Bát Tiên Đắc Đạo

Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 4 trang, bài viết từ 31 đến 60 trên tổng số 93 bài trong đề mục
Tác giả Bài
bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 12.07.2008 10:56:34
Hồi Thứ 38

Chân tay nhanh nhẹn, chế phục mãnh thú
Tài năng chân thật, cảm ngộ thần đồng.

Tiên cô thấy người đuổi theo con beo lớn chỉ là một cậu bé chưa quá mười tuổi, bất giác kinh ngạc, ý định của tiên cô là lên núi, sử dụng kiếm giúp đỡ người săn thú, để người đó khỏi mất mạng, không dè con beo vừa thấy cậu bé đuổi theo, liền rống lên một tiếng, từ trên núi lao xuống. Tiên cô thấy chuyện kỳ lạ, xác định cậu bé này phải là thiên thần hóa thân, có lai lịch rất lớn. Vậy thì con beo quyết không thể đụng tới một sợi lông chân của cậu nói chi tới chuyện hại nổi tính mạng cậu. Không chút do dự, tiên cô xông thẳng tới trước đầu con beo, ngăn cản, nhắm mũi kiếm về phía yết hầu con beo mà đâm. Con beo đang mê mải chạy, không thể liệu tính có người ngăn cản ngay trước mặt. Ngửng đầu lên, nó đột nhiên nổi giận, nhắm ngay mặt tiên cô mà nhào tới.
Tiên cô mắt sáng, linh tính bén nhạy, thụp ngay đầu xuống, ngả mình ra đằng sau, nằm ngay dưới bụng beo. Cô đang nghĩ đâm vào bụng nó một nhát kiếm, con beo đã hiểu ý cô, lập tức tung mình bay lên không trung, cao hơn một trượng, tránh khỏi mũi kiếm của tiên cô. Nhưng vừa tránh được mũi kiếm, chỉ trong khoảng thời gian một sát-na, cậu bé từ đằng sau đã ập đến. Và nhanh như cắt, vừa thấy con beo tung mình nhảy lên, cậu đã đưa bàn tay bé nhỏ ra, hướng lên không trung tung một chưởng, trúng ngay một cẳng con beo. Con beo thấy mũi kiếm của tiên cô, còn đang kinh hãi, chưa kịp hoàn hồn, đã trúng ngay chưởng lực của cậu bé, đau đớn cùng cực, lại gầm lên một tiếng, quay đầu, há miệng, tính nuốt cậu bé. Miệng beo rất to, đầu cậu bé lại nhỏ, tiên cô kêu : "ôi chao!” một tiếng, tính xông lên tiếp cứu. Nào ngờ cậu bé không hề né tránh, còn thuận thế đưa cái đầu nhỏ của mình vào miệng beo, cách xa nhau chưa đầy vài tấc. Tiên cô cuống cuồng lên, vội đưa cao thanh kiếm, nhắm vào một bên mắt con beo mà đâm. Nhưng thủ pháp và cách cử động thân thể của cậu bé còn nhanh hơn mũi kiếm của tiên cô rất nhiều. Mũi kiếm của tiên cô đụng gần tới mắt beo, con beo đã lùi lại về sau, đồng thời cậu bé tung mình nhảy vọt qua đầu beo, rồi đáp xuống lưng beo, như chuồn chuồn đậu xuống cành cây. Hai chân chổng lên trời, hai tay cậu đè lên lưng beo, ấn nó xuống sát mặt đất. Như chịu tảng đá đè lên mình, con beo nằm không nhúc nhích, miệng thở phì phò, dường như kiệt sức. Bấy giờ tiên cô mới rõ cậu bé này quả có sức mạnh thu phục mãnh thú. Cô thu kiếm lại, nhét vào vỏ, đứng đợi nói chuyện với cậu bé. Bỗng cậu bé buông mình xuống, ngồi ngay ngắn trên lưng beo, đưa tay chỉ tiên cô, nói :
- Vị tỉ tỉ này cũng có lòng tốt đấy. Chỉ tiếc rằng bảo kiếm của chị chẳng dùng được vào việc gì, ngay cả một sợi lông trên mình con thú lớn cũng không cắt đứt. Thứ binh khí đó chỉ dùng để giết mèo, chó, mổ cá, ba ba, hoặc giả là phạt cỏ mà thôi. Nếu chị tính dùng kiếm thu phục con thú lớn này, e rằng chị chưa kịp ra tay đã táng thân vào bụng nó rồi !
Tiên cô nghe cậu bé nói giọng khinh bạc như thế, thầm hổ thẹn trong lòng, đồng thời lại khâm phục cậu, chẳng muốn chống đối. Tiếc thay cho cậu có tài năng như thế, mai sau ắt có thành tựu rất lớn, nếu không thừa cơ cảnh giới một phen, ắt cậu sẽ tự đắc, chẳng coi ai ra gì, ắt thành kẻ cùng hung cực ác, việc xấu nào cũng dám làm, chẳng những bỏ phí một tài năng, còn di hại cho nhân dân nữa. Nghĩ đến đó, tiên cô nhíu mày, nghĩ ra một kế, mới nở nụ cười, nói với cậu bé :
- Tiểu ca ca, quả nhiên cậu có khí lực không nhỏ. Nhưng không phải lúc nào cũng dùng tới khí lực được đâu. Nếu không có sức mạnh man rợ này, e rằng cậu đã làm mồi cho con thú lớn từ lâu rồi. Bần đạo xem ra thứ khí lực đó không thể kể là bản lãnh được.
Cậu bé bị khiêu khích, tức thì nổi giận, ngồi trên lưng beo, đưa cả hai tay ra, chỉ tiên cô, mắng :
- Con tiện nhân này có bản lãnh gì, dám mở miệng nói những lời ngông cuồng như thế ? Từ xưa tới nay, những người đánh thú đều phải nhờ vào khí lực. Có khí lực mạnh mẽ như tôi, tay không đánh beo, so với người dùng kiếm như chị, còn lợi hại gấp trăm lần, vậy mà chưa đáng kể là có bản lãnh hay sao ? Còn như chị, cầm bảo kiếm trên tay, mà không đụng tới một sợi lông beo, lại là có bản lãnh ư ?
- Tôi không có ý nói vậy. Tôi chỉ nói là dùng lực đánh thú, thú có thể chết, nhưng đó chỉ là một kẻ dũng phu. Vạn nhất, cả một đàn thú kéo tới, cậu có khí lực mạnh hơn nữa, cũng không tránh khỏi thất bại, lúc đó đành đem thân táng vào bụng thú, không ai cứu nổi. Theo ý bần đạo, dùng kiếm hay dùng lực đều không tiện lợi lắm, phải làm sao khiến các con mãnh thú đều cúi đầu, cúp tai, chịu sự chỉ huy của cậu, bảo chúng nằm yên, chúng không được động đậy, bảo chúng hoạt động, bốn chân chúng đều chạy. Như thế há chẳng phải so với dùng khí lực, được bình yên, ổn thỏa hơn không ? Còn có thể lợi dụng chúng làm con vật để cưỡi, thay cho đôi chân nữa.
Cậu bé ngồi trên lưng beo nghe vậy, bất giác cười ầm lên, suýt nữa lăn khỏi lưng beo. Cậu nói to tiếng :
- Lúc trước tôi cho chị là một người linh hoạt, nên đã giữ thái độ nghiêm chỉnh để nói với chị, thậm chí còn kêu chị là "tỉ tỉ" nữa, nay xem lại thấy chị chẳng phải người linh hoạt, mà chỉ là một con quỉ, chuyên nói chuyện viển vông.
- Tại sao lại coi tôi là con quỉ ?
Nếu chị là người sống, tại sao lại chuyên phá phách ? Chị đánh giá tôi là một đứa bé, nhưng nên biết tôi tuy nhỏ tuổi, chẳng chịu nghe những lời nói nhảm, những câu tối nghĩa.
- Tại sao lại bảo tôi nói nhảm, đoán mò ?
- Chị muốn nói gì, phải làm được điều đó cho tôi xem, tôi mới tin là chân thực. Nhưng tôi lại sợ những phép thuật của chị chưa từng thí nghiệm, vừa đem thi thố, mạng của chị đã bị chôn sống, há chẳng phải tự mang lấy khổ, và đem lại trò chơi cho tôi hay sao?
- Cậu bé này quả thật ngoan cố, nói những lời chẳng hợp tình lý chút nào. Thế nào là chôn sống, là mang lấy khổ ? Cậu còn trẻ mà nói ra những lời không trung hậu chút nào.
Cậu bé nghe vậy, bất giác tức giận, hét lên :
- Nói nhảm ! Ta thật tình là người tốt bụng, sao dám nói ta không trung hậu ?  Ngươi muốn thu phục con beo, nhưng không  được, con beo nhất định sẽ nuốt ngươi, há chẳng phải ngươi táng thân trong bụng beo hay sao ? Thân thể bé bỏng, còm nhom của ngươi chỉ bằng con mèo, con beo nuốt cái ực, há chẳng phải ngươi bị chôn sống trong bụng beo hay sao ?
Cậu bé nói rồi, ngước mặt lên trời, cất tiếng cười vang. Cậu bé đánh được cọp, tất nhiên phải có khí lực lớn, nhưng vì trẻ tuổi, tri thức của cậu chẳng có bao nhiêu. Người xưa có câu : “Giẫm lên đuôi cọp, đạp lên nước đóng băng mùa xuân, đều là những việc rất nguy hiểm". Con beo còn mãnh liệt hơn cọp già nữa, anh đã cưỡi lên lưng beo, phải từng phút để tâm, từng giây lưu ý, để đề phòng nó có hành vi phản động. Không dè cậu bé đấu khẩu với tiên cô, tinh thần rất căng, vì một trận cười, bao nhiêu gân cốt trong người đều trùng xuống. Những áp lực nãy giờ đè nặng lên mình con beo đều giảm xuống, mười phần chỉ còn một.
Nó cảm thấy đây là cơ hội để thoát ly sự ràng buộc, liền dùng hết sức lực tung mình lên cao, hất cậu bé ngã xuống đất.
Con beo đã chiếm được thế thượng phong, chuyển bại thành thắng, càng thêm phấn chấn tinh thần. Thấy cậu bé đã bị hất xuống đất, nhanh như cắt, nó xoay mình một vòng, hướng về phía cậu bé lao xuống. Cậu bé chưa kịp trở dậy, con beo đã đưa hai chân trước, chặn lên mình cậu. Dường như nó dùng phương pháp cậu bé đã sứ dụng để đè nó xuống, đem ra trị lại cậu. Giữ chặt cậu bé dưới hai chân, không sợ cậu trốn thoát nữa, con beo mới hạ cái miệng toác hoác, như một chậu máu, rồi lại nuốt nước bọt ừng ực...
Các vị độc giả đọc đến đây, chắc có người toát mồ hôi, lo thay cho cậu bé. Nhưng đa số các vị hẳn có tài dự đoán, biết trước. Là vì cậu bé này là một nhân vật trọng yếu trong sách, không lẽ đoản mạng sớm thế ? Bất luận gặp nguy hiểm thế nào, cũng phải có cứu tinh. Vị cứu tinh đó chính là Hà tiên cô. Tuy cô chưa thành tiên, nhưng đã có pháp thuật phong phú. Vốn có ý thành toàn cho cậu bé, mà đổi lại hại cậu đoản mạng, tiên cô vội nghĩ cách gỡ rối.
Từ lúc cậu bé bị hất văng khỏi lưng beo, tới lúc cậu nằm dưới bụng nó, là khoảng thời gian rất ngắn. Trong khoảnh khắc đó, vì nói chuyện tay đôi với cậu bé, tiên cô không rời xa nửa bước. Thấy cậu bé bị hất xuống, tiên cô kinh hãi quá chừng. Tâm linh nhạy bén, cô biết rằng trong khoảnh khắc nguy hiểm này, dùng sức không bằng dùng pháp, liền niệm chú lâm râm, bắt quyết "định thần", hét lên một tiếng : - "Nghiệt súc ? Còn chưa buông ra!", tức thì con beo dời hai chân trước khỏi mình cậu bé, rồi đứng chôn chân tại chỗ .
Cậu bé thấy con beo bất động, nhận ra đây là cơ hội để thoát thân và trả thù. Cậu bò dưới bụng thú chui ra, tiện tay đập mạnh lên cẳng con beo một phát. Nào ngờ con beo chịu phép thuật định thân của tiên cô, đứng không nhúc nhích, toàn thân cứng như sắt.
Cậu bé gom hết sức lực, liên tiếp đập vào cẳng beo mấy cái, con beo vẫn không có cảm giác, không kêu đau tiếng nào. Chui ra ngoài rồi, cậu lại nhắm vào mình con beo, đập một hồi nữa, chỉ thấy con beo đứng trơ trơ, hai mắt nhấp nháy, hướng nhìn về phía tiên cô chăm chú, như một con gia súc thuần phục. Cậu bé kinh hãi, nhìn tiên cô, hét to lên :
- Này đạo cô, có phải chị dạy con beo giả chết đấy không ?
Tiên cô mỉm cười, gật đầu :
- Tôi không dạy nó giả chết, cậu thoát chết được sao ? Giờ này, cậu đã bị chôn sống trong bụng beo rồi !
Cậu bé bị chế giễu, cũng chẳng giận, mon men lại gần bên tiên cô cười hì hì :
- Chị quả là người có bán lãnh, tôi xin mời chị về nhà chơi. Nhà của tôi có phòng rất lớn, có vườn hoa rất rộng, thưởng ngoạn rất tốt. Tôi lại bái chị làm sư phụ, xin chị chỉ giáo cho tôi về phép phục beo, đánh cọp, có được không ?
Tiên cô nghĩ thầm : "Cậu bé này biết phục thiện, có thể đào tạo thành nhân tài", mới cười, nói :
- Cậu vẫn chưa tin tôi hả ? Tôi chỉ cần một ngón tay, đủ khiến con súc sinh phục hai chân trước xuống, cho cậu leo lên, cưỡi về nhà. Cậu thấy thế nào .
Tiên cô lại không nói tiếng nào, chỉ đưa ngón trỏ, chỉ vào con beo, hô : "Mau quì !", quả nhiên con beo quì xuống. Cậu bé thích chí, khen tuyệt diệu. Rồi không thèm ngó tới chuyện gì khác, cậu nhảy một phát, ngồi trên lưng beo, nắm chặt bàn tay nhỏ bé, đấm lên mình con beo thùm thụp, mắng rằng :
- Con khốn này ! Suýt nữa mày đã hại tính mạng tao !
Con beo chịu đánh, chẳng có cảm giác gì. Tiên cô cười, bảo :
- Con vật này hiện đang bị đạo pháp của tôi trói buộc, hồn vía không ở trong thân, cậu có đánh chết nó, nó cũng không cảm thấy đau đớn.
Cậu bé nghe vậy dừng tay, nhân đó hỏi :
- Sư phụ không theo tôi về hay sao ?
Tiên cô cười, bảo :
- Nhà cậu ở chỗ nào, trong nhà có bao nhiêu người, cậu phải nói rõ cho tôi biết, tôi mới chịu về nhà cậu chứ.
Tỉ tỉ không cần hỏi nhiều. Nhà tôi cách đây không xa, ở ngay sau núi này thôi. Tôi họ Chung Li, tên Quyền, cha tôi là Chung Li Tuấn, nay đã già lắm rồi, không còn đi đánh thú nữa. Thỉnh thoảng cần đi chơi xa một chút, cha tôi phải nhờ chị tôi dìu đi. Tôi còn một bà nội, lớn tuổi hơn cha tôi nhiều.
Nghe câu nói đó, tiên cô bất giác bật cười.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 12.07.2008 11:17:43
Hồi Thứ 39

Vò rượu chúa Thiết Quài
Hồ lô giữ tiên cô


Nghe Chung Li Quyền nói bà nội mình lớn tuổi hơn cha, tiên cô bất giác cười ha hả, nói :
- Cậu bé này nói ra toàn chuyện con nít. Bà nội cậu tất nhiên là lớn tuổi hơn cha cậu, hà tất phải nói.
Chung Li Quyền cười xòa, nói :
- Chị tôi gọi là Đại Cô Nương, năm nay được mười hai tuổi, còn tôi lên chín. Tôi còn có một đại ca ca, theo lời cha tôi, đã bị cọp già tha đi mất. Vì thế ông rất căm hận cọp beo. Mười năm trước, ông còn là một ông lão tráng kiện, những dã thú ở quanh núi này chết vì tay ông không biết bao nhiêu. Sau khi sinh ra chị tôi và tôi, ông đem tất cả bản lãnh của mình truyền lại cho chị em tôi.
Năm ngoái, cha tôi tới một địa phương nọ, bị một đám cọp beo vây hãm. Đánh nhau qua một đêm, tuy ông giữ được tính mạng, nhưng bao khí lực mất hết. Đến lúc trời sáng, có người thấy ông nằm dưới đất miệng chảy nước giãi, thân hình mềm nhũn, mê man. Chẳng may ông còn nói được, năn nỉ người ta cõng về nhà. Từ đó về sau, ông không vào núi nữa, nên không phải đối đầu với dã thú.
Tiên cô nghe vậy, bất giác gật gù, cất tiếng thở than :
- Cậu bé, cậu xem đó. Cha cậu là một anh hùng, tài giỏi như thế, mà cậy dũng khí, chuyên giết cọp beo, kết quả là bị cọp beo làm tổn thương, trở thành người tàn phế, đủ thấy người ta sống ở trên đời, trời cho một vài phần khí lực, không phải để hại người, giết vật, mà nên lưu lại chút khí lực đó để giúp ích cho đời, và tự bảo vệ mình, mới hợp đạo lý.
- Tỉ tỉ nói đúng lắm. Cha tôi lúc đó căm hận lắm, muốn tức tốc phái chị em tôi vào núi, giết sạch đám cọp ở quanh núi này. Nhưng về sau, từ khi cha tôi mắc bệnh, ông không cho phép chị em tôi vào núi, làm những việc nguy hiểm nữa. Những lời ông nói sao giống hệt những lời tỉ tỉ vừa nói với tôi. Tôi rất tin những lời giáo huấn của cha, nên tôi cũng tin những lời hay, lẽ phải chị vừa chỉ bảo tôi.
Tiên cô nghe vậy, rất hài lòng, nói :
- Không còn sớm sủa gì nữa, người nhà cậu nhất định đang đợi cậu về ăn cơm. Cậu mau dẫn tôi về cùng, tôi sẽ đem thuật thu phục cọp beo truyền lại cho cậu. Từ nay về sau cậu không còn bị cầm thú tấn công, khỏi tổn thương tới tính mạng. Phép của tôi chẳng những chế phục được cầm thú, mà lỡ gặp phải người bất lương, có hành vi bạo ngược, hoặc làm hại tới người địa phương, cậu còn có thể chống lại hắn. Cậu chẳng cần phải đánh tay đôi với hắn, chỉ việc niệm chú lâm râm, là người đối diện với cậu sẽ mất sức chống cự. Cậu thấy phép đó có hay hay không ?
Cậu bé nghe nói, mừng rỡ, giậm chân múa tay, hô to :
- Hảo tỉ tỉ, chị đúng là sư phụ tốt của tôi. Cha tôi và bà nội tôi thường nói là phải mời cho được một vị sư phụ có bản lãnh về dạy tôi nhưng đến nay vẫn chưa gặp được người nào. Xin sư phụ đi lên trước, chúng ta cùng về nhà. Còn con beo này, bỏ lại đây thì tiếc, sư phụ hãy dùng phép thuật dẫn nó về cùng, để cha tôi phát lạc.
Tiên cô đang muốn thu phục Chung Li Quyền, độ cho cậu xuất thế, không thể mỗi chút mỗi làm phật ý cậu, mới cười, bảo :
- Cậu đi trước đi, tôi sẽ dẫn con beo, theo chân cậu.
Nói rồi, chỉ một ngón tay, con beo liền đứng dậy, cúi đầu cụp tai, líu ríu đi theo hai người, cùng tiến về phía sau núi.
Chung Li Quyền chỉ tay, nói :
- Phía bên kia là một vùng trúc lớn, phía sau rừng trúc, men theo bờ sông là một căn nhà, chính là nhà chúng tôi.
Tiên cô nhìn theo hướng chỉ tay của cậu bé, có ý tìm kiếm căn nhà, nhưng chưa nhận ra, đã được chứng kiến một việc khác thường. ờ rừng trúc, đối diện với hai người, có một vò rượu, miệng nhỏ, bụng to, có thể di động được. Miệng vò hướng lên trời, đáy vò nằm trên mặt đất, nó lắc lư tiến lại phía tiên cô và cậu bé. Tiên cô kinh ngạc, hỏi :
- Cậu coi thứ xem, cái gì vậy ? Nó tự di chuyển, mà chẳng có chân, là vì lý gì ?
Chung Li Quyền nhìn ra xa, nói:
- Chà ! Không phải đồ vật đâu, là con người đó. Sư phụ nhìn chưa rõ, ở miệng vò có một người thò đầu ra ngoài đấy. Người này là một quái nhân kỳ lạ ở kinh thành, sư phụ có nhận ra không ?
Tiên cô lúc đó đã nhìn thấy quả nhiên ở miệng vò có một đầu người thò ra ngoài, lòng rất nghi ngờ, mới hỏi cậu bé :
- Cậu có biết quái nhân này là người ở đâu không ? Tới đây từ hồi nào ?
- Người này không có nhà cửa, vợ con. ông ấy trú ngụ bên trong vò rượu. Có khi chiếc vò được bỏ lăn lóc ở bên vệ đường, còn người bỏ đi đâu không rõ, thường khi hai, ba ngày không về. Có lúc ông ấy lại đeo vò rượu sau lưng mà đi trên đường, dường như người và vò rượu dính chặt lấy nhau, nhập làm một, không thể phân biệt nổi. Cảnh sư phụ đang nhìn thấy là ông ta đeo bầu rượu mà đi. Người này không hay bắt chuyện với người khác. Cũng không ai thấy ông ta lên phố mua đồ, hoặc về nhà ăn cơm. Vả lại, miệng vò thì nhỏ, thân người thì lớn, không hiểu bằng cách nào ông ta có thể chui ra, chui vào. Không ai quen biết ông ta, cũng chẳng hiểu tên họ là gì. Chỉ biết ông ta là một người què, mặt mày đen nhẻm, thường chống một chiếc nạng sắt, nên tự xưng là Thiết Quài tiên sinh, và mọi người cũng gọi ông ta theo danh hiệu đó. Sư phụ thử nói coi, vị Thiết Quài tiên sinh này có tên họ thật hay không ?
Tiên cô nghe hỏi, trầm ngâm một hồi. Thấy Thiết Quái từ xa tiến lại, cô vội rời xa Chung Li Quyền, tiến lên vài bước, hướng về khuôn mặt đen đủi lộ ra khỏi miệng vò, cúi đầu hành lễ, hỏi :
- Tiên sinh từ đâu tới đây, định đi đâu ? Bần đạo là Hà...
Vừa nghe chữ “Hà", Thiết Quài tiên sinh liền gật đầu vài cái, cái đầu đen đập vào miệng vò, phát ra tiếng "Keng !", khiến Chung Li Quyền cất tiếng cười ha hả. Thiết Quài tiên sinh trước hết nói với Hà tiên cô :
- Tiên cô đừng nói nữa, càng nói càng thêm buồn. Ngay cả bạn bè quen biết nhau từ hai kiếp cũng không nhận ra nhau.
Tiên cô ngạc nhiên, không hiểu ý tiên sinh muốn nói gì. Thiết Quài tiên sinh lại hướng về Chung Li Quyền, cười bảo :
- Cậu bé cười cái gì ? Nói cho cậu biết, vò rượu của tôi là thứ đặc biệt, và cái đầu của tôi cũng phải cứng như sắt mới đụng vào miệng vò mà phát ra tiếng.
Chung Li Quyền nghe vậy ngạc nhiên, trố mắt ra nhìn. Thiết Quài tiên sinh lại cười, bảo :
- Cậu đừng hồ đồ, cũng đừng khiếp hãi. Cậu thử thi triển hết khí lực đã dùng để đánh beo, gõ vào vò rượu này ba cái, coi có phát ra tiếng hay không ?
Chung Li Quyền cho là chuyện kỳ lạ, ngần ngừ, không dám cử động. Thiết Quài tiên sinh cười, nói với tiên cô :
- Chắc cô cũng không dè nổi anh học trò của cô mới nghe cô giáo huấn vài câu đã tỏ ra cẩn thận thế này.
Tiên cô cùng Chung Li Quyền nghe vậy đều ngạc nhiên, biến đổi sắc mặt. Tiên cô vội vái tiên sinh, nói :
- Tiên sinh quả là kim tiên trên thượng giới đã xuống chốn nhân gian rong chơi. Bần đạo xuất gia đã nhiều năm, vẫn thẹn rằng chưa có chút thành tựu nào, lâu nay thường nghĩ tới chuyện quy y chính đạo, mà giữa biển người mênh mông, chưa gặp được người hướng dẫn. Nay may mắn gặp được tiên sinh, quả là tam sinh hữu hạnh.
Thiết Quài tiên sinh không đợi cô nói dứt câu, đã cười bảo :
- Cô quá khách sáo rồi. Tôi chỉ dẫn gì được cho cô, chỉ gây phiền nhiễu cho cô thì có. Cô đã muốn học hỏi nơi tôi, tại sao lại cướp mất đồ đệ của tôi ?
Tiên cô hoang mang, không hiểu tiên sinh nói gì, vội hỏi :
- Tiên sư nói vậy là ý gì ? Đệ tử mới gặp tiên sư lần đầu, tại sao tiên sư lại nói đệ tử cướp học trò của tiên sư ?
Thiết Quài tiên sinh cười, hỏi lại :
- Cậu bé này không phải có tên gọi Chung Li Quyền hay sao ?
- Cậu ấy không phải đồ đệ của ta sao ? Cô cùng cậu ta tuy có duyên với nhau, nhưng sao có thể so sánh với ta, là người đã thỉnh mệnh tổ sư để xuống đây bảo hộ và giáo huấn người đời ? Tại sao vừa thấy mặt cậu bé, cô đã dám thu nhận cậu ta làm đồ đệ ?
Tiên cô thấy Thiết Quài tiên sinh việc gì cũng biết trước, càng tin tiên sinh là chân tiên, lại vái lần nữa :
- Sư phụ trách lầm đệ tử rồi. Sư phụ đạo hạnh cao thâm, há không biết việc thầy trò là do miệng cậu bé nói ra, và đệ tử cũng chưa đám đáp ứng. Chẳng qua là thấy cậu ta có khí lực rất lớn, tuổi lại quá trẻ, đệ tử không tránh khỏi cảm phục trong lòng, nhận định rằng có thể gây dựng cho cậu. Về sau thấy cậu chịu khuất phục, biết phục thiện, lòng càng thêm thương yêu cậu, mới theo cậu về nhà, để chỉ giáo cho cậu chút pháp lực. Đó chỉ là một chuyện nhỏ, đệ tử thật lòng muốn dẫn dụ cậu nhập đạo, để bản chất tốt đẹp của cậu khỏi bị vật dục trên đời mê hoặc. Nếu có thể hướng dẫn cậu vào đường chính, sau này cậu có thể cầu được danh sư truyền cho đại đạo, thì việc thành tiên chẳng phải khó khăn. Chút lòng thành của đệ tử là như vậy, thánh minh như tiên sư, lẽ nào lại không xét kỹ mà lượng thứ ? Nay gặp được tiên sư, thật là điều may mắn cho cậu bé này. Chẳng những cậu ta, ngay cả đệ tử cũng tình nguyện vào môn hạ, theo bên tiên giá, sớm thành chính giác, thoát ly phàm tục, thì may mắn cho đệ tử vô cùng.
Nói rồi lại vái. Thiết Quài tiên sinh chưa kịp lên tiếng, Chung Li Quyền lại nổi tính trẻ con, ngăn cản tiên cô :
- Sư phụ khoan hành lễ. Chúng ta hãy mời vị sư tôn này về nhà, nếu quả thật tiên sinh có đạo pháp cao hơn sư phụ, tôi với sư phụ cùng vái ông ta làm thầy. Nếu không, tôi chỉ vái sư phụ làm thầy, học lấy chút bản sự, chẳng nhờ tới ai khác.
Tiên cô vội mắng át đi :
- Không được nói nhảm ! Vị sư phụ này là người tiên chân chính, sao cậu còn nhìn chưa ra ?
Thiết Quài tiên sinh cất tiếng cười ha hả, nói :
- Chà, thằng bé này đã quên mất bản lai diện mục của mình ? Thôi, thôi, ngươi đã nói vậy, ta không hiển lộ chút bản lãnh cho ngươi thấy, ngươi đâu có chịu làm đồ đệ ta ? Trong lòng ngươi vị tất đã phục ta, vẫn coi ta chỉ là một anh què, chứ gì ? Trong lòng còn điều nghi ngờ, việc tu đạo quyết không thành tựu, chỉ uổng phí tấm lòng quyến cố của ta mà thôi. Nào, nào, hai người nhìn lại thứ coi, có phải chúng ta đã về tới nhà họ Chung Li rồi hay không ?
Tiên cô và Chung Li Quyền nghe vậy, ngạc nhiên vô cùng. Hai người cùng mở to mắt. Quả là chuyện kỳ lạ : chẳng những mọi người đã về tới nhà Chung Li, mà còn đang ở trong căn phòng chính trong ngôi nhà đó. Cha của Chung Li Quyền là lão Tuấn, cùng chị của cậu ta là Đại Cô Nương, đều đang ngồi ở cuối phòng, bàn chuyện gia đình. Thấy ba người đột nhiên tiến vào, hai cha con vội đứng dậy. Tiên cô nghi hoặc trong lòng, vị Thiết Quài tiên sinh này có phải là người ngày hôm qua đã đưa tiễn cô tới nhà họ Triệu hay không ? Có phải là Phí Trường Phòng đã thi triển phép rút đất đấy chăng ? Riêng Chung Li Quyền, tuổi tuy còn nhỏ, nhưng tâm địa cực kỳ sáng suốt. Cậu đã hiểu rõ đầu mối mọi chuyện. Phép thuật Thiết Quài tiên sinh vừa thi thố là đại pháp của tiên thiên, vượt xa bản lãnh của tiên cô đã dùng để thu phục mãnh thú. Trong lòng đã nhìn rõ, cậu vội quì xuống, hướng về phía Thiết Quài tiên sinh dập đầu lạy bôm bốp, miệng xưng hô :
- Trước mặt sư phụ, đệ tử Chung Li Quyền xin bái kiến. Vừa rồi, đệ tử nói năng thất thố, xúc phạm tới sư phụ, xin sư phụ rộng lòng khoan thứ.
Thiết Quài tiên sinh cất tiếng cười ha hả. Tiên cô cũng vui mừng, tình nguyện vái tiên sinh làm thầy. Thiết Quài tiên sinh vội ngăn cản, nói :
- Không được đâu. Ta không phải tiên sinh của cô. Cô đã có Huyền Nữ làm thầy, hơn ta gấp trăm lần, chẳng cần tìm một sư phụ nào khác. Vả lại, ta với cô là bạn cũ, quen nhau đã hai kiếp, chỉ vì người tu đạo sớm, kẻ tu đạo trễ, nên việc thành tựu mới sai biệt nhau. Nhưng trong tương lai, việc thành công cũng như nhau thôi. Nay gặp nhau đây, có thể nói là "đất khách gặp cố tri". Chỗ bạn bè với nhau, biết gì thì nói, há dám nhận ngôi sư phụ ?
Tiên cô nghe vậy càng thêm hoang mang, vội hỏi :
- Bất luận thế nào, đệ tử cũng không nhớ được đã gặp tiên sư ở đâu Đệ tử tự nhận trí nhớ không đến nỗi kém cỏi, thực tình cũng không dám nói là đã có lần được thấy tôn nhan, xin tiên sư chỉ bảo.
Thiết Quài tiên sinh lắc đầu, nói :
- Người ta thường chỉ biết xét đoán người khác qua tướng mạo, làm sao tiến được tới chỗ thông thần ? Đó là chỗ khiếm khuyết về công phu xét đoán, chẳng trách cô được. Vừa rồi cô nghĩ rằng người đã dùng phép thuật giúp đỡ cô vào hôm qua, chính là hóa thân của ta. Kể ra cô suy nghĩ cũng linh mẫn lắm, nhưng sự thật hoàn toàn không đúng như cô nghĩ đâu. Nên biết người mà cô được nhìn thấy ngày hôm qua chính là người mà ta đang muốn hóa độ, nhưng chưa được. Người ấy họ Phí, tên Trường Phòng. Hôm qua, lão đạo sĩ nói chuyện với cô, gọi ông ta là Phí pháp sư, chính là người đó, tại sao cô lại nhận lầm ra ta ?
Tiên cô thấy tâm sự của mình bị tiên sinh đoán ra hết, bất giác đỏ mặt, bội phục trong lòng. Nhân vì tiên sinh nói chuyện gì cũng tỏ ra biết trước, lại nhất quyết không chịu nhận tình thầy trò, hẳn nhiên bên trong phải có lý do gì đó, đành đợi tới lúc ông ta nói ra việc hai người đã từng gặp nhau ở đâu, lúc đó sẽ liệu.
Không ngờ Thiết Quài tiên sinh chỉ nói đến đó rồi thôi, không để ý tới tiên cô nữa, mà quay qua phía lão Tuấn và con gái. Lúc đó lão Tuấn đã được con trai bẩm báo sự việc đầu đuôi, lại từng nghe nói tới chuyện gần đây trong kinh đô mới xuất hiện một quái nhân.
Bây giờ Thiết Quài tiên sinh có pháp lực cao như thế, chịu thu nhận con trai ông làm đồ đệ, lẽ nào lão Tuấn lại không ưng ? ông ta mới vịn vai con gái, đứng lên, định quì xuống làm lễ. Thiết Quài tiên sinh vội nói :
- Con trai ông nay đã là học trò tôi, thì ông là phụ huynh học sinh. Phụ huynh đối với ông thầy chỉ có nhiệm vụ bện một bó nem làm lễ nhập môn cho con, đâu có lệ quì gối lễ bái ? Đại lễ đó, tôi không dám nhận đâu. Mời ông ngồi, tôi còn phải nói với con trai ông vài câu.
Lão Tuấn đành ngỏ lời cảm tạ tiên sinh, lại vịn vào con gái mà ngồi xuống. Thiết Quài tiên sinh lại nói tiếp :
- ông là người đã lớn tuổi, mà đứng lên ngồi xuống còn thua một đứa con nít, chẳng đáng thẹn lắm sao ?
Mọi người nghe nói đều cười ồ lên. Chung Li Quyền vội đem chuyện cha mình vì đánh thú mà bị thú làm tổn thương kể lại một lượt. Thiết Quài tiên sinh liền cười, nói :
- Ta không tin. Trong thiên hạ làm gì có chuyện người bị thú đả thương. E rằng bệnh tình đó là do ông ta giả trang ra thôi.
Chung Li Quyền thấy tiên sinh nói chuyện khôi hài, liền cười, nói:
- Cha ơi, sư phụ nói cha giả bệnh đó ! Tỉ tỉ hãy đỡ cha, dẫn cha lại đây để sư phụ coi là bệnh giả hay bệnh thật.
Đại cô Nương nghe lời, đỡ cha đứng dậy. Nào ngờ mới đỡ lên lưng chừng, cô nương đột nhiên cảm thấy cha mình nhẹ như bấc, không có chút trọng lượng nào. Đại Cô Nương dùng hết khí lực để đỡ cha lên, bây giờ bỗng cảm thấy hụt hẫng, suýt nữa trượt chân ngã xuống, lão Tuấn lại đưa tay ra, kéo con gái, giữ cho cô đứng vững. Đồng thời, lão Tuấn cảm thấy bao nỗi đau đớn trong cơ thể biến đâu mất cả, trở lại mạnh mẽ như xưa. Hà tiên cô cùng ba cha con lão Tuấn đều kinh ngạc, cho là chuyện kỳ lạ. Riêng lão Tuấn biết rõ Thiết Quài tiên sinh đã chữa trị cho mình khỏi bệnh. Ông đứng thẳng người, hồi phục vẻ khí khái, anh hùng của mười năm trước, nói to tiếng:
- Lão hán vì phụ tử tình thâm, lập tâm phải giết sạch đám hùm beo ở gần núi này, chẳng dè sát hại quá nhiều, bản thân chịu báo ứng, tuổi chưa già yếu mà thân thể đã bị tàn phế, mười năm qua chỉ nằm liệt trên giường. Nỗi đau đớn thống khổ tuy vậy chỉ là chuyện nhỏ, mà nỗi đau lớn hơn là những khi nghĩ tới việc trời ban cho ta sức mạnh cánh tay, mà không thể dùng vào việc giúp đời trái lại bản thân bỗng nhiên trở thành tàn phế. Tuy nói rằng hùm beo là những vật hại người, lẽ nên khu trừ, nhưng ông trời sinh ra loài vật ắt phải có lý. Trời đã sinh ra chúng, sao ta có thể đưa chúng vào chỗ chết ? Hơn nữa, lại giết hại quá đáng, thực chẳng phải tấm lòng của người nhân từ. Mỗi khi nghĩ tới đó, lại tự nhận thấy mình đã phụ lòng trời ban cho ta tài năng, mà để thiên lương mờ tối, do đó bản thân cảm thấy đau đớn gấp bội. Hôm nay may mắn được tiên sư giáng lâm, ra tay cứu vớt, bệnh trầm kha mười năm qua một sớm bình phục, chắc hẳn ông trời đã nghĩ thương tôi lỗi lầm tuy nhiều, nhưng tâm địa tốt vẫn chưa hủy hoại, nên đã tha tội cho tôi bằng cách nhờ tay tiên sư phục hồi sức khỏe cho tôi. Lão hán còn sống được ngày nào đều nhờ ơn tiên sư ban cho. Tiên sư đã không chịu nhận lời tạ ơn, lão hán chỉ còn biết khuyên nhủ các con phải cố gắng làm việc thiện, để tạ ơn thiên đình, và chúc tiên sinh tiên thọ vô cương.
Nói rồi, liền bảo Quyền nhi :
- Con mau cùng chị con thay cha khấu đầu tạ ơn tiên sư.
Hai chị em vâng lời, hướng về phía Thiết Quài tiên sinh, quì xuống bái tạ. Thiết Quài tiên sinh không biết làm sao, đành nhận lễ nhân đó nói với lão Tuấn :
- Nay lệnh lang đã là học trò bần đạo, bần đạo cần phải dạy cho cậu ấy một số bản lãnh, để khỏi phụ lòng cậu ấy bái tạ làm thầy. Lại còn vị tiên cô này nữa, bần đạo cùng cô có tình bạn bè từ hai kiếp trước, nay tình cờ gặp nhau, cần phải có thời giờ hàn huyên tâm sự. Vậy xin lão anh hùng dự bị cho chúng tôi hai gian phòng sạch sẽ, một gian làm chỗ nghỉ ngơi cho Hà đạo hữu, một gian làm chỗ cho thầy trò tôi truyền thụ đạo pháp cho nhau. Riêng bản thân bần đạo đã có vò rượu này làm chỗ dung thân suốt đời, chẳng cần thứ gì khác.
Lão Tuấn dạ dạ luôn miệng, nói rằng sẽ lập tức đi thu xếp hai gian phòng sạch sẽ, và nói tiếp :
- Sư tôn suốt ngày ở trong vò rượu, không cảm thấy chật chội, khó chịu ư ? Sao không ra ngoài tản bộ cho thư giãn ?
Thiết Quài tiên sinh cười, bảo :
- Lão anh hùng cho rằng vò rượu của tôi quá nhỏ, không đủ chỗ dung thân hả ? Hãy nhường cho bần đạo làm chủ nhà một phen, mời các vị tới chỗ tôi trú ngụ xem chơi cho biết, có được không ?
Tiên sinh vừa nói vừa nhảy ra khỏi miệng vò, chắp tay chào mọi người và nói :
- Xin mời !
Hà tiên cô không chút do dự, tiến thẳng tới miệng vò. Ba cha con lão Tuấn còn hoài nghi, đến chừng thấy tiên cô đã vào trong miệng vò, giây lát biến mất, liền hăng hái tiến lên, tới gần chỗ miệng vò nhòm thử. Thiết Quài tiên sinh phất tay áo một cái, ba người liền cảm thấy phía trước tối tăm, và bản thân đã chui qua miệng vò. Nhìn xa xa về phía trước, thấy một khoảng trời đất rộng rãi, u nhã, khác hẳn chốn nhân gian.
Đằng trước có Hà tiên cô cùng Thiết Quài tiên sinh đứng chung một chỗ, đưa tay vẫy mọi người. Ba người vội vã tiến lên, chợt thấy một con beo lớn nằm chắn ngang đường, thảy đều kinh hãi.
Chung Li Quyền là người nghi ngờ nhiều nhất, là vì cậu ta nhận ra con beo đó chính là con beo mình đã thu phục, sau rồi tiên cô thi triển pháp thuật dẫn nó về nhà. Tới chừng theo Thiết Quài tiên sinh vào nhà, không còn thời giờ để xét hỏi tới con beo, mà còn nghi ngờ rằng Thiết Quài tiên sinh không chịu dẫn nó về cùng, có thể đã bỏ nó lại giữa đường, cũng chưa biết chừng. Tiên sinh đã mang nó vào trong vò rượu từ lúc nào vậy ? Cậu nói nho nhỏ, kể lại cho cha nghe, lão Tuấn vội mắng át đi :
- Chẳng cần nhiều lời ! Đây là bảo pháp của tiên sư. Ông ấy có tài biến hóa, khiến đường xa trở thành gần, đoạt được cả công phu tạo hóa của trời đất, sá gì một chuyện nhỏ này ?
Chung Li Quyền không dám nói gì nữa. Ba người trò chuyện đến đây thì đã tới gần bên tiên cô và Thiết Quài tiên sinh. Tiên sinh cười, nói với Chung Li Quyền :
- Đã nhìn ra con beo đó chưa ? Không được xem thường con vật này đấy nhé. Nó cùng cậu là chỗ quen biết lâu đời đó.
Ba cha con nghe vậy đều hoài nghi, không hiểu chuyện này ra sao, ngay cả tiên cô cũng vô cùng thắc mắc.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 12.07.2008 16:19:21
Hồi Thứ 40

Nói chuyện kiếp trước, người và thú có tình quen biết lâu đời
Phá tan nghi ngờ, mới hay bạn mới quen chính là cố tri.


Hà tiên cô cùng cha con lão Tuấn nghe Thiết Quài tiên sinh nói con beo và Chung Li Quyền có tình quen biết từ lâu đời, đều hồ nghi trong lòng, vội hỏi :
- Vì sao con súc vật lại có thể quen biết nhau lâu đời với con người ?
Thiết Quài tiên sinh cười bảo :
- Sẽ biết ngay thôi, chẳng cần hỏi kỹ.
Mọi người không dám hỏi nữa. Một hồi lâu, mọi người đi qua nhiều địa phương, đều là những cảnh đẹp phi thường. Trước mắt thấy những loài hoa nở bốn mùa, những con chim hót cả mùa đông lẫn mùa hạ. Có những sinh vật chưa từng được nhìn qua bao giờ, tất cả đều đẹp đẽ tề chỉnh, thanh nhã, nói chung toàn là những thứ chưa từng được thấy trên thế gian. Thiết Quài tiên sinh chỉ một cây cầu nhỏ phía trước, nói :
- Bên đó có một giòng nước chảy, dưới nước đã chuẩn bị sẵn một con thuyền. Chúng ta hãy tới bên đó, ngồi thuyền dạo chơi. Chỗ đó có một căn nhà nhỏ, chính là nơi trú ngụ của bần đạo. Tôi đã sai người chuẩn bị sẵn một tiệc nhỏ, mời các vị tới uống rượu, trò chuyện, có được không ?
Lão Tuấn và Hà tiên cô đều cảm kích trong lòng, Chung Li Quyền và chị là Đại Cô Nương hoan hỉ, nhảy nhót. Chung Li Quyền ôm lấy một cẳng chân của Thiết Quài tiên sinh, kêu lên :
- Sư phụ của con, sư phụ tốt của con, làm sao thầy có được chỗ ở tốt đẹp thế này ? Con phải theo sư phụ ở đây một thời gian dài mới được !
Thiết Quài tiên sinh cười, gật đầu mấy cái, nói:
- Chuyện đó không khó. Chỉ cần con tu thành tiên đạo, thì đừng nói là thứ đồ chơi nhỏ nhặt này, cho dù con muốn thâu tóm cả trời đất vào trong tay nải của mình, cũng là chuyện dễ dàng thôi.
Lão Tuấn vội mắng át đi :
- Thằng nhỏ này không được lôi thôi ! Mày làm quá, sư phụ chán ghét, không thu nhận mày nữa đâu.
Thiết Quài tiên sinh cùng Hà tiên cô đều cười, ngăn cản :
- Trẻ con, phải để chúng tự do hoạt bát mới tốt. Đạo gia chúng ta không một ai có cơ tâm, cũng giống như cậu bé này hiện giờ không có chút cơ tâm nào. Đó là điều mà Nho gia thường nói là hãy giữ lấy "tấm lòng của đứa con đó", và Khổng thánh nhân có câu : "Nghiêu, Thuấn thời xưa vô vi nhi trị", cũng là dựa vào đạo lý đó. Tổ sư của chúng ta là Lý Lão Quân sáng tác "Đạo Đức Kinh" ba mươi cuốn, rất tôn trọng "Vô vi". Vô vi chính là không có cơ tâm, cơ tâm một khi nảy sinh, biến trá tức thì phát ra nhiều, làm sao có thể "vô vi nhi trị". Vì thế, đạo tu tiên quý ở chỗ xuất gia từ nhỏ, thông cùng đạt huyền, dễ dàng hơn người thanh niên rất nhiều vậy !
Lão Tuấn không dám nói gì nữa. Năm người cùng nhau tiến về phía cây cầu. Cây cầu đó không rộng lớn lắm, nhưng cách kiến tạo có điều đặc biệt là liền lạc một mối, không có chỗ chắp nối nào.
  Chung Li Quyền đứng trên cầu, đưa tay sờ mó thành cầu, cười giỡn nói với cha:
- Cây cầu này thưởng ngoạn thật thú vị.
Nói chưa dứt lời, đã nghe Thiết Quài tiên sinh hét lên :
- Sao lại có chuyện thưởng ngoạn ? Ngắm nghía đồ vật tuy là chuyện nhỏ, nhưng phải động đến tâm. Một khi tâm động, ắt có trở ngại cho việc tu đạo, làm sao có thể chuyên tâm xuất gia ?
Chung Li Quyền nghe mắng, giật nẩy mình, vội thụt tay lại, nghiêm sắc mặt, nói :
- Thưa sư phụ, đệ tử trước nay không ưa ngắm nghía đồ vật. Lần này vì thấy cây cầu đẹp, chưa từng được thấy bao giờ, bất giác mở miệng nói càn, xin sư phụ dung tha.
Thiết Quài tiên sinh tươi cười, nói :
- Vừa rồi, ta không có ý trách lỗi con đâu. Nhưng tu đạo lấy việc không động tâm làm căn bản, tâm một khi động thì yêu ma bên ngoài nẩy sinh, suốt đời chẳng thành tựu gì. Con nói rằng thấy một vật chưa từng được thấy, thế tức là con cho đó là điều kỳ lạ đó là điều mà người tu đạo không nên làm. Từ nay về sau, con phải cảnh giới mới được.
Hà tiên cô đứng một bên, gật đầu thán phục, nhân đó đưa tay vỗ nhẹ lên cần cổ, Chung Li Quyền, tươi cười, nói :
- Những lời tiên sinh vừa nói là những lời chí ngôn về việc tu đạo. Cậu bé ngoan, cậu đã muốn học đạo, phải nên ghi nhớ kỹ những lời vừa rồi, sẽ rất tốt cho cậu.
Thiết Quài tiên sinh nghe vậy, gật đầu tán thưởng.
Mọi người kẻo nhau lên thuyền. Trên thuyền có hai cô gái cầm bình rượu đứng hầu. Năm người vừa xuống thuyền, các cô liền rót rượu mời, và thuyền hướng phía hạ lưu lướt nhanh như bay. Một hồi sau, tới chỗ mà Thiết Quài tiên sinh đã chỉ tay, nói là nhà của mình. Căn nhà đó tuy không rộng rãi lắm, nhưng cách kiến tạo cũng liền lạc như cây cầu, đẹp đẽ phi thường, và không thấy dấu vết chỗ nối kết. Thiết Quài tiên sinh đóng vai chủ nhà, mời bốn người bước vào. Tức thì có một đám người phục dịch, nam và nữ kéo nhau ra chào. Thiết Quài tiên sinh bảo các gia nhân dẫn mọi người vào một thư phòng nho nhỏ, xinh xắn, trần thiết bằng những đồ cổ ngoạn thanh nhã.
Đợi mọi người ngồi yên chỗ, tiên sinh bắt đầu lên tiếng, nói với Chung Li Quyền :
- Con muốn hiểu vì sao con beo và con là chỗ quen biết lâu đời, hãy lại đây mà coi thử.
Chung Li Quyền nói :
- Thật tình con vẫn hoài nghi, không hiểu vì sao một người lại có thể có mối quen biết lâu đời với con nghiệt súc đó.
Thiết Quài tiên sinh không trả lời, rút trong tay áo ra một bầu hồ lô nhỏ, phía trên hồ lô có hai cái lỗ, có thể ghé mắt nhòm vào bên trong. Thiết Quài tiên sinh mới nói :
- Bé con, con hãy lại đây nhòm thử, coi bên trong có thứ gì.
Chung Li Quyền vâng lời, đặt mắt nhìn qua hai cái lỗ, nhòm vào bên trong. Chợt thấy một ngọn núi cao, trên đó có một tòa cung điện. Chung quanh cung điện là một vườn hoa rất rộng. Cảnh vật ở đó còn đẹp hơn cảnh vừa thấy trong vò rượu, lại có rất nhiều vị tiên nhân cưỡi mây đi lại không ngớt. Căn chính điện trong tòa cung điện có một ông tiên già đang ngồi, mặt trông quen quen, nhưng không nhớ nổi là đã nhìn thấy ở đâu. Lão tiên ngồi chính giữa, chung quanh có nhiều vị tiên nhân đứng hầu, để nghe lời dạy bảo. Thiết Quài tiên sinh cũng có mặt trong đám tiên nhân đó. Vị lão tiên bảo Thiết Quài tiên sinh hãy mau đi xuống biển một phen; và hứa rằng chẳng bao lâu ngài cũng xuống đó. Lúc lâm biệt, lão tiên dặn dò một đồng tử hãy quan tâm săn sóc cho con trâu xanh, và canh giữ nó cho cẩn thận. Nào ngờ đồng tử đó đợi mọi người đi khỏi, liền ra ngoài vườn hoa, cùng một đám tiểu đồng bày trò chơi, nô đùa cùng nhau. Một lúc sau, cậu ta lại giắt con trâu vào vườn hoa. Bọn trẻ lại hò nhau lôi kéo con trâu để làm trò chơi. Con trâu không chịu nghe theo sự điều khiển, đồng từ liền cầm roi đánh nó một chập. Con trâu ức lắm, rình lúc bọn trẻ bận nô đùa, mới trốn xuống chốn phàm trần, gây ra nhiều tai họa. Điều kỳ quái là chỗ mà con trâu tới trước nhất so với thôn làng mà Chung Li Quyền đang ở chẳng sai nhau bao nhiêu. Cũng có một ngọn núi cao, chung quanh là thôn xóm. Không hiểu tại sao con trâu lại làm quen được với một con beo cái, cùng nó ở chung chỗ, thời thường cùng ra ngoài, cùng về, cùng thức, cùng ngủ, luôn luôn có nhau. Về sau, beo cái sinh một beo con, con trâu mới bỏ đi chỗ khác. Sau nó lại tới một nơi khác, hóa thành hình người, dẫn dụ đàn bà con gái. Thậm chí nó còn bắt chồng của người đàn bà, đem giấu đi một nơi, dùng phép biến ảo hóa ra người chồng, cùng với một đám đàn bà, con gái uống rượu làm vui. Nhân đó, nó đã gây phẫn nộ cho một cô gái tu đạo đã mạnh dạn tiến lại, gây chuyện với nó. Điều kỳ lạ là đạo cô này có tướng mạo và cách ăn mặc giống hệt như Hà tiên cô, ở ngay trước mắt. Chung Li Quyền kinh hãi quá chừng, kêu lên một tiếng. Thiết Quài tiên sinh thấy vậy, bất giác mỉm cười, hỏi Chung Li Quyền đã nhìn thấy điều gì ? Chung Li Quyền ngửng đầu nhìn lên, đưa mắt ngó tiên cô đăm đăm. Sau đó, cậu ta lại ghé mắt nhòm vào đạo cô trong hồ lô. Thiết Quài tiên sinh cười, hỏi :
- Trong đó có tiên cô hả ?
Chung Li Quyền không trả lời, chỉ nhìn chăm chú vào bên trong hồ lô. Cậu thấy đạo cô đánh không lại con trâu, sau may mắn có một vị tiên nữ tới cứu giúp. Đồng thời, chủ nhân của con trâu là vị lão tiên phái một đồng tứ khác tới dẫn con trâu về điện, và đem cậu mục đồng cũ đày xuống hạ giới, đầu thai ở một nhà nọ.
Đứa bé này có tướng mạo giống hệt như Chung Li Quyền, không sai nét nào. Ngay cả cha mẹ, và người chị của đứa bé đó cũng là cha mẹ Chung Li Quyền, và cô chị là Đại Cô Nương. Chung Li Quyền kinh hãi quá chừng, lại kêu lên một tiếng, chiếc hồ lô trong tay rơi xuống đất. lão Tuấn và con gái, cùng với Hà tiên cô, đều ngạc nhiên, vội hỏi Chung Li Quyền đã nhìn thấy điều gì, mà kinh sợ như thế ? Riêng Thiết Quài tiên sinh chỉ mỉm cười, không nói một câu. Chung Li Quyền đưa tay lượm bầu hồ lô lên, không nhòm vào trong đó nữa, cũng không nói tiếng nào, trong lòng hồi hộp.
Lát sau, cậu chợt hiểu rõ mọi chuyện, liền khóc như mưa, phục xuống dưới chân Thiết Quài tiên sinh, không chịu đứng dậy. Thiết Quài tiên sinh mỉm cười, đỡ dậy, an ủi mấy câu :
- Con đã hiểu xuất thân của mình chưa ? Đã hiểu rõ nguyên nhân vì sao con tới chốn nhân gian chứ ?
Chung Li Quyền lau nước mắt, nói :
- Đệ tử đã hiểu rõ. Đệ tử trước kia đã từng ở chốn thiên cung, tự mình bất cẩn đã gây nên tai họa lớn lao, hối sao kịp nữa ? Xin tiên sư nhủ lòng thương cứu vớt, khiến đệ tử có ngày được trở lại thiên đình, là đệ tử mãn nguyện.
Thiết Quài tiên sinh cười, bảo :
- Con hãy tới hỏi vị sư phụ trước đây của con, nói rõ cho cô biết tình hình con đã thấy trong hồ lô, hỏi cô coi có sự việc đó hay không?
Chung Li Quyền đem sự tình đạo cô thu phục con trâu kể lại cho Hà tiên cô nghe, tiên cô ngạc nhiên, không biết đường nào trả lời Thiết Quài tiên sinh lại bảo Chung Li Quyền nhòm thử vào trong hồ lô, coi có chuyện gì hay không ? Chung Li Quyền nói :
- Đệ tử còn có một việc chưa rõ. Có phải con trâu đó đã sinh ra con nghiệt súc bị bắt ngày hôm nay hay không ?
- Không phải nó, sao có thể nói là chỗ quen biết lâu đời ?
Chung Li Quyền nghe vậy, tươi cười trở lại. Hà tiên cô nghe câu chuyện đã sáng ra phần nào, vội hỏi Chung Li Quyền :
- Con beo mà cậu thấy tôi thu phục vừa rồi nhất định là do con trâu sinh ra, phải vậy không ?
- Chính là do con thú đó sinh ra.
Hà tiên cô không tiện hỏi nữa. Chung Li Quyền lại cầm bầu hồ lô, ghé mắt nhòm thử. Lần này cậu thấy con beo con theo sát bên beo mẹ, ở trên núi. Beo mẹ bị người ta giết chết, beo con phải tự tìm lấy cách sống. Lớn lên, nó thường bắt những con thú mập mạp để ăn thịt, nhưng không hề ăn thịt người lần nào. Chung Li Quyền xem đến đó, bất giác nói một mình : "Hèn chi hôm nay nó đã thoát chết. Con súc sinh này được sư tôn thương tình dẫn đi, chắc hẳn cũng vì lý do đó".
Mọi người thấy cậu ta nói một mình, chẳng hiểu ra sao.
Chung Li Quyền lại chăm chú nhìn vào hồ lô, thấy rõ chuyện của mình, từ lúc trưởng thành đến chuyện hôm nay đánh beo, gặp được tiên cô, cùng tiên cô dẫn beo về nhà, giữa đường gặp Thiết Quài tiên sinh. Đến đây, hồ lô đem ngòm, không thấy gì nữa.
Thiết Quài tiên sinh thu lại hồ lô, giao cho tiên cô, nói :
- Đạo hữu thử nhìn xem, coi trong đó có điều gì nói cho cô biết về một chuyện cũ hay không ?
Tiên cô nhận lấy hồ lô, mỉm cười, ghé mắt nhòm thử. Thì ra đó là chuyện riêng của cô, khiến cô ngạc nhiên. Cô thấy một đoạn sự tình hiển hiện trước mắt : từ lúc chia tay cùng cô, Lý Huyền vì sao bỗng trở thành Thiết Quài, sự việc cứ liên tiếp diễn ra.
Tiên cô hiểu rõ lai lịch của Thiết Quài tiên sinh rồi, mới quay lại nhìn tiên sinh mà cười, nói :
- Thì ra là Lý sư huynh. Hèn chi sư huynh cứ nhắc nhở rằng chúng ta là chỗ thâm giao từ hai kiếp. Đáng lẽ tôi phải đoán ngay ra sư huynh mới đúng, vì ngoài sư huynh ra, đâu còn người thứ hai biết được chuyện này ? Nhưng sư huynh biến ra hình dạng kỳ khôi thế này, thật tình tôi nhận không ra.
Thiết Quài tiên sinh bất giác cười lớn. Hà tiên cô và Chung Li Quyền mới đem những điều hai người đã nhìn thấy trong hồ lô, nói rõ cho lão Tuấn và con gái được biết. Thiết Quài tiên sinh mới nói:
- Vậy là mọi người đã hiểu rõ, không còn lý do gì để ở lại đây nữa. Chúng ta hãy trở về thôi.
Tiên sinh vừa nói, vừa đưa cao chiếc nạng trong tay đập vào hồ lô. Liền nghe một tiếng sấm nổ vang giữa trời, khiến mọi người đều kinh hãi. Chừng định thần nhìn lại, thấy mình đang ở căn phòng chính, trong nhà Chung Li Quyền. Nhớ lại tình hình đã thấy trong vò rượu. tưởng chừng như vừa qua một giấc mơ, mọi người lại hướng về phía Thiết Quài tiên sinh mà lạy tạ ơn chỉ dẫn.
Thiết Quài tiên sinh ở lại nhà Chung Li, cùng tiên cô và Chung Li Quyền sớm chiều đàm đạo. Tiên cô nhiều lần nhắc tới chuyện cứu Lưu pháp sư, và tìm kiếm Phí Trường Phòng, Thiết Quài tiên sinh đều nói :
- Cứ thong thả, không sao đâu.
Ba ngày sau, tiên cô không hỏi tới nữa, tiên sinh lại đột nhiên tươi cười, nói với cô :
- Sư muội muốn tìm Phí Trường Phòng, thì hôm nay anh ta nhất định sẽ tới. Cô muốn gặp anh ta để làm gì ?
- Thật tình cũng không có chuyện gì quan trọng. Chẳng qua là lần đó tôi bị tên Triệu công tử quấy nhiễu, Phí Trường Phòng đã từng dùng phép rút đất giúp đỡ tôi. Việc tuy nhỏ, nhưng tình đáng trọng. Vả lại còn có một đồng đạo của anh ta, là Lưu pháp sư, bị giặc bắt đi, hiện nay sống chết chưa biết ra sao, nên tôi muốn thông báo cho Phí Trường Phòng một tiếng. Hơn nữa, tai họa đó là do tôi gây ra, nếu tôi buông xuôi tay áo, không hỏi tới, làm sao lương tâm có thể yên ổn ?
Thiết Quài tiên sinh gật đầu, nói :
- Nói thật cho cô biết, phép rút đất của Phí Trường Phòng do tôi dạy cho. Vì thấy mục đồng bị đày xuống phàm trần, tôi mới thỉnh mệnh tổ sư, nguyện vì tình đồng môn mà xuống cõi trần để thành toàn cho cậu ta về đường đạo hạnh. Nếu quả thật cậu ta có thể tinh tiến, không biếng nhác, thì sau này công hạnh viên mãn, cậu ta sẽ có địa vị ngang với chúng ta, há chỉ là một mục đồng mà thôi ? Nếu được như vậy, thì đúng là chuyện tái ông thất mã, mất ngựa đã chắc gì không phải là phúc ? Trong nỗi bất hạnh vẫn thường ẩn giấu điều đại hạnh. Tất cả đều trông vào bản thân cậu ta tu hành ra sao mà quyết định. Nếu không tập theo chính đạo, cam lòng xu hướng theo phàm tục, vướng vít vào thất tình, lục dục để tính linh mờ tối, thì khoan nói là tu đạo chẳng thành, đến chừng tội nghiệt đầy dẫy, e rằng cầu chết cũng không được, là sau khi chết còn đọa vào đường súc vật, không thể trở lại là người, há chẳng đáng sợ lắm sao ? Vì nghĩ tới những điều trở ngại như thế, tôi phải vội vã tới đây, xem tình hình cậu bé ra sao, tùy cơ chỉ dẫn, đưa cậu vào con đường chính.
Thiết Quài tiên sinh lại nhìn tiên cô, nói tiếp:
- Chuyện của sư muội là điều ta quan tâm nhất. Trước khi sư muội tới đây, lệnh sư có từng đề cập tới ngu huynh điều gì hay không ?
- Sư tôn có nói là đã từng gặp sư huynh. Nhưng bà chỉ nói là Lý Huyền, chứ chưa hề nói tới chuyện sư huynh thay đổi hình dung và tên gọi. Vì thế lúc thấy mặt sư huynh, tôi không thể nhận ra. Nếu không nhờ bầu hồ lô của sư huynh biểu thị rõ chuyện nhân quả, đến giờ tôi vẫn mơ hồ.
Thiết Quài tiên sinh cười lớn tiếng, nói :
- Ta đến đây đã lâu, đã xét thấy cậu bé nhà Chung Li quả là dũng hiệp, hiếu hữu, đúng là rất dễ thành tiên, nên ta rất vui mừng. Lại liệu định rằng chẳng bao lâu cô cũng tới, nên ta ở ở đây đợi cho hai cô cháu gặp nhau, sau đó ta mới ra mắt, lại thuận tiện cứu con beo, đem đi. Con vật này chẳng những có mối quen biết lâu đời với Chung Li Quyền, mà ta còn tra xét, thấy nó chưa hề ăn thịt người bao giờ, nên có thể kể là điều khác thường. Khác thường, bất luận là ở người hay vật, đều là quí cách. Vì thế ta đặc biệt lưu ý đến nó, đem nó nhốt vào trong vò rượu, dự bị huấn luyện nó, để sau này có thể dùng làm con vật cưỡi, không chừng. Cũng có thể cho nó một con đường tiến lên, không uổng tấm lòng tốt của nó.
Mọi người nghe vậy, đều gật đầu tán thưởng, lão Tuấn ở bên cạnh lên tiếng than thở :
- Loài vật mà có nhận thức, không giết người, được sư tôn dìu dắt cũng phải. Còn tôi là con người, mà có dã tâm, giết dã thú nhiều vô kể, không biết mai sau còn chịu tội gì nữa đây ?
Nói rồi, đặt tay lên vai con trai, nói :
- Con ngoan, nếu con biết hiếu thuận với cha, hãy mau mau khẩn thiết tu đạo, hãy thay cha lập được thật nhiều công đức, để chuộc lại những tội ác cha đã làm trước đây.
Chung Li Quyền nhận lời cha dạy, liền nghiêm sắc mặt nói :
- Xin cha hãy yên tâm. Con tuy chỉ là một đứa trẻ, nhưng chí khí ngang với người lớn. Đã lập chí xuất gia, cho dù bị chặt đầu, moi tim, con cũng không sợ, quyết tu đạo tới thành công, mới còn mặt mũi mà về thăm cha. Nếu con lười biếng, lập chí không bền, giữa đường bỏ dở, xin sư phụ cứ dùng sấm sét đánh chết con, con cũng không một lời oán thán.
Lão Tuấn nghe con thề thốt như vậy, bất giác động mối thương tâm, nhỏ xuống mấy giọt nước mắt anh hùng. Thiết Quài tiên sinh cười lớn tiếng, nói :
- Con đã biết lập chí như vậy, lẽ nào lại không thành công ? Tuy nhiên, con cương quyết nói rằng trẻ con trở thành người lớn, thì đó là câu nói mâu thuẫn. Xưa nay chỉ có chuyện giữ vững con tim của đứa con đỏ để cầu đạo thần tiên, chứ sau khi thành người lớn, trí thức phong phú, ngoại vật dẫn dụ ngày một thịnh, trở lại thành chướng ngại thứ nhất cho việc chứng đạo. Vì vậy, ta mong rằng con vĩnh viễn giữ được con tim đứa trẻ , khiến sau khi thành nhân vẫn không biến đổi con tim của đứa con đỏ mà con hiện có. Như vậy, chỉ làm phân nửa sức của mình mà thành công gấp bội. Con vốn là người có tiên duyên, lại biết chuyên nhất như thế, tinh tiến như thế, bảo đảm chỉ trong vòng năm năm, con đã có công hạnh ở mức trung bình trở lên. Lúc đó, con có thể về nhà, độ cho phụ thân con thành địa tiên.
Cha con nhà Chung Li nghe vậy, vui mừng hết sức. Thiết Quài tiên sinh lại nói :
- Nay ta nói rõ cho mọi người được biết, Phí Trường Phòng tình cờ gặp ta giữa đường. Ta thấy anh ấy tư chất rất tốt, ta muốn sai đi làm một việc công, nên đã truyền thụ cho phép rút đất.
Hà tiên cô nghe vậy, vội hỏi :
- Không biết sư huynh phái anh ấy đi làm việc công gì ?
- Sư muội đã ở chỗ đó hai ngày, chắc có nghe chuyện Tần Thủy Hoàng tàn bạo chứ ? Với những hành động đó, lẽ ra ông ta không được chết già. Ông ta lại nhiều tham vọng, không biết tự mãn, luôn luôn đòi hỏi, cầu cho được kim đan đại đạo. Lần thứ nhất ông ta tuần du phương Đông, tới núi Thái sơn, ta mới sai đệ tử Phi Phi trộm mất ngọc tỉ. Lần sau, ông ta lại phái người tới tế thần sông Hoàng hà, ta mới sai Phí Trường Phòng đem trả lại ngọc tỉ, kèm theo một câu cảnh cáo : "Làm mất nhà Tần là Hồ". Câu này không phải nói tới người Hồ, nhưng vì đây là việc thiên cơ, không thể tiết lậu ta mới nói mí mí thế thôi. Không dè ông ta lại giải thích sai lầm lời sấm truyền. Trong số người Hồ chỉ có Hung Nô là mạnh nhất, hiện sống đời du mục, tung hoành suốt một dải đất miền Bắc. Thủy Hoàng liền phái đại tướng Mông Điền, huy động đám trai tráng trong nhân dân, cơm vắt nước mang, phải dựng cho được một dải trường thành, dài hơn bốn ngàn dặm, miền Đông bắt đầu từ Đông Hải, miền Tây kéo dài tới chân núi Côn Luân, còn gọi là núi Thiên sơn. Vì thế khắp nơi nổi lên những tiếng than oán, dân chúng không sao sống nổi.
Thiết Quài tiên sinh nói tới đây, tiên cô bất giác gật đầu, than thở :
- Thì ra có thứ ngược chính đó. Hèn chi lúc tôi vừa tới kinh thành, đã thấy người ta trợn mắt, nhăn mày, lộ vẻ vô cùng sầu khổ, oán giận. Chắc cũng do việc này gây ra đấy thôi !
Thiết Quài tiên sinh gật đầu liên tiếp, và cất tiếng kể thêm.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 18.07.2008 18:19:07
Hồi Thứ 41

Đề phòng người Hồ, bạo chúa dựng trường thành
Vì đi đón khách, cậu bé gặp quái vật.

