nữa.
Nay thấy mẹ đột nhiên khơi ra, cô vội quì xuống, cúi đầu, rơi nước mắt, thưa rằng :
- Sao hôm nay mẹ lại hỏi như vậy ? Nếu con có thể hiểu rõ nguyên úy chuyện này, con đã sớm có giải pháp, khiến mẹ khỏi âu sầu ủ dột suốt một thời gian dài vừa qua.
Phi Long nói vậy là rất đắc thể : đã không làm mất mặt mẹ, còn khiến mẹ cô phải đem những điều mà bà hiểu rất rõ, nhưng chưa dám hớ môi với ai, nói lại đầy đủ với cô. Nào ngờ nghe con nói vậy, Tú Xuân đứng phắt dậy. Thấy ái nữ quì trước mặt mình, Tú Xuân không dằn được lòng, đập cho một đập, vừa khóc vừa nói :
- Đồ súc sanh vô tri này, bản thân mày ở đâu chui ra mà mày cũng không biết hay sao ? Mẹ mày là người thế nào, mày cũng không hiểu nữa ư ?
Nói rồi, thổn thức một hồi, mặc cho Phi Long quì gối, chẳng thèm ngó ngàng. Trước tình hình đó, Phi Long chẳng dám đứng dậy, cũng không dám nói thêm một câu. Hồi lâu, mới thấy Tú Xuân, lục trong túi áo, lấy ra một tờ giấy, ném trước mặt Phi Long, nói to tiếng :
- Nếu mày muốn biết chuyện mày ra đời thế nào, cứ đọc tờ giấy này sẽ rõ tất cả. Thật tình, tao chẳng muốn nói ra : vì mày mà trước nay tao phải nghe biết bao điều này tiếng nọ, phải chịu không ít oan khổ trên đời ! Nhưng nay, nếu không đem ruột gan bộc lộ ra hết, lại sợ rằng suốt cuộc đời này, mày vì chuyện của mẹ mà phải chịu tai tiếng oan uổng. Sở dĩ phải nấn ná đến ngày nay, là vì ông bà ngoại con qua đời hết cả rồi, ta mới hết trách nhiệm với bề trên. Còn trách nhiệm đối với con, có thể thư thả.
Nói rồi, không quay đầu nhìn lại, rũ áo, quay về phòng.
Phi Long nhặt tờ giấy, đọc chăm chú. Lúc đó, cô mới hiểu rõ lai lịch xuất thân của mình, cùng nguyên nhân vì sao mẹ cô không chồng mà chữa. Cô biết được tình cảnh của mẹ cô, hơn mười năm ngậm đắng nuốt cay, chịu những lời sàm báng oan uổng. Cuối lá thư còn có một câu quyết biệt. Nhớ tới những lời gay gắt của mẹ vừa rồi, cô càng thấy hiển hiện quyết tâm của mẹ cô, lấy cái chết để giãi tỏ lòng trong sạch.
Quay đầu nhìn lại, không thấy mẹ cô ngồi chỗ cũ, không biết đã bỏ đi từ hồi nào. Phi Long hoảng hồn, lật đật chạy đi tìm mẹ. Tìm khắp nhà, chẳng thấy tung tích mẹ đâu. Lại tưởng nghĩ : trong thời gian ngắn. mẹ ta sao có thể chạy đi xa ? Không hiểu nghĩ sao, cô chạy ra bờ sông tìm kiếm.
Trong lúc gấp gáp, hoang mang, cô đứng ở bờ sông nhìn quanh, chợt để ý tới một mô đất. Cô vội leo lên đó, thì thấy một phong thư của ai vất đó bên ngoài để chữ : "Gửi con gái ta là Phi Long”. Cô vội vã mở coi, thấy mấy câu đầu trong thư viết như sau :
“Nếu mẹ chết sớm, con không thể sinh sống; nhưng nay mẹ không chết, con khó mỗi mở mặt, làm người. Năm xưa mẹ hoài thai con, chính tại gò đất này, nay mẹ rời xa con, cũng tại gò đất đó. Nếu con không nỡ bỏ mẹ, trước hãy ở chỗ này chiêu hồn mẹ. Một hai ngày sau, thi thể mẹ nổi lên, con hãy đem chôn trên chỗ núi cao. Nhà ta quá nghèo, không còn vật gì để lại. Nhớ lại ngày xưa, người tiên có dặn dò : nếu có nhu cẩu khẩn cấp, hãy ở trước vỏ xác con mà cầu xin. Trước đây, mẹ đem hết tâm lực để thờ ông bà ngoại con, và nuôi dưỡng con. Mười năm gian khổ, mẹ chịu đựng hết, không có nhu cầu khẩn thiết. nên chưa lần nào phải cầu xin. Nay biết con gặp khó khăn, mẹ mới nói rõ cho biết : vỏ xác con ở trong thùng đựng gạo, đặt ở cuối giường đó. Con có tiên căn, sau này sẽ làm nên nghiệp lớn. Mẹ là đàn bà kiến thức không nhiểu, không đủ để dạy dỗ con, con tự cố gắng.
Mẹ là Tú Xuân để lại tuyệt bút cho con” .
Phi Long nhìn ra xa trên mặt sông. Mặt nước bình lặng, không một gợn sóng. Những người sốt sắng trong làng, không hiểu nghe được tin tức từ hồi nào, đã kéo tới, đứng đầy trên bờ sông. Phi Long đọc xong di thư của mẹ khóc lóc thảm thiết. Mấy người hàng xóm khuyên giải một hồi dìu cô về nhà. Chừng Phi Long tỉnh lại, lại đòi đi tìm thi hài mẹ cho bằng được.
Bạn bè và người lối xóm vác gậy gộc, theo cô ra bờ sông, cùng giúp cô tìm kiếm. Có người dùng dây thừng đo nước nông sâu, có người dùng sào thăm dò, mò mẫm, có người giỏi bơi lặn, nhảy xuống nước tìm kiếm. Lặn ngập một hồi, không tìm thấy thi thể.
Phi Long khóc lớn tiếng, bỗng tung mình nháy ùm xuống nước, tự mình đi tìm kiếm. Mọi người thấy vậy, kêu ầm lên :
- Long cô nương đừng đi ? Cô không biết bơi, không sợ chết chìm hay sao ?
Nào ngờ Phi Long là chân long hóa thân, tuy đã mang xác người, nhưng bản tính vẫn chưa đổi. Một khi xuống nước, chẳng những cô không thấy khó thở, mà còn cảm thấy thân thể thư thái, so với ở trên cạn còn sảng khoái hơn. Thêm nữa, hai mắt cô sáng tỏ, dẫu xuống tới chỗ sâu nhất, cô cũng nhìn rõ từng cọng cỏ, côn trùng.
Thấy cô chìm dưới đáy nước, những người đứng trên bờ đều lắc đầu, than thở :
- Cô bé hiếu thảo, ngoan đến thế, mà phen này chắc mất mạng!
Mọi người dang ngây người ra đứng xem động tĩnh, mà không cách gì cứu dược cô bé, bỗng thấy mặt nước nổi sóng, kềm theo nhiều bọt trắng xóa. Tiếp theo, có vô số những loài, tôm cá, ba ba.., theo ngọn sóng mà trốn mau về phía hạ lưu. Đó là vì rồng là chúa của thủy tộc, một khi Phi Long xuống nước, những động vật nhỏ làm sao có thể ở yên ? Vừa thấy cô, chúng hoảng hồn hoảng vía, túa ra mà trốn, để giữ lấy mạng.
Mọi người đang bàn tán chuyện lạ, đã thấy Phi Long trồi lên, hai tay nâng một thi thể, bơi về phía bờ sông. Người ta thấy vậy, ai nấy đều mừng, và khen ngợi cô :
- Hiếu nữ ắt có thần linh phù hộ. Cô bé trước nay chưa quen với nước, mà có thể lặn xuống đáy sông tìm dược thi thể của mẹ, chẳng phải có thần trợ giúp thì là gì ?
Họ vừa bàn luận, vừa hoan nghênh cổ vũ. Đợi Phi Long bơi tới bờ, mọi người mới xúm vào giúp cô, đưa thi thể lên bờ, Phi Long tự động nhảy lên, phục xuống bên thi thể, khóc mãi không thôi. Mọi người khuyên can cô, rồi giúp cô khiêng thi thể đi. Không dè chỗ bụng thi thể có buộc một vật gì rất lớn. Nhìn kỹ lại, thì ra một tảng đá. Khi đó, người ta mới biết Tú Xuân đã quyết chí tự tận, đã buộc thêm tảng đá vào người để chìm xuống mau hơn. Mọi người đều than thở :
- Không ngờ vị tỉ tỉ này quyết liệt đến thế !
Họ vội cởi dây cột tảng đá ra. Phi Long vác thi thể lên vai, có bảy, tám người đi hai bên nâng đỡ, cùng khiêng về nhà.
Sau đó, người ta bàn tới việc mua quan tài, liệm cho Tú Xuân. Phi Long đem lá di thư của mẹ đưa cho mọi ngươi coi, dân chúng tới chỗ thùng gạo, đặt phía sau giường của mẹ cô, xem thử. Quả nhiên trong thùng có một trái cầu chiếu sáng lấp lánh. Trên mặt trái cầu có châm bảy lỗ. Hàng xóm có người biết chuyện ngày xưa, lại có người từng được nhìn thấy quả cầu, họ đều nói :
Không sai ! Không sai ! Trước đây, người tiên trước khi ra đi, đúng là có câu dặn dò đó. Huống chi mẹ cô có lời di ngôn, còn sai vào đây ? Long cô nương hãy thành khẩn khấn vái, cầu xin người tiên chiếu cố, ắt có linh nghiệm đó.
Trong khi đó, Phi Long nhìn chăm chú vào quả cầu, như đang xuất thần, không hiểu cô đang nghĩ gì. Có người đụng vào cô một cái, cô mới giật mình, tỉnh trí trở lại, nở một nụ cười, nói :
- Đây là vật riêng của tôi, nên tôi biết rõ.
Nói rồi, thọc một ngón tay vào một lỗ kim châm, lỗ hổng đó liền lớn ra, đủ cho một bàn tay chui lọt. Phi Long thò tay vào thăm dò, quả lấy ra được một nén bạc. Mò vài lần nữa, lấy ra được đồ tang phục trắng, cùng nhang, nến, và giày, mũ..., đủ vật dụng cho một người cư tang. Trừ ra cỗ quan tài là phải dùng ngân lượng để mua. Mọi người trông thấy, ai cũng xưng tụng là chuyện kỳ lạ. Ai cũng nói Long cô nương từ nay không phải lo nghèo túng nữa. Được vật báu hiếm có trên đời thế này, có muốn xây một cung vua, cũng dễ như chơi.
Nghe những lời như thế, Phi Long bất giác khai tâm, ngộ đạo. Nhưng dù sao, cô cũng cần tới mọi người giúp đỡ, nên đã nhờ họ mau mau mua về một cỗ quan tài, để tẩn liệm cho mẹ cô. Sau đó, linh cửu được quàn tại nhà giữa. Mỗi đêm cô đều thức canh, mỗi bữa ăn cô đều tế lễ, và mỗi khi tế lễ, cô lại khóc.
Tới ngày thất tuần, Phi Long lạy trước linh vị, khấn rằng :
- Hài nhi quyết trả thù cho mẫu thân. Con đi tìm kẻ thù đây. Mẹ ở dưới âm ti có linh thiêng, xin phù hộ cho con.
Nói rồi đứng dậy, đi tìm quả cầu, thò tay vào, móc ra một lưỡi dao nhọn. sắc bén, ra cửa đi ngay, chạy như bay tới nhà người bạn đồng môn đã đặt điều hủy báng mẹ cô, lớn tiếng kêu gọi đòi trả thù. Nào ngờ nhà đó là một phú hộ trong miền, nghe được tin Tú Xuân nhảy sông, Phi Long thời thường tuyên bố sẽ đâm chết kẻ thù nên đã dự bị trước. Chúng bỏ ra nhiều vàng, mời được hai vị dũng sĩ về bảo vệ, ra vào đều đi theo, không rời nửa bước. Hôm nay nghe nói Phi Long đã tới nhà, họ tiền bảo hai dũng sĩ ra đối địch. Thương thay Phi Long dẫu có túc căn, nhưng tử lúc đẻ tới giờ chưa từng tập võ, chỉ cậy một lòng hiếu thảo, không thèm quan tâm tới chuyện gì khác, hiên ngang mà tới. Nếu bàn về bản lĩnh, làm sao cô địch nổi hai dũng sĩ ? Mới giao thủ một lần, cô đã bị chúng đánh trúng thương hai chỗ. Cũng may, một trong hai người có chút thiên lương, không nỡ hạ độc thủ. Thấy cô bị thương, anh ta liền ngăn cản bạn mình, nói :
- Chúng ta nhận lộc của người chỉ cần bảo vệ ông ta khỏi bị hiếp đáp, là đủ rồi. Cô bé này quả thật là một hiếu nữ, chúng ta không nên đánh chết cô. Nếu hại mạng cô, ắt bị trời phạt.
Người kia nghe ra, cùng bạn mình khuyên nhủ Phi Long vài câu. Hai người lại giấu chuyện, không cho chủ nhà biết, đưa cô về nhà, còn biếu thuốc trị vết thương, để cô điều trị. Chuyện đó rồi cũng bị chủ nhà phát giác. Lúc hai người trở về, ông ta mắng cho vài câu lập tức đuổi việc, mướn hai người khác về giữ nhà.
Phi Long về tới nhà, nằm ôm quan tài, khóc lóc suốt một ngày một đêm, bất giác hôn mê, tay chân bải hoải. Trong lúc nằm thiêm thiếp bỗng nhiên cô nghe như trong nhà có tiếng người gọi to :
- Hồ Phi Long, sự phụ ngươi đã tới, sao không mau đứng dậy, ra đón ?
Phi Long tròng lòng đang ước mong tìm được danh sư, học lấy chút võ thuật, để đi hành thích lần nữa. Nghe câu nói, cô tưởng chừng như nhận ra giọng sư phụ, vội mở mắt ra. Chỉ thấy khắp phòng khói hương nghi ngút, có bốn đạo đồng, tám người hầu áo xanh, mười sáu Hoàng cân lực sĩ. Bên ngoài chợt nghe tiếng nhạc tiên du dương. Mọi người đứng vây quanh một ông tiên, tay cầm kiếm báu, chân đạp lên một bông sen, dáng vẻ vô cùng trang nghiêm. Phi Long hốt nhiên nhớ lại, vị tiên sư này trông quen quen, dường như đã gặp ở đâu nhưng không nhớ rõ. Không quan tâm tới chuyện đó nữa, cô lết đầu gối, bò tới gần bên chân tiên ông, dập đầu lạy, vừa khóc vừa nói :
- Xin tiên sư cứu con ! Xin sư tôn cứu con !
Tiên ông bảo cô đứng lên, mỉm cười nói :
- Ngươi đã gặp ta ở đâu ? Còn nhớ nổi không ?
Phi Long gợi trí nhớ hồi lâu, vẫn không nhớ ra. Tiên ông thở dài một tiếng, nói :
Xa nhau chưa bao lâu, mà sao ngập sâu vào ma chướng đến thế ?
Nói rồi, bảo đạo đồng lấy ra một tấm gương nhỏ, đưa cho Phi Long tự soi lấy. Phi Long phủ phục dưới đất, hai tay nhận lấy tấm gương. Nhìn vào gương, liền thấy hiện ra sự việc ở Thất lý lung tiếp nối nhau xảy ra : từ lúc ở dưới vực sâu tu luyện thành thân rồng, cho tới lúc Hỏa Long chân nhân đưa hồn rồng đi đầu thai, sau đó chân nhân hóa thành đạo cô, tới đỡ đẻ cho Phi Long, nhặt lấy hạt châu nhỏ, bỏ vào trong miệng.
Phi Long nhìn trong gương, hốt nhiên tỉnh ngộ, dập đầu lạy bôm bốp. Chân nhân nhả trong miệng ra một vật, nói :
- Đồ chơi hiếm có này, ta trả lại cho ngươi đây.
Phi Long nhận lấy, thấy vật đó chiếu sáng lấp lánh, nhỏ như hạt đậu xanh. Phi Long nhớ lại, nhận rõ đó là viên thần châu, tức là long đan mà kiếp trước là rồng, cô đã luyện được. Cô lập tức bỏ vào trong miệng, nuốt đi. Chân nhân lại lên tiếng :
- Hãy vào coi thử xem cái vỏ xác của ngươi có còn ở chỗ cũ hay không ?
Cô vào nhà trong, mở thùng gạo nhìn thử. Lạ thay, trái cầu lớn như thế, biến đi đằng nào chẳng rõ. Cô trở ra, bẩm lại với chân nhân. Ông phì hơi, nói :
- Đã có của thật, còn cần gì của giả đó nữa chứ ?
Phi Long cảm thấy lòng dạ vô cùng sáng suốt. Chân nhân cả mừng, nói :
Từ hôm nay ngươi đã công thành hạnh mãn. Người và tiên hai giới, mặc sức ngươi rong chơi. Chẳng bao lâu còn có sắc chỉ của Ngọc đế ban xuống, cho ngươi và lão long ờ Tây phương phối hợp thành vợ chồng, cả hai cùng nhận chức tước, sinh ra con đàn cháu đống, thống trị bốn biển. Ta còn sợ ngươi pháp thuật quá ít, chẳng khỏi thần tiên chê cười nên hôm nay ta sẽ dạy cho ngươi ngũ hành độn pháp, và ba mươi sáu cách biến hóa, cùng các phép vời thần khiến tướng, đuổi tà trừ yêu. Ngươi sẽ có thể ra vào chốn u minh, lên trời xuống đất, chu du bốn bộ châu, tới lui những chỗ núi non, tùy ý tiêu dao, chẳng gì ngăn cản. Đợi khi ngươi nhận sắc mệnh, ta lại dẫn người đi triều bái Ngọc đế, Nguyên Thủy, Lão Quân tổ sư, cùng các đại kim tiên. Lại có sư thúc của ngươi, là Phiếu Diểu chân nhân, tức là sư phụ của lão long ở Tây Hải, hiện đang truyền thụ nhiều pháp thuật cho lão long để sau này hai người thành vợ chồng, không bên nào kém bên nào. Ngươi nên luyện tập cho tốt, để hết tâm trí vào, đừng phụ lòng kỳ vọng của ta.
Phi Long lại vái lần nữa, nói :
- Đệ tử đội ơn sư tôn, rộng lớn như trời biển, há dám không dụng tâm luyện tập ? Sư tôn đã thành toàn cho, đệ tử chẳng dám phụ lòng. Hỏa Long chân nhân cười, nói :
- Ngươi hiểu và thì tốt rồi. Thầy trò ta gặp nhau, kể là có duyên, chẳng cần phái quá cãm kích. Nhắc tới việc thành toàn làm chi ? Tóm lại một lời, nếu ngươi biết tự trọng, đã là biết ơn ta.
Phi Long khấu đầu, nhận lời chỉ giáo. Chân nhân ngồi bên trên, nhắm mắt, không nói. Những người đứng hầu cùng giữ yên lặng.
Suất đêm hôm đó, những nhà ở gần đó chừng trăm dặm, ngửng nhìn lên đều có thể thấy trên nóc nhà nhà họ Hồ có mây ngũ sắc lửng lơ trên không trung, chiếu sáng tới bên dưới. Lại có một mùi hương lạ, sực nức.
Gần thôn làng, ai cũng biết nhà họ Hổ có tiên giáng phàm. Nhiều người to gan mò tới tận gần nhà để thăm dò. Có người mộ đạo tin tiên cho rằng nếu là thần tiên xuống hạ giới, ắt có thụy khí ánh sáng lành, tự nhiên nảy lòng cầu xin phổ độ, phải tới tận nơi đã xem cho rõ. Trong một đêm, người khắp nơi kẻo về tụ tập, không dưới số trăm, ồn ào cho tới canh năm. Ai nấy đều thấy rõ mây ngũ sắc và mùi hương lạ phát ra từ nhà họ Hồ. Có người ở ngoài hàng rào, nhìn Đông ngó Tây, có người leo lên cây nhìn xuống, nên chẳng trách mỗi người nhìn một kiểu. Có người quả quyết nhìn thấy người tiên ngồi trên cao giảng đạo, trong khi các đệ tử ngồi xếp hàng bên dưới nghe kinh. Có người nói trong nhà hoàn toàn yên tĩnh, không một tiếng nói, quanh nhà có rất nhiều hổ báo, voi, sư tử, đi tuần tra để bảo vệ. Lại có người nói là nhìn thấy một con rồng rất lớn, nằm phục dưới chân thần tiên, để nghe giảng đạo. Mỗi người kể một cách, chẳng ai giống ai. Thật ra sở kiến của những người đó đều không sai, chẳng qua căn cơ của họ không giống nhau, duyên phận có nông, có sâu, cho nên sở kiến của họ mới phân ra gần và xa, trong và ngoài, khác nhau vậy.

Hồi Thứ 5

Sông Tiền Đường lưu truyền Long Du cổ tích
Bên bờ Đông Hải, đồ đệ tìm sư tôn.


Hỏa Long chân nhân chính là đại đệ tử của Lão Quân tổ sư, là đại la kim tiên số một, số hai của thượng giới, lần này xuống truyền giáo và độ cho rồng, để kết thúc mối duyên cũ. Ông giáng thế trước sau mấy lần, tình hình có khác. Những lần trước, ông đơn thân xuất hiện, có khi hiển lộ pháp tướng, có khi lại hóa thân làm đạo cô, xuất hiện trong giây lát, không để lại hình tích. Lần này ông dẫn theo một số tiên quan tháp tùng, vời gọi cả hổ báo, sư tử và voi lại có thêm các sơn thần, thổ địa ở địa phương hộ vệ. Táo quân và thần gác cửa của căn nhà họ Hồ cũng tới lui phục dịch, bày ra khí tượng trang nghiêm, long trọng.
Trước hết ông đem lai lịch của Phi Long ra nói rõ ràng, rồi tới lúc nửa đêm ông mới bắt đầu truyền thụ nhiều đạo thuật cho cô, cho phép cô được đi báo thù, nhưng chỉ đồng ý cho cô được đả thương chứ không chấp nhận việc giết người. Công việc hoàn tất. cô sẽ phải tới Đông Hải luyện tập phép tiên, đợi khi lão long ở phương Tây tới, sẽ cùng ứng chiến lên thiên đình.
Chân nhân ở lại tới trống canh năm, mới đặt chân lên bông sen đứng dậy. Rồi mây ngũ sắc lờ lững, tiên nhạc du dương nổi lên, chân nhân dẫn đám tiên quan, tiên lại, nhắm hướng không trung ra đi. Phía sau, tức thì xuất hiện một con rồng lớn, nhe nanh múa vuốt, lắc đầu quẫy đuôi, thành khẩn đi theo, ra vẻ cung kính tiễn đưa. Tới khi pháp giá chân nhân biến đi, mây ngũ sắc tan ra, con rồng đó mới bay trở lại nhà họ Hồ, lắc mình một cái, biến trở lại thành Hồ Phi Long. Từ sau khi nuốt viên long đan, cô bé Phi Long chẳng những có sức mạnh vô địch, còn có thể biến hóa thành rồng hoặc thành người, làm tiên làm thần, tùy ý biến hóa. Sau khi cung kính đưa tiễn Hỏa Long chân nhân, cô trở lại nguyên thân. Những người ở vùng lân cận đều thấy rõ ràng. Vì thế chỗ nhà họ Hổ ngày trước có tên là Long Du, tức là chỗ mà ngày nay gọi là huyện Long Du.
Phi xong được chân nhân truyền thụ phép tiên. Cô vốn có túc căn rất tốt, thông minh hơn người, nên lĩnh hội rất sớm, mà những khẩu quyết, phù chú cô đều biết rõ ràng.
Sau khi chân nhân đi khỏi, cô ở lại trong nhà, lặng yên suy nghĩ chừng vài ngày. Cô phải dự bị cách giải quyết cho xong mọi việc thế tục. Trước hết là việc mẹ cô bị cậu học sinh khinh bạc đặt điều nói xấu, đến nỗi phải tự tận để giải tỏ lòng trong sạch. Thù này không trả không xong. Người tiên đã cho phép gây thương tổn tới thân thể hắn, thì việc này giải quyết cũng dễ.
Lúc này, Phi Long không còn là cô bé yếu đuối, bất tài của ba hôm trước. Sá gì chỉ vẻn vẹn có mấy tay dũng sĩ canh giữ nhà, ngay cả mời được thiên binh vạn mã. Phi Long cũng chẳng coi vào đâu. Cô vốn không muốn làm chuyện kinh hãi thế tục, nhưng bản thân vẫn chỉ là một cô bé con, nên cô đã xồng xộc chạy tới nhà kia khiêu chiến. Hai võ sĩ bị cô tung ba chưởng, đá hai cước, đánh cho phù mỏ, xẹp mũ bò lê bò càng. Cô vừa xông vào nhà trong, đã có ngay một đám gia nhân đông đảo, tất cả đều vác gậy gộc, đao thương, cùng tiến lên một lượt, vây chặt lấy cô. Phi Long cất tiếng cười vang. Rồi chợt để ý nhìn thấy anh bạn đồng môn, núp sau một đạo nhân, rụt rè đi tới.
Số là gia đình anh ta gần đây có nghe chuyện lạ, biết được nhà họ Hồ có tiên giáng hạ, rất sợ Phi Long học được đạo thuật, lại tìm tới trả thù, vài tay dũng sĩ không thể kháng cự nổi. Vì thế mới nhờ bạn bè vào trong thành, mời được một đạo nhân. Nghe đâu đạo nhân này là một vị tán tiên, ngao du chốn nhân gian, tự xưng là Bất Ngu đạo nhân. Dân chúng thấy ông ta thường trổ tài, làm được nhiều trò kỳ quái, nên nhiều người tỏ lòng khâm phục, gọi ông ta là đại tiên. Vị đại tiên nhận lễ vật của gia chủ rồi, liệu rằng họ Hồ chỉ là một người dân bình thường, làm sao mời nổi thần tiên giáng hạ ? Vì thế, ông ta không tin cô bé nhà họ Hồ là chân long hóa thân, chắc chỉ là yêu tinh giả mạo thần tiên, để lừa gạt dân ngu đấy thôi. Chẳng cần lo lắng, ông ta mạnh miệng nhận lời liền, nói rằng sẽ giúp nhà kia hàng yêu, trừ quái. Khi Phi Long đánh ngã hai võ sĩ, chính là lúc đại tiên tới nhà. Cả nhà mừng rỡ vô cùng, vội mời ông ta ra xem thử, coi Phi Long có đúng là chân long hóa thân hay không. Đạo nhân vui vẻ nhận lời, lôi anh bạn học của Phi Long đi theo, ra tới tiền sảnh. Quả thấy một cô bé mi thanh mắt sáng, ôn nhã dễ thương, đang dương oai diệu võ. Thấy cô tay không mà đánh cho đám gia nhân thất điên bát đảo, kêu trời kêu đất, đạo nhân bất giác nhíu mày, đồ chừng Phi Long cũng có bản lãnh, liền nghĩ : "Tiên hạ thủ vi cường", miệng niệm chân ngôn lâm râm, hét lên một tiếng. Tức thì giữa thinh không sấm nổ vang rền, có bảy tám con rồng nhỏ nhằm về phía Phi Long đánh xuống.
Phi Long trước nay chưa hề giao đấu với ai, cũng chưa hề thi thố chút đạo thuật nào. Đạo nhân lại lợi dụng lúc cô không đề phòng đã ra tay trước, quả nhiên Phi Long trở tay không kịp. Ngay cả độn pháp mà sư phụ cô truyền thụ, nhất thời cô cũng quên luôn, không kịp sử dụng. Vì thế, cô bị bảy tám con rồng nhỏ đánh ngã, nằm lăn ra đất. Đạo nhân cả mừng, cầm trong tay một viên đạn đen đen, ném lên không trung, miệng hô to :
- Bảo bối mau đánh vào óc nó !
Nói vừa dứt lời, một đạo hắc quang nhắm đầu Phi Long bay tới. Nói thì chậm, sự việc diễn ra lại nhanh, Phi Long tuy nằm lăn dưới đất, nhưng trí óc cô rất sáng suất. Thấy đạo hắc quang bay tới cô nóng ruột quá chừng. Vừa cảm thấy bị đánh trúng huyệt đạo ở đỉnh đầu, tự động cô há miệng phun ra viên long châu, bay thẳng lên trời. Tức thì, trời đất tối tăm, sấm nổ đùng đùng, cuồng phong ào ào. Trong chỗ tối tăm xuất hiện muôn đạo kim quang, sáng lóe mắt. Bao nhiêu làn hắc khí nho nhỏ đều tan thành khói, mấy con rồng nhỏ cũng trở lại nguyên hình, là những con rồng đan bằng tre. Phi Long đã trấn định tinh thần. trong lòng hiểu rõ mọi việc. Thấy mấy con rồng giả, cô bất giác nổi một trận cười, nghĩ thầm : “Tên đạo sĩ này quá vô lễ. Đem những trò trẻ con này ra doạ ta, quả là không biết tự lượng chút nào". Ai ngờ trận cười của cô đã dẫn tới một trường đại họa.
Nguyên pháp thân của cô vốn là một xác thân cực kỳ to lớn. Tuy nhờ phép thần thông, cô có thể biến nó thành lớn hoặc nhỏ, nhưng vì cô thi thố pháp thuật chưa quen, trong lòng lại đang hoảng hốt, nên xử lý chưa được chu đáo. Vô tri vô giác, cô đã hiển xuất thân xác rồng đích thực của mình. Thân rồng một khi uốn lượn, múa may, đã gây ra những việc phá hoại. Chỉ nghe "Rắc rắc!" một trận, toàn bộ dãy nhà mười căn đổ sụp, biến thành bình địa. Đuôi rồng lại quẫy đạp, lại nghe tiếng "Rắc rắc !”, căn nhà của kẻ thù tan nát, bao nhiêu phòng ốc đều lật nhào, biến thành một đống gạch, ngói đổ nát. Ngay cả những cây cổ thụ trồng quanh nhà cũng bị sét đánh bật gốc.
Phi Long bấy giờ mới hiểu mình đã gây nên đại họa, vội thu hồi long đan, biến trở lại nguyên thân là cô bé con. Quay nhìn lại mặt đất, mới nhận ra khắp nơi nước chảy tràn lan, dần dần biến thành một dòng nước cuồn cuộn, chảy về hướng Đông.
Phi Long không nỡ nhìn cảnh đổ nát đó, buồn bã rời khỏi hiện trường, trở lại nhà. Hồi lâu, tinh thần mới ổn định, hồi tưởng những việc đã làm, bất giác phục xuống linh cửu của thân mẫu mà khóc rống lên. Những tưởng gặp được tiên sư, từ nay có hy vọng xuất đầu lộ diện, ai ngờ trong một lúc thiếu suy nghĩ đã gây họa lớn, liên lụy tới không ít lương dân. Sư tôn là đại la kim tiên. việc gì cũng biết trước cả, mai này giáng tội lên đầu, làm sao ta gánh vác nổi ? Khóc lóc một hồi, bỗng suy nghĩ lại. Hiện nay, thù đã trả xong, họa lại ập tới, tội này nhất định không tránh khỏi, khóc lóc, cũng chẳng ích gì. Việc lớn thứ hai của ta hiện nay là phải an táng cho mẹ. Ta gây ra họa lớn này, cũng vì mẫu thân mà ra, nhưng làm sao có thể nhẫn tâm để quan tài mẹ ta vĩnh viễn ở chỗ này ? Mai này, ta đem thân chịu tội, lấy ai an táng cho mẹ ta ? Nghĩ đến chỗ đó bất giác than dài :
- Con người đã gặp phải số phận đen đủi, chung qui cũng chẳng được tốt lành gì. Đã đến nước này, việc riêng của bản thân đừng để ý tới nữa, mà hãy lo an táng cho mẫu thân trước đã. Sau đó, sẽ tuân lệnh sư phụ tới Đông Hải mà đợi việc định tội.
Vì thế, Phi Long quì trước quan tài của mẹ, khóc lạy một chập. Lúc đó, cô đã đủ tài năng, không phải phiền tới người khác nữa. Cô đọc thần quyết, vời gọi nhiều thiên đinh, lực sĩ, nhờ họ khiêng quan tài lên một ngọn núi cao. Vì cô sẽ phải đi Đông Hải, nên cô đặt quan tài nằm xoay về hướng Đông. Sau đó, cô gọi tới các thổ địa ở chỗ núi đó tới, nhờ họ giúp đỡ, đắp nên một ngôi mộ rất cao. Lại nhổ hơn một trăm cây tùng, cây bách ở những nơi khác, đem về trồng lại chung quanh mộ. Hiện nay, ở phía Tây Bắc huyện Long Du có một ngọn núi rất cao, có tên là Phi Long, chính là nơi an táng Tú Xuân.
Phi Long tiềm thân ở biến Đông, để tập luyện và đợi tội. Lâu dần tới mười năm, không thấy sư tôn tới, cũng chẳng có tin tức gì về việc trị tội, nên cô nửa mừng nửa lo trong lòng. Cô giữ gìn chặt chẽ lời giáo huấn của Hỏa Long chân nhân, chuyên tâm luyện tập, tuyệt đối không can dự tới chuyện bên ngoài.
Cô nhớ lại sư tôn từng nói tới một vị sư thúc của cô, là Phiếu Diểu chân nhân, hiện đang ở phương Tây truyền thụ pháp lực cho lão long. Con cồng này luyện được tấm thân rồng đực, và theo lời sư tôn, thì ta và hắn có duyên phận vợ chồng. Sau này gặp nhau, không biết ai hơn ai kém ? Ta nay dã tu thành đạo pháp, luyện được một số bảo bối, chắc rằng không đến nỗi để sư tôn phải mất mặt. Chẳng hiểu tại sao đến nay sư tôn vẫn chưa tới ? Không lẽ thầy biết ta cãi lời gây họa, nên không thèm nhận ta là đồ đệ nữa? Nếu đúng vậy ta có khổ công luyện tập mấy trăm năm, cũng không thể đứng vào hàng tiên ban, không thể nhận sắc mệnh của Thượng đế.
Suy đi nghĩ lại, cô muốn hóa thành thân người, để đi tìm động phủ của sư tôn, hỏi thăm xem sao. Nhưng sư tôn lúc lâm hành không hề bảo ta tới thăm ông. Vạn nhất ta vừa đi khỏi, sư tôn lại tới đây, há chẳng bị ông trách mắng hay sao ?
Phi Long nghĩ tới nghĩ lui, không ra kế gì. Bỗng nhiên cô lại tự nhủ : "Sao ta không biến thành một đạo cô, lên bờ đi loanh quanh, hỏi thăm tin tức của sư tôn, cùng với tin về lão long ở Tây Hải ? Nếu cứ tối ngày chui rúc dưới biển mà sầu muộn, biết ngày nào mới mở mày mở mặt ?". Nghĩ vậy rồi, lập tức nhảy lên bờ, biến thành một đạo cô trẻ tuổi, tay cầm phất trần lưng cài bảo kiếm, đong đưa chân bước, tới một địa phương đông đúc, người qua lại xô lấn nhau, đúng là một đám thương nhân mua bán hàng hóa, cùng với những người nông dân đem sản vật dưới quê lên chợ.
Phi Long rong chơi, không để ý nhìn chăm chú lắm, cứ thuận theo chân mà bước tràn, tới một chỗ ở bên ngoài tường thành. Bấy giờ, đang độ cuối xuân, hoa núi nở đỏ rực, trên đám cỏ xanh mượt mà, giữa đám cây tùng bách xanh tươi, cảnh sắc thật đẹp mắt. Phi Long leo lên núi, chọn một tảng đá lớn ngồi nghỉ, thưởng ngoạn cảnh thiên nhiên. Bỗng cô thấy dưới núi có hai người bộ hành, một già một trẻ, người đi trước, kẻ theo sau.
Phi Long không có ý chăm chú nhìn, nhưng tai mắt cô đã luyện tới chỗ cực kỳ tinh tế. Cô nhận thấy hai đạo nhân già và trẻ này có định thần sắc sảo, phong thái tự nhiên, khác hẳn người phàm tục. Chợt nghe đạo nhân già cất tiếng dặn dò :
- Đồ đệ, con hãy đi trước vào thành, ở đó đợi ta. Ta phải đi gặp sư bá của con, sẽ tới tìm con sau. Tính mày thường hay nóng nảy, muôn sự phải nhẫn nại mới được. Đừng có mỗi chút mỗi giở thói thô lỗ tức khí ra nhé. Vạn nhất gây ra họa lớn, ta cũng không mặt mũi nào mà năn nỉ, cầu xin cho con đâu. Vả lại, họa càng lớn, nghiệp chướng càng nhiều, muôn kiếp không tiêu trừ nổi. Tội mình gây ra, tự mình gánh chịu, người khác không giúp gì được đâu con đã hiểu chưa ?
Người trẻ tuổi tỏ ra cung kính, thận trọng, nói to tiếng :
- Sư tôn cứ yên tâm mà đi, đồ đệ quyết không dám gây tai họa gì nữa đâu.
Đạo nhân già cất tiếng cười hà hà. Phi Long còn đang suy nghĩ, đoán xem ông này sẽ đi đâu, trong nháy mắt đã còn lại có đạo nhân trẻ tuổi, đạo nhân già biến đâu mất tiêu. Phi Long kinh ngạc, nghĩ thầm : "Đạo nhân già bản lãnh rất cao, không thua gì sư phụ ta đâu. Đã có duyên gặp gỡ, ta nên tiến lại làm quen. không chừng biết được tin tức sư phụ ta cũng nên". Nghĩ rồi, liền dùng phép rút đất, ba bước đã tới ngay trước mặt chú đạo đồng. Thấy Phi Long đột ngột tiến lại, tiểu đạo nhân tỏ vẻ ngạc nhiên, hỏi :
- Cô từ đâu tới đây ? Tại sao lúc nãy tôi không thấy cô ở chỗ nào cả ?
Phi Long cười đáp :
- Việc đó có gì là kỳ lạ ? Vừa rồi, tôi ngóng nhìn, nhận thấy thầy anh, đúng là một đạo pháp cao nhân. Tiểu đệ thực tình ngưỡng mộ, nên tới hỏi thăm một chút, đồng thời muốn thỉnh giáo tiểu ca cao danh quí tính là gì, quê quán ở đâu ?
Phi Long hỏi han rất lịch sự, tin rằng tiểu đạo nhất định sẽ đồng ý kết giao. Nào ngờ anh ta không thèm trả lời, chỉ nhìn cô chăm chú từ đầu tới chân, có ý đánh giá cô. Phi Long thấy tức cười quá buột miệng nói :
- Vị tiểu ca này đại khái là chưa từng ra ngoài kết giao bạn bè, nên phép xã giao tối thiểu cũng không biết.
Câu nói đó khiến tiểu đạo nổi xung, hét lên :
- Ngươi là tiểu yêu tinh ở đâu tới đây ? Không thèm hỏi thăm cho biết tuổi tác của ta, so với ông cố, ông sơ của ngươi còn lớn hơn nhiều, sao dám gọi ta là tiểu ca ? Ta phải tuân thủ lời răn dạy của thầy, muôn phần nhẫn nại, nên ta không thèm chấp ngươi làm chi. Ngươi mới thật là đứa không biết lễ phép xã giao, nên mới dám đường đột bắt chuyện với ta. Xét lại coi : ai nói đúng, ai nói sai hả ?
Phi Long nghe vậy, bất giác cười sằng sặc.

Hồi Thứ 6

Nỗi cơn giận,  hai rồng cướp hạt châu
Thưọng giới náo loạn, Ngọc đế cầu hiền.


Phi Long thấy đạo đồng chưa đầy hai mươi tuổi, mới kêu là "tiểu ca", tự nghĩ mình nói vậy là lịch sự, nào ngờ anh ta nổi giận, nói mình tuổi tác còn hơn ông cố, ông sơ của cô. Nghe giọng phách lối đó, Phi Long bất giác cất tiếng cười vang, nói :
- Tiểu ca, anh nói sai rồi. Hãy nghe tôi nói thế này mới trúng. Anh có biết tôi hơn tuổi bà cố nội anh không ? Hà hà. quả là tức cười!
Phi Long nói vậy là tính từ lúc cô bắt đầu tu luyện đến khi biến thành hình rồng, ít nhất cũng là hai ngàn năm. Nhưng đối với người thường, thật tình hai người chỉ chừng mười bảy, mười tám tuổi thôi. Đạo đồng không hiểu chỗ lắt léo đó, cũng cho là Phi Long khoác lác, cất tiếng cười hô hố :
- Thiên hạ đời nay quả là có hạng người không biết phân biệt lớn nhỏ, có thứ con gái ngông cuồng không biết tiến thoái. Đừng có chạy ! Hãy nếm thử một mũi kích của ta đây !
Nói rồi cầm kích, nhắm mặt Phi Long đâm liền. Thấy đạo đồng tấn công đột ngột, Phi Long không nhịn được nữa, đưa kiếm lên đỡ. Hai người ở bên đường cái dưới chân núi, đánh nhau tưng bừng. Vừa mới giao thủ, hai bên đều nhận ra đối thủ của mình có bản lãnh, đều ngạc nhiên. chẳng dám khinh địch, đều dốc toàn lực ra chiến đấu. Đấu qua đấu lại, đã được hơn mười hiệp, đạo đồng đột nhiên nổi hung, tung mình nhảy lên giữa không trung, hét to :
- Tiểu yêu kia, hãy coi bảo bối của ông cố ngươi đây !
Phi Long nhìn xem, thấy đó là một hạt hồng châu, chạy vòng vòng giữa không trung. Giây lát, có muôn đạo hồng quang nhắm Phi Long đánh xuống. Rồi Phi Long thấy hồng quang vây quanh mình cô, nóng như lửa, chịu không nổi. Cô tức mình, hét lên :
- Giỏi cho tên tiểu tử, dám giỡn mặt bà nội ngươi hả ? Ngươi có bảo bối, người khác lại không có hay sao ?
Vừa nói vừa há miệng phun ra một hạt châu. Tức thì, khắp trời, hai đạo hồng quang và kim quang giao đấu nhau. Hai luồng sáng đó bên tới, bên lui, lấp la lấp lánh. Bấy giờ đang lúc giữa trưa, mặt trời đang chiếu sáng mãnh liệt, mà ánh mặt trời dường như bị hai đạo hồng quang và kim quang che lấp cả. Dân chúng kinh hãi quá chừng, nhà nào nhà nấy đóng chặt cửa, chẳng dám ló mặt ra.
Phi Long và đạo đồng chống đỡ nhau suốt một canh giờ, không phân thắng bại. Phi Long suy nghĩ, không hiểu viên hồng châu của đạo đồng là thứ gì, mà có thể chiến đấu ngang ngửa với long đan của cô, mới nghĩ thầm : "Chi bằng dùng phép thuật, đoạt lấy hạt châu kia vào trong tay, một là có thể đánh bại đạo đồng, hai là có đủ cặp long châu, những lúc cao hứng đem ra so sánh". Nghĩ rồi, miệng niệm chân ngôn, tay đưa ra vẫy, quả nhiên viên hồng châu rơi ngay vào tay, mà đạo hồng quang ở giữa không trung cũng dần dần tan đi. Phi Long đang lúc vui sướng, bỗng nhận thấy kim quang do cô phát ra cũng nhỏ dần như sợi tơ, rồi biến mất. Cô kinh hãi quá chừng, quay nhìn lại, thì ra long đan của cô đã nằm gọn trong tay đạo đồng. Thật tức cười, té ra hai người đã hoán đổi hạt châu cho nhau.
Tuy nói là hai bên bất phân thắng bại, nhưng vật nào có chủ nấy, người khác làm sao sử dụng ? Vả lại báu vật này là do tinh khí, hồn phách của chủ nhân tạo nên, có thể nói người tức là đan châu, đan châu tức là người, có thể biến hóa lớn nhỏ tùy ý. Nếu đem đổi cho người khác, làm gì có hiệu lực ?
Bấy giờ, hai người cùng hoang mang, ân hận. Bỗng đạo đồng lại nổi tính hung, lắc mình một cái, biến thành một con rồng to lớn, tử đầu tới đuôi có thể dài tới ba mươi dặm, hai mắt đen long lanh, nhìn Phi Long chăm chú, miệng há to như bát máu, nhắm phía Phi Long bay xuống. Phi Long bấy giờ mới hiểu đạo đồng và cô vốn là đồng đạo. Cô vội lắc mình một cái, biến thành con rồng cực kỳ to lớn. Hai rồng uốn khúc, cùng thi triển tài năng, khiến bầu trời xanh lúc tối lúc sáng. Chúng sinh chốn hạ giới càng thêm táng đảm kinh hồn, nhà nhà đóng cửa, thắp hương khấn vái, người người thì thụp lễ bái.
Hai con rồng gây nên một trường ác đấu, con nào cũng tìm cách đoạt lại long đan đã dầy công tu luyện, nay bỗng để mất. Thể gian tương truyền, gọi đây là cảnh "hai rồng cướp hạt châu đã thành điển tích.
Hai rồng khổ chiến suất một buổi, càng đánh càng hăng, không bên nào chịu bãi chiến. Hơn nữa, chúng càng đánh càng lên cao dần, đã qua khỏi trung giới, tiến lên lên trời, gặp đúng lúc Ngọc đế lên điện Linh Tiêu, cùng nhiều tiên quan bàn về việc công trên Thiên tào. Trước hết, thấy hai đạo hổng quang, kim quang xông thẳng lên mây, mọi người cảm thấy kỳ quái. Sau đó, hai luồng sáng tan dần, bỗng có một mùi hôi tanh xông vào mũi, Ngọc đế kinh nghi, mới hỏi chúng tiên :
- Điềm gì thế này ? Tại sao có mùi hôi tanh đó ? Trẫm là chúa trên trời, thống trị các vị chân tiên ba cõi, tại sao lại có thứ yêu khí đó xông thẳng lên bảo điện của trẫm ? Các khanh mau xuống điều tra cho rõ, trở vô bẩm tấu, để sai binh tướng tới tru diệt.
Có Thái Bạch kim tinh Lý Trường Canh rời ban phủ phục, tình nguyện đi điều tra yêu nhân, sẽ về bẩm liền. Ngọc đế chấp thuận.
Lý Trường Canh vâng ngọc chỉ, ra khỏi cổng trời phía Nam, vén mây ngó xuống, thấy hai nghiệt long đang đánh nhau tưng bừng, cả hai đều long vẩy, rách giáp, vỡ đầu chảy máu. Chúng không rượt đuổi nhau, xuống dần dần, mà trái lại càng lúc càng lên cao, làm náo loạn cả lên, rượt nhau tới thẳng bên ngoài Nam thiên môn. Lý Trường Canh liền chống kiếm, hét to lên :
- Nghiệt súc không được vô lễ ! Các ngươi hãy ngẩng đầu ngó xem, đây là đâu ? Họ có thể dung túng cho các ngươi hung hăng như vậy sao ? Còn không mau lui xuống ?
Hai rồng nghe vậy đều kinh ngạc, tạm ngừng cuộc chiến, ngửng đầu lên, thấy một đạo sĩ già đứng trên mây, lớn tiếng trách mắng. Hai rồng xưa nay chưa từng lên tới thiên đình. Thấy trong mây mù ẩn hiện lâu đài, cung điện, chúng không biết đó là chỗ ở của vị quốc vương nào, cũng chẳng tỏ vẻ sợ sệt cho lắm. Lại thấy Lý Trường Canh nói năng vô lễ, chúng liền nổi giận, nói :
Lão nô tài, sao lão dám vô lễ mắng người ? Chúng ta đánh lộn thì can gì tới lão ? Tại sao lão can thiệp tới chuyện không phải của mình ? Thật đáng giận thay ! Lão đã mở miệng thốt ra những câu cuồng ngôn như thế, chúng ta phải thanh toán lão già ngu xuẩn này trước, sau mới tiếp tục phân tranh cao thấp.
Không đợi cho Lý Trường Canh phân biện, hai rồng nhắm hướng Nam thiên môn bay tới Lý Trường canh hoảng hồn, quay mình bỏ chạy, trở về bảo điện, bẩm tấu :
- Hạ giới có hai con yêu long tạo phản, nay đang đánh tới bào điện ! Xin bệ hạ mau mau phát binh phòng thủ.
Ngọc đế kinh ngạc, nói :
- Yêu long ở đâu ? Sao trước nay chưa hề nghe nói tới ? Nay phải tuyên triệu người nào tới trừ yêu ?
Nói chưa dứt lời, đã nghe một trận cuồng phong nổi lên trước điện, hai con nghiệt long chẳng biết trời cao đất dầy là gì, đùng đùng bay tới, cùng hô to lên :
- Mau đem lão già nộp cho chúng ta, chúng ta tha chết cho dân cả nước ? Nếu không, chúng ta đánh thẳng vào, chỉ trong ba khắc dân chúng cả nước phải chết sạch !
Ngọc đế nghe vậy, vội nói :
- Yêu long đã tới, mau kêu các tướng giữ thiên môn đóng chặt cổng lại. Mặt khác, gọi cháu ta là thần Nhị Lang mau kéo thiên binh tới trừ yêu.
Lý Trường Canh vội phụng chỉ tới Quán Khẩu vời Nhị Lang, cùng bốn tướng Đặng, Tân, Trương, Đào vác binh khí tới đánh rồng. Hai rồng nổi giận, trổ hết thần lực (l), đầu đập vào sân điện, đuôi đánh vào thiên môn (cổng trời), thân rồng mỗi lần uốn cong, đánh bật bốn tường ra xa vài trăm dặm. Ngọc đế cùng các vị tiên quan kinh hãi, vội tránh vào hậu điện. Chỉ nghe một tiếng như trời long đất lở, hai rồng đã đánh sập một góc điện, những khí cụ bày biện trên điện bị xô ngã lăn lông lốc, nát tan tành. Ngọc đế bất giác nổi cơn lôi đình, nói :
- Trẫm là chúa trên trời. thống lĩnh văn võ vạn tiên, nay bị yêu long tạo phản, dám đánh thẳng lên bảo điện, hủy hoại điện đình, mà không thấy người nào chia lo cùng trẫm, há chẳng thẹn chết hay sao?
Câu nói thốt ra, cả ban tiên quan đứng hầu đều đỏ mặt, cấm khẩu, nhìn nhau không nói một câu. Trong lúc đó, ở bên ngoài, hai rồng càng hung hăng, quậy phá, sắp sửa bay vào hậu điện. Đúng lúc đó có tám đại tiên quan, tay chân thân tín của Ngọc đế, ra tới tiền điện, hét to lên rằng :
- Hai con rồng kia, các ngươi xuất thân từ đâu? Làm sao đắc đạo? Vì lý do gì mà làm phản thiên đình ? Mau nói rõ ra ! Phải biết chỗ này là điện Thông Minh, chỗ ở của Ngọc đế, sao có thể cho phép các ngươi làm điều ngông cuồng như thế ? Nay Ngọc đế có chỉ ban xuống : Thương các ngươi tu hành chẳng phải dễ dàng gì, nếu các ngươi biết hối hận, phục tội, có thể tha thứ một vài phần ! Nếu cứ cuồng vọng chấp mê, e rằng một khi thiên binh tới đây, các ngươi sẽ tan xương nát thịt, chẳng uổng phí ngàn năm tu hành hay sao ?
----------------
(1) Là 4 thiên tướng thuộc Lôi bộ : Đặng Trung, Tân Hoàn, Trương Tiết, Đào Vinh (xem “Phong thần diễn nghĩa”)

Hai rồng nghe vậy mới biết chỗ này là Thiên tào Linh phủ, họa này gây ra thật không nhỏ. Chúng không biết làm sao, đành mở miệng nói ra tiếng người, trần tình lý do vì sao đã gây náo loạn : chỉ vì hận lão đạo khi không chửi mắng, làm nhục, không thể cam lòng, nên mới hợp sức nhau lại, đòi bắt cho được lão đạo, đem dìm xuống biển Đông, làm mồi cho cá tôm. Nào ngờ lão đạo vào tới bên trong, không thấy ra nữa, nên chúng tôi mới tức giận, gây chuyện náo loạn. Thật tình chúng tôi không hề biết chỗ này là bảo điện của Ngọc đế. Nay đã biết lỗi, không dám làm càn nữa, thỉnh cầu các đại tiên nói giúp chúng tôi, xin Ngọc đế thương tình chúng tôi không biết gì, mà tha cho tội lỗi quá lớn !
Nhưng chúng giấu kỹ, không chịu nói rõ xuất thân từ đâu, tu đạo đã được bao nhiêu năm, và hiện đang tiềm thân chỗ nào. Tiên quan nghe chúng nói, tỏ lòng khoan dung, trở về tâu lại với Ngọc đế. Ngọc đế nói :
- Hễ là người tu đạo ắt phải có sư phụ, sư phụ của hai súc sinh này là ai ? Hay hỏi cho rõ ! Trẫm sẽ triệu sư phụ chúng về đây, trị tội không biết dạy học trò.
Lúc tám tiên ra truyền dụ, không ngờ hai rồng đã biết mình đắc tội với trời không dám nán lại nữa, trốn xuống hạ giới lúc nào rồi.
Ngọc đế lại ra điện, triệu tiên quan các cấp, bàn chuyện sau này, và sửa sang lại cung điện. Liền có Lý Trường Canh đưa Quán Khẩu Nhị Lang tới dẫn theo toàn bộ binh tướng đến nghe lệnh. Nhị Lang diện tấu Ngọc đế :
- Dưới quyền cai quản của vi thần, có lão long thành yêu, hôm trước bỗng thi thố yêu thuật, dời một trái núi đất tới, đè xuống mặt biển ở Quán Khẩu (l), biến mặt nước thành đất liền, tranh công với tạo hóa. Thần đang tính phát binh đi tróc nã, không ngờ lão long đã bỏ trốn từ trước mất rồi. Hiện nay thần vâng chiếu chỉ đi bắt nghiệt long, nhưng không biết đó có phải con yêu ở Quán Khẩu hay không.
-----------
(1) chuyện này, bên trên tác giả không nói tới, ta có thể lầm với việc Hỏa Long chân nhân dời núi đè lên Thất lý lung. Nhung đãy là núi đất (thổ sơn), và việc này do lão long gây ra, tác giả sẽ kể rõ ở nhũng hồi sau.

Ngọc đế tỏ ý hài lòng, ngỏ lời úy lạo thần Nhị Lang, sai đem ngay toàn bộ thiên binh, xuống hạ giới đánh kẻ phản nghịch. Nhị Lang vâng chỉ, đi liền.
Ngọc đế thấy một góc điện bị sập, mấy cây cột chống nghiêng đi, nhiều báu vật là những vật tiến cống của chín châu, bốn biển, bị hai con rồng phá nát, chẳng còn hình thù gì, ngài tỏ ý không vui hỏi Lý Trường Canh.
- Trẫm là chúa khắp vòm trời, là thủ lãnh của vạn tiên. Trên thiên đình cũng có ít nhiều kẻ tài năng xuất chúng, pháp thuật tinh thông, tại sao để hai con yêu hoành hành, không chút kiêng kị, chẳng khác gì vào chỗ không người ? Có thể nào tiên quan đầy triểu mà không một ai đẩy lui nổi hai con tiểu yêu đó ? Cứ tình hình này, về sau những súc sinh ở hạ giới, có đôi chút bản lãnh, đều có thể hoành hành, không coi kỷ cương ra gì. Thậm chí Thông Minh bảo điện của trẫm cũng có thể bị yêu nhân, ma quỉ phá hoại tan tành, một mảnh ngói cũng không còn, còn ra thể thống gì nữa chứ ? Các kẻ sĩ khắp ba cõi sẽ coi trẫm là một Ngọc đế hữu danh vô thực hay sao ? Các khanh có cách gì giữ cho thiên đình yên ổn, ngọc điện vững vàng, cứ nói thẳng, chẳng cần giấu giếm. Lý Trường Canh xuất ban, tâu :
- Trị lâu ắt loạn, loạn thì tai kiếp nẩy sinh. Việc trị loạn, an nguy đều có số định trước. Vi thần trước đây ở cung Bát Cảnh (l) có nghe Lão Quân cùng Nguyên Thủy bàn về tai kiếp. Tổ sư từng nói rằng năm nay, điện Thông Minh sẽ có tai biến nhỏ. Vi thẩn nghĩ thầm : "Thượng đế lãnh đạo vạn tiên, chủ trì kiếp vận, thản hoặc có tai biến, làm sao xảy tới cho điện Thông Minh chứ ?". Vì thế thần cười thầm hai vị tiên trưởng nói sai, không thể có chuyện đó nên thần không nghĩ tới nữa. Không dè hôm nay xảy ra tai họa do nghiệt long gây ra, đúng như lời hai vị tiên đã nói. Điều đó cho thấy vấn đề kiếp vận, tuy thánh nhân, thượng tiên biết trước, cũng không tránh khỏi. Thần lại nghe nói Lão Quân đã dự biết trước, chẳng bao lâu hạ giới sẽ có đại họa hồng thủy, người và súc vật chết đuối lên tới ức vạn. Cũng may có thánh nhân ứng vận mà sinh ra đời, để làm nên sự nghiệp trị thủy. Bấy giờ, sông nước và đất liền mới phân ranh giới rạch ròi. Việc trên đất liền, tự có thánh quân lo liệu, việc dưới nước phải có hai thần long có tài có thuật, mới chế trị được. Vì thế Lão Quân tổ sư mới phái hai đại đệ tử, là Hỏa Long và Phiếu Diểu chân nhân, thu thập và phổ độ cho hai chân long, tiềm phục dưới đáy nước, để đợi thời ứng chiếu.
-------------------------
( 1 ) Nín ở của Thái Thượng Lào Quân (Lão quăn tổ sư).

Lý Trường Canh lại nói tiếp :
Hai con rồng này, một đực một cái, còn có duyên số với nhau, trong tương lai phối hợp thành vợ chồng, diên trì dòng giống rồng, để làm chủ các biển lớn, nhỏ, ở vùng Tây Bắc và Đông Nam, giúp đỡ vua chúa, thụ mệnh ở trời, giữ cho bốn biển bình yên, khiến yêu tinh phải lẩn trốn, các loài tôm cá được sống yên. Hai con quái vừa rồi có bản lãnh rất cao, chẳng phải thứ rồng tầm thường, không chút đạo hạnh. Nhưng chưa rõ chúng có đúng là thần long hay không ? Việc này vô cùng trọng đại, muốn biết rõ đầu đuôi, thần thiết nghĩ phải tới hỏi lại Lão Quân tổ sư mới xong.
Ngọc đế nói :
- Tuy nói vậy, nhưng trẫm cho rằng hai con rồng đã được đồ đệ của Lão Quân độ cho, đợi chiếu trị thủy, thì chúng phải cung kính, cẩn thận, chuẩn bị ứng chiến mới đúng, có đâu dám làm chuyện xằng bậy như thế ? Hai con rồng này đã phạm tội lớn lao như thế, làm sao có thể lục dụng ? Há chẳng khiến quần tiên trên trời cười trẫm thưởng phạt bất minh hay sao ?
Trường Canh lại tâu :
- Lão Quân là tổ của chúng tiên, hai vị chân nhãn Hỏa Long, phiếu Diểu là kim tiên trên thượng giới. Mấy vị này ắt rõ nhân quả trong việc này. Vi thần xin tức khắc tới hỏi cho rõ, sẽ về bẩm lại.
Ngọc đế chấp thuận cho đi liền, nhưng nói thêm :
- Trị loạn, an nguy tuy có liên hệ với kiếp vận, nhưng lục dụng tiền tài lại là trách nhiệm của vua chúa. Trẫm xem các bề tôi thân tín phần lớn không có tài ứng biến. Từ nay về sau, để tài bồi nhân tài, lục dụng hiền sĩ, trăm nhờ khanh hỏi qua ý Lão Quân, nhờ ngài tiến cử cho những người làm rường cột của triều đình.
Lý Trường Canh nhận lệnh, ra khỏi điện, cưỡi mây tới cung Bát Cảnh. Tới nơi, hạ thấp đám mây xuống, ngắm nhìn, thấy tình hình Bát Cảnh cung khác xa điện Thông Minh: u nhã phi thường, trang nghiêm khó sánh. Bên ngoài cung, nhiều loài kỳ hoa dị thảo, chim chóc sặc sỡ, khác xa nhau, ngắm mãi không chán mắt.
Trường Canh mắc có ngọc chỉ, không dám tham luyến cảnh sắc, vội rảo bước tiến vào. Vừa tới trước cửa cung, liền có Bạch Hạc đồng tử nghênh tiếp, cười bảo :
- Tổ sư sớm biết có lão đạo sĩ này tới đây.
Trường Canh mắng :
Nghiệt súc, không được vô lễ ! Mau vào thông báo, nói có ta cầu kiến tổ sư gia.
Đồng tử thấy Trường Canh mắng là nghiệt súc, liền lắc đầu nói: ông là cái thứ gì mà mắng người ta là nghiệt súc ? Tôi thấy ông là kẻ vô tài bất tướng, sém chút nữa để liên lụy cho Ngọc đế, không được an tọa. Vừa mới được an nhàn, đã lên mặt mắng người hả ? ông có giỏi cứ tự động tiến vào gặp tổ sư của tôi, cần gì phải nhờ thằng nghiệt súc này thông báo ?
Nói rồi, bực tức ngồi xuống một tảng đá, chúm miệng gọi chim.
Tức thì, cả đàn chim cùng bay tới, có con hồng, có con xanh, có con đen, con trắng, có con to, có con nhỏ, có chim trống, có chim mái... đủ cả tụ tập chung quanh đồng tử. Đồng tử đùa giỡn với mấy con chim, không thèm ngó ngàng tới Lý Trường Canh. Trường Canh đứng nhìn một hồi, bất giác cười thầm :
- Ta thấy thằng bé này không biết đạo lý gì cả ! Nay là lúc cần nhờ cậy tới nó, đành phải xuống nước năn nỉ vậy. Đợi lát nữa gặp tổ sư xong, ta sẽ cho nó biết tay !
Tức thì tiến lên một bước, nở nụ cười, nói :
- Này lão đệ, giỡn chơi thì giỡn chơi, công việc vẫn là công việc. Chú có biết ta đến đây lần này là vì việc gì không ? Là Ngọc đế có chỉ, sai ta tới thỉnh giáo tổ sư đó. Để lầm lỡ việc, đành rằng ta chịu tội, nhưng tổ sư biết được, chú cũng ăn đòn đó. Hảo lão đệ mau vào thông báo giùm ta đi ! Đừng ở đó mà nô giỡn nữa !
Đồng tử nghe vậy, "Phì !" một tiếng. nói :
- Ông đừng đem Ngọc đế của ông ra mà dọa người. Ở đây, tôi chỉ biết có tổ sư thôi. Ông muốn gặp tổ sư, cũng phải biết mua chuộc chút cảm tình của tôi chứ ! Tôi mà không thông báo, dù cho Ngọc đế đích thân tới đây cũng không gặp được tổ sư, huống nữa là ông !
Trường Canh nghĩ thầm : - "Thằng bé này lại nói nhăng rồi ! Mày cứ ở đó mà bê trễ, tổ sư biết được, đố tránh khỏi ăn đòn ! Nhưng nay ta đang cần tới nó, lại không thể để mất thời giờ, đành phải xuống nước vậy". Nghĩ rồi, chắp tay vái đồng tử, nói :
- Lão đệ bớt giận, ta xin bồi tội, được không ?
Đồng tử nở một nụ cười, nói :
- Chưa thấy ai như ông này, đường gần không muốn lại muốn đường xa. Thôi, tôi cũng thương tình, vào thông báo cho ông.
Nói rồi đứng dậy, vẫy tay một cái, đàn chim liền tản đi bốn phía, tiểu đồng cũng lật đật tiến vào trong cung. Chạy lát lại trở ta, ngoắt tay cho Trường Canh, bảo :
- Ông vào đi, tổ sư đang đợi đấy t
Lý Trường Canh sửa lại quần áo, theo tiểu đồng vào gặp Lão Quân, sụp xuống lạy. Lão Quân dạy đứng lên, nói :
- Có phải ông tới để điều tra về hai con nghiệt long không ?
Lý Trường Canh truyền đạt ý chỉ của Ngọc đế. Lão Quân lại cười, bảo :
- Đúng là ta đã phái người đi thâu độ hai con nghiệt long đó. Trước hết phải cho chúng có được một thân người, sau đó mới có thể liệt vào tiên ban. Khổ nỗi chúng, dã tính chưa thuần, lễ nghi chẳng tập, lại chưa hề biết điện Linh Tiêu ở chỗ nào, nên mới gây nên họa. Cũng bởi ông nói năng không khéo, chọc giận tới chúng, chúng mới gây náo loạn. Chung qui cũng là có số định trước, Ngọc đế nhân dịp này cũng nên bớt giận, đừng để ý tới kiếp nạn nhỏ nhoi này nữa. Việc đã qua, bất tất nhắc tới. Hiện tại cần phải cho chúng có thời gian để kiến công lập nghiệp, còn tội nghiệt của chúng, trong tương lai không tránh khỏi điều báo ứng. Chuyện lúc đó, ta không tiện đoán trước, ông hãy về phục chỉ cùng Ngọc đế.
Lý Trường Canh lại hỏi tới chuyện Ngọc đế, vì sao con rồng quậy phá, các vị tiên ở Thiên phủ không ai thu phục được chúng, khiến ngài không vui, có ý muốn xin tổ sư phái các đồ đệ có đức hạnh, thần đạo, tới giúp việc triều chính, bảo vệ thiên đình. Lão quân nói :
- Các Vị tiên làm môn hạ của ta đều có chức vụ cả rồi. Vả lại họ cùng Ngọc đế không có duyên, nên không thể ở bên cạnh giúp dập. Vả lại, gần bên Ngọc đế, có không ít người tài đức, nên chẳng cần bàn tới việc này. Ta đang tính giúp Ngọc đế một việc khác : trong vòng ba ngàn năm, phải liên tục thâu thập tám vị đại kim tiên. Trong số này, có người đã ra đời rồi, chẳng qua chưa thành nhân thể mà thôi. Sau này, ta phải lục tục phái người thâu độ, cho thành chính quả. Các ông cũng nên tùy thời, tùy việc mà nghe ta hướng dẫn, cho chúng ở Thiên phủ, hoặc ở nhân gian, nâng đỡ chúng, tiếp nối nhau thành đạo. Đó cũng là các ông đã góp một phần công quả lớn vậy.
Lý Trường Canh khấu đầu bái tạ, từ biệt Lào Quân, trở về thiên cung phục chỉ.

HÔI THỨ 7

Bàn thân phận, danh sư cứu cao đồ
Nhắc chuyện cù về chuột già hóa biển bức. (1)


Bây nói về Nhị Lang dẫn nhiều thiên binh, thiên tướng truy đuổi hai rồng, qua thượng giới và trung giới, thẳng tới hạ giới. Ông hạ thấp đám mây, mở tuệ nhãn, nhìn xuống bên dưới, vừa thấy hai rồng đã nhảy xuống biển Đông, tính lặn xuống đáy. Nhị Lang vội niệm chân quyết, chỉ tay xuống, nước biển liền đóng thành băng, khác nào tường đồng vách sắt, hai rồng không thể lặn xuống. Ngước nhìn lên, thấy vị thần tướng đang thi triển pháp lực, hai rồng liền nổi giận, hiển lộ chân thân, tay cầm kiếm báu, nhảy lên không trung, tấn công Nhị Lang. Nhị Lang không hể hốt hoảng triển khai họa kích, đánh với hai rồng. Đánh được chừng hai chục hiệp, hai rồng dần dà đuối sức, đỡ không nổi. Trước hết là Phi Long hiện nguyên thân, bay về hướng Đông bỏ trốn, con rồng kia cũng chạy theo. Nhị Lang đời nào chịu buông tha, dẫn đám binh tướng, ùn ùn đuổi theo. Thấy khoảng cách không xa. Nhị Lang móc trong tay áo ra hai viên đạn thần, nhắm về phía hai rồng búng một cái. Chỉ nghe "Tách !" một tiếng, hai luồng kim quang rơi trên đầu hai rồng. Hai rồng thấy nổ đom đóm mắt, đầu nhức như búa bổ, suýt nữa rớt khỏi đám mây. Nhị Lang nghĩ thầm:
- Đạn thần của ta, bất kể đánh yêu hay đánh người, một khi đánh trúng, không kẻ nào thoát chết, sao hai con rồng này có thể chịu nổi như thế ? Chắc hẳn tại chúng tu luyện lâu năm, đạt tới đạo hạnh cao đây mà. Nay ta phải dùng phi kiếm chém chúng, thử xem chúng còn tránh nổi nữa không ?
Nghĩ rồi, há miệng ra to. Đột nhiên có một đạo bạch quang bay về phía đầu hai rồng, phát ra khí lạnh ghê người. Tia sáng vừa tới, hai rồng liền cảm thấy rét run cầm cập. Nói thì chậm, việc xảy ra rất nhanh, kiếm quang vừa tới gần thân rồng, bỗng nghe một tiếng nổ vang, đầy trời xuất hiện một tầng hồng quang, ngăn chặn kiếm quang của Nhị Lang, đẩy ra xa hai mươi dặm. Đồng thời, chợt nghe có tiếng người hô to :
- Nhị Lang hãy thư thả ? Hai con súc sinh này tuy phạm tội với trời, trong tương lai tự có báo ứng. Hiện tại còn có chỗ cần dùng tới chúng, xin Nhị Lang đừng phí công sức.
--------------------------------
(1) Biển bức (hoặc đơn giàn : Bức) : là con dơi. Trong Hán tự, Bức và Phúc (điều tốt lành, phúc lộc) là đồng âm, vì thế, người hay treo ảnh con dơi để nhắc tới phúc lộc.

Câu nói vừa dứt, trước mặt Nhị Lang hiện ra hai vị tiên nhân, đang đứng. Nhị Lang thu kiếm quang về, vòng tay chào, nói :
- Hai vị chân nhân Hỏa Long, Phiếu Diểu từ đâu tới ? Nếu hai vị đừng can thiệp, hai con súc sinh đã táng thân ngày hôm nay rồi!
Hỏa Long chân nhân cười, nói :
- Người ta thường nói : "Bàn chuyện thị phi chỉ tổ mang tiếng là kẻ lắm điều”. Nhị Lang vẫn chưa hiểu nổi giữa hai chúng tôi và hai súc sinh có duyên phận ra sao đâu. Phiếu Diều sư đệ vì con nghiệt súc kia đã mấy lần làm chuyện tốt đẹp ở Quán Khẩu, nơi trị nhậm của ngài đấy.
Nhị Lang chợt hiểu ra, nói :
- Chà ! Súc sinh kia chính là con yêu long ở địa phương Quán Khẩu đấy chăng ? Tôi có nghe là có một người tiên nào đó đã độ cho nó xuất thế, chẳng dè lại là Phiếu Diểu đạo huynh. Sao các ông cứ hay ưa xen vào những chuyện không đâu như thế ? Hai ông có biết chuyện yêu long kia đã ở Quán Khẩu, chỗ tôi trị nhậm, làm việc dời non lấp biển đó chăng ? Có biết hai đứa nó đại náo thiên cung, làm kinh động Ngọc đế, hai ông biết không ? Nay Ngọc đế nổi giận, sai tiểu đệ tới bắt chúng về trị tội, hai vị nói sao đây ?
Phiếu Diểu, Hỏa Long đầu cười, nói :
- Hai súc sinh tuy rằng to gan, nhưng trước nay chúng chưa từng lên thiên đình, làm sao biết đường tới điện Thông Minh ? Chuyện này, hai chúng tôi biết rồi, nhưng cũng bởi Lý Trường Canh bộp chộp, tai họa mới thành nghiêm trọng. Tất nhiên Linh phủ là chốn tôn nghiêm, không thể để cho loài súc sinh phóng túng, nhưng việc này có số định trước, và kẻ làm càn cũng không tránh khỏi báo ứng về sau, tạm thời chúng ta chẵng nên nhiều lời làm chi. Mọi chuyện đã có sư phụ chúng tôi làm chủ, ngài sẽ giải thích rõ với Ngọc đế, quyết chẳng để tôn thần phải khó xử.
Nhị Lang lại nói :
- Còn việc này nữa : vùng biển nơi tôi trị nhậm bị núi đè, san thành bình địa thì sao ? Nước có quan hệ mật thiết với việc sinh hoạt của dân chúng, nay mất đi một nửa, chẳng phải đã hại chết nhiều người hay sao ?
Phiếu Diểu chân nhân cười :
- Việc đó dễ giải quyết. Không bao lâu nữa, hạ giới sẽ có thủy tai rất lớn, các vị thánh nhân trị thủy đã ra đời rồi. Trong tương lai, bần đạo ắt bảo đệ tử đặt ra một cách, đào cho biển sâu thêm, để bổ khuyết những chỗ đã lấp, như vậy lượng nước cũng không xê xích bao nhiêu. Vả lại, những chỗ đất được san phẳng sẽ trở thành ruộng cày, cũng có mặt tốt đấy chứ ?
Nhị Lang cười :
- Nếu vậy, tôi thu binh trở về, lên thiên đình phục chỉ.
Thần Nhị Lang rút binh đi rồi, hai ông tiên hạ mây thấp xuống, tiến lại gặp nhau, kể chuyện vãn. Hai ông đều nói :
- Vì hai quái vật này anh em gánh trách nhiệm không nhỏ.
Hỏa Long chân nhân cười, nói :
- Dầu sao học trò tôi cũng còn tốt hơn. Nó không quá nóng nảy như thằng học trò của chú. Xét cho cùng, con gái vẫn đằm tính hơn con trai. Tôi hỏi chú này : chú đưa học trò tới Đông Hải, lẽ ra phải thủng thẳng đợi tôi tới, cho hai đứa nó phối hợp âm dương, đưa xuống dưới biển yên chỗ mới phải, có đâu lại thả rong thằng nhỏ ở bờ biển ? Chỉ vì hai dứa không biết nhau. mới sinh vụ náo loạn vừa rồi ! Sư đệ, việc này là lỗi ở chú đó.
- Sư huynh mới là người không có lương tâm, bỏ bê học trò chẳng nhìn nhõi tới. Tôi có ý tốt tới thăm anh, nhân tiện đem chuyện học trò anh ở sông Tiền Đường không giữ phép tắc, cãi lời thầy, thông báo một tiếng. Vậy mà anh còn trách tôi được sao?
Hỏa Long chân nhân cười :
- Nói hay lắm, hay lắm ! Ngay cả học trò của mình cũng không quản nổi, để nó ở địa phương Quan Khẩu làm chuyện động trời, còn có thời giờ rảnh rỗi đi là chuyện giùm ngu huynh ư ?
Phiếu Diểu chân nhân buông tiếng thở dài :
- Nhắc tới chuyện này, càng thêm thương xót. Đồ đệ của tôi là kết hợp giữa tính linh của người và long đan của rồng, tính tình mười phần thẳng thắn, lại mười phần hiếu thuận. Ngày trước anh em ta từng gặp nhau trên mây, ở Tây phương, tôi có nói sơ qua. Lúc đó, tôi đem nhốt nó ở dưới đáy biển, để nó tiềm thân mà tu hành. Ai ngờ nó vẫn không quên lòng hiếu thảo với mẹ, mỗi năm tới ngày sinh nhật mẹ, ắt nó biến thành hình người để tới chúc thọ. Sau này, mẹ nó qua đời, nó lại tới khóc lóc, điếu tế, rồi đem xác mẹ an táng ở chân núi, phía Tây Nam Quán Khẩu, gặp ngày thanh minh lại tới quét mộ, tế lễ. Tất cả chỉ vì lòng hiếu thảo của nó mà ra, nên tôi không nỡ trách móc. Ai ngờ, mới rồi nó lại gây ra tai họa lớn lao như thế. Sư huynh vừa nói học trò tôi gây rối ở Quán Khẩu, mà có biết rõ nội dung chuyện này ra sao hay không ?
Hỏa Long chân nhân lắc đầu :
- Tôi chỉ nghe nói, chứ không hiểu rõ sự thật. Chú không ngại nói cho tôi biết chứ ?
Phiếu Diểu chân nhân lại nói giọng ngậm ngùi :
- Nếu đã bàn về thiên số, việc học trò tôi làm ở Quán Khẩu, cùng với việc học trò anh làm ở sông Tiền Đường, họ chẳng phải tại số định trước hay sao ? Đã là số định trước. thì tôn quí như Ngọc đế, cũng phải chịu tai họa do hai súc sinh kia gây ra, trong lúc nóng giận. Đành chịu vậy thôi, còn biết trách ai ? Sư huynh, anh có nghe tổ sư từng nói hay không ? Trong tương lai, sẽ có tám đại kim tiên, trong thời gian ba ngàn năm, lục tục ra đời và thành đạo, làm bề tôi thân tín giúp việc Ngọc đế. Trong số đó có kẻ đã xuất thế nhưng chưa thành người. Nói cho rõ ra thì đó là một con chuột già. Không hiểu vì lẽ gì, chuột này không giống như chuột bình thường. Từ lúc ra đời, nó không phá hoại đồ đạc của người ta, lại biết chiêm bái các vì tinh tú, cẩn thận tu luyện. Tuy là loài động vật nhỏ bé, nó đã luyện thành tấm thân bất hoại, đã trải qua được bốn, năm ngàn năm, đúng vào thời Tam Hoàng (l) trị vì thiên hạ: Có nơi, thủy tai xảy ra thường xuyên người và súc vật chết chìm vô số, con chuột kia mới từ trung nguyên phiêu bạt tới Tây thổ là nơi mà hiện nay gọi là Quán Khẩu. Nhân vì nó tu đạo đã lâu pháp thân vững bền, tuy giữa sóng lớn, phiêu lưu ba, bốn ngàn dặm, nó vẫn bảo tồn được tính mạng.
---------------------------------------------------
(1 ) Tam Hoàng : ba vì vua thời thái cổ bên Trung Quốc, có tính thần thoại, tượng trưng cho ba  giai đoạn phát triển của nhàn loại. Đó là : 1. Phục Hi (dạy dân biết dùng lửa), 2. Thần Nông (dạy dân canh tác), 3. Hiên Viên (dạy dân biết ăn mặc).

Quán Khẩu vốn là một lục địa có địa thế rất thấp, từ khi gặp phải thủy hoạn, nước đóng thành vũng tràn lan, dài tới một ngàn dặm, chẳng khác gì một đại dương. Vào lúc khởi đầu, khi nước dâng cao như thế, có một thôn trang, số nhân khẩu lớn nhỏ cộng lại được hơn hai ngàn người. Họ bồng trẻ, đỡ già, tìm tới chỗ đất cao ráo tránh nạn (l). Chỗ cao ráo đó, hai mặt là đất cao, ở giữa là một con sông rộng ba trượng. Sông đó bình thời tích chứa nước, trở thành sâu thăm thắm, người giỏi bơi lặn đến đâu cũng không thể vượt qua con sông này. Cũng may có cây cầu độc mộc nho nhỏ, giúp dân qua lại. Không ngờ người nhiều, cầu mục, người ta tranh nhau qua cầu, cầu không chịu nổi. "Rắc !" một tiếng, cầu nhỏ gãy làm đôi nhiều người trượt chân rớt xuống sông. Số người bị sóng lớn cuốn đi không biết đâu mà kể. Thế nước càng mạnh, nguy hiểm càng lớn. Trên bờ, người ta tụ tập rất đông, tiếng kêu gào chấn động trời đất.
Bấy giờ chuột già cũng đứng lẫn trong đám đông, hy vọng theo chân mọi người qua sông lánh nạn. Nó thấy cầu gãy, người kêu gào, tình cảnh thật thảm thương. Vì có thiện căn thâm hậu, nó quên cả nguy hiểm của bản thân, chỉ nghĩ làm sao cứu được thật nhiều người qua sông lánh nạn. Suy nghĩ một hồi, nó chợt nghĩ ra được một phương pháp. Chỉ thấy nó chạy như bay, lao lên đoạn cầu gãy, nhìn về khúc cầu gãy bên kia, ngó mung lung một lát, nhận thấy thân cầu không hoàn toàn đứt lìa, mà vẫn còn bám vào mố cầu bên kia, chầng qua là khúc cầu gãy đó chìm dưới nước, không giúp người đi qua được thôi. Không hiểu con chuột này thân lớn, sức mạnh thế nào chỉ biết nó nhìn ngắm cẩn thận một lát, hăng hải tung mình nhảy xuống nước, bơi một hồi, bò lên được khúc cầu gãy, men theo đó mà đi, chỉ trong một thời gian ngắn, đã leo lên được bờ bên kia. Chuột già lên bờ được rồi, quay đầu nhìn về đám đông người ở bờ đối diện, kêu lên một chập những tiếng "Chít ! Chít !", dường như an ủi mọi người, bảo họ đừng nên thất vọng, ta sẽ tìm cách cứu cho. Người ta thấy con chuột già to lớn, đã men theo khúc cầu gãy, sang tới bờ bên kia, trong lòng đều lấy làm lạ. Nhưng ai nấy đều lo thân chưa xong, rảnh rỗi đâu mà nghĩ tới chuột già ? Sau thấy nó cứ tiếp tục kêu, người ta mới kinh ngạc. Trong đám có một người lão thành, hướng về phía bờ đối diện, hô to lên :
- Anh chuột, anh chuột ! Chúc mừng anh đã thoát hiểm ! Chỉ thương cho chúng tôi, biết bao người đứng ở đây, không ai tìm được cách gì qua sông. Anh chuột đã sang được bờ bên đó, có nghĩ ra được phương pháp nào cứu chúng tôi hay không ? Nếu chúng tôi có thể sang sông, giữ được tính mạng, mọi người sẽ lập một ngôi từ đường thờ anh, thành tâm khấn vái, đền đáp ơn lớn của anh !
----------------------------------------
(1) ờ đầu sách nói tới Nam Thiềm (tức Quán Kháu) là một thủy quốc", ở đãy tả rõ thủy quốc đó ra sao

Người nói câu này cũng buột miệng nói ra, chứ không có ý xa xôi là anh chuột già sẽ phải hy sinh khi cứu người, nào ngờ chuột già nghe vậy lại hướng về phía mọi người, gật đầu liên tiếp mấy cái tỏ ý hoàn toàn lĩnh hội. Người ta thấy vậy, cho là kỳ quái, bảo nhau:
- Xem ra chuột già này có đạo hạnh rất cao, là hạng người phải đợi lúc chết đi mới hiển danh. Thử xem nó sẽ làm gì đây ?
Chuột già gật đầu mấy cái rồi, liền chạy như bay như biến, cũng không hiểu nó đi đâu, tìm ra được một cây gỗ rất dài, dùng răng cắn chặt lôi kéo, đẩy cây gỗ xuống nước, đặt dọc theo khúc cầu gãy. Mọi người mới hiểu nó đang tìm cách cứu người, lên tiếng hoan hô vang dậy, chấn động hang núi. Nhưng mới chỉ bắc được một cây gỗ chênh vênh, chưa giải quyết được việc gì. Lại thấy con chuột gật đầu vài cái, tung mình nhảy xuống nước, bơi về phía bờ đối diện. Lại hướng vế phía mọi người, kêu "Chít ! Chít !” một chập nữa, quay đầu bỏ chạy rất nhanh, dùng cách cũ lôi về một cây gỗ, dài bằng cây gỗ trước, đẩy về phía sông. Bấy giờ mọi người mới hiểu ý nó, bảo nhau đồng tâm hiệp lực, giúp đỡ chuột già, đặt hai cây gỗ nằm chắc trên trục cầu. Ở mỗi bờ có một chân cầu còn vững chắc, chuột già thi triển thần lực, dùng răng nhọn đục vào mỗi chân cầu một lỗ hổng lớn, sau đó nó đẩy đầu còn lại của mỗi cây gỗ nhét vào một lổ hổng thật khít khao. Như vậy, nó tạo một cây cầu mới, đi lại vững vàng.
Chuột già làm việc vất vả chừng một canh giờ, việc dựng cầu mới hoàn tất. Ngờ đâu, từ trên thượng lưu, nước đổ về bất ngờ, sóng vỗ cao ngất, lôi cuốn luôn chuột già trôi theo dòng nước lũ, chỉ trong giây lát đã cuốn nó đi xa vài trăm dặm. Chuột là động vật nhỏ, lại vừa phải làm việc quá vất vả, khí lực cạn kiệt. Nó không chống đỡ nổi nữa, bị nước cuốn trôi xuống một vực sâu trăm trượng.
Chuột già thần trí hôn mê, như thể chết rồi. Không biết thời gian qua đi được bao lâu, nó chợt thấy mình nằm trên một tảng đá rất lớn, bên cạnh một vị đạo đồng đang đứng, nhìn nó, mỉm cười nói:
- súc sinh sống lại rồi ! Sao còn chưa bái tạ ân sư ?
Nghe đạo đồng nói, chuột già thấy trong lòng sáng suốt, tin chắc đã có một vị tiên cứu mình. Nếu không, sao đang ở dưới vực sâu có thể lên núi cao ? Nó hiểu rất rõ, vội lồm cồm đứng lên, trước hết dập đầu lạy tạ đạo đồng. Đạo đồng đưa tay vẫy nó, bảo :
- Theo ta vào gặp ân sư !
Chuột già bò theo tiểu đồng, đi một quãng đường dài chừng một làn tên bắn, vào tới một sơn động. Trong động có một vị tiên, đang ngồi tu đạo dưỡng chân. Chuột già theo đạo đồng vào đến nơi, tham bái vị lão thần tiên, cảm kích trong lòng, hai hàng nước mắt chảy lăn tăn. Lão thẩn tiên ngỏ lời an ủi :
- Ngươi tuy thuộc dị loại, nhưng được trời thương, nên mới có thiện căn thâm hậu, tu được công hạnh lớn lao. Vì thế, ta đã nhờ Hoàng cân lực sĩ cứu ngươi, đưa lên núi. Hiện tại, ngươi chết chìm dưới sông đã được một trăm hai mươi lăm ngày rồi.
Chuột già nghe vậy, bất giác thè lưỡi. Lão thần tiên lại nói :
- Ta thương ngươi tu luyện đã mấy ngàn năm mà chưa thành chính quả. Ngay cả bản thân ngươi cũng không thể biến hóa, là vì ngươi xuất thân quá thấp hèn, không có chuyện gặp gỡ chân tiên. Từ nay, ngươi bất tất phải đào hang hố, chui rúc chốn bùn nhơ để sinh sống nữa, cứ ở trong động phủ của ta mà tu hành, làm một đồng tử giữ động cho ta. Dần dần, ta sẽ dạy cho ngươi một số chân quyết truyền cho ngươi chút pháp thuật. Sau này ngươi có thể thay xương đổi thịt, thành một hình người. Chưa đầy, một, hai ngàn năm, ngươi có thể chuyển thành tiên thể.
Chuột già xin vâng, dập đầu lạy cả trăm lạy, lão thần tiên lại nói:
- Ngươi đã ở đây làm lụng, ta cũng phải biến đổi hình dáng ngươi đi một chút, để khỏi bị đám sư huynh, sư đệ khinh thường. Ngươi ở dưới nước đã lâu, chắc cũng đói bụng rồi. Đồng tử đâu lại đây ! Con hãy dẫn anh này ra sau núi, chỗ mấy cây đào vừa ra trái, lựa hai trái chín hái xuống, đưa anh ấy ăn đỡ đói, sau đó dẫn về đây gặp ta.
Tiểu đồng vâng lời, dẫn chuột già ra sau núi. Quả nhiên chỗ đó có nhiều cây ăn quả, trong đó có một cây đào rất lớn, ra nhiều trái. Tiểu đồng nói :
- Mày nhẹ xác, tự leo lên cây, chọn lấy hai trái đào chín hồng, hái xuống mà ăn. Đừng quá tham ăn, kẻo lủng bao tử, đổ thừa tại tao!
Chuột già nghe lời, bám vào thân cây mà leo lên, chọn hai quả đào hồng, mọng nước, ăn ngon lành.
Ăn xong, định leo xuống, chợt cảm thấy hai bên nách ngứa ngáy liền dùng móng gãi một hồi. Nào ngờ càng gãy càng ngứa, đồng thời cảm thấy chỗ gãi sưng lên. Dường như từ trong thịt  có vật gì đâm ra. Chuột già lính quýnh, định leo xuống thỉnh giáo tiểu đồng. Bỗng lại cảm thấy hình như chỗ ngứa vừa mọc ra hai cái cánh. Đập thử hai cánh, cãm thấy nằng nặng, dường như toàn thể  trọng lượng thân thể đều tụ vào hai cánh đó. Chuột già vốn thông minh, hiểu ra rằng ông thầy có ý thay hình đổi dạng cho mình, lòng rất vui sướng. Đập thử hai cánh, cảm thấy không khí giúp sức, bay là là, đáp xuống đất. Đồng tử thấy lạ, nhảy dựng lên, nói:
- Con chuột này sao biến ra hình dạng kỳ khôi thế ?
Nói rồi, dẫn chuột trở về động phủ. Lão thần tiên thấy chuột già biến thành con thú biết bay, bất giác cười ha hả, nhân thể ban cho nó một cái tên? gọi là "biển bức" (con dơi).
Trong số con cháu của chuột già có những con giữ luôn hình dạng biển bức ban đầu, ngày nay biến thành một loài, là loài dơi. Nhưng đó là chuyện về sau.
Nghe Phiếu Diểu chân nhân kể tới chỗ chuột già biến thành biển bức, Hỏa Long chân nhân nói : - Tình tiết chuyện này, quả thật ngu huynh không biết.
Phiếu Diểu chân nhân cười, kể tiếp :
- Từ đó, biển bức vĩnh viễn theo vị thần tiên, nghe kinh học đạo. Nó học tập chuyên cần, không bao lâu mà đã qua sáu, bảy trăm năm, nói được tiếng người, lại có thể biến hóa thành các loại  phi trùng, tẩu thủ (con vật biết bay, con thú biết chạy), nhưng vẫn chưa biến được thành hình người. Sư huynh có biết vị thần tiên đó là ai không ?
Hỏa Long chân nhân gặt đầu :
- Nghe nói Văn Mỹ chân nhân thu nhận một con chuột già làm đệ tử, chắc là ông ấy chứ ai ?
- Đúng rồi, ông ấy là đại đệ tử của Nguyên Thủy thiên tôn, chuyên thâu nhận dị loại làm đồ đệ. Vì chuyện đó mà trước đây, ông ta đã mắc phải điều này tiếng nọ, sau rồi được tổ sư chúng ta khuyên bảo, ông ấy đã cẩn thận hơn.
- Ban nãy chúng ta có đề cập tới chuyện học trò của chú gây náo loạn ở Quán Khẩu, tại sao chú lại kể lan man sang chuyện chuột già hóa dơi ? Đừng nói con chuột đó có liên hệ với học trò chú đấy nhá !
- Lê tự nhiên là có liên hệ. Nếu không, tôi nhắc tới làm chi ?
- Chuyện này có vẻ ly kỳ đấy. Việc tao ngộ thế nào, thật tình tôi chưa nắm rõ.
- Chúng ta tuy biết chuyện quá khứ, vị lai, nhưng chẳng qua cũng chỉ biết được trong vòng một trăm năm. Ra ngoài thời gian đó không thể biết chắc được. Riêng có tổ sư và Nguyên Thủy thiên tôn là hiểu nổi lẽ huyền bí khó lường, biết những chuyện quá khứ vô cùng tận. Tổ sư từng nói rằng trong tương lai sẽ có tám vị tiên phò tá Ngọc đế, anh em chúng ta chỉ có nhiệm vụ là dẫn dắt, điểm độ để họ xuất thế, thành tiên. Còn việc bọn họ lên Thiên phủ, đứng vào hàng tiên quan trong triều đình, ra ngoài trách nhiệm của chúng ta. Trở lại chuyện trước, kẻ ra đời sớm nhất là một con chuột. Nó có tuổi thọ ngang với chúng ta, nhưng để đạt được chính đạo thành tiên, cũng phải trải qua dăm ba ngàn năm. Chiếu theo lời tổ sư nói như thế, chẳng phải ám chỉ biển bức đó ư ? Chuyện này người ta nói đã lâu, trong tiên ban cũng nhiều người biết, riêng có sư huynh là không rõ chẳng là điều quái lạ lắm sao ?
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:33:50 bởi bevanng >

bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 06.07.2008 12:09:05
Hồi Thứ 8

Lào giao lên bờ phá hủy Phúc Đức
Nguyệt lão xuống biến. làm mai cho rồng.

Phiếu Diểu Chân nhân nói rằng trong tương lai, biển bức sẽ là một trong Bát tiên phò tá Ngọc đế. Hỏa Long chân nhân bất giác gật gù, nói :
- Thì ra là vậy. Thật tình tôi không biết.
Phiếu Diểu chân nhân cười, nói :
- Bây giờ, tôi kể tiếp anh nghe chuyện lão long gây náo loạn, tình thật ra sao. Nguyên biển bức đã được Văn Mỹ chân nhân giáo hóa, lại nói rằng anh ta có công với nhân dân Quán Khẩu, đáng được dân chúng lễ bái, hưởng hương khói một ngàn năm, mai sau sẽ chuyển  sang thân người, có tiến trình lớn lao. Ông ta mới vời gọi các thổ địa lớn nhỏ ở địa phương Quán Khẩu tới, bảo họ truyền dụ cho dân chúng, lập miếu thờ cho biển bức, để tỏ ý báo đáp công ơn, dân chúng Quán Khẩu được thổ địa chỉ bảo, ai nấy đều vui mừng, hường ứng, lập một miếu thờ biển bức. Địa phương tuy nhỏ thôi, nhưng thể chế trang nghiêm, người ta cũng dựng nên một ngôi miếu qui mô. Vả lại dân địa phương nhiều người chịu ơn lớn của biển bức, ca tụng anh ta, tôn xưng là Phúc Đức chính thần. Vì chữ “Phúc và chữ "Bức" là đồng âm, nên người ta mới đặt tên thần như trên, để tỏ lòng tôn kính, hy vọng thần sẽ mãi mãi ban phúc cho dân. Sau này, trong vùng đất Quán Khẩu chu vi một ngàn dặm, gặp những dịp vui mừng, hoặc những ngày lễ lạc, nhà nhà đều treo một dãy năm hoặc chín bức hình con dơi với ý là thu nhận được nhiều phúc. Người ta đồn rằng biển bức tuy chỉ là một 1 động vật nhỏ bé, nhưng nó đạt được tính linh kha khá, hễ ai thành tâm cầu nguyện, nó đều hiển linh báo ứng nhãn tiền. Vì thế mà miếu thờ quanh năm không dứt hương khói.
Biển bức hường hương khói của dân chúng lâu năm, đã có thể biến được thành hình người. Nhưng thời gian mang hình người như thế không lâu, chừng bảy ngày hoặc mười ngày, lại phải biến trở lại bản thể. Anh ta cũng rất thận trọng, bình thường không dám khinh suất rời xa miếu, sẽ ứng rước lấy đều này tiếng nọ, bị thiên thần khiển trách. Ai ngờ số đã định trước, tai ương không tránh khỏi.

Không biết trong dịp nào, biển bức cùng lão long, đồ đệ của Phiếu Diều chân nhân, quen biết nhau. Hai đứa đều là người trọng nghĩa mến đức, giao tình càng thêm khăng khít. Lão long mỗi khi có dịp lên bờ thăm mộ mẹ, đều ghé miếu gặp biển bức để thổ lộ tâm tình. Biển bức tuy không thể xuống nước, thường khi cũng hiện thành hình người, một mình tới chỗ vũng biển, gọi tên Bình Hòa, lão long liền xuất hiện, cùng biển bức đi dạo chơi, ngắm cảnh. Hai người qua lại với nhau như thế, không hề có điều gì trái ý nhau.