Thiết Quài tiên sinh nói với Hà tiên cô :
- Lúc đó, ta vì chuyện này mà lòng dạ rối bời, liền xuất hồn về Côn Luân triều bái, thỉnh mệnh tổ sư, mới hay chuyện dựng trường thành có hại nhất thời, mà lợi tới muôn đời. Vả lại Tần Chính khí số chẳng còn bao lâu, lòng trời đã ghét bỏ, muốn mượn tay ông ta để hoàn thành công việc lớn lao này. Đối với dân chúng, đó là tai họa khốc liệt, tình cũng đáng thương, nhưng nếu không trải qua việc xây dựng lớn lao này, thiên hạ không mau loạn lạc, chân chúa không thể xuất đầu. Dân chúng chịu nạn nước lửa khó thoát, hoặc chịu những tội linh tinh khác, xét cho cùng thì cũng là số kiếp, không sao tránh khỏi, so với việc chết vì đắp thành có khác gì đâu ? Một khi trường thành đắp xong, tội ác của bạo chúa chất đầy, dân chúng sẽ thoát được tình cảnh treo ngược, chính là suy nghĩ rất khôn khéo của tạo hóa : hại người chính là để cứu người, còn gì kỳ diệu hơn ? Ta thỉnh mệnh tổ sư xong, trở lại kinh thành. Trường Phòng lại năn nỉ ta thoát độ cho, ta nhận thấy anh ấy quá lo lắng, mới dùng tới một kế sách. Gặp đúng lúc từ triều đình cho tới mọi địa phương đều đốc thúc dân phu, ta mới biến ra một vị công sai, tới nhà họ Phí, báo tin cho gia đình biết, nói rằng Trường Phòng đã bị bắt đi dân phu, để gia đình đừng nghĩ gì tới anh nữa.
Tiên cô nghe vậy, lại cười, nói :
- Thì ra là vậy. Hèn chi hôm đó tôi tới nhà họ Phí hỏi thăm, họ vừa thấy mặt tôi, liền biểu lộ những thái độ kỳ lạ. Thì ra họ nhát gan, sợ tai họa bất ngờ trút xuống đầu chăng, nên vội thụt đầu vào chẳng dám ra ngoài mà chuốc lấy những chuyện thị phi. Xin hỏi sư huynh, hiện giờ Trường Phòng đang ở đâu ?
Thiết Quài tiên sinh không trả lời vào câu hỏi, mà kể tiếp :
Hiện nay trường thành đã khai công, nghe đâu còn ra hạn kỳ phải hoàn tất, điều động khoảng chừng vài vạn người đi xây thành. Nhân dịp lên miền Bắc, ta biết chuyện một cô gái sắp tới ngày cưới lại lâm vào hoàn cảnh đáng thương. Không biết tên gian nhân nào đã nhòm thấy nàng, nói nàng có tấm nhan sắc mỹ lệ, tâu lên triều đình. Hôn quân vô đạo liền hạ chỉ thu nạp nàng làm phi tần. Cô gái đó quyết chí không thuận tùng, khiến Tần hoàng hận vô cùng, truyền đem họ tên chồng nàng ghi vào sổ sách, phát vãng anh ta đi xây thành. Thương thay chàng thư sinh thể chất yếu đuối làm sao gánh vác nổi công việc cực nhọc ? Huống chi Tần hoàng lại cố ý gây chuyện, làm sao chàng ta tránh khỏi ? Nhưng vì không tìm được lợi danh đích đáng để giết, hôn quân đành sai ghi tên chàng ta vào sổ, đày đi xa, e rằng sớm muộn cũng đưa chàng tới chỗ chết mà thôi. Lên tới trên đó, chỉ cần chúng phán một câu “Làm việc không chuyên cần", là sớm đánh đập, chiều chửi mắng, đưa chàng tới chỗ chết dễ như bỡn. Cũng may cô gái đó có tình lại có chí khí. Cô biết chồng mình đi lần này ắt không có hy vọng sống mà về. Mặt khác triều đình ngày ngày sai người tới khuyến dụ, nói rằng chỉ cần nàng hồi tâm chuyển ý, là tha cho chồng nàng về ngay, mà bản thân nàng làm phi tử, hưởng dụng vinh hoa phú quí. Cô gái đó biết việc của chồng mình không thể cứu vãn, nhưng cũng không thể không tìm một biện pháp để bảo vệ tính mạng cho chàng. Vì thế, nàng giả bộ thuận ý nhập cung, chỉ yêu cầu được đích thân đưa chồng lên phương Bắc, cho vẹn nghĩa phu thê. Viên quan được cử đi khuyên giải cô gái đã thay mặt nàng bẩm báo lên hôn quân, ông ta cũng chấp thuận. Cô gái muốn thủ tín với gia đình nhà chồng, mới đích thân tới nhà, gặp cha mẹ chồng, xin ông bà lập tức làm lễ cưới qua loa cho xong, để nàng có thể cùng chàng lên đường. Làm như vậy có hai điều thuận tiện, trên chặng đường dài không có tị hiềm nam nữ, mà thiên hạ cũng không ai nghi nàng thay lòng đổi dạ. Gia đình chồng cảm chỗ trinh tiết thành thực đó, nhất thiết làm theo lời nàng. Sau đêm tân hôn, cô gái cùng chồng lên đường. Vì nàng sẽ là người của hoàng cung trong tương lai, nên trên đường đi, thiếu gì người lo bảo vệ nàng chặt chẽ ? Nhưng cô gái chối từ thân phận hậu phi tương lai của mình, chỉ để ý chăm lo cho chồng. Hai vợ chồng đã gặp rất nhiều gian nan trên đường đi; ta đã biết trước họ không có hy vọng sống mà về. Nhưng có một người đồng đạo của chúng ta có lòng nhân từ, thương cô gái khổ tiết, đã nghĩ tới chuyện nghịch thiên hành sự.
Người đó hiện ở U Châu, đang tìm cách chống đối với người của triều đình. Kỳ thực, chuyện đó là hoàn toàn vô ích, nhưng ta niệm tình đồng đạo, không thể không cứu. Ta lại cảm thương cô gái khổ tiết đơn độc, không thể không vì nàng lưu lại chút ký niệm cho đời.
Ta tính thu giữ sinh hồn cô gái, đợi nàng chuyển kiếp làm người, nếu có tiên duyên, có thể cho nàng cơ hội để thành tựu. Việc này, hiện giờ ta đã giao cho Trường Phòng đi lo, nhưng chỉ sợ anh ta đạo lực không đủ, không thể giải quyết ổn thỏa. Nay cơ hội đã đến, ta phải đích thân đi một chuyến, muốn dẫn sư muội đi theo nữa.
Tiên cô nghe vậy, liền vui mừng, nói :
Trên đời có được hạng người tiết liệt như cô gái đó , chúng ta bắt buộc phải cứu độ thôi. Sư huynh hãy dẫn tôi đi theo, chứ đi một mình không tốt đâu.
- Chuyện đó chẳng quan trọng gì. Nhưng sư muội đi theo, A Quyền cũng đòi đi theo cho vui, chúng ta khó nỗi từ chối.
Chung Li Quyền nghe nói được đi theo sư phụ và Hà tiên cô, vui sướng quá chừng, không thốt nên lời. Tiên cô lại nói :
- Tần hoàng tàn bạo như thế, sư huynh đạo thuật lại cao cường, sao không thí cho hắn một mũi phi kiếm, trừ hại cho nhân dân, hà tất phải e ngại, bày ra lắm trò lôi thôi như thế ?
Thiết Quài tiên sinh ngước mặt lên trời, cất tiếng cười vang, nói:
- Sư muội tu đạo đã nhiều năm, sao vẫn chưa hiểu đạo lý về kiếp số ? Hễ kiếp số đã định thế nào, đừng nói là không thể miễn trừ, cho dù muốn thay đổi một phần nhỏ của kiếp số, rút ngắn nó lại chăng nữa, cũng không thể được. Tần hoàng có tính tàn nhẫn, đương nhiên là không làm được điều gì tốt, nhưng ngay trong những việc làm của mình, ông ta cũng không thể tự chủ. Thực tình mà nói, ông ta chẳng qua chỉ ứng kiếp mà sinh ra, làm vận hành sứ giả cho kiếp số mà thôi. Ở ngôi vị hoàng đế chí tôn, ông ta cũng không thể tự chủ, huống gì là người khác ?
Tiên cô nghe vậy, tỉnh ngộ ra liền.
Từ đó, Thiết Quài tiên sinh chuyên tâm giáo huấn Chung Li Quyền. Đôi khi tiên cô có chỗ chưa hiểu rõ, tiên sinh cũng chỉ điểm cho tiên cô đã có chút bản lãnh, Chung Li Quyền lại có túc duyên, nên việc chỉ bảo cực kỳ dễ dàng. Chẳng bao lâu, cả hai đều có công phu đích thực.
Một hôm, Thiết Quài tiên sinh bỗng nói với hai người :
- Phí Trường Phòng đang trên đường về đây, A Quyền hãy đi đón anh ta một chặng.
Chung Li Quyền ngạc nhiên, nói :
- Đệ tử chưa biết mặt Trường Phòng, lại không biết anh ta từ đâu tới làm sao có thể đi đón ?
Thiết Quài tiên sinh hét lên :
- Sao nói nhiều thế ? Ta bảo ngươi đi, ngươi cứ việc đi ngay, cần gì phải hỏi lôi thôi ?
Chung Li Quyền không dám nói gì nữa, ấm ức mà ra khỏi cửa nhà, nghĩ thầm : "Nghe sư phụ nói Trường Phòng đi lên miền Bắc, lần này ắt lại xuôi Nam, ta cứ theo hướng Bắc mà đi là được. Nhưng từ đây lên Bắc, có rất nhiều đường, không biết đường nào mới đúng?". Trì nghi một hồi, lại nghĩ : "Sư tôn đã nói, ắt có đạo lý Bất kể thế nào, ta cứ nhờ lòng trời chỉ dẫn, theo con đường đang đi, nhắm về hướng Bắc mà tiến là được". Quyết định như vậy rồi, cậu ta nhận định lại con đường, rồi cứ theo hướng Bắc mà đi.
Đi từ giữa trưa tới lúc gần tối, nhìn sắc trời đã đen đen, trước mặt bỗng hiện ra một trái núi lớn chắn ngang đường. Nếu muốn tiến lên, ắt phải vượt qua trái núi này. Chung Li Quyền nổi tính trẻ con, không cần nghĩ núi cao bao nhiêu, đường đi bao xa. Dựa vào sức mạnh đôi chân mà đi, không hiểu phải mất mấy ngày mới lên tới đỉnh núi ? Vả lại, bên mình không mang theo lương khô lúc đói khát tìm đâu ra thức ăn ? Lại thêm một điều này nữa : trong tay không một món vũ khí, vạn nhất gặp dã thú, có thể dựa vào hai nắm đấm mà kháng cự nổi sao ? Tất cả những vấn đề khó khăn đó Chung Li Quyền đều không thèm nghĩ đến, cứ dựa vào sức mạnh đôi chân mà hăng hái tiến bước. Đi hồi lâu, thấy trời tối mịt. Tuy có ánh trăng, nhưng gió bỗng nổi lên, mây kéo dày đặc, chỉ có chút ánh sáng le lói xuyên qua đám mây chiếu xuống, ngay cả cây cối trên núi cũng nhìn không rõ, đành lạc mất phương hướng. Đến lúc đó, Chung Li Quyền mới nhận ra mình còn nhiều điều bất cập. Nhưng cậu ta vốn là một tiểu anh hùng bướng bỉnh vô cùng, từ lúc sinh ra tới giờ, trải qua biết bao gian nan, nguy hiểm, chưa hề cất tiếng than khổ một câu, chưa hề nhỏ một giọt nước mắt. Lúc này lại vừa vái thần tiên làm sư phụ, đối với sư phụ có lòng tin tưởng tuyệt đối, bất luận gặp nguy khốn thế nào, cũng nhận định sư phụ quyết không gạt ta. Tấm thân nhỏ bé đứng giữa chốn núi hoang, ngước nhìn thì thấy trăng sao lờ mờ, nhìn nghiêng thì là núi sâu, cây dày đặc, cậu bé chỉ còn cách lắng tai nghe ngóng. Chỉ nghe tiếng chồn kêu, sói hú, chim chóc xào xạc, như rót vào tai. Lại thêm những tiếng thê thảm kỳ lạ, chưa từng được nghe. Chung Li Quyền lắng nghe một hồi, liền cất tiếng cười khì, nghĩ : "Từng nghe cha ta nói trong núi rất nhiều oan quỉ, đều là oan hồn của những người bị hùm beo ăn thịt. Cha ta đã được nhìn thấy, nói chúng có hình trạng kỳ quái phi thường, rất dễ sợ.
Tiếc rằng ta chưa từng được đi nhiều nơi, nên không được thấy những con quái đó. Nay nghe tiếng, chắc hẳn cũng chỉ là những con vật đó thôi. Nếu được nhìn tận mắt, cũng được mở rộng tầm nhìn, chứ sao?". Nghĩ tới đó, bất giác phấn chấn tinh thần, cái đói trong bụng nãy giờ, lúc này cũng không cảm thấy nữa. Vì thế, lần theo tiếng động mà đi, tới một nơi ở trên đường đèo, ánh trăng đột nhiên sáng tỏ, chiếu rõ một hình người tròn tròn, giống như hình người xõa tóc, đi chân không, lại giống như thú nhưng đứng bằng hai chân. Con vật đó đang hướng về phía mặt trăng, dập đầu vái không ngừng. Chung Li Quyền nghĩ thầm : "Đây hẳn là con quái vật mà người ta vẫn gọi là con "đại ước", mỗi khi trăng tỏ, thường làm lễ vái trăng. Chẳng biết nó luyện linh đan gì, tụ tập phép thuật gì đây ? Thứ quái vật xấu xí như thế mà cũng nghĩ tới chuyện tu thành tiên nhân, chẳng đáng tức cười hay sao ?". Nghĩ thế rồi, buột miệng cất lên một tiếng cười khì mỉa mai. Tiếng cười không lớn lắm, quái vật đã giật mình, nhảy lui về đằng sau mấy bước. Chung Li Quyền còn muốn nhìn tiếp, coi nó cử động ra sao, liền ẩn mình đằng sau một gốc cây rất lớn. Từ chỗ núp nhìn ra, thấy con quái đang lui cui tìm kiếm một vật gì. Nó tìm quanh quẩn một hồi, có lúc để lộ khuôn mặt ra trước mắt Chung Li Quyền. Lúc đó, ánh trăng vụt sáng, hiện rõ khuôn mặt con quái, chẳng những kỳ quái mà còn muôn phần đáng sợ. Quái vật đó rõ ràng có hình dạng con người, nhưng khuôn mặt nó đầy lông trắng rất dài. Nó lại có cặp mắt như hai hạt châu mầu xanh biếc, đen láy, hướng về phía bên này mà nhìn chăm chú, khiến người gan dạ như Chung Li
Quyền cũng thấy nổi gai ốc. Con quái tìm không ra vật muốn tìm, lại quay mình bỏ đi, để tiếp tục bài tập luyện vái trăng của nó.
Chung Li Quyền vốn tính tinh nghịch, nghĩ thầm :"Con quái này có hai hạt châu kỳ lạ, ta phải móc lấy, đem về tặng cho chị ta làm đôi bông tai". Nghĩ rồi, khoái chí, cất tiếng cười ha hả. Tiếng cười chưa dứt, con quái đã nghe được rõ ràng, liền nhướng mắt nhìn ra xa, xoay mình lại, hướng về phía Chung Li Quyền mà bay tới. Cách đi của nó cũng khác thường, nhìn chỉ thấy một vật tròn tròn, lông lá đầy mình, đen sì, bị gió cuốn đi. Chỉ trong giây lát, nó đã vượt qua đám cây mà tới, đưa hai cánh tay khẳng khiu, tính ôm lấy Chung Li Quyền. Khi nó tới gần, Chung Li Quyền mới nhận rõ khuôn mặt nó, thấy hai bên má có máu tươi, chảy ròng ròng trên đường đi, bốc mùi hôi thối chịu không nổi. Cái lưới thè ra ngoài, dài cả thước, lộ rõ hình trạng một con ma treo cổ. Chung Li Quyền lúc đầu có chút sợ hãi, tới chừng thấy con quái tới xâm phạm, bất giác nổi giận, hét lên :
- Ngươi là con quỉ nào đây ? Dám xâm phạm tiểu gia gia hả ?
Hét rồi, lòng can đảm nổi dậy. Con quái vội chạy đi, nhanh như một cơn lốc, giây lát đã lùi xa hơn mười bước. Chung Li Quyền tỏ vẻ đắc ý. Từ lúc thấy rõ mặt nó, cậu ta rất ghét thân con quái quá ghê tởm, mùi hôi thối quá nồng nặc, cậu không muốn đánh nhau với nó chút nào. Nay thấy nó chạy đi, cậu bẻ một cành cây, cầm chắc trong tay. Rồi không đợi con quái chạy lại lần thứ hai, cậu vung vẩy cành cây tiến lại, tấn công trước. Con quái tự biết không địch lại nổi, hướng về phía Chung Li Quyền lắc đầu lia lịa, cất tiếng kêu the thé kỳ dị. Chung Li Quyền cưới, nói :
- Hân hạnh. Hôm nay ngươi đã cho ta thấy hình dạng một con quỉ ra sao.
Câu nói chưa dứt lời, con quỉ dã quay mình bỏ chạy. Ai ngờ tài chạy của Chung Li Quyền giỏi hơn mọi người, tuy không nhanh bằng phép rút đất, nhưng cũng đủ đuổi kịp con quỉ. Đuổi chừng một lát đã qua một đỉnh núi nhỏ. Nhận thấy cách nhau không bao xa, Chung Li Quyền liền đưa cao cành cây, nhắm đầu con quỉ đánh xuống. Chỉ nghe một tiếng nổ vang, con quỉ biến ra một làn khói, tan đi không còn hình tích, mà mùi hôi thối cũng mất luôn. Nhưng chỉ trong chốc lát, nó lại hiện ra ở một gốc cây đằng trước. Tuy nhiên, khác với lần trước, con quỉ quì xuống đất, hướng về phía Chung Li Quyền, vừa lạy vừa kêu. Chung Li Quyền cười, bảo :
- Con vật ba phần giống người, bảy phần giống quỉ kia, ngươi cũng biết sợ chết rồi hả ? Ngươi đã biết sợ, ta cũng chẳng cần đối địch với ngươi làm chi. Nhưng ngươi hãy dẫn ta đi một chặng dường nhé. Ta đang cần đi lên phía Bắc, người hãy dẫn ta đi, ta sẽ cảm kích vô cùng. Mai sau, ta được sư phụ giáo huấn, chứng đạo, thành tiên, nhất định sẽ dẫn dắt ngươi đến chỗ tốt lành.
 Con quái dường như hiểu rõ ý cậu, hốt nhiên lại gần, phục xuống bên cạnh Chung Li Quyền, dập đầu lạy, kêu lên mấy tiếng khẹc khẹc. Lát sau, nó đứng dậy, triển khai sức gió, hướng về phía Bắc mà chạy như bay. Chung Li Quyền liền theo sau bén gót.
Chừng nửa đêm, nó chợt đứng lại, đưa tay chỉ về phía trước ba lần, rồi xoay mình lại, hướng về phía Chung Li Quyền mà lạy dập đầu.
Chung Li Quyền hiểu ý, nói :
- Chắc hẳn trời sắp sáng, ngươi là quỉ vật, không thể nhìn ánh mặt trời, nên phải trở về gấp, đúng không ?
Con quái lại gật đầu vài cái. Chung Li Quyền lúc đó lại cảm thấy rất thương nó, mới vỗ về nó :
- Ngươi đi đi. Mai sau ta có qua đây, nhất định không quên công ngươi chỉ dẫn ta hôm nay. Ngươi hãy cố gắng làm con quỉ lương thiện, trung hậu, đừng dọa người ta sợ, quấy nhiễu khách lữ hành. Đó là điều khẩn yếu nhất. Còn điều này nữa : ngươi là yêu, là quỉ không nói được tiếng người, ta không hiểu ý ngươi, nên ta muốn đặt cho ngươi một tên gọi. Mai sau ta đi tìm ngươi, sẽ tới đỉnh núi này, vào đêm trăng sáng, đúng giờ này, gọi ngươi ba tiếng, ngươi phải tới gặp ta, đừng để lỡ việc. Nếu để lầm lỡ, đó là số ngươi không may mắn,chẳng can dự gì tới ta. Ta và ngươi gặp nhau vào đêm trăng, ở nơi hoang sơn này, vậy ta đặt tên cho ngươi là "Sơn Nguyệt Nhi", ngươi hãy nhớ kỹ. Ngươi hãy về đi ! Ta cũng tạm dừng, để tìm một địa phương có nhà cửa, tới một quán ăn, ăn cho no bụng, mới có thể đi tiếp.
Con quái nghe vậy, bỗng nắm chiếc áo đi đêm của Chung Li Quyền mà kéo. Chung Li Quyền liền cười, nói :
- Có phải người định tìm cho ta một thứ gì dằn bụng, đúng không?
Con quái quả nhiên gật đầu vài cái, Chung Li Quyền vui mừng, nói :
- Nếu vậy thì quá tốt. Ngươi đi tìm cho ta, ta đứng ở đây đợi ngươi nhé .
Con quái liền bay đi. Chung Li Quyền nhủ thầm : "Con quỉ này cũng biết nghĩ tới người khác". Vì thế, đứng một mình trên núi chờ đợi hồi lâu. Đến chừng thấy trời sắp sáng, trăng đã khuất sau đám mây đen, cảnh vật trên núi không còn nhận rõ, mới bực bội, oán trách con quái gạt mình. Đang lúc ngần ngừ, bỗng lại nghe những tiếng the thé nổi lên một chập, mới cười, nói :
- Chẳng lẽ con quái lại tới đây ?
Nói chưa dứt lời, đã cảm thấy một trận gió cuốn quấn quít dưới chân. Nhòm xuống, quả nhiên là con quái lông lá đen sì đang phục dưới chân, Chung Li Quyền vội hỏi :
- Anh bạn, anh đã tìm cho ta một món điểm tâm đấy hả ?
Con quái phát ra một tràng âm thanh kỳ lạ, như tiếng trẻ con khóc, một cánh tay lông lá cầm một đồ vật, đưa lên cao, đặt vào tay Chung Li Quyền, thì ra là hai chiếc bánh bao rất lớn. Tay kia của nó lại cầm một ống tre đựng nước. Chung Li Quyền vui mừng, nói :
- Thật vất vả cho anh. Chỉ tiếc rằng chúng ta không thể thông ngôn ngử, nếu không, chắc hẳn anh đã có thể nói cho tôi biết gần đây có nhà cửa gì không ?
Con quỉ lắc đầu lia lịa, lại xòe hai tay ra, ý muốn nói thôn trang tuy có, nhưng không ở gần đây. Chung Li Quyền hiểu ý con quỉ, lại muốn hỏi thêm vài câu nữa, ai ngờ con quái không muốn nói chuyện, khom lưng cúi đầu, rồi bay đi mất. Chung Li Quyền cất tiếng than thở :
- Nó là quỉ vật, làm sao có thể nhìn ánh sáng mặt trời ? Tất cả chỉ tại ta không biết điều, đã chịu ơn nó đối xử tốt mấy lần, còn đòi hỏi lôi thôi, làm mất thì giờ của nó, há chẳng phải lỗi tại ta hay sao?
Sức người có hạn, Chung Li Quyền tuy mạnh mẽ, nhưng vẫn chỉ là một đứa trẻ. Chạy suốt một đêm, không nghỉ ngơi, bụng đói miệng khát, tự nhiên cậu bải hoải chân tay, gượng không nổi. Có bánh và nước đây, cậu quên béng mọi chuyện, chỉ lo quét dọn một phiến đá lớn, lấy chỗ để ngồi, đem bánh và nước ra tiêu thụ hết ráo. Thấy sắc trời còn chưa sáng rõ, mới cười, nói :
- Bị con quỉ đen quấy rầy một đêm, mệt quá. Nay trời còn chưa sáng, ta hãy nghỉ ngơi một lát, rồi sẽ đi tiếp.
Nói rồi, ngả lưng xuống phiến đá đánh một giấc. Trẻ con đã ngu, giấc ngủ thường sâu. Một khi đã ngủ say, có đánh vào người, chúng vẫn không tỉnh. Chung Li Quyền ngủ một giấc quá dài, chừng tỉnh dậy thì trời đã tối trở lại. Cậu vặn mình một lát, ngồi dậy, đưa tay dụi mắt. Ngửng nhìn sắc trời sụp tối trở lại, cậu kinh hãi, nói :
- Tại sao ta lại ngủ suốt một ngày như vậy ? Quả là hỏng hết mọi việc rồi ! Lúc này không gặp được Phí Trường Phòng, làm sao trở về gặp mặt sư phụ ?
Nghĩ tới đó, liền hoảng sợ. Đang lúc hồi hộp, bỗng thấy một trận cuồng phong nổi lên, cát bay đá chạy, mạnh mẽ khó đương.
Chung Li Quyền từ nhỏ đã nhiều lần làm quen với dã thú, gặp tình huống này, vừa thấy gió nổi lên, liền biết ngay cơn gió này không phải tầm thường, mà phải có hùm beo tới xâm phạm. Cậu liền cười nói :
- Thứ súc sinh này ngu quá là ngu ? Nếu nó tới sớm một giờ, lúc ta đang ngủ say, ta chỉ có nước đem thân thể tống vào miệng nó mà thôi. Đợi tới lúc ta thức dậy, nó mới vác xác tới, còn hy vọng sống được sao ?
Tuy nói như vậy, nhưng cậu cũng không dám ỷ y, vội lấy lại tinh thần, tiện tay nhặt lên một tảng đá vỡ, chuẩn bị đợi con mãnh thú tới, thừa lúc nó không phòng bị, sẽ ném vỡ hai mắt của nó. Đây là phép ném đạn của ông cha để lại, từ chỗ cách xa trăm bước mà ném, bách phát bách trúng. Chung Li Quyền lại là người rất gan dạ, nếu chỉ là một con cọp, một con beo, cậu chẳng coi vào đâu. Ai ngờ, việc trong thiên hạ có những điều không thể lường trước. Dù ta cẩn thận lưu ý, họa từ bên ngoài vẫn có thể ập tới bất ngờ. Chung Li Quyền chờ đợi hồi lâu, bỗng nghe sau lưng có tiếng hô lớn, vội quay đầu nhìn lại, thì bản thân đã bị một con vật chui xuống dưới hang, từ bên dưới đội lên, bay tuốt lên không trung.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 18.07.2008 19:21:40
Hồi Thứ 42

Chung Li gặp thần thú
Đế quân được trò giỏi.


Chung Li Quyền đang để tâm phòng bị, chẳng ngờ con vật kia lại lặng thinh, len lén tập kích từ bên dưới, đội cậu ta lên.
Không để cho cậu có thời giờ ném đá chống lại, nó đã nhẹ nhàng nhảy lên, phát ra tiếng động lớn như tiếng sấm, bay tuốt lên không trung, giây lát đã biến vào trong đám mây mù. Chung Li Quyền bấy giờ mới kinh hoảng. Nhưng cậu ta vốn là người gan dạ, bướng bỉnh, càng gặp nguy hiểm, càng làm ra vẻ thong dong, bình thản. Vả lại, gần đây cậu vừa vái tiên nhân làm thầy, thấy sư phụ cưỡi mây đạp mù, đi tới đi lui, rất nhàn tản, cậu đem lòng ngưỡng mộ. Trong tâm khảm, cậu chỉ hy vọng học được phép đằng vân đó, ngay cả phép rút đất của Trường Phòng cậu cũng coi là chậm chạp, không thích đáng. Ý nghĩ đó nuôi dưỡng đã lâu ngày, nay thấy con quái kia biết phép đằng vân, cậu quên béng cả nỗi nguy hiểm, nghĩ thầm : "Chuyến đi này dữ nhiều lành ít, tính mạng ta phó mặc cho trời, tấm thân này táng vào miệng yêu thú cũng nên. Nhờ con yêu này biết phép đằng vân, thân ta vẫn chưa chết, lại được bay lượn trên không trung, quả là điều cực kỳ thú vị, ta hãy tận hưởng thú vui đó! Nghĩ vậy rồi, liền vỗ nhẹ lên đầu con thú hai cái, nói :
- Anh bạn tốt, tôi biết anh có ý tốt với tôi, dù cho có đem thân làm món điểm tâm cho anh cũng chẳng sao. Anh cũng chẳng sợ tôi trốn thoát, cần gì mà phải bay nhanh như thế ? Hãy chầm chậm lại, cho tôi được ngắm cảnh vật từ trên không trung, có được không ?
Con thú dường như hiểu ý, chấp nhận lời yêu cầu đó, tức thì bay chậm hẳn lại. Chung Li Quyền vừa vui mừng vừa kinh ngạc, bất giác cất tiếng cười vang, nói :
- Hèn chi bà nội ta thường nói ta có lá số tử vi rất lạ, gặp dữ hóa lành, gặp nguy hiểm ắt có quí nhân phù trợ. Cứ xem chuyện hôm nay, chẳng những có quí nhân phù trợ , ngay cả yêu quỉ, cầm thú cũng có giao tình với ta.
Lúc đó tâm chí đã ổn định, Chung Li Quyền vuốt ve đám lông cổ con thú, cảm ơn nó tử tế, dễ thương, sau đó mới bình thản cúi nhìn xuống cõi trần hoàn, được thấy những nơi đã đi qua, có nơi là đất đỏ trải dài ngàn dặm, một tấc cỏ cũng không mọc nổi, có nơi dân cư đông đúc, cây cối um tùm, có nơi là núi non cực cao, có nơi là sông sâu và dài. Một hồi, lại đi qua một nơi, dường như là biển cả nhìn lên là trời, nhìn xuống là nước, nước và trời rọi sáng, không phân biệt ranh giới.
Trước cảnh lạ của trời đất, Chung Li Quyền nhìn chăm chú, tới chỗ xuất thần, tính trẻ con lại nổi lên. Ngồi trên lưng thú, cậu múa tay, đập chân, la hét om xòm. Theo ý của cậu, cậu chỉ hận không được trò chuyện với con thú, cùng nó rong chơi ngắm cảnh trong mười ngày, nửa tháng, sau đó có táng mạng vào bụng thú cũng cam lòng. Không ngờ con thú thiếu tính nhẫn nại, thấy cậu ngông cuồng, nghịch ngợm như thế, bỗng nổi giận, đạp chân một cái, bay tuốt lên cao, vào' chốn mờ mịt, khiến Chung Li Quyền phát lạnh toàn thân, cảnh đẹp cũng không được thấy nữa, mà muốn chia tay cùng con thú cũng vô hy vọng. Trong lòng buồn bực muôn phần, cậu chửi thầm con quái vô tình. Chợt ngừng đầu nhìn lên, trước mắt hiện ra một cảnh thành thị vô cùng rộng lớn, trong đó có rất nhiều cung điện nguy nga, cao vút tầng mây. Con thú hạ mình thấp xuống, chạy vào chốn thành thị, nhắm hướng một tòa đại điện mà chạy nhanh. Chung Li Quyền vui mừng trở lại, nói :
- Gần đây, ta được chạm trán một số thần tiên. Chỗ này há chẳng phải phủ đệ của thần tiên hay sao ? Con thú này quả có hảo ý dẫn ta vào đó thưởng ngoạn. Chỉ tiếc rằng nó chạy nhanh quá, vừa rồi chạy qua nhiều chỗ thị tứ náo nhiệt, mà ta không kịp quan sát để biết tình trạng nơi chợ búa của người tiên ra sao.
Đúng lúc đó, con thú bỗng dừng lại, hạ chân sau, ngồi xổm.
Chung Li Quyền ngồi trên lưng thú không vững, đành leo xuống.
Cậu trố mắt nhìn, thấy đại điện trước mặt vô cùng đẹp đẽ, nguy nga, không sao tả xiết. Đang lúc bồi hồi, đã thấy có người đi ra, mũ áo trang sức giống người trong hoàng cung ở dưới trần thế. Vì là người trong kinh đô, cậu đã từng được nhìn thấy cung điện của hoàng đế, hiểu rõ cách phục sức của người trong cung, nên không đến nỗi bỡ ngỡ.
Người đó ra đến sân điện, nhìn Chung Li Quyền mà cười, vẫy tay vời gọi:
Đế quân cho vời cậu vào đấy. Hãy cẩn thận, đừng nghịch ngợm, hiểu chưa ?
Nói rồi, lại gần cậu bé, vỗ nhẹ lên mình cậu vài cái, nói :
- Chuyến đi vừa rồi bay lên bay xuống, có vất vả lắm không ? chung Li Quyền ngơ ngác như người trong mộng, không biết đường nào mà trả lời, cũng không hiểu nơi này là đâu, nhưng nghĩ rằng con thú mình vừa cưỡi nhất định là do đế quân sai đi đón mình. Quay đầu nhìn lại, thấy nó là một con cọp trán trắng, cực kỳ to lớn. Chung Li Quyền tưởng nhớ lại mình đã cưỡi trên mình nó, chạy suốt một đêm, kinh hãi quá chừng. Người kia thấy cậu vẫn đứng yên, nhìn con cọp già, liền cười, hỏi :
- Cậu còn tính nhờ con thú này đưa cậu trở về hay sao ? Yên tâm, yên tâm. Đợi gặp đế quân, tự nhiên ngài sẽ truyền lệnh đưa cậu trở lại nhà.
Chung Li Quyền thấy người kia đoán đúng tâm ý của mình, bất giác cười khan, không nói tiếng nào, đi theo ông ta. Qua một dãy cung điện, mới tới một chỗ thiên điện nho nhỏ. Nhìn lên, thấy một người phục sức trang nghiêm, ngồi phía trên. Có chừng hơn mười người thị tùng, chia nhau ra đứng hai bên, giữ yên lặng hoàn toàn.
Chung Li Quyền không hiểu gì về phục chế, trước mắt chỉ thấy mũ áo của những người kia đều đẹp đẽ, trang trọng, mới nghĩ thầm : “người ngồi trên kia hắn là đế quân". Vì thế, thận trọng đi theo người dẫn đường, tiến gần thềm điện. Người đó vào trước, bẩm báo rằng đã dẫn Chung Li Quyền tới hầu. Đế quân đang mở một cuốn sách bìa vàng, dường như đang tra xét điều gì trong đó, nghe bẩm, liền nói :
- Truyền cho vào.
Người kia trở ra, dẫn Chung Li Quyền tới trước bệ, bảo quì xuống, vái lạy. Đế quân truyền chỉ bình thân. Chung Li Quyền tạ ơn, đứng dậy, đế quân bảo cậu lại gần. Chung Li Quyền thấy đế quân là một người mặt trắng, râu dài, tinh thần sắc sảo. Đế quân hỏi cậu có phải Chung Li Quyền không, sư phụ là Lý Huyền, có biệt hiệu Thiết Quài tiên sinh chứ gì ? Chung Li Quyền luôn miệng “Dạ, dạ", đế quân lại hỏi :
Ngươi cũng biết kiếp trước ngươi là ai, vì sao bị đày xuống hạ giới chứ ?
Hôm trước, nhờ Thiết Quài tiên sinh chỉ điểm, tôi cũng hiểu sơ qua.
Nay ngươi tình nguyện tu đạo chứ ?
Chung Li Quyền nhất thời không trả lời, chỉ toét miệng ra cười và giương cặp mắt tròn xoe nhìn đế quân chăm chú, biểu lộ một tính khí ngây thơ mà láu lỉnh, rất dễ thương. Đế quân và toàn ban tiên quan đều cười. Đế quân lại nói :
- Ngươi là người có tiên duyên, nếu biết lập chí, thì chỉ cần ra sức bằng phân nửa người bình thường, mà nhanh chóng thành tựu gấp bội, sau này thành công có thể đạt được địa vị ngang với sư tôn của ngươi, quyết không dừng lại ở địa vị thấp hèn kiếp trước, chỉ biết chăm sóc con vật cưỡi của tổ sư. Chuyện này, sư tôn chắc đã nói cho ngươi biết rồi chứ ?
Chung Li Quyền chỉ cười tủm, tỏ ra không dám tin tưởng mình có thể đạt được địa vị như thế, lại cũng không cam lòng ở lại địa vị thấp hèn mãi mãi. Vì thế, nghe lời huấn dụ của đế quân, từ trước tới sau, cậu không trả lời. Đế quân hiểu ý, nói :
- Ý nghĩ của ngươi, ta đã hiểu rồi. Ta cũng thấy được ngươi có chí khí, lại không dám tự khoe. Đó là căn cơ của người nhập đạo. Nhưng ngươi cũng nên biết rõ : ngươi tuy vái Thiết Quài sư huynh của ngươi làm thầy, song việc đó có sai lầm. Thứ nhất là danh phận không chính đáng, thứ hai là chiếu theo lý số, ngươi không đáng làm đồ đệ Thiết Quài. Thiết Quài là tiên, sao không biết tự lượng, dám tự cao tự đại nhận ngôi vị sư tôn ? Điều đó không thích hợp với ông ta.
Chung Li Quyền nghe đến đó, liền dẩu mỏ ra, nói :
- Lý sư phụ có bản lãnh như thế, sao không đáng làm sư phụ tôi chứ ?
Đế quân cười, bảo :
- Đạo lý đó, lúc này nói ra, ngươi cũng không hiểu được đâu. Nhưng ta cũng nói đại ý cho ngươi biết. Với người hay với tiên, cũng một đạo lý mà thôi. Người ta sinh ra ở đời, làm cha con, vợ chồng, thầy trò, bạn bè gì chăng nữa, đều không phải chuyện ngẫu nhiên, mà tất cả đều dựa vào duyên phận. Nay ngươi cùng vị sư tôn kia, tuy không thể nói là hoàn toàn không có duyên với nhau, nhưng ông ta chỉ có thể đóng vai một vị tiên sinh, truyền thụ cho ngươi một chút bản lãnh, mở mang tri thức cho ngươi. Bàn về sự tình hiện tại, tiên sinh vẫn là Thiết Quài, nhưng bàn về danh nghĩa, thì ông ta chưa xứng đáng ngôi sư tôn, ngươi nên nhận định rõ như vậy. Ngay cả vị đế quân đang ngồi trước mặt ngươi đây, sau này, khi người xuất thế, thăng thiên, cũng phải nhờ ngươi siêu độ, dẫn dắt cho đó ?
Chung Li Quyền nghe vậy, nhất thời lãnh hội ý đế quân. Những quan thị thần đứng hầu hai bên đều lên tiếng thúc giục cậu bé mau mau dập đầu, làm lễ bái sư. Chung Li Quyền vừa kinh hoàng vừa cảm kích, vội quì ngay xuống, nhưng cậu không chịu dập đầu lạy liền. Trong lòng cậu nghĩ rằng mình đã vái Lý tiên sinh làm thầy, mà ông thầy này quá giỏi, hiện đang ở nhà mình, tại sao lại phải vái một ông thầy khác ? Ta vái vị sư phụ này rồi, chẳng biết vị Lý tiên sinh đang ở nhà ta có chấp nhận hay không?
Vả lại theo như lời đế quân nói, việc truyền đạo, giảng dạy vẫn phải nhờ tới Lý tiên sinh, việc hôm nay đố tránh khỏi làm mích lòng Lý tiên sinh. Vạn nhất lão nhân gia không chấp nhận thì sao? Làm sao giải quyết cho ổn thỏa đây ? Cậu đang trầm ngâm như thế, đã nghe đế quân phán :
- Bé con chẳng cần phải nghĩ ngợi. Vị Lý sư phụ của người đã nhất thời sơ suất: không chịu suy tính kỹ càng. Nếu ông ta hiểu rõ mối quan hệ này, ông sẽ tự động lui về địa vị sư huynh của mình thôi. Bất luận thế nào, đối với tiền trình của ngươi, việc này chỉ có tiện nghi, không có tổn hại. Ngươi thử nghĩ coi, thêm một vị sư phụ, làm người chỉ dẫn, chẳng tốt hay sao ? Nói thực cho ngươi biết, ngươi bị tổ sư đày xuống trần là vì chăn trâu không cẩn thận, mà nguyên do của việc đó lại vì tổ sư xuống biển cứu Lý Thiết Quài. Thiết Quài thấy vì mình mà ngươi chịu tội, trong lòng không yên. Huống chi còn có tình đồng môn, làm sao ông ta không tới chỉ dẫn cho ngươi ? Chẳng những là ông ấy, bất cứ tiên nhân nào làm môn hạ của tổ sư, chiếu theo danh phận đồng môn, đều phải tới dẫn dắt ngươi. Nhưng họ cũng chỉ có trách nhiệm bảo hộ, chỉ dẫn ngươi thôi, vị tiên sinh chân chính của ngươi vẫn là đế quân ta.
Hôm nay, ngươi làm lễ bái sư, sau khi ngươi trở về, nhất định sư phụ ngươi sẽ hiểu, và không dám nhận ngôi tôn sư nữa đâu. Ngươi cũng đừng ngại, cứ lấy lễ tôn sư mà đãi ông ta, ông ta chiếu theo như cũ mà chỉ giáo cho ngươi về phép tu đạo, và những phép thuật ứng dụng. Tới chừng ngươi tu đạo thành công, ngươi lại có thể độ cho ta lên trời.
Đế quân nói tới đây, không ngờ các vị tiên lại đứng chầu hai bên đều trố mắt, há hốc miệng, cùng rời khỏi ban, phủ phục trước bệ. Đế quân kinh ngạc, vội hỏi :
- Chư khanh có chuyện gì mà làm như vậy ?
Các vị lãnh tụ chư tiên bẩm rằng :
- Thánh nhân không nói giỡn chơi, không lỡ lời. Nay đế quân phán rằng mai sau Chung Li Quyền sẽ độ cho đế quân lên trời, chúng thần ngu tối, chỉ sợ thánh giá có mối lo đặt chân hạ giới.
Đế quân suy nghĩ một lát, tỏ ý bực bội, phán :
- Chư khanh hãy đứng lên, nghe quả nhân nói một lời.
Các vị tiên lại đều đứng dậy, trở về hàng ngũ, đế quân mới cất tiếng than thở :
- Quả nhân thường nói rằng ở hạ giới ngày nay lòng người quá hư hỏng, gây tội nghiệt quá nhiều, phải nghĩ cách chỉnh đốn lại, khuyến hóa người ta làm việc thiện. Những việc lớn như thế, nếu ta không đích thân xuống phàm trần, làm sao có thể thực hiện ? Đại khái là quả nhân cùng chúng sinh còn có chút duyên phận, cũng là tại số. Quả nhân, từ lúc khai thiên lập địa, đắc đạo lên trời, đội ơn Ngọc đế dẫn dắt, hai vị Nguyên Thủy, Lão Quân giáo huấn, lại nhờ các vị lãnh tụ, như Tây vương mẫu, Huyền Nữ đề cử, mới được sánh ngang địa vị với Chân Vũ đại đế, là hóa thân của Ngọc đế, tước phong đế quân, vinh dự được Ngọc đế tin cậy, giao cho trọng trách, đến nay đã được vài vạn năm, thường thẹn mình không có công đức lan tới loài người. Mấy khi gặp được dịp này để đặt chân trở lại hạ giới, khảo sát phong thổ, dân tình hiện nay, lập nên công đức giáo hóa, lưu truyền vạn vạn năm. Quả nhân lập nên sự nghiệp này, không thua kém gì Lão Quân, đã nhiều lần đầu thai xuống phàm trần, viết kinh sách để giáo huấn người đời. Quả nhân đã quyết định, đợi tới sau khi đã độ cho Chung Li Quyền thành tiên, nhất định sẽ đích thân xuống phàm trần, sau đó lại nhờ cậu ta siêu độ cho. Ta cùng Chung Li Quyền đổi nhau, lúc làm thầy, lúc làm trò, quả là một giai thoại lưu truyền vạn năm. Mong các khanh đừng vì quả nhân mà lo lắng nữa.
Các vị tiên vâng chỉ, đều hài lòng, thành thật khâm phục, cúi đầu vái nói rằng :
- Không dè đế quân có hoàng nguyện như thế, hợp với nỗi khổ tâm của Phật Như Lai : "Ta không vào địa ngục, ai vào địa ngục ?". Chúng thần trộm nghĩ : trên trời bớt đi một vị kim tiên, sao bằng nhân gian tăng thêm một thánh nhân ? Huống chi mãn hạn, thành công, trở lại ngôi vị trên trời, càng được Ngọc đế trọng vọng, có tổn hại gì cho đế quân đâu ? Đây chính là điều may mắn rất lớn cho dân chúng, cũng là công đức của đế quân không gì lớn bằng. Nếu không thông minh thánh triết như đế quân, làm sao có thể chuyển họa thành phúc, đổi hoạn nạn thành bình yên ? Chúng thần tự thẹn là đã liệt vào tiên ban, mà không hiểu nổi thánh ý, đã lo lắng vẩn vơ, quả là ếch ngồi đáy giếng.
Đế quân vội nói :
- Chư khanh đều tích chứa công đức, tu thân lập mệnh, mới được địa vị thần tiên, lẽ nào lại không nghĩ tới việc giúp đời, cứu người ? Chẳng qua chỉ vì quá yêu quả nhân, thấy quả nhân lỡ lời, mới lo lắng cho ta thôi. Quả nhân xem dân tình ngày nay, thấy văn vẻ thắng chất phác, lễ quá nhiều, tình quá bạc bẽo, cơ trá ngày một tăng, nếu cứ thế này tiếp diễn, con người chẳng khác chi cầm thú, phong tục ngày một bại hoại. Vì thế quả nhân muốn xuống phàm trần một chuyến, làm hết khả năng của mình, để vãn hồi lại nhân tình thôi, chứ so sánh với Phật Như Lai, quả nhân thật tình chẳng dám nhận.
Các vị tiên nghe vậy, đều tán tụng. Những lời nói trên đây, Chung Li Quyền nghe được hết, bấy giờ mới rõ người ngồi trên điện chính là Đông Hoa đế quân, liền đem lòng kính sợ. Lúc đầu cậu không chịu tùy tiện bái sư, nay chẳng đợi ai thôi thúc, tự động khấu đầu. Đế quân tỏ ý hài lòng, cất tiếng cười vang, các vị tiên quan cũng cười, nói :
- Cậu bé này cũng kính ngưỡng thánh đức đế quân, đã thực lòng bái phục.
Đế quân lại phán :
- Lý sư phụ có tài tiên tri, chuyện hôm nay không giấu nổi ông ấy đâu. Nhưng thiên cơ bất khả lậu, ngươi nên thận trọng lời nói, không được nói vung vãi cho mọi người đều biết, mà mắc tội với trời.
Chung Li Quyền khấu đầu lãnh chỉ. Đế quân lại nói :
- Có phải ngươi vâng lệnh Lý tiên sinh, đi đón Phí Trường Phòng từ miền Bắc trở về hay không ? Người đó hiện đã về tới nhà ngươi rồi, ngươi không cần trở về đấy nữa, mà nên tới U Châu, đợi Lý sư phụ, cùng Hà đại cô nương và Phí Trường Phòng. Họ đều kéo nhau tới đó, mọi người được họp mặt đông đủ, vì có một việc họ phải kết thúc, cũng có một người đồng đạo hiện đang bị giam cầm, phải mau chóng cứu ra. Ngươi đi đi.
Chung Li Quyền lại hỏi :
- Đệ tử tới U Châu, Lý sư phụ biết tìm đệ tử ở đâu ?
Đế quân cười :
- Sư phụ ngươi có pháp lực rất cao, lẽ nào muốn tìm một người lại tìm không ra ? Nói thực cho người biết một việc, sư phụ ngươi sai ngươi đi đón Trường Phòng, thật ra là muốn nhờ việc đó để khảo sát xem ngươi có can cảm không, tâm thuật thế nào. Vì ngươi bẩm tính hung bạo, từng giết nhiều mãnh thú, hầu như mọi việc nguy hiểm trong thiên hạ ngươi đều không thèm bận tâm, nên ông ấy khiến ngươi gặp những chuyện kinh hãi, để coi ngươi có lòng nhân ái hay không ? Trước đây ngươi cứ một mực hung hăng, hiếu sát không tiếc mạng sống của loài vật, không ngó tới lợi hại, cũng may bây giờ ngươi đã có lòng nhẫn nại, xử lý mọi việc rất đúng. Nếu không, sau lần gặp quái vật, có thể ngươi còn trải qua những việc nguy hiểm đáng sợ thứ hai, thứ ba. Lý sư phụ đã tính trước lúc Phí Trường Phòng trở về, có thể nhờ anh ta giúp ngươi thoát hiểm, dẫn ngươi về cùng.
Chung Li Quyền nghe vậy, liền kinh hoàng, tắt tiếng cười. Đế quân lại nói tiếp :
- Con yêu quỉ ở trong núi vừa nịnh bợ một chút, ngươi liền hứa hẹn thu nhận nó vào môn hạ, dự tính sau này ngươi có chút tiến bộ, sẽ vời nó về ở gần bên mình, hứa hẹn với nó biết bao điều tốt lành. Điều đó tuy là do tính cách trẻ con, nhưng tỏ ra ngươi quá cuồng vọng, chẳng thèm nghĩ mình đang ở địa vị nào, mới học được vào câu chú ngữ, những điều tu dưỡng bản thân còn chưa học đầy đủ, đã nghĩ tới chuyện làm thầy thiên hạ, siêu độ người khác, chẳng những đáng chê cười, còn dễ bị phân tâm, mà tâm một khi phân tán, việc học không tinh tế, thân mình còn giữ không nổi, sao có thể ngó tới người khác ? Việc đêm hôm qua là do tình cờ xảy ra, lại chứng tỏ tấm lòng ngươi từ bi thương người, nhưng ta cũng không ngại rườm lời, để cảnh cáo ngươi, đề phòng ngươi vì chút lòng tốt, muốn làm thầy người khác, sau này sẽ thu nhận đồ đệ bừa bãi. Đem đạo pháp truyền cho người xấu, gây họa lớn lắm, có thể khiến thiên hạ đại loạn, máu chảy thành ngòi, trước hết ngươi tự gánh lấy tội, sau nữa đổ trách nhiệm lên đầu sư phụ ngươi, há chẳng đáng sợ, đáng răn đe lắm sao ?
Chung Li Quyền sợ hãi, nói :
- Đệ tử tuổi còn trẻ, chưa hiểu hết những điều lợi hại, từ nay về sau chẳng dám nói càn, giết người bừa bãi. Đối với con yêu quỉ mới gặp vừa rồi, đệ tử tuy có hứa siêu độ, đành chịu thất tín với nó là xong. Con quái đó, đệ tử đâu có biết tính chất ra sao, có thể thuần phục được hay không, lỡ nó làm chuyện càn gỡ, chẳng những bản thân đệ tử chịu tội, còn để liên lụy tới hai vị sư tôn cùng gánh trách nhiệm.
Đế quân cười, bảo :
- Người không giữ chữ tín, chẳng nên người (1), ngươi đã thật lòng hứa hẹn với người khác, sao có thể vừa quay lưng đã dự bị thất tín ? Cũng may con vật này, tuy được ngươi hứa dẫn dắt, nó cũng không có phúc phận lớn vậy đâu. Ngươi có thể yên tâm, việc này không gây phiền phức gì cho ngươi. Từ nay về sau, ngươi chỉ cần để ý cẩn thận là được rồi.
Chung Li Quyền xưng tuân chỉ, nhân đó hỏi :
- Con vật đó thật ra là yêu hay quỉ ?
Nó, một ngàn năm trước, là một tà nhân, bị Chân Vũ đại đế sai thủ hạ là Hắc Hổ (cọp đen) nuốt đi, quỉ hồn không tan, thường ở trong núi ẩn hiện, tuy không cố ý hại người, nhưng người nào lỡ gặp phải nó, liền kinh hãi mà thành bệnh. Hiện nay nó thường ra ngoài vái nhận tinh hoa của mặt trời, cảm thụ đã sâu, hai mắt có thể phát sáng, lại gom góp được hồn vía, biến thành hình người. Nhưng con quái đó bản chất hung hăng, tuy qua tu luyện, e rằng tính nết khó sửa đổi, kết cuộc cũng chẳng ra gì. Ngươi chỉ cần lưu ý cẩn thận là được.
Chung Li Quyền vái mà nhận lời. Đế quân nói :
- Ngươi tới đây đã lâu, chẳng nên ở lại. Con vật cưỡi đã đưa ngươi tới đây, lại đưa ngươi tới U Châu.
-------------------------------------------
( 1 ) Câu quen thuộc của Nho gia : “nhân vô tín bất lập”

Chung Li Quyền cầu xin :
- Con cọp đó không biết nghe lời. Xin sư tôn ban cho một trận gió thần, đưa đệ tử đi.
- Ngươi đừng xem thường con cọp đó. Nó lớn tuổi hơn ngươi gấp ngàn lần, ngươi muốn sai khiến nó sao được ? Nhưng thôi, ta biết ngươi khao khát thưởng thức mùi vị cưỡi mây mù, lui tới trên không trung. Vị tình thầy trò, trước hết ta hãy truyền cho ngươi phép đằng vân, phép này không phải tầm thường, lúc mới học chỉ cần niệm vài câu chú ngữ, sử dụng một số huyền công, đặt tâm chí vào điều ước muốn, hai chân liền vọt lên không trung. Một canh giờ có thể đi xa được mười vạn dặm. Đại pháp này vốn không thể truyền thụ cho người mới học, nhưng nghĩ ngươi có chí thiên về chính đạo, giữ lòng nhân hậu, nên ta phá cách dạy cho ngươi.
Đế quân nói rồi, bảo Chung Li Quyền tiến lại gần, ghé tai dặn dò vài câu. Chung Li Quyền chê là không hay, đế quân hét lên :
- Thằng bé ngu ngốc này, ta đem đại pháp truyền cho ngươi, ngươi còn hoài nghi nữa sao ?
Chung Li Quyền chợt hiểu ra, thử niệm một lần, lập tức cảm thấy thân mình bay bổng, lơ lửng trên không trung. Cậu ta thích chí hô to :
- Sư tôn tốt, sư tôn thân mến !
Cậu ở trên không trung múa tay, đạp chân, như mắc chứng điên, khiến đế quân và toàn ban tiên lại đều cười ngất.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 19.07.2008 23:01:13
Hồi Thứ 43

Gặp lão yêu chung Ly dụng kế
Bảo vệ chồng, Mạnh Khương mắc nạn.

 
Đông Hoa đế quân thấy Chung Li Quyền vui sướng quá chừng, quay nhìn các vị tiên lại đứng hầu, nói :
- Cậu bé này thật hoạt bát, hồn nhiên, rất đáng yêu.
Một vị tiên quan đứng gần bẩm rằng :
- Chung Li Quyền tuy hồn nhiên, ngây thơ, đụng tới việc lớn cũng biết tỏ ra lão thành trì trọng. Hạng người như thế quyết không phụ lòng đế quân thành toàn cho.
Đế quân rất hài lòng, liền truyền chỉ :
- Chung Li Quyền bẩm tính tự trọng, đã đi U Châu, bất tất phải trở lại đây.
Chung Li Quyền ở trên không, gật đầu liền mấy cái, tung mình một cái, đã đi xa vài trăm dặm, quay nhìn lại cung điện, không thấy đâu nữa. Đi một quãng, tính ngang bướng lại nổi lên, cậu ta nghĩ : "U Châu tuy xa, có phép cưỡi mây này, khoảnh khắc đã tới, chi bằng ta cho mây đi chầm chậm, để ngắm cảnh vật bên dưới, có gì mà chẳng được ? Cậu thấy ý nghĩ của mình rất có lý, mới cho mây bay thấp xuống, cách mặt đất chừng vài trượng, cúi nhìn cảnh vật dưới đất, thấy rất rõ ràng. Người trên mặt đất nhòm lên cũng có thể thấy một đứa trẻ ở trên không trung, đi chầm chậm về phương Bắc, dường như bị mây gió cuốn đi. Có người ngửng đầu nhìn ra xa, có người xì xào cho là chuyện lạ. Nhiều người châu đầu vào nhau, bàn luận lăng xăng.
Chung Li Quyền đi một hồi, tới một chỗ ải quan. Cậu không rõ đây là địa phương nào, định đáp xuống hỏi thăm U Châu đi đường nào, cách bao xa. Vừa tới chỗ địa đầu, định đáp xuống, chợt nghe phía sau có tiếng cười hô hố. Quay nhìn lại, nhận ra hai người ăn mặc theo lối đạo sĩ, đang thúc đám mây tiến lên. Họ nói cười ầm ĩ.
Chung Li Quyền chợt nghe được một câu :
- Phí Trường Phòng thật có bản lãnh. Sư phụ hắn nghe đâu là một đạo nhân què.
Câu nói lọt vào tai Chung Li Quyền, khiến cậu đứng tim, vội ngừng đám mây lại, tính đợi hai người kia tới, thăm dò sự tình cho rõ. Đang lúc hồi hộp, hai đạo nhân đã từ phía sau tiến lại. Chúng thấy một cậu bé đang rong chơi trên mây, mới bàn bạc cùng nhau một lát, rồi đứng trên mây đưa tay vẫy gọi. Chung Li Quyền mới nhìn kỹ hai đạo nhân, nhận thấy một người mặt trắng như tuyết, thân hình lùn tịt, tuổi chưa quá ba mươi, người kia sắc mặt sạm đen, râu trắng như cước, có vẻ gian xảo, tuổi ngoài sáu mươi. Chính lão ta lên tiếng hỏi Chung Li Quyền trước :
- Vị tiểu ca này tên họ là gì ? Người ở đâu ? Đang tính đi tới chỗ nào ?
Chung Li Quyền nghe mấy câu của hai người này, rõ ràng là nói tới Trường Phòng và Thiết Quài sư tôn, hẳn nhiên chúng là đối đầu của bọn ta. Lại thấy hai tên này mặt mày không có vẻ gì là người đàng hoàng, cậu không muốn nói thật cho chúng biết, nên mỉm cười, nói :
- Tôi họ Chung tên Li, người Hà Bắc, hiện vâng lệnh thầy đi tìm một vị sư tỉ, dặn dò chị ấy vài câu.
Hai người vội hỏi :
Tôn sư là vị nào ?
Chung Li Quyền không trả lời, mà hỏi lại hai vị đạo trưởng pháp hiệu là gì, quê quán ở đâu ? Đạo nhân mặt trắng nói mình là một đạo sĩ luyện khí ở ngoài biển, tên gọi Lãnh Thâm, lại chỉ người mặt đen, nói :
- Đây là sư huynh Viêm đạo nhân, vừa từ ngoài biển về đây, định tới U Châu, làm bạn đồng hành với tiểu ca thật tốt quá.
Chung Li Quyền mới nói :
- Tôi là môn đồ của Đông Hoa đế quân. Vi sư tỉ của tôi là Hà đại cô nương theo Lý Thiết Quài cùng tới U Châu, sư phụ tôi nói Lý Thiết Quài chẳng phải người tốt, mới sai tôi đi gọi chị ấy về núi. Vì thế, tôi phải vội vã tới đây. Chẳng hay hai vị sư phụ tới U Châu vì chuyện gì ?
Hai đạo nhân nghe vậy, đưa mắt nhìn nhau, lộ vẻ vui mừng.
Lãnh Thâm mới lên tiếng :
- Thì ra tiểu ca là môn nhân của đế quân, quả nhiên tuổi trẻ tài cao, rất đáng kính. Tên Lý Thiết Quài thật chẳng phải người đàng hoàng chút nào. Vì sao hắn bị què giò ? Là vì hắn quen thói bắt cóc phụ nữ nhà lành, đụng phải một tay đối đầu đuổi bắt, quăng từ trên nóc nhà xuống đất, đến nỗi gãy một cẳng. Hạng người như thế làm sao có thể hợp tác được ? Đế quân đòi gọi lệnh sư tỉ về quả là có kiến thức rất lớn. Hai chúng tôi là môn hạ của ma giáo, đắc đạo lên tiên, đi lần này cũng vì Lý Thiết Quài sai khiến Phí Trường Phòng đi cướp Phạm Kỷ Lương, kẻ đã bị đương kim hoàng đế ra lệnh chôn vùi dưới chân thành, lại bày mưu cướp đoạt vợ của Phạm Kỷ Lương là nàng Mạnh Khương. Làm những việc trái ý trời như thế, Thiết Quài đáng bị sét đánh. Tần hoàng hay tin, đặc biệt đưa lễ mời, nhờ chúng tôi đi tiêu diệt Thiết Quài. Tiểu ca đã muốn sang bên đó, mà Thiết Quài lại là người bị lệnh sư ghét bỏ, ngại gì chẳng giúp chúng tôi một cánh tay, làm nội ứng cho chúng tôi. Sau khi xong việc, sợ gì Tần hoàng chẳng phong tặng cho tiểu ca, đã có công giúp đỡ, mà lệnh sư cũng được vẻ vang, há chẳng tốt đẹp hay sao ?
Chung Li Quyền nghe vậy, chửi thầm : "Chết tiệt hai tên nghiệt súc yêu đạo, sư phụ ta có thù oán gì với tụi bay, mà tụi bay bịa chuyện hủy báng ông ? Đã muốn ta làm nội ứng, ta đáp ứng liền,rồi tương kế tựu kế, thay sư phụ ta giết sạch lũ yêu nghịch, có gì mà không được ?". Nghĩ vậy, liền tươi cười, đáp :
- Việc đó sao lại không được ? Nhưng sau khi thành công, hai vị đừng bỏ rơi tôi, đi nhận phong tặng cho riêng mình, tôi không chịu đâu.
Hai đạo nhân đều cười, nói :
- Tiểu ca quá lo lắng đấy. Phong tặng ở Tần hoàng mà ra, chẳng qua chúng tôi chỉ nói tốt cho tiểu ca vài câu thôi, lẽ nào chúng tôi lại lừa gạt cậu chứ ?
Chung Li Quyền nghe vậy, giả bộ vui mừng, nói :
- Được vậy tốt quá Hai vị hiện nay ở Tần triều làm quan chức gì vì sao được biết Tần hoàng, hãy nói rõ cho tôi biết.
Viêm đạo nhân mới nói :
- Đương kim hoàng đế là một vị thánh quân, rất chuộng đạo, tin tiên, từng phái đại thần Từ Phúc ra biển tìm tiên. Ở ngoài biển, Từ Phúc tình cờ gặp được vị sư huynh đệ của chúng tôi là lão giao. Lão giao lại dẫn ông kia đi gặp giáo chủ chúng tôi, là Thông Thiên tổ sư, tổ sư mới phái hai chúng tôi, cùng với sư thúc chúng tôi là U Minh Tử (l), về kinh thành, dạy đạo trường sinh cho hoàng đế. Vừa lúc gặp việc này phát sinh, Tần hoàng bèn yêu cầu chúng tôi đi diệt yêu nhân, lúc về triều mới nhận quan tước.
Chung Li Quyền lại hỏi :
- Tại sao Từ Phúc không lên đảo Bồng lai ? Nơi đó có rất nhiều tiên nhân, tại sao ông ấy không mời về vài vị tiên ? Chắc là Từ phúc không nhận biết đường đi tới Bồng Lai, có phải không ?
Hai đạo nhân đều cười, nói :
- Người tiên ở Bồng Lai làm sao hơn được người trong giáo phái chúng tôi, nhân tài rất đông đảo, lại đều theo chính đạo. Khoan nói chuyện gì khác, hãy bàn về đương kim hoàng đế. Ngài đã thống nhất thiên hạ, khuất phục anh hùng hào kiệt của sáu nước, chính là chân mạng thiên tử. Kiến thức của ngài còn có chỗ nào là chẳng cao minh ? Ngài phái Từ Phúc ra ngoài biển, không hề đòi hỏi ông ấy phải tới Bồng Lai, chỉ cốt thỉnh cầu người trong giáo phái chúng tôi thôi. Những kẻ kém hiểu biết, làm sao hiểu nổi nội dung tường tận ? Họ chỉ nghe nói Bồng Lai là nơi tiên ở, có biết đâu rằng đó toàn là những lời đồn đại, nghe hơi nồi chõ, nhắm mắt nói càn.
Chung Li Quyền nghe đến đây, lửa giận trong lòng bốc lên phừng phừng. Theo như tính nết xưa nay của cậu, cậu chỉ muốn đá cho hai tên này mấy đá, đập cho chúng vài nắm đấm. Nhưng hiện giờ cậu đã nhiều lần nhận lời giáo huấn, nên đành đè nén cơn giận xuống. Việc gì cũng phải tự lượng sức mình, không được nhắm mắt làm càn. Vả lại cậu còn đang muốn tra xét tình hình, đành phải nhẫn nhịn, dằn lòng để khỏi buông ra những lời độc địa, còn cất tiếng cười hà hà :
- Thì ra là vậy. Tôi tuổi còn trẻ, tri thức có hạn, hiểu sao nổi đạo lý đó ? Cái ông Từ Phúc đó, bây giờ đã trở về chưa ?
- Người đó rất tốt. Tổ sư chúng tôi rất ưa thích ông ta, đã ban cho một hòn đảo ở giữa biển, phong cho làm vua một cõi, lại bảo ông ta ra lệnh cho số đông đảo những đồng nam, đồng nữ mà ông ta dẫn theo ra biển, phải đi khai phá đất hoang, sinh con đẻ cái. Đến nay, Từ Phúc có thể xưng "cô", nói "quả nhân", làm một hoàng đế thực sự. Sau này, tiểu ca theo chúng tôi, lập được đại công, chúng tôi cũng xin tổ sư cấp cho tiểu ca một núi tiên trên biển, có thể xưng hùng xưng bá như ai.
---------------------------------------
(1) chữ "Minh" này không phải là tối tăm", mà là biển cả (có bộ chấm thủy), U Minh : biển cả tối tăm, sâu thăm thẳm.

Chung Li Quyền lại cười vang một trận, rồi hỏi :
- Hai vị nhờ tôi giúp đỡ, cũng cần phải chỉ dẫn cho tôi hiểu rõ tình hình trước đây chứ. Chuyện ầm ĩ trước đây là chuyện gì ? Vì sao phải chôn vùi Phạm Kỷ Lương ? Người đó tại sao lại được Phí Trường Phòng cướp đi ? Mục đích của việc làm này là gì ?
Lãnh Thâm cười, đáp :
- Đương kim hoàng đế được trời giáng sấm truyền cho biết “Làm mất nhà Tần nhà Hồ", nghĩ rằng người Hồ mạnh nhất hiện nay là Hung Nô ở miền Bắc, mới phát lệnh bắt các trai tráng trong thiên hạ đi xây một bức vạn lý trường thành, dọc theo biên giới Trung Quốc, phái đại tướng quân Mông Điềm làm tổng quản.
Chồng của nàng Mạnh Khương là Phạm Kỷ Lương cũng nằm trong số dân đinh bị bắt đi xây thành. Nàng Mạnh Khương không nỡ để chồng đi xa một mình, mới khẩn thiết van xin, tình nguyện đi theo chồng. May gặp hoàng đế thánh minh, thấy Mạnh Khương tài mạo như tiên, đem lòng thương yêu, sai phái nhiều người đi theo, phục thị Mạnh Khương...
Chung Li Quyền nghe tới đó, thấy chuyện quá tức cười, mới hỏi:
- Hoàng đế đã thánh minh, sao còn thương yêu nàng Mạnh Khương ? Nếu muốn vun đắp cho nàng, sao không miễn trừ sai dịch cho Phạm Kỷ Lương, để vợ chồng họ được sum họp, đồng thời khỏi mất công sai phái nhiều người đi hộ tống nàng. Việc làm này quả thật điên đảo. Hai vị cứ nói hoàng đế thánh minh, mới giải thích ra sao đây ?
Hai đạo nhân nghe vậy, bất giác ngớ mặt ra. Không biết đường nào trả lời, sau Viêm đạo nhân mới nói :
- Không hẳn vậy đâu. Lúc đầu, người ta cũng đoán mò như vậy cho rằng hoàng đế ưa bày ra lắm chuyện. Về sau, Phạm Kỷ Lương tới miền Bắc rồi, Mông đại tướng quân ra cáo thị cho dân chúng biết, nói rằng đương kim thiên tứ mộng thấy vị đô thổ địa ở phương Bắc bẩm tấu : "Vạn lý trường thành là công trình tạo tác rất lớn, cần phải có một vị thần thổ địa đặc biệt, chuyên coi sóc công việc đó. Nay tra ra Phạm Ký Lương có nhân phẩm đoan chính, đáng được bổ vào chức đó. Người này số thọ cũng đã hết, nên đem thân xác chôn vùi dưới góc thành. Mặt khác, hai vị đế vương cõi dương và cõi âm đều hạ chiếu phong anh ta làm thổ địa.
Có người chuyên trách, coi sóc việc đó, thì ngày khởi công có người âm thầm giúp đỡ, yêu quỉ, cầm thú không dám cản trở, đại công có thể tính trước ngày hoàn thành. Nếu không, trợ lực liền phát sinh, mưa gió nổi lên, thành này rốt cuộc không có ngày hoàn thành".
Vị đông thổ địa lại đưa tờ công văn của âm tào đề cử Phạm Kỷ Lương làm “trường thành thổ địa” trình lên hoàng đế. Hoàng đế coi qua, giật mình tỉnh mộng. Tra ra Phạm Kỷ Lương chính là chồng nàng Mạnh Khương, lúc đầu ngài không nỡ chia rẽ vợ chồng nhà đó. Nhưng đây là việc quốc gia đại sự, liên quan tới cơ nghiệp vạn năm của con cháu đế vương. Huống chi số đã định, âm tào lại có chỉ dụ đề cử, Phạm Kỷ Lương trước sau gì cũng một lần chết, chết được làm thần, tất nhiên anh ta tự nguyện chấp thuận. Mạnh Khương sống ở trên đời, có được người chồng làm thần, tương lai cũng được tốt lành. Nếu nàng không biết nhẫn nhịn, sẽ làm hỏng tiền trình của chồng, mà rốt cuộc vợ chồng cũng không thể ở với nhau. Vì thế, người ta mới chọn ngày lành, đem Phạm Kỷ Lương trói lại, tế cáo trời đất, thần minh, đem chàng ta vùi lấp dưới góc thành. Mặt khác lại có chỉ dụ dạy những quan viên đi bảo vệ Mạnh Khương hãy đưa nàng về kinh gặp mặt vua. Ai ngờ lúc đó bỗng phát sinh một sự kiện ngoài ý nghĩ : có một đồ đệ của Văn Mỹ chân nhân, tên gọi là Trương Quả, du hành tới đó, giữa đường thấy sự bất bình, mới nói Mông đại tướng quân không được vô duyên vô cớ bắt người, đem chôn sống dưới chân thành. Hắn ta thi thố chút đạo thuật, cứu Phạm Kỷ Lương ra khỏi chỗ chôn vùi, ngay trước mắt mọi người. Hắn muốn dẫn Phạm Kỷ Lương trốn khỏi địa giới U Châu, cùng tới phương Nam tạm thời tránh nạn. Nhưng phạm Kỷ Lương đã thề với vợ đồng sinh, đồng tử, không chịu trốn đi một mình. Vì thế Trương Quả lại bày kế cướp nàng Mạnh Khương đem đi. Mạnh Khương có các quan viên dẫn dắt binh sĩ bảo vệ, nên nhất thời không dễ ra tay. Trương Quá và Phạm Kỷ Lương nán lại vài ngày. Trong kinh hay tin, đúng vào lúc sư thúc chúng tôi tới. Hoàng đế mới thỉnh cầu ông đi thu phục Trương Quả, bắt lại Phạm Kỷ Lương. Sư thúc tất nhiên có bản lãnh cao hơn Trương Quả mười lần, vừa tới U Châu đã tìm ra chỗ ẩn núp của Trương Quả và Phạm Ký Lương, gây một trận gió, bắt Phạm Kỷ Lương đem đi, lại dùng phép thuật khiến Trương Quả mê man, đem giam cầm trong doanh đại tướng quân. Sau khi việc đó xảy ra, Phí Trường Phòng lại tới đây. Người đó tuy có chút đạo thuật, nhưng cũng không phải đối thủ của sư thúc chúng tôi. Hắn tới U Châu, được tin Trương Quả gặp nạn, liền dùng phép thuật trà trộn vào trong quân, cứu được Trương Quả đem ra. Chính lúc định cứu nốt Phạm Kỷ Lương, bị sư thúc phát giác, biến ra một trận gió, đuổi theo. Trương Quả thị tài năng, liền đối kháng với sư thúc, kết cuộc bị bắt giam như cũ. Phí Trường Phòng nhờ phép rút đất, trong chớp mắt đã biến mất. Sư thúc không biết làm sao, đành để hắn trốn đi.
Về sau mới biết hắn là môn nhân của Lý Thiết Quài. Hắn trốn đi lần này, ắt yêu cầu sư phụ tới. Vì thế,hai chúng tới đây trợ chiến. Nay được gặp tiểu ca, quả là điều may mắn. Nếu tiểu ca có thể rình lúc Thiết Quài đang ngồi, dùng kiếm đâm chết, sẽ tránh được mối nguy giao tranh, lập được công đức vô hạn. Bằng không, thì đợi tới lúc chúng ta đến nơi, đưa tay chịu trói, cũng là công lớn của tiểu ca. Tiểu ca thử nghĩ coi, đó có phải là cách rất tốt hay không ?
Chung Li Quyền suy nghĩ một lát nói :
- Quả là cách giản tiện nhất. Nhưng Thiết Quài là người có đạo pháp, binh khí tầm thường làm sao giết nổi ông ấy ?
Lãnh Thâm vội nói :
- Chỉ cần tiểu ca đồng ý tham gia thôi. Chúng tôi có một pháp bảo, là một chiếc hộp nhỏ, dùng vàng ròng luyện thành, bên trong có chứa mười sáu mũi "tru tiên phi kiếm". Một khi mở hộp, mười sáu phi kiếm cùng bay ra một lượt. Ngoài các đại la kim tiên ra, những kẻ khác đừng hòng thoát khỏi mối nguy này. Bảo bối này có tên là “hộp Hỗn nguyên tru tiên". Nếu tiểu ca chịu ra sức, tôi có thể cho mượn mà dùng. Tốt nhất là đợi lúc kẻ kia sơ ý, đột ngột mở hộp hướng về phía hắn vẫy tay một cái là xong. Phép này cực kỳ tiện lợi.
Chung Li Quyền  hô to :
- Trượng phu một lời đã nói, lẽ nào lại hối hận ? Xin cho mượn pháp bảo, coi qua một chút.
Hai đạo nhân đưa mắt nhìn nhau, tỏ ý ngần ngại, sau Viêm đạo nhân mới nói :
- Hiện tại đang đi trên mây, pháp bảo không tiện lấy ra. Đợi tới U Châu gặp sư thúc. chúng tôi sẽ kính cẩn đưa mượn.
 chung Li Quyền nghe vậy, không nói gì nữa.
Một hồi lâu, hai đạo nhân nói bên dưới đã là địa giới U Châu, Chung Li Quyền nhòm xuống, thấy địa phương này không mấy náo nhiệt, khác xa cảnh phồn hoa kinh thành. Cậu theo hai đạo nhân, từ trên mây nhảy xuống, đi tới một nơi bọn chúng bảo là doanh trại của Mông đại tướng quân. Quá nhiên có một lão đạo dẫn hai đạo đồng ra đón. Hai đạo nhân xưng hô sư thúc, thi hành đại lễ, lại bảo Chung Li Quyền làm lễ ra mắt. Chung Li Quyền trong lòng không ưa, nhưng e làm hỏng việc lớn, đành vái chào. Hai đạo nhân kể cho lão đạo nghe mọi chuyện rõ ràng, lão đạo mới đưa mắt nhìn Chung Li Quyền chăm chú, rồi gật đầu vài cái, nói :
- Rất tốt. Cậu bé năm nay được bao nhiêu tuổi ? Vì sao vái làm môn hạ Đông Hoa tổ sư ?
Chung Li Quyền kiếm chuyện nói cho qua, khiến lão đạo cũng tin cậu, liền bảo cậu này luôn luôn ở bên cạnh nghe lời sai khiến, đợi lúc công việc xong xuôi, sẽ đích thân dẫn cậu tới Đông Hải, truyền thụ đạo pháp, lại bẩm tấu lên hoàng đế, phong tặng cho cậu. Chung Li Quyền bái tạ, rút lui. Lão đạo đưa hai đạo nhân Viêm, Lãnh vào phòng trong bàn bạc riêng với nhau một hồi, lại cho gọi Chung Li Quyền vào. Lão đạo hỏi cậu có đủ can đảm đi hành thích Lý Thiết Quài hay không ? Chung Li Quyền nói :
- Có bảo bối tru tiên, đệ từ có gì phải sợ ? Nếu đi tay không, thật tình đệ tử chẳng dám.
Lão đạo cười, gật đầu :
- Tất nhiên không thể bảo cậu đi tay không. Hiện nay phe Thiết Quài đều tới đây, đã cùng phe ta đối trận một lần, bị ta dùng lửa độc thiêu phỏng một nữ yêu họ Hà. Ta liệu tính bọn chúng ắt tới đây cướp đi Trương Quả, sẽ dùng kế mai phục bao vây chúng. Kế sách đó e rằng chỉ bắt được người khác, chứ không bắt nổi Lý
Thiết Quài. Vì thế, trước hết ta phái ngươi đi một chuyến, nếu biết được ngày nào chúng kéo sang đây, hãy về báo cho ta biết, rồi lại trở sang bên đó, khéo đối xứ tốt với bọn chúng. Nếu có thể thừa cơ đâm chết Thiết Quài thì tốt nhất bằng không cậu có thể theo Thiết Quài, cùng sang đây cướp trại. Cần nhất phải theo sát nút, không rời xa một giây phút, đợi lúc hắn sơ ý, đột nhiên lấy bảo pháp ra, làm thương tôn tính mạng hắn. Đây là việc hệ trọng, cậu phải cẩn thận lắm mới được. Nếu để hỏng việc, vương pháp khó dung tha. Cậu nên tự lượng sức mình, có chỗ nào không được, phải báo ngay cho ta biết.
Chung Li Quyền nghe vậy, lửa giận lại bùng lên trong lòng, nhưng nghĩ tính mạng yêu đạo chẳng bao lâu sẽ nằm trong tay ta, hà tất phải đôi co với hắn ? Vì thế, cậu thuận miệng "dạ dạ", và nói:
- Đã nghe theo pháp chỉ của tổ sư đệ tử quyết không dám mạo muội để lỡ việc, phụ lòng sư phụ ủy thác.
Lão đạo rất hài lòng, ngỏ lời khen ngợi, lấy hộp báu của Lãnh Thâm trao cho cậu, lại năm lần bảy lượt dặn cậu phải thận trọng quan tâm. Chung Li Quyền nhận lời, ra đi. Lão đạo phái người đưa cậu đi, tới tận miếu thổ địa, ở ngoài cửa Tây thành, là nơi trú ngụ của Lý Thiết Quài.
 

bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 19.07.2008 23:04:15
Hồi Thứ 44

Đất U Châu thầy trò bàn chuyện cũ
Giữa Đông Hải, Từ Phúc lập nước mới.

Chung li Quyền gặp Thiết Quài tiên sinh, phục xuống đất dập đầu lạy Tiên sinh vội bảo Phí Trường Phòng đỡ dậy, nói :
- Chúc mừng cậu. Nay cậu đã có sư phụ chân chính. Ta đã sai lầm, nhận liều ngôi vị tôn sư, lòng rất hổ thẹn, chứ cậu có lỗi gì đâu?
Chung Li Quyền nghe tiên sinh nói vậy, lòng càng bất an. Nhưng cậu xuất thân từ nơi sơn dã, trời cho tính nết trung hậu, trước nay không hề biết nói câu khách sáo, hễ lòng không yên chỉ biết đỏ mặt, không thốt nên lời. Thiết Quài tiên sinh đã hiểu tình ý bèn cười, nói :
- Cậu tưởng vì cậu mới nhận một vị sư phụ khác, ta là sư phụ nhận lầm, từ nay sẽ cắt đứt quan hệ, không chăm nom cậu nữa hay sao ? Nếu biết chúng ta vốn là đồng môn, thì nên trở về mối quan hệ anh em. Bàn cho phải, cậu là người em, bị đày xuống phàm trần, ta là huynh trưởng, sao không tận tâm chiếu cố, bảo hộ cho cậu chứ? Ta xuống núi lần này tuy rằng còn có nhiều chuyện khác nhưng nửa phần cũng chỉ vì cậu, để điểm tỉnh cho cậu, chỉ giáo dẫn dắt cậu, khiến cậu không quên gốc gác của mình, sớm siêu thoát phàm trần, lên thiên giới. Chỉ cần giải quyết xong sự việc đó là ta hoàn tất trách nhiệm, cần gì phải bo bo giữ lấy danh nghĩa thầy trò hoặc anh em ? Không thể nói ta làm ông thầy mới chịu quan tâm tới chuyện của cậu, còn làm ông anh thì bỏ mặc cậu, không ngó ngàng tới. Nếu cậu cảm kích, mong đáp đền ơn ta, chỉ cần cậu hiểu rõ nỗi khổ tâm của ta, mà đừng hung hăng, tự buông thả, nỗ lực tu trì, sớm trở về tiên ban, khiến ta sớm hoàn tất trách nhiệm đối với cậu là được. Đó là biện pháp báo ân tốt nhất.
Thiết Quài tiên sinh nói thôi một hồi, giọng khẩn thiết lại đôn hậu, khiêm nhường lại khuyến khích. Hà tiên cô và Phí Trường Phòng đều cảm thán không ngừng. Chung Li Quyền nghe dạy càng cảm thấy bất an, mồ hôi trên trán đổ xuống thành giọt.
Thiết Quài tiên sinh bèn nói tiếp :
- Tuy vậy, danh xưng không thể không chính đáng. Từ nay về sau cậu phải sửa đổi cách xưng hô, gọi ta là sư huynh, cho ngang hàng với đại cô nương, ta cũng sẽ gọi cậu là sư đệ, đúng như cách xưng hô giữa chúng ta ở kiếp trước. Như vậy, chúng ta chỉ phục hồi nguyên trạng mà thôi.
Tiên sinh nói rồi, cất tiếng cười vang. Ai ngờ Chung Li Quyền nghe vậy, bỗng nhiên tuôn nước mắt đầy mặt, tiến lại gần bên Thiết Quái tiên sinh, quì xuống mà khóc rống lên. Ba người ngạc nhiên, không hiểu ý tứ ra sao, chỉ thấy Chung Li Quyền khóc một hồi, cất tiếng nói to :
- Thưa sư phụ, hôm nay sư phụ nói ra lời nào, đều là những lời có đạo lý, cũng như những lời Đông Hoa tổ sư đã nói ra vậy. Nhưng dù sao chăng nữa, đệ tử vẫn cảm thấy nếu không chiếu theo cách gọi cũ, thì lòng đệ tử không sao yên ổn được. Chẳng những là cách gọi không đổi, đệ tử còn cần phải cầu xin sư phụ đối đãi với đệ tử y hệt như trước đây, không gì khác biệt, đệ tử mới an tâm mà dụng công, nhận lãnh lời sư phụ, giáo huấn, không phụ lòng kỳ vọng của sư tôn. Nếu không được như thế, đệ tử không sao đạt tới chỗ tốt lành, để phụ lòng tốt của hai vị sư phụ chăm lo cho đệ tử, chi bằng trở về nhà, theo cha đi bắt cầm thú, còn tốt hơn. Đệ tử chỉ biết gì nói nấy, không biết nói năng khách sáo, xin sư phụ lượng xét.
Thiết Quài tiên sinh thấy cậu bé nói năng không văn vẻ, đều là những lời khẩn thiết, thẳng thắn, càng thấy rõ tính cậu hồn nhiên, không chút dối trá, nhất thời không biết trả lời ra sao.
Đang lúc: khó xử, đã thấy Hà tiên cô, Phí Trường Phòng hai người rời khỏi chỗ ngồi, nói thay cho ông :
- Sư phụ cùng sư đệ nói ra, đều chí lý cả. Ngoài việc dạy cậu ta tu đạo, sư phụ còn muốn chiếu cố, cất nhắc cậu ta nữa. Sự tình thực tại là như vậy, có bàn tới bàn lui cũng chỉ rườm lời. Đã vậy, cách xưng hô ra sao cũng chẳng có gì đáng hổ thẹn. Trong tam giáo, chuyện một người theo học nhiều ông thầy cũng có nhiều. Vì thế mới nói : "thánh nhân không có một ông thầy nhất định" (1). Nay sư phụ và A Quyền đã có ý kiến khác nhau, chúng tôi tình nguyện làm người trung gian, đề nghị một giải pháp chấp trung. Sư Phụ làm việc gì cũng khiêm tốn, tự nhiên không chịu nhận ngôi sư tôn, nhưng cũng có thể chiếu theo cách xưng hô kiếp trước, mà gọi cậu ta một tiếng "sư đệ", hoặc "Quyền đệ". Rõ ràng là đã theo học, đệ tử không thể bỏ lễ kính thầy, Quyền đệ nhất thiết phải chiếu theo cách xưng hô cũ.
---------------------------------------
(1) Đây là lời Tử Cống nhận xét về Khổng Tử, không bao giờ tự nhận mình biết rộng, sẵn sàng học hỏi người khác về những điều ngải không rành lắm (Luận Ngữ XIX. 22)

Thiết Quài tiên sinh đành phải nhận lời, lại cười, nói :
- Thằng bé này tính nết quật cường, khiến ta chẳng biết giải quyết ra sao. Cũng may Đông Hoa đế quân biết ta không ưa làm thầy người khác, cũng chẳng coi ai là bậc tiền bối, nên mới lạm quyền, nhất định sẽ lượng thứ cho ta. Quyền nhi hãy đứng lên đi, còn khóc lóc làm gì ?
Chung Li Quyền lúc đó mới chịu đứng dậy. Cậu chưa gặp mặt Phí Trường Phòng lần nào, Thiết Quài tiên sinh mới chỉ tay, giới thiệu cho hai người quen biết nhau, sau đó lại nói với cậu bé :
- Ta phái ngươi đi đón Trường Phòng, thực ra là muốn thử thách đảm lượng của ngươi. Nhưng có gan và có sức cũng chưa phải điều lạ mà còn phải có lòng nhân hậu nữa. Điều này tổ sư đã cảnh giới ngươi rồi, bất tất phải nói tới nữa. Lúc đó ta đã ước tính, biết rằng sau khi ngươi gặp yêu quỉ, và ngủ một giấc, chừng tỉnh mộng thì Trường Phòng đã về tới nơi, hai người sẽ gặp nhau trên núi. Ta sai ngươi đi đón Trường Phòng, đã tính chắc ngươi và Trường Phòng sẽ về một lượt. Nào ngờ hôm sau, trời tối mịt, Trường Phòng quả nhiên về tới, mà không thấy ngươi về cùng, ta mới nghi ngờ, vận huyền công, chiêm một quẻ , mới hay Đông Hoa đế quân lợi dụng cơ hội, sai cọp trắng đi đón ngươi. Đế quân đạo pháp cao thâm, chúng ta không thể theo kịp. Nhưng một lời nói lỡ, lại mắc duyên nợ tái sinh, quả thật đế quân đã tự rước lấy khổ. Nhưng đối với ngươi, việc đó lại là duyên lạ, phúc lớn, ngàn vạn năm cũng khó gặp.
Thiết Quài tiên sinh lại nói qua những chuyện xảy ra gần đây :
- Những kẻ ngươi gặp trên đường đi là hai con yêu : một đứa là hồ li tinh lông trắng, tức Viêm đạo nhân, lớn tuổi, đứa kia là Lãnh Thâm, chính là con thỏ tu luyện thành tinh. Chồn có tính hay dối trá, thỏ có tính xảo quyệt. Tuy chúng đã có tài biến hóa thành hình người, biết được đạo pháp, nhưng cũng không bỏ được bản tính. Vì thế vừa gặp mặt ngươi, chúng đã nghĩ chuyện thủ lợi, tìm cách lợi dụng ngươi. Chúng há không biết Đông Hoa tổ sư là một vị kim tiên, được Ngọc đế sắc phong đế quân, cùng với tà giáo của chúng tuyệt đối không thể đi đôi, mà còn tính chuyện đánh lộn sòng tà với chính, dụ dỗ ngươi làm gián điệp cho chúng nữa chứ ?
Còn tên lão đạo, mà chúng gọi là sư thúc, thật ra không phải cầm thú biến thành người, mà là một tên trộm, tên thật là Lý Bích Hổ, biệt danh Bích Hổ. Vì hắn kiêu dũng tuyệt luân, lại có tài phi thiềm tẩu bích, nên đã phạm án nhiều lần, hại người vô số. Về sau, bỗng nhiên hối ngộ những sai lầm trước đây của mình, mới bỏ nghề, xuất gia, tu luyện lâu năm, đạt được địa vị ngày nay, đáng kể là một người có nhiều tài năng trong số những môn nhân của Thông Thiên giáo chủ. Hắn gặp Từ Phúc, là người được Tần hoàng phái ra biển, đã ngăn chặn giữa chừng, thi thố chút yêu pháp, vừa khuyến cáo vừa hăm dọa, khiến Từ Phúc tin hắn là thần tiên chân chính, đã đem sắc thư của hoàng đế trao cho bọn chúng. Chúng tự tới Hàm Dương gặp vua, còn đám người của Từ Phúc chừng vài chục người bị chúng bỏ lại trên đảo. May gặp được sư huynh ta là Phiếu Diểu và Hỏa Long chân nhân thương đám người đó lầm lỡ sa vào cạm bẫy, không có hy vọng trở về đất liền, mới thi triển đại pháp lực, giúp cho họ xây dựng thôn xóm, chuyển vận tới những loại ngũ cốc và cây dâu tằm, để họ có thể canh tác và dệt vải, do đó cũng chẳng cần phải trở về Trung Quốc. Ngày lâu, số dân sinh sôi nẩy nở, có thể lập thành một quốc gia. Bọn yêu nhân nhẫn tâm bỏ mặc Từ Phúc và đám người của ông trên đảo hoang, chúng về triều còn trâng tráo nói rằng nhờ công lao của chúng mà Từ Phúc thành lập được một nước mới.
Chung Li Quyền liền nói :
- Đúng là như vậy. Chúng có nói chuyện này với đệ tử, đúng như thế.
Thiết Quài tiên sinh cùng Phí Trường Phòng và Hà tiên cô đều cất tiếng cười vang, tiên sinh lại nói tiếp :
- Bọn ác độc không ngừng đấy đâu. Chúng còn thi hành những thủ đoạn hèn hạ, khiến con cháu Từ Phúc phải điêu đứng, mọi người hãy chờ xem.
Ba người nghe nói, đều lắc đầu than thở. Thiết Quài tiên sinh lại hỏi Chung Li Quyền :
- Hộp báu chúng trao cho ngươi, hãy lấy ra cho mọi người ngắm chơi. Chung Li Quyền cười, nói :
- Sư tôn việc gì cũng biết trước. Quả thật bọn yêu nhân nuôi lòng ám toán thầy, đúng là không biết tự lượng.
Vừa nói, vừa lấy hộp báu ra, đưa cho Thiết Quài tiên sinh. Nhưng tính lí lắt của cậu ta quá nặng, chưa kịp trao cho tiên sinh, cậu táy máy thế nào không rõ, nắp hộp đã tự động bật ra. Chỉ nghe một tiếng "'ầm !" vang lên, các mũi kiếm bắn ra một lượt, hướng về phía đầu của ba người kia mà đâm. Lập tức có tiếng "ôi chao !", hai người bị kiếm đâm, ngã lăn ra đất.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 19.07.2008 23:37:43
Hồi Thứ 45

Pháp bảo dùng lầm, suýt gây đại họa
Kim vàng vừa phóng, lập được kỳ công.


Phí Trường Phòng bị thương ở thắt lưng, lập tức ngất đi, Hà tiên cô bị đâm vào cánh tay, kêu lên một tiếng, ngã vật ra sau.
Riêng Thiết Quài tiên sinh không biến đổi thần sắc, trên mình nhận lãnh bảy, tám vết đâm, mà không thấy dấu máu, cũng không đau đớn gì. Chung Li Quyền kinh hãi thất sắc, vừa sợ vừa thẹn, cơ hồ không có đất dung thân, vội phục xuống đất, dập đầu lạy bôm bốp. Thiết Quài tiên sinh hét lên :
- Còn chưa đứng lên, đỡ Trường Phòng sư huynh của ngươi dậy?
Chung Li Quyền run lẩy bẩy đứng lên, tới nâng đỡ Phí Trường Phòng ngồi dậy. Thiết Quài tiên sinh niệm chú lâm râm, hét lên một tiếng : "Mau !", và đưa tay chỉ, đi quanh Phí Trường Phòng ba vòng. Trường Phòng kêu lên một tiếng : "ái chà !", tỉnh hẳn lại.
Tiên cô lúc đó đã tự tỉnh lại, mặt trắng bệch như tờ giấy, luôn miệng kêu đau. Thiết Quài tiên sinh cười, bảo cô :
- Cô cất giấu thần đan để làm gì ? Sao không mau mau lấy ra mà dùng?
Hà tiên cô tỉnh ngộ, vội mở tay nải lấy ra thần đan của Huyền Nữ ban cho. Thiết Quài tiên sinh bảo hai người, mỗi người cầm lấy một viên, bẻ làm đôi, một nửa uống với nước, một nửa đắp lên vết thương, giây lát bình phục, không còn đau đớn gì nữa. Mọi người thấy Thiết Quài tiên sinh bị nhiều vết thương, mà không hề đau đớn, đều lấy làm lạ và khâm phục. Tiên sinh nói :
- Chuyện đó chẳng có gì lạ. Đối với người tiên, quí nhất là vô nhân tướng, vô ngã tướng. Vô nhân tướng thì không có gì phải sợ người khác, vô ngã tướng thì không vật gì hại được ta. Ta không quan tâm tới người, cũng chẳng bận tâm tới thân xác ta, dù cho người khác có dùng đao hay kiếm, cũng không làm gì được ta. Thậm chí hôm trước lão yêu phóng lửa độc của đom đóm tấn công ta ào ạt, ta chỉ sử dụng một trận hàn quang đã đủ khiến cho đám lửa kia tan biến, không tung tích.
Mọi người nghe nói đều tán tụng. Thiết Quài tiên sinh trách mắng Chung Li Quyền vài câu, rồi nói :
- Bây giờ, ta nên tương kế tựu kế. Ngày mai, ngươi nên trở về gặp lão yêu, nói bọn ta đều bị thương trầm trọng, không thể ra trận, để yên lòng bọn chúng. Lão yêu đòi sang đây tấn công chúng ta là điều rất tốt. Lửa độc mà lão yêu sử dụng hôm trước là do lão tập hợp lửa của ngàn vạn con đom đóm, dùng bùa chú luyện thành. Hôm đó, Phí sư huynh của ngươi bị hắn hại, suýt mất mạng, may có ta ở bên, trút nước trong bầu hồ lô, dập tắt ngọn lửa, mới được vô sự. Ta tuy không bị hại, cũng không thể tiêu diệt được hắn. Ngươi có thể làm như thế, như thế... lấy trộm cho được đồ vật đó, đem về đây, kể như ngươi đã lập công chuộc tội. Phải nên lưu ý, đừng có tham ngắm nghía đồ vật, mà làm hỏng việc.
Chung Li Quyền nhất nhất xin vâng lệnh. Thiết Quài tiên sinh lấy hộp kiếm trao lại cho cậu, dặn dò :
- Chiếc hộp này đã sử dụng một lần rồi, phải niệm chú ngữ thêm lần nữa, mới có thể đóng hộp lại như cũ. Ngươi hãy mang sang bên đó, trả lại cho Viêm đạo nhân, chúng càng tin dùng ngươi hơn.
Chung Li Quyền ngần ngừ không muốn đi, bỗng hỏi sư phụ :
- Thưa sư phụ, vật này hại đệ tử xất bất xang bang, đệ tử đang muốn giữ lại để ngắm chơi, sao có thể trả lại cho chúng dễ dàng như thế ?
- Ngươi là người xuất gia tu đạo, tham lam đồ vật của người khác còn ra thế nào ? Nói thật cho ngươi biết, các vật báu chúng đang sở hữu, sớm muộn gì cũng về tay chúng ta, ngươi nóng vội làm gì ?
Hà tiên cô cũng cười, vỗ vai Chung Li Quyền, nói :
- Sư đệ chỉ nên lo chuyện lập công, nghĩ ngợi làm chi ? Những thứ yêu vật này có quí báu gì đâu ?
Chung Li Quyền nghe vậy, mới vui vẻ nghe lời.
Ngày hôm sau, Chung Li Quyền về tới doanh trại của Mông Điềm, lão đạo cùng hai yêu nhân Viêm, Lãnh đều ra nghênh đón, chúc mừng cậu đã lập được đại công. Chung Li Quyền rất ngạc nhiên. Về sau, qua lời Lãnh Thâm nói, cậu mới biết rằng sau khi cậu ra đi, bọn chúng không yên tâm chút nào. Viêm, Lãnh hai yêu mới đích thân sang bên kia thăm dò tình hình. Sau lại nghe tiếng mở hộp vang lên, rồi thấy một làn kiếm quang từ trong nhà đâm thẳng lên tầng mây, hai yêu rất kinh hãi. Lại điều tra tiếp, biết ba người trong nhóm Thiết Quài đều bị thương, tuy không đến nỗi chết, nhưng nhất thời khó hy vọng bình phục. Chúng cho rằng Chung Li Quyền đã lập được công, ắt trở về doanh trại ngay. Nào ngờ đợi cả buổi, chẳng thấy động tĩnh gì, hai đứa đoán không ra nguyên đo, đành trở về trại. Qua một đêm, mọi người đang bàn bạc, bỗng nghe báo Chung Li Quyền đã về tới. Vì thế, mọi người chúc mừng cậu, lại hỏi vì sao hôm qua cậu không về. Chung Li Quyền nói :
- Thủ pháp của tôi khéo léo phi thường. Nói thật cho các vị biết : đến giờ, ba yêu nhân đó vẫn không biết là tôi đã ra tay nhanh lẹ, vẫn nói là các vị phái người tới, núp bên ngoài cửa sổ, phóng phi kiếm đả thương chúng. Làm sao chúng có thể nghi cho tôi được chứ? Lợi dụng lúc chúng đau đớn ngất đi, tôi đã nhanh tay thu hồi cả kiếm lẫn hộp. Nếu các vị không tin, mau lại đây mà coi có phải bảo bối này đã được sử dụng không nào ? Có điều rằng hiện nay không thể đóng hộp lại được, chẳng rõ tại sao.
Lão đạo cùng hai yêu nghe vậy, quả nhiên vui mừng khác thường, vội nói :
- Không cần lo lắng. Vật này chỉ dùng một lần, muốn sử dụng lần thứ hai, phải niệm chú thêm lần nữa, mới được.
Lãnh Thâm nhận lấy chiếc hộp, miệng niệm mấy câu gì đó, quả nhiên nắp hộp đóng khít lại, giống hệt như lúc ban đầu. Sau đó Chung Li Quyền mới hiến kế:
- Bẩm báo ba vị sư tôn, hiện nay ba thầy trò Thiết Quài đều bị thương, cử động không được, ta nên lợi dụng cơ hội này, mau chóng tới đánh phá, đánh què giò cả ba yêu đạo, hoặc là dùng lửa độc của sư tôn thiêu chết chúng đi, há chẳng phải diệu kế hay sao ?
Lão đạo gật đầu :
- Kế sách của ngươi chính hợp ý ta. Bọn ta đã chuẩn bị sẵn, tối nay sẽ đi.
Lại nói với Chung Li Quyền :
- Ngươi trở lại bên đó đi nhé . Thiết Quài có đạo hạnh cũng khá, lần trước lửa độc của ta đã không hại được ông ta, cho thấy  xử trí người này không phải dễ dàng. Nhưng ta liệu định rằng người này bản lãnh tuy cao, nếu ta nhân lúc ông ta sơ ý, không chuẩn bị, mà tấn công, ắt có thể hại được tính mạng. Theo kế sách hôm nay, chẳng gì bằng người mang theo chiếc hộp, đợi lúc bọn ta tới, Thiết Quài phải vội vã ứng phó với tiền phương, ngươi hãy ở phía sau lén lút ra tay, ắt không hỏng việc.
Chung Li Quyền vội nói :
- Không được đâu. Hộp kiếm tuy dữ, Thiết Quài cũng chẳng sợ. Lửa độc tuy Thiết Quài tránh thoát, nhưng ông ta vẫn còn khiếp sợ bảo bối đó. Đệ tử ở bên cạnh, mỗi khi nghe ông ta nói tới vật đó, đều biến đổi sắc mặt, năm lần bảy lượt cảnh giới chúng tôi: nếu thấy độc hỏa phát tác, phải mau mau tìm đường trốn đi, để giữ lấy mạng, đủ thấy chẳng những ông ta rất sợ lửa độc, mà đến giờ vẫn chưa tìm ra phương pháp nào để tránh khỏi lửa độc. Vậy xin tổ sư hãy đem vật đó giao cho đệ tử, đợi tới lúc hai bên giao tranh, bọn chúng còn mắc lo ứng chiến, đệ tử sẽ đứng gần bên bọn chúng, phóng xuất lửa độc, đám đông đom đóm cứ nhắm vào những chỗ yếu hại mà tấn công, thì bọn chúng bản lãnh cỡ nào chăng nữa, cũng khó tránh khỏi đại nạn.
Lão đạo nghe nói, lúc đầu ngần ngại, là vì hắn chỉ tin cậy có một bảo bối này thôi, nếu để sơ suất, ắt mối họa không nhỏ.
Nhưng rồi, hắn nghĩ kế sách này quả là tuyệt diệu, lại thấy Chung Li Quyền tuy còn nhỏ tuổi, làm việc gì cũng tỏ ra lão luyện, chắc không có điều sai trệch nào, nên hắn mới đồng ý, đem chiếc bình đựng đom đóm độc, tay run run trao cho Chung Li Quyền, dặn đi dặn lại :
- Phải lưu ý cẩn thận mới được. Nếu vật này tổn hại, tính mạng ta cũng mất đi phân nửa.
Chung Li Quyền nghe vậy, trong lòng vừa mừng vừa buồn cười, lại thấy hắn cũng đáng thương, nghĩ thầm : "Ta đang muốn lấy hết tính mạng của người đây, nói chi phân nửa ". Cậu ráng nén tiếng cười, làm ra vẻ đặc biệt thận trọng, nhận lãnh chiếc bình, từ biệt ba yêu, trở về bên Thiết Quài tiên sinh.
Thiết Quài tiên sinh đã tính trước, biết Chung Li Quyền đã lập công trở về, liền đích thân dẫn Hà tiên cô, Phí Trường Phòng ra ngoài nghênh đón. Chung Li Quyền vội quì lạy, nói :
- Sư phụ không nên khách khí như thế, đệ tử chẳng dám nhận đâu.
Thiết Quài tiên sinh cười, nói :
- Ta trân trọng thế này, là vì thấy ngươi có tài làm việc lớn, há không đáng kính hay sao ? Ta còn hy vọng sau này ngươi làm việc gì cũng ổn thỏa, chín chắn, không phụ lòng ta kính trọng ngươi hôm nay.
Chung Li Quyền theo ba người vào phòng trong bàn bạc.
Thiết Quài tiên sinh bảo cậu bé lấy bình đom đóm ra cho mọi người coi, nói :
- Đêm nay bọn chúng nhất định tới tập kích ta. Trường Phòng hãy chống cự với Lãnh Thâm. Con yêu này có một chày ngọc, có thể biến ra nhỏ hoặc lớn, tùy ý. Người phàm bị nó đập một chầy, xác sẽ nát ra như cám. Trường Phòng tuy chưa có công lực, nhưng đã được uống viên "dịch cốt kim đan" của ta, xương cốt cứng cáp, có thể cầm bảo kiếm của ta mà chống đỡ, chỉ cần đánh cầm chừng, ngang tài ngang sức với hắn, ta sẽ đích thân tới cứu ứng. Hà sư muội chống chọi với Viêm đạo nhân. Con yêu này giỏi hơn Lãnh Thâm rất nhiều, công lực thâm hậu, mà hộp kiếm của hắn cô cũng đã được nếm mùi, tuy không thể hại được tính mạng của cô, nhưng cũng không thể không đề phòng. Cô có kim vàng của Huyền Nữ ban cho, biến ra ngàn vạn mũi kim, dư sức trị được hộp kiếm này. Sau khi trừ được con chồn yêu, cô hãy tiếp tay với Trường Phòng, cùng giết chết con thỏ.
Hai người lãnh chỉ xong, Thiết Quài tiên sinh bỗng mở hồ lô mò trong đó, móc ra một pháp bảo, nói với Chung Li Quyền:
- Ta đã bỏ bình đom đóm độc vào trong hồ lô, dùng phép thuật biến ra một chiếc bình giả. Ta cũng sẽ biến thành hình ngươi một thành hai. Thân giả cầm bình giả ở gần bên ta, không rời xa một bước, trong tư thế sẵn sàng phóng xuất đom đóm. Chân thân thì núp trên không trung, đợi khi ta phóng xuất quả cầu báu phát sáng, ngươi ở trên không trung, cầm sẵn một pháp bảo khác, ném xuống. Bảo bối này có thể chôn sống lão yêu dưới mặt đất, không cách nào trốn thoát.
Chung Li Quyền nhận lấy bảo bối, xem qua, thì ra chỉ là một cục đất nung, bất giác cười, nói :
- Thưa sư phụ, người ta ai cũng nói đệ tử quậy phá, sư phụ cũng thường mắng tôi lí lắt, ai ngờ sư phụ cũng ưa đùa giỡn. Đừng nói cục đất nung này làm sao có thể là bảo bối, cho dù đó là bảo bối thật chăng nữa, ném trúng đầu người khác cũng chỉ u một cục, sao có thể nói là chôn sống lão yêu ? Thật tức cười.
Câu nói đó khiến Hà tiên cô và Phí Trường Phòng đều bật cười chê Chung Li Quyền có kiến thức trẻ con. Pháp bảo của tiên gia sao có thể so sánh với những vật tầm thường ? Thiết Quài tiên sinh nghiêm sắc mặt, nói :
- Không được nói nhiều. Ngươi lấy tư cách gì mà bàn ngang ? Vẫn biết, đó chỉ là một cục đất nung, nhưng nó không chỉ đập u đầu người ta đâu. Chớ chê nó không chôn sống nổi lão yêu.
Chung Li Quyền sợ hãi, không dám nói gì nữa, đành nhận lấy cục đất, nín cười, đợi tối nay thí nghiệm xem sao.
Sau buổi hoàng hôn, Thiết Quài tiên sinh đã làm phép biến hóa Chung Li Quyền và bình đom đóm độc, đâu đó xong xuôi. Bỗng nghe trên không có tiếng gió lớn, tiên sinh mới nói với ba người :
- Yêu vật đã tới rồi đó !
Ba người vội ngửng đầu nhìn lên, liền thấy ba đám mây đen, hạ xuống giữa sân nhà, quả nhiên là ba yêu đạo. Thiết Quài tiên sinh liền bảo Hà, Phí hai người mau động thủ. Bên kia, lão đạo thấy nhóm Thiết Quài ba người không ai bị thương hoặc đau đớn, lại có chuẩn bị sẵn sàng, ngạc nhiên vô cùng, nhưng không nghĩ đây là quỉ kế của Chung Li Quyền bày ra. Song đã tới đây, há sợ gì cả ? Lập tức cùng hai yêu chia nhau ra đối địch. Ba yêu hung hăng chiến đấu. Chung Li Quyền giả cầm bình đom đóm giả, theo sát bên Thiết Quài tiên sinh, không rời xa nửa bước. Lão đạo thấy vậy thầm mừng trong lòng. Mọi người chia làm ba cặp, cầm đao, kiếm, thương, chày cùng nhau tỉ thí một hồi.
Viêm đạo nhân đánh với tiên cô, không thắng nổi cô, vội mở hộp kiếm ra. Tiên cô thổi một làn hơi, vạn cây kim vàng phóng ra một lượt. Kim gặp kiếm, phát ra tiếng lanh lảnh, ánh sáng kiếm lờ mờ, mà ánh sáng cây kim sáng chói, khiến Viêm đạo nhân lóa mắt. Vừa tính chuyện trốn chạy, hai mắt đã bị kim vàng đâm thủng, vừa mù vừa đau, Viêm đạo nhân lăn lộn trên mặt đất, hiện nguyên hình là con chồn đầu trắng, phát ra tiếng người, cầu xin tha mạng. Tiên cô mềm lòng, rất muốn tha mạng cho hắn, nào ngờ vạn mũi kim cùng lao xuống, toàn thân chồn trắng bị kim đâm, chết ngay tức thì. Tiên cô thu kiếm về, quay qua trợ giúp Phí Trường Phòng.
Kiếm tiên của Trường Phòng tuy hung dữ, chày ngọc của Lãnh Thâm cũng chẳng yếu ớt, hai bên cầm cự ngang tài ngang sức. Nay thấy tiên cô xông vào, lại nhìn Viêm đạo nhân đã chết, Lãnh Thâm nao núng trong lòng. Vừa đụng độ tiên cô, hắn vội thu chày về, tìm đường bỏ trốn. Tiên cô thổi một làn hơi, nhắm phía sau lưng Lãnh Thâm, phóng kim vàng bay tới. Chỉ nghe một tiếng “ối! tức thì máu tươi từ trên mình Lãnh Thâm vọt ra, rây bẩn binh khí của hai người. Hai người vội thu binh khí, liền thấy một con thỏ nằm chết trên mặt đất.
Lão đạo và Thiết Quài đều dùng kiếm đánh nhau, được chừng bảy tám chục hiệp. Nhìn thấy hai yêu đã chết, lão đạo hoang mang. Quái lạ, sao Chung Li Quyền giữ khư khư bình đom đóm, không chịu phóng ra ? Có chuyện không ổn gì đây ? Lão mới hô to:
- Chung Li Quyền, sao không động thủ, phóng bảo bối ?
Liền nghe Thiết Quài tiên sinh cất tiếng cười ha hả :
- Tên khốn chuyên hại người kia, ngươi còn mơ tưởng tới bảo bối nữa sao ? Hãy coi bảo bối chân chính của ta đây !
Nói rồi, há miệng thở phù. Đột nhiên có một luồng sáng rực rỡ bay tới chỗ lão đạo, trong luồng sáng có một viên ngọc châu lấp lánh, tỏa ánh sáng vây quanh lão đạo, như một tấm lưới. Lão đạo xoay mình lung tung, không sao ra thoát, cũng không nhận định được phương hướng. Đang tính dùng phép độn thổ trốn đi, Chung
Li Quyền đích thực đã nhảy lên không trung, cầm cục đất nhắm vào đầu lão đạo ném xuống. Cục đất đó vừa rơi xuống, liền vỡ tan ra, thành một đám bụi, vây lấy lão đạo. Lão đạo nhào xuống mặt đất, chui vào trong đó, biến đi trong chớp mắt. Chung Li Quyền từ trên không trung nhảy xuống, hô to :
- Sư phụ, sao thầy thả cho yêu nhân trốn đi ?
Phí Trường Phòng giết xong con thỏ, đứng một bên quan sát trận đánh, cũng giậm chân, nói :
- Đáng tiếc, đáng tiếc ! Tên tặc đạo nhân hung hãn, độc ác đã trốn mất rồi ?
Riêng Hà tiên cô chỉ mỉm cười, không có ý kiến gì. Thiết Quài tiên sinh mới cười, nói với Chung Li Quyền :
- Tại bảo bối ta đưa cho ngươi hả ?
- Bảo bối nào ? Cục đất ấy ư ? Chẳng phải vừa rồi đệ tử đã ném lên đầu lão yêu, vỡ nát ra, đồng thời lão yêu đã biến đi đâu chẳng biết ?
Thiết Quài tiên sinh cười rộ, đưa tay chỉ chỗ mà Chung Li Quyền đã ném cục đất, bỗng thấy một lớp bùn tỏa rộng bốn phía, cuộn lại dần dần, trong chớp mắt đã biến thành một quả cầu bằng đất, cực kỳ to lớn. Từ trong quả cầu đất đó, đâm ra một vật tròn tròn, hướng về phía mọi người mà cất tiếng van xin tha mạng.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 20.07.2008 00:02:34
Hồi Thứ 46

Từ quả Cầu đất, đâm ra một đầu người
Tiên nghịch ngợm ẩn trong lổ tai.