Không ngờ ở dưới biển lại có một con giao long (l). tu luyện tuy chưa lâu năm bằng lão long, nhưng nó học theo yêu pháp, nên tài năng cũng không thua kém gì lão long. Giao long này nghe nói Phiếu Diểu chân nhân hóa độ cho lão long, chẳng bao lâu sẽ thành chính quả, nên đem dạ bất bình. Một hôm, nó hóa thành hình người, đi ngang qua miếu Phúc Đức, mới tiến lại nhòm ngó một hồi, thấy trong miếu đắp tượng một con phi cầm rất lớn. Nó không hiểu lai lịch con vật này ra sao, ngờ rằng đó là con công của Phật Như Lai bên Tây phương, nên mới tiến vào, thắp hương lễ bái. Ra khỏi miếu, nó hỏi thăm dân trong vùng, mới hay đó là con chuột già biến hóa thành biển bức. Lại hỏi nguyên nhân vì sao lập miếu, biết được liền hầm hầm tức giận, lập tức bắt quyết vời gọi nhiều vị thần thổ địa ở những vùng quanh đó, hỏi tại sao một con vật nhỏ bé như thế lại được khoa trương, đề cao, hưởng thụ hương khói của trăm họ ? Giao long nói :
- Hôm nay, ta đã nhận lầm nó là con công của Phật Như Lai, nên đã lạy thì thụp. Không thể nào nhịn nổi cảnh con súc sinh đó (ngồi trên cao vênh váo, không thèm mở miệng nói với ta một câu ! Đáng ghét quá chừng ! Lão long ta có tuổi thọ sánh ngang trời đất, tu thành “vô thượng đạo pháp". Ngoại trừ thần Nhị Lang là người quản lý ta, cùng với các vị Tiên, Phật mà ta ngưỡng mộ, các vị thần tiên cấp thấp gặp ta đều phải nói năng nhỏ nhẹ. Dè đâu hôm nay ta phải bẽ mặt trước tiểu súc sinh này, làm sao chịu nổi ? Thôi, không nói lôi thôi gì nữa, ta hạn cho các ngươi trong ba ngày, phải phá hủy miếu này đi, đuổi tiểu súc này ra khỏi vùng, thì mọi chuyện êm hết. Nếu dám trái lệnh ta, ta sẽ đánh các ngươi gãy chân, sau đó sẽ kiếm một mồi lửa, đất rụi hang ổ của chuột già!
---------------------------
(1) Ngày xưa, gọi là con thuồng luồng (Tử điển Thiều Chửu), nay gọi là con cá nhám (Tù điển Hàn Việt - Ban Tu Thư Nghĩa Thục)

Các thổ địa thấy lão giao nổi cơn giận dữ, lại biết biển bức lai lịch không nhỏ, ở vào thế hai mặt đều khó xử. Họ đưa mắt nhìn nhau, không dám nói một lời. Lão giao tức giận, nói :
- Các ngươi không nói tiếng nào, có phải cho rằng lão giao ta đạo lực không bằng con chuột già nhỏ xíu ! Các ngươi chỉ sợ chuột già, mà không sợ ta hả ? Được ! Được ! Các ngươi đã coi thường ta, ta không thèm nói nữa, mà cho các ngươi biết tay !
Giao long nổi giận đùng đùng, rút ra một cây đao có ba mũi nhọn. Đó là sợi râu hắn bứt trên cầm, luyện thành. Đao vừa rút ra khỏi vỏ, liền có muôn đạo hàn quang, phả vào mặt người, lạnh buốt. Lão giao đưa đao lên ngang mi, định dụng võ. Các thổ địa thấy vậy, run cầm cập, đứng sát lại với nhau, cùng kêu lên :
- Đại vương bớt giận, cho thổ địa chúng tôi được trần tình sự việc thật rõ ràng.
Lão giao cầm ngang cây đao, nói giọng giận dữ :
- Mau nói đi ! Nói đi !
Các vị thổ địa thấy lão giao không biết lý lẽ, mới bàn bạc với nhau một hồi. Trong đám, có một người lanh trí nghĩ rồng là vua dưới nước, các loài vật dưới đó đều thuộc quyền rồng chỉ huy. Lại nghe nói biển bức này chơi với lão long ở Quán Khẩu rất thân, chi bằng ta mượn thanh thế lão long, hù dọa giao long, coi hắn đối phó thế nào ? Nghĩ vậy, liền mỉm cười, nói :
Đại vương bất tất phải ra oai, con dơi tầm thường kia làm sao có thể là đối thủ của đại vương được ? Thổ địa chúng tôi bị nó sai khiến, lòng chẳng khâm phục chút nào. Nhưng tổ sư của nó là Văn Mỹ chân nhân là một vị thượng tiên đầy pháp lực. Gần đây nó lại chơi rất thân với lão long ở Quán Khẩu, thường qua lại với nhau, rất đằm thắm. Chúng tôi cũng muốn dựa oai đại vương, phá hủy miếu thờ, đuổi nó về núi, nhưng chỉ sợ Văn Mỹ chân nhân nghe biết chuyện, thì nguy. Vả lại long thần Quán Khẩu ỡ gần xịch đây, nghe được bạn ông ấy bị ức hiếp, ắt tới giúp đỡ. Ông ấy là chúa các loài thủy tộc, thế lực rất mạnh, vạn nhất nổi cơn thịnh nộ, chỉ cần chuyển mình một cái là có thể dời non lấp biển, sẽ khiến âm, dương ba cõi chẳng được an toàn. Lúc đó, chẳng những thổ địa chúng tôi phải chết, mà đại vương và nhân dân bản địa cũng không tránh khỏi tai họa !
Thổ địa nói vậy, tưởng rằng đã rào trước đón sau, thật chu toàn, nào ngờ câu nói đó lại xúc phạm tới lão long, khiến hắn nổi giận đùng đùng. Chưa nghe dứt câu, hắn đã hét lên một tiếng, chấn động tới núi cao, còn đám thổ địa hoảng hồn, chui xuống đất mất biệt. Lão giao chẳng thèm để ý tìm kiếm thổ địa đó, hầm hầm tiến vào trong miếu, ra tay đập pho tượng biển bức nát như cám, lại phá miếu tan hoang, chỉ còn đống gạch vụn.
Trong khi đó, biển bức tới cửa biển thăn bạn lão long. Hai người đều biến thành đạo nhân, tìm tới những nơi có cây, có hoa trên bờ biển, đi rong chơi cho thư thái tâm hồn. Đang lúc hứng thú như thế, biển bức chợt thấy rúng động trong lòng, ớn lạnh trong mình, mới nói với lão long :
- Thưa sư huynh, tiểu đệ cảm thấy không được thư thái, trái tim dường như trống trải, không yên chút nào. Chẳng lẽ trong miếu tiểu đệ đã xảy ra chuyện gì ?
Lão long nghe vậy liền cười, nói :
Sư huynh (1) đúng là gan nhỏ, đa nghi. Khoan nói sư huynh là người lòng dạ hiền tử, tính tình đôn hậu, người địa phương ai cũng kính phục, lễ bái, dù cho có yêu ma, quỉ quái ganh tị với sư huynh chăng nữa, kẻ nào lại không biết sư huynh cùng tiểu đệ có mối giao tình mật thiết ? Ở một dải đất địa phương này, ai mà không biết uy danh tiểu đệ ? Đứa nào đắc tội với sư huynh là đắc tội với tiểu đệ, tiểu đệ sao chịu buông tha cho nó ? Có lẽ tại lúc này khí trời oi ả sư huynh chịu không nổi thời tiết, nên cảm thấy khó chịu đấy thôi. Chúng ta là người tu đạo, việc sinh tử còn không chế ngự nổi chúng ta, huống gì là thứ bệnh xoàng ? Sư huynh nên phóng tâm, đừng lo sợ chuyện không đâu.
-------------------
(1) Hai người bạn này tự coi ngang hàng nhau, gọi người đối thoại là sư huynh, tự xưng sư đệ; người kia cũng gọi trả lại như vậy, chứ không dám nhận vai anh, gọi người kia là em.

Biển bức nghe vậy, nói :
- Chẳng giấu gì sư huynh, tiểu đệ vâng lệnh thầy, ở đây thụ hưởng hương hỏa. Lúc đó, sư tôn có dặn dò, bảo thời hạn tiểu đệ ở đây không quá một ngàn năm. Nay tính lại, thì thấy thời hạn không còn sai bao nhiêu, vì thế tiểu đệ cứ đêm ngày lo nghĩ, sợ rằng có chuyện gì xảy ra ngoài ý muốn chăng ? Tiểu đệ không phải  kẻ phàm phu, tham luyến lợi lộc đâu. Vả chăng thời hạn hường thụ hương khói đã mãn, đây là lúc tiểu đệ trở về núi, theo hầu sư tôn, mong sớm có ngày chuyển sang hình người, hoàn thành đại đạo Thứ hư vinh trước mắt đây, tiểu đệ không chút luyến tiếc. Nhưng vạn nhất những kẻ thị tùng trong miếu gây ra chuyện lộn xộn gì, há chẳng phải tội đổ cho người chủ hay sao ? Đây là chuyện rất lớn, tiểu đệ phải vô cùng cẩn thận. Hơn nữa, nếu quả thật xảy ra chuyện, ắt hẳn từ nay tiểu đệ phải chia tay cùng sư huynh, làm sao tiểu đệ yên tâm cho được ? Từ khi gặp nạn hồng thủy, tiểu đệ từ trung nguyên lưu lạc đến đây, cũng chưa bao giờ có cảm giác kỳ lạ như lần này. Nếu nói là bệnh xoàng, thì chúng ta là người tu đạo, dứt khoát không bao giờ mắc phải. Thiết nghĩ chuyện này phải có một nguyên do nào đó, chỉ tiếc rằng chúng ta đạo lực còn nông cạn, không dự biết trước mà thôi. Lúc này không còn sớm sủa gì nữa, tiểu đệ xin tạm biệt sư huynh, trở về xem thử tình hình ra sao. Nếu quả thật không có chuyện gì, ngày mai tiểu đệ sẽ tới báo cáo cùng sư huynh.
Lão long nghe vậy, gật đầu ưng thuận, nhưng cười thầm trong bụng là biển bức quá nhát gan. Đang trầm tư suy nghĩ, bỗng thấy vài ông thổ địa chạy tới, hành lễ cùng hai người, rồi nhìn ngay mặt biển bức, nói :
- Tôn thần có biết biến cố xảy ra trong miếu hay không ?
Câu nói chưa dứt, đã thấy biển bức trợn trừng hai mắt, há hốc miệng. Ngay cả lão long cũng kinh hãi, vội hỏi :
- Mấy vị nói gì? Trong miếu có yêu nhân nào vậy ? Hay lả bọn thị tùng ra ngoài gây họa?
Các vị thổ địa đem chuyện đầu đuôi bẩm báo, lão long tức thì nổi giận:
- Yêu súc này thật đáng ghét ! Nó không biết ta lợi hại ra sao ư? Sư huynh tạm ẩn thân một bên, để xem tiểu đệ thu thập con yêu này. Thứ nhất : để sư huynh hả giận, thứ hai : để ngăn cản, không cho nó ở đây quấy nhiễu, làm hại dân chúng, thứ ba : để nó nhận biết bản lãnh của lão long này, coi nó còn dám cuồng ngôn hay không ?
Biển bức vốn là người biết an phận thủ thường, lại biết kỳ hạn hưởng thụ hương hỏa của mình sắp mãn, sớm muộn gì cũng phải về núi, gặp được cơ hội này thật quá tốt, để trở về bên sư phụ, nghe lời chỉ dạy. Hà tất phải gây chuyện chống đối người khác làm chi ? Lão long lại không chịu kiến giải đó. Anh ta là người đàn ông thẳng thắn, rất nóng tính. Dặn dò biển bức vài câu, không đợi anh kia trả lời lão long lập tức xuất hiện nguyên hình, bay lên không trung. Vừa chuyển động một cái, đã tới ngay chỗ miếu Phúc Đức, gặp lúc lão giao đập phá pho tượng vừa xong, nộ khí chưa nguôi, còn đứng đó chỉ trời, vạch đất, chửi mắng trước mặt đám đông. Lão long thấy vậy, giận quá chừng, từ giữa không trung, thét mắng:
- Yêu ma kia, không được vô lễ ! Có gia gia mày ở đây !
Lão giao không ngờ lão long xuất hiện vào lúc này, tỏ vẻ kinh hãi, vội xuất hiện bản thể, nhảy lên mây, cầm cây đao ba mũi nhọn, xông lại đánh lão long. Còn rồng này có thân hình quá to lớn, dập đầu một cái sức mạnh như núi Thái Sơn đổ xuống, quẫy đuôi một cái, thế mạnh như gió to mưa lớn, nhổ bật rễ cây. Lão giao thân thủ nhanh nhẹn, nhảy lên nhảy xuống, tránh né được cả. Hai bên đánh nhau một trận trời sầu đất thảm. Đánh đã lâu, mà không phân cao thấp. Lão long đột nhiên nổi hung, há miệng phun ra một viên linh đan, biến thành ngàn, vạn trái cầu lửa, vây quanh lão giao. Lão giao vốn là con mãnh thú ở dưới đáy nước, bình sinh đã quen với nước, thấy thế lửa quá mạnh, liền tính chuyện lấy nước khắc chế lửa. Nó đâu có biết linh đan của lão long là do hấp thụ tinh hoa của mặt trời, mặt trăng chế thành, khi phun ra thì đó là lửa tam muội của bản thân lão long, nước bình thường làm sao có thể tiêu diệt được ? Lão giao tận dụng khí lực, trút hết phân nửa số nước biển, hy vọng có thể diệt được thần đan. Kết quả trái ngược, chẳng khác nào lửa cháy đổ thêm dầu, chỉ càng giúp thêm oai cho lửa, đốt cháy vô số dân chúng, và nhiều nhà cửa, ruộng nương.
Lão giao biết địch không lại, liền hóa thành một con cá thu, ẩn mình giữa những đợt sóng, trốn xuống đầm sâu. Lão long tìm kiếm hồi lâu, tìm không ra, bất giác nổi cơn hung dữ, không thèm suy tính cho mất công, thi hành ngay một biện pháp man rợ : chuyển từ nơi xa về một quả núi đất rất lớn, thả xuống dưới biển. Cả một trái núi cao đè xuống như vậy, lo gì lão giao chẳng bị đè chết ?
Phiếu Diểu chân nhân kể tới đây, Hỏa Long chân nhân bất giác cười rộ :
- Thì ra học trò của chú là con rồng ngốc nghếch, to gan mà thô lỗ. Anh ta dã suy nghĩ không tới. Giả sử như Quán Khẩu được san thành đất liền, lão giao quả nhiên bị đè chết, vậy còn chỗ nào cho lão long chui rúc ? Không thể nói anh ta đã tính trước rất chuẩn rằng sau khi biển được san bằng, thì chú là thầy anh ta sẽ dẫn anh ta đi Đông Hải, nên chỗ cho anh ta chui rúc không còn cần thiết nữa.
Phiếu Diểu cười, nói :
Vậy nên lúc này tôi mới nói biện pháp của anh ta là biện pháp man rợ. Lão long thăm dò một hồi, nhận rằng lão giao đã bị đè chết ở dưới đáy biển, nhưng bản thân anh ta sém chút nữa không giữ được tính mạng.
Nguyên địa phương đó thuộc quyền cai trị của thần Nhị Lang, mọi việc đều do ông ta xử lý. Lúc đó, được tin giao và rồng tranh chấp nhau, nước biển dâng lên dìm chết dân chúng, Nhị Lang vội thống lĩnh đại binh, đi trấn áp. Nếu ông ta tới trễ một bước, nước biển đã bị lão long san lấp hết phân nửa rồi. Nhị Lang nổi giận, nói:
- Độc giao (1) bị núi đè chết, không nói tới nữa. Nhưng lão long phạm tội, tội còn lớn hơn của độc giao nữa ! Việc này không xét kỹ để nghiêm trị, trong tương lai, những việc biển xanh biến thành ruộng dâu cứ tùy thời mà xảy ra, mà bản thân ta cũng chẳng còn chút oai quyền nào.
Lập tức hạ lệnh tìm kiếm lão long, bắt về.
Vừa nghe Nhị Lang đem binh tới, lão long vội trốn ra khỏi biên cảnh. Nhân dịp đó, Phiếu Diểu chân nhân mới dẫn anh ta đi Đông Hải, nào ngờ chỉ trong giây lát, anh ta gây ra vụ đại náo thiên cung.
Nghe đến đây, Hỏa Long chân nhân cười, bảo:
- Vậy mới nói, anh em ta đúng là "cùng bệnh thương nhau”. Tổ sư đã đem hết trách nhiệm việc này trao vào tay anh em ta, mà chúng ta gặp phải hai nghiệt súc này, tính cách man rợ cũng y như nhau. Chúng gây tai họa, sau này có báo ứng, chúng tự nhận lấy thôi. Chẳng qua chúng ta mang tiếng làm thầy mà ngay cả học trò mình cũng không chế phục nổi, các vị sư huynh sư đệ nghe biết chuyện này, sao khỏi chê cười chúng ta ?
----------------
(1)    Giao long ác độc

Phiếu Diều chân nhân cười, đáp :
- Chính thế !
Rồi ông hỏi thăm chuyện Phi Long đã làm ở sông Tiền Đường, Hỏa Long chân nhân nhất nhất kể lại, rồi nhân đó cười, nói :
- Hai đứa nó trái lời thầy, lẽ ra phải trừng trị đích đáng, mới giữ nổi qui củ chặt chẽ trong đám học trò chúng ta. Chết một nỗi, lúc này là lúc cần dùng tới chúng, đành phải gọi chúng tới, hăm dọa vài câu, khuyên chúng hết lòng phò tá các vị vua chúa trên trần, để lấy công chuộc tội.
Phiếu Diểu chân nhân cười, nói :
- Ngày nay các vị quân vương ở hạ giới thường hay nhắc tới quyền thuật, thần tiên chúng ta chỉ biết lấy lễ đãi người, lấy lòng thành tiếp xúc với vật, dùng làm chi những thứ trá thuật như thế ?
- Cái đó gọi là biện pháp tùng quyền. Nếu không làm vậy, sao có thể khiến hai tên súc sinh cúi đầu, cụp tai, biết thận trọng trong công việc, trước khi đi nhận chức ?
- Cái gì mà tùng quyền với không tùng quyền ? Tôi không hiểu nổi. Đó chẳng qua chỉ là những lời bịa đặt để lừa gạt người ta thôi!
- Anh em ta làm thầy mà không quản nổi học trò, lúc này đã lâm vào hoàn cảnh bất đắc dĩ, đành phải quyền nghi một lần xem sao.
Không bao lâu, đã tới trước mặt biển, Hỏa Long chân nhân bắt quyết gọi rồng. Hồ Phi Long vội biến thành một cô gái, ra khỏi biển gặp thầy. Vừa thấy mặt sư tôn, cô vừa thẹn vừa ăn năn hối lỗi, phục xuống đất vái lạy, nước mắt như mưa. Phiếu Diểu chân nhân cũng bắt quyết gọi Bình Hòa tới. Hai ông thầy chống kiếm đứng trên mặt nước, mỗi đợt sóng biển tràn tới đều biến thành những đóa hoa sen, vây quanh hai ông tiên, thêm phần trang nghiêm. Hai rồng phủ phục trên mặt nước, tự biết lỗi, chẳng dám ngững đầu. Hai ông thầy thét mắng :
- Hai người đã biết tội chưa ?
Phi Long chỉ khóc lóc, không dám mở miệng. Bình Hòa quật cường hơn, ngửng đầu lên, tố cáo chuyện giao long hung hăng, bạo ngược. Phiếu Diểu chân nhân phất tay, nói :
- Ta đã biết rồi, không cần ngươi phải giải thích !
Bình Hòa bị thầy mắng, lại cúi đầu lặng im. Phiếu Diểu chân nhân quay nhìn sư huynh, lên tiếng than thở :
- Xét cho cùng hai đứa nó còn có lòng có dạ, chưa đến nỗi nghĩ sằng, làm càn. Chẳng qua chúng chỉ làm những việc vượt quá phận mình, mới gây nên tội lỗi lớn lao. Còn vụ đại náo thiên cung, anh em cũng không kiểm soát nổi chỉ sợ chúng sẽ không giữ nổi tính mạng toàn vẹn thôi.  Các ngươi cậy có chút pháp thuật nhỏ nhoi, đã cho mình là nhất thiên hạ, không ai bằng mình nữa sao ? Há không biết trong chín châu, muôn nước, ở hải đảo ba cõi, còn có nhiều người tài đức, trội hơn các ngươi ? Tự phụ pháp lực để coi thường người khác, rốt cuộc rồi cũng chết vì pháp thuật thôi ! Nên biết rằng pháp thuật chỉ là một công cụ giúp các ngươi phòng thân, hoặc dùng vào việc cứu người giúp đời chứ không cho các ngươi lăng nhục, khinh miệt người khác, trái luật, phạm thượng. Trước đây. lúc chúng ta hóa độ cho hai ngươi, đã từng dặn dò những gì ? Sao dám cãi lời thầy, gây nên đại họa như thế ? Chiếu theo qui luật của tiên gia, các ngươi đã mang tội tự phụ, không coi ai là bậc trưởng thượng, bất tuân lệnh thầy, cứ một mực theo bản tính mà làm càn ! Các ngươi còn gì để nói nữa đây ?
Phi Long vốn người trung hậu, chỉ biết cúi đầu nhận tội, không dám nói một câu. Hỏa Long chân nhân lại cười, hỏi Bình Hòa :
- Cháu nghĩ thế nào ?
Bình Hòa nghiêm sắc mặt, đáp :
- Thưa sư phụ và sư bác nếu hai vị không thương yêu chúng con, hôm nay đã chẳng tới cứu chúng con. Mà hai vị đã tới cứu, chắc hẳn tội chúng con chưa đến nỗi phải chém giết. Việc này phân xử thế nào, chắc hẳn hai vị sư tôn đã có giải pháp, chúng con cũng không nghĩ ra nổi ! Dầu có phải chết, chúng con cũng cảm kích công ơn hai vị sư tôn.
Câu nói đó rất đắc thể. Hỏa Long chân nhân vốn người nhân từ, nghe được liền cất tiếng cười vui vẻ, Phiếu Diểu chân nhân cũng cười theo, nói :
- Các con đã biết tội, từ nay phải để tâm học tập, giữ gìn ký cương, không được tùy tiện làm càn nữa !
Hai rồng đều khấu đầu, nói :
Đội ơn sư tôn rộng lớn như trời biển ! Nếu hai chúng con còn dám cậy phép thuật làm càn, tình nguyện chết dưới lưỡi phi kiếm của sư tôn !
Hai ông thầy nghe vậy, tỏ ý hài lòng, khuyên nhủ học trò mình thêm vài câu, trò nào đứng gần bên thầy nấy, dạ dạ xin vâng. Hai thầy mới bảo hai trò làm lễ tương kiến, nhận nhau là sư huynh, sư muội.
Mọi người đang vui vẻ trò chuyện, chợt thấy một đám mây ngũ sắc từ phía Đông Bắc tà tà tiến lại. Hai ông tiên ngửng nhìn, cất tiếng cười :
- ông nguyệt lão tới đây làm gì vậy ?
Câu nói chưa dứt, nguyệt lão đã từ trên mây đáp xuống mặt biển, thi lễ cùng hai ông tiên.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:36:19 bởi bevanng >

bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 06.07.2008 15:22:12
Hồi Thứ 9

Nhờ trời thương,  thụ phong long vương.
Sán ông nuôi ốc,  giả chế thịt ốc.

Nguyệt lão từ trên mây đáp xuống, gặp mặt hai ông tiên Phiếu Diểu và Hỏa Long, hai ông tiên mới hỏi :
- Đạo hữu vì chuyện gì tới đây ?
Nguyệt lão cười, đáp :
- Việc gì bần đạo cũng không để ý tới, chỉ chuyên quản lý việc hôn nhân đại sự của con người, ở khắp ba cõi. Hiện nay học trò của hai vị có duyên phận vợ chồng, nên bần đạo mới phải tới đây.
- Sao hai ông còn chưa mời ta một chén rượu mừng ?
Hai ông tiên hiểu được ý tốt của Nguyệt lão, đều cười :
- Thì ra vì vậy mà phiền đạo hữu phải vất vả tới đây ! Nhưng học trò chúng tôi thuộc loài rồng, chẳng lẽ chuyện hôn nhân của chúng cũng về tay đạo hữu quản lý ?
- Tất nhiên là vậy rồi ! Bần đạo chấp chưởng mọi chuyện hôn nhân không phân biệt là tiên, là Phật, là người hay vật.
Nguyệt lão nói rồi, mò trong tay áo, rút ra một cuốn sách, đưa cho hai ông tiên coi, và nói :
- Mời hai vị xem thử, có phải danh tính hai vị lệnh đồ có chép trong đó hay không ?
Hai ông xem qua một lượt, quả nhiên thấy chép rằng : "Bình Hòa và Hồ Phi Long, vốn thuộc loài rồng, về sau chuyển sang thân người, vào ngày ấy, tháng ấy, năm ấy, kết thành vợ chồng". Hai ông tiên xem xong, đưa trả sách cho Nguyệt lão. Gọi hai đồ đệ tới ra mắt Nguyệt lão, thi hành đại lễ. Nguyệt lão tươi cười nói : - “Không dám ? Không dám !", và nói tiếp : - Trong tương lai, hai vị sẽ nhận chức, làm vua của thủy tộc, cai quản bốn biển, lại diên trì dòng giống rồng, chia nhau ra cai trị các biển, tiền trình rộng mở, tôi đâu dám nhận đại lễ của hai vị !
Hai ông tiên cười, bảo :
- Chuyện tương lai, sau này hãy nói. Hiện giờ đạo hữu là ông mai, sao có thể bỏ được lễ tạ ông mai ?
Nguyệt lão không biết làm sao, đành nhận lễ. Nguyệt lão bảo hai người vái trời đất, vái hai vị sư tôn, sau đó vợ chồng vái nhau, hoàn thành một mối lương duyên. Hỏa Long chân nhân lại cười, nói:
- Học trò chúng tôi nên duyên phận, là nhờ đạo hữu vất vả se duyên, một chén rượu nhạt chưa đủ tỏ lòng tôn kính. Chẳng bao lâu, chúng nhận chức, triều bái hai vị hoàng đế tiên và phàm, xây dựng cung thất, sẽ có bữa tiệc khoản đãi ông mai.
Nguyệt lão nói :
- Những việc đó phải nhờ hai vị lão sư lo liệu cho học trò. Tiệc mừng hãy tạm ghi nhớ, đợi tới lúc đồ đệ của hai vị nhận sắc phong, bần đạo sẽ tới chúc mừng.
Nguyệt lão nói rõ, xin cáo từ. Sau khi ông đi khỏi, hai vị sư tôn chỉ dẫn cho học trò :
- Hiện nay một dải đất phương Bắc, nước lớn đã dâng lên. Vị vua trên trần gian xưng hiệu là Ngu Thuấn, là một vị thánh quân rất mực nhân ái. Vì nạn hồng thủy, ngài lo lắng đêm ngày, đã sai hai vị trung thần là Hạ Vũ và Bá ích lo việc trị thủy. Hai con phải giúp đỡ mấy ông ấy, phân chia trách nhiệm bằng cách trị hải. Khi hai thầy tới đây, đã nhờ tổ sư xin với thiên đình, ban sắc mệnh xuống, nên chẳng bao lâu ngọc chỉ sẽ tới đây thôi. Sau khi hai con tạ ơn, đi nhận chức rồi, chúng ta sẽ dẫn hai con, tới họp với đám người trị thủy của ông Hạ Vũ, để từ nay về sau nước và đất liền phân biệt rạch ròi, mỗi bên lo phần việc của mình.
Hai vị tiên đang nói, bỗng nghe giữa không trung có tiếng nhạc vang lừng. Mọi người ngửng đầu nhìn, quả nhiên thấy nhiều tiên quan cưỡi mây bay đến. Hai vị tiên vội dẫn dắt học trò, phủ phục trên mặt biển. Các tiên quan ở trên không trung, cách xa mặt biển hơn mười trượng, tuyên đọc ngọc chỉ, đại ý nói rằng :
“Tiên phàm xa cách hai đường,  nước và đất liền phân chia rạch ròi. Nay hạ giới mắc nạn hồng thủy các quái thú tha hồ gây độc, nhưng đã có thánh đế chốn phàm trần phái các vị lương thần chuyên lo việc đó. Còn đối với việc của các thủy tộc, trẫm phải đích thân kén chọn nhân tài, hiệp lực cùng vua tôi chốn phàm trần, hai bên chia nhau ra mà tiến hành công việc, mới giải quyết xong được thủy nạn, khiến quái thú phải trốn đi xa, mà muôn dân được an cư lạc nghiệp. Nay hai vị tổ sư Nguyên Thủy và Lão quân bảo cử Bình Hòa  và  Hồ Phi  Long đảm đương nhiệm vụ này. Hai khanh tuy trước kia có  lỗi, tạm thời không cứu xét tới, mà sắc phong cho Bình Hòa làm tứ hải long vương, Hồ Phi Long làm vương phi. Lại gia tăng thiên ân, chấp nhận cho con cháu hai người sau này đều được cai quản các biển lớn, nhỏ,và đều được xưng là long vương, vĩnh viễn không thay đổi. Hai ngươi phải nên gột rửa lòng tà, báo đáp thiên ân, lập nhau công trạng để che lấp tội trước".
Hai ông thầy tiếp nhận sắc chỉ, lại dẫn dắt hai học trò, vọng lên không trung mà bái tạ, đưa tiễn các tiên quan. Sau đó, hai học trò lại tạ ơn thầy, và hai ông thầy dặn bảo :
- Từ nay hai con phải luôn luôn cố gắng, thường xuyên thận trọng. Không nên vì nghĩa khí nhất thời, mà làm tổn hại tới dân lành, không được ỷ vào ngôi cao, mà xem thường người khác. Thường giữ lòng nhân ái, răn trừng thói kiêu căng, tu đức lập công, ắt che lấp được lỗi cũ, mà hưởng phúc về sau. Hãy nghiêm túc hãy gắng gỏi, chớ quên lời giáo huấn này !
Hai học trò cúi đầu thụ giáo, hai ông thầy lại nói :
- Nay là lúc các con lên triều bái Ngọc đế. Chúng ta sẽ dẫn hai con lên trời, nhưng không thể nói thay hai con được đâu. Hai con lại từng phạm lỗi, lúc tấu đối phải giữ gìn ý tứ, không vượt qua lễ tiết, nhưng cũng bất tất phải vì chuyện cũ mà sinh lòng hổ thẹn.
Hai học trò lại dạ dạ, tuân lời dạy.
Hai ông thầy dẫn học trò đi. Trước hết tới động Hạc Minh của Hỏa Long chân nhân, thuộc về Duyện Châu, để thay triều phục. Hai người mặc quần áo mới, tay cầm hốt ngọc, toàn thân sáng rỡ, thần thái tăng cao. Hai người này sẵn có túc căn, vả lại công hạnh viên mãn, nên được như thế, chứ không hẳn chỉ nhờ vào bộ quần áo đẹp. Hai ông thầy tỏ vẻ hài lòng, lại dẫn họ lên trời.
Tới Nam thiên môn, đã thấy bốn vị thiên tướng suất lãnh thiên binh ở đó canh cửa. Hai vị chân nhân lại gần, bày tỏ ý mình, bốn vị thiên tướng khom lưng vái, mời vào. Tức thì có Lý Trường Canh tiến ra nghênh đón, chào hỏi hai ông tiên Hỏa Long, Phiếu Diểu, rất nên thân thiết. Hỏa Long chân nhân thay mặt hai đồ đệ, ngỏ lời xin lỗi về tội mạo phạm trước đây. Lý Trường Canh nắm tay hai ông tiên, cất tiếng cười ha hả :
- Hai vị đạo huynh cũng khéo khách sáo ! Chuyện đã qua, hà tất phải nhắc tới. Vả lại, không biết là không tội, Thượng đế đã ra ơn tha tội cho học trò hai vị, gia phong vương tước, bần đạo sao dám giận hờn nữa chứ ?
Hai bên khiêm nhượng một hồi, thầy và trò theo chân Lý Trường Canh tiến lên cung khuyết. Lý Trường Canh lại vào trong bẩm báo, liền có chỉ truyền cho thầy trò vào triều kiến. Hỏa Long, Phiếu Diểu lại dặn dò hai đồ đệ thêm vài câu, tất cả sửa lại mũ áo nghiêm chỉnh, cầm hốt ngang bụng, kính cẩn tiến vào sân chầu.
Ngọc đế ngồi cao trên điện, hai bên có các tiên quan lớn nhỏ, chia thành hai ban đứng hầu.
Bốn thầy trò cất tiếng hô vang : - "Thánh thọ vô cương !", phủ phục trước bệ. Ngọc đế truyền chỉ ủy lạo hai vị chân nhân Hỏa Long, Phiếu Diểu, khuyên nhủ vợ chồng Bình Hòa vài câu, thầy trò vội khấu đầu lạy tạ theo nghi thức.
Lúc tan chầu, có nhiều vị tiên quan tiến lại thăm hỏi hai vị chân nhân, kể lể tình giao hữu cũ. Hai chân nhân bảo học trò bái kiến các tiên quan, xin phép cáo từ vì còn phải đi triều bái Nguyên Thủy, Lảo Quân, các vị đế quân và các kim tiên ở nhiều nơi.
Ra khỏi Nam thiên môn, trước hết họ tới núi Côn Luân thăm Nguyên Thủy thiên tôn, sau đó vào cung Bát Cảnh thăm Lão Quân tổ sư. Lão Quân thưởng cho vợ chồng Bình Hòa mỗi người một bộ triều phục long cung gồm áo bào, mũ miện. Lại ban cho Bình Hòa một thanh kiếm báu, cho Phi Long một cây thần châm. Hai thứ đó đều cố thể lấy sinh mạng của yêu ma ở cách xa trăm dặm, lại tùy tâm sử dụng, biến hóa khôn lường. Hai người học trò mừng quá, khấu đầu tạ ơn.
Lão Quân dặn bảo Phiếu Diểu :
- Một vùng đất Quán Khẩu từ lục địa biến thành biển, lại từ biển hóa ra đất liền, việc biến đổi "biển xanh nương dâu” đó đều có số định trước. Việc dời non lấp biển, tuy là hành vi lỗ mãng, xét cho cùng không hẳn là tội của Bình Hòa đâu. Tuy nhiên người dân có hai nhu cầu thiết yếu là muối và nước. Ở những nơi đất nhiều, nước ít, hoặc quá xa biển cả, người dân sống cũng khó khăn. Con hãy xuống phàm trần, hợp đồng cùng vua chúa dưới trần thế, dùng phép thuật tạo một giếng muối, để dân có muối mà ăn. Không bao lâu, ta cũng xuống hạ giới một phen, để kết thúc một đoạn tục duyên (1).
Ngoài ra, Đông Hoa sư huynh của các con, e rằng cũng phải xuống trần một chuyến. Nhưng phải là sau khi việc trị thủy ở trung nguyên hoàn tất, chứ lúc này còn sớm quá.
Tổ sư lại nói với Hỏa Long chân nhân :
- Con thiết lập một đập nước ở sông Tiền Đường, ngăn ngừa được nhiều yêu ma, là tốt lắm. Nhưng trong tương lai còn có một con yêu giao có bản lãnh rất cao, có tài vượt qua đập nước. Con yêu này một khi xuất hiện, hại người không ít. Con phải thời thường để tâm, tìm đủ cách trấn giữ nó, đừng cho nó tàn hại sinh linh, có vậy mới lập nên công đức cực lớn.
Hai vị chân nhân xin ghi nhớ lời thầy, thấy Lão Quân không nói thêm điều gì, mới dám từ biệt, dẫn học trò đi thăm nhiều nơi khác, sau cùng tới chỗ Đông Hoa đế quân.
Đế quân cùng hai chân nhân có giao tình rất tốt, sai bày tiệc thịnh soạn khoản đãi bốn thầy trò. Trong tiệc, đế quân hỏi tới chuyện phàm trần, hai chân nhân cũng nói sơ lược vài câu. Đế Quân nói:
- Tôi từ hải ngoại đắc đạo, liền lên tiên giới, thường ân hận chưa được thấy cảnh văn vẻ cường thịnh của Trung Quốc. Sau này, nếu gặp cơ duyên, chắc phải xuống đó du ngoạn một phen. Hai vị đạo huynh thấy thế nào ?
Hai vị chân nhân nghe vậy, bất giác ngạc nhiên, vội hỏi :
- Thiên phủ là chốn cao thượng, tôn quí nhất trong các giới, đế quân lại đã vinh nhậm thiên chức, sao còn nghĩ tới chuyện rong chơi cõi trần ? Xưa nay thánh nhân không có nói giỡn chơi bao giờ, xin đế quân nghi lại.
Đế quân chưa hiểu ý hai vị chân nhân, buột miệng nói :
- Khó gì chuyện đó ? Xưa nay, các vị tiên, Phật cũng nhiều lần du hí chốn hồng trần, sao cô gia lại không thể ?
----------------------------
(1) Lão Tử, tác giã sách "Đạo Đức Kinh”,  là một đại triết gia Trung Quốc, đồng thời lại là tổ sư của Đạo giáo, có một xuất xứ rất mơ hồ. Rất nhiều sách chép về ông, mỗi sách chép một cách khác ngay cả tên thật của ông là gì cũng không ai biết. Sau này, đạo Phật phổ biến ớ Trung Quốc, người ta lại đặt ra chuyện ông là Phật hóa thân. Từ đời Đường, vua Đường vốn họ Lý, mơ thấy Lão Tử (tên Lý Nhĩ) hiện về, xưng là tổ nhà Đường. Những chuyện như thế không có bằng cớ xác thực, người ta bịa ra với một mục đích nhất định. Tác giả sách Bát Tiên Đắc Đạo đã khéo kết dính những chi tiết đó, ở những hồi sau.

Hai chân nhân thấy đế quân quá chấp mê, không dám khuyên can nữa, đành xin cáo từ. Trong lúc đi đường, hai ông còn bàn tán chuyện đế quân, không hiểu vì sao lại động lòng trần. Thảo nào tổ sư vừa rồi có nhắc tới chuyện Đông Hoa đế quân sẽ xuống phàm trần. Thế mới biết tu đạo tới chỗ tối cao như đế quân mà vẫn không tránh khỏi có lúc nghĩ sằng, tham luyến cõi trần, huống gì là người khác ? Nói tới đó, mọi người đều than thở. Đột nhiên, Phi Long nói xen vào :
- Xin hỏi sư tôn, vừa rồi tổ sư có nói : "Không bao lâu sẽ xuống trần một chuyến", đủ thấy chuyện xuất nhập ba cõi là việc các vị thần tiên thường làm, tại sao sư phụ lại quá lo lắng cho Đông Hoa sư bá ?
Hai ông thầy đều nói :
- Các con chưa hiểu được đâu. Tổ sư là ông tổ của quần tiên ở khắp muôn nước, chín châu, yêu ma cỡ nào cũng không phá hoại nổi pháp thân của ngài, không mê hoặc nổi đạo tâm của ngài. Ngài muốn xuống cõi trần, là vì có việc nhân quả cần giải quyết cho tròn vẹn, đi xong lại về, đâu cần người khác phải lo cho ngài ?
Còn như Đông Hoa sư bá, tuy rằng đạo hạnh chẳng nông cạn, làm sao so sánh với tổ sư được ? Trước đây, Ngọc đế nhân vì nhìn thấy cây “thất bảo thụ" dưới hạ giới, chiếu ánh sáng rực rỡ lên tận chín tầng trời, ngẫu nhiên động lòng phàm, liền xuất hồn, rơi xuống phàm trần nhiều kiếp, tâm trí hôn mê, sém chút nữa không thể quay về trời. Cũng may có các vị thần tiên phò tá rất đông, xúm vào bảo hộ, tùy lúc, tùy nơi, chỉ điểm cho ngài, mới thoát kiếp nạn. Ngọc đế còn nguy hại như thế, huống gì Đông Hoa đế quân, huống gì những người thua kém đế quân ?
Hai người học trò nghe nói, đều sợ hãi, nói :
- Đệ tử xuất thân ti tiện, nghe đạo chưa được bao lâu, chẳng biết trời cao đất dầy là gì. Nay nghe được lời pháp dụ của sư tôn, mới biết bản thân chẳng có chút tài năng. Từ nay về sau, càng phải kiềm thúc bản thân, để khỏi rơi vào kiếp luân hồi.
Hai ông thầy mừng rỡ, nói :
- Các con biết khắc kỷ như thế, tiền trình ắt rộng mở, không có giới hạn. Phải nên rèn luyện, tu đức lập công, mới có thể chuyển hồi khí vận.
Hai học trò dạ dạ xin tuân lời thầy.
Bốn thầy trò đi tham kiến các vị thần tiên trên thượng giới xong, mới trở về hạ giới. Bấy giờ, Ngu Thuần kiến đô ở chỗ mà ngày nay thuộc về địa phận tỉnh Sơn Tây. Chỗ đó, lúc bấy giờ còn xưng là thủy quốc. Thực ra, đất nước đó chỉ nằm ở hai bên bờ Bắc, Nam của sông Hoàng Hà, còn như vùng đất chung quanh sông
Trường Giang đều là nước Nam Man, hồi đó vẫn chưa thuộc bản đồ Trung Quốc. Lưu vực sông Hoàng Hà toàn là đất thấp. Có lúc, nước sông Hoàng Hà dâng cao, tràn ra khấp nơi, lại đổ vào các con sông nhỏ, như Tế Thủy, Hoài Hà, khiến các sông này cũng bị tràn bờ, chảy lênh láng. Vì thế, toàn thể trung nguyên biến thành thủy quốc. Nhân dân không thể an cư, đành trốn lên các vùng đất cao. Tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa, vùng đất cao đó có rất nhiều loài mãnh thú, như sư tử, hổ, báo, chó sói, gặp người liền cắn xé. Nhân dân không chết vì nước, lại chết vì thú. Cũng may Đế Thuần biết dùng người giỏi, đem trách nhiệm trị thủy trao cho hai ông Hạ Vũ, Bá ích. Hai ông vâng đế mệnh, nhân thấy thế nước quá lớn, nhất thời chưa biết làm sao, mới bàn bạc nhau, ra một bảng văn kêu gọi, ai có ý kiến gì về trị thủy, mau hiến kế cho hai ông. Vừa may, hai vị chân nhân Hỏa Long, Phiếu Diểu, dẫn vợ chồng Bình Hòa trở về, đi ngang qua đó, mới tới yết kiến ông Vũ, Ích, hiến kế sách. Lại có vợ chồng Bình Hòa vừa nhận ngọc chỉ phong làm long vương ở biển lớn, mới giúp đỡ một tay, khơi dòng chảy cho nước rút ra biển.
Mọi việc xong xuôi, hai vị chân nhân đưa tiễn vợ chồng Bình Hòa vô tận đại hải. Từ đó về sau, đất liền và sông biển phân chia ranh giới rạch ròi.
Chuyện Hạ Vũ trị thủy có ghi chép với đầy đủ chi tiết trong thiên "Vũ cống” , đối với sách “Bát tiên Đắc Đạo”  này không quan hệ bao nhiêu, chẳng qua chỉ là bổ khuyết cho nhau thôi.
Nay sách này lại chép tiếp một chuyện nho nhỏ, có quan hệ chút ít với nạn thủy tai nêu trên. Lúc đó ở dưới núi Tung sơn thuộc Hà Nam, có một gia đình nghèo khổ, có ba nhân khẩu, gồm bà mẹ và vợ chồng người con trai, đều làm nghề nông để sinh sống. Bà mẹ là Vương thị, người con trai họ Tôn, tên Kiệt, lấy vợ là Lưu thị. Lúc chồng chết, Vương thị đã luống tuổi ở vậy nuôi con. Và từ ngày ở góa, bà quyết chí bỏ mặn, ăn chay. Bấy giờ gặp nạn hồng thủy, cả gia đình trốn lên núi để lánh nạn. Vương thị tuổi đã cao, lại chịu vất vả đã nhiều năm, thêm chứng phong thấp hành hạ, nên mang bệnh nặng. Sau khi nước rút, trở về nhà cũ, thấy trong nhà chẳng còn đồ đạc gì, cảnh nhà điêu tàn, lòng thêm buồn bực, Vương thị bệnh tình càng thêm trầm trọng. Thôn làng heo hút, không kiếm đâu ra thầy thuốc. Vả lại từ sau thủy hoạn, tiền bạc trong nhà cạn kiệt, lấy đâu ra tiền mả lo thuốc thang ? Vợ chồng Tôn Kiệt, ngoài việc ngày đêm phục thị mẹ, cũng không nghĩ ra được một biện pháp nào để giải quyết. Hôm đó Vương thị như ngọn đèn sắp tắt, phụt sáng lần cuối, bỗng cảm thấy tỉnh táo trở lại, thèm ăn một món gì. Vợ chồng Tôn Kiệt mừng quá, tưởng mẹ đã hết bệnh, khoẻ khoắn trở lại, vội hỏi mẹ thèm ăn gì. Nào ngờ Vương thị món nào cũng chê, chỉ đòi duy nhất một món thịt nhồi ốc.
Nguyên sau khi nước rút, không biết ở đâu lưu lạc tới nhà một con ốc nhồi rất lớn. Lưu thị thấy con ốc này lớn một cách kỳ lạ, mới kiếm một vũng nước sạch, thả con ốc vào nuôi trong đó, thường chỉ cho Vương thị thấy, để ngắm chơi. Có lẽ vì thế mà lúc này bà nghĩ tới con vật thường ngày thưởng ngoạn, mà nẩy sinh ý thèm ăn thịt sống. Tôn Kiệt không cần suy nghĩ, chỉ biết có một điều là mẫu thân thèm ăn, bất kể là chay hay mặn. Trái lại Lưu thị biết rõ đây là lời nói sảng của mẹ chồng, trước khi chết. Bà đã ăn chay hơn mười năm, sao khi không lại đòi ăn thịt ốc ? Vạn nhất ăn vào không tiêu, bệnh càng thêm nặng. Vả lại, những người ăn chay trường lâu năm, nhất đán đổi sang ăn mặn, tội lỗi đổ đâu cho hết ? Vì vậy, chị mới nghĩ ra một giải pháp, ra ngoài tìm kiếm một số vỏ ốc, xối nước rửa cho thật sạch, không còn chút mùi nào,sau đó lấy những món đồ chay như bột im, tầu hủ khô, đâm nát thành tương chao, giông giống như thịt ốc băm nát, đem nhồi vào trong vỏ, hấp lên, mời Vương thị xơi, chỉ nói rằng tuân lệnh mẹ luộc ốc mời mẹ thường thức. Vương thị quả nhiên hân hoan, ăn lên, không hề biết là ốc giả, do người chế tạo. Nào ngờ số thọ của bà cụ đã hết, ăn vào một ngày sau liền qua đời. Vợ chồng Tôn Kiệt khóc lóc, lo việc tống táng. Lưu thị vì thấy mẹ chồng ham ăn ốc mà qua đời, chỉ nói sơ qua chuyện mình làm ốc giả, bảo Tôn Kiệt đem con ốc ra sông, thả xuống nước, phóng sinh.
Về sau, Lưu thị mắc bệnh mà chết. Lúc lâm chung, nuốt nước mắt nói với chồng :
- Thiếp theo chàng hai mươi năm, thay chàng nuôi mẹ, quán xuyến việc nhà, tự xét mình chưa hề có điều gì thất đức, chỉ chưa sinh cho chàng một mụn con nào. Tình cảnh gia đình ta lại quá nghèo túng, thiếp chết đi rồi chàng lấy tiền bạc đâu mà cưới vợ khác ? Huyết mạch nhà họ Tôn chẳng vì thế mà đứt đoạn hay sao?
Đó là điều khiến thiếp chết đi rồi, vẫn không nhắm mắt.
Nói xong, liền tắt nghỉ.
Nhà họ Tôn từ đó chỉ còn lại một người, lại không thể canh tác chỉ mỗi ngày đi làm thuê cho nhà giàu có trong thôn, kiếm chút tiền độ nhật. Ở địa phương đó, người ta mướn người làm công chỉ bao ăn hai bữa : trưa và chiều, còn bữa tối, về nhà tự lo liệu. Tôn Kiệt đi làm về, lại phải tự nấu ăn, tình cảnh rất khốn khổ. Muốn lấy vợ khác, khổ nỗi không có tiền. Mỗi khi nhớ lại lời vợ nói lúc lâm chung, lòng đau như dao cắt. Như thế được chừng nửa năm.
Một hôm, nhân ngày sinh nhật của vợ, Tôn Kiệt ra thăm mộ, khóc lóc tế lễ. Hồi lâu, nhìn về phía nhà mình, từ chỗ xa xa thấy có khói bay lên, dường như trong nhà có người đun nấu, thầm nghi ngờ trong lòng. Về tới nhà, thấy có cơm nóng, canh sôi, lại thêm một bình trà, đang đợi chủ nhân thụ hưởng. Tìm người nấu cơm, chẳng thấy tung tích. Đang đói bụng, chẳng cần tìm hiểu thêm, chàng cứ ăn uống cho no. Từ đó về sau, mỗi ngày đi làm về, đều có cơm canh dọn sẵn, chỉ không hiểu người nấu cơm, pha trà là ai. Cửa nhà vẫn khóa kỹ, ai có thể lọt vào đây ?
Một hôm, Tôn Kiệt đi làm, về sớm một giờ, tưởng nhân lúc xuất kỳ bất ý, có thể bắt gặp. Nào ngờ, dường như người kia đã dư biết ý định của chàng, đã bỏ đi từ trước.
Hôm khác, Tôn Kiệt xin chủ cho nghỉ một ngày, nhưng vẫn theo lệ cũ, ra đi từ sớm. Đợi tới giờ người ta thường nấu cơm tối, chàng sang hàng xóm mượn một chiếc thang, bắc lên đầu tường. Leo lên đến nơi, lén nhòm về phía nhà bếp. Vừa nhìn rõ, Tôn Kiệt kinh ngạc quá chừng. Thì ra người hàng ngày thay chàng nấu cơm, pha trà là một mỹ nhân, xinh đẹp tuyệt trần.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:38:23 bởi bevanng >

bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 06.07.2008 15:59:02
Hồi THứ 10

Ông góa vợ gặp người đẹp
Ốc nhồi cũng biết trả ơn.

Tôn Kiệt nhìn thấy người đẹp mỗi ngày nấu cơm cho mình, kinh hãi quá chừng, kêu lên một tiếng : "úy !", khiến người đẹp ở trong nhà biết có người nhòm ngó, tức thì biến mất. Tôn Kiệt xuống thang, mở cửa vào nhà, thấy có nồi cơm đang nấu, nửa sống nửa chín.
Thường ngày, số gạo trong nhà chỉ tích chứa đủ ăn chừng ba bốn ngày, hôm nay thùng gạo lại đầy ắp gạo trắng. Ngoài ra còn thấy có thêm các loại thịt gà, thịt cá ướp muối, để trong trạn. Tôn Kiệt đành nấu lại nồi cơm cho chín, làm thức ăn, ăn uống no nê.
Nhân thức ăn có sẵn, tới nói với ông chủ, xin nghỉ hai ngày, có ý ở nhà, chờ đợi người đẹp tới. Nào ngờ người đẹp biết chàng không đi làm, chẳng tới nấu cơm tối giùm nữa. Biết chàng không đi làm, nàng sợ chàng không có tiền chi dụng, lén mang về cho chàng nhiều ngân lượng, đủ xài trong vài năm. Tôn Kiệt vừa mừng vừa kinh ngạc, nghĩ chuyện lấy số bạc đó mở một tiệm tạp hóa nho nhỏ, kiếm tiền sinh sống. Chủ ý định rồi, Tôn Kiệt tới nói với ông chủ, xin nghỉ hẳn. Ông chủ lấy làm lạ, hỏi lý do. Tôn Kiệt vốn người trung hậu, không biết giấu giếm, cứ đem tình thật kể lại. Chủ nhân là một ông lão ngoài sáu mươi, tính nết rất tốt, nghe vậy mới nói :
- Người anh gặp có lẽ là một vị tiên nào đó. Nhất định trước đây anh đã làm một việc gì rất tốt, như cứu tính mạng cho cô ấy chẳng hạn, nên cô ta tới đền ơn anh.
- Tiểu nhân quá nghèo khổ, làm gì đủ sức làm được việc tốt ?
- Việc tốt không nhất thiết phải có tiền bạc mới làm được.
Anh đã không nghe ra, tạm thời hãy bỏ qua, đừng để ý tới cô ấy nữa. Nhưng thần tiên trên trời, vị tất anh đã có cơ may gặp gỡ, hoặc giả đó là tinh của hoa cỏ, điểu thú, đã từng chịu ơn anh cứu cho nên tới báo đáp. Nếu quả như thế, anh hãy lấy cơm cháy giã nát, vê thành những viên nho nhỏ. Đợi khi cô ta tới, anh hãy đột ngột xuất hiện, giữ chặt lấy cô, nhét cơm cháy vào miệng, bắt nuốt đi. Như thế, cô ta sẽ không khác gì người sống (l), anh sẽ hỏi rõ nguyên nhân, cùng cô thành thân, tương lai sẽ tốt đẹp vô hạn.
Tôn Kiệt lĩnh giáo, trở lại nhà, nghiêm chỉnh ngồi chờ một đêm, giả ngủ để đợi sáng. Lúc trời tang tảng sáng, bèn len lén tiến vào nhà bếp, quả thấy người đẹp đứng quay lưng ra ngoài, và đang thái rau. Tôn Kiệt làm theo lời ông chủ dặn bảo, đột ngột xông tới, giữ chặt lấy cô gái, đưa tay phải ra nhét cơm cháy vào miệng nàng, đợi nàng nuốt xong mới buông tay ra. Bỗng người đẹp mở miệng nói :
- Lang quân hãy buông tay ra, thiếp đã nhận hương hỏa, không thể trốn đi được nữa. Để từ từ thiếp sẽ nói rõ cho lang quân biết !
Tôn Kiệt biết nàng không nói gạt, buông cả hai tay. Người đẹp thẹn thùng, đưa tay áo lau miệng, nhìn Tôn Kiệt. Tôn Kiệt cũng nhận ra việc làm mới rồi là không tốt, chắp tay vái, miệng nở một nụ cười, nói :
- Xin hỏi nương tử, trước nay đối với tiểu tử có mối quan hệ gì? Tiểu tử là một kẻ nghèo khổ, chưa hề làm được điều gì tốt cho nương tử, tại sao nàng lại thương tưởng như thế ? Tiểu tử thật tình chẳng yên lòng chút nào, mong nương tử nói rõ cho biết.
Người đẹp mỉm cười, nói :
- Thiếp có nỗi khổ tâm, không muốn để lang quân biết rõ sự tình của thiếp. Không ngờ có kẻ dài lưỡi, dạy cho chàng kế hiểm độc này. Điều mà chàng muốn biết, thiếp lại không dám bẩm báo e rằng một khi biết được chuyện của thiếp, chàng lại đem lòng ghét sợ, coi như rắn rết. Kết quả là thiếp muốn báo đáp ơn chàng lại không thể được.
Tôn Kiệt nghe vậy, khảng khái nói :
- Nương tử nói quá lời. Tiểu tử tuy chỉ là một anh chàng nghèo khổ nơi thôn xóm, nhưng cũng không đến nỗi quá nhát gan, thấy gì cũng sợ. Nương tử đối đãi tử tế thế này, ắt là tiểu tử đã có chút công lao với nàng, mà thật tình nhớ không ra. Người ta thường nói: "Không công lao mà hường lộc, ắt là tổn thọ", xin nương tử nghĩ lại, nói rõ cho tiểu tử biết, để được yên lòng.
---------------------
(1) Những đều gọi là mê tính dị đoan, phản khoa học, người xưa nói cũng nhiều, sách vở chép không ít. Nhưng chuyện này, chúng tôi cũng chưa tùng nghe nói tới, chỉ dịch lại đúng theo sách Bát Tiên Đắc Đạo, mong độc giá thông cảm. N.D

Người đẹp mỉm cười, nói :
- Tôn quan nhân đúng là người trung hậu, thật thà. Chẳng giấu gì chàng, trong thâm tâm thiếp cũng thường muốn nói rõ cho chàng biết, nhưng lại sợ một khi chàng biết sự thật ắt không khỏi kinh hãi, khiến thiếp không toại nguyện ước muốn đền ơn. Sở dĩ thiếp phải che giấu, là để đợi chàng được thiếp phụng dưỡng vài năm, ắt biết thiếp không có ý hại chàng, lúc đó thiếp mới dám trần tình đầu đuôi. Nào ngờ chưa đầy một tháng, chàng đã phát hiện, bắt giữ thiếp, há chẳng phải tại duyên số đôi ta sao ?
Người đẹp nói đến đó, bất giác đỏ mặt. Tôn Kiệt hân hoan mừng rỡ, rồi nghiêm sắc mặt, nói :
- Nương tử không nên quá đắn đo như thế. Tiểu tử không đến nỗi quá nhát gan đâu. Giả sử nương tử đúng là yêu ma, quỉ quái, nhân thọ chút ơn nhỏ của tiểu tử, mà tới đáp đền, tiểu tử cũng không đến nỗi khiếp sợ, lăn ra mà chết. Tôn Kiệt ta há phải tượng đất người bù nhìn, mà không nhận rõ nương tử quyết không vì có ý hại ta mà tới đây ?
Người đẹp cúi đầu suy nghĩ hồi lâu, mới ngửng đầu lên, cười bẽn lẽn, hỏi :
- Lang quân coi em là ma, là quỉ, hay là sơn tinh, thủy quái ?
Tôn Kiệt không cần suy nghĩ, nói ngay :
Nương tử là người nhà trời, nếu không phải thần tiên chăng nữa, cũng vượt xa người phàm trần. Nếu nói tới yêu ma, quỉ quái, tất nhiên trên đời cũng có, nhưng chỉ sợ biến được ra người tài mạo như nương tử, cũng vị tất đã biến được ra người nhân ái như nàng :
- Người đẹp nghe vậy, bất giác cười ròn :
- Lang quản thật khéo nói ! Vậy mà người ta cứ bảo chàng không biết nói năng, thế mới kỳ !
- Hoặc giả đó là điều người ta thường nói "Phúc đáp tâm linh!”(1)) chăng ?
----------------
(1) Khi phúc đến, tự nhiên tâm tri sáng suốt.

- Nói thực với lang quân, thiếp đúng là không phải loài người ! Mà người tiên lại cao quá, thiếp chẳng dám mạo nhận. Yêu quỉ thì quá hung ác, tiện thiếp chẳng dám dây vào với chúng. Lang quân thử nhớ lại coi, lúc tôn phu nhân còn sống, có từng cứu tính mạng cho con vật nào không ? Lúc tôn phu nhân lâm chung có nói câu than tiếc nào không ?
Tôn Kiệt suy nghĩ một hồi, nói :
- Tôi nhớ ra rồi ! Vợ tôi chỉ tiếc một điều là không sinh nở, lúc lâm chung nhắc tới chuyện đó. Vậy mà tôi không nghĩ tới !
Người đẹp gật đầu nói :
- Đúng là như thế. Vậy thiếp xin tỏ thật nỗi lòng. Thiếp để ý đã lâu, thấy vợ chồng chàng nhân ái, thịnh đức, làm ơn không mong người trả. Thiếp họ La, tên Viên, nhà ở bên bờ sông Hoài, thời nước lũ bị sóng lớn cuốn đi, tới nhà của chàng. Lúc nước rút đi rồi, thiếp mắc cạn, không rời khỏi nhà chàng được, đội ơn tôn phu nhân thương xót, nuôi dưỡng. Sau này, gặp lúc lệnh đường mắc bệnh, nói sảng, suýt nữa thiếp không bảo tồn được tính mạng. Lại may mắn nhờ ơn tôn phu nhân bày kế chu toàn cho, kiếm thứ thay thế, mới giữ được mạng sống nhỏ bé. Sau này lại được vợ chồng chàng đưa ra khỏi nhà, đem phóng sinh. Ơn đức đó quá lớn lao, không sao kể xiết. Không ngờ tôn phu nhân hiền đức như thế mà chẳng được sống lâu. Thiếp nghe tin, mới quyết tâm đền ơn. Nhân vì không phải loài người, lại thẹn thùng, không thể tự làm mai cho mình, nên trước hãy lo việc nội trợ cho chàng, đợi vài năm sau, được chàng tin yêu, sẽ tìm dịp trần tình. Dè đâu chưa được một tháng, đã được cùng chàng sum họp, há chẳng phải quá may mắn ư? Đã đến nước này, mong chàng đừng thấy dị loại mà ghét bỏ, cho thiếp được hầu hạ bên cạnh, thì hân hạnh cho thiếp. Thiếp tuy bất tài cũng không vì sinh hoạt để lụy đến chàng.
Tôn Kiệt nghe hết chuyện, mới hiểu ra nàng là con ốc nhồi đã được phóng sinh. Lúc đầu không khỏi kinh ngạc, chừng nghe tiếng nàng nói dịu dàng, thấy dễ thương. Sau lại nhớ tới mấy ngày qua nàng đã ân cần phục dịch, đâm ra cảm mến, mới nói :
- Nương tử là người nhà trời, hà tất phải nói giọng e dè như thế? Chuyện mấy ngày qua đều là do vô tâm mà ra. Nay nương tử đã có ý tốt tiểu tử hà tất còn phải nhiều lời ?
La Viên cười, bảo :
- Chúng ta đã hiểu nhau, còn khách sáo làm chi ? Nhưng có một việc, phải cần đến chàng giúp đỡ.
- Đã là vợ chồng, hai người như một, có điều gì mà không thể đáp ứng ?
- Chuyện thiếp nói đây cũng không nghiêm trọng gì. Chỉ vì thiếp tu hành quá nông cạn, nên dẫu cơ thể biến thành hình người, cũng chưa thể rời khỏi vỏ xác. Phải hai mươi năm sau, thụ hưởng hương khói khá nhiều, dần dần mới có thể vất bỏ vỏ xác, hóa thành hình người hoàn toàn. Đêm mai, vào giờ tí, chàng hãy tới bờ sông phía Tây, nhặt chiếc vỏ của thiếp mang về, bỏ vào trong một chum lớn, đổ nước sạch mà ngâm, mỗi tháng thay nước một lần. Lại nên đặt chum nước ở một chỗ bí mật, nhất định không được để cho người ngoài được biết. Việc này vô cùng khẩn yếu, chàng có đáp ứng được không ?
- Việc đó quá dễ, có gì mà không làm nổi ?
La Viên tươi cười, làm cho xong công việc dở dang, rồi mới ra đi.
Tôn Kiệt sợ để lỡ việc, ngồi đợi cho tới giờ tí, mới vội vã ra bờ sông phía Tây tìm kiếm, quả nhiên tìm được con ốc nhồi lớn mà chàng và Lưu thị đem phóng sinh, vẫn còn ở chỗ bờ sông. Chàng mừng rỡ mang về nhà, theo như lời La Viên chỉ dẫn, bố trí xong xuôi mới đi ngủ.
Lúc trời tảng sáng, nghe dưới bếp có tiếng người trò chuyện, Tôn Kiệt lấy làm lạ, ngồi dậy, xuống coi. Thì ra La Viên dẫn về hai cô nha hoàn nhỏ tuổi, và đang chỉ dẫn cho hai cô pha trà, làm cơm, nấu canh. Thấy Tôn Kiệt tới, La Viên ngỏ lời tạ ơn, và bảo hai cô nha hoàn tới trước mặt chàng cúi chào. Nàng nói :
- Hai con bé này còn nhỏ tuổi, nhưng làm việc giỏi lắm.
Từ đó, La Viên ở luôn trong nhà họ Tôn, cùng Tôn Kiệt thành vợ thành chồng. Nhà họ Tôn trước kia chẳng có món gì, dần dà khấm khá, đường y thực không phải lo nghĩ tới. Tôn Kiệt không phải đi làm mướn nữa, lại còn mở được một cửa hàng bán gạo ngoài chợ. Việc giao dịch hoàn toàn nghe lời La Viên, luôn luôn được thắng lợi. Chưa đầy hai năm, đã trở thành một nhà giầu có.
Tôn Kiệt lại vốn tính nhân từ, thích bố thí cho người nghèo. Hễ Có ai gặp khó khăn, tới nhờ cậy, chàng giúp đỡ liền. Người ta gọi Tôn Kiệt là Tôn thiện nhân, gọi La Viên là "Quan âm sống “.
Nhưng có một điều khiến hai vợ chồng chưa được hài lòng là lấy nhau đã hơn mười năm, La Viên vẫn chưa sinh nở lần nào. Tôn Kiệt thường chau mày, buông lời than thở :
- Anh thường tự hỏi mình xưa nay chưa từng làm việc gì thất đức, tế nạn cứu nguy chẳng dám kể công, tại sao Trời Già không cho vợ chồng ta một mụn con, để nối dòng hương hỏa ? Hay là ta đã làm điều gì tổn âm đức, mà ta chưa biết chăng ?
La Viên chỉ biết tìm lời an ủi, nói chàng tuổi chưa cao, tinh lực chưa suy, lại lập tâm làm việc thiện, ắt trời ban phúc, không đến nỗi tuyệt tự đâu.
La Viên nói vậy để an ủi chồng, nhưng lời nàng quả thật không sai chút nào : làm lành thì trời thương, làm ác thì trời phạt. ông Trời đang dự tính, sẽ đợi một cơ hội, sai các tiên quan đem tới cho vợ chồng Tôn Kiệt một người con thật giỏi dang.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 06.07.2008 20:13:41
Hồi Thứ 11

Giận lây sang người khác, giao long rửa hờn.
Pháp sư thu thập yêu quái, hóa ra quỉ xấu xí.


Nhắc lại Chuyện cũ, biển bức hưởng khói hương lễ bái của dân chúng Quán Khẩu được gần một ngàn năm, bỗng đâu lão giao xuất hiện, đập phá tan nát miếu thờ. Biển bức vốn người trung hậu, an phận, thấy thời hạn một ngàn năm cũng sắp hết, không gây chuyện chống đối làm chi, mới trở vế núi bái yết sư phụ là Văn Mỹ chân nhân, đem chuyện kể lại sơ lược. Chân nhân lặng yên suy nghĩ hồi lâu, mới cất tiếng thở dài :
- Con xuất thân dị loại, lại thuộc loài động vật quá nhỏ bé, đạt được thành tựu như thế, là được lắm rồi ! Từ thủa khai thiên lập ra đến giờ, những động vật nhỏ mà tu đạo thành người, mai sau còn có tiền trình rộng lớn, e rằng ngoài con ra, vị tất đã có người thứ hai. Xét kỹ ra, ông Trời cũng không bạc đãi con đâu. Việc gì cũng vậy, không đủ phúc phận mà được hưởng, ắt gặp phải nhiều thế lực ngăn trở, ngoài ý muốn. Thất bại càng nặng, thành công càng lớn, mà sự thành công đó mới đáng quí trọng: Vì thế, con nên tiếp tục tu luyện thêm vài năm nữa, ắt thành tiên đạo. Chúng sinh trên đời này cứ đổ xô đi học làm tiên, có biết đâu rằng thành tiên đâu phải chuyện dễ ? Mà tiên với người, có khác nhau bao nhiêu ? Chỉ thấy tiên là đáng quí, nhắm mắt nhắm mũi để học làm tiên, mà chẳng có chút tài năng nào, thì thứ tiên như thế, chúng ta khổ công tu luyện để đạt tới làm chi ?
Biển bức cúi đầu, nói :
- Đệ từ đã hiểu. Đệ tử tuy xuất thân là dị loại, lại thuộc loài động vật nhỏ bé, nhưng từ khi được sư tôn thu nhận vào môn hạ, lại thụ hưởng một ngàn năm hương khói, tuy không dám nói có chút thành tựu, cũng đạt được một phần nhân tính. Từ nay đệ tử quyết chí tu luyện, chẳng dám tự cao tự đại, dù có gặp thất bại, gian khổ cỡ nào, cũng không từ bỏ việc tu hành.
Chân nhân nghe vậy, tỏ ý hài lòng, nói :
- Không dè con có nghị lực và quyết tâm đến thế. Quả là kẻ kiệt xuất trong loài vật, mai sau sẽ thành công rất lớn, không biết đâu mà lường ! Để giúp con trong việc tu luyện, ta sẽ viết một điệp văn gửi tới điện của Chuyển Luân vương dưới âm phủ, nhờ ngài đưa con đi chuyển kiếp làm người, chọn một nhà lương thiện cho con đầu thai. Con hãy xác định rõ mục đích tu hành, minh tâm kiến tính, đừng để lợi dục dụ dỗ, tài sắc mê hoặc, thấy điều nghĩa làm ngay, coi điều ác như kẻ thù, gặp điều thiện ra sức mà làm, tránh xa mọi điều tà. Cứ vậy mà làm, không bao giờ trễ biếng. Khi cơ hội tới, sẽ có người hóa độ cho con thoát khỏi mọi ràng buộc của cuộc đời Trong đám học trò, thầy chỉ trông mong ở một mình con là người có nhiều cơ may thành công.
Biển bức nghe lời thầy dạy, cảm kích rơi nước mắt, nói :
- Đệ tử đã lĩnh hội được rồi. Đệ tử chỉ biết tu đạo, thuận mệnh, không kể thành bại. Có sư tôn chỉ bảo rõ ràng như thế, lẽ nào đệ tử lại chẳng thành công ?
Văn Mỹ chân nhân rất hài lòng, lập tức viết điệp văn, sai người đưa biển bức xuống âm ti. Lại thấy biển bức quì xuống, thưa rằng :
- Đệ tử còn một lời, muốn hỏi sư tôn. Vừa rồi thầy nói : "Sau này, khi cơ hội tới, sẽ có người thoát độ cho đệ tử", chẳng lẽ sư tôn lại bỏ rơi đệ tử, không cứu vớt nữa ? Đệ tử đội ơn sư tôn chỉ bảo dẫn dắt. Ơn đức rộng như trời biển, lẽ nào đệ tử còn phải vái một sư phụ khác ? Đó là điều đệ tử còn đang phân vân !
Chân nhân nghe học trò nói vậy, khẳng khái nói :
- Thầy trò gặp nhau đều bởi duyên phận; duyên hết thì chia lìa, đó là lẽ thường. Vả lại quan hệ giữa thầy trò ta không phải tới đây là chấm dứt đâu. Chẳng qua người hóa độ cho con không phải là ta nữa, nhưng tài năng cũng không kém gì ta, lại là sư huynh đệ với ta.
Biển bức nghe vậy, buồn vui lẫn lộn. Văn Mỹ chân nhân viết xong điệp văn, sai Hoàng cân lực sĩ đưa biển bức xuống Địa phủ. Đúng lúc đó, Diêm vương đang tra xét sổ sách, nói :
- Hà Nam có một người họ Tôn tên Kiệt, tích đức đã lâu cứu người vô số, hiện tại chưa có con, có thể đưa biển bức tới đó đầu thai.
Lập tức sai phán quan viết hồi văn, trả lời Văn Mỹ chân nhân, đồng thời cử người đưa biển bức đi đầu thai.
Lúc đó, La Viên, vợ Tôn Kiệt, hoài thai được mười tháng, đêm nằm mộng thấy một ông quan, đưa tới một con phi cầm đen sì, nói với cô ta :
Vợ chồng ngươi hành thiện đã nhiều năm, cảm động lòng trời, nay Diêm vương sai ta đưa một con tiên cầm tới làm con trai cho vợ chồng ngươi. Con vật này vốn thuộc dòng tiên, tiền trình rộng mở vô hạn. Các ngươi hãy khéo nuôi dưỡng nó, chớ xem thường !
Nói rồi, buông tay thả phi cầm ra, nó liền chui vào bụng, La Viên giật mình tỉnh dậy, lập tức cảm thấy bụng đau dữ dội. Chừng nửa giờ sau, có tiếng "Oa oa". Thì ra là một cậu bé xinh xắn, mặt trắng môi đỏ, mày thanh mắt sáng. Vợ chồng mừng không biết để đâu cho hết. Chiếu theo giấc mộng, biết đứa bé không phải người tầm thường, lòng rất được an ủi. Lại thấy nó do thần tiên ban cho, mới đặt tên là Tiên Tứ.
Tháng ngày thấm thoắt, chẳng bao lâu Tiên Tứ đã được mười tuổi. Vợ chồng Tôn Kiệt mời một ông thầy danh tiếng về dạy cho con. Tiên Tứ bẩm sinh thông minh, học một biết mười. Đến năm mười bốn tuổi, đã đọc thông kim cổ sử sách, hiểu nhiều điển tích. Tiếng đồn lan rộng, xa gần đều biết đứa con của Tôn Kiệt là do thần tiên ban cho, sinh ra đã có kỳ tài. Sớm có châu quan (1) họ Phong, nghe danh mới đánh tiếng, muốn nhận làm rể. Vợ chồng Tôn Kiệt thấy Tiên Tứ còn trẻ, không muốn cho đi xa, trước mặt châu quan đã mấy lần chối từ. Không dè châu quan nói chuyện với Tiên Tứ một hồi, biết cậu là người có học thức, muốn giúp đỡ, mới nói với Tôn Kiệt :
- Lão tiên sinh vẫn coi công tử là một cậu bé hay sao ? Cậu ấy tuy còn ít tuổi, đã có học thức uyên thâm, những người thanh niên tầm thường không sánh nổi đâu. Hãy cho cậu ấy đi theo, giúp đỡ hạ quan, chuyên coi về án văn, ắt có thể tạo phúc cho địa phương, vì dân trừ hại. Đợi một, hai năm sau, hạ quan sẽ bảo cử cho cậu ấy vào triều làm quan, mới có thể thi triển hết kỳ tài của cậu.
------------------
(1) châu quan : ông quan ở địa phương đó, không phải chức tri châu sau này. Châu : là một đơn vị hành chánh thời cổ, ngang ngang với huyện.

Tôn Kiệt không nỡ chối từ, cùng vợ bàn bạc, cho Tiên Tứ đi theo châu quan.
Từ đó, hễ có việc chính trị nào quan trọng ở địa phương, đều hỏi ý Tiên Tứ, sau đó mới cho thi hành. Tiên Tứ cảm ơn tri ngộ của châu quan, gặp việc gì cũng ra sức mà làm, chỗ đáng nói không ngại góp ý. Chưa đầy một năm, việc chính trị trong châu đổi mới, dân chúng cảm phục, ca ngợi. Châu quan rất hoan hỉ, lại theo lời hứa trước kia, bảo cử Tiên Tứ vào triều, nhận chức hạ đại phu. Bấy giờ Tiên Tứ chưa đầy hai mươi tuổi, nổi tiếng thiếu niên anh tuấn, trong triều ngoài dã đều xưng tụng. Nhiều quí nhân, đại quan có con gái, nhờ người làm mai, gọi gả. Tiên Tứ còn trẻ mà đã chín chắn, lại dự việc triều chính, thường lấy việc nước làm trọng, chưa bận tâm tới việc hôn nhân, nên vẫn tìm cớ chối từ những người mai mối, nói rằng còn phải đợi lệnh cha mẹ.
Sau có một quan thượng đại phu là Bá Cao, quá ái mộ Tiên Tứ, quyết định đem cô thứ nữ hứa gả cho. Tiên Tứ lấy cớ đợi lệnh cha mẹ để chối từ, Bá Cao đích thân tới thăm vợ chồng Tôn Kiệt, bàn chuyện hôn nhân. Vợ chồng Tôn Kiệt từ lâu nghe biết hai vị tiểu thư đều có tài đức, tất nhiên tán thành. Đàng trai, đàng gái thỏa thuận với nhau, định ngày cưới vào tháng ba, năm sau.
Nào ngờ, vào mùa đông năm đó, thứ nữ của Bá Cao, tên gọi Tuệ Nhi, nhân lúc ở vườn hoa đứng coi cho đám gia nhân bẻ cành mai, bỗng nhìn lên thấy ngoài bờ rào có một người đàn ông trẻ tuổi qua chỗ trống của hàng rào, nhìn soi mói vào bên trong. Tuệ Nhi trong lòng không ưa, định đứng dậy, trở vào nhà trong. Vừa bước vài bước, bỗng thấy trước mắt xuất hiện một luồng sáng xanh, chiếu lóa mắt, tức thì thần trí hôn mê, ngã lăn ra đất. May có mấy cô nha hoàn, bộc phụ thường đi theo hầu hạ, xúm vào đỡ cô dậy, cất tiếng hô hoán. Lúc đó Tuệ cô hầu như đã phát chứng điên, miệng la be be, đòi ra vườn hoa cho bằng được. Không hiểu cô kiếm đâu ra khí lực mạnh mẽ, ba, bốn người đàn bà nắm giữ cô lại cũng không nổi. Một cuộc náo loạn xảy ra, làm kinh động tới những người bên trong. Vừa hay Bá Cao tan chầu về, nghe được chuyện lạ, vội cùng phu nhân là Cổ thị, và trưởng nữ là Cúc cô, dẫn theo toàn thể đám gia nhân nam nữ, chạy ra vườn hoa.
Họ thấy mấy cô hầu gái trì kéo Tuệ cô, Tuệ giận dữ, trừng mắt nhìn lại, ra sức phản kháng, khiến mấy cô hầu gái rã rời gân cất.
Nhìn lại Tuệ cô : áo rách tả tơi, đầu bù tóc rối, chẳng thành hình dạng gì. Lại thêm hai mắt nhìn thẳng, miệng phun nước bọt phè phè kêu be be, nói nhảm nói nhí. Thấy cha mẹ, cô cũng không thẹn thùng, sợ hãi, vẫn tiếp tục giằng co để thoát ra ngoài vườn. Cổ thị nhìn tình cảnh đó, đau lòng quá, vội tiến lại, ôm lấy Tuệ cô, mà kêu khóc :
- Con ơi, con làm sao vậy ? Con không thương mẹ nữa ư ?
- Bá Cao biết con bị tà ma nhập, không thèm hỏi han lôi thôi, giang thẳng cánh tay tát cái bốp, hét to lên :
Yêu ma nào, dám ở đây mà lộng hành ? Còn chưa nghe danh ta là Bá đại phu, đời đời trung lương, với người không có lỗi, với trời không ngỗ nghịch ? Thần tiên trên thượng giới còn không dám khinh thường ta, huống gì tiểu yêu ma, dám vô lễ như thế ? không mau cút đi, ắt ta thỉnh mệnh các vị đế quân của hai giới tiên, phàm, xử trị ngươi bằng nghiêm hình, hối thì đã muộn !
Câu nói vừa dứt, quả nhiên Tuệ cô không còn hung hăng như trước nữa. Cô không nói gì, nhấc gót bước đi, mọi người vội theo sau. Cô tiến vào trong nhà, trở lại phòng ngủ của mình. Vẫn không nói gì, leo lên giường ngồi ngay ngẩn, tà khí lộ ra sắc mặt. Vợ chồng Bá Cao không biết làm sao, đành mời nhiều thầy thuốc danh tiếng về chẩn trị cho con gái. Người nói rằng tà nhập vào tim, e rằng sẽ mắc bệnh điên. Người nói là bệnh hen suyễn làm tắc van tim, hễ đờm khạc ra được ắt khỏi bệnh. Mỗi người nói một cách, chẳng biết tin ai, Bá Cao mới bảo mỗi thầy viết ra một phương thuốc. Các dược liệu sử dụng, có thứ giống nhau, có thứ khác nhau, nên chẳng biết thầy nào đúng, thầy nào sai, phương thuốc nào dùng được, phương thuốc nào không. Trong khi đó, Tuệ cô chỉ cười nhạt, trước sau chẳng nói tiếng nào.
Cổ thị nêu ý kiến là khấn vái trời đất, đem tất cả các toa thuốc gom vào một chỗ, bảo Bá Cao thành tâm khấn nguyện, khấn xong nhặt đại một toa thuốc, kể như ý trời chỉ bảo. Bá Cao làm theo như thế, lựa được một toa thuốc, sai người đi cắt thuốc.
Thuốc đem về sắc lên, đổ ra chén, đưa Tuệ cô uống. Tuệ cô cầm chén thuốc ngắm nghía, chợt cất tiếng cười vang. Rồi đột nhiên đổi sang giọng đàn ông, nói :
- Các ngươi quả là một lũ mê muội. Mấy tay lang băm trên đời mà viết ra toa, e rằng ngàn, vạn thang thuốc cũng không chữa khỏi bệnh cho tiểu tỉ đâu ! Tiểu tỉ hoàn toàn khỏe mạnh, chẳng có bệnh tật gì cả. Nếu không tin, hãy mời một thầy thuốc hiểu mạch lý về đây bảo ông ta xem mạch thử coi. Ta bảo đảm rằng bắt mạch sẽ không thấy bệnh gì. Tức cười cho các ngươi mời về một lũ giá áo túi cơm.
Nói rồi, cầm chén thuốc đổ vào trong cái chậu đặt dưới đất. Lạ lùng thay, chén thuốc nho nhỏ thôi, mà thuốc đổ vào đầy chậu, còn tràn ra ngoài, lại dựng đứng lên thành hình cái tháp. Mọi người kinh hãi quá chừng. Bá Cao phẫn uất nói :
- Bá Cao ta tuy chẳng hơn ai, nhưng tự vấn lương tâm chưa làm điều gì ác, tại sao lũ tà ma này lại tới tìm ta gây chuyện ?
Nói rồi, bất giác rơi nước mắt. Cổ thị khóc lóc bi ai. Tuệ cô lại cất tiếng đàn ông, nói giọng cười cợt :
Hai vị lão nhân gia chẳng cần buồn giận. Thấy Bá đại phu vừa rồi nói giọng ngông cuồng, ta chẳng thèm đôi co với ông ấy làm chi. Nay thấy hai người đáng thương, ta nói thật cho mà biết. Ta vốn là Tây Hải long thần, vì nhất thời nóng nẩy, đã gây chuyện ở địa phương Quán Khẩu. Nơi đó có đồ đệ của Văn Mỹ chân nhân, vốn là một con dơi, đã vâng lệnh thầy, thụ hưởng hương khói lễ bái của người dân Quán Khẩu. Ta thấy nó cậy giao hảo với lão long ở Quán Khẩu, nhìn chân long ta bằng nửa con mắt, ta mới tức mình phá nát miếu thờ của nó. Nó không chịu nhịn, lôi kéo lão long tới, gây chuyện với ta, đem dìm ta xuống dưới đáy biển, không ngóc đầu lên nổi. Bị dìm dưới đáy biển, ta không thể đối địch với lão long. Cũng may có sư phụ của lão long là Phiếu Diểu chân nhân, vâng lệnh Lão Quân tổ sư, tìm tới Quán
Khẩu, hội ý với thần Nhị Lang, giải quyết vụ án "lão long dời núi lấp biển", đem cải tạo chỗ trước kia là nước biển thành một giếng muối rất lớn. Bên cạnh giếng muối, lại thiết lập một hỏa sơn, giúp cho dân chúng có lửa để nấu muối mà dùng. Tình cờ làm sao, chân núi lửa lại đặt ngay chỗ ta bị dìm. Đợi chúng khởi công động thổ, rình lúc chúng sơ ý, ta thoát ra ngoài, trốn đi liền. Nghe nói con dơi kia hiện thác sinh làm con trai nhà họ Tôn, nay lại làm rể nhà ông bà, và làm quan tới chức hạ đại phu. Đây là lúc ta tìm nó để trả thù. Không ngờ đi qua vườn hoa nhà ông bà, tình cờ trông thấy lệnh ái (1), ta biết ngay đó là vợ chưa cưới của con trai nhà họ Tôn. Cô nương xinh đẹp như thế, lẽ nào kẻ thù của ta lại có phúc phận thụ hưởng ? ông bà nên biết điều, mau hủy cuộc hôn nhân này đi. Tên tiểu tử này là kẻ thù mà ta căm hận, ta nhất định phải đi tìm nó. Sớm muộn gì nó cũng chết về tay ta. Con gái ông bà mà gả về bên đó, sẽ thành quả phụ , chi bằng sớm lìa xa, lại hay hơn .
---------------------------
(1) Lệnh ái : con gái người đối thoại (ái : yêu)

Bá Cao nghe vậy, nổi giận, nói :
Nói nhảm ! Người cùng con dơi chống đối nhau, ngươi phá hủy miếu thờ của nó, nó chớ hề hỏi tội ngươi mà ! Ngươi muốn nếm mùi đau khổ là do lỗi của lão long, có liên quan gì tới con dơi? Con gái ta lại dính líu gì vào chuyện này ? Ngươi thuộc dị loại, mà có thể biến hóa thành hình người, kể cũng có đạo thuật đấy ! Nhưng phải hiểu đạo lý chứ ? Ngươi hãy nghĩ lại coi, cái thứ sợ mạnh hiếp yếu như ngươi, có trả được thù, rửa được hận chăng nữa, có giữ nổi thể diện hay không ?
Tuệ cô nghe vậy, liền nổi giận, hét lên :
Giỏi cho lão già, ta có ý tốt khuyên nhủ, ông dám chê cười ta là sợ mạnh hiếp yếu hả ? Con dơi và ngay cả lão long, sớm muộn gì cũng bị ta tiêu diệt, trả thù. Nhưng thôi, không nhắc tới chuyện đó nữa. Còn con gái ông, đem gả cho tên tiểu tử nhà họ Tôn thật uổng phí, chi bằng gả cho thần long ta cho rồi. Luận về thân thế, nó chỉ là một quan chức nhỏ, còn ta là thần long oai quyền, luận về bản lãnh và đạo pháp, nó chỉ là thằng lỏi con chốn phàm trần, làm sao có thể so sánh với ta có pháp thân tu luyện một vạn năm? Luận về tương lai tốt đẹp, gả cho ta làm vợ, ta ắt hóa độ cho nàng thành tiên, ngay cả ông bà là bố vợ, mẹ vợ, cũng có nhiều điều ích lợi ? Nói gọn một câu, ta có thể tặng cho ông bà một viên kim đan trường sinh bất tử, có tốt không nào ? Còn tên tiểu tử kia, có tài năng gì ? Có chỗ nào là tốt đẹp ? Vợ chồng ông là những người hiểu biết, hãy bàn bạc với nhau, đừng để lầm lỡ chuyện chung thân của con gái mình !
Bá Cao giận dữ nói :
- Ngươi khoe khoang là thần long, nhưng thần long đâu có hành vi vô lễ, vô pháp như thế ? Đâu có cưỡng ép gái có chồng như ngươi? Ta thiết nghĩ ngươi nhất định là loài tôm cá, ba ba nào đó ở dưới biển, tu thành yêu pháp, tới đây để mê hoặc người đời, giết hại dân chúng. Ngươi có những hành vi vô thiên vô pháp như thế, e rằng trời không dung tha cho ngươi đâu ! Ta là người dương gian, không thể chế ngự nổi yêu pháp của ngươi, nhưng trên trời chẳng  thiếu thần nhân, không để cho ngươi nói sằng, làm bậy, độc hại lương dân đâu !
Con yêu thấy Bá Cao nói trúng lai lịch của nó, thẹn quá hóa giận, đập phá đồ đạc, cầm ngang cây đao, coi bộ muốn làm dữ. Cả nhà họ Bá kinh hãi rụng rời, run lẩy bẩy. Cổ thị vội tiến lại năn nỉ, cầu xin, con yêu mới tạm tha.
Phu nhân lo sợ, không biết chừng nào con yêu lại dở chứng, đành đi mời một vị pháp sư, họ Đinh, tên Đắc Toàn, về nhà bắt yêu.
Đinh pháp sư cầm "Thất tinh bảo kiếm", khoác áo đạo bào vẽ hình bát quái, mặt mày trang nghiêm, có khí tượng của thần tiên. Ông lên đàn vẽ bùa, chỉ Đông vạch Tây, múa may một hồi, cầm lệnh bài đập ba cái, miệng niệm lâm râm, rồi hét to lên :
- Thái thượng Lão Quân cấp cấp như luật lệnh !
Câu nói vừa dứt, bỗng nhiên một luồng hắc khí nổi dậy, bay lên đài, đánh trúng vào pháp sư. Đinh pháp sư hoảng hồn, vất lệnh bài xuống sân, cầm bảo kiếm múa loạn lên, như phát cuồng.
Dưới đàn, đám đông đứng coi đều cho rằng pháp sư đang ra sức đánh với yêu tinh, có ý kính phục ông là người đạo hạnh thâm hậu: Nào ngờ Đinh pháp sư múa kiếm một hồi, khí đen không tan đi mà còn bay thẳng vào mặt pháp sư, nhuộm khuôn mặt như quét một lớp sơn đen, xấu như ma. Người dưới đàn thấy vậy, cười rộ lên, ai cũng nói :
- Đinh pháp sư biến thành người da đen rồi !
Đinh pháp sư múa may loạn xạ, mồ hôi ra thánh thót, há miệng muốn nói, nói không thành tiếng. Ngay cả câu "Cấp cấp như luật lệnh !" cũng không thốt ra nổi. Lúc đó mọi người mới hiểu pháp sư không thu phục nổi con yêu, còn bị nó thu phục là khác.
Bá Cao là người nhân đức, không nỡ nhìn cảnh đó, đành cùng Cổ phu nhân lên tiếng năn nỉ, cầu xin năm lần bảy lượt. Con yêu đang nhập vào người Tuệ cô, bức bách vợ chồng Bá Cao phải tôn xưng nó là "thượng tiên", hứa từ nay không dám làm điều gì đắc tội với nó, cũng không được mời một pháp sư nào khác về bắt yêu. Vợ chồng Bá Cao nhất nhất đáp ứng. Liền thấy Đinh pháp sư hô to lên:
- Thượng tiên tha mạng ! Tiểu đạo đã biết tội !
Nói vừa dứt lời, ngã lăn ra sàn. Bá Cao vội sai người lên đàn, khiêng ông ta xuống, đem đặt ở nhà sau cho ông nghỉ ngơi, lấy nước lạnh cho ông uống, dần dần tỉnh lại.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:39:55 bởi bevanng >

bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 06.07.2008 20:41:30
Hồi Thứ 12

Văn Mỹ chân nhân hóa thân, đuối yêu nghiệt
Tiên Tứ bị bắt, nhốt vào vườn ngự.

Bá Cao thấy pháp sư không trị nổi yêu tinh, phiền muộn trong lòng. Lại sợ người ngoài biết được, đồn tới tai cha con Tôn Kiệt, mình còn gì là thể diện ? Đang lúc khó xử như thế, một hôm tan chầu về, qua một khu chợ đông đúc, thấy có một đám người vây quanh một đạo nhân, nói năng ồn ào. Bá Cao rúng động trong lòng, truyền ngừng xe, xuống đi bộ. Rẽ đám người vào xem, thì ra đạo nhân đang làm trò ảo thuật, đảo lộn bốn mùa. Ông ta lấy một hạt đào, đem trồng trong đất bùn, chỉ giây lát mọc lên một cây con, ra hoa kết trái, chĩu chịt những quả đào. Đạo nhân hái xuống, phân phát cho mọi người ăn. Ai nấy đều nói đào ngon ngọt khác thường. Bấy giờ đang độ chớm đông, tìm được đào chín là chuyện lạ lùng. ông lại lấy một bó cỏ đem trồng, biến ra một giỏ lan, hoa đẹp đưa hương u nhã. Lại lấy một cây cải đem trồng, nở ra một đóa mẫu đơn, tươi đẹp lạ thường. Tất cả đều là những hoa thật, quả thật. Bá Cao ngạc nhiên, há hốc mồm ra nhìn.
Đạo nhân trổ phép thuật xong, trời đã ngả về chiều, mọi người tùy ý quăng tiền vào thưởng cho ông. Đạo nhân cười cười, vẫy tay một cái, những đồng tiền bay khỏi mặt đất, rơi vào tay ông. Đạo nhân lại nhìn mọi người, nói :
- Cảm ơn thịnh tình của các vị, ban cho ta nhiều tiền. Nhưng người xuất gia đã sớm dứt bỏ trần duyên, tiền bạc này ta không biết dùng vào việc gì. Chi bằng ta thay mặt quí vị làm một việc tốt, đem phân phát cho những người nghèo khổ nhé !
Nói rồi, đưa mắt nhìn ra xa, thấy có nhiều người quần áo rách dưới, thân hình ốm nhom ốm nhách, mới bảo :
- Các vị đều là người nghèo khổ, hãy lại gần đây, bần đạo sẽ đem số tiền này, chia cho mỗi người một phần.
Mọi người có ý đợi coi đạo nhân chia tiền như thế nào. Ngờ đâu ông ta nói xong, dợm bước bỏ đi. Ai nấy đều cười ông ta nói xạo. Đạo nhân lại cười, nói :
- Các vị sờ chỗ thắt lưng xem thử thế nào ?
Những người nghèo nghe vậy, ai nấy đều thọc tay vào chiếc túi nhỏ đeo chỗ thắt lưng, mò thử, quả nhiên rút ra được một số tiền.
Bấy giờ mọi người mới hiểu đạo nhân chính là thần tiên giáng phàm. Trong đám đó, có Bá Cao là người lưu ý nhiều nhất. Thấy đạo nhân cất bước, ông vội vã theo sau. Lẽo đẽo đi theo chừng ba, bốn dặm đường, tới một chỗ vắng vẻ, thưa người qua lại. Đạo nhân đột nhiên quay đầu lại, mỉm cười bảo :
- Quý nhân theo ta một quãng xa lắm rồi, không tiện nữa đâu. Hiện giờ, trời đã sắp tối, những người tùy tùng của ông vẫn đang đợi ở chỗ cũ, sao ông không mau quay về ?
Bá Cao vội tiến lên thi lễ, nói :
- Thượng tiên làm sao nhận biết đệ tử ? Thật tình đệ tử đang có một việc, chưa dám mở miệng khẩn cầu, nên mới lẽo đẽo đi theo, muốn đợi lúc biết rõ động phủ của thượng tiên, ngày khác sẽ thành tâm tới yết kiến. Chẳng ngờ thượng tiên lại phát hiện ra hành tung của đệ tử, đệ tử chẳng dám ẩn giấu nữa. Xin thượng tiên tạm dừng chân, cho đệ tử trần tình đầu đuôi câu chuyện.
Đạo nhân cười, ngoắt tay, nói :
- Ông chẳng cần giải thích, bần đạo biết hết rồi. Gần đây trong quí phủ có con yêu mới tới, ốp vào lệnh thiên kim (l), phải không ?
Bá Cao kinh ngạc, vái một vái :
- Thượng tiên quả là biết trước mọi chuyện. Dám hỏi thượng tiên, đệ tử xưa nay chưa từng làm điều gì ác, cũng không dám dối gạt trời đất, đắc tội với thần minh, tại sao lại gặp phải thứ yêu nghiệt này ? Con yêu đó là con gì ? Có cách nào trị được không ? Xin thượng tiên chỉ bảo rõ ràng.
- Con yêu đó chẳng tự nói rõ với ông rồi sao ? Những điều nó tự cung khai đều đúng cả đấy, không có lời hư ngôn nào đâu, có điều là một vài chi tiết chưa đúng hẳn thôi. Đúng ra nó là một con giao tinh, mạo xưng thần long. Điều sai lầm thứ hai là Phiếu Diểu chân nhân vâng pháp chí của Lão Quân tổ sư, cùng Nhị Lang giải quyết vụ án "dời núi lấp biển", thì ông ấy thần thông quảng đại, sao có thể không biết chỗ lão giao bị đè nén ? Sao có thể để nó trốn thoát dễ dàng như thế ? Chẳng qua vì súc sinh đó chưa tới số chết, lại không đáng bị lão long trấn áp, nên Phiếu Diểu chân nhân mới thả nó đi. Sự tình là như vậy. Súc sinh nói mình thừa lúc sơ ý trốn đi, là nói khoác đấy thôi.
-----------------
(1) Lệnh thiên kim : cũng như lệnh ái (con gái ông). Thiên kim : ngàn vàng, qui giá (thiên kim tiều thư)

Bá Cao nghe rõ sự thật, tỏ ý bội phục, tự động quì gối, khấu đầu nói :
- Tiên sư quả đã thấy rõ mọi chuyện, cách xa cả vạn dặm ! Đệ tử bị yêu tinh quậy phá, thất điên bát đảo. Tiên sư đã hiểu tường tận như thế, xin vui lòng giúp đỡ đệ tử, trừ khử yêu quái, đệ tử cảm kích vô cùng. Xin tiên sư cho biết pháp hiệu là gì, động phủ ở đâu ?
- Để lúc khác hãy nói. Ta với ông gặp nhau đây là có chút duyên, để ta tới nhà ông xem thử con yêu đó thế nào.
Bá Cao mừng lắm, vội cúi đầu lạy lần cuối, hỏi thăm tên họ, cùng chỗ ở của người tiên. Đạo nhân nói :
- Yêu tinh này có bản lĩnh lợi hại, chưa biết ta có thắng nổi nó hay không. Nếu không thắng nổi, càng thêm thẹn mặt, hà tất phải đem tên họ khai ra ?
- Tiên sư quá khiêm tốn, đệ tử tuy ngu dốt, há không phân biệt nổi kẻ tà người chính, kẻ hay người dở ?
Nhân thấy đạo nhân không chịu nói, Bá Cao đành bỏ qua. Đạo nhân xoay mình trở lại, cùng Bá Cao đi ngược về lối cũ. Lạ lùng thay, lúc trước Bá Cao đi theo đạo nhân, cảm nhận được là đi xa ba, bốn dặm, mất khá nhiều thời giờ, lần này trở về chỉ trong chớp mắt là tới chỗ cũ.
Đạo nhân không cần nhờ người khác chỉ đường, bảo Bá Cao cứ lên xe về nhà trước, để ông thủng thẳng tới sau. Bá Cao về tới nhà, đã thấy đạo nhân có mặt trước cửa. Bá Cao kính cẩn mời đạo nhân vào thư phòng ngồi chơi, rồi vội vã đi tìm phu nhân, kể rõ mọi chuyện. Phu nhân hoảng hốt nói :
- Lão gia nên cẩn thận, đừng để xảy ra chuyện Đinh pháp sư lần nữa, đắc tội với yêu tinh, nó quậy cho tan hoang cửa nhà.
Bá Cao vội trấn an :
- vị này đích thực là thần tiên trên trời, quyết không sai lầm được đâu
Nói chưa dứt lời, đã thấy Tuệ cô đùng đùng bước vào, chỉ mặt vợ chồng Bá Cao, hét to :
Giỏi, giỏi ! Hai ngươi lại muốn bắt yêu, mời về một ông pháp sư làm ồn ào, khiến ta chẳng khoan khoái trong lòng ! Ta thương các ngươi, đã tha tội cho một lần, còn dám vô lễ nữa sao ? Tay này có bản lãnh bằng Đinh pháp sư hay không ? Triệu thỉnh mất bao nhiêu tiền ? Các ngươi muốn thử thách bản lãnh của ta nữa hả ?
Nói rồi, há miệng hà hơi, bỗng nhiên khói mù tỏa khắp căn phòng, đối diện không nhìn rõ mặt nhau. Vợ chồng Bá Cao chưa kịp trả lời, đã nghe tiếng nói :
- Các ngươi cốt cách hèn hạ, chỉ đáng dìm dưới nước sâu, cho chết hết ráo !
Bỗng nhiên giữa chỗ đất bằng, nước ở đâu dâng lên : một thước hai thước, ba thước (l), trong nháy mắt, nước đã ngập tới đầu gối. Trong nước còn có các loài cá, tôm thành tinh, những loài thủy tộc hung dữ, xấu xí, tranh nhau đớp chân người. Trong giây lát, bên trong và bên ngoài căn phòng có tiếng người kêu la ầm ĩ, chó gà cũng không yên. Vợ chồng Bá Cao ngồi đối mặt nhau trên giường, chờ chết.
Đột nhiên, giữa thinh không có tiếng sấm nổ. Tiếng sấm vừa qua đi, bao nhiêu khói mù tiêu tan, trời lại sáng hơn trước. Vợ chồng Bá Cao mừng rỡ quá chừng :
- Thượng tiên đã cứu chúng ta ! Cả nhà ta được toàn mạng rồi!
Phu nhân nhìn lại, thấy một vị đạo nhân, tay cầm phất trần, đứng trên mặt nước, quần áo hoàn toàn khô ráo, không dính một giọt nước nào. Đạo nhân niệm lâm râm, đưa tay phất một cái, nước lập tức rút xuống, bao nhiêu yêu tinh xấu xí cũng biến mất tiêu.
Đạo nhân tươi cười, nói với Bá Cao :
- Yêu nhân đã trốn đi rồi, tiểu thư không bị quấy nhiễu nữa.
Yêu nhân căm hận nhất là rể của ông, lần này ắt tới nhà họ Tôn để hành hung. Bần đạo không nán lại đây được, phải đi cứu viện một phen !
------------------------------------
(1)    là Thước cổ chỉ chừng 20 cm. Cao như các ông Quan Công, Trương Phi cũng chỉ chừng 8, 9 thước.