Thiết Quài tiên sinh đưa tay chỉ, khiến lớp bùn đất cuộn lại, thành một vật hình tròn, giống như một quả cầu rất lớn. Trên quả cầu bỗng đâm ra một quả cầu nhỏ, mọc lông lá đen sì. Mọi người nhìn thấy, ai cũng kinh ngạc, cho là chuyện lạ. Nhìn kỹ mới nhận ra đó là một người, cái đầu ló ra khỏi quả cầu đất, từ cổ trở xuống, khuất trong lớp đất. Lại nhìn kỹ nữa, nhận ra đó là lão đạo nhân, giúp bạo chúa, làm ác. Mọi người càng thêm kinh hãi. Lão đạo vẫn không biết Chung Li Quyền phản lại mình, năn nỉ cậu ta xin Thiết Quài tiên sinh tha chết cho lão, từ nay về sau không dám làm ác, không dám phò trợ Tần hoàng, lại tình nguyện đi cầu xin Mông đại tướng quân thả Trương Quả ra, coi như lập công chuộc tội. Chung Li Quyền quát mắng :
- Ngươi đã làm đủ chuyện ác, cuồng vọng quá chừng, nay tội ác chất đầy, đã đến lúc ông trời giáng phạt. Nếu sư tôn ta tha cho ngươi, há chẳng phải là làm trái ý trời, tự chuốc lấy tội hay sao ? Ngươi nói thả Trương Quả, nhưng sư tôn ta đã tự có cách cứu anh ấy ra lập tức, cần gì phải nhờ tới thứ địa quỉ độc ác như ngươi, mà ngươi lên giọng tử tế. Chúng ta không dám nhận lòng tốt ấy đâu.
Lão đạo biết mình không hy vọng được sống, ngước nhìn trời thở dài một tiếng, rồi hô to :
- Ta một đời làm ác đã nhiều, trời đất không dung, nên mới bỏ nhà đi tu, trải nhiều gian nan, nếm nhiều đau khổ, mới đạt được một chút đạo hạnh, không dè lầm lạc vào bàng môn, bị Ma giáo lợi dụng, đến nay hại người còn nhiều hơn trước. Với những hành vi đó mà mong trường sinh bất tử, đúng là không có thiên đạo. Được, được, các ngươi đã nói là thay trời trừng phạt, ta có chết cũng không oán hận, chỉ xin các ngươi giết ta cho mau. Năm trăm năm sau, nếu có duyên gặp lại, lúc đó lại xin thỉnh giáo.
Thiết Quài tiên sinh than thở :
- Con người ta sắp chết, nói ra những lời tốt lành. Lúc đầu ta nghe người này nói, lòng muốn mềm lại. Nghe tới câu cuối, mới biết hắn là hạng người khó trông mong cải hối. Mấy người chẳng nghe hắn nói đó sao ? Năm trăm năm sau còn muốn đi tìm ta để báo thù. Chỉ một câu nói đó, đủ chứng minh người này hung hãn, dã man, không hiểu đạo lý. Ta có thể đoán định rằng năm trăm năm sau, nếu quả thật hắn được chuyển kiếp làm người, cũng lại là thứ độc ác, không biết an phận. Hắn đã đòi chết, ta cũng không nỡ bắt hắn phải chịu tội tan xương nát thịt, sẽ thành toàn cho hắn ngay đây.
Nói rồi, chỉ một ngón tay, tức thì quả cầu đất lăn đi một vòng, mới ngừng lại. Mọi người nhìn xem, không thấy đầu người nữa.
Thiết Quài tiên sinh than thở :
- Đây là kết cuộc của một người làm ác, đánh chết cái nết không chừa. Cậy đạo thuật để hại người là điều tối kị của thần tiên, bị mọi người ghét bỏ, ai ai cũng có quyền giết hết. Chúng ta xem việc này, cũng nên lấy đó làm gương, để khỏi mắc sai lầm.
Mọi người nghe nói, đều run sợ, xin vâng lời. Thiết Quài tiên sinh lại cười, nói với Chung Li Quyền :
- Ngươi đã thấy chưa ? Chẳng phải là cục đất nhỏ của ta đã có thể chôn sống được đạo nhân đó hay sao ? Chẳng cứ gì một đạo nhân, ngay cả thiên binh vạn mã, cục đất nhỏ của ta cũng có thể mở rộng phạm vi năng lực, chôn vùi tất cả.
Chung Li Quyền thích quá, toét miệng cười, nói :
- Sư phụ có thể ban cho đệ tử cục đất này để làm đồ chơi, được không ?
- Đó đâu phải đồ chơi ! Như ngươi hiện nay, chỉ nên dụng công cẩn thiết, chuyên cần tu đại đạo, chẳng nên đòi hỏi hung khí giết người ấy. Đợi khi tu đạo thành công, các thứ pháp bảo đó có thể tùy thời mà tu luyện, chẳng cần đòi người khác đưa tặng. Vả lại, vật này ở hồ lô lấy ra. Đối với hồ lô có quan hệ mẹ con, con lìa mẹ tạm thời có công hiệu, lâu ngày cũng vô dụng, ngươi muốn lấy đi, để làm gì?
Chung Li Quyền nghe vậy, không dám nói, nhưng trong lòng vẫn ấm ức. Tiên cô mới cười, bảo :
 - sư đệ nóng vội rồi. Sư huynh hãy nghe tôi nói một lời : sư đệ dầu sao cũng còn trẻ con, muốn có một pháp bảo nào đó, cũng không hẳn muốn làm đồ chơi. Có chiếc hộp kiếm của yêu nhân để lại đây sư huynh hãy đem cho sư đệ cũng được.
Thiết Quài tiên sinh cười cười, cầm hộp kiếm đưa cho Chung Li Quyền, lại tha thiết dặn dò :
- Pháp bảo chẳng quí báu, thực là hung khí, đem dùng vào chỗ không thích đáng, sẽ hại người, tổn cho mình. Ngươi nên nhớ kỹ tình trạng lúc chết của chủ nhân chiếc hộp, cùng với nguyên do vì sao hắn chết, để không dám sử dụng bừa bãi báu vật này, cũng chẳng dám coi nó là báu vật.
Chung Li Quyền cúi đầu vâng lời. Sau đó, Thiết Quài tiên sinh mới nói với Hà tiên cô .
- Nên khẩn trương cứu Trương Quả ra, và cũng lo giải quyết hậu sự của nàng Mạnh Khương cho xong. Chúng ta hãy chia nhau ra, mỗi người đi một ngả, túm tụm ở đây làm gì ?
Tiên cô hăng hái xin đi, nói :
- Muội tử đi lần này, chưa có chút công lao. Việc nhỏ này xin để tôi đi lo cho.
- Sư muội khách sáo mất rồi. Cô nếm mùi tân khổ đã nhiều, công việc này có nhiều rắc rối, giao hết cho một mình cô giải quyết chẳng là vất vả cho cô lắm sao ?
Mọi người nghe vậy đều cất tiếng cười. Thiết Quài tiên sinh nhân đó lại nói :
- Trong doanh trại của Mông Điềm, còn có một số yêu ma chưa thành hình người. Những con vật đó, từ lúc tu luyện đến  giờ, vất vả đã nhiều, tiến bộ rất ít. Nếu thấy chúng ngoan cố chống cự, chẳng ngại gì mà không khai sát giới, giết sạch chúng đi để tránh hậu hoạn. Nếu chúng biết khó, trốn đi, ta cũng nên tha cho chúng.
Tiên cô xin tuân mệnh.
Bây giờ, cô vừa học được phép rút đất, đem ra thi thố, phút chốc đã lọt vào doanh trại Mông Điềm. Lúc này đang lúc nửa đêm, tiếng mõ cầm canh trong trại đánh lên liên tục. Tiên cô từ trước đã biết Trương Quả bị giam trong một cũi bằng gỗ, ở phía sau doanh trại, bị lão đạo dùng phép thuật khóa chặt cửa, lại dán lá bùa ra ngoài. Trương Quả đạo hạnh còn nông cạn, tất nhiên không thoát thân.
Tiên cô tới bên cũi gỗ, đang tính niệm chú mở niêm phong, bỗng thấy một cơn gió lốc vấn vít bên chân cô, xoay vòng vòng bên ngoài, chứ không dám đụng chạm tới cô. Nhìn ra xa, chẳng thấy dấu hiệu gì là có gió, cô liền hiểu ra : đây hẳn là những tiểu yêu ma mà huynh đã nói tới. Tuy biết chúng chẳng phải những con vật tử tế nhưng cô vốn sẵn lòng từ bi, đôn hậu, không nỡ khai sát giới thêm lần nữa, mới cúi nhìn xuống, nhận ra những luồng gió đen gây ra là của hai con lợn tinh ba đầu, một con nghé và một con vật giống như gấu mà không phải gấu, giống như chó sói mà không phải chó sói. Tiên cô bất giác vừa tức giận vừa buồn cười, xen lẫn với lòng thương hại, mới chống kiếm đứng thẳng, hét lên :
- Bọn súc sinh không được vô lễ ? Ta vâng pháp chỉ của kim tiên trên thượng giới, tới đây để cứu Trương Quả ra. Tổ sư cùng với hai sư phụ của các ngươi ngoan cố kháng cự, đều đã bỏ mạng, ta nhắm chừng bọn yêu ma nhỏ bé, xấu xí các ngươi có bản lãnh gì, mà dám thị cường chống đối ? Ta vốn không muốn nói nhiều với các ngươi làm chi, chỉ đâm một nhát kiếm là trăm, ngàn lợn, trâu đều mất mạng. Sở dĩ phải mất công dạy dỗ, cảnh giới các ngươi, chỉ vì muốn bảo tồn mạng sống cho các ngươi. Nếu các ngươi biết điều, hãy mau mau quay về chỗ cũ, tìm nơi núi sâu, rừng rậm, khổ công tu luyện, đừng hại dân chúng nữa, lo gì chẳng có ngày xuất đầu lộ diện ? Nếu không, lưỡi kiếm của ta không có mắt, cũng chẳng biết nể nang là gì. Lúc đó chỉ thương cho các ngươi tu hành đã lâu năm, một sớm bỏ mạng, há chẳng đáng tiếc lắm sao ?
Tiên cô nói mấy lời đó, chỉ vì tấm lòng trắc ẩn mà thôi. Nào ngờ bọn súc sinh vô trị đó nghe tiên cô luôn miệng nói chúng là lợn, là trâu, mắng mỏ bọn tổ sư, sư phụ chúng nát nước nát cái, chúng vốn là loài súc vật ngu độn, vô tri, một khi đã giận lên, không còn biết đạo lý là gì. Tiên cô nói xong, nhắm chừng bọn chúng tiếp nhận lời khuyến cáo, sẽ tránh đường cho cô, đi lo giải quyết công việc là xong, nên không để ý. Nào ngờ dưới chân bỗng bị những vật cứng và nhọn đâm tới tấp. Cũng may tiên cô nhận định sự việc rất nhanh, tâm trí mẫn tiệp, vừa bị tập kích, liền tung mình nhảy vọt lên cao, đứng trên không trung nhìn xuống, đã thấy những súc sinh đó đều biến dạng, tất cả biến ra hình dạng nửa người nửa thú : có con đầu người thân thú, có con đầu thú thân người, lại có con mà hai chi sau là cẳng thú, hai chi trước là cánh tay người, cầm binh khí chống cự, thậm chí trên đầu còn mọc hai chiếc sừng, bất kể đầu thú hay đầu người đều có. Những sừng đó phát ra ánh sáng, sắc bén vô cùng. Người thường bị chúng đâm phải, không vỡ đầu cũng lòi ruột. Tiên cô nhờ có cốt tiên, bị chúng đâm phải mấy chỗ, cảm thấy đau nhâm nhẩm, lúc đầu không hiểu tại sao, nay mới nhận rõ đó là những sừng thú mà bọn chúng rèn luyện lâu năm. Tiên cô thấy vậy, không còn gan chiến đấu, thè lưỡi than thầm : "May quá là may ? Ta không mau chân nhảy đi, chẳng những là bản thân mang họa, mà trở về cũng không mặt mũi nào mà nhìn sư huynh và cậu bé A Quyền". Nghĩ một hồi, bỗng nghe bên dưới có tiếng líu ríu, chin chít nổi lên. Thì ra bọn yêu quái này tuy đã tu đạo lâu năm, có tài biến hóa, nhưng vẫn chưa nói được tiếng người. Tiên cô lúc đó vừa giận vừa buồn cười, cũng không còn chút thương tiếc chúng nữa. Nhưng vì tính hiếu kỳ, cô chưa vội xuống tay, mà lắng tai nghe xem chúng nói gì. Cô vốn thính tai, lại thông minh lanh lợi, mà bọn yêu vật nói với nhau bằng tiếng người, tuy chưa thành thạo, nên lắng nghe hồi lâu, tiên cô biết được chúng đang bàn luận về bản thân cô.
Có đứa nói :
- Các vị sư phụ bản lãnh như thế, có lý nào lại bị con yêu tiên này giăng một mẻ lưới, tóm hết ráo, giết sạch, không còn một mạng?
- Tuy nói vậy, nhưng tôi thấy gần đây tổ sư khí sắc không được tốt, e rằng có điều bất lợi.
- Nếu quả thật các vị sư phụ không còn trên đời, chúng ta nên trốn đi, mỗi đứa một nơi, kiếm chỗ an toàn, tìm mấy cô gái ngon lành để hưởng khoái lạc, khỏi uổng một đời tu đạo.
- Nói chuyện trước mắt, cô gái này chẳng hiểu là người hay là yêu, bị chúng ta đâm trúng mấy chỗ, mà còn có thể đằng vân trốn đi, chẳng thấy tăm hơi, đủ thấy cô ta là người có bản lãnh. Chúng ta làm sao đánh cho lại, chỉ nên mau mau trốn đi, để giữ lấy mạng.
Tiên cô nghe vậy, nghĩ thầm : "Thì ra mấy con yêu ngu ngốc này không nhìn thấy ta đang đứng ở đây. Hèn chi người ta thường chê cười : ‘Ngu như bò, ngốc như heo’. Chúng quả là những con vật kém tri thức nhất trong những con thú, lại biết kiếm mấy cô gái để tìm khoái lạc, đúng là điều hay không học, chỉ học điều xấu, nhất quyết không thể tha mạng". Quyết định như vậy rồi, lại nói thầm : "Mấy con vật này tuy ít, nhưng tính chúng cũng phải tới bảy, tám đứa. Nếu ta nhảy xuống, đánh nhau với chúng, một là vất vả chân tay, hai là ô uế bảo kiếm, ba là sợ chúng có thể tản ra, trốn mất. Chi bằng dùng kim vàng chọc thủng mắt chúng, đâm xuyên óc chúng, nhanh hơn nhiều”. Vì thế, cô lấy kim vàng ra, vãi xuống một nắm. Chớp mắt, kim quang tỏa sáng trên mặt đất.
Nhưng nghe tiếng kêu chin chít, tiên cô lại thấy bất nhẫn, nói :
- Các ngươi vẫn chẳng phải những con vật tử tế, nhưng ta cũng không nỡ lấy tính mạng các ngươi.
Tức thì thu kim vàng về, lấy khăn che mặt, vội vã nhảy xuống đất lại gần bên cũi gỗ, dùng bùa chú mở khóa, phá niêm phong.
Chỉ thấy trong đó có một đạo nhân đang nằm, tiên cô vội hỏi :
- Phải Trương sư huynh đấy không ? Tôi là Hà Lan Tiên, vâng lệnh Lý sư huynh tới cứu anh đây.
Hỏi luôn hai câu, người kia không đáp. Tiên cô chưa hề biết mặt Trương Quả, nhưng liệu định chắc là anh ta, không thể nào sai, mới lại gần bên anh, vận dụng trí tuệ nhãn, nhìn trong chỗ tối thấy rõ ràng, biết rằng Trương Quả bị yêu đạo làm cho mê man.
Tiên cô không tìm ra cách nào cứu thoát Trương Quả, mới cởi dây lưng, buộc quanh lưng anh ta cho chặt chẽ, sau đó lại buộc quanh thân cô, xốc anh ta lên, chuẩn bị chui ra khỏi cũi gỗ.
Vừa tính bước ra cửa, chợt thấy hai người gõ mõ cầm canh, mang theo đèn lồng. Phía sau còn có một vị quan tướng, dẫn bốn binh sĩ đi tuần tra ban đêm, tất cả đều cầm binh khí, nhắm phía trước đi tới. Vừa thấy tiên cô cõng người chạy đi, chúng cất tiếng la ó, vây lấy cô. Tiên cô cõng Trương Quả, không bụng dạ nào giao thủ với chúng, đang nghĩ cách thoát thân. Bỗng thấy chúng như thể bị tà nhập, vội quăng binh khí, xô đẩy lẫn nhau, kiếm đường chạy trốn. Tiên cô chẳng hiểu ra sao, chỉ nhân cơ hội đó, tìm đường thoát hiểm. Không ngó tới bọn chúng đang gây ồn ào, tiên cô nhảy vọt lên không trung, đi một chặng đường dài mới đáp xuống đất, thì đã cách xa đại doanh hơn mười dặm. Tiên cô cõng Trương Quả trên vai, cười thầm trong dạ: "Ta là một đạo cô, tu hành giữ trinh, đối với việc giúp đời cứu người, vốn không tránh hiềm nghi. Nhưng cứ cõng đàn ông như thế này mà trở về, đố tránh khỏi người ta đàm tiếu, chi bằng bỏ anh ta ở ngoài cửa, xin sư huynh ra đỡ anh ấy vào nhà, cứu trị, mặc sư huynh làm sao thì làm, không can dự gì tới ta". Đang vừa đi vừa nghĩ như vậy, chợt nghe bên tai có tiếng người nói:
- Đã sợ tị hiềm, sao còn đi cứu người ? Đã muốn cứu người, đừng bận tâm tới chuyện tị hiềm hay không tị hiềm, mới phải chứ!
Tiên cô nghe câu nói đó, lại không thấy người nói đâu cả, liền kinh hãi, suýt nữa xô người trên lưng xuống đất. Cô mới đứng thẳng hai chân, đưa mắt nhìn quanh, chẳng thấy tung tích người kia, bất giác thổi "Phì !" một tiếng, nói :
- Quỉ vật nào đây, dám tới chọc ghẹo ta hả ? Không phải đâu, chắc là mình lú lẫn trong dạ, mới nghe lỗ tai lùng bùng như có người nói. Thôi, bỏ qua, đường ta ta cứ đi.
Đúng lúc đó, lại nghe trong tai có tiếng cười ha hả :
- Thất kính, thất kính. Với người có bản lãnh như cô, quỉ vật nào mà dám cả gan trêu ghẹo ? Đủ biết quỉ vật ta chẳng giống như những quỉ vật tầm thường đâu.
Tiên cô nghe rõ ràng, càng thêm hoang mang, không biết phải làm sao, nghĩ thầm : "Không xong rồi ! Con quái nào mà có thần thông lớn đến thế ? Trên mình ta đã vướng một người phải cõng, còn hở chỗ nào cho nó bám víu vào chứ ?". Vừa nghĩ tới đó, lại nghe bên tai có tiếng cười rộ, như điên cuồng :
- Ta núp trong tai cô đó. Cô có giỏi, thử xẻo tai cô, quăng đi chỗ khác xem sao.
Tiên cô nghe vậy, vừa tức giận, vừa nóng ruột, hận đến nỗi hất Trương Quả xuống một đám cỏ rậm đứng thẳng người, hai tay chống hông, hét to lên :
- Ngươi là yêu nhân ở đâu, dám lộng hành như vậy ? Ta đang đi lo một việc lớn, cứu tính mạng một người, mà ngươi cứ bám lấy ta mà chọc phá, há chẳng làm hỏng việc lớn hay sao ? Trái lại, nếu là một vị đồng đạo sư huynh, muốn đùa cợt với ta, cũng xin đàng hoàng ra mắt, để ta được thỉnh giáo.
Tức thì nghe tiếng bên tai :
- Đừng vội hỏi nguyên do. Đã muốn gặp mặt ta, sao lại nóng nẩy, đem người mà cô vừa cứu ra, quăng đại xuống đất ? Vạn nhất cô thẩy mạnh, khiến anh ta bị thương, há không phải lỗi của cô hay sao ?
Tiên cô nhận ra lỗi của mình, cất tiếng năn nỉ :
- Bạn bè tốt, đừng gây chuyện với tôi nữa. Nếu bạn cứ tiếp tục gây rối như thế, e rằng Trương đạo hữu không chết vì bị hất xuống, mà chết vì bệnh đó.
Người kia nghe nói, liền cất tiếng cười ha hả, xuất hiện cho thấy. Thì ra đó là một nữ đạo sĩ, đứng ngay trước mặt tiên cô, lên tiếng :
- Hà đạo hữu chắc không nhận ra tôi là ai đâu. Chúng ta cùng đi gặp Thiết Quài sư huynh của cô nhé.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 20.07.2008 00:41:12
Hồi Thứ 47

Chồn tiên bỡn cợt Hà tiên cô
Bạo binh lóc thịt Mạnh Khương nữ.


Nữ đạo sĩ cười, nói với Hà tiên cô :
- Vị Trương đạo hữu này là đồng môn của tôi, cô hãy vác anh ta lên vai như cũ, rồi chúng ta vừa đi vừa nói chuyện. Tới chỗ Lý sư huynh, tôi sẽ nói rõ, để cô biết tôi là ai, không còn nghi tôi là quỉ vật nữa.
Tiên cô nghe vậy, thầm hổ thẹn trong lòng, đành vâng lời đạo cô vác Trương Quả lên vai như cũ, nhường cho đạo cô đi trước, để mình theo sau. Đạo cô không khách sáo, vì cô đã quá quen thuộc đường lối, dẫn tiên cô đi qua những khúc đường quanh co. Trong lúc đi đường, cô ta mới nói rõ cho Hà tiên cô biết mình cùng
Trương Quả đều là môn nhân của Văn Mỹ chân nhân, tên gọi Tuệ Thông, cùng với Thiết Quài tiên sinh từng có mối quan hệ, đôi bên quen biết nhau đã lâu.
Tiên cô nghe vậy, mới hiểu ra, nhân đó hỏi :
- Đạo hữu đã là môn nhân của Văn Mỹ chân nhân, đối với Lý sư huynh vai vế thế nào ?
Tuệ Thông rụt cổ thè lưỡi, vội nói :
- Vừa rồi tôi buột miệng nói năng bậy bạ. Thật ra Thiết Quài tiên sinh là sư thúc của tôi. Đối với cô thuộc hàng trưởng bối, lẽ ra tôi không được vô lễ như thế. Trước mặt cô mà đùa cợt, còn ra thể thống gì ?
Tiên cô vốn không có ý đó, nghe Tuệ Thông nói, cảm thẩy rất khó xử, vội nói :
- Đạo huynh chẳng nên quá bận tâm như vậy. Tôi không hề có ý nói lắt léo đâu. Đạo huynh thần thông quảng đại, hiểu lòng người thấu đáo, sao không hiểu rõ tâm sự của tôi, mà còn đổ oan cho tôi ?
Tuệ Thông cất tiếng cười ha hả, nói :
- Bỏ qua chuyện đó cho xong. Mới gặp mặt lần đầu, đã trêu chọc nhau, tôi đã có lỗi. Nói thật cùng cô, sư phụ tôi dạy học trò giữ qui củ cũng chặt chẽ lắm. Tuy nhiên, chồn già tôi vẫn tính không ưa khách sáo, lại hay bỡn cợt. Tuy chưa gặp mặt cô lần nào, nhưng tôi đã biết rõ lai lịch của cô, hôm nay vừa thấy mặt, liền ưa thích khác thường, chỉ ngại cô thích khách sáo, giẫm phải thói bỉ lậu của người đời. Nào ngờ vừa đùa cô một chút, đã không tránh khỏi cô lên mặt người lớn, dở thói phách lối. Cô thấy con quái này đáng dạy dỗ , trừng giới lắm sao ?
Tiên cô xưa nay giữ gìn cẩn trọng, đối xử khiêm cung, chưa từng đụng phải loại bạn bè phóng túng, ưa quậy phá như thế, nhưng nhìn lại Tuệ Thông, thấy hình thái đoan chính, tinh thần nhàn nhã, trong cách khôi hài không hề có tính khinh bạc, lòng thầm ưa thích cô này hoạt bát, hồn nhiên, lại rất hâm mộ cô đạo hạnh khác phàm, nên mỉm cười, nói :
- Thần tiên khác với Phật gia phương Tây và Khổng thánh phương Đông, không bo bo giữ lễ tiết ngoài mặt, nhưng đối với tục nhân, nhất định là phải giữ vẻ nghiêm nghị. Chỉ hận mình ngu đần, kém cỏi, không vượt ra khỏi lề lối phù phiếm của trần thế, nay gặp được đạo huynh thanh thoát, không câu thúc như thế, chính là thái độ của thần tiên chính phái, nếu không bị ghét bỏ, tôi xin theo hầu thụ nghiệp, học lấy chút thủ đoạn khôi hài, thanh thản, chẳng hay đạo huynh có vui lòng thu nhận kẻ kém cỏi này làm môn hạ hay không ?
Tuệ Thông cười ngất, nói :
- Nói thật với cô, nếu cô muốn vái tôi làm thầy thì trước hết phải đem tất cả những hình thức khách sáo, lễ nghi của người đời vất bỏ cho bằng hết. Nếu không, cô chỉ nên học theo Phật gia phương Tây, Khổng thánh phương Đông, làm một vị thánh hiền, vượt ra ngoài cuộc đời.
Tiên cô vội nói :
- Đạo huynh không nên coi thường người khác như thế. Tôi tuy không được thảnh thơi, thoát tục như cô, nhưng vẫn tin chắc rằng cách hành sự và thái độ của đạo huynh thích hợp với bản chất và xu hướng của tôi, không đến nỗi bị lưới trần ràng buộc.
Tuệ Thông nghe vậy, chỉ lắc đầu, rồi mỉm cười. Cô không muốn tranh luận với tiên cô, đổi sang chuyện khác. Cô nói cho tiên cô biết mình vâng lệnh Văn Mỹ chân nhân đi cứu Trương Quả. Cô nói:
- Chân nhân đã biết Trương Quả ắt có người cứu ra, nhưng không dè lại là Thiết Quài sư thúc và cô, chỉ bảo tôi tùy cơ mà hành động. Cứu xong Trương Quả, tôi còn phải khẩn trương đi tìm một người nữa. Vì thế, tôi vội vã chạy tới nơi nọ, nghe được tin là nhóm của cô đều có mặt ở đó, tiêu diệt xong ba con yêu. Tôi dự tính cứu xong Trương Quả, sẽ tìm nhóm của cô để tán gẫu. Không dè tới trễ một bước, để cô nhanh tay hơn, đoạt được công đầu. Tôi tới đại doanh đúng lúc cô bị đám binh sĩ vây hãm, mới thi thố chút pháp thuật, trêu chọc chúng một phen, để cô an thân thoát hiểm.
Tiên cô bấy giờ mới hiểu rõ mọi chuyện, nói :
- Tôi đã biết nhất định phải có một người tiên nào đó, tới giúp đỡ tôi không dè lại là đạo huynh.
Nhân đó mới hỏi tới sự tình của vợ chồng nàng Mạnh Khương. Tuệ Thông cất tiếng thở dài, nói :
- Tôi đang định nói chuyện này với cô, cô lại hỏi trước. Chúng ta sinh ra thân phận đàn bà, đối với đàn bà con gái trên thế gian vốn sẵn lòng thương yêu, giúp đỡ, khiến họ không gặp phải tai nạn gì, suốt đời yên thân. Huống hồ nàng Mạnh Khương là cô gái khổ tiết giữ trinh, đa tình đa nghĩa như thế, lẽ nào lại khoanh tay đứng nhìn nàng gặp nạn mà không cứu ? Khổ nỗi sư tôn tôi, tuy có đem chuyện này nói cho tôi biết, nhưng ông lại cực lực cảnh giới chúng tôi không được xen vào chuyện không phải của mình, tự chuốc lấy vạ. Tôi hỏi đi hỏi lại, hạng người tốt như thế, tại sao lại không cứu ? Cứu người là thiên chức của chúng ta, sao có thể nói là chuyện tào lao, còn mang lấy vạ nữa ? Sư tôn mới nói : "Vợ chồng nhà đó, số bắt phải chết, chết rồi mới có điều tốt lành, càng mau chết càng mau đạt được điều hay. Việc này nên giao cho Thiết Quài sư thúc giải quyết. Chừng nào gặp sư thúc, tự nhiên ngươi sẽ hiểu rõ". Hà đạo huynh, tuy cô mới gặp tôi lần đầu, hẳn cũng thấy rõ con người tôi, là một đứa có tính nết rất sảng khoái, lại nóng nẩy, không thể chịu đựng nổi cảnh tù túng ở trong bầu hồ lô. Sư phụ tôi mặt nào cũng tốt đẹp cả, riêng có việc là mỗi khi gặp chuyện khẩn cấp bàn tính, tôi càng nóng nẩy muốn biết, thầy tôi càng tà tà, hôm nay nói một câu, ngày mai nói nửa câu, nhất định không chịu nói hết cho tôi biết, khiến tôi bực tức quá chừng, chuyện này, tôi chỉ có thể nói với đạo huynh thôi, đâu dám vặn hỏi sư tôn ? Lúc đó, tôi vừa mới nói một câu : "Sư tôn muốn con đi cứu Trương sư huynh, sao còn răn con đừng xen vô chuyện của người khác ?", sư phụ tôi đã biến sắc mặt, mắng tôi : "Không được nói nhiều ! Sư huynh của ngươi cũng vì ưa xen vào chuyện tào lao, mà mắc phải tai họa. Ngươi cũng muốn nếm mùi ngục tù, phải không ?". Tôi nghe mắng, chẳng dám nói gì nữa, chỉ trông mong sớm được gặp Lý sư huynh, để biết nguyên do đích thực của việc này. Đến chừng biết Lý sư huynh đã tới chỗ đó trước , tôi mừng hết sức, cho rằng đã có cơ hội cứu được nàng Mạnh Khương. Nay xin hỏi đạo huynh, có từng nghe Thiết Quài sư thúc có nói tới vợ chồng nàng Mạnh Khương, bàn về nhân quả chuyện này ra sao hay không ?
- Chúng tôi cũng chỉ nghe sư huynh nói hai người đó đúng số phải chết, chứ không biết nhân quả bên trong ra sao, đang tính tìm anh ấy, hỏi lại cho rõ. Nhưng không hiểu vợ chồng nhà đó hiện nay ra sao ?
Tuệ Thông nói giọng bùi ngùi :
- Việc này tôi biết rất rõ, và đã liệu định xong xuôi. Tôi chẳng ngại mang tiếng dài lưỡi, nói cho cô biết, cùng nhau bàn bạc đôi chút, có hề gì ? Nàng Mạnh Khương  từ khi đưa chồng lên phương Bắc, hầu như ngày nào cũng đau thắt tim gan, khóc ra máu, lẽ đương nhiên là như vậy. Không ngờ hôn quân vì muốn được nàng
Mạnh Khương, nghĩ ra cách độc ác, muốn dùng Phạm Kỷ Lương làm thổ địa trường thành, đem chàng ta vùi lấp bên góc thành. Việc đó chắc hẳn cô đã biết rồi.
- Tôi từng nghe đồ đệ của sư huynh là Chung Li Quyền nói sơ qua. Đại khái là Trương Quả sư huynh của cô, giữa đường thấy chuyện bất bình, đã cướp Phạm Kỷ Lương ra, và vì thế mà gặp họa.
- Đúng là như vậy. Nhưng theo sư tôn và Lý sư huynh nói, trong chuyện này, liệu có số trời hay không ? Tại sao có nhiều người tiên chiếu cố, giúp đỡ, mà rốt cuộc cũng không cứu được tính mạng hai người ? Hiện nay, Phạm Kỷ Lương đã được giao cho Mông Điềm, đem chôn sống dưới chân thành. Nghe đâu vào lúc đắp đất, nàng Mạnh Khương khóc lóc thảm thiết, năn nỉ Mông Điềm cho nàng được thấy mặt chồng lần cuối, nếu không, nàng tình nguyện cùng chết với chồng, quyết không trở về Hàm Dương.
Mông Điềm không biết làm sao, đành ra lệnh cho phu mai táng đào đất, nâng đầu Phạm Kỷ Lương ló ra. Lúc đó, chàng ta đã hôn mê, sắc mặt lợt như tro, còn sống sao nổi ? Nàng Mạnh Khương vừa thấy mặt chồng, hét lên một tiếng, miệng phun máu tươi, lăn ra chết giấc. Mông Điềm sợ lúc sống lại, nàng tiếp tục quấy rầy, một mặt sai người cứu tỉnh Mạnh Khương, một mặt khẩn trương xây tường đi lên mộ Phạm Kỷ Lương. Thương thay một trang nam tử chỉ vì có cô vợ quá xinh đẹp, chưa được hưởng lạc thú phòng khuê, đã đem thân xác chôn vùi dưới bức tường thành. Dưới quyền cai trị của bạo chúa, muốn làm một người dân thường cũng khó lắm thay !
Tiên cô nghe đến đây, mày ngài dựng ngược, mặt mày tái mét, không thốt ra lời. Tuệ Thông lại nói :
- Hiện nay, nàng Mạnh Khương vẫn còn ở lại trong doanh trại Mông Điềm. Theo tôi suy tính, người đó chẳng bao lâu cũng theo chồng xuống suối vàng. Với bản lãnh của chúng ta, chẳng kể bọn yêu nhân đã chết, cho dù ba con yêu còn sống chăng nữa, một mình tôi cũng đủ đối phó. Nếu lại được cô giúp đỡ, nhất định có thể cứu được nàng ra. Huống chi hiện nay, canh giữ nàng chỉ có một bọn thất phu vô dụng, chúng ta muốn cứu Mạnh Khương, có thể nói là chẳng tốn chút công sức nào. Chết một nỗi sư tôn dặn dò năm lần bảy lượt, không cho tôi xen vào những chuyện tào lao, khiến tôi tức muốn chết !
- Lệnh sư đã dặn dò kỹ lưỡng, Thiết Quài tiên sinh cũng nói như vậy, lúc nhắc tới chuyện này. Theo lời hai vị đó nói, dường như đôi uyên ương bạc mệnh này chỉ sau khi chết mới được tốt lành, tại sao không để họ chịu đau khổ nhất thời, để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu ? Nếu chúng ta ỷ chút tài năng, tự ý can thiệp, chẳng những làm hỏng việc, còn hại tới người nữa. Tóm lại, ta nên cẩn thận lắm mới được.
Tuệ Thông nghe vậy, thở dài sườn sượt, không nói tiếng nào. Nói đến đây thì đã tới chỗ trú ngụ của Thiết Quài tiên sinh. Tiên sinh đã biết trước, cùng Phí Trường phòng, Chung Li Quyền ra tiếp đón, cười nói :
- Cố nhân từ xa tới, chẳng dễ dàng gì. Hân hạnh, hân hạnh.
Tuệ Thông vội tiến lại, hành đại lễ, miệng xưng sư thúc, và thay mặt sư phụ là Văn Mỹ chân nhân, hỏi thăm sức khỏe Thiết Quài tiên sinh. Tiên sinh đáp lễ, cười nói : - Việc gì cũng có số định trước. Trương Quả là sư huynh của cô, chẳng dè lại nhờ tay đại cô nương cứu thoát, quả là chuyện lạ lùng.
Mọi người kéo vào phòng trong, phân ngôi mà ngồi. Tuệ Thông nói với tiên cô :
- Cô là trưởng bối, Trương Quả lại là sư huynh của tôi, lẽ ra tôi phải cõng anh ấy mới đúng. Nhưng việc này nhờ công lao của cô mới nên, tôi chẳng dám tranh công.
Mọi người nghe vậy đều cười vui vẻ. Tuệ Thông ra mắt Phí Trường Phòng, nói chuyện phiếm vài câu. Sau đó, Thiết Quài tiên sinh lấy một chén nước lạnh, phun vào mặt Trương Quả, nói :
- Trương Quả trúng phải thứ thuộc kịch độc, e rằng chất độc ngấm vào phủ tạng, sau này anh ấy sẽ phải chịu nhiều cơn đau.
Vậy ta phải dùng phép chữa trị thật thận trọng, chẳng những trị dứt nọc độc, còn gia tăng tinh thần nữa. Ước chừng nửa giờ nữa, anh ấy sẽ tỉnh lại, cùng mọi người bàn chuyện phiếm.
Mọi người đều xưng tụng. Thiết Quài tiên sinh lại nói với Tuệ Thông :
- Chúc mừng cô công phu tiến bộ, có thể thăm dò lòng người đã trêu chọc sư muội của ta một phen xính vính.
Tuệ Thông cười lớn tiếng. Trường Phòng và Chung Li Quyền không hiểu ra sao, tiên cô mới đem chuyện trước kể lại. Hai người cất tiếng cười theo, Thiết Quài nói với mọi người :
- Chuyện đó có gì là lạ ? Hễ đã là người tiên, ai cũng biết được việc quá khứ, vị lai. Nhưng việc quá khứ dễ hiểu, việc vị lai khó biết. Biết việc vị lai, lại phải dựa vào thời kỳ dài ngắn mà phân trình độ cao thấp. Như ta và Văn Mỹ chân nhân đều tính trước mà biết chuyện vài trăm năm sau. Nhưng nhìn xa mà biết, hoặc tâm cảm mà ngộ ra, bất quá cũng chỉ là những việc trước mắt, chứ không suy toán ra những việc tiếp diễn sau đó. Đến như Tuệ Thông sư huynh của các ngươi, cô ta có thể thăm dò mà biết tâm sự người khác, trăm lần không sai một. Sư muội là người trung hậu, tự nhiên là bị cô ta cho vào xiếc.
Tiên cô và Tuệ Thông nghe vậy, nhìn nhau mà cười. Thiết Quài tiên sinh đang muốn nói tiếp, đã nghe Trương Quả kêu lên một tiếng "Đau chết đi được ?", lập tức tỉnh lại, đứng dậy, nhìn quanh. Thấy Thiết Quài, Tuệ Thông, anh ta nghi ngờ, tưởng mình đang nằm mơ. Tuệ Thông vội lên tiếng an ủi anh, lại đem chuyện mình vâng lệnh thầy đi cứu anh, nhưng tiên cô đã ra tay cứu anh từ trước, nhất nhất kể lại. Trương Quả nghe biết, cảm tạ tiên cô, dập đầu lạy Thiết Quài tiên sinh. Tiên sinh vội ngăn cản, mọi người ngồi lại như cũ. Tuệ Thông đem những thắc mắc của mình về chuyện vợ chồng nàng Mạnh Khương ra hỏi Thiết Quài tiên sinh, tiên sinh nói :
- Lúc này không rảnh rỗi để bàn tới chuyện đó, mà trước hết phải đi cứu linh hồn nàng Mạnh Khương, nhân thể thu hồi hồn vía của chồng nàng. Chậm trễ giây phút nào, tức hại hai vợ chồng phải chịu thống khổ thêm giây phút đó.
Nói rồi, lại hỏi Tuệ Thông và tiên cô :
- Hai cô theo ta đi chứ ?
Hai người mừng rỡ đi theo Thiết Quài tiên sinh, dùng phép rút đất chỉ trong chớp mắt đã tới một nơi, đằng trước là núi cao, đằng sau dẫn tới một con sông rộng. Trên núi có một đại đội nhân mã trói chặt một người đẹp, dùng đao sắc lóc từng miếng thịt trên mình người đẹp, vất xuống giòng nước. Người đẹp rõ ràng là đã chết rồi, không cảm thấy đau đớn chút nào. Những người đứng coi phần đông nhắm mắt lại, không nỡ nhìn. Có người không cầm được nước mắt, khóc rống lên. Một người khóc trước, mọi người hòa theo. Chốc lát, tiếng khóc vang khắp đồng hoang, chấn động hang núi. Vị quan tướng ở trên núi nổi giận, thét binh sĩ xông xuống chém giết. Dân chúng hốt hoảng, xô nhau bỏ chạy. Đám binh sĩ đuổi theo phía sau, đã bắt giữ được vài chục người. Lúc đó, Tuệ Thông không nhịn được nữa, bất kể trời trăng, cúi xuống mặt đất thổi một làn hơi. Lập tức trời đất tối tăm, mặt trời mất ánh sáng, cát bay đá chạy, nhầm vào đầu đám binh sĩ mà đánh xuống, khiến chúng ôm đầu bỏ chạy như chuột lủi. Dường như mấy cục đá nhận biết được người, một tảng đá lớn bỗng nhiên bay vọt khỏi đầu người, rơi xuống đầu viên quan tướng, khiến ông ta vỡ trán, máu tuôn lai láng, ôm đầu, quì xuống, miệng hô to :
- ông Trời tha mạng !
Đám người bị bắt thừa cơ trốn đi hết. Thiết Quài tiên sinh gật đầu, cất tiếng than thở :
- Những hạng tiểu nhân ác độc như thế cũng nên cho nếm mùi đau khổ chút ít, nhưng cũng không cần phải làm quá.
Nói rồi, bắt quyết, gió lặng, mặt trời lại ló ra, khắp nơi yên tĩnh. Trên mặt nước chỉ còn lại những miếng thịt từ thân thể nàng Mạnh Khương cắt ra, nổi lềnh bềnh, theo gió đưa đi. Thiết Quài tiên sinh cùng Tuệ Thông và tiên cô đều lấy làm lạ. Thiết
Quái tiên sinh mới nói :
- Trước hãy biến những miếng thịt này thành những vật gì đó , khiến chúng vĩnh viễn lưu lại trên thế gian.
Tức thì đưa tay ra, vẽ bùa, miệng tụng kinh lớn tiếng, và hô : “Mau !", tức thì những miếng thịt trắng nõn đó biến thành vô số những con cá nho nhỏ, trắng phau phau, sáng lấp lánh, tản ra bốn phía, bơi lội tung tăng.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 20.07.2008 09:15:48
Hồi Thứ 48

Thịt Khương nữ biến thành cá bạc
Đình Mạnh bà lưu giữ linh hồn.


Thiết Quài tiên sinh thi triển phép thuật, biến những miếng thịt trên mình Mạnh Khương thành những con cá nhỏ trắng phau. Tiên sinh lại đưa cánh tay trái ra phía trước. Hướng về phía giòng nước, xòe bàn tay, như đang vớt một vật gì. Tức thì có một luồng khí trắng, rất khó nhận biết, bay vào trong tay. Thiết Quài tiên sinh vội nắm chặt bàn tay, giữ lấy, đem bỏ vào trong hồ lô, nói :
- Nay ta mới hoàn thành công án của mình. Chúng ta về thôi !
Tiên cô, Tuệ Thông vội hỏi :
- Làm vậy có tác dụng gì ?
Thiết Quài tiên sinh cười, nói :
- Các cô chưa hiểu rõ ư ? Đây là linh hồn của nàng Mạnh Khương, ta đã thu nhận, bỏ trong hồ lô. Một khi vào trong đó, lập tức phục hồi hình người, so với nguyên thân không khác chút nào. Ta lấy được hồn này rồi, sẽ đưa xuống âm phủ, khiến nàng lại đầu thai phàm trần, sớm tu thành đại đạo. Còn linh hồn của Phạm Kỷ
Lương, chồng nàng, lúc chúng ta vừa tới đây, ta cũng đã phái quỉ tốt đưa về âm phủ .
Hai người nghe vậy, vui mừng khác thường, lại hỏi về chuyện thịt người biến thành cá, Thiết Quài tiên sinh mới nói :
- Chẳng quan trọng gì. Chẳng qua là ta thương nàng bạc mệnh, kính nàng trinh tiết, mới làm phép khiến người chết đi rồi, hồn còn được chuyển sang kiếp khác, chứ mấy miếng thịt vụn nát có dùng làm gì ? Ta muốn vì nàng lưu lại chút kỷ niệm với người đời một là để mọi người hiểu rõ nàng Mạnh Khương chẳng những kiếp sau được thành tiên, còn vĩnh viễn bất tử, hai là khiến thiên hạ đời sau nhìn thấy loài cá này hiểu rằng đó là di thể của nàng Mạnh Khương biến ra.
Hai người đều nói :
Nàng Mạnh Khương vì chồng mà tuẫn tiết, đã được biểu dương như thế, có thể lưu danh muôn thủa, làm gương cho phụ nữ noi theo, quả là chuyện hệ trọng.
Thiết Quài tiên sinh gật đầu, nói :
- Hai cô nói rất đúng. Hai cô suy nghĩ thử coi, nên đặt tên con cá này là gì ? Không nên cho là chuyện kỳ quái, chỉ nên bàn bạc bình thường để đặt một tên gọi đơn giản, phù hợp với hình thù con cá là được.
Tuệ Thông nói :
-Tôi không có tâm hồn tinh tế, xin Hà sư thúc suy nghĩ, đặt tên giùm tôi.
Tiên cô khiêm tốn từ chối một hồi, sau mới nói :
- Thứ cá này có sắc trong như bạc, bạc lại có phẩm chất cao quí phù hợp với nàng Mạnh Khương, chúng ta đặt tên cho nó là “cá bạc", được không ?
Hai người đều vỗ tay khen ngợi. Ngày nay, địa phương nào cũng có thứ cá bạc này, tương truyền là di thể của nàng Mạnh Khương, nhờ phép thuật của người tiên biến ra.
Lại nói Thiết Quài tiên sinh trở về chỗ trú ngụ, liền viết điệp văn đưa hồn vía vợ chồng Mạnh Khương xuống âm tào. Hai người, thân chết mà tình còn dài, tới trước mặt Diêm vương cầu xin kiếp sau lại được làm vợ chồng. Diêm vương ôn tồn dụ rằng :
- Hai ngươi kiếp trước chưa toại nguyện việc hôn nhân, kiếp sau duyên phận vẫn còn, chẳng cần phải khẩn cầu, tự thành đôi lứa. Nhưng Thiết Quài viết điệp văn đưa hai người tới đây, là có dụng ý, muốn tài bồi cho hai người. Người ta sống trên đời, tuổi thọ không quá trăm năm, mà vợ chồng hảo hợp tình nồng cũng chỉ vài chục năm, sao bằng vượt qua lưới tình, qui nhập tiên ban, vợ chồng đều được sống lâu vạn năm, há chẳng đẹp đẽ lắm sao ? Hai người đều là người thông minh, sao không thấu hiểu điều đó ? Ngày nay, người phàm trên đời hầu hết đều chán ghét cảnh hồng trần, thường khổ công cầu được chân tiên, tìm cho được phép tiên để sống mãi không già. Tuy nhiên, hàng ngàn vạn người cầu mong như thế, kẻ đạt được không tới hai, ba. Ngay như kẻ đối đầu với hai ngươi hiện nay là Tần hoàng Doanh Chính, thế lực là thế, phúc phận như vậy, mỗi ngày mỗi cầu tiên, mỗi phút mỗi hỏi đạo, cầu xin đủ cách, chẳng qua cũng chỉ gặp được một đám tà ma ngoại đạo bày ra mọi cách lừa gạt, kết quả là : đừng nói sống lâu khó trông cậy, ngay cả tính mạng cũng vị tất đã giữ được. Điều đó cho thấy người ta sinh ra, nếu có tiên duyên, quả là phúc phận rất lớn của trời ban cho. Hai người có đại công, đại đức gì lớn lắm đâu, chỉ vì một điểm tiết nghĩa của Mạnh Khương nữ cảm động người tiên, được ngài phá cách chu toàn cho. Ngay cả Phạm Kỷ Lương nhờ vậy cũng được điều tốt lành. Đó là điều mà ngàn vạn người, ngay cả hoàng đế, cầu xin cũng chẳng được. Tại sao hai ngươi chỉ đòi hưởng hạnh phúc hôn nhân vài chục năm ?
Hai người nghe nói, hốt nhiên tỉnh ngộ, khấu đầu, nói :
- Chúng tiểu dân quả thật ngu muội, nhất thời không thấy được chỗ cao xa đó, không hiểu được thâm tâm của tiên sư đã viết điệp văn đưa oan hồn chúng tôi tới đây. Chúng tôi chịu ơn mà không biết, còn luyến tiếc phàm trần, thật đáng hổ thẹn. Nhưng vạn nhất gốc tình chưa dứt, chúng tôi kiếp sau lại được phối thất hài hòa, lúc đó kiếm đâu ra người tới điểm tỉnh chúng tôi phá sắc giới, tu thành đại đạo . Làm sao cho tốt đây ?
Diêm vương cả cười, phán :
- Giỏi cho hai tên này tham lam, quấy rầy ? Mới đầu đòi chuyển kiếp làm vợ chồng, chỉ ở trong cõi tình, nay lại chuyển hướng lung tung, đòi hỏi này nọ. Chẳng lẽ biết quả nhân núp trong phòng tân hôn của hai ngươi, đợi khi hai ngươi phỉ tình cá nước, đột nhiên nhảy ra, nhắm đầu hai ngươi, nện cho một gậy ?
Nghe Diêm vương nói câu khôi hài đó, các vị phán quan trên điện, các tiểu quỉ đầu trâu mặt ngựa, ngay cả vợ chồng Phạm Kỷ Lương, đều không nhịn được, cất tiếng cười rộ. Lúc đó có một vị phán quan rời khỏi chỗ ngồi, bẩm tấu :
- Thần có một cách, có thể khiến hai vợ chồng không mờ tối bản chân, vừa lọt lòng mẹ đã biết được việc kiếp trước. Nếu họ quả thật biết lo nghĩ chuyện xuất gia, có thể tu trì từ thủa nhỏ, chẳng cần có người tới điểm tỉnh, cũng tự nhiên không lầm lỡ. Vạn nhất lòng trần chưa dứt, là tự họ vất bỏ phúc duyên thôi.
Diêm vương hỏi :
- Kế sách của khanh ra sao ?
- Phương pháp này cũng không đáng kể là kế sách. Theo lệ cũ, những người sắp đi đầu thai dương gian, đều phải đi qua một đình tử (1) nơi đó thiết lập một chỗ ban "mê hồn thang'. Những hồn đi đầu thai, ngang qua chỗ đó ắt cảm thấy khát khô cổ bỏng họng, vào xin một chén. Uống xong, liền cảm thấy mơ mơ hồ hồ, bao chuyện kiếp trước quên hết ráo. Cũng có nhiều sinh hồn bướng bỉnh, không chịu uống mê hồn thang, nhưng miệng cháy khát, phủ tạng nóng như lửa, thấy nước thang đó trong vắt, thơm tho, rất thích khẩu, thì chẳng cần ai ép buộc, cũng đòi uống. Từ xưa đến nay, những người chuyển kiếp đầu thai có không biết bao nhiêu ngàn, vạn người, nhưng chẳng người nào nhớ được chuyện kiếp trước. Nay đại vương muốn chu toàn cho vợ chồng Mạnh Khương, nên bắt họ ở đây uống thật nhiều nước, để tới bên đó, không còn bị khát khô cổ bỏng họng nữa.
Diêm vương chưa kịp lên tiếng, lại có một thư biện nói :
- Cách đó không được. Việc luân hồi đại sự, sao có thể không làm đúng qui củ ? Nếu uống đầy bụng nước để hết khát, không uống mê hồn thang, từ nay về sau những kẻ tác tệ nhất định không ít. Ai mà chịu quên hết chuyện kiếp trước của mình chứ ?
Diêm vương gật đầu, nói :
- Ngươi nói rất đúng. Những việc đại sự như thế này đương nhiên phải có qui củ. Nhưng theo ta nghĩ, việc này nhất định phải có một biện pháp giải quyết. Người tiên đã thành toàn cho vợ chồng nhà này, ta cũng phải đặc cách thi ân. Các khanh hãy vì trẫm nghĩ ra một cách nào cho tốt.
Tức thì ôn tồn hiểu dụ vợ chồng Mạnh Khương:
- Hai ngươi hãy lui ra, đợi có biện pháp, ta sẽ truyền dụ vời hai ngươi tới trở lại.
Hai vợ chồng khấu đầu lạy tạ, lui ra. Âm ti có lệ đã lâu : phàm quỉ hồn chưa xác định cho chuyển kiếp đều được cho nghỉ tạm trong các phòng ốc, ở ngay trong cung, cũng giông giống như nhà công quán trên dương thế vậy.
-------------------------------------------
(1) Đình tử : không có nghĩa là cái đình làng, mà là một nhà mát, có xây cột, lợp mái, nhưng chỉ xây tường thấp chung quanh mà không bịt kín (đình này thường hình tròn). Ơ đây có nghĩa là một căn nhả, căn phòng riêng biệt.

Vợ chồng nàng Mạnh ở phòng xá trong cung đã lâu ngày. Một hôm, Diêm vương sai người tới gọi :
- Đại vương đã vì hai người nghĩ ra một biện pháp, hai người hãy mau mau lên điện nghe dụ.
Vợ chồng vô cùng mừng rỡ, theo quỉ tốt lên điện. Diêm vương phán rằng:
- Hiện nay mới phát sinh một chuyện may mắn. Số là bà lão coi việc ban mê hồn thang để lầm lỡ công vụ, đã bị cách chức, ta đang tính tìm trong đám quỉ hồn, lấy một người bổ khuyết, không dè lại xảy ra một chuyện. Mẹ chồng của Mạnh Khương, tức mẫu thân của phạm Kỷ Lương, vì biết hai con gặp nạn, đã khóc lóc đến nỗi thổ huyết mà chết. Quả nhân thương người đó vô tội chết oan, lại tra ra bà là người trung hậu, lương thiện, đã từng cứu người, tu nhân tích đức. Chiếu theo lệ cũ, bà xứng đáng được làm quan, quả nhân quyết định giao cho bà ấy chưởng quản công việc ở đình tử. Nhân dịp này, ta lại có thể giải quyết việc của vợ chồng ngươi nữa, đã tốt hay chưa ?
Hai vợ chồng nghe biết mẹ vì mình mà chết, đau đớn khóc lóc.
Nhưng nay thấy bà có chức phận dưới cõi âm, một điều không dễ gì đạt được hai người đổi buồn làm vui, tạ ơn Diêm vương. Diêm vương liền ra lệnh vời sinh hồn Mạnh bà tới, gặp mặt hai người.
Mấy mẹ con sau khi chết lại được trùng phùng, ôm lấy nhau mà khóc, khiến cho Diêm vương cùng phán quan, quỉ tốt đều thương tâm. Mạnh bà uất giận, nói :
-Vô đạo hôn quân hại cả nhà ta, thế nào cũng có ngày chết xuống đây, ta nhất định tìm hắn báo thù, giải tỏa oan khí cả nhà ta.
Diêm vương cười, bảo :
- Tần hoàng tàn bạo, bất nhân, gây độc hại khắp nơi, chẳng bao lâu cũng phải xuống đây. Những tội ác lúc còn sống, sau khi chết sẽ được xét hỏi, không châm chế một điểm nào, cứ án theo tình tiết nặng nhẹ mà định tội, cũng đủ tiêu trừ oan khí của mấy người.
Ba người nghe vậy, lại tạ ơn lần nữa. Diêm vương ôn tồn hiểu dụ vài câu, cho mẹ con lui ra. Lại ra lệnh cho quỉ tốt không được câu thúc họ, đợi sau khi Mạnh bà tựu chức, sẽ dẫn con trai và con dâu bà tới nơi nhiệm sở, chọn ngày cho đầu thai xuống phàm trần.
Bấy giờ, trong đình mê hồn, không có người chủ quán, chỉ có vài quỉ tốt lo những công việc lặt vặt. Mạnh bà biết đó là nơi trú ngụ của mình, mới cùng con trai và con dâu tiến vào, nghỉ đỡ một ngày. Hôm sau, chiếu theo qui củ, bà chính thức nhận chức. Từ đó về sau, Mạnh bà làm chủ nhân của đình tử đó, quản lý việc ban mê hồn thang. Vì thế, truyền thuyết gọi nơi đó là "đình Mạnh bà", trở thành điển tích.
Mạnh bà nhận chức rồi, nàng Mạnh Khương và Phạm Kỷ Lương cũng ở luôn trong đình, tự nhiên không bị khát nước, nên cũng chẳng cần phải uống mê hồn thang. Mạnh bà chẳng nỡ chia tay cùng hai con, lưu giữ họ ở lại đã lâu ngày. Về sau, Diêm vương biết được, liền sai quỉ tốt tới thúc giục hai người phải đi đầu thai.
Nàng Mạnh Khương chuyển sinh vào nhà họ Vương ở trấn Lâm Hoài, thuộc Giang Nam, có tên là Nguyệt Anh. Phạm Kỷ Lương đầu sinh vào nhà họ Lam ở Giang Nam, có tên là Thái Hòa.
Hai nhà đều là nhà lương thiện lâu đời. Sản phụ hoài thai mười tám tháng vẫn chưa sinh nở, hai nhà đều hoang mang, không biết làm sao, ngờ là quỉ thai. Đến chừng sinh hạ, một nhà đẻ con trai, một nhà đẻ con gái, cả hai đứa trẻ đều tuấn tú, xinh đẹp. Trước khi lâm bồn, hai bà bầu đều mơ thấy một vị tiên què, chống cây nạng sắt, trên đầu nạng treo một bầu hồ lô nho nhỏ, có hai nữ tiên theo hầu hai bên. ông tiên què nói với sản phụ :
- Bà sẽ sinh ra một đứa bé có căn cơ rất lớn, sau này sẽ tạo phúc cho cả nhà. ông bà nên đặc biệt thương yêu, chăm sóc, đừng xem thường nó nhé.
Ở nhà đứa bé trai, ông dặn rằng việc hôn nhân sau này của đứa trẻ, nên chọn đứa con gái họ Vương ở Giang Nam, sinh cùng ngày, cùng tháng cùng năm với cậu bé. Ông bà nên ghi nhớ, đừng quên. Nếu lấy lầm người khác, ắt gặp họa phi thường.
Ở nhà đứa bé gái, ông dặn rằng đứa trẻ nên gả cho người họ Lam ở Giang Nam, sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm với cậu bé. Hai sản phụ được giấc mộng đó, đều nói cho chồng và gia đình được biết. Không đầy nửa ngày, hai nhà đều sinh con, đều có mùi hương lạ tỏa khắp phòng.
Điều lạ lùng hơn nữa là cả hai đứa trẻ vừa chào đời đã biết nói, lên tiếng gọi cha, gọi mẹ. Hàng xóm chung quanh đều cho là lạ, đồn đại khắp nơi. Hai nhà chỉ cách nhau một con sông, mà dân cư ở vùng đó lại trù mật, tiếng đồn đại lan rất nhanh. Hai nhà nghe được, mỗi nhà đều phái người qua sông, hỏi thăm đối phương, thấy rất phù hợp với giấc mộng, mới nhờ người giới thiệu, làm quen với nhau.
Hai bên đều ẵm con mình qua thăm đối phương. Hai đứa bé vừa thấy mặt nhau, đã tỏ ra ưa thích khác thường, đưa bàn tay bé nhỏ ra nắm chặt lấy nhau, không nỡ buông ra.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 20.07.2008 09:57:51
Hồi Thứ 49

Trong động Tử Hà, tiên sư bàn nhân quả
Dưới cây sa bà, Hậu Nghệ biến ra nguời thợ.


Thiết Quài tiên sinh giải quyết chuyện đưa vợ chồng Mạnh Khương, Phạm Kỷ Lương đi đầu thai xong xuôi, mới dẫn các sư muội và đồ đệ về động Tử Hà, núi Thái Hoa. Phi Phi, Điên Điên hai người ra đón, dẫn vào trong động. Thiết Quài tiên sinh ngồi chính giữa căn phòng trong thạch động, bảo nhóm Hà tiên cô năm người chia theo phe nam, nữ, ngồi hai bên, Phi Phi, Điên Điên thì đứng hầu, nghe sai bảo. Hôm đó, mọi người nhóm họp, nghe giảng kinh nghĩa một hồi. Ai nấy đều lâng lâng, sảng khoái tinh thần.
Sau khóa học, tiên sinh mới nói với năm người :
- Các ngươi đã nhiều lần hỏi ta về nhân quả kiếp trước của vợ chồng Phạm Kỷ Lương và Mạnh Khương, hôm nay đã có thể đàm đạo sơ qua.
Ngày xưa, có một vị vua chư hầu là Hậu Nghệ, vũ dũng lại thiện xạ, có lần được Tây vương mẫu ban cho một viên thuốc bất tử dự bị chọn một ngày tốt, làm lễ tạ ơn vương mẫu, rồi mới dám uống thuốc. Vì thế, ông ta phải tạm thời giao cho bà phi của mình là Hằng Nga cất giữ. Hậu Nghệ là người tàn bạo, ác độc, ham chiến tranh, từ lâu đã nuôi dã tâm xâm phạm thiên tử, tự lập làm đế vương. Hằng Nga nhiều lần can gián, không được, còn bị Hậu Nghệ coi như cái gai trước mắt, hận rằng không thể chém nàng một đao, đứt thành hai khúc. Chỉ vì thấy nàng tướng mạo quá xinh đẹp, trên đời không ai sánh kịp. Hậu Nghệ không nỡ ra tay, tạm thời giữ lại tính mạng cho nàng, coi nàng như món đồ chơi. Hằng Nga vốn là thị nữ của Tây vương mẫu, mắc tội đày xuống trần. Là người có tiên duyên kiếp trước, tự nhiên nàng thông minh, lanh lợi. Sau thấy Hậu Nghệ đối xử với mình như thế, lẽ nào nàng lại không biết phòng bị? Nàng luôn luôn tưởng nghĩ chuyện sớm rời xa Hậu Nghệ, tránh khỏi độc thủ của hắn. Nhưng Hậu Nghệ đề phòng nghiêm ngặt, Hằng Nga không cách nào trốn ra khỏi cửa cung, chỉ hàng ngày ngồi buồn bã, không nghĩ ra cách gì tự bảo toàn. Thật ra số nàng không đến nỗi phải chết oan, mà mạng của Hậu Nghệ cũng không được trường sinh bất tử. Từ lâu hắn đã lơ là với Hằng Nga, không tỏ tình đầm ấm chút nào, không hiểu vì sao lúc này, hắn lại đem thuốc tiên trao vào tay nàng. Hằng Nga nắm được viên thuốc, mới nghĩ : "Chẳng cần biết thuốc này linh nghiệm hay không, chung qui ta cũng không tránh khỏi cái chết, chi bằng cứ nuốt đại viên thuốc này. Nếu có thể bay bổng lên không trung, cho dù không thành tiên nhân chân chính chăng nữa, cũng thoát khỏi nơi tù túng này, khỏi sợ hắn sát hại mình. Nếu thuốc tiên không linh ứng, sau khi nuốt vào, ta vẫn không tránh khỏi làm miếng thịt nằm trên thớt của hắn, bị cấm cố nơi thâm cung. Vả lại lúc hắn về, tra hỏi tới thuốc, ta còn hy vọng sống được nữa chăng ? Bị hắn giết lúc đó, sao bằng ta tự tận ngay bây giờ, còn hay hơn". Vì thế, nàng chuẩn bị sẵn những dụng cụ để tự sát, như con dao, sợi dây, đặt gần bên mình. Sau đó, không ngần ngừ gì nữa, nàng nắm viên thuốc trong tay, đưa lên miệng, nuốt đi. Viên thuốc chỉ nhỏ bằng hạt đậu, trôi xuống cổ họng dễ dàng. Hằng nga chợt cảm thấy tinh thần thanh thoát, khí lực tăng gấp bội, mà thân thể dường như mất hết trọng lượng. Nàng vui mừng quá, mới nhắm mắt, ngưng thần, ngồi yên lặng trên mặt đất hồi lâu, lại cảm nhận một luồng khí nóng từ trên đỉnh đầu đưa xuống, tới huyệt đan điền, từ đó tỏa ra khắp cơ thể. Không cần vận dụng chân tay, khí nóng cũng tới được mọi nơi.
Hậu Nghệ là tên bạo chúa, so với Doanh Chính hiện nay, cũng một tuồng vô đạo như nhau, tại sao vương mẫu lại đem tiên đan tặng cho hắn ? Thật ra, bà đã bấm độn âm dương, biết chắc Hậu Nghệ sẽ đưa thuốc cho Hằng Nga cất giữ, muốn mượn tay hắn, để ban thuốc cho Hằng Nga, độ cho nàng lên trời. Thần toán của Tây vương mẫu làm sao sai lầm được ? Quả nhiên Hằng Nga uống trộm viên thuốc, thân thể liền nhẹ bỗng, chẳng mất công cử động, cũng có thể bay lên trời.
Hằng Nga ngồi yên một lúc, bỗng nghĩ rằng không nên chậm trễ, phải mau mau chạy đi mới sống được. Không chạy cho mau, sẽ không trốn thoát, lập tức chết bởi tên bắn của Hậu Nghệ. Nàng vội vã đứng dậy, chạy ra khỏi sân điện, ngước mặt nhìn trời, liền thấy một vầng trăng sáng, treo lơ lửng trên không. Hằng Nga tưởng nghĩ, ánh trăng sáng tỏ, cảnh vật trên cung trăng đẹp quá. Nếu ta có thể bay lên cung trăng, ở lại đó một thời gian, sau này Hậu Nghệ lên trời đuổi theo ta, ta có bị loạn tiễn bắn chết cũng cam lòng. Đang nghĩ như vậy, bỗng cảm thấy gót chân rời khỏi mặt đất, từ từ lên cao, thân mình bay lên không trung, lơ lơ lửng lửng. Lúc đầu bay chậm, càng lúc càng nhanh, đã lên tới nửa lừng trời.
Đúng lúc đó, Hậu Nghệ từ nơi khác trở về, vô tình ngẩng đầu nhìn lên, thấy một mỹ nhân lơ lửng trên không, ngạc nhiên vô cùng, định thần nhìn kỹ. Hắn có nhãn lực rất mạnh, vì thế mới có được thần tiễn tuyệt kỹ. Vừa nhìn, hắn đã nhận ngay ra là ái phi Hằng Nga của mình. Tức thì nổi giận, hét lên một tiếng như sấm, rút cung tên đeo bên mình, giương thẳng cây cung, hướng lên không trung, nhắm Hằng Nga buông một mũi tên. Hằng Nga đang ở trên mây bay mau, không ngờ tới mũi tên thần của Hậu Nghệ bay nhanh hơn cách đằng vân của nàng. Huống chi Hằng Nga là người không có chút đạo hạnh nào, dùng nhục thể mà lên trời, làm sao sánh kịp với phép đằng vân của người tiên ? Phép bắn tên của Hậu Nghệ lại chính xác phi thường, một mũi tên bay ra, nhất định phải trúng. Chỉ nghe một tiếng "Vút !", mũi tên bay đi, tiếp đến là. tiếng kêu : "Ui cha !" ở giữa không trung. Cũng may Hằng Nga đã lên tới nửa lừng trời, mũi tên bắn ra đã tới giai đoạn cuối, sức mạnh đã giảm đi rất nhiều, chỉ có thể gây thương tích ở ngón chân nàng. Tuy nhiên, nàng cũng đau đớn, muốn ngất đi, đứng không vững, liền lộn cổ xuống đất, hai chân chổng ngược lên trời, rơi xuống mặt đất. Hậu Nghệ mừng quá, vội vã chạy đi để bắt Hằng Nga. Nơi nàng rơi xuống cách xa chỗ Hậu Nghệ chừng trăm bước. Hậu Nghệ rảo bước chạy tới, nhưng lạ lùng thay, hắn chạy đã lâu, vẫn chưa tới gần bên nàng. Hậu Nghệ nghi mình say rượu, hoa  mắt, vội chiêu tập nhiều binh tướng, bảo họ mau chạy tới, bắt Hằng Nga. Thương thay một cô gái yếu đuối, lúc này đã trượt chân ngã ra, nằm chết giấc, làm sao thoát khỏi tay một đám vũ phu ?
Thiết Quài tiên sinh kể đến đây, những người ngồi nghe đều cảm thấy bất bình thay Hằng Nga, thậm chí Tuệ Thông, tiên cô và Phi Phi, vốn là đàn bà con gái, căm ghét đám đàn ông hiếp đáp cô gái yếu ớt, càng tỏ vẻ bất bình hơn nữa, tức tối ôm lấy đầu. Tuệ Thông tính nóng, không đợi nghe hết câu chuyện, hỏi liền :
- Sư thúc, chẳng lẽ Hằng Nga bị hôn quân hại chết ? Dao Trì vương mẫu là lãnh tụ quần tiên lại đem thuốc giả gạt người ?
Thiết Quài tiên sinh chưa kịp đáp, Chung Li Quyền đã cười khì một tiếng. Thiết Quài tiên sinh chưa vội trả lời mấy cô, trước hãy quay qua hỏi Chung Li Quyền :
- Ngươi cười cái gì ?
Đệ tử cười mấy vị sư tỉ hỏi câu ngu ngốc, tính nết lại nóng nẩy không đợi sư phụ nói hết, đã mạo muội hỏi những câu ngớ ngẩn. Há chẳng nghe người đời vẫn truyền tụng Hằng Nga ở trên cung trăng ? Nếu quả thật nàng bị Hậu Nghệ bắn chết, làm sao ngày nay còn có Hằng Nga trên cung trăng ?
Thiết Quài tiên sinh nghe vậy, bất giác cười lớn tiếng, gật đầu nói :
- Nghị luận của ngươi nghe được đấy. Tuệ Thông hỏi, tuy rằng ngốc nghếch, cũng có lý do. Hằng Nga dẫu xinh đẹp, thanh khiết, nhưng nhục thân của nàng lúc đó vẫn còn là cốt tục, lại đã lấy chồng, làm bà phi của bạo chúa. Thân xác đó mà ở trên cung trăng quả không sạch sẽ chút nào. Mọi người hẳn biết Thái âm tinh quân mới là chủ của cung trăng chứ ? Bà ta là công chúa thứ ba của Ngọc đế. Ở bên Ngọc đế, bà cảm thấy không được như ý: sao còn có người cao quí hơn ta nữa chứ ? Bà có tính khí khác hẳn người thường, cho rằng trên trời, dưới trần đều không có khí thanh nhã, thân ở thiên cung mà như thể ngồi trong tù, suốt năm không có lúc nào thích chí, vui tươi. Ngọc đế hỏi các vị tiên quan tìm xem trên trời, dưới đất có nơi nào tuyệt đỉnh thanh nhã, để bà chúa ba tới ở dưỡng tính tu chân hay không. Nhưng bà chúa ba lại chỉ thích chốn cung trăng, rất hợp ý mình. Ngọc đế không biết làm sao, đành phong cho bà làm Thái âm tinh chủ, ban cho cung trăng làm nơi phủ đệ. Từ đó, công chúa an tâm, lạc ý, ở lại cung trăng.
Hôm đó, tinh quân về thiên cung thăm cha mẹ, trở lại cung trăng, giữa đường đi qua nơi nọ, gặp đúng lúc Hằng Nga mắc nạn. Một tấm lòng thành của nàng cảm động tới tinh quân, bà mới cúi nhìn xuống, cách vạn tầng mây khói, vận mắt thần hướng về mặt đất quan sát một lúc, nhận ra Hằng Nga đang nguy cấp. Tinh quân suy nghĩ một lát, biết rõ Hằng Nga có lòng ái mộ cung trăng, thương nàng giữa đường gặp nguy hiểm, mới có ý cứu nàng đưa về cung của bà, để có người hầu hạ bên cạnh. Nhưng hiềm rằng thân nàng chưa trừ hết ô trọc, sau nữa lại sợ mích lòng vương mẫu. Tinh quân còn đang trầm ngâm, đã thấy Hằng Nga đột nhiên bay lên, nhắm về phía mặt trăng mà tới. Tinh quân còn đang nghi ngờ, chưa hiểu chuyện này ra sao, lại thấy Hậu Nghệ từ phía sau chạy tới, lắp cung tên bắn ngã Hằng Nga, rơi xuống đất. Tinh quân vội chỉ ngón tay trỏ, hướng về bên dưới vẽ một vòng, tách rời Hằng Nga và Hậu Nghệ, xa nhau chừng ba, bốn dặm. Bà nói với vị tiên lại theo hầu :
- Ta muốn thu nhận Hằng Nga về cung, hiềm rằng thân thể cô ta quá ô uế, lại sợ mẹ ta mích lòng. Nay cô ta ngã xuống, nhất định là đã gãy chân, linh hồn cũng sắp thoát ra khỏi xác. Các người hãy dẫn linh hồn cô ta về đây gặp ta. Còn thân xác của cô, tuy rằng ô trọc, cũng không nên để rơi vào tay Hậu Nghệ. Hãy dùng thần phong đem xác đó tới một nơi vắng vẻ, không người, dùng lửa đốt cháy đi. Khi trở về, lại thay mặt ta tới Dao Trì, gặp vương mẫu, nói rõ một câu.
Tiên quan lãnh pháp chỉ, đi liền. Một mặt nhìn xem thần hồn Hằng Nga rời xác, liền nắm chặt lấy, đồng thời nổi một cơn gió, đưa xác Hằng Nga tới một bãi hoang ở gần biển, gọi thần thổ địa bảo đem xác nàng đốt cháy thành tro, nổi một trận gió nữa, thổi cho không còn tung tích.
Sau khi Hằng Nga rơi xuống đất, vì nàng đã uống tiên đan, chỉ ngất đi một lúc, chứ không đến nỗi táng mạng. Nếu không có tinh quân sai người bắt lấy linh hồn đem đi, lập tức sẽ tỉnh lại, lúc đó lại không thoát khỏi độc thủ của Hậu Nghệ, quả là cầu sống không được cầu chết không xong. Hậu Nghệ thấy mất thi thể của Hằng Nga, chỉ còn biết giậm chân tức tối, mau mau trở về cung.
Thiết Quài tiên sinh kể đến đây, Tuệ Thông mới cười trở lại, nói:
- Thì ra Hằng Nga sau khi chết mới được điều tốt đẹp. Sao sư thúc không nói sớm một câu cho rõ, báo hại chúng tôi vì cổ nhân mà nóng lòng, lo sợ, thật oan uổng.
Thiết Quài tiên sinh cười, nói :
Xưa nay người ta không trải qua nguy hiểm, khốn khổ, làm sao có thể thành nhân tài ? Đối với thần tiên , cũng một đạo lý ấy thôi.
Chung Li Quyền nói :
- Theo đệ tử thấy, đan dược của vương mẫu, xét cho cùng cũng  không thể kể là thập phần linh dị. Rõ ràng nói là thuốc bất tử, tại sao vừa trúng mũi tên thần, đã lăn ra bất tỉnh ? Giả sử không gặp được tinh quân, phái người đi thu giữ linh hồn, e rằng sớm muộn gì Hằng Nga cũng chết về tay Hậu Nghệ, hả chẳng phải đan dược không linh ứng hay sao ?
Tuệ Thông, tiên cô đều cười, nói :
- Cậu nói vậy là thái quá. Linh dược của vương mẫu lẽ nào lại không linh ứng ? Hằng Nga mang cơ thể của người phàm, làm sao bay được lên không trung ? Vốn tấm thân không chút đạo hạnh, làm sao nàng có thể theo hầu bên tinh chủ, đứng vào hàng tiên ban ? Nói tới gặp nạn mà chết oan, thì chuyện đó không hề liên can tới công hiệu của thuốc. Không thể nói là hễ đã uống thuốc đó rồi, cứ việc tự ý làm càn, đao, kiếm, nước, lửa không thể hại mình chết được.
Thiết Quài tiên sinh nghe vậy, gật đầu đồng tình :
- Hiện nay có nhiều kẻ ngu xuẩn, vọng cầu tiên đạo, không hề biết tới việc tu dưỡng. Phải biết rằng tiên dược chỉ có thể rèn luyện gân cốt, giúp cho ta tu đạo thành công mà thôi.
Mọi người nghe vậy, đều cho là phải. Thiết Quài tiên sinh lại kể tiếp :
- Hằng Nga lên cung trăng, gặp đúng chỗ nàng có thể an thân lập mệnh, vui vẻ theo hầu bên tinh quân. Ở đây, nàng không hề bị câu thúc, hoặc buồn rầu lo nghĩ, thanh nhàn cùng năm tháng. Nhưng Hậu Nghệ há phải người sẵn sàng bỏ qua, chịu cho người khác ức hiếp mình ? Hắn vốn là Hắc Hổ sát tinh ở trên trời, giáng xuống phàm trần, từ nhỏ đã được danh sư truyền thụ, có căn cơ vững chắc. Nhưng vì hắn hành động bất chính, làm việc không cần suy nghĩ, nên mới rơi vào ma đạo. Bấy giờ, có một người trong Ma giáo nói cho hắn biết Hằng Nga hiện ở trong cung trăng, lại dạy cho hắn thuật phi hành, tay mang cung tên, xông thẳng vào nguyệt cung, miệng bô bô đòi tinh quân phải đưa trả Hằng Nga ra đây, mọi chuyện sẽ êm hết. Nếu có một lời cự cãi, đừng trách ta quậy nát các xó xỉnh trong cung trăng, giết cho bằng hết các tiên lớn nhỏ.
Nguyệt cung là nơi thanh tĩnh, nhàn nhã, chưa từng gặp một kẻ quê mùa, thô lỗ tới gây sóng gió như thế, mà xưa nay tinh quân luôn luôn ở chỗ thâm cung, chưa hề biết tới võ bị là gì, làm chiến tranh ra sao. Các tiên lớn nhỏ trong cung một lòng tùng phục tinh quân, ai nấy đều sống an nhàn, tự tại cùng năm tháng, quả thật nằm mơ cũng không nghĩ ra nổi chuyện chỉ vì Hằng Nga mà có kẻ tới đây gây ầm ĩ. Tinh quân lúc đó đang cùng đám thị nữ nói những chuyện thú vị trên thiên cung, chợt nghe ngoài điện đình có tiếng la hét om xòm, ai nấy đều ngạc nhiên, kinh hãi. Lại nghe tiếng mắng chửi, dường như kêu đích danh Hằng Nga mà đòi hỏi.
Tinh quân định thần toán định, bất giác buông tiếng thở dài :
- Nghiệt chướng, nghiệt chướng ! Tên súc sinh nào mà dám đòi hỏi vô lý như thế ? Dám tới chỗ ta mà gây phiền ầm ĩ ? Chắc hẳn có một tà nhân nào đó dạy cho hắn chút yêu pháp, hắn mới dám đơn thân đến đây. Chỉ tiếc rằng trước nay ta chẳng chịu quan tâm, mời binh tướng về đây bảo vệ. Bình sinh lòng ta hư tĩnh, không tranh cạnh với ai, nên mới bỏ chốn thiên cung phồn hoa vinh diệu, cam tâm tới sống nơi heo hút này, rất ghét nghe chiến tranh, không muốn nhìn những quân khí sắc bén, tàn nhẫn. Nay nhất thời cầu cứu với thiên đình không kịp nữa, mà ta cũng không thể đích thân ra trận, thu phục yêu nhân, phải làm sao đây cho tốt ?
Đang lúc trầm ngâm, đã thấy Hằng Nga quì gối, khóc lóc bẩm bạch :
- Vì chuyện của thần thiếp, đã khiến tinh quân phải kinh hãi, các vị trưởng cung tỉ tỉ phải mắc nạn, tội của thần thiếp đã lớn, cầu xin tinh quân đưa thần thiếp giao cho yêu nhân, để dứt tranh chấp, khỏi gây tai họa.
Nói rồi, khóc lóc thảm thiết. Tinh quân tức giận, nói :
- Nói vậy là nghĩa làm sao ? Ngươi đã ở bên ta, tức là người của ta. Vương mẫu nể mặt ta, đã không gọi ngươi về, sao có thể để yêu nhân cướp đi ? Làm vậy chẳng những ta không còn mặt mũi nào về nhìn vương mẫu, mà các vị tiên trên cung trăng đều là những cô gái trong trắng, vạn nhất sau này lại có những hung thần ác sát, học được chút tà thuật, tới đây đòi bắt, làm sao ta có thể trao cho chúng? Ngươi nói không hợp lý chút nào, mà thái độ kia dứt khoát không thể kéo dài. Ngươi hãy lui ra, ta tự có cách giải quyết.
Hằng Nga không dám nói thêm, dập đầu lạy tạ, lui về đứng hầu một bên. Tinh quân suy nghĩ một lát, lập tức cho đòi Ngô Cương lão nhân tới ra mắt, mặt khác lại sai một vị tiên quan ra ngoài gặp Hậu Nghệ, nói :
- Tinh quân có chỉ dạy rằng : Hằng Nga hiện nay đã có người của chủ cũ là Dao Trì vương mẫu phái đến, truyền chỉ vời gọi nàng trở về, ngươi đừng mất công chờ đợi, và cũng không được vô lễ quậy phá, làm loạn nguyệt phủ, mà mắc tội với trời.
Hậu Nghệ vái lạy, tuân chỉ. Tiên quan trở về bẩm báo với tinh quân, đúng lúc Ngô cương lão nhân vừa tới. Tinh quân dặn dò :
- Hiện có Hậu Nghệ, cậy có yêu thuật, quấy nhiễu cung trăng, mở miệng nói những lời ngông cuồng, đòi hỏi Hằng Nga. ông hãy làm như thế, như thế... ra tuyên pháp chỉ. Nếu hắn tuân chỉ, lập tức dẫn hắn ra chỗ gốc cây sa-bà, làm như thế, như thế... đừng để lỡ việc.
Ngô Cương vâng lệnh đi ra, gặp Hậu Nghệ, tuyên chỉ :
- Tinh quân có chỉ : Hậu Nghệ tuy là chồng của Hằng Nga, nhưng tính nết hung hãn, tàn bạo, lẽ trời khó dung, nên đã cướp đoạt ái thê của hắn, đem đi chỗ khác, chính là ý trời cảnh cáo hắn. Nhưng tra ra duyên phận hai người đã mãn, tơ hồng khó chắp nối. Nào ngờ Hậu Nghệ không biết phận, đại náo nguyệt cung, tội chết khó tha. Nhưng nghĩ tình vợ chồng bấy lâu, tình dù chấm dứt, nghĩa vẫn còn dài, tạm tha thứ cho hắn. Nay xét chỗ cung điện của tinh quân, phòng ốc chật hẹp, muốn xây dựng thêm ngọc vũ trăm gian trong vườn hoa, ở phía Tây. Việc làm thứ nhất trong công trình đó là phải đốn ngã cây sa bà ngăn trở giữa đường. Từng nghe Hậu Nghệ vũ dũng tuyệt luân, cho đi đốn cây, lấy công chuộc tội. Sau khi mãn tội, mới có thể đem theo Hằng Nga, trở về hạ giới.
Hậu Nghệ nghe tuyên chỉ, nghĩ thầm : "Ta vũ dũng trùm đời, trên trời dưới đất, không có ai là địch thủ. Trước đây, mười ông mặt trời xuất hiện một lúc, ta từng vâng lệnh Đế Nghiệp bắn hạ chín ông. Việc lớn như vậy còn làm được, cái cây cổ thụ cỏn con kia, khó gì mà không đốn ngã ? Chỉ trong khoảnh khắc, công việc đã xong". Vì thế, hắn dập đầu lạy bôm bốp, miệng xưng "Tuân chỉ".
Ngô Cương mới đưa cho Hậu Nghệ một cây cưa, dẫn hắn ra chỗ gốc cây sa bà trong vườn hoa, bảo hắn mau khởi công. Lại lấy ra một giỏ đựng rượu và thức ăn, đem treo lên cành cây, bảo :
- Ta xem anh thần dũng đại lực, từ xưa đến nay hiếm có người như anh. Công trình nho nhỏ này chắc là chưa ăn xong bữa cơm, đã có thể hoàn tất. Nay đem giỏ đựng rượu và thức ăn treo lên cành cây, đợi chừng nào anh đốn ngã cây, sẽ mời anh lót dạ.
Hậu Nghệ cười, bảo :
- Ông sẽ thấy, chỉ trong chốc lát là tôi xong ngay ! Liền đặt mình ngồi phịch xuống đất, lấy tư thế ngay ngắn, sẵn sàng công việc cưa cây.
Ngô Cương liền chiếu theo chỉ dụ của tinh quân, miệng niệm chú ngữ, tay chỉ vào chỗ Hậu Nghệ đang ngồi, vạch một vòng tròn, rồi hét lên : "Mau !". Thân thể Hậu Nghệ như thể mọc rễ, cử động không nổi. Bấy giờ Hậu Nghệ mới biết mình rơi vào vòng cương tỏa, liền lên tiếng :
- Ta và các ngươi, kể về trí, kể về lực, vốn ngang nhau. Chỉ đáng chê cười cho ta, hùng tài cái thế, hào kiệt một đời, chỉ vì nhất thời sơ ý, để các ngươi chiếm thượng phong. Ta đã biết bản lãnh của ta không bằng tinh quân của các ngươi, nên đã chịu khuất phục dưới tay bà, có dám nói gì nữa đâu, hà tất các ngươi còn bày kế nhỏ nhen để hại ta ? Tinh quân lại là công chúa của Ngọc đế, thấy mặt công chúa, ta cũng coi như thấy kim thân của Ngọc đế vậy. Ta là tinh tú dưới quyền Ngọc đế, sao dám không giữ trọn lễ tiết của kẻ bề tôi ? Xin tinh quân nghĩ lại, chỉ vì con tiện tì Hằng Nga, sao bà nỡ dùng cách khi trá đối xử với ta ? Ta chết chẳng đáng tiếc, chỉ sợ thiên hạ đời sau không hiểu, sẽ coi tinh quân là hạng thần tiên gì ?


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 20.07.2008 10:16:07
Hồi Thứ 50

Phạt bạo Chúa, bắt cưa cây lớn trong cung trăng
Thương chổng cũ, Hằng Nga quan tâm.


Ngô Cương nghe vậy, liền cười, nói với Hậu Nghệ :
- Ngươi đừng mở miệng hủy báng tinh quân. Ngươi phải biết tinh quân của chúng ta thân phận thế nào, thần thông ra sao chứ? Tất cả các đại la kim tiên thấy mặt bà, đều phải vái dài. Dao Trì Tây vương mẫu là lãnh tụ quần tiên, Nguyên Thủy, Lão Quân là tổ sư thần tiên, cũng chẳng dám lên mặt trưởng bối với công chúa. Bà mà thi triển đại thần thông, e rằng hạng súc sinh nhỏ bé như ngươi phải mất mạng. Nguyệt phủ là nơi thanh tu, há có thể để cho lũ nghiệt súc như ngươi tới gây sóng gió ? Công chúa còn có thể lên thiên đình, triều bái Thiên đế, xin hưng sư, động binh, tới đây đối phó. Nhưng bà rất ghét dụng binh, vạn bất đắc dĩ mới phải bày ra kế nhỏ mọn này, để giữ ngươi lại đây, làm công trình. Ngươi nói công chúa dụ dỗ, lừa gạt ngươi là không đúng. Bà đã tuyên chỉ, bảo ngươi ở đây cưa cây, lấy công chuộc tội, người cũng tự mở miệng xưng "Tuân chỉ", tự nguyện làm người thợ rồi mà. Nay công trình còn chưa khởi công, công chúa sợ ngươi không chịu làm đến nơi đến chốn, nửa chừng chán nản bỏ bê chăng. Ngươi vừa học được phép phi hành, đang cưa cây nửa chừng, lại hứng chí bay xuống hạ giới chơi, bao giờ mới cưa xong cây ? Vì thế, phải giữ ngươi lại, dính chặt bên gốc cây sa bà.
Hậu Nghệ không có lời nào để cãi lại, đành nhẫn nại lo việc cưa cây Nhưng hắn cưa được nửa chừng thì một cơn gió quái nổi lên, mạt cưa bay tá lả, tối tăm mặt mũi. Chừng gió lặng, nhìn lại, thì lạ lùng thay, chẳng thấy vết cưa đâu cả, cây cổ thụ vẫn đứng sừng sững, vượt khỏi đám mây. Hậu Nghệ chán nản hết sức, không biết việc cưa cây bao giờ mới xong. Bao hùng tâm, đạo chí dần dần nguội lạnh cả.
Hai ngày ở trên trời là vài tháng dưới trần gian. Bấy giờ, trong nước Hữu Cùng của Hậu Nghệ, người ta thấy mất quốc vương, triều đình bàn tán xôn xao, không biết giải quyết ra sao. Các vị thần lớn nhỏ trong nước mới làm sớ tâu lên thiên đình. Ngọc đế sai tra xét, biết được Hậu Nghệ đang ở chỗ công chúa. Lại tra ra người này đáng lẽ được ở ngôi vua hơn năm trăm năm, nhưng vì hắn trị dân không có đức độ, tàn hại dân chúng, mới tước bỏ lộc và mệnh hắn đi, chẳng bao lâu sẽ bị bề tôi giết chết. Ngọc đế mới ra lệnh cho Thái Bạch kim tinh truyền dụ ra ngoài, đem thân xác Hậu Nghệ thả ra, trả về bản quốc, để triều thần soán ngôi, giết chết. Còn linh hồn hắn, vẫn giữ lại ở nguyệt cung, vĩnh viễn làm công việc cưa cây, thay vì đưa xuống âm tào chịu tội. Chừng nào tội nghiệt trả xong, mới cho phép được đi đầu thai.
Trên đây là những lời tường thuật của Thiết Quài tiên sinh, người làm sách xin được thêm thắt vài câu, để quí vị độc giả hiểu rõ hơn. Ngày nay các nhà khoa học, nhà địa lý, nhà thám hiểm, đều cho rằng nguyệt cầu cũng là một tinh cầu, tất cả đều có nhân dân, thành quách, chế độ văn vật. Nhưng theo các cố sự tương truyền từ mấy ngàn năm ở Trung Quốc, thì trong cung trăng có Thái âm tinh quân cai quản mọi việc. Lại có người nói về việc cưa cây sa bà, cưa đến đâu gãy đến đó, gãy rồi lại hồi phục. Trên cây có treo giỏ cơm, mỗi lần cây đổ, giỏ cơm hạ xuống, cây hồi phục, giỏ cơm lại lên cao. Những điều đó so với những điều sách này đã nói, không sai bao nhiêu. Lại có người nhận lầm Hằng Nga chính là Thái âm tinh chủ, mà không nói người cưa là ai, vì sao phải chịu đựng công việc khốn khổ như thế. Từ khi tân học đại hưng, tân thuyết thịnh hành, những câu chuyện cổ như thế đều được cho là mê tín dị đoan. Những vị đạt nhân học sĩ, đã không tìm được chứng cứ về mặt trăng, chỉ biết phụ họa theo tân học, nói có thể tìm đường lên cung trăng, đến như những điều nói về tình hình mặt trăng, xét cho cùng, phân nửa thuộc về lý tưởng, còn thực hư thế nào, chẳng ai dám quyết đoán. Theo kiến giải của người làm sách, hiện nay có nhiều sự việc, được truyền lại từ thời xa xưa của Trung Quốc, rất gần với triết học, người ngoại quốc giảng ra lại hoàn toàn thuộc về khoa học. Hai bên, mỗi bên đưa ra lời nghị luận hoàn toàn tương phản. Thật ra, nghiên cứu cho kỹ, lẽ nào lại không có chỗ thông với nhau? Chẳng hạn như chuyện sét đánh người, khoa học gia nói đó là chạm điện. Đạo lý đó tất nhiên không sai, sách này chỉ nói việc chạm điện, hay sét đánh, phải do thần trên trời quản lý. Nếu không phải vậy, tại sao từ ngàn xưa truyền lại, đến nay còn nghe, nói rằng những kẻ bị sét đánh chết, đại để đều thuộc bọn hung thần ác sát, chứ chưa từng nghe người chính nhân quân tử, phẩm hạnh đoan chính, lại bị thảm hình chạm điện. Câu nói này tuy gần với võ đoán, nhưng những người chủ trương vô thần có tìm được bằng chứng gì, có thể cung cấp cho chúng tôi, làm tư liệu nghiên cứu ?
Đặt giả thuyết cũng không nên nói nhiều, xin trở lại với chính truyện.
Thiết Quài tiên sinh lại kể tiếp :
- Thiên đế truyền chỉ dụ cho Thái âm tinh quân phải giữ hồn vía Hậu Nghệ lại, đem thân thể hắn trả về nước cũ chịu tội. Tinh quân tất nhiên làm theo. Hậu Nghệ trở về nước, cứ như thể một người điên rồ, ngu ngốc, chẳng có chút sức đề kháng nào, nên dễ dàng bị triều thần giết chết. Sau khi chết, tội trạng của hắn mới được tiêu trừ có phân nửa. Chiếu theo lệ cũ, hắn còn phải bị dẫn xuống âm ti, để chiếu theo luật cõi âm mà phân xử. Nhưng Ngọc đế đặc biệt gia ân, cho hắn được ở cung trăng mà chịu tội trong năm ngàn năm, sau đó sẽ được phục hồi chức vị trên trời, trở lại làm Hắc Hổ tinh. Đó là việc quá tốt đẹp cho hắn.
Ai ngờ Hậu Nghệ vốn là đứa hiếu dâm, hồn tuy bị câu thúc, một tấm lòng si vẫn quyến luyến Hằng Nga. Mỗi khi gặp Hằng Nga tới vườn hoa hái hoa, bẻ trúc, du sơn ngoạn thủy hắn lại lên tiếng kêu gọi, năn nỉ. Tiếng gọi lúc gần, lúc xa, ban đầu Hằng Nga không để ý tới. Ngày lâu, việc cũ qua đi, tình người biến đổi. Người bình thường, đối với chuyện quá khứ, thường hay quên thù oán, mà nhớ ơn đức. Huống gì Hằng Nga, là cô gái trung hậu, hay thương người. Nghe những lời thảm thiết, nàng không khỏi động tâm. Dầu sao cũng là tình nghĩa vợ chồng, Hậu Nghệ ngày trước có ngàn điều xấu chăng nữa, há không có một điểm tốt ? Nay hắn bị câu thúc hồn vía trên cung trăng, suốt năm chịu nắng cháy, mưa dầm, gió thổi, sương tạt, chịu đủ thứ khổ sở, đều vì việc của bản thân ta mà ra. Nay ta đã thành tiên, không hề phải chịu chút đau khổ nào, sao ta không nghĩ chuyện thành toàn cho hắn ? Hắn đã vì ta chịu tội, những chuyện ngày trước không tính đến nữa, những năm tháng sau này kéo dài hàng ngàn năm. Làm sao hắn chịu đựng nổi? Những lời kêu gào, nài nỉ của Hậu Nghệ, tuy chưa đến tai tinh quân, nhưng đám chị em đi chung với Hằng Nga đều nghe được cả. Họ thấy Hằng Nga nhởn nhơ cười cợt, nói năng quá nhẫn tâm, đẩy chồng vào chỗ giam hãm như thế, sao không phát chút từ tâm, vì anh ấy mà nói giúp vài câu, trước mặt tinh quân ? Những câu nói nửa đùa nửa trách như thế, Hằng Nga nghe mãi, đến không chịu nổi. Dần dà, trong lòng Hằng Nga nẩy sinh tình cảm thương xót cho Hậu Nghệ .
Thiết Quài tiên sinh nói đến đây, hai vị nữ tiên ngồi nghe đưa mắt nhìn nhau, nói :
- Trong thiên hạ, điều khó vượt qua nhất, chính là một chữ tình! Đáng tiếc, đáng tiếc ?
Chung Li Quyền vốn còn trẻ, chưa hiểu tình đời, nghe vậy bỗng nhiên cười khì, nói :
- Hai vị có tâm địa đàn bà, trời sinh có lòng nhân từ hơn chúng tôi. Nén lòng lại đi. Sư tôn mới nói Hằng Nga phát từ tâm, chưa nói kết cuộc thế nào, hai chị đã liệu định rằng nàng vì ý niệm đó, thế nào cũng phải xuống phàm trần một lần nữa. Không chừng có thể đoán đó là kiếp trước của nàng Mạnh Khương cũng nên. Hai chị từ bi như thế, vạn nhất sau này có kẻ nói lời thân ái, e rằng hai chị lại vì người đó mà động lòng thương xót nỗi khổ tâm si tình, xúc động lòng trần. Lúc đó, sư tôn có muốn giúp hai vị cũng không kịp.
Câu nói vừa thốt ra, Trương Quả, Phí Trường Phòng "ồ !" lên một tiếng, không nói gì nữa, trong khi tiên cô, Tuệ Thông bực tức, buông tiếng cười nhạt, đỏ hồng đôi má. Thiết Quài tiên sinh liền thét lên :
- Thằng lỏi không hiểu chuyện đời, sao dám nói năng bừa bãi, phê bình người khác ? Hơn nữa, trước mặt phụ nữ, ăn nói phải cẩn thận. Những lời ngươi vừa nói, chính là lời của kẻ vô lại khinh bạc, nói với người khác còn không nên, huống hồ nói với huynh đệ đồng đạo ? Câu nói đó, đối với người phàm là đáng bớt tuổi thọ, đối với người tiên là đáng giảm công hạnh, tự ngươi chuốc lấy tội, không can dự gì tới người khác. Lần sau còn không cẩn thận, ta không thèm nhìn mặt ngươi nữa đâu.
Chung Li Quyền sợ toát mồ hôi, phục xuống đất, không dám ngẩng đầu. Hai tiên cô phải tới, mỗi người một tay, nâng cậu ta dậy. Chung Li Quyền hướng về hai người mà vái, nhận tội. Thiết Quài tiên sinh cũng an ủi, khuyên nhủ vài câu, mới kể tiếp :
- Vừa rồi A Quyền đoán rằng Hằng Nga chính là tiền thân của nàng Mạnh Khương, là đoán đúng rồi đấy. Hằng Nga thương hại Hậu Nghệ, lại muốn chấm dứt những lời rên rỉ, van nài ấy đi, đã nảy ý tới gặp hắn một lần, nhưng lòng khiếp, gan non, cũng không dám đi. Con người ta hễ đã có suy nghĩ về tình ái, để lâu ngày, không bứt ra được, và rồi tới một lúc mười phần nồng nhiệt, đưa tới nguy hiểm rất lớn, rất không nên đùa với lửa, thử một lần cho biết. Hằng Nga giữ suy nghĩ như thế, chính là lòng trần chưa tĩnh, lúc đầu vì non gan, vả lại tình cũng chưa sâu, còn miễn cưỡng chế ngự được. Chẳng bao lâu đã qua một năm, tình cảm của nàng càng sâu đậm, tuy không dám công nhiên tới hỏi thăm Hậu Nghệ, nhưng không khỏi có lúc lân la tới gần, có lúc tới dưới cây sa bà, giả bộ như muốn xem người thợ làm việc. Hậu Nghệ vừa thấy nàng, mừng rỡ như vớ được của báu, luôn miệng tự oán trách, tự kể tội mình. Nói tới những chỗ khẩn thiết, hắn ngừng hẳn công việc, cầm cây quạt tự đánh vào mình. Những cung cách đó khiến Hằng Nga cầm lòng không đậu, lên tiếng khuyên giải, về sau lại vì chàng mà rơi nước mắt. Từ đó, hai người hàng ngày gặp nhau, không còn tị hiềm gì nữa. Hậu Nghệ xin nàng nghĩ cách cứu nhau, Hằng Nga tự hận mình chức vị thấp hèn, không dám đáp ứng, nhưng trong lòng nôn nóng vì chàng, định tìm cơ hội thăm dò ý tinh quân, phân trần phải trái. Ai ngờ cơ hội chưa tới, bản thân nàng đã mắc vạ.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 20.07.2008 10:55:12
Hồi Thứ 51

Lời thề chôn sống cuối cùng có ứng nghiệm
Tình vợ chồng hòa hợp rốt cuộc thành không.

Nghe Thiết Quài tiên sinh kể chuyện, Chung Li Quyền vọt miệng nói :
- Đại khái là tinh quân biết chuyện, nhất định không đáp ứng Hằng Nga đâu.
- Ngươi đoán rất đúng. Nhưng ngươi đã ưa đoán, ta để cho ngươi đoán thử coi có phải Hậu Nghệ chịu tội chung một lượt với Hằng Nga, có nghĩa hắn là tiền thân của Phạm Kỷ Lương, hai người cùng bị đày xuống trần một lượt, đúng không ?
Chung Li Quyền không cần suy nghĩ, đáp liền :
- Theo ý kiến ngu của đệ tử, Hậu Nghệ tuyệt đối không phải là tiền thân của Phạm Kỷ Lương, nên bất tất phải đày xuống trần một lượt với Hằng Nga. Hậu Nghệ mắc tội lớn, đã bị Ngọc đế kết án câu thúc năm ngàn năm, mới được phục hồi ngôi vị tinh tú. Thiên mệnh đã định, làm sao có thể chuyển đổi ? Vả lại vợ chồng Mạnh Khương đã được sư tôn để ý giúp đỡ, đưa xuống âm ti, chuyển kiếp phàm trần, sư tôn lại dự bị độ cho họ xuất thế, đủ thấy tiền trình vợ chồng nhà đó sáng sủa phi thường, trong khi Hậu Nghệ là thứ ác ma, làm sao tốt số như thế ? Đã thấy rõ nàng Mạnh Khương là Hằng Nga giáng phàm, mà Phạm Kỷ Lương phải là người khác với Hậu Nghệ, còn người đó lai lịch thế nào, vì sao được cùng nàng Mạnh Khương làm vợ chồng hai kiếp, thật tình đệ tử không thể biết được. Còn một điều này nữa : có bằng chứng rõ ràng là từ hàng ngàn năm nay, chúng ta nhìn lên mặt trăng có thể thấy một cây sa bà rất lớn, trên cành cây treo một giỏ cơm, dưới gốc có một người ngồi xổm, chính là Hậu Nghệ mà sư tôn đã nói tới cố sự. (1) Điều đó cho thấy Hậu Nghệ từ khi bị câu thúc đến giờ, Ngọc đế đã phán tội, chưa thấy có lý do gì để miễn giảm, e rằng năm ngàn năm sau, trắc Hổ tinh quan mới được phục hồi nguyên chức. Vậy nên, người ngồi dưới gốc cây trong mặt trăng, chịu tội cưa cây, vẫn là Hậu Nghệ .
-------------------------------------
(1) Những lúc trăng thật sáng, người ta nhìn thấy hình dáng một cây cổ thụ, nên người Việt chúng ta đặt ra truyền thuyết về “chú Cuội ngồi gốc cây đa, để trâu ăn lúa, gọi cha ời ời", người Trung Hoa lại nhìn ra người đó lả Hậu Nghệ, trước sau vẫn chưa rời khỏi gốc cây sa bà.

Nghe lời bàn của Chung Li Quyền, mọi người đều cười. Thiết Quài tiên sinh cũng gật đầu tán thành :
- Cậu bé này quả thật rất thông minh. Không cần suy nghĩ, đã có kiến giải chính xác, không sai thực tế điểm nào. Đúng là tình cảm của Hằng Nga dành cho Hậu Nghệ càng ngày càng sâu đậm, tinh quân lẽ nào lại không nghe biết ? Khi biết rõ, bà liền nổi giận, lập tức cho gọi Hằng Nga tới, trách mắng nghiêm khắc, bắt tội nàng đọa lạc hồng trần. Hằng Nga tự biết tội nặng, không dám xin tha, chỉ phục xuống đất mà khóc lóc, không nói một lời. Tinh quân cảm thấy bất nhẫn, vận dụng thần cơ, tính toán một hồi, bất giác nhăn mặt nhíu mày, buồn bã, cảm thương, liền bảo Hằng Nga đứng dậy, tới đứng hầu một bên, rồi ra lệnh tuyên triệu Nguyệt lão tiến lên điện, hỏi ông về chuyện hôn nhân của người trần gian : có phải những cặp trai gái không thể hảo hợp được miễn trừ quan hệ vợ chồng hay không ? Nguyệt lão bẩm :
- Mọi việc đều có định số. Số đáng sum họp, muốn phân chia cũng không được. Cũng có số định rằng, chỉ có quan hệ trên danh nghĩa, chứ không có hôn duyên thực tại. Đối với quan hệ danh nghĩa này, số đã định trước từ năm trăm năm, không sao trốn thoát - Nguyệt lão lại bẩm : - Dám hỏi tinh quân, ngài hỏi điều này, có phải vì chuyện của Hằng Nga hay không ?
Tinh quân khẽ gật đầu, Nguyệt lão lại nói :
- Việc này đã có số định trước. Hằng Nga có số phải cùng người phàm trần kết làm vợ chồng hai đời, sau đó mới lập định căn cơ, vĩnh viễn đứng vào tiên ban. Tinh quân bất tất phải vì nàng mà thương cảm trong lòng.
Tinh quân nghe vậy, gật đầu vài cái, cho Nguyệt lão lui ra. Nhân đó, quay nhìn Hằng Nga, nói :
- Ngươi bị đày xuống phàm trần lần này, chung qui là tự ngươi gây nên tội. Ta không thể để ngươi nuôi dưỡng mầm tình, nhiễu loạn cảnh thanh tĩnh nơi nguyệt phủ, phá hoại thể chế trang nghiêm của ta. Với những hành vi đó, ta đành phải trừng phạt ngươi, sau đó ngươi cũng không tránh khỏi luật trời xét xử đâu. Lúc đó, ngươi sẽ bị kết tội, đưa xuống chín từng địa ngục, dù cho chủ cũ của ngươi là Tây vương mẫu có nghĩ đến ngươi mà ban ơn, cũng không cứu nổi ngươi đâu. Chi bằng để ta giải quyết trước, tạm thời đày ngươi xuống phàm trần. Xuống đến đó, nếu ngươi biết làm một liệt nữ trinh tiết, hoặc tạo được nhiều công đức, có thể lấy công chuộc tội, trở lại tiên ban.
Hằng Nga lãnh chỉ, dập đầu lạy tạ, nuốt nước mắt mà rời khỏi sân điện. Tức thì có thủ hạ của tinh quân, là vị nữ tiên chuyên lo việc công, đốc thúc hai vị sai dịch đưa Hằng Nga ra khỏi cung trăng, dẫn về Dao Trì, triều bái vương mẫu. Vương mẫu trách cứ nặng nề , dặn dò người áp giải Hằng Nga :
- Ngươi trở về nói với công chúa rằng Hằng Nga đáng phải chuyển kiếp đầu thai, và việc này do ta giải quyết ổn thỏa, công chúa không cần phải bận tâm.
Người kia lạy tạ, ra về. Vương mẫu liền sai thư lại tra cho rõ nên cho Hằng Nga đầu sinh ở chỗ nào. Thư lại bẩm rằng vợ chồng nhà họ Mạnh trung hậu, thật thà, đáng được có một đứa con gái ngoan, vương mẫu liền sai đưa Hằng Nga đi đầu thai vào nhà họ Mạnh.
Hằng Nga dập đầu tạ ơn, từ biệt vương mẫu, đi theo quan viên hộ tống, rời khỏi cung Dao Tri, chầm chậm hướng về trung nguyên mà đi.
Trên đường mây, chợt thấy một đám mây trắng, trên mây có một cậu bé hình dung thanh tú, liếc thấy Hằng Nga, liền thúc đám mây, đi cùng đường với nàng. Hằng Nga thấy cậu bé nghi biểu khác thường, coi rất dễ thương, bất giác liếc mắt nhìn cậu. Không ngờ cậu bé tính nết nghịch ngợm, thấy Hằng Nga nhìn mình, liền toét miệng ra cưới, hỏi :
- Tỉ tỉ có phải Hằng Nga cô nương trên cung trăng đấy không ?
- Cậu bé, sao cậu biết tên tôi ?
- Tỉ tỉ đừng chê tôi nhỏ, tuổi tôi còn hơn tuổi tỉ tỉ gấp mấy lần nữa đó.
- Nói nhảm. Rõ ràng cậu chỉ là một đứa trẻ, sao có thể lớn tuổi hơn tôi ?
Cậu bé cất tiếng cười hì hì :
- Nếu tôi đưa ra được chứng cứ, tỉ tỉ hứa làm vợ tôi nhé. Nếu tôi không có chứng cứ rõ ràng, tùy ý chị muốn đánh muốn mắng thế nào, tôi cũng không chống lại, cãi lại, được chưa ?
Hằng Nga nghe vậy, bất giác ửng hồng đôi má, không biết nói sao. Chỉ nghĩ cậu này còn nhỏ, tính ưa giỡn cột, không có ý gì, lại nhìn cậu, thấy xinh xắn dễ thương, nàng mới nảy ý đùa giỡn với cậu một hồi cho vui, bèn nói :
- Giỏi cho cậu bé mặt dầy, không biết thẹn ! Mới tí tuổi đầu, đã có ý muốn vợ ! Có giỏi cứ đưa bằng chứng, đừng sợ tôi chẳng nể tình.
Cậu bé cười liền :
- Tỉ tỉ nói vậy là nhận lời tôi rồi đấy nhé. Này tỉ tỉ, chúng ta đều là thần tiên trên trời, một lời đã nói, như đinh đóng cột, không được cãi láo đấy nhé.
Hằng Nga cười, mắng yêu :
- Thằng lỏi miệng trơn như mỡ, nói năng bừa bãi, ta cãi không lại miệng ngươi.
Nào ngờ cậu bé đưa cánh tay nhỏ nhắn ra, nắm lấy vai Hằng Nga, không buông, ngước mặt lên cười, nói:
- Tỉ tỉ nói xấu tôi đủ thứ, mà vẫn chưa có câu nào hứa làm vợ tôi, cho thấy chị không chịu đáp ứng chút nào. Vậy tôi đưa bằng chứng để chị thấy tuổi tác của tôi hơn chị rất nhiều nhé.
Thiết Quài tiên sinh kể tới đó, mọi người đều cười lớn tiếng.
Chung Li Quyền lại càng thích thú, vỗ tay, giậm chân, nói :
- Sư phụ thấy đó, thần tiên cũng có đứa trẻ lí lắt, tại sao mấy người cứ mắng tôi là bướng bỉnh, đáng ghét ?
Tuệ Thông nói :
- Người này tinh nghịch, còn lợi hại hơn cậu nữa. Nếu cậu muốn tu thành thần tiên, nên bái ông ta làm "sư phụ lí lắt", rồi kiếm một cô tiên nữ, lấy làm vợ, mới thật là lí lắt cũng có chỗ tốt đẹp ! Lúc đó, chúng tôi cũng không dám chê cậu nghịch ngợm nữa.
Chung Li Quyền không dám nói tiếng nào nữa. Thiết Quài tiên sinh mới kể tiếp :
¬- Cậu bé này về sau chính là Phạm Kỷ Lương, vì muốn vợ mà phải chịu biết bao đau khổ.
Hằng Nga bị nắm vai đau nhói, bàn tay cậu nhỏ bé mà cứng như thép, gỡ không ra. Nàng bất giác kinh hãi, kêu lên :
- Thằng lỏi này sao có khí lực mạnh như vậy ? Buông tay ra !
Ngươi cứ nắm như thế, chắc gãy cánh tay ta mất thôi !
Cậu bé chẳng chịu nghe lời, còn cười, nói :
- Chị đã thừa nhận tôi nói không sai rồi chứ ? Nay gật đầu đi, .. tôi buông tay liền. Nếu không, đừng trách tôi nặng tay.
Hằng Nga lúc đầu chỉ muốn đùa giỡn cho vui, không ngờ cậu ta lợi hại như thế. Lại sợ cậu mạnh tay càng thêm khổ, đành gật đầu vài cái. Thấy nàng gật đầu, cậu bé mới chịu buông tay. Hằng Nga thẹn đỏ mặt, quay đầu nhìn chỗ khác, lùi lũi bước đi, không thèm ngó ngàng tới cậu bé. Cậu ta vội chạy lên trước, chắn ngang đường. Hằng Nga sợ cậu dụng võ, liền hét lên :
- Ngươi thật khinh người quá đáng. Điều đáng nói, chẳng chịu nói ra, chỉ đòi chiếm lấy tiện nghi, còn đạo lý gì nữa ?
Bấy giờ cậu bé mới nói rõ cho nàng biết : cậu chính là em trai của Xích Cước đại tiên (l), tức Phi Phát tiên nhân (2), bẩm sinh có tính nghịch ngợm, khiến huynh trưởng chẳng hài lòng chút nào. Nhưng ông anh bản tính cũng ưa chọc phá, bạn bè ai cũng ngán ông vì thói chớt nhả. Nhưng ông lại không chịu cho thằng em nghịch  ngợm, vì thế Phi Phát tiên nhân không để cho anh quản giáo.
Hằng Nga nghe chuyện, không nén nổi tiếng cười. Nàng vốn là người rất thông minh, mới nói :
- Cậu làm vậy là không nên, không phải chút nào. Chẳng qua là huynh trưởng vì thương yêu cậu mà mong muốn cho cậu được tốt lành đấy thôi. Có lẽ nào bản thân mình ưa quậy phá, lại ngăn cấm em trai nghịch ngợm ? Điều đó cho thấy cậu chẳng chịu dụng công, tuy ở tiên ban mà căn cơ chưa vững, phải nên khắc khổ cần luyện mới được. Có đâu tùy tiện cợt nhả, gặp người chưa quen biết gì, đã bày trò điên đảo, chọc phá người ta ? Nếu cậu muốn làm tiểu ca ca của tôi, thì chưa kịp bước chân qua cửa nhà chồng, tôi đã đập cho cậu một trận, mới mong cậu biết lỗi mà sửa đổi.
---------------------------------------------
(1) và (2) “Đại tiên ơi chân đất" và " Người tiên xỏa tóc", hai ông tiên quậy trong các cố sự Trung Quốc.

Phi Phát tiên nhân nói :
- Tỉ tỉ nói vậy cũng đúng, nhưng tại sao trẻ con không được học cười, lớn lên lại được tùy ý chọc ghẹo người khác ?
Và cậu ta kể tiếp :
- Về sau có lần tôi theo ca ca cũng đi dự đại hội bàn đào, tôi chê quả đào đưa cho tôi quá nhỏ, nghĩ rằng vương mẫu chê tôi nhỏ con, chỉ nên ăn quả đào bé, mới hóa ra một côn trùng, bay vào vườn đào của vương mẫu để hái trộm đào. Nào ngờ vương mẫu có bản lãnh rất lớn, biết liền, vội sai người tới bắt tôi. Tôi hoảng quá, vội nhảy xuống đất, trúng phải chân một cô thị nữ sủng ái của vương mẫu, làm cô ta bị thương. Thị nữ trở về kêu khóc, tố cáo tôi. Tôi càng sợ thêm, tính trốn khỏi vườn đào. Nào ngờ huynh trưởng đi chân đất, dẫn dắt nhiều người tới bắt tôi. Tôi vừa thấy mặt huynh trưởng, liền to gan, liều lĩnh, chẳng những không chịu nhận tội, còn cãi lại huynh trưởng, vì thế mà mắc họa lớn. Vương mẫu ban pháp chỉ, nói trộm đào chẳng qua vì tính ưa phá phách, xét về tình có thể nương nhẹ, đạp chân thị nữ là do vô ý, cũng có thể dung tha, nhưng cãi lại huynh trưởng là trái luân thường, trong hàng ngũ thần tiên, sao có thể có kẻ vô phép, vô tắc như thế ? Một mặt bà trách mắng huynh trưởng tôi không biết dạy dỗ em trai, một mặt sai đày tôi xuống phàm trần, nói rằng nếu không hối cải, sẽ đẩy xuống đường súc sinh, không có ngày xuất đầu lộ diện. Tỉ tỉ thử nghĩ giùm tôi, những việc như thế có đáng tức hay không đáng tức ? Nay tôi muốn trở về hỏi lại ca ca cho rõ, rồi mới đành lòng đi xuống trần gian. Tỉ tỉ ơi, chúng ta vô ý gặp nhau giữa đường mây, lại đội ơn tỉ tỉ hẹn ước hôn nhân, quả là diễm phúc. Có xuống phàm trần, cũng chẳng còn gì đau khổ nữa.
Hằng Nga to tiếng :
- Nói nhảm ! Hôn nhân đại sự, há có thể vì một câu nói bỡn mà thành ? Ngươi chỉ vì ưa chọc phá, thích nói giỡn mà mắc đại họa. Đã bị trách phạt nghiêm khắc, đày xuống hồng trần, còn không chịu rửa tâm, sửa tính, giữa đường gặp nhau, chẳng kể quen biết hay không quen biết, cứ mở miệng nói năng bừa bãi, e rằng sau này ngươi chịu đau khổ không ít.
Phi Phát tiên nhân nghe vậy, nghiêm sắc mặt, nói to tiếng :
- Hì, hì, hì. Ai bảo chị dễ dãi hứa hôn với người ta làm chi ! Chẳng phải tôi đã từng nói với chị rằng thần tiên không nói giỡn chơi, huống chi đây là việc lớn, lẽ nào lại có thể nói bỡn ? Một lời đã nói, suốt đời không hối. Người phàm còn như thế huống chi mình là người tiên, lại có thể tùy tiện hối hôn được sao ?
Nói rồi, đưa tay ra định nắm áo Hằng Nga. Hằng Nga trong lòng rất sợ, lại nghĩ tới câu Nguyệt lão đã nói, việc hôn nhân này đã định trước từ năm trăm năm nay, dù đúng hay sai, đã có định số há có thể dựa vào một câu nói bỡn của cậu bé để làm chuẩn đích ? Vì thế, nàng mỉm cười, nói :
- Theo lời cậu nói, là cậu nhất định muốn tôi ?
Phi Phát tiên nhân nghiêm sắc mặt, nói :
- Sao lại không đúng ? Nói thực một câu, tôi không cần biết chị chịu hay không chịu, cũng không cần biết có người nào tranh đoạt với tôi hay không, tôi cũng không buông chị ra.
Nói đến đây thì vừa đi tới một tòa thành, Phi Phát tiên nhân chỉ vào thành trì đó, nói :
- Tôi xin thề với chị : nếu có người nào bắt tôi đi, đem tôi chôn sống bên góc thành, một đạo oan hồn của tôi cũng theo chị tới cùng.
Hằng Nga nghe nói xúc động mạnh, chưa thấy có ai cầu hôn với tình ý chân thành, khẩn thiết như thế, lặng yên suy nghĩ, chưa biết nói sao, Phi Phát tiên nhân đã nắm tay nàng, nói năng nhỏ nhẹ :
- Tôi nói đến thế, chị vẫn còn hoài nghi tấm lòng thành của tôi sao ? Nói thật một câu, tỉ tỉ xuống tới phàm trần, làm thân con gái, lẽ nào lại không hứa gả ? Đã cần lấy chồng, còn nề hà gì mà không cùng tôi kết mối thiên duyên ?
Hằng Nga thẹn thùng, nói :
- Không giấu gì cậu, tôi vốn là thị nữ trên cung trăng, đã đứng vào tiên ban, tiêu diêu tự tại, chỉ vì chút lòng từ bi, thương người chồng cũ hung bạo, phạm tới luật trời, lẽ ra phải phát vãng âm ti, may nhờ ơn tinh quân, chỉ đày xuống chốn nhân gian. Đó là việc trước mắt, chưa biết còn phân xử ra sao. Nay giữa đường gặp cậu, vừa nói mấy câu, đã đem việc chung thân đính ước. Tuy nói rằng việc hôn nhân đại sự, năm trăm năm trước đã ghi rõ trong sổ của Nguyệt lão, nhưng tôi còn chưa hiểu ai sẽ là chồng tôi. Nếu quả là cậu thì là điều tốt đẹp hơn cả, vạn nhất lại là người khác, há không gây ra nhiều điều trắc trở, tạo thêm một tầng ma kiếp hay sao ? Đó chính là tội trước chưa tiêu, nghiệp mới lại vướng. Cậu hãy suy nghĩ giùm tôi, làm sao giải quyết cho tốt đây ?
Phi Phát tiên nhân cười, nói :
- Uổng cho chị đã liệt vào tiên ban từ lâu, vẫn chưa hiểu rõ hai chữ "nhân duyên". Hai người có duyên với nhau, dù cách xa ngàn dặm cũng có tơ hồng buộc chân, hai người không có duyên, đối mặt nhau cũng gặp nhiều điều trắc trở. Nay chúng ta giữa đường gặp nhau, chính là trời khéo dun dủi cho cuộc tương phùng, vậy không phải là đã có tiền duyên hay sao ? Đã có tiền duyên, chính là nhân duyên. Nếu không phải vậy, tại sao chúng ta, một người ở tít bên Đông, một người ở tít bên Tây, lại cùng bị đày xuống trần một lúc, giữa đường gặp nhau ? Thử hỏi những nhân duyên của người trần thế, có mối nhân duyên nào may mắn như vậy ?
Hằng Nga phì cười, nói :
- Cậu lẻo mồm lẻo mép nói chuyện nhân duyên, chẳng qua chỉ là nhắm mắt đoán mò thôi. Thôi thôi, cậu đã mười phần thành tâm, lẽ nào tôi lại không đáp ứng ?
Phi Phát tiên nhân cả mừng, vội hỏi :
- Tỉ tỉ, chị đã nói vậy, không đổi lòng nữa đấy chứ ?
- Tôi đã hứa với cậu, lẽ nào lại thay lòng đổi dạ ?
Đến đây, hai người đã đi tới một con sông rộng, bên trái con sông là một quả núi, hai người mới chỉ sông núi mà thề nguyền.
Sau đó chia tay, mỗi người đi một ngả.
Theo lý mà nói, hai người kết nhân duyên lần này, có thể kể là thiên duyên xảo hợp. Nhưng họ cùng vì mắc tội mà đày xuống trần, thì tội trời dứt khoát là không thoát khỏi. Mới chịu tội, lại tạo thêm một nghiệt chướng, mà mong chuyện vợ chồng hảo hợp, sống bên nhau tới thủa răng long đầu bạc, thì quả thật là không tưởng. Thế gian đã mấy kẻ được hưởng phúc phận đó ? Vì thế, việc hôn nhân của Phạm Kỷ Lương và Mạnh Khương được thành tựu đã là quá lòng trông mong, rốt cuộc cũng chỉ là hư danh mà thôi.
Nghe Thiết Quài tiên sinh kể tới một đoạn thảm sử của Phạm, Mạnh, Tuệ Thông lại hỏi :
- Việc hôn nhân của hai người đó đã thành trăng dưới nước, hoa trong gương, vì sao họ còn phải chịu thảm hình ?
Chẳng cần hỏi nhiều. Nói tóm một câu, hai người đã không biết tự kiểm soát, mới mắc vạ. Vừa quên đau khổ, giữa đường gặp nhau, đã nói những câu không đàng hoàng, đến nỗi tự đính ước hôn nhân, là điều ông trời rất ghét.
Hà tiên cô lại hỏi :
- Tần Chính tàn bạo như thế, sao chưa thấy báo ứng ?
 - Ở trên núi đây mới qua hai ngày, dưới trần thế đã trải mấy tháng. Các cô ẩn cư động phủ, làm sao biết được những biến cố lớn trên đời ? Hiện tại, Tần Chính đã về âm tào, đang bị thẩm vấn. Con trai ông ta là Hồ Hợi đã nối ngôi, xưng là Nhị Thế hoàng đế. Câu sấm ta nói : "Làm mất nhà Tần là Hồ" chẳng bao lâu sẽ thành hiện thực.
Mọi người nghe vậy, chợt hiểu ra, nói :
- Thì ra làm mất nhà Tần là Hồ chính là nói về Hồ Hợi, chúng tôi đều đoán không ra, làm sao Tần Thủy Hoàng có thể nghĩ tới con trai mình .
Thiết Quài tiên sinh lại hỏi Hà tiên cô :
- Các cô có biết Tần hoàng chết ra sao không ?
Mọi người nghe hỏi đều ngạc nhiên, nói :
- Chúng đệ tử đang muốn thỉnh giáo đây.
Thiết Quài tiên sinh đang định trả lời, chợt nghe ngoài thạch động có tiếng ào ào, một trận gió nổi lên, giây lát yên lặng. Thiết Quài tiên sinh cười, nói :
- Phi Phi ra ngoài xem thử. Dương sư huynh của ngươi tới đó .