Vợ chồng Bá Cao vội quì gối lạy tạ. Bỗng một luồng kim quang hiện ra trước mắt, đạo nhân không thấy đâu nữa.
Đạo nhân từ biệt Bá Cao, cưỡi mây tới thắng nhà Tôn Kiệt. Vừa tính hạ mây xuống, chợt nhận ra nơi đây không có yêu khí, biết rằng yêu tinh chưa tới, nghĩ thầm : "Ta mà xuống sớm, sao khỏi bị người ta nghi ngờ ?". Trầm ngâm một lúc, ngửng đầu nhìn ra xa, thấy chỗ chính Đông là một vườn hoa rộng, trong vườn dường như có một luồng hắc khí bốc lên, ông vội tiến thẳng về chỗ đó nhìn thấy một cô gái và một viên quan, đang ngồi nói chuyện với nhau trong một căn nhà, ở đầm Đông của vườn hoa. Nơi đó hoàn toàn vắng vẻ, không một bóng người. Đạo nhân chiếu tuệ nhãn, biết ngay cô gái đó là giao tinh, viên quan nọ là biển bức, chuyển kiếp thành Tôn Tiên Tứ. Nhưng ông cũng không rõ nơi đây là đâu ? Vì sao Tiên Tứ lại ở chỗ này ? Yêu nhân sao có thể biết Tiên Tứ ở đây, để nhanh chân tới gặp anh ấy trước ta ?
Đạo nhân lắc mình một cái, biến thành con kiến càng nhỏ bé, rơi vào trong phòng, liền thấy Tôn Tiên Tứ có vẻ đang bị mê hoặc, bị yêu nhân ôm vào trong lòng, âu yếm mùi mẫn, nói :
- Hảo ca ca, anh hãy theo em, cùng đi tu tiên, liễu đạo đi nhé! Nếu chậm trễ để mất dịp này, anh sẽ phải tới thượng môn, tìm em đấy!
Tiên Tứ nghe lời quyến rũ, chẳng nói năng gì, chỉ ngây người ra mà cười bẽn lẽn. Con yêu ngửng đầu nhìn bốn phía, không thấy người sống nào, tính kẹp nách Tiên Tứ, cùng trốn ra cửa. Không dè người sống tuy không có, nhưng trên mặt đất có con kiến càng. Nó đột ngột nhảy lên, lại biến thành một đạo nhân, cất tiếng cười ha hả, đứng chặn cửa, không cho hai người đi :
Khoan đi đã ! Khoan đi đã ! Muốn đi, chúng ta cùng đi chung. Bần đạo cũng muốn đi chung với hai vị cho vui.
Con yêu vừa thấy đạo nhân, liền buông Tiên Tứ ra, lách mình qua cánh cửa, bỏ đi. Đạo nhân không đuổi theo, chỉ đứng ở khung cửa, nói lớn tiếng :
Yêu giao nghe đây ! Ngươi là một linh vật có căn cơ, hãy khẩn thiết quay đầu về, mới hy vọng đạt được đại đạo. Nếu còn chấp mê không tỉnh, bần đạo ta tuy không khai sát giới, sau này cũng có người thu thập ngươi ! Đến chừng sét đánh lên đầu, hối thì đã muộn !
Nói vừa dứt câu đã thấy con giao long cưỡi mây đen, hướng về phía Đông Hải bỏ trốn. Tôn Tiên Tứ ở lại, dường như đã hồi phục lại bản tính, ngơ ngác đứng trong phòng, hồi tường lại tình hình vừa xảy ra, như đang nằm mơ. Chợt thấy đạo nhân tiến vào, mới dập đầu vái tận đất, nói :
- Vừa rồi, không biết đệ tử bị yêu nhân nào mê hoặc, đến nỗi không còn tự chủ, thần trí mơ màng. Chắc là tiên trưởng dư biết đệ tử gặp nạn, nên tới cứu cho. Xin tiên trường cho biết pháp danh, và giải cho rõ sự tình vừa rồi, đệ tử xiết bao cảm kích !
Nghe khẩu khí của Tiên Tứ, đạo nhân nói :
- Mới xa nhau không bao lâu, ngươi đã quên cả sư phụ, không nhận ra ta nữa sao ? Hồng trần làm mê mẩn đến thế, há không đáng buồn rầu, ta thán lắm ư ? Nói cho ngươi rõ, ta chính là Văn Mỹ chân nhân, sư phụ ngươi ở kiếp trước đây ! Ngươi là con dơi, nay được chuyển kiếp làm người. Ngươi có căn cơ vững chắc, khốn nỗi xuất thân quá thấp, nên tuy rằng sau này thành đạo, nhưng tùy lúc tùy nơi, có thể gặp phải nhiều điều ngáng trở, nguy nan. Con yêu nhân mà ngươi gặp hôm nay, chính là kẻ thù của ngươi ở kiếp trước. Con yêu đó không đáng chết dưới tay ta, vả lại tội ác của nó chưa chất đầy, nên ta thả cho nó đi. Nhưng e rằng sau này nó sẽ tiếp tục tìm cách chống đối ngươi, nên ngươi phải sớm xác định chủ ý, minh tâm kiến tính, mới không bị tình đời trói buộc, ngoại vật dẫn dụ. Sau này, nếu ngươi gặp phải chuyện nguy nan, ta sẽ phái người tới cứu ứng ngươi, ngươi bất tất phải quá lo sợ. Nói đã hết lời, ta cùng ngươi từ biệt.
Tiên Tứ nghe lời dạy bảo, mới hiểu rõ chuyện kiếp trước, biết thầy thương nên tới cứu, điểm tỉnh cho mình khỏi lầm lạc, bất giác quì xuống, khấu đầu, khóc lóc :
- Đệ tử đội ơn đức sư tôn, rộng lớn như trời biển, há dám không chuyên cần tu tập, để phụ lời giáo hóa của sư tôn ? Nay từ biệt cùng sư tôn, đệ tử sẽ về nhà giã biệt song thân, bỏ quan đi xa, tìm nơi hang thẳm núi cùng mà tu luyện. Rất mong sư tôn đem bước nhập môn thứ nhất, với những khẩu quyết tu trì, truyền dạy cho đệ tử, để đệ tử ngày một tinh tiến, không đến nỗi lầm đường lạc lối.
Văn Mỹ chân nhân gật đầu, nói :
- Con có mối tục duyên chưa vẹn, nhất thời đòi xuất gia ngay, e rằng vị tất đã giải quyết được. Khi cơ hội đến, tự nhiên sẽ có điều thúc bách khiến con không đi cũng không được. Hiện tại, chẳng cần nóng vội, cứ lập chí cho kiên định, dũng mãnh hướng thượng sẽ đạt tới chỗ thâm hậu đáng mừng. Nay ta dạy cho con đủ phép thuật và khẩu quyết, con cứ theo đó mà siêng năng tập luyện, chỉ ba năm nữa là có thể cường tráng gân sức, việc tu đạo hoàn toàn tốt đẹp.
Chân nhân đem các khẩu quyết, phép thuật truyền hết cho Tiên Tứ, rồi nói to tiếng :
- Sau này sẽ gặp lại, hãy nỗ lực hướng thượng !
Rồi biến thành một đạo kim quang, nháy mắt biến mất. Tiên Tứ quì xuống bái vọng, cho tới lúc kim quang tan hẳn mới dám đứng dậy. Nhìn quanh, không nhận ra nơi đây là địa phương nào, sao quá vắng vẻ, không một bóng người. Căn phòng chàng đang đứng lại trần thiết quá hoa mỹ. Nhìn ra bên ngoài, thấy một vườn hoa rất rộng, cây cối mọc um tùm, thấp thoáng có bóng nhiều cung điện hùng vĩ, trang nghiêm, Tiên Tứ mới dần dần hiểu rõ sự tình. Thì ra yêu nhân đã nắm lấy chàng, lôi về ngự hoa viên, trong hoàng thành. Bấy giờ Ngu Thuấn đã già yếu, mệt mỏi, nhường ngôi cho Hạ Vũ. Hạ Vũ tuy cũng xuất thân từ dân gian, nhưng không còn ý coi “thiên hạ là của chung”, như Đường Nghiêu, Ngu Thuấn.
Làm quan mà vô cớ đặt chân vào vườn ngự là chuyện hiếm thấy, Điều tra ra, thì Tiên Tứ là quan hạ đại phu, làm sao có thể khai mình bị yêu nhân bắt giữ, đem nhốt vào vườn ngự ? Hỏi tới yêu nhân, cũng không tìm đâu ra tung tích. Tiên Tứ bối rối, suy nghĩ hồi lâu, biết không thể ở lâu chỗ này, chi bằng tìm đường nhỏ mà ra cho xong. Lỡ có người bắt gặp, ta nghĩ cách khác vậy. Quyết định rồi, chẳng dám nấn ná, cất bước đi liền.
Không ngờ vườn hoa tuy không rộng lắm, cũng có chu vi mười dặm, mà Tiên Tứ không nhận rõ phương hướng, cũng chẳng biết đường ngang ngõ tắt. Đi đại hồi lâu, tới chỗ cây cối um tùm. Nhìn sắc trời đã tối, những người giữ vườn đã về chỗ trú ngụ của mình hết cả. Tiên Tứ càng thêm hoang mang, bước tràn. Đang lúc bối rối, chợt thấy phía trước có một cô gái, núp sau hòn núi giả, đưa tay vẫy, lên tiếng hỏi :
- Tôn đại phu đi lạc đường phải không ?
Tôn Tứ thấy cô gái biết rõ tên họ và quan chức của mình, tỏ vẻ ngạc nhiên, không biết cô là ai, tại sao ở trong vườn hoa này ?
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:41:24 bởi bevanng >

bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 06.07.2008 21:22:47
Hồi Thứ 13

Thứ lòng dạ, thiếu niên lập chí
Tròn hiếu đạo, Tam thư khéo giảng.


Cô gái thấy Tiên Tứ rụt rà rụt rè, chẳng dám bước tới, liền cười một chập, tiến lại vài bước, nói :
- Công tử khiếp nhược như thế, tưởng một cô gái yếu đuối như tôi có thể là hổ lang, yêu quái hay sao ?
Tiên Tứ thấy cô kia dáng vẻ ôn nhu, hình dung xinh đẹp, chắc rằng cô không phải người xấu, nên cũng cười gượng gạo, nhờ cô chỉ đường ra khỏi vườn hoa. Cô gái nói :
- Tôi cũng không phải người ở gần đây. Nhân vì ông nội tôi là ông lão cai quản vườn hoa, thường dẫn tôi vào đây ngắm hoa, nên tôi khá quen thuộc đường đi nước bước trong này. Thấy công tử cứ ngần ngừ chỗ ngã rẽ trên đường, lúng ta lúng túng, nên tôi biết công tử lạc đường, không ra khỏi đây. Trước kia tôi vốn là hàng xóm của công tử. Mỗi ngày công tử đi ra, đi vào, tôi đều nhìn thấy, nên tôi nhận biết công tử. Đã là chỗ quen biết, lẽ nào lại không chỉ dẫn một lời ? Dè đâu công tử không nhận ra tôi, còn nghi là người xấu, nuôi sẵn ác ý. Thật đáng tức cười !
Tiên Tứ nghe cô kia nói vậy, mới nhận ra người quen, nói :
- Thì ra cô là hàng xóm, láng giềng. Xin thứ lỗi cho tôi, con mắt hạn hẹp, nhìn mặt không nhận ra người quen, quả đáng cười, đáng thẹn ! Bây giờ xin cô nương chỉ đường dẫn lối, cho tôi sớm ra khỏi vườn hoa, trở về nhà, cảm kích vô cùng !
- Anh cũng là người tốt, nghe biết là chỗ láng giềng lâu năm, sao không hề hỏi tôi họ Trương hay họ Lý ? Đúng là quý công tử, quan chức lớn, không thèm biết tới kẻ thấp hèn.
Tiên Tứ nghe vậy, tự thẹn trong lòng, vội nở một nụ cười, nói :
- Đúng là tôi có lỗi, đã không thỉnh giáo cao danh quí tính của cô nương. Tôi nhất thời nóng vội, không kịp hỏi tới, xin cô lượng thứ!
Cô gái cười, gật đầu :
- Thế mới hợp đạo lý. Tôi họ Hồ, không có danh hiệu gì. Người ta thường gọi tôi là "tam thư “ (cô ba), mỗi khi anh muốn gọi tới tôi, cứ kêu "tam thư” là được.
Tiên Tứ lẩm nhẩm ba tiếng "Hồ tam thư” trong miệng, trong lòng nghi hoặc. Đã là gái khuê môn nhà lành, sao cô này không biết thẹn thùng, nói năng phóng túng như thế ? Cô gái này nhất định không phải người tử tế. Anh lại nghĩ tiếp :"Mặc kệ cô ấy, hiện giờ chỉ biết cầu xin cô chỉ đường, ra khỏi cửa vườn hoa này cho mau”. Đang suy nghĩ như vậy, đã thấy cô kia mỉm cười, nói :
- Công tử nghĩ gì thế ? Tôi đã đoán ra ý công tử, nhất định nói tôi là thứ con gái bạ đâu nói đấy, cười cười cợt cợt, chẳng có vẻ gì là một tiểu thư cô nương con nhà quan, phải vậy không ? Nói thật với anh, tôi tất nhiên không phải tiểu thư con quan, nhưng cũng chính vì xuất thân không cao, tôi chỉ biết nói sự thật, không chuộng hư văn. Vì trước đây đã nhiều lần được thấy tôn nhan, nên hôm nay tình cờ gặp nhau, tôi nhận là chỗ quen biết, mới chỉ đường dẫn lối cho anh.
- Tiên Tứ không biết đường đâu trả lời, chỉ luôn miệng "dạ dạ".
Cô gái mới đưa anh đi một đoạn đường núi. Tiên Tứ đứng lại, tính ngỏ lời cáo từ, nói :
- Nhờ nương tử chỉ dẫn, tiểu tử đã hiểu rõ , có thể tự tìm được lối ra, không dám phiền cô đưa đi xa hơn.
Hồ Tam thư cất tiếng cười rộ :
- Nhà quan các anh nói giọng kiểu cách, không quen với tôi. Chẳng qua tôi chỉ đưa anh đi vài bước, có gì mà phải khách sáo ? Nói thực cho anh biết : đường lối trong hoa viên này rất đỗi khúc khuỷu. Anh hãy nhìn thử trước mặt có hai ngã rẽ kia, đường nào cũng có thể thông ra bên ngoài. Nhưng đi chừng một đổi, mới thấy khó khăn, không tài nào phân biệt nổi, vì trên chỗ đường cong lại có đường cong khác, biết ngã rẽ này lại thấy ngã rẽ khác, loanh quanh một hồi lại trở về điểm xuất phát. Không có người dẫn đường, anh có đi nổi không ?
Tiên Tứ nghe lời giải thích quá đúng, tỏ ý trù trừ. Lại thấy trời không còn sớm, cô nam quả nữ cùng ở chỗ vắng vẻ này mà trò chuyện, thật bất tiện. Vạn nhất bị người trong hoàng cung bắt gặp, chỉ tội cho cô gái mang tiếng oan khó giải thích.
Nghĩ tới đó, Tiên Tứ cảm thấy việc này thập phần mạo hiểm, càng nghi càng sợ. Nhưng cô gái tỉnh như ruồi, cứ sải bước chân tiến về trước, thái độ mạnh mẽ như một nam nhi anh tuấn, không có vẻ gì là một cô gái khuê các, khiến Tiên Tứ đem lòng nể sợ cô, cứ cúi đầu, lẽo đẽo theo sau, chẳng dám nói chuyện nhiều với cô.
Hồ Tam thư tuyệt nhiên không hiểu được nỗi khổ tâm của Tiên Tứ, đi một quãng lại quay đầu hỏi chuyện anh. Tiên Tứ không biết làm sao, đành bớt mồm bớt miệng, cớ hỏi mới nói, và cũng chỉ trả lời vắn tắt, không khinh suất nói thêm một lời.
Cũng may, hai người ra khỏi cửa vườn hoa, và trên đường đi không từng gặp một người nào. Bấy giờ Tiên Tứ mới nhẹ nhõm trong lòng, thầm cảm kích cô gái. Vừa định mở miệng cảm tạ, dường như Hồ Tam thư đã biết trước ý định của anh, liền nói :
- Này công tử, anh đã ra khỏi cửa vườn, tính lờ tịt người ta, không thèm mời tôi về nhà ngồi chơi, uống chén trà, ăn miếng bánh hay sao ? Việc đó có phí tổn chi nhiều, mà biểu lộ rõ cả nhà công tử đều biết lễ nghĩa, có đạo đức.
Tiên Tứ không dè cô ta lại nói những lời như vậy. Thật lòng anh rất muốn mời cô đi cùng, nhân đó ngỏ lời cám ơn. Nhưng lần đi này phải qua một khu chợ đông đúc, người qua lại nhòm ngó nhất định phải nhiều. Một nam một nữ, kẻ trước người sau, cùng đi chung, còn ra thể thống gì ? Cũng may lần này cô gái lùi lũi đi phía trước, không quay đầu lại bắt chuyện với anh nên người đi đường chẳng ai nghi ngờ hai người đi chung với nhau. Tiên Tứ rất được yên lòng.
Không bao lâu, hai người về tới nhà. Cha mẹ Tiên Tứ, thấy con trai đi suốt đêm không về , đang lo lắng quá chừng. Nay thấy cậu trai cưng trở về , dẫn theo một cô gái lạ mặt, vừa mừng vừa kinh ngạc. Tiên Tứ đem tình tiết việc trước kể lại sơ qua, lại chỉ Tam thư, nói :
- May nhờ Tam thư giúp đỡ, con mới ra khỏi vườn hoa, không mắc phải tai họa gì lớn lao.
Vợ chồng Tôn Kiệt biết được sự tình, vội mời Tam thư ở chơi, ngỏ lời cảm tạ. Tam thư cúi chào ông bà già, mọi người hân hoan, cởi mở tâm tình.
Từ hôm đó trở đi, Tiên Tứ coi công danh phú quí nhạt như mây khói, chỉ mong sao sớm thoát kiếp hồng trần, sớm lên tiên cảnh, thỉnh thoảng có đem ý nghĩ đó thưa với cha mẹ. La Viên vốn có căn khí, lại biết Tiên Tứ là người của tiên ban cho, đương nhiên không thể ở lâu cõi trần, nghe con nói vậy cũng không phản đối lắm. Trái lại, Tôn Kiệt trước đây mong mỏi có một mụn con nối dõi, đã phải cầu Trời khấn Phật, lễ bái khắp nơi mới có được cậu trai cưng, lẽ tự nhiên chỉ mong con nối dòng thi thư, làm vinh hiển tổ tông.
Lại thêm một nỗi, việc gia thất đã ước hẹn, mà chưa thành, đột nhiên cậu ta nảy sinh ý niệm xuất gia, chẳng hóa ra bao điều mong ước của hai ông bà già suốt hai mươi năm qua đành để trôi theo giòng nước ? Vì thế, chủ trương của hai cha con không thể dung hòa.
Tiên Tứ lập chí kiên định, dẫu kính nể cha, cũng không để ông áp chế, mà thay đổi ước nguyện trong lòng. Tôn Kiệt cương quyết thề rằng, trừ phi mình chết đi, buông xuôi hai tay, không thể quản lý chuyện gia đình nữa, mới phải chịu, chứ quyết không để Tiên Tứ được tự do tự tại, có những hành động vượt khuôn phép như thế.
Nhưng lúc này, việc căng thắng giữa hai cha con cũng chưa quan trọng bằng vấn đề hôn nhân của Tiên Tứ. Một bên quyết không lấy vợ, bên kia chỉ mong cho hôn sự chóng thành. La Viên phu nhân đứng giữa lại có chuyện khó khăn khác.
Số là Hồ Tam thư từ khi cứu Tiên Tứ ra khỏi vườn hoa, đưa về tận nhà, cha mẹ anh rất hân hoan, mời cô những lúc rảnh rỗi, cứ lại nhà chơi. Tam thư nhận lời, thỉnh thoảng tới chơi nhà họ Tôn, cùng Tôn Tứ trò chuyện, thân mật khác thường. Tam thư có tướng mạo tốt lại thông minh. Bất cứ sự tình gì, không đợi Tiên Tứ phải mở miệng, cô đã thay anh giải quyết, lần nào cũng được ổn thỏa, lại không tránh tị hiềm, không ngại vất vả. Những chuyện có liên quan tới Tiên Tứ, cô đều nhúng tay vào, và làm việc gì cũng đều hoàn thiện.
Tiên Tứ là người rất thành thật không hề giả dối, nên thật lòng cảm ơn cô, tự nhiên đối đãi tử tế với cô. Về phần vợ chồng Tôn Kiệt, mỗi người có một kiến giải khác nhau. Tôn Kiệt thấy Tiên Tứ không thích lấy vợ, lại chuyện trò vui vẻ với Tam thư, chắc là cậu ta không muốn cưới con gái ông Bá Cao, mà tính lấy Tam thư làm vợ, nên mới thác cớ muốn đi tu đấy thôi.
Đối với gia đình Bá Cao, tuy không có điều gì để chê bai, nhưng muốn ngăn chặn ý xuất gia của con trai, sao không nhân điều bất hạnh này, tìm ra một điều đại hạnh ? Vì thế, ông không còn oán giận Tam thư vì tính buông tuồng mà còn có ý tác thành cho hai người. Ông thường khi lựa lời ướm hỏi cô, nhưng Tam thư không hiểu ý ông, tỏ vẻ dửng dưng. La Viên phu nhân thì cho con trai mình là tuồng hiếu sắc thám dâm, Hồ Tam thư là kẻ ham chuộng vinh hoa phú quý, có ý tự mai mối cho mình, nên tỏ ra rất khinh bỉ cô, thường nói năng lạnh nhạt, cười khẩy, mong cô tự biết thân phận mà rút lui.
Tam thư lại làm mặt dầy mày dạn, không lý tới những lời dèm pha, chê cười, vẫn ngày ngày qua nhà chơi, cùng Tiên Tứ ngày càng quấn quít. Tiên Tứ đối với cô trước sau như một, luôn luôn lịch sự. Tôn Kiệt mừng lắm, cho rằng kế của mình rất hay. Một hôm, ông không nhịn được nữa, nhờ La Viên dẫn Tam thư ra chỗ vắng, hỏi cô có chịu làm dâu nhà họ Tôn hay không ? Tam thư nhận lời ngay. Tôn Kiệt mừng lắm.
Tiên Tứ nhiều lần yêu cầu xuất gia, gần đây mỗi ngày thường đóng cửa phòng, tập công phu luyện khí gì đó. ông già chỉ được một trai, thực chẳng muốn anh vất bỏ phú quý hiện tại, để đi cầu tiên, hỏi đạo. Nhân thế ông nhờ Tam thư khuyên nhủ, chỉ dẫn anh. Ông thấy con trai mình đối với Tam thư tình ái sâu đậm, anh chỉ nghe lời cô thôi, mà Tam thư đã chịu nhận làm dâu nhà họ Tôn rồi, thật là việc quá tốt. Chỉ nhờ vậy mới có thể khiến Tiên Tứ hồi tâm chuyển ý. Đối với nhà họ Bá, ông già tự có phương pháp thương lượng để giải quyết việc thoái hôn, tương lai quyết  không để Tam thư phải rơi vào tình cảnh éo le. Tam thư nghe vậy đỏ mặt, rồi thung dung nói :
- Thiếp ngưỡng mộ tài của công tử, lại nhờ công tử không ghét bỏ, dẫu phải làm thê thiếp cũng cam. Thiếp sẽ vì đại nhân khuyên nhủ, nhưng tiểu thư của Bá đại phu đã có đính hôn từ trước, sao có thể thoái hôn ? Đợi thiếp khuyên nhủ công tử, để chàng hồi tâm chuyển ý, sau đó làm lễ đón đâu cũng chưa muộn. Tôn Kiệt nghe vậy càng mừng, nhờ cô âm thầm để ý giúp cho.
Ngày qua ngày, không thấy Tam thư có động tác gì, mà Tiên Tứ vẫn chiếu theo cách cũ, hàng ngày thực hiện bài tập luyện khí của mình, ông già thắc mắc trong lòng, muốn thúc giục Tam thư một lần, mà chưa biết mở lời thế nào. Một buổi tối, ông chắp tay ra sau lưng? bước đi lững thững ở chỗ hành lang cả giờ đồng hồ.
Dưới ánh đèn, bỗng thấy Tam thư ở đâu chạy tới, lén khép vào phòng Tiên Tứ. Tôn Kiệt thấy Tam thư giữa canh khuya tới đây, chắc mẩm đêm nay hảo sự phải thành, lòng rất an ủi. Ông mới rón rén tiến lại gần, đứng chỗ cửa sổ phòng Tiên Tứ, nghe lén coi hành động ra sao. Đợi một hồi, chẳng thấy động tỉnh gì, mới thấm nước bọt trên giấy dán cửa sổ, đục một lỗ nhỏ nhòm vào.
Tiên Tứ đang ngồi ngay ngắn trên tấm bồ đoàn, nhắm mắt luyện tập bài hít thở, Tam thư đứng một bên, chắp tay trước ngực, giữ yên lặng hoàn toàn. Hồi lâu, bài tập đã xong, Tiên Tứ mở mắt ra, thấy Tam thư bắt chước làm "đồng tử bái Quan âm", trông tức cười, mới từ tốn hỏi :
- Tam thư tới đây làm gì ?
Tam thư cười hì hì, hỏi lại :
- Sao tôi không thể tới đây ?
Tiên Tứ lắc đầu, nghiêm sắc mặt, nói :
- Lúc nên tới hãy tới, lúc không nên tới đừng tới. Tam thư là người thông minh, biết phép tắc, lẽ nào việc nam nữ tị hiềm cô cũng không hiểu ?
Tam thư nghe vậy, làm bộ mặt ôn nhu của con gái, đáp giọng thô thẻ :
- Công tử sao lại hỏi câu ngốc nghếch thế ? Người ta sống trên đời, cần nhất là tìm khoái lạc. Ngày tháng thoi đưa, trăm năm qua đi trong chớp mắt. Lúc tuổi trẻ không biết hưởng thụ, già rồi còn hứng thú gì ? Chung qui một đời nát với cỏ cây, ai khen anh biết giữ phép tắc đâu nào ? Công tử đừng si mê nữa, nên biết lương tiêu một khắc ngàn vàng, hảo sự khó mà gặp được ? Tôi với anh bèo nước gặp nhau, mà thành giao hảo, không hề trái ý nhau, là có túc duyên từ kiếp trước. Chàng cứ khăng khăng như thế, há chẳng phụ tấm lòng tốt của thiếp lắm sao ?
Tiên Tứ nghe vậy, không giận dữ, mà chỉ kinh ngạc, ngồi ngay ngắn trên bồ đoàn, lắc đầu nhè nhẹ, nói :
- Thịnh tình của Tam thư, ta đã lĩnh hội. Vì thịnh tình đó, ta chẳng dám làm hại tới tiếng trinh khiết của Tam thư. Mỗi người có chí hướng của mình, không thể cưỡng ép. Đêm hôm khuya khoắt, Tam thư không nên lưu lại ở đây. Vạn nhất người bên ngoài biết được, Tam thư còn gì là thể diện ?
Tiên Tứ nói rồi cúi đầu, không nói thêm tiếng nào nữa.
Tôn Kiệt ở bên ngoài cửa sổ, nóng lòng sốt ruột, hận không thể nhảy ngay vào phòng, mắng cho con trai mấy câu : "Việc này là do ta nhờ cô ấy can thiệp. Mày đám cải lệnh cha hả ?".
Càng nghĩ càng tức, lại đứng ngoài cửa sổ nghe ngóng. Chỉ nghe Tam thư cất tiếng thở dài, đột nhiên thi thố bán lãnh riêng của phụ nữ, cất tiếng khóc lóc, lã chã nước mắt, nghẹn ngào thổn thức :
- Tôi chẳng phải hạng người hạ tiện. Tôi đến đây hôm nay không hề có ý dâm bôn, mà là nhận lời ủy thác của người khác mà tới. Nhưng khoan đề cập tới chuyện đó, hãy hỏi công tử nói : "Mỗi người có chí hướng của mình", là nghĩa thế nào ?
Tiên Tứ cười cười, nói :
- Tam thư chẳng cần phải tranh cãi với tôi. Cô thông minh như thế, lẽ nào không hiểu, ngay cả với người nguyên phối chưa cưới, tôi còn không muốn cưới, huống gì là người khác ?
Tam thư nghe vậy, bất giác cười ha hả :
Thì ra công tử muốn nói chuyện cầu tiên, hỏi đạo chứ gì ?
Thật đáng tức cười ! Khoan nói trên đời vị tất đã có thần tiên thật sự, cho dù quả có người đó, quả có việc đó, thì công tử bản chất yếu ớt sao có thể chịu nổi cảnh khổ tu tiên ? Nay bàn tới bản thân công tử, chàng còn có cha mẹ già, chỉ sinh được một trai, nuôi nấng, vỗ về, phí bao tâm huyết, chỉ mong chàng sớm cưới vợ sinh con, nối dõi tông đường, để ông bà có được nỗi vui ẵm cháu lúc tuổi già. Sao chàng không nghĩ tới tình nghĩa đó ? Nếu công tử quả thật muốn xuất gia, hãy đợi tới lúc hai vị lão nhân gia trăm tuổi, chôn cất êm xuôi, bản thân công tử có một hai đứa bé, nối dòng họ Tôn, bấy giờ mặc ý công tử ngao du bốn biển, thành thần thành tiên, tiêu diêu tự tại, chẳng ai nói gì. Còn như tình hình hiện tại, công tử có tâm sự riêng, lão nhân gia có tâm sự riêng, hoàn toàn đối nghịch. Tôi còn nghe nói : nếu công tử quyết định xuất gia, lão đại nhân cũng thề không sống nữa. Dám hỏi công tử, chàng có nhân tâm làm cái việc giết cha đó hay không ?
Tiên Tứ nghe đến đó, biến đổi sắc mặt, có vẻ kinh hãi. Ngoài cửa sổ, Tôn Kiệt mừng rỡ vô cùng, lại nghe Tam thư nói :
- Sao công tử không nói gì ? Tôi nói thấu triệt như thế, công tử còn không tin hay sao ?
Tiên Tứ đã lấy lại sắc mật bình thường, ngước nhìn lên, cất tiếng cười vang :
- Đó gọi là mỗi người có chí hướng riêng của mình !
Tam thư nghe vậy ngạc nhiên, suy nghĩ một hồi mới nói :
- Công tử nói vậy tỏ ra không chút hồi tâm chuyển ý. Này công tử, chàng là người có căn cơ rất lớn, vậy có biết Hồ Tam thư này là người có đạo hạnh, đáng mặt làm sư phụ anh hay không ? Hà hà ! Trước mặt có thần tiên không vái, lại đòi lên núi, vào rừng, bỏ rơi cha mẹ, cầu một thần tiên chưa chắc đã tìm được, còn gì ngu muội hơn nữa chứ ?
Tiên Tứ nghe vậy, bỗng kinh hãi, ngửng nhìn lên, nhìn chăm chú vào mắt Tam thư. Tam thư cười, nói :
- Tôi thấy công tử nhất định không tin tôi có chút đạo hạnh. Nhưng thôi, công tử có thể nghĩ cách thí nghiệm, sau đó mới hiểu rõ, biết tôi là thần tiên chân chính, có thể vái tôi làm thầy, nhất thiết phải nghe lời tôi chỉ dẫn, được không ?
Tiên Tứ nghiêm sắc mặt, nói :
- Tam thư đừng nói giỡn chơi. Nếu nói Tam thư là người tiên đích thực, thì người tiên phải có danh sơn, động phủ, phải làm được nhiều điều, có thời giờ đâu mà quấn quít bên tôi ?
- Anh đúng là chàng ngốc trong đám người thông minh ! Nói thực cho anh biết. Tôi chính là người vì tiền trình của anh mà lại đây ! Thông thường, người ta muốn thành tiên, giữ được tấm thân đồng tử là rất quí, nhưng cũng có người lấy vợ, sinh con, vẫn chẳng hại gì cho việc tu đạo. Đến như hạng người chỉ biết có bản thân, quên cả ơn nặng của cha mẹ, kẻ bất hiếu như thế, là thần tiên chúa ghét. Dù cho giữ thân đồng tử mười kiếp, tu hành cả ngàn năm, cũng chẳng đi đến đâu. Công tử hiểu rõ đạo lý, đọc sách rất nhiều, thử nói coi : từ xưa tới nay có thần tiên nào bất hiếu với cha mẹ hay không ?
Tôn Kiệt ở ngoài cửa sổ, đứng đã tê chân, nghe được câu đó, bất giác cảm thấy vô cùng thống khoái, quên hết cả đau chân, lại dán mắt vào cửa sổ để nhìn trộm, chợt thấy Tiên Tứ mở to hai mắt, nhìn thẳng vào Tam thư, đánh giá hồi lâu, bỗng lại nhắm chịt hai mắt , không nói một tiếng. Tam thư thấy anh chàng quá kiên quyết, gật gù vài cái, đột nhiên nổi giận, tiến lên trước mặt, nắm cổ Tiên Tứ, nhấc bổng lên khỏi bồ đoàn, như thể diều hâu quắp gà con. Tiên Tứ xuội lơ, chút sức phản kháng cũng không có.
Anh ta không dè cô Hồ Tam thư thường ngày nhu mì sao bỗng trở nên một nữ anh hùng, vũ dũng như thế, nên rất kinh hãi, kêu lên :
- Tam thư chẳng cần động chân, động tay. Tôn Tiên Tứ ta quyết không phải hạng người để kẻ khác dẫn dụ, uy hiếp mà đổi tiết. Muốn giết cứ giết, ta quyết không oán hận.
Tam thư nghe vậy, há miệng thở phì, phun ra một thanh kiếm nhỏ, vừa ra gió liền dài ra gấp mười lần, chiếu hàn quang lấp lánh, khiến người ta rét run. Tam thư cầm chuôi kiếm, hướng mũi nhọn về phía Tiên Tứ, nói :
Nói mềm mỏng không xong, đành phải nặng tay. Hạn cho ngươi một khắc đồng hồ, phải trả lời ta. Nếu ngươi thích thú, lập tức thành hôn với ta, ta sẽ đem tiên pháp bình sinh tập luyện, truyền thụ cho ngươi, cả hai có thể thành tiên. Nếu không, mũi kiếm này không nhận biết ngươi là công tử quý nhân đâu !
Tiên Tứ bấy giờ mới hiểu Tam thư là một kiếm khách. Nhưng đã là kiếm khách, sao có thể hèn hạ như thế ? Lòng chàng sinh tính quật cường, không thể chịu ép một bề. Ngoài cửa sổ, Tôn Kiệt hoảng hồn, muốn tông cửa xông vào, lên tiếng hòa giải giùm con. Sau thấy Tam thư ra hạn một khắc đồng hồ, ông muốn coi Tiên Tứ trả lời ra sao. Vả lại Tam thư rất yêu thương Tiên Tứ, quyết không khinh suất lấy mạng anh chàng, chỉ dọa dẫm thế thôi. Lại nghe Tiên Tứ khảng khái nói :
Thì ra Tam thư là kiếm tiên, đệ tử cam thất kính ! Nhưng đệ tử đã nhận lời giáo huấn, từng thề trước mặt sư tôn là kiếp này quyết không gần nữ sắc. Nếu cãi lời thầy, ắt chết vì kiếm quang của sư tôn. Bảo kiếm của Tam thư dẫu lợi hại, e rằng không sánh kịp kiếm quang của sư tôn. Từ nơi xa vạn dặm, kiếm quang vụt tới, khoảnh khắc chết ngay. Vả lại, đệ tử có chết dưới tay sư tôn, vẫn giữ được tấm thân đáng quý này. Rất có thể lão nhân gia niệm tình tôi kiên tâm khổ chí, mà tìm cách siêu độ cho tôi không chừng. Còn bây giờ, Tam thư muốn giết, tôi xin chịu vậy, quyết không dám oán thán.
Tam thư thấy Tiên Tứ kiên quyết như thế, đổi giận làm vui, lùi lại ba bước, thu kiếm vào miệng, mỉm cười, nói :
- Công tử quả là kỳ nhân. Chẳng dám giấu gì anh, vừa rồi thử thách đạo tâm của anh đó. Anh còn trẻ tuổi, đạo lực nông cạn, mà can đảm có thừa, tiến trình rộng mở, không biết đâu mà lường. Tôi cam thất kính.
Tiên Tứ chợt hiểu ra, mỉm cười bái tạ :
- Tam thư quả là thượng tiên, đệ tử vừa rồi không biết, nói năng bừa bãi, mong Tam thư tha thứ.
Tam thư cười, nói :
Tuy nói vậy, anh cùng Bá tiểu thư có mối lương duyên do Trời định sẵn, tránh cũng không được đâu. Nếu anh tin lời tôi, mối tục duyên đó đem lại nhiều tết đẹp đấy.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:43:06 bởi bevanng >

bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 07.07.2008 16:50:31
Hồi Thứ 14

Vợ chồng cùng tu đạo
Cốt nhục sinh dị tâm.


Nhờ Tam thư khuyên nhủ, Tiên Tứ đã có phần đổi ý, không còn chống đối việc cưới vợ nữa. Vợ chồng Tôn Kiệt rất cảm kích, kính trọng Tam thư. Tôn Kiệt xưa nay lấy việc nối dõi làm lo, không đành lòng để con xuất gia, nay thấy chàng biết tuân lời nghiêm huấn, chịu ở lại nhà, mừng vui không biết đâu mà tả.
Ngờ đâu lão bạng sinh châu (1), La Viên phu nhân bỗng lại mang thai. Trước khi lâm bồn, bà nằm mơ thấy một con gì, trông giống rồng mà không phải rồng, giống giao mà không phải giao, chui vào bụng, nhân đó mà sinh được một cậu con trai. ông bà mừng rỡ, chẳng cần phải nói. Mừng hơn nữa, có lẽ là người lập chí xuất gia Tiên Tứ, thấy có người thay mình nối dõi tổ tông, nếu mình có tu tiên tìm đạo, cũng không đến nỗi lỗi bề hiếu đạo. Vì thế chàng rất yêu quí cậu em trai mới sinh. Lúc tối, Tam thư tới chơi, Tiên Tứ báo tin mừng vừa có em trai, tỏ ý hân hoan. Tam thư cười tủm, nói :
- Đây tất nhiên là tin mừng, nhưng anh cũng chớ vội hân hoan. Đã chắc cậu em trai này biết hòa thuận, hiếu hữu với anh chưa ?
- Tam thư nói giỡn hay sao ? Em trai tôi nhất định là người hoàn hảo.
Tam thư chỉ cười, không đáp.
Một năm sau, Tiên Tứ làm lễ đón Bá tiểu thư về nhà. Đêm động phòng hoa chúc, đôi vợ chồng trẻ ngồi ngay ngắn, nói chuyện với nhau suốt đêm. Sau đó, hai bên tương kính tương ái, mà tình thân mật không nồng nàn như giữa chồng với vợ, chỉ thương yêu như giữa anh trai, em gái. Nói chung, hai người không hề có một cử động nào gọi là quá thân mật. Vợ chồng Tôn Kiệt không tránh khỏi lưu ý. Sau cái đêm, Tam thư hiển lộ kỳ tích, La Viên biết cô không phải người thường, mới nhờ cô để ý khuyên nhủ Tiên Tứ, sao cho cặp vợ chồng trẻ đẹp tình cá nước, mà ông bà già cũng có niềm vui ẩm cháu. Tam thư cười, nói :
- Trước đây, ông bà chi mong sao đại công tử đừng đòi xuất gia, nay đã có nhị công tử, sao còn muốn ép đại công tử phái sớm sinh quí tử ?
------------------------
(1) Trai già sinh ngọc châu, ám chỉ người già lại sinh con.  
ông bà già đều cười, nói :
- Thằng con thứ còn quá nhỏ tuổi, biết bao giờ mới thành gia thất ? Trước mắt có cặp vợ chồng trẻ , sao không trông mong sớm có ngày đơm bông kết trái ?
- Đó là chuyện riêng của hai người ở chốn phòng the, người ngoài sao dám nói ra nói vào ? Nhưng đã nhận trọng trách giao phó, tôi cũng đành mang tiếng dài lưỡi, xía vô vài câu xem sao. Nếu đại công tử chịu nghe lời thì tốt quá, bằng không hai vị lão nhân gia cũng đừng trách cứ tôi nhé .
Tam thư nói rồi, cười mà bỏ đi. Tới chỗ đại sảnh, vừa may gặp Tìên Tứ đi tới. Thấy Tam thư, anh ngăn lại, mời về phòng mình ngồi chơi. Không thấy Bá tiểu thư ở đó, Tam thư mới hỏi :
- Vị tân nhưng nhưng (1) của anh đâu rồi ?
- Chắc là đi đâu đó. Tam thư không bắt gặp hay sao ?
Tam thư cười, nói :
- Tôi tới đây cũng vì có người nhờ cậy, bảo tôi tới thăm vợ chồng anh.
Nhân đấy, nói rõ việc La Viên phu nhân ủy thác, và cười, nói tiếp:
- Làm người thế gian, hãy sinh hoạt sao cho trọn vẹn, hà tất phải đòi rời xa quê hương, chịu bao vất vả, khổ sở, để cầu vị thần tiên chưa chắc đã tìm được. Huống chi cô vợ mới cưới của anh đang độ thanh xuân, lẽ nào anh nhẫn tâm bắt cô phải theo anh, sống một cuộc sống đơn độc, thê lương ?
---------------------
(1) Nhưng nhưng : cũng gần nhu chử "nương nương" hoặc "đại nương", là danh hiệu tôn xưng một người đàn bà có địa vị.

Tiên Tứ cười rộ lên :
- Tam thư lại tới thăm dò tôi rồi ! Vì chuyện cưới vợ, lần trước Tam thư đã phải mất công khuyên nhủ, lần này vì chuyện riêng giữa vợ chồng tôi, Tam thư lại phải vất vả. Nhưng mỗi người một chí hướng, dễ gì ai đã ép buộc được ai ? Bá tiểu thư thật tình không phải người phàm tục, không hề tham luyến tình dục. Hiện tại chúng tôi là vợ chồng, trong tương lai sẽ là đạo hữu.
Tam thư nghe vậy ngạc nhiên, nói :
- Thật tình tôi không thể nghĩ nổi tới điều này.
Tiên Tứ gật đầu, nói :
- Bá tiểu thư thật tình là người có căn cơ rất lớn. Trong đêm tân hôn, nghe đệ tử tỏ lộ tâm tình, nàng lập tức thấu triệt ngay. Gần đây, mỗi tối nàng đều theo tôi tập luyện, dụng công không mệt mỏi. Xin Tam thư thay tôi làm thuyết khách trước mặt cha mẹ tôi.
Tuy nhiên, Tiên Tứ cũng nghe lời Tam thư, ra ngoài làm quan như cũ, về nhà yêu thương vợ, nựng nịu em trai nhỏ bé, hưởng mọi thú vui của một gia đình hạnh phúc. Ai ngờ cậu em trai, tên Giao Nhi, tính tình khác hẳn với Tiên Tứ.
Thời gian thấm thoắt, Giao Nhi đã được mười hai tuổi. Cậu ta thông minh cũng lạ, mà tính nết giảo hoạt cũng kỳ. Cậu đã biết ở trước mặt cha mẹ bàn ra tán vào, nói anh trai và chị dâu chẳng có chút khí tượng của người sang trọng. Nhưng cậu ta lại khéo che giấu : mỗi lời nói, mỗi hành động đều lộ vẻ thành khẩn khác thường. Vì thế, nhiều người cho cậu ta là người trung hậu, khen cậu thông minh, biết phân biệt rõ phải trái. Rõ ràng anh trai và chị dâu đối xử với cậu rất mực nhân ái, nhưng cậu lại tìm đủ cách để chống đối.
Bấy giờ, Hồ Tam thư không còn năng lui tới nhà họ Tôn nữa; nhưng mỗi năm chừng dăm ba lần, Tam thư cũng tới chơi, để truyền thụ khẩu quyết cho vợ chồng Tiên Tứ, khảo nghiệm xem hai người tiến triển ra sao. Tiên Tứ là người quân tử trung thành,  hiếu hửu, Bá tiểu thư là cô gái khoan nhân, hiền thục, rõ ràng bị em trai lấn át, nói xấu trước mặt cha mẹ, hai người vẫn một mực nhường nhịn, không nói nặng một lời. Thét rồi, cậu em ngày càng lấn lướt mà cha mẹ cũng ra chiều con yêu con ghét, hai người vẫn không đám có một lời oán thán. Họ chỉ lấy làm lạ, tại sao Văn Mỹ sư tôn đã từng nói là sẽ tùy thời, tùy hoàn cảnh phái người tới giúp đỡ chỉ điểm việc tu trì đạo hạnh, tới bây giờ vẫn không thấy tin tức gì ? Tiên Tứ đã mấy lần hỏi Tam thư, cô đều nói :
- Ngươi tiên quyết không nói dối đâu, anh cứ kiên nhẫn, bình thản mà đợi.
Một hôm, nhân ngày sinh nhật La Viên, Tiên Tứ đã biết xuất thân của mẹ, đặc biệt mua nhiều con ốc, đem phóng sinh. Không ngờ Giao Nhi thấy được, cũng mua một mớ ốc, sai người luộc chín, đem tới chỗ La Viên, nói :
- Đại ca nhân ngày sinh nhật của mẫu thân, cố ý làm món ốc luộc mời mẹ xơi, để mừng thọ.
Câu nói vừa thốt ra, phạm ngay tâm bệnh của La Viên, bà tức giận, nghẹn ngào, không nói ra lời. Giao Nhi sợ mẹ thấy mặt Tiên Tứ khó tránh khỏi buông lời mắng mỏ nặng nề, sự thật sẽ lộ ra hết, vội nói :
- Mẹ bớt giận, hài nhi nghe nói đại tẩu còn đang bày một kế độc khiến mẹ xấu hổ, không thể nhìn mặt người khác. Hiện giờ con đang điều tra xem chị ấy xếp đặt như thế nào. Chừng nào lần ra đầu mối, tra xét rõ ràng, có đủ chứng cứ, mới có thể hỏi tội ngỗ nghịch của chị ấy, khiến chị ấy phải cúi đầu nhận tội.
Vợ chồng La Viên đã lâu mắc vào kế ly gián của Giao Nhi, lúc này lại thâm hận vợ chồng Tiên Tứ, thấy Giao Nhi nói vậy, câu nào cũng cho là đúng, nghe cậu ta trình bày phương cách điều tra, tự nhiên chấp nhận liền. Thương thay cho vợ chồng Tiên Tứ, có nằm mơ cũng không nghĩ ra chuyện cha mẹ đem lòng nghi kỵ. Vả lại Giao Nhi dụng tâm rất hiểm, một mặt ra sức bênh vực cho anh chị, mặt khác thỉnh thoảng xúc xiểm vài câu, khiến cha mẹ không phát hiện ra âm mưu của cậu ta, mà vợ chồng Tiên Tứ cũng không có cơ hội nào để biện minh.
Giao Nhi tuy còn ít tuổi đã ra ngoài kết giao với nhiều thuật sĩ từ nơi khác tới, học được một số phép thuật tà ma. Bấy giờ, gặp lúc ông Bá Cao mắc bệnh, vợ chồng Tiên Tứ phải dắt nhau về thăm, ở lại ba ngày. Bệnh ông Bá Cao lâm nguy, hai vợ chồng phải ở lại thêm vài ngày nữa. Giao Nhi lợi đụng cơ hội này, chế ra một số đồ vật để yểm bùa, viết lên đó ngày sinh tháng đẻ của cha mẹ, và đâm kim bạc vào các yểm vật, lén mở cửa phòng chị dâu, nhét những vật đó xuống dưới chiếu nằm, gầm giường, hoặc ở các chỗ ô uế. Các tà pháp làm xong, Tôn Kiệt, La Viên thấy đau nhói ở tim, bụng trương phình, miệng ói ra máu tươi. Giao Nhi mới lên tiếng :
- Đây hẳn có người dùng tà thuật ám hại cha mẹ .
Tôn Kiệt lúc đầu không tin, mời một đạo nhân về xem, ông ta cũng nói là trúng phải phép tà. Tôn Kiệt tức giận, nói :
- Vợ chồng ta cả đời làm việc thiện, chưa hề biết đối xử khắc bạc với ai, kẻ nào dám hạ độc như thế ?
Giao Nhi giả bộ nghi ngờ :
- Đúng vậy. Nhà ta toàn những người trung hậu, lương thiện, làm gì có kẻ thù chống đối ? Chỉ có anh trai, chị dâu, vì cha mẹ đôi khi tỏ ra không hài lòng, nên anh chị thường có lời oán thán, nhưng cũng không đến nỗi hạ độc thủ thế đâu ! Nhưng dùng tới cách yểm bùa, nhất định phải biết được ngày sinh tháng đẻ . Điều này người ngoài làm sao biết được ? Ngay cả những người làm công trong gia đình vị tất đã biết rõ !
Câu nói đó đã đánh động La Viên. Đàn bà là hay tin những điều dị đoan như thế. Nhân vợ chồng Tiên Tứ không có nhà, bà mới dẫn theo Giao Nhi, đi lục soát phòng của hai người. Quả nhiên tìm ra được những chứng cứ tà thuật rõ ràng. La Viên giận vô cùng, đem chứng cứ tới cho Tôn Kiệt coi, hai ông bà càng tin chắc việc này là do vợ chồng Tiên Tứ làm ra. Lập tức đem quăng vào lửa, đất rụi. Bệnh nhẹ của ông bà cũng khỏi hẳn. Tôn Kiệt nổi cơn thịnh nộ, sai Giao Nhi tới nhà họ Bá, gọi Tiên Tứ về. Tội ngỗ nghịch bất hiếu này phải trị thật nặng mới được. Giao Nhi vội ngăn cản :
- Phụ thân muốn kết tội anh ấy, lẽ ra không nên hủy diệt chứng cứ. Nay chứng cứ không còn, làm sao có thể buộc tội ?
Huống chi hiện giờ anh ấy đang làm quan đại phu, quan lại họ phải bênh nhau, nhất định cha sẽ thất bại thôi. Nếu làm ra vẻ không biết, cứ để hai người đó ở lại trong nhà, họ biết kế hiểm đã lộ lòng chẳng được yên, ắt phải bày một kế độc khác, chúng ta có đề phòng cũng không nổi. Chi bằng sai người đem tới cho đại ca một món ăn, nói là của người khác đem biếu, mẹ mới nhớ đến đại ca, nên sai đưa tới cho anh xơi. Ta bỏ thuốc độc vào bên trong, đánh thuốc cho anh ấy chết. Còn tẩu tẩu chỉ là đàn bà, làm gì có nhiều bản lãnh ? Đợi chị ấy trở về nhà, lại tìm cách khác mà thanh toán, há chẳng phải diệu kế sao ?
Vợ chồng Tôn Kiệt đang cơn giận dữ, không tính thiệt suy hơn, liền sai Giao Nhi đích thân đem mấy món điểm tâm đựng trong tráp mang đến cho Tiên Tứ. Tiên Tứ định chia ra, mời nhạc phụ, nhạc mẫu, cùng các dì, các cậu cùng thường thức, Giao Nhi vội nói:
- Món ăn này mẹ chỉ ban riêng cho đại ca, không chia cho người khác, vì món ăn cũng không nhiều. Ca ca hãy ăn một mình, đừng phụ lòng từ mẫu thương yêu.
Tiên Tứ nghĩ cũng phải, ăn vài ba miếng, chỗ còn lại Giao Nhi lại xách về nhà .
Đến chiều, Tiên Tứ bỗng cảm thấy tim đau như xé, thổ ra huyết, giây lát là lăn ra đất. Bá Cao bệnh đang nguy cấp, vì chuyện này cũng kinh động, kêu lên một tiếng mà qua đời.
Bá tiểu thư thấy Tiên Tứ thần sắc biến đổi, tính mạng chỉ còn trong khoảnh khắc, không thể ở lại dự tang lễ của phụ thân, mà phải lo cho người chồng sắp chết, đưa chàng trở về nhà. Hai nhà chỉ cách xa nhau chừng mười dặm: nếu đi nhanh, chỉ ba khắc đồng hồ là về tới nhà.
Đang đi nữa đường, Tiên Tứ bỗng kêu lên một tiếng. Một đạo linh hồn của chàng đang chạy mau tới Quĩ Môn quan (1). Bá tiểu thư đau đớn muốn chết, lại đau buồn vì chồng chết bất tử, hét lên một tiếng, thổ ra một bụm máu tươi.
----------------------------------
(1) Quỉ Môn quan : Cửa ải ngăn cách giữa cõi Dương và cỏi âm. Tới Quỉ Môn quan có nghĩa là sắp vào cõi chết. Nhưng ở đây, tác giả dùng chữ theo nghĩa đen, kể chuyện linh hồn Tiên Tứ về âm ti.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:46:57 bởi bevanng >

bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 07.07.2008 21:12:00
Hồi Thứ 15

Chồn già ngàn năm thuyết minh nhân quá.
Thiếu niên công tử cất đút tục duyên.


Đi được nửa đường, vợ chồng Tiên Tứ cùng táng mạng. Những người phu hộ tống nhà họ Bá chẳng biết làm sao. Bỗng nhiên một trận cuồng phong nổi lên. Trong giây lát, trời đất tối tăm, mặt trời mất ánh sáng, khắp mặt đường cát bay đá chạy, sương khói giăng giăng, người đi đường đối mặt nhau không nhìn rõ mặt.
Những người phu hộ tống ai nấy tự tìm chỗ núp, để hai người chết ở lại trong xe. Chừng một giờ sau, gió ngừng, mây tan, trời trong sáng trở lại, mọi người chạy tới bên xe, lạ thay chỉ còn cỗ xe trống, hai thi thể biến đâu mất rồi ? Mọi người mới kinh hãi, chẳng biết làm sao, đành tìm những người dân địa phương đứng ra làm chứng, và chia nhau ra, người tới báo tin cho nhà họ Tôn, người về thưa lại với nhà họ Bá.
Bá phu nhân mất gái yêu, rể quý, bất tất phải nói. Về phần vợ chồng Tôn Kiệt, dẫu bởi Giao Nhi bày đặt ra chuyện, khiến ông bà thống hận vợ chồng Tiên Tứ, nhưng nghe tin hai người giữa đường đều chết, thi thể lại mất, sao khỏi đau lòng ? Phụ tử tình thâm là thiên tính, Tôn Kiệt đau đớn khóc lóc một hồi. La Viên phu nhân là đàn bà, khóc còn thảm thiết hơn. Riêng Giao Nhi rất là đắc ý, thấy vậy mới nói :
Cha mẹ chẳng nên quá đau lòng. Hai người này chết là đáng kiếp, cho thấy đạo trời chẳng sai bao giờ, và càng cho thấy rõ bọn chúng đã mang dạ độc ác từ lâu. Nếu không, tại sao chúng lại phải chết, mà chết tới hai đứa một lượt ? Chết đi rồi, ngay cả hài cốt cũng không thể đem về nhà ! Những kẻ bất hiếu như thế, chết là đáng kiếp ! Cha mẹ đừng nên quá bi thương.
Vợ chồng nghe vậy, ngẫm lại thấy cũng có lý, gạt nước mắt, không khóc nữa.
Lại nói về Tiên Tứ, trúng độc mà chết, một đạo u hồn mơ mơ màng màng, theo gió đưa đi, không rõ là đã tới địa phương nào. Chợt nghe có tiếng người nói to :
- Du hồn Tiên Tứ đang ở đâu ?
Tiên Tứ nghe gọi, mới hoảng hốt nhận ra mình đã chết. Đưa cặp mắt nhìn chăm chú một hồi, mới thấy trước mặt là một cô gái, ăn mặc theo lối đạo cô, tay cầm hốt ngọc, tươi cười cầm hốt đập nhẹ lên mình Tiên Tứ một cái, hỏi :
- Anh bạn già lâu nay vẫn khỏe chứ ? Còn nhận ra Hồ Tam thư này không ?
Du hồn Tiên Tứ mừng rỡ quá chừng, vội nói :
- Tam thư từ đâu tới đây ? Sao lâu nay không lại nhà tôi chơi ?
Bây giờ tôi bị thằng em trai hãm hại, đến nỗi chết oan, mới thấy lời Tam thư nói trước kia là đúng quá. Nay được gặp Tam thư ở đây mong Tam thư mở lòng từ bi, ra tay cứu vớt.
Tam thư cười, nói :
- Nếu không vì cứu anh, tôi đến đây làm gì ? Chẳng cần nói nhiều, mau đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh tới một nơi tốt lành, rồi dần dần tôi sẽ nói rõ cho anh biết nhân quả trong chuyện này.
Tiên Tứ vừa vui vừa buồn, tự động đi theo Tam thư, tấm thân như chiếc lá cuốn theo chiều gió, không thể tự chủ, nhưng cũng may là chỉ quanh quẩn hai bên Tam thư, chứ không tách xa. Đi một hồi, tới một đỉnh núi, nơi đó có ba gian thạch thất. Tam thư tiến vào, Tiên Tứ cũng vào theo, cúi lạy Tam thư, nói :
- Đệ tử trước đây ngu muội, hàng ngày ở trước mặt danh sư mà không biết kính lễ. Nay du hồn phiêu bạt, bốn biển không biết về đâu khẩn cầu Tam thư niệm tình mấy năm quấn quít, mà đoái thương thu nhận đệ tử vào môn hạ, may mắn cho đệ tử biết mấy ?
- Không dám, không dám ! Công tử bất tất phải khiêm nhường hạ thấp mình như thế. Hãy ngồi xuống đây, để tôi nói rõ nguyên ủy và nhân quả trong việc này cho mà nghe. Công tử có biết tôi là hạng người nào không ?
Tiên Tứ nghe lời ngồi xuống, suy nghĩ hồi lâu, không biết trả lời ra sao. Tam thư thở dài, nói :
- Có thể nói công tử cả đời thông minh, nhất thời mê lú. Tôi với công tử không phải bà con, cũng chẳng phải bạn cũ, rảnh rỗi đâu mà xen vào chuyện riêng của công tử ? Xin công tử hãy nhớ lại coi tôn sư Văn Mỹ chân nhân lúc ở vườn hoa đã dặn dò những điều gì là biết ngay quan hệ giữa tôi và công tử. Tôi đã vâng lệnh ông mà tới, thấy được điều gì đều phải về bẩm báo.
Tiên Tứ đột nhiên tỉnh ngộ, nói :
- Nói vậy thì ra Tam thư là người do sư tôn sai phái để trông nom đệ tử ? Phải vậy không ?
- Nay anh đã hiểu rõ rồi chứ ? Tôi vốn là con chồn già ở núi Tây sơn, trước kia lầm lạc gia nhập tà giáo, nhiều lần làm những việc bất quĩ, từng mắc phải kiếp nạn sét đánh, may nhờ lệnh sư tôn thương tình cứu cho, mới được thoát nạn. Tôi đã ở trước mặt ông thề độc, từ đó thay lòng đổi dạ, chăm lo tu theo đại đạo, khẩn cầu lệnh sư thu nhận vào môn hạ. Chân nhân sợ tôi tính ác khó bỏ, thói quen không đổi, lỡ ra lại có hành vi bất chấp, không khỏi liên lụy tới ông, nên trù trừ hồi lâu, mới chịu đáp ứng, hứa cho tôi trong thời gian một trăm năm phải thay ông làm những công việc lặt vặt chịu lệnh sai khiến, nếu quả lập chí tinh thành, không làm việc gì sai sót, mới nhận cho tôi làm đệ tử. Công việc thứ nhất ông sai khiến tôi là bảo tôi ở gần bên anh, tùy lúc chỉ điểm cho anh, đồng thời kiểm tra anh, nếu thấy có chút thay lòng đổi dạ, hoặc làm việc gì trái khuôn phép, phải về báo cáo, sư tôn sẽ dùng phi kiếm chém anh, hoặc sai thiên lôi đánh chết ?
Nghe Tam thư nói, Tiên Tứ bất giác lạnh xương sống, vội chỉnh sửa nét mặt, nói :
- Cũng may đệ tử chưa hề thay lòng đổi dạ. Năm trước Tam thư thử thách, nếu tôi không biết giữ gìn, thì chẳng những là không dám nhìn mặt sư tôn, ngay cả trước mặt Tam thư cũng thấy hổ thẹn.
Tam thư cất tiếng cười vang, nói:
- Về sau tôi khảo sát mấy lần, thử nghiệm anh mấy lần, mới tin chắc anh tinh thành chuyên nhất, không chút tà niệm. Vì thế tôi mới đem khẩu quyết truyền cho anh, mong anh ra sức phấn đấu, đừng sợ nguy nan, dẫu có gặp nhiều lần thất bại cũng đừng đổi ý ?
Tiên Tứ nghe vậy, đứng dậy, vọng lên không trung vái tám vái, thâm tạ ân sư, sau đó lại hướng về Tam thư mà bái tạ. Tam thư tránh qua một bên, không dám nhận đại lễ, nói :
- Không dám nhận, không dám nhận ! Tuy rằng tôi đã chỉ điểm cho anh cách tu luyện, nhưng cũng nhờ anh mà tôi lập được chút công quả, để có thể trình lại với sư tôn. Vì thế anh chẳng cần đa lễ, mà chính tôi phải bái tạ lại anh mới đúng.
Tam thư nói rồi, lại cùng Tiên Tứ ngồi xuống. Cô hỏi :
- Anh có biết vì sao em trai tìm cách chống đối anh không ?
- Tôi cũng tự hỏi mình trước nay chưa từng đối xử lạnh nhạt với em trai, tại sao nó lại ganh ghét tôi ?
- Đó là điều mà tôi vừa nói về lẽ nhân quả. Anh có hiểu em trai anh kiếp trước là con vật gì không ?
Tiên Tứ nghe hỏi, suy nghĩ hồi lâu, giậm chân nói :
- Ôi ! Tôi hiểu ra rồi ! Hèn chi lúc mẹ tôi lâm bồn, có mộng thấy một con thú, trông giống rồng mà không phải rồng, giống giao mà không phải giao, nhẩy vào bụng mà sinh ra em trai tôi. Bấy giờ cha tôi chiếu theo hình trạng trong mộng, cho rằng nếu không phải giao long, ắt cũng là hải giao (1), nhân đó mới đặt tên cho em trai tôi là Giao Nhị. Đáng tiếc cho vợ chồng tôi quá ngu ngốc, rõ ràng biết được mộng triệu quái lạ như thế, lại có cha tôi theo điểm mộng mà đặt tên, rành rành có chỉ điểm về nhân quả, mà tôi không hề nghĩ tới, chẳng là chuyện lạ hay sao ?
Tiên Tứ lại lặng yên suy nghĩ hồi lâu, mới nói :
- Bàn theo hướng đó, thì em trai tôi tới, không phải để làm con cháu nhà họ Tôn, mà chỉ vì việc báo thù mà tới ! Nhưng không hiểu sau khi báo thù xong, nó có biết cái mà qui chánh, phụng dưỡng cha mẹ hay không ?
Nói tới đó, Tiên Tứ bất giác rơi nước mắt. Tam thư buông tiếng cười nhạt, nói :
~ Lâm gì có những chuyện tốt đẹp như thế ! Anh quả là người nhân hiếu, chịu hãm hại oan uổng như vậy, mà vẫn không quên nghĩ tới cha mẹ. Một lần tường niệm như thế còn hơn tu hành nhiều năm. Chỉ tiếc cho cha anh, mẹ anh quá nghe lời con cưng mà sanh ra hồ đồ. Hiện tại ông bà tin lời em trai anh mà hại mạng anh, chẳng bao lâu, cũng bị nó áp bức, quyết không có kết quả tốt nào đâu ! Hạn kỳ không xa, anh cứ chống mắt mà coi !
----------------------------------
(1) Thì ra, ngày xưa các cụ cũng đã phân biệt rõ ràng : 1 Giao long là con thuồng luồng, thuộc “ loại rùa, ba ba, thường ở đầm sâu, sông rộng, còn có tên là con giai, 2 Hải gian : là con cá nhám. Hai con vật này thuộc hai loài khác nhau, lại có tên chung là giao, đều là thủy quái.

Tiên Tứ khóc lóc, nói :
- Nếu vậy, cha mẹ tôi nửa đời vất vả nuôi con, việc nối dõi một sớm trở thành hư không, mà kết cuộc còn bị hại dưới tay thằng đó, há chẳng đáng buồn hay sao ? Tam thư vâng lệnh sư tôn, tới cứu giúp tôi, có thể vị tình tôi, mà cứu cha mẹ tôi, được không ? Nếu được tôi cảm ơn cô, không biết để đâu cho hết !
Tam thư "Phì" một tiếng, nói :
- Anh lại nói chuyện hồ đồ mất rồi. Kiếp số đã định, sức người làm sao chuyển được ? Cha mẹ anh đã có anh là người con ngoan, sao đến nỗi việc hậu tự hư không ? Anh lấy việc bản thân xuất gia, không thể sinh con, nên cho rằng đời sau dứt hẳn ư ? Người ta sở dĩ cần có con cháu là để đề phòng lúc mình già yếu chết đi, không có người truyền lại huyết mạch. Nhưng nếu có thể trường sinh bất tử sống lâu ngang trời đất, hà tất phải có con cháu ? Người ta sở dĩ lấy việc thành tiên, liễu đạo làm quí, cũng vì một lẽ ấy mà thôi!
Tiên Tứ không thể cãi lại, chỉ nói :
- Cha tôi có tiếng là người tốt, mẹ tôi tuy xuất thân dị loại, nhưng trước nay không làm việc gì xấu, chỉ biết giúp đỡ cha tôi cùng làm việc thiện, sao đến nỗi phải chịu kiếp số như thế ?
- Việc này cũng khó nói. Theo đạo lý nhân quả báo ứng mà nói hễ việc gì hợp số mà nẩy sinh, ắt biểu hiện ra ở kết cuộc một đời. Nếu người ta chỉ dựa vào ngôn hạnh trong đời của một người, mà phê phán kết quả cuộc đời người đó, thì tự nhiên là sai một li, đi một dặm ! Cha mẹ anh kiếp này tuy đều là người tốt, nhưng làm sao hiểu được hai người đó kiếp trước đã làm những việc gì ? Khoan nói về phụ thân anh, hãy bàn về mẫu thân anh trước đã. Tôi biết đích xác rằng lúc bà làm "điền loa tinh" (ốc nhồi thành tinh) đã sát hại nhiều sinh linh, không sao kể xiết, lại còn dẫn dụ thiếu niên nam tử nhà người ta, để ngắt nguyên dương, bổ tinh khí. Cũng may tu thành một thứ pháp lực, có thể biến thành người, hoặc thành vật, hóa lớn hóa nhỏ tùy ý. Những việc tổn người, lợi mình như thế, há có thể hợp thiên đạo? Làm như vậy, sao có thể thành tiên ? Như bản thân tôi, lúc đó tuy đã tu thành hình người, nhưng có hành vi giông giống như bà ta, mà suýt nữa mắc phải lôi kiếp. Đó chính là bằng chứng về việc trời giáng hình phạt.
Tiên Tứ nghe mẹ mình làm ác, phải tội, bất giác đau lòng, khóc rống lên. Tam thư thở dài, nói :
- Công tử là hiếu tử chân chính, là người rất tốt, hèn chi sư tôn trọng thị anh cũng phải. Nhưng sư tôn đã sớm biết việc hôm nay, và ngay cả những việc tương lai nữa. Ông từng nói rằng sau này mẹ anh phải nhờ anh độ thoát cho mới được, nên anh có nhiều cơ hội đền ơn mẹ. Hiện tại, anh cần phải dụng công tu luyện, siêng năng tập luyện đạo pháp, việc của mẹ anh hãy tạm gác qua, đừng phí tâm sức làm gì. Sư tôn còn nói : hy vọng của anh rất lớn, mà ma kiếp cũng nhiều. Lần này anh tu, có khác với lần tu ở kiếp trước. Kiếp trước, anh từ đường súc sinh chuyển sang đường người, còn nay từ thân người chuyển vào tiên thể. Thân phận càng cao, việc tu trì càng vất vả, tương lai anh sẽ đạt tới mức độ vừa lớn vừa cao. Anh nên hiểu rõ lẽ đó, mạnh dạn tiến lên, đừng để trần tục làm lụy tới mình nữa, kẻo phụ lòng kỳ vọng của sư tôn.
Tiên Tứ cúi đầu nghe chỉ giáo. Bỗng lại nhớ tới tình cảnh của vợ, mới mỉm cười hỏi Tam thư :
- Đệ tử quyết không tham luyến tình vợ chồng, chỉ thương cô gái đó hiền đức, trước đây đã từng được Tam thư chỉ giáo, hứa một tương lai tốt đẹp, nay không biết cô ấy đã trở về nhà được chưa ? Trong tương lai có thể khẩn cầu Tam thư tùy thời mà chỉ dẫn cho cô ấy trong việc tu hành hay không ? Nếu cô ấy đạt được chút thành tựu nho nhỏ, cũng chẳng uổng phí ơn đức của Tam thư đã thành toàn cho cô.
Tam thư nghe vậy cười, nói :
- Mới khen anh giỏi, anh đã lãng quên việc luyện tập rồi. Rõ ràng anh không thể nào quên được cô vợ yêu quí, đã đem gánh nặng đặt lên vai ta. Nhưng việc này ta cũng không quản lý nổi đâu. Nếu anh muốn thành toàn cho cô ấy, hãy đợi tới sau khi anh chứng đạo, thành tiên, tự anh sẽ tới, độ cho cô xuất thế.  Tiên Tứ biết Tam thư tính rất ngang bướng, vội tươi cười cầu xin:
- Tam thư đừng ngang ngạnh nữa. Tam thư vốn ôm ấp lòng từ bi, đã cứu người lẽ nào lại nửa chừng bỏ dở ? Thật tình là vừa rồi, nhân lúc trò chuyện tôi tỏ ý lo lắng cho cô ấy thôi, chứ chẳng dám cầu xin Tam thư làm một điều gì cho cô ấy đâu. Tôi chỉ xin Tam thư đem tình huống hiện nay của cô ấy, nói cho tôi biết thôi.
Tam thư cười ròn, đem chuyện Tuệ cô thương chồng mà chết, nói cho Tiên Tứ biết. Tiên Tứ nghe qua, lại khóc lóc thổn thức, nói:
- Tôi hại cô ấy rồi ! Tôi hại cô ấy rồi !
Tam thư đứng bên cạnh, thấy cảnh khóc lóc đó, đột nhiên cất tiếng cười vang, đưa tay chỉ Tiên Tứ, nói :
- Quả là người đa tình, quả là có nghĩa khí ! Tôi thấy anh khóc thật tội nghiệp, nhịn không nổi. Để tôi trở về, trị khỏi bệnh cho cô ấy dẫn cô lại đây, cùng anh làm vợ chồng như cũ, được không ?
Tiên Tứ biết mình bị chế giễu, bất giác mặt đỏ tới mang tai, vội lau nước mắt, chùi nước mũi không dám nói một câu, ngây người ra mà nhìn Tam thư. Tam thư thấy anh là người trung hậu không nỡ chế giễu nữa, đem tình thực nói cho anh biết :
- Bá tiểu thư về nhân phẩm và tính tình chẳng những trong đám người phàm ít thấy, mà trong đám tiên nhân cũng vượt trội. Sự thành công của cô ấy chẳng thua kém anh đâu. Hiện tại đã có một vị sư muội của anh độ cho cô ấy, thu nhận cô làm đồ đệ. Kiếp trước, cô ta là một "Tư hoa tiên nữ" (tiên nữ coi về hoa) trên điện của Ngọc Hoàng. Nhân ngày vạn thọ của Ngọc Hoàng, quần tiên tới chúc mừng, không hiểu vì lý do gì, cô ta cùng với một "Tư hương tiên lại" đấu khẩu kịch liệt, đến nỗi nói ra những lời bất nhã, nên bị biếm xuống trần thế mười kiếp, qua mười lần luân hồi, nếu vẫn giữ được bản tính, mới được trở lại thiên tào, mà còn thăng thưởng nữa. Còn mối quan hệ giữa cô và anh chỉ xảy ra trong thời gian hạ phàm thôi. Anh đang từ âm phủ trở lên dương trần, tình cờ giữa đường gặp cô tiên nữ đó. Đồng thời, kẻ đối đầu với anh là lão giao, biết được là chẳng bao lâu nữa anh sẽ lên cõi  phàm trần, mới xuống âm phủ dò la tin tức của anh. Vì kiếp này, cô tiên nữ có dung mạo mỹ miều, lão giao trông thấy mới buông vài câu chọc ghẹo. Tiên nữ đang quẫn bách, chợt gặp được anh đi tới. Anh vì nghĩa nổi giận, yêu cầu quỉ tốt đang hộ tống anh, giúp một tay, đánh lui lão giao, cứu tiên nữ. Tiên nữ rất cảm kích, có lòng báo đáp ơn anh, nhân thế hai người có mối nhân duyên trên trần. Tất cả những chuyện ấy chẳng phải ngẫu nhiên. Nay cô đã trả ơn xong, anh còn bận tâm nghĩ đến cô, thì mối duyên đó kể như chưa kết thúc. Từ nay anh bất tất phải quấn quít lấy cô, mà chuốc lấy thêm nghiệp chướng. Sư tôn biết được, lại phải trách mắng. Anh phải nhớ kỹ mới được !
Tiên Tứ hiểu ra, cúi đầu lạy tạ. Tam thư dọn dẹp ba gian thạch thất bảo Tiên Tứ ở lại đây mà tu luyện, còn cô phải trở lại núi Tây Kỳ để phục mệnh Văn Mỹ chân nhân.
Tháng ngày của tiên gia qua đi rất mau, chẳng bao lâu mà đã qua bốn, năm năm. Tiên Tứ giữ đạo tâm kiên định, lại có căn cơ, nên tiến bộ rất nhanh. Văn Mỹ chân nhân mỗi năm đều sai Tam thư tới thăm, dạy anh những phép hộ thân, vời thần, khiến quĩ.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:48:51 bởi bevanng >

bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 09.07.2008 14:37:52
Hồi Thứ 16

Hiếu tử xuống biển thăm mẹ ốc
Chốn tiên vào cung yết kiến long vương.


Một hôm, Tiên Tứ đang ngồi ngay ngắn dưỡng khí, chợt nghe bên tai có tiếng người nói :
- Điền loa tinh đang gặp nạn, sao anh không mau mau tới thăm, đáp đền ơn nghĩa ?
Tiên Tứ mở choàng mắt ra. Thì ra là Tam thư tới thăm. Tiên Tứ vội đứng dậy nghênh tiếp, Tam thư nói :
- Hiện nay mẹ anh đang bị em trai anh nhấn chìm dưới sông Hoài. Cha anh thống hận thằng con bất hiếu, đã chết vào năm ngoái. Sao anh không tới thăm mẹ anh một phen ?
Tiên Tứ nghe nói, lại thảm thiết trong lòng, nước mắt đầm đìa, nói :
- Đệ tử từ khi nghe lời răn của thầy, lục căn đều tĩnh, bụi trần chẳng nhuốm. Đôi khi, trong lúc giữ yên tĩnh hoàn toàn, có nghĩ tới một điều gì chăng nữa, cũng chỉ là nghĩ tới cha mẹ mà thôi. Nỗi lòng uẩn khúc của đệ tử chỉ có sư tôn cùng Tam thư chứng giám. Riêng đối với tai nạn của cha mẹ, đệ tử hận không thể mọc thêm đôi cánh, tới thăm hỏi một phen, lòng này mới yên tĩnh trở lại.
- Con giao đó thác sinh làm người phàm, chuyên tìm cách chống đối anh. Sau khi anh đi rồi, nó gia nhập tà giáo, luyện tập yêu pháp, đã có thể biến trở lại nguyên thân, hưng yêu tác quái. Mẹ anh chẳng phải là người không có đạo hạnh, nhưng cũng không cưỡng lại nổi câu thần chú của lão giao : "Ngươi từ đâu tới, hãy quay về nơi đó !". Thương thay cho mẹ anh, làm người đã được mấy chục năm, cuối cùng lại trở thành một con ốc nhồi. Hơn nữa, còn bị lời chú cấm đoán, không thể ra vào tự do. Anh tuy học đạo nhiều năm, đạo thuật biết được kha khá, nhưng nếu đối kháng với nó, chỉ như trứng chọi đá, thất bại chắc chắn. Nay anh muốn đi, trước hết phải tìm ra một biện pháp chế phục giao tinh mới được.
Tiên Tứ không trả lời câu hỏi đó, trước hết muốn biết việc cha mẹ mình bị hại ra sao. Tam thư nói :
- Trong khoảng trời đất, hai khí chính tà đều có thanh thế tương đương. Chính có chính phái, tà có tà đảng, đó là lẽ thường. Tà không thể thắng chính, nhưng ngẫu nhiên gặp số kiếp đưa tới, chính nhân quân tử nhiều khi cũng không thể tự bảo toàn, tà khí thừa cơ khuynh đảo, cũng thường khi đánh bại được chính. Như hiện nay, con giao tinh đó tuy rằng có hành vi bất chính, nhưng nó đã gia nhập một loại tà môn, cũng có số đông phe nhóm bênh vực, như ba ba, rùa, cua đinh..., có thể tùy thời, tùy việc mà chỉ điểm cho nó, hợp tác với nó, để cùng quay về yêu đạo. Chí của bọn chúng đặt ở luyện phép, không biết tới đại đạo. Đạo là gốc, mà phép là ngọn, nên luyện tập phép thuật thì dễ, mà học đạo rất khó. Vì dễ nên luyện tập phép thuật không cần giữ qui củ chặt chẽ cũng đạt được, trong khi học đạo cần phải nghiêm chỉnh, cần phải trịnh trọng. Học đạo chưa thành, cũng như chưa học, mà người chưa học làm sao có thể đối kháng với yêu pháp ?
Tiên Tứ chợt hiểu ra, nói :
- Đệ tử đã hiểu rồi. Thằng Giao Nhi này nhất định đã được phe nhóm của nó giúp đỡ, chỉ điểm, nên đã sử dụng được yêu pháp, nên mẹ tôi không chế phục nổi phép thuật của nó, trái lại còn bị lời chú kìm giữ. Còn như cha tôi là người không có chút đạo hạnh, tất nhiên không phải đối thủ của nó.
Tam thư gật đầu :
- Cha anh vì thấy giao tinh ưa giao du với bọn phỉ đồ, việc ác nào cũng dám làm, nên có răn đe vài câu, bị nó đá cho một phát. Người đã lớn tuổi, già yếu, làm sao chịu nổi, nên không quá một ngày, đã vì trọng thương mà chết. Đó là sự việc xảy ra vào mùa đông năm ngoái. Sau khi cha anh chết, mẹ anh vì có phép thuật, luôn giữ được cơ thể tươi tắn như thời trẻ trung, bị yêu tinh nhổ nước bọt vào mặt. Thái độ hỗn láo đó làm sao chấp nhận được, mẹ anh mới cắn vào ngón tay nó. Không biết Giao Nhi học được phép thuật ở đâu, nó tìm được vỏ xác của mẹ anh, đem ra đặt giữa nhà. Đợi lúc mẹ anh bước ra, nó niệm câu chú : "Lão nương điền loa tinh! Mau hiện nguyên hình ! Nếu không, ta chém một nhát, đưa về âm phủ !". Câu chú vừa dứt, lạ lùng thay, mẹ anh biến mất. Thì ra mẹ anh đã bị thu nhập vào trong vỏ ốc. Trong vỏ ốc đó, bà tìm cách bò đi. Con giao ác độc đó vẫn không tha, đem con ốc nhồi bỏ nuôi trong ao. ý của nó là sẽ bắt con ốc, luộc lên mà ăn. Không ngờ ông Trời có cảm ứng, bỗng nhiên đổ một cơn mưa lớn, khiến con ốc bò ra khỏi ao, nhảy vào sông Hoài. Giao Nhi cũng hiểu được ý trời răn đe nó, không dám nghĩ tới chuyện luộc ốc ăn nữa. Nhưng nó dùng lời chú, nhận chìm bà ở dưới đáy sông Hoài, trong vòng một ngàn năm, không được xuất đầu lộ diện. Hiện nay, mẹ anh đang ở đó chịu khổ.
Tiên Tứ nghe nói, đau đớn khóc lóc :
- Cha mẹ tôi có tội nghiệt gì quá đáng, mà phải chịu báo ứng thảm thương đến thế ? Xin hỏi Tam thư, Tôn Tiên Tứ này có thể gặp mặt cha mẹ được không ?
Tam thư nghiêm sắc mặt, nói :
- Sao không được ? Không giấu gì anh, hôm nay tôi vâng pháp chỉ của sư tôn, dẫn anh đi, cùng tôi xuống sông Hoài để gặp mẹ anh.
- Sau khi thăm mẹ tôi, có thể nhờ thần linh của sư tôn, và pháp lực của Tam thư, cứu mẹ tôi ra khỏi chỗ nguy hiểm được không ?
Tam thư lắc đầu :
- Việc đó chẳng phải dễ dàng. Sư tôn từng nói : mẹ anh trước đây tác nghiệt không ít, ngày nay phải chịu báo ứng. Cũng may có anh là con giúp đỡ cho bà được nhiều điều. Sư tôn bảo tôi truyền cho mẹ anh một số phép tu luyện, để bà tập luyện, đạt được thể xác có thể lớn, có thể nhỏ, ngay cả việc có thể biến vỏ ốc thật lớn, đến độ trở thành ở động phủ dưới biển , lập một đạo tràng chứa được ngàn người. Dưới biển còn có long vương là chỗ bạn bè, có thể giúp đỡ bà hòan thành đạo hạnh, thoát ly đường súc vật. Bấy giờ bà mới chuyển họa thành phúc, đạt được kết quá tốt. Nhưng sư tôn nói ông với loa tinh chẳng có quan hệ gì, người có thể ra tay giúp đỡ bà ta, chỉ có thể là anh. Anh nên tu thành đại đạo đi đã, sau đó chu du thiên hạ, lập ba ngàn việc công đức, để hóa độ cho mẹ, đền ơn sinh thành ! Như vậy sẽ chậm trễ việc lên thượng giới một ngàn năm, và phải trải qua vòng luân hồi một lần nữa để làm người phàm tục. Nhưng nhờ anh có căn cơ rất dầy, việc thành tiên cũng dễ. Anh có chấp nhận việc làm đó, mới có thể chuyển cấp đại pháp cho mẹ anh, bằng không sư tôn cũng không hơi đâu mà lo cho điền loa tinh như thế ! Anh hãy suy nghĩ kỹ xem sao.
Tiên Tứ khóc lóc, khấu đấu lạy tạ, nói :
- Chỉ cần cứu được mẹ, Tôn Tiên Tứ này tình nguyện vĩnh viễn làm một du tiên, cứu nhân độ thế, dầu không được lên trời, cũng không một lời oán thán, huống hồ chỉ mất có một ngàn năm ! Tôi còn có một lời muốn hỏi : cha tôi hiện ở tại âm tào, sau này có thể nhờ Tam thư dẫn tôi đi thăm một chuyến, được không ?
Tam thư gật đầu :
- Cha anh luôn giữ lòng nhân hậu, kiếp này lại không làm một điều gì ác chẳng may tức giận mà chết, là do nghiệt trái từ kiếp trước sinh ra. Khi món nợ đó dứt, tự nhiên được thác sinh vào nơi phúc địa, lại hưởng lộc dồi dào nữa ! Anh bất tất phải bận tâm tới chuyện  đó .
- Tuy nói vậy, lòng tôi không khỏi nghĩ tới chuyện gặp mặt người cha quá cố một lần, sau đó mới có thể yên tâm.
Tam thư trầm ngâm một hồi, nói :
- Việc này gay đây ! Hiện thời sư tôn chỉ sai tôi đưa anh đi gặp mẹ anh, chứ không hề bảo tôi dẫn anh xuống âm ti. Tôi vì anh, tạm đưa ra một ý kiến tuyệt hảo thế này nhé ! Tôi có nghe sư tôn nói qua, cha anh tuy là người tốt, cũng không có duyên với tiên, chỉ đáng được hưởng mười lăm kiếp giáng sinh vào nhà phú hậu, lương thiện. Đợi cho anh công hành một ngàn năm đầy đủ, tôi nhất định sẽ xin với sư tôn cho anh được đầu thai vào làm con ông kia, khiến cha con anh sau một ngàn năm lại làm cha con, há chẳng phải một giai thoại thú vị lắm sao ? Như thế, anh trút bỏ được mối tâm sự canh cánh bên lòng, có tốt hay không ?
Tiên Tứ vui mừng bái tạ, sau đó lại hỏi tới kết cuộc của Giao Nhi ra sao. Tam thư lắc đầu, nói :
- Người đó vốn thuộc loài yêu ma, đã gia nhập tà giáo, mai sau tội ác chất đầy, tự nhiên có người thu phục nó, chúng ta cần gì phải phí tâm sức nghĩ tới ?
- Tội nó chất đầy : giết cha, hại anh, dùng bùa chú trấn áp mẹ, chưa thể kể là tội ác cùng cực hay sao ? Hạng người tội lỗi như thế còn để lại dương gian chỉ hại thêm người khác, há chẳng phải thiên đạo quá khoan dung ư ?
- Bàn cho kỹ, trong việc này còn có một đạo lý lớn, hiện tại chỉ có thể bàn bạc sơ qua với anh thôi. Như tôi đã nói, kiếp số đã định, chẳng những sức người không thể lay chuyển, ngay cả thiên đạo cũng không tác động tới được. Chẳng hạn như trời có bốn mùa, khí hậu trong ngày và đêm, có nóng, lạnh, mưa, gió. Theo suy nghĩ của người đời, ai cũng thích trời tạnh ráo, không mưa, muốn có thời tiết ôn hòa, không nóng quá, không lạnh quá, muốn có ngày dài vô tận, không đêm. Tuy nhiên, việc tương sinh, tương khắc, qua qua, lại lại đều có định số, ngay cả Ngọc hoàng thượng đế, Nguyên Thủy thiên tôn, Lão Quân tổ sư, và Như Lai Phật tổ bên Tây phương, cũng không thể miễn cưỡng được, huống hồ con người nhỏ bé ? Nay lại nói tới số kiếp, có đạo lý như thế nào ? Hãy lấy ví dụ việc trị loạn trên trần thế mà nói, đời không thể lúc nào cũng yên trị, không có loạn. Như thế đủ hiểu đạo không thể luôn luôn chính, không có tà. Hiện tại, chúng ta thấy giao tinh hung hiểm, tàn nhẫn, nên phải giết, không thể tha thứ, có biết đâu rằng trong khoảng trời đất, hạng yêu ma hung ác như thế nhiều vô kể ! Việc chúng sinh ra vốn do kiếp số, việc chúng hành sự vị tất đã không có đạo lý về nhân quả nằm bên trong ?
Tiên Tứ nghe vậy, không còn thắc mắc gì nữa, theo Tam thư ra khỏi cửa động. Tam thư đưa ngón tay ngoắt một cái, từ không trung hai đám mây trắng bay lại, từ từ hạ xuống trước mặt hai người. Tam thư đưa tay đỡ Tiên Tứ lên mây, chỉ cho anh các khẩu quyết điều khiển đám mây, lên cao, xuống thấp , bay đi hoặc dừng lại. Lát sau, Tam thư vỗ lên vai anh, nói :
- Kia là sông Hoài. Chúng ta đã từ Hải Nam bay lại, ước chừng đi xa được hơn một ngàn dặm. Anh hãy thử thí nghiệm, niệm khẩu quyết dừng mây, xem thế nào.
Tiên Tứ niệm lâm râm, quả nhiên đám mây ngừng lại, từ từ hạ xuống bên bờ sông Hoài. Tiên Tứ mừng rỡ, nhưng lại chợt nhớ tới thân mẫu ở đây chịu tội, chạnh lòng rơi nước mắt.
Tam thư đưa ngón tay xuống giữa giòng sông, chợt thấy sóng nổi cuồn cuộn, nước sông tự rẽ ra, giữa lòng sông xuất hiện một con đường bằng phẳng. Tam thư dẫn Tiên Tứ men theo con đường đó mà đi. Đi chừng nửa giờ đồng hồ, Tam thư bỗng lên tiếng :
- Trước mặt đây là một tòa cung điện, lấp lánh ánh sáng của vàng và ngọc bích. Đó chính là Thủy Tinh cung, nơi ông bạn thân của anh trú ngụ. Chúng ta trước hãy tới thăm hỏi ông ta, sau nữa nhờ ông ta giúp đỡ,
Tiên Tứ biết Tam thư đang nói tới chuyện kiếp trước, và người mà cô gọi là "ông bạn thân" chính là long vương Bình Hòa, mà sư tôn đã nhắc tới trước mặt anh, nên anh vui vẻ nói :
- Đã là bạn cũ, tất nhiên phải tới thăm hỏi, huống hồ lại có việc nhờ tới ông ta giúp đỡ.
Tam thư bước nhanh lên vài bước, tới chỗ bên ngoài Thủy Tinh cung. Liền có tuần hải (1) dạ xoa tiến lại chặn đường. Tam thư nói rõ ý mình, và chỉ Tiên Tứ, nói :
- Ông này là bạn cũ của đại vương.
Dạ xoa nghe vậy, không dám chậm trễ, vội chắp tay vái chào hai người, rồi cầm dùi gõ mạnh vào chiếc chuông, treo ở cửa cung điện, để thông báo. Chuông vừa vang lên ba tiếng, bên trong liền bước ra nhiều quan viên thủy tộc, như Quyết (2), Lý (3) tướng quân, hỏi thăm tên họ hai người, mời vào phòng khách. Hai người ngồi được một lúc, chợt nghe bên trong có tiếng truyền ra :
- Đại vương có lời mời hai vị lão hữu !
Tam thư dẫn dắt Tiên Tứ, theo chân mấy vị thủy quan, nghiêm chỉnh tiến lên.
Bình Hòa đại vương đã biết Tiên Tứ là ông bạn biển bức ở Quán Khẩu, chuyển kiếp làm người, nên tiếp đãi long trọng, xuống tận thềm nghênh đón. Tam thư và Tiên Tứ cùng thi hành đại lễ. Bình đại vương cười, nói :
- Chúng ta trước đây từng là bạn thân, nay lại không phải thuộc hạ của nhau, tôi đâu dám nhận đại lễ ?
Sau phần chào hỏi, long vương lui vào hậu cung, truyền dọn tiệc rượu, khoản đãi thượng khách. Trong tiệc, long vương hỏi chuyện Tiên Tứ từ sau khi chia tay. Tiên Tứ đem chuyện lão giao lăng nhục ở Quán Khẩu, được Văn Mỹ chân nhân đưa đi đầu thai, lại bị lão giao chuyển kiếp tiếp tục hãm hại, kể lại từ đầu tới cuối.
Là người nghĩa hiệp, vũ dũng, long vương nghe qua tức giận, vểnh ngược chòm râu, tóc tai dựng đứng, vỗ bàn, giậm chân, hét to lên.
---------------------
(1) Đi tuần tra quanh biển.
(2), (3), Quyết và Lý là tên hai loài cá, quyết là con cá giấc hoa, lý là con cá chép.


Lập tức truyền lệnh xuất quân, sai đem mười vạn thủy binh, cùng các tướng thuộc hạ, mau đi điều tra, bắt lão giao về đây, xử tội thật nặng để báo thù rửa hận cho ông bạn ta. Tam thư vội đứng dậy, can ngăn :
- Xin đại vương bớt giận. Đối với thứ tiểu yêu đó, cần gì phải phiền tới thần binh của đại vương chịu vất vả ? Sau này, tội ác của nó chất đầy, tự có thiên hình xử trị. Hiện tại, chưa tới lúc nó đền tội, e rằng có huy động ba quân, vị tất đã bắt được nó.
Long vương vẫn còn tức giận, nói :
- Nếu nói như thế, chẳng hóa ra bọn yêu nhân, vì số thọ còn dài, vẫn được nhởn nhơ hay sao ?
Tam thư nghiêm sắc mặt nói :
- Yêu nhân tuy nhất định sẽ có lúc đền tội, nhưng tên trời còn có kiếp số định trước. Những bạo quân, loạn thần trên đời, cùng những yêu tinh, quỉ quái ngoài đời, đều ứng kiếp số mà sinh ra. Kiếp số chưa hết, sức người không thể chế phục, kiếp số đã tới, chẳng cần đánh, chúng cũng tự diệt vong, đại vương cần gì phải phí thần trí ?
Long vương nghe vậy, ấm ức trong lòng. Tiên Tứ lại phải năm lần bảy lượt trần tình, long vương mới nguôi ngoai, vuốt chòm râu, cất tiếng cười hề hề :
- Thôi được ! Hai vị đã nói vậy, quả nhân hà tất phải gây sự với hắn ? Chẳng qua chỉ vì ta làm bạn với Tôn quân đã lâu năm, nay thấy ông bị người khác lăng nhục, mà ta không thể giúp đỡ một tay, làm sao ta yên lòng cho được ?
Tiên Tứ và Tam thư vội đem chuyện khác ra nói, long vương mới hết giận, cùng nâng chén mời nhau, uống rất vui. Tam thư mới nhắc tới chuyện Tiên Tứ tới tìm mẹ để thăm hỏi, long vương vội nói:
- Việc đó rất dễ. Hai vị bất tất phải đích thân đi thăm, quả nhân sẽ sai người đi tìm bà ta, cứu bà ra thoát chỗ nguy hiểm, đưa về đây để mẹ con gặp nhau, chẳng là diệu kế hay sao ?
Tam thư cười :
- Thịnh ý của đại vương, chúng tôi vô cùng cảm kích, nhưng loa tinh bị độc giao dùng chú trấn áp, không thể tự do. Vả lại loa tinh tội nghiệp cũng nhiều, đáng phải chịu kiếp nạn. Gia sư từng nói, phải đợi một ngàn năm kiếp số mới mãn. Trong thời gian đó, nên để bà ta tu luyện pháp thân, ở yên trong vỏ ốc, biến thành một động phủ, mời cao nhân thiết lập đạo tràng bảy ngày bảy đêm, cầu nguyện cho bà ta thoát khỏi tai nạn. Ngày nay, chỉ nên để cho bà ta nếm mùi đau khổ. Tuy là khổ trước mắt, thực tình là cơ hội tốt cho bà tu đạo. Tệ sư còn sai tôi truyền thụ khẩu quyết cho bà ta, nên sau này sự thành tựu của bà ta lớn vô hạn, nếu bây giờ cứu bà ấy ra, việc tu trì sẽ bị trở ngại, nên thương yêu bà ta lại hóa ra làm hại cho bà. Hiện nay, bà đang ở dưới quyền cai trị của đại vương, nhưng một ngàn năm dài đằng đẵng như thế, lấy gì bảo đảm bà ta không bị yêu nhân khác xâm lấn, khiến bà không thể chuyên tâm tu đạo ? Đó là điều rất đáng lo ngại. Tôi đặc biệt dẫn Tôn công tử tới yết kiến đại vương là để thỉnh mệnh đại vương ban chỉ dụ cho vị chính thần sông Hoài, tùy thời thiết pháp bảo hộ, Tôn công tử cảm ơn không hết !
Long vương vừa nghe, thuận miệng nói ngay :
- Chỉ là chuyện nhỏ, hai vị chẳng cần dặn bảo. Quá nhân sẽ mời ngay hai vị tả hữu thừa tướng, tới gặp hai vị.
Long vương liền dặn bảo hai vị thừa tướng giải quyết việc này cho thật tốt, lại sai Quyết đại phu đích thân dẫn dắt tám vị tuần hải dạ xoa hộ tống Tiên Tứ và Tam thư đi. Hai người hết sức cảm kích, rời khỏi bàn tiệc bái tạ, rồi theo Quyết đại phu và các tuần hải dạ xoa, rời khỏi long cung, tiến vế phía sông Hoài.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:51:05 bởi bevanng >

bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 09.07.2008 15:54:13
Hồi Thứ 17

Tôn Tiên Tứ xuống biển gặp mẹ
Trương Quả lão chuyển thế thành danh.