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 20.07.2008 11:12:08
Hồi Thứ 52

Những Việc Cũ dần dần sáng tỏ
Truyền Huyền kinh, lựa người mà trao.


Thiết Quài tiên sinh ở động Tử Hà, núi Thái Hoa, đang cùng mọi người nói tới cái chết của Tần Thủy Hoàng, đã thấy Phi Phi tiến vào, bẩm Dương sư huynh ở núi Thái sơn đã tới, liền nói :
- Ta đã đoán biết giờ này anh ấy phải tới. Gọi vào đây.
Phi Phi cùng Điên Điên ra ngoài, lát sau dẫn Dương Nhân vào, hướng về phía tiên sinh vái tám vái. Tiên sinh bảo anh ta ra mắt các vị sư huynh, sư thúc, rồi cùng Phi Phi, Điên Điên ngồi xuống bên dưới. Thiết Quài tiên sinh lại cười, nói với Hà tiên cô :
- Trước đây cô cứ thôi thúc ta đi cứu Lưu pháp sư ở Thanh Hư Quán, sau này sao không thấy cô nói tới nữa ?
- Lúc đầu, tôi rất nóng ruột vì ông ta, sau thấy sư huynh làm việc gì cũng chu đáo, muốn cứu ứng người nào, không bao giờ chịu tiết lộ trước. Lưu pháp sư này, muội tử đã nhiều lần nhắc tới trước mặt sư huynh, mà sư huynh đều bỏ qua, không lý tới, tôi nghĩ rằng người này có số đáng chết, không thể cứu. Muội tử tự nghĩ mình học thức có hạn, công hạnh không có, làm việc gì cũng phải nhờ sư huynh chỉ dẫn, mới không mắc lỗi lầm. Sư huynh đã không muốn cứu người này, tôi đâu dám nhiều chuyện ?
Thiết Quài tiên sinh bất giác cười ha hả, chỉ Dương Nhân nói :
- Cô nhận cho rõ, vị này chính là Lưu pháp sư bị Triệu Cao bắt đi. Nhân cơ hội Tần hoàng mời gọi các vị phương sĩ, ta mới phái anh ta vào kinh ứng chiếu, sau lại bảo anh ta ở Thanh Hư Quán, làm một pháp sư. Ta dặn dò anh ấy những việc nên làm, đợi lúc Tần hoàng tội ác chất đầy, hãy mau ra tay đâm chết ông ta. Phải kể lại từ đầu câu chuyện của một trăm năm trước, nhân dân hàng ngày chết vì chiến tranh, mắc họa bạo chính, ai nấy đều trông mong đất nước thống nhất, có một chân mạng hoàng đế, để có thể phục hồi lại sự nghiệp cũ của các vua Văn vương, Vũ vương, Thành Khang, đầu đời nhà Chu, nói tóm lại là không trở về thời đại Xuân Thu, Chiến Quốc, chiến tranh liên miên, dân chúng không có đường sống. Nào ngờ từ khi Tần hoàng tức vị, ỷ vào thiên mệnh, tỏ ra tàn bạo, hung ác, coi mạng dân như cỏ rác, còn tệ hơn thời thất quốc nữa. Tuy nhiên, những việc này đều bởi kiếp số định trước, bản thân Tần hoàng cũng chỉ là một ma quân, ứng kiếp mà sinh ra, đem sử dụng những hình cụ ở trần thế là thay cho hình phạt trên thiên đình. Nói tóm lại, tội ác của Tần Thủy Hoàng chất đầy từ khi ông ta ra lệnh bắt dân phu đi xây trường thành. Bấy giờ, dân phu xây thành đã cử ra được người cầm đầu, bẻ cây làm gậy ùn ùn khởi nghĩa. Chân mạng đế vương cũng đã ra đời. Lúc này nhất định là không thể cho Doanh Chính được sống. Người ấy chẳng ban nhân đức, chỉ lấy oai để trấn áp thiên hạ, để sống ngày nào, nghĩa binh bị triết tỏa ngày ấy. Sao không thừa cơ hội kết liễu đi há chẳng tiện lợi hay sao? Những việc này có quan hệ rất lớn tới sự tồn vong, an lạc của dân chúng trong cả nước, sự thể rất lớn, mà thiên cơ bất khả lậu. Sư muội nhiều lần hỏi tới, mà ta không thể trả lời, chính vì vậy.
Đang nói, chợt nghe tiếng nổ lớn giữa không trung, tiếp đến cây cối trên núi rung chuyển, chim chóc kinh hãi, bay tứ tán. Thiết Quài tiên sinh bảo Trương Quả :
- Sư phụ anh sai ông bạn già Long vương của anh đưa thư cho anh đấy. Mau ra xem thử.
Trương Quả ra ngoài động nhìn xem, quả nhiên thấy một cây phong ở ngoài cửa động bị đánh gãy một cành, trên cành cây có treo một phong thư. Trương Quả vội lấy xuống, đem vào trình Thiết Quài tiên sinh, tiên sinh bảo anh tự mở ra xem. Thì ra là Văn Mỹ chân nhân thấy Trương Quả công hạnh quá nông cạn, bảo anh ta tới núi Võ Đang mà tu luyện thêm, tiện đường qua núi Mang Đãng sẽ gặp một người say rượu đang đi trên đường, bị một con rắn trắng rất lớn xông ra cản đường. Người đó chính là chân mạng thiên tử. Tần Thủy Hoàng lúc này đã chết, oán khí chưa tan, biết người này sẽ thay mình làm vua, mở mang cơ nghiệp, mới ốp vào thân rắn, tính cản đường, nuốt người ấy đi. “Ngươi hãy ẩn mình trong núi, hễ thấy hai ngọn đèn lớn xuất hiện, từ hẻm núi tiến ra, chính là con rắn trắng đấy. Ngươi mau giúp chân chúa chém chết nó đi. Đó cũng là một công hạnh lớn, chớ xem thường, vân vân...".
Thiết Quài tiên sinh bảo Trương Quả hãy mau mau lên đường.
Anh ta đi rồi, tiên sinh lại bảo Dương Nhân trở về núi Thái sơn, sau đó mới cười, nói với Chung Li Quyền :
- Ta định cùng Hà sư muội đi chu du thiên hạ một phen, nhân tiện tới hóa độ cho hậu thân của vợ chồng Phạm Kỷ Lương. A Quyền hãy nhận Huyền kinh của ta, ở đây cùng Phi Phi, Điên Điên dụng công tu tập. Hai mươi năm sau, sư phụ ngươi ắt tới khảo nghiệm công quả, nếu thấy ngươi không tiến bộ, sư phụ ngươi ắt bỏ rơi ngươi, mà ta cũng không dám chỉ giáo cho ngươi nữa đâu.
Chung Li Quyền vái mà xin nhận lời. Thiết Quài mới đem Huyền kinh ba quyển trao cho cậu ta, dặn cậu phải cất giữ cẩn thận, nếu để mất sẽ bị tội sét đánh. Chung Li Quyền lại vái mà nhận kinh. Phi Phi, Điên Điên và Phí Trường Phòng, đứng một bên, thấy Thiết Quài tiên sinh chỉ trao kinh cho một mình Chung Li Quyền, tỏ vẻ bất mãn hiện ra sức mặt. Thiết Quài tiên sinh mới cười bảo Chung Li Quyền lấy Huyền kinh ra, đặt lên bàn đá, bảo bốn người trước hết hãy vái kinh, sau đó tùy ý mở ra coi thử một trang. Cho Trường Phòng thử trước nhất, lật thử một trang, chỉ thấy là tờ giấy trắng, không có chữ viết nào. Lật thêm vài trang, cũng vẫn vậy. Đến lượt Phi Phi, Điên Điên hai người tiến lại, lật thử vài trang, cũng lại là giấy trắng. Thiết Quài tiên sinh hỏi họ thấy gì, ba người cứ tình thực khai ra. Tiên sinh dạy Chung Li Quyền tới lật sách, và đọc to lên. Chung Li Quyền nhìn thấy rõ ràng có những chữ lớn, viết ngay ngắn, nhân đó cất cao giọng đọc lên. Thiết Quài tiên sinh mới cười, bảo :
- Tiên duyên định trước, thành tựu mỗi người một khác, há phải ta thiên vị? Chung qui tại các ngươi có pháp duyên khác nhau mà thôi. Nếu không, tại sao A Quyền nhìn rõ ràng là Huyền kinh, mà ba người kia đều không nhìn ra chữ ?
Ba người không dám nói gì, nhưng vẻ bất bình vẫn hiện ra trên nét mặt, Thiết Quài tiên sinh lại nói :
- Các ngươi tuy không có pháp duyên như A Quyền, nhưng cũng chẳng phải tuyệt đối không cho phép các ngươi học tập. Chẳng qua là trong kinh có những điều rất cao, rất sâu, các ngươi khổ công tu luyện cũng không đạt được, mà còn có hại nữa. Khi đó, thỉnh thoảng ta hoặc A Quyền sẽ chỉ dẫn cho các ngươi. Nhớ lại năm xưa, ta dụng tâm học tập, không dè có yêu nhân tới cướp kinh đem đi, ta phải dẫn Phi Phi, Điên Điên đi đoạt lại kinh. Việc đó hai ngươi còn nhớ chứ ? Thực ra yêu nhân có lấy được kinh này cũng vô dụng thôi. Nó sẽ chỉ nhìn thấy toàn là giấy trắng. Khi đó, ta không hiểu được đạo lý này, sợ rằng yêu nhân học trộm được vài bí kíp trong kinh, nếu không mau thu hồi kinh sách, mối họa gây ra sẽ không nhỏ. Chuyện đó nghĩ lại, quả đáng tức cười. Nhưng ta nghĩ kinh này là bí kíp trong trời đất, là báu vật của cung Bát Cảnh, nên sau khi học xong, ta đem kinh trả lại cho tổ sư Tổ sư toán định rằng Chung Li Quyền là người đáng được truyền thụ kinh sách, lại đưa cho ta cất giữ, nói : "Nếu gặp người có tiên duyên rất lớn, trí tuệ rất lớn, đọc được kinh này, thì trao cho người đó". Nay gặp được A Quyền, tuy không phải đệ tử của ta, mà là đồng môn, nhưng bàn về lý, cậu ấy cùng ta cũng có quan hệ thầy trò đích thực. Lại đọc được kinh, cho thấy cậu ta chính là người mà tổ sư đã nói tới. Vì thế ta trao kinh cho cậu ta, một là tuân lệnh tổ sư, hai là có thể tạo dựng cậu ta thành một nhân tài trong giới thần tiên, ba là từ nay ta trút bỏ được trách nhiệm làm thầy. A Quyền nhận kinh này, đúng là điều tế ngộ hiếm thấy, là phúc mệnh rất lớn, phải nên cẩn thận giữ gìn kinh sách, chăm lo tập luyện, chớ có lười biếng, sao nhãng.
Chung Li Quyền nghe nói, mừng rỡ vô cùng, hướng lên không trung mà lạy tạ tổ sư.
Thiết Quài tiên sinh trao kinh sách cho Chung Li Quyền xong, chợt nhìn Phí Trường Phòng mà mỉm cười. Trường Phòng không hiểu ý ra sao, vội hỏi :
- Sư tôn vì sao cười đệ tử ? Chẳng phải đệ tử đã có điều gì thất thố, hoặc đã làm việc gì không đúng ?
Thiết Quài tiên sinh cười, bảo :
- Ngươi tuy là đệ tử của ta, nhưng thật tình căn cơ không sâu, hai chữ "tiên duyên" so với Phi Phi, Điên Điên cũng thua kém. Ta nghĩ ngươi xa nhà cũng đã lâu, nên về thăm một chuyến.
Trường Phòng kinh hãi, vội nói :
- Tại sao hôm nay sư phụ đột nhiên nói những lời như thế ? Đệ tử nếu không có tiên duyên, làm sao gặp được sư tôn ? Nếu đạo tâm không vững, sao sư tôn lại cho đệ tử được theo hầu bên mình, trong một thời gian dài ? Đệ tử tự xét mình chưa từng làm một việc gì hư hỏng, tại sao sư tôn lại đột nhiên đuổi đệ tử đi ?
- Ta bảo ngươi về nhà, không phải là trục xuất ngươi khỏi môn đường. Danh phận thầy trò đã định, cho dù ngươi không thể tu tiên, danh phận đó cũng không phế bỏ. Theo ta nghĩ, thành tựu cửa ngươi sau này quá mỏng, cùng lắm ngươi cũng chỉ thành địa tiên mà thôi. Có cố gắng lắm, cũng không hy vọng gì đâu. Lúc ngươi xuất gia, cả nhà ngươi, già trẻ, lớn bé đều đau thương, lo lắng, ngươi nên về nhà an ủi họ, mới là chính lý.
Phí Trường Phòng nghe vậy, rơi nước mắt, nói :
- Lúc đệ tử rời nhà, sư tôn đã dùng pháp lực khiến cả nhà đệ tử đều nghĩ đệ tử đã chết nơi tha hương, nay đệ tử trở về, e rằng người già đã chết, người trẻ đã lớn, gia cảnh đã biến đổi hoàn toàn, mấy người đó thấy đệ tử trở về, sẽ nghĩ ra sao ? Bất luận thế nào, cũng xin sư tôn toàn thành cho đệ tử, cho phép đệ tử luôn luôn được ở bên cạnh. Nếu có phúc mệnh, được làm địa tiên, là đệ tử mãn nguyện lắm rồi.
Thiết Quài tiên sinh không biết làm sao, đành nhận lời.
Ngay đêm đó, Thiết Quài tiên sinh cùng Hà tiên cô, Phí Trường Phòng từ biệt bọn Phi Phi, theo đường cũ tiến về Hàm Dương, dự tính sau đó sẽ đi Giang Nam, tìm vợ chồng Lam Thái Hòa.
Bấy giờ kinh đô bị quân sĩ của Hạng Vũ vượt qua ải quan, kéo tới đốt phá, tàn sát, đến nỗi hầu hết những nơi có dân cư biến thành một đống đổ nát, gạch tan, ngói vỡ. Thủy Hoàng phí bao tâm cơ, tàn nhẫn bóc lột dân chúng để xây li cung, biệt điện, mở rộng ngự hoa viên, đến nay phân nửa biến thành đất hoang. Nhóm Thiết Quài đi dạo chơi, ngắm cảnh vật mà thương cảm, thở than, đồng thời cùng nhau bàn bạc chuyện cũ. Riêng có Phí Trường Phòng, lặng yên nghĩ đến gia cảnh, không biết có bị thiêu hủy hay không, một nhà lớn bé phiêu dạt nơi đâu. Nghĩ tới chỗ thương tâm, không cầm được nước mắt. Nhưng sợ Thiết Quài tiên sinh quan sát, để ý tới thần sắc của mình, Trường Phòng không dám để lộ tình cảm, phải bắt chuyện với Hà tiên cô, bàn tới những chuyện đâu đâu, mới trút bỏ được khối nặng ngàn cân trong lòng. Bỗng nhiên, Thiết Quài tiên sinh chỉ một ngón tay, nói :
- Này Trường Phòng, đằng kia có phải Thanh Hư Quán ngày trước hay không ? Phòng ốc toàn vẹn, không chút hư hỏng, có lẽ là nhờ Dương Nhân thi thố pháp thuật để bảo toàn, cũng chưa biết chừng. Chúng ta đã tới đây, hãy lại đó xem thử, nếu có chỗ ngả lưng, có thể nghỉ lại, cũng được.
Tiên cô và Trường Phòng đều khen phải. Ba người vào trong ngôi đền, thấy phòng ốc tuy nguyên vẹn, chẳng thấy một bóng người. Ngay cả những đồ đạc trong đền, cũng không rõ ai đã lấy đi tất cả. Thiết Quài tiên sinh cất giọng thở than: :
- Ruộng dâu biến ra biển xanh, việc biến đổi đã tới chỗ tột cùng. Nơi đây vốn là kinh thành phồn hoa, náo nhiệt, trong thời gian ngắn đã biến thành hoang vắng, tiêu điều. Nghĩ tới con người ta sống trên đời, thân xác thịt so với cây cối, gạch đá, quả thật dễ hư nát gấp trăm ngàn lần. Người nào càng ham danh lợi, càng mau chết.. Nghĩ tới chỗ đó, thật đáng sợ hãi, than tiếc !
Nói rồi, đưa mắt nhìn Trường Phòng chăm chú. Trường Phòng vội nói :
- Chẳng phải sư tôn nghi ngờ đệ tử còn mang lòng ham danh lợi hay sao ?
Thiết Quài tiên sinh vội nói :
- Ta nói vậy không phải ám chỉ ngươi đâu. Ngươi nên hiểu rõ như vậy mới được - Nhân đó, lại nói : - Nhà của ngươi cách đây trong gang tấc, ngươi nên về thăm, mới đúng bổn phận. Tu đạo không ngoài tình người, tiên đạo rất trọng một chữ tình. Tham luyến tình đời cố nhiên là không nên, nhưng đối với người cốt nhục chí thân, mà không chút động lòng, hoàn toàn coi như không có quan hệ gì, thì cũng không phải bổn phận của người tu đạo.
- Đệ tử từ ngày theo sư tôn đi khắp nơi, sớm coi tình đời thật lợt lạt. Nhưng đối với người thân trong gia đình, chung qui không tài nào dứt bỏ được tình cảm trong lòng. Đệ tử tự hận mình học thức nông cạn, không ngộ được chân lý, vẫn thường luyến ái gia đình, tức là trái với đạo tâm. Vì thế, thường cố nén trong lòng, không dám để lộ trước mặt sư tôn. Mỗi khi tưởng niệm tha thiết, phải dùng phép cưỡng chế, mà rồi ý niệm đó vẫn nẩy nở. Nay nghe lời minh huấn, mới biết mình vẫn vướng trong tình lý, không khác người phàm chút nào, bất tất phải làm bộ giả dối, để mất bản chân.
Thiết Quài tiên sinh khen phải, nói thêm vài câu an ủi. Trường Phòng nhận lời chỉ bảo, xúc động trong lòng, cảm thấy tâm tư cực kỳ sáng suốt.
Đến tối, từ biệt Thiết Quài tiên sinh, một mình đi tìm gia đình. vừa bước ra khỏi ngôi đền, mới hỏi một câu, đã biết chỗ thôn trang của mình không hề mắc họa binh lửa, trong lòng rất được an ủi vội vã tiến bước. Tới chỗ đầu thôn, bỗng thấy một người đàn bà bị một đám vô lại lôi kéo, nói ra toàn những lời bỉ ổi. Người đàn bà chỉ biết kêu khóc, cầu cứu:
- Gia đình ta dẫu phạm pháp, đã có quan phủ xét đoán, không chịu cho các ngươi lăng nhục đâu.
Trường Phòng nghe tiếng nói rất giống với giọng vợ mình.
Định thần nhìn kỹ, quả nhiên không sai. Chính là Bạch thị, vợ anh, đang bị đám vô lại, nắm tay lôi đi, vừa cười vừa nói :
- Chồng mày đã bỏ trốn từ lâu, gia đình mày phạm tội rất lớn, mày nên ngoan ngoãn đi theo bọn tao, bảo đảm có cơm ăn, áo mặc, không phải chịu khổ sở.
Bạch thị quác miệng ra chửi, bọn vô lại nổi giận, nói :
- Chúng ta hãy bắt ả lôi đi, cùng nhau hưởng khoái lạc một đêm, ngày mai sẽ dẫn nó lên quan.
Chúng hô lên một tiếng, lôi kéo Bạch thị, chạy như bay.
Trường Phòng thấy tình cảnh đó, bất giác nổi giận đùng đùng, không cần suy nghĩ, vội vã đuổi theo.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 20.07.2008 11:52:28
Hồi Thứ 53

Phí Trường Phòng nổi giận, khai sát giới
Thần Nhị Lang xuất hiện, ngăn hung bạo.

Phí Trường Phòng thấy vợ mình bị một đám vô lại lăng nhục, bất giác nổi giận đùng đùng. Lại thấy chúng lôi Bạch thị đi, Bạch thị tóc tai rũ rượi, bước thấp bước cao, quần áo xốc xếch, miệng gào lên :
- Cứu tôi với ! Cường đạo bắt cóc phụ nữ ! Bớ bà con làng xóm, mau cứu tôi !
Tiếng kêu thảm thiết, không nỡ nghe. Phí Trường Phòng không nhịn được nữa. Thấy Bạch thị đã bị chúng lôi đi xa chừng trăm bước, Trường Phòng liền thi triển phép rút đất, hai chân nhảy xổ về đằng trước, giây lát đã đuổi kịp. Bọn vô lại thấy một nam tử từ trên không trung nhảy xuống, kinh ngạc vô cùng, ngờ là thần, là quỉ xuất hiện. Phí Trường Phòng không thèm nói chuyện với chúng, trước hãy hỏi Bạch thị nương tử :
- Có nhận ra bỉ nhân không ?
Bạch thị nhìn Trường Phòng ăn mặc theo lối đạo nhân, thần sắc khác hồi trai tráng. Rõ ràng nàng đã nhận ra chồng mình, nhưng trong lòng còn chút hồ nghi, vì cách biệt nhau đã lâu năm, tìm kiếm khắp nơi không thấy, lại nghe chồng mình đã chết ở nơi đất khách. Nay thấy anh đột nhiên xuất hiện, Bạch thị ngờ rằng chồng mình đã chết nơi tha hương, quỉ hồn trở về, biết ta gặp nạn, mới hiện hình cứu ta. Vì tình vợ chồng cùng gối, cùng giường, nên biết anh là ma hiện về, chị cũng không sợ hãi, liền nắm lấy áo đạo sĩ của Trường Phòng, kêu khóc vang trời :
- Chàng đã ra người thiên cổ, hôm nay sao còn trở về đây ? Có phải chàng biết vợ chàng mắc nạn, đã hiển linh tới cứu nhau đó chăng ?
Phí Trường Phòng nói vần tắt một câu :
- Không tiện nói rõ, hãy hỏi vì sao nàng coi ta là hồn ma ?
Câu nói chưa dứt, bọn người kia đã vây quanh, hỏi :
-  Ngươi thật ra là người, là ma, hay là yêu tinh ? Cứ cho ngươi là ma đi, vợ ngươi hiện nay phạm vương pháp, chúng ta đang dự bị đưa ả lên quan đây. Ngươi ở cõi âm, không liên lạc gì với chúng ta trên dương gian, ta khuyên ngươi đừng xen vào việc không phải của mình thì hay hơn. Nếu không, chúng ta hãy bắt trói ngươi, đưa tới miếu thành hoàng, giao cho thành hoàng lão gia, kết tội ngươi nhận xằng vợ của người khác, để coi ngươi có thể làm một con ma yên thân hay không ?
Phí Trường Phòng đang giận dữ, nghe câu nói đó càng điên tiết, rút phăng cây kiếm đang đeo, hướng về phía người đang nói, hét lên:
- Thằng giặc đáng chết kia, ban ngày ban mặt mà ngươi bắt cóc đàn bà đã có chồng, còn dám coi ta là hồn ma, nói năng nhảm nhí. Ta hãy cho ngươi thấy thủ đoạn của hồn ma là thế nào.
Liền vung kiếm chém bay đầu người đó, xác đổ gục xuống đất. Đám vô lại liền la toáng lên :
- Đạo sĩ quê mùa ở đâu tới, mà dám giết người ?
Nhất tề xông lên, định bắt Phí Trường Phòng. Trường Phòng vội nắm Bạch thị lôi đi, dùng phép rút đất đẩy chị đi xa chừng nửa dặm, còn bản thân chống kiếm, đợi đánh nhau với đám đông. Bọn khốn này thường ngày ỷ thế đông người để tung hoành, phá làng phá xóm, làm sao biết sử dụng kiếm ? Vả lại lúc này, trong tay chúng không một tấc sắt, hơn mười tên chỉ tay không chống chọi với Phí Trường Phòng. Trường Phòng đang lúc phẫn nộ, không kể gì tới số đông, vung kiếm chém bừa, trong chốc lát đã giết một hơi sáu, bảy người. Còn lại có năm người, đều bị thương, bỏ chạy.
Trường Phòng hô to :
- Bọn súc sinh, đã không biết chiến đấu, còn dám làm ác nữa sao ?
Liền đuổi theo, hét lên một tiếng: "Ngừng !", tức thì năm người, mười cái chân, đứng như trời trồng, không sao nhúc nhích. Phí Trường Phòng cười, nói :
- Các ngươi là một lũ côn quang, để sống chỉ làm hại dân chúng. Chi bằng bần đạo chịu phí chút công sức, đưa tất cả bọn ngươi xuống cõi âm, để các ngươi đi gặp thành hoàng lão gia, kêu ngài sai người tới bắt ta, đem về trị tội.
Nói rồi, lại vung gươm, giết chết thêm hai người nữa. Những người còn lại, tuy đứng chôn chân một chỗ, lòng vẫn hiểu biết rõ ràng, miệng nói ra lời, cất tiếng năn nỉ bi ai :
- Thượng tiên tha mạng. Tiểu nhân chúng tôi không dám làm ác nữa.
Trường Phòng nói :
- Đã biết không dám làm ác rồi hay sao ? Các ngươi nói miệng, ai mà tin được ?
Nói rồi, lại giết thêm một người nữa. Trước mắt chỉ còn hai người, đều kêu khóc :
- Thượng tiên vốn giàu lòng từ bi, lấy việc cứu đời làm căn bản. Chúng tôi dẫu phạm tội, bất quá chỉ là cướp đoạt đàn bà nhà dân, bất luận thế nào, cũng không đáng tội chết. Thượng tiên đã giết anh em chúng tôi mất nhiều người rồi, còn lại có hai chúng tôi cơn lôi đình của thượng tiên đã giảm phân nửa, xin ngài dung tha cho chúng tôi được kéo dài kiếp sống thừa.
Nói rồi, cất tiếng khóc thảm thiết. Phí Trường Phòng nghe những lời năn nỉ, bất giác nhớ tới những lời giáo huấn của Thiết Quài tiên sinh, thấy hai người này nói rất đúng, chính mình đã làm quá : chỉ vì một cơn giận, đã giết uổng nhiều người, tựa hồ như đã cậy có pháp lực, giết hại người dân thường. Huống chi bản thân cầm kiếm báu đối phó với người tay không, quả thật không oai võ chút nào, còn mang tiếng bất nhân là khác. Lòng cảm thấy hối hận, bất giác quăng gươm xuống đất, hậm hực nói một mình :
- Bao năm công hạnh, một phút rũ sạch ! Ta thật không hiểu ta có thù hằn gì với bọn tụi bay, mà tụi bay báo hại, đưa ta đến bước đường này ?
Tự nói cho mình nghe mấy câu vô lý như thế, Trường Phòng nhìn lại, thấy hai người vẫn đang năn nỉ, van xin, bất giác cúi đầu, mặt mày bị xị, nói :
- Ta tha cho hai ngươi đi đấy. Hãy ráng làm người tốt, nhất thiết không được giẫm lên vết xe đổ, quấy nhiễu xóm làng. Lúc đó, ta không giết các ngươi, vương pháp và thiên đạo cũng không tha cho các ngươi đâu. Thôi, đi đi.
Hai người nghe nói, khấu đầu lạy tạ, chạy đi như chuột lủi.
Phí Trường Phòng vì một phút nóng giận, giết quá nhiều người, tâm cơ chợt biến chuyển, bất giác đổi từ giận dữ sang bi thương, hối hận. Tự trách tội, đánh vào mình hồi lâu, lại nhặt kiếm lên, tiến về phía trước, đi tìm vợ. Bỗng nghe phía sau có tiếng người hô tô :
- Hung phạm giết người, ngươi chạy đi đâu ?
Phí Trường Phòng kinh ngạc, quay nhìn lại, thấy một đạo nhân mặc áo trắng, cưởi con voi trắng, đuổi theo nhanh như gió.
Trường Phòng đang lúc buồn rầu, chán nản, không thiết sống nữa, liền đứng lại, đợi đạo nhân tiến gần, vòng tay thi lễ, hỏi :
- Đạo hữu vì sao tới đây ? Dám hỏi pháp hiệu là gì, quê quán nơi đâu ?
Đạo nhân cười nhạt, nói :
- Tên mọi rợ này cũng biết lễ phép nữa sao ? Người xuất gia lấy từ bi làm gốc. Những việc ngươi vừa làm chẳng những là báo thù quá mức độ, còn vi phạm vương pháp, trái luật trời. Ngươi đã cậy có chút đạo thuật để ức hiếp dân thường không biết phép thuật, lại không một tấc sắt trong tay, là việc làm xấu xa và đáng hổ thẹn, làm mất mặt người trong đạo giáo chúng ta. Lấy đạo pháp để đối phó với người thường chỉ nên dùng để cứu đời, giúp người thôi, nếu muốn dùng vào việc giết người, phải xét rõ người đó là kẻ phạm tội rất nặng, chưa bị pháp luật trừng phạt, lại thường làm hại dân địa phương, không thể răn bảo, mới nên phá sát giới, vì dân trừ hại, việc chém giết quí nhất là nương tay. Giết hại nhiều sinh vật đã là trái ý trời, đằng này ngươi lại giết một hơi hơn mười mạng người. Hành động tàn bạo đó, đối với người thường đã là đáng tru diệt, đối với người tu đạo, tội lại tăng lên một bậc. Nếu cứ ỷ phép thuật, giết bừa giết bãi, thì những kẻ tu đạo chúng ta sẽ trở thành tội đồ trong thiên hạ, bị dân chúng phỉ nhổ, và phong cách này mà lan rộng, e rằng đạo giáo chúng ta sẽ tự tiêu diệt.
Trường Phòng nghe nói, cảm thấy buồn bã, hối hận, lặng yên hồi lâu, không dám có một lời phân trần. Đạo nhân lại nói :
- Lại xét sự tình của ngươi trước mắt thấy vợ mình bị người lăng nhục, tức giận mà ra tay, về tình có thể nương nhẹ. Theo suy nghĩ của ngươi, bọn người kia toàn những kẻ xấu, quyết không một người tốt, giết chúng đi, chính là vì dân trừ hại. Nghe cũng có vẻ hợp lý đấy, nhưng phải biết người dân phạm pháp vốn thuộc về quan trên xét xử. Chúng ta là những người đã gác bỏ chuyện đời, sao còn thấy việc gì cũng nhảy vào can thiệp, làm rối loạn trật tự xã hội ? Ngươi giết người quá nhiều, lại mạo nhận danh nghĩa tốt đẹp là vì dân trừ hại, thì điều đó cũng gần với ăn nói huyênh hoang, không biết thẹn, chẳng có đạo lý gì cả. Vả chăng những kẻ làm ác đều phải có người thủ xướng. Ngoài kẻ cầm đầu đó ra, còn có những người ,bị ép buộc phải làm, hoặc là vì bị dụ dỗ, hoặc vì vô tình, không hiểu rõ sự việc mà a dua làm theo. Những người đó không hoàn toàn là những ác nhân. Quan phủ bắt được trộm cướp, tại sao không đem giết liền lập tức, mà phải thẩm vấn kỹ càng ? Cũng chỉ vì trong đám trộm cướp đó còn có những người tòng phạm, tội ác không lớn lắm, có thể tha thứ, hoặc giảm nhẹ hình phạt. Thầy trò ngươi cứ luôn miệng chê Tần hoàng hung bạo, bất nhân, nhưng chính sư phụ ngươi đã sai người đi hành thích, đến nay lại có ngươi làm việc tàn sát này, há chẳng phải tàn khốc hơn Tần hoàng hay sao ? Ta đang muốn đi thỉnh giáo sư phụ ngươi, hỏi xem ông ấy dạy dỗ học trò như thế, có phải chịu trách nhiệm liên đới hay không ?
Phí Trường Phòng nghe câu nào cũng hợp lý, không cãi vào đâu được. Vả lại tự mình làm nên trọng tội, chỉ nên bó tay chịu trói, kháng cự tội càng nặng thêm, e rằng còn để liên lụy tới sư phụ, làm sao yên lòng ? Nghĩ tới đó, liền nguội lạnh trong lòng, ngay cả chuyện vợ mình đang ở đâu, gia đình mình đã mắc tội gì gì, đều không có thì giờ nghĩ đến, chỉ khom lưng, cúi đầu trước mặt đạo nhân, nói rạch ròi :
- Nhất thiết tội ác, đều vì đệ tử quá nóng nẩy, bản chất thô lỗ làm liều, mà gây nên. Sư tôn của đệ tử, vì thấy đệ tử không thích hợp với việc tu đạo, đã có ý đuổi đệ tử ra khỏi sư môn. Nhờ đệ tử năn nỉ nhiều lần, sư phụ mới tạm giữ lại. Không ngờ đệ tử vì tính nết ngu đần, thô lỗ, vừa rời xa sư phụ vài bước, đã gây ra họa lớn này, thật không liên quan gì tới sư phụ. Xin thượng tiên thay mặt sư tôn của đệ tử mà giáng tội búa rìu, đệ tử cam tâm nhận lãnh.
Nói rồi, dập đầu lạy bôm bốp. Đạo nhân cất tiếng than dài, bảo đứng dậy. Trường Phòng đứng lên, cúi đầu nghe lệnh. Đạo nhân mới nói :
- Ta chính là thần Nhị Lang, cháu gọi Ngọc đế bằng cậu. Chẳng bao lâu Hán, Sở tranh hùng, Hán vương sẽ được làm thiên tử, ta vâng lệnh Ngọc đế, đi tuần tra khắp nơi, xem xét dân tình, giảm thiểu nỗi khổ cho dân chúng. Ta vừa xuống phàm trần, đã gặp ngay ngươi làm việc này, lẽ ra nên giao ngươi cho sư phụ, đưa xuống âm tì, đem giam vào chín tầng địa ngục. Nhưng niệm tình sư phụ ngươi đạo hạnh cao thâm, nể mặt ông ấy, lại thấy ngươi biết hối lỗi, mà việc này cũng xảy ra ngoài ý muốn của ngươi, nên ta tạm tha. Ngươi mau đi đi, tìm vợ ngươi mà đưa về nhà. Chị ta cũng là người hiền đức, thần tiên đều kính trọng. Ngươi hãy tìm nơi yên ổn cho chị ấy ở, đừng để chị ta chịu nguy hiểm nữa. Sau này, tự nhiên có người tới dìu dắt chị ấy. Giải quyết việc này ổn thỏa, ba ngày sau ngươi lại tới đây gặp ta.
Phí Trường Phòng khóc mà bái tạ, đùng phép rút đất chạy đi tìm Bạch thị.
Chỗ này dân cư cũng thưa thớt, Trường Phòng tìm một lát đã gặp được vợ. Anh ta không tiện đem chuyện vừa rồi nói với vợ, chỉ cùng vợ trở về nhà .
Phí Trường Phòng bỏ nhà đi tu từ sớm, chưa có con, mới nhận con trai ông anh làm con nối dõi chung cho hai chị. Thằng bé này chính là người mà Hà tiên cô đã gặp, khi tới hỏi thăm Trường Phòng. Nó vừa mở cửa, nói vài câu, đã đóng sập cửa lại. Chừng lớn lên, nó kết giao với những kẻ phỉ đồ, làm những việc vô phép vô tắc Không bao lâu, bao nhiêu gia sản sạch bách vì cờ bạc, cha mẹ nó lo buồn thành bệnh, theo nhau qua đời. Vợ Phí Trường Phòng à Bạch thị, tuổi tuy không còn nhỏ, nhưng vẫn giữ được nét phong vận. Lúc Trường Phòng còn ở nhà, vợ chồng yêu đương khăng khít. Chừng anh ta đi rồi, bạn bè nhiều người khuyên chị không nên để lỡ tuổi xuân hãy chọn một người tử tế mà gửi thân, hầu nhờ cậy lúc tuổi già. Bạch thị thề thủ tiết, quyết không đổi ý. Vì thế, người địa phương ai cũng khen ngợi, kính phục. Chẳng dè thằng con nối dõi chung, sau khi bán sạch gia tư, không hiểu nghe ai xúi bẩy, nói với nó rằng bà mẹ kế của nó tuy đã lớn tuổi, vẫn còn nhiều nét phong vận, đẹp hơn các cô nương còn trẻ: "Nay cậu ngày ngày lo chuyện nghèo khó, sao không đem bà ta làm mồi nhử, lừa gạt người khác, đổi lấy tiền bạc mà chi tiêu ?". Thằng con đó lúc đầu không dám tán đồng, sau vì khốn cùng, nghĩ mãi không ra một phương pháp nào kiếm ra tiền, mới chạy tới một sòng bạc, mượn một số tiền để đánh bạc, đem mẹ mình ra làm bảo đảm, tính rằng một nước bạc là thắng ngay, có đủ tiền sống đỡ qua ngày. Khi đó sẽ rửa tay, không dính vào cờ bạc nữa. Trời nào tựa kẻ bất lương, số tiền mượn để đánh bạc thua sạch, còn mắc nợ thêm một số tiền lớn, đành viết giấy nợ làm bằng chứng, hẹn kỳ phải trả. Bấy giờ, vùng đất Hàm Dương tuy trải qua nạn binh lửa, nhưng từ xưa vốn là nơi kiến đô của nhiều triều đại, chỉ sau một thời gian ngắn, dân chúng khắp nơi đổ về, lại thành một nơi thị tứ náo nhiệt. Ở đó lại có nhiều nhà thanh lâu, cung cấp cho các vương tôn, công tử một chốn mua cười, truy hoan. Bạch thị có dung mạo xinh đẹp, người địa phương xưng tụng là hoa khôi từ lâu. Vì thế thằng con nối dõi chung có ý đem bán chị ta đi, mới liên lạc với một nhà thanh lâu, cho được giá cao. Quả nhiên vừa ngỏ lời, chưa đầy hai ngày đã có một nhà thanh lâu chịu bỏ ra ba trăm lạng bạc, mua Bạch thị về làm xướng nữ. Thằng con nối dõi sợ Bạch thị không đáp ứng, mới bàn với một đám vô lại, lập mưu kéo tới nhà gây ầm ĩ, nói với con trai chị ra ngoài, phạm tội nặng, đã bị bắt đưa lên quan, nay bắt luôn người mẹ, đưa lên công đường. Bạch thị là đàn bà, không biết gì quả nhiên bị chúng dọa nạt, phải đi theo chúng. Chị vừa bước ra khỏi cổng nhà, bọn vô lại liền dở ngay thủ đoạn khinh bạc.
Chúng từng nghe Bạch thị có tiếng xinh đẹp ngày thường muốn nhìn mặt cũng không dễ dàng gì. Nay chị đã lạc vào thanh lâu, gặp cơ hội hiếm có này, sao chẳng tìm thú vui ? Ngàn vạn lần chúng không thể ngờ được đúng lúc đó Phí Trường Phòng trở về nhà, đường hẹp gặp nhau, gây ra một vụ án lớn.
Phí Trường Phòng hỏi rõ tình cảnh gia đình, khó xử vô cùng.
Thằng con bất tiếu, sau khi gây họa, nghe biết thúc thúc đã trở lại nhà. Không dám về gặp mặt. Trường Phòng đang lúc buồn bã, hối hận, còn lòng dạ nào mà trách mắng nó, nhưng đối với nó cũng không thể không đề phòng. Hai tên vô lại, sau khi thoát chết, trốn chui trốn lủi, chẳng dám ló mặt. Trong lúc đó, lại nghe tin : "Quan trên đã được viên đình trưởng địa phương báo cáo rằng vừa phát sinh một vụ án lớn, một lúc giết mười mạng người, đã phái người đi điều tra, bắt cho được hung thủ về biện án". Phí Trường Phòng tự nghĩ : "Lúc mình giết người, chẳng ai trông thấy, là vì chỗ đó rất vắng vẻ, ít người lui tới. Chỉ sợ thằng con còn mang dạ hiểm độc nghe người ta xúi bẩy, đứng nguyên đơn tố cáo, mình không tránh khỏi lên quan. Tự mình trốn đi, lại sợ để họa cho Bạch thị".
Qua hai ngày, Phí Trường Phòng đi đến quyết định sẽ đi tìm sư phụ, nói rõ việc mình gây họa, bị Nhị Lang trách cứ, kể rõ tình thực, xin sư phụ cho một biện pháp giải quyết.
Chính lúc định bước ra khỏi cửa, chợt nghe trên không trung có tiếng người nói, Phí Trường Phòng vội tới chỗ hành lang, ngửng đầu nhìn lên, thấy một đạo nhân quê, từ trên trời giáng xuống, chẳng phải ai khác, mà là sư phụ, Thiết Quài tiên sinh. Trường Phòng vừa cảm động, vừa sợ hãi, phục xuống đất, hô to :
- Trước mặt sư tôn, đệ tử xin thú tội. Đệ tử nay đã là tội nhân trong Đạo giáo, chẳng dám nhìn mặt sư tôn, chỉ xin sư tôn trách phạt thật nặng, để đệ tử được giảm nhẹ tội lỗi.
Thiết Quài tiên sinh thấy học trò nhận tội, không biết phải làm gì. Bạch thị đang ở trong phòng, làm việc nhà, nghe tiếng chồng nói, vội nhòm qua khe cửa, thấy chồng đang quì trước một đạo nhân què, biết ngay đó là sư phụ của chồng mình, vội bỏ dở việc nữ công, chạy ra ngoài, quì xuống bên chồng, tự xưng : "Con là Bạch thị, vợ của môn sinh họ Phí, khấu kiến sư tôn, chúc sư tôn tiên thọ vô cương !".
Thiết Quài tiên sinh lúc đầu thấy Phí Trường Phòng quì gối, ngó lơ chỗ khác, đến chừng thấy Bạch thị quì xuống bên chồng, vội đỡ dậy, nói :
- Phu nhân là bậc hiền phụ, khổ tiết đáng kính, bần đạo không dám nhận đại lễ ấy đâu. Mời đứng dậy.
Bạch thị thấy chồng vẫn quì dài, biết rằng việc này do lỗi của chồng mình giết người mà ra, cũng khấu đầu năn nỉ thay chồng, không chịu đứng dậy. Thiết Quài tiên sinh mỉm cười, vẫy tay :
- Cả hai hãy đứng lên, chúng ta bàn chuyện.
Bấy giờ vợ chồng mới dám đứng dậy, đừng hầu một bên, nghe pháp chỉ. Thiết Quài tiên sinh thở dài, nói :
- Việc này cũng có số định trước. Ngươi tuy đã nén nhịn, vẫn chưa dằn được cơn tức, đó là tách rời con đường vào đạo, càng lúc càng xa. Nhị lang là vị thần chính trực, nóng tính, giàu lòng nghĩa hiệp. Vừa rồi, ta đã gặp ông ấy, bàn tính cách giải quyết công việc của ngươi. Xét vì ngươi làm việc này là do vô tình, lại thương thân phận vợ ngươi, ông ấy đã quyết định cho ngươi làm một chức quan, chuyên quản lý những quỉ dữ. Ngươi vẫn sống trên dương gian, nhưng có thể xuống âm ti làm việc sai dịch. Hiện nay, đời đang loạn to, hồn ma phiêu dạt khắp nơi, không nơi nương tựa. Trong đám đó có người yếu, kẻ mạnh, người yếu bị kẻ mạnh ăn hiếp. Thân đã làm cô hồn còn bị như vậy, thật đáng thương. Phải ngăn chặn, không để họ chịu áp chế nữa. Ngươi phải tra xét sự tình cho rõ, lấy công đạo mà bảo vệ họ. Ngoài ra, lại có những con quỉ khinh nhờn người sống, làm hại dân lành, càng nên khu trừ. Nói chung là tất cả những việc gì liên quan tới du hồn, chưa được âm ti thẩm tra, đều do ngươi quản lý. Ngươi phải giải quyết công việc thật chính trực, công bình, khiến trên đời không còn oan hồn, người ta không ai bị quỉ quấy nhiễu. Đó là công lớn nhất của ngươi, có thể đem chuộc tội lỗi hôm nay. Nếu ngươi lợi dụng quyền lực, ỷ vào đạo pháp để áp chế quỉ, khinh nhờn người, thì lúc đó hai tội dồn một, ngươi sẽ bị sét đánh, và cũng không thoát khỏi thần kiếm của Nhị lang đâu.
Trường Phòng nghe dạy, khóc mà vâng chỉ, thề sẽ không dám có sai lầm lần nữa.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 20.07.2008 12:19:49
Hồi Thứ 54

Phí Trường Phòng vâng chỉ trị quỉ
Huyền Châu Tử nhận chức, đề phòng giao long.

PhíTrường Phòng được quản lý việc ma quỉ, thề không mắc lỗi lầm, đem hết tâm trí ra lo công việc, để lập công chuộc tội.
Thiết Quài tiên sinh mỉm cười, gật đầu, nói :
- Phải vậy mới được ! Phải vậy mới được !
Liền lấy trong tay áo ra một cuốn bùa chú trị quĩ, trao cho Trường Phòng, nói :
- Đây là phần nông cạn nhất trong Huyền kinh ba cuốn. Tuy rằng nông cạn, không phải ai cũng học được, mà tâm trí thô thiển cũng không luyện tập được. Ngươi thông minh xuất chúng, học tập chắc là không khó, nhưng không được tùy tiện truyền cho người khác, mà mắc tội với trời. Cuối cuốn sách còn có một chương, dạy cách chế tạo binh khí để chế phục quỉ quái. Ngươi hãy đẽo lấy một thanh kiếm gỗ đào, án theo trong sách mà luyện, có thể trù diệt quỉ dữ, trấn áp quái bướng bỉnh.
Phí Trường Phòng lại vái mà nhận lãnh. Thiết Quài tiên sinh nói tiếp :
- Ta vốn biết ngươi không có tiên duyên, nhưng vì ngươi năn nỉ quá, ta cũng mong có thể vãn hồi mệnh vận, toàn thành cho ngươi.
Không ngờ sức người không thắng nổi trời, mới xảy ra việc hôm nay. Hiện giờ, tạm bố trí ngươi vào chức này, để ngươi có cơ hội lập công chuộc tội. Trong số mười người bị ngươi giết có nhiều kẻ chịu oan khuất, chết ra ma, oán khí không tan. Ngươi đạo lực yếu ớt, không đủ nhiếp phục chúng. Nếu chúng cấu kết với nhau, tìm ngươi để trả thù, ngươi cũng không chế ngự được chúng. Nay ngươi có chức quyền, bọn chúng đều ở dưới sự cai quản của ngươi, sẽ không dám nghĩ tới chuyện phục thù nữa. Nhưng người tiên làm việc gì cũng dựa vào công bằng, sao có thể cậy thế lực, ức hiếp người khác ? Vợ chồng ngươi phải làm lễ cầu siêu, giải thoát cho chúng, để chúng hàm ân, không thù oán hai ngươi nữa. Đó là điều khẩn yếu nhất.
Hai người nghe nói, dập đầu tuân mệnh. Thiết Quài tiên sinh lại nói :
- Trường Phòng, đây là cơ hội cuối cho ngươi lập công. Ngươi tuy thề thốt rành mạch, ta vẫn sợ ngày lâu, sự tình thay đổi, nếu ngươi không cẩn thận để ý, lại mắc họa lớn. Mong ngươi để tâm từng phút từng giây, không quên những lời ta nói hôm nay.
Nói rồi, lại ngừng một lát, nói tiếp :
- Theo ta ước đoán, ngươi có thể giữ đạo tâm chuyên nhất, trước sau không đổi, giả sử kiếp này không thành công, kiếp sau cũng có hy vọng. Trong vòng vài trăm năm, chưa có thành tựu lớn nhưng một ngàn năm sau, ắt siêu sinh thiên phủ, đứng vào tiên ban. Nếu ngươi giữa đường thay lòng đổi dạ, hoặc làm việc gì cực ác ta sẽ đoạt lấy lộc vị của ngươi đi. Ngươi cũng nên phóng tâm, cố gắng phấn đấu trên bước đường tu đạo, chẳng cần phải tự oán trách, đau khổ, mà chán nản, thất vọng.
Phí Trường Phòng xin vâng lời, nói :
¬- Đệ tử quyết tâm tuân theo lời dạy quí báu của sư tôn. Còn việc phải mất bao nhiêu năm tháng mới thành công, đệ tử cũng không bận tâm. Đệ tử quyết không bao giờ chán nản, mệt mỏi.
Thiết Quài tiên sinh mỉm cười, tỏ ý hài lòng. Bạch thị thấy chồng nói xong, tiến lại, cúi đầu lạy, hỏi tiền trình của mình. Thiết Quài tiên sinh cười, nói :
- Chị kiếp trước chẳng phải người không có tiếng tăm, mà là một vương phi ở thời Chiến Quốc, chuyển kiếp đầu thai. Chẳng bao lâu nghiệp mãn, lại trở về chốn cũ, chuyển kiếp làm đàn ông, rất đáng chúc mừng. Đó là do chị khổ tiết ở kiếp này tạo nên kết quả đẹp đẽ không liên quan gì tới mệnh số.
Tiên sinh nói xong, lại dặn dò :
- Hai người hãy đi kiếm thằng con nối dõi. Nó đã biết hối lỗi rồi đó. Trước khi tới đây, ta đã bảo Hà sư thúc đi tìm nó, khuyên nó làm điều thiện. Chỉ trong một hai, ngày nhất định nó sẽ về, chịu tội với hai người. Từ nay, cả nhà được đoàn tụ, hưởng những ngày tốt đẹp. Ta đi đây !
Tiên sinh nói xong, một luồng kim quang xuất hiện, hương thơm tỏa ngát khắp phòng, Thiết Quài tiên sinh dùng phép độn thổ, rời khỏi nhà họ Phí.
Thiết Quài bay lên không trung, vừa may gặp được Nhị lang.
Hai vị tiên vòng tay chào nhau. Thiết Quài tiên sinh ngỏ lời cảm ơn
Nhị lang đã chu toàn cho Phí Trường Phòng, Nhị lang cả cười, nói :
- Chúng ta đều như nhau, luôn luôn có ý tài bồi cho kẻ hậu bối, khuyên người ta làm việc tốt. Học trò ông tức là học trò tôi. Cần gì phải tạ ơn ? Đợi tới kỳ hạn ba ngày, anh ấy tới gặp tôi, tôi sẽ khuyên nhủ anh vài câu. Chỉ sợ anh ta khó dứt bỏ được tính nóng nẩy, sau cùng sẽ bị quỉ mê hoặc.
Thiết Quài tiên sinh cười, nói :
- Trị quỉ mà bị quỉ mê hoặc, cũng là chuyện có thể xảy ra. Tuy nhiên, tôi thấy anh này có chút tài năng, nếu biết chuyên cần tu luyện, có thể thành công một phần nào. Bảy trăm năm sau, mới trải qua một lần chết. Lại tu thêm năm trăm năm nữa, được chuyển sinh vào nhà quyền quí, có thể siêu phàm nhập thánh.
- Nếu vậy thì tốt. Nghe nói chân chúa Lưu Bang say rượu, đi trong đường núi, Tần hoàng nhập hồn vào thân mãng xà, tính nuốt ông ta. May có một đạo nhân giúp đỡ, âm thầm thi thố pháp lực khiến con trăn mềm nhũn, không thể cử động, nhân đó bị Lưu Bang chém một nhát kiếm, đứt làm hai khúc. Lại nghe đâu đạo nhân đó có tên là Trương Quả. Tôi chưa từng nghe trong giới của ông có người nào có tên gọi đó. Không lẽ đó là người mới đắc đạo, nhận lãnh trách nhiệm, lập được công lớn ấy ?
Thiết Quài mới kể lai lịch Trương Quả, và việc anh ta vâng lệnh thầy đi chém rắn, nói sơ lược một hồi. Nhị lang vỗ tay, nói :
- Thì ra Trương Quả kiếp trước là con dơi ở Quán Khẩu. Nói ra tôi mới biết anh ta đã từng là người dưới quyền cai trị của tôi. Người ấy tính tình rất tốt. Nhưng tôi cũng chưa rõ vì sao anh ta quen biết với lão long ở Quán Khẩu, và vì sao lại bị một con giao long gây sự, làm náo loạn cả lên, báo hại tôi phải lên xuống thiên đình mấy lượt, rồi lại dẫn binh xuống hạ giới một lần. Việc này không liên quan tới Trương Quả, nhưng nguyên nhân ban đầu cũng bởi anh ấy mà ra. Không dè người đó lại có tiến bộ lớn như vậy.
Nhị lang nói rồi, lại hỏi Thiết Quài tiên sinh hiện giờ định đi đâu. Tiên sinh chưa kịp đáp, chợt thấy một đám mây sắc tía từ hướng Bắc bay nhanh tới. Nhị lang ngửng nhìn thấy, đưa tay vẫy, đám mây liền ngừng lại. Trên mây có một viên quan đang đứng, dung mạo xinh đẹp, cặp mắt long lanh. Nhị lang vừa vẫy gọi, vừa cười nói với Thiết Quài tiên sinh :
- Để tôi giới thiệu cho hai vị làm quen. Vị này là Huyền Châu Tử, hiện giữ chức bí thư lang ở Linh Tiêu bảo điện. Đại khái Lý sư huynh chưa biết mặt ông này, nhưng có nghe danh rồi chứ ?
Nói rồi, lại đem lai lịch Thiết Quài tiên sinh, nói cho Huyền Châu Tử nghe. Hai vị tiên nói vài câu khách sáo, Nhị lang lại nói:
- Thần tiên không câu nệ tiểu tiết, hai vị lại nhiễm thói tục như thế, là nghĩa làm sao ?
Hai vị tiên cười, nói :
- Nhị lang vốn tính ngay thẳng, dứt khoát, đến nay tính nết đó vẫn không thay đổi chút nào.
- Sinh ra, tính nết đã thế, làm sao thay đổi ? Xin hỏi Huyền Châu tiên sinh từ đâu tới, tính đi đâu, mà vội vã, hấp tấp như thế? Và vì sao không xòe đôi cánh rộng mà bay cho mau (l), lại thích nhởn nhơ trên đường mây ?
Huyền Châu Tử thấy Nhị lang nói toạc bản lai diện mục của mình ra, mà Thiết Quài lộ vẻ ngơ ngác, không hiểu, vội nói :
- Nhị lang đừng nói linh tinh. Tiểu đệ phụng chỉ đi tra xét về yêu khí ở sông Tiền Đường. Nghe nói có con giao long to lớn, từ Tây Hải trốn qua, ẩn mình ở cửa biển, chẳng bao lâu sẽ ứng kiếp mà sinh, quấy nhiễu địa phương. Vì thế, Ngọc đế đặc biệt phái tiểu đệ tới điều tra việc này, lập một chốt chặn ở địa phương Hải Ninh, ngăn ngừa mối họa giao long, che chở cho dân chúng.
- Nói ra mới biết, đạo huynh vừa chịu ân sủng của Ngọc đế, bổ nhiệm trọng trách nơi đây. Đáng chúc mừng!
Huyền Châu Tử vội ngỏ lời cảm ơn, nói :
- Không dám nhận, mà còn đang muốn thỉnh giáo Nhị lang nữa đây. Tiểu đệ vừa mới tới chỗ nhậm, chưa biết tí gì về địa phương này, rất sợ làm hỏng việc công, để hại cho ngàn vạn dân lành. May gặp Nhị lang, xin đừng tiếc công chỉ giáo, để tránh được tai họa, thì thật may mắn.
-----------------------------------------------
 (1) Huyền Châu Tử là con hạc trắng, tu thành tiên thể, tức Bạch hạc đồng tử, học trò của Nam Cực tiên ông, môn đồ của Nguyên Thủy thiên tôn.

Nhị lang nghe vậy, đưa tay ngăn cản Huyền Châu Tử, rồi chỉ vào Thiết Quài tiên sinh, cất tiếng cười ha hả, nói :
- Tôi chỉ là một kẻ võ biền, tuy ở hạ giới đã lâu năm, có biết được chuyện gì đâu. Hiện có một vị học rộng, nghe nhiều, là Thiết Quài tiên sinh đây, sao không bàn bạc với ông ấy, lại đi hỏi một thằng mù ?
Thiết Quài tiên sinh không dè Nhị lang lại lôi kéo mình vào chuyện này, bất giác đỏ mặt, vội nói lời khiêm tốn :
- Đạo hữu đừng nên nghe Nhị lang nói nhăng. Ông ấy là vị chính thần, cai quản đất này đã lâu năm, lại nói là không rành chuyện đời, quả là khiêm tốn không trúng cách. Lại còn đề cử tôi, là một kẻ mới nhập đạo môn, một hậu sinh tiểu tử chưa rành lẽ huyền ảo, thì rõ ràng là ông ấy đùa cợt, đem tôi và đạo hữu ra làm trò hề đấy.
Huyền Châu Tử rất tin lời nói của Nhị lang, vội lên tiếng :
- Đạo hữu đừng quá khiêm tốn. Nhị lang với tôi quen biết đã lâu, tiểu đệ hiểu rõ tính nết ông ấy, khôi hài thì thật khôi hài, mà gặp chuyện đứng đắn, lại giải quyết theo kiểu đàng hoàng, quyết không có ý chọc cười đâu. Còn về bản thân ông ấy, gần gũi với dân chúng đã lâu, kinh nghiệm tất nhiên là rất phong phú, nhưng ông ấy ở tít bên trời Tây, theo chúng ta thấy, cũng mới tới đây chừng nửa ngày thôi. Sau này, nếu có chỗ nghi nan, không rõ, tôi sẽ tới Quán Khẩu quấy rầy ông ấy, ở lì chừng hai ba ngày. Lúc đó, nếu ông ta làm mặt lạnh nhạt, đối xử khắc bạc, tôi sẽ triệu tập bạn bè khắp ba cõi, mở đại hội thảo luận, phê bình ông ta. Nếu không phá nát được hang ổ của ông ta ở Quán Khẩu, chớ kể tôi là tay có bản lãnh. Còn hiện giờ, ông ấy đang mắc công vụ, tiểu đệ cũng chẳng dám nói nhiều, sợ rằng mai mốt ông ấy làm lỡ việc, lại không chịu nhận lỗi, mà chỉ vào tiểu đệ, nói : "Tất cả chỉ vì Huyền Châu Tử làm hỏng việc công của tôi đấy thôi".
Nhị lang nghe nói, chỉ mặt Huyền Châu Tử, mắng :
- Được, được. Ngươi mới là kẻ đối xử khắc bạc với anh em, lại nói anh em làm mặt lạnh nhạt, khắc bạc với mình. Được lắm, ngươi đã nói ta làm hỏng việc công, ta cứ ở lì trong miếu nhỏ tại Quán Khẩu, hàng ngày cầu trời khấn đất, cho ngươi làm việc gì cũng nát bét, đáng tội ngươi độc miệng nói xấu người khác.
Hai người chỉ mải nghĩ chuyện chọc phá lẫn nhau, khiến Thiết Quài rất lo lắng. ông chợt biến đổi sắc mặt, nghĩ thầm : "Hai tiên bản thân là chính thần, lại mang trọng trách bên mình, có muốn đùa giỡn thì đem việc khác mà nói, sao lại rủa nhau làm hỏng việc công như thế ? Chuyện đó đâu có thể đem ra mà đùa cợt được.
Nghĩ rồi, lại âm thầm chiếm một quẻ, trong lòng đã hiểu được phân nửa sự tình, biết rằng Nhị lang sau này vì một lời nói giỡn mà mất thể diện, Huyền Châu Tử mắc phải vạ lớn. Biết vậy, ông không khỏi động lòng thương cho hai người. Nhưng đây là việc thiên cơ, không tiện nói ra, tiên sinh mới tìm lời khuyên giải hai người :
- Chúng ta mấy khi đã được gặp nhau, tiểu đệ có ý mời hai vị lên núi Hoa sơn một chuyến. Ở đó đã có bọn trẻ trông coi động phủ, và nơi đó tuy nhỏ, nhưng khá thanh nhã, tiểu đệ sẽ hái quả ngon trên núi đãi hai vị, cho trọn nghĩa chủ nhà. Hai vị nghĩ sao ?
Hai vị tiên vội từ tạ, nói :
- Công vụ bên mình, không dám bỏ phế. Đợi khi xong việc, trở về thiên đình, chúng tôi nhất định sẽ tới bảo sơn quấy rầy.
Thiết Quài tiên sinh là một người rất nhiệt tâm trong đám thần tiên, vì nghe hai người nói câu bất tường, mới mời hai người lên chơi Hoa sơn, tìm dịp nói mí vài câu, nếu không tránh khỏi số trời chăng nữa, cũng biết cảnh giới, chỉ cầu giảm được một phần tai họa, là tiên sinh đã trọn nghĩa bạn bè rồi. Chẳng dè hai vị tiên đều lấy cớ bận công vụ, chẳng chịu đi, tiên sinh đành bỏ qua.
Huyền Châu Tử lại nói với Thiết Quài tiên sinh :
- Tuy mới gặp một lần đầu, tiểu đệ đã ngưỡng mộ danh tiếng đạo huynh từ lâu, đã từng nghe nói tổ sư đem ba cuốn Thái Khung Huyền kinh trao cho đạo huynh. Ông xuất thế trễ nhất, mà có phúc mệnh rất cao, vừa nhập đạo môn đã được truyền thụ cuốn kinh đó, đủ thấy đạo huynh có tài, có đức. Nay độc giao đang mặc sức làm ác, nếu không phải người có tài học và đạo đức chân chính, e rằng không chế ngự nổi nó. Lúc mới nhận lệnh Ngọc đế, tiểu đệ run sợ, đã mấy lần xin từ chức. Nhưng Ngọc đế khẩn thiết yêu cầu, tiểu đệ không chối nổi, đành bấm gan đi một chuyến thử xem, chưa biết đây là họa hay là phúc. Nay may mắn gặp gỡ đạo hữu, tiểu đệ cầu mong ông nhủ lòng thương tới ngàn vạn sinh dân đất Chiết, mà chỉ bảo cho tiểu đệ phương pháp chế ngự giao long.
Nhị lang nghe vậy, liền cười lớn tiếng, nói :
- Thiết Quài tiên sinh nghe rồi nhé. Người ta khẩn thiết cầu mong ông, ông còn khách sáo được nữa không ? Tôi cũng không rảnh mà tìm hiểu hai ông giao thiệp với nhau ra sao, để giải quyết chuyện này. Tôi phải đi đây. Đợi chừng nào Huyền Châu đạo huynh nhậm chức, tôi sẽ tới chúc mừng.
Nói rồi, chắp tay chào hai vị tiên, tung mình nhảy lên không trung, hướng về phía Tây mà chạy đi, giây lát biến mất. Thiết Quài tiên sinh mới nói với Huyền Châu Tử :
- Đạo hữu đã có lòng hỏi tới, có thể nói là không thẹn hỏi người dưới. Tiểu đệ biết được điều gì, tất nhiên phải thành thật báo cáo.
Châu Huyền Tử mừng rỡ, nói :
- Đạo huynh đã đồng ý chỉ bảo, tiểu đệ vô cùng cảm kích.
- Đạo huynh hãy yên tâm, tiểu đệ không thất tín đâu. Vả lại, con độc giao mà đạo huynh nói tới, tiểu đệ biết khá rõ. Nếu quả thật nó xuất đầu quậy phá, tiểu đệ sẽ đem lai lịch của con súc sinh này, cùng với phương pháp chế ngự nó, nói thật cặn kẽ cho đạo huynh biết, quyết không để đạo huynh gặp phải khó khăn.
- Tiểu đệ lần đầu ra trị nhậm cõi ngoài, thường lo lắng, chỉ sợ lầm lỡ công việc, gây họa cho dân. Nay được đạo huynh đồng ý giúp đỡ, tiểu đệ mới được yên tâm.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 20.07.2008 13:06:04
Hồi Thứ 55

Để phòng hậu hoạn, thu gom thủy triều
Hiểu rõ kiếp trước, chỉnh sửa mộng đời.