Hồ Tam thư dẫn Tiên Tứ đi theo Quyết đại phu và các tuần hải dạ xoa tới chỗ ranh giới giữa biển Đông Hải và sông Hoài. Đám dạ xoa thưa trình :
- Chỗ ranh giới giữa biển và đất liền này có tên là thôn Hoài Hải. Phía Đông thuộc quyền Hoài thần quản trị, mặt Tây đều là biển rộng, hiện tại do đại vương chúng tôi phái hải thần ra cai quản. Xin hỏi đại tiên muốn đi thăm bạn bè ở phía nào ?
Tam thư đưa mắt cho Tiên Tứ, rồi nói với các dạ xoa :
- Cảm ơn thịnh tình của đại vương đã phái các vị hộ tống chúng tôi đến đây. Bây giờ đã tới địa đầu, địa phương này lại nhỏ, không tiện làm phiền tới các vị nữa, các vị có thể trở về phục mệnh, chúng tôi tự đi kiếm cũng được.
Đám dạ xoa không dám trả lời, quay qua hỏi Quyết đại phu :
- Thế nào ? Quyết đại phu không muốn đi thêm, nói mấy câu khách sáo, rồi xin cáo từ.
Tam thư cười, nói với Tiên Tứ:
- Bọn người nhỏ mọn này ngoài mặt coi chúng ta là thượng khách, chứ thấy khó khăn cũng ngại, chẳng đáng cho chúng ta chê cười ?
Tiên Tứ cũng nhận là phải.
Hai người sử dụng khẩu quyết "rẽ nước", tìm tới đáy sông Hoài.
Quả nhiên ở đó họ tìm ra một con ốc nhồi rất lớn, đang hạ cái vẩy ốc xuống lớp bùn để thò cái đầu ra ngài, hít thở không khí. Một số những con vật nho nhỏ bơi chung quanh, để đớp đám rong rêu bám quanh vỏ ốc. Tiên Tứ biết rõ đó là mẹ đẻ của mình, đau lòng quá, khóc rống lên. Tam thư vội nói :
- Đừng khóc, đừng khóc ! Để tôi tới, thay anh thông báo một tiếng. Còn phải làm thể nào để mẹ anh có thể nhận ra anh là con!
Tiên Tứ nghe lời, khom lưng xuống, ôm lấy cái vỏ ốc đang nổi trên mặt bùn, đồng thời nghe Tam thư cất tiếng dặn dò :
- La Viên ? La Viên ! Đứa nghịch tử bị ngươi xua đuổi, là Tiên Tứ nay tới kiếm ngươi đây !
Con ốc nhô thêm một khúc mình khá dài lên phía mặt nước để nhìn ngắm. Nhìn tình hình đó, dường như điền loa có nhận ra Tiên Tứ là con trai mình, đưa cái đầu đụng đầu Tiên Tứ, dính chặt hồi lâu, không động đậy, dường như không nỡ lìa xa, chẳng khác nào tình mẹ con quấn quít. Tiên Tứ cứ ôm chặt lấy khúc mình ốc mà khóc thất thanh. Thật lâu, thật lâu, Tam thư mới thay mặt anh mà kể rõ sự tình, nói rõ cả ý của sư tôn muốn cứu vớt điền loa, khuyên La Viên chịu đựng thảm kiếp này trong vòng một ngàn năm, ở nơi đây mà tu thân lập mệnh, tạo thành tấm thân bất hoại, lại nói :
- Tất cả chỉ vì kiếp trước ngươi tạo nghiệp quá nhiều, nay phải chịu quả báo đau khổ. Nhưng nhờ có con trai ngươi, ngươi sẽ được thành chính đạo, há chẳng phải là trong cảnh bất hạnh lại gặp may mắn hay sao ? Nay ta đem khẩu quyết tu luyện truyền thụ cho ngươi, ngươi vốn thiên tư thông minh, hãy dụng công đêm ngày, chỉ chừng ba trăm năm sau đã có thể rời bỏ vỏ xác, lời bùa chú cũng không câu thúc được ngươi. Nhưng ngươi vẫn không được rời khỏi chỗ đáy nước, mà phải trải qua năm trăm năm nữa, công hạnh mười phần mới đạt được tám, chín, chẳng những yêu ma ngoại đạo không thể hại nổi ngươi, mà ngươi còn có thể ở chỗ cư trú dưới đáy biển, biến vỏ xác thành một động phủ. Một ngàn năm sau, công hành viên mãn, lúc đó ngươi có thể cùng con trai gặp mặt, và mời về một đạo sĩ cao minh lập một đạo tràng cực lớn, siêu độ cho rất nhiều oan hồn của những kẻ đã bị ngươi giết hại, từ đó sổ ghi những điều tội nghiệt mới được xóa sạch, tiền trình thuận lợi. Ngươi hãy chuyên tâm tu luyện, đừng để ý tới những chuyện khác .
Điền loa tinh nghe nói, gật đầu vài cái, tỏ ý tạ ơn. Tam thư đem những lời chú truyền thụ cho nó. Mọi việc xong xuôi, Tam thư bảo Tiên Tứ :
- Nơi đây không nên ở lâu, chúng ta về thôi !
Tiên Tứ vâng lời, cùng điền loa quấn quít một lúc nữa, ân cần khuyên nhủ, khuyến khích vài câu, mới cùng Tam thư xoay mình từ biệt, lên khỏi mặt nước. Tam thư nói :
- việc lớn của anh đã xong, hãy mau trở lại núi Thiên Thai, tiếp tục học bài học hàng ngày của anh đi !
Tiên Tứ xin vâng. Tam thư để anh tự đọc lời chú cưỡi mây, cả hai cùng bay lên không trung, hướng về phía Nam thẳng tiến.
Không bao lâu tới núi Thiên Thai, trở lại chỗ hang động cũ, Tam thư mới ngỏ lời từ biệt. Lúc lâm biệt, trịnh trọng dặn dò :
- Này công tử, từ nay về sau, trách nhiệm của anh càng ngày càng lớn. Anh đã lập chí cứu mẹ, phải làm sao đưa được mẹ ra khỏi biển mới kể là hoàn thành việc lớn của anh. Tất cả đều nhờ vào công hành của anh. Kiếp này tuy phải chịu khổ sở, kiếp sau sẽ có nhiều điều tốt lành. Trong năm trăm năm đầu, anh chuyên tâm tập luyện cho thành, năm trăm năm sau, tuy chưa thành tiên, cũng đã có được nhiều pháp lực, để có thể ra ngoài, đi rong chơi khắp nơi, gặp khổ cứu khổ, gặp nạn cứu nạn, làm cho đủ số những việc công đức đã được dự liệu. Lúc đó sư tôn sẽ đưa anh xuống phàm trần, chuyển kiếp. Sau lần chuyển thân này, chỉ cần anh giữ được bản tâm không mờ tối, là vài chục năm sau anh đã có thể thành đạo, lên tiên. Anh nên biết sư tôn hy vọng ở anh rất nhiều, chúng ta phận làm đệ tứ, đừng để phụ lòng kỳ vọng đó, mới là biết ơn sư tôn.
Tiên Tứ nhận là phải, lại hỏi Tam thư :
- Bây giờ, Tam thư đi đâu ?
- Tôi phải về núi Tây Kỳ phục mệnh sư tôn. Đại khái là việc của anh chưa tròn vẹn, e rằng tôi sẽ phải tới xử lý nhiều lần nữa.
- Tự nhiên phải vậy. Tôi là người được Tam thư nắm tay dẫn dắt, ngày nào việc công hành của tôi chưa thành, ngày đó Tam thư vẫn phải bận tâm nghĩ tới.
- Chẳng nên nói quá như vậy. Ngoài ra, có nhiều việc tôi vẫn chưa hiểu hết, chỉ biết rằng một ngàn năm sau, phải tìm cho được một đạo hữu làm pháp sư chủ trì đạo tràng cho mẹ anh, mà ngay bây giờ tôi phải lo toan.
Tiên Tứ không hỏi gì nữa, tiễn Tam thư ra khỏi cửa động. Vì cô thay mặt sư phụ để giáo huấn cho anh, anh không thể đối đãi với cô bằng cách xã giao thông thường, mà dùng đại lễ cung kính như đối với lão sư, quì xuống tiễn đưa tới lúc không thấy hình tung mới trở về động phủ.
Tam thư về Tây Kỳ, tham kiến Văn Mỹ chân nhân, chân nhân khen cô đã giải quyết công việc gọn gàng, đồng ý thu nhận cô làm đệ tử, và đặt cho pháp danh là "Tuệ Thông", ở luôn bên cạnh chân nhân, nghe sai bảo. Cứ vài chục năm, ông lại sai cô tới Thiên Thai một lần, điều tra công hành của Tiên Tứ.
Năm trăm năm sau, chân nhân đích thân tới Thiên Thai, truyền thụ đại đạo về luyện khí, luyện đan cho Tiên Tứ, lại đưa cho chàng hai quyển thiên thư, trong đó chép về ngũ hành độn pháp, cùng các cách vận dụng biến hóa, vời tướng khiến thần, thu yêu phục quái, đủ mọi phép thuật. Nếu một trăm năm luyện tập thành công, chân nhân mới cho phép chàng chu du thiên hạ, lập nhiều công hành.
Một ngày kia, chân nhân phóng tuệ tâm đi xa, biết được Tôn Kiệt đã đầu sinh qua hơn mười kiếp, ngàn năm có dư. Bấy giờ vào đời nhà Hạ và nhà Thương, Tôn Kiệt hiện đã giáng sinh vào một nhà giầu họ Trương, ở thành Lạc Dương. Ông họ Trương này tuổi vừa bốn chục, vẫn chưa có con nối dõi, Văn Mỹ chân nhân mới dạy Tiên Tứ xuống phàm, làm con trai Trương ông, cho tròn túc nguyện của một ngàn năm trước. Họ Trương có tên gọi là Thiên Thành, sinh được một trai, đặt tên là Trương Quả. Kiếp trước của Trương Quả chính là Tiên Tứ, vì túc căn thâm hậu, đẻ ra đã biết nói, thông tuệ khác thường. Năm cậu ta lên mười, Văn Mỹ chân nhân phái Tuệ Thông đạo cô tới chỉ điểm cho. Trương Quả tức thì tỉnh ngộ.
Trương Thiên Thành một đời hiếu thiện, hưởng dụng mười kiếp không hết, từ khi được Trương Quả làm con, vô cùng mãn ý. Tuệ Thông sợ ông ta mai sau có thể ngăn cản việc tu đạo của Trương Quả, lại nghĩ ông ta một đời công hành, thực căn ngàn năm, nhưng nếu không biết quay đầu nhìn lại, sẽ không tránh khỏi càng tiến càng xuống thấp, cuối cùng cũng có ngày rơi vào biển khổ. Nhân chỉ thị cho Trương Quả, cô cũng tiện dịp điểm tỉnh ông vài câu. Trương Thiên Thành biết được nhân quả kiếp trước, lại thấy Tuệ Thông cưỡi mây đạp mù mà đi, pháp lực vô biên, nên tin chắc rằng trên đời quả có thần tiên. Thần tiên chẳng qua chỉ là người phàm, tu luyện mà nên. Ông rất mừng cậu con đẻ ra đã có sẵn tiên căn, lại nghĩ tới bản thân mình đây, sợ rằng phúc lộc một khi đã hết, kiếp sau không khỏi chịu khổ. Vì thế ông lập chí tu đạo, thường đem ý mình nói với Tuệ Thông. Tuệ Thông mừng rỡ, nói :
- Cư sĩ được tiên nhân làm con, kiếp trước hẳn có tiên duyên, lại biết đem thân tu đạo, sự thành tựu đã thấy trước mắt.
Nhân đó, truyền thụ cho ông các khẩu quyết về việc tu dưỡng. Hai cha con đồng tâm đồng ý, nghĩ tới việc tu đạo. Thiên Thành đem một phần gia sản, phân tán cho những người cùng khổ, đợi sau khi vợ ông ta, tức là thân mẫu Trương Quả qua đời, sẽ chuyên tâm tu hành. Trương Quả được Tuệ Thông chỉ dẫn hội ý với thiên Thành để hai cha con đi trước tới miền sông Hoài, kết thúc vụ án điền loa tinh. Bấy giờ Trương Quả tuy tuổi còn trẻ, kiếp trước lập được nhiều công phu, cũng giống như lúc bé đọc sách, lớn lên ôn luyện, có thể đem ứng dụng. Trái lại cha cậu, mới học tiên quyết, chưa có chút công phu nào, nhất thiết phải nhờ người chỉ dẫn. Hai cha con hẹn với Tuệ Thông, cùng gặp nhau ở thôn Hoài Hải. Tuệ Thông thay mặt hai người tới tạ ơn long vương đã chiếu cố trong một ngàn năm qua.
Trong năm trăm năm cuối, La Viên pháp lực không nhỏ, thường hay ra tới tận biển du hành, thấy những sinh vật dưới nước gặp nguy, liền ra sức giúp đỡ. Có một lần, ở trên sông hoài có một đám thương khách ra biển kinh doanh. Vừa ra khỏi cửa biển, gặp ngay phải một cơn gió lớn, một thuyền hơn hai chục người, suýt nữa đắm. Vừa hay La Viên bơi ra đó, thấy cảnh đó, vội vã đưa vỏ ốc đỡ lấy con thuyền, đội thuyền lên, cứu được tính mạng cho hơn hai chục người. Không dè bản thân vì thế mà lộ ra. Vừa hay, có một yêu nhân là đồng đạo với lão giao trông thấy, liền cầm một cây roi sắt đánh đuổi. La Viên thấy nguy, bơi đi. Yêu nhân cầm roi, nhắm La Viên đánh xuống. Cây roi sắt của yêu nhân chưa kịp đánh trúng, đã có vị thần tướng ở dưới biển để bảo vệ La Viên, hay tin chạy tới, cầm chiếc chầy vàng, đánh nhau với yêu nhân, khiến nó phải bỏ chạy. La Viên nhờ vậy mới về được đáy biển.
Về sau, La Viên tu thành đại đạo, mới biến vỏ xác của mình thành một động phủ dưới đáy biển. Trong một vùng rộng lớn, cách xa nơi đó vài trăm dặm, có ánh sáng năm mầu chiếu lung linh. Nhiều yêu nhân thấy dưới biển xuất hiện báu vật kỳ lạ, kéo nhau tới tấn công. Cũng may có long vương đề phòng sẵn, phái ba ngàn thần binh tới, trấn giữ cửa ngõ thôn Hoài Hải, mới được vô sự. Những việc giúp đỡ như thế kể ra cũng nhiều. Lúc Tuệ Thông tới thủy tinh cung yết kiến long vương, long vương đã biết trước ý cô, ngó lời ca ngợi cô đã chịu nhiều vất vả. Tuệ Thông cười, nói :
- Bần đạo tới đây là để thay mặt ông bạn của đại vương, ngỏ lời cảm tạ, sao đại vương lại lên tiếng trước để ca ngợi tôi ?
Long vương cất tiếng cười vang :
- Chúng ta đều là người giúp đỡ ông bạn già, sao lại nói tới việc tạ ơn ? Nghe nói bà La Viên tuân theo pháp chỉ của Văn Mỹ chân nhân, mới lập ở chỗ động phủ của bà một đạo tràng, không hiểu vị pháp sư chủ trì là ai ?
- Việc này, năm trăm năm trước tệ sư đã tính sẵn, phải nhờ một vị đạo nhân què, họ Lý, đứng ra chủ trì việc trai đàn. Người này cùng với ông bạn già của đại vương có một mối pháp duyên, vừa trực tiếp, vừa gián tiếp. Vị tiên què đó kiếp trước vốn là "tư hương lại" trên điện của Ngọc đế vì không giữ mồm giữ miệng, nhân ngày vạn thọ của Ngọc đế, đã cãi nhau với một vị "Tư hoa tiên quan". Hai người đều bị biến xuống trần, trải qua mười kiếp luân hồi. Cô "Tư hoa tiên nữ" trong lần giáng sinh đầu tiên chính là phu nhân của ông bạn già Tiên Tứ của đại vương, và như vậy là con dâu của bà La Viên phu nhân, người mới mở đạo tràng hiện nay. Tính tới ngày nay, hai vị tiên bị biếm chích đều đã trải qua mười kiếp luân hồi, nay kỳ hạn đã mãn, và hai vị đó đều giữ được bản tính không mờ tối, tu hành chính quả, có thể hồi chuyển về thiên tào, giữ nguyên chức. Tôi còn nghe hiện nay, cô tiên nữ sinh vào nhà họ Hà ở Giang Nam, ra đời chưa lâu, còn Ti hương lại nay thác sinh vào nhà họ Lý ở Hà Nam. Người ta còn truyền rằng ông ấy là hậu nhân của người cùng họ với Lão Quân tổ sư. Tổ sư từ thời Bàn Cổ tới nay đã chuyển kiếp làm người nhiều lần (1). Một trăm năm gần đây, ngài chuyển sinh làm người ở huyện Khổ, thu được một đệ tử là Văn Thủy chân nhân. Đúng vào lúc Ti hương lại chuyển sinh ở kiếp thứ mười, tổ sư liền phái Văn Thủy chân nhân tới chỉ điểm cho ông ta. Vì thế Lý tiên thành đạo khá nhanh.
Những người tu đạo từ trước đến nay chưa có ai gặp được kỳ duyên như thế. Tổ sư lại đích thân thu nhận Lý tiên làm đồ đệ, giữ lại bên mình để sai bảo. ông ấy có tiền trình quả là lớn vô hạn. Sở dĩ tôi nói Trương Quả và Tôn Tiên Tứ có tiên duyên gián tiếp là vì vợ Tiên Tứ chính là Tư hoa tiên nữ.
Long vương gật đầu, nói :
- Đúng vậy ! Việc Tư hoa tiên giáng sinh vào kiếp thứ chín, quả nhân có nghe nói, lại còn giúp chút công lao nhỏ cho nàng nữa đó !
------------------------------
(1) cũng theo truyền thuyết, Lão Tử là ông Lý Nhĩ. Vì thế, nhà Đường mới tôn xưng ông là tị tổ của các vua nhà Đường.

Tuệ Thông không có thời giờ hỏi tới chuyện đó, lại nói tiếp :
- Tuy rằng chẳng đáng kể làm gì, nhưng theo qui củ của tiên gia thì hễ hai bên có chút quan hệ với nhau, đều gọi là "duyên". Vì thế ông tiên què cùng Trương Quả hiện thời cũng có thể nói là có chút tiền duyên.
Long vương cười, cho là phải, lại nói :
- Trong vỏ ốc mà lập đạo tràng quả là chuyện lạ, ngàn năm chưa từng nghe nói tới ! Xét cho cùng, diệu dụng của tiên gia khác với của người trần gian. Thịnh hội như thế, chắc hẳn lệnh sư (l) Văn Mỹ chân nhân, cùng nhiều vị tiên quan, tiên lại đều phải tới dự. Lúc đó, quả nhân cũng phải đích thân tới, để coi cho biết một thịnh điển hiếm khi gặp được ? Nhưng chẳng hay đã định ngày nào chưa ?
Tuệ Thông đáp :
- Chưa có ngày hẹn nhất định. Nhưng cũng phải đợi mấy người kia họp bàn kỹ lưỡng, sau đó tôi đích thân đi mời pháp sư, đạo tràng mới có thể mở được. Lúc đó nếu đại vương rảnh rỗi, hãy cùng tôi tới tham dự cho vui.
--------------------------
(1)    Thầy của cô. Chữ "lệnh" dùng để gọi tôn những điều sở hữu của người đối thoại (lệnh ái : con gái ông, lệnh đường : mẹ anh...)

Mọi người cùng cười ầm lên. Tuệ Thông nói xong, từ biệt long vương, đi mau về thôn Hoài Hải. Cô thấy tình hình trong thôn đổi khác hẳn. Trước kia vắng vẻ, cá tôm cũng không bơi tới, nay vì vỏ ốc phát sáng, thủy tộc khắp nơi, hễ có chút đạo hạnh, nghe việc lạ này, đều không ngại xa xôi ngàn, vạn dặm, kẻo tới xem, đồng thời những người quen mua bán các loại thủy sản cũng thừa cơ mở một thương trường. Không đầy mười năm, thôn Hoài Hải vắng vẻ ngày trước, trở thành một hải thị lớn, việc mua bán rất phồn thịnh. Tuệ Thông nhìn quang cảnh ấy, bất giác gật đầu tán thưởng. Lát sau, đi tới chỗ vỏ ốc của La Viên, biến thành động phủ. Ngôi nhà đó được kiến tạo theo nguyên hình của vỏ ốc; lối vào là một cửa hình tròn, rất lớn, vào tới bên trong phải đi quanh co theo hình xoắn ốc, thông tới chỗ thấp nhất lại là cửa hậu nho nhỏ, cũng hình tròn. Trong động rộng rãi khác thường, có thể chứa được tới vài ngàn người. La Viên đã hoàn toàn biến thành hình người. Riêng bà chiếm ngụ một phòng, phòng đó chia làm ba gian, hai bên đều có hành lang, thông suốt từ trước ra sau. Còn đồ đạc bày biện bên trong, tuy không hoa lệ lắm, nhưng cũng thanh nhã, đẹp đẽ. Tuệ Thông nghĩ thầm : "Theo tình hình này, có thể mời đón được nhiều vị thần tiên". Cô đang đi tham quan từ nơi này sang nơi khác, sớm đã có những người phục dịch trong động trông thấy, vội phi báo vào bên trong. La Viên phu nhân tiến ra, theo sau có cha con Thiên Thành, cùng nghênh tiếp cô.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:53:02 bởi bevanng >

bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 09.07.2008 16:50:49
Hồi Thứ 18

Kim sơn thành cổ tích
Đền ơn ở kiếp sau.


hồi trước, sách này có nói tới việc mở đạo tràng ở trong vỏ ốc, Tuệ Thông đạo cô có nói rằng vị pháp sư chủ trì đạo tràng là một ông tiên què, họ Lý. Nay chúng tôi sẽ nói tới tiểu sứ của vị tiên què đó, ông xuất thân ra sao, chứng đạo thành công thế nào, và kể rõ cả những việc ông tế nạn, cứu đời, cùng mối quan hệ của ông với Hà tiên nữ, nói rõ một lượt.
Các vị độc giả hiểu địa lý của Trung Quốc, hẳn biết rõ về một danh sơn nằm vắt ngang qua sông chứ ? Núi đó có tên là Kim sơn, chẳng phải một ngọn núi do thiên nhiên sinh ra đâu. Cách đây vài ngàn năm, nơi đó chẳng những không phải là đất bằng mọc lên một ngọn núi, mà ngay cả một vùng đất bình thường để người dân sinh sống cũng không hề có, nói tóm tắt một câu, đó chẳng qua chỉ là một vũng nước rộng mênh mông ở trung lưu của sông Dương Từ. Đến thời trung diệp nhà Chu, ở trên bờ sông đó có một thôn làng rất rộng, trong thôn có một người vừa đọc sách vừa làm ruộng, một vị quân tử ẩn cư, không chịu ra làm quan, gọi là Mã Thượng Nguyên, sinh được một gái, tài đức, dung mạo đều đủ, người ta gọi là Mã đại cô nương. Năm cô nương được mười tám tuổi, lấy chồng là một thư sinh họ Cổ, người cùng thôn, là một hàn sĩ nghèo rớt mồng tơi, lại có một bà mẹ kế hung hãn không ai bằng, là bà Vu thị. Đại cô nương về nhà chồng, cảnh mẹ chồng nàng dâu hiềm khích nhau cũng chưa từng thấy xưa nay. Vu thị thấy hàng xóm và họ hàng đều thân mật với đại vương, mà lạnh nhạt với mình. Bà ta không nghĩ thiên hạ sơ tình với mình là tại mình tính tình độc ác, trong khi đại cô hết sức dịu dàng. Trái lại bà ta còn nghi đại cô đã nói xấu bà trước mặt người khác. Hơn nữa Vu thị là người có thành kiến cứng ngắc, hễ bà đã nghĩ gì, không ai có thể lay chuyển nổi. Tuy đại cô cố giữ hiếu đạo, hy vọng mẹ chồng sẽ thay đổi mà thương yêu mình, nhưng Vu thị lại nói : "Nó cố tình che giấu gian ý, để người ngoài nhìn vào tưởng nó ngoan lắm, chứ thật tình lòng nó chứa gươm đao, hận không thế đâm chết tôi thôi".
Đại cô chịu đựng tất cả oan tình đó, không dám nói cho chồng biết. Cổ thư sinh là một người con hiếu, thông tình đạt lý, biết mẹ và vợ bất hòa, chẳng dám phê bình mẹ là sai, trước mặt vợ không dám có câu nào an ủi, khuyên can. Trái lại, thấy mặt vợ ủ dột chàng còn trách nàng không tròn hiếu đạo. Vì thế, gia đình này càng xào xáo. Ngày lại ngày, bất giác mà đã qua năm, sáu năm. Cổ thư sinh rất khó xử, không tài nào điều chỉnh được chuyện gia đình. Chàng cũng biết vợ mình là một người đàn bà hiền đức, hàng ngày bị mẹ kế của chồng đánh chửi vô lý, làm sao có thể nhẫn tâm đẩy sóng nhỏ trợ giúp sóng lớn để làm khổ vợ mình ?
Vu thị chẳng những giở mọi thủ đoạn để hành hạ con dâu, còn ngày đêm trách oan con trai, nói anh ta bênh vợ để cãi lại mẹ, sủng ái vợ để ngỗ ngược với mẹ. Tội bất hiếu còn gì nặng hơn ?
Cổ thư sinh quá đau khổ vì cảnh gia đình, quyết định đi ra ngoài để tìm cơ hội. Vừa may có một người bạn giới thiệu chàng với một nhà buôn, trợ giúp ông ta trong việc mua bán. Cổ thư sinh nghĩ nên nhân dịp này xa nhà một thời gian, thứ nhất là tránh được cảnh gia đình bất hòa, thứ hai là kiếm được tiền gửi về nuôi mẹ.
Cổ thư sinh đi rồi, Mã đạo cô phải thay chồng làm bổn phận của người con trai, tìm trăm phương ngàn kế để kiếm tiền phụng dưỡng Vu thị. Chẳng dè bà ta thấy nàng kiếm ra tiền, lại nói nàng nhất định có bồ bịch, nếu không, ở đâu kiếm ra nhiều tiền thế ?
Những câu nói bóng gió đó khiến đại cô phải bịt tai chịu đựng, nổi khổ so với lúc chồng còn ở nhà lại tăng gấp mười. Nàng phẫn chí, lăn ra đất, chết giấc hồi lâu. Vu thị chẳng thèm để ý tới nàng, còn nói nàng giả bộ chết để dọa. Tất nhiên đại cô chết giấc một hồi, rồi cũng tỉnh lại. Vu thị đắc ý nói : "Đấy, tôi nói có sai đâu. Con tiện nhân này mưu mô giỏi lắm. Lần sau nó chết thật, tôi cũng mặc xác!".
Trong lúc oán hận, đại cô cũng muốn chết thật để làm sáng tỏ chí của mình, nhưng sau nghĩ lại : "Chẳng thà để mẹ bất từ, ta cũng quyết không tỏ ra bất hiếu. Vả lại chồng ta lúc lâm biệt có dặn dò ta không nên chán sống, kẻo lấy ai phụng dưỡng mẹ già đã suy yếu ? Vi thế nàng càng nhẫn nhịn, dầu oan khổ cách mấy cũng ráng chịu đựng.
Cổ thư sinh gửi về được bao nhiêu tiền, Vu thị tóm hết ráo, không cần biết đến đại cô sống chết ra sao. Lại nhân có tiền chi dùng, không cần tới đại cô nữa, càng thêm ghét bỏ, thấy mặt con dâu như cái đinh trước mắt, nghĩ cách nào để tống khứ nàng đi. Mụ đánh tiếng bán nàng đi, muốn mua về làm vợ lẽ, làm con hầu đều được mà giá cả cũng không thành vấn đề.
Bấy giờ, trong thôn có một tên ác bá, tên là "Hoạt Lão Hổ" (cọp già sống) từng nghe đại cô tài sắc kiêm toàn, nuôi dạ bất lương đã lâu, hận rằng đại cô giữ trinh khiết, hắn không có cơ hội mà lợi dụng. Nay nghe tin này, hắn mừng quá, sai người tới thương lượng, đòi giá bao nhiêu, trả ngay giá đó, ước hẹn hôm sau làm lễ đón dâu.
Hôm sau, Vu thị bỗng gọi đại cô tới, dịu nét mặt, cất giọng ôn tồn nói với nàng. Đại cô thấy vậy, tỏ vẻ ngạc nhiên, nghe mụ nói :
- Năm xưa bố chồng của con mắc bệnh nặng, có tới khấn nguyện ở miếu của thần sông. Về sau, ông qua đời, mẹ cũng quên trả lễ không ngờ đêm qua nằm mơ thấy một giấc mộng. Mẹ mơ thấy thần sông sai người tới trách mẹ đã thất hứa, mẹ mới nói : "Lời hứa thật tình con chẳng dám quên đâu, mà vì con quá già yếu, đi đứng bất tiện, mới để diên trì tới tận hôm nay". Người đó nói: "Nếu thế, người có thể sai con dâu đi thay, cũng được vậy". Lúc mẹ tỉnh dậy, cảnh trong mộng dường như còn rành rành trước mắt, không quên điểm nào, cho thấy chuyện này hoàn toàn chính xác, không chút giả dối. Con dâu yêu quí, con hãy thay mẹ đi một chuyến nhé. Sau này chồng mày về, nhất định cảm kích, thương yêu mày lắm đấy!
Đại cô từ ngày chồng đi khỏi, chưa hề thấy mẹ chồng đối xử với mình từ tế như thế, lại nghĩ đây là lệnh của mẹ, mình cứ tuân theo, không chừng bà nghĩ lại, biết thương yêu mình chăng ? Vì nghĩ vậy, nàng cũng dạ dạ tuân lời. Chừng trở về phòng riêng, nàng suy nghĩ, thấy chuyện này vô lý quá, không biết bên trong có ẩn chứa mưu mô gì hay không ?
Hôm sau, nàng dậy sớm, rửa mặt chải đầu sơ qua, đã nghe Vu thị nói :
- Bên ngoài, xe đã tới, con mau mau lên xe đi !
Đại cô càng ngạc nhiên, buột miệng hỏi một câu :
- Sao mẹ lại phải mướn xe ? Con dâu mẹ dẫu yếu ớt, một lộ trình bảy tám dặm làm gì đến nỗi không đi nổi ? Hà tất phải mướn xe ? Chẳng phí tiền của mẹ lắm sao ?
Vu thị cưới đáp :
- Đừng nói lôi thôi, mau đi đi. Con cần đi cho nhanh, chừng một buổi về liền, đừng để mẹ cô đơn, chịu không nổi. Có xe thay chân, đi nhanh hơn chứ. Vả lại lúc này, chồng mày gửi tiền về, nhà mình cũng dư giả, chút tiền xe ngựa nhỏ nhoi so kè làm chi ? Con đừng nhiều lời nữa, đi cho mau, về cho sớm ! Đừng để mẹ phải ngóng chờ nhé !
Đại cô đã biết lần đi này là ngụy kế, lành ít dữ nhiều, nhưng chung qui nàng cũng đoán không ra là mưu mô gì. Tuy nhiên, người đã chán sống như nàng, thì chết là cùng, có gì phải sợ ?
Nàng từ biệt Vu thị, ra khỏi cổng lớn, quả thấy có xe ngựa đậu sẵn, còn có nhiều người phu xe đi kèm. Nàng chợt hiểu nội dung chuyện này, nhưng cũng bất cần, leo lên xe đi ngay.
Đi chừng ba, bốn dặm, xe quẹo sang đường khác, không phải lối đi tới miếu thần sông. Đại cô hiểu ra liền, vén rèm nói với người đánh xe :
- Tạm dừng xe, cho tôi hỏi một câu!
Người kia nghe lời, hãm cường ngựa, cỗ xe từ từ ngừng bánh.
Đại cô không biến đổi sắc mặt, thung dung hỏi :
- Các vị có phải những người do mẹ chồng tôi mướn, để đưa tôi tới miếu thần sông hay không ?
Mấy người phu xe nghe hỏi, đều tỏ vẻ ngạc nhiên, nói :
- Không phải đâu. Chúng tôi là người của Lưu đại nhân, ở thị trấn phía Tây, sai đi đón dâu đây mà. Chuyện này sao nương tử còn mờ mờ mịt mịt, chẳng biết gì cả ?
Trong nhóm có một người có vẻ là người cầm đầu nhóm phu xe, nói :
- Chuyện này tôi hiểu rõ hơn ai hết. Đại khái là vị tiểu nương tử không chịu lấy Lưu đại nhân, mà bị bà già chồng ép gả, có đúng không ?
Đại cô chưa kịp đáp, những người kia đã tranh nhau hỏi :
- Làm sao anh biết dược ?
- Chuyện sờ sờ trước mắt, làm gì không thấy ? Bà kia làm chủ, bảo sao nghe vậy, là việc quang minh chính đại, tại sao phải giở trò giấu giấu, diếm diếm như thế này ? Từ nhà tới miếu thần sông không xa, hà tất phải bày vẽ xe ngựa rềnh ràng ?
Đại cô nghe mấy người phu xe nói chuyện với nhau, đã hiểu sự tình, ngồi ngây người ra, không nói một câu. Tình cảnh của nàng lúc này chẳng khác gì của con nai nhỏ sập bẫy. Về nhà chồng không được nữa rồi, mẹ chồng dứt khoát không chứa. Trở về nhà cha mẹ cũng không xong : cha mẹ nàng mất đã lâu, nàng chẳng có anh em trai, chị em gái, chỉ còn một đứa em gái, con nhà chú, nhưng nó lại không phải người tốt. Thôi thì, tiến thoái lưỡng nan, một liều ba bảy cũng liều !
Cuối cùng, chiếc xe ngừng lại bên bờ sông, có chiếc thuyền đón dâu của nhà họ Lưu đang đậu sẵn. Mã đại cô nghĩ thầm :
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Thử xem con tạo xoay vần đến đâu ? (Kiều)

Từ trên thuyền bước xuống hai cô hầu gái, dìu đại cô lên thuyền, con thuyền tách bến, ra giữa giòng sông. Đại cô đột nhiên lấy hết sức mạnh, đưa cả hai tay xô hai cô hầu gái ngã lăn ra ván thuyền. Nàng chạy nhanh ra mạn thuyền, nhìn những đợt sóng nhấp nhô trên sông, lao mình xuống. Người trong thuyền nháo nhác chạy ra, chỉ thấy sóng cả, nước sâu, không sao cứu kịp nữa.
Đại cô nhảy xuống sông rồi, bị sóng đánh đi xa, đưa xuống hạ lưu, không biết đã bao lâu. Bấy giờ có một vị đạo nhân, tuổi đã hơn trăm, lông mày và râu đều bạc phơ, mà tinh thần còn quắc thước. Nhân có việc qua sông, ông cầm bánh lái một chiếc thuyền từ từ mà đi. Chợt ngửng nhìn về phía thượng lưu, ông thấy một cô gái đang trôi theo giòng nước, chẳng biết còn sống hay đã chết.
Đạo nhân này vốn có lòng từ bi, có ý muốn cứu cô. Nhưng cả đời ông chưa hề gần nữ sắc, từ lớn đến già chưa từng đụng tay đụng chân vào con gái, dính đến da thịt. Hiện tại tuổi ông đã cao lắm rồi, vẫn không muốn để đàn bà con gái phá giới hạnh suốt đời của ông. Nhưng nhất quyết không đụng tới thân thể cô gái, làm cách nào để cứu cô đây ?
Nước sông chảy rất xiết, cơ hội cứu cô chỉ trong chớp mắt, đạo sĩ trầm ngâm suy nghĩ, khẳng khái nói :
- Chẳng thà mất giới hạnh, quyết chẳng thấy chết không cứu ! Ông mới đưa thuyền lại gần xác cô, đưa cây sào đụng vào thi thể, dùng hết sức khều về phía thuyền. Ai ngờ đại cô ngâm nước đã lâu, hồn đã bay đi xa, không còn hy vọng trở về. Đạo sĩ nghĩ thầm : "Cô này không còn hy vọng sống lại, cũng nên vớt lấy xác cô, đem lên bờ mai táng, mới là chính lý". Nghĩ rồi đem hết sức lực, lôi kéo cái xác lên thuyền. Không ngờ bụng xác chết đã trương phình, ngực đã phù thủng, đạo sĩ kéo về được nửa chừng, mới nắm được một cẳng, bỗng đâu một đợt sóng lớn ập tới, lật úp chiếc thuyền của đạo nhân. Đạo nhân không thể ngó tới xác chết nữa, nhưng nhờ bơi giỏi đã giữ được tính mạng.
Thi thể đại nương lại tiếp tục trôi xuống hạ lưu, không biết là trôi giạt tới nơi nào. Đạo nhân leo được lên bờ, nghĩ mình vốn có ý cứu người, mà mắc phải đại nạn, suýt mất mạng. Lại nghĩ ngợi mãi về việc cứu người không thành, lương tâm cắn rứt, lòng chẳng được yên, bất giác mắc chứng ngớ ngẩn, mấy tháng trời nằm thoi thóp như thể chết rồi.
Linh hồn đại cô được thần sông thâu nhận, đưa về Thủy Tinh cung. Long vương trọng cô là người tiết nghĩa, hiếu thuận, rất mực kính lễ . Nghe nhắc tới việc kiếp trước, đại cô hoảng hốt tỉnh dậy, long vương cười, phán :
- Ngươi còn có một người đồng đạo, cùng với người mắc tội và bị biếm chích một lượt. Sự việc này phải đợi hết kiếp này mới giải quyết xong. Tới kiếp sau, hai người cùng mãn thời gian biếm chích, để tu đạo, trở về với bản chân. Người kia sinh ra là một đạo nhân, thành tâm lo tu hành, giữ giới luật rất nghiêm, năm nay đã được hơn một trăm tuổi rồi. Vì vớt xác ngươi, mà ông ta bị thương tổn, vừa buồn rầu vừa hối tiếc, chẳng bao lâu cũng qua đời thôi.
Đại cô nghe nói, chạnh lòng bi thương, nói :
- Vì mạng sống khổ sở của thần thiếp, đã để hại cho nhiều người, ai ngờ chết rồi vẫn còn để liên lụy tới người tốt mắc tai ương, chẳng đáng buồn lắm sao ?
Long vương nói :
- Chỉ tại mạng số của ông ta như vậy thôi. Tuy vì người mà ông ta bị thương, bị thương rồi chết, nhưng chẳng can dự gì tới ngươi. Bất quá ông ta vì vò tình mà làm thương tổn tới cẳng chân ngươi, e rằng kiếp sau ông ta sẽ mắc một chút thương tật nhỏ thôi, chứ tính mạng và việc công hành của ông ta chẳng sao cả.
Đại cô nghe vậy, vẫn cảm thấy áy náy trong lòng, long vương phải khuyên cô hãy bỏ qua đi.
Cách đó một thời gian, Cổ thư sinh đi buôn, kiếm được rất nhiều ngân lượng đem về. Vừa hay mẹ kế Vu thị chết được mấy ngày, chàng buồn rầu khóc lóc. Lại tới các nhà bạn bè hỏi thăm, biết được chuyện vợ mình tuẫn tiết, chàng đau đớn muôn phần, đem tất cả chỗ vàng bạc châu báu hiện có quăng xuống sông, ở chỗ ngày trước vợ chàng đâm đầu. Nhân đó, chàng bỏ nhà, đi học đạo, không biết về sau ra sao.
Câu chuyện này được đồn đại, xuống tận Thủy Tinh cung. Long vương mời đại cô tới, kể cho nghe chuyện rõ ràng, nhân đó nói :
- Vợ chồng nàng tiết liệt, hiếu nghĩa, quỉ thần đều kính phục. Chồng nàng đã xuất gia, tiền trình sẽ rộng mở vô hạn ? Về phần nàng, chẳng bao lâu quả nhân sẽ viết điệp văn đưa xuống âm phủ, cho nàng chuyển kiếp làm người. Công hạnh một ngàn năm của nàng, đến đây kể đã viên mãn ! Quả nhân nghĩ tình vợ chồng nàng hiền đức, mà chịu gian khổ, đã truyền cho thần sông nhằm chỗ nàng tận tiết, và chồng nàng ném vàng bạc châu báu, đắp một hòn đảo ở giữa sông, trên đó lập nên một ngọn núi lẻ loi, để người sau lấy chỗ chiêm bái. Lệnh dụ đã truyền ra rồi, chắc chẳng bao lâu sẽ đem thực hiện.
Đại cô cảm kích lạy tạ.
Về sau, quả nhiên giữa sông mọc lên một ngọn núi, người đời biết được nguyên nhân ngọn núi đó xuất hiện, mới đặt tên cho là núi Kim sơn. Một ngàn năm sau, núi càng cao thêm, mặt đất hòn đảo cũng mở rộng thêm, đến nay kể là một thắng cảnh của Trung Quốc.
Lại nói về hồn của Mã đại cô được điệp văn của long vương đưa đi đầu thai, vì không quên tòa Kim sơn, lúc chuyển kiếp làm người, mới sinh ra ở nhà một người họ Hà, ở dưới chân núi Kim sơn. Vừa đẻ ra đã biết nói, thần linh không mờ tối. Vừa "Oa oa" tiếng khóc chào đời, đã chê những đồ mặn và tanh tưởi. Lớn lên, lập chí tu đạo. Cha nàng là Hà Kiệt, mẹ là Lưu thị, đều là thiện nhân trung hậu, rất tin thần, Phật, thấy con gái có ý đó, rất tán thành, chẳng hề ngăn cản. Thấm thoắt mà đã qua hơn mười năm, cô nương nhũ danh là Lan Tiên, ở nhà tu đạo, không thấy có tiến bộ bao nhiêu, mới xin với cha mẹ cho rời nhà đi chơi xa, tìm tiên nhân cầu xin truyền thụ đại đạo. Vợ chồng Hà Kiệt đều đã ngoài bốn mươi, chỉ sinh một gái, nếu để nàng rời xa dưới gối, chẳng thể yên lòng, mà nhà neo đơn càng thêm tịch mịch. Vì thế ông bà mới cùng Lan Tiên bàn bạc, hy vọng lúc cô lớn lên có thể gả chồng, nhưng cô không chịu.
Lan Tiên lớn dần, mọi việc đều giỏi dang. Bỗng có một đạo nhân tuổi còn trẻ, tới nhà hỏi thăm: Tôn Kiệt lấy làm lạ, hỏi con gái đã quen biết đạo nhân này ở đâu, Lan Tiên trả lời là không biết. Hai cha con cùng ra gặp mặt. Chỉ thấy đạo nhân đó thần thái tú dật, cốt tướng thanh kỳ, dáng vẻ lâng lâng của bậc thần tiên.
Lan Tiên vừa nhìn đạo nhân, tưởng chừng như đã gặp ở đâu một lần. Đạo nhân thấy mặt cô nương, cũng lộ vẻ khác lạ. ông ta tiến lên phía trước, khoanh tay chào hai cha con. Hai người vội đáp lễ, hỏi đạo nhân pháp hiệu là gì, quê quán ở đâu ? Đạo nhân vừa ngồi xuống vừa nói:
- Tôi họ Lý, tên Huyền, người đất Hà Nam, cùng tiểu thư đây có duyên từ nhiều kiếp trước. Lúc chuyển thế, xuống trần, nhớ tới những sự việc của tiểu thư từ kiếp trước, nên cố tình tới thăm một lần, cho vẹn túc duyên.
Nói rồi, liền đem tiền nhân hậu quả ra nói hết.
Đây nhắc lại về sinh hồn của Mã đại cô, vì không quên Kim sơn, và đạo nhân đã vì cô mà bị hại, mới đầu thai vào làm con gái nhà họ Hà ở dưới chân núi Kim sơn. Lúc "Oa oa" chào đời, cô đã thông linh tính nên biết nói. Từ nhỏ đã không ăn mặn, không mặc áo gấm, lập lời thề không lấy chồng. Năm cô lên bảy, có Huyền Nữ hóa thân làm đạo bà tới chỉ điểm. Cô nương sinh ra đã sẵn thông minh, nhận ngay ra Huyền Nữ là chân tiên hạ phàm. Thành tâm xin bà chỉ giáo. Nhưng cô luôn luôn tưởng nhớ, không quên được chuyện kiếp trước, chỉ mong mỏi tìm được chỗ đạo nhân đầu thai, đợi ông thành thần tiên trước cô, sẽ hóa độ cho cô. Huyền Nữ tán thán :
- Việc này có số định trước, không thể miễn cưỡng. Nhưng đạo sĩ mà con nói tới, ta biết là đã đi đầu thai vào nhà họ Lý ở Hà Nan sau này sẽ là đệ tử của Lão Quân tổ sư. Con đã lập chí cao như thế, hãy đợi ông ta thành đạo, sau đó ta sẽ đem ông ta tới gặp con.
Nhân đó, bà truyền cho cô nhiều khẩu quyết về luyện khí, luyện tâm, dẫn đạo, tịch cốc, lại đem các phép thuật phòng thân, ăn thân tránh phi kiếm, truyền hết cho cô. Cô nương nhất nhất lãnh hội. Huyền Nữ dặn dò thêm vài câu, rồi trở về trời. Cô nương chuyên tâm nhất chí, ở nhà tu trì, để đợi Lý tiên đến.
Nay lại kể chuyện về ông tiên què. Bấy giờ ở đất Lạc Dương có một nhà quan, họ Lý tên Kỳ, có vợ là Vưu thị, chỉ sinh được một trai, đặt tên là Lý Huyền. Khi sinh Lý Huyền, Vưu phu nhân nằm mộng thấy một đạo nhân chui vào bụng mình, liền tỉnh dậy, ngửi thấy một mùi hương lạ tỏa ra khắp phòng, và liền nghe tiếng trẻ khóc "Oa oa". Vợ chồng biết đứa con này có một lai lịch, nên rất sủng ái. Không ngờ Lý Huyền lớn lên có tính kỳ lạ : không nghĩ tới chuyện làm quan, chỉ cầu xuất gia tu đạo. Lại thường trước mặt cha mẹ nói những chuyện kiếp trước, kể rằng bản thân mình là một đạo sĩ, cả đời hiếu thiện, chưa từng làm một chuyện xấu nào.
Không ngờ lúc lâm chung, chuyển sang kiếp khác, từng vì cứu một cô gái mà làm tổn thương tới thi thể cô ta. Đó là điều đau lòng bậc nhất, đến nay còn canh cánh trong dạ. Hài nhi sau này đắc đạo, trước hết phải tìm cô gái đó, tỏ lòng ăn năn hối hận trước mắt cô ta, mới có thể đắc đạo. Những câu nói như vậy, Lý Kỳ cho là lời nói sảng, thét mắng gạt đi, không cho ăn nói hồ đồ như thế nữa. Nhưng phu nhân lại rất tin tưởng thần tiên, ngỏ lời an ủi. Rốt cuộc, Lý Huyền vẫn không bỏ qua được những việc đó.
Thấm thoắt mà đã mười năm. Bỗng một hôm có Thái Bạch kim tinh, nhận lời ủy thác của Lão Quân tổ sư, cưởi mây bay đến, giáng xuống nhà họ Lý. Vợ chồng lý Kỳ cùng toàn thể gia nhân quì xuống thắp hương, khấu đầu nghênh tiếp. Thái Bạch mỉm cười nói :
- Đại phu và phu nhân đừng nên đa lễ. Bần đạo cùng công tử có duyên với nhau, nên tới gặp mặt, xin đại phu kêu công tử ra đây cho tôi nói chuyện một chút. Lý Kỳ nghe vậy, rất sợ lão tiên dẫn con trai mình đi, nên cứ ngần ngừ. Nhưng phu nhân thẳng tính, vội sai người ra trường học gọi Lý Huyền về. Lý Huyền vừa thấy mặt Thái Bạch, tưởng chừng như đã quen biết từ lâu, liền cúi đầu, vái tám vái. Thái Bạch nắm tay cậu bé, nói :
- Cách biệt đã ngàn năm, vẫn còn nhớ được bần đạo ư ?
Nói rồi, đưa tay vỗ lên đỉnh đầu cậu ba cái, Lý Huyền đột nhiên nhớ lại những chuyện từ chín kiếp trước, vội quì gối, khấu đầu, nói :
- Sư phụ mau cứu đệ tử thoát khỏi biển khổ.
Thái Bạch cười nhạt:
- Thiên hạ không hề có chuyện làm thần tiên dễ dàng như thế. Nếu làm thần tiên mà dễ, thì thần tiên trên đời có khác chi người phàm ?
Lý Huyền nghe nói, liền đại ngộ, nói :
- Sư phụ hãy dẫn con đi theo. Đệ tử sẵn sàng chịu tai ương, dứt bỏ hồng trần, quyết không hối hận.
Lý Kỳ nghe con nói vậy, trong lòng sợ lắm, định tìm cách ngăn cản. Thái Bạch phất tay áo một cái, tức thì kim quang xuất hiện đầy nhà, đối mặt không nhìn rõ nhau. Kim quang vừa tan, Thái Bạch cùng Lý Huyền không biết biến đi đằng nào.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 20:58:08 bởi bevanng >

bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 09.07.2008 21:56:46
Hồi Thứ 19

vì tu tiên, không từ hiểm trở
Bởi cầu đạo, lại gặp yêu ma


Lý Huyền bị Thái Bạch kim tinh nhấc bổng lên, đưa qua khỏi bức tường, đem tới một nơi nọ. Chân vừa chạm đất, mớ mắt ra nhìn, thì... ôi thôi, Thái Bạch kim tinh biến đi đằng nào, mà nơi đây là vùng đất lạ hoắc, mình chưa hề đặt chân tới. Nhìn lại bản thân, thấy mình đang đứng giữa một phố chợ đông đúc. Định thần nghĩ lại, mới biết Thái Bạch dẫn mình tới đây ắt có chủ đích.
Trước mắt chưa biết về đâu, nhưng tương lai chắc có chỗ tốt. Vì thế, lấy can đảm, vững bước tiến tới. Lên tiếng hỏi thăm mới hay mình đang ở dưới chân núi Hoa sơn, cách xa gia đình ở Lạc Dương tới vài trăm dặm. Lý Huyền biết được diệu dụng của tiên gia, lòng thầm kinh hãi. Lại vui mừng vì từ bé đã nghe nói Hoa sơn là nơi mà Lão Quân tổ sư thiết lập động phủ một bên vách núi. Nay người tiên đem ta đến chỗ này, ắt là chỉ cho ta con đường đi tìm tiên, hỏi đạo, tránh cho ta khỏi phải mò mẫm thăm dò.
Nghĩ vậy, bèn hướng lên không trung mà vái, tỏ ý tạ ơn. Loay hoay một hồi, bỗng cảm thấy toàn thân nóng hừng hực, mồ hôi rơi lã chã, lòng thầm cảm thấy kỳ quái. Chẳng lẽ nơi đây khí hậu nóng hơn trung nguyên rất nhiều ? Mình mới ra khỏi Lạc Dương, lúc đó ở nhà mà không mặc áo bông thì đến chết rét, Hoa âm cách đó không xa mà sao thời tiết biến đổi nhanh thế ? Đang suy nghĩ, bỗng thấy trước mặt, một ông già đi tới, Lý Huyền vội tiến lại hỏi thăm. Ông già liền cất tiếng cười hì hì, nói:
- Tiểu ca, giữa mùa hè nóng bức tại sao cậu lại mặc áo bông ? Như vậy có thích hợp với cơ thể không ? Cậu hãy coi lão đây, lớn tuổi hơn cậu rất nhiều, mà vẫn chỉ phong phanh một chiếc áo cánh, khác cậu rất xa.
Lý Huyền chợt hiểu ra, lúc này đang độ giữa hè, khí trời nóng bức. Chẳng cần nói cũng biết cái ông Thái Bạch kim tinh này, chẳng những trổ phép rút đất, còn thi thố cả thuật thay đổi thời tiết nữa. Quả là diệu đạo của thần tiên đã đoạt được công tạo hóa của trời đất ! Lý Huyền không tiện nói rõ nguyên do sự việc, chỉ nói vài câu hàm hồ rồi từ biệt ông lão. Cậu lại sợ quần áo của mình không hợp thời, khó tránh khỏi thiên hạ nhìn soi mói, và cũng vì sức nóng mãnh liệt nữa, cậu không dám đi tiếp trên đường phố náo nhiệt, mới tìm những đường vắng vẻ, râm mát mà đi. Lúc này việc quan trọng nhất là phải dự bị quần áo mùa hè, mới có thể hoạt động không trở ngại. Lại cũng may là không cảm thấy đói bụng, cậu tìm những nơi hoang dã mà đi.
Đi hồi lâu, đã xa chốn chợ búa, Lý Huyền cởi áo bông, vắt ngang tay, tiếp tục tiến bước. Nhìn sắc trời đã thấy bóng hoàng hôn, Lý Huyền ngó quanh, nghĩ tới chuyện tìm một nơi nào để ngủ đỡ qua đêm, nhân tiện tìm đường lên núi Hoa sơn. Nhìn quanh, chẳng thấy bóng nhà cửa gì. Đang lúc khó khăn, chợt thấy một chú tiểu đồng đang chăn trâu, tay cầm ống sáo ngắn, ngồi trên mình trâu, thổi lên những điệu nhạc du dương, hướng về phía núi cao, rừng rậm mà đi. Lý Huyền mừng rỡ nghĩ thầm : "Đã có mục đồng, ắt có thôn trang. Ta có thể hỏi thăm một tiếng xem sao".
Cậu mới tiến về phía trước, cất tiếng gọi : - "Anh chăn trâu !".
Mục đồng không leo xuống trâu, chỉ mỉm cười, hỏi :
- Vị ca ca này ở đâu tới ? Định đi đâu ? Hỏi tôi có chuyện gì ?
Lý Huyền đem ý mình nói lại, hỏi cậu kia cho biết có thể tìm đâu ra chỗ nghỉ trọ. Mục đồng cười hì hì, nói :
- Cậu nhìn đó, bốn phía đều là sơn dã, làm gì có thôn trang ? Chỉ có nhà tôi ở sau núi, ở giữ rừng giùm thiên hạ thôi. Cha tôi nuôi được con trâu này, hàng ngày bảo tôi cưỡi nó, tìm nơi có cỏ cho nó ăn. Nếu cậu không biết chỗ nào để đi, hãy theo tôi về nhà nghỉ một đêm, sáng mai trở dậy đi tiếp.
Lý Huyền mừng lắm, nói :
- Chưa thấy ai nghĩa khí như anh.
Mục đồng xuống trâu, nắm tay Lý Huyền dắt đi, nói :
- Tiểu ca, chúng ta cùng đi thôi !
Lý Huyền cảm tạ mục đồng thêm vài câu, theo chân cậu ta đi men núi xuyên rừng, qua nhiều khúc quanh. Trong lúc đi đường, hỏi thăm mục đồng tên họ là gì, mục đồng nói :
- Tôi họ Vương, được người ta gọi là "Vương Tiểu Nhị", cha tôi là "Vương Đại Quan Nhi". Ông ấy nay đã già, nên ít khi ra ngoài, nhưng nếu có khách phương xa tới ngủ trọ, ông ấy vui mừng lắm.
Lý Huyền nghe vậy rất mừng. Không bao lâu đã tới chỗ sau núi, quả thấy một căn nhà tranh cất bên bờ suối. Xa xa, thấy một người đàn ông đã quá trung niên, đang đứng trước cửa nhà. Mục đồng nói:
- Đó là cha tôi.
Lý Huyền vội tiến lại hành lễ, cất tiếng: "Dạ !” Mục đồng thay lời cậu nói lại ý muốn ngủ nhờ, Vương Đại Quan liền hoan hỉ nói:
- Cậu là một vị công tử, dễ gì mỗi lúc tới được đây, quả là quý khách của chúng tôi!
Liền bảo mục đồng mau đưa trâu về chuồng, rồi lấy quần áo cho công tử thay. Rồi tự mình nắm tay, dắt Lý Huyền lên thảo đường, bảo con đi nấu nước pha trà. Vương Tiểu Nhị cười hì hì, đi lấy quần áo của mình cho Lý Huyền thay, và nói :
- Hèn chi cha tôi gọi cậu là một vị công tử. Cậu coi đó, bộ quần áo cậu đang mặc quá sang trọng. Những nhà tài chủ trong thôn làng chúng tôi làm sao sánh kịp ?
Bấy giờ, Lý Huyền mới biết vì sao cha con ông kia lại gọi mình là công tử, nhân đó nói :
- Đội ơn lão trượng và tiểu ca quan tâm ! Nếu tiểu ca thích bộ quần áo của tôi, tôi xin dâng hiến ngay !
Vương Đại Quan phất tay lia lịa :
- Làm vậy không được ! Khoan nói là vô công không nên nhận thưởng, lão nhi ta ở đây mấy chực năm, chưa hề dùng tới những vật hoa mỹ bao giờ. Nhà nghèo cứ an hưởng cảnh nghèo, đừng để bỗng không chặt đứt phúc lộc của mình, còn mang họa nữa. Tiểu Nhị mau xếp gọn quần áo giùm công tử, rồi đi pha trà, nấu cơm. Đừng ở đó mà cà rề cà rề !
Tiểu Nhị cười mà bỏ đi. Hai cha con sơn dã này quả là những con người giữ được thiên chân, rất đáng yêu. Tiểu Nhị đi rồi, Đại Quan hỏi thăm Lý Huyền về cuộc hành trình vừa qua. Lý Huyền thấy ông ta thành thực, không nỡ giấu, cứ đem tình thật khai ra hết. Nhân tiện hỏi thăm về đường lối lên Hoa sơn. Đại Quan nghe hỏi, không tỏ vẻ gì là ngạc nhiên, mà gật gù, nói :
- Đó là việc đáng mừng. Công tử còn trẻ đã có chí lớn như thể chắc chắn kiếp trước phải có chút căn cơ. Nếu không, sao có thể đi bộ một quãng đường dài như vậy ? Nghe nói núi Hoa sơn của chúng tôi chu vi dài tới hơn ba ngàn dặm, có tám mươi mốt ngọn núi cao, ba mươi sáu động phủ. Xưa nay tương truyền rằng mỗi hang động đều có thần tiên trú ngụ. Phần cao nhất ở phía Bắc có ngọn "Quan Nhật phong" (1), phía Nam có động Tứ Hà, là nơi mà năm xưa Lão Quân luyện đan. Ngày nay Lão Quân thỉnh thoảng cũng đến chỗ đó, bọn chúng tôi vào núi hái củi cũng thường được nhìn thấy, là một vị đạo nhân. Ông ta cũng hay bàn với chúng tôi về chuyện xưa và nay, kể các chuyện về triều đại trước, đời bây giờ. Ông hay hỏi mọi người về tình cảnh gần đây, có khi trò chuyện rất lâu, lại lấy những loại trái cây như lê, táo, đào, hạnh phân phát cho mọi người cùng ăn. Ai ăn vào, chừng xuống núi cảm thấy chân cứng cáp hơn trước gấp bội, mà bệnh tật gì cũng khỏi hết ráo, sống lâu hơn người bình thường. Vì thế người ta đồn rằng: “ông là tiên nhân đấy !". Có người lại nói : "ông ấy là sư tổ của thần tiên, tức... Lão Quân đó!".
Những lời truyền thuyết đó có từ hơn một trăm năm nay. Về sau, những người tin tiên, mộ đạo không ngại xa ngàn dặm tìm tới, lên núi, tìm tiên. Có kẻ đi không về cũng có người đi lại về. Đối với những người đi không về, có thuyết nói rằng họ đã gặp lão Quân, được hóa độ xuất thế. Có những kẻ không tin tu tiên lại dễ dàng như thế, bảo mấy người kia bị hổ lang sát hại, độc trùng tha đi. Những điều đó hoàn toàn không có bằng cứ gì cả, chẳng biết là thật hay giả. Đối với những người đi, lại trở về, chẳng cần nói tới : họ lên tới chỗ núi cao, không có dường thông suốt để đi tiếp, hoặc gặp phải những việc quá nguy hiểm, khiếp sợ mà phải bỏ về. Những chuyện như vậy chẳng có gì lạ, hà tất phải nói tới. Còn như già đây, đóng trụ ở chỗ núi non hẻo lánh, cả năm ít có người qua lại, nhưng hai chục năm gần đây, đích xác có thấy vài ba người lên núi tìm tiên, có người trở về, có người không. Vì nhà của tôi ở nơi mà những ai muốn lên Hoa sơn đều phải đi qua, nên tôi thường được thấy những người đó.
Nay công tử bỏ nhà đi chơi xa, lại được chân tiên dẫn đi, ắt là có duyên với tiên, nên lần đi này nhất định gặp được tổ sư. Già đây hồi nhỏ có gặp được một dị nhân, ban cho mười viên kim đan. Theo ông ta nói, thuốc này có thể chống được đói lạnh, phòng ngự được độc khí. Chúng tôi lên núi, vào rừng, chưa bao giờ gặp phải tà độc nên đã đem phân phát thuốc cho những người cần tới, đến nay còn lại có hai viên. Nếu công tứ cần lên núi, phải đề phòng độc hại mới được. Còn hai viên thuốc đây, công tứ cầm luôn đi !
--------------------------
(1) phong : đây là đỉnh núi, không phải gió. Quan Nhật Phong : đỉnh núi để ngắm mặt trời.

Lý Huyền nghe vậy mừng lắm, vội bái tạ, nói :
- Tiên đan đã có linh nghiệm, tiểu tử xin bái lĩnh một viên, đủ để phòng thân. Còn lại một viên, lão trượng giữ lấy để cứu người giúp đời, thì hay hơn.
Vương Đại Quan tỏ vẻ hài lòng, nói :
- Trước nay tôi đưa thuốc cho người, ai cũng chỉ muốn lấy hết, rõ ràng chỉ biết có mình, không biết ai khác. Hạng người như thế làm sao có duyên với thần tiên ? Nay nghe công tứ cao luận, đủ thấy là người có lòng nhân, lần đi này nhất định thành công, lão xin ở dưới núi ngày đêm trông đợi tin lành.
Nói rồi, lấy viên thuốc đưa cho Lý Huyền. Lý Huyền cầm xem kỹ, thấy viên thuốc đó có mầu sắc của vàng, tẩm trong nước son đỏ nhỏ bằng hạt cải. Lý Huyền hân hoan, tạ ơn mấy lần, trân trọng đem cất kỹ một nơi.
Tiểu Nhị đem trà tới, Lý Huyền uống một chén, lại hỏi thăm đường lên núi, Đại Quan nói :
- Lên núi rất dễ, đường núi khó tìm, công tứ đã có duyên với người tiên, tới đâu đường đi hiện ra tới đó, hà tất phải lo ?
Lý Huyền bái tạ, thụ giáo, Đại Quan lại cười, nói :
- Công tử khách sáo quá ? Lão chỉ là một người sơn dã, có điểm nào là tốt đâu, mà dám phiền công tử thâm tạ ?
Lý Huyền nghiêm sắc mặt, nói :
- Con người không phân biệt văn vẻ, quê mùa, chỉ có hiểu lẽ phải là quý. Lão trượng nói ra, câu nào cũng xác đáng, tiểu tứ xin ghi vào gan phổi, suốt đời không quên ! Một lời cảm tạ đáng kể làm chi ?
Đại Quan tỏ vẻ hài lòng. Lý Huyền ở lại nhà ông nghỉ một đêm. Hôm sau, nhờ Đại Quan đem bộ quần áo đẹp của mình đi bán, được một số tiền, mua một bộ quần áo ngắn, ngoài ra còn mua được nhiều lương khô. Sửa soạn hành lý đầy đủ, lúc chiều tối, Lý Huyền định đi. Cha con Đại Quan khổ công cầm giữ ở lại thêm một đêm nữa, hứa sáng sớm hôm sau sẽ dẫn lên vách núi. Lý Huyền cười, bảo :
- Chân tiên đang ở trên đó, ta nên tới thăm liền. Đường núi há phải một, hai ngày tới ngay ? Đã nghỉ hết một đêm, hà tất phải nài ép nhau ở thêm đêm nữa ?
Đại Quan thấy ý Lý Huyền cương quyết, không dám giữ nữa.
Tiểu Nhị đưa tiễn một quãng đường, chỉ cho thấy lối vào núi, mới trở lại.
Lý Huyền có lòng cầu đạo vững chắc, cứ dấn bước mà đi. Lúc đầu đường còn bằng phẳng, càng lên cao càng gập ghềnh, khúc khuỷu. Mỗi ngày phải ngày đi đêm nghỉ, gặp hang động thì nghỉ lại qua đêm, đói thì ăn chút lương khô, khát thì uống nước suối.
Cũng đôi lúc gặp sơn tinh, dã thú, nhưng Lý Huyền dự tính trước, tránh đi. Gặp những đỉnh núi cao chót vót, cậu bám vách đá leo lên. Hành trình không chỉ một ngày, dần dần cậu đã vào núi tới chỗ sâu thẳm nhất, lên tới chỗ đỉnh núi cao nhất. Quay nhìn xuống dưới núi, mịt mù chẳng thấy rõ thứ gì. Nhìn lên, đỉnh núi cao như đâm vào những đám mây. Số lương khô dự trữ chỉ còn dùng được vài hôm nữa. Lý Huyền chẳng để tâm tới tất cả những chuyện đó, cứ mạnh dạn tiến bước, chẳng hề khiếp sợ chùn bước.
Hôm đó, vào lúc gần tối, lên tới chỗ hai đỉnh núi giáp nhau, núi non lô xô, Lý Huyền lạc mất đường đi. Trong lúc bàng hoàng, ngơ ngác, bỗng một trận gió đưa mùi hôi thối xông tận mũi, buồn nôn. Lát sau, gió tan đi, bỗng từ sau rừng rậm tiến ra một đạo nhân, râu tóc đều bạc phơ, thần thái nghiêm túc. Lý Huyền kinh hãi nghĩ thầm : "Cuộc hành trình gian khổ đi đã nhiều ngày, chẳng thấy một bóng người, sao bây giờ lại gặp đạo trưởng này ?
Nhưng từng nghe Đại Quan nói : "Lão Quân tổ sư thường hay biến hóa thành người, nói chuyện với mấy bác tiều phu, nay thấy ông đây có phong thái thần tiên phiêu dạt, hẳn là thần tiên. Vả chăng ở chỗ núi sâu hang thắm, người phàm làm sao tới được ? Đúng là thần tiên rồi, còn ngờ gì nữa ?". Liền sửa lại quần áo cho ngay ngắn, trịnh trọng bước tới, cúi lạy đạo nhân, thưa rằng :
- Đệ tử là Lý Huyền, từ khi ở trong nhà ở Lạc Dương, được tiên sư dẫn dắt, từ Nam lên Bắc, lên núi tìm thầy học đạo, trên đường đi chẳng ngại phong trần, không từ gian khổ, nay may mắn gặp được sư trưởng, quả là chút lòng thành của đệ tứ chẳng rơi vào hư không. Xin sư trưởng mở lòng từ bi, thu nhận làm học trò, khiến đệ tử ngộ đạo chính quả, thoát khỏi lưới trần, đệ tứ vô cùng cảm kích !
Đạo trưởng cất tiếng cười hà hà, nói :
- Ngươi là Lý Huyền đấy hả ? Ngươi đã có lòng thành, không ngại hiểm trở đi tìm học đạo, quả là người có pháp duyên. Ta có thể thu nhận ngươi làm học trò, truyền kim đan đại đạo cho ngươi.
Lý Huyền nghe nói, xiết bao mừng rỡ, vội khấu đầu lạy tạ, rồi đứng dậy. Đạo nhân dặn dò :
Hãy theo ta vào trong động phủ. Ta sẽ dạy cho ngươi phép tu trì .
Lý Huyền dạ dạ, cung kính đi theo đạo nhân, đi quanh một khối đá lớn, lại qua một vách núi, mới thấy lối đi xuyên qua một khu rừng rậm. Đạo nhân chỉ tay, nói :
- Qua khỏi khu rừng rậm này, sẽ thấy một khu đất trống bằng phẳng, và cuối khu đất đó là một động phủ ba gian, chính là nơi ta đang tu chân.
Lý Huyền ngẩng đầu nhìn ra xa, quả thấy đằng sau khu rừng là một quảng trường. Đạo nhân rảo bước đi mau, qua khỏi khu rừng, tới chỗ quảng trường nằm dựa vách núi, quả là một thắng cảnh. Chỉ thấy những cây tùng, cành lá giao nhau, và khắp mặt đất là những loài hoa lạ, tỏa hương thơm nhè nhẹ, khiến người ta ngây ngất. Đạo nhân dẫn Lý Huyền vào trong động, tự ngồi xuống một tảng đá. Lý Huyền tiến lại, vái tám vái. Đạo nhân bỗng hô to một tiếng :
- Đám tiểu yêu đâu rồi ?
Liền có rất nhiều những con gì mang lông, để tóc, giống người mà không phải người, có đứa lớn, có đứa nhỏ lau nhau một đám chừng bảy, tám chục đứa, nhất tề tiến vào hang động, vái lạy đạo nhân. Lý Huyền lấy làm lạ lắm. Chỉ thấy đạo nhân toét miệng ra cười, nói :
- Ngươi đã muốn tu đạo, ắt cầu lên trời. Ngươi tuy có duyên, nhưng chưa thoát được xác phàm. Với tấm thân ô trọc như thế, đừng nói là lên trời, ngay cả tìm được căn bản để đằng vân giá vụ, cũng là thiên nan, vạn nan !
Lý Huyền vái đạo nhân, nói :
- Đệ tử tự biết mình căn cơ nông cạn, sở dĩ mạo hiểm tới đây là mong bái sư tôn, cầu xin được thoát thai hoán cất, nhập thánh siêu phàm. May gặp được lão sư thương tình cứu vớt, rất mong sư tôn chỉ báo đệ tử thoát khỏi con đường mê !
Đạo nhân cưới, nói :
- Thoát thai hoán cốt, nói thì dễ lắm, nhưng nếu không gặp được người tiên sử dụng phương cách đặc biệt, thì có dạy bảo ngươi ngàn vạn năm, ngươi vẫn chỉ là một tên Lý Huyền. Nay may gặp được bần dạo, là ngươi có phúc rất lớn. Ta có một pháp môn rất giản tiện mà tuyệt diệu, chỉ mất nửa ngày trời là có thể thay đổi hoàn toàn thai phàm, xương thịt của ngươi, ngươi có chịu không ?
Lý Huyền nghe vậy, vừa mừng vừa ngạc nhiên, vội vái đạo nhân để cầu xin :
- Đệ tử cũng vì vậy mà tới đây. Cầu đạo được đạo, thật là may mắn, có gì mà không chịu ?
Đạo nhân nói :
- Nay gặp được ngày tốt, đám tiểu yêu ma khiêng về đây một cái nồi, đem vị sư huynh mới tới này đi tắm rửa sạch sẽ, bỏ vào trong nồi nấu lên, bỏ thêm hành tỏi, hương liệu, để bần đạo nhắm một bữa, thì linh hồn anh ta mới có dịp tu trì, thành đại đạo.
Đám tiểu yêu nghe lệnh, vội xúm lại để khiêng Lý Huyền. Bấy giờ Lý Huyền mới kinh hãi, vội hỏi :
- Thiền sư tôn, đây là ý gì ?
Đạo nhân hét lên :
- Ngươi muốn thoát thai hoán cốt, không làm cách này, làm sao thay đổi ?
Lý Huyền còn muốn tranh cãi, bọn tiểu yêu không để cho cậu ta nói, mang tới một cái đòn gánh, trói hai chân hai tay, lồng đòn gánh vào, khiêng ra khỏi động. Chúng khiêng Lý Huyền ra phía sau động phủ, nơi đó có sẵn một nhà bếp rất rộng. Trên tường treo lủng lẳng những cẳng người, đầu chim, đuôi thú. Lại có một bếp lò rất lớn. Bọn tiểu yêu đem Lý Huyền đi tắm rửa sạch sẽ. Chúng chia nhau ra: một nhóm đi gánh nước về, một nhóm nhúm lửa, nhóm khác canh giữ Lý Huyền, không cho chạy trốn. Lý Huyền bấy giờ mới hối, nghĩ thầm : "Động phủ của người tiên là chốn thanh cao, sao lại có đám quái vật không ra hình thù gì, mà đạo nhân kia từ lời ăn tiếng nói đến cử động đều thô tục, bỉ lậu thế ? Chẳng có vẻ gì đắc đạo, toàn chân. Điều đó lại phù hợp với lúc nãy, trước khi đạo nhân xuất hiện, ta đã ngửi thấy một mùi hôi nồng nặc, nhiều phần là từ thân thể của đạo nhân phát ra ! Cũng tại ta không cẩn thận chút nào, đã nhận lầm hắn là thần tiên, tự đâm đầu vào bẫy ! Quả là tự mình tìm con đường chết ! Thương thay một tấm lòng thành, mấy phen thoát hiểm, rốt cuộc cũng đem thân mình làm món điểm tâm cho yêu nhân !". Càng nghĩ càng thương tâm, nước mắt rơi lã chã.
Bọn tiểu yêu thấy Lý Huyền khóc, liền vây chung quanh, vỗ tay đôm đốp, ra vẻ thích thú lắm. Lý Huyền đau lòng đã quá mức, chợt suy nghĩ lại : "Xưa nay, người tu đạo, lúc mới theo học, ông thầy luôn luôn thử thách coi người đó có thể tu tiên được hay không. Nay ta đã tới giữa núi Hoa sơn, tiên sư có thể trông mong gặp được, tiên cảnh chẳng còn xa nữa, mà sao thứ yêu ma này dám to gan hiện hình, quấy nhiễu như thế ? Có thể đây là một mưu kế do một vị thần tiên lão sư đặt ra ở đây để thử thách đảm lượng và nghị lực của ta chăng ? Nếu quả như thế, ta không nên thấy nguy hiểm chút xíu, mà biểu lộ thái độ khiếp nhược, hèn yếu. Vả chăng, việc đã đến nước này, hai hàng nước mắt của ta cũng không thể chuyển đổi được lòng dạ độc ác của bọn yêu ma, quỉ quái này đâu”.
Nghĩ rồi, Lý Huyền cắn răng, mím miệng, nhắm mắt lại, sẵn sàng đợi bọn tiểu yêu nâng mình lên, đẩy vào nồi. Một lát, chợt nghe bọn tiểu yêu la hét :
- Nước đã sôi, mau quăng con vật này vào trong nồi !
Liền có bảy tám con tiểu yêu kêu nhao nhao lên, hò nhau nâng bổng Lý Huyền. Bấy giờ, Lý Huyền đợi chết, muốn tỏ lòng thành, không lộ vẻ gì là sợ hãi, còn mong được mau chóng vào nồi, để thoát trần thế, chuyển kiếp lại làm người.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 21:00:23 bởi bevanng >

bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 10.07.2008 11:32:39
Hồi Thứ 20

Lão tổ hạ phàm cứu đời.
Lý Huyền thoát hiểm thành tiên


Đây nói về Thái Thượng Lão Quân, là tinh của trời, là quỉ của đất, là tổ của quần tiên, được người đời xưng tụng là Lão Tử. Từ thời hỗn mông, ngài đã tu thành tấm thân bất hoại. Vì muốn cho công hành trọn vẹn, cứu độ người có duyên, ngài đã phải nhiều lần giáng sinh chốn nhân gian. Ở giao thời nhà Hạ và nhà Thương, ngài đã phái hai vị đại đệ tử là Phiếu Diểu và Hỏa Long chân nhân xuống giải quyết gọn ghẽ việc long vương ở dưới biển. Sau vụ án đó, ngài đầu thai (l), làm con bà Huyền Diệu Ngọc Nữ, giáng sinh ở thôn Khúc Nhân, làng Lại, huyện Khổ, thuộc nước Sở, chui từ nách bên trái của mẹ mà ra. Ngài ra đời ở dưới một rừng mơ (lý lâm) rất rộng, sinh ra đầu đã bạc trắng, da mặt hơi nhăn nheo, tạo ra một mầu vàng lợt, trên trán có nhiều nếp nhăn (2). Ngài sinh ra đã biết nói, đưa tay chỉ rừng mơ, nói với mẹ :
- Thưa mẹ, con sinh ra ở lý lâm, nên lấy chữ "Lý" đặt họ cho con.
Ngọc Nữ vui mừng, nói : - được !", đặt cho con họ Lý, lại ban cho tên là Nhĩ, biệt danh là Lão Đam.
Lão Quân thần linh không mờ tối, đạo hạnh cao thâm, thường vì người, hàng yêu trừ quái, cứu khổ tế nạn. Đầu đời nhà Chu, ngài ra làm quan Thủ trụ sứ, tới khi Vũ vương thống nhất thiên hạ, ngài lại đổi sang làm Trụ hạ sử. Tới đời Thành vương, ngài bỏ quan, ngao du các nước Thiên Trúc (3) ở cực Tây, thời Khang vương lại trở về nhà Chu. Cuối đời Khang vương, ngày bỗng nói với người nhà :
---------------------------------------
(1)    Lão Quân là tổ của thần tiên, ra đời từ thời khai thiên lập địa, ở trên trời điều khiển mọi việc, đã sai hai đại đệ tử giải quyết vụ án rồng. Lão Tử mới đầu thai ở đời nhả Thương, nhà Chu.
(2)    Gọi là “tham thiên văn" : nếp nhăn “xem xét trời". Những người suy nghĩ nhiều, đặc biệt là các triết gia, thường có thứ nếp nhăn này trên trán. Những người già cũng có nếp nhăn đó.
(3)    Thiên Trúc : tên gọi xa xưa của nước Ấn Độ. Người Trung quốc cũng biết ở đó có nhiều nước, nên gọi là “đẳng quốc" (các nước)


- Ta từ thời Bàn Cổ trở về trước, từ khi bắt đầu thời hỗn mông, đã kết hợp tinh của trời, quỉ của đất mà sinh ra, về sau nhiều lần giáng sinh, chỉ vì một việc tế độ người đời. Một trăm năm gần đây, vì vua Trụ nhà Thương thất chính, nhà Chu lên thay, thần tiên gặp phải kiếp nạn, ta mới ẩn cư chốn núi rừng không dự vào việc người nữa. Tới nay, tính tổng cộng ta đã nhập thế được gần năm trăm năm, Tây phương có người đang đợi ta tới thoát độ cho (1), nên ta phải ra cửa quan, đi một chuyến, độ cho người đó, phải đi liền hôm nay.
Nói rồi nhắm mắt, ngồi lặng yên. Người nhà sờ xem, thấy hơi thở đã dứt, thân thể lạnh như băng, đành đem chôn.
Thật ra Lão Tử không hề chết. Đúng vào hôm người nhà an táng Lão Tử, ngài đã cưỡi trâu ra khỏi cửa quan. Lão Tử tới cửa Hàm Cốc, thấy một viên quan nhỏ, dẫn theo hơn mười kẻ tùng nhân, phục bên đường, tự xưng là Quan Doãn Hỉ, cung nghênh thánh giá. Lão Tử xuống trâu, tươi cười hỏi :
- Đại phu vì sao cung kính ta vậy ?
Quan Doãn Hỉ đáp :
- Từ lâu nghe lão sư là thánh nhân do trời sinh ra. Doãn Hỉ tuy bất tài, cũng biết kha khá về thuật xem khí tượng, chiêm đoán thiên khí, biết được hôm nay ngài cưởi trâu đi qua cửa quan này, nên cố ý tới cung nghênh, muôn ngàn lần mong lão sư đừng bỏ rơi kẻ hèn kém này, thu nhận cho làm đệ tử, thì đệ tử vui mừng khôn xiết.
Lão Tử cười, bảo :
- Ông đúng là người có duyên. Đứng lên đi. Ta sẽ đi theo ông, truyền thụ cho ông khẩu quyết trường sinh, là cửa của việc tu đạo
Doãn Hỉ mừng quá, cung kính mời Lão Tử trở vào cửa quan. Tới nhà, ngồi đâu đó, lại vái mấy vái. Lão Tử thở dài, nói :
- Ta nhập thế đã năm trăm năm, chưa từng thấy ai hướng đạo âu lo như ông. Nay ta đem đại đạo truyền cho ông, ông hãy tự tu trì, tiền trình sẽ lớn vô hạn.
-----------------------------------------
(1) Ông Tầu bịa chuyện Lão Tử biến thành người ấn, hóa độ cho Phật Thích Ca.

Nói rồi, rút trong túi áo ra cuốn sách do mình sáng tác, có tên là "Đạo Đức Kinh" năm ngàn lời, trao cho Doãn Hỉ, dặn rằng :
- Tu đan luyện khí, có sẵn pháp môn, còn những phép căn bản, vẫn phải nhờ vào việc minh tâm kiến tính, và ngăn chặn ham muốn, dứt bỏ duyên. Đó là nguồn gốc việc lập mệnh của thần tiên, có thể thấy đầy đủ trong sách này. Ông chớ nên xem thường mà thêm mắc lỗi.
Doãn Hỉ dập đầu lạy chín lạy, xin tuân mệnh. Lão Tứ lại nói :
- Ta không thể ở lâu chốn này, chẳng bao lâu sẽ lên núi Côn Luân, tu sửa lại động phủ.
Doãn Hỉ khóc mà thưa trình :
- Vừa thấy mặt từ bi, sao nỡ vội chia tay ?
Lão Tử nói :
- Ngươi tu đạo giữ điều răn đầu tiên là chữ "Tình". Ông có thể tu chân, sẽ thấy mình như thể đang ở gần bên ta, hà tất phải thường thường gặp mặt ?
- Con tình nguyện bỏ nhà đi theo, dẫu phải nhẩy vào nước sôi, đạp lên lửa cũng không chối từ.
- Ta rong chơi ở ngoài vòng trời đất, không như người bình thường phải có một nơi nhất định, trú ngụ ở chỗ tối tăm, không như người phàm phải có chỗ nghỉ đỡ tấm thân, ra vào ở chỗ bốn phương, mờ mờ mịt mịt, không bờ không bến. Ông thụ đạo còn ít ngày chưa được thông thần, sao có thể đem thân xác huyết nhục quanh quẩn bên ta ?
Doãn Hỉ lại hỏi :
- Xa cách lần này, bao giờ mới gặp lại ?
- Trước hết ta lên Côn Luân một chuyến, sau đó tới vùng biển, nếu còn một đoạn tục duyên, thì qua Tây vực một lần. Nhân ở đất Thục có một "quán dê xanh" (l). Năm xưa, ta tới nơi đó, thấy chủ nhân mười phần nhân đức, mà chưa có con nối dõi, lòng ta nhất thời bất nhẫn, buột miệng nói một câu giỡn chơi, hứa rằng nếu ông ta tích chứa đủ năm trăm công hạnh, ta sẽ đưa tới cho ông một cậu con trai. Nay vợ chồng chủ quán đều đã một trăm hai mươi tuổi, tích công đức được bốn trăm tám chục điều, mà thần minh không thương, ta phải đích thân tới đầu thai làm con. Ta đã đánh cá với cặp vợ chồng già này rằng hai chục năm sau nhất định họ sẽ có một cậu con trai. Sau đó năm năm, ông hãy đích thân vào đất Thục gặp ta.
-----------------------------------
(1) Thanh dương tử : tử = quán bán hàng (rượu,thức ăn), thanh dương : dê xanh, hoặc dê non. Đây chỉ là con dê, còn mầu xanh thì không xác định rõ, cũng tỉ như “trâu xanh" (thanh ngưu) thôi.

Lão Tử nói rồi, đưa một ngón tay chỉ ra ngoài. Tức thì có một đám mây ngũ sắc từ từ hạ thấp xuống, nằm dưới chân Lão Tử, con trâu xanh ngài cưỡi cũng đứng ở trên mây. Lão Tử phóng ra năm luồng sáng, toàn thân hiển lộ kim quang, chiếu khắp xa gần. Doãn Hỉ khấu đầu tống tiễn.
Quan Doãn Hỉ hàng ngày tụng Đạo Đức Kinh, ngộ được ý chính, lại hiểu rõ đạo trị quốc ở chỗ cùng dân thanh tịnh, không quấy nhiễu, khiến dân không biết thiện ác, không để ý tới chuyện hưng vong, tự nhiên vô vi, mà nước yên trị. Đem thực hành trong vài năm, hiệu quả thấy rõ. Rồi từ chỗ kiến văn (l) của mình, ghi chép lại cuốn Đạo Đức Kinh, chia ra thành ba mươi sáu chương. Lại trong ba năm, tu luyện kim đan, sáng tác ra một cuốn sách riêng; lấy tên là "Quan Doãn Từ". Sách chép xong mà kim đan cũng luyện thành, tính chung mất một thời gian là hai mươi lăm năm.
Doãn Hỉ ghi nhớ lời dặn của Lão tử, bỏ quan bỏ nhà, đích thân vào Tây Thục, thăm hỏi "Quán dê xanh", nhưng chẳng ai biết. Mấy ngày liền, chẳng được tin tức gì. Doãn Hỉ tin rằng Lão Tử không nói đùa, nhẫn nại chờ đợi thêm.
Một hôm, trong lúc rảnh rỗi ra chơi ngoài tường thành, bỗng thấy một tiểu đồng lôi kéo một con dê xanh, đi ngả ngớn. Doãn Hỉ mừng quá, nhủ thầm : "Tiên sư đã dậy, mỗi lời hàm chứa diệu cơ, đã có dê xanh, ắt có điềm tốt". Liền tiến lên, cất tiếng chào hỏi :
- Xin hỏi tiểu đồng, dê này ở đâu mà có ? Dắt đi để làm gì ?
Tiểu đồng cười, đáp :  
- Ông hỏi tức cười ! Lão gia và phu nhân nhà tôi năm nay đã hơn một trăm hai mươi tuổi, sinh được một trai, vừa lên năm. Cậu ấy rất thích con dê này. Mấy hôm trước, dê chạy lạc đâu mất, công từ nhà tôi chẳng vui chút nào. Lão gia mới phái người đi khắp nơi tìm kiếm. Hôm nay, tôi gặp được lôi về, để công tử khỏi ấm ức.
------------------------------
(1) Kiến văn : mắt thấy tai nghe, chỉ những điều minh thu lượm được qua thực tế.

Doãn Hỉ nghe chuyện, thấy phù hợp với những lời Lão Tử dặn dò lúc lâm biệt, bất giác vui mừng, nói :
- Cảm phiền tiểu ca cho gửi một lời nhắn với công tử, nói rằng có cố nhân Doãn Hỉ cầu kiến.
Đồng tứ nghe vậy, ngó sững Doãn Hỉ một hồi, đánh giá xem là hạng người gì, sau mới nói :
- Công tử nhà tôi năm nay mới có năm tuổi, kiếm đâu ra một ông bạn già khụ thế này ?
Doãn Hỉ cười, nói :
- Chẳng những là bạn cũ, còn là thầy trò nữa đó !
Đồng tử lại càng ngạc nhiên :
- Công tứ nhà tôi chưa từng đi học, làm gì có học trò ? Còn ông xưng là thầy, xưa nay đã thấy ông tới xin dạy dỗ bao giờ đâu ?
- Không thể nói vậy, công tử nhà tiểu ca là sư phụ tôi, do đó tôi là môn sinh của công tử đấy. Nếu chú không tin, cứ về nói với công tử một tiếng : “Doãn Hỉ xin cầu kiến", xem công tử nói sao, rồi chú lại tới đây gặp tôi.
Đồng tứ nửa tin nửa ngờ, dẫn Doãn Hỉ về nhà mình, trao con dê xanh cho công tử, công tử mừng lắm. Đồng tử lại đem việc gặp Doãn Hỉ kể lại, nói Doãn Hỉ tự xưng là học trò của công tử và ngỏ lời cầu kiến, há chẳng phải chuyện tức cười hay sao ? Đám gia nhân nghe nói, liền cười rộ lên. Ai ngờ công tử lại lập tức sửa lại quần áo cho ngay ngắn, giữ nét mặt trang nghiêm, nói :
- Không sai. Đúng là người đó. Mau gọi ông ấy vào gặp ta !
Gia nhân thấy cảnh huống đó, rất nghi hoặc. Công từ liên tiếp thúc giục đồng tử mau đi đi. Đồng tử đành ra ngoài, nói với Doãn Hỉ:
- Công tử mời ông vào. Cậu ấy tính trẻ con trái khoáy, ông đừng trái ý cậu, kẻo cậu nổi giận, trách mắng chúng tôi.
Doãn Hỉ cười, nói :
- Tôi hiểu rồi ?
Rồi nhất bộ nhất bái (1) tiến vào nhà trong. Công tử vừa trông thấy Doãn Hỉ, dưới chân lập tức hiện ra một bông sen, mây ngũ sắc quấn quanh mình, một mùi hương lạ tỏa ngát bốn phía. Doãn Hỉ thấy vậy vội bò mà tiến tới, phục xuống dưới chỗ Lão Tứ ngồi, miệng xưng hô :
- Đệ tử khấu kiến sư tôn !
----------------------------------
(1) Kiểu Tiết Đinh San gặp Phàn Lè Huê !

Công tử ôn tồn bảo đứng dậy. Quay đầu nhìn lại, thấy cha mẹ và đám gia nhân đang kinh hãi, công tử mới cười, bảo :
- Ta là Lão Quân đây ! Vì hai mươi năm trước từng hứa giáng sinh, nên phải tới đây để kết liễu túc duyên. Nay tục duyên đã hết, cha mẹ, các chị em, cùng tất cả gia nhân hãy theo ta lên trời, vạn kiếp không hủy hoại !
Cả nhà nghe nói, cùng vái lạy dưới thềm. Lão Tử sai Quan Doãn Hỉ đỡ cha mẹ mình dậy, bảo ngồi để nhận lễ bái của những người khác, rồi ngài mới nói với Doãn Hỉ :
- Lần trước ông muốn theo ta vân du, mà vì ta thấy thân thể ông chưa vững chắc, tục duyên chưa dứt, nên đã từ chối. Vả lại lần đầu ông nhận kinh quyết, chưa chắc đã thành công, nếu cứ quấn quít đi theo, e rằng tấm thân huyết nhục chịu đựng không nổi, lại thêm sợ làm ông phân tâm, lầm lỡ sự nghiệp học tập của ông. Nay thấy ông luyện khí, giữ hình, đã tạo ra chân diệu, mặt có thần quang, tâm kết tử lạc, biểu kim danh ở huyền đồ (l). Lại có công vì ta chỉnh lý Đạo Đức Kinh, tự sáng tác một cuốn sách riêng, lưu truyền hậu thế, cũng nhiều vất vả. Hôm nay gặp nhau tại đây, ta sẽ xin Ngọc đế ban sắc phong danh hiệu cho ông, nhận chức trên thiên đình.
---------------------------------
(1) chân diệu : diệu huyền diệu chân thật, thần quang : ánh sáng thần, tử lạc : tấm lưới mầu tía, kim danh : tên vàng, là tên gọi của mình, chử “kim" chỉ là mỹ từ, huyền đồ (tầm bản đồ huyền diệu) : trái đất... Đây là những từ đặc biệt trong Đạo học, không thể dịch ra nổi. N.D.