Huyền Châu Tử nhận lời Thiết Quài tiên sinh chỉ bảo, yên tâm đi Đông Hải nhậm chức.
Nguyên lão giao ở Quán Khẩu, sau lần thất bại ở Hoài Hải, đã tới cửa sông Tiền Đường, có ý đồ công phá đập nước đón rồng, chiếm cứ chỗ cửa biển đó, tự lập làm vua. Mưu đồ không kín, bị quan tuần hải ở Đông Hải nghe được phong thanh, bẩm báo với long vương. Phe đảng của lão giao rất đông, lại có Ma giáo giáo chủ lên tiếng nâng đỡ, nên vợ chồng long vương tỏ ra rất thận trọng. Vả lại, mộ của bà mẹ vương phi chôn ở chỗ đó, một khi lão giao đắc chí, tất nhiên phải mưu đồ báo phục, rửa mối hận thất bại ở Quán Khẩu, cũng như ở thôn Hoài Hải sau đó. Trước hết, chúng sẽ phá hoại ngôi mộ của bà mẹ vương phi. Vì thế, vương phi đích thân tuyển lựa, chọn ra được mười vạn thần binh hải tộc, suất lĩnh bốn vị thái tử, cùng các đại thần tướng, chia quân trấn giữ cửa biển. Lão giao thấy long vương phòng bị nghiêm ngặt, biết rằng kế không thành, mới quất mạnh đuôi giao long, hướng về phía bờ biển mà quét, khiến cho sóng lớn nổi lên, cao vạn trượng, đổ ập xuống ruộng vườn, nhà cửa của dân, cuốn trôi trâu bò, ngựa và người, không biết bao nhiêu mà kể. Sau việc này, long vương bẩm báo lên thiên đình, Ngọc đế giáng chỉ, phái Huyền Châu Tử xuống hạ giới điều tra cho rõ. Tức thì ở địa phận Hải Ninh, nhờ thổ địa báo mộng cho dân, thiết lập miếu thờ Trấn Giao Tĩnh Hải (l) tiên quân. Sau khi Huyền Châu Tử nhậm chức, đã hai lần xuống biển, cùng vợ chồng và các con trai của long vương bàn bạc cách giữ gìn vùng biển đất Chiết. Lại nhờ Huyền Châu Tử tâu lên thiên đình, điều khiển binh tướng tới đóng chốt chặn ở gần miếu vũ, và long vương cũng phái hải binh tới phòng thủ ở những nơi hiểm yếu.
-----------------------------------------  
(1) Trấn áp giao long, giữ biển yên tĩnh.

Nguyên nước thủy triều ở Chiết Giang nổi lên rất lớn, là vì chỗ cửa biển nằm giữa hai vách núi cao ngất, mà miền thượng lưu sông Tiền Đường có địa thế cao hơn vùng hạ lưu rất nhiều, tạo thành những đợt triều cường rất lớn. Trước khi Huyền Châu tử tới trấn nhậm Hải Ninh, nước thủy triều ở khắp vùng đất này đã dâng lên rất cao. Huyền Châu Tử vì muốn đề phòng lão giao có thể bơi theo dòng nước thủy triều mà xâm nhập vào đất liền, mới bàn bạc với long vương, đạt giấy mời tới các vị tiên quân cai quản mặt trời, mặt trăng và tinh tú, cùng thi triển pháp lực, hút cho nước biển rút xuống, ngang bằng với mực nước ở Hải Ninh.
Từ sau khi thi hành pháp thuật, nước thủy triều đã lên xuống đều đặn. Nhưng mỗi khi nước lên, Huyền Châu tử lại phái các thần binh tới bờ biển, đứng trên không trung, nhìn ra khắp nơi, xa và gần, hễ thấy hải yêu tác quái, lập tức chế phục.
Lão giao tu luyện đã hơn ngàn năm, nhưng hắn không làm được việc gì tốt chỉ biết tranh cường, đoạt thế, lập mưu hãm hại người. Hơn một ngàn năm đầu tiên, hắn tiến bộ rất mau, lúc này đã có thể biến hóa tùy theo ý mình. Sau đó, hắn không tăng thêm một chút bản lãnh nào, đã đến thời kỳ thoái hóa. Lão giao không luyện tập để tiến lên nữa, mà hàng ngày kết giao với một bọn yêu tinh, xưng hùng xưng bá. Ngày lâu, càng thêm kiêu căng, cho rằng trên đời không có ai mạnh hơn chúng. Từ khi đại náo thôn Hoài Hải, thất bại chua cay ở chốn bạng cung, lão giao rút về, tạm ẩn mình dưới đáy biển, lâu tới một ngàn năm nữa. Đến đây, thói cũ lại manh nha, dã tâm bột phát, hắn mới chiếm cứ chỗ sông Tiền Đường, tính lập một tiểu triều đình, nhưng lượng nước ở cửa sông không lớn lắm, phần lớn là nông cạn. Vì thế xác thân to lớn của lão giao không thể an cư. Hắn mới lợi dụng những khi nước thủy triều dâng cao để ra vào. Nay bị Huyền Châu Tử hội ý với long vương, mời được các tinh chủ thi triển pháp lực, hút nước thủy triều, gom về dưới biển, lại sai thần binh trấn giữ các nơi, khiến lão giao không có chỗ dung thân. Hắn hận Huyền Châu Tử lắm, mới tới núi Linh Thứu, khóc mà tố cáo cùng Thông Thiên giáo chủ, xin phái binh giúp hắn trả thù. Mặt khác, hắn tạm ẩn thân dưới đáy biển, đợi chờ cơ hội, làm cho Huyền Châu Tử thất điên bát đảo. Nhưng đó là chuyện sau này.
Đây nói về Lam Thái Hòa sau khi ra đời, thấm thoắt đã được mười tuổi. Từ bé, cậu đã đính hôn cùng Nguyệt Anh cô nương của nhà họ Vương, ở bên kia sông. Hai bên gia trưởng rất thân thiện nhau, không có điều gì trái ý. Cha của Lam Thái Hòa là Lam Văn, và cha của Vương Nguyệt Anh là Vương Quang, đều là những người phóng khoáng, không câu nệ tiểu tiết. Thấy con gái đã lớn, Vương Quang muốn tìm một cách nào tiện lợi cho con được học tập.
Gia đình Lam Văn đã mời được một vị tiên sinh họ Mao về dạy cho con trai. Vương Quang cũng nghĩ tới chuyện mời một ông thầy, Khốn nỗi bản thân ông ta tuy có tiếng tăm, nhưng thật tình gia đình không được sung túc, không đủ sức mời riêng một vị gia sư.
Vả lại thôn xóm ông cũng không kiếm đâu ra một vị danh sư, mà có con gái trong nhà, muốn kén thầy cũng không thể không thận trọng. Chính lúc đang tìm thầy khắp nơi mà chưa được, thì nhà họ Lam khai trương lớp học. Lam Văn đặc biệt đặt một tiệc long trọng khoản đãi ông thầy, lại mời một số vị khách bồi tiếp, đều là những nhân sĩ tai mắt ở địa phương. Vương Quang là sui gia, đồng thời là bạn thân, tự nhiên phải có mặt trong đám đó.
Trong tiệc, Vương Quang thấy Mao tiên sinh tuổi ngoài sáu mươi, râu tóc bạc trắng. Thấy ông ấy "lời trái lễ không nói, việc trái lễ không làm", đúng là một vị lão sư phẩm hạnh đoan chính, tuổi tác và đạo đức đều cao, Vương Quang tỏ lòng khâm phục. Nói chuyện với ông ta một hồi, lại bội phục ông thầy học thức uyên thâm, Vương Quang mới nảy ra một ý nghĩ, liền cười, nói với Lam Văn :
- Anh sui có hồng phúc rất lớn, mời được một vị tiên sinh thật giỏi, tiểu đệ vô cùng khâm phục. Tiểu nữ cùng tuổi với công tử đến nay đã học lõm bõm được vài năm. Tuy rằng con gái chẳng cần học nhiều, nhưng với gia thế nhà chúng ta, con gái mà không biết chữ là rất không nên. Vả lại, tiểu nữ đã hứa gả cho công tử, sau này sẽ là dâu nhà họ Lam, quí phủ là nhà thư hương lâu đời các vị tiểu thư trong nhà đều biết làm thơ, làm văn, nếu tiểu nữ không có chút học vấn, sau này về nhà chồng, đối với chị em bên chồng có chỗ không được hợp. Vì thế, tiểu đệ có ý tài bồi cho con gái, cho nó được đọc sách vài ba năm, không cầu lấy giỏi, chỉ cần hiểu thông văn lý là đủ. Ý nghĩ này nuôi dưỡng đã lâu, khổ nỗi thôn làng tôi nhỏ hẹp, thô lậu, chưa mời được một vị tiên sinh thật giỏi. Nay thấy lão sư tuổi cao, đức trọng, tài học uyên thâm, tiểu đệ rất khâm phục, mới nẩy một yêu cầu, mong anh sui chấp thuận.
- Chúng ta là bạn chí thân, có điều gì mà không thể thương lượng ? Xin cứ nói rõ, tiểu đệ sẽ nghe theo.
- Tiểu đệ muốn đưa con gái sang đây học ké. Một là tiểu đệ khỏi phải mất công tìm thầy, hai là tiểu nữ được học chung với lệnh lang, thân nhau hơn. Tuy rằng nói đã đính lương duyên, theo lệ cũ đôi vợ chồng trẻ không được gặp nhau, nhưng chúng ta là những người phóng khoáng, hà tất phải câu nệ tục cũ. Huống chi hai trẻ đều còn nhỏ tuổi, chẳng cần phải nói tới chuyện tị hiềm. Chừng một, hai năm sau, tiểu đệ tìm được thầy giỏi, chúng ta sẽ bàn tính lại, không hiểu anh sui có đáp ứng hay không ?
- Đó là việc quá tốt lẽ nào tiểu đệ lại không chấp thuận ? Chỉ sợ chị nhà thương con gái, không chịu cho rời xa dưới gối, biết xử thế nào ?
- Chỉ cần anh sui đáp ứng, sẽ chẳng có vấn đề gì đâu. Chúng ta hai nhà cách nhau không xa, nội nhân có nhớ con gái thì thỉnh thoảng qua sông sang thăm, có gì là khó khăn ?
- Nếu vậy rất tốt. Ngày mai khai giảng cũng trễ lắm rồi.
- Sáng mai, tôi sẽ sai người chuẩn bị ngựa xe, sang sông đón tiểu thư về đây.
Vương Quang mừng lắm, nhưng lại nói :
- Để tôi về bàn bạc với nội nhân, chọn một ngày lành, đưa cháu sang đây, bất tất phải tiếp đón.
Lam Văn đồng ý. Vương Quang về nhà, đem chuyện này nói với phu nhân Lưu thị. Lưu thị lúc đầu không ưng, nói :
- Chúng ta chỉ được một đứa con gái này, đã sớm hứa gả, đợi khi trưởng thành hãy đưa về nhà chồng. Hiện tại, nó hãy còn nhỏ, để mẹ con tôi hú hí với nhau vài năm, sao vội đưa nó về nhà người khác để học tập ? Đã biết người ta có chịu chiếu cố tử tế đến nó hay chưa ? Tôi còn nghe bà vợ hai nhà họ Lam là Hồ thị, là người nham hiểm, điêu ngoa, rất khó chiều. Con gái mình là đứa ngây thơ hồn nhiên, không hiểu việc đời, vạn nhất đắc tội với Hồ thị, hai bên kết oán trong lòng, sau này về nhà chồng, con gái chúng ta sẽ chịu nhiều đau khổ đấy.
Vương Quang nghe nói, không biết giải quyết việc này làm sao cho ổn thỏa. Nhưng tự mình đã mở miệng cầu xin người, nay lại không có duyên cớ chính đáng mà đổi ý, há chẳng đáng chê cười hay sao ? Vì thế, nói với Lưu thị :
- Đó là kiến thức của đàn bà. Đấy đây gần trong gang tấc, nếu bà có nhớ con gái, thì mỗi ngày có thể qua thăm nó, hà tất phải giữ rịt lấy nó, mới là mẹ con thương yêu nhau ?
Lưu thị vốn sợ chồng, không dám trái ý, mà làm tổn thương tình nghĩa vợ chồng. Suy nghĩ một lát, đành lên tiếng chấp thuận.
Hai vợ chồng chọn được ba ngày sau là ngày lành, đưa Nguyệt Anh qua sông, tới nhà họ Lam nhập học.
Nguyệt Anh tuy là còn bé, nhưng từ nhỏ tới lớn đã được chỉ bảo, biết lễ nghĩa. Năm lên bảy, cô đã theo cha học tập, biết được nhiều về thơ văn, kinh sách. Nhưng điều cô ưa thích nhất không phải ở chỗ học văn tự, mà là nghiên cứu về Đạo kinh, nhất là sách Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Lên tám, cô đã làu thông kinh sách. Đến nay lên mười, tri thức của cô thật sung mãn, đã có thể hiểu được những ý tại ngôn ngoại, thường ngày thắp hương tụng kinh, lặng yên suy nghĩ, dường như có điều đại ngộ. Vì thế tâm trí cô rất sáng suốt, nghiễm nhiên nẩy ra ý xuất thế. Mỗi khi nghĩ tới những điều đã trải trong kiếp trước, nhận thấy những điều thảm khốc đều bởi hôn nhân mà ra (l). Nay điều quan tâm thứ nhất của cô là chuyện vợ chồng, lại phải đánh phá trước nhất. Không hiểu cậu Lam Thái Hòa kia, đã cùng cô đồng kiếp, đồng sinh, hẹn nhau cùng tu đạo, mấy năm nay sống trên nhung lụa, ăn sung mặc sướng, có bị vật dục cám dỗ, mà để tính linh mờ tối hay không.
-----------------------------------
 (1) Lưu ý độc giả, kiếp trước của Vương Nguyệt Anh là nàng Mạnh Khương. N.D

Nếu cậu biến tâm, tất nhiên vì đạo làm vợ, ta không thể ép buộc cậu. Lúc đó, chỉ có thể khổ công điểm hóa, nếu cậu vẫn không quay đầu ta đành độc thiện kỳ thân, mất công đi xa, lên núi Thái Hoa, tìm sư phụ ta ở kiếp trước. Sư phụ đạo hạnh cao sâu, ắt có cách cứu cậu ta, ta có thể phóng tâm. Những ý nghĩ đó cứ vương vấn trong lòng cô, chỉ không dám nói ra trước mặt cha mẹ mà thôi. Thời thường ở chốn khuê phòng, cùng các chị em ngồi tán gẫu, những người khác có chung chí nguyện, hoặc là được người chồng giàu sang, hoặc được lang quân tài giỏi, chỉ riêng Nguyệt Anh, nhắm mắt ngồi yên, không góp một câu. Mọi người chế giễu, nói cô đã có người chồng giỏi, vừa ý cô lắm rồi, cần gì phải lo lắng ? Nguyệt Anh nghe vậy, liền cười nhạt, nói :
- Mỗi người một lòng, không ai giống ai. Chí hướng của tôi và của các chị tương phản nhau, tôi còn nói xen vào làm gì ?
-  Vậy chí hướng của cô như thế nào ?
- Người có tài, tài cao như núi, sống không quá một trăm năm, cũng mục nát với cỏ cây. Người có tiền bạc, tiền bạc như biển, qua sáu bảy chục năm, tinh thần suy thoái, có tiền cũng chẳng dùng vào việc gì. Huống chi sự đời vốn vô thường, càng nhiều tiền càng dễ chuốc lấy họa. Kiếp sống con người có hạn, nếu cứ buông thả vào trường thanh sắc lợi danh, một khi con quỉ vô thường tới, mọi chuyện đều dứt, những gì thường ngày ta tranh giành nhau, lúc đó tiêu tan, chết xuống âm phủ, có mang theo được không ? Những sự vật mà các chị em trông mong, ao ước, lại không nằm trong suy nghĩ của tôi.
Mọi người nghe vậy liền cười ầm lên, nói :
- Hỏi chí hướng của cô, cô không chịu nói, lại dựa vào câu chuyện của người khác mà phê bình mù quáng, là nghĩa lý gì ?
Nguyệt Anh gật đầu, cất tiếng thở dài, nói :
- Các chị em trách tôi phê phán mù quáng, không chịu nói rõ chí hướng của mình, chỉ vì chí hướng đó em không thể nói với các chị. Chẳng những là không thể nói ra, mà bất tất phải nói.
Mấy người kia nghe vậy, lại cười mà bỏ qua. Nguyệt Anh thấy các chị em ai cũng có tài có sức, tất nhiên đều bị lợi danh ràng buộc, mà nội lực để tự chủ chẳng có chút nào, cô càng cảm nhận rõ ràng là hai chữ "lợi danh" trên đời quả thật là những gông cùm vô hình vô ảnh, là búa rìu chặt nát tính linh, quả thật đáng sợ. Đồng thời càng lo sợ lang quân họ Lam cũng bị những sự vật ngoài thân đó mê hoặc tâm chí. Như vậy, lần nhập thế này, chẳng những không có hy vọng liễu đạo, mà còn tăng thêm một tầng ma chướng, vướng thêm một vòng kiếp nạn. Hơn nữa, còn uổng phụ ý tốt của Thiết Quài tiên sinh thành toàn cho mình, từ đó vĩnh viễn không thể nhập đạo. Mỗi khi nghĩ đến đó, cô không khỏi giật mình, lo sợ thay cho cậu. Chỉ hận mình mang tiếng là vợ, nhưng đang ở thời gian trước khi cưới, chưa thể gặp mặt cậu, để ngỏ lời khuyên nhủ, cảnh giới, chưa có cơ hội nào để nói chuyện với cậu.
Cô vốn là người tình thâm, ý chắc, đối với Thái Hòa có mối giao tình sinh tử, có quan hệ vợ chồng, lại được tiên sư xếp đặt sẵn, cho hai người đồng sinh đồng tử. Với những lý do đó, cô không thể bỏ mặc Thái Hòa, một mình đi tìm đại đạo. Vì thế, lòng cô luôn luôn khắc khoải.
Trong lúc cô đang nghĩ ngợi, không tìm ra được cách nào để giải quyết, bỗng ở trong phòng của mẹ, nghe được câu chuyện cha mẹ cô nói với nhau. Lam công tử trẻ tuổi, anh tuấn, tài học rất cao. Xem gương các vị danh thần xưa nay, có thể thấy cậu này chưa đầy hai mươi tuổi đã đứng vào hàng công khanh, việc chung thân của Nguyệt Anh nhi chẳng cần lo lắng. Lưu phu nhân rất thương yêu con gái, nghe biết chàng rể có chí làm quan, lẽ nào lại không mừng? Chợt quay đầu, thấy Nguyệt Anh đứng một bên, cúi đầu lặng yên, ra chiều suy tư, phu nhân liền cười, nói với chồng :
- Ông xem kìa, Nguyệt Anh nhi nhà ta nghe chuyện, không nói một tiếng, là nghĩa làm sao ?
Vương Quang cười lớn tiếng, nói :
- Mấy cô gái nhỏ nghe những chuyện này, cô nào cũng e thẹn !
Phu nhân kéo Nguyệt Anh lại gần, vỗ nhẹ lên má, nựng nịu, cất tiếng cười hì hì, nói :
- Con của mẹ, con đã nghe gì chưa ? Công tử nhà họ Lam có chí, có tài, tuổi còn nhỏ mà đã vượt xa những người cùng trang lứa, nhất định sẽ làm nên một vị quan to. Cậu ấy làm quan lớn, thì con sẽ là một vị thái thái, đúng không ?
Nguyệt Anh nghe mẹ nói như vậy, càng thêm rầu rĩ, không ngờ những vấn đề thường ngày mình nghĩ đến, đã thành sự thật.
Cũng không ngờ mẹ đẻ mà không hiểu lòng con gái, nói ra những lời trái tai như thế. Nhưng cô cố nén lòng mình, chỉ hơi đỏ mặt, chớp chớp hai mắt, tuôn ra mấy giọt nước mắt, khiến vợ chồng Vương Quang vô cùng kinh hãi.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 20.07.2008 13:31:18
Hồi Thứ 56

Vương tiểu thư khuyên chồng tu đạo
Hồ Cửu Cửu giúp chị làm bậy.


Nguyệt Anh chuyển kiếp làm người, tính linh không mờ tối, tuy sống trong nhung lụa, vẫn thường suy nghĩ, không quên việc tu đạo Nhưng cách tu đạo của cô không giống với người khác.
Người khác chỉ cầu độc thiện kỳ thân, cô cùng Thái Hòa có quan hệ sinh tử, nếu Thái Hòa không lên tiên, Nguyệt Anh cũng không thể một mình thành đạo. Hai người có quan hệ về lai lịch vô cùng mật thiết, đồng sinh đồng tử, cùng chuyển thai phàm một lượt, tất nhiên phải cùng nhập tiên giới. Nếu một người không thành đạo, người kia nhất định không bỏ rơi mà đi chỗ khác. Thần tiên xưa nay rất vô tình, mà cũng rất hữu tình. Chỉ có điều rằng chỗ hữu tình đó lại không lấy tình làm căn bản, nên mới càng thấy tình là đau khổ, càng nặng lòng với tình. Đó chính là nỗi lòng của Nguyệt Anh, rất buồn rầu khi nghe biết Thái Hòa bị vật dục mê hoặc, để lòng mê mẩn với lợi danh. Ở địa vị cha mẹ cô, vì mưu cầu hạnh phúc cho con gái, nay được chàng rể tốt như vậy, tự nhiên là hân hoan vô cùng. Nào ngờ Nguyệt Anh lại có hoài bão khác, đột nhiên nghe được những điều trái chí hướng của mình, càng thêm sầu khổ.
Nhất thời nóng vội, cô không ngăn được hai giòng nước mắt lã chã tuôn xuống, khiến vợ chồng Vương Quang kinh hãi quá chừng, không hiểu con gái mình nghĩ gì mà xúc động mạnh như thế. Hai ông bà cùng lên tiếng hỏi một lượt :
- Con ơi, con có điều gì khó nói ? Được người chồng như thế sao còn chưa vừa ý ?
Nguyệt Anh càng bối rối trong lòng. Nhưng xưa nay, con gái đối với việc hôn nhân, hoặc nghe nói về người chồng chưa cưới, đều e thẹn, không thể mở miệng thổ lộ lòng mình. Nguyệt Anh tính tình rất trung hậu, biết cha mẹ mình rất yêu quí Thái Hòa, khen cậu ta còn trẻ đã biết lập chí, cô không thể nói thật lòng mình khiến cha mẹ mất vui. Vì thế, cô đành làm vẻ mặt tươi cười, xin cha mẹ hãy phóng tâm. Vương Quang cười lớn tiếng, nói :
- Mấy cô gái nhỏ nghe nói tới chuyện chồng con, cô nào cũng e thẹn cả. Vậy mới ra dáng tiểu thư nhà đại gia chứ.
Phu nhân nghe vậy, cũng cho là phải. Thật tình, ông bà cũng biết Nguyệt Anh nói câu thoái thác, nhưng cứ nhận lầm là cô e thẹn, nói vài câu khuyên nhủ, để giải toả nỗi lòng con gái. Bấy giờ, trong lòng Nguyệt Anh chỉ hy vọng đợi tới ngày về nhà chồng, được cùng Thái Hòa gặp mặt, sẽ sớm chiều khuyên nhủ, đem chuyện tiền nhân hậu quả, thường thường nói chuyện với chồng.
Nếu quả thật Thái Hòa có túc tuệ, tiền duyên, nhất thời lầm lạc, ắt cũng cảm động mà hiểu ra. Chỉ cần cậu biết tỉnh ngộ, vợ chồng sẽ cùng nhau xuất gia, tìm tiên hỏi đạo, sớm dứt bỏ nghiệt căn đắc đạo lên trời. Kỳ hạn đó cũng không xa lắm đâu. Nay nghe được câu chuyện cha mẹ nói với nhau, cô nhận thấy cơ hội để khuyên nhủ Thái Hòa đã tới, Nguyệt Anh thầm mừng trong lòng phấn chấn tinh thần, đã có lúc vui vẻ, tươi cười. Đám chị em thấy vậy, lên tiếng chê cười, nói cô mới tí tuổi đầu, đã muốn bám lấy chồng, không biết hổ thẹn. Nguyệt Anh chịu oan khuất, mà không thể biện giải, đành cười mà bỏ qua.
Vợ chồng Vương Quang đã chọn được ngày lành giờ tốt, đưa Nguyệt Anh sang sông. Bên kia, cha con Lam Văn đã tính chuẩn xác thời khắc, đem ngựa và kiệu, đợi sẵn chỗ bến đò. Cặp vợ chồng trẻ mới gặp nhau, đã như thể quen biết từ lâu, quên cả thẹn thùng, tương thân tương ái. Trên đường đi, không tiện trò chuyện.
Chừng về đến nhà, Lam Thái Hòa liền đưa vợ vào bái kiến các vị trưởng bối, sau đó ra mắt các anh chị em ngang hàng. Các anh chị em này đều còn trẻ, thích nô đùa, trêu ghẹo Thái Hòa vài câu, Thái Hòa chỉ biết cười, không cãi lại câu nào. Bà mẹ Thái Hòa là Ô thị, vừa thấy nàng dâu chưa cưới, đã yêu thương khác thường, ôm cô vào lòng, coi như bảo bối. Nguyệt Anh cũng khôn khéo, biết lấy lòng cha mẹ chồng, thuận miệng gọi "Ma ma" và "Gia gia", như con gái của ông bà Lam Văn. Ô thị liền kêu Nguyệt Anh tới ngủ chung phòng với bà, đuổi Thái Hòa đi chỗ khác. Nguyệt Anh thấy cha mẹ chồng sủng ái, trong lòng rất được an ủi, chẳng nói làm gì.
Đây nói về Lam Thái Hòa, từ bé đã không quên kiếp trước. Năm tuổi bắt đầu học chữ, bảy tuổi đã làm được thơ văn. Lúc đó chí hướng của cậu cũng giống như của Nguyệt Anh, không khác chút nào, chỉ cầu tu tiên, liễu đạo, không ham danh lợi. Nhưng vì nhà họ Lam đã nhiều đời làm quan lại, các bạn thân thường lui tới cũng đều là người làm quan lại, bọn trẻ nhỏ đọc sách từ bé, đều có ý nghĩ lớn lên phải làm quan. Người lớn giáo huấn trẻ nhỏ, chẳng ai là không hy vọng bọn chúng làm quan, để vinh diệu tổ tông. Thái Hòa dầu sao cũng còn nhỏ, ở trong gia đình như thế, tất nhiên là ưa thích cách hun đúc đó, dần dần, trong lúc không ngờ tới đã thay đổi hoàn toàn ý chí ban đầu, chỉ một lòng nghĩ tới chuyện bắt chước tiền nhân, rập theo chí hướng người xưa, mới là điều tốt. Vợ chồng Lam Văn thấy con như vậy tất nhiên là vui sướng. Ô thị đem chuyện Thái Hòa lập chí ra sao, dụng công thế nào, nói hết cho Nguyệt Anh biết. Nguyệt Anh chẳng dám nói gì, còn chiều theo ý Ô thị, mà xưng tụng, khiến Ô thị mát lòng hởi dạ.
Ngay hôm đó, Nguyệt Anh nhập học. Cặp vợ chồng nhỏ cùng vào thư phòng, ngồi đối diện nhau. Mao tiên sinh là người học rộng, dạy được hai học sinh nghe một biết mười, nhìn lướt một lượt, đọc mười hàng chữ, chẳng vất vả chút nào. Hai người hàng ngày ngồi ở thư trai học tập, không xin nghỉ một buổi nào, vì thế việc học tiến bộ rất nhanh.
Nguyệt Anh lợi dụng những lúc ngoài chính khóa, đem sách đạo kinh đặt ở trên bàn, giả bộ tình cờ lật qua vài trang, cố ý đọc lên cho Thái Hòa nghe. Lúc đầu Thái Hòa cho rằng Nguyệt Anh có ý khoe tài học, không chú ý lắm. Ngày lâu, tình cảm hai bên gia tăng, không còn giữ kẽ nữa, Thái Hòa mới hỏi :
- Muội muội, sao cô ham đọc thứ Đạo thư này ?
Nguyệt Anh đã để bụng đợi sẵn câu hỏi này, liền cười, đáp :
- Chẳng lẽ ca ca quên rồi sao ! Đây là loại sách chúng ta mong đợi được đọc
Thái Hòa nghe vậy, cười rộ .
- Thì ra là vậy. Muội muội muốn nhắc nhở ta về chuyện kiếp trước chứ gì ? Một đời làm vợ chồng, vui thú đâu chưa thấy, chỉ rước lấy một kết cuộc thảm khốc. Hồi tướng lại chỉ khiến người ta đau lòng, nãn chí. Cũng may bây giờ chuyển kiếp, được gặp lại nhau, lại được tiên sư tác thành, cho làm vợ chồng, nối lại mối lương duyên, chỉ nên sống một cuộc sống sung sướng, bù đắp lại những nỗi oan khổ kiếp trước, há chẳng tuyệt diệu hay sao ? Việc gì phải mất công hướng về Đạo môn cầu lấy cách sống ? Chứng được đạo hay không, cũng chưa biết được, mà hạnh phúc một đời đã sớm đem đổ xuống sông, xuống biển, chẳng là đáng tiếc lắm sao? Không giấu gì muội muội, ngu huynh lúc đầu cũng không quên túc duyên, thường hay nghĩ tới việc xuất gia tu đạo, sau nghĩ lại đời người có hạn, chẳng nên tự chuốc lấy khổ. Nếm đau khổ còn là chuyện nhỏ, sợ nhất là chuyện tu đạo quá viển vông, vị tất đã có thể thành công. Khoan nói chuyện khác, hãy nói tới những người tu đạo xưa nay, tính ra chẳng phải ít ỏi, mà sao những người có tiếng, chúng ta ai nấy đều biết, chỉ loe ngoe vài ba mống ? Nghĩ tới đó ta liền hối ngộ những điều sai lầm ở kiếp trước, nên mới nỗ lực... học kinh truyện của thánh hiền, dự bị mai sau ra làm quan, phục vụ hoàng gia, cùng muội muội hưởng vinh hoa phú quí chốn nhân gian, há chẳng tốt đẹp hay sao ?
Nguyệt Anh vội đáp :
- Ca ca nói vậy sai rồi. Người ta sở dĩ muốn tu tiên, chính vì thấy đời người thấm thoắt qua mau, nếu có sống tới trăm năm chăng nữa, cũng chỉ như đám mây nổi, trôi qua trước mắt. Trong một trăm năm đó, bứt đầu chặt đuôi, còn được bao nhiêu thời gian để hưởng phú quí ? Làm sao có thể sánh với thần tiên vượt ra ngoài vòng trần thế, tiêu diêu tự tại, thọ ngang trời đất, tồn tại cùng mặt trời, mặt trăng ? Tuy thời gian tu đạo không tránh khỏi nếm mùi đau khổ, trải qua gian nguy, nhưng đó chỉ là thời kỳ ngắn ngủi, điều mất mát rất ít, mà điều sở đắc là không hạn chế. Còn nói rằng tu đạo khó thành, quả nhiên không sai, nhưng phải biết rằng ông trời không phụ lòng người khổ tâm bao giờ. Người không có duyên mà nhập đạo, chỉ cần khổ tâm, kiên chí, vị tất đã không thành công. Huống gì là chúng ta, những người sẵn có túc duyên, lần này đoạ phàm trần, lại được người tiên chỉ dẫn, nâng đỡ ? Nếu quả thật không có tiền duyên, tại sao tiên sư lại nhiệt tâm chiếu cố ? Điều đó cho thấy những chỗ người khác gặp khó khăn, chúng ta cũng phải trải qua, nhưng đừng ngại khó, mà càng phấn chấn tinh thần, đừng tự buông rơi mình. Ca ca nói từ xưa đến nay, những người tu thành tiên đạo rất ít, muội tử lại thấy những vị kim tiên, thiên tiên, địa tiên, quỉ tiên khắp ba cõi chẳng ít ỏi gì. Nên biết việc thành tiên sở dĩ đáng quí, chính vì tu đạo chẳng  phải dễ dàng. Nếu ai nấy đều có thể tu đạo, người nào cũng thành tiên, thì thần tiên sẽ tràn lan khắp nơi, ai còn thèm nhắc tới làm chi ? Dám xin khuyên nhủ ca ca, hãy luôn luôn nhớ tới chuyện kiếp trước, mà sớm tỉnh ngộ, đừng để phụ ý tốt của tiên sư, cùng ơn đức của Diêm vương đã chu toàn cho chúng ta.
Lam Thái Hòa nghe vậy, cất tiếng cười ha hả, nói :
- Muội muội mới thật mê lầm đó. Theo ta nghĩ, người ta đã sinh ra ở đời, bất luận là tu đạo hay không, đều phải sống một cuộc sống mạnh mẽ, oanh liệt, để thiên hạ đời sau biết tới Lam Thái Hòa ta là một nhân vật lừng lẫy, mới khỏi hoang phí một kiếp sống. Đến chừng công thành danh toại, nếu quả tiên duyên không giảm, lúc đó ta cùng muội muội khắc khổ dụng công cũng chưa muộn.
Nguyệt Anh biết Thái Hòa chìm ngập trong ma chướng đã sâu, nhất thời có mất công nói năng, cũng không cứu vãn kịp, đành phái nén lòng, từ từ đợi cơ duyên, mới có thể khuyên nhủ, cảnh giới.
Nguyệt Anh ở nhà họ Lam đọc sách, thấm thoắt đã được nửa năm. Vợ chồng Lam Văn sủng ái nàng khác thường, mà tình cảm dành cho nàng ngày càng sâu đậm, có thể còn hơn cả đối với con trai.
Bà vợ thứ của Lam Văn là Hồ thị, có một đứa con trai và một đứa con gái, cả hai đều mặt mày phèn phẹt, ngu xuẩn như heo, nên vợ chồng Lam Văn đều không yêu thương chúng lắm. Hồ thị chỉ tức tối, không biết làm sao, nói chúng cũng là con lão gia sinh ra, tại sao lại phân ra bên trọng bên khinh ? Ô phu nhân nghe được, nhưng cũng bỏ qua, mặc cho Hồ thị làm ầm ĩ một trận, rồi thôi.
Bây giờ, khi không lại xuất hiện một cô con dâu chưa cưới, được phu nhân sủng ái khác thường. Ngay cả Lam Văn cũng coi cô như ngọc báu trên tay. Tuy ông đối đãi với các con của Hồ thị trước sau như một, không vì có Nguyệt Anh vào nhà, mà tăng phần lạnh nhạt, nhưng trong con mắt Hồ thị, rõ ràng từ ngày có Nguyệt Anh, vợ chồng Lam Văn đã đối xử khắc bạc với hai con của bà ta. Vì thế, bà ta càng tức tối, ganh ghét, chịu không nổi. Lúc đầu chỉ lên tiếng bất bình sau lưng ông bà Lam Văn, sau rồi thấy ông bà bỏ qua không lý tới, bà ta càng được nước, oang oang cái miệng.
Nguyệt Anh cô nương tuổi còn trẻ, lại chuyên tâm học đạo, làm sao hiểu được đường đời hiểm ác, lòng người biến trá ? Vả lại, cô ở lì chốn thâm khuê, không đặt chân ra khỏi cổng nhà, đối với tình người, việc đời thông thường, cô đều không hiểu rõ. Từ khi tới nhà họ Lam đọc sách, trừ những lúc cùng Thái Hòa miệt mài học tập, cô chỉ giúp Ô phu nhân việc nữ công, may vá, còn đối với người khác, cô không ân cần lắm. Những người không có tâm bệnh, tuy thấy cô ít quan tâm tới người khác, cũng chỉ cho là cô có tính e thẹn, ưa tĩnh mịch, lười bắt chuyện, chứ không một ai thấy cô có điều gì xấu. Riêng có Hồ thị, vốn tính nhỏ nhen, nhìn bất cứ cử động nào của Nguyệt Anh, đều hàm ý khinh thị mẹ con bà ta, mới nghĩ : "Con bé này hiện giờ còn nhỏ, chẳng qua ở đây để học ké, bất luận thế nào cũng chỉ là một người khách, mà đã lên mặt kiêu căng, khinh người như thế, mai mốt lớn lên, về làm dâu nhà này thành cô chủ nhỏ của chúng ta, thì chẳng cần phải nói, cũng hiểu , nó sẽ thẳng tay thu thập chúng ta". Vì nuôi sẵn những ý nghĩ đó, bà ta coi Nguyệt Anh như một cái gai trước mắt. Vì Thái Hòa luôn luôn bênh vực Nguyệt Anh, bà ta căm giận lo sợ mà không biết làm sao.
Hồ thị có một người em trai là Hồ Thiên, một kẻ tiểu nhân lòng dạ hiểm ác, chuyên gây chuyện sóng gió. Trong nhà nghèo khó, tường trơ bốn vách, hắn thường phải nhờ người chị chiếu cố, lấy chút tiền đánh bạc cò con, hàng ngày ra vào sòng bạc, kiếm chút cháo. Người xưa có nói : "Nhận lộc của người, phải lo hoạn nạn cho người", Hồ Thiên đã hoàn toàn trông cậy vào chị để sinh sống, làm sao không chia sẻ nỗi lo của chị ? Huống chi hắn thường thậm thụt vào nhà họ Lam, bị vợ chồng Lam Văn khinh rẻ vô cùng. Với tình hình đó, tiền trình của bà chị và vận mệnh của cậu em đều gặp nguy hiểm khác thường. Vì thế Hồ thị coi Hồ Thiên là người chung hoạn nạn với mình, mà Hồ Thiên cũng hết lòng vì chị nghĩ ra những ý kiến, làm sao cho Thái Hòa, Nguyệt Anh, hai chủ nhân nhỏ tuổi, phải chết cùng một lượt. Khi đó, quyền hành trong gia đình sẽ lọt vào tay Hồ thị. Ô phu nhân tuy là chính thất, nhưng mất con trai, chẳng khác nào ông quan mất ấn, làm sao xử lý việc công ? Hồ Thiên lúc đó cũng nghiễm nhiên là một vị cữu cữu phụ chính. Gia tư nhà họ Lam phải chia ba, một phần lọt vào tay chị em Hồ thị. Hai chị em suy nghĩ, chỉ đợi cơ hội để ra tay.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 20.07.2008 14:17:57
Hồi Thứ 57

Cơn gia biến, cha mẹ qua đời
Cảm danh lợi, chàng rể luyến hồng trần.


Chị em Hồ thị đang bí mật bàn bạc kế sách để thu thập vợ chồng Thái Hòa, bỗng nhiên lại xảy ra một việc. Mùa hè năm đó, trời ra tai, bệnh dịch hoành hành. Ô phu nhân nhiễm bệnh trước nhất, chẳng bao lâu qua đời, không thể chiếu cố tới nàng dâu bảo bối của mình nữa. Lam Văn lúc đó cũng đã luống tuổi, lại vốn là một trưởng giả trung hậu, không nghĩ tới chuyện tục huyền, lấy bà vơ khác, có thể làm hỏng hạnh phúc của các con. Nhưng việc gia đình không thể thiếu người nội trợ, nên quyền hành trong nhà, vô hình trung, lọt vào tay Hồ thị. Hồ thị có nằm mơ cũng không thể nghĩ tới phúc phận lớn đến thế. Trong lúc đang vui mừng đắc ý, thì ông Hồ cữu cữu mới được phong chức tước, Hồ Thiên lại nẩy ra một ý kiến, nói với chị :
- Tỉ tỉ, hiện giờ chị vừa được nắm chút quyền bính, nhưng chỉ là nhất thời. Vả lại, đó cũng chưa phải là chức quyền chính thức, chẳng qua chỉ như một phổ ky già trong quán ăn, việc kinh doanh bỗng khiếm khuyết một người, chưa có ai thay thế để lo công việc, mới tạm đem anh phổ ky già đôn lên, vì anh ta đã quen với tình hình trong quán. Nói cho rõ ra, chị đang ở nhà này làm một bà vợ nhỏ , chiếu theo địa vị đó , thật tình chẳng cao hơn đám gia nhân nam nữ bao nhiêu, nay được đôn lên địa vị cao ai mà chẳng sợ chị, chẳng kính trọng chị thêm vài phần, chẳng tìm cách lấy lòng chị ?
Nhưng vạn nhất chị mắc phải sai lầm, làm sao tránh khỏi lão gia trách mắng chị, hạ bệ chị, đối đế còn có thể tính chuyện cưới một bà vợ khác ? Đồng thời bạn bè, thân thích còn có thể xúi bậy vài câu, thậm chí có kẻ lanh lợi, đứng làm mai cho ông ta, thử hỏi lúc đó chị có ngăn cản được không ? Đã không thể ngăn cản ông ta tục huyền, thử hỏi chị : đối với người kế nhậm chức vị phu nhân đó, chị còn mặt mũi nào mà nhìn những người bằng hữu, và đám gia nhân dưới quyền ? Lại còn hai tên tiểu oan gia, hiện thời ở dưới tay chị, chẳng cam tâm chút nào, chỉ hận mình không đủ bản lãnh để chống lại chị, đành nén nhịn thôi. Nhất đán có bà kế mẫu, chúng sẽ tìm cách lấy lòng bà ta, đem những điều bất bình chất chứa bấy lâu, tiết lộ ra hết, thì tôi thấy thật nguy cho chị quá chừng.
Hồ thị vốn là người đàn bà nuôi sẵn dã tâm, nghe tới chỗ nguy hiểm đó, sợ hãi quá chừng, vội nói:
- Đúng vậy. Chị đã hiểu rõ rồi. Bây giờ, nhất định chị phải tìm cách ỏn thót để lão già nhà này đưa ra quyết định, mau chóng nâng chị lên hàng chính thất. Lúc đó có quyền có thế, danh chính ngôn thuận, khoan nói là người ngoài chẳng dám chỏ mõm xen vào chuyện nhà này, ngay cả hai tên tiểu súc sinh, còn dám không nghe lời chị chỉ huy, điều khiển nữa không ?
Hồ Thiên cười :
- Hay lắm, làm một vị đại phu nhân, có quyền thế, được chỉ huy, điều khiển hai tên tiểu súc sinh, chị đã an tâm, mãn ý rồi sao? Hãy nghĩ thêm chút nữa đi. Hai đứa nhỏ đó cực kỳ thông minh, cực kỳ khôn ngoan, lại được lão già nhà này rất mực yêu quí. Bình thời, chúng chỉ coi chị ngang hàng với kẻ ăn người ở trong nhà, nay bỗng nhiên phải dưới quyền một bà mẹ kế, liệu chúng có cam tâm tình nguyện để cho chị chỉ huy, điều khiển chúng hay không ? Chúng đã không cam tâm, mà chị quyết nhiên không từ bỏ oai quyền làm mẹ kế, từ đó mẹ con thất hòa, vĩnh viễn không còn một ngày vui vẻ. Lão già đối với bọn chúng lại rất mực thân ái, cho thấy làm một bà mẹ kế bình an vô sự chẳng phải dễ dàng. Trừ phi là...
Hồ Thiên bỏ lửng câu nói, đưa mắt dáo dác nhìn quanh, không thấy người lạ, mới chúm chím cười, nói :
- Thôi, chẳng nói nữa. Những chuyện tội lỗi như thế, tôi chẳng dám đem ra khuyên nhủ chị đâu. Chị là người thông minh, hãy nhắm mắt lại, yên tĩnh suy nghĩ một hồi, sẽ thấy có cách làm gia chủ vĩnh viễn, tuyệt nhiên không hậu hoạn, lại có thể khiến hai đứa nhỏ, còn chưa thành niên, nghe chị răm rắp, không dám phản kháng chút nào; mà dù có muốn phản kháng, cũng không tìm được người nào để tố khổ. Đến lúc đó, đại bộ phận gia sản đều vào tay chị. Muốn nói tới biện pháp để đạt được điều đó, tôi xin nhắc chị một câu của người xưa : "Bất độc chẳng trượng phu, gan nhỏ không quân tử". Việc họa phúc sau này của chị, chỉ ở hành động lần này, quả thật vô cùng lợi hại. Đương nhiên chị phải suy nghĩ cho kỹ, chẳng cần tôi phải nhiều lời.
Hồ thị nghe vậy, lúc đầu tỏ vẻ ngần ngừ, chừng nghe Hồ Thiên nhắc tới câu nói của người xưa, bỗng nhiên nghiến răng, giậm chân, nhắm vào đôi nam nữ đối đầu với mụ, buông lời độc địa :
- Ta đã hiểu ra rồi. Ta đã biết rằng không dùng cách hiểm độc, chẳng thể nào địch lại hai tên tiểu súc sinh này. Lúc đầu ta còn niệm tình chúng là con cháu nhà họ Lam, không nỡ ra tay độc ác, sợ đắc tội với tồ tông, nhưng ai bảo chúng ngu ngốc, sinh ra làm con cháu họ Lam làm chi ?
- Chị đã hiểu rõ, là tốt lắm rồi. Gần đây, lão già lắm bệnh, hàng ngày phải uống thuốc, là cơ hội rất tốt cho chị. Chị nên để tâm hơn nữa, khẩn thiết yêu cầu lão nâng chị lên làm chính thất. Trước hết phải có danh phận nhất định mới được. Phải làm sao để trước mặt các thân hữu, chị ngồi đường hoàng, nhận lễ vái của hai tên súc sinh. Chị chớ coi nhẹ tục lệ đó. Điều này rất quan trọng. Phải bắt chúng dập đầu lạy mới được. Sau khi chị đã được nâng lên hàng chính thất, tôi sẽ dùng một cách...
Hồ Thiên lại bỏ lửng câu nói, rồi mới mỉm cười nói tiếp :
- Phần sau của vở kịch này, để chị tự trình diễn, những lời chị vừa nói cũng đúng, nhưng chính vì chúng là con cháu nhà họ Lam, ta không thể không ra tay độc ác. Cần phải... như thế, như thế, mới được tiếng là bậc hiền phụ, còn đối với tổ tông, đừng ngại mang lợi danh hãm hại con cháu.
Hồ thị nghe nói, cảm thấy như thể vừa được uống một chén nước mát hạ nhiệt, sảng khoái vô cùng, bao giận dữ trong lòng trút sạch, luôn miệng khen diệu kế. Chị em lại đóng cửa phòng, bàn bạc một hồi, sau đó Hồ Thiên mới thanh thản ra đi. Đi hồi lâu, lại trở về, lấy trong tay áo ra một gói gì đó, lén lút đưa cho Hồ thị, Hồ thị vội vã nhận lấy, đem cất vào tủ đựng quần áo.
Từ hôm đó trở đi: Hồ thị đối xử với vợ chồng Thái Hòa vô cùng khách sáo, đối với người bệnh hoạn Lam Văn chăm sóc tận tình.
Không biết mụ ỏn thót thế nào: chỉ ba ngày sau đã thấy Lam Văn gượng ốm. bước ra phòng chính, sai người đi mời nhiều vị thân tộc quen biết lâu nay, đích thân tuyên bố lập Hồ thị làm chính thất, bắt đám con cháu cùng Nguyệt Anh, hướng về phía mụ mà dập đầu lạy. Hồ thị đạt được điều mong muốn, lập tức ngồi ngay ngắn bên trên, nhận đại lễ của mọi người. Những vị thân hữu tới dự lễ, có người hiểu rõ nguyên nhân, ngoài ra đều lấy làm lạ, mà sự việc xảy ra quá đột ngột, họ lo thay cho vợ chồng Thái Hòa, sẽ phải chịu khổ không ít. Trong khi đó, Thái Hòa và Nguyệt Anh đều là người ngây thơ, thành thục, trước nay đối với Hồ thị không hề có ý khinh mạn. Bây giờ bà ta đã chính thức trở thành mẹ kế, hai người thành tâm, thành ý lo tròn hiếu đạo.
Nào ngờ ngôi sao xấu của hai người đang thịnh, nhà Nguyệt Anh bỗng có kẻ thù ra tay phóng hỏa. Chỉ trong một đêm, cả căn nhà cháy rụi, bà mẹ Nguyệt Anh bị chết trong đám cháy. Vương Quang, cha cô, thấy nhà tan, người mất, cũng thổ huyết ra mà chết. Vợ chồng theo nhau về âm tào cùng trong một ngày, chỉ cách nhau vài tiếng đồng hồ. Nguyệt Anh nghe tin, vội trở về nhà, kịp lúc còn được nhìn mặt thân phụ, lúc lâm chung. Vương Quang, lúc sắp chết, dặn dò con gái :
- Cha một đời làm việc thiện, không hiểu vì sao gặp phải thảm báo này. Người ta sống trên đời, chung qui cũng một lần chết, cha tiếc là không có con trai, chỉ sinh được một mình con là gái, nhưng cũng may là đã có nơi có chốn. Hiện nay, mẹ chồng tuy đã chết, bố chồng con vẫn còn tại thế. Chồng con lại là một thiếu niên có tài, nghe đâu lại đối xử với con rất tốt, cha có thể yên tâm mà về Tây phương, không chút luyến tiếc. Gia cảnh nhà ta đã quá khốn quẫn, việc ma chay chỉ nên làm thật đơn giản, đừng để phí tổn quá nhiều. Còn một điều này, cha muốn báo cho con biết : bà phu nhân mới được bố chồng con đưa lên hàng chính thất, người đó...
Vướng Quang nói được nửa chừng, còn nửa câu sau đem theo về âm ti. Nguyệt Anh đang lúc bi thương, sầu não, không nói được câu nào. Là một cô bé, lần đầu gặp cơn gia biến, cô không có chút kinh nghiệm nào về việc ma chay, đành phái người về nhà chồng, mời Thái Hòa tới giúp đỡ. Cô khóc lóc ngất ngư, không lo được việc gì. May được Thái Hòa đứng ra lo liệu thay cô, đã hỏi ý cha, đem theo nhiều tiền bạc, mua quan tài và sắm đồ khâm liệm, lại mời các vị thúc bá cao tuổi trong họ, cùng lo việc tang ma. Cậu lại mất công khuyên giải Nguyệt Anh, cho cô bớt đau khổ.
Việc ma chay đã xong, Nguyệt anh lại theo Thái Hòa trở về nhà họ Lam. Lúc cô về đến nhà, Lam Văn lúc này bệnh tình đã bớt, gọi cô vào phòng, hỏi han cô về tình hình lúc cha mẹ cô qua đời an ủi cô vài câu. Nguyệt Anh cám ơn cha, lại tới thăm Hồ thị.
Hồ thị đối với cô bỗng nhiên nồng nhiệt khác thường, hỏi han ân cần. Nguyệt Anh tuy có tính hồn nhiên, nhưng lần đầu nhận ân sủng của bà ta, cũng cảm thấy ngạc nhiên, tỏ ra lúng túng, nói vài ba câu, vội cáo từ, lui ra.
Vừa may, Thái Hòa vì sợ Nguyệt Anh còn đang đau lòng vì việc nhà, đã đi tìm cô, gặp cô ở đây, mới rủ cô ra vườn hoa câu cá, giải muộn. Nguyệt Anh vốn không có lòng dạ nào du ngoạn, nhưng không nỡ làm trái ý tốt của cậu, đành nhận lời. Hai người cùng bước đi, tới chỗ cuối vườn hoa. Vườn hoa này rộng hơn hai mươi mẫu, có núi giả, hồ nước, dưới nước lại nuôi nhiều loại cá, đang bơi lội. Hai người vào tới vườn hoa, Thái Hòa mới hỏi Nguyệt Anh :
- Muội muội hôm nay vào thăm kế mẫu, có nghe bà nói gì không?
Nguyệt Anh lắc đầu, đáp :
- Không nghe nói gì. Em chỉ cảm thấy mẹ kế đối xử với em tử tế hơn ngày thường. Dường như bà thấy em hiện nay không cha không mẹ, không gia đình, rất đáng thường, nên đặc biệt tỏ lòng thương xót em thôi.
Thái Hòa trầm ngâm một lát, nói :
- Muội muội, chúng ta đều là người thành thật, làm sao hiểu được lòng người biến trá ? Kế mẫu hiện nay là bậc tôn trưởng, chúng ta là phận dâu con, làm sao dám nghi bà có ý xấu ? Nhưng có một người khiến ta vừa thấy mặt, đã chán ngắt trong lòng. Đó là vị cữu cữu. Hôm nọ, chính tai ta nghe ông ấy nói với kế mẫu : nếu muốn trừ dứt hậu hoạn, chỉ có cách ra tay độc ác một phen. ông ấy nói . "Trước nhất là đối với lão già, không thể để lão... như thế, như thế". Câu nói đó ta nghe không rõ, nên chẳng dám đoán mò, nói bậy. Đại khái là không có điều gì tốt đâu muội, muội nghĩ thử xem, nếu quả thật hai người nuôi lòng dạ đó, thì hai chúng ta là những đứa trẻ , làm sao có thể đối kháng ? Huống chi phụ thân đang bị kế mẩu mê hoặc, tính mạng đang nằm trong tay họ, chúng ta làm sao có thể ngồi nhìn lão nhân gia gặp nguy hiểm, mà không nghĩ cách đề phòng . Nếu đem những lời này nói với lão gia, nhất định ông không tin. Nếu lại để chị em kế mẫu nghe được, nguy hiểm sẽ ập lên thân chúng ta, không cách nào tránh thoát. Muội muội hãy suy nghĩ, coi có biện pháp nào tốt hay không ?
Nguyệt Anh nghe phụ thân bỏ dở câu nói mà qua đời, nhận thấy nửa câu sau hàm ý giông giống những gì mà Thái Hòa đã nghe được. Tuy chưa nói dứt câu, nhưng ý nghĩ thế nào, có gì mà không đoán ra nổi ? Những câu nói như thế, Nguyệt Anh chưa từng nghe phụ thân nói tới bao giờ. Hốt nhiên vào lúc lâm chung, ông lại đem ra trăn trối với cô, đủ thấy chuyện này có tầm quan trọng rất lớn, không thể coi thường. Cô đã quyết định trong lòng là không thể bỏ qua, nhưng cũng không tiện nói trước mặt cha con Lâm Văn. Nay bỗng nghe Thái Hòa đề cập tới, cô đột nhiên hiểu rõ sự việc, vội nói.
- Ca ca, chuyện này không thể nói bừa được đâu, nếu ông cậu có nói câu đó, kế mẫu làm theo hay không, cũng chưa biết được. Nếu hai người đều có lòng dạ đó, chúng ta cũng chỉ có thể tùy thời, tùy sự việc mà đặc biệt quan tâm theo dõi, chứ nhất quyết không thể đem chuyện bí mật của họ mà nói toạc ra. Làm vậy chẳng ích lợi gì mà còn thúc đẩy họ sớm ra tay.
Thái Hòa nhận là phải, nhân đó đem việc Hồ Thiên cùng kế mẫu cấu kết nhau, rất đáng nghi ngờ, nói hết cho Nguyệt Anh nghe, nói :
- Khi mẫu thân chúng ta còn sống, ngày nào cũng là ngày vui vẻ chúng ta không phải đề phòng lòng người ở một điểm nào, cũng chẳng ai dám khinh nhờn chúng ta. Chẳng dè mẫu thân vừa qua đời, biết bao sự việc đột ngột xảy ra. Theo tình hình này, trong tương lai chúng ta sẽ phải sống những ngày ngột ngạt, chịu không nổi đó !
Nguyệt Anh nghe vậy, bỗng nẩy một ý nghĩ trong đầu, vội hỏi :
- Ca ca, nay anh còn nghĩ chuyện làm quan nữa không ?
Thái Hòa thấy hết sức bất ngờ, vội nói :
- Người ta ai mà không có chí tiến thủ ? Chúng ta đọc sách thánh hiền để làm gì ? Há chẳng phải muốn lập thân ở triều đình, giúp vua, giúp dân ? Sao ta lại không nghĩ chuyện làm quan ?
Nguyệt Anh nghe vậy, buồn rũ, nói .
- Ca ca đúng là tham chút lợi nhỏ trước mắt, mà vất bỏ phúc lớn muôn năm ! Muội tử từ khi gặp cơn gia biến, lòng này như cây khô, tro tàn. Chẳng những vinh hoa phú quí không đánh động lòng em, ngay cả những chuyện anh vừa nói mẹ kế ghét bỏ chúng ta ra sao, ông cậu quậy phá thế nào, em cũng không hề bận tâm. Nhà tan cửa nát rồi, còn ngó làm chi tới những điều đắc thất, lợi hại cỏn con? Thật tình mà nói, đối với cõi phàm trần này, em đã sớm có ý dứt bỏ. Nhưng vẫn còn vài điểm lấn cấn, chưa thể giải quyết. Thứ nhất là về tình gia đình, cha mẹ chỉ sinh được một mình em, ông bà cùng em có tình gắn bó, nương tựa lẫn nhau, em không thể dứt tình mà bỏ nhà đi tu. Thứ hai là đối với anh, cùng nhau có ước hẹn ba sinh, quan hệ thật sâu đậm, đương nhiên phải cùng nhau hoạn nạn, không thể bỏ nhau mà đi. Vì thế, em cứ nấn ná, không nỡ xuất gia. Nay vì chuyện của cha mẹ, lòng em đau xót, cảm thấy nên sớm xuất thế, mau chóng tu hành, nếu còn diên trì, e rằng cơ hội không đến với em lần nữa. Lần này, em vốn không muốn trở lại nhà anh, mà rồi cứ phải trở về, cũng chỉ vì vấn đề cuối, là tình cảm của em đối với anh. Tuy ca ca đang lầm đường lạc lối, nhưng muội tử vẫn tin chắc mình có thể cảm hóa ca ca, giúp anh sớm vượt qua biển khổ. Nay được anh rủ tới đây, muội tử tuy vì chuyện gia đình, không lòng dạ nào mà thưởng ngoạn, nhưng vẫn muốn mượn chỗ thanh nhã này để cùng ca ca bàn chuyện với nhau thật sâu hy vọng ca ca hiểu rõ tấm lòng của muội tử. Mong anh nhớ lại chuyện cũ, khỏi bị sư tôn và Diêm vương chê cười là không có định thức, dễ thay lòng đổi dạ. Lúc đó bản thân ca ca lại rơi vào biển khổ, mắc vào vòng tai kiếp, mong ca ca suy nghĩ cho kỹ.
Hai người đang bí mật bàn bạc cùng nhau, bỗng thấy một đám gia nhân ùn ùn kéo tới, vừa thấy mặt, liền hô to :
- Công tử, tiểu thư sao còn chưa vào nhà ? Bệnh tình lão gia đang mười phần nguy kịch.
Hai người nghe nói, hồn vía lên mây, vội theo nhau chạy vào nhà.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 20.07.2008 14:24:40
Hồi Thứ 58

Mang dạ sói, ác phụ hạ độc thủ
Nặng tình nghĩa, nghĩa bộc nổi bất bình.