Doãn Hỉ khấu đầu lạy tạ, Lão Tử truyền đứng dậy, đứng bên cạnh ngài. Ngài lại đọc khẩu quyết vời gọi các vị chân tiên khắp ba cõi, cùng các đế quân, thần vương mười phương, luôn cả các vị thần tiên, tán tiên ở các động, các núi, đều tập hợp trước sân.
Giây lát, các vị thần tiên đều cưỡi mây ngũ sắc, cưỡi thần thú, lục tục kéo tới, ai nấy đều cầm hương, hoa, cúi đầu tham bái. Có một lúc khói hương nghi ngút, mưa hoa rơi lả tả, phảng phất như trong một buổi lễ của các thần tiên, thánh nhân tụ hội. Lão Tử ngồi ngay ngắn trên tòa sen, trao cho Doãn Hỉ sách ngọc chữ vàng, phong cho làm Văn Thủy tiên sinh, tước vị là "Vô thượng chân nhân", thống lĩnh tám vạn chân tiên. Doãn Hỉ vui mừng,quì xuống nhận sắc phong, Lão Tử ôn tồn hiểu dụ, các tiên lục tục ra về. Lão Tử dẫn dắt Doãn Hỉ, cùng toàn gia lên trời, đều thành tiên thể.
Sau đó, Lão Tử cùng Doãn Hỉ về núi Côn Luân, vào cung Bát Cảnh. Lão Tử từ khi được Doãn Hỉ làm học trò, chẳng khác gì con người mọc thêm cánh tay, tất cả các việc liên quan tới tiên phàm đều giao cho Doãn Hỉ xử lý.
Một hôm, Lão Tử ở trong cung cùng Doãn Hỉ đánh cờ, bỗng nhiên ngài cầm con cờ trên tay, không thể hạ xuống bàn cờ, nhíu mày ra vẻ suy nghĩ. Văn Thủy hỏi tại sao, Lão Tử nói :
- ông có biết con trâu mà ta thường cưỡi hiện nay đã trốn đi rồi hay không ?
- Chính thế. Mấy hôm nay chẳng thấy nó đâu.
- Đã là kiếp số, thần tiên cũng không thể cứu vãn. Con nghiệt súc xuống phàm trần đã nhiều ngày. Hiện nay nó ở cõi trần đã được mấy năm. Nó đang ở Hoa sơn ăn thú, cắn người, tàn hại vô số. Không bao lâu còn có một người trong đạo của ta mắc nạn vì nó nữa. Trong tương lai, người này đứng vào hàng môn hạ của ta, không thua kém ông bao nhiêu đâu. Giờ ngọ ngày mai, ông hãy xuống đó một chuyến, cứu người kia, đem về cung.
- Người đó tên họ là gì ?
- Họ Lý, tên Huyền, là Tư hương lại trên thiên cung mắc tội, đầy xuống trần, tất cả là mười kiếp, đến nay đã mãn hạn. Cũng may cậu ta giữ tính linh không mờ, được Thái Bạch kim tinh lôi ra khỏi nhà, đã tìm đường lên Hoa sơn, trải biết bao nguy hiểm. Ông cứ tới đó sẽ hiểu rõ sự tình.
Văn Thủy ánh mệnh ra đi, Lão Tử lại dặn dò :
- Đem đồng tử chăn trâu đi theo, nó sẽ giúp ông một tay. Chừng nào bắt được trâu, bảo nó cưỡi trâu mà về.
Văn Thủy đi tìm đồng tử giữ trâu đó, thì ra là đồng tứ đã ở đất Thục tìm ra con dê xanh. Văn Thủy dẫn cậu ta về ra mắt Lão Tử. Lão Tử vừa thấy mặt, liền mắng :
- Mày coi sóc trâu kiểu gì vậy ? Mày bất cẩn, để nó trốn xuống hạ giới, tổn hại biết bao người và vật ! Nay lại có một người xứng đáng thành đạo sắp bị nó hại chết đấy ! Vạn nhất người ấy bị hại về tay nó, tội của mày càng thêm nặng đó !
Đồng tử không dám phân biện một câu, phục xuống đất nhận tội. Văn Thủy lên tiếng xin cho nó, Lão Tử mới bảo :
- Đứng lên đi. Hãy theo chân nhân xuống phàm trần, thu nhận con nghiệt súc dẫn về, lấy công chuộc tội.
Đồng tử lại tạ ơn Văn Thủy, đi theo ông. Hai người cưỡi mây tới núi Hoa sơn, hạ xuống. Văn Thủy phóng tầm mắt nhìn ra xa, thấy trong đám mây mù ở góc Tây Nam có một đám bụi đỏ, nhỏ như sợi dây, bốc lên tận mây, liền bảo đồng tử :
- Hãy theo ta xuống bắt yêu. Ngươi phải cẩn thận, đừng có lơ là!
Đồng tử thưa : "Vâng !".
Hai người lại cưỡi mây, tiến tới chỗ động phủ Lý Huyền đang chịu nạn. Văn Thủy vận tuệ nhãn nhìn một lượt, thấy đám tiểu yêu đang xúm vào nhấc bổng Lý Huyền lên, ngang với miệng nồi. Lý Huyền nhắm về phía nồi, nhảy xuống. Đang lúc nguy cấp đó, Văn Thủy làm phép vận chuyển một khối nước ở Bắc hải, trút vào trong nồi. Lý Huyền ở trong nồi, cảm thấy nước không nóng lắm, cũng không lạnh lắm. Lý Huyền thấy rất kỳ quái, lại càng tin rằng quả thật người tiên đã bày ra trò này để thử thách mình. Đã vậy ta cứ yên tâm nằm trong nồi, từ từ rồi sẽ tìm cách bước ra.
Trong khi đó, Văn Thủy dẫn tiểu đồng đi, giáng xuống trước cửa động, rồi bước vào bên trong. Đạo nhân nọ đang ngồi đợi nấu chín Lý Huyền, đem nhắm với rượu. Ngẩng đầu lên, thấy Văn Thủy và tiểu đồng tiến vào, hắn hoảng hốt, tính bỏ trốn. Văn Thủy rút trong tay áo ra chiếc roi của Lão Từ dùng để đánh trâu, nhắm vào đạo nhân, quất một roi, hét lên :
- Nghiệt súc ! Không mau hiện hình, còn đợi chừng nào ?
Đạo nhân rùng mình một cái, biến thành con trâu xanh, trút cặp sừng xuống, tính húc Văn Thủy. Văn Thủy chỉ một ngón tay, đè lên đầu trâu, nặng như núi Thái sơn. Con trâu hung hăng một lát, cục cựa không nổi, đành nằm phục xuống đất. Văn Thuỷ cười, nói :
- Nghiệt súc này thật to gan, dám chống cự với chủ ngươi hả ? Đồng tử mau lôi nó đi, nhưng chớ làm thương tổn tới nó, kẻo không mặt mũi nào về gặp sư phụ đâu !
Đồng tử lấy ra sợi dây thừng, xỏ vào mũi trâu, dẫn đi. Văn Thủy trở vào trong động, tra xét một hồi, đánh đuổi đám tiểu yêu chạy hết ráo. Lại vào trong bếp, cứu Lý Huyền ra. Lý Huyền ra khỏi nồi, thấy Văn Thủy đạo dung đoan trang, nghiễm nhiên là một vị kim tiên trên trời, bất giác dập đầu lạy tận đất. Văn Thủy cười, bảo:
- Chú là sư đệ của tôi, bất tất phải đa lễ. Mau ra đằng trước, mặc quần áo vào, theo tôi tới núi Côn Luân.
Lý Huyền nghe lời, ra khỏi nhà bếp, tìm được quần áo của mình mặc vào, lại tới khấu tạ Văn Thủy :
- Xin hỏi pháp hiệu của thượng tiên là gì ?
Văn Thủy đem chuyện đời mình kể lại, nói rõ cả lý do vâng lời Lão Tử tới cứu Lý Huyền, nhất nhất kể rõ. Bấy giờ Lý Huyền mới biết yêu đạo là con trâu Lão Tử thường cưỡi, đã trốn đi, hưng yêu tác quái. Lại mừng vì một điểm đạo tâm đã cảm động được sư tổ, thu nhận làm đệ tử. Lại hỏi Văn Thủy :
- Từ đây tới Côn Luân bao xa ?
Văn Thủy cười, đáp :
- Nếu nói về người phàm đi bộ, đại khái là xa chừng năm, sáu ngàn dặm !
Lý Huyền thè lưỡi, không dám nói tiếng nào.
Chỉ thấy Văn Thủy hô to một tiếng : - Đi ? đưa tay vẫy, liền thấy giữa không trung hai đám mây hồng bay tới. Văn Thuỷ nắm tay Lý Huyền, cùng leo lên. Lý Huyền lần đầu cưỡi mây, sợ run cầm cập, Văn Thủy mới nói :
- Chú tới Hoa sơn phải đi bộ mất nhiều ngày, lại bị yêu đạo bỏ vào nồi đem nấu, chưa từng biết ngán, sao lần đi này lại sợ sệt như vậy ?
Lý Huyền nghe nói cũng bật cười.
Đám mây bay lên cao, chỉ nghe gió thổi ù ù. Cúi nhìn cảnh vật bên dưới, thấy dường như mọi vật đều bay giật lùi về đằng sau. Có vô số đỉnh núi cao vút, rất nhiều sông dài, hàng trăm nơi chợ búa náo nhiệt, hàng ngàn rừng rậm. Đang lúc thưởng ngoạn, chợt nghe Văn Thủy dặn dò :
- Không nên nhìn chăm chú xuống bên dưới. Chú mang xác huyết nhục, có thể cảm thấy đầu choáng váng, lát nữa gặp tổ sư, không thể hành lễ.
Lý Huyền sợ hãi, vội nhắm mắt lại, mặc cho gió đưa đi. Trong khoảng thời gian chừng nấu chín nồi cơm, chợt nghe bên tai có tiếng Văn Thủy hét lên : - Ngừng !, liền mở mắt ra nhìn. Thì ra hai người đã rơi xuống một đỉnh núi, cảnh vật chung quanh rất u nhã. Văn Thủy lại cười, bảo :
- Này sư đệ, đây là đỉnh cao nhất của dẫy núi Côn Luân. Động phủ của tổ sư ở ngay trước mặt. Chú thử nhìn bên kia, có phải là hai đồng tử đang từ phía trước đi tới chăng ? Chắc là tổ sư đã phái chúng tới đón chúng ta đó.
Lý Huyền nhìn kỹ, quả đúng như lời Văn Thủy vừa nói, vội sửa lại mũ áo, bước đi trịnh trọng. Hai tiểu đồng dắt tay nhau tiến lại, tươi cười nói :
- Đại sư huynh đã về đấy ư ? Tổ sư sai hai đứa tôi ở đây đợi sẵn.
Văn Thủy lên tiếng :
- Phiền hai sư đệ vào thông báo, nói rằng tôi dẫn Lý Huyền tới hầu.
Hai đồng tử đi một lát, lại trở ra, vẫy tay :
- Tổ sư bảo hai anh vào.
Văn Thủy dắt Lý Huyền, bước vội vào cung. Lý Huyền giữ vững lòng thành, không dám nhìn nghiêng. Tới cửa cung, Văn Thủy bảo Lý Huyền đứng đợi, tự mình tiến vào cung, bẩm báo việc thu phục trâu xanh, và dẫn Lý Huyền về tham kiến. Lão Tử tươi cười ngỏ lời an ủi và truyền cho Lý Huyền vào. Văn Thủy lại bước ra, dẫn Lý Huyền vào cung. Lý Huyền phủ phục dưới thềm, miệng xưng hô:
- Đệ tử Lý Huyền xin vào ra mắt, chúc tổ sư thánh thọ vô cương.
Lão Tử truyền cho ngồi, Lý Huyền không dám. Văn Thủy phải nói :
- Tổ sư đã cho ngồi, sư đệ đừng nên khiêm tốn.
Bấy giờ, Lý Huyền mới dám ngồi xuống.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 10.07.2008 12:02:42
Hồi Thứ 21

Núi Quan Nhật, thu yêu làm tôi tớ
Động Tử Hà, yêu nữ cướp Kinh.


Lão Tử thấy Lý Huyền thần thái tuấn dật, mặt mày nở nang, tỏ ý hài lòng. Thấy Lý Huyền ngồi xuống rồi, ngài mới hỏi :
- Lý Huyền, ngươi tuy đã biết việc kiếp trước, nhưng vị tất đã hiểu rõ, phải không ?
Lý Huyền thưa :
- Đệ tử ngu muội, kiếp này còn chưa hiểu, sao có thể biết được kiếp trước ? Mong tổ sư chỉ bảo.
Lão Tử gật đầu, sai đồng từ đem ra một chén nước sạch. Lão Tử làm dấu vẽ bùa trên mặt nước, rồi đưa chén nước cho Lý Huyền, bảo soi bóng mình trong đó. Lý Huyền cầm chén nước trong tay, nhìn vào trong chén, thấy cảnh thiên cung, quần tiên đang uống, Tư hương lại cùng Tư hoa tiên nữ cười cợt với nhau, Ngọc đế giáng tội, đầy hai người xuống trần mười kiếp. Lý Huyền đã thấu hiểu, trả chén nước cho Lão Tử, khấu đầu lạy tạ. Lão Tử mỉm cười, nói :
- Ngươi đã hiểu kiếp trước ngươi có căn cơ, kiếp này sớm mộ đạo lại được Kim tinh dẫn dắt, nên ta thương tình nhận cho vào môn hạ. Từ xưa đến nay, những người thành đạo, chưa có ai được nhanh chóng như người đâu. Từ nay ngươi phải cố gắng tu luyện, công hành về sau đều do ngươi tự làm lấy.
Lý Huyền lại lạy, xin thụ giáo. Nhân đó nói :
- Đệ tử là kẻ bỉ phu nơi sơn dã, là mạt phẩm chốn lâm tuyền, kiếp trước đã mắc lỗi, kiếp này há dám không cố gắng, để lỡ việc tiền trình, lại phụ ơn đức tổ sư tài bồi cho ?
Lão Tử gật đầu, tỏ ý khen ngợi, lại dạy bảo thêm :
- Người tu đạo cần phải rong chơi sơn thủy cho nhiều, để gột rửa lòng mình, lập nhiều công hạnh, giữ vững thiện quả. Trước hết, ta hãy truyền cho ngươi khẩu quyết về việc tu luyện, cùng phương cách dẫn đạo, sau nữa ban cho người ba cuốn "Huyền môn đạo kinh". Hai cuốn thượng và trung dạy cho biết hô phong hoán vũ, đằng vân giá vụ, vời thần binh, sai khiến sấm sét, quyển hạ dạy cho biết các cách biến hóa kỳ lạ, hiểu được chuyện vị lai. Ngươi có thể một mình ở lại trên núi Hoa sơn, nơi đó có động phủ mà ta tu chân, nằm trên ngọn Quan Nhật phong, có tên là động Tử Hà. Có một điều là ở đó hiện có yêu ma rất đông, ta phải trao cho ngươi một thanh bảo kiếm, lúc dùng thì dài, thu về thì cực nhỏ, có thể phóng ra xa muôn dặm, thu về trong chớp mắt. Ngươi có thể nhờ thanh kiếm đó mà trừ yêu, giữ thân, tránh khỏi tai họa.
Lý Huyền quì xuống nhận lãnh, xin kính cẩn ghi nhớ lời dạy.
Lão Tử lại sai đồng tử ra phía sau động, lấy về đủ bộ : áo đạo, mũ đạo cùng giầy, vớ. Lý Huyền mặc xong, tinh thần phiêu dật hẳn lên. Lão Tứ cười, bảo :
- Ngươi đã rành rành là một vị tán tiên, có thể ra đi được rồi ! Ta sẽ nhờ Văn Thủy sư huynh đưa ngươi về động Tử Hà. Ba năm sau, ngươi tu luyện công phu hoàn hảo, lại về đây gặp ta.
Lý Huyền khấu đầu lạy tạ, Văn Thủy dẫn ra khỏi động, cùng cưỡi mây tới động Tử Hà, trên núi Hoa sơn.
Lúc Văn Thủy ngỏ lời từ biệt, Lý Huyền lại vái lạy, xin chỉ giáo. Văn Thủy mới nói :
- Yếu quyết về tu đạo, tổ sư đã chỉ dẫn đầy đủ rồi. Sư đệ thông minh, tất nhiên là lãnh hội được. Ngoài ra, các tiên thuật đều có đủ trong kinh điển, sư đệ cứ khổ công tìm hiểu là được. Ngu huynh chỉ có món đồ chơi nho nhỏ tặng cho sư đệ, để chúc mừng sư đệ vào động, bắt đầu việc luyện tập - Nhân đó, lấy ra một tấm gương nhỏ, nói tiếp :
- Treo ở ngoài cửa, gương này sẽ phát ra ánh sáng rực rỡ, ban đêm chẳng khác chi ban ngày, mà yêu nhân, quỉ quái không dám đến gần.
Lại truyền cho Lý Huyền phép định thân : nếu gặp yêu nhân tấn công, ta thi triển phép định thân này, có thể giữ cho thân thể bất động.
Lý Huyền mừng rỡ bái tạ, Vàn Thủy lại nói :
- Hiền đệ lần đầu vào núi, mọi hành động nhất thiết phải nhờ người giúp đỡ. Ngu huynh sẽ đưa hai người đầy tớ tới phục vụ cho đệ .
Lý Huyền kinh ngạc, hỏi :
- Trong chỗ hoang sơn, kiếm đâu ra người ?
Văn Thủy cười :
- Chú nhắm coi thứ địa phương này, người phàm trần có thể tới được không ? Bây giờ, ta sẽ tìm trong đám yêu ma ở gần núi này, xem có đứa nào hữu duyên, vời về hai đứa, để phục thị lão đệ. Những thứ gì lão đệ cần dùng, chúng có thể đi kiếm loanh quanh trong núi, đem về cho đệ.
Văn Thủy dẫn Lý Huyền ra khỏi động, bắt quyết vời thần thổ địa bản sơn tới, hỏi : - Ở vùng phụ cận, có nhiều yêu quái không ?
Thổ địa là một ông già, khom lưng, đáp :
- Nơi đây, từ khi Lão Quân tổ sư bỏ đi, một vùng đất phía trước và phía sau núi này không sao yên ổn, vì có một đám yêu nhân quấy nhiễu. Hung ác nhất là một con tinh thỏ và một con quái trĩ, thường biến hóa ra hình người. Tinh thỏ biến thành một người nam, mê hoặc đàn bà con gái, quái trĩ biến thành một người nữ, xuống núi quyến rũ đàn ông, trộm lấy nguyên dương. Mấy năm nay, hai đứa đó hại người không ít.
Văn Thủy tức giận, nói :
- Đây là đất tổ sư tham tu, sao có thể chấp chứa bọn súc vật ở đó gây rối ?
Thổ địa nói :
- Chẳng những là người phàm dưới núi, ngay cả thổ địa chúng tôi cũng bị chúng quậy phá nhiều lần.
Văn Thuỷ ôn tồn nói:
- Hôm nay, tôi sẽ thu phục hai con quái thỏ và trĩ đó, để chúng phục dịch cho sư đệ tôi. Ngoài ra, những yêu ma khác, đã có sư đệ tôi ở đây không bao lâu sẽ diệt trừ hết. Chú ấy mới tới địa phương này, khổ công tu đạo, nếu có việc gì bất trắc, ngoài ý muốn, mong các ông giúp đỡ, một mai chú ấy tu đạo viên mãn, các ông cũng có công lao không nhỏ.
Các thổ địa cúi chào, ra đi. Văn Thủy cười, bảo Lý Huyền :
- Người tu đạo phải thay trời hành đạo, các thần tiên ba cõi cũng lấy việc cứu người, giúp đời làm trách nhiệm. Nếu ta cứ giữ tâm chính đại, cử động quang minh, luôn luôn có ích cho người, không làm điều gì hại tới đạo lý, thì bọn yêu ma đương nhiên phải cung kính nghe lời ta sai khiến.
Lý Huyền nghe nói, cảm kích trong lòng.
Văn Thủy dẫn Lý Huyền lên chỗ đỉnh núi, vận tuệ nhãn nhìn ra bốn phía, đưa tay chỉ một nơi ở phía Đông Bắc, nói :
- Sư đệ có nhìn thấy không ? Chỗ đó phát ra một thứ yêu khí, nửa xanh, nửa đen, ắt có yêu nhân ẩn núp.
Lý Huyền nhìn không rõ lắm, nhưng dựa theo lời Văn Thủy nhìn kỹ, cũng thấy chỗ đó có điều gì bất thường. Văn Thủy dặn nhỏ:
- Mang theo bảo kiếm, theo sát bên ta ?
Hai người cưỡi mây tới chỗ có yêu khí. Từ trên mây nhìn xuống thấy đó là một thung lũng lớn, cuối thung lũng có một hang động lớn, ngoài hang động có nhiều tiểu yêu đang nô đùa. Thấy hai người, chúng kêu lên một tiếng, bỏ chạy, có đứa lại ngây người ra đứng ngó, có đứa chạy như bay vào động thông báo cho yêu tinh.
Văn Thủy trỏ về phía trước, nói với Lý Huyền :
- Chốc lát, yêu tinh sẽ ra ngay !
Nói chưa dứt lời, đã thấy một nam, một nữ dẫn theo một đám tiểu yêu hò hét xông ra khỏi động. Thấy anh em Văn Thủy, con yêu nam nói :
- Chúc mừng hiền muội ! Hôm nay, em được một bữa sướng miệng !
Yêu nữ vui mừng, giả bộ lễ phép, tiến lại, chắp tay chào :
- Hai vị đạo trường từ đâu tới đây ?
Văn Thủy cười, bảo ;
- Chúng ta cốt ý tới đây để cứu hai ngươi !
Hai yêu nghe vậy, bất giác cười ngất :
- Đạo nhân này nói ra toàn lời ngông cuồng ! Hai người đã tới đây cứu mình còn chưa xong, nói chi cứu người ?
Yêu nam chợt ngửng đầu lên, thấy thanh kiếm của Lý Huyền phát ra ánh sáng lấp loáng, bất giác rét run cầm cập, mới nói nhỏ với yêu nữ vài câu, yêu nữ gật đầu. Một tiếng hiệu lệnh phát ra, cả trăm, cả ngàn tiểu yêu xông tới, vây quanh hai người. Văn Thủy cả cười cùng Lý Huyền rút kiếm ra, đưa cao cánh tay, vẫy một cái, kỳ lạ thay, ánh kiếm tới chỗ nào, chỗ đó có trăm, ngàn tiểu yêu rơi đầu, gẫy xương, nằm la liệt ra đất. Hai yêu tinh nổi giận, cùng cầm binh khí, xông tới đánh hai người. Văn Thủy ra hiệu cho Lý Huyền lùi lại một bước, tự mình cầm kiếm đưa về trước, một mình đánh nhau với hai yêu. Hai yêu địch không lại, bỏ chạy về hướng Tây. Văn Thủy cưỡi mây đuổi theo. Hai yêu cùng há miệng phun khí. Chỉ thấy một đám khói xanh tỏa ra mù mịt, đối mặt không nhận ra nhau, lại có một mùi hôi thối kỳ lạ lan ra, khiến Lý Huyền ngất đi, ngã lăn ra đất. Văn Thủy nổi giận, hét lên :
- Yêu nhân sao dám vô lễ !
Liền há miệng thở ra, tức thì khói xanh tan đi, mùi xú uế cũng không còn. Văn Thủy niệm lâm râm, rồi hét lên một tiếng, một tiếng sấm nổ ra giữa thinh không, sớm có ông Sấm, Bà Sét hiện ra, đứng ở trên mây, khom lưng đợi lệnh. Văn Thủy chắp tay chào, nói:
- Hiện có hai con yêu thỏ, trĩ ở đây quấy rối, bần đạo cảm phiền hai vị tôn thần ra sức, bắt chúng lập tức hiện nguyên hình, nhưng xin chớ làm thương tổn tới tính mạng chúng. Bần đạo còn có chỗ dùng tới chúng.
Hai vị thần Sấm và Sét hô to :
- Tuân pháp chỉ !
Liền phát ra một tiếng sấm rất lớn, đánh trúng đầu hai yêu.
Chúng kinh hồn táng đảm, hô to :
- Đại tiên tha mạng !
Văn Thủy hét lên :
- Nghiệt súc ! Mau hiện nguyên hình, nghe pháp chỉ !
Hai con yêu lắc mình một cái, biến ra thỏ trắng và chim trĩ.
Văn Thủy nói :
- Yêu ma các ngươi có chịu nghe lời ta sai khiến hay không ?
Hai con yêu khóc mà năn nỉ, xin người tiên tha mạng, tình nguyện cắp roi theo hầu đại tiên, nếu trái lời sẽ chịu trời tru đất diệt. Văn Thủy cho lui ông Sấm, Bà Sét, rồi nói :
- Từ nay các ngươi phải ở động Tứ Hà, núi Quan Nhật phục vụ sư đệ ta. Các ngươi phải cẩn thận, cung kính vâng lệnh. Sư đệ ta chính là thiên tiên giáng phàm, nay vâng lời dạy của tổ sư, ở đây tu trì, chẳng bao lâu sẽ thành chính quả. Lúc đó các ngươi cũng có công lao không nhỏ.
Hai yêu vui mừng, khấu tạ. Văn Thủy bảo chúng biến trở lại hình người, tới thăm Lý Huyền. Lý Huyền bị độc khí khá nặng, hôn mê bất tỉnh. Văn Thủy phà hơi vào mặt, hô to :
- Sư đệ mau tỉnh dậy ! Ngu huynh đã thay mặt đệ thu nhận hai người giúp việc.
Lý Huyền tỉnh dậy, mừng rỡ bái tạ. Văn Thủy nói :
- Sư đệ hãy đặt tên cho hai đứa này, để thuận tiện khi cần gọi tới chúng.
- Nhờ sư huynh đặt tên giùm cho.
Văn Thủy suy nghĩ một lát, nói :
- Tinh trĩ này có tài bay lượn trên không, hãy đặt tên cho nó là "Phi Phi"(1) , còn tinh thỏ có thể leo lên vách núi, trèo lên ngọn cây nên đặt tên là "Điên Điên" (2).
Lý Huyền và hai yêu đều tạ ơn Văn Thủy. Văn Thủy lại đưa hai đứa về động Tử Hà, dặn chúng nên khéo hầu hạ Lý Huyền.
Nếu hai đứa bay thay lòng đổi dạ, ta ở Côn Luân lập tức biết liền, sẽ vỗ tay phát ra tiếng sấm, đánh hai người tan thành tro than.
Hai yêu sợ hãi lĩnh mệnh. Văn Thủy lại khuyên nhủ Lý Huyền vài câu, và nói :
- Ba năm sau, gặp lại ở Côn Luân !
Dưới chân xuất hiện một đạo kim quang, Văn Thủy bay lên không trung, biến mất.
Hai yêu phủ phục trước mặt Lý Huyền, nói :
- Hôm nay, chúng tôi may mắn gặp được kim tiên ?
Lý Huyền nói :
- Từ nay, hai ngươi nên gột tâm sửa tính, theo ta tu trì. Ta sẽ chọn một số bí kíp mà tổ sư ban cho, thỉnh thoáng truyền lại cho hai ngươi. Sau này ta thành công, không quên công lao của hai ngươi đâu.
Phi Phi và Điên Điên vui mừng, hể hả.
Từ đó, Lý Huyền ở trong động, ngày đêm dụng công luyện tập, hai yêu xuống núi lấy những vật dụng cần thiết đem về, nấu cơm, quét hang động, luôn luôn sẵn sàng nghe lời chủ nhân sai khiến, không hề lười biếng, trễ nải.  
-----------------------------------------
(1) và (2) Phi : bay. Điên : đỉnh, chóp.

Ai ngờ cuốn kinh Lý Huyền thường ngày tụng đọc, ban đêm lại phát ra ánh sáng, tỏa ra khắp bốn phía. Liền có nhiều yêu ma ngờ rằng trong động có nhiều châu báu, nghĩ chuyện lấy trộm.
Hôm đó, Lý Huyền đang luyện tập, chợt thấy từ ngoài động tiến vào một cô gái, mặc quần áo trắng toát, nước mắt lã chã trên mặt, kêu khóc rất to :
- Pháp sư cứu mạng .
Lý Huyền định thần nhìn kỹ, không nhận ra là người nào, mới nghĩ : "Chỗ núi sâu này, người thường không thể đến được, chắc là yêu nhân hóa thân đây". Sau lại nghĩ : "Yêu nhân ắt phải có hình tính đặc biệt, cô gái này yểu điệu như thế, sao có thể là yêu tinh được ?, Vì thế, không nghi ngờ gì nữa, mới hỏi :
- Tiểu nương tử từ đâu tới ? Có nỗi oan khổ ? Sao không tới chỗ quan phủ mà tố cáo, lại tới nơi hoang sơn này tìm bần đạo ? Có ích gì đâu ?
Cô gái khóc mà thưa :
- Tiểu nữ là người ở Vương gia tập, thuộc thôn Đông, chồng chết mới hơn trăm ngày, không nỡ tái giá. Vì bố mẹ chồng nghèo khổ mới đem bán thiếp vào nhà một tài chủ, việc thành hôn định vào đêm nay. Tiểu nữ kiên quyết không chịu thuận tùng, tài chủ mới xử tiểu nữ vào tội chết, Tiểu nữ rình lúc đêm khuya trốn đi.
Nhưng một vùng đất phía sau núi này, thế lực của tài chủ chỗ nào cũng vươn tới, tiểu nữ trốn không thoát, mới nhắm hướng núi mà chạy tới, không ngờ càng chạy càng lên cao, bất giác đã tới chỗ này. Nay quả thật tiểu nữ ở vào thế tiến thoái lưỡng nan, lại còn sợ chui vào bụng cọp, chó sói nữa. Đang lúc không biết làm sao, may gặp pháp sư ở đây tu đạo, xin người đừng bỏ rơi, hãy thu nhận tiểu nữ vào động phủ, làm một đứa hầu gái sai khiến, thật may cho tiểu nữ muôn phần.
Lý Huyền kinh hãi nói :
- Tiểu nương tử đừng nói vậy ? Bần đạo là kẻ không kham nổi những nỗi khổ hàng ngày của người đời, mới tới trú ngụ ở nơi vắng vẻ này. Tuy hiện nay vẫn phải ăn cơm, nhưng chẳng bao lâu nữa sẽ dứt bỏ đồ huyết thực, làm sao có thể nuôi dưỡng nổi tiểu cô nương ? Vả lại ở đây không có việc gì lớn, chỉ có nhưng việc lặt vặt đều do hai đệ tử của tôi cung ứng được rồi, còn dùng tới người khác làm chi ? Tiểu nương tử mau xuống đi, đừng cà rề ở đây nửa !
Cô gái nghe nói, lại khóc rống lên :
- Người tu đạo rất trọng điều nhân nghĩa, tiểu nữ vì trọng danh tiết mà gặp hoạn nạn, mà pháp sư chẳng chịu ra tay cứu vớt. Tiểu nữ đằng nào cũng chết về tay ác nhân, chẳng thà chết trước mặt pháp sư lại hay hơn !
Lý Huyền rúng động trong lòng, cảm thấy bất nhẫn, mới nghĩ : “Cô gái này nói giọng quá tha thiết, đúng là vì giữ trinh tiết mà tới đây Nếu ta không cứu , há chẳng phải mang tiếng ngồi nhìn người chết hay sao ? Nếu muốn cứu cô ta, phải bàn bạc với Phi Phi, nói nó đưa cô ta ra khỏi núi, tới nơi cách xa chừng ngàn dặm, mới không sợ ác nhân tìm bắt cô nữa". Nghĩ vậy rồi, mới nói :
- Tiểu nương tử đứng dậy đi. Bần đạo ở đây tu thân lập mệnh, còn sợ không đạt được kết quả, rảnh rỗi đâu mà lo chuyện người khác ? Nhưng thấy tiểu nương tử quyết tâm giữ trinh tiết, thật đáng khâm phục, lại nói năng thảm thiết đáng thương, bần đạo đành phá lệ một lần vậy. Tôi sẽ sai đồ đệ đưa cô xuống núi, để cô tìm một nhà lương thiện mà xin làm mướn, cũng có thể sống tạm, ý cô thế nào ?
Cô gái vui mừng, tạ ơn :
- Nếu được vậy, pháp sư quả là ân nhân cứu mạng của tiểu nữ !
Nói rồi, lại cúi lạy. Lý Huyền vội gạt đi, nói :
- Tiểu nương tử đừng nên đa lễ, mà bần đạo chẳng an lòng. Tôi sẽ lập tức sai người đưa cô đi.
Cô gái vội nói :
- Hôm nay trời đã tối, mà đường núi lại quanh co, gập ghềnh, tới đâu cũng có thể gặp hổ báo, độc trùng. Vạn nhất xảy ra chuyện không may, há chẳng phải pháp sư cứu người lại hóa ra hại người hay sao ?
Lý Huyền lắc đầu, hỏi :
- Vậy ý tiểu nương tử ra sao ?
- Tiểu nữ chẳng có ý gì khác, chỉ xin ngủ lại một đêm, sáng mai đi sớm.
- Làm vậy không được đâu. Trước nay, tôi chưa hề giữ một nữ khách nào ở lại. Vả lại, nơi hoang sơn, cổ động, đơn nam quả nữ phải tránh tị hiềm ! Tiểu nương tử vì muốn bảo toàn danh tiết mà mắc nạn, nay lại vì ngủ lại một đêm mà thương tổn tới thanh danh, đó chẳng phải kế hay cho nương tử.
- Chẳng cần lo lắng. Pháp sư có nói là có hai đồ đệ kia mà.
Hãy bảo họ dời đi chỗ khác, dành phòng cho tôi ngồi một đêm, có gì mà hiềm nghi ? Thiên thần cùng chứng giám, sợ gì những tiếng thị phi?
Lý Huyền nghe vậy, càng thấy khó khăn, nói :
- Chính thế. Trách nhiệm này, tôi càng gánh vác không nổi. Học trò tôi không phải con người, mà là thỏ tinh và trĩ tinh tu luyện thành người. Trĩ tinh còn là đàn bà, chứ thỏ tinh mang dạng đàn ông. Bần đạo nhờ pháp lực của tổ sư, vừa thu chúng vào môn hạ mới đây, đâu biết dã tính của chúng đã thuần hay chưa ? Vạn nhất thấy tiểu nương tử trẻ trung mỹ miều, nó có hành vi bất chính, bần đạo làm sao gánh vác cho nổi trách nhiệm ? Tiểu nương tử đừng nghi ngờ gì nữa, tôi sẽ lập tức kêu tinh trĩ đưa cô xuống núi. Học trò tôi tuy là dị loại, nó có nhiều phép thuật, những loài cầm thú bình thường đừng hòng lại lần nó. Có nó đi cùng, bảo đảm không sợ chuyện gì xảy ra.
Cô gái thấy Lý Huyền khăng khăng không chịu, liền giở trò mê hoặc để quyến rũ, nhoẻn miệng cười, nói giọng ỏn ẻn :
- Pháp sư, ông đúng là lòng dạ độc ác, nỡ để đầy tớ đêm khuya mạo hiểm, băng băng trên con đường núi dài dằng dặc hay sao ?
Cô gái nói rồi, tiến sát bên mình Lý Huyền, khiến Lý Huyền hết đường tránh né, vội hô to :
- Phi Phi, Điên Điên ở đâu ? Mau lại cứu ta !
Lý Huyền nói chưa dứt câu, cô gái đã nổi giận đùng đùng, nói :
- Được ! Lý Huyền, ngươi đúng là thằng ngốc không biết điều ? Ta nói năng ôn tồn, ngươi lại kêu người tới bắt ta hả ? Thôi được ! Ta không thèm làm khó ngươi nữa, chỉ chộp lấy cuốn Huyền Kinh gì đó của ngươi đem đi. Nếu ngươi hồi tâm chuyển ý, ta sẽ cùng ngươi làm vợ chồng suốt đời. Nếu ngươi không chịu, ta đem đốt cuốn kinh của ngươi đi. Ta ở động Bạch Ngọc, đằng sau núi này. Bạch Ngọc phu nhân chính thị là ta. Ngươi muốn tìm ta, cứ đến đó mà tìm.
Nói rồi, đưa một tay chộp lấy cuốn Huyền Kinh, đặt trên chiếc bàn đá, tay kia xô đẩy Lý Huyền, biến ra một trận gió quái, ra khỏi động đi ngay. Chừng Phi Phi, Điên Điên chạy tới, cùng Lý Huyền ra ngoài động tìm kiếm, thì không thấy tung tích đâu nữa.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2008 21:01:54 bởi bevanng >

bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 10.07.2008 15:10:29
Hồi Thứ 22

Thành công thăm lão tổ
Đắc đạo viếng song thân


Bị cô gái bày kế cướp mất kinh, Lý Huyền kinh hãi, cùng Phi Phi, Điên Điên chạy ra khỏi động tìm kiếm, chẳng thấy tung tích cô gái đâu cả. Lý Huyền giậm chân, than thở, Điên Điên mới nói :
- Yêu nhân đã đi mất, nóng vội cũng vô dụng. Nên nghĩ cách đuổi theo nó, đoạt lại cuốn kinh thì hay hơn.
Câu nói đó đã thức tỉnh Lý Huyền, ông vội nói:
- Đúng lắm ! Lúc ra đi, nó có nói là trú ngụ ở động Bạch Ngọc, phía sau núi. Nó còn tự xưng là Bạch Ngọc phu nhân. Hai người ở đây đã lâu năm, có từng nghe nói tới yêu động đó không ? Có biết yêu tinh đó là con gì không ?
Phi Phi lắc đầu :
- Ở núi đó, các động phủ lớn nhỏ có rất nhiều, chúng tôi tuy ở đó nhưng cũng không biết rõ.
Lý Huyền chợt nhớ ra một điều, nói :
- Sư huynh ta từng dạy ta phép vời thần, sao ta không mời thổ địa ở núi đó tới đây, hỏi thử một câu, chắc là biết rõ ngọn ngành.
Phi Phi và Điên Điên đều thúc giục thầy vời gọi. Lý Huyền bắt quyết quả nhiên thấy một thổ đại già đứng ngay trước mặt, tươi tắn mặt mày, ngỏ lời cảm tạ Lý Huyền đã thu phục hai con tinh.
Phi Phi đứng bên bất giác đỏ gay mày mặt, Điên Điên cũng tỏ vẻ bối rối, không yên. Lý Huyền nói :
- Trước khác, nay khác, chuyện dĩ vãng cũng không nên nhắc lại làm chi ! Hiện nay chúng đã thành gia nhân của tôi rồi. Việc khẩn yếu bây giờ là lấy lại cuốn kinh - Nhân đó hỏi thổ địa : - Tôn thần có biết ở trong núi đó có hang động nào gọi là Bạch Ngọc hay không?
Thổ địa đáp :
- Động Bạch Ngọc cách đây không xa, nhưng không thuộc quyền quản lý của tiểu thần, nên tôi cũng không rõ lắm. Chỉ nghe trong động có một yêu nhân quấy rối, thường hay ăn thịt những người qua lại. Nó là đồng đạo với hai vị mà.
Phi Phi nghe vậy, đưa tay kí lên đầu thổ thần hai cái, mắng yêu:
- Ông lão này có tật châm chọc người khác. Thấy sư tôn của tôi ở đây ông dám khinh thường chúng tôi hả ? Mai mốt chúng tôi làm yêu tinh trở lại, không đào bới hang của ông, chớ kể là hảo hán !
Thổ địa vội dạ dạ, nói :
- Chẳng qua tiểu thần chỉ nói giỡn một câu, đâu dám đắc tội với hai vị ?
Lý Huyền mắng át đi :
- Đã quay về chính đạo, sao còn nổi lòng tà ? Không sợ mắc lời thề hả ? Sư huynh ta lập tức vỗ tay phát ra tiếng sấm, đánh chết hai đứa bay đấy !
Phi Phi cười, đáp :
- Chỉ tại lão già kia xúi giục, chúng con mới nghĩ bậy đấy thôi !
- Cho dù nói giỡn, cũng phải có chừng mực, những lời vượt quá khuôn phép như thế, không được phép nói ra.
Phi Phi xin vâng. Lý Huyền xin lỗi thổ địa, và cho ông rút lui.
Sau đó, Lý Huyền dẫn hai đồ đệ ra sau núi lại vời thổ địa nơi đó tới hỏi, thấy ông thổ địa này mặt mày khô đét, hình dung tiều tụy.
Lý Huyền hỏi thăm về Bạch Ngọc phu nhân, thổ địa bẩm báo :
- Cách đây chừng ba chục dặm có một sơn động, phía sau động sản sinh ra bạch ngọc, nhân đó đặt thành tên gọi. Động đó có một yêu nhân, ăn thịt người, khinh miệt thần, làm lắm điều ác. Số là năm xưa, con trâu xanh của Lão Quân tổ sư giao hợp với một con trâu rừng ở núi này, mới sinh ra nó. Lúc đẻ ra, nó không tìm ra thứ gì để ăn, mới ra sau động tìm thấy những nõn bạch ngọc còn mềm mại, dùng làm thức ăn. Ăn bạch ngọc riết, nó thông tính linh, có thể biến thành hình người. Nó có nước da trắng nuốt, da dẻ mịn màng, toàn thân từ dưới lên trên đều một mầu ngọc, ngay cả quần áo mặc cũng trắng toát, không nhiễm một mầu nào khác, nên nó tự xưng là Bạch Ngọc phu nhân. Nó thường xuống núi mê hoặc các đồng tử đẹp trai, bắt về hang động, hái lấy nguyên tinh. Khi tinh kiệt, thân suy, các cậu trai đó bị nó ăn thịt luôn. Nó làm quá đến nỗi hành khách dưới núi thưa thớt hẳn, cư dân cũng trốn đi xa, khiến tiểu thần mất thụ hưởng hương khói của dân chúng khấn vái, khổ không kham nổi. Nay pháp sư tới đây, hẳn là trời sai ngài tới thu phục con yêu đó chăng ? Thật là may mắn cho dân chúng, mà tiểu thần chúng tôi cũng được che chở.
Điên Điên nói nhỏ với Phi Phi, cho rằng con yêu này là đồng đạo với mình, hèn chi lúc nãy lão thổ địa cũng hiểu lầm, đã trêu chọc hai ta. Phi Phi mắng lại :
- Nếu vậy, sao anh không nhận họ hàng với nó đi ?
Lý Huyền nghe hai đứa chớt nhả, lòng rất phiền muộn, liền mắng :
- Lại nói nhảm nữa ! Bị con yêu cướp mất cuốn kinh, ba chúng ta cùng có tội, không mau nghĩ cách cướp đoạt trở lại, còn ở đó mà nói giỡn ? Chẳng có thể thống tiên gia, qui củ Đạo môn chút nào !
Nghe thầy mắng, hai người không dám nói gì nữa. Lý Huyền lại hỏi thổ địa :
- Yêu nhân này có bản lãnh gì không ?
- Bản lãnh của nó cũng chẳng lợi hại lắm, chẳng qua chỉ biết đằng vân giá vụ, lấy trộm đồ vật thôi. Nó còn biết sử dụng một cây đao ba mũi nhọn rất thuần thục, người bình thường khó bề đánh lại nó. Ngoài ra, không thấy nó có tài năng gì khác.
Lý Huyền tạ ơn thổ địa, mời ông rút lui, rồi nói với hai đồ đệ :
- Thì ra con yêu này là một con tinh trâu. Hai người đã có kinh nghiệm chiến trận, hãy tới đánh thử với nó một trận xem sao. Ta sẽ đứng trên đỉnh núi quan sát, nếu thấy hai người đánh không lại, sẽ dùng phi kiếm đánh giúp hai ngươi.
Phi Phi nói :
- Nếu vậy, pháp sư thưởng cho nó một mũi phi kiếm là xong, cần gì phải đánh đấm cho mất công ?
- Ta cũng biết vậy, nhưng con yêu này tu trì đã lâu năm, mới đạt được chút đạo hạnh. Bảo kiếm này là của tổ sư ban cho, một nhát kiếm vừa vung ra, thần tiên cũng không đương nổi, huống hồ là yêu ma. Nếu làm thương tổn tới tính mạng nó, cũng uổng phí công tu luyện ngàn năm của nó. Ý của ta là đoạt lại cuốn kinh, rồi dùng lời tử tế dẫn dụ nó, và tha chết cho nó, để nó tu thành chính quả. Đó là biện pháp tốt nhất. Còn như nó cứ khăng khăng không phục, ra sức chiến đấu, là nó tự tìm chỗ chết, ta đành phải khai sát giới, trừ hại cho dân ở núi này. Thượng đế vốn có đức hiếu sinh, tiên thuật, binh khí bất đắc dĩ mới phải dùng tới.
Hai người nghe vậy, cảm kích trong lòng, vui vẻ đi khiêu chiến. Tới trước động Bạch Ngọc, họ hô to :
- Bạch Ngọc phu nhân là đứa nào, mau ra gặp ta !
Bạch Ngọc phu nhân cướp được cuốn bí kíp, đang hân hoan, chợt nghe tiểu yêu dưới quyền chạy vào bẩm báo, nói có một nam một nữ đang ở ngoài la lối, đòi phu nhân ra gặp chúng. Bạch Ngọc phu nhân cười :
- Chắc là hai tên đồ đệ của Lý Huyền tới đấy. Để ta ra gặp chúng một phen !
Liền sửa lại quần áo, cầm cây đao ba mũi nhọn, vọt ra khỏi động, hét lên :
- Hai ngươi có phải đồ đệ của đạo nhân nghèo đấy không ?
- Đúng vậy. Đã biết bọn ta, mau đem cuốn kinh trả lại, thì mọi chuyện êm hết ! Như có nửa lời cãi lại, chớ trách bọn ta vô tình !
Phu nhân cất tiếng cười ha hả, nói :
- Bất quá chỉ là một chú thỏ, một cô chim trĩ, có bản lãnh gì mà dám nói lớn lối ?
Hai người nổi giận, nói :
- Đừng kể xấu người khác ! Hãy thứ soi gương coi lại mình, có phải là con trâu hay không ?
Phu nhân tức giận cành hông, vác đao xông lại phía hai người.
Hai người cùng rút binh khí ra, chống lại. Đánh nhau được chừng năm chục hiệp, hai người cảm thấy không phải đối thủ của phu nhân, đành bỏ chạy. Lý Huyền đứng trên đỉnh núi, sớm đã thấy rõ, vội rút kiếm ra, miệng niệm lâm râm. Kim quang vừa lóe ra, thanh kiếm đã vuột khỏi tay ông, bay đi. Lý Huyền trong lòng chỉ muốn bảo toàn tính mạng cho con yêu, nên mới khấn thầm : "Làm sao đừng chém chết nó là tốt nhất !". Nào ngờ thanh kiếm này thông tính linh, lòng người muốn gì, kiếm làm theo ngay. Lý Huyền chưa dứt câu niệm, thanh kiếm đã dâm trúng vào chân yêu nhân, chặt đứt một cẳng trâu, con trâu xuất hiện nguyên hình. Thì ra đó là một con trâu trắng, không một sợi lông tạp mầu. Nó nằm lăn ra đất, kêu rống lên. Trước hết, Lý Huyền vào trong động thu lại cuốn kinh, sau đó mới ra ngoài, đứng trước con trâu trắng, nói :
- Chắc ngươi biết ý ta không nỡ giết ngươi chứ ?
Con trâu cúi đầu, không nói. Lý Huyền cảm thấy bất nhẫn, nói :
- Cứ như hành vi của ngươi, giết đi còn chưa đủ đền tội ! Nhưng ta nghĩ thương ngươi tu luyện ngàn năm, chẳng phải dễ dàng gì, nên ta chỉ chém ngươi bị thương ở cẳng, bảo toàn tính mạng cho ngươi, chứ bảo kiếm của ta một khi lao đi, ngươi làm sao sống nổi ? Nếu ngươi chịu hối cải, hãy theo ta về động, cùng hai đồ đệ ta chặt củi, gánh nước, làm những công việc lặt vặt, ta sẽ chỉ giáo cho ngươi và hai đồ đệ của ta cách luyện tập, tu trì. Nếu ngươi chấp mê không tỉnh, thì thanh kiếm tiên trong tay ta sẽ lấy mạng ngươi tức thì.
Con trâu trắng khóc mà xin tuân lời, lắc mình một cái, lại biến ra một người đẹp, theo Lý Huyền, cùng Phi Phi, Điên Điên trở về động Tử Hà.
Từ đó, Lý Huyền dụng tâm chuyên cần, lại đề phòng cẩn mật, dặn ba người chia phiên canh gác ngày đêm, không để yêu nhân xâm nhập động phủ. Qua vài tháng, không còn ăn tới đồ nấu nướng nữa, chỉ hái những rau quá về ăn cho đỡ đói, mà tinh thần càng thêm minh mẫn. Trong một năm, đọc hết hai cuốn kinh, có thể hú gió gọi mưa, đằng vân giá vụ, nhất nhất được như ý muốn. Chừng đọc hết cuốn cuối, có thể xuất nhập chốn u minh, biến hóa vô cùng, lại biết được chuyện quá khứ, vị lai, siêu phàm nhập thánh, ngay cả các vị đại la kim tiên trên trời cũng không hơn được.
Kỳ hạn ba năm đã tới, Lý Huyền dặn bọn Phi Phi ở lại giữ động phủ, tự mình cưỡi mây tới cung Bát Cảnh trên núi Côn Luân, tham yết Lão Quân. Lão Quân đã sớm biết, sai Văn Thủy tiên sinh dẫn dắt các môn hạ mười đời, ra khỏi cung nghênh đón. Lý Huyền tiến lại gặp mặt, các vị tiên đều lên tiếng chúc mừng Lý Huyền đã thành công. Lý Huyền khiêm tốn từ tạ, được các vị tiên dẫn vào gặp Lão Quân. Ngài ban lời tưởng lệ xong, Lý Huyền lại xin dạy bảo thêm, Lão Từ dạy rằng:
- Làm theo đạo ngày một giảm bớt, giảm bớt lại giảm bớt, cho tới khi đến chỗ Vô Vi (1), lòng thanh thản muốn lợt lạt, hạo khí muốn thiện, tự nhiên cùng vạn vật, không có lòng riêng tư.
------------------------------------
(1) Đây là phân đầu của chương 48, sách Đạo Đức Kinh : “vi học nhật ích. vi đạo nhật tổn, tổn hi hựu tổn, chi ư vô vi...". Đạo : là con đường phải đi, là lễ phải nên theo, vì thế câu này có nghĩa : Lẽ phải nên theo là ngày một giãm bớt. Tổn : giảm đi, bớt đi, nhưng giãm bớt cái gì ?

Lý Huyền cúi đầu xin thụ giáo, Lão Tử lại dặn bảo thêm :
- Đối với thần tiên, việc dưỡng tính, giữ tâm là chủ yếu, mà phải bổ khuyết bằng pháp thuật. Bảo dưỡng tâm tính để thành tấm thân bất hoại, tu luyện pháp thuật để dùng vào việc giúp đời cứu người. Ngươi tuy đã tu luyện thành công, nhưng công hạnh vẫn chưa đủ. Ba năm trước, ta có bảo ngươi nên rong chơi chốn sơn thuỷ cho nhiều, nay là lúc ngươi có thể thực hành công phu bước đầu thuận tiện cho ngươi làm được nhiều công đức. Nếu gặp người có duyên, đừng ngại thu làm học trò, việc đó rất có ích cho ngươi. Mười năm nữa, ngươi lại về đây gặp ta.
Lý Huyền tuân lời, rút lui, ra gặp các vị sư huynh như Văn Thủy chân nhân, Quảng Thành Tứ, Xích Tinh từ, Nhiên Đăng đạo nhân, cùng nhau tỏ bày tâm sự. Các tiên bày tiệc ở đằng sau núi, để chúc mừng. Chủ khách cùng vui uống, Văn Thủy lên tiếng trước nhất, nói với Lý Huyền :
- Sư đệ lần này chú tu đạo, có thể nói là từ khi có thần tiên đến nay, chưa ai được dễ dàng như chú. Chú thử nghĩ coi, từ khi chú xuất gia đến giờ đã được bao nhiêu ngày, mà đạt thành tựu lớn đến thế ?
Nhiên Đăng đạo nhân và Quảng Thành Tử đều nói :
- Đó là nhờ duyên pháp và phúc mệnh mỗi người, không thể miễn cưỡng được.
Xích Tinh Tứ cười, nói :
- Kỳ thực bọn chúng tôi có một số người tu đạo thành tiên, kể ra cũng cực nhanh, nhưng xem ra Lý Huyền đệ so với chúng tôi còn cao thâm gấp bội, thật đáng khâm phục.
Lý Huyền vốn tính khiêm tốn, hòa nhã, nghe các sư huynh xưng tụng, lòng chẳng được yên, mấy lần ngỏ lời cảm tạ :
- Tất cả đều nhờ ân trạch của tổ sư, và công chỉ dẫn của chư huynh thôi.
---------------------------------------
Bên dưới đã giải thích : giảm bớt để đi tới chỗ Vô Vi, là lý tướng cao nhất mà Lão Tử đề ra. Vô Vi không phải là chẳng làm gì cả, mà là “vô vi nhi vô bất vi" : không làm gì mà mọi việc đều tự hoàn thiện. Vì thế giảm bớt là giảm những điều rườm rà, thừa thải (của con người và xã hội đặt ra) để tuân theo Tự Nhiên N.D.

Văn Thủy mới nói :
- Tổ sư từng nói rằng sư đệ kiếp trước vốn là tiên, lại biết lập chí hướng thượng, cảm động tới Ngọc đế, kiếp này lại giữ được tính linh không mờ tối, từ thủa nhỏ đã mộ đạo, nên việc thành tựu không mấy khó khăn. Trong ba năm trời, chú dụng công vô cùng cần mẫn, mới có được sự thành công ngoài ý muốn, chúng tôi không bằng được đâu.
Lý Huyền vội đáp :
- Cũng nhờ sư huynh ban cho hai đứa hầu phục dịch, chứ không thì tiểu đệ chết đói, chết rét từ lâu rồi, làm gì có được địa vị ngày nay?
Các tiên nghe vậy, đều cười ầm. lên.
Ba ngày sau, Lý Huyền từ biệt Lão Tử và các vị sư huynh, trở về động Tử Hà. Ông dặn bảo ba đồng tử nên cẩn thận giữ động, ra sức tu luyện. Ba đồng tử khấu đầu nhận lệnh, Lý Huyền mới phóng tâm mà xuống phàm trần. Khác với lần trước, Lý Huyền hiện nay đã là một đạo nhân, có nhiều điều thuận lợi hơn. Nhớ lại lúc chưa xuất gia, từng nói với cha mẹ rằng một khi thành tựu, ắt về nhà thăm hỏi song thân, Lý Huyền mới nhân dịp này đi một chuyến, trước là lo chuyện riêng tư là thăm hỏi cha mẹ, sau nữa là xem tình hình quê cũ ngày nay ra sao. Ông cưỡi mây bay đi, không bao lâu đã tới thành Lạc Dương, đi bộ trở về nhà.
Cha của ông là Lý Kỳ, mẹ là Vưu thị, đều đã già, thân thể suy nhược, suốt năm ở nhà dưỡng bệnh, không đặt chân ra khỏi cửa.
Hôm đó bỗng nghe gia nhân vào báo, có một đạo nhân cầu kiến. Lý Kỳ mất con đã lâu năm, không hề nghĩ rằng con sẽ trở về. Nhưng đã có lần nhìn thấy chân tiên, không dám xem thường các đạo sĩ nữa. Mỗi khi có đạo sĩ phương xa xin gặp mặt, ông đều đối xử tử tế. Lúc này tuy đang bệnh, ông cũng bày tỏ lòng thành, bảo gia nhân mời vào ngay. Lý Huyền thấy phụ thân quá già yếu, đau lòng quá, vội tiến lại vài bước, quì xuống ôm lấy chân cha, lạy dập đầu hô to :
- Đứa con bất hiếu Lý Huyền xin tham bái phụ thân.
Lý Kỳ hết sức bất ngờ, vội sai người đỡ dậy, hỏi :
- Con đúng là Lý Huyền của cha đấy ư ? Sao con về được nhà ?
Nói rồi nhìn tận mặt Lý Huyền, thật chăm chú, thấy thần thái phóng dật, hơn trước rất nhiều. Nhận đúng là con trai yêu quí, ông lão mừng hết sức. Không có thời giờ hỏi thêm câu nào nữa, ông đập lên mình con trai một cái, hô to :
- Mau mời phu nhân ra đây! Thằng Huyền nhà ta đã về đây này!
Bên trong, phu nhân nghe gọi, mừng chảy nước mát, vội vã chạy ra. Gần đây, bà lão cừ động đã thấy khó khăn, mà lúc này không cần người dìu đỡ, bà bước có ba bước ra tới nhà trước.
Lý Huyền quì trước mặt mẹ, hô to :
- Trước mặt mẫu thân, con bất hiếu xin khấu đầu.
Phu nhân không nói gì, trước hãy nhìn Lý Huyền một hồi, sau mới hỏi :
- Này lão gia, ông nói sao đây ? Có phải ông với tôi đang nằm mơ chăng ?
Lý Kỳ cười, đáp :
- Nói nhảm ! Giữa ban ngày ban mặt, mà nằm mơ nỗi gì ?
Lý Huyền cũng cười, thưa :
- Mẫu thân đừng quá đa nghi. Đúng là con, Huyền nhi của mẹ, trở về nhà đây !
Phu nhân bấy giờ mới khóc rống lên. Đám gia nhân cũng kéo vào tất cả khấu kiến tiểu chủ, mừng lão gia và phu nhân. Phu nhân và Lý Kỳ tranh nhau hỏi chuyện trước đây của Lý Huyền. Lý Huyền cũng đem tình hình sơ lược bẩm báo lại với cha mẹ. Hai ông bà già đều vui mừng nói :
- Nói như vậy thì con chúng ta đã "có chí thì nên", đắc đạo thành tiên, lại thương cảnh vợ chồng già chúng ta, từ khi con đi khỏi nhà, đã đêm mong ngày nhớ mà thành bệnh, lại về thăm cha mẹ. Ngày nay được trùng phùng quả là nỗi mừng vô hạn, là điều may mắn của gia đình.
Lý Huyền thưa rằng :
- Từ khi xa cách cha mẹ, con cũng thường tưởng nhớ trong lòng. Nhưng vì học đạo phải bền lòng, chẳng dám phân tâm, cũng không dám phụ lòng kỳ vọng của sư tôn. Nay may được chóng thành công, mới về bái kiến cha mẹ, lòng riêng có chút an ủi.
Nhân thấy cha mẹ suy yếu, vội lấy ra hai viên thuốc, nói :
- Thuốc này là do con, lúc ở núi Hoa sơn, đã chiếu theo kinh sách của tổ sư mà chế ra, có công lực cải tử hồi sinh, phản lão hoàn đồng.
Liền sai lấy nước sạch, để hai ông bà uống thuốc. Vợ chồng Lý Kỳ mừng lắm, uống liền. Quả nhiên diệu dược của tiên gia có công dụng khác thường. Hai cụ vừa uống xong, liền thấy mắt sáng ra, thân thể nhẹ nhõm, tóc bạc trở nên đen, bao nhiêu bệnh đều biến mất. Hai người đều vui mừng, nói :
- May con có chí hướng xuất gia, quả nhiên thành đại đạo, ngay cả hai ông bà già này cũng có chỗ tốt lành.
Lý Huyền nói :
- Chưa đáng kể gì đâu. Ngày xưa tổ sư lên trời, độ cho cả nhà thành tiên, nay hài nhi chỉ mới thông tiên đạo, công hạnh muôn phần chưa được một. Lần này phụng mệnh tổ sư xuống núi, lập nhiều công đức, chỉ mong sớm thành chính quả, nhận chức kim tiên. Lúc đó, nhất định sẽ đưa song thân cùng lên trời.
Ông bà nghe nói, càng thêm vui mừng. Vưu phu nhân là đàn bà, kiến thức không rộng, thấy con mới về, chỉ muốn lưu giữ ở lại chừng một năm, hoặc nửa năm, mới thỏa lòng. Lý Huyền mấy phen trần tình, nói pháp chỉ của tổ sư không thể vi phạm, xin mẫu thân cứ để hài nhi tu thành tiên pháp, sau này sẽ còn nhiều dịp trở lại nhà, thăm viếng. Phu nhân nhất quyết không nghe, cố lưu giữ. Một buổi sáng, phu nhân thức dậy sớm, sai người đi mời công tử tới dùng điểm tâm. Ai ngờ, vào tới thư phòng, chẳng thấy tung tích Lý Huyền, chỉ thấy một phong thư dán kín đặt trên bàn. Lý Kỳ mở xem, thì ra Lý Huyền trình bày nỗi khổ trong lòng, không đi không được, sau này sẽ có lúc được hội ngộ. Vì sợ mẫu thân không chịu cho đi, đành phải độn thổ mà trốn khỏi cửa nhà .
Lý Huyền trốn nhà mà đi, nghe người ta nói phong cảnh ở Lư sơn, thuộc Giang Nam, rất u nhã, mà cảnh nước non Tây Hồ ở huyện Tiền Đường cũng rất đẹp, mới nghĩ tới việc du ngoạn một phen. Lý Huyền trước hết cưỡi mây tới núi Lư sơn. Bấy giờ đang thời Chiến Quốc, ở cuối đời nhà Chu, một vùng đất Giang Nam đều là đất Man di. Lý Huyền tới Lư sơn, thấy hình thế rất thanh kỳ. Miền Bắc không thể nào có núi đẹp như thế. Lý Huyền gật gù, than thầm : "Trong tương lai, địa khí sẽ qua một kỳ chuyển di rất lớn. Phương Bắc tuy nhiều anh hùng, tri thức của nhân dân vẫn không theo kịp phương Nam". Thưỡng ngoạn nhiều ngày, mới tới Tây Hồ, núi xanh, nước trong, cảnh vật đẹp hơn Lư sơn rất nhiều. Lý Huyền lưu luyến trong lòng, ở chơi nhiều ngày. Một ngày kia, bỗng gặp bên bờ hồ một cậu bé, chạy tới bờ hồ mà khóc, định đâm đầu xuống nước. Lý Huyền để ý nhìn, coi cậu ta hành động ra sao. Chỉ thấy cậu khóc một hồi, rồi hô to :
- Trời Già, hỡi Trời Già ! Dương Nhân ta sinh ra làm thân nam tử, không cứu nổi mẹ, cũng uổng một đời ! Chi bằng tự tận cho xong!
Nói rồi, tung mình nhảy xuống mặt nước hồ. Lý Huyền bấy giờ mới biết cậu ta là một hiếu tử. Thấy cậu vừa nhẩy, Lý Huyền đã chuẩn bị sẵn, chỉ một ngón tay, nước hồ liền đông đặc.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 10.07.2008 16:42:14
HỒI THứ 23

Nhẩy xuống hồ, hiếu tử tuẩn từ mẫu
Trổ đại pháp, tiên nhân gỡ nguy nan.

Lý Huyền thấy cậu bé tự xưng là Dương Nhân, vì không cứu được mẹ đã nhẩy xuống giòng nước xanh, liền chỉ một ngón tay, tức thì nước hồ đông đặc. Dương Nhân nhẩy xuống hồ, nhẹ nhàng như đặt chân lên mặt đất bằng, chẳng những là không chìm nghỉm, mà quần áo, giầy vớ không dính một giọt nước. Dương
Nhân kinh hãi, đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy một đạo nhân đứng ngay trước mặt, nhìn mình mà cười mỉm. Dương Nhân thầm biết đạo nhân này không phải người thường, nhưng chí của cậu là tự tử, nên cũng không buồn kính lễ, mà lớn tiếng nói :
- Vị đạo trưởng này bày trò hư ảo gì vậy ? Ghét ông quá ! Tôi không muốn sống trên thế gian này nữa, vừa rồi tìm con đường chết, thì mắc mớ gì tới ông chứ ? Ông định bày trò, cười trên sự đau khổ của người khác hả ?
Nói rồi, gọi trời kêu đất, khóc lóc thảm thiết. Lý Huyền cười hì hì, bước lại gần, nắm áo Dương Nhân, lôi kéo một cái. Dương Nhân kinh ngạc hỏi :
- Ông lôi kéo tôi làm gì ?
Cậu nói chưa dứt, Lý Huyền đã cười, bảo :
- Cậu thử nhìn lại coi cậu đang ở nơi nào ?
Dương Nhân nghe vậy, mở to mắt, nhìn quanh bốn phía. Ôi ! Thật kỳ quái, rõ ràng ta đâm đầu xuống hồ, tìm cái chết, tại sao trong chớp mắt đã tới một nơi lạ hoắc thế này ? Cửa son, ngói biếc, cửa sổ rộng, rành rành là nơi ở của một bậc vương giả. Nhìn quanh chẳng thấy người nào, chỉ có cậu và đạo nhân mà thôi. Lý
Huyền nhìn lại Dương Nhân chăm chú, và mỉm cười. Dương Nhân bấy giờ mới biết Lý Huyền quả là chân tiên, vội cúi lạy, hô to :
- Tiên sư cứu mạng ! Tiên sư cứu mạng !
Lý Huyền cười, bảo :
- Cậu là người quá bộp chộp. Người ta sinh ra ở đời, ai cũng có chủ ý nhất định. Vừa rồi cậu liều thân nhẩy xuống hồ, bần đạo vì lòng từ bi đã cứu cậu, cậu lại oán ta nhiều chuyện, sao bây giờ lại xin ta cứu mạng ? Há chẳng phải tự mâu thuẫn ư ?
Dương Nhân phủ phục trên mặt đất, khóc lóc năn nỉ :
- Lúc trước chỉ vì không thể cứu được mẹ con, con đã nhất thời nghĩ chưa chín, mới tìm cách tự tận, lại nhờ tiên sư chỉ giáo, con vẫn chưa hiểu ra. Nay nhận rõ tiên sư là một vị chân tiên trên thượng giới, nhất định có thể cứu được mẹ con. Mẹ con được cứu, con cũng không phải chết nữa, nên đã thay đổi cách suy nghĩ, khẩn cầu sư phụ nhủ lòng thương xót !
Lý Huyền cười :
- Cậu này lôi thôi quá. Đã giữ được tính mạng, còn đòi ta cứu mẹ cậu. Làm sao ta có thể lo nổi ngần ấy chuyện, chẳng dính gì tới ta ?
Dương Nhân khóc to hơn, nói :
- Sư phụ không cứu mẹ con, thì cứu đệ tử cũng như không. Lại đẩy đệ tử vào chỗ đâm đầu xuống hồ lần nữa mà thôi !
Lý Huyền cười, hỏi lại :
- Ngươi chết đi, còn cứu nổi mẹ ngươi không ?
Dương Nhân hoát nhiên tỉnh ngộ. Cậu nhất thời trả lời không được, nhưng suy nghĩ giây lát, liền vái lạy lần nữa, nói :
- Con biết tiên sư có bản lãnh cứu được mẹ con, cầu xin sư phụ mở lòng từ bi, mau ra tay cứu vớt. Đệ tử sống hay chết cũng chẳng quan trọng, chỉ cầu mong mẹ già được thoát nạn thôi. Dẫu phải tan xương nát thịt, đệ tử cũng cam lòng.
Lý Huyền vui vẻ, hỏi :
- Ngươi thật lòng đấy chứ ?
Dương Nhân thề :
- Nếu có chút giả dối, xin trời tru đất diệt, muôn kiếp không được làm người !
- Nếu vậy thì được. Ngươi muốn ta cứu mẹ ngươi, nhưng ta còn thiếu một chất để dẫn thuốc.
- Xin hỏi sư tôn : mẹ con không chút bệnh hoạn, cần gì tới thuốc men ? Còn chất dẫn thuốc gì đó, kiếm đâu ra ?
Lý Huyền cười :
- Ta không cần biết mẹ ngươi bệnh hay không bệnh, ngươi đã cầu xin ta cứu mạng, chất dẫn thuốc này không thể thiếu. Còn nói thứ thuốc đó phải ra chợ mới kiếm được, thì cho dù ngươi có bỏ ra một ngàn nén vàng, vị tất đã mua nổi. Nhưng chỉ cần ngươi có chút thành ý, sẽ không mất một xu teng.
Dương Nhân vốn là người thông minh, suy nghĩ một lát, nói :
- Thưa sư phụ, chất dẫn thuốc đó không thể cầu bên ngoài, tức là xa thì ngoài ngàn dặm, mà gần thì ở ngay trước mắt, đúng không?
Lý Huyền cười, đáp :
- Ngươi quả là thông minh, đã nói trúng ý ta. Lại đây, lại đây ! Hai chúng ta cùng cất bước, đi cứu mẹ ngươi nhé.
Dương Nhân ngạc nhiên, hỏi :
- Sư phụ đã biết chuyện nhà cửa của đệ tử hay sao ?
Lý Huyền cười, đáp :
- Người nhìn lại coi, chỗ này là chỗ nào ?
Dương Nhân ngửng đầu nhìn lên, bất giác trợn mắt, há hốc miệng, lại sụp xuống lạy, nói :
- Sư phụ đúng là thiên thần.
Lý Huyền cười, kéo Dương Nhân đứng lên, nói :
- Đừng nên đa lễ ! Ngươi đã biết ta không phải người thường, sao chưa hỏi tên họ ta ? Trên đời lại có kẻ quê mùa như ngươi sao? Nhờ người giúp đỡ, mà không thèm biết tới người đó là ai.
Dương Nhân cảm thấy quê độ, đưa tay đập lên trán mấy cái, nói:
- Sư phụ nói đúng, con quả là đứa hồ đồ, đáng chết ! Nãy giờ không hề thỉnh giáo đạo hiệu cùng pháp danh của sư phụ, sư phụ mắng là đứa quê mùa, đáng quá.
- Bất tất phải hối tiếc nữa, để ta nói thật cho mà biết. Ta họ Lý, tên tục là Huyền, Thái Thượng Lão quân Lý Nhĩ chính là sư tổ của ta. Vì thấy ngươi có lòng hiếu thuận, ta lập tức cứu ngươi thoát hiểm. Sau khi ngươi qua cơn nguy hiểm, ta còn độ cho ngươi xuất thế, ngươi có chịu không ?
Nghe Lý Huyền nói, Dương Nhân biến đổi sắc mặt : lúc đầu tỏ ra vui mừng, sau rồi nét mặt lộ vẻ đăm chiêu, lo lắng.
Lý Huyền tức giận, nói :
- Ta đã thành toàn cho ngươi như thế, ngươi còn chưa thỏa mãn sao ? Để cho ngươi nhẩy xuống hồ, làm con ma chết chìm, ngươi mới vừa ý nhé ?
Dương Nhân nuốt nước mắt, nói :
- Chẳng giấu gì sư tôn, chuyện nhà của đệ tử, sư tôn biết cả rồi. Đệ tử từ nhỏ đọc sách thánh hiền, khá hiểu biết về lễ nghĩa, đã hiểu rằng người ta sinh ra ở đời, thì "trăm nết hay, lấy hiếu làm đầu” (l). Vừa rồi, mẹ con bị chúng cướp đi, con không đủ thế lực chống lại, mới nẩy sinh ý tự tận. Nếu mẹ con được cứu, mà con theo sư tôn xuất gia, thì bản thân con được trọn vẹn mọi bề, và cũng phải có phúc phận lớn lắm mới được như thế ! Nhưng để mẹ già ở lại quê hương, thì thứ nhất là lo mẹ con gặp nguy hiểm, thứ hai là con thiếu bổn phận nuôi dưỡng. Vì thế, con ra đi mà lòng chẳng yên chút nào. Nếu không đi, lại phạm tội ngỗ ngược với sư tôn, tội đáng chết. Xin sư tôn mở rộng lòng từ bi, cho con được lưỡng toàn, thì may mắn cho con biết mấy !
Lý Huyền cười rộ lên :
- Người ta thường nói : "lòng người đòi hỏi, không biết đâu là cùng". Nay đã quả nhiên ! Ta hãy hỏi ngươi : ví như vừa rồi người chết dưới đáy hồ, hoặc như ngươi mắc lời thề mà chết, tan xương nát thịt nếu không cứu được mẹ ngươi, thì sau khi cứu được mẹ ngươi ra rồi, lấy ai thay ngươi để phụng dưỡng ?  
Dương Nhân tịt ngắc, chỉ đứng ngây người ra mà khóc. Lý Huyền thương tình, mới cười, bảo :
- Đừng giở trò nước mắt của con gái nữa, hãy mau theo ta đi gặp mẹ ngươi !
--------------------------------------
(1) câu quen thuộc của Nho gia : “Bách hạnh, hiếu vi tiên”.

Bấy giờ, Dương Nhân mới hiểu Lý Huyền hỏi vặn hỏi vẹo là để thử lòng cậu, lại vái một vái, hỏi :
- Sư phụ tính đi đâu bây giờ ? Tiểu tử vừa nhìn tấm biển đề treo trước nhà, biết nơi đây là phủ Trung Sơn vương, mà kẻ cướp mẹ con chính là người trong vương phủ. Kẻ đó là tổng quản của Vương phủ, tên Ngưu Tĩnh, hiện đang ở phía sau vương phủ. Sư phụ muốn hành sự thì làm ngay chỗ này, còn dẫn đệ tử đi đâu nữa ?
Lý Huyền hét lên :
- Chẳng cần hỏi lôi thôi. Cứ nhắm mắt lại, tự ta có diệu dụng.
Dương Nhân nghe lời, nhắm chịt hai mắt, lát sau nghe Lý Huyền hô : "Mở ra !", lại mở mắt ra. Nhìn quanh bốn phía, thấy đã đổi sang một chốn khác. Trước mắt, thấy một người đàn bà trung niên bị trói chặt, nằm lăn ra đất, miệng kêu gào :
- Dương Nhân con của mẹ, con có biết mẹ chịu khổ ở đây không?
Dương Nhân nghe tiếng, lòng dạ xốn xang, không thèm để ý tới những lời dặn dò của Lý Huyền nữa, khóc rống lên, ôm chặt lấy mẹ. Hai mẹ con đều tưởng như đang gặp nhau trong giấc mộng.
Dương Nhân định thần nhìn kỹ, không thấy Lý Huyền có mặt ở đó, bất giác kêu lên :
- Úy ! Sư phụ đi đâu rồi ?
Mẹ cậu hỏi :
- Vì sao con tới được đây ? Con có sư phụ hồi nào vậy ?
Dương Nhân mới đem chuyện trước kể lại từ đầu đến cuối. Bà mẹ mừng rỡ, nói :
- Tiên nhân không bỡn cợt người khác đâu. ông ta đã nói là cứu mẹ con ta, tất nhiên là không nuốt lời. Hèn chi lúc nãy, bọn người canh giữ mẹ , đứa nào đứa nấy cứ như thể nhìn thấy ma hiện hình, chạy ra cửa trốn mất. Thì ra là phép thuật của tiên sư làm ra cả!
Nhân đó, bà chắp tay, hướng lên không trung vái lạy :
- Con dập đầu cầu xin ân điển của tiên sư !
Dương Nhân cũng quì xướng, lạy dập đầu, hô to :
- Tiên sư mau tới đây ! Tiên sư mau tới đây !
Dương Nhân vừa cất tiếng, Lý Huyền đã hiện ra trước mặt, cười bảo :
- Hai người việc gì phải khẩn cấp thế ? Để cứu hai người, ta phải trổ phép mới xong. Tên Ngưu Tĩnh này rất là hung ác, ta phải trừng trị hắn một phen. Bà mẹ là đàn bà, không tiện ở lâu chỗ này, xin mời rời bước khỏi đây. Dương Nhân hãy ở lại đây làm chất dẫn thuốc cho ta. Ta bảo ngươi làm sao, ngươi làm y như vậy không được làm trái pháp chỉ của ta. Ngươi làm nổi không ?
Dương Nhân chưa kịp trả lời, bà mẹ đã khấu đầu, nói :
- Tiên sư đã nhủ lòng thương cứu mẹ con tôi, quả là ơn tái tạo.
Con ơi, con mau trả lời tiên sư. Trái lệnh thầy tức là cãi lời mẹ, sao còn kể là hiếu tử của mẹ được ?
Dương Nhân nói :
- Hài nhi sao dám không tuân lệnh thầy, nhưng chẳng hay sư phụ cứu mẹ con ra rồi, sẽ đem an trí (l) bà ở chỗ nào ?
Lý Huyền phất tay, nói :
- Bất tất nhiều lời. Ta sẽ khiến hai mẹ con được đoàn tụ, có tốt hay không ?
Nói rồi, ông đưa tay về phía bà mẹ Dương Nhân, phất một cái, bao nhiêu dây trói đứt ra hết. Lại phất cái nữa, những vết roi đánh đập trên mình bà lặn hết, một vết sẹo cũng không có. Lý Huyền lại vời Hoàng cân lực sĩ, mau đem bà mẹ Dương Nhân tới một nơi kín đáo ở Tây Hồ, an trí bà trong một đạo quán. Hoàng cân lực sĩ vâng lệnh, cõng bà kia đi. Một trận gió nổi lên, không còn tung tích gì. Bấy giờ, Lý Huyền mới dặn Dương Nhân nên làm... như thế, như thế, và nói thêm :
- Gặp lúc nguy cấp, ta sẽ ở bên cạnh ngươi để bảo hộ, không đến nỗi để ngươi bị chúng ăn hiếp đâu.
Dương Nhân thấy mẹ thoát hiểm, can đảm trở lại, dạ dạ xin nghe lời. Lý Huyền lại đưa tay chỉ một cái, Dương Nhân liền biến ra mẹ cậu, y chang. Cũng bị trói bó giò, nằm trên mặt đất. Một lát sau, bọn canh giữ trở lại. Chúng tiến vào phòng, đứa nào đứa nấy đều hô : "Quái lạ !". Chúng ngơ ngơ ngác ngác, như vừa trải qua một giấc mộng. Có đứa nói :
- Vừa rồi không hiểu cơn gió quái nào thổi qua, khiến chúng ta đều choáng váng mặt mày.
Đứa khác nói :
- Chỗ này có nhiều người chết, phần nhiều là những oan hồn, nên chúng phá phách dữ lắm. Ngày mai phải bẩm báo với tổng quản, mời cho được một vị đạo sĩ về thu thập chúng.
-----------------------------------
( 1) An trí : lúc đầu có nghĩa : đặt yên ở một chỗ, sau này mới có nghĩa mỉa mai : giam lỏng.

Chúng bàn tán lao xao. Dương Nhân nghe được, cười thầm. Lát sau, có người nói : - Bà vú đã tới kìa. Lại tới để khuyên nhủ người đẹp này chứ gì?
Quả nhiên có một người đàn bà trung niên, sàng qua sàng lại, tiến tới, cất tiếng hỏi :
- Vị mỹ nhân mới tới hiện ở đâu ? Tổng quản gia thật đa tình, quá yêu cô mà không được. Vừa rồi có trách phạt cô chút đỉnh, nhưng sau ông hối hận, bứt rứt chịu không nổi. Các anh thử coi đây, ông ấy đã sai ta đem thuốc giảm đau tới cho cô uống.
Mụ vừa nói vừa xề lại bên mình Dương Nhân. Dương Nhân cố ý rên hừ hừ. Bà vú thấy Dương Nhân bị trói, như đòn bánh tét, vội hét đám người kia :
- Các anh chẳng hiểu đạo lý gì hết. Giờ này mà còn trói phu nhân, không sợ tổn thương tới mình vàng hay sao ? Mai này tổng quản gia trách tội, ai gánh vác cho nổi ?
Chúng dạ dạ liên hồi, xúm vào cởi trói cho Dương Nhân. Bà vú làm đủ vẻ nịnh hót trước mặt Dương Nhân : đích thân đem thuốc cho cậu uống, sau mới nói tổng quản yêu thương ra sao, hữu tình thế nào, nói tới độ con kiến trong hang cũng phải bò ra. Lúc đầu Dưỡng Nhân yên lặng, sau mới lên tiếng :
- Muốn ta thuận tùng, ít ra ông ấy cũng phải dỗ ngọt ta, có đâu đánh đập ta thế này ? Nhưng theo như lời bà nói, tổng quản hiện nay đã hối ngộ, ta cũng có thể thuận theo. Tuy nhiên ta cũng phải nói rõ cho ông ấy biết, ta tuy là quả phụ trong dân gian, cũng xuất thân là nhà đại gia, nếu ông ấy muốn cưới ta, thì nên tế cáo trời đất, lại phải mời vương gia đứng chủ hôn. Mai sau, ông ấy ruồng bỏ ta, ta cứ tìm vương gia mà tố cáo.
Bà vú nghe vậy, luôn miệng dạ dạ, nói :
- Việc này nhất định có thể giải quyết. Vương gia và tổng quản tuy có thân phận trên dưới, nhưng tình là anh em. Tổng quản nói gì, vương gia chấp nhận ngay. Huống chi việc này quá nhỏ, vương gia lẽ nào không đồng ý ?
Nói rồi, hân hoan đi ngay. Trước khi đi, còn quay đầu lại, nạt mấy người kia :
- Hầu hạ phu nhân cho khéo nhé. Mai này cô thành bà chủ của chúng ta, kẻ nào dám khinh miệt cô ? Tổng quản biết được, các anh mất đầu như chơi.
Nói rồi, lật đật đi ngay.
Qua thời gian nấu chín một nồi cơm, bà vú quay trở lại, nói :
- Nghe tổng quản năn nỉ, vương gia đã đồng ý tới dự đám cưới.
Hôm nay được ngày lành tháng tốt, lễ thành thân sẽ được tổ chức vào ban tối.
Dương Nhân lặng yên không nói, bà vú tự tay xếp đặt, dẫn một số phụ nữ tới, giúp Dương Nhân chải đầu, cài trâm, mặc quần áo cưới. Mọi người vui vẻ cười đùa, để đợi giờ lành, đưa Dương Nhân tới chỗ chủ nhân để thành thân.
Dương Nhân đã có kế hoạch sẵn trong bụng, lòng không lo lắng gì, cứ thản nhiên để mấy người đàn bà kia dắt đi. Tới chỗ đại sảnh, đã thấy khắp nơi treo đèn kết hoa, người người qua lại chật phòng, ai nấy đều giữ bộ mặt vui vẻ, rạng rỡ, chờ giờ hành lễ. Mọi người đều phóng tâm uống trà, để chúc mừng tổng quản.
Tới giờ lành, tổng quản được Trung Sơn Vương và các bạn thân dìu ra, cùng Dương Nhân đứng cạnh nhau, trên tấm thảm len mầu hồng. Chợt nghe người chủ lễ xướng to:
- Giờ lành đã đến, mời tân quí nhân và tân nương tử cùng làm lễ vái trời đất !
Câu xướng vừa vang lên, Lý Huyền ấn mình bên cạnh Dương Nhân, liền đưa tay ra, đập lên đầu cậu ta một cái, hô to :
- Thời cơ đã đến, sao chưa thay mặt mẹ ngươi, đánh tên ác ôn một trận ? Mau động thủ đi chứ !
Vừa bị đập lên đầu, Dương Nhân cảm thấy lá gan sôi lên, sức mạnh tăng gấp mười lần. Cậu đưa cả hai tay ra, đánh bên phải, gạt bên trái, đám tân khách và gia nhân đều ngã lăn chiêng, ráng đứng dậy, tìm đường tháo lui ra phía sau. Chú rể ham tửu sắc bị đánh nặng nhất. Dương Nhân vừa tung một chưởng nặng như núi
Thái sơn, là tân lang ngã vật ra đằng sau, miệng đổ máu tươi, nằm không nhúc nhích. Đám gia nhân hò hét, vác gậy gộc xông tới, vây chặt lấy cô dâu, hét lên :
- Đừng để yêu phụ chạy thoát ?
Dương Nhân thét lên một tiếng, hiện nguyên hình, là một cậu bé chừng hơn mười tuổi, tay không chống với mọi người. Bất cứ binh khí nào, gần chạm tới thân thể Dương Nhân, đều lệch đi chỗ khác, không gây cho cậu một vết thương nào. Trong khi đó, Dương Nhân tung chưởng, đụng tới người nào, người đó lãnh đủ, không bị thương thì cũng té nhào. Dương Nhân chợt nhìn ra xa, thấy Trung Sơn vương đang đứng ở đầu đằng kia, miệng hô to :
- Việc quái lạ ! Việc quái lạ ! Loạn rồi ! Loạn rồi !
Lý Huyền âm thầm dặn dò Dương Nhân nên làm... như thế, như thế, mới có thể đẩy lui được bọn giặc. Dương Nhân bèn nhẩy vọt lên cao, xông tới thộp ngực Trung Sơn vương, nhấc bổng lên như diều hâu quắp gà con. Trung Sơn vương vội hô to :
- Không liên quan tới ta ! Không liên quan tới ta !
Dương Nhân thả ông ta xuống, nói :
- Ngươi làm chúa một nước, dung túng cho gia nô cướp đoạt quả phụ trinh tiết trong dân gian, lại dám đứng chủ hôn cho hắn, còn không kể là tội lớn hay sao ?
Trung Sơn vương vội nói :
- Việc này thật tình cô gia không biết ngành ngọn, chỉ biết là hắn cưới một cô gái làm hầu thiếp, ai ngờ hắn làm chuyện phạm pháp như vậy. Nay xin tráng sĩ buông tha, để cô gia thẩm vấn định rõ tội danh của hắn.
Dương Nhân cười, nói :
- Đã vậy nhờ vương gia phí chút tâm sức nhé .
Lý Huyền liền hiển lộ bản thân, phất tay áo một cái, tức thì khắp sảnh đường hiện ra một trận kim quang, đối diện không nhìn rõ mặt nhau. Hai thầy trò thừa dịp vọt lên trên mây, Lý Huyền ở trên cao hô to :
- Trung Sơn vương nghe đây ! Ta là chân tiên trên thượng giới, chuyên xét việc thiện ác chốn phàm trần. Ngươi đã biết lỗi, hãy tạm dung tha. Ngưu Tĩnh tội ác rành rành, khó nỗi tha thứ ! Ngươi hãy trừng trị hắn thật đích đáng, không được vị tình châm chước !
Nói rồi, cưỡi mây bay đi. Trung Sơn vương vội dẫn mọi người ra trước cửa, phủ phục tống tiễn, cùng nói :
- Thì ra là vị chân tiên, hạ giáng phàm trần trị tội Ngưu Tĩnh, Tên này tội ác rành rành, không thể khoan dung ?
Trung Sơn vương liền gọi quan hiệu úy, bắt Ngưu Tĩnh bỏ ngục, tra xét tội ác rõ ràng, xử chém đầu giữa chợ để răn chúng, tịch thu tài sản, phân phát cho người nghèo.
Lý Huyền dẫn Dương Nhân tới đạo quán, nơi Dương mẫu đang được an trí. Mẹ con gặp nhau, buồn vui lẫn lộn, ôm nhau mà khóc. Dương Nhân vốn tính trẻ con, nghĩ tới chuyện vừa rồi Ngưu Tĩnh bị xử tội nặng, bất giác vỗ tay, cười ầm lên. Dương mẫu nổi giận, trách mắng :
- Thằng súc sinh quá vô lễ ! Chúng ta nhờ tiên nhân ra sức mới thoát khỏi miệng cọp, càng nghĩ càng đau lòng. Ta đang thương tâm rơi nước mắt, mày ở đó mà vui sướng, cười đùa, còn qui củ gì nữa ? Vả lại sư tôn đang ở đây, hãy mau theo mẹ bái ngài, mới là phải phép.
Dương Nhân nhận lỗi, nói:
- Hài nhi đâu dám hỗn láo. Chỉ vì nghĩ tới việc ân sư vừa trừng trị tên tiểu nhân, trong lòng thích thú quá, mới cười đùa thôi.
Nói rồi, theo mẹ phủ phục dưới đất, lạy tạ Lý Huyền. Lý Huyền vội né qua một bên, không chịu nhận lễ. Dương mẫu khóc mà thưa :
- Mẹ con tôi, nếu không được tiên sư cứu vớt, giờ này đã bước tới Quỉ Môn quan, có đâu còn được ở trên dương thế ? Chúng tôi có lạy ngàn lạy, cũng không đủ đáp đền ơn lớn, nhất định sẽ lập thần vị tiên sư để thờ. Mấy lạy vừa rồi chỉ là biểu lộ lòng thành của mẹ con tôi thôi.
Lý Huyền đỏ mặt tía tai, nói :
- Phu nhân quyết không nên làm như thế. Người xuất gia, gặp nạn thì cứu, thấy việc thiện thì làm. Những việc ta làm ngày hôm nay đều bởi cảm kích trước lòng hiếu thuận của con trai bà, bần đạo chẳng dám kể công. Có một việc này, ta cần nói thật cho bà biết : ta thấy con trai bà còn trẻ mà hết lòng thương mẹ, là có căn cơ không hủy hoại. Nhìn kỹ, ta lại thấy cậu có tiên cốt, không nhiễm một chút bụi trần nào. Những người như thế, làm quan là không thích hợp. Tốt nhất là nên theo bần đạo làm đồ đệ, chưa đầy hai mươi năm, đã có kết quả khả quan. Vừa rồi, con trai bà đã hứa nhận với ta, nhưng lòng cậu ta vẫn còn lưu luyến mẹ. Tiên gia lấy trung hiếu làm gốc, quyết không cắt đứt tình mẫu tử người khác. Thưa phu nhân, việc sinh hoạt cua bà, bần đạo có cách cung cấp đầy đủ không để bà chịu thiếu thốn chút nào. Bần đạo đã giải bày nỗi lòng, không biết phu nhân có chịu phóng tâm, tạm chia tay cùng lệnh lang được không?


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 10.07.2008 17:05:13
HỒI THứ 24

Lý tiên nhân trổ phép, trừng trị dâm bạo.
Dương hiếu tử cảm đức, nhập Huyền môn

Dương mẫu suy nghĩ một lát, nói với Lý Huyền :
- Lý Tiên sư đã có ý tốt tài bồi cho tiểu nhi, lẽ nào mẹ con tôi lại không cảm kích ? Ngay cả chồng tôi ở dưới suối vàng, nếu biết được tin này, nhất định cũng hân hoan. Chỉ có một việc khó khăn, chẳng dám không trình bày rõ ràng với tiên sư. Thiết nghĩ Ngưu Tĩnh là tổng quản trong phủ Trung Sơn vương, bình thời rất được vương gia tin cậy, nên mới dám làm những chuyện càn dỡ như thế. Lần này tuy nhờ pháp lực của tiên sư cứu cho mẹ con tôi thoát hiểm, nhưng sợ tiên sư đi khỏi, hắn lại tìm cách báo thù. Con tôi tuy không đủ sức cứu tôi, nhưng có nó bên cạnh, tôi cũng vững dạ phần nào.
Nghe phu nhân nói vậy, Lý Huyền cười, bảo :
- Phu nhân cứ yên tâm. Tên Ngưu tặc đó đã bị tôi và lệnh lang đánh cho thất điên bát đảo, có phần chắc là chẳng bao lâu Trung Sơn vương sẽ xử hắn tội chết, tịch thu gia sản, đem phân phát cho người nghèo. Phu nhân cũng chẳng mong được đền bù tổn thất, nhưng Ngưu tặc quyết không thể gây hại cho bà được nữa. Việc này, bần đạo có thể bảo đảm. Nếu phu nhân còn chưa tin, có thể hỏi lại lệnh lang vừa rồi, cậu ấy vui mừng hớn hở, cũng vì lý do này đấy.
Dương mẫu không thể không tin, nhưng muốn biết rõ sự tình, mới thét mắng, hỏi Dương Nhân :
- Vừa rồi mày nói bô bô, sao bây giờ lại im như hạt thóc ?
Dương Nhân vội thưa :
- Chẳng phải hài nhi không chịu nói, mà vì thấy mẫu thân và tiên sư trò chuyện, con đâu dám vô phép nói leo ?
Lý Huyền tỏ vẻ hài lòng, gật gù, nghĩ thầm : "Mẹ con nhà này, trong cơn nguy cấp cũng không phế bỏ tôn ti trật tự, quả là hiếm thấy", nhân đó mới cất giọng ôn tồn, nói :
- Công tử mau đem chuyện giữa chúng ta, bẩm báo với lệnh huyên đường. Chúng ta phải nói cho dứt khoát, sau đó mới định được kế hoạch tiếp theo. Bần đạo vân du chốn nước non, tới đâu cũng là nhà, không thể ở lâu chốn này.
Dương Nhân mới đem chuyện liên quan giữa cậu và Lý Huyền, kể rõ một lượt. Dương mẫu nghe xong mỉm cười, nói :
- Diệu dụng của tiên gia quả thật không giống với người đời. Những tuồng tham dâm như Ngưu Tĩnh, phải trị tội thật nặng mới đáng đời ! Nếu không, trên đời còn gì vương pháp, mà thiên đạo cũng chẳng có nữa. Hài nhi được đi theo pháp sư, là điều may mắn vô cùng cho nó, kẻ góa bụa này, tuy chỉ có nó là con, cũng không nỡ quyến luyến, để lầm lỡ học nghiệp, mai một tính linh của con. Tuy nhiên, tình âu yếm riêng tư, hiền giả cũng không tránh khỏi, xin hỏi tiên sư, tiểu nhi đi lần này, ngày nào mới được trở về ?
Lý Huyền nói :
- Phu nhân quyết định như vậy là sáng suốt lắm. Nhưng phải biết một miếng ăn, một hớp nước, đều có số định trước, việc tụ tán cũng vậy thôi. Ví như bần đạo ở tuốt trên miền Bắc, bỏ nhà đi tu, ai ngờ tới đây dừng chân, lại gặp lệnh lang. Chuyện như vậy đâu có thể tính trước được ?
Phu nhân nghe vậy, hoảng hốt trong lòng, hỏi giọng buồn bã :
- Theo ý tiên sư, đại khái là kẻ góa bụa cùng tiểu nhi biệt ly lần này, vị tất đã có dịp gặp lại ?
Lý Huyền chưa kịp trả lời, Dương Nhân đã đột nhiên khóc rống lên :
- Nếu nói vậy, hài nhi tình nguyện hầu hạ mẫu thân, suốt đời không rời xa dưới gối. Quả có tiên duyên, cũng phải đợi mẫu thân trăm tuổi mới tính. Hiện giờ, xin tiên sư lượng thứ, tạm cấp cho đệ tử thời hạn chừng vài chục năm.
Dương mẫu nghe con nói vậy, lại thấy vẻ mặt cậu ta quá buồn thảm, cũng không cầm được nước mắt, nhưng không dám nói tiếng nào, chỉ lặng lẽ đợi coi Lý Huyền chỉ thị ra sao. Lý Huyền cất tiếng than thở :
- Phu nhân nói vậy là chưa thông đạt. Người ta sống ở đời khác gì một giấc mộng. Vả lại việc sống chết dễ gì mà biết trước, huống hồ chuyện mẹ con, chồng vợ hội hợp hoặc chia ly ? Ví như chuyện trước mắt giữa ba chúng ta đây, tình cờ được gặp nhau hôm nay, phu nhân có từng nghĩ rằng vào ngày ấy, tháng ấy, được gặp
Lý Huyền này không ? Lý Huyền ta có thể kể đã tu đạo thành công, có thể biết được chuyện vị lai, nhưng quyết nhiên không nghĩ tới chuyện ngày hôm nay, ở chỗ này, được gặp mẹ con phu nhân. Hội hợp đã không định trước, thì chia ly cũng khó liệu lường. Mẹ con bà từng nương tựa nhau trong lúc nghèo khổ, nay đột nhiên phải chia tay, tránh sao khỏi lưu luyến ? Đó là lẽ thường tình. Nhưng cũng nên biết chế ngự tình cảm nhất thời, để cầu lấy những điều tốt đẹp lâu dài. Thiên tư lệnh lang chớ để uổng phí, tháng ngày qua mau, càng không nên để trở thành hư độ. Đã thấy đại đạo có thể cầu mong, thần tiên chẳng phải hão huyền, thì nên nắm lấy cơ hội, dứt lòng yêu thương mà thành toàn cho con. Bần đạo tuy không dám tiết lậu thiên cơ, nhưng có thể hứa rằng hai mươi năm sau, lệnh lang học thành tài, sẽ trở lại nhà, mẹ con sẽ có ngày được gặp nhau. Lúc đó, lệnh lang đã đạt tới mức bất phàm, mà mẹ con phu nhân có dịp tụ họp lâu dài. Bần đạo là người xuất gia, không dám nói nhiều, cũng không cưỡng ép người khác. Nếu phu nhân không chịu xa con, cũng là thường tình của người đời, bần đạo không ép, tức khắc đi ngay.
Phu nhân nghe vậy, vội sửa lại vạt áo, cúi lạy mà thưa :
- Lời của tiên sư vững như vàng đá, lòng của sư tôn rộng như trời đất, kẻ góa bụa này kiến thức nông cạn, suýt nữa mang tội, làm lỡ việc của tiểu nhi. Nay được chỉ bảo, lòng đã sáng suốt, sẽ bảo nó lập tức đi theo tiên sư. Nó ở bên tiên sư còn tốt hơn ở bên cạnh tôi rất nhiều.
Dương mẫu liền bảo con khấu đầu lạy Lý Huyền, tôn làm sư phụ. Dương Nhân còn tỏ vẻ lưu luyến, Dương mẫu liền nghiêm sắc mặt trách cứ. Dương Nhân chẳng dám cãi lời mẹ, nhắm về phía Lý Huyền, lạy tám lạy.
Lý Huyền đưa hai mẹ con trở lại nhà, niệm chú biến đá thành vàng, để Dương mẫu có cái chi dùng hàng ngày. Ông lại vẽ xuống đất làm bờ tường thành, để các tiểu yêu không thể xâm phạm. Lại dùng cây bút tầy đầu vẽ ra vài chục con quỉ dữ tợn, hễ gặp nguy nan, cứ treo bức tranh đó ở giữa nhà, miệng hô : “Lý pháp sư truyền dụ bảo hộ nhà ta", tức thì bọn quỉ đó hiện hình, đẩy lui lũ giặc. Dương mẫu bái tạ, nhận lấy bức tranh. Về sau ở địa phương có bọn vô lại nhòm thấy nhà Dương mẫu có vẻ sung túc, nghĩ rằng trong nhà có tích chứa nhiều của cải, mới tụ tập lại tới đánh cướp. Chúng vào tới cửa, cất tiếng reo hò, Dương mẫu vội đem bức tranh treo lên, làm theo lời pháp sư đã dạy, chúng thấy vô số quỉ hung tợn vác đao, cầm mâu xông ra chống cự. Bọn giặc sợ hãi, tính chạy trốn. Ai ngờ bức tường do Lý Huyền vạch đất vẽ ra, chỉ vào được chứ ra không được. Gặp lúc Dương mẫu kinh hãi, kêu gọi hàng xóm tới cứu, người ta kéo nhau tới giúp đỡ, tóm hết ráo những tên cướp. Nhân vì không muốn gây nhiều chuyện, chỉ lấy lời khuyên nhủ, trách mắng, tha đi tất cả.
Từ đó, bọn tiểu nhân không đứa nào dám tới tấn công nữa. Tới mười năm sau, Lý Huyền xét thấy Dương Nhân chú tâm tu đạo, mà Dương phu nhân tuổi cũng đã cao, đêm ngày tưởng nhớ con trai, ông mới đặc cách thi ân, cho phép Dương Nhân xuống núi, đón mẹ lên phương Bắc, lại chấp thuận cho hai mẹ con mỗi năm được gặp nhau một lần. Nhưng đó là chuyện sau.
Lý Huyền dẫn Dương Nhân từ huyện Tiền Đường (l) tiến lên miền Bắc, vượt qua sông tới vùng Tề, Lỗ (2), tìm cho Dương Nhân một nơi làm động phủ, ở dưới núi Thái Sơn, đặt tên là động Bích Hà, truyền cho cậu ta phép hít thở, bảo cậu trước hết hãy luyện công phu về dưỡng tâm, vận khí. Vì cậu mới tu hành lần đầu, ông chiếu theo cách mà Văn Thủy tiên sinh trước đây đã làm cho ông, kiếm cách bảo hộ chốn tu hành, thi thố phép thuật vời gọi Bạch Ngọc phu nhân từ Hoa sơn tới đây, để phục dịch Dương Nhân. Lại vì tên gọi của phu nhân quá huyênh hoang, ông mới cải danh là “Ngọc Nhi". Cứ ba năm một lần, ông đều tới khảo sát công phu của Dương Nhân, tùy lúc mà chỉ dạy thêm. Dương Nhân bản chất tuy tốt, nhưng không sánh kịp Lý Huyền là người sinh ra đã sẵn có tiên căn, nên cậu tu trì trong mười năm mới dứt bỏ được việc ăn đồ nấu nướng, lại biết phép đằng vân giá vụ, vời thần khiến quỉ.
Lý Huyền từ sau khi nhận Dương Nhân làm đệ tử, đã ngao du khắp nơi, từ Nam sang Bắc, tới cả các hải đảo. Trong vòng mười năm, ông đã làm được rất nhiều việc : giúp người, lợi vật, trừ bạo an dân. Rồi thời hạn hai mươi năm đã sắp hết, Lý Huyền nhớ tới lời ước hẹn với tổ sư, trước hết trở lại động Tử Hà, núi Hoa sơn một chuyến. Lần này hạ phàm, Lý Huyền lo một việc tuần du, đã để Phi Phi, Điên Điên ở lại giữ động phủ, lo việc tu đạo. Bọn Phi Phi cảm ơn Lý Huyền đã chỉ dẫn cho việc tu luyện, không dám bỏ đi đâu cả. Nhờ vậy, trong vòng vài năm, hai người đã tiến bộ trông thấy, đã đổi hẳn lớp xương thịt, vĩnh viễn không còn trở lại hình
dạng cầm thú, đã trở thành các địa tiên, trường sinh bất lão. Họ đã sửa sang động phủ thành một nơi thanh nhã, u tĩnh, trồng được nhiều loại tiên hoa, tiên quả, nuôi được nhiều giống chim tiên. Lý Huyền trở về thăm động, thấy tình hình như vậy, lòng rất hân hoan. Kiểm tra công hạnh và học nghiệp của hai người, thấy tiến bộ rõ rệt, Lý Huyền có sắc vui hiện lên nét mặt. Thấy hai người phủ phục dưới thềm, ông đưa tay đỡ dậy, cho đứng bên cạnh, nói :
- Ta từ khi xuống núi, đã tuân theo pháp chỉ của tổ sư, đi du ngoạn chốn nhân gian. Trong mấy năm, tuy không đạt được điều gì tốt đẹp cũng thu nhận được một đệ tử có căn khí, và cũng lập được một số công đức, giúp đời, lợi vật. Nhưng ta tự thẹn chưa làm được nhiều việc, không mặt mũi nào mà nhìn mặt tổ sư. Nay các người chưa cần đợi lệnh ta, mà đã làm được nhiều việc tốt đẹp, thì tri thức và thiên hạnh của các ngươi còn hơn ta nữa. Các ngươi chịu khó luyện tập, tinh tiến như thế, chẳng bao lâu cũng thành chính giác.
---------------------------------------------
(1) và (2) Huyện Tiền Đường thuộc tỉnh Chiết Giang. Tề, Lỗ : tên hai nước ở thời Xuân Thu. Chiến Quốc nay thuộc tỉnh Son Đông.

Phi Phi, Điên Điên vui mừng, quì xuống lạy tạ, nói :
- Tất cả đều nhờ ơn sư tôn chỉ giáo. Chúng đệ tử xuất thân là cầm thú, đạt được công phu thế này, thật quá lòng mong ước. Nay lại được sư tôn ban lời tưởng thưởng, chúng đệ tử vô cùng cảm kích.
Lý Huyền gật đầu, nói :
- Các ngươi đã nhập đường người, vẫn không kiêng kị xuất thân năm xưa của mình, cho thấy các ngươi đã có công phu khắc kỷ rất lớn. Đứng dậy, đứng dậy ! Ta sẽ truyền thụ cho các ngươi yếu quyết về tu tâm dưỡng tính. Yếu quyết này chẳng phải tầm thường, lại không phải pháp thuật phổ thông, nếu các ngươi tu luyện thành công, sẽ có thể sống lâu cùng trời đất, lại lập thêm được nhiều công đức. Vài trăm năm sau, các ngươi cũng có thể theo các thần tiên lên Linh Tiêu bảo điện, hoặc ngao du Bồng Lai tam đảo.
Hai người vui mừng, rơi nước mắt. Lý Huyền lại nói :
- Lần này ta không thể ở lâu tại đây. Ngày mai ta đã phải lên cung Bát Cảnh, núi Côn Luân, triều yết tổ sư, tuân theo pháp chế từ năm xưa. Hai người rất giỏi dang, ta không phải dặn dò nhiều. Các người chỉ cần ở đây dụng công tu luyện là được rồi. Ta lại mới thu nhận một học trò, tên là Dương Nhân, và ta đã phái Ngọc Nhi tới Thái sơn để phục dịch anh ta. Nhưng công phu anh ấy còn nông cạn, hai ngươi có thể, cứ ba năm hai lần, tới thăm hỏi, đồng thời khảo sát xem anh ta có kiên tâm tu trì hay không, rồi về báo lại cho ta biết, ta tự có cách phân xừ. Dương Nhân này có căn khí khá tốt, có lòng hiếu thảo cảm động tới trời, thành công cũng nhanh, nên ta muốn sớm nâng đỡ anh ấy. Lần này ta triều yết tổ sư, chắc được ngài đích thân chỉ dẫn nhiều điều.
Hai người dạ dạ, tuân mệnh.
Ngày hôm sau, Lý Huyền ngồi ngay ngắn trong động phủ. Tới giờ ngọ bỗng nghe trên không trung có tiếng nhạc vang lên, Lý Huyền liền đứng dậy, nói :
- Chắc là tổ sư phái người tới đón ta đó.
Liền chỉnh đốn quần áo, bước ra ngoài động. Quả nhiên thấy một đám mây ngũ sắc từ trên trời hạ xuống, có hai đồng tử mặc áo xanh, tay cầm phất trần, tay vịn con hạc, đứng đợi. Lý Huyền cúi chào, nói :
- Lý Huyền có tài năng gì, mà dám phiền tổ sư phải ưu lễ như thế ?
Đồng tử nói :
- Tổ sư và nhiều vị sư huynh đang đợi sư huynh tới ! Xin mau cưởi hạc đi thôi !
Lý Huyền lạy tạ, leo lên lưng hạc, bay vào không trung, tiên nhạc tắt dần, mây ngũ sắc dần dần biến đi, không thấy đâu nữa.
Phi Phi, Điên Điên rất khâm phục, nhìn nhau, nói :
- Người tiên đạt tới mức độ như vậy, thật không uổng phí một đời vất vả.
Lý Huyền tới bên ngoài cung Bát Cảnh, cho mây hạ thấp, leo xuống lưng hạc, cung kính đợi tổ sư tuyên triệu. Đồng tử nói :
- Sư huynh quá chuộng lễ nghi. Tổ sư đã sai chúng tôi đi đón, thì sư huynh cứ tiến vào tham bái cho rồi, cần gì phải đợi tuyên triệu ?
Lý Huyền hạ thấp giọng :
- Ngu huynh không giống như các sư đệ được. Khó khăn lắm mới được tới đây, chẳng dám thất lễ.
Các đồng tử cười mà đi vào, một lát trở ra, nói :
- Tổ sư mời sư huynh vào.
Lý Huyền sửa lại mũ áo, khoan thai bước vào, thấy Lão Tử ngồi ngay ngắn ở giữa đại điện, hai bên có nhiều vị thần tiên đứng hầu. Thấy Lý Huyền tới, các tiên ông đều khom lưng chào. Lý Huyền lạy Lão Tử tám lạy, sau đó mới chào các vị tiên. Lão Tử cười, bảo :
- Trong mười năm, con đã làm được rất nhiều công đức, những việc con cần làm đã hoàn tất. Nhưng còn có nợ kiếp trước, có duyên kiếp này. Nợ ắt phải trả, nhân duyên ắt phải kết liễu.
Nói rồi, ngửng nhìn trời mỉm cười, nhắm mắt ngồi yên. Lý Huyền không hiểu tình ý, muốn xin chỉ giáo. Lão Tử bỗng mở mắt ra, nói :
- Cha mẹ con đang đợi con tới độ thoát cho, mau lợi dụng cơ hội này giải quyết cho xong đi. Để ông bà nếm mãi mùi đau khổ trên trần thế, là tội của con đấy !
Lý Huyền cúi đầu, thưa vâng. Lão Quân lại nói :
- Con đi ngay đi ! Chừng nào độ xong cho cha mẹ, lại về gặp ta.
Lý Huyền tuân chỉ, rút lui.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 10.07.2008 18:33:53
HỒI THứ 25

Đọc lời kệ, Lão Quân báo nhân quả
Gặp hỏa kiếp, Lý Huyền mất pháp thân.


Lý Huyền vâng pháp chỉ của Lão Quân, trở về nhà điểm hóa cho cha mẹ cùng lên tiên giới. Vợ chồng Lý Kỳ đều sẵn có thiện căn, Lý Kỳ ở trong triều lại là một vị quan trung lương, mà xưa nay trung thần, hiếu tử giữ tâm rất chính trực, rất gần gũi với đường lối của tiên. Sau ông bà lại được Lý Huyền dâng hiến thuốc tiên, khí trần trọc đã xua đi được phân nửa, nên lúc này tinh thần rất sáng suốt. Lý Huyền vừa điểm tỉnh một câu, ông bà đã giác ngộ ngay, mối trần duyên dứt bỏ tức thời, cả hai cùng nhập tiên tu đạo. Lại qua năm mươi năm, Lý Huyền độ cho cha mẹ thành địa tiên.
Lý Huyền giải quyết trọn vẹn việc của cha mẹ, mới nghĩ tới việc quan trọng thứ hai, là trở về thỉnh mệnh tổ sư. Lão Quân không đợi Lý Huyền mở miệng, đã nói :
- Cha mẹ con đã được con điểm hóa, quy chính tu đạo, thật đáng mừng. Nay là lúc con nên hoàn thành cho xong túc nguyện của con từ kiếp trước. Lại có một người chủ trì một đạo trường. Chủ nhân của đạo trường này tuy không thuộc môn hạ ta, nhưng cũng là Đạo môn đệ tử, sau này còn có duyên cộng sự với con, vậy con nên lưu ý làm việc cho tốt.
Lý Huyền khấu đầu lạy tạ, lại hỏi :
- Dám hỏi tổ sư, tương lai của con thế nào ?
Lão Quân nói :
Ta có mấy câu kệ sau đây, con hãy ghi nhớ, để sau này chứng nghiệm:
Tịch cốc không biết cách
Xe nhẹ, đường cũng quen
Muốn được hình hài cũ
Gặp người mới mới nên.
Lý Huyền lại lạy tạ, từ biệt Lão Quân, cưỡi mây bay về động Bích Hà. Dương Nhân quì gối, đón vào trong động. Lý Huyền hỏi han, kiểm tra công khóa của Dương Nhân một lần nữa, tỏ vẻ hài lòng, nói vài câu khen thưởng, nhân đó dặn dò :
- Ta mới tới thăm tổ sư, được ngài truyền cho thuật xuất hồn rong chơi. Qua bảy ngày, thân xác có thể vất bỏ, không cần dùng tới nữa. Ngươi cứ việc châm lửa đốt xác của ta, bất tất phải nghi ngại. Nhân vì hồn thường luyến xác, lúc quay về lại muốn hợp nhất với xác, khiến sau này lên trời chỉ tổ vướng víu chân tay, chi bằng sớm đem thân xác đốt cháy lại hay hơn. Nhưng chưa đủ bảy ngày, nhất thiết không được đốt xác, vì sợ rằng hồn và xác của ta chưa thể tách rời vĩnh viễn, lúc hồn trở về, không có chỗ nào gửi gắm, ắt trở thành một du hồn.
Dương Nhân dạ dạ xin vâng. Lý Huyền nằm ngay đơ trên giường, miệng niệm chân ngôn lâm râm, hồn liền xuất ra ngoài, hướng về phía Giang Nam mà đi.
Hồn lên núi Kim sơn, nhìn ngắm cảnh sông một vòng, lòng rất khoan khoái, lại tìm đường xuống dưới chân núi Kim sơn. Hỏi thăm và biết được trong nhà Hà cô nương đã xảy ra nhiều chuyện kỳ lạ, liền vui mừng nói thầm : "Túc nguyện của ta có thể thành tựu ở đây rồi". Nghĩ rồi, tiến tới cửa xin cầu kiến.
Bấy giờ Hà Lan Tiên cô nương ở nhà tu hành đã được hơn hai mươi năm. Đêm hôm trước, cô mộng thấy Huyền Nữ tới, chỉ thị : “Người mà con đang đợi, họ Lý tên Huyền, chính là học trò của Lão Quân. Hiện nay, ông ấy đã đắc đạo trước con, và đã lập lời ước nguyện là phải được nhìn thấy con xuất gia, tìm đạo, ông ấy mới chịu. Giờ ngọ ngày mai, ông ấy sẽ tới đây. Vậy con hãy chuẩn bị sẵn sàng đón tiếp. Ta đi đây !". Huyền Nữ nói rồi, biến mất. Lan Tiên giật mình tỉnh dậy, nhớ lại giấc mộng vẫn thấy rành rành trước mắt. Hôm sau dậy sớm, kể lại cho cha mẹ hay, cha mẹ cô nói:
- Người tiên đã báo mộng, quyết không sai lầm. Con nên thành tâm chờ đợi người tiên tới chỉ dẫn cho.
Lan Tiên nhận là phải. Đúng giờ ngọ, quả nhiên Lý Huyền tới nhà. Lan Tiên vừa mừng vừa kinh ngạc, vội thay bộ quần áo mới của đạo gia, tay cầm phất trần, ra cửa tiếp đón, cùng Lý Huyền gật đầu chào nhau. Lan Tiên mỉm cười, mở lời trước :
- Đêm qua, tôi nằm mơ thấy Huyền Nữ nương báo điềm cho biết, nói giờ ngọ ngày hôm nay thế nào tiên trưởng cũng tới, nên tôi cung kính chờ đợi đã lâu rồi.
Lý Huyền vội nói :
- Không dám, không dám ! Bần đạo và tiên cô cùng bị đày xuống trần, trải qua mười kiếp, có thể kể là chỗ quen biết từ lâu đời. Những chuyện kiếp trước vẫn khắc sâu trong tim này, hôm nay được biết tiên cô chuyển kiếp, qui chân, tính linh không mờ tối bần đạo cũng mừng cho tiên cô, chẳng bao lâu sẽ tu thành chính quả, trở về tiên giới.
Hai người xưng tụng nhau một hồi, rồi cùng đàm đạo về công phu tu trì, bí quyết nhập môn. Lan Tiên nghe Lý Huyền chỉ dạy, càng hiểu rõ hơn về những điều mà Huyền Nữ đã truyền thụ cho cô trước đây. Cô mừng rỡ, hết lời cảm tạ Lý Huyền.
Bất giác mà đã qua sáu ngày. Lý Huyền khuyên Lan Tiên nhân dịp này lập tức xuất gia, đi rong chơi các nơi danh sơn, sông dài, tìm các bậc danh sư, các người bạn có ích, giúp cho mình tiến triển về đường tu đạo. Lan Tiên cúi đầu, vâng lời chỉ giáo.
Lúc chập tối, Lan Tiên ở trước mặt cha mẹ, bỗng dập đầu lạy tạ công ơn nuôi dưỡng bấy lâu đồng thời ngỏ ý xuất gia. Cha mẹ cô đang muốn ngăn cản, Lý Huyền liền phất tay áo một cái. Tức thì Lan Tiên nhìn thấy một cửa động hình tròn, bên trong trần thiết đẹp đẽ, cô chưa từng thấy lần nào. Lan Tiên chợt thấy tâm trí sáng suốt, nhẩy một cái, tiến vào trong động. Cha mẹ cô chỉ thấy một bức tường thành ngăn cách, Lan Tiên biến đi đằng nào chẳng rõ. Nhưng bên tai còn văng vẳng tiếng Lan Tiên dặn dò :
- Cha mẹ hãy bảo trọng. Con đi đây !
Lý Huyền đưa Hà Lan Tiên ra khỏi nhà cô rồi, hai người cũng không gặp lại nhau. Một đám mây đưa cô tới một thạch động thiên nhiên ở trên đỉnh núi Hành sơn, thuộc Giang Nam. Lan Tiên đang ngơ ngác, chợt nghe bên tai có tiếng người nói :
- Hà tiên cô, Hà tiên cô ! Đây là nơi cô tu hành. Cô hãy dụng công tu trì chừng mười năm, tự nhiên có cao nhân tới nâng đỡ cô. Hãy để tâm luyện tập chớ trễ biếng, mà mắc tội với trời, rước họa vào thân. Chú ý, chú ý ! Ta đi đây.
Lan Tiên mở mắt ra nhìn, thấy nơi đây là một ngọn núi rất cao, cảnh vật vắng vẻ, hợp với việc tu hành. Hà tiên cô ở lại thạch thất này, một mình tu hành. Trong vòng năm năm trời, cô đã dứt bỏ được thức ăn nấu nướng. Huyền Nữ thỉnh thoảng lại hạ phàm, chỉ dẫn cho cô, sau cùng nhận cô vào môn hạ, truyền cho cô bộ sách "Ngọc Hư bí kíp". Nhờ vậy, Hà tiên cô tiến bộ rất nhanh.
Nhưng đó là chuyện sau.
Lại nói chuyện Lý Huyền hướng dẫn Hà Lan Tiên vào đường tu đạo rồi, từ biệt Hà tiên cô, trở về Thái sơn. Đang đi, Lý Huyền chợt cảm thấy chấn động mạnh trong tim. Thần tiên sợ nhất là chuyện xúc động trong lòng, nó luôn luôn báo hiệu một sự việc phát sinh. Hiện giờ, Lý Huyền đã có thể biết trước những chuyện sẽ xảy ra, nhưng lần này ông chỉ có một nhận thức rất mơ hồ, cảm nhận được một tai họa lớn đang xảy ra, nhưng chính xác là chuyện gì thì ông không biết. Định thần một hồi, Lý Huyền nhớ lại mấy câu kệ mà Lão Quân tổ sư mới đọc cho nghe, liền vội vã cưỡi mây trở về động phủ. Nào ngờ vừa tiến vào động, liền thấy tình hình đổi khác : chẳng những không thấy mặt Dương Nhân, ngay cả thân xác của mình cũng biến đâu mất. Lý Huyền ngồi nghỉ giây lát bấm đốt ngón tay, liền biết rõ sự tình.
Nguyên trước kia, Lý Huyền đi rồi, Dương Nhân ở lại động phủ canh gác xác Lý Huyền, đặc biệt quan tâm, lo lắng, sợ sệt, chẳng dám dời xa nửa bước. Thời gian trôi mau, đã qua được sáu ngày, lại thêm nửa ngày nữa, sắp tới thời hạn Lý Huyền dặn dò, nên đem xác ông thiêu đốt đi. Trong thời gian căng thẳng đó, Dương Nhân bỗng thấy một người xăm xăm tiến vào động phủ. Nhìn lại, Dương Nhân nhận ra đó là một người đồng hương, tên là Chu Tiểu Quan, một người bạn thân, trước kia cùng học một trường, cùng nô đùa với nhau từ hồi nhỏ, và đã lâu lắm không được gặp nhau.
Dương Nhân thấy mặt Chu Tiểu Quan, vừa mừng vừa kinh ngạc. Lúc này, anh đang bận canh giữ xác Lý Huyền, không rảnh mà lo tính chuyện gì khác. Anh vẫn ngồi yên tại chỗ, không đứng dậy đón bạn, chỉ vội vã hỏi Tiểu Quan vì sao tới đây, có chuyện gì quan trọng hay không ? Tiểu Quan thở hổn hển một lát mới nói được, cho biết mẹ Dương Nhân đang mang bệnh nguy kịch, mong mỏi Dương Nhân về, để mẹ con gặp mặt nhau lần cuối.
Các vị độc giả hẳn còn nhớ Dương Nhân tới trú ngụ ở Thái sơn là do lệnh của Lý Huyền. Nghĩ tình mẹ hiền, con hiếu, Lý Huyền đã chấp nhận cho bà mẹ Dương Nhân được di chuyển về ở Thái An, cách xa động Bích Hà chừng một trăm dặm. Chu Tiểu Quan đi buôn bán Bắc Nam, mỗi lần lên miền Bắc đều ghé thăm, hỏi han bà mẹ Dương Nhân, và cũng nhiều lần ghé chơi động Bích Hà. Lần này anh ta cũng ghé nhà họ Dương, gặp đúng lúc Dương mẫu bệnh nặng, mong nhớ con trai. Vì thế, anh ta không ngại đường sá xa xôi lên núi để kêu Dương Nhân về nhà. Dương Nhân nghe Chu Tiểu Quan cho biết bệnh tình lão mẫu, vừa kinh hãi vừa đau đớn, lại thêm nóng ruột vô cùng. Nếu bỏ đi, lại sợ phụ lòng ủy thác của sư tôn, để lầm lỡ việc tu đạo của thầy, nhưng nếu không đi ngay, để dây dưa tới hôm sau, lại không kịp nhìn mặt mẹ già. Ở vào tình thế lưỡng nan, Dương Nhân không biết làm sao cho phải, cứ ngẩn mặt ra nhìn Chu Tiểu Quan, không nói được một câu. Tiểu Quan càng thôi thúc :
- Dương huynh, anh làm sao vậy ? Lão bá mẫu hiện đang thoi thóp chỉ đợi anh về để nói lời vĩnh quyết, sao anh còn ở đó mà giữ khư khư lấy một xác chết ? Nếu để chậm trễ, lão bá mẫu qui thiên, mà không được cùng anh nói câu trăn trối, chẳng là mối hận suốt đời hay sao ?
Dương Nhân nuốt nước mắt nói :
- Chẳng giấu gì Chu huynh, cái xác này là xác của sư phụ tiểu đệ mà ông ấy đâu có chết, nên mới căn dặn tiểu đệ phải canh chừng. Đến nay chỉ còn một ngày nữa là trách nhiệm của tiểu đệ hoàn tất, làm sao tiểu đệ có thể bỏ đi cho đành ?
Chu Tiểu Quan nghe nói, cười rộ lên :
- Hèn chi lão bá mẫu nói anh học ngày học đêm, chăm chăm chú chú vào việc học đạo, đến độ trở thành ngớ ngẩn, ngu si. Một người đã chết, anh còn ngồi đó mà canh giữ cái xác được sao ? Từ xưa tới giờ, chưa từng nghe chuyện có người chết đã sáu ngày, hồn còn trở về nhập xác. Vả lại sư phụ anh bảo anh canh gác bảy ngày, anh đã kiên trì canh giữ được sáu ngày rưỡi, chỉ còn có nửa ngày nữa thôi. Sáu ngày liền ông ấy không về, bây giờ lại đột ngột trở về quả là chuyện khó tin. Theo ý tôi, việc của tôn sư, anh đã lo liệu được chín phần mười, có sai sót cũng chẳng bao nhiêu, không thể trách cứ anh được. Trong khi đó, việc của mẹ anh lại rất khẩn trương, mẹ con có gặp mặt nhau hay không, phải giải quyết trong chớp mắt.
Dương Nhân ngần ngừ, hỏi lại :
- Theo ý anh thì pháp thân sư phụ tôi nên an bài thế nào !
- Việc đó quá dễ dàng. Sư phụ anh dặn dò thế nào, cứ vậy mà  làm, là ổn thỏa thôi.
- Lỡ ra sư phụ tôi chọn đúng lúc này để trở về thì sao ? Tôi là học trò, chịu ơn nặng của sư tôn, chưa chút báo đáp, nay lại đem thân xác của thầy mà hủy diệt, khiến hồn vía ông bơ vơ, không nơi  nương tựa, thì tội lỗi ngập đầu, có đem xác tôi mà băm vằm cũng không đủ chuộc tội.
Dương Nhân nói rồi, phục xuống trước xác Lý Huyền mà khóc rống lên, tình cờ bàn tay đụng vào pháp thân Lý Huyền, thấy lạnh như băng giá, toàn thân không toát ra chút khí nóng nào. Dương Nhân kinh ngạc, nói cho Chu Tiểu Quan chuyện đó, Chu Tiểu Quan mới nói to tiếng :
- Đấy, anh đã tỉnh ra chưa ? Người chết đã sáu ngày, cái xác tự nhiên mục nát, anh còn hy vọng thầy anh sống lại nữa sao ? Nếu nói sư phụ anh là thần tiên chân chính, thì thần tiên lẽ nào lại chết dễ dàng như thế ? Hảo huynh đệ, việc này không thể trì hoãn được nữa. Lão bá mẫu đang thoi thóp thở, chắc là đang chống đỡ cái chết để đợi anh đấy. Tại sao anh chỉ biết quan tâm tới sư phụ, mà không nghĩ gì tới mẹ đẻ của mình ?  
Dương Nhân nghe vậy, đau lòng quá, không còn thời giờ để nghĩ tới chuyện xa xôi gì khác, liền đứng dậy. Sau đó lại quì trước thi thể sư phụ, dập đầu lạy một hồi, kêu khóc thảm thiết. Chu Tiểu Quan mới giúp Dương Nhân một tay, hạ thân xác Lý Huyền xuống, khiêng ra ngoài động phủ, chất cỏ chung quanh, nổi một mồi lửa thiêu xác Lý Huyền. Dương Nhân lại quì dưới đất, kêu khóc thảm thiết, không muốn đứng lên. Chu Tiểu Quan vội đỡ Dương Nhân dậy, dìu vào trong động, rửa mặt qua loa, không kịp thu xếp hành lý, vội vã cùng nhau xuống núi.
Lúc này, Dương Nhân chưa biết đằng vân giá vụ, nhưng đã luyện được xương cốt cứng cáp, thân thể mạnh mẽ, bước đi nhanh nhẹn như bay. Dương Nhân không tự nhận biết mình đi quá nhanh, Chu Tiểu Quan chạy mướt mồ hôi cũng không theo kịp, đã mấy lần phải kêu gọi Dương Nhân đứng lại chờ mình. Dương Nhân lòng nóng như lửa đốt, không muốn ngừng lại một giây phút nào. Ngừng đợi vài lần như thế, Dương Nhân mới bàn với Tiểu Quan, bảo anh ta cứ thủng thẳng mà đi, để mình chạy trước cho mau. Lúc đó trời đã ngả bóng hoàng hôn, Dương Nhân ngừng chân ở một khu chợ, mua được một cây đuốc, dự tính đi tới lúc nửa đêm sẽ về tới nhà. Tiểu Quan cũng đành làm theo ý của Dương Nhân.
Dương Nhân rời xa Chu Tiểu Quan, gia tăng cước bộ, giữa đêm tối chạy như bay như biến. Đi chừng bảy, tám chục dặm, tới lúc trống canh hai, đã có thể nhìn thấy cổng nhà mình ở chỗ xa xa, Dương Nhân cảm thấy trong lòng vừa nóng gấp, vừa an ủi. An ủi vì may mắn đã về tới nhà, có thể gặp mặt mẫu thân, nóng gấp vì chưa rõ mẹ còn sống hay đã chết. Nếu bà còn sống, nhưng nói không được nữa thì có khác gì đã chết, chẳng là điều đau lòng hay sao ? Lòng nghĩ vậy, đôi chân lại cất bước mau hơn. Một hồi sau, đặt chân qua cửa nhà. Bà mẹ anh ta lúc đó đợi con quá lâu, không chịu nổi nữa rồi : đàm đã đưa lên, chặn ngang cổ họng. Dương
Nhân tiến lại, giậm chân đấm ngực, kêu khóc thất thanh, làm náo loạn lên một hồi. Bấy giờ, linh hồn mẹ anh ta mới quay trở lại. Bà mở mắt nhìn con trai một hồi, đôi môi khô héo nở một nụ cười mãn ý, khổ nỗi nói không được tiếng nào. Chỉ thấy bà nỗ lực ngửng đầu lên nhìn, môi mấp máy không ra tiếng, rồi ruổi thẳng  hai chân mà qui thiên.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 10.07.2008 19:59:52
Hồi Thứ 26

Mượn xác phục hồn, biến thành Thiết Quài
Phản thầy, chết mẹ, học trò tiên khóc lóc.
 

Lại nói về Lý Huyền về tới Thái sơn, chỉ thấy cửa động mở toang, vắng vẻ không một bóng người, ngay cả cái xác của mình cũng biến đi đâu chẳng rõ. Bấm đốt ngón tay, mới biết sự tình, hiểu rằng xác của mình đã bị Dương Nhân đem thiêu đốt trước thời hạn. Lúc đầu, Lý Huyền hận Dương Nhân vô cùng. Dù anh ta nóng gấp việc về thăm mẹ, cũng không thể cãi lời thầy, khiến hồn vía sư phụ lúc này phiêu bạt lênh đênh, không nơi nương tựa. Lại tính tiếp, biết được bà mẹ Dương Nhân đã chết, Dương Nhân dẫu vội vã trở về, cũng không thể trò chuyện với mẹ, không nghe được lời trăn trối nào của mẹ. Nghĩ tới đó, Lý Huyền quên hẳn nỗi nguy hiểm và đau khổ của mình, chỉ nghĩ đến nỗi oan khổ của Dương Nhân, tự trách mình : "Thế này thì chính là ta hại anh ấy mất rồi. Nếu ta đừng xuất hồn rong chơi, anh ấy đã không mất công canh giữ xác ta, có thể rảnh rang về thăm mẹ, mẹ con đã có cơ hội trò chuyện với nhau. Nay vì ta mà mẹ con anh ấy tuy gặp mặt nhau cũng như không gặp, há chẳng phải lỗi tại ta hay sao ?". Nhân nhớ lại hồi học Đạo kinh, trong kinh có nói tới phép cải tử hồi sinh, Lý Huyền mới nghĩ tiếp : "Nếu lúc này ta có thể đi ngay tới nhà, chỉ cần xác bà kia chưa hư nát, ta đã có thể giúp bà ta sống thêm được tám hoặc mười năm nữa, do đó sửa lại lỗi lầm của ta, chẳng là tốt đẹp lắm sao ? Chỉ tiếc rằng hiện nay ta chưa tới thời kỳ dứt bỏ được xác, cũng chưa thể mang xác phàm để lên tiên, ta chẳng có cái xác nào để linh hồn gửi gấm. Để lâu ngày, hồn vía ta dần dần tiêu tan, ngay cả tính mệnh ta cũng không thể bảo toàn, sao có thể tu đạo được ?". Nghĩ tới đó, lại ngần ngừ giây lát, rồi mạnh dạn nói :
- Đây là phúc mệnh của ta. Sống chết, mất còn đều bởi số trời, hà tất phải lo nghĩ chi nhiều ? Việc cứu Dương mẫu lúc này là cần kíp. Cứu được mà không cứu, lỗi của ta càng nặng thêm mà thôi.
Quyết định rồi, Lý Huyền đứng dậy, bước ra khỏi động, cưỡi mây bay về hướng Nam.
Bỗng nhiên từ hướng Đông Nam, một đám mây lành bay tới rất nhanh, đụng vào đám mây của Lý Huyền. Lý Huyền trố mắt nhìn, bất giác vui mừng, nói :
- Văn Thủy sư huynh từ đâu tới đây ? Sư huynh đã biết chuyện của tiểu đệ rồi ư ?
Văn Thủy chân nhân cười, nói :
- Cũng vì món nợ kiếp trước của chú, mà ta phải mất công quan tâm tới chú đây.
Lý Huyền kinh ngạc, nói :
- Thưa sư huynh, tiểu đệ kiếp trước chỉ có một việc canh cánh bên lòng là việc ở Kim sơn, thì hiện nay tiểu đệ đã vâng pháp chỉ của sư tôn, tới độ cho cô gái nhà họ Hà tới tu hành ở Hành sơn, tiểu đệ còn món nợ kiếp trước nào nữa chứ ?
Văn Thủy chân nhân cất tiếng thở dài, nói :
- Chú ở trên đời, tu đạo thành công rất lớn, nhân phẩm lại cao hơn người khác, có thể sống lâu cùng trời đất, thụ hưởng không biết đâu là cùng. Nhưng cũng vì vậy mà trách nhiệm càng lớn, xử sự càng khó khăn. Chú vừa nói là đã độ cho cô gái nhà họ Hà xuất gia, tự cho rằng mọi nợ nần kiếp trước đã hoàn tất, có biết đâu rằng đó chỉ là trách nhiệm về mặt lương tâm, vẫn còn món nợ oan nghiệt gây ra do vô ý, vì thế làm sao chú nhớ cho nổi ?
Lý Huyền nghe vậy, vẫn ngơ ngác, không hiểu, Văn Thủy mới thở dài, nói :
- Chú không nghĩ ra cũng phải, là vì việc này chú làm trong lúc vô tâm, làm sao nhớ nổi ? Kiếp trước, chú có hai việc làm, đều là tốt đẹp mà trở thành xấu, ngay cả chú cũng không phát giác ra, hoặc giả có giác ngộ cũng lại cho rằng không có quan hệ gì lớn. Việc thứ nhất là chú lập lời thề suốt đời không gần đàn bà, con gái, không đụng tới một sợi lông, một cọng tóc của phụ nữ, đến chừng ngoài trăm tuổi lại có duyên, vì tình cờ mà gần gũi với một người đàn bà đã chết. Việc thứ hai là chú muốn cứu cô gái đó, nhưng không thành công, trái lại còn làm hư hại cẳng chân của cô ta. Cũng may cô ta có căn cơ thâm hậu, lại được long vương ban cho một viên thuốc chữa lành vết thương, nên kiếp này cô ta mới khỏi bị tàn phế. Người ta lúc chết mang một bệnh gì, chuyển sang kiếp khác không tránh khỏi mắc phải một bệnh tương tự. Cô kia kiếp trước gẫy chân - may nhờ thuốc của long vương chừa khỏi - nếu kiếp này mang tật ở chân, chẳng phải lỗi của chú hay sao ?
Này sư đệ, chú không thể nói tiên gia làm việc gì cũng bởi lòng từ bi, dẫu có vì vô tâm mà mắc lỗi, vị tất đã mắc tội với trời. Việc xảy ra cho chú ngày hôm nay chính là để trả món nợ ở kiếp trước đó. Tổ sư cũng đã tính trước được vận hạn của chú đấy. Tuy gọi là vận hạn, thật tình là trả nợ. Nợ này không trả, không trông mong gì tu đạo thành công. Vì thế, vận hạn của chú hôm nay chẳng nên coi là điều bất hạnh, trái lại còn là điều đáng mừng cho chú.
Lý Huyền nghe vậy, ngẩn người ra như mơ ngủ, trong lòng sợ hãi, khiến Văn Thủy phải tìm lời an ủi. Lý Huyền mới hỏi :
- Việc đã đến thế, sư huynh ắt có cách cứu tôi chứ ?
- Tất nhiên là phải có cách rồi. Chú vì từ bi mà mắc lỗi, ông trời sao có thể khe khắt đến độ bắt chú phải chết ? Chỉ có điều rằng chú vốn là một thiếu niên anh tuấn, hình dung mỹ miều, thì từ nay về sau sẽ phải mang hình dáng xấu xí, lại thọt một chân. Đó là cách để chú trả nợ kiếp trước đấy. Chú hãy coi trong tay ta đang cầm cái gì đây ? Đây là cây gậy chống, ta sẽ tặng cho chú đó. Nó sẽ giúp đỡ chú đi đứng vững vàng. Lão đệ, chú có biết lai lịch cây gậy này ra sao không ?
Lý Huyền nghe nói, giật mình, định thần trở lại, cầm lấy cây gậy xem thử, không nói một câu. Văn Thủy chân nhân lại cưới, bảo:
- Cây gậy này có từ lâu lắm rồi. Nguyên năm xưa, Tây vương mẫu mở tiệc bàn đào đãi quần tiên, có một cô gái hái đào, tay chân lóng ngóng, bẻ gãy một cành. Vương mẫu mới đem cành đào đó tặng cho Lão Quân tổ sư. Tuy chỉ là một cành cây khô, gậy này có uy lực rất lớn, lại có thể dùng làm binh khí, bọn yêu ma, quỷ quái tầm thường chẳng dám đến gần. Lúc ta mới nhập sư môn không hiểu công dụng của nó ra sao, có hỏi tổ sư, ngài mới kể rồi cho biết, lại đem tặng nó cho ta. Nay ngu huynh tặng lại cho lão đệ, làm một pháp bảo tùy thân. Thế gọi là vật nào chủ nấy, gậy này tặng cho lão đệ sẽ có công dụng rất lớn.
Bấy giờ, Lý Huyền mới hiểu rõ, vội cúi đầu lạy tạ. Văn Thủy gạt đi, nói :
- Lão đệ chẳng cần khách sáo, mau theo ta đi tìm hóa thân của chú.
Lý Huyền nghe theo, tay cầm cây nạng đứng ở trên đám mây, đáp xuống một dải đất, cỏ mọc hoang vu. Văn Thủy chỉ cho thấy một khối đen sì, nằm dưới một gốc cây, nói :
- Lão đệ, đây là hóa thân của chú.
Hai người nắm tay nhau tiến bước. Lý Huyền đang nóng lòng, đi trước, tiến lại chỗ gốc cây, định thần nhìn kỹ. Thì ra đó là một người ăn mày đã chết, vừa đen vừa xấu xí, lại chân ngắn chân dài.
Lý Huyền bất giác kinh hãi, cúi xuống sờ thử người ăn mày, thấy lạnh như băng giá, rõ ràng chết đã lâu rồi. Lý Huyền thấy hóa thân của mình ghê tởm như vậy, bất giác buồn bực. Văn Thủy từ phía sau tiến lại, thấy Lý Huyền bực bội, không nói gì, liền cất tiếng cười ha hả, bảo :
- Bản thân đã là thần tiên, còn kén chọn tướng mạo nữa sao ?
- Sư huynh nói vậy không được. Thần tiên coi đạo pháp là căn bản, tất nhiên chẳng cần gì tới tướng mạo thanh tú, đẹp đẽ, nhưng người ăn mày này có hình dung quá xấu xí, khó coi. Mai sau, việc tu đạo thành công, tiểu đệ không thiếu gì dịp đi theo các vị sư huynh, hội họp với các vị kim tiên trên trời, các vị thần khắp ba cõi, ai nấy đều có phong thái chững chạc, riêng tiểu đệ xấu xí như thế này, không khỏi tự thẹn trong lòng, còn e rằng người ta chê cười tiểu đệ què quặt. Hảo huynh đệ , có thể bỏ rơi người ăn mày này, để tiểu đệ tìm một người chết thanh tuấn làm thế thân, được không ?
- Này sư đệ, chú nên biết tiên gia chú trọng nhất là một chữ “duyên", duyên đã kết, không ai có thể thay đổi được kết quả sẽ đem tới. Ở một kiếp trước, người ăn mày này đã từng có ơn cứu mạng cho sư đệ, nên kiếp này sư đệ có dịp trả ơn cho người đó. Số kiếp đã định như vậy, há phải chuyện ngẫu nhiên ? Vả lại người tiên còn mong muốn làm sao có thể thoát khỏi xác phàm, tùy tâm biến hóa, chẳng những có thể biến xấu thành đẹp, còn biến nữ thành nam, biến già thành trẻ nữa. Hiện nay chú chưa tới thời kỳ thoát khỏi xác, hãy tạm mượn xác người ăn mày này để trở lại cõi đời.
Lý Huyền nghe ra, cúi đầu cảm tạ Văn Thủy, rồi hô lên một tiếng : "Đi thôi !", hồn liền nhập xác. Người ăn mày lồm cồm đứng dậy, tay chống cây nạng của Văn Thủy trao tặng, thấy ngắn dài vừa vặn. Lý Huyền chống nạng bước đi, khập khà khập khiễng. Văn Thủy trông thấy, không nín dược cười. Lý Huyền tiến thẳng tới bờ sông, soi bóng dưới nước, lòng không khỏi buồn bã. Văn Thủy kiếm lời an ủi :
- Từ xưa tới nay, các bậc chân nhân chẳng muốn biểu lộ chân tướng của mình. Tổ sư mỗi lần hạ phàm, đều biến ra hình dạng xấu xí như thế mới khảo sát được lòng người kính lễ mình là chân thật hay giả dối. Hiền đệ mang hình dạng này chẳng là tốt đẹp lắm sao ? Việc cứu bà mẹ Dương Nhân không thể trì hoãn nữa rồi chú mau đi thôi ! Nhưng Dương mẫu số thọ đã hết, tuy nhờ pháp lực của chú có thể hồi sinh, nhưng cũng chỉ sống thêm được một kỷ (mười hai năm) nữa thôi, chú phải dặn bảo Dương Nhân làm nhiều việc tốt, mới có thể bổ khuyết lỗi lầm. Nếu không, chẳng những tiền trình của Dương nhân gặp trở ngại, mà chú cũng mắc tội với trời nữa đó .
Lý Huyền thụ giáo, từ biệt Văn thủy, cưỡi mây bay đi.
Nhìn lại thân thể, Lý Huyền thấy toàn thân đen sì, không chỗ da nào trắng, nghĩ thầm : "Thì ra người ăn mày này thuộc giống da đen, ta nay cũng thành người da đen mất rồi !". Xem lại cây nạng của Văn thủy đưa tặng, thấy nó bằng gỗ, mầu vàng vàng, Lý Huyền phà hơi, biến nó thành cây nạng sắt đen sì, cho phù hợp , với mầu da của mình. Từ đó, ông lấy hiệu là Lý Thiết Quài (Lý nạng sắt).
Lý Huyền vội vã giáng xuống địa phương Thái An, tìm tới nhà của Dương Nhân, thấy nhà cửa vắng tanh vắng ngắt, chỉ có hai người là Dương Nhân và Chu Tiểu Quan, chụm lại một chỗ. Xác của Dương mẫu cũng đã được bỏ vào trong quan tài.
Thiết Quài tiên sinh không hiểu hai người kia sẽ làm gì, mới đứng ở bên ngoài nhòm thử. Nguyên Dương Nhân không được thấy mặt mẹ lúc lâm chung, không nhận được một lời di huấn nào. Tỏ ra thất vọng vô cùng. Lại nghĩ tới việc thất hứa với thầy, đem xác ân sư thiêu đốt trước thời hạn. Như thế, đối với thầy là bất trung, đối với mẹ là bất hiếu, còn làm người sao được ? Cảm thấy không còn mặt mũi nào đứng trong khoảng trời đất, anh ta đợi cho việc nhập quan hoàn tất, mới rút ra một thanh kiếm, đưa lên cổ, tính tự vẫn, để tạ tội ở ân sư trên trời, với thân mẫu dưới suối vàng.
Chu Tiểu Quan quính quáng, vội giằng lấy thanh kiếm, vất xuống đất. Dương Nhân khóc rống lên, luôn miệng tự trách mình bất trung, bất hiếu, không mặt mũi nào sống trên đời nữa. Chu Tiểu Quan ôm lấy bạn, dỗ dành. Thiết Quài tiên sinh nhìn thấy cảnh đó bất giác cảm động, gật đầu mấy cái, nghĩ thầm : "Nó làm vậy tất nhiên là ngu quá chừng, nhưng qua lời than thở cũng đủ thấy bụng dạ của nó. Biết tự trách mình bất trung, bất hiếu, nó thật tình tỏ ra là con người trung hiếu đó. Thật không hổ danh là học trò của Thiết Quài tiên sinh này, và cũng không uổng công ta đã đề bạt, cứu độ nó". Nghĩ rồi, liền bước cà nhắc, tiến lại phía hai người, vòng tay chào hỏi :
- Hai vị vì sao mà tranh cãi thế ?
Chu Tiểu Quan đem chuyện kể lại một lượt, trong lúc Dương Nhân vẫn chưa từ bỏ ý định tự tận. Thiết Quài tiên sinh mới cười, bảo:
- Anh Dương, việc anh làm vừa rồi là không phải chút nào. Há không nghe sống chết có số, không thể cầu mong ? Người làm con thờ cha mẹ, lúc sống làm tròn chữ hiếu, lúc chết tế lễ cho phải phép, đã là người đại hiếu rồi đấy. Còn chuyện của thầy anh, tuy phần lỗi về anh, không thể sửa lại nữa rồi, nhưng xét cho cùng cũng bởi anh bị đưa đẩy vào tình thế lưỡng nan, nên thầy anh quyết không trách anh tội thất tín đâu. Nếu cứ nhất định phải lấy cái chết để sửa lỗi, thì e rằng lỗi không sửa được đâu, trái lại còn khiến thầy anh ở trên trời phải bực tức, mẹ anh ở dưới suối vàng phải đau lòng, tội lỗi của anh càng nặng thêm, anh Dương có hiểu hay không ?
Chu Tiểu Quan thấy một người ăn mày đen đủi nói ra những lời nghị luận có đạo lý như thế, bất ngờ vừa vui mừng vừa kinh ngạc, luôn miệng khen phải. Dương Nhân bị thuyết lý chỉ cúi đầu, không nói, chẳng có lòng dạ đâu mà tra vấn lai lịch người ăn mày.
Ngẩn ngơ một lát, anh ta lại phục xuống trước quan tài mà kêu khóc. Chu Tiểu Quan chẳng buồn khuyên giải bạn, tiến lại trước mặt Lý Huyền hỏi thăm tên họ. Lý Huyền mỉm cười, tỏ bày tên họ cho biết.

HồI THứ 27

Trổ phép tiên cứu sống Dương mẫu
Đáp lời mời, Lý tiên xuống biển.

Thiết Quài tiên sinh nghe Chu Tiểu Quan hỏi tên họ, không giấu giếm nữa, tới thẳng bên quan tài Dương mẫu, nói to :
- Thằng bé Dương Nhân kia, ngươi không nhận ra ta là sư tôn của ngươi sao ?
Dương Nhân đang khóc mùi mẫn, nghe hỏi liền nuốt nước mắt mở to hai mắt nhìn Lý Huyền từ đầu tới chân. Chu Tiểu Quan cũng vô cùng kinh dị, tiến lại vài bước, hỏi :
- Lão huynh nói gì vậy ? Ông thật tình là sư phụ của bạn Dương của tôi sao ? Bạn tôi từ nhỏ xuất gia, chỉ có một vị tiên sinh họ Lý tên Huyền, chứ chưa từng có một vị tiên sinh thứ hai. Xin hỏi lão huynh vì sao lại nhận là sư tôn của bạn Dương của tôi ?
Dương Nhân nén buồn, nuốt nước mắt, nhìn Lý Huyền, gật đầu vài cái nói :
- Đúng là tiểu đệ sinh bình chỉ có một vị Lý sư phụ , thật tình không hiểu vì sao lão huynh lại nhận là thầy tôi. Việc này ắt có nguyên do, xin dạy bảo cho biết.
Thiết Quài tiên sinh vừa cười vừa buồn, nói to tiếng :
- Ta chính là sư phụ Lý Huyền của ngươi đây. Người nói không nhận ra ta, cũng chẳng phải điều lạ lùng gì. Ai bảo ngươi đem xác ta ra thiêu đốt trước thời hạn, khiến ta thành một du hồn không nơi nương tựa, hoảng hốt, vật vờ ? Nếu không nhờ ta có đạo hạnh cao thâm, ngay cả cái xác xấu xí này cũng không có mà dùng nữa !
Dương Nhân nghe nói, nhận ra đúng là giọng của Lý Huyền.
Vả lại, ông nói sự tình rành mạch, mười phần chính xác, còn lầm vào đâu ? Vì thế, Dương Nhân tin tưởng hoàn toàn, vội quì xuống dập đầu lạy bôm bốp, luôn miệng nói mình đáng chết, xin sư phụ trị tội. Chu Tiểu Quan cũng quì theo.
Thiết Quài tiên sinh đỡ hai người dậy, nói:
- Vừa rồi ta đã nói rõ, lỗi của ngươi cũng bởi lòng hiếu thảo đối với mẹ ngươi mà ra, có thể lượng thứ. Huống chi việc này đã có số định trước, không thể trách ngươi được. Nếu ngươi không đốt xác ta trước thời hạn, xác đó cũng không giữ nổi đâu. Đạo lý này, để thủng thẳng rồi ta sẽ nói cho ngươi biết. Cũng vì người phải canh giữ xác ta mà lầm lỡ việc chung thân đại sự của người, nên chính là ta hại ngươi vậy.
Dương Nhân nghe vậy vẫn không yên tâm chút nào, Thiết Quài tiên sinh mới nói :
- Mẹ ngươi số thọ chỉ đến đây thôi. Trước kia, lúc ngươi theo ta xuất gia, ta đã nói mí mí cho biết, mà ngươi không để ý đấy thôi. Nay ta thương ngươi vì lòng thuần hiếu, lại vì ta để lỡ việc tống chung của ngươi, ta sẽ dùng pháp lực khiến mẹ ngươi hồi sinh, sống thêm mười hai năm nữa mới chết. Nhưng trong mười hai năm đó người phải làm thật nhiều việc tốt, lập nhiều âm công, mới khỏi tổn thất phúc mệnh của ngươi, mà ta cũng tránh được tội làm nghịch ý trời, ngươi thấy thế nào ?
Dương Nhân nghe nói mẹ mình được sống, mừng rỡ vô cùng, vội sụp lạy Thiết Quài tiên sinh, luôn miệng nói :
- Sư tôn khai ân như vậy, đệ tử dầu phải tan xương nát thịt cũng nguyện thi hành nhiều việc thiện, để báo ơn ân sư rộng lớn như trời biển.
Thiết Quài tiên sinh chẳng cần dùng tới thuốc men, chỉ niệm chú lâm râm vài câu, tiến lại phía xác chết phà hơi thổi, hét to lên: "Dậy đi thôi !", tức thì xác chết ngồi bật dậy, hô to : "Đau chết đi được !
Dương Nhân mừng rỡ quá chừng, tiến lại ôm lấy mẹ , ngừng tiếng khóc, lau nước mắt, nhoẻn miệng cười. Dương mẫu mở to hai mắt, thấy con trai cùng một người ăn mày đen đủi đứng ở bên, bất giác kinh ngạc chen lẫn vui mừng, rơi nước mắt, nói :
 - Con à, con ở đây từ hồi nào vậy ? Mẹ nhớ lại mình đã xuống âm tào, bỗng một trận gió mát thổi tới, đưa mẹ trở về dương gian. khẳng phải là con đã cứu mẹ hay sao ?
Dương Nhân vội nói :
- Thưa mẹ, có sư phụ con ở đây, chính lão nhân gia đã dùng phép tiên cứu mẹ đấy.
Dương mẫu nghe vậy, muốn leo xuống quan tài ngay, để lạy tạ Lý Huyền. Dương Nhân vội nói :
- Mẹ mới sống lại, còn đang đau nhức, để con thay mặt mẹ lạy tạ ân sư cũng được.
Nào ngờ Dương mẫu lúc đó tinh thần tăng gấp bội, bao bệnh tật biến mất cả, trong mình hoàn toàn khỏe khoắn. Chẳng cần nhờ Dương Nhân nâng đỡ, bà tự leo xuống quan tài. Hai mẹ con cùng hướng về phía Thiết Quài tiên sinh mà dập đầu lạy tạ. Tiên sinh cười lớn tiếng, nói :
- Mẹ con bà chẳng cần làm vậy. Ta là người xuất gia, lấy việc cứu người giúp đỡ làm bổn phận, chẳng dám nhận lễ lạy của người khác đâu. Nhân đó, bảo Dương Nhân :
- Mau dìu mẹ anh đi nghỉ ngơi cho đỡ mệt. Ta đã làm việc nghịch thiên này, hoàn toàn trông cậy vào anh, làm thật nhiều việc tốt để chuộc lỗi. Trong mười hai năm đó, anh không cần phải trở lại núi, cứ nhờ cậy vào bản lĩnh của mình, đi đây di đó để làm nhiều việc tốt. Mười hai năm sau, ta sẽ trở lại, dẫn độ anh đi.
Nói rồi, biến thành một luồng gió mát, bay lên trời. Ở bên dưới, mẹ con Dương Nhân cùng Chu Tiểu Quan vái lạy tiễn đưa.
Thiết Quài tiên sinh trở về cung Bát Cánh. Các vị tiên thấy Lý Huyền biến ra hình dạng kỳ khôi, đều không nín được cười, khiến Thiết Quài tiên sinh tỏ vẻ không hài lòng. Không bao lâu, Lão Quân tổ sư thăng tòa, Thiết Quài tiên sinh sụp lạy dưới bậc thềm.
Lão Quân nở nụ cười, nói :
- Hình dạng này tốt lắm đó. Người phàm đều ô uế trong tim, riêng ngươi xấu xí ở hình dáng. Trong tương lai, ngươi chu du khắp bốn bộ châu, tam giới, ngũ nhạc, người bình thường sẽ nhìn qua hình dạng xấu xí này mà không nhận ra ngươi là đại la kim tiên, do đó người có thể khảo sát rõ rệt, nhận ra ai là người thành tâm hướng đạo. Vậy chẳng là tuyệt diệu hay sao ?
Thiết Quài nghe vậy mừng lắm, vội cúi đầu bẩm báo :
- Nhờ Văn Thủy sư huynh chỉ bảo, đệ tử cũng đã hiểu ra điều đó rồi. Sư huynh lại ban cho một cây nạng, đệ tử mới biến nó ra mầu sắt đen sì, nên lấy biệt hiệu là Lý Thiết Quài, chẳng biết làm vậy có được hay không ?
Lão Quân gật đầu, nói :
- Tốt lắm, tốt lắm ! Trên đầu nạng sắt, nên treo một bầu hồ lô mới thật hoàn hảo - Liền quay đầu lại, ra lệnh cho tiểu đồng :
- Hãy ra đằng sau, hái về đây một trái bầu.
Đồng tử vâng lời ra đi, đem về một trái bầu. Lão Quân nhận lấy trao lại cho Thiết Quài. Thiết Quài tiên sinh kính cẩn nhận lãnh, hỏi:
- Xin hỏi tổ sư, trái bầu này có diệu dụng gì ?
Đây chỉ là một trái bầu, hái ở cây trên rừng, cũng chẳng phải vật hiếm hoi gì. Nhưng qua tay ta luyện chế, nó đã biến đổi tính chất. Trái bầu bình thường có hạt và ruột bên trong, thì hồ lô này được trang trí bằng những vật báu của tiên gia. Ngươi muốn hàng yêu trừ quái, thì hồ lô này sẽ giúp ngươi bằng cách phát sinh ra lửa lớn, nước ròng. Lửa đó cháy mãnh liệt như lửa hỏa diệm sơn, nước ròng đó mạnh như trút hết nước ở Đông hải. Ngoại trừ các tiên thiên ở thượng giới, ai mà chống đỡ nổi nước, lửa như thế? Ngươi muốn có thứ gì để cứu khổ, giúp đời, chỉ việc đưa tay mò trong hồ lô, muốn thuốc có thuốc, muốn tiền có tiền. Đôi khi ngươi cần chỗ để ngủ qua đêm, thì hồ lô này có thể chứa được rất nhiều người, dùng làm khách điểm rất tiện.
Lão Quân nói tới đó, bất giác các vị tiên cất tiếng cười vang,
Lão Quân mới bảo :
- Các ngươi cho rằng hồ lô này không chứa nổi một người chứ gì ? Đúng là kiến thức nông cạn như ếch ngồi đáy giếng.
Liền bảo Lý Huyền bỏ bầu hồ lô xuống, đưa miệng hồ lô hướng lên trên, rồi nhắm chịt hai mắt, nhắm về phía miệng hồ lô mà bước sải vài bước, bước đủ ba bước mới được phép mở mắt ra. Thiết Quài tiên sinh tuân lệnh, nhắm hai mắt, bước tới ba bước mới mở mắt ra. Lạ thay, bản thân Thiết Quài tiên sinh đã ở trong hồ lô, bên ngoài rất nhiều đạo hữu cùng tổ sư không thấy Thiết Quài đâu nữa. Tiên sinh đi thêm vài bước nữa, càng lúc càng thấy sáng sủa. Nhìn kỹ, nhận thấy mình đang ở trong một căn phòng hình tròn, rất rộng lớn. Trong phòng có tủ, giường và đầy đủ các vật trần thiết khác. Tiến thêm lần nữa, lại là một phòng lớn hình tròn.
Những vật dụng cần thiết của người đời, như quần áo, thức ăn đều không có. Thiết Quài tiên sinh mới nghĩ : "Phòng ốc rộng lớn thế này phải chi có người dọn dẹp, quét tước, có bếp nấu ăn đầy đủ, mới ra phong cách của một căn nhà có người ở chứ". Vừa nghĩ xong, lập tức trước mắt hiện ra nhiều người áo xanh, buông thõng tay đứng hầu. Đặc biệt trong đám đó có hai cô hầu gái xinh đẹp, một người bưng trà, một người cầm khăn, yêu kiều tiến lại, mỉm cười, nói : "Mời chủ nhân dùng trà". Thiết Quài tiên sinh bất giác cất tiếng cười ha hả, lại nghĩ : "Tổ sư thật đã nghĩ tới đủ mọi chuyện, chỉ tiếc rằng ta là một người tu đạo, có cần chi những tiện nghi thoải mái như thế này ? Ta chỉ cần một chiếc võng, nằm nghỉ ngơi an nhàn là đủ rồi. Hiện nay ta đã thành một lão ăn mày đen đủi có cần chi tới quần áo sang trọng ? Ngay cả chuyện ăn uống, người tu đạo cũng chẳng lo nghĩ tới nữa mà". Vừa nghĩ tới đó, nhà cao cùng các vật trần thiết trân quí, cùng những người hầu nam, nữ đều biến đâu mất biệt. Hai căn phòng hình tròn trớ lại cảnh tiêu điều như lúc ban đầu. Thiết Quài tiên sinh gật đầu, than thầm: "Ngươi xuất gia tu đạo nên giản dị thế này mới phải. Như thế, tấm lòng mới được thanh thản. Tổ sư quả thật là tổ của các vị tiên, đã hiểu rõ chí hướng của ta". Lại nghĩ tiếp: "Vừa rồi, các vị sư huynh đệ của ta nghe tổ sư nói, dường như đều có vẻ hoài nghi.
Phải chi ta mời họ vào đây, cùng nhau ngoạn thưởng một phen, để mọi người được mở mang kiến thức, đồng thời cùng quần tiên mở một "hồ lô thịnh hội", chẳng là hay lắm sao ?". Thiết Quài tiên sinh vừa nghĩ, vừa tiến bước về phía nhà sau. Liền thấy một phòng, còn rộng lớn hơn hai phòng trước. Cuối phòng là một bức tường hình tròn rất lớn, dường như đó là nơi mà hồ lô tiếp cận với thế giới bên ngoài. Thiết Quài tiên sinh vừa tiến vào phòng, liền thấy đủ mặt các vị sư huynh đệ. Họ thấy Thiết Quài, liền xúm nhau lại, lên tiếng chúc mừng. Các vị tiên kể lại :
- Chúng tôi thấy sư đệ tiến vào trong miệng bầu hồ lô, biến mất, đang cùng nhau bàn bạc xôn xao, chợt nghe tổ sư nói : "Thiết Quài sư đệ của các anh đang ở trong đó tưởng nghĩ tới các anh đấy. Mọi người hãy vào trong đó xem thử một phen, coi anh ta có đủ vật dụng đãi khách hay không ?". Vì thế chúng tôi lục tục kẻo nhau vào đây. Đang tìm xem chủ nhân ông căn phòng là ai, bất ngờ chú từ phía sau tiến ra. Hèn chi tổ sư nói chúng tôi là ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung, có biết đâu bầu hồ lô nhỏ xíu mà chứa đựng được mấy ngàn người !
Thiết Quài tiên sinh gặp các vị tiên, mừng rỡ vô cùng. Lại mừng hơn nữa là đồ đạc trong phòng được bố trí đẹp đẽ như hồi đầu. Tiên sinh lên tiếng mời các vị tiên ngồi xuống. Tức thì có bọn áo xanh trẻ tuổi, đi tới đi lui, liên tiếp mời trà và món điểm tâm, thật ân cần. Kỳ diệu hơn nữa là tiên sinh chẳng cần lên tiếng dặn bảo, chỉ cần ông nghĩ tới điều gì là bọn họ lập tức thi hành đến nơi đến chốn. Trên đời làm gì có những người hầu thông minh đến thế ? Các vị tiên đều hân hoan, chúc mừng Thiết Quài tiên sinh có được căn nhà quí báu như thế này. Văn Thủy tiên sinh ngồi trong đám tiệc lên tiếng chúc mừng :
- Chúng tôi theo hầu tổ sư đã lâu, chưa từng được thấy lão nhân gia bày trò vui vẻ thế này. Sư đệ tới chưa bao lâu, đã gặp hên, quả là tổ sư đã đặc biệt để mắt xanh tới chú. Không có tiền duyên, sao được như vậy ?
Thiết Quài tiên sinh tươi cười, ngỏ lời tạ lại :
- Tuy là nhờ tổ sư ban ơn dầy, cũng phải có các vị sư huynh đề bạt, chỉ dẫn, tiểu đệ mới được thế này. Lý Huyền chỉ biết thật lòng kính chúc chư huynh phúc thị miên trường.
Các tiên đều cười, nói :
- Quả là tiền duyên đã định số, bọn chúng tôi có công lao gì đâu ? Có điều rằng chúng tôi tình cờ tiến vào hồ lô tiên phủ, nên không kịp mang theo lễ vật chúc mừng, lòng rất áy náy.
- Không dám nhận đâu. Sau này, trong lúc tu đạo, nếu có nhu cầu gì tiểu đệ sẽ lên tiếng nhờ cậy các vị sư huynh.
Mọi người cười ầm lên, rồi Thiết Quài tiên sinh dẫn các vị sư huynh đi coi một vòng các căn phòng, lại theo miệng hồ lô mà tiến ra ngoài. Quay đầu nhìn lại, thấy hồ lô chỉ dài chừng vài tấc, mà sao chứa đựng được từng ấy người. Các vị tiên lại lên tiếng chúc tụng Thiết Quài tiên sinh, không dứt. Lão Quân mới bảo :
- Đây chỉ là một trò chơi, có gì là to tát, mà các ngươi cho là kinh dị ! Há chẳng phải kiến thức các ngươi nhỏ nhít lắm sao ?
Các tiên lặng yên, không nói tiếng nào. Lão Quân mới bảo Thiết Quài tiên sinh đem hồ lô treo lên đầu nạng sắt. Văn Thủy chân nhân vội nói :
- Đệ tử xin tặng cho Lý sư đệ một sợi dây buộc.
Lão Quân gặt đầu ưng thuận. Văn Thủy chân nhân mới lột mũ ra, đưa tay bứt một sợi tóc. Đưa tay đập một cái, sợi tóc đó dài ra hơn một trượng, buông tay ra, nó thu nhỏ lại nguyên hình. Văn Thủy tự tay buộc sợi tóc vào hồ lô, đem treo lên đầu cây nạng sắt.
Sợi tóc đó liền phát ra ánh sáng lấp loáng, mềm nhũn như sợi tơ bằng vàng, mà vững chắc như gân bò, bứt không đứt. Thiết Quài tiên sinh vội bái tạ. Lão Quân lại dặn bảo :
- Lần trước, ta từng dặn bảo ngươi phải xuống biển một chuyến, nay đã tới lúc rồi đó. Chừng nào tới lúc khẩn thiết, ngay cả ta và các sư huynh của ngươi cũng tới giúp đỡ ngươi. Việc này tuy không quan trọng lấm, nhưng vì có giáo chủ Ma giáo nghĩ tới chuyện thừa cơ gây khó dễ với giáo phái chúng ta, nên không thể không cẩn thận. Khởi nguyên của việc này là do Văn Mỹ chân nhân, học trò của Nguyên Thủy thiên tôn, mà ra. Lần này, ngươi trở về, nên dặn bảo các đồ đệ của ngươi cứ ở trong động phủ trên núi Thái sơn mà chờ đợi. Đại khái chỉ chừng một, hai ngày sẽ có người tới mời mọc ngươi. Người đó chính là đồ đệ của Văn Mỹ chân nhân, nội tình sự việc sẽ do người đó nói rõ cho ngươi biết.
Thiết Quài tiên sinh nhất nhất đáp ứng, Lão Quân lại nói :
- Thật tình việc này có liên quan tới trách nhiệm của ngươi, gần đây vừa điểm độ cho Hà Lan Tiên xuất thế. Việc này có đính líu tới tiền duyên của cô ta, nên chiếu theo lệ cũ, cô ta phải đứng chủ trì công việc mới phải. Nhưng vì cô đang lúc chăm lo tu hành, không thể để cô phải phân tâm vì những việc tạp nham, nên đành nhờ ngươi gánh đỡ vất vả thay cho Lan Tiên, lập chút công đức.
Thiết Quài tiên sinh vội đáp :
- Việc của Hà cô nương, đệ tử gánh vác thay là lẽ đương nhiên. Nếu có chút công lao nào, nguyện qui về cho cô ấy, đệ tử chẳng dám tham công của người khác đâu.
Lão Quân mỉm cười, gật đầu :
- Người xuất gia chỉ cầu sao mình có ích cho người khác thôi. Người chủ sự chẳng bao lâu cũng được thành đạo, cùng ngươi là đồng sự, đồng môn, cùng giúp đỡ nhau là lẽ đương nhiên, bất tất phải phân biệt đó đây.
Thiết Quài tiên sinh cúi đầu lãnh chỉ.
Về tới động phủ ở núi Thái sơn, tiên sinh liền phát điệp vời gọi Phi Phi, Điên Điên tới nghe điều khiển. Không bao lâu, hai người tới tham yết, Thiết Quài tiên sinh mới đem những việc mới xảy ra gần đây nói cho họ biết, hai người đều hân hoan tán tụng.
Tiên sinh lại cho biết Ngọc Nhi đã xuống núi, bỏ trốn, hai người tức giận, nói :
- Xin sư tôn cho biết nó trốn về địa phương nào, chúng đệ tử sẽ đi bắt nó về đây trị tội.
Thiết Quài tiên sinh chỉ cười cười, nói :
- Con vật ấy dã tâm không thuần, không thể điểm độ cho thành chính quả. Cũng tại ta nhiệt tâm thương người mới mắc lỗi lầm này. Nó đã đi rồi thì thôi, nhưng ta liệu rằng tạm thời nó không làm hại dân gian đâu. Chừng nào tội trạng nó rõ rệt, ta xử lý nó cũng không muộn.
Hai người thưa vâng. Thiết Quài tiên sinh nhân đó nói :
- Ngày mai ắt có người tới mời ta xuống núi, tới vùng biển để giải quyết một việc lớn, hai ngươi hãy ở ngoài cửa động chờ đợi, tiếp đón người đó.
Hai người nghe theo, ở ngoài cửa động ngóng nhìn ra xa.
Chừng quá giờ ngọ, bỗng nghe trên không trung có tiếng xào xạc như thể một con chim lớn bay qua. Hai người kinh ngạc, ngửng đầu nhìn, quả thấy một đạo cô từ trên không trung đáp xuống, đứng ngay trước mặt. Hai ngươi biết đó là người tới mời sư phụ mình,
Vội chắp tay vái chào, hỏi :
- Tiên cô từ ngoài biển tới đây phải không ? Xin cho biết pháp hiệu, để chúng tôi bẩm báo.
Đạo cô tươi cười nói :
- Tôn sư quả là vị chân tiên đắc đạo, sớm biết có tôi tới cung thỉnh. Bần ni pháp danh Tuệ Thông, là học trò của Văn Mỹ chân nhân, sư huynh của tôn sư. Như vậy, tôi với hai vị đạo hữu kể như là đồng môn. Tôn sư của hai vị vốn là môn hạ của Lão Quân tổ sư, đệ sư Văn Mỹ chân nhân là môn hạ của Nguyên Thủy thiên tôn, kể như là đồng học, cũng người một nhà. Phi Phi mỉm cười, gật đầu, Điên Điên vội vào trong bẩm báo.
Thiết Quài tiên sinh vừa mới đắc đạo, hoàn toàn trông cậy vào các vị đồng môn đề bạt, dẫn dắt, tính ông lại rất khiêm tốn hòa nhã, chẳng dám tự tôn, vượt quá phận mình, nên ông đích thân dẫn dắt học trò ra ngoài tiếp đón. Tuệ Thông vừa trông thấy Thiết Quài tiên sinh, biết ngay đó là ông tiên què mà thầy mình thường nhắc tới, vội sụp lạy, miệng xưng hô :
- Trước mặt sư thúc, đệ tử Tuệ Thông xin bái kiến.
Thiết Quài tiên sinh đáp lễ, mỉm cười mời cô vào bên trong, thi lễ lần nữa, cùng ngồi. Tuệ Thông trình bày việc La Viên phu nhân tu đạo thành công, vâng lệnh thầy mở đạo tràng, đặc biệt mời sư thúc rời gót tới chủ trì đàn vụ. Thiết Quài tiên sinh nhận lời ngay, nhân tiện nhờ Tuệ Thông cho biết sơ qua về những việc trước đây của La Viên. Tuệ Thông vâng lời, nói rõ mọi chi tiết, Thiết Quài mới hiểu rõ việc tiền nhân, hậu quả, lại biết được người mà tổ sư nói là đồng môn, đồng sự với mình trong tương lai chính là người mà Tuệ Thông gọi là Trương Quả, ông lập tức sốt sắng nhận lời chủ trì đạo tràng. Tuệ Thông lại nói :
- La Viên phu nhân hiện đang vâng lệnh thầy đổi tên là Giác Tiên, đang trông đợi pháp giá sư thúc, nhân tiện mời đạo hữu ở các núi, các đại tiên khắp ba cõi, cùng vợ chồng Long vương ở biển tới tham dự thịnh hội, vậy khẩn thiết mong sư thúc sớm lên đường.
Thiết Quài tiên sinh vội đáp :
- Người xuất gia, ngoại trừ việc cứu người giúp đời, còn có chuyện gì khác nữa đâu ? Các vị đã có lòng thương yêu mà vời gọi, tự nhiên ta phải cùng sư thư tức khắc khởi hành.
Tuệ Thông mừng lắm, cùng Thiết Quài tiên sinh đứng dậy, dẫn Phi Phi và Điên Điên, cùng bước lên đám mây. Thôn Hoài Hải, nằm ở phía Nam núi Thái sơn, bốn người cùng nhắm hướng Nam tiến phát. Đi được nửa đường, bỗng nhiên thấy một luồng gió đen thổi tới đằng sau bốn người, Thiết Quài cùng Tuệ Thông đều biết chuyện lạ, quay đầu nhìn lại, thấy trên đám mây đen có bốn đạo nhân nói cười hỉ hả. Tuệ Thông nói nhỏ với Thiết Quài tiên sinh :.
- Thưa sư thúc, bọn người đang đi tới ắt là yêu nhân. Đệ tứ có nghe tệ sư nói lần này Giác Tiên thành đạo, mở đạo tràng, ắt có nhiều kẻ thù kéo tới phá phách, mọi người cần phải để tâm. Hiện thấy trên mặt bốn người này đầy rẫy yêu khí, chúng lại đi cùng hướng với bọn ta, ắt là chúng định kéo tới thôn Hoài Hải đấy thôi.
Tôi và sư thúc nên đi chậm lại, đợi bốn đứa kia tới, ta hỏi dò ý chúng, mà biết cách đối phó. Sư thúc thấy thế nào ?
Thiết Quài tiên sinh gật đầu, nói :
- Đúng là nên như vậy.
Vì thế bốn người cho mây trôi chậm lại, đợi bốn người kia.
 

bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 11.07.2008 11:15:47
Hồi Thứ 28

Ốc tiên phụng chỉ lập đạo tràng
Tinh trai phanh bụng, bày tiệc đãi quần yêu.

Thiết Quài tiên sinh cùng Tuệ Thông, Phi Phi, Điên Điên, bốn người đi chậm lại, đợi bốn người phía sau tiến tới. Chỉ thấy phía sau là bốn đạo nhân, phục sức khác nhau, mà đều mặt mày hung ác, thân thể vạm vỡ. Nhìn sơ qua cũng biết chúng chẳng phải chính lộ tiên nhân. Thiết Quài tiên sinh hướng về bọn chúng chắp tay chào, bốn người kia cũng mỉm cười đáp lễ. Chúng hỏi Thiết Quài tiên sinh quê quán ở đâu, pháp hiệu là gì, tiên sinh nói rõ cho biết, và hỏi lại bọn chúng. Trong nhóm có một đạo nhân mặc áo đạo mầu hồng, dường như lãnh tụ trong nhóm, cất tiếng đáp :
- Bọn bần đạo đều là đạo sĩ luyện khí ở ngoài biển, đã đắc đạo từ thời Nghiêu, Thuấn, mà vì tham luyến cảnh thanh nhàn, nên đến giờ vẫn chưa lên thiên tào. Bần đạo là Lăng Hư Tử.
Lại chỉ đạo nhân áo xanh lục đứng bên phải, cho biết đó là Thông Huyền Tử, chỉ hai người đằng sau, một người mặc áo mầu tím, một người mặc áo mầu xanh dương, cho biết đó là Minh Minh Tử và Không Không Tử. Lăng Hư Tử nói tiếp :
- Nghe nói ở thôn Hoài Hải có môn hạ của Văn Mỹ chân nhân là điền loa tinh, tu thành pháp thân, đang muốn mở một đạo tràng ở trong vỏ ốc. Đó là một thịnh hội dưới biển, ngàn năm không gặp. Vì thế chúng tôi rủ nhau tới xem một chuyến.
Tuệ Thông nghe vậy, đưa mắt cho Thiết Quài tiên sinh, nhưng tiên sinh tảng lờ như không biết, còn giới thiệu Tuệ Thông, Phi phi, Điên Điên với bốn đạo nhân kia. Nhưng ông không nói Tuệ Thông là môn hạ của Văn Mỹ chân nhân, chỉ nói mình có nghe chuyện mở đạo tràng trong vỏ ốc, nên tới tham dự. Tám người tình cờ gặp nhau một chỗ, cùng thúc giục nhau vội vã lên đường, chẳng mấy chốc đã tới bên bờ sông Hoài.
Thiết Quài tiên sinh biết bốn đạo nhân đều có pháp lực, mời họ đi trước. Lăng Hư Tử thấy Thiết Quài hình dung xấu xí, nên rất xem thường, liền ngạo mạn gật đầu, nói với ba người bạn :
- Chúng ta đi trước thôi !
Nói rồi đọc quyết tị thủy, tức thì giữa lớp sóng lớn lộ ra một con đường. Bốn đạo nhân vẫy tay chào bọn Thiết Quài bốn người, đạp chân lên con đường mà đi, không thèm quay nhìn lại phía sau.
Tuệ Thông, Phi Phi tức giận nói :
- Bọn đạo nhân này chẳng có lễ phép. Thấy chúng ta khiêm tốn, chúng lại coi người bằng nửa con mắt, ngạo mạn vô cùng. Vả lại chúng đều thuộc phe tà giáo, lần này ắt gây nhiều chuyện không tốt. Để tránh mắc phải tay chúng hạ độc thủ, chi bằng chúng ta nhân lúc chúng không kịp phòng bị, hãy sử dụng phi kiếm của sư tôn chém chết chúng đi cho rồi. Như vậy, đỡ được nhiều việc phiền phức.
Thiết Quài tiên sinh mỉm cười, bảo :
- Các vị hiền đệ học đạo đã nhiều năm, sao còn nóng nẩy thế ? Như vậy có khác gì tính ngạo mạn của bọn chúng đâu ? Ta đi chuyến này là vâng pháp chỉ của tổ sư để chủ trì đạo tràng, có trách nhiệm rất trọng đại. Đối với tà ma ngoại giáo, nhất định  phải thiết pháp phòng bị. Đến lúc cực kỳ gay cấn, còn có tổ sư và nhiều vị sư huynh tới cứu viện, nên đối với bọn này hà tất phải có hành vi ti tiện, ra tay trước để áp chế người ? Nếu có thắng được chúng chăng nữa, cũng chẳng có tiếng tăm gì, vạn nhất để thua, còn mặt mũi nào mà nhìn tổ sư cùng bạn bè khắp nơi ? Cổ nhân có nói : "Không nhẫn nhịn việc nhỏ, ắt có hại lớn về sau", các vị hiền đệ phải ghi nhớ lấy, để sau này, hễ có gặp việc ngang trái gì, nhất thiết không được vọng động, làm chuyện khinh suất, mà nên thẩm tra kỹ tình thế giữa ta và người, nên đánh hãy đánh, không nên đánh thì lùi xa ba xá (1), nhất thời nhịn nhục để bảo vệ lấy thân.
Tuệ Thông nghe nói, vô cùng cảm phục, luôn miệng xưng tạ.
--------------------------------------
(1 ) Một xá : lả 30 dặm, ý nói là lùi lại rất xa.

Phi Phi, Điên Điên thấy thầy mình nhịn nhục quá đáng, phẫn khí chưa thể tiêu trừ, Tuệ Thông phải thay tiên sinh tìm lời an ủi hai người. Thiết Quài tiên sinh cười, bảo :
- Hai đứa này còn giữ tính cương cường, thấy việc nghĩa sốt sắng làm ngay. Đó là tính nghĩa hiệp của trời ban cho, ta rất tán thưởng. Nhưng cương quá ắt gẫy, không nhân dịp này mà dụng công đè nén, ắt uổng phí công phu dưỡng khí trong bao năm qua. Sư thư cũng đừng nên khuyên nhủ chúng. Đại khái là chúng tu dưỡng chưa đến nơi đến chốn, có khuyên nhủ chúng cũng vô ích. Phải đợi vài năm nữa, chúng mới đè nén được hoả khí xuống. Lúc đó chẳng cần tôi nói, chúng cũng hiểu được trong việc nhẫn nhịn có lạc thú ra sao.
Phi Phi, Điên Điên nghe vậy, tâm khí bình thản trớ lại, đều tươi cười nói :
- Sư tôn trước nay luôn luôn nhẫn nhịn người khác, chúng tôi không phục. Nay nghe sư tôn chỉ bảo, chúng tôi sẽ dụng công đè nén, đưa ý khí bình thản trở lại, mới mong tránh được nhiều tiếng thị phi .
Thiết Quài tiên sinh mừng rỡ, nói :
- Các ngươi nói được những lời như thế, đủ thấy sở học đã tiến bộ rất nhiều.
Ba người cùng cười lớn tiếng.
Thiết Quài tiên sinh không cần niệm chú, cũng không bắt quyết chỉ đưa đầu nạng sắt ra, chỉ một cái, tức thì có con đường rộng lớn, bằng phẳng, chiếu sáng lấp lánh, hiện ra trước mặt, từ hai bên bờ sông chạy thắng tới cửa động phủ của Giác Tiên ở thôn Hoài Hải. Tiên sinh đi lên trước, ba người theo sau. Chỉ trong thời gian chừng nấu chín một nồi cơm, bốn người đã tới ngay cửa động. Lạ lùng thay, quay đầu nhìn lại, con đường biến đâu mất. Tuệ Thông vô cùng khâm phục, Phi Phi, Điên Điên hân hoan, vỗ tay giậm chân. Thiết Quài tiên sinh quay qua nói với Tuệ Thông :
- Sư thư đã biết được bốn đạo nhân kia ngạo mạn thế nào, chỉ e rằng lúc này bọn họ mới đi được nửa đường, phải một giờ nữa mới tới đây.
- Tất nhiên là vậy. Tuy chúng biết bắt quyết rẽ nước để đi dưới nước, nhưng đó chỉ là tà pháp, làm sao sánh được với đại đạo của sư thúc ?
- Cũng còn một phép, gọi là "độn thủy", đi mau hơn, nhưng Phi Phi, Điên Điên không theo nổi đâu.
Tuệ Thông nhận là phải. Lại vì đã quen đường đi nước bước, cô tình nguyện đi trước dẫn đường, ba thầy trò Thiết Quài theo sau.
Tới tầng nhà thứ hai, có cha con Trương Quả, cùng Giác Tiên bước ra nghênh đón. Thấy Thiết Quài tiên sinh, ba người vội cúi xuống làm lễ, Thiết Quài cũng cúi đầu đáp lễ. Tuệ Thông lại giới thiệu Phi Phi, Điên Điên. Người nọ nhường người kia giây lát, rồi chia nhau ngồi xuống. Giác Tiên ngỏ lời tạ ơn Thiết Quài tiên sinh đã vất vả tới đây tiên sinh cười, bảo :
- Chúng ta đều là người hữu duyên, lại là đồng môn đồng đạo, một việc nhỏ như thế nhắc tới làm gì ?
Trương Quả thấy Thiết Quài có tiên cốt, tuy mầu da đen kịt, mà tinh thần mạnh mẽ, vội đem lòng cảm phục, mới ngồi xuống bên cạnh Thiết Quài, xin hỏi về đại đạo tu trì, dưỡng tâm. Thiết Quài biết Trương Quả là người mà tổ sư cho biết sau này sẽ là người cộng sự với mình, nên tỏ ý kính trọng, đem những điều hiểu biết của mình chỉ dẫn cho Trương Quả. Trương Quả nhận thấy Thiết Quài là người ngang hàng với bản sư Văn Mỹ chân nhân, nên gọi tôn là sư thúc. Hai người nhận thấy càng lúc càng thân mật nhau.
Nói chuyện một hồi, chủ nhân Giác Tiên sai người bưng thức ăn lên đãi khách, đặc biệt mời Thiết Quài ngồi ở vị thế thứ nhất.
Thiết Quài nhún nhường từ chối, nhưng từ chối không nổi, đành ngồi vào ghế trên, tiếp đó tới Tuệ Thông, cha con Trương Quả, Phi Phi, Điên Điên ngồi hầu tiếp hai bên Thiết Quài.
Trong tiệc, Phi Phi nhắc đến chuyện giữa đường gặp bốn đạo nhân, ắt không phải người đoan chính, sớm muộn gì cũng sẽ tới đây quấy rối, ta không thể không đề phòng. Giác Tiên mới nói :
- Nghe nói lão giao trú thân ở Nam hải, gia nhập Triệt giáo, bản thân lại thu nhận rất nhiều môn đồ. Nghe tôi và Trương Quả ở đây nhất định hắn sẽ tới quậy phá đạo tràng. Cũng may ở bên tôi có nhiều cao nhân cứu viện, lại thêm vợ chồng Long vương ở dưới biển, cùng với các thái tử Ngao Quảng, Ngao Thuận, đều có sức mạnh địch nổi muôn người, có tài năng kinh người, nếu biết ác giao phá phách, nhất định sẽ khởi binh tương trợ. Với nhiều thần tiên như thế, lẽ nào lại không thắng nổi đám yêu tinh, thú loại kia?
Nói rồi, cất tiếng cười vang. Thiết Quài nghiêm sắc mặt, nói :
- Đạo hữu không nên nói lớn lối như thế. Bốn biền, năm hồ, nơi nào chẳng có người tài ? Bọn chúng ta tu đạo chưa lâu bản lãnh có hạn, sao dám xem thưởng kẻ sĩ trong thiên hạ ? Ngay cả tổ sư của chúng ta, đứng đầu Đạo giáo, là lãnh tụ của quần tiên khắp ba cõi, cũng không dám nói một câu huyênh hoang, huống gì là chúng ta, đạo hạnh còn ít ỏi, há nên xem thưởng người khác, nói ra những lời ngông cuồng ? Là chỗ đồng đạo với nhau, tôi đánh liều dâng chén thuốc đắng, mong đạo huynh thu nhận.
Tuệ Thông, Trương Quả nghe vậy, vội nói :
- Lời của sư thúc quả là những lời vàng ngọc, chúng tôi nhất thiết xin nghe.
Giác Tiên biết mình lỡ lời, có vẻ hổ thẹn, vội đứng dậy nhận lỗi Thiết Quài tiên sinh thấy mọi người biết phục thiện, tỏ ý hài lòng, nâng chén chúc mừng, nói :
- Tông chỉ của giáo phái chúng ta là làm lợi cho đời, chứ không cầu lợi cho mình, vụ chân thực chứ không trọng khoa ngôn. Từ xưa tới nay không hề có thần tiên đại ngôn, khinh đời. Thần tiên chân chính quyết không khoe khoang pháp thuật, xem thường đồng đạo. Mỗ học hành nông cạn, tài năng kém cỏi, công đức chưa có chút nào, mấy lời vừa nói chỉ là khuyên nhau gắng gỏi, mong chư vị hiểu cho.
Mọi người đều nói :
- Sư thúc quá khiêm cung. Đối với bọn tiểu bối chúng tôi, bất tất phải như vậy.
Thiết Quài tiên sinh nói thêm vài câu khiêm nhượng nữa, rồi mới quay qua nói với Phi Phi :
- Vừa rồi ngươi có nói tới bốn đạo nhân, phải không ? Ta thấy bọn chúng đều là thú yêu, lần này chúng tới, chưa biết có chủ ý gì, bản lãnh ra sao, hiện đang trú ngụ chỗ nào. Lúc này, ngươi với Điên Điên thử ra ngoài do thám một phen, về báo cho ta biết. Nếu quả thật chúng có ý muốn hại, chúng ta mới sớm có cách đề phòng.
Phi Phi, Điên Điên thưa vâng, lập tức đứng dậy, rời khỏi bàn tiệc.
Giác Tiên giành cho thầy trò Thiết Quài tiên sinh một căn phòng sạch sẽ ở tuốt đằng sau. Tuệ Thông đích thân dẫn tiên sinh tới căn phòng đó, ó lại nói vài ba câu chuyện, rồi từ biệt, đi ra.
Thiết Quài tiên sinh còn lại một mình trong phòng, ngồi vận dụng huyền công, trong lúc Phi Phi, Điên Điên vâng lệnh thầy, ra ngoài điều tra về bốn yêu đạo.
Thiết Quài tiên sinh ngồi tĩnh tọa chừng một buổi, hai người kia vẫn chưa về. Tiên sinh chợt cảm thấy máu nhồi lên tim, bấm đất tay biết rõ sự tình, nói :
- Hỏng rồi ? Phi Phi, Điên Điên đã bị yêu nhân bắt giữ rồi ! Ông không nói cho ai biết, chậm rãi bước đi vài bước, chợt nẩy sinh một chủ ý, đưa tay chỉ về phía cuối phòng. Đằng sau căn phòng này là một bức tường lớn mầu xanh xám, chính là chỗ chôn ốc. Thiết Quài tiên sinh vừa chỉ ngón tay, nơi đó hiện ra một cửa lớn. Tiên sinh nắm chắc cây nạng sắt, trên treo bầu hồ lô, từ từ tiến ra khỏi cửa. Ông vừa bước qua, chợt nghe có tiếng nổ lớn, hai cánh cửa khép chặt, rồi biến mất, không để lại dấu vết nào.
Thiết Quài tiên sinh thuận theo thế nước tiến về phía hạ lưu thuộc thôn Hoài Hải, chợt thấy một khu nhà rộng lớn. Hai cánh cửa chính là hai vỏ của một con trai, mở ra lưng chừng.
Nguyên trong đám môn hạ của Triệt giáo có một con trai khổng lồ, tu thành yêu tinh. Nó có bản lãnh không thua kém gì Giác Tiên, lại có thể biến vỏ trai của nó thành cung thất. Một khi tiến qua cửa là thấy một quảng trường rộng lớn, phía sau quãng trường có một dẫy nhà hàng trăm gian. Lần này, nghe trong vỏ ốc mở được một đạo tràng thịnh hội, bọn yêu mới nghe lời lão giao xúi bẩy, nói rằng trong môn hạ của Lão Quân có nhiều đồ tử, đồ tôn tự phụ là nhờ hình người mà tu thành đại đạo, khinh thị Triệt giáo. Đáng giận hơn nữa là yêu phụ Giác Tiên rõ ràng chỉ là điển loa tinh, Trương Quả chỉ là biển bức, mà cũng dám ỷ thế phe nhóm, chê cười giáo phái chúng ta toàn là súc sinh. Lời nói khích đó đã gây công phẫn, tụ tập vô số những yêu tinh, ma quái, cùng kéo tới thôn Hoài Hải, dự bị cùng quần tiên phía bên kia tranh tài cao thấp một phen. Bạng tinh (con trai thành tinh) này vốn trú ngụ ở giữa biển, trong lúc phẫn khích đã tự nhủ mình phải phấn dũng, biến vỏ trai của mình làm nơi trú ngụ cho quần yêu, đồng thời quyết định thiết lập trong vỏ trai đó một lôi đài, để đợi chúng tiên bên phía Giác Tiên tới, cùng nhau tỉ thí đạo pháp.
Hôm đó, Tuệ Thông mời được thầy trò Thiết Quài tới vỏ ốc, thì bọn Lăng Hư Tử bốn yêu cũng đáp lời lão giao mời tới chỗ ruột con trai. Lão giao đã tới trước kỳ hẹn. Hôm đó bạng tinh làm chủ nhà, đứng ra mở đại hội nghênh đón quần yêu. Những sơn hào hải vị để đãi khách đều là đặc sản dưới biển ở vùng phụ cận. Lăng Hư Tử trong lúc uống rượu mới cười, nói :
- Chủ nhân đem những sinh vật trong nhà làm tiệc đãi chúng ta. Tiệc hôm nay có thể gọi là một hải yến.
Các khách trong tiệc vỗ tay đôm đốp. Thông Huyền Tử cũng cười, nói :
- Bạng sư hôm nay làm chủ tiệc đã xứng đáng với vai trò của chủ nhà. Những thứ ông ấy dùng để đãi khách đều là đồng tộc của gia chủ, có thể nói là đã vì đại nghĩa mà diệt thân tộc, chúng tôi vô cùng cảm kích. Nhưng chỉ sợ mai mốt trong núi có việc, chúng tôi mời bạng công lên núi du ngoạn, không kiếm đâu ra đủ số đồng tộc đem giết để đãi lại ông ấy, chẳng là đáng thẹn lắm sao ?
Lão giao tới đây, có dẫn theo nhiều yêu ma. Trong đó có Hống Không cư sĩ, Độc Giác đại sư, Ngưu Ma tôn nhân, Thần Sư đại vương, và nhiều người khác, đều là những con thú trên núi, như chim ưng, tê giác, trâu rừng, sư tử..., so với Lăng Hư, Thông Huyền, cũng là ác thú như nhau, bên tám lạng, bên nửa cân. Bọn chúng tính tình rất man rợ, nay học thành chút pháp thuật, càng thêm hung dữ, việc ác nào cũng dám làm. Ngay khi đó, hai con trâu và sư tử đều cất tiếng cười, nói :
- Hai ông Lăng, Thông sao nói nhún thế ? Trong núi chúng ta cũng sản sinh nhiều loài, so với hải tộc có thua kém gì đâu ? Chẳng lẽ lại để mất thể diện trước mắt bạng công hay sao ?
Thông Huyền Tử cười, nói :
- Nói vậy không được. Đồng tộc trong núi tuy nhiều, há không nghe "thỏ chết, cáo buồn", đồng loại thương nhau hay sao ? Ngay các vị lãnh tụ trên núi kéo nhau tới dưới biển thụ hưởng hải yến của bạng công còn thấy áy náy trong lòng, huống gì lại tàn sát đồng loại để làm no bụng người ngoại giới ?
Các yêu nghe vậy càng vỗ tay cổ vũ, riêng có chủ nhân Bạng tướng quân là cúi đầu lặng yên, có vẻ buồn bã. Lão giao sợ chủ nhân thất vọng, bất lợi cho mình, vội tìm lời khéo léo khuyên giải. Thông Huyền Tử cũng tự hối hận đã nói lỡ lời, vội ngỏ lời xin lỗi Bạng tướng quân. Tướng quân chỉ giận trong lòng, không nói ra lời.
Đang lúc nan giải, bỗng có tiểu yêu chạy vào bẩm báo :
- Có hai người, một nam một nữ, tới ngoài cửa dòm ngó, thấy tiểu yêu chúng tôi, liền lẩn tránh, một lát lại trở lại. Chúng tôi sợ chúng là gian tế, chẳng dám không bẩm báo.
Câu nói vừa dứt, lão giao đứng bật dậy, hét lên :
- Mang cây thương lại đây cho ta !
Lăng Hư, Thông Huyền đang muốn rời khỏi bàn tiệc mà chưa nghĩ ra cách nào, nhân dịp này mới ngăn cán lão giao, nói :
- Tiểu bối chúng tôi từ xa đến đây, chưa có chút công lao nào. Nhắm chừng hai tên tiểu yêu kia chẳng có nhiều bản lãnh, chẳng cần đạo hữu phải đích thân ra tay, để hai chúng tôi lập chút công đầu này cho.
Lão giao nhận lời, hai yêu đều cầm binh khí, bước nhanh ra cửa. Chúng yêu trên tiệc cũng đang chán ngắt trong lòng, ai nấy đều cầm khí giới bước ra để áp trận. Lăng Hư, Thông Huyền vừa bước ra khỏi cửa, quả nhiên thấy một nam một nữ đang thụt thò ngoài cửa, bí bí mật mật. Từ xa ngóng nhìn, nhận ngay ra hai người đó chẳng phải xa lạ, chính là Phi Phi, Điên Điên đã gặp ở giữa đường. Hai yêu liền cười, nói :
- Thì ra là hai tên mặt chó, tới đây tìm cái chết ? Giỏi lắm, có gan hãy mau lại đây. Hai ngươi không tới, chúng ta cũng quyết bắt hai ngươi đem về, để làm lễ tương kiến.
Nói rồi, một đứa cầm thương, một đứa vác đao, xông lại tấn công Phi Phi, Điên Điên. Hai người thấy Lăng, Thông hai yêu tiến lại, tức thì nổi giận, rút binh khí cầm tay, xông tới đối địch. Hai bên đánh nhau hơn một trăm hiệp, không phân thắng bại. Bên này, lão giao cùng Bạng tướng quân đều đứng trước trận quan sát, thấy Lăng, Thông đánh không đổ Phi Phi, Điên Điên, Thông Huyền tử chợt lên tiếng :
- Bần đạo phải cho hai tiểu yêu này coi một bảo bối mới được ?
Nói rồi, mò trong mình, rút ra một chiếc bình nho nhỏ, hướng miệng bình về phía địch, miệng niệm chú lâm râm. Phi Phi, Điên Điên hai người chợt cảm thấy lạnh run lên, hai đạo linh hồn rời khỏi xác, bay thẳng vào trong miệng bình của Thông Huyền Tử.
Hai cái xác gục xuống, được bọn tiểu yêu xúm lại, khiêng vào trong cửa.
Vào tới một căn phòng bên trong, chúng yêu lên tiếng cổ vũ, chúc mừng hai yêu đã lập được công trạng. Hai yêu nói :
- Hôm nay, lão đạo sĩ què còn hên lắm. Nếu hắn đích thân tới đây giờ này đã bị thu hồn vào trong bình rồi !
Lão giao nghe vậy, chợt nhớ ra, nói :
- Đạo sĩ què có lai lịch lớn lắm đó. Hắn có tên tục là Lý Huyền, đích thực là người có bản lãnh, được Lão Quân tổ sư thương, mới đây đã thu nhận làm đồ đệ. Người đó mà tới đây, mọi người phải cẩn thận lắm mới được.
Độc Giác, Ngưu Ma hai yêu nghe vậy, liền nổi giận :
- Tại sao ông lại sợ hãi quá thế ? Chưa thấy đại địch đã khiếp đảm, há chẳng phải đã tâng bốc chí khí kẻ địch, tự giảm sút oai phong của mình hay sao ?
Lão giao thẹn đỏ mặt, nói :
- Tôi nói vậy, chẳng qua chỉ mong các anh để tâm một chút, để khỏi bị người khác ám toán thôi, chứ sợ gì bọn chúng chứ ? Nếu có ý khiếp nhược, tôi đã vùi thân ở Nam hải, tu chân dưỡng tâm cho rồi, hà tất phải vượt vạn dậm, vận động mọi người tới đây gây chuyện ?
Chúng yêu tìm cách khuyên giải, bỗng nghe Thông Huyền Tử lên tiếng :
- Mọi người đừng ồn ào. Chiếc bình báu này của tôi đang nhốt hồn hai người. Thông thường một khi hồn vào trong bình, người đó liền hôn mê như chết. Không quá một canh giờ, hồn vía liền tiêu tan, không thể nhập xác trở lại. Tại sao hai con yêu này bị nhốt đã lâu mà dường như ở trong đó chúng đang bàn bạc chuyện gì ?
Chẳng lẽ hai tên này có hồn vía khác với người thường, chịu đựng được rất lâu ?
Chúng yêu nghe vậy đều cho là chuyện kỳ lạ. Thông Huyền Tử mới cầm chiếc bình, áp sát bên tai nghe ngóng, chợt la lên :
- Lạ thật, lạ thật ! Hai con yêu này quả thật có bản lãnh không nhỏ. Sắp chết đến nơi mà chúng còn ở trong đó hát hỏng nữa chứ ?
Chúng yêu nghe vậy, ồn ào cả lên, hỏi Thông Huyền coi chúng hát hỏng gì.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 11.07.2008 18:22:09
Hồi Thứ 29

Bình nhiếp hồn không chứa nổi tiên thể.
Động hồ lô chọc ghẹo được yêu tinh.


Phi Phi, Điên Điên bị Thông Huyền Tử bắt hồn, nhốt vào trong 1 chiếc bình. Tên Thông Huyền Tứ này vốn là một con ve sầu, ở trên ngọn cây, hút sương móc mà sống. Bình thường, loài ve sầu có sinh mệnh ngắn ngủi, chỉ sống được vài tháng mùa hè mà thôi. Không hiểu vì lý do gì, con ve sầu này lại sống được tới hai năm.
Tính chất chung của con người cũng như sinh vật là không biết thỏa mãn. Sống được hai năm, ve sầu lại nghĩ tại sao mình không thể sống hai mươi năm, hai trăm năm, thậm chí hai ngàn, hai vạn năm ? Khổ nỗi tri thức nông cạn, thân phận thấp hèn, nó không thể tìm tiên hỏi đạo. Cảm nhận được trường sinh là khó, biết được đoản mệnh là khó, ve sầu động mối thương. Hằng đêm, nó ở trên ngọn cây trong rừng, tỉ tê khóc lóc. Nó khóc đã nhiều ngày, chẳng buồn húp sương móc vào bụng nữa. Tình cờ một hôm, có ông tiên đi qua bên dưới, nghe được tiếng khóc, động lòng trắc ẩn, mới bắt nó xuống. Ve sầu chỉ còn thoi thóp thở, ông tiên cảm thấy bất nhẫn, lập tức há miệng phun một ngụm nước phép. Nhận được nước tiên, ve sầu đột nhiên cảm thấy toàn thân chuyển động, tinh thần phấn chấn. Mở mắt ra, nhận thấy một ông tiên già đang mỉm cười, nói nho nhỏ mấy tiếng gì với nó, và bản thân nó đang nằm trong lòng bàn tay tiên ông. Phúc đáp tâm linh, nó biết được tiên ông đã cứu nó. Nó cảm kích trong lòng, bò tới bò lui trong tay ông lão, lại cúi đầu, đụng vào lòng bàn tay ông, rõ ràng biểu lộ ý cảm tạ tiên ông cứu mạng. Tiên ông dường như hiểu được ý nó, mỉm cười, gật đầu vài cái, nói :
- Ngươi là một động vật nhỏ bé mà cũng có tri thức đó. Thương ngươi lập chí hướng thượng, ta sẽ đem phép hấp thụ tinh hoa của mặt trời, mặt trăng, cùng với thuật biến hóa, truyền thụ hết cho ngươi. Chỉ cần ngươi có chí khí là có phúc mệnh, hãy dụng công cho tốt, cần cù tu trì, là ngươi có thể sống lâu cùng trời đất.
Ve sầu gật đầu, nhận lời chỉ dạy của tiên nhân. Từ đó về sau, nó khổ công tu luyện, đã có thể sống được hơn một trăm năm, lại có thể biến hóa thành cầm thú. Một trăm năm chục năm sau, ông tiên trở lại, dạy bảo thêm, nói nó tu luyện thêm một trăm năm chục năm nữa sẽ có thể biến thành hình người, sau đó mới chuyển sang thân người, đại đạo mới tu thành. Lúc đó, ve sầu đã nói được tiếng người, tiến bộ rất nhiều. Quả nhiên, ba trăm năm sau, nó đã chuyển sang được thân người.
Tới khi Giác Tiên lập đạo tràng, nó bị lão giao dẫn dụ gia nhập Triệt giáo, đi theo bọn yêu tinh tới thôn Hoài Hải. Cho rằng đánh phá điền loa tinh là lập được công đức rất lớn, nên nó hân hoan đắc ý. Lâm trận lần đầu, nó đã dùng bình nhiếp hồn, thu được hồn vía của Phi Phi và Điên Điên. Theo lời nó nói, bình này có thể nhốt được ngàn, vạn sinh hồn, có thể nói là một bảo bối cực kỳ lợi hại. Thật ra hồ lô này có bản chất cực mỏng, nên bên ngoài mới có thể nghe được tiếng nói của người bên trong. Lúc mà Thông Huyền Tử lắng tai nghe ngóng, đã nghe được Phi Phi, Điên Điên ở bên trong nói với nhau:
- Không biết bình này là cái quái gì, mà có thể nhốt được hai ta. Ở trong này buồn chết đi được !
Một hồi sau, hai người lại bàn bạc với nhau :
- Sợ cái gì ? Sư tôn là người không bói đã biết, thấy hai ta đi lâu không về, ắt biết chúng ta đã gặp phải tay độc thủ. Ông mà tới đây bọn yêu nhân làm sao giữ được tính mạng ?
Hai người nói tới đó, liền hết lo lắng, vui vẻ trở lại, rủ nhau hát mấy bài sơn ca để giải muộn. Những lời hát đó lọt hết vào tai Thông Huyền Tử. Thông Huyền Tử mới kể lại cho bọn yêu tinh nghe. Chúng yêu đều cất tiếng cười ha hả. Đang lúc ồn ào vui vẻ như thế, trên mặt Thông Huyền Tử bỗng hiện ra vết bàn tay, và tiếng tát đánh "Bốp !", mọi người đều nghe thấy rõ ràng. Thông Huyền Tử cảm thấy đỏ hồng một bên má, và đau đớn lắm. Hắn vội đứng lên, dáo dác nhìn quanh, tìm kiếm. Chúng yêu cũng xúm lại, hỏi han, mà không rõ bàn tay đó phát xuất từ đâu. Nào ngờ trong lúc lộn xộn, Thông Huyền Tử nhận ra bảo bối của mình biến mất.
Thẩm tra lại, hai cái xác Phi Phi, Điên Điên cũng biến đi từ hồi nào, chẳng rõ. Thông Huyền Từ kinh hãi, mắt trợn trừng, miệng há hốc, lão giao cũng vô cùng tức tối. Minh Minh Tử chợt cất tiếng cười, nói :
- Chẳng phải ai khác đâu. Nhất định là thằng giặc què đã dùng phép tàng hình tới đây, tặng một chưởng lên mặt Thông Huyền đạo huynh, và nhân lúc hỗn loạn đã lấy cắp chiếc bình, cùng xác hai đứa kia đem đi.
Lão giao nói :
- Tôi đã bảo thằng què này có chút bản lãnh, chúng ta không thể xem thường hắn.
Thủ hạ của hắn là Hàng Không cư sĩ nói :
- Chúng ta nên đề phòng hắn biến hóa đa đoan, không hình không bóng. Không chừng hắn vẫn còn lẩn quất chung quanh đây, chơi chúng ta nhiều vố chới với.
Chúng yêu nghe vậy, sợ run cầm cập. Lão giao tức giận, nói :
- Hắn biết tàng hình, chúng ta lại không biết biến hóa sao ? Ngày mai ta tới chỗ gọi là vỏ ốc gì đó, phá phách tan hoang, để rửa mối hận hôm nay.
Chúng yêu xúi giục :
- Đại vương có pháp lực như thế mà để đạo nhân què khinh nhờn, làm chúng tôi mất mặt hết ráo. Ngày mai phải làm ngay, kẻ trễ .
Lão giao tán thành liền. Riêng Thông Huyền Tử trầm ngâm, nói:
- Thôi đi cho rồi. Chỉ hận là hắn đã lấy mất pháp bảo của tôi đem đi, chưa biết dùng cách gì để lấy lại đây ?
Minh Minh Tứ và Lăng Hư Tử đều cười, nói :
- Nghe nói chiếc bình đó, trừ khi đạo huynh đích thân niệm mật chú, không sao mở ra được, đạo sĩ què đó có lấy đi cũng vô dụng thôi. Hắn đành bỏ lăn lóc ở một xó xỉnh nào đó trong vỏ ốc, sau này chúng ta nhất định sẽ có cách lấy về, hà tất phải vội lo lắng ?
Thông Huyền Tử giậm chân, nói :
- Các đạo huynh chỉ biết bình đó phải đích thân bần đạo mới mở ra được, có biết đâu rằng thằng què đó đã có thể cứu hai tiểu yêu đem đi, hiển nhiên là hồn vía trong bình đã được phóng ra, trở về xác hai yêu, chúng mới chạy thoát được chứ. Nếu không phải vậy tại sao hai tiểu yêu đồng thời biến mất ? Đạo sĩ què đã phóng
 xuất hồn khỏi bình, đủ thấy hắn đã có cách mở được bình. Nếu hắn lại không thể mở được bình, ắt là hắn đã có cách phá vỡ bình. Ôi pháp bảo đó tôi đã mất nhiều năm tu luyện mới thành, nay bị phá hủy hoàn toàn, chẳng đáng đau lòng, chẳng đáng than tiếc lắm sao ?
Nói rồi, cất tiếng khóc rống lên, thật là thảm thiết. Chúng yêu xúm vào khuyên giải một hồi. Lăng Hư, Không Không phẫn uất nói:
- Thằng giặc què lần đầu lâm trận đã dùng thuật trộm cắp, chẳng phải chính đạo chút nào. Nó đã bất nhân, ta đành bất nghĩa. Đạo huynh hãy yên tâm, tối nay hai chúng tôi sẽ đem theo pháp bảo, tới chỗ vỏ ốc thăm dò động tĩnh của thằng giặc què, và coi xem có phải hai tiểu yêu đã hoàn hồn hay không. Nếu gặp dịp thuận tiện, chúng tôi sẽ xuống tay tức thì, để trả thù, rửa hận cho đạo huynh, khiến chúng không mở được thịnh hội nào, không lập được đạo tràng nào. Như thế mới hiển lộ được thần thông của giáo phái chúng ta, cho thấy bọn hậu sinh tiểu tử chúng ta cũng có tài năng chống địch như ai !
Chúng yêu nghe vậy, đều mừng rỡ, hân hoan. Lão giao vội rót hai chén rượu, kính mời hai yêu, chúc chúng "cờ mở đắc thắng, mã đáo thành công" (l). Hai yêu uống cạn, vui vẻ từ biệt chúng yêu, rời khỏi vỏ trai, để tiến về phía vỏ ốc.
Hai yêu này cũng có tài biến hóa. Lăng Hư biến thành một con muỗi, Không Không biến thành con kiến càng, lén lén lút lút tiến vào động phủ của Giác Tiên, tới thẳng một căn phòng ở tầng cuối, quả thấy Thiết Quài tiên sinh đang ngồi ngay ngắn trên một chiếc ghế, nhưng không thấy Phi Phi, Điên Điên đâu cả. Lăng Hư mới tìm Không Không, cùng nhau bàn bạc :
- Xem tình hình này, hai tiểu yêu vẫn chưa được hoàn hồn. Thằng giặc què tuy lấy được chiếc bình, và mang về được hai cái xác nhưng vẫn chưa cứu được hai đứa kia sống lại.
Không Không Tử cười, nói :
- Thông Huyền của chúng ta bị xúi quẩy, chứ tên giặc què này chỉ biết hại người mà chẳng lợi gì cho mình.
--------------------------------------------
(1) là câu thành ngừ : “kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công", lấy hình ảnh một cuộc xông trận: ngả cờ sang hai bên, thúc ngựa xông lên. Nhưng vế sau thông dụng hơn, và đã được người Việt Nam đọc nguyên văn chữ Hán, và hiểu theo ý là thành công tức thời", “mau chóng thành công”.

Hai đứa bàn bạc một hồi, Lăng Hư Tứ nói :
- Thôi, chúng ta đừng đấu khẩu nữa. Anh thử nhìn coi, trên đầu giặc què này xuất hiện hồng quang, ắt hẳn là một người có đạo hạnh cao lắm đó. Chỉ sợ trong bọn ta không có ai là đối thủ của hắn đâu. Chi bằng thừa lúc bất ngờ, anh phóng một "Mai hoa độc châm" đâm chết hắn đi cho rồi, khỏi phải mất công động chân động tay thêm phiền phức.
Thông Huyền Tử gật đầu :
- Tiểu đệ cũng nghĩ như vậy. Anh coi tôi phóng bảo bối đây ?
Nói chưa dứt lời, đã nghe bên tai có tiếng người nói :
- Thì ra tên yêu vật này cũng có bảo bối nữa sao ? Sao không lấy ra phóng thử, để mọi người coi chơi ?
Hai yêu nghe vậy, trố mắt ra nhìn, dáo dác tìm quanh. Nhưng nào thấy bóng ai đâu ? Lăng Hư Tử vội nói :
- Không xong rồi ! Tên này quả thật có bản lãnh, e rằng chúng ta không qua mặt nổi hắn đâu. Mau trở về thôi !
Nói vừa dứt, lại nghe bên tai có tiếng người cười, nói :
- Cũng biết thân biết phận đấy ! Nhưng hai ngươi muốn trở về bên vỏ trai, có bao nhiêu bảo bối hãy để lại đây, để làm bạn với bình nhiếp hồn, chẳng là tốt đẹp hay sao ?
Hai yêu kinh hãi quá chừng, đưa mắt nhìn lại Thiết Quài tiên sinh, thấy ông vẫn ngồi yên tại chỗ, không động đậy chút nào . Lăng Hư Tử lại nói :
- Đạo huynh, chúng ta đi lần này là sai lầm mất rồi. Tên kia nhất định là đang ẩn thân ở bên cạnh chúng ta, dùng phép phân thân, theo sát nút chúng ta. Nhưng không biết là hắn ốp lên thân anh, hay nằm dưới bụng tôi. Hắn thấy chúng ta mà chúng ta không thấy hắn, nếu hắn định ra tay ác độc, thì chúng ta chết chắc !
Không Không Từ nói :
- Tôi là con kiến càng, đi đứng chậm chạp, lại phải bò trên mặt đất mà đi từng bước, hắn ốp lên thân tôi không được đâu. Đại khái hắn vẫn còn đang nằm trên thân muỗi của anh đó.
- Không phải đâu. Tôi là con muỗi, bay lên bay xuống, di động khắp nơi, hắn ốp lên thân tôi sao nổi ?
Hai yêu đang tranh luận, lại nghe có người nói :
- Côn trùng ngu ngốc, hai ngươi tuy biến hình đã nhỏ, phải biết còn có những vật nhỏ hơn, sao không thể ốp lên thân hai ngươi được chớ?
Hai yêu phát hoảng, Lăng Hư Tử mới hỏi trống không :
- Ngươi biến ra con gì ? Hiện ở đâu ?
Liền nghe có tiếng đáp :
- Ta đã biến ra hai con mông trùng (1), một con ở trên mình đạo huynh, một con ở dưới bụng Thông Huyền đạo hữu.
-------------------------------
(1) Một loại côn trùng cực nhỏ, gây ngứa ngáy.

Hai yêu nghe vậy, chẳng còn hồn vía nào, biến lại thành hình người, chạy tới chạy lui. Chạy được một lát, quay đầu nhìn lại Thiết Quài tiên sinh, thấy ông vẫn ngồi yên chỗ cũ, không hề nhúc nhích. Hai yêu chạy một hồi, tưởng đã ra khỏi vỏ ốc, nhìn nhau mà chúc mừng nhau. Một đứa nói:
- Đạo huynh, hôm nay kể cũng còn hên. Chúng ta đã thoát hiểm, ra khỏi vỏ ốc của con mụ đó.
- Đây chỉ là một bãi đất rộng, không biết thuộc về nơi nào, nhìn quanh chẳng thấy nhà cửa gì cả.
- Để ý làm chi ? Cứ việc tìm kiếm sẽ thấy một con đường lớn. Chúng ta mau trở về thôi.
Đang nói, bỗng nghe bên tai có tiếng người hét lên :
- Hai đứa này chẳng hiểu biết gì cả. Chạy tới chạy lui, vẫn chưa ra khỏi miệng hồ lô của ta. Ta phải làm cho hai đứa nhức đầu một phen mới được.
Hai đứa nghe nói, lại càng hoang mang, lên tiếng cầu xin :
- Bẩm thượng tiên, chúng tôi bị ngài hành hạ đã lâu lắm rồi, xin ngài buông tay, tha cho chúng tôi về.
Tiếng người trong lỗ tai lại nói :
- Việc đó không khó. Chỉ cần hai người bỏ tất cả những bảo bối ở lại đây, ta sẽ phóng thích cho hai ngươi ra.
Hai yêu cứ năn nỉ năm lần bảy lượt, người trong lỗ tai tức giận, hét lên :
- Ta đã có ý tốt phóng thích hai ngươi, mà tụi bay tham cầu quá đáng, mấy món đồ chơi nhỏ nhít đó mà tụi bay cũng trân trọng đến thế ư ? Nay ta bắt hai ngươi phải chết, coi tụi bay còn dám tiếc pháp bảo nữa hay không ?
Hai yêu nghe vậy, vội quì xuống đất, dập đầu lạy bôm bốp. Lạy một hồi, chợt thấy trời đất sáng sủa. Mở mắt ra nhìn, thấy hiện ra một tấm bia, trên bia có khắc hàng chữ "Mộ của Lăng Hư Tử, Không Không Tử, môn hạ của Triệt giáo".
Hai yêu kinh hãi, nói không ra lời. Lần tìm đằng sau tấm bia, quả có đắp một ngôi mộ rất lớn. Cửa mộ mở ra, có hai con quỉ dạ xoa, cầm binh khí, đưa tay vẫy hai yêu. Hai yêu kinh hãi cùng cực, ôm nhau mà khóc. Lăng Hư Tử thông minh hơn, ngước mặt lên trời mà cầu xin, tình nguyện đem tất cả những pháp bảo thường dùng của mình, gồm có phướn chiêu hồn, đá ngũ sắc đã dầy công tu luyện, và kiếm chém tiên, để lại hết, chỉ cầu xin thượng tiên tha mạng. Không Không Tử cũng tình nguyện đem mai hoa châm, và chiếc khăn hình lá sen, dâng hiến. Hai yêu lạy xong, rầu rĩ mặt mày, đưa ra các pháp bảo của mình, giao cho dạ xoa thu nhận. Dạ xoa lại ép bức hai đứa phải nói rõ cách sử dụng, tự tay làm thí nghiệm, sau đó mới chịu thả chúng đi. Bỗng một tiếng sấm lớn nổ giữa thinh không, hai yêu kinh hãi, ôm chặt lấy nhau, kêu khóc rằng:
- Đại tiên đã hứa tha mạng, sao còn dùng lôi hỏa đánh chúng tôi?
Nào ngờ sét đánh tuy rất gần hai yêu, nhưng chúng chẳng hề hấn gì, mà chỉ trong giây lát, mộ bia trước mặt, cùng hai dạ xoa đều biến mất. Đồng thời lại xuất hiện một tảng đá, trên khắc hàng chữ nho nhỏ : "Cứ theo lối này mà đi về phía Đông, sẽ có một đường đất thông suốt tới vỏ trai, dài một vạn năm ngàn dặm. Nếu đi theo hướng Nam phải qua một đường thủy, chỉ có ba ngàn dặm, nhưng phải vượt qua "thác nước chém yêu”, "đập vùi yêu”, "vũng chôn yêu”, "cầu rớt yêu”.
Hai yêu nhìn hàng chữ, lại hoảng sợ, ngước lên trời mà kêu khóc :
- Thượng tiên đã dung tha cho chúng tôi trở về, sao còn làm khó dễ tiểu yêu. Chiếu theo lộ trình này, đi bộ phải mất vài năm, đường thủy lại qua nhiều chỗ nguy hiểm. Tiểu yêu chúng tôi pháp lực nông cạn, làm sao ra khỏi cửa ải ? Đằng nào cũng chết, thà rằng chết dưới chân thượng tiên cho rồi.
Nói rồi lại quì xuống, lạy đến độ chảy máu đầu. Lại nghe bên tai có tiếng người nói :
- Bọn tiểu yêu này kể cũng đáng thương. Các ngươi đã năn nỉ, ta cũng không làm khó dễ nữa. Mau mở mắt nhìn kỹ, coi đây là địa phương nào ?
Hai yêu mừng rỡ, mở mắt nhìn. Lạ thay, chẳng phải khu đất trống, cũng không có bia đá nào.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 11.07.2008 18:58:34
Hồi Thứ 30

Trả nợ cũ, vỏ ốc mở đạo tràng
Đánh đối thủ, ruột trai bày lôi đài.


Lăng Hư, Không Không hai yêu, vì muốn hành thích Thiết Quài tiên sinh, đã hóa thân thành muỗi và kiến, tới vỏ ốc, không dè hành thích không thành, đã bị tiên sinh vận dụng công lực, đem nhốt vào trong hồ lô, lại buộc phải để lại tất cả những pháp bảo, chúng đã khổ công tu luyện, ở trong vỏ sò, và dọa dẫm chúng một trận, phải lạy lục vỡ đầu sứt trán, mới thu lại hồ lô, thả chúng đi.
Thiết Quài tiên sinh vốn tính nhân từ, chẳng muốn giết hại hai yêu, còn nhân dịp này điểm tỉnh chúng, để chúng hiểu ra những việc làm trước đây là sai trái, mà gia nhập chính giáo. Nào ngờ hai yêu chấp mê không tỉnh, chỉ một mực cầu xin tha mạng, chứ không có một lời nào cầu xin điểm độ, Thiết Quài tiên sinh biết hai yêu này không có phúc mệnh, nên mới trả chúng về nguyên xứ. Một trận gió tiên nổi lên, đưa hai yêu về thẳng vỏ trai.
Hai yêu mừng rỡ, cùng hướng lên không trung tạ ơn tha mạng, rồi mới tất tả bước vào nội đường. Hơn mười hai yêu nhân của nhóm lão giao đang nóng lòng sốt ruột chờ đợi, bỗng thấy hai yêu bước vào. Nhìn tình hình, chúng biết hai yêu đã phải một phen nếm mùi đau khổ. Minh Minh Tứ lên tiếng trước tiên :
- Xem tình trạng này, thấy rõ hai anh đã phải một phen nhục nhã.
Thông Huyền Tử chỉ nghĩ tới bình báu của mình, vội hỏi :
- Hai anh đã về ! Có tìm thấy bình nhiếp hồn của tôi không ? Đã điều tra ra hai tiểu yêu bị bắt trước đây ở chỗ nào chưa ? Sống chết ra sao ?
Lăng Hư Tử xua tay lia lịa, nói:
- Đừng nhắc tới làm chi. Hôm nay chúng tôi đã phải một phen thất bại nặng nề, nhục nhã vô cùng, trước đây chưa từng gặp phải, các anh coi đó, bao nhiêu pháp bảo của hai chúng tôi mất hết rồi, còn đâu ?
Không Không Tử đem tình hình vừa qua kể lại một lượt. Mọi người nghe chuyện đều kinh hãi, há hốc miệng, trợn trừng hai mắt, nhìn nhau chằm bẳm, chẳng thốt ra một lời. Lão giao nổi giận, nói :
- Không thể ngờ được hai vị lại chịu nhục nhã như thế. Thằng giặc què quả thật quá hung hăng, tôi phải đi mời giáo chủ lão gia về đây mới trị được hắn, tránh mọi hậu hoạn.
Chúng yêu nghe vậy mừng rỡ vô cùng, xưng tụng lão giao. Hắn vừa tính cất bước, chợt nghe ngoài cửa có tiếng tiên nhạc vang rền, tiếng hạc lảnh lót trên không trung. Lão giao nghi ngờ, nói :
- Lại có tiên nhân nào tới trợ giúp bọn chúng đây ? Nếu quả như vậy, chúng ta không mời giáo chủ không xong.
Nói chưa dứt lời, đã thấy tiểu yêu từ ngoài cửa bước vào, bẩm báo :
- Có ba vị lão gia và một vị phu nhân tới cầu kiến, đang đứng đợi ngoài cửa.
Lão giao vui mừng, cho rằng đó là các vị đạo hữu tới trợ chiến, vội dẫn chúng yêu ra ngoài nghênh đón. Thì ra đó là các đại đệ tử trong môn hạ Triệt giáo, là Tôn Hổ, Ngưu Bột, Hồ Hải Tiên, và một vị Bạch thị nữ tiên, nhân nghe trong vỏ ốc thiết lập đạo tràng, các nhân vật của hai giáo phái đều tụ tập về đây, sợ rằng giáo phái của mình có điều sơ thất, nên mới vâng lệnh giáo chủ tới đây xem xét tình hình. Lão giao mừng lắm, cùng chúng yêu thi hành đại lễ. Tôn Hổ mới hỏi tình hình hiện nay hai bên chống đỡ nhau thế nào, bao giờ mở đạo tràng ? Lão giao đem tình hình bọn
Lăng Hư ba yêu thất lợi bẩm báo, lại nói :
- Đạo tràng đã định mở vào hôm nay, nhưng nghe nói chỉ vì nhiều đồng đạo chưa tới được, nên đã đổi kỳ hẹn, đại khái là ngày hai mươi tháng này sẽ mở thịnh hội.
Ngưu Bột nghe chuyện bọn Lăng Hư Tử mắc họa, giận dữ trong lòng, nói :
- Môn hạ Lão Quân sao dám làm nhục người của giáo phái ta đến thế ? Bọn ta đã đến đây, ngày mai sẽ bày ra một lôi đài ở một khu thoáng đãng trong vỏ trai, để coi bọn chúng, từng đứa từng đứa tới tìm cái chết. Nếu không đứa nào tới đả lôi đài, chúng ta sẽ tới phá nát cái vỏ ốc, đuổi mụ La Viên phu nhân gì đó lên bờ, tống cổ ra khỏi thôn Hoài Hải, không cho ở vùng quanh đây năm trăm dặm, các vị đạo huynh thấy thế nào ?
Tôn Hổ cười, nói :
- Thiết Quài tuy có đạo hạnh, cũng mới được có vài năm tu luyện, sao có nổi bản lãnh lớn ? Nay biết chúng ta đã tới, nhất định hắn sẽ mời nhiều cao nhân tương trợ. Chúng ta một mặt phái người thông tri cho bọn chúng biết, mời chúng tới đả lôi đài, một mặt chúng ta chia nhau ra trấn giữ những nơi hiểm yếu. Nếu gặp tên nào rời khỏi Hải thôn, nhất định đó là kẻ lên núi cầu viện binh, chúng ta phải bắt giữ lại, trả thù cho nhóm ba vị đạo hữu Lăng Hư Tử.
Chúng yêu mừng rỡ, hoan hô ầm ĩ. Sau đó, chúng mở trong vỏ trai một tiệc lớn để mừng nhau, đồng thời phái một tiểu yêu tới vỏ ốc hạ chiến thư.
Giác Tiên nhận thư, cùng Tuệ Thông, Trương Quả tới gặp Thiết Quài tiên sinh. Tiếp nhận thư, tiên sinh cười, nói :
- Dưới đáy biển mở lôi đài, quả là chuyện lạ chưa từng nghe. Chỉ tiếc rằng lại có nhiều người tại đồng đạo không thoát khỏi kiếp nạn. Đau lòng thay, thương tiếc thay !
Ba người đã hiểu ý tiên sinh, chỉ gật đầu, không nói. Tuệ Thông mới hỏi :
- Tiên sinh thấy có cần mời vài vị tiên sư về đây cứu viện hay không ?
- Không cần mời. Viện binh của chúng ta hiện đang trên đường đi.
Không bao lâu, có Văn Thủy, Phiếu Diểu, Quảng Thành, Vân Trung, và Văn Mỹ chân nhân, cùng kéo tới một lượt. Thiết Quài cùng bọn Giác Tiên đều ra ngoài tiếp đón, dẫn vào bên trong.
Các vị tiên thăm hỏi Thiết Quài tiên sinh, khen ngợi một hồi, rồi phân ngôi ngồi xuống. Trương Quả, Tuệ Thông tới ra mắt Văn Mỹ chân nhân, cúi đầu làm lễ, rồi cùng ngồi xuống bên dưới. Văn Thủy, Văn Mỹ hai vị chân nhân tươi cười, hỏi Phiếu Diểu, Hỏa Long hai vị chân nhân :
- Hai vị đạo huynh pháp giá tới đây, sao chưa thấy hai vị cao đồ tới hầu ? Vả lại, chỗ này thuộc quyền quản lý của vợ chồng hai vị đó, vai trò chủ nhà phải do hai người ấy phụ trách mới phải chứ ?
Hai vị chân nhân cười, đáp :
- Chúng tôi đi thẳng tới đây, chưa từng thông báo tới Thủy Tinh cung, tất nhiên là vợ chồng Long vương chưa thể biết chúng tôi đã đến. Nhưng vợ chồng nhà đó đều là người trung hiếu, chân thành, một hai ngày nữa nghe chúng tôi đã đến, ắt phải tới tham yết thôi.
Câu nói chưa dứt, chợt nghe bên ngoài có tiếng mưa gió ầm ầm, tiếp theo là tiếng sóng dậy đùng đùng. Các tiên chưa hiểu nguyên cớ tại sao, Thiết Quài tiên sinh còn cho là chúng yêu ở vỏ trai xông tới phá phách, chỉ có Văn Mỹ chân nhân cười, nói:
- Tôi biết rõ đây là hai vị cao đồ của hai vị đạo huynh Phiếu Diểu, Hỏa Long đã tới đấy thôi.
Nói vừa dứt lời, quả nhiên có thị tì bản động dẫn vợ chồng Long vương tới, hướng về phía Phiếu Diểu và Hỏa Long chân nhân cúi đầu làm lễ. Hai vị chân nhân kêu hai học trò ra mắt các vị sư thúc bá và sư huynh đệ. Duy có Tuệ Thông cùng Long vương là chỗ quen biết cũ, và Trương Quả là bạn thân của long vương cách đây một ngàn năm, nhưng thời gian qua đã lâu rồi, hai người tự cảm thấy thấp kém, phải lấy lễ đãi bậc tôn trưởng mà đối xử với Long vương, vương phi.
Thật tình Long vương có nghe nói tới một con trai lớn vừa từ Nam hải trôi giạt tới, lại ở đây biến đổi vỏ trai thành cung điện, và mời yêu tinh từ bốn phương tới, thiết lập lôi đài, nhằm gây khó dễ với các vị tiên bên vỏ ốc. Long vương nói :
- Quả nhân sớm có ý định khu trục bọn chúng, không cho ở đây mà gây rối. Nhưng nghe nói trong bọn có nhiều người tài năng, giáo chủ Triệt giáo là Thông Thiên đạo nhân còn muốn đích thân tới giúp đỡ bọn đồ đệ nữa, tiểu vương tự nhận mình đạo pháp có hạn, không thể chống lại ông ta. Cũng may có nhiều tiên thiên ở đây, khó gì mà không quét sạch được bọn tà ma, nên tiểu vương tạm thời phải tảng lờ, để coi bọn bên kia gây khó dễ ra sao.
Văn Thủy chân nhân nói :
- Chúng tôi đã đến đây, không thể làm kẻ bàng quan được. Ngày mai, mọi người cùng kéo tới đó xem thử, xem chúng thay đổi cục diện ra sao, có những cao sĩ tài năng nào. Như thế mới biết rõ mà hành động, để Lý sư đệ sớm hoàn thành đàn vụ, mọi người cùng trở lại thiên tào, khỏi dây dưa ngày tháng ở đáy biển, quấy rầy Long vương.
Chúng tiên đều cười, khen là đúng lắm. Vợ chồng Long vương có ý ngượng ngùng, đều nói :
- Các vị thượng tiên tới đây, là hân hạnh cho hải giới, tiểu vương hoan nghênh chẳng hết, sao lại nói tới quấy rầy ?
Hỏa Long chân nhân nói :
- Chính thế. Chỗ này thuộc quyền trị nhậm của vợ chồng anh chị, vai trò chủ nhà, anh chị phải gánh vác thôi.
Long vương đứng dậy, mỉm cười, nói :
- Đó là lẽ tự nhiên, tiểu vương có ý muốn mời các vị sư thúc, sư huynh đệ tới long cung du ngoạn một phen, nhưng thiết nghĩ các vị mắc việc đạo tràng, phải hoàn thành cho sớm, tiểu vương đành gác lại lời mời mọc. Còn việc cung đốn thức ăn cho tươm tất, người trong cung đã chuẩn bị đầy đủ, sẽ phái quan viên đưa đến tận nơi.
Các tiên đều lên tiếng cảm ơn. Phiếu Diểu chân nhân nói :
- Các vị đạo huynh, sư đệ bất tất phải khách sáo như thế. Thiết nghĩ vợ chồng Long vương bình thời ăn uống sang trọng, những món hưởng dụng đều là thứ hiếm có trong thiên hạ. Chúng ta dễ gì mà mỗi lúc tới được đây, có quấy rầy đôi chút cũng chẳng sao.
Mọi người nghe nói đều cười ầm lên.
Đang nói cười, đã thấy những người phục dịch trong cung kéo tới bày tiệc thịnh soạn. Vợ chồng Long vương mời mọi người ngồi vào bàn, tự tay cầm bình rượu rót mời. Tiệc kéo dài từ đầu giờ ngọ tới cuối giờ ngọ, vợ chồng Long vương vì mắc công vụ, xin cáo từ.
Văn Thủy chân nhân bỗng thấy máy động trong tim, quay qua nói với Thiết Quài :
- Bọn yêu nhân này cũng biết lo xa. Để đề phòng chú đi cầu viện binh, chúng đã phái người đi canh gác khắp nơi. Bây giờ chúng ta hãy tới chọc phá chúng một phen cho biết tay.
Thiết Quài hỏi nên làm thế nào, Văn Thủy cười, bảo :
- Chú là đàn chủ, không tiện rời xa chỗ này, để tôi và Văn Mỹ đạo huynh biến ra hình dạng thầy trò chú, giả bộ để chúng bắt được đem về. Ngày mai, tới lúc đả lôi đài, chúng tôi làm tay trong đánh úp, theo kế "một hồi trống, tiêu diệt địch quân", chẳng là tiện lợi lắm sao ?
Chúng tiên nghe vậy, vỗ tay hoan hô, khen là diệu kế.
Thiết Quài tiên sinh nghe nhắc tới hai tiếng "thầy trò", chợt nhớ ra một việc, vội nói :
- Tiểu đệ đang muốn thỉnh giáo các vị sư huynh đây. Học trò tôi là Phi Phi, Điên Điên bị yêu nhân bắt giữ, nhốt hồn chúng trong bình nhiếp hồn. Hiện tại, bình đó tuy đã lấy được về đây, nhưng không cách gì mở ra nổi, phải làm thế nào đây ?
Văn Thủy chân nhân nói :
- Chắc chắn đây là pháp bảo của một tên Thông Huyền Tử gì đó. Nó là một con ve sầu, may gặp được đại sư huynh của chúng ta là Vân Đỉnh chân nhân động lòng thương nó chí thành, đã truyền cho nó một chút đạo pháp, dè đâu nó sống lại được, nhưng chẳng biết phân biệt chính tà, đã tới đây mà khiêu chiến. Đại khái là vận mạng của nó cũng sắp hết rồi. Chú hãy lấy chiếc bình đó ra đây cho ta xem thử, nghiên cứu xem có cách gì mở được hay không.
Thiết Quài tiên sinh nghe lời, mò trong mình, lấy ra chiếc bình nhiếp hồn. Văn Thủy đặt bình trong tay, chúng tiên cũng xúm lại xem. Văn Thủy niệm lâm râm, há miệng phun ra một luồng kim khí bay thẳng tới miệng bình. Miệng bình liền vỡ ra, hai luồng linh hồn nhập vào thể xác. Bên trong, Phi Phi, Điên Điên chợt la lên : "Ui chao !", lồm cồm ngồi dậy. Nghe biết thượng tiên cứu mạng, chúng vội bước ra, tạ ơn.
Văn Mỹ chân nhân mới biến ra hình dạng Thiết Quài, Văn Thủy dùng phép phân thân, biến thành hai người : Phi Phi và Điên Điên. Ba người cùng bay lên mây. đưa mắt nhìn quanh bốn phía, quả nhiên thấy khắp nơi có yêu nhân canh giữ. Văn Mỹ, Văn Thủy hăng hái tiến lên, cùng một bọn yêu nhân chiến đấu một hồi, không tăng thêm khí lực, để bọn chúng bắt đi. Chúng yêu hân hoan vô cùng, khiêng ba người, trở về vỏ trai. Ba người nhìn ra xa, thấy bên trong vỏ trai lờ mờ có đám mây sắc tía bao phủ, rộng như một tấm lưới đánh cá. Ba người bỗng kinh hãi, nói :
Thì ra giáo chủ của bọn chúng, là ông lão Thông Thiên, đã tới đây phép hóa thân của chúng ta sao có thể che mắt được ông ấy ? Té ra kế hay biến thành dở mất rồi ?
Nói chưa dứt lời, đã bị chúng khiêng vào bạng cung. Hai vị tiên vốn có đủ tài thoát thân trốn đi ngay lúc đó, nhưng họ muốn thăm dò tin tức bên trong vỏ trai, nên cứ lặng yên để chúng khiêng vào.
Tới một phòng rất lớn ở tầng thứ hai, quả có thiết lập một lôi đài.
Trên đài tụ tập rất nhiều yêu tiên, có người thanh nhã, có người dung tục, có người đẹp đẽ, có người xấu xí. Chính giữa là một lão đạo sĩ ngồi ngay ngắn, râu tóc bạc phơ, cái mũi chè bè, đôi tai dài.
Hai vị tiên nhận ngay ra đó là Thông Thiên giáo chủ, không hiểu ông ta tới từ hồi nào. Đang lúc nghĩ kế thoát thân, chợt thấy Thông Thiên giáo chủ hé mở hai mắt, chiếu thẳng vào các đại đệ tử ngồi hai bên, cất tiếng cười sằng sặc, nói :
- Các anh coi, một đám đồ tôn đồ tử trong môn hạ của Lão Tử chẳng hiểu biết gì cả. Đã biết ta ở đây, bọn chúng còn dám dùng phép hóa thân, tới đây thử thách ta nữa chứ.
Các đồ đệ vội hỏi :
- Ba tên này không phải thầy trò Thiết Quài hay sao ?
Thông Thiên cười lạt, nói :
- Khiêng bọn tiểu tử nhất thời hồ đồ tiến lại đây thứ coi. Bọn chúng quả có tài biến hóa, biết phép ngũ độn đó. Hãy cầm lá bùa của ta, dán lên đỉnh đầu chúng, thì chúng không thể trốn đi được nữa.
Các đại đệ tử Tôn Hổ, Ngưu Bột, nhận lãnh bùa, bước xuống đài. Văn Mỹ đưa mắt nháy nhó Văn Thủy, Văn Thủy hiểu ý, hô to: “Đi thôi !". Hai chân vừa đụng đất, hai ông liền dùng phép độn thổ ra khỏi vỏ trai, trở về bảo doanh, khiến thầy trò Thông Thiên tức tối vô cùng.
Ngày hôm sau, Văn Thủy, Văn Mỹ, Phiếu Diểu, Hỏa Long bốn vị chân nhân, cùng Quảng Thành Tứ, Vân Trung Tử, thầy trò Thiết Quài tiên sinh, và Tuệ Thông, Trường Quả, Giác Tiên, cộng chung là hơn mười vị tiên nhân, cùng kéo tới chỗ vỏ trai. Bên kia, Thông Thiên giáo chủ cùng các đệ tứ vẫn ngồi cao trên đài, y hệt như ngày hôm qua. Văn Thủy chân nhân trông thấy, hô to lên :
- Thưa Thông Thiên sư thúc giáo phái chúng tôi cùng phe nhóm của sư thúc, tuy chẳng phải đồng đạo, nhưng đều là kẻ sĩ ở ngoài vòng nhân thế, là những người có đạo hết thảy. Vị Giác Tiên đạo hữu của chúng tôi đây nhân vì kiếp trước mắc tội nghiệt rất nặng, kiếp này mới được phép mở đạo tràng, siêu độ cho các oan hồn. Đó cũng là việc hợp tình hợp lý, không hiểu đã đắc tội với sư thúc ở điểm nào, khiến sư thúc phải vất vả tới đây, cứ như thể gặp phải đại địch. Xin hỏi duyên cớ vì sao ?
Thông Thiên chưa kịp trả lời, hai tướng Ngưu Bột, Tôn Hổ ở bên cạnh đã đột ngột xông ra, hét to lên :
- Văn Thủy, Văn Mỹ không được nói nhăng. Các ngươi đã biết chúng ta đều là những người tu đạo, vượt ra ngoài cõi, lẽ ra phải tôn kính lẫn nhau, thân cận nhau mới đúng, tại sao các ngươi lại hủy báng giáo phái ta chẳng phải loài người ? Những môn sinh Văn Mỹ thu nhận đều là con người hay sao ? Nên biết ông Trời sinh ra con người và muôn vật, tuy có phân cao thấp, sang hèn khác nhau, nhưng loài nào cũng có thể tu hành được cả, họ có thể dựa vào chỗ xuất thân mà khinh rẻ nhau ? Giáo phái ta rất rộng lượng, không tranh chấp gì với các ngươi, không dè yêu phụ La Viên không biết tự lượng, đã có ý gây khó dễ với giao huynh của bọn ta. Giao huynh tuy trước đây là con trai mụ ta, nhưng chuyện đó đã cách đây một ngàn năm rồi. Việc đời đổi thay, hà tất phải giữ mãi chuyện thù oán cũ xì đó ? Vì thế tổ sư ta mở lòng từ bi, tới đây giúp đỡ anh ta. Các ngươi nên tỏ ra hiểu biết, mau mau trở về bản sơn, giao con tiện tì điền loa cho chúng ta phát lạc, thì mọi chuyện êm hết, nếu không thì e rằng các ngươi hôm nay nổi hứng kéo tới đây, không tránh khỏi mất mạng.
Văn Thủy, Văn Mỹ nghe vậy, đều cười lớn tiếng, nói :
- Dường như tên lão giao này đã tìm lời láo khoét, kể khổ với thầy trò ngươi, nên các ngươi mới tới đây để trả thù cho hắn, có đúng hay không ? Tên súc sinh này đã làm toàn những chuyện ngỗ ngược, trái đạo lý. Hắn không tới tìm chúng ta chăng nữa, chúng ta cũng phải tìm hắn, giết đi để trừ hại cho trăm họ. Ai ngờ hắn lại tới tìm chúng ta trước, đủ biết khí số hắn đã hết, công tu luyện mấy ngàn năm đành tan tành. Các vị đạo hữu còn không ngại vạn dặm xa xôi tới đây giúp hắn hành nghịch, đúng là không biết thiên đạo, không hiểu đại nghĩa, chúng bần đạo lấy làm tiếc cho các vị đạo hữu.
Bọn Ngưu Bột nghe nói, nổi giận đùng đùng.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 11.07.2008 22:47:51
HồI THứ 31

Bạng cung đấu phép
Hồ lô tàng tiên.


Thấy bọn Ngưu Bột đấu khẩu không lại các tiên, Thông Thiên giáo chủ phát hiệu lệnh, nói :
- Ai hơi đâu mà đấu khẩu với bọn chúng. Nay chúng ta đã bày lôi đài, chỉ việc đứng coi có đứa nào trong bọn chúng dám lên tỉ thí hay không. Nếu chúng thắng, bọn ta sẽ ngả cờ im trống, trở về bản sơn. Nếu không, cứ chiếu theo lời ta đã nói trước đây, không chấp nhận cho điền loa, biển bức ở đây diệu võ dương oai, mà đuổi chúng đi thật xa, không cho phép trở lại trung thổ.
Nói rồi, giáo chủ liền xuống đài, bỏ đi nơi khác.
Bên này, ba tên Lăng Hư, Thông Huyền, Không Không đều mất hết pháp bảo, không thể ra oai được nữa. Riêng Minh Minh vẫn còn hung hăng, muốn báo thù cho ba đạo hữu, nên nhẩy lên đài trước nhất, hô to :
- Bên dưới kia, có vị nào dám lên đây, cùng bần đạo tranh cao thấp hay không ?
Nói chưa dứt lời, đã thấy Tuệ Thông nữ tiên nhẩy vọt lên. Hai bên thông tên họ, cùng cầm bảo kiếm, ở trên đài đánh nhau một hồi, không phân thắng bại. Minh Minh Tử lấy ra một pháp bảo, cầm trong tay, tìm cách đánh lén. Hắn quay mình chạy đi, đợi cho Tuệ Thông đuổi tới gần, hét lên một tiếng :
- Yêu phụ, coi pháp bảo của tổ sư gia tới nè !
Tuệ Thông ngửng nhìn lên, thấy trong tay Minh Minh Tử phát ra một luồng sáng hồng, nhắm đầu Tuệ Thông đánh xuống.
Nguyên Minh Minh là một con đom đóm, tu luyện thành tinh.
Luồng sáng hồng là lửa trong thân đơm đón, hễ đụng tới người nào, tức thì toàn thân người đó bốc cháy. Tuệ Thông sớm đã đề phòng, liền rút trong tay áo ra một cây quạt, nhắm về phía lửa quạt ba cái. Lửa đó tuy không quay trở về để đốt cháy Minh Minh Tử; nhưng cũng không tiến lên được. Tuệ Thông cất tiếng cười, nói:
- Côn trùng nhỏ kia, thứ ánh sáng đom đóm lập lòe mà cũng dám đem ra dọa nạt người khác sao ? Hãy coi lửa của bà nội ngươi đây !
Nói rồi, há miệng phun ra một viên tròn tròn, bay về phía Minh Minh Tử. Đó là viên ngọc đan ở trong thân chồn. Viên đan đó đụng vào mình Minh Minh Tứ, toàn thân hắn liền bốc cháy.
Minh Minh Tử bị thiêu đốt, chịu không nổi, phải hiện nguyên hình, dưới dạng một con muỗi cực lớn. Lửa lại bay lên bay xuống chung quanh đài, đụng ai đốt nấy. Minh Minh Tứ bị tổn thương, thở hổn hển, lui về bản trận.
Lão giao thấy Minh Minh Tử thất bại nặng nề, tức thì nổi giận, đội lửa chạy lên đài. Hắn há miệng phun ra một bãi nước bọt, tức thì lửa tắt ngấm, trên đài lênh láng nước biển. Tuệ Thông hoảng vía, vội đạp lên bùn, lội qua nước mà lui về bản trận.
Lúc đó, Văn Mỹ chân nhân vội xuất hồn bay tới long cung, bảo Long vương phải mau mau thu hồi nước biển, đừng cho yêu nhân mượn mà sử dụng. Long vương vội bẩm :
- Lão giao này có tà pháp, bản tính lại thuộc thủy, nếu hắn trổ hết bản lãnh, có thể dốc nước sông, trút nước biển. Hoàn toàn không phải đệ tử cho hắn mượn để sử dụng đâu.
Văn Mỹ không biết làm sao, đành trở lại chỗ vỏ trai. Thiết Quài tiên sinh ở phía sau tiến lại, hỏi duyên do. Văn Mỹ nói rõ cho biết. Thiết Quài cười, bảo :
- Nếu vậy, tôi phải sử dụng tới hồ lô mới được.
Vội mở nắp hồ lô ra, niệm chú lâm râm. Lão giao tính trút hết nước biển Nam hải để dìm chết quần tiên, ai ngờ thế nước càng mạnh, chạy vào hô lô càng nhanh. Bên ngoài hồ lô, không thấy một vũng nước nào. Lão giao kinh hãi, vội bắt quyết rút nước, rồi vội vã xuống đài, bỏ đi.
Tôn Hổ lại đứng trên đài, hô to :
- Ai dám cùng bần dạo giỡn một phen chăng ?
Quảng Thành Tử nói nhỏ với Vân Trung Tử :
- Tên Tôn Hổ này là một con cọp thành tinh. Nó có một xâu chuỗi đầu lâu, đem ra ngoài gió liền phát ánh sáng, người nào đạo hạnh nông cạn gặp phải, liền bay hồn, vỡ mật. Đạo huynh có định thần chân, có thể phá được phép tà đó. Nhưng thằng quái này có võ nghệ và kiếm pháp tinh thông, lúc giao thủ với nó, đạo huynh phải cẩn thận mới được.
Vân Trung Tử vác kiếm lên đài. Hai bên thông tên họ, bắt đầu giao tranh. Vân Trung Tử sớm nhận ra Tôn Hổ có sức mạnh, cặp trùy trong tay hắn lợi hại vô cùng, mới nghĩ thầm : "Quả là một con cọp dữ, mới có khí lực mạnh thế này !". Cặp trùy cứ nhắm đầu và vai Vân Trung giáng xuống, nhưng Vân Trung Tử đầu óc sáng suốt, tay chân nhanh nhẹn, nên tránh được tất cả, không tổn thương chút nào. Đang ở phía trước, thoát chốc ông đã chạy ra sau lưng Tôn Hổ, khiến hắn có sức mạnh mà không dùng vào đâu được Tôn Hổ vất vả chống đỡ, đổ mồ hôi khắp thân mình, giận quá liền lấy ra xâu chuỗi đầu lâu, lớn nhỏ có chừng bẩy, tám chục chiếc. Do là đầu của những người hắn đã ăn thịt, đem chế luyện thành vật báu này. Xâu chuỗi hướng về phía Vân Trung Tử, phát ra ánh sáng lấp loáng. Vân Trung Tử rùng mình, cảm thấy khí lạnh xâm nhập. Cũng may, ông sớm đề phòng, lấy định thần châu ra, chiếu về phía xâu chuỗi đầu lâu. Tôn Hổ mở mắt nhìn, thấy hạt châu phát ra ánh sáng, cao hơn một trượng. Trong luồng sáng lấp lánh đó xuất hiện rất nhiều con quỉ dữ, tất cả đều bỏ tóc xõa, mặt mày lem luốc những máu, hình trạng coi rất ghê sợ. Đó là hồn ma của những người đã bị cọp ăn thịt. Chúng mím môi, nghiến răng nhìn Tôn Hổ, rồi xông vào đánh đập tới tấp. Tôn Hổ hét lên một tiếng, ngã lăn ra đất. Bên dưới đài, Quảng Thành Tử hô to :
- Vân Trung đạo huynh, mau xuống tay đi. Con súc sinh này ăn thịt người đã nhiều, tội ác chất đầy, không dung tha được đâu !
Câu nói chưa dứt, Vân Trung Tứ đã đâm ngay một nhát kiếm trúng bụng Tôn Hổ. Trên đài, dưới đài đều nghe một tiếng cọp rống, long trời lở đất, Tôn Hổ lăn ra chết. Trên đài chỉ còn một xác cọp, móng vuốt chi trước vẫn giữ chặt lấy xâu chuỗi đầu lâu.
Vân Trung Tử đang sữa soạn xuống đài, bỗng phía sau có tiếng hét inh lên :
- Đạo sĩ tặc khoan đi ! Hãy cùng ta giỡn chơi một hồi !
Vân Trung Tứ quay đầu lại, thấy một con quái vật đầu trâu, mặt ngựa, mình rồng, đuôi cọp. Đó là con thú mà Thông Thiên giáo chủ thường cưỡi, có tên là "Long hổ hỗn" (pha trộn giữa rồng và cọp) Nó cầm một chiếc vòng sắt, nhắm đầu Vân Trung Tử đánh xuống. Vân Trung Tử thấy con quái vừa xấu xí, vừa hung tợn, vội lùi lại ba bước, cười nói :
- Giữa ban ngày ban mặt, sao lại xuất hiện quái vật xấu xí thế này ? Sao ngươi không cầm gương soi thứ mặt mũi ? Thứ súc sinh không ra hình thù gì như ngươi mà cũng dám chường mặt với đời hay sao ?
Câu nói chưa dứt, Long hổ hỗn đã tức giận, rống lên một tiếng, từ hai lỗ mũi phun ra hai luồng khói, hôi thối như phân, tanh tưởi như rắn. Vân Trung Tử kinh hãi, lùi lại bên mép đả lôi đài, hụt chân lăn xuống, được Quảng Thành Tử nâng đỡ.
Văn Thủy chân nhân nhíu mày, nói :
- Người tu đạo chẳng sợ gì, chỉ sợ thứ ô uế. Con vật này từ trong ruột phát ra mùi hôi thối như thế, ai mà chịu nổi ? Nếu giết chết nó, chỉ sợ mùi hôi tanh càng thêm nồng nặc. Vả lại con thú này vốn là loài rồng, e rằng nó thông thạo thủy tính, trốn đi, biết dùng phương pháp gì để hàng phục nó ?
Văn Mỹ chân nhân nói :
- Đạo huynh sao lại sợ hãi thứ quái vật như thế, há chẳng đáng chê cười lắm sao ?
- Ai nói là sợ nó chứ ? Tôi chỉ nói là thứ súc sinh hạ đẳng này đáng ghê tởm, thần tiên rất sợ mùi xú uế của nó nhiễm vào mình thôi Anh không thấy Vân Trung đạo huynh vừa rồi đã phải một phen kinh hãi đó sao ?
Văn Mỹ chân nhân suy nghĩ một lát, nói :
- Có cách rồi ! Điều chúng ta sợ là mùi tanh hôi, mà những con vật tanh hôi chưa từng có con nào không sợ hãi mùi thơm nồng. Trong hồ lô của Thiết Quài sư huynh có mùi thơm bách hợp hương do tổ sư chế ra, sao không lấy ra dùng thử xem sao ? Văn Mỹ nghe lời, liền thỉnh cầu Thiết Quài tiên sinh lên đài, một tay cầm hồ lô, một tay chống nạng, Thiết Quài khập khiễng leo lên lôi đài. Nực cười thay, Long hổ hỗn không biết phận mình xấu xí còn chê cười Thiết Quài tiên sinh hình dáng khó coi. Tiên sinh không thèm để ý, mở ngay nắp hồ lô, miệng niệm chú lâm râm. Giây lát mùi hương nồng lan ra bốn phía. Long hổ hỗn không thể nào ngờ nổi hương thơm lại là khắc tinh, đánh át được mùi hôi thối của nó. Nó vừa ngửi qua một lần, liền hôn mê, ngã lăn ra đài. Thông Thiên giáo chủ thương con thú cưỡi của mình, vội bắt quyết, vẽ bùa, vời gọi rất nhiều thần tướng để bảo vệ cho
Long hổ hỗn. Thiết Quài tiên sinh thấy vậy, liền nổi giận, nói :
- Triệt giáo là tà ma ngoại đạo, tại sao các vị thần tướng lại chịu nghe lệnh ông ấy ?
Thần tướng nói :
- Chẳng giấu gì pháp sư, chúng tôi chỉ phục tùng bùa chú, không hỏi tới người điều khiển là ai. Nay nghe lời pháp sư, đã biết việc làm của mình là sai lầm, chúng mạt tướng xin cáo từ.
Thiết Quài tiên sinh ngỏ lời cảm tạ. Các thần tướng liền bỏ đi.
Thiết Quài tiên sinh sợ Thông Thiên giáo chủ còn giở trò gì khác, không đợi các thần tướng kịp bay lên trời, đã cầm kiếm chém Long hổ hỗn đứt thành hai khúc. Chỉ thấy từ thân quái vật phun ra một thứ máu mầu xanh lục, mùi hôi thối bốc lên, xông tận mũi mọi người, chịu không nổi.
Phi kiếm tuy đã chém đứt đôi quái vật, lập được đại công, nhưng dính phải uế khí, không thể hạ xuống được, cứ bay quần quần trên đài. Vừa hay có Độc Giác đại sư vác đao nhẩy lên đài.
Phi kiếm vừa lóe sáng, đã chém cụt chiếc sừng độc nhất. Các vị tiên ở dưới đài liền cất tiếng cười vang :
- Chiếc sừng độc nhất đã bị chém cụt phân nửa, tên Độc Giác đại sư này đã biến thành Bán Giác đại sư ?
Độc Giác đại sư tức giận vô cùng. Thấy phi kiếm vẫn còn đang bay lượn, nó vội rút bảo đao ra chống đỡ. Đao, kiếm đụng nhau, chỉ nghe một tiếng "Choang !" lanh lảnh, và rồi hàng vạn đốm lửa bay ra bốn phía. Cũng may có Thiết Quài tiên sinh niệm chú, thu hồi phi kiếm. Thấy kiếm báu dính phải uế khí, tiên sinh tức giận, nói :
- Không biết ta phải mất bao nhiêu ngày tháng, mới tôi luyện lại kiếm này ?
Các tiên nói :
- Chẳng qua anh chỉ bị khó chịu đôi chút, đã giết chết được quái vật rồi, chứ chủ nhân của nó bị mất con thú cưỡi, còn buồn bực gấp trăm !
Câu nói chưa dứt, đã thấy Thông Thiên giáo chú, cùng Độc Giác đại sư đứng ở trên đài. Giáo chủ tỏ ý giận dữ lắm, nói :
- Bọn yêu đạo sao dám vô lễ, làm tổn hại con thú cưỡi của ta. Ta vốn nghĩ các ngươi là những người tu đạo, muốn giữ thể diện cho các ngươi, bảo tồn mạng sống cho các ngươi, mà các ngươi hung hăng như thế, chớ trách ta hạ độc thủ !
Nói rồi, liền vung hai tay, như thể ngư ông tung tấm lưới, miệng niệm thần chú, hét lên một tiếng : "Mau !". Tức thì, trời đất tối tăm, không một tia sáng. Đây là đạo pháp vô cùng ác độc của Thông Thiên giáo chủ, có tên là "Tru tiên võng" (tấm lưới diệt tiên). Tấm lưới này không có hình bóng, bất luận là thần tiên, yêu quái nào, đã vướng vào trong lưới, đừng hòng ra thoát. Sử Trung Quốc có kể chuyện Chu Văn vương vẽ vòng tròn trên mặt đất để làm trại giam, so với phép này cũng na ná nhau. Nhưng vạch đất làm nhà tù chỉ ngăn cấm phạm nhân không được bước ra khỏi vòng tròn đã vẽ, chứ không giết chết tội nhân. Chu tiên võng độc hại hơn nhiều, người nào vướng trong đó sẽ bị những mũi kim đâm vào da thịt, đau đớn vô cùng, và trong vòng mười hai canh giờ sẽ tan ra máu.
Thông Thiên giáo chủ lại sợ Lão Quân đích thân tới cứu đệ tử, mới sai các đại đệ tử ra khỏi vỏ trai, đứng trên mây canh chừng.
Chỉ cần đợi qua mười hai canh giờ, quần tiên biến ra máu tất cả, là kể như thắng lợi hoàn toàn. Sau đó có thể kéo nhau đi phá nát vỏ ốc đuổi hết đám người của La Viên, là xong xuôi mọi việc, Thông Thiên giáo chủ có thể thơ thới trở về ngọn núi Vân Phong Lĩnh của mình.
Nói tiếp chuyện quần tiên mắc họa, vướng trong tấm lưới Tru Tiên võng. Bọn Văn Thủy, Văn Mỹ, Phiếu Diểu, Hỏa Long, bốn vị chân nhân, không người nào có thể ngờ nổi Thông Thiên giáo chủ lại bày ra phép thuật này. Qua một thời gian, mọi người có cảm giác như chân tay bị trói. Lại một hồi nữa, cảm thấy đau nhói như kim đâm. Những người có đạo hạnh cao thâm không thấy cảm giác rõ rệt lắm, riêng bọn Tuệ Thông, Trương Quả, Phi Phi, Điên Điên, đau đớn chịu không nổi, rên la, kêu khóc, muốn chết mà chết không được. Các vị tiên càng lúc càng nóng ruột, Thiết Quài tiên sinh chợt nhớ ra lời Lão Quân đã nói trước đây, mới lớn tiếng khuyên các đạo hữu ráng nhịn đau một thời gian, đừng để địch nhân thấy vẻ khiếp nhược của mình. Tổ sư đã liệu định trước về kiếp nạn này, hứa rằng sẽ đích thân tới giải cứu. Thời hạn đó chẳng bao lâu sẽ tới, mọi người hãy cố gắng chờ đợi. Bọn Tuệ Thông nghe vậy, đều kêu khóc mà rằng :
- Sư thúc đạo hạnh cao thâm, có thể chịu đựng được, nhưng hiểu sao nổi nỗi đau đớn của chúng tôi ?
Câu nói đó khiến Thiết Quài vừa thẹn thùng vừa nóng ruột.
Đang !úc khó khăn đó, chợt nghe Văn Mỹ chân nhân lên tiếng :
- Thiết Quài sư huynh, trong hồ lô của anh có một khoảng trời đất riêng biệt, vô cùng rộng lớn, đủ cho mọi người tị nạn. Sao anh không đem ra thử nghiệm xem sao ? Bảo bối đó là vật báu kỳ lạ, do tổ sư đích thân chế ra. Thiết nghĩ yêu pháp tuy dữ dàn, cũng không tác động tới bên trong đó được.
Các tiên nghe vậy đều mừng rỡ, nói :
- Tốt lắm, tốt lắm ! Mau lấy ra dùng đi.
Thiết Quài tiên sinh vội mở nắp hồ lô. Các tiên thấy từ trong hồ lô bắn ra một luồng sáng nhỏ như sợi dây. Mọi người đều nhắm theo hướng đó mà tiến vào. Số người không đông, chỉ trong giây lát đã vào được tất cả. Càng vào càng thấy sáng sủa, mà đất đai cũng rộng thêm ra. Tiến qua một tầng nữa, thấy hiện ra ruộng vườn, nhà cửa, sông núi, không thiếu thứ gì. Mọi người trú trong một ngôi nhà tranh ba gian, cảm thấy vô cùng thoải mái. Chỉ không hiểu làm sao có thể từ trong hồ lô thoát hiểm ra ngoài. Mọi người tụ tập bàn luận, Thiết Quài tiên sinh mới nói chắc cho biết :
- Chỗ này chỉ tạm dung thân. Vừa ra khỏi hồ lô là vướng ngay vào lưới của Thông Thiên giáo chủ, làm sao có thể thoát hiểm được?
Mọi người nghe vậy đều thất vọng. Nhưng rất may là những người bị thương trước đây, một khi vào trong hồ lô không cảm thấy đau đớn vì kim chích nữa, mà những vết đâm cũng mất dấu luôn.
Mọi người khá yên tâm, kiên nhẫn chờ đợi Lão Quân tới cứu.
Thời gian trôi qua không biết bao lâu, chợt nghe dường như có tiếng nói từ bên ngoài lọt vào. Mọi người lắng tai nghe, nhận ra giọng nói của Thông Thiên giáo chủ :
- Đại pháp của ta từ trước đến nay chưa bao giờ tỏ ra không linh nghiệm, đã giết chết rất nhiều yêu quái. Ngay cả kim tiên của động vừa nhìn thấy đã sợ hãi. Tại sao bọn người này vẫn trơ trơ, qua một giờ rồi vẫn chưa thấy một giọt máu. Hơn nữa, bọn quái này biến đâu mất, chẳng thấy hình bóng ? Vậy là nghĩ lý gì ?
Một lát sau, lại có một người nói :
- Tổ sư nhìn coi, hồ lô này là pháp bảo của tên đạo sĩ què, nghe nói bên trong chứa dựng được tới vài ngàn người. Không lẽ bọn đạo sĩ giặc đều rút hết vào trong đó ẩn thân ?
Lại nghe Thông Thiên giáo chủ nói :
- Ta đã tính trước rồi. Mặc cho chúng ở trong đó, chúng cũng không có cách nào ra khỏi hồ lô. Ta sẽ dùng lửa tam muội đốt hồ lô đó, Phá hủy đi, coi chúng còn có biện pháp nào nữa không ?
Các tiên ở bên trong đều nghe rõ câu nói đó. Thiết Quài tiên sinh liền cười, bảo :
- Ông ta tính dùng lửa tam muội đốt hồ lô của tôi, thật ngu không thể tả được. Hồ lô này đâu phải trái bầu bình thường mà mấy bác nông phu thường trồng trọt, để có thể dùng sức lửa bổ ra ?
Tuệ Thông cười, hỏi :
- Đúng là dùng lửa đốt hồ lô chẳng đáng sợ, chỉ sợ khí trời ở trong này nóng lên, thì sao ?
Trương Quả nói :
- Sợ quái gì ? Khí hậu trong này vốn rất lạnh, ông ấy tống cho chút hơi nóng vào đây, thì càng dễ chịu, chứ sao ?
Các tiên đều biết Trương Quả rất sợ lạnh, nghe vậy đều cười ầm lên. Lại nghe bên ngoài có tiếng người nói :
- Các người lắng nghe coi. Bên trong có tiếng người đó. Đúng là bọn đạo sĩ giặc này đã rút hết vào bên trong hồ lô !


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 11.07.2008 23:06:48
Hồi Thứ 32

Đấu phép thuật, đánh phá hồ lô
Bạng tinh đổi ý kiến, qui hàng.


Các tiên ở trong hồ lô nghe bên ngoài bọn yêu nhân trò chuyện với nhau, bất giác tỏ ý thích thú, quên bẳng cả chuyện thoát hiểm. Không bao lâu, bỗng thấy không khí trong hồ lô thay đổi, nóng hẳn lên, đúng như lời Trương Quả đã nói, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá nóng, chịu không nổi. Văn Mỹ chân nhân mới nói :
- Trương Quả sợ lạnh, được khí nóng này điều hòa, quả là thoải mái. Nhưng e rằng nhiệt độ này không giảm xuống, chúng ta sẽ chết khô mất, làm sao đây ?
Tuệ Thông nói :
- Không sao đâu. Đệ tử cho rằng lửa tam muội của Thông Thiên giáo chủ chỉ tác động được tới mức này mà thôi. Sức nóng này e rằng chưa được vừa ý Trương sư huynh đâu. Nếu các vị sư bá chưa tin, hãy lắng nghe thử xem bọn yêu nhân nói gì.
Mọi người lắng nghe một hồi, lại nghe được tiếng Thông Thiên giáo chủ, mà lần này giọng nói tỏ ra giận dữ :
- Bọn yêu đạo này quả đã tỏ ra chịu đựng được nóng. Dường như lửa tam muội của ta không đốt chết được bọn chúng.
Các tiên nghe vậy đều thích thú, cười ầm lên. Lại nghe Thông Thiên giáo chủ nói với bọn yêu nhân :
- Các người lắng nghe coi, bọn đạo sĩ giặc ở trong ấy vẫn cất tiếng cười ha hả đó .
Một con yêu nói :
- Hồ lô này chất lượng không dầy, nên chúng ta ở ngoài này nghe được hết những lời chúng nói bên trong. Nếu không phải vậy tại sao chúng ta nghe được cả tiếng cười của chúng chứ ?
Một con yêu khác tỏ ý ngạc nhiên :
- Chuyện này thật kỳ lạ. Hồ lô mỏng tanh như thế, lửa tam muội của tổ sư lợi hại như vậy, mà sao vẫn chưa đốt chết được bọn chúng ? Hơn nữa, hồ lô vẫn hoàn hảo như cũ, không hề có vết nứt nào cả, quả là chuyện lạ !
Chợt có Bạch thị tiểu yêu lên tiếng. Con yêu này vốn là rắn, tu luyện thành tinh. Vì da rắn có mầu trắng, nó mới tự xưng là Bạch nương tử. Bạch nương tử nói với Thông Thiên giáo chủ :
- Bẩm tổ sư, hồ lô này là vật trong vườn nhà Lão Tử, lại qua tay ông ấy đoàn luyện, tất nhiên là không thể hủy hoại được. Hồ lô đã không hủy hoại, làm sao bọn đạo sĩ giặc chết được ? Theo ý đệ tử không gì bằng đem hồ lô này về núi, dán lá bùa của tổ sư lên trên, đem chôn ở dưới núi Vân Phong. Như thế, tất cả bọn đạo sĩ này bị trấn áp, ngàn vạn năm cũng không ngóc đầu lên được Dẫu chúng chưa chết cũng chẳng khác gì đã chết. Mặt khác, chúng ta kéo tới, đốt vỏ ốc cháy nát ra, là hoàn toàn thắng lợi, hà tất phải ở đây, dây dưa ngày tháng ? Ngày mai, Lão Quân có thể tới đây không tránh khỏi một trường huyết chiến, thật chẳng phải thượng sách. ý tổ sư thế nào?
Lời nói đó lọt vào tai chúng tiên trong hồ lô, Điên Điên nhẩy dựng lên, nói với Tuệ Thông và Trương Quả :
- Các vị sư huynh nghe rõ chưa ? Ả Bạch thị tiểu dâm phụ đã nghĩ ra kế sách độc hại. Vạn nhất mà Thông Thiên giáo chủ nghe lời nói, đem chúng ta trấn áp trên núi, chúng ta còn hy vọng gì có ngày xuất đầu lộ diện ?
Tuệ Thông cười Điên Điên quá lo xa, Thiết Quài tiên sinh vội mắng át đi :
- Không được nói nhăng. Ta đã biết chắc tổ sư thế nào cũng tới cứu chúng ta thoát hiểm. Chỉ trong một hai ngày nữa thôi, mọi người cố gắng chờ đợi.
Phi Phi, Điên Điên nghe vậy, rất yên tâm.
Lại nghe bên ngoài, Thông Thiên giáo chủ lên tiếng tán thưởng ý kiến của Bạch nương tử, dặn dò Bạch nương tử dẫn theo ba chục tên tiểu yêu tới đánh phá vỏ ốc, đuổi đám người của La Viên đi. Công việc xong xuôi, hãy tới núi Vân Phong gặp ta. Cẩn thận, đừng để hỏng việc. Lại sai bọn Không Không cư sĩ, Ngưu Ma tôn nhân lên mặt biển tuần tra, nếu thấy có tên đạo sĩ giặc nào đi qua, phải báo ngay cho ta biết. Lại sai lão giao đi đoạn hậu, đề phòng vợ chồng Long vương kéo quân đuổi theo, hãy đánh chặn chúng lại, nhưng không cầu lấy thắng, rồi cùng nhau rút về núi Vân Phong.
Phân phái xong, Thông Thiên giáo chủ sai Lăng Hư Tử, Thông Huyền Tử tới nâng hồ lô lên. Ai ngờ những lời phân phái, biện pháp thi hành, các vị tiên trong hồ lô nghe được hết. Họ tin tưởng tổ sư nhất định sẽ tới cứu, nên rất yên tâm, chẳng sợ hãi gì. Bỗng nhiên, mọi người cảm thấy phòng ốc dao động. Văn Thủy chân nhân cười, nói :
- Với tình hình này, chắc là hai con quái kia đã làm theo pháp chỉ của tổ sư chúng, đang ở bên ngoài di dời chỗ ở tạm của chúng ta đây !
Nhân đó, nói với bọn Văn Mỹ chân nhân, bốn người bảo nhau cùng sử dụng "trọng thân pháp" (l), khiến cho hồ lô vững vàng như núi Thái sơn. Bọn Lăng Hư Tử nhấc không nổi, mà xô đẩy cũng chẳng khác nào chuồn chuồn mà xô tảng đá.
Bỗng nhiên bên ngoài vỏ trai có tiếng sấm nổ ngang trời,
Thông Thiên giáo chủ biến sắc mặt, nói :
- Chưởng tâm lôi của Lão Quân đó chăng ? Chẳng lẽ lão đạo sĩ này lại đích thân tới gây sự với ta ?
Nói chưa dứt lời, lại nghe hai tiếng nổ liên tiếp nữa, Thông Thiên giáo chủ giậm chân, nói :
- Thôi rồi ! Lẽ ra ta không nên phái bọn chúng đi tuần tra. Hai tên Không Không, Ngưu Ma này pháp lực có hạn, làm sao chịu nổi lôi hỏa mạnh như thế, phen này ắt là mất mạng thôi ! Lại không rõ Bạch thị tới chỗ vỏ ốc gặp phải tình huống gì, không biết có thoát khỏi kiếp nạn này hay không ?
Nói rồi, lặng yên suy nghĩ, đoán được sự tình, gật đầu, nói :
- Còn tốt, còn tốt. Bạch thị đã lên được mặt nước, có một ngư ông tung lưới tóm được ả, nhưng chẳng bao lâu sẽ có người bỏ tiền ra mua, đem phóng sinh. Con vật đó có phúc lớn mạng lớn, bất tất phải quan tâm đến nó. Chỉ thương cho hai tên Không Không, Ngưu Ma phải đoạn mạng, tiếc lắm thay .
------------------------------------
(1) làm cho thân minh nặng lên, mà phép “xuống tấn" là một.

Nói chưa dứt lời, lại nghe tiếng đập mạnh vào vỏ trai, đập phá vài ba chỗ, và lão bạng nuốt nước mắt, nén bi thương, quì trước mặt giáo chủ, xin cứu mạng. Thông Thiên giáo chủ vừa thẹn vừa giận, lại đang lúc nóng ruột, thấy lão bạng quỵ lụy như thế, tức thì nổi hung tính, hét lên :
- Tên súc sinh vô tri này, tại sao cứ quấn lấy ta mà làm phiền? Số ngươi đáng chết, sao không cút đi chỗ khác mà chết phứt cho rồi? Tới đây khóc lóc, nài nỉ thì có ích gì chứ ?
Nói rồi, đưa chân đá phóc lão bạng, rồi cầm kiếm bước ra ngoài. Gặp ngay Lão Quân tổ sư cưỡi trâu xanh, tay cầm cây phất trần, chung quanh chỉ có bốn đồng tử để tóc trái đào, tịnh không có binh tướng nào đi theo. Vừa thấy Thông Thiên giáo chủ, Lão Quân cất tiếng cười ha hả, nói :
- Đạo huynh đã làm chủ một đạo giáo, sao không biết lẽ thuận nghịch là gì cả. Giác Tiên kia từ chỗ là dị loại mà tu thành chính quả hiện nay đã vâng lệnh thầy mình, mời một vị pháp sư có đạo đức về chủ trì đạo tràng, siêu độ cho các oan hồn, thì đó là một việc làm rất tốt. Lão giao từng là con bà ta, đã bức hại mẹ đẻ, làm nhiều chuyện ngỗ nghịch. Việc xảy ra đã hơn ngàn năm, nó còn tới đây tìm thù, đưa ra những lý do ai mà nghe lọt tai ? Ông đã là giáo chủ, là sư tổ của bọn chúng, đối với những việc phi lễ như thế, phải sớm dạy dỗ, ngăn cản bọn chúng mới là hợp lý. Tại sao ông lại nghe lời nói bậy của lão giao, huy động giáo chúng tới đây gây chuyện, đưa đến kết quả là đồ tử, đồ tôn mắc nạn, nhiều đứa phải chết oan. Đó chẳng phải là lỗi của ông hay sao ? Nay tôi đã tới đây nghĩ thương ông có thân phận giáo chủ, công hành vạn năm, không nỡ đối xử xấu với ông. Ông coi đó, tôi một thân cưỡi trâu tới dây, không dẫn theo binh tướng, đủ tỏ thành ý của tôi. Hãy nghe lời tôi mau trở về núi mà ăn năn tội lỗi đi. Ông hãy tự lượng sức mình, đạo hạnh và pháp thuật như ông mà còn chưa đối phó nổi với các đệ tử của tôi, làm sao có thể đánh lại tôi ?
Thông Thiên giáo chủ bị Lão Quân trách mắng, đỏ bừng hai má, nổi giận đùng đùng, hét lên :
- Lý Nhĩ, ngươi đừng khoe tài giỏi. Bọn môn hạ của ngươi thường khinh miệt giáo đồ của ta, chẳng coi ai ra gì, khiến thầy trò ta chịu không nổi, mới nhân cơ hội này kéo tới để phân tranh cao thấp một phen. Hiện nay, tất cả những cao đồ của ngươi đều nằm trong tấm lưới của ta, chẳng bao lâu sẽ biến thành máu. Ngươi đã không dẫn theo binh tướng, hai ta sẽ đấu tay đôi với nhau, ai còn nhờ người khác giúp đỡ, chẳng đáng mặt giáo chủ.
Lão Quân cười, nói :
- Ông cho rằng đồ đệ của tôi đều nằm trong tấm lưới của ông hay sao ? Đó là nhắm mắt nói càn đấy ! Thử quay nhìn phía sau lưng ông xem sao.
Thông Thiên giáo chủ nghe vậy, tự động xoay mình lại, nhìn ra xa. Quả nhiên, tất cả những người vừa rồi bị ông gom vào trong lưới đều vô sự, đang vui vẻ đứng ở một bên, để quan sát trận đánh.
Cũng không hiểu Lão Quân đã dùng pháp lực gì đã đưa được những người đó ra khỏi chỗ nguy hiểm. Thông Thiên giáo chủ vừa kinh ngạc vừa tức giận, xoay mình lại, đối diện với Lão Quân, hét lên:
- Lý Nhĩ, ngươi đừng khinh người thái quá. Hãy coi ta dùng kiếm quang, lấy đầu người đây !
Nói rồi, há miệng thổi "Phù !" một hơi, lập tức có trăm, ngàn tia sáng mầu xanh bay ra, biến ngay ra trăm, ngàn lưỡi kiếm sắc bén, bay vòng vòng, vây quanh Lão Tử. Lão Tử cất tiếng cười hà hà, vung tay lên, phẩy cây phất trần, tức thì bao nhiêu kiếm quang đều biến thành cát bụi, bay lả tả khắp nơi. Thông Thiên giáo chủ thấy bất lợi, vội há miệng thu hồi kiếm quang. Ngay lúc đó, đã nghe Lão Quân hét lên :
- Thông Thiên giáo chủ hãy coi thử đao quang của ta thế nào ?
Câu nói vừa dứt, muôn đạo kim quang đột nhiên bay ra, biến thành một vạn cây đao ngắn, vây lấy Thông Thiên giáo chủ.
Thông Thiên giáo chủ vội lắc mình một cái, biến thành con chim cắt bay tuốt lên không trung. Lại từ trên đó, nhắm đầu Lão Quân lao xuống mổ. Trên đỉnh đầu Lão Quân đột nhiên xuất hiện một đóa hoa sen năm mầu, bảo vệ thân thể, khiến chim cắt không thể hạ xuống. Các cao đồ của Lão Quân thấy vậy, tức giận vô cùng.
Văn Thủy chân nhân hét lên :
- Thông Thiên giáo chủ thật không biết thẹn là gì. Chỉ nghe cầm thú tu thành hình người, chưa hề nghe chuyện giáo chủ học làm chim chóc, lén lút hại người. Hành vi đó của ngươi, tổ sư ta không thèm chấp đâu. Hãy mở mắt mà coi pháp bảo của bần đạo đây !
Thông Thiên giáo chủ biến thành chim, cứ bay vòng vòng trên không trung, khó nỗi xoay trở. Văn Thủy chân nhân vừa nói, vừa rút trong tay áo ra một cây nỏ thần, nhắm vào mắt chim mà bắn.
Thông Thiên giáo chủ trong lúc bất ngờ, bị một viên đạn đen bắn trúng mắt, máu rây đầy mắt, đau đớn chịu không nổi. Cũng may ông ta tu luyện thành tấm thân muôn kiếp không hủy hoại, nên chỉ bị thương một mắt thôi.
Thông Thiên giáo chủ chịu một phen nhục nhã, trong lòng tức giận lắm, từ phương Nam bay về hướng Đông Bắc, nhưng vẫn nghĩ chuyện chiêu tập các đồ đệ, trở lại chỗ vỏ trai để phục thù. Nào ngờ bạng tinh khi trước đã bị các sư huynh khinh rẻ , sau lại bị giáo chủ trách mắng, ôm hận trong lòng, bắt trói bọn yêu ma còn lại trong vỏ trai đem nộp cho Lão Quân, xin đầu hàng. Riêng có lão giao sớm nhận ra nguy cơ, bỏ trốn từ trước. Trong lúc cưỡi mây bay đi, đã gặp được Thông Thiên giáo chủ, mới kêu khóc, tố cáo bạng tinh phản phúc. Thông Thiên giáo chủ ngước nhìn trời, than dài một tiếng, biết không thể tái chiến, mới dẫn theo lão giao, trở về núi Vân Phong.
Chúng tôi tạm ngừng câu chuyện ở đây, để kể tiếp về việc Hà tiên cô đắc đạo, Chung Li xuất thế, Mạnh Khương nữ hóa xác thành cá bạc.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 11.07.2008 23:25:32
HồI THứ 33

Ông nhà giầu bị yêu ngược đãi
Bà thổ địa giải thích việc quỉ xây tường.


Đây nói về Hà tiên cô, từ khi chia tay cùng Lý Huyền, một thân cô đơn ngụ trong thạch thất trên núi Hành sơn, dầy công tu luyện đã hơn một trăm năm. Huyền Nữ biết cô chuyên tâm tu hành, khắc khổ tập luyện, đã đích thân tìm đến, truyền thụ đại đạo cho cô. Nhờ sự giáo huấn đó, tiên cô đã tiến bộ rất nhiều. Lúc ra đi, Huyền Nữ lại truyền cho cô phép vời thần, khiến tướng, mỗi khi gặp nguy hiểm, gian nan, có thể gọi họ tới bảo vệ cho mình.
Trong núi lại có một bà thổ địa, là một nữ thần đã nhiều tuổi, nhân thấy tiên cô dung nhan xinh đẹp, tu trì cần mẫn, lại là chỗ đàn bà con gái với nhau, nên tỏ ra rất thân mật. Bà thường đến thạch thất thăm hỏi tiên cô, cùng nhau bàn bạc những chuyện thiên tào, địa phủ, nhắc tới những lẽ huyền diệu về việc tu đạo.
Mỗi khi gặp chỗ bà thổ địa không hiểu, tiên cô đều lựa lời giải thích cặn kẽ. Thổ địa thái thái rất khâm phục tiên cô. Vì là con gái, tiên nữ dẫu ở chỗ núi sâu cũng không thu nhận đệ tử. Trước kia, ở gần sơn động có không ít nam nữ yêu tinh tới quấy nhiễu, tiên cô phải dùng phép thuật đuổi chúng đi. Trong đám có vài đứa khâm phục đạo hạnh của tiên cô, tình nguyện ở lại phục dịch cô.
Tiên cô cũng dịu dàng an ủi, khuyên nhủ chúng. Từ khi quen biết với thổ địa thái thái, tiên cô lại có thêm hai kẻ hầu hạ, là hai con quỉ tốt. Mỗi khi tiên cô có việc, thổ địa đều khiến hai quỉ tốt đó tới để tiên cô sai bảo. Vì thế, tiên cô rất cảm kích hậu ý của bà thổ địa.
Hôm đó, tiên cô vừa xong khóa tụng buổi tối, ra ngoài động ngắm trăng. Cô đứng một mình trên tảng đá lớn trên ngọn núi, ngửng đầu nhìn quanh bốn phía, tinh thần thanh thản. Bỗng nghe từ sau núi một trận gió thổi tới, lập tức trời đất tối tăm, mặt trăng mất ánh sáng, tiên cô kinh hãi, nói :
- Dựa theo trận gió này, đây hẳn là một con mãnh hổ. Nó từ phương xa mới tới đây chăng ? Ta chưa từng nghe ai nói tới nó, và ngay cả bà thổ địa cũng chưa hề đề cập tới.
Cô rút phăng thanh kiếm đeo bên mình, cầm lăm lăm trong tay, đưa mắt nhìn ra xa, về phía sau núi, nghe ngóng một hồi, nhưng rồi lại chẳng thấy động tĩnh gì. Tiên cô rất nghi ngại trong lòng. Cô là người rất tinh tế, hễ đã nghi ngờ điều gì, không chịu bỏ qua bao giờ. Vả lại, cô vẫn nuôi chí cứu người, rất sợ mãnh thú có thể đột nhập giết hại dân cư dưới núi. Ta đã bỏ công tu tiên học đạo, sao có thể thấy nguy không cứu ? Vì thế, cô lò dò từng bước, xuống chỗ vách núi, nghiên cứu xem tiếng động từ đâu đưa tới. Đi được chừng nửa dặm đường, lại nghe tiếng ồ ồ phát ra ngay phía sau. Tiên cô ngừng chân, nghe kỹ, lại không nghe được tiếng động kỳ lạ đó nữa, mà chỉ nghe phía sau có tiếng người cất lên :
- Đại cô ở đây làm gì vậy ? Có phải vì việc của nghiệt súc đó hay không ?
Tiên cô kinh hãi, quay đầu nhìn, nhận ra đó là người bạn tốt thổ địa bà bà, chứ chẳng phải ai khác. Tiên cô vội cười, hỏi :
- Bà thổ địa tốt bụng, bà trông coi công việc gì vậy ? Trong núi có quái vật này, bà không nghĩ cách mau chóng trừ khử nó đi, cứ để nó ở đây để hại người hay sao ?
- Thì ra đại cô chưa biết tí gì về sự việc này. Cô có biết nó là loài thú nào không ?  Có phải đó là thứ hổ báo, sài lang bình thường chăng ? Nếu nói về bản thân đại cô, tuy có hoằng nguyện rất lớn, nhưng mới học được có ba phần tiên pháp, muốn nghĩ chuyện diệt trừ quái thú này, phải học thêm vài trăm năm nữa mới làm nổi !
Bà thổ địa nói rồi, hướng về phía Hà tiên cô hành lễ, tươi cười nói:
- Tôi chỉ nói chơi cho vui, xin đại cô đừng giận.
Hà tiên cô nói :
- Chúng ta đều là người vượt ra ngoài cõi đời, và đều ôm lòng giúp đời, cứu người. Ai có bản lãnh thì trổ hết tài năng để diệt trừ yêu quái không đủ bản lãnh chăng nữa thì cũng bàn bạc cùng nhau mà tìm cách hành động. Có đâu lại ngồi yên mà nhìn nghiệt súc hại người ? Không nói nhiều nữa, tôi hãy xin thỉnh giáo bà thổ địa, cho biết nghiệt súc đó là loài gì, có bản lãnh ra sao ? Theo lời bà nói, dường như nó không phải loài súc vật, mà là một yêu tinh pháp lực cao cường, có đúng vậy không ? Sao trước nay không hề nghe bà nói tới chuyện này ?
Thổ địa thấy tiên cô nhiệt tâm như thế, tỏ lòng kính phục, mới nắm tay cô dẫn đi, cùng về miếu thổ địa nằm trên đường đèo. Quỉ tốt tới dâng trà, hai người cùng ngồi xuống đất, thổ địa mới thở dài, nói:
- Tiên cô không hiểu được đâu. Núi này có chu vi hơn ngàn dặm, vốn chỉ có những dã thú không hại lắm, như chồn cáo, chó sói thôi. Ngay cả hổ báo cũng ít khi thấy, nói gì tới yêu tinh ? Ai ngờ ba hôm trước bỗng xuất hiện một thần ngưu, sắc xanh, sừng bóng, rất giỏi biến hóa. Nó phát ra tiếng kêu như cọp gầm, làm chấn động núi non, chim chóc nghe thấy cũng vội bay xa. Tối hôm kia nó tới núi này, ngày hôm qua không thấy trở về núi. Trưa hôm nay, có người nhà ông nhà giầu Ngô đại hộ ở dưới chân núi, trước đây thường tới miếu thắp hương, xin xăm, cho biết bà vợ ông nhà giầu bỗng nhiên bị yêu vật mê hoặc, ông nhà giầu bị một ngọn gió quái cuốn đi, hiện không rõ sống chết ra sao. Tôi phái quỉ tốt đi điều tra, trở về báo cáo cho tôi biết. Thì ra tối hôm đó, ông nhà giầu cùng vợ và các thị thiếp mở tiệc gia đình, bỗng một trận gió quái nổi lên, đèn đóm tắt ngấm, các phụ nữ nhốn nháo, kéo nhau vào nhà sau chạy trốn. Ngô đại hộ là đàn ông, khá can đảm, vội kêu gia nhân thắp đèn lên, soát lại đồ đạc. Ai ngờ khi gia nhân thắp đèn lên, bỗng thấy giữa nhà có tới hai ông Ngô đại hộ, mặt mũi giống hệt nhau, quần áo cũng không khác nhau. Hai ông ở giữa nhà la lối, một ông nói ông kia là yêu nhân giả mạo, hò hét gia nhân, bảo họ mau đánh đuổi tên kia đi, người kia cũng nói tên nọ là yêu nhân ảo hóa, tới đây quấy nhiễu, gia nhân mau vác gậy đánh hắn một trận. Đám gia nhân nam nữ, trước tình hình đó, cứ ngớ mặt ra, không thốt ra lời, chỉ trố mắt nhìn nhau, không người nào phân biệt nổi đâu là chủ nhân đích thực, đâu là yêu tinh ảo hóa thành chủ nhân. Cãi nhau hồi lâu, hai người đều kêu mệt, đòi đi ngủ. Đến đây nổi lên một cuộc tranh cãi. Ông nhà giầu có nhiều thị thiếp và một bà vợ cả, ai mà chịu bồi tiếp yêu nhân trong giấc ngủ ? Mọi người bàn luận, đi đến quyết định : không cần biết ai là thật ai là giả, tạm thời các bà, các cô không bồi tiếp, mới có thể bảo vệ trinh tiết. Nào ngờ quyết định vừa đưa ra, một trận gió quái lạ nổi lên, đèn đóm lại tắt hết. Trong bóng tối, có tiếng yêu nhân nói rõ to : "Các vị nương tử chẳng cần phải sợ, ta không quen ngủ chung với đàn bà. Hôm nay ta ra đi, nhường cho ông chồng các vị ở lại, hú hí với các vị. Ngày mai, ta sẽ trở lại tìm hắn". Mọi người nghe vậy đều cho rằng yêu tinh là người có đạo pháp, tất nhiên không tham sắc, nên đã bỏ đi, người còn lại trong nhà nhất định là Ngô đại hộ đích thực. Vì thế, đợi cho gió lặng, người nhà lại thắp đèn lên. Quả nhiên chỉ còn lại một Ngô đại hộ, cúi đầu ủ rũ, có vẻ mệt mỏi vô cùng, đang ngồi ở giữa nhà. Mọi người xúm lại hỏi ông ta cảm thấy ra sao, ông ta chỉ lắc đầu, nói : "Mệt lắm, mệt lắm !", chỉ muốn đi ngủ, không thiết bàn tới chuyện gì khác. Mọi người thấy ông ta biến đổi thần thái, một số người có tính hay nghi ngờ, nghĩ rằng ông nhà giầu này là giả, mà ông nhà giầu thật không biết đã bị yêu tinh bắt đi đâu, hiện giờ sống chết thế nào. Nhưng đa số đều tin chắc người này là Ngô đại hộ đích thực, thần sắc biến đổi chỉ vì mệt nhọc đấy thôi. Kết quả là người hoài nghi không dám nói rõ sự nghi ngờ của mình, người không nghi ngờ tất nhiên chẳng nói gì. Mọi người mới đỡ ông ấy về phòng bà vợ để ông đi nghỉ. Bà vợ ông nhà giầu vốn là người trung hậu, dìu chồng lên giường, đi ngủ. Nửa đêm, có tiếng la oai oái, nói ông nhà giầu này hung dâm lạ thường. Những chuyện nhơ nhớp như thế, tiểu thần sao dám đem ra nói trước mặt đại cô ? Chỉ biết rằng trong số các thê thiếp đông đảo của ông nhà giầu, phần nửa ta thán nỗi khổ vì ông ấy. Họ nghĩ rằng chồng mình bình thời quyết không như thế, mới đem chuyện nói lén với nhau. Tất cả đều cho rằng người này nhất định là yêu nhân. Nhưng việc khẩn thiết lúc này là phải tìm hiểu xem ông nhà giầu đích thực đã bị yêu nhân dùng tà thuật bắt đem đi đâu, còn sống hay đã chết. Vì thế, vào lúc buổi trưa, cả nhà họp nhau lại bàn bạc, khóc lóc với nhau. Cuối cùng, họ quyết định cử người tới miếu, xin tiểu thần đứng ra giải quyết việc này, điều tra xem chủ nhân của họ hiện ở đâu, yêu vật có lai lịch ra sao, có cách nào khu trừ được nó hay không ? Tiểu thần rất lúng túng, bình thời chỉ biết tuân thủ luật pháp, làm những việc trong phạm vi chức vụ của mình, đã từng học qua phép hàng yêu phục quái nào đâu ? Nhận lời thỉnh cầu của họ, nếu trả lời rằng mình không quản lý chuyện này, há chẳng khiến họ đau lòng lắm sao ? Vì thế, tiểu thần một mặt bày tỏ ý mình qua một lá xăm thông thường, một mặt phái quỉ tốt đi điều tra. Lúc quỉ tốt trở về, đã đi qua một khu nghĩa địa, thấy một người mê man, ngồi tựa lưng vào một gốc cây. Nơi đó vốn có nhiều ma chồn, âm khí nặng nề, thường ngày ít người qua lại. Quỉ tốt của tôi vốn có linh cơ, nghĩ rằng : "Nơi này đâu có phải chỗ cho người ta tới nghỉ ngơi ? Người này lại ăn mặc sang trọng, không giống với người trong làng chút nào, chắc là ông Ngô đại hộ đã bị yêu nhân bắt đem đi, bỏ ở chỗ này?". Vì thế, nó mới đi tìm một dã quỉ, hỏi thăm tin tức. Theo lời dã quỉ nói thì người này tới đây vào lúc canh hai đêm qua, tức là sau khi trận gió quái nổi lên. ông ta tới được nửa ngày rồi. Nhìn kỹ, thấy dường như ông ta còn sống, nhưng không nói được câu nào, cũng không thấy cử động, đi lại. Theo cách ăn mặc, có thể nhận định ông ta là một quí nhân, có thân phận rất lớn, chứ không phải người trong đám bình dân. Chắc chắn đó là Ngô đại hộ, không nghi ngờ gì nữa. Tin chắc là ông ấy rồi, tiểu thần tính đêm nay sẽ tới báo mộng cho thê thiếp nhà ông ấy biết, bỗng nhiên nhận được tờ dụ trát của thành hoàng bản quận, nói rằng núi này hiện có thần ngưu từ phương Tây tới. Tra xét thì biết đó là con vật cưỡi của một vị đại tiên, chẳng bao lâu ắt có người tiên tới thu phục. Con vật ấy lục căn chưa tĩnh, dã tính chưa thuần, một khi xuống chốn dương gian, ắt làm hại dân, bọn chúng tôi gồm hơn trăm thổ địa đều phải lưu ý kỹ mới được. Hễ thấy thần ngưu tới chỗ nào, phải báo ngay cho người dân ở địa phương quản lý, ai nấy phải cẩn thận đề phòng, mới tránh khỏi bị yêu vật lăng nhục, có khi còn mất mạng nữa. Tôi nhận được lời dụ đó, càng thêm hoảng hốt, nhưng vẫn thắc mắc, thành hoàng linh thiêng là thế, biết được thần ngưu có thể quấy nhiễu dân, tại sao lại không biết chủ nhân của nó là vị tiên nào, ở động phủ nào ? Chẳng lẽ thành hoàng lão nhân gia lại có điều kiêng kị, không tiện nói rõ ?
Nghe thổ thần nói tới đó, tiên cô mới lên tiếng :
- Đại khái thành hoàng chỉ là một vị thần được sắc phong, tương tự như bà thổ địa thôi. Ông ấy có trách nhiệm giữ đất an dân, nhưng chẳng có tài hàng yêu phục quái. Vả lại thần tiên trên trời rất nhiều, nhất thời khó mà tra ra sự thật.
- Đúng vậy, đúng vậy. Nhận được pháp chỉ của thành hoàng, tôi lập tức rời khỏi miếu, tới hội họp cùng các thổ địa núi này, cùng nhau bàn bạc về cách thông tri cho dân chúng biết. Sau khi tan họp, tôi đích thân tới nhà Ngô đại hộ báo mộng. Ra khỏi nhà họ Ngô, tôi lại tới chỗ nghĩa địa thăm dò, quả thấy Ngô đại hộ vẫn mê man bất tỉnh, ngồi tựa lưng vào gốc cây, có vẻ như đang ngủ say, tôi sợ dã thú hại tính mạng ông ấy, mới bảo tên quỉ tốt mà tôi dẫn theo phải ở lại bên cạnh, bảo vệ ông ấy. Cũng may ông ấy đang hôn mê rất sâu, chuyện đói lạnh không phải lo tới. Sáng mai, nhà họ Ngô đã được báo mộng, tất nhiên sẽ tới săn sóc ông ấy, đưa về nhà. Lúc đó, trách nhiệm của tôi mới chấm dứt, lương tâm tôi mới yên ổn.
- Quỷ tốt không sợ mãnh thú, mãnh thú cũng không trông thấy quỉ tốt, u minh hai cõi cách biệt nhau, làm sao quỉ tốt có thể bảo vệ người ?
- Việc đó tôi cũng đã nghĩ tới rồi. Sở dĩ tôi phái quỉ tốt đi bảo vệ ông nhà giầu, là vì bản thân nó là quỉ vật, cùng với số đông các ma chồn, ma thỏ, dã quỉ, oan quỉ ở chỗ nghĩa trang đều là đồng đạo nếu gặp phải những chuyện ngoài dự tính, nhắm chừng không chế ngự được loài thú, chúng sẽ liên kết với nhau, sữ dụng những kế sách quỉ, pháp thuật quỉ, đồng tâm hiệp lực, cùng tìm cách che mắt con thú, khiến nó hoảng hốt tinh thần, chạy tới chạy lui vẫn không thể tới gần bên ông nhà giầu, không vượt qua được phạm vi quỉ giới. Điều đó gọi là "quỉ xây tường” đấy.
- Thì ra đó là chuyện "quỉ xây tường" người ta thường nói tới. Trước đây tôi không hiểu quỉ xây nên bức tường bằng cách nào, nay nghe bà nói, tôi đã rõ. Như vậy chúng ta có thể yên tâm rằng Ngô đại hộ đã được bảo vệ .
- Đúng vậy. Nhưng tôi vẫn có điều thắc mắc : theo ông thành hoàng nói, chẳng bao lâu sẽ có người tiên tới thu phục yêu quái, nhưng đã hai ngày nay vẫn chưa thấy tiên giáng lâm. Vả lại hiện nay người nhà ông Ngô đại hộ bị con quái đó quậy phá ngất ngư, nếu hôm nay người tiên không đến, ngày mai ông nhà giầu trở về nhà, tính mạng ông ấy lại nằm trong tay yêu vật. Vì thế, tôi chẳng yên tâm chút nào, đang định tới động phủ thăm đại cô, cùng nhau bàn bạc một biện pháp để giải quyết việc này, may sao cô lại tới đây. Cô đã lập tâm cứu người hoạn nạn, hãy giúp tôi một tay, giải quyết việc này.
- Bà nói thần ngưu này rất lợi hại, nhưng theo tôi nghĩ, chưa chắc nó đã ghê gớm đến vậy đâu. Nhân lúc Ngô đại hộ chưa về nhà, tôi với bà hãy cùng tới đó xem thử. Nếu gặp dịp thuận tiện, có thể trừ khử con quái, ta ra tay thu phục nó cho rồi. Vạn nhất nó có bản lãnh rất cao, chúng ta đánh không lại nó chăng nữa, chẳng lẽ thấy khó mà chùng bước, để mặc nó ra tay hại người ? Không biết ý tôn thần thế nào ?
Thổ địa hân hoan nói :
- xin làm theo lời cô.
- Cứu người như cứu hỏa, chúng ta mau đi thôi. Đừng ở đây mà bàn bạc cho mất thời giờ.
Thổ địa nghe lời, đi theo tiên cô, cùng cưỡi mây bay đi, chẳng bao lâu đã tới nhà Ngô đại hộ. Bà thổ địa chỉ tay, nói với tiên cô :
- Bên dưới kia, chỗ khói đen giăng giăng, lại có mùi hôi bốc lên, chính là nhà họ Ngô, con trâu già đang ở đó quấy nhiễu đấy !
Tiên cô nhòm xuống, quả nhiên thấy một lớp khói đen như một tấm lưới che trên nóc nhà, mùi hôi từng chập, từng chập bốc lên, xông vào mũi, muốn ói, vội lấy ra một bình thuốc đeo bên mình, dốc ngược chiếc bình để cùng bà thổ địa hít vào mũi, mới hết mùi hôi. Tiên cô nói với bà thổ địa :
- Tôn thần hãy ở đây quan sát, để tôi xuống đó xem thử.
Thổ địa dặn dò : "Cẩn thận nhé !", tiên cô đáp ứng : "Biết rồi!", và nhẩy một cái, rơi vào khu nhà họ Ngô. Tức thì nghe trong nhà có tiếng sênh ca, nhạc tấu, cùng tiếng trai gái nô giỡn nhau rất chớt nhã, tất cả đều lọt vào tai tiên cô. Cô biết con trâu già đang ở đây hành lạc, trong lòng giận lắm. Cô thu hết can đảm, vác kiếm báu xông vào bên trong, gặp ngay tên Ngô đại hộ giả đang uống rượu, nô giỡn, đưa cả hai tay quàng vai hai cô gái khỏa thân, ngoài ra. còn có hơn mười cô gái phải đứng hầu rượu. Tiên cô trông thấy, lửa giận bốc lên, tính nhân lúc con yêu không phòng bị, chém nó một nhát, giết chết cho rồi. Không ngờ tên Ngô đại hộ giả đã nhìn thấy cô, cất tiếng cười ha hả, xô hai cô gái qua một bên, xồng xộc tiến thẳng tới chỗ tiên cô, hô to :
- Người đẹp từ đâu lại đây ? Mau bồi tiếp ta vài chén rượu đi nào!
Tiên cô đỏ bừng hai má, phóng kiếm về phía yêu nhân, rồi không để ý coi nó sống hay chết, vội vã quay lưng bỏ chạy. Không ngờ con quái này quả thật lợi hại, né tránh được kiếm quang, há miệng phun ra một làn khói xanh. Tiên cô vừa tung mình bay lên không trung, đụng ngay phải làm khói xanh, vừa cảm nhận mùi tanh tưởi đã mê man, ngã ngay xuống đất.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 12.07.2008 01:08:53
Hồi Thứ 34

Nhà đại hộ, thần ngưu quậy phá
Phóng thiết sa, tiên pháp linh nghiệm.


Hà tiên cô bị yêu nhân phun một luồng khói đen, liền ngất đi, từ trên mây rơi xuống đất, nằm yên như chết rồi. Cũng may, nhờ cô tu luyện lâu năm, chỉ trong chốc lát các mạch máu trong người vận hành, thần trí trở lại, cô mở mắt ra nhìn. Cô thấy yêu nhân đang đứng bên cạnh, đốc suất đám con gái xúm vào khiêng cô đi mang vào nhà sau. Cô để ý thấy những cô gái đang khiêng cô người nào cũng có ngấn nước mắt. Họ nói nhỏ với nhau những câu oán trách. Những lời họ nói với nhau rất khẽ, không nghe rõ lắm, nhưng cũng biết chắc đó là lời oán giận yêu nhân, rủa hắn mau chết sớm cho rồi. Tiên cô bất giác động lòng thương, nghĩ thầm : "Những cô gái này đều có liêm sỉ, quả rất đáng thương".
Thấy các cô gái khiêng mình tuốt vào nhà sau, mà yêu nhân cũng không vào theo, tiên cô yên tâm phần nào, vội mỉm cười, nói với mấy cô kia :
- Các vị tỉ muội đừng sợ, cũng bất tất phải lo lắng. Tôi tới đây là để cứu mấy cô, không dè mắc phải tay độc thủ. Chủ nhân của các cô hiện bị yêu nhân đem đi, bỏ lại ở một chỗ nghĩa địa, cách đây ba trăm dặm, có bà thổ địa phái quỉ tốt canh giữ, không sao đâu.
Mọi người nghe nói đều kinh hãi, có người can đảm lên tiếng hỏi cô là ai, vì sao tới cứu bọn tôi, tại sao biết gia chủ đang ở chỗ nghĩa địa, và tại sao cô là người còn sống mà có thể nói chuyện với bà thổ địa ? Tiên cô nói sơ qua cho họ biết lai lịch của mình. Bỗng nghe bên ngoài có tiếng yêu nhân hò hét, từ xa tiến lại, mọi người vội khiêng cô vào một phòng nhỏ sạch sẽ, thẩy cô lên giường. Vì sợ yêu nhân tiến vào, họ xô cửa bỏ đi, để tiên cô ở lại một mình.
Tiên cô thấy trong phòng không còn ai, cũng nhẩy xuống giường.
Thấy bên ngoài phòng có một khu đất trống, cô chạy ra đó, nhẩy lên mây, đưa mắt tìm kiếm bà thổ địa, nhưng chẳng thấy đâu. Cô vội vã trở về miếu thổ địa, hạ thấp đám mây, nhìn xuống, thấy thổ địa bà bà đang cùng một quỉ tốt khóc lóc, kể lể. Bà đang ngồi ở bậc thềm trước miếu thần, kể cho quỉ tốt nghe việc gặp nạn vừa qua, khiến tiên cô rất cảm động. Cô đứng trên mây, hô to :
- Thổ địa thái thái, bà không cần phải lo cho tôi. Người bạn tốt của bà là Hà đại cô nương đã về đây này !
Thổ địa thấy tiên cô yêu kiều, lanh lẹ, đứng ngay trước mắt, bất giác đổi buồn làm vui, nói :
- Cái cô này, để người ta lo muốn chết, còn ở đó mà cười cợt, trêu ghẹo người ta.
Tiên cô tươi cười, cảm tạ lòng tốt của bà đã lo lắng cho cô, nhân đó thuật lại tình hình vừa qua cho bà nghe. Bà thổ địa lè lưỡi nói :
- Sém chút nữa cô đã mắc họa rồi. Con quái vật này không phải thứ yêu tinh tầm thường, mà có pháp lực hẳn hoi, ta không nên khinh địch mới phải. Ông thành hoàng đã có chỉ dụ rõ ràng, tự nhiên sẽ có người tiên tới cứu cả nhà ông nhà giầu, nhưng cô đã quá nóng vội, khăng khăng đòi đi thử tài một phen, nên có thể thấy trước là sẽ gặp nguy hiểm.
- Người tu đạo lập chí giúp đời, sá gì nguy hiểm ? Hiện nay, người mà ông thành hoàng nhắc đến, chẳng biết bao giờ mới tới, trước mắt thấy tính mạng ông Ngô đại hộ đang bị đe dọa. Chủ ý của tôi là phải tìm cách đưa ông ấy tới một nơi bí mật, an toàn, khiến yêu nhân không thể tìm ra. Nếu không, con yêu đó biết tôi bỏ trốn, nhất định sẽ nghi tôi đi cứu ông ấy, há chẳng phải tính mạng ông ấy bị hại vì tay tôi hay sao ?
- Không hẳn như vậy đâu. Một khi cô đã bỏ đi, con yêu đó chỉ nghĩ tới chuyện tìm lạc thú, rảnh rỗi đâu mà đi kiếm Ngô đại hộ ?
- Được vậy thì tốt, nhưng tôi nghĩ là ta nên cẩn thận một chút, mới không đến nỗi cứu người đổi thành hại người, khiến tội lỗi của tôi thêm nặng. Bà có nhiệm vụ giữ đất, không thể rời xa đây, tôi là người chẳng có trách nhiệm nào, sẽ tức khắc tới nghĩa trang xem thử. Không cần biết con yêu có đó hay không, tôi cũng phải di chuyển ông nhà giầu tới một nơi an toàn hơn.
Bà thổ địa không kịp ngăn cản, tiên cô đã đùng đùng bỏ đi.
Lên tới lưng chừng trời, tiên cô thúc đẩy đám mây bay nhanh về phía trước, một lát sau đã tới chỗ nghĩa trang. Quỉ tốt được bà thổ địa giao nhiệm vụ canh gác ông nhà giầu vội ra nghênh đón, bẩm báo với cô :
- Vừa rồi, yêu nhân đã tới đây, đem Ngô đại hộ đi mất rồi. Nếu đại cô tới sớm một chút, đã được gặp hắn.
Tiên cô giậm chân, than thở, hỏi yêu nhân đi về hướng nào.
Quỉ tốt cho biết đi về hướng Đông Bắc, tiên cô mới khuyên quỉ tốt trở về miếu, và đích thân cưỡi mây theo hướng Đông Bắc bay đi.
Vượt qua hai ngọn núi, tiên cô đã thấy đằng trước có một đám khói đen lờ mờ, nhờ sức gió thổi tiến về phía trước. Tiên cô đoán chắc đó là yêu nhân. Nhận thấy nó đi chầm chậm, tiên cô tính từ phía sau vung kiếm chém chết nó. Nhưng cô lại chuyển nghĩ : “Chắc chắn yêu nhân đang kẹp ông nhà giầu vào nách mà đi, nên mới đi chậm như thế. Nếu ta chém nó bị thương, nó sẽ quăng ông nhà giầu xuống đất, há chẳng nguy tới tính mạng ông ấy hay sao?". Vì thế, cô gắng sức đuổi theo, hô to :
- Yêu nhân khoan đi đã ? Mau bỏ Ngô đại hộ xuống.
Yêu nhân quay đầu nhìn lại, bất giác tỏ ý vui mừng, nói :
- Thì ra là con nha đầu, vừa rồi bị ta bắt được, đã bỏ trốn, khiến ta rất bực mình. Nay ngươi lại dám dẫn xác tới chỗ ta sao ?
Vừa nói, nó vừa đặt chân xuống một tảng đá trên đỉnh núi, buông ông nhà giầu xuống, đưa tay vẫy :
- Hảo muội tử, mau tới đây gặp ca ca !
Tiên cô nổi giận, bay tới đỉnh núi, rút kiếm ra đâm liền. Yêu nhân vội vác đao nghênh tiếp. Hai bên đánh nhau chừng vài chục hiệp, yêu nhân nổi cơn nóng giận, lắc mình một cái, xuất hiện nguyên hình. Đó là một con trâu xanh, vô cùng to lớn. Nó dùng cặp sừng, húc tiên cô. Tiên cô biết con quái này rất lợi hại, vội nghĩ cách chạy trốn. Con trâu này có tính linh nhanh nhậy, liền tung một cẳng, đá tiên cô một phát. Tiên cô tuy có đạo thuật, nhưng công lực lại thua thần ngưu rất xa, bị nó đá một phát, liền đứng không vững, ngã lăn ra đất. Con trâu biến trở lại thành Ngô đại hộ, cất tiếng cười hì hì :
- Hảo muội tỉ, em đừng sợ. Ta yêu em dáng vẻ yêu kiều, không hại em đâu. Hãy ngoan ngoãn nghe lời, để ta dẫn em trở về nhà nhé !
Nói rồi, nó ra sức vác tiên cô lên vai. Không thèm ngó tới Ngô đại hộ, thần ngưu vác tiên cô, đằng vân bay đi. Tiên cô bị trâu đá, khí lực mất hết. Cũng may còn thanh kiếm bên mình, cô mới thừa cơ đâm nó vài nhát. Ai ngờ toàn thân con trâu, chỗ nào da cũng rất dầy, mũi kiếm đâm vào phát ra tiếng sắt đá chạm nhau, thần ngưu chẳng hề hấn gì. Dường như nó chẳng có cảm giác đau, cứ thản nhiên vác tiên cô, đi thong thả, miệng còn hát mấy bài thôn ca. Tiên cô cảm thấy mình không thể đối địch nổi thần ngưu, mồ hôi tuôn đầy mình. Cô đau lòng quá, cất tiếng kêu lên :
- Huyền Nữ sư tôn, Lý Huyền đạo huynh, nhờ thịnh ý của hai vị chỉ dẫn, đệ tử đã gia nhập Huyền môn, ai ngờ đạo thuật chưa thành, tính mạng nhỏ nhoi này đã tổn hại. Hai vị có hiểu đệ tử đang chịu nạn ở đây hay không ?
Tiên cô kêu khóc một hồi, nhận ra mình đã về tới nhà Ngô đại hộ, mới rút gươm ra, tính tự vẫn, nhưng chợt nghĩ lại : "Không được không được ? Tự tử là hèn nhát, và cũng là điều trái với tông chỉ Đạo giáo. Ta phải ráng sống, để coi yêu nhân đối xử với ta ra sao ?
Nghĩ tới đó, đã vào tới trong nhà. Yêu nhân vác tiên cô, tiến thẳng phòng trong, ném cô xuống giường, rồi cất tiếng gọi đám con gái khỏa thân tới trước mặt, dặn dò :
- Đây là người đẹp ta thương yêu, các người hãy khéo trông nom cô. Nếu để cô trốn đi lần nữa, các người đừng hòng giữ được tính mạng !
Nói rồi, vui cười, bỏ đi.
Thấy tiên cô bị bắt trở lại, các cô gái tỏ lòng thương xót :
- Chúng tôi số phận hẩm hiu, rơi vào tình trạng này, cũng chẳng đáng nói tới, chứ cô là một vị tiểu thư, đã trốn đi được, sao còn để rơi vào tay yêu nhân, để nó lăng nhục, chẳng khác gì chúng tôi há chẳng đáng đau lòng lắm sao ?
Tiên cô đang nghĩ kế thoát thân, chưa kịp kể lể cùng các cô gái, yêu nhân đã xồng xộc bước vào trong phòng. Nó tiến lại gần bên giường, nhìn tiên cô chòng chọc. Tiên cô vội nhẩy xuống giường, vung kiếm đánh yêu nhân. Nó liền há miệng phun ra một luồng khói xanh. Tiên cô cùng các cô gái đều chết giấc, ngã lăn ra đất. Yêu nhân tiến lại gần, tính dở trò sàm sỡ.
Đang khi nguy cấp, bỗng nhiên có tiếng nổ vang giữa thinh không, làm rung rinh nhà cửa. Yêu nhân hét lên một tiếng, vội vã bỏ chạy ra ngoài. Tiên cô nghe tiếng sấm, tỉnh trở lại. Bỗng một luồng kim quang ùa vào trong phòng, cả căn phòng sáng rực. Tiên cô mở mắt ra nhìn, thấy một vị tiên nữ đạp chân lên bông sen hồng đang đứng giữa phòng. Bên cạnh có nhiều cô thị nữ, đều xinh đẹp, thanh nhã. Hà tiên cô phục xuống đất, lạy tạ ơn cứu mạng, và hỏi tiên nữ quê quán ở đâu, pháp hiệu là gì. Tiên nữ vội bảo các thị nữ đỡ Hà Lan Tiên dậy, nói :
- Chúng ta là đồng môn, chỉ nên đối xử ngang hàng với nhau, chị đâu dám nhận đại lễ như thế ?
Nhân đó, tiên nữ cho biết mình là Cửu thiên Thượng Nguyên phu nhân, học trò của Huyền Nữ, vâng lệnh thầy tới đây cứu Hà tiên cô. Phu nhân nói :
- Sư tôn đã biết con trâu xanh của Lão Quân tổ sư thừa lúc đồng tử lơ là, đã trốn xuống trần gian, ở đây gieo độc hại. Sư tôn biết sư muội có lòng nhân từ, nhưng không lượng sức mình, đã liều lĩnh làm càn, nên mới sai chị xuống đây cứu em, và truyền cho em phép trừ yêu, để giữ mình. Em nên chuyên tâm học tập, đừng xen vào những chuyện bên ngoài, mới tránh khỏi kiếp vận, bớt lỗi lầm. Lần này em mắc lỗi là lần đầu, có thể tha thứ. Mau tạ ơn sư tôn đi.
Tiên cô vội quì xuống, hướng lên không trung lạy tạ. Thượng Nguyên phu nhân phất tay áo một cái, các cô gái khỏa thân tỉnh lại lồm cồm ngồi dậy, đưa mắt nhìn phu nhân và tiên cô, cùng đám thị nữ đang đứng hầu, không hiểu vừa rồi đã xảy ra những chuyện gì. Tiên cô đang tính nói với họ vài câu, phu nhân đã đưa tay đập nhẹ vào người cô. Ánh kim quang lại lóe lên khắp phòng, và trong chớp mắt, trong phòng chỉ còn lại những cô gái nhà Ngô đại hộ, những người khác đã biến đâu mất.
Thượng Nguyên phu nhân đưa Hà tiên cô lên đỉnh núi. Ngay trước mắt là động phủ của Hà tiên cô. Phu nhân dẫn đám thị nữ, theo tiên cô vào động phủ. Tiên cô lại vái tạ ơn cứu mạng lần nữa, phu nhân mỉm cười, ngăn cản, nói:
- Chúng ta là chị em đồng đạo, huống chi chị làm việc này là theo lệnh của sư tôn, cần gì phải nói tới chuyện tạ ơn ?
Tiên cô lại hỏi tới lai lịch của con trâu yêu, phu nhân nói :
- Nó là con trâu Lão Quân tổ sư thường cưỡi, giao cho một đồng tử canh giữ. Trước đây, lúc Lý Huyền đạo hữu chưa thành tiên đạo, đã từng bị nó hãm hại, may có Văn Thủy tiên sinh đích thân lên núi thu phục nó, Lý Huyền mới thoát nạn. Lúc đó, Lão Quân tổ sư đã trách mắng đồng tử lơ là công việc, để trâu trốn đi, định đem trị tội. May có các vị sư huynh đệ xúm vào xin cho, đồng tử mới được tha. Lần này, nhân La Viên phu nhân mở đạo tràng trong vỏ ốc dưới biển, bọn ma giáo mới thừa cơ gây sự với người trong giáo phái chúng ta, các vị sư huynh sắp đánh bại tà giáo, chẳng dè tổ sư Ma giáo đích thân xuống biển thiết lập lôi đài, dùng bùa chú giam hãm các vị sư huynh, không cho thoát thân.
May có tổ sư đích thân tới cứu, mới giải vây cho các sư huynh. Tổ sư ở dưới biển năm ngày, không cần tới con vật cưỡi, mới để trâu xanh ở lại trong cung. Nhân lúc đồng tử mệt mỏi, nằm lăn trên cỏ mà ngủ, trâu xanh mới trốn xuống hạ giới. Việc đó xảy ra đã ba ngày, so với hạ giới là vài tháng. Biết trâu xanh xuống trần, đi khắp nơi quậy phá, tới đâu gieo họa tới đó, Đông Hoa đế quân và Chấn Vũ đại đế đã phái người xua đuổi. Vì thế, trâu xanh đã chạy đến đây. Vì Ngô đại hộ kiếp trước làm đồ tể mổ trâu, kiếp này lại ham ăn thịt trâu, nên mới mắc phải đại họa này. Hiện nay, Lão Quân đã đày đồng tử xuống trần, cử một đồng tử lão luyện hơn xuống bắt thần ngưu đem về, chẳng bao lâu sẽ tới đây. Việc xảy ra lần này, lỗi tại em không biết tự lượng sức mình. Sư tôn bảo em đi thu phục con trâu, sau đó học lấy bản lãnh hộ thân, rồi mười năm sau sẽ xuống núi, đi đây đi đó, làm nhiều việc có ích cho dân chúng. Đến lúc đó, sư tôn tất nhiên sẽ tới dặn dò. Hiện giờ, em chỉ việc chuyên tâm học tập, để đợi pháp chỉ.
Tiên cô nhất nhất vâng lời, phu nhân mới lấy ra một hạt thiết sa (vụn sắt, nhỏ như hạt cát) nhỏ như hạt cải, nói:
- Sư tôn bảo em đem theo hạt cát này, ra đánh nhau với thần ngưu. Khi lâm trận, thừa cơ ném hạt cát, sẽ thấy linh nghiệm. Cẩn thận, cẩn thận, đừng để lỡ việc. Chị không thể đi theo em, chỉ ở đây đợi em thôi.
Tiên cô vái mà nhận thiết sa, nghĩ không ra cách dùng. Một vật nhỏ thế này, làm sao có thể thu phục con thần ngưu to lớn, ngang ngạnh ? Nhưng thấy phu nhân không nói gì thêm, tiên cô cũng không dám hỏi, lòng buồn bực mà từ biệt phu nhân, cưỡi mây bay đi. Tới nhà Ngô đại hộ, chưa hạ thấp đám mây đã nghe có tiếng kêu khóc. Vạch mây nhìn xuống, thấy trong nhà có nhiều cô gái khỏa thân bị trói vào cọc, yêu nhân đang cầm gậy đánh đập.
Tiên cô biết ngay là vì mình trốn thoát, yêu nhân ngờ rằng mấy cô kia đã lén thả ra, nên dùng nghiêm hình trừng phạt. Tiên cô nhịn không nổi, từ trên mây nhẩy xuống, đứng ngay giữa nhà, tay cầm bảo kiếm, miệng hô to :
- Nghiệt thú sao dám vô lễ ? Hãy coi lưởi kiếm của ta đây !
Nói rồi, phóng ngay một nhát kiếm. Yêu nhân đã phòng bị sẵn: vì trong tay không có binh khí, nó vội nắm lấy một chiếc đôn bằng đá ở trong sân, nhấc lên đỡ lưởi kiếm. Chiếc đôn bị kiếm chém vỡ làm đôi, một nửa rơi xuống đất, nửa kia vẫn nằm trong tay yêu nhân. Yêu nhân nổi giận, định thi triển yêu pháp. Nào ngờ hạt cát trong tay tiên cô bay lên cao, rơi xuống đất liền biến ra vô số hạt cát. Chỉ trong chớp mắt, trên mặt đất xuất hiện một lớp bùn cát, trải rộng ra và dầy thêm lên. Yêu nhân bị lún sâu hai chân trong cát giận dữ rống lên như sấm. Chân trái vừa nhấc lên, chân phải đã lún xuống, chân phải chưa kịp nhấc lên, chân trái đã rơi xuống, lún sâu hơn. Tiên cô bấy giờ mới biết được đó là diệu dụng của phép báu tiên gia. Tiên cô đứng trên đám mây, đưa gươm chỉ yêu nhân, hô to:
- Thần ngưu kia, người là con vật cưỡi của Lão Quân tổ sư, có phúc phận rất lớn, loài vật tầm thường không thể sánh kịp. Ngươi có vinh hạnh được tổ sư đặc biệt để mắt tới, lại có căn cơ thâm hậu, lẽ ra người phải biết bỏ công tu luyện, để cầu thăng tiến, trường sinh bất tử, chứ sao người lại nghĩ quấy, trốn xuống phàm trần, làm hại dân chúng ? Nay vì lỗi của ngươi, tổ sư đã đem đồng tử canh giữ ngươi đày xuống phàm trần, lương tâm ngươi có yên được không ? Với những hành vi của ngươi, chỉ nên kêu thiên lôi đánh chết ngươi cho rồi. Huyền Nữ tiên tôn phái Thường Nguyên phu nhân xuống cứu ta, đã phát tiếng sấm cành cáo ngươi. Chung qui chỉ vì ngươi là con vật cưỡi của tổ sư, nên mọi người mới nương tay cho ngươi đấy thôi.
Yêu nhân đã biết mình không thể kháng cự được nữa, liền tiêu tan cơn giận, đứng dưới lớp cát, khóc lóc năn nỉ, xin nhận tội lỗi, khẩn cầu đại tiên tha mạng. Tiên cô liền chỉ một ngón tay, hô to : “Ngừng ?", tức thì lớp cát ngừng lại, không dâng cao thêm, nhưng yêu nhân vẫn chìm nửa mình trong cát, không thể nhúc nhích.
Tiên cô nói :
- Một viên thần sa của ta có thể chôn vùi ngươi ở đây vài ba năm, ngươi có cách gì tự toàn được không ? Nhưng ta đã tha mạng cho ngươi, ngươi cũng bất tất phải cầu xin nha. Ngươi hãy tạm ở đây một thời gian, chẳng bao lâu sẽ có người chủ mới của ngươi tới dẫn ngươi đi.
Tiên cô nói rồi, lại nhìn tới đám con gái. Trước đây, họ đều bị trói trên những cây cọc đặt ở chỗ khá cao, nên không bị chôn trong cát, tiên cô chỉ một ngón tay, bao nhiêu dây trói đứt hết, cô dẫn họ vào phòng đằng sau, bảo họ mặc lại quần áo, và đem sự tình kể sơ qua cho họ nghe, lại nói :
- Ông nhà giầu hiện đang ở chỗ nghĩa trang trên núi, sẽ được bà thổ địa tìm cách cứu về, mấy người bất tất phải lo lắng.
Nói rồi cáo từ, cưỡi mây bay đi. Đang đi, chợt thấy một đám mây trắng từ phía Tây bay tới, trên đó có một người ăn mặc ra dáng một đồng tử chăn trâu, tiên cô biết đó là người được Lão Quân sai đi thu hồi thần ngưu. Tiên cô ngừng mây đứng lại, nhìn ra xa, quả nhiên thấy người kia đáp xuống nhà Ngô đại hộ, nên cô rất yên tâm, quay về động phủ của mình.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 12.07.2008 01:33:33
Hồi Thứ 35

Hà tiên cô phụng chỉ nhập thế
Triệu công tử tụ tập chúng quấy rối.

Tiên cô trở về động phủ, đem việc thu phục thần ngưu kể lại cho Thượng Nguyên phu nhân nghe, phu nhân nói :
- Chúc mừng sư muội. Việc này tuy nhỏ, nhưng kể như lần đầu em ra trận đã lập được đại công.
- Nếu không nhờ sư tôn và tỉ tỉ cứu giúp, em đã mất mạng, còn công lao nào mà kể tới chứ ?
Hai người nhìn nhau cười rộ.
Tiên cô tới miếu thổ địa, nghe thổ địa đã sai quỉ tốt đưa Ngô đại hộ về nhà, mới cấp cho bà một viên thuốc, bảo đem cho ông nhà giầu uống, có thể sống lại và mạnh khỏe. Thổ địa lãnh chỉ, tự đi lo giải quyết Tiên cô lại trở về động. Thượng Nguyên phu nhân đem những phép phòng thân truyền lại cho cô. Tiên cô là người thông minh tuyệt đỉnh, nói đâu hiểu đó, lại ghi nhớ hết, phu nhân mừng rỡ, nói :
- Hiền muội mau hiểu như vậy, chẳng bao lâu sẽ đắc đạo, chị ở trên thiên tào ngóng đợi ngày em cao thăng.
Tiên cô lại bái tạ. Phu nhân sai thị tì tới nhà Ngô đại hộ thu hồi thiết sa. Nhân thấy tiên cô ca tụng viên thần sa, phu nhân đem tặng, nói :
- Lần sau có gặp yêu tinh hung hăng, có thể dùng vật này chế ngự, phu nhân chỉ dẫn cách sử dụng, dặn dò thêm vài câu, rồi cáo biệt.
Tiên cô tiễn Thượng Nguyên phu nhân đi rồi, từ đó ở trong động phủ tu đạo, đem những pháp thuật phu nhân truyền cho, luyện tập cho thật thành thục. Thấm thoắt mà đã qua mười năm, Huyền Nữ quả nhiên tới động phủ, dẫn theo Thượng Nguyên phu nhân và đám thị nữ. Bà truyền cho cô nhiều phép biến hóa, tiên cô đều lãnh hội được. Huyền Nữ dặn bảo :
- Lúc này con có thể xuống núi một phen. Hiện nay thiên hạ đang thuộc về nhà Tần, Tần hoàng Doanh Chính thập phần tàn bạo, chẳng bao lâu quần hùng nổi dậy, bốn biển tao loạn, đế vị lại về với họ Lưu. Chân mệnh thiên tử hiện đã ra đời ở huyện Bái. Các vị sư huynh của con, như Lý Huyền, Trương Quả đã vâng lệnh thầy xuống núi cứu nạn cho đời, điểm hóa những người hữu duyên. Lại có một người bị biếm xuống trần thế, cũng đã tu thành chính quả. Lần này xuống núi, con sẽ được gặp tất cả bọn họ. Còn có nhiều việc, phải nhờ tay con mới thành tựu. Nhìn chung, con phải dụng tâm giải quyết, không được lơ là, cũng không cần gì phải khiếp sợ.
Tiên cô nhất nhất lãnh chỉ. Huyền Nữ lại ban cho cô mười viên đan sa có công dụng cải tử hồi sinh, một chiếc bình ngọc có thể nhốt hồn vía, và mười cây kim vàng, có thể biến thành ngàn, vạn chiếc khác, đâm mù mắt người. Bà dặn dò kỹ càng ;
- Trong ba pháp bảo, chỉ có đan sa là có công dụng cứu người.
Nếu gặp người hữu duyên mắc bệnh nguy cấp, hoặc bị thương trầm trọng, thậm chí chết đã ba ngày, nhưng thân thể chưa nát, chỉ cần cho uống nửa viên thuốc, lập tức sống lại, hết bệnh, lành lặn vết thương, cho uống thêm nửa viên nữa, liền khỏe mạnh. Nhưng không phải gặp ai cũng có thể ban tặng được đâu. Nên biết số thọ của mỗi người đã được định sẵn, ngoại trừ những người có âm đức lớn, hoặc các thiện nam nữ có công đức cao, không ai có thể trì hoãn phút lâm chung, dù chỉ một giây. Thế gọi là :
Diêm vương đã dạy canh ba chết,
Há để dây dưa tới canh năm?
- Những lời ta vừa nói không phải bàn riêng về đan sa, mà còn chỉ dạy cho con biết : mỗi khi định làm ơn cứu người, trước hết phải khảo sát xem người đó có đáng cứu hay không, cứu hắn có trái ý trời hay không. Có thể thấy việc hành thiện chẳng phải dễ dàng gì đâu ! Thiên hạ rộng lớn, mỗi ngày có biết bao người chết, con có tấm lòng từ bi bao la cỡ nào chăng nữa, con có đủ tay chân để cứu kịp mọi người hay không. Muốn cho họ tăng thêm vài năm tuổi thọ, con tìm đâu ra đủ số đan sa ?
Tiên cô nghe lời giáo huấn của sư tôn, nhận ra những sai lầm của mình trước đây, cúi đầu lạy tạ, nói :
- Pháp chỉ của sư tôn, đệ tử há dám quên ? Lần này xuống núi, con sẽ cẩn thận để tâm, luôn luôn ghi nhớ những lời giáo huấn, chẳng dám nghĩ vội, làm càn. Mỗi khi muốn cứu người, lợi vật, đệ tử nhất định phải xét đoán kỹ càng.
Huyền Nữ tỏ vẻ hài lòng, nói :
- Con biết nghĩ vậy là tốt. Ta mắc nhiều công việc, không thể mỗi lúc xuống trần chỉ điểm cho con. Nhưng hễ con gặp việc khẩn yếu ta sẽ biết liền, sẽ tới chỉ dẫn đường ngay cho con. Cũng có khi các sư huynh của con tới giúp đỡ con, con chẳng phải lo lắng.
Huyền Nữ lại nói tiếp những điều còn dở dang :
- Vừa rồi, ta đã cho con biết tông chỉ về việc dùng đan sa để cứu người. Việc cứu người tất nhiên phải làm, nhưng đừng để trái ý trời mà mang tội. Đến như bình ngọc và kim vàng, hai vật đó đều là thứ hại người, giết người. Vì thế, con càng phải thận trọng hơn nữa. Người tu đạo chúng ta lấy việc cứu nạn, giúp đời làm căn bản, mà muốn an dân, trước hết phải trừ bạo. Việc làm đó tuy nhiên có công, mà đối với lương tâm con vẫn không tránh khỏi ăn năn, tự trách, huống chi là những hành động sai lầm, sát hại quá đáng, hoặc giả làm tổn thương tới người quân tử chân chính, thì tội làm sao có thể tiêu tan, ta đây làm sao có thể cứu nổi con ? Há chẳng đáng sợ lắm sao ? Đến như gặp phải trường hợp vạn bất đắc dĩ, ta không hại người người ắt hại ta, đương nhiên con phải đem hai vật kia ra sử dụng. Tuy nhiên lúc nào trong lòng con cũng phải tâm tâm niệm niệm ý tưởng có nên xuống tay hay không, giữ lấy ý niệm chủ đạo là oán thù nên cởi chứ không nên thắt, mới có thể phần nào tích đức về sau. Nếu gặp những người có đạo, hoặc những yêu tinh đã tu luyện lâu năm, khổ công không ít, con nên nghĩ tới công tu luyện của chúng, đạt được tới trình độ đó chẳng phải dễ dàng, nếu thấy có thể thành toàn cho chúng, thì không nên sát hại, mà dùng lời khéo léo dẫn dụ chúng quay về chính đạo. Có khi còn có thể thu nhận một số đứa ở bên cạnh mình, nhận làm đệ tử, có gì mà không được? Nhưng ta cũng phải dặn trước con một điều : việc thu nhận đệ tử và truyền đạo là vô cùng nguy hiểm. Đồ đệ có hành vi tốt hay xấu, giữ tâm chính hay tà, đều qui trách nhiệm cho sư phụ. Mấy lời thầy dạy không phải nói chơi, con phải chú ý lắm mới được?
Tiên cô nghe những lời giáo huấn, bất giác kinh hãi, biến sắc, vội phục xuống đất lạy.
- Đệ tử tuổi còn trẻ, học hành nông cạn, kinh nghiệm chưa có chút nào, đội ơn sư phụ rộng lòng thương chỉ bảo, mới biết trong việc tu đạo chẳng những bản thân phải giữ khổ hạnh, mà còn gặp không ít những điều nguy hiểm đáng sợ, khiến đệ tử luôn luôn run rẩy, chẳng dám nghĩ bậy làm càn, để mắc phải tội lỗi.
Huyền Nữ bảo cô đứng dậy, và ngỏ lời an ủi :
- Người tu đạo cần nhất là phải có đảm lượng. Người có đảm lượng nhỏ tất nhiên việc ác không làm, nhưng việc thiện cũng khó thành. Chúng ta lập thân ở ngoài vòng trời đất, nên coi những việc phải làm trong vòng trời đất đều là trách nhiệm đặt trên vai mình, có gì mà phải khiếp sợ ? Ta khuyên con làm việc gì cũng phải thận trọng, nhưng quyết nhiên không có ý dạy con sợ hãi. Lần đầu con xuống núi, tất nhiên không có việc lớn phải làm, nhưng con sẽ gặp không ít việc nhỏ trên đời, tiếp xúc với những kẻ mưu sinh, biến trá, con lại chưa từng lịch duyệt, làm sao giải quyết cho được toàn vẹn ? Sơ suất một chút, là việc rắc rối ngay, nên ta mới phải cảnh giới con, luôn luôn cẩn thận. Con là người thông minh, tất nhiên hiểu được đạo lý đó.
Huyền Nữ nói câu nào, tiên cô dạ câu đó. Nghe thầy nói xong, tiên cô lại cung kính cúi đầu. Huyền Nữ tỏ ý hài lòng, dẫn các tiên và thị nữ ra đi.
Vì có giao tình rất tốt với bà thổ địa, mấy năm gần đây lại được bà đặc biệt chiếu cố, tiên cô đặc biệt tới thăm bà, ngỏ lời từ biệt. Nghe tiên cô sắp đi xa, bà thổ địa tỏ lòng quyến luyến. Tiên cô ngỏ lời an ủi bà hồi lâu, sau đó mới mang theo các bảo bối của Huyền Nữ ban cho, thay đổi bộ quần áo đạo cô, toàn thân trắng toát càng hiển lộ vẻ thanh nhã, cao khiết, những người tuyệt đẹp trên nhân gian không thể sánh kịp. Cô từ biệt bà thổ địa, trở về động phủ, dùng bùa chú khóa kín động phủ, sau đó mới cưỡi mây bay đi.
Vì nghe sư tôn nói hoàng đế hiện nay là một người tên Doanh Chính gì đó, tàn bạo, bất nhân, ngược đãi dân chúng, tiên cô nghĩ phải đến đó xem thử một phen, coi hoàng đế đó là người độc ác ra sao, tìm trong số những người chịu sự ngược đãi của ông ta có ai là người hữu duyên, để cứu độ cho một số người, lập chút công đức.
Nghĩ vậy rồi, cô bắt quyết vời một ông thổ địa tới, hỏi coi hoàng đế định đô ở đâu, đi đường nào để tới đó. Cũng may lần này cô gặp được một ông thổ địa già, có hiểu biết rộng về vua chúa, biết rõ các cố sự về các triều đại thay đổi nhau trị vì thiên hạ. Thấy tiên cô muốn thỉnh giáo, ông thổ địa đem hết những điều hiểu biết của mình trình bày cặn kẽ. Tiên cô cảm thấy đã nghe được những điều chưa từng nghe, mà chuyện nào cũng hấp dẫn, thú vị. Thổ địa lại chỉ dẫn kỹ đường đi nước bước để tới kinh đô Hàm Dương, không bỏ sót một chi tiết nào. Tiên cô tạ ơn năm lần bảy lượt, từ biệt ông thổ địa, thúc đám mây bay nhanh về phía Hàm Dương, lựa chỗ có vẻ đông dân cư, khói bếp bốc lên cao, để đáp xuống. Lại sợ nhiều người nhòm ngó, cô biến ra một con trùng nhỏ biết bay, bay xuống đất sau đó mới biến thành hình người trở lại.
Bấy giờ đang lúc giữa trưa, tiết trời vào độ đầu xuân, khí hậu ôn hòa, không nóng không lạnh, là lúc rất thích hợp cho người ta vui chơi, nhưng cũng là lúc công việc làm ăn trong năm bắt đầu hoạt động trở lại. Tiên cô ở con đường chính trong kinh thành, đi tới đi lui vài lượt thấy những người ở trong các cửa tiệm, cùng những người mua, bán trên đường, đi lại tấp nập, nhưng ai nấy đều mang vẻ sầu khổ trên mặt, mặt ủ mày chau, dường như đều có nỗi khổ tâm trong lòng. Tiên cô than thầm : "Ta thường nghe nói vua sáng, tôi hiền thì trăm họ an lạc. Nay có bạo chúa, nhân dân tất nhiên đều mắc tai ương, làm sao vui vẻ cho được ?". Tiên cô mới đi tới một chỗ vắng vẻ yên tĩnh, tìm ra một ngôi đền, mới được tạo tác mười phần đẹp đẽ. Thời bấy giờ, vì Tần hoàng muốn cầu tiên tìm đạo, nên cho xây cất rất nhiều đền miếu, để cầu kiến người tiên. Tiên cô vừa tới bên ngoài, đã có một vị đạo sĩ già ra tiếp đón.Tiên cô nói rõ ý mình muốn xin tá túc, lão đạo thấy cô xinh đẹp mỹ miều, ngắm cô từ đầu tới chân, có ý hoài nghi. Tiên cô mới cười, hỏi :
- Đạo trường nhìn bần đạo chăm chú quá, chắc hẳn nghi tôi không phải người tốt chứ gì ?
Lão đạo sĩ vội cười, nói :
- Không nên nói vậy. Sự thật là vì tiểu đạo thấy đạo hữu trẻ trung xinh đẹp, đang lúc nên hưởng đại phúc trên nhân thế, tại sao lại vô cớ tới nơi hẻo lánh này ? Tiểu đạo chẳng phải người hay xen vào những chuyện không đâu, nhưng trong chuyện này có một nguyên nhân, tiểu đạo chẳng dám trần tình trước mặt đạo hữu, để rước lấy họa.
Tiên cô lấy làm lạ, nói :
- Mỗi người có chí hướng của mình, không thể cưỡng ép nhau. Theo cao kiến của đạo hữu, thì cứ là con gái trẻ trung, có nhan sắc, đều nên hưởng phúc chốn nhân gian, không thể xuất gia tu đạo hay sao ? Trong thiên hạ làm gì có lý lẽ đó.
- Đạo hữu vẫn chưa hiểu rõ ý tiểu đạo mất rồi ! Đạo hữu tới tệ quán, chắc là chưa ăn uống gì, vậy xin mời tới phòng khách, ngồi dùng điểm tâm, để rồi từ từ tiểu đạo sẽ kể cho nghe nỗi khổ tâm. Lúc đó đạo hữu mới biết tiểu đạo không dám lưu giữ cô là có ý tốt.
Tiên cô bực bội trong lòng, đành đi theo lão đạo, tới một phòng khách nho nhỏ ở đằng sau. Lúc đó, lão đạo mới kể chuyện mình:
- Chỗ này gọi là Thanh Hư Quán, và tôi là chưởng viện trong quán. Trong quán có hơn mười vị pháp sư, đều tinh thâm đạo pháp. Trong đó có một vị họ Phí, tên Trường Phòng, là học trò của thiên tiên chân chính, có pháp lực rất cao, người thường không thể sánh kịp. Hơn mười vị pháp sư đó đều ở trong quán, hưởng lộc triều đình cung dưỡng. Ngôi đền này được kiến tạo chưa đầy ba năm, hai năm trước đây rất yên ổn. Không ngờ từ đầu tháng giêng năm nay, bỗng có vị công tử, con nuôi của Triệu công công, ỷ thế lực cha, lại biết trong quán có các cô gái nhà lành tới thắp hương, nên thường dẫn dắt một đám côn quang, là những thiếu niên vô lại, lấy cớ cầu tiên hỏi đạo, kéo tới quán này. Hễ thấy con gái xinh đẹp, không cần hỏi xuất thân ra sao, chúng ra ám hiệu cho nhau, đồng loạt ra tay, bắt đem đi. Cũng có khi chúng đợi cô gái ra khỏi quán, liền đi theo đuôi, đợi tới chỗ vắng vẻ liền lập kế bắt cóc. Một số cô nương sợ chết tham vinh, đành thuận tòng theo hắn, phần đông các cô thục nữ không chịu thất thân, liền bị bọn chúng đánh đập tàn nhẩn, có khi mất mạng, mà gia đình cũng không làm gì được chúng. Cứ vài ba hôm, chúng lại đi tìm người mới. Trong tháng này, đã xảy ra sáu, bảy vụ như thế rồi. Tiểu đạo thấy đạo hữu xinh đẹp mỹ miều, thật là người tiên trên trời, mấy vị tiểu thư cô nương bị hại trước đây, không cô nào sánh kịp đạo hữu đâu. Mấy cô đó còn không thoát, huống gì là đạo hữu ? Còn một điều này, tiểu đạo cũng không ngại gì mà chẳng nói thật. Vị Triệu công tử đó là con nuôi của Triệu công công, húy là Cao, là vị thái giám gần gũi bên mình hoàng đế, có uy quyền không thua gì quan tể tướng. Cùng chỗ xuất gia như nhau, tiểu đạo lo ngại thay cho đạo hữu. Nếu đạo hữu cứ nhất định ở lại đây, chẳng có chỗ nào lẩn tránh, lở Triệu công tử tìm tới, tấm thân trinh khiết, tu đạo của cô khó giữ vẹn toàn, há chẳng đáng tiếc lắm sao ? Đạo hữu nên suy nghĩ cho kỹ, tiểu đạo nay đã chín mươi tuổi, cả đời chưa hề gạt ai, đạo hữu đừng nên nghi ngờ.
Tiên cô nghe vậy, cũng cảm động trước hậu ý của đạo sĩ già, nhưng tự ý cô đang muốn điều tra về việc vua tôi nhà Tần hung hăng tác quái, để tiện dịp cứu người, giải nạn, nay biết có bọn người xấu xa này, mình đang khổ công tìm kiếm chưa ra, lẽ nào lại bỏ qua? Vì thế, cô cười, tạ ơn lão đạo :
- Thịnh tình của đạo trưởng, bần đạo há phải cỏ cây mà không biết ? Lẽ nào lại nghi ngờ nữa chứ ? Nhưng chẳng giấu gì đạo trưởng, bần đạo lúc nhỏ gặp được dị nhân, truyền cho chút pháp thuật, tuy chẳng hơn ai, nhưng để bảo vệ thân thể, giữ gìn tính mạng thì cũng đủ sức. Xin đạo trưởng hãy chỉ định cho một căn phòng nho nhỏ, để bần đạo tạm nghỉ chân. Nếu Triệu công tử tới, tôi sẽ lẩn tránh một thời gian, là tốt nhất. Vạn nhất cậu ta trông thấy, bần đạo đã có cách khiến cậu ta thấy khó mà rút lui, quyết không để xảy ra chuyện đánh đấm, làm tổn thương tới da thịt cậu ta, để liên lụy tới quí quán và đạo trưởng.
Lão đạo nghe vậy, ngạc nhiên vô cùng, lại nhìn chăm chú tiên cô một lần nữa, bỗng tỏ vẻ vui mừng, nói :
- Tôi thấy trên mặt đạo hữu đầy khí thanh tú, người thường không thể có được. Tiểu đạo đã sống hơn chín mươi năm, hôm nay mới được thấy lần đầu tiên, đã nghi người phàm không thể có dung nhan xinh đẹp như thế. Nay nghe đạo hữu nói, mới biết cô chính là người tiên trên trời, giáng hạ phàm trần, rong chơi chốn nhân gian. Nếu quả như vậy, đừng nói là bọn Triệu công tử, miệng còn hôi sữa, chẳng đáng sợ, ngay cả Tần...
Vừa nói tới chữ "Tần", lão đạo liền cấm khẩu, không dám nói tiếp, và đưa mắt dáo dác nhìn quanh. Thấy không có ai khác, ông lão mới rụt cổ, thè lưỡi, thở phì một tiếng, nói :
- Thời thế này là thời thế gì ? Chỗ này là chỗ nào ? Đã sống hơn chín mươi năm, mà còn ưa dài lưỡi, lắm lời, đố khỏi ngày mai mang họa, ngay cả vị chân tiên ở trước mắt cũng không cứu nổi.
Da mặt đen sạm của ông lão đột nhiên biến đổi từ đen sang xanh, từ xanh sang tím, hiện rõ vẻ sợ hãi cùng cực. Tiên cô thấy ông lão đang từ chỗ lắm lời bỗng đổi sang tự trách, mới hiểu chốn kinh sư kiểm soát nghiêm ngặt, ngay trong ngôi đền này cũng có mật thám dò la, mới khiến lão đạo sợ hãi đến thế. Cô liền nghĩ tới một câu trong cổ thư : "Đề phòng miệng dân còn hơn đề phòng đê vỡ , bất giác buông tiếng thở dài. Lão đạo không dám quấn quít bên cô nữa, cất tiếng gọi một người tạp dịch tới, bảo anh ta dẫn tiên cô tới một căn phòng ở cuối dẫy nhà bên Tây an nghỉ. Lại dặn bảo tiên cô, nếu có cần tới vật dụng gì, cứ nhờ anh tạp dịch lo cho. Tiên cô ngỏ lời cảm tạ, theo anh tạp dịch rời khỏi phòng khách, đi về hướng Tây.
Đang đi, tiên cô chợt nhớ lại lời lão đạo nói về vị pháp sư có đạo hạnh, không hiểu vị này là ai, có bản lãnh gì. Nếu quả ông ấy có đạo thuật cao thâm, ta hãy tới thăm một phen, thỉnh giáo vài câu, thì kể như chuyến đi này là một cơ hội rất tốt. Đang lúc suy nghĩ xuất thần, chợt nghe đằng sau có tiếng nói cười hỉ hả của một bọn đàn ông, đang đuổi theo sau. Tiên cô quay đầu nhìn lại, thì... ôi thôi! Hỏng rồi ! Thì ra là Triệu công tử dẫn dắt bọn chó săn của hắn, kéo tới ngôi đền.
Chúng vừa bước qua cổng lớn, liền có mấy người chạy tới bẩm báo rằng hiện nay trong đền vừa có một đạo cô mới tới, dung nhan xinh đẹp tuyệt vời, quần áo tề chỉnh, da trắng như tuyết, tóc tiên như mây, quả là người đẹp trên trời hiếm có, dưới trần không hai, mấy vị mỹ nhân công tử đã gặp trước đây thua xa lăng lắc. Hiện nay, lão đạo nhân đang bồi tiếp cô ấy ở phòng khách, công tử mau tới đó, có thể gặp mặt. Công tử nghe nói mừng rỡ, nhẩy cỡn lên, vội chạy như bay tới phòng khách. Đúng lúc đó, lão đạo đã sai người đưa tiên cô đi khỏi, đang ở trong phòng khách đốc suất một đám những người phục vụ lo thu dọn đồ đạc trong phòng. Bước qua cửa, công tử không thấy bóng dáng người đẹp vừa nghe nói tới.
Trong bọn chó săn có một thằng, tên gọi Ngụy ứng Cầm, không đợi công tử lên tiếng, xông tới hai bước, lột bỏ chiếc mũ đạo của lão đạo sĩ lại tiện tay túm chặt lấy áo ông ta, hét lên :
- Thằng già khốn kiếp này, ngươi đem thiên tiên mỹ nữ của công tử gia của bọn ta, giấu đi đâu ?
Lão đạo sĩ đang lúc bất ngờ, thấy đám người của công tử quá hung hăng, vội nở một nụ cười, khom lưng xuống, miệng "dạ, dạ !", rồi gập đôi mình, cất tiếng hỏi :
- Có phải các vị công tử hỏi tới vị nữ đạo hữu vừa tới thăm ngôi đền đấy không ?
Đám người của công tử thấy ông lão quá khúm núm, liền vỗ tay, cười rộ lên. Nghe câu hỏi, Triệu công tử nén cười, nói :
- Không sai chút nào. Vừa rồi chẳng phải lão đã tiếp đón cô ta vào đây sao ? Có món tốt đẹp như thế, sao lão không nhắn tin cho công tử ta biết, khi ta đích thân tới kiểm tra, lại đem giấu béng cô nàng đi đâu ? Tội lão đã đáng đánh chết hay chưa ?
Công tử đừng đổ oan cho lão đạo như thế. Lão đạo đã ngoài chín mươi tuổi, hai chân run rẩy, đi xa đâu được ? Lão có ý lưu giữ cô ấy lại trong đền, bố trí cho cô ở một căn phòng, sau đó mới tới quí phủ bẩm báo. Nào ngờ công tử có tài tiên đoán, biết trước mọi việc tới ngay được đây. Thủ đoạn thần tốc đó, quả thật lão đạo không sao tưởng tượng ra được.
Nghe lời tâng bốc đó, Triệu công tử tỏ vẻ đắc chí, bảo Ngụy ưng Cầm buông ông lão ra, nói :
- Vị đạo trưởng này là người tốt, không nên trêu chọc ông ấy. Vả lại ông ta tuổi đã cao, ngươi dọa nạt quá, làm ông ấy sợ, ngày mai mang bệnh, lăn ra chết, việc dính líu tới quan tư, công tử ta mặc kệ ngươi, không lo cho ngươi đâu.
Bọn côn đồ nghe vậy, cất tiếng cười hô hố, Ngụy ưng Cầm im thin thít, chẳng dám nói tiếng nào. Lão đạo sĩ mới phái một người đưa bọn chúng đi, nói :
- Hãy cùng công tử và các vị đại gia đi tìm vị thần tiên mỹ nhân vừa tới nhé.
Công tử nghe câu "thần tiên mỹ nhân", bất giác cười ha hả, nói:
- Lão già này cũng khéo nói, tuổi đã cao mà còn cứng gân cốt dữ!
Nói rồi, không thèm ngó tới lão đạo, dẫn đám tùy tùng đi theo người dẫn đường, hối hả ra khỏi phòng, chạy về hướng Tây, đuổi theo tiên cô.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 12.07.2008 10:06:30
Hồi Thứ 36

Ghẹo tiên cô, công tử mang nhục
Cứu con nuôi, thái giám cầu chúa.


Đám thủ hạ của Triệu công tử đuổi theo tiên cô, ào ạt xông tới, vây lấy tiên cô, hô to :
- Người tiên hãy dừng chân, cho công tử chúng tôi hỏi chuyện một chút.
Tiên cô đã hiểu sự tình, liền đứng lại, không lộ vẻ hoảng hết chút nào, mỉm cười hỏi :
- Các vị từ đâu tới, công tử nhà các vị là ai ? Bần đạo là người ngoài vòng nhân thế, trước nay chỉ ở núi sâu học đạo, chưa từng tỏ chuyện với người ngoài, nên không hiểu công tử có chuyện gì mà muốn gặp tôi?
Triệu công tử vội tiến tới vẹt đám đông ra, đứng ngay trước mặt tiên cô vái một vái, tiên cô cũng vái trả lễ, và nghe Triệu công tử nói :
- Từ lâu đã hâm mộ tiếng thơm tiên tỉ là trang quốc sắc, lại đang độ trẻ trung, chính hường phúc trên đời mới phải, tại sao lại tìm tới ngôi đền chỉ giành cho đạo sĩ tu hành, ở chung lộn với một đám đạo sĩ quê mùa, có khác nào ngọc để ngưu vầy, há chẳng đáng tiếc lắm sao ?
Tiên cô nghe vậy, không nhịn nổi cười, ráng nén tiếng cười, nói:
- Theo ý công tử, phải làm thế nào mới tốt ?
- Tiên tỉ vẫn chưa hiểu ý tôi ư ? Tôi chẳng phải ai xa lạ, chính là con trai Triệu công công, hầu hạ bên cạnh đương kim hoàng đế.
Không đợi hắn nói hết, tiên cô đã cười, nói:
- Bên cạnh hoàng đế còn có vị công công nào đó hay sao ? Chẳng phải là thúc tổ của hoàng đế ư ?
Triệu công tử nghe nói đỏ mặt, vội nói :
- Việc này tiên tỉ không hiểu được đâu, tôi chỉ nói vắn tắt một chút thôi. Gia đình tôi hiện có thế lực rất lớn trong kinh sư, là nhà phú quí đệ nhất. Hễ là quần áo mặc, đồ ăn uống, nhà cửa, đồ dùng thường ngày, thứ gì trong phủ đệ của tôi cũng là thứ sang trọng nhất. Ngoại trừ hoàng đế, không ai vượt qua chúng tôi. Theo tôi thấy, tiên tỉ xinh. đẹp thế này, chính là thần tiên trên trời, chốn nhà tranh nơi hoang sơn há có thể cất giấu người yêu kiều, mà ngôi đền của các đạo sĩ cũng chẳng phải là nơi để người cao quí dung thân.
Tiên cô nghe những lời hoa mỹ như thế, lại vái một vái, nói :
- Được rồi, tôi đã hiểu ý công tử. Những lời công tử vừa nói đại khái là tâng bốc vẻ sang trọng nhà mình, và cho rằng những người xinh đẹp như tôi đều nên dời chỗ, tới quí phủ mà trú ngụ, có đúng vậy không ?
Công tứ nghe nói, bất giác vui mừng, dậm chân múa tay, miệng nói lia :
- Không sai chút nào, không sai chút nào ? Tiên tỉ là một nhân vật trong đám thần tiên, ngoại trừ nhà tôi, nhà cao vườn rộng, còn nơi nào khác xứng đáng cho tiên tỉ trú ngụ nữa chứ ? Ngoài ra, hễ mặc thì toàn là gấm vóc, lụa là, ăn thì toàn là sơn hào hải vị, thứ gì cũng chuẩn bị đầy đủ. Tiên tỉ chỉ cần nói ra một tiếng, lập tức có người đưa đến tận nơi, tùy ý cô thụ hưởng. Khí tượng đó chỉ có trong nhà tôi, làm gì có nhà thứ hai được vậy ? Và ngoài tiên tỉ ra, còn ai khác xứng đáng hưởng phúc phận như thế ? Tiên tỉ là người thông minh, hãy suy nghĩ kỹ, ở ngôi đền này, sống chung với đám đạo sĩ quê mùa, ngu dốt, có gì là tốt ? Hãy theo công tử ta cùng về nhà, hưởng phú quí, an lạc, mới là tốt đẹp.
Tiên cô không thèm suy nghĩ, lập tức tươi cười, nói :
- Nếu nhà công từ quả có những điều tốt đẹp như thế, công tử chẳng cần mời, tôi cũng tìm tới. Huống hồ công tử lại ân cần mời mọc, lẽ nào tôi lại chẳng tới, ở chơi vài hôm ?
Nói rồi, xoay mình, hướng về phía công tứ, đưa tay vẫy, nói :
- Ta đi thôi !
Công tử thấy cô nữa đùa nữa thật, nói cười tỉnh queo, vượt ra ngoài ý nghĩ của mình, chẳng biết cô thuận tùng hay kháng cự.
Nhưng cho dù cô có vẻ mạnh tợn, chung qui cũng chỉ là một cô gái yếu đuối thuộc hạ của mình đông đảo, phòng ốc nhà mình cao rộng, cô có chắp cánh mà bay thoát được chăng ? Tiên cô chẳng cần đưa tay vẫy công tử vẫn lùi lũi theo sau. Tiên cô cười, đưa tay chỉ đám thủ hạ của công tử, nói:
- Những tên này là ai vậy ? Ta thấy mặt chúng, liền bực bội trong lòng, hãy để chúng ở đây đợi một thời gian, có được không ?
Công tử nghe vậy, tỏ vẻ ngần ngừ, nào ngờ tiên cô vừa chỉ một ngón tay, đám người kia đã trố mắt nhìn nhau, đứng chôn chân tại chỗ, cất bước không nổi. Công tử chưa từng thấy cảnh này bao giờ, vội nói :
- Những người này đều là người bảo vệ cho tôi và cô, tại sao phải xứ ép họ như thế ?
Tiên cô không đáp, chỉ đưa tay đập lên vai anh ta một cái, nói: “Đi thôi ?", công tử liền cảm thấy không thể tự chủ, tự động đi theo tiên cô, thất tha thất thểu bước ra cửa.
Hai người bước vào căn phòng lớn trong đền, liền thấy một đám đạo sĩ đang ở đó bàn tán, nói đạo cô gặp được công tử, nên tỏ ra biết điều, sẽ được lập làm một vị tiểu phu nhân; nếu chống đối cậu tính mạng cô khó nỗi bảo toàn, cũng chẳng có ai thân oan cho cô. Người khác nói đàn bà, con gái ai mà chẳng tham phong lưu, ưa phú quí, đạo cô này chẳng biết ăn phải thứ gì mà lú lẫn, đòi xuất gia, nay gặp được cơ duyên này, há chẳng phải đúng ý nguyện của cô hay sao ? Tiên cô cùng Triệu công từ vừa bước tới nghe lọt tai không sót một câu, cảm thấy khó chịu. Cô đang tính thi thố chút đạo thuật, trừng trị bọn người khắc bạc này một phen, bỗng từ phía trước tiến lại một đạo nhân, thấy tiên cô, liền bắt quyết niệm chú, như thể đang làm phép. Đạo nhân mỉm cười, hướng về những người bị tiên cô đưa tay chỉ, há miệng thổi một làn hơi, pháp lực của tiên cô liền mất hết hiệu lực. Tiên cô kinh hãi, vội hướng về phía đạo nhân thi lễ. Đạo nhân cũng đáp lễ, và lên tiếng trước :
- Đạo hữu cần gì phải đối phó với bọn người ngu xuẩn, vô tri này ? Người tu đạo ôm lòng đại độ, có điểm nào mà không dung nổi người khác ? Theo ý bần đạo, nên dung tha cho họ một phen !
Tiên cô muốn đem nguyên nhân sự việc này kể rõ cho đạo nhân biết, nhưng vướng có Triệu công từ đi đằng sau, cử động không thuận tiện, đành hướng về phía đạo nhân, gật đầu vài cái, nói vắn tắt một câu :
- Ngày khác sẽ xin nói rõ.
Nói rồi, bỏ đi liền. Triệu công tử như ngây như dại, lẽo đẽo theo sau đạo cô, chỉ nghe đạo nhân ở trong phòng vỗ tay, cười lớn tiếng :
- Tốt, tốt. Thằng khốn hôm nay gặp phải kẻ đối đầu, nếm mùi đau khổ không ít.
Tiên cô nghe vậy càng kinh hãi, tự động quay nhìn đạo nhân, nở một nụ cười, tỏ ý khâm phục ông đạo hạnh cao thâm, và mong ông giúp đỡ mình. Đạo nhân cũng gật đầu vài cái, mỉm cười mà không nói gì.
Ra khỏi đạo quán, tiên cô đẩy Triệu công tử lên trước, hét lên :
- Ngươi không dẫn đường, bắt ta đi trước mở đường hay sao ?
Triệu công tử không thể há miệng ra nổi, đành đi lên trước, nhắm hướng đường dẫn về phủ đệ của mình, hấp tấp bước đi. Phía trước có tới mấy con đường ngang, không biết nên đi theo ngả nào.
Tiên cô vừa cất bước, liền cảm thấy hai chân nhẹ bẫng, phiêu phiêu như đang cười mây. Tới một nơi nọ, không thấy cảm giác đó nữa, tiên cô kinh hãi, nghĩ thầm : "Đây chẳng phải phép rút đất của tiên gia ư ? Sư tôn và sư tỉ ta đều có bản lãnh này, nhưng họ ở cách xa vạn dặm, tất nhiên không thể tới đây, giúp đỡ ta. Chẳng lẽ là đạo nhân nọ bày trò hư ảo ? Nhìn mặt đạo nhân thì thấy đầy dẫy chính khí, quyết không phải người thi thố đạo thuật bất nhân để giúp Trụ làm ác. Được ông ta giúp sức, cũng đỡ lắm chứ". Nghĩ tới đó thì đã đi đến cổng lớn Triệu phủ. Triệu công tử cứ lùi lũi đi trước, tiến thẳng vào cổng, không quay đầu nhìn lại tiên cô. Mấy người lính gác cổng đều đứng nghiêm, tiên cô vẫn mạnh dạn vào theo. Chúng thấy công tử không vời gọi đạo cô, ngờ rằng không phải hai người đi chung, nhưng xưa nay vốn biết công tử tinh khí hung hăng, lỡ ra công tử mời đạo cô này về chơi, mà mình ngăn cản, đố khỏi bị công tử đánh bỏ mạng. Vì thế, họ không nói gì, để mặc hai người thong dong bước vào, đi qua nhiều lớp nhà, tới một căn phòng nhỏ ở tuốt đằng sau, là nơi Triệu Cao thường tiếp khách. Tiên cô đưa tay ra, giữ công tử đứng lại, nói : "Ngừng !", công tử liền dừng chân. Tức thì từ ngoài tiến vào một vị phu nhân, cùng một đám hầu gái, xúm quanh công tử mà hỏi săn hỏi đón, sao công tử không tiến vào thượng phòng đi. Quay đầu nhìn thấy tiên cô, mọi người ồn ào khen đẹp, nói công tử đón về được một vị thiên tiên, tha hồ mà làm mưa làm gió. Từ đầu đến cuối, công tử không nói một câu, cứ ngây người ra mà đứng nhìn tiên cô, nước giãi lòng thòng, cặp mắt trắng dã, rõ ràng đang bị tà nhập. Đám gia nhân đông đảo lúc đó mới nhận ra tình huống bất ổn, không biết đường nào đối phó. Mọi người nhìn tiên cô chằm bẳm, tiên cô mới tươi cười nhìn lại, nói:
- Mấy người không nhận biết ta đâu. Ta vốn là một người xuất gia tu đạo, bình sinh không biết cái gì gọi là hưởng phúc, chưa từng nghĩ tới chuyện vinh hoa phú quí, ăn ngon mặc đẹp. Không ngờ công tử nhà mấy người bất chợt nhìn thấy ta, lên tiếng yêu cầu mời ta tới nhà hưởng thụ những gì là thiên hạ hiếm có, trên đời không hai, nào là ăn mặc, nào là nhà cửa, nào là đồ đạc, đủ thứ sang trọng. Ta đã không thèm trả lời, mà công tử của mấy người cứ lải nhải nói, ân cần mời mọc, lại chê ta là không biết điều coi thường thịnh ý của người khác. Ta nghe bùi tai, không khách sáo nữa, từ Thanh Hư Quán tới thẳng chỗ này. Những tưởng công tử sẽ mau mau đem ra cho ta coi những điều cậu đã khoe khoang, ai ngờ trên đường đi, dường như cậu ta bị quỉ ám thì phải, đã không vời gọi ta, cũng chẳng nói năng, khiến ta lâm vào tình huống nan giải, đi cũng dở, ở không xong. Coi mấy người đã tức cười chưa kìa, cứ như thể một đám tượng đất, người gỗ, đứng ngây người ra mà nhìn ta chăm bẩm. Thử ngó lại công tử nhà mấy người coi, có đúng là bị ma làm hay không ? Đã không đưa ta coi những điều mình khoe khoang, lại không đáp lễ khách mời, chẳng còn đáng vẻ gì của một vị công tử.
Nói rồi, nhìn đám người kia, tỏ vẻ giễu cợt. Trong đám đông có người tinh ý, hiểu được rằng tiên cô ắt có chút pháp lực, và nhất định công tử đã đắc tội với cô, nên cô mới thi thố pháp thuật, khiến chàng ta mê man, để cảnh cáo.
Mọi người đang nhỏ to bàn bạc, bỗng từ bên ngoài có người hộc tốc chạy tới, mồ hôi ra ướt dẫm. Mọi người nhìn xem, thì ra là một tì tướng trong phủ, thường ngày vẫn theo công tử ra vào phục dịch, làm lắm chuyện bê bối, hôm nay vì có chuyện riêng xin nghỉ, không đi theo công tử tới Thanh Hư Quán. Bấy giờ, anh ta nghe được tin tức, cho biết bọn người được công tử dẫn theo đã bị một nữ đạo sĩ dùng phép thuật giữ chôn chân trong đền, không thể cử động, cũng chẳng nói năng, mà nữ đạo sĩ đó còn sai khiến công tử, buộc phải đưa cô về phủ. Vì thế, anh tì tướng vội chạy về báo tin.
Vừa tới phòng khách, thấy tình huống áp bức, anh ta liền đưa tay chỉ tiên cô, to tiếng nói với mọi người :  
- Sao các vị còn chưa đi bẩm báo lão đại nhân, bắt trói ngay con yêu phụ ? Công tử đã mắc phải phép tà của ả rồi đó.
Vì thế, hắn đem những điều đã nghe được kể lại với mọi người.
Trong đám đông có một cô gái lanh lợi, vội chạy đi báo tin. Tiên cô giả tảng như người vô sự, ở trong phòng đi tới đi lui. Nghe tì tướng báo cáo, cô chỉ mỉm cười nhìn hắn, gật đầu vài cái. Tì tướng này vốn là người thô lỗ, lại đang muốn lập công, liền đưa cao nắm đấm, hét lên :
- Các anh em mau lại đây, cùng bắt trói yêu nhân, đem trình diện lão đại nhân ?
Mọi người nghe hô hào, lại thấy tiên cô chẳng nói, cũng chẳng hành động, cho rằng cô chẳng có chút bản lãnh nào, mới tranh nhau xông lên, hùng hùng hổ hổ, cùng nhau vây lấy tiên cô. Tiên cô cất tiếng cười vang, cây phất trần trong tay quét qua bốn phía một lượt, mọi người liền thấy chung quanh toàn là những vị Triệu công tử, tất cả đều hướng về phía đám gia nhân mà vẫy tay ngăn cản. Lúc tìm tới tiên cô, chỉ nghe tiếng cười, không thấy hình bóng. Mọi người sợ làm tổn thương tới thân thể công tử, tự nhiên không dám động thủ, chỉ hò hét loạn lên, không biết trong đám công tử đông đảo, có vị nào là Triệu công tử thật tình hay không.
Vạn nhất có công tử thứ thật trong đó, mà mình vung tay loạn đả, há chẳng đánh chết công từ hay sao ? Mọi người đành dừng tay, đứng ngó.
Một lúc sau, có người báo tin đại nhân đã trở về phủ. Mọi người vội chạy ra ngoài nghênh đón. Lát sau, một đám gia nhân nam và nữ, thật đông đảo, vây quanh, đưa rước một ông lão mặt trắng, không râu, thân hình to lớn, tuổi đã cao, ồn ào tiến vào.
Tiên cô lại xuất hiện, chỉ một ngón tay, bắt đám đông công tử tiến lên. phía trước, tự mình ẩn thân phía sau, hét lên một tiếng : "Quì xuống !",toàn thể công tử vội phục xuống đất. Tiên cô lại hô :
- Sao không nói một tiếng "gia gia !" ?
Đám công tử nhất tề hô : "Gia gia !". Trong giây lát, tiếng "Gia gia" vang động khắp phòng, ầm ĩ như tiếng quân reo, ngựa hí trên bãi chiến trường. Vừa tới nhà, vị Triệu đại nhân, Triệu Cao đã bị chọc ghẹo, vừa ngạc nhiên vừa khiếp sợ, lúng túng không biết phải làm gì. Đám gia nhân nam nữ không nhịn nổi, cất tiếng cười ha hả. Triệu Cao không làm gì được tiên cô, lại không phân biệt nổi đâu là Triệu công tử thật, đâu là giả, bực quá phát giận, cất tiếng chửi mắng om sòm. Lúc đó, trong phòng chật ních những Triệu công tử, quì gối la liệt, ngăn cản Triệu Cao không có chỗ đặt chân.
Không biết làm sao, Triệu Cao đành tìm đường thoái lui, ra khỏi căn phòng. Lập tức lại có thêm vô số công tử quì xuống cản đường.
Loay hoay một hồi, Triệu Cao cũng ra được cửa phủ. Cũng may, đám kiệu và ngựa vẫn đậu ở đó, chưa giải tán. Triệu Cao vội lên kiệu, hồi triều, tới cửa cung đình. ông ta vốn là thủ lĩnh thái giám, lại được hoàng đế sủng tín, tự nhiên là chẳng ai dám ngăn cản.
Lúc đó, hoàng đế đang ở chỗ Tây cung Hoàng hậu. ông ta vội đến chỗ đó, quì dài trước mặt hoàng đế, khấu đầu lạy bôm bốp, nước mắt như mưa, miệng kêu :
- Bệ hạ cứu mạng ! Bệ hạ mau cứu tính mạng cả nhà hạ thần !
Tần Thủy Hoàng đang ở Tây cung, cùng hoàng hậu bàn luận những chuyện thần tiên từ xưa đến nay. Hoàng đế nói :
- Trẫm làm thiên tử, trị vì khắp cõi, tại sao phúc khí của trẫm không bằng các vị thần tiên ? Thần tiên có thể trường sinh, trẫm tuy ở địa vị cao quí ngang với thần tiên, nhưng khi đại hạn lâm đầu vẫn không thoát khỏi xuôi tay, về trời. Nhớ lại năm xưa, trẫm nửa đời ngồi trên yên ngựa, dẹp yên thiên hạ, lập nên sự nghiệp lẫy lừng, muôn đời không có. Vậy mà về mặt thụ hưởng, đã được gì đâu chung qui cũng về chầu trời, há chẳng đáng tiếc, đáng đau lòng lắm sao ?
Tây cung nhân đó nói :
- Trước đây, bệ hạ đã phái Từ Phúc dẫn theo một bọn đồng nam, đồng nữ, cưỡi bè vượt biển, tìm tới đảo Bồng Lai, cầu thuật trường sinh, sao đã lâu vẫn chưa thấy về ?
Thủy Hoàng lắc đầu :
- Từ Phúc quả là một người trung thành, thật thà. Trẫm đã đem việc lớn này giao cho ông ta đi lo giải quyết, chắc chắn ông ta không làm hỏng việc đâu. Chẳng qua là tình hình trên biển khác với trên đất liền, hành trình lâu mau, không thể tính trước được. Lại thêm trên biển, mưa gió rất nhiều, sóng lớn thường xuyên nổi lên. Gặp những ngày như thế,làm sao có thể khởi hành, đành phải neo thuyền lại bên bờ, đợi trời tạnh, gió lặng, mới có thể tiếp tục lên đường. Vả lại, Bồng Lai ở chỗ nào, chỉ thấy ghi trong sử sách, chứ chưa từng nghe có người tới được nơi đó. Lần đó, Từ Phúc bẩm báo trước mặt trẫm, hứa hẹn thời gian năm năm, có thể trở về.
Nhất định ông ấy sẽ vì trẫm cầu được linh đan, tiên dược. Thời hạn có lẽ dài đấy, nhưng công việc này chẳng phải dễ dàng. Chỉ mong sao cầu được thuốc tiên, dầu chậm trễ có hại gì đâu ?
Tây cung chưa kịp nói tiếp, Triệu Cao đã xồng xộc chạy vào cung, quì xuống khóc lóc. Hai vị đế, hậu ngạc nhiên, vội hỏi :
- Có việc gì khó khăn, hãy mau bẩm báo, trẫm sẽ giải quyết cho ngươi.
Triệu Cao khóc và nói :
- Đội ơn bệ hạ và nương nương sủng tín, hạ thần còn gặp phải chuyện khó khăn gì chứ ! Chẳng ngờ hôm nay, thần tan chầu trở về nhà, bỗng thấy trong nhà thần có một nữ yêu tìm tới, làm nhục nghĩa tử của hạ thần, cùng với một đám gia nhân theo hầu. Xưa nay thần chưa bao giờ gặp phải một sự nhục nhã như thế. Việc này có quan hệ tới thể diện quốc gia, vì hạ thần là quan đại thần, mà trong phủ đệ có yêu nhân tới lăng nhục, còn gì là quốc gia pháp lệnh, còn gì là vẻ oai nghiêm của triều đình? Xin bệ hạ rũ lòng thương kẻ hạ thần chịu nhục, mà ngự giá tới nhà thần, bắt yêu nhân, giữ vững pháp lệnh tôn nghiêm, thì may mắn cho cả nhà hạ thần.
Triệu Cao bẩm xong, lén nhòm vẻ mặt hoàng đế, nào ngờ Thủy Hoàng không tỏ vẻ gì là ngạc nhiên, kinh hãi, còn cất tiếng cười hà hà.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 12.07.2008 10:29:27
Hồi Thứ 37

Can bạo chúa, tiên cô phát thiện niệm
Bắt beo lớn, cậu bé vung hai tay.


Nghe Triệu Cao nói nhà mình mới phát hiện yêu tinh, Thủy Hoàng chẳng ngạc nhiên, còn vui vẻ nói :
- Khanh hãy đứng dậy. Theo trẫm nghĩ, giữa chốn kinh thành, nơi trẫm ngự trị, làm gì có yêu nhân nào to gan, dám xuất hiện giữa ban ngày ? Đây hẳn là trong nhà khanh có người đắc tội với người tiên, nên người tiên mới giáng hạ trong phủ, để trừng phạt, cảnh cáo đấy thôi. Nay trẫm đang tìm tiên cầu đạo, đã có chân tiên đến đây, chắc là ngài không nỡ ghét bỏ trẫm, có lòng muốn gặp trẫm, mà chưa tìm ra duyên cớ để tiến cung, mới cố ý hiển thị linh dị tại nhà một bày tôi thân tín của trẫm, để trẫm đích thân tới nơi đàm đạo, việc đó cũng chưa biết chừng.
Triệu Cao nghe Thủy Hoàng nói, quả là vượt ra ngoài sự suy tính của hắn. Nhưng hắn là người vô cùng nhạy bén. Hoàng đế đã có thành kiến như thế, làm sao thay đổi được ? Vả lại, nhân dịp này, hướng dẫn cho hoàng đế tới gặp người tiên, bản thân mình há phải vô công ? Vì thế, hắn đổi hẳn thái độ, khấu đầu, nói :
- Thần quả ngu muội, nhất thời bị người tiên chọc ghẹo, đến nỗi thần hồn điên đảo, đã nhận lầm người tiên kẻ yêu quái. Nay nghĩ lại, mới biết bệ hạ oai vũ thánh minh, ngự trị chốn này, yêu nhân một khi tới kinh thành, lập tức có bách thần xua đuổi, làm gì có chỗ dung thân ? Theo đó mà suy, người mà gia nhân nhà hạ thần nhìn thấy ắt là người tiên, chẳng phải nghi ngờ. Phải có thiên chất thông minh như bệ hạ, mới nghĩ ngay ra được đạo lý đó. Vậy xin bệ hạ ngự giá tới nhà thần, tiếp kiến vị tiên nhân, khiến tiên nhân hiểu được bệ hạ chân thành cầu đạo, sớm truyền cho kim đan đại đạo, ban cho trường sinh diệu dược. Thần xin về nhà trước, nói rõ ý bệ hạ cho người tiên biết, và cùng nhau chờ đợi tiếp giá, có được không ?
Thủy Hoàng rất hài lòng, nói :
- Lời khanh nói rất hợp ý trẫm. Khanh mau về nhà, trẫm sẽ tới liền.
Triệu Cao đổi giọng làm mừng, đổi lo làm vui, hân hoan trở về nhà .
Sau khi Triệu Cao đi rồi, nhà họ Triệu không còn ai làm chủ, tiên cô mới thu hồi pháp lực. Tức thì, tất cả những công tử giả biến mất, chỉ còn lại một công tử thật, đã phục hồi linh tính, đưa mắt nhìn tiên cô và đám gia nhân đông đảo, như trong một cơn mộng dài. Nhớ lại những chuyện đã xảy ra, công tử thấy mình lúc đó hoàn toàn tỉnh táo, chỉ không cử động nổi chân tay, cũng không thốt ra được một lời. Bây giờ được tự do, mới biết tiên cô chẳng phải cô gái tầm thường, mà là thiên tiên chuyển thế. Nhất thời chưa biết nên làm gì, đã thấy tiên cô vẫy tay vời gọi, công tử tự động quì xuống, lết đầu gối tiến lại. Tiên cô nghiêm sắc mặt, lên tiếng trách mắng :
- Cha nuôi ngươi chẳng qua chỉ là một tên tiểu nhân đầu đường xó chợ, có tài đức gì chứ ? Chỉ nhờ khéo dùng lời xảo trá ton hót, vừa ý hoàng đế mà được tin dùng. Từ thân phận thái giám lên tới chỗ hiển hách hiện nay, lẽ ra hắn phải biết an phận, giữ mình, mới là hợp đạo lý. Có đâu ỷ thế chúa thương, làm lắm chuyện bất tiếu trên lừa dối thiên tử, dưới áp chế công khanh, bao nhiêu tài sản của dân chúng vét sạch sành sanh, còn dám dẫn dụ thiên tử thi hành ngược chính nữa chứ. Với những hành vi như thế, trời khó dung tha, ngày diệt tộc chẳng còn xa nữa. Ngươi làm con, đã không nghĩ chuyện khuyên cha làm điều tốt, giảm bớt một phần tội nghiệt, còn cậy thế cha mà hoành hành, cưỡng bức phụ nữ nhà lành, hại người ta tan cửa nát nhà, luận về tội danh, không kém cha ngươi chút nào. Hôm nay bần đạo nhờ có chút pháp lực, mới tránh khỏi độc thủ của ngươi. Nếu không, lúc này đã ở điện Sum La làm con ma hàm oan. Chiếu theo những việc ngươi làm, chỉ nên thí cho ngươi một mũi gươm, giải oan khí cho những người bị ngươi hại trước đây. Nhưng bần đạo vâng pháp chỉ của sư tôn, không cho khinh suất giết người, lại vì cha con ngươi tội ác tuy chất đầy, nhưng kiếp số chưa dứt, phải đợi thêm vài năm nữa, tội lỗi cha con ngươi hiện rõ, tự nhiên sẽ có báo ứng mãnh liệt.. Hãy nói rõ cho cha ngươi biết, cả nhà cứ đợi mà xem !
Triệu công tứ nghe lời dạy dỗ, răn trừng, trong lòng hiểu rất rõ. Nhưng xưa nay hắn phóng ý hại ngươi, chưa có ai làm gì được hắn, nên hắn không biết thế nào là nhận tội, thế nào là hối lỗi.
Nay nhận lời huấn giáo của tiên cô, hắn giương mắt ra nhìn, lộ vẻ hung quang. Tiên cô bất giác buông tiếng thở dài, nói với đám gia nhân đứng hai bên :
- Các ngươi hãy coi công tử nhà các ngươi, xem tinh thần hắn ra sao ? Nếu không phải là ta, người khác gặp hắn lúc này, chắc chắn hắn đã nhào ngay tới, lấy mạng không tha. Tiếc thay những lời ta vừa giáo huấn, không câu nào lọt vào tai hắn ? Ta cũng chẳng buồn nói nhiều với hắn cho phí lời. Tuy nhiên, dẫu ta không nỡ giết hắn, cũng không thể để hắn ra ngoài làm hại các cô gái nhà lành. Vậy nên, ta sẽ trổ chút pháp thuật, khiến các kinh mạch trong người hắn không thể vận hành bình thường, ít nhất cũng khiến hắn mang bệnh tê liệt, đừng nói là có thể ra ngoài làm ác, ngay cả động mạnh, cũng hao phí tinh lực, trở thành phế vật.
Mọi người nghe vậy, kinh hãi quá chừng. Tất cả vội quì xuống trước mặt tiên cô, dập đầu lạy bôm bốp, cất tiếng van xin tiên cô dung tha cho công tử nhà mình. Tiên cô mỉm cười, nói :
- Các ngươi nên biết, vừa rồi ta đã khuyên nhủ tử tế, nếu công tử nhà các ngươi biết hối ngộ, đã có thể bước vào Đạo môn, chẳng những được miễn tội, còn có thể tu luyện thành tiên. Nhưng hiện thấy hắn chẳng có vẻ gì là hối ngộ, còn lộ ý oán hận trên sắc mặt, đủ hiểu hắn là một tên gian ác, ngang ngược không sửa đổi. Lưu tính mạng cho hắn là tử tế lắm rồi, làm sao có thể để hắn ra ngoài hại người nữa chứ ?
Nói rồi, thò một ngón tay, điểm vào tám chỗ huyệt đạo trên mình Triệu công tứ. Chỉ nghe công từ la lên một tiếng : "ôi chao!", ngã vật ra đằng sau, nằm lăn trên đất mà rên rỉ. Mọi người kinh hãi, vội chạy tới nâng đỡ công tử. Tiên cô nói :
- Hai người trong các ngươi đỡ hai bên vai hắn, dìu đi, vì hắn không còn khí lực để hành động nữa.
Câu nói chưa dứt, bên ngoài đã có người chạy vào, báo tin
Triệu đại nhân về tới. Tiên cô lấy làm lạ : Vì sao Triệu Cao còn có can đảm tới gặp ta ? Ta cứ ngồi cao chỗ sảnh đường, đợi hắn tiến vào coi hắn nói gì.
Chẳng dè Triệu Cao vừa thấy tiên cô, liền quì ngay xuống, lết đầu gối tiến lại, hô to :
- Xin người tiên tha mạng. Hạ quan thật tình không biết người tiên giáng hạ, vừa rồi đã đắc tội rất nhiều. Lại nghe tiểu nhi chẳng chịu nghe lời giáo huấn, tiên cô đã trừng phạt nhẹ, hạ quan muôn phần cảm kích. Vừa rồi, hạ quan đã bẩm báo cùng đương kim thiên tử, ngài ban chỉ dạy hạ quan về đây trước, xin tiên cô tạm lưu pháp giá, thiên tử sẽ tức khắc tới đây, cùng tiên cô tương kiến.
Tiên cô nghe vậy, chẳng biết hắn định dở trò gì nữa đây, nhưng hắn đã lấy lễ đối xử, ta không thể thất lễ, mới mỉm cười, xua tay :
- Mời đứng dậy, mời đứng dậy ! Lệnh lang không chịu lời giáo huấn, bần đạo lại không nỡ để dân chúng mắc vạ, nên có răn trừng, chỉ khiến cậu ta không thể làm ác, sau này toàn gia đại nhân khỏi bị liên lụy. Còn việc hoàng đế giá lâm, bần đạo chẳng dám nhận, bần đạo sẽ tự tiến vào cung triều kiến. Bần đạo không phải kim tiên thượng giới, chỉ biết sơ qua về đạo tu tiên, xin cứ thật tình nói rõ, không chút kiêng kị. Nếu chỉ ngoài mặt lấy tiếng là mộ đạo, mà trong lòng vẫn giữ ý niệm làm ác, thì dẫu có lên triều kiến tổ sư, diện kiến Ngọc Hoàng, cũng khó mà cầu được thuật trường sinh. Bần đạo chưa có chút công hạnh nào, làm sao có đủ pháp lực, giúp được cho ông ấy ?
Nói rồi, lại mỉm cười, nhìn ngay mặt Triệu Cao, nói tiếp :
- Hãy thay ta, từ tạ cùng hoàng đế. Bần đạo cáo biệt.
Tiên cô phất tay áo một cái, tức thì ánh sáng hồng tỏa ra khắp phòng, từng đợt mùi thơm lạ bay ra, xông vào mũi, khiến người ta sảng khoái.
Triệu Cao đang xét hỏi bệnh trạng con trai, xa giá Thủy Hoàng đã tới nhà. Hắn vội ra ngoài, quì xuống tiếp giá, dẫn vào trong nhà, đem những lời tiên cô đã căn dặn, bẩm báo lại một lượt. Thủy Hoàng phật ý, nói :
- Người tiên chưa hỏi trẫm có lòng chân thành hay không, đã bỏ đi ngay, làm sao trẫm có thể biểu lộ cho thấy ?
Triệu Cao vội bẩm :
- Theo khẩu khí, dường như người tiên thâm cảm thánh ân, sẽ tự tiến cung triều kiến, bệ hạ chỉ việc ở trong thâm cung, đợi tiên cô giáng hạ, thỉnh cầu đạo thần tiên, chắc là được đấy.
Thủy Hoàng nghe vậy, chỉ hỏi thêm về tình hình người tiên giáng hạ nhà họ Triệu ra sao, Triệu Cao đem bệnh trạng của con trai bẩm báo một lượt.
Thủy Hoàng hồi cung, nghe hoàng hậu và các vị phi tần đang tụ tập tại ngự hoa viên, liền bảo hai đại thái giám đi theo mình tới vườn hoa, và sai một tiểu thái giám tới đó trước để thông báo.
Hoàng hậu dẫn dắt đám phi tần bước ra, quì xuống nghênh đón.
Thủy Hoàng vào tới cửa cung, nắm tay hoàng hậu, cười hỏi :
- Vì sao các ái khanh kéo hết ra đây ?
Hoàng hậu bẩm :
- Bẩm bệ hạ, vừa rồi trong cung phát hiện trên không trung có đám mây ngũ sắc, một vị tiên nữ đứng trên đó, một tay cầm phất trần, một tay quăng xuống một giải lụa trắng, rơi vào vườn hoa. Vì thế, mọi người mới chạy tới xem.
Nói rồi, hai tay nâng tấm lụa bạch dâng lên Thủy Hoàng,Thủy Hoàng tiếp nhận, cầm xem, thấy trên tấm lụa có viết hàng chữ : “Dưỡng tâm, không gì tốt bằng quả dục; cầu đạo, trước phải thương dân", bên dưới lại viết một chữ "Hà". Thủy Hoàng xem xong, bất giác cười nhạt, nói :
- Đây là nữ đạo sĩ ở nhà họ Triệu. Đã là người tiên, sao lại nói ra những lời vu vơ thế này ?
Hoàng hậu bẩm :
- Lại là những lời bàn luận của bọn hủ nho. Trước đây, bệ hạ đã cho chôn sống mấy trăm vị tiên sinh như thế, nên đã lâu nên đã lâu không còn nghe lời bàn ra tán vào. Ai mượn cô ta tới đây nhiều lời chứ?
Thủy Hoàng nghe vậy, đột nhiên nhớ ra một chuyện, nói :
- Trước đây có nghe triều thần bẩm báo : những chỗ sơn hải, sông ngòi đều có thần tiên chưởng quản, riêng thần sông Hoàng hà có đạo pháp cao nhất, ta nên dùng bạch bích, lụa trắng để tế, cầu được cho trẫm sống lâu muôn tuổi. Lúc đó đã phái đại thần thay mặt trẫm tới cầu đảo, đến nay chưa thấy về. Hôm qua lại có một phương sĩ, tự khoe có tài hô phong hoán vũ, sai khiến quỉ sứ, thần binh, trẫm đã định hôm nay vời ông ta vào triều làm thí nghiệm trước mặt trẫm, không dè lắm việc, đã quên đi mất. Ngày mai phải điều tra hai việc đó cho rõ ràng mới được.
Thần tiên tất nhiên là phải có rồi, nhưng có những người chỉ biết sơ qua về đạo pháp, cùng những kẻ chẳng nhiều bản lãnh, nghe thiên tử chuộng đạo, vì cầu phú quí mà xin ra mắt, tự khoe kỹ năng, kỳ thực chẳng liên quan gì tới đại đạo. Những hạng người đó, bệ hạ chẳng thể không đề phòng.
Thủy Hoàng gật đầu :
- Ngự thê nói rất đúng. Trẫm cũng thường đề phòng bọn người đó lừa dối, nên phải bắt thí nghiệm trước mặt trẫm một lần, mới có thể tin được.
Hoàng hậu và các phi tần đều xưng tụng :
- Bệ hạ thánh minh !
Thủy Hoàng rất hài lòng, liền sai thái giám truyền chỉ, đặt một tiệc ở ngôi nhà giữa hồ, trong vườn hoa, cùng hoàng hậu và phi tần uống rượu làm vui.
Lại nói về Hà tiên cô sau khi rời khỏi nhà họ Triệu, liền dùng phép ẩn thân, đứng ở bên trái nhà đó, đợi một hồi. Quả nhiên thấy xa giá Thủy Hoàng tới, tiên cô cảm động trong lòng, nghĩ tới câu : “người có thiện niệm, trời cũng chiều theo". Thủy Hoàng tuy có hành động bạo ngược, xét cho cùng vẫn là chủ thiên hạ. Nếu lúc này, ông hối ngộ những sai lầm ngày trước, sửa đổi chính sách đối với dân, có thể tạo được rất nhiều phúc đức, vãn hồi mệnh vận, đó cũng chẳng phải việc khó khăn. Ông ấy đã đem thành tâm đối xử với ta, ta cũng nên hết lòng vì ông ấy. Trước hết, nên tới khuyên can ông vài câu. Nghĩ vậy rồi, tiên cô lấy tấm lụa trắng, viết lên đó hai câu, cưỡi mây bay vào cung, cố ý hiển lộ nguyên thân cho mọi người đều thấy, rồi từ trên cao vất tấm vải lụa có viết chữ vào trong cung, cũng có chút hy vọng rằng người trong cung sẽ tán tụng chuyện kỳ lạ, xác tín thần tiên. Đợi Thủy Hoàng hồi cung, mọi người ắt đem chuyện bẩm báo, càng dễ kiên định được lòng tín ngưỡng thần tiên của nhà vua. Ai ngờ Thủy Hoàng mắt thịt, bỏ qua không thèm ngó tới. Quả là điều tiên cô không thể tính kịp.
Tiên cô quăng tấm lụa xuống rồi, lập tức trở lại đạo quán. Đưa mắt tìm đám tùy tùng của Triệu công tử, chẳng thấy một tên. Tiên cô cười, nghĩ thầm : "Chẳng cần nhắc tới chuyện này. Lại là một trò đùa của vị pháp sư nọ bày ra. Ta muốn tìm ông ấy, cứ tới hỏi lão đạo là ra". Vừa tính cất bước, không ngờ đã thấy lão đạo từ phía trước tiến lại, vừa thấy mặt tiên cô đã lên tiếng trách móc :
- Đạo hữu, cô hại người rồi ! Tôi đã nói rõ, khuyên cô đừng tá túc tại đây, cô chẳng chịu tin, chạm trán ngay vị Triệu công tử nọ. Là người có đạo hạnh, sao cô tùy tiện thi thố chút pháp thuật, phá phách đám gia nhân của cậu ta đến thất điên bát đảo, chúng tôi tưởng tượng cũng không nổi ? Ở dưới thế lực to lớn của nhà đó, làm sao chúng tôi thoát khỏi tay họ ? Vừa rồi, họ đã phái lính tới đây, bắt đi của chúng tôi một vị pháp sư họ Lưu, không hiểu bị kết tội gì. Chuyện đó chẳng cần nhắc tới nữa, chỉ biết cô không quản nổi quá nhiều việc rắc rối trong vụ này. Từ nay trở đi, ngôi đền này quyết không lưu giữ khách trọ lỡ độ đường. Cam thất lễ cùng đạo hữu, xin cô tìm nơi khác mà nghỉ chân.
Tiên cô nghe nói, vừa kinh ngạc, vừa giận. Thấy họ quyết liệt từ chối, cô không tiện nấn ná, chỉ hỏi :
- Lưu pháp sư cũng có đạo pháp, vì sao bị chúng làm nhục ? Về phần bần đạo, cũng không cần phải có chỗ trú nhất định, muốn đi là đi hà tất phải trở lại quấy rầy các vị ? Chỉ xin hỏi một câu. Vừa rồi, lúc tôi áp giải Triệu công tử ra khỏi đền, có một vị đạo trưởng vẫy tay với bần đạo, nhưng vì mắc công việc bên mình, chưa kịp hỏi kỹ. Nay xin hỏi đạo trưởng vị đó có phải Phí pháp sư hay không ? ông ta trú trong đền này, liệu có nhà riêng nữa không ?
- Phí pháp sư có nhà riêng ở hẻm phía Tây, cách đây không xa. Ông ấy là một cao nhân có danh vọng rất lớn. Cô muốn tìm ông ấy, hỏi ai cũng được, sẽ biết ngay thôi.
Nói rồi, thêm một tiếng vắn tắt : - "Thất lễ, không thể bồi tiếp” , bỏ đi liền, không quay đầu lại.
Tiên cô một mình đứng trơ trọi, chẳng thấy ai ra, hỏi tới mình.
Dần dần tiên cô bình tĩnh trở lại, nở một nụ cười, thất thểu bước ra khỏi ngôi đền. Tới một chỗ chợ búa đông đúc, vừa hỏi một tiếng, quả nhiên có người chỉ cho cô tới nhà của Phí Trường Phòng ở hẻm phía Tây. Tới nhà, vừa lên tiếng hỏi thăm, liền có một đứa bé ra mở cửa. Vừa thấy mặt tiên cô, nó "Phì ?" một tiếng, nhưng tươi cười trở lại, nói :
- Cha tôi rất căm ghét những người xuất gia, chú tôi bị một đạo nhân què ngày ngày hành hạ, làm cho nhức đầu, mê man tinh thần. Hôm nay lại có một nữ đạo sĩ tới tìm cha tôi, quả là tức cười!
Nói rồi, đóng sập cửa lại, "Mặc cho cô la rát cổ họng, chẳng ai thèm nói tới cô nữa câu !". Tiên cô bất giác cười khan, nói một mình : "Vừa tới kinh sư, đã hai lần bị người ta xua đuổi. Thế mới biết : gần bên thiên tử, quả là người xấu rất nhiều, người tốt rất ít , Nói rồi xoay mình, đi tới một nơi vắng vẻ không người, tìm chỗ ngồi nghỉ qua đêm. Hôm sau, trời vừa tảng sáng, ghé bên một giếng suối, vốc nước rửa mặt. Cô nghĩ xem có cách nào tìm ra Trường Phòng để cùng bàn bạc cách cứu pháp tử của Lưu pháp sư, đồng thời thỉnh giáo ông ta về đạo pháp. Khổ nỗi, gia đình ông ta chẳng chịu tiếp đón, phải dùng biện pháp nào đây ? Tiên cô đang suy nghĩ, ngồi trên phiến đá mà các cô gái thường tới giặt áo, không ngờ lại có chuyện hồi hộp xảy ra.
Cô chợt nghe một cơn gió lạ từ phía Tây sau núi ào ào thổi tới.
Những cây cổ thụ trên núi đồng loạt lên tiếng xào xạc, chim chóc và côn trùng trên cây kêu inh ỏi, bay tán loạn bốn phía. Tiên cô chiếm một quẻ, bất giác kinh hãi, kêu lên :
- Trên núi ắt có một con beo lớn !
Nói chưa dứt lời, lại nghe tiếng ầm ầm từ trên núi đưa xuống, tiên cô vội rút kiếm cầm tay, lò dò vài bước men theo con suối, tìm đường lên núi. Đi được nửa đường, quả thấy một con beo lớn, lông vằn vện, từ trên núi lao xuống. Nó vừa chạy, thỉnh thoảng lại vừa quay đầu nhìn phía sau, dường như rất sợ có người đuổi đánh. Tiên cô lấy làm lạ, nói :
- Con thú to lớn thế này, sao còn có người to gan đuổi theo nó?
Nói chưa dứt lời, đã thấy ngay chuyện kỳ lạ, quả nhiên có người đang chạy như bay, đuổi theo con beo sát sạt, mà người đó coi bộ rất trẻ, đâu chừng tám, chín tuổi mà thôi. Cậu ta lại đi tay không, hăng hái chạy theo con beo, nhanh như gió, miệng thét lên:
- Nghiệt súc còn dám chạy trốn nữa sao ? Ngươi không thoát khỏi tay tiểu gia gia này đâu !


Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 4 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 93 bài trong đề mục