Sau khi vợ chồng Vương Quang theo nhau qua đời, Hồ Thiên vội vã trở lại nhà họ Lam. Mấy ngày qua, hắn đi ra ngoài, kiếm được một món thuốc, đem về trao cho Hồ thị. Bấy giờ Lam Văn bệnh tình đã bớt, nhưng mỗi ngày vẫn phải uống thuốc, thầy thuốc dặn rằng sau khi cho uống thuốc, nên để người bệnh nằm nghỉ. Hồ thị đã sắc xong chén thuốc tính đem cho chồng uống, thì Hồ Thiên ngăn lại, đổ thứ thuốc mới, hòa tan trong chén thuốc. Hồ thị run run hai tay, bưng chén thuốc vào phòng, nâng đở cho Lam Văn uống xong chén thuốc. Không bao lâu, cả nhà họ Lam nháo nhào, ầm nói lão gia đã qui thiên rồi ! Lam Văn chết đi, Hồ thị nắm toàn quyền trong nhà, Hồ Thiên trở thành một thứ khai quốc công thần, nắm đại quyền trong tay, tha hồ làm mưa làm gió, ngày càng lún sâu vào tội lỗi.
Hồ Thiên làm việc rất cẩn mật, chẳng những vừa ra tay đã giải quyết xong ngay, sau đó còn săn sóc tới thi thể rất chu đáo, không để lộ một vết tích khả nghi. Khoan nói Nguyệt Anh, Thái Hòa đều là những đứa trẻ, không hiểu biết sự tình, nay cả các gia nhân nam nữ trong Lam phủ, rất đông đảo, ai cũng biết chủ nhân chết vội vảng, tỏ ý nghi ngờ, nhìn thi thể nằm trên giường rất kỹ, đặc biệt lưu tâm, cũng không tìm ra được một chứng cứ gì. Họ bàn bạc sau lưng chị em họ Hồ, đều tỏ ý khâm phục chị em nhà này lợi hại. Hạ độc thủ hại người mà không để lại vết tích, phải là tay bản lãnh rất cao. Hồ Thiên lại vô cùng xảo quyệt. Hắn nghe phong thanh những lời không tốt, đặc biệt bàn với Hồ thị, bỏ ra một số ngân lượng rất lớn, ban cho đám người dưới, lấy cớ là thưởng công cho họ đã vất vả trong việc ma chay. Mọi người dẫu vì chủ nhân mà bất bình, nhưng không ai có can đảm mà thân oan cho chủ, lại bị tiền bạc trám miệng, còn ai dám lên tiếng nữa ?
Vì thế, chị em họ Hồ càng liều gan, phóng tay. Hồ Thiên nói với chị :
- Một là không làm, đã làm phải làm tới. Nhổ cỏ không nhổ tận rễ, vài ngày lại nẩy mầm. Chém một đao đã mang tội, chém thêm nhát nữa cũng thế thôi. Chi bằng nhân cơ hội này, giết luôn hai đứa nhỏ cho xong.
Đến đây thì Hồ thị nhất quyết không chịu. Mụ có chủ ý của mình, mới nói :
- Trong nhà có một lão già chết, vị tất đã không có người chú ý. Nếu lại chết liền một lúc ba người, ai cũng phải quan tâm thôi. Như vậy, chẳng những là không thể giải thích trước mặt đám gia nhân, mà rồi còn có hàng xóm láng giềng và đám thân tộc, chẳng ai tin nổi cả ba người đều chết bất đắc kỳ tử, liền một lúc. Vạn nhất có kẻ hiếu sự nói ra một câu bất bình, một đồn mười, đến tai huyện đại lão gia, thì lớn chuyện lắm. Chi bằng tạm tha cho chúng là hơn. Hiện nay, ta đã là mẹ chính thức của chúng, là chủ nhân đích thực trong nhà, còn sợ chúng có hành vi phản kháng nữa sao? Ta tự có cách, khiến chúng điêu đứng trăm bề. Chẳng cần phải chém giết, chúng cũng tự động bước lên Sum La điện, há chẳng tuyệt diệu hay sao ?
Hồ Thiên nghe nói, thấy có lý vô cùng, để mặc cho Hồ thị xếp đặt.
Tang lễ xong xuôi, Hồ thị bắt đầu kế hoạch thứ nhất là tuyên bố gia kế suy kiệt. Từ hồi lão gia còn sống, phần nhập vào đã kém phần chi ra, nay lại phải bỏ tiền ra lo việc tang. Chưa kể tiền lo hai đám ma nhà họ Vương, tức là phải chi cho bản thân Vương cô nương một số tiền quá lớn, ngoài dự tính. Nội trong một tháng, gia tư nhà họ Lam giảm mất phân nửa. Vậy nên, việc thứ nhất là cho Mao tiên sinh nghỉ dạy. Ông này vốn đã già yếu, gần đây lại bệnh hoạn rề rề, không thể dạy học được nữa, giữ lại trong nhà quả thật vô ích. Cho ông nghỉ dạy, có thể giảm bớt được nhiều chi phí.
Việc thứ hai là phái Thái Hòa quản lý bò, dê, kiêm việc lo củi và cỏ.
Việc thứ ba là phái Nguyệt Anh lo việc dệt vải, giặt quần áo, nhóm lửa nấu cơm. Còn người vốn trông coi việc nội trợ đó thì phải ra ruộng canh tác.
Bản thân Hồ thị nắm quyền tổng quản, cho Hồ Thiên làm thủ quĩ, nắm giữ tiền bạc. Hai con bà ta sinh ra hãy còn nhỏ, đợi khi chúng lớn lên, sẽ phái một đứa giúp việc cho ca ca, một đứa theo chị dâu lo việc nữ công. Tất cả đều được đối xử ngang nhau, không phân biệt giòng lớn, giòng nhỏ.
Thái Hòa tiếp nhận mệnh lệnh, tuy trong lòng chất chứa oán hờn, sầu khổ, nhưng cũng không tìm được cớ gì để bất phục lệnh sai khiến. Còn Nguyệt Anh đã không cảm thấy có chỗ nào là khó chịu đựng, còn cất tiếng cười hì hì, nói với Thái Hòa :
- Từ nay về sau, không còn được đọc sách nữa, anh còn nghĩ chuyện làm quan hay không ?
Thái Hòa tức tối nói :
- Giỏi cho muội muội, cô còn chọc tức ta nữa sao ? Chúng ta là người cùng hội cùng thuyền, ta bị người ta ức hiếp, cô lại thoát được hay sao ?
Nguyệt Anh vội nói :
- Em không định nói vậy. Em vốn không tính ở lâu trên cõi hồng trần này, và như em đã nói rõ với anh trước đây, bất luận thế nào, em cũng chỉ ở tạm đây một thời gian thôi. Chẳng bao lâu nữa, em cũng phải ra đi, kể làm chi giai đoạn khốn khổ ngắn ngủi? Không phải như anh, chuyên tâm nhất chí hướng về lợi danh, bất ngờ gặp phải trắc trở, mới thấy tiền đồ bị ngăn cản.
Thái Hòa nghe vậy, lặng yên không nói. Tiếp đó, Hồ thị đem những dụng cụ dùng vào việc chăn trâu, cắt cỏ, như liềm, gánh, cây roi... đưa cho Thái Hòa: đồng thời lôi Nguyệt Anh đi chỗ khác, để làm công việc. Khổ nhất cho hai người là phải cách xa nhau, hàng ngày từ sáng tới tối, không có dịp nào để gặp nhau. Nguyệt Anh vốn không vì ái tình mà tới đây, cảm thấy dửng dưng. Riêng có Thái Hòa là thấy không tài nào chịu nổi. Cậu có thể làm hết sức mình, chịu khổ về phần xác thế nào cũng được, riêng có chuyện phải xa nhau, cậu rất bức xúc, không tránh khỏi có vài câu oán thán nói ra miệng. Không dè có kẻ nghe được, thêm mắm dặm muối, đem tố cáo với Hồ thị. Tình cờ có Hồ Thiên ở cạnh đó, liền cất tiếng cười nhạt, nói với chị :
- Đã nghe thấy chưa ? Chị cứ luôn miệng giảng đạo đức, nói nhân nghĩa, đã thấy người ta nói xấu sau lưng, âm mưu hãm hại chúng ta hay chưa ? Chị còn muốn nói đạo lý, đến chừng chúng giở thủ đoạn ra, e rằng sự tình không ngừng ở mức độ này đâu.
Hồ thị nghe nói, suy nghĩ một lát, nhận thấy mình đối xử với dâu con của bà vợ trước của chồng, quả thật có hơi nương tay, tức thì nổi giận, nói :
- Ta là mẹ chúng nó, mà chúng nó coi thường ta, không xem gương lão già đã chết ra ma, mà cảnh giới, ta cũng không thể làm dâu hiền nhà họ Lam được nữa. Này ông cậu, cậu hãy nghĩ giùm chị một biện pháp, lập tức bắt hai đứa nhỏ, đuổi ra khỏi nhà. Nếu chúng không chịu, cứ trói chúng lại, đưa ngay lên huyện quan, tố cáo chúng về đại tội ngáo nghịch, bất hiếu.
Hồ Thiên nghe vậy, liền vỗ tay, nói :
- Hay lắm, hay lắm. Chỉ tại chị là đàn bà, quá mềm yếu mà thôi. Nếu chị sớm nghe tôi khuyến cáo, thẳng tay đàn áp chúng, thì bây giờ chị đâu phải nếm mùi chua cay . Nay chị chịu trao toàn quyền cho tôi, tôi sẽ thay mặt chị, đánh cho chúng một trận tóe máu, dẹp yên vụ này, để khỏi phụ lòng ủy thác.
Nói rồi, hớn hở ra đi.
Câu chuyện này đến tai một người. Nguyên nhà họ Lam có một quản gia đã cáo lão về hưu, tên là Lam Hưu. Con trai ông Lam Hưu, tên Lam Chân, đứng một bên, nghe được câu chuyện giữa chị em họ Hồ. Bây giờ, trời đã gần tối. Lam Chân vì bà mẹ mấy hôm nay đau yếu, ngày nào cũng về thăm mẹ. Hôm nay, nghe được phong thanh, Lam Chân về tới nhà, liền đem chuyện kể lại cho Lam Hưu nghe. Ông này liền nổi giận đùng đùng, chỉ tay về hướng nhà họ Lam, lớn tiếng mắng chửi.
- Giỏi cho hai tên súc sinh nam nữ, táng tận lương tâm, không biết vương pháp là gì. Gần đây, chủ nhân chết không minh bạch, ai cũng nói là màn kịch do chị em chúng mày dựng nên. Chỉ vì thủ đoạn của tụi bay quá khéo léo, không ai tìm được vết tích gì. Mọi người đều biết chủ nhân chết oan, nhưng không làm gì được tụi bay. Nhưng phải biết, quan pháp có thể thoát khỏi, thiên đạo khó lừa dối. Còn điều này nữa, chủ nhân chết đi, xác còn chưa lạnh, sao tụi bay đã vội tính kế hại dâu con ông ấy? Ta thật không biết tụi bay cùng nhà họ Lam có thù oán gì, mà tụi bay muốn tiêu diệt cả gia đình ? Hỡi ôi ! Việc này Lam Hưu ta không biết thì thôi, đã biết, ta nhất định không để cho tụi bay tự tung tự tác, làm việc ác đâu !
Ông lão càng nói càng tức, càng tức càng chửi, đến độ tiếng chửi lọt vào tai bà vợ là Vương thị, đang nằm bệnh, chịu không thấu, tức giận, mắng lại ông lão :
- Ông già đầu mà còn ngu dại, khi không xen vào chuyện thiên hạ làm chi ? Hãy nghĩ lại coi, con trai ông hiện đang ở nhà người ta làm công, được bà chủ mới đối xử tử tế, mà việc họa phúc của nó cũng bởi một lời nói của bà ta mà ra. Nay ông xen vào chuyện tào lao, ngày mai con trai ông bị đuổi việc, mà ông tuổi tác đã cao, tinh lực suy yếu, có còn đủ sức kiếm tiền nuôi mẹ con tôi hay không ?
Ông lão tiu nghỉu, lên giường đi ngủ.

bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 20.07.2008 14:55:15
Hồi Thứ 59

Mưu đoạt tiền, trước hại mạng người
Vì cứu chủ, lại mang tiếng xấu.


Lam Hưu bị vợ mắng, lên giường nằm ngủ. Nhưng lòng ông rộn rã vì những giận cũ, oán mới, ôm mối bất bình, không sao chợp mắt, tính đợi canh ba, sẽ tới nhà họ Lam thăm dò tình hình.
Gia đình ông đã mấy đời làm nô bộc cho nhà họ Lam, bản thân ông cũng từng chịu ơn sâu của Lam Văn, mà không thể báo thù, rửa oan cho chủ, thật trái với lương tâm. Trước mắt lại thấy cậu chủ nhỏ, tuổi trẻ thất thế, lại có mối nguy tới tính mạng. Việc này, tai ta đã nghe thấy rõ ràng, hiện chưa phát tác, chính là lúc phải đề phòng. Chị em nhà họ Hồ cấu kết với nhau làm ác, chúng lại ra tay lẹ lắm, nếu không mau ngăn lại, e rằng không kịp. Trằn trọc một hồi, ông lão quyết định, giả vờ ngủ say, đợi lúc cả nhà yên giấc, mới tụt xuống giường, lén mở cửa ra khỏi nhà, nhắm hướng nhà họ Lam đi tới. Hai nhà chỉ cách nhau chừng nửa dặm, nhưng ông đã già yếu, mắt mờ chân chậm, phải mất chừng nửa giờ mới tới nơi. Ông là người quen thuộc trong nhà họ Lam, nắm rõ tình hình không đi vào lối cổng chính, mà tìm vào cửa sau. Qua một lối đi nhỏ phía Tây, ông tới chỗ cửa hông. Người gác cổng ở đây là cháu bên vợ của ông, tuổi chừng mười ba, mười bốn. Lam Hưu lợi dụng thằng bé còn nhỏ tuổi, chưa hiểu biết việc đời, mới tới tìm.
Thằng nhỏ mở cửa hông, thấy ông dượng nửa đêm mò tới, ngạc nhiên quá chừng. Lam Hưu không để nó kịp hỏi han, đã hỏi nó xem công tử hiện ở đâu ? Lại còn một vị tiểu thư nhà họ Vương hiện ở chỗ nào ? Thằng bé này cũng là người có lòng dạ, nghe hỏi tới chuyện công tử, liền nói giọng buồn thảm :
- Dượng đừng nhắc tới công tử làm chi, cậu ấy đang chịu đau khổ nhiều lắm. Khoan nói chuyện gì khác, chỉ nói tới chỗ cậu đang ở, đã là một gian nhà tranh, nằm đằng sau chuồng bò. Trong nhà chỉ có một chiếc giường với ba tấm ván, ngoài ra không có thứ gì khác. Theo lời thái thái nói, việc chăn bò, canh dê đều giao cho công tử, một mình lo liệu, nên mới bố trí cậu ở chỗ đó, để dễ bề trông coi gia súc. Dượng hỏi tới cậu chủ, là muốn tới thăm cậu ấy chứ gì ? Nhưng chỗ ở của cậu nằm tuốt đằng sau nhà, muốn tới chỗ đó phải đi qua phòng của thái thái, lại phải qua nhiều lần cửa nữa. Vạn nhất thái thái, hoặc cữu cữu thức dậy, thì phiền lắm. Nên tới chỗ Vương tiểu thư ở gần đây thì tiện hơn. Hiện tại, cô cũng chịu nhiều đau khổ, chỉ đỡ hơn công tử chút đỉnh thôi. Nhưng cô lúc nào cũng tỏ ra vui vẻ, sảng khoái. Thái thái nói công tử và tiểu thư đều không còn bé nữa, không thể ở chung một chỗ, nên bắt hai người xa nhau, một người ở tuốt đằng trước, một ở tuốt đằng sau, cách nhau tới mấy dãy nhà. Hiện nay công tử và tiểu thư muốn gặp mặt nhau, không phải dễ dàng. Nghe đâu công tử vì chuyện này mà buông lời oán thán.
Câu nói chưa dứt, Lam Hưu đã mắng :
- Trẻ con không được lắm lời. Hãy đưa ta đi gặp Vương tiểu thư.
- Việc đó rất dễ. Phòng của cô ở ngay phía trước phòng của cháu. Giờ này đêm khuya, yên tĩnh, người trong các phòng đều ngủ cả rồi. Dượng có muốn đi, đừng làm kinh động người khác.
Thằng bé liền dẫn đường, đưa Lam Hưu tới chỗ cửa sổ phòng của Nguyệt Anh, đưa ngón tay gõ lên cửa sổ ba tiếng, nói :
- Vương tiểu thư còn thức hay không ? Dượng của cháu là ông già Lam tới thăm cô đây.
Bên trong liền có tiếng thỏ thẻ :
- Có phải Lam lão quản gia đấy không ?
Từ lâu Nguyệt Anh đã chuyên tâm tu trì, mỗi khi gặp lúc đêm khuya canh vắng, nhất định ngồi tĩnh tọa luyện công chừng một canh giờ. Khi nghe tiếng gõ ở cửa sổ, chính là lúc cô vừa xong công khóa, lên giường đi nghỉ. Cô là người thông minh tuyệt đỉnh, một năm nay ở nhờ nhà họ Lam, nội tình gia đình thế nào, mười phần cô đã biết được bảy, tám, rất khâm phục một vị Lam lão quản gia, là người trung hậu thật thà, rất trung thành với chủ.
Nay nghe nói có ông già họ Lam đêm khuya tới thăm, cô nghĩ ngay tới lão quản gia, chắc có tin tức gì lạ, muốn báo cho cô biết, cô vừa cất tiếng hỏi, vừa leo xuống giường, nhìn qua khe cửa sổ.
Cô thấy một thằng bé tóc đen, cùng một ông già tóc trắng, đứng bên dưới cửa sổ. Nguyệt Anh không dám chậm trễ, vội ra mở cửa phòng, bước hẳn ra ngoài, không cho hai người vào phòng mình.
Dưới ánh trăng tỏ, ba người đứng nói chuyện khe khẽ. Nguyệt Anh lên tiếng hỏi trước tiên :
- Lão bá bá đêm khuya tới thăm, ắt có tin tức gì xấu, muốn nói cho tôi biết, phải không ?
Lam Hưu nghe nói ngạc nhiên, vội hỏi :
- Tiểu thư cũng biết rồi ư ? Sao không sớm chuẩn bị đối phó ?
Nguyệt Anh nghe vậy cũng ngẩn người ra, nói :
- Chẳng giấu gì lão bá bá, tôi và Thái Hòa hiện nay chẳng biết được tin tức gì. Vừa rồi tôi nói, chẳng qua vì thấy bá bá đột ngột tới thăm, nên buột miệng hỏi vậy, cũng không biết là đúng hay sai. Nay nghe lão bá bá nói, mới biết rằng câu tôi buột miệng nói ra, chẳng may mà trúng, nhưng Thái Hòa vẫn chưa biết gì đâu. Xin hỏi lão bá bá, hiện vừa phát sinh điều gì vậy ? Từ lâu, tôi đã gác bỏ việc đời ngoài tâm trí, nếu họ không dung nổi chúng tôi, chính là dịp thúc đẩy tôi sớm nhập đạo, tôi nên cảm ơn họ chẳng hết. Có lo chăng, là lo cho Thái Hòa mà thôi. Vậy xin lão bá bá mau đem tin tức nói ngay cho tôi biết, để tôi thông tri cho Thái Hòa, tìm kế đối phó.
Lam Hưu mới đem chuyện chị em nhà họ Hồ đã đặt ra kế độc, cùng lý do vì sao ông biết được tin đó, kể hết cho Nguyệt Anh nghe, tin chắc cô nghe được tin này, phải hoảng sợ vô cùng. Nào ngờ Nguyệt Anh điềm nhiên như không, còn cất tiếng cười lạt, nói:
- Chà, thì ra là vậy. Kể ra đây là điều may mắn trong những điều bất hạnh của tôi. Xin hỏi lão bá bá họ đã định xong mưu kế, có tính hôm nào tiến hành hay chưa ?
Tôi cũng không biết. Theo con trai tôi nói, đại khái chỉ trong một hai ngày nữa thôi. Lão nô tính tới cáo tố cùng công tử, ai ngờ hai đứa nó to gan, dám đày công tử vào chỗ chuồng bò. Hôm nay, lão nô không thể gặp mặt công tử, e rằng ngày mai bọn gian nhân động thủ ngay, biết làm sao đây ?
Hai người đang trò chuyện, bỗng nghe chỗ đường hẹp có tiếng người cười. Ba người kinh hãi, đang tìm xem tiếng cười phát ra từ chỗ nào, đã thấy một bóng đen đen, từ chỗ đường hẹp chạy tới như bay, ánh trăng chiếu sáng, cho thấy một người dẫn đầu, chính là Hồ cửu cửu Hồ Thiên, theo sau là ba người nữa, đều là thủ hạ của Hồ Thiên, mới được tuyển chọn gần đây. Chúng xúm quanh, vây lấy Nguyệt Anh, và Hồ Thiên cất tiếng cười nhạt, nói :
- Giỏi cho bà tiểu phu nhân chưa cưới, giỏi cho đại cô nương con nhà gia giáo, té ra chỉ là một dâm phụ hạ lưu, lén lút dẫn trai về phòng ! Nhà họ Lam có hạng con dâu như thế, môn phong hủy hoại, thể diện mất sạch. Bình thời ra vẻ thẹn thẹn thò thò, quấn quít lấy chồng, ra dáng một người đàng hoàng, bây giờ mới lòi mặt chuột. Người đã không biết xấu hổ, ta cũng chẳng cần phải giữ thể diện cho nhà họ Lam, hãy trói người lại, đưa ngay lên quan.
Nói rồi, quay nhìn ba người đi theo, hét lên :
- Còn không mau trói ngay gian phu, dâm phụ ?
Ba người nghe nói, liền xắn tay áo, tiến lại, định ra tay. Nhưng họ ngần ngừ, chưa rõ Hồ Thiên bảo trói người nào. Ngoài Nguyệt Anh ra, còn lại hai người, một già, một trẻ. Người già thì lụ khụ, người trẻ lại quá nhỏ tuổi, đều không ra vẻ gian phu chút nào. Họ lẩm bẩm hỏi lại một câu, Hồ Thiên nghe được, cũng ngớ mặt ra, hét đại một câu :
- Cứ việc trói hết. Làm sao tao biết đứa nào là gian phu ?
Ba người sửa soạn ra tay. Bên này, Lam Hưu và Nguyệt Anh tự nhiên công phẫn, ngoác miệng ra chửi. Thằng nhỏ thấy dượng của mình vô cớ bị vu oan, ngay bản thân nó cũng chịu chung tiếng oan, tức thì nổi giận mắng Hồ Thiên là kẻ vô lương tâm, không biết liêm sỉ, nó lại đem những chuyện ba tên vô lại xảo trá đã làm trước đây, đã từng nhiều lần tới nhà họ Lam, thậm thụt tố cáo người khác trước mặt chị em nhà họ Hồ, nói bung ra hết. Những lời đó chạm nọc Hồ Thiên, ba phần giận dữ giả bộ, bỗng biến thành mười phần tức giận thật sự. Hắn liên tiếp giậm chân, đập tay, thúc giục ba người kia động thủ. Ba người tiến lại, một người nắm giữ Nguyệt Anh, hai người bắt trói dượng cháu Lam Hưu. Hai người đang cơn tức giận, liền động thủ chống lại. Nguyên ba người mà Hồ Thiên sử dụng đều là kẻ vô lại đầu đường xó chợ, chỉ biết đam mê tửu sắc, nhìn tướng có vẻ oai vỏ, thật tình chỉ là hạng vô dụng. Lúc đó, chúng đang ngái ngủ, cứ mơ mơ, màng màng.
Hồ Thiên tình cờ ra ngoài đi tiểu, nghe chỗ Nguyệt Anh có tiếng người đang nói chuyện, ngờ rằng kẻ trộm. Hắn vội về phòng, đánh thức ba tên thủ hạ, cùng kéo ra ngoài, nhìn xem, không ngờ lại là Nguyệt Anh và dượng cháu Lam Hưu. Hồ Thiên mừng rỡ, ngoài sức tưởng tượng. Không ngờ ba tên thủ hạ, ăn no uống say, nằm lăn ra ngủ, nửa đêm bị Hồ Thiên đánh thức, thần trí còn chưa tỉnh táo, lại không hiểu vừa phát sinh chuyện gì, cứ mơ mơ màng màng, bảo gì làm nấy. Nghe lời Hồ Thiên, chúng xông lên bắt người, không dè bị phản kháng. Thằng cháu ông Lam Hưu tuy thấp bé, nhưng là tay vô cùng lợi hại. Nó vừa đưa tay ra đã đánh trúng bả vai người kia. Từng nghe người ta nói hễ nắm chắc vai người có thể chế phục được người, trong lúc vội vã, nó chẳng cần suy tính, nắm lấy cánh tay người kia, thi triển hết thần lực, bẻ quặt ra đằng sau. Chỉ nghe người đó hét lên một tiếng, ngã vật ra đất. Hồ Thiên cùng người đang nắm giữ Nguyệt Anh đều kinh hãi, kêu lên .
- Thằng nhỏ đánh chết người rồi !
Trong khi đó, Lam Hưu đánh với người kia ngang tài ngang sức. Chợt nghe nói thằng nhỏ đánh chết người, cả hai đều kinh hãi, vội dừng tay, tới xem người đang nằm trên mặt đất. Một trận ồn ào nổi lên, đánh thức mọi người trong nhà. Trên từ vị tân thái thái Hồ thị, dưới tới các nam nữ bộc dịch, tất cả đều khoác vội lên mình chiếc áo trở dậy, chạy tới điều tra. Ngay cả vị công tử mới bị biếm truất là Lam Thái Hòa, cũng vội vã tới xem, thấy Hồ Thiên đang chỉ trời vạch đất, bẩm báo sự tình với Hồ thị. Thái Hòa chỉ nghe chừng hai câu, đã hiểu rõ Hồ Thiên hãm hại Nguyệt Anh. Cậu vội chạy tới, nắm tay Nguyệt Anh, khóc mà rằng :
- Muội muội, ta hại em mất rồi !
Nguyệt Anh không nói gì, chỉ đưa cặp mắt rớm nước mắt, nhìn Thái Hòa từ trên xuống dưới, muốn nói, nói không ra tiếng, muốn khóc, khóc không được. Thằng đang nắm giữ Nguyệt Anh, thấy Thái Hòa cùng Nguyệt Anh thân thiết với nhau, lại nhìn bạn hắn bị thằng cháu của Lam Văn đánh ngất ngư, trong lòng vừa thẹn vừa tức, mới tính trút giận lên Thái Hòa. Rõ ràng mang danh công tử hiện nay cậu ta thất thế, thân phận còn thua kẻ ăn người làm.
Còn Nguyệt Anh hiện giờ chỉ là một phạm nhân, mà hắn được lệnh canh giữ. Tự nhiên hắn không kiêng nể gì nữa, đưa tay ngăn cản Thái Hòa, mở miệng chửi càn :
- Con vợ ngươi lấy trai, ngươi còn muối mặt thương yêu khóc lóc trò chuyện với nó nữa sao ?
Nói chưa dứt lời, đã nghe một tiếng tát đánh "bốp", tiếp theo lại hai tiếng "bốp, bốp": Tên này vừa ngạc nhiên, vừa đau. Định thần một lát mới hiểu cái tát thứ nhất là của Thái Hòa đánh vào má bên trái, hai cái tát sau là của Lam Hưu đập vào má bên phải. Đồng thời có tiếng Thái Hòa chửi hắn là "chó mượn oai hùm", Lam Hưu chửi hắn là đồ súc sinh hạ lưu. Hồ Thiên tức thì kéo đám gia nhân tới giúp đỡ tên kia, chửi lại Thái Hòa và Lam Hưu, làm ầm ĩ cả lên. Hồ Thiên nói với thuộc hạ :
- Các ngươi còn muốn ăn miếng cơm ở nhà họ Lam, hãy nghe theo lệnh ta và thái thái, mau bắt trói ba tên này, đưa lên huyện quan. Hiện tại, bọn chúng đã đánh chết một người, tội rất nặng. Nếu các người không chịu động thủ, tức thì thái thái đuổi các ngươi ra khỏi cửa, không mướn các ngươi làm công việc nữa.
Mọi người nghe nói, đưa mắt nhìn nhau, không ai chịu tiến lên. Họ thấy Hồ Thiên quá hống hách, lương tâm chợt nổi dậy, nhận rõ những việc chị em họ Hồ đã làm không còn thiên lý gì nữa. Vả lại, phần đông họ đều chịu ơn nặng của nhà họ Lam, làm sao có thể a dua để làm những điều phản nghịch, bất pháp ? Hồ Thiên thấy vậy, quay qua chửi mọi người. . .
Trước tình hình đó, Lam Hưu vội nói với Thái Hòa và Nguyệt  Anh :
- Công từ, tiểu thư, chúng ta đi thôi. Trời đất bao la, đi đâu chẳng kiếm được miếng ăn, mà phải ở đây cho chúng hiếp đáp ?
Lão tuy tuổi cao, tình nguyện theo hai vị tới chỗ chân trời, góc bể, xin ăn dọc đường, cũng còn hơn ở đây mà mỗi ngày phái bực tức, chịu nhục, còn bị chúng ám toán nữa. . .
Nói rồi, một tay nắm Thái Hòa, một tay nắm Nguyệt Anh, lôi đi vội vã chạy ra khỏi cửa. Thằng bé cháu Lam Hưu cũng chạy theo, mọi người không dám ngăn cản, để mặc cho nó chạy theo ba người kia.
Bốn người chạy đi rồi, Hồ Thiên mới giận dữ, hét lên như bò rống, trở vào phòng mình, nhặt nhạnh những thứ gậy gộc, dây thừng, trở ra kêu gọi đám thủ hạ mới tuyển chọn, cùng kéo nhau ra khỏi nhà, đi đuổi bắt bốn người. Dưới ánh trăng, chúng thấy mấy người kia đang men theo bờ sông mà chạy. Hồ Thiên dặn dò :
- Ai bắt được bốn tên kia, đều có trọng thưởng. Tội lệ ở đâu, ta gánh chịu tất. Nếu cố ý tha cho đi, ghép chung một tội.
Chúng nghe vậy, liền phấn chấn tinh thần, ra sức đuổi theo, chẳng bao lâu đã bắt kịp bốn người. Một tiếng reo hò nổi lên, tất cả đều cầm vũ khí trong tay lăm lăm. Hồ Thiên thét mắng, bảo bốn người hãy mau mau quay về, nếu dám chống cự, lập tức lấy tính mạng.
Thái Hòa tự nghĩ mình dầu sao cũng là chủ nhân chính thức trong nhà, liệu rằng Hồ Thiên chẳng dám làm gì mình, liền cười nhạt, nói :
- Trở về thì cũng là ta trở lại nhà ta, hà tất phải cưỡng bức nhau. Muội muội, chúng ta hãy về nhà, coi họ có biện pháp gì đối phó với chúng ta ?
Nói rồi, quay mình hướng về phía nhà mình mà rảo bước.
Nguyệt Anh cũng lẽo đẽo theo sau. Không ngờ Hồ Thiên vẫn nuôi dạ độc ác, phải giết Thái Hòa, Nguyệt Anh cho bằng được. Hắn hét lên một tiếng, thúc giục đám thủ hạ mau mau chạy theo, bắt trói hai người .
Bỗng Nguyệt Anh kêu một tiếng, nói rõ to :
- Thưa tiên sư, đệ tử Nguyệt Anh từ nhỏ tới giờ, không ngày nào dám quên lời dạy dỗ của sư tôn, không giây phút nào là chẳng chuyên tâm tu đạo. Chỉ vì không nỡ để chồng chìm sâu trong Ma đạo, nên đã nấn ná nhiều năm, chưa kịp xuất gia. Không dè hôm nay phải chịu nhục. Đệ tử tuy trời bắt phải chịu khổ, cũng là con gái nhà đại gia, có phải chịu nhiều chua cay, cũng chẳng dám từ chối, nhưng bị người lăng nhục, quyết không chịu nổi. Nay đệ tử không thể trông coi tới tiền trình của chồng mình nữa, đành phải tìm cái chết, để sớm được lên trời, gặp mặt sư phụ.
Nói rồi, vận dụng hết sức mình, thoát khỏi sợi dây trói, nhắm về phía bờ sông mà chạy như bay. Mọi người biết cô có chí đâm đầu xuống nước, nhưng chưa kịp có hành động gì. Riêng Hồ Thiên chẳng thèm quan tâm, bảo mọi người cứ để mặc cho cô muốn làm gì thì làm, bất tất phải cứu.
Thái Hòa khóc thét lên muốn ra sức đuổi theo Nguyệt Anh, nhưng bị một người nắm chặt lấy tay. Trong lúc nóng vội, cậu cúi xuống, cắn vào tay người kia. Người kia kêu lên một tiếng đau đớn, buông tay ra, để mặc Thái Hòa chạy như bay về phía trước. Hồ Thiên nói :
- Để mặc cho nó chạy, để mặc cho nó chạy ! Để coi chúng chết cách nào ?
Lam Hưu và thằng cháu đều bị chúng trói chặt, không tiến lên được. Mọi người ngây người ra mà nhìn cặp vợ chồng trẻ chạy tới bờ sông, ôm nhau mà khóc, rồi cùng đâm đầu xuống sông, cùng một lúc. Chỗ này là hạ lưu của sông Trường Giang, chảy qua một khúc quanh, nước sông rất sâu, thế nước rất mạnh, một khi nhảy xuống, không mong gì sống. Thái Hòa và Nguyệt Anh lại là những đứa trẻ yếu ớt, đã rơi xuống sông, đương nhiên là không toàn tính mạng.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 20.07.2008 15:30:34
Hồi Thứ 60

Sấm sét ra oai, giết ác nô
Thần tiên trổ phép, cứu học trò.


Hồ Thiên dẫn dắt một đám ác nô, ép bức hai tiểu chủ nhân phải nhảy xuống sông. Đợi cho hai người chìm dưới nước một thời gian, chúng tính rủ nhau kéo về nhà lãnh thưởng. Đột nhiên nghe dưới nước có tiếng bì bõm, mọi người lấy làm lạ, xúm lại bên bờ sông, nhìn ra xa. Lạ lùng thay, một luồng kim quang từ đáy sông vọt thẳng lên trời, chạm vào mắt người nào, người đó liền cảm thấy như kim đâm vào mắt, đau đớn quá, phải nhắm mắt lại.
Riêng có Lam Hưu và thằng nhỏ là cảm thấy hai mắt thoải mái, nhìn được rõ ràng. Trong luồng kim quang, rõ ràng có một bông sen màu hồng, từ từ bay lên trời. Trên bông sen có bốn người, hai nam hai nữ, đang đứng. Ngoài hai vợ chồng Thái Hòa ra, còn có một đôi nam nữ, ăn mặc theo kiểu đạo gia, cốt cách thần tiên. Lam Hưu và đứa cháu vội bứt đứt dây trói, quì ngay xuống đất, dập đầu lạy, hô to :
- Cảm ơn các vị thần tiên tới cứu chủ nhân chúng tôi, đưa lên trời.
Bọn ác nô lúc đó cũng cảm thấy mắt hết đau nhức, vội mở mắt ra, ngửng nhìn, quả nhiên thấy giữa luồng kim quang có một bông sen màu hồng rất lớn, trên đó có bốn người đang đứng, mà hai vị tiểu chủ nhân của chúng có trong số đó. Chúng kinh hãi quá chừng, vội quì xuống, dập đầu lạy bôm bốp. Riêng có Hồ Thiên, trong lòng dẫu hoảng sợ, miệng nói vẫn ra vẻ quật cường. Hắn nói đó là yêu quái bắt người, đại khái là hai tên tiểu súc sinh sẽ bị bắt, đem về động, bị ăn thịt. Câu nói chưa dứt, đã nghe giữa không trung có tiếng hô to :
- Lam Hưu nghe đây ! Chủ nhân của người vốn là nòi tiên, chỉ vì một ý niệm sai lầm, bị đày xuống phàm trần. Chủ nhân nam vì lòng ham muốn quá lớn, đã để liên lụy tới nữ chủ, cùng gặp phải kiếp nạn này. Nay ta dẫn hai người đó lên danh sơn tu đạo. Ngươi và thằng cháu, lòng trung sáng rực, rất đáng khen, ta sẽ sai thổ địa bản xứ đưa hai dượng cháu về nhà, lại ban cho một viên tiên đan, sống lâu trăm tuổi, một trăm nén vàng chẳng bao lâu cũng được ban xuống, cho hai người cùng thụ hưởng. Hồ Thiên lòng sói dạ ác, tội chết khó tha. Ta sẽ phái các vị thần tướng sấm sét lập tức hành hình.
Hồ Thiên bấy giờ mới khiếp sợ, nằm phục xuống đất, cao giọng xin thượng tiên tha mạng, từ nay về sau không dám làm ác nữa.
Nào ngờ hắn tội ác chất đầy, giữa không trung liền có tiếng sấm nổi lên, mọi người đều thấy trong ánh kim quang có hai vị thần tướng, mặt mày dữ tợn, một nam một nữ, hướng về phía hai vị tiên mà hành lễ. Lúc đó, mây đen bỗng kẻo đến, mặt trăng mất ánh sáng, kim quang lấp loáng, chiếu sáng như ban ngày. Mọi người nghe hai vị thần tướng nói :
- Thưa pháp sư, tiểu thần chúng tôi phụng chỉ làm sét đánh chết Hồ Thiên, nhưng nay đang lúc cuối đông, đầu xuân, khí trời đất không giao hòa, nếu muốn làm sét, ắt phái bẩm lên Thượng đế, đặc biệt cho phép gia hình, tiểu thần chúng tôi mới có thể trổ phép.
Lại nghe tiếng người tiên dặn bảo .
- Các vị tôn thần cứ chuẩn bị trổ phép đi, bần đạo sẽ lập tức lên trời bẩm báo, không để lỡ việc đâu.
Các thần tướng khom lưng, nói :
- Đã có pháp sư thay mặt bẩm báo, chúng tiểu thần đương nhiên tuân chỉ.
Nói rồi, lại khom lưng vái, lui ra. Chẳng bao lâu, kim quang tắt ngúm, có tiếng sấm nổ đoàng đoàng, chấn động hang núi, rồi chớp giật loang loáng. Hồ Thiên và đám tiểu nhân hung ác, bay hồn lạc vía, tính bỏ chạy, nhưng hai chân chôn chặt dưới đất như đinh đóng. không thể nhúc nhích. Bỗng lại thấy kim quang sáng lòa, và nghe người tiên nói:
- Ông Sấm, bà Sét nghe đây. Ngọc chỉ đã tới, hãy mau hành hình.
Một tiếng sấm nổ vang, Hồ Thiên bị sét đánh, cháy thành than. Đám thủ hạ hung ác của hắn, tuy thoát khỏi sét đánh, nhưng phải một mẻ hoảng sợ, về nhà thành bệnh, lại thêm hai mắt mù tịt vì ánh kim quang, suốt đời không khỏi.
 Lam Hưu và thằng cháu đứng một bên, thấy Hồ Thiên bị sét đánh chết rồi, liền phủ phục xuống đất, dập đầu lạy. Bỗng nghe bên tai có tiếng người nói :
- Người tiên đi hết rồi, bất tất phải đa lễ. Hãy mau theo ta, cùng trở về nhà.
Hai người nghe có tiếng nói, mà không thấy bóng người, mới hay đó là thổ địa được người tiên sai phái, lại vái tạ, theo về nhà.
Tới nơi, trời vừa rạng sáng, Lam Hưu lại nghe tiếng nói bên tai : ông bạn tốt, chào tạm biệt. Có viên tiên đan đang nhét trong tai ông đấy, lấy ra mà nuốt.
Lam Hưu hướng lên không trung, vái tạ. Lại có cảm giác trong tai cồm cộm vật gì, mới dùng móng tay út móc ra, quả nhiên là một viên tiên đan, chiếu sáng lấp lánh, lập tức nuốt đi.
Về sau, Lam Hưu và người cháu ra vườn hái rau, đào đất tìm được một hũ vàng, mới hay người tiên không dối ta. Hai người chia đôi, cùng thụ hưởng. Lam Hưu sống tới một trăm tuổi mới qua đời.
Nhưng đó là chuyện sau này.
Lại nói về Thái Hòa, Nguyệt Anh được hai vị tiên, nam và nữ, cứu khỏi cơn nguy hiểm. Hai người thấy Hồ Thiên chịu tội sét đánh, cảm thấy an ủi trong lòng, lại có một phần bất nhẫn. Lúc đó, hai người không dám nói gì, chỉ đi theo hai vị tiên cùng đằng vân giá vụ bay đi. Trong khoảng thời gian chừng nấu chín nồi cơm, bỗng nghe hai vị tiên nói một câu, hai người có cảm giác đám mây đáp xuống. Mở mắt ra nhìn, thấy mình hạ xuống một tòa núi lớn, đằng trước một gian thạch thất. Hai vị tiên đứng lại, nhìn Thái Hòa và Nguyệt Anh mà mỉm cười. Nguyệt Anh bấy giờ mới nhận ra vị tiên đàn ông chính là ân sư Thiết Quài tiên sinh ở kiếp trước, vị nữ tiên dường như có thấy mặt một lần, nhưng không nhớ rõ là ai. Thái Hòa thì mơ mơ màng màng, không nhớ nổi điều gì.
Nguyệt Anh liền cất tiếng gọi ân sư, dập đầu lạy tận đất. Thái Hòa cũng vội quì theo, dập đầu lạy. Thiết Quài tiên sinh báo hai người lạy vị nữ tiên, nói :
- Đây là Hà sư thúc của các ngươi.
Hai người hành lễ xong, Thiết Quài tiên sinh dẫn họ vào thạch thất. Liền có một đạo nhân trẻ tuổi bước ra tiếp rước, nói :
- Thưa sư tôn, sư thúc, đệ tử Dương Nhân xin bái kiến.
Thiết Quài tiên sinh hất tay, bảo đứng dậy, cùng Hà tiên cô tiến vào động. Dương Nhân theo sau, vẫy gọi Nguyệt Anh, Thái Hòa cùng vào. Hai vị tiên ngồi phía trước, bọn Dương Nhân ba người lại vái lần nữa. Thiết Quài tiên sinh an ủi Dương Nhân vài câu, khen ngợi Nguyệt Anh, sau đó mới nói với Thái Hòa :
- Thằng bé này báo hại Nguyệt Anh vướng phải lưới trần, làm lỡ dở của nó mất mấy năm tu hành. Nó đã nhiều lần khuyên ngươi, ngươi còn kiếm lời khéo léo để ngụy biện, mê đắm không tỉnh. Chiếu theo thói ngu của ngươi, nên sớm đuổi ra khỏi sư môn, bắt ngươi chịu khổ đủ điều, cho tận kiếp số. Nếu còn chưa quay đầu, sẽ đánh ngươi xuống mười tám tầng địa ngục, không ai cứu ra được Nay nể mặt vợ ngươi, mới cứu ngươi một lần, ngay hôm nay bắt ngươi phải lên núi Vương Ốc sơn, tĩnh tọa tu luyện ba năm. Nếu thấy ngươi không thay đổi chí hướng, mới có thể truyền thụ đại đạo. Nếu ngươi tự lượng là không chịu đựng nổi nỗi buồn ở nơi hoang sơn tịch mịch, nỗi khổ đói rét, nỗi sợ cọp sói, ta cũng không ép ngươi nhập đạo, cho ngươi xuống núi tức thì, về nhà mà lập công danh thụ hưởng hạnh phúc vợ đẹp con khôn, nhà cao cửa rộng.
Thái Hòa nghe nói, khóc rống lên, nói :
- Đệ tử nay đã hoạt nhiên tỉnh ngộ, tự biết mình trước đây mê đắm là vô lý, chẳng những đã hại Nguyệt Anh lở dở tiên duyên, mà bản thân đệ tử cũng phải nếm mùi đau khổ. Nay việc đọc sách đã không thành, cha mẹ qua đời, còn bị kế mẫu bất nhân, ngược đãi. Hôm nay, nếu không may mắn được tiên sư ra tay cứu vớt đệ tử đã táng thân trong bụng cá, nói chi tới chuyện công danh, phú quí . Còn điều này nữa : đệ tử vốn chẳng phải người không có căn cơ hôm nay được thấy phong cách của thần tiên trên đời, đã biết rằng những điều trước đây mình thường nói bậy, quả là điều sai lầm cua kẻ ngu dốt, đúng như lời sư tôn đã nói. Nếu còn tham luyến hồng trần, đệ tử không khác chi loài cầm thú, cỏ cây. Xin sư tôn yên tâm, đừng nói là bắt đệ tử đi xa tu đạo, cho dù bảo đệ tử giẫm lên nước sôi, lửa bỏng, đệ tử cũng quyết không chối từ. Xin sư tôn sai người đưa đệ tử đi ngay lập tức.
Thiết Quài tiên sinh cười, nói :
- Ngươi nói hay lắm, chẳng biết có làm được như lời hay không? Ngươi nói rằng giẫm lên nước sôi lửa bỏng, cũng không chối từ, là vì ngươi cho rằng đó là những việc nguy hiểm nhất, nhưng phải biết rằng việc tu đạo, cầu tiên, mới là việc khó khăn nhất trên đời. Tới lúc khẩn yếu, đừng nói là việc giẫm lên nước sôi lửa bỏng khó tránh khỏi, ngay cả khi gặp phải sự tình vô cùng hung hiểm, mười phần chết một phần sống, cũng phải hăng hái tiến lên, chẳng những không thể tránh né, mà còn không được phép khiếp sợ chút nào. Lúc đó mới biết quả thật ngươi có chịu nổi hay không.
Thái Hòa lạy dập đầu, nói :
- Con người ta sợ nhất là không dám chết. Đệ tử đã ở trong cảnh coi như chết rồi, nếu có gặp cảnh nguy hiểm đến đâu chăng nữa, cũng không thể sánh kịp, cái chết vừa rồi. Đệ tử chẳng dám tự nhận mình là người có chí, nhưng cũng biết tự khích lệ mình phải luôn luôn cố gắng.
Thiết Quài tiên sinh cười, gật đầu liền mấy cái, nói :
- Tốt lắm, chuyện đã qua không kể đến nữa. Việc ngày sau khó khăn, nên hay hư, đều bởi chuyến đi này. Ta cũng không phái người đưa ngươi đi, vì lúc này không ai nhàn rỗi để sai phái. Con đường từ đây đến đó có nhiều danh sơn, sông dài, có thể tùy thời mà du ngoạn, ngươi cứ khoan thai mà đi một mình thôi.
Nguyệt Anh đứng ở bên, nghe hai người nói chuyện. Nay thấy Thiết Quài tiên sinh bảo Thái Hòa một mình lên núi Vương Ốc, không biết từ đây tới đó cách nhau bao nhiêu, nhưng biết tiên sinh có ý mài dũa thân thể, rèn luyện gân cốt cho cậu này, lại dạy dỗ cậu ta rằng đằng trước có nguy hiểm không được né tránh, lòng sợ hãi không được có, cho thấy chuyến đi này sẽ gặp nhiều gian khổ. Thái Hòa xuất thân công tử, bình thời qua sông, đều có nhiều gia nhân nam nữ đi theo hộ vệ, không rời xa một bước, nay phải một mình đi đường dài, nhiều nguy hiểm, tuy nói tiên sư nhất định phải để mắt tới, quyết không có ý hại cậu, nhưng với thân phận như thế, làm sao Thái Hòa vượt qua nổi những nỗi gian nan vất vả? Nguyệt Anh nghĩ vậy, trong lòng có ý buồn rầu thay cho Thái Hòa.
Đột nhiên, Thiết Quài tiên sinh quay đầu nhìn lại, hướng về phía Nguyệt Anh, hét lên một tiếng. Người khác nghe ra, chỉ là một tiếng hét bình thường. Nguyệt Anh lại thấy màng nhĩ muốn vỡ, như thể sét nổ bên tai, bất giác kinh hãi thất sắc, rơm rớm nước mắt. Thiết Quài tiên sinh lại nhìn Nguyệt Anh, nói:
- Người tiên lấy vô tình làm đa tình. Lòng si mê không chết, thì đạo tâm không vững chắc. Ngươi là người có trí tuệ rất lớn, lại có định thức, sao còn tự trói buộc mình vào nhi nữ thường tình ? Tuy ngươi sử dụng tình cảm hoàn toàn không giống với tình yêu tầm thường của vợ chồng, nhưng phải biết rễ tình không trừ khử, tùy thời có thể nhập ma đạo. Ma đạo thấm sâu, ắt chính đạo tiêu tan, “người quân tử thận trọng lúc ở một mình" (1) chính là như vậy.
-----------------------------------
(1) câu này chép trong sách Trung Dung.

Nguyệt Anh nghe nói, tâm trí bừng sáng, lập tức mọi ý niệm tiêu tan, tỏ ý vui mừng, hướng về phía Thiết Quài tiên sinh mà vái.
Tiên sinh cất tiếng cười, gật đầu liền mấy cái, nói với Dương Nhân :
- Con bé này dạy được đây. Quả nhiên nó không thẹn là nòi tiên, mạnh hơn Thái Hòa rất nhiều. Sau này, tài năng của nó lớn không biết đâu mà lường.
Lại nói với Thái Hòa :
- Người có cùng xuất thân như Nguyệt Anh, căn cơ như nhau, nhưng chỉ vì nó không để mờ tối bản chân, bụi trần không nhiễm, nên rất gần với Đạo, thành công dễ dàng, đại khái chỉ trong vòng ba mươi năm đã có thành tựu nho nhỏ, trong khi ngươi vẫn còn có ý niệm ham muốn. Nếu biết nỗ lực tinh tiến, cũng không thua kém Nguyệt Anh bao nhiêu đâu.
Nói rồi, lại đưa tay chỉ Dương Nhân. Dương Nhân vội nói :
- Sư đệ đừng quên những lời sư tôn chỉ dạy hôm nay, phải chuyên tâm nhất chí, đừng sợ khó khăn, đừng ngại gian khổ, chớ hiềm tịch mịch, tu hành trong vài năm đã ngang với chúng ta tu trong mười năm. Vài chục năm sau, có thể chúng ta còn phải thỉnh giáo sư đệ nữa đó.
Thái Hòa nghe nói, vội từ tạ :
- Sư huynh chẳng nên quá khiêm, chúng ta đều là người một nhà, tình như thể anh em ruột. Tiểu đệ vâng lệnh sư tôn, lập tức xin cáo từ. Tiểu đệ tự nhiên nhận mình ngu hèn, lần này đi nhất định kính cẩn tuân theo lệnh sư tôn, quyết chí tiến lên, nếu có điều gì chưa đạt, mong sư huynh niệm tình đồng đạo mà tùy thời trách lỗi, quả là vạn hạnh.
Thiết Quài tiên sinh bảo Dương Nhân đi lấy một bọc bạc vụn, vài bộ quần áo, cấp cho Thái Hòa, để làm đồ nhu dụng trên đường lữ hành, rồi bảo cậu ta lập tức xuống núi. Thái Hòa có ý quyến luyến, không muốn đi ngay. Thiết Quài tiên sinh lại nói :
- Nho gia có câu : "Sớm nghe đạo, tới chết cũng được. Học mà không đến nơi, còn sợ có điều để mất". Người đã quyết tâm cầu đạo, đừng nói là thời gian một, hai ngày không thể để uổng phí, ngay cả một tấc bóng mặt trời cũng phải luyến tiếc. Ngươi mau đi đi.
Thái Hòa bái biệt từng người, từ biệt Nguyệt Anh, nói :
- Muội muội, em đã hết lòng vì ta, mà mấy năm nay, ta làm lỡ dở việc tu đạo của em. Từ đây trở đi, em cứ mở mắt mà xem, ta sẽ làm tốt vai trò của một ca ca, dẫu có chết trên núi, cũng không làm em thất vọng đâu. Muội muội hãy bảo trọng. Sau này, ngu huynh có tiến bộ nhiều chăng nữa, cũng phải nhờ em chỉ giáo.
Nguyệt Anh không còn vì Thái Hòa mà bi thương nữa, khẳng khái nói mấy câu khuyến khích, rồi cùng Dương Nhân đưa tiễn Thái Hòa xuống núi, đến khi thấy cậu đi đã xa, mới trở về động phủ.
Thiết Quài tiên sinh cười, nói với Hà tiên cô :
- Sư muội xem Thái Hòa đi chuyến này, có kết quả hay không ?
- Người này tâm địa rất tốt, chỉ tiếc là lún sâu vào thế tình, e rằng đạo tâm không vững chắc, tiền tình sẽ gặp trở ngại. Theo tôi thấy, cậu ta thua xa Nguyệt Anh.
- Nguyệt Anh tất nhiên là tốt hơn Thái Hòa, nhưng cậu ta thông minh, không kém Nguyệt Anh. Trải qua đại nạn lần này, cậu ta sẽ coi thế tình rất lạnh nhạt. Những lời cậu vừa nói tỏ ra rết kiên quyết, suy nghĩ chắc chắn. Lần này lên núi Vương ốc, lại tĩnh tọa luyện công ba năm nữa, lẽ nào lại chẳng thành công ? Nhưng trước mắt, phải làm sao khiến cậu tỉnh ngộ chắc chắn, ngăn cản cậu không còn nẩy sinh ý niệm tạp nhạp, mới khiến cậu giữ được đạo tâm chuyên nhất, ngày càng tiến bộ, mau chóng thành công. Nay chúng ta không có việc gì làm, có thể dẫn theo Nguyệt Anh, cùng xuống núi đi chơi một phen, âm thầm quan sát Thái Hòa, nhân tiện đi du sơn ngoạn thủy, cũng được vậy.
Tiên cô mừng rỡ nhận lời. Thiết Quài tiên sinh kiểm tra việc tu luyện của Dương Nhân xong xuôi, Dương Nhân bẩm báo rằng hôm sau là ngày giỗ mẹ, anh ta phải đi thăm mả, quét dọn mộ phần. Thiết Quài tiên sinh gật đầu, nói :
- Việc đó nên làm. Mẹ anh không có tiên duyên, ta chỉ có thể độ cho bà ta làm quỉ tiên, không thể làm hơn. Lúc gặp mẹ, anh hãy khuyên bà ta lập nhiều công hạnh. Đợi sau khi anh tu thành chính quả, anh sẽ độ cho bà làm địa tiên.
Dương Nhân lạy tạ, nói :
- Đệ tử nhất định khuyên mẹ làm nhiều công hạnh, để phúc về sau.
Thiết Quài tiên sinh gật đầu, từ biệt Dương Nhân, cưỡi mây bay đi, tính tới nhà họ Lam trước nhất. Giữa đường, ông hỏi Nguyệt Anh:
- Chúng ta tới nhà họ Lam, ngươi có tính chuyện gì không ?
Nguyệt Anh đáp :
- Bố chồng của đệ tử chết không minh bạch, người trong làng ai cũng biết cả, nhưng đệ tử và Thái Hòa không tìm được bằng chứng nào. Nay sư tôn đích thân tới nhà họ Lam, có phải là vì vụ án oan này muốn thân oan cho người chết hay không ? Hiềm vì đệ tử thân phận nhỏ bé, chẳng dám bàn ngang. Còn chuyện vợ chồng đệ tử bị hiếp đáp, tội lỗi ở một mình Hồ Thiên. Nay ông ấy đã chịu tội, bao hiềm oán của chúng đệ tử đã tiêu tan rồi, có lẽ nào lại tìm cách trả thù bậc tôn trưởng ? Chắc sư tôn cũng không vì chuyện của vợ chồng đệ tử mà phái vất vả tới đó.
Thiết Quài tiên sinh khen ngợi Nguyệt Anh nói năng phải phép, nhân đó nói :
- Bố chồng của con chết về tay chị em họ Hồ. Động thủ là cả hai chị em, nhưng kẻ chủ mưu là một mình Hồ Thiên. Vì thế Hồ Thiên tội rất nặng, đã bị sét đánh chết, mà chưa hết tội, hiện nay đang ở âm tào, chịu hình phạt núi đao. Còn mẹ chồng con, thân phận làm vợ, mới chịu ơn chồng nâng lên hàng chính thất, không lo báo đáp, lại nghe lời em trai, mưu hại chồng, còn muốn hại luôn cả dâu con nữa, bàn về tâm địa, chỉ kém Hồ Thiên có chút xíu thôi. Nhưng nay còn có điều khó giải quyết, là bố chồng con cả một đời không làm việc gì sai lầm, để lại hai đứa nhỏ, một trai một gái đều là con của Hồ thị sinh ra, tuổi còn quá nhỏ, phải nhờ mẹ nuôi dưỡng. Nếu Hồ thị chịu tội, chết đi, hai đứa nhỏ không có người chăm sóc, cũng chết theo. Vì thế, đối với Hồ thị, tạm thời không dùng nghiêm hình, bảo bà ta khéo vỗ về hai trẻ nên người, đừng nghĩ chuyện ác, hại người mà hại cho mình.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 20.07.2008 16:29:52
Hồi Thứ 61

Lý Thiết Quài thăm hỏi Huyền Châu Tử
Vương Nguyệt Anh thử thách Lam Thái Hòa.


Hà tiên cô và Vương Nguyệt Anh theo Thiết Quài tiên sinh cưỡi mây bay tới nhà họ Lam. Trên đường đi, thầy trò đang bàn về biện pháp cảnh cáo Hồ thị. Thiết Quài tiên sinh nói :
- Đây chỉ là chuyện nhỏ. Ta vì thể diện của Nguyệt Anh, không thể không đi một chuyến, nhưng cũng nhân tiện giải quyết một việc lớn.
Hà tiên cô muốn hỏi là chuyện gì, Thiết Quài tiên sinh chưa kịp trả lời, đã thấy một đám mây đen từ góc Đông Bắc bay về hướng Nam. Thiết Quài tiên sinh thở dài, nói :
- Ác nghiệt thay con quái này ! Không biết nó còn muốn hại bao nhiêu sinh linh nữa đây ?
Nhân đó lại báo cho hai người biết :
- Vừa rồi, ta có nói tới một việc lớn, chính là việc này đây. Hai người thử nhìn trên đám mây đen, coi có nhận ra con gì đang đứng hay không ?
Tiên cô lúc này đạo hạnh đã thâm hậu, sớm nhận ra một con giao long cực kỳ to lớn, cái đầu chàng bàng, khắp mình là vảy vàng lấp lánh, mới nói cho Thiết Quài tiên sinh biết. Nguyệt Anh chẳng nhìn thấy gì, chỉ thấy mây đen mà thôi. Thiết Quài tiên sinh lại than dài :
- Nói về tuổi tác, các vị thiên tiên trên thượng giới hiện nay cũng không có vị nào lớn tuổi hơn con vật này; nói về đạo hạnh, nó biết phép thiên độn, lại có tài biến hóa. Nhưng không hiểu sao nó chỉ thích chìm sâu trong Ma giáo, chuyên làm những việc thương thiên hại lý, nhất thời có thể tránh khỏi tội trời, nhưng không bao lâu kiếp số tới, cũng không thoát khỏi sét đánh.
Nói rồi liên tiếp lắc đầu, than thở không cùng. Nguyệt Anh mới hỏi lai lịch con vật này ra sao, nó đã làm ác những gì. Thiết Quài tiên sinh cười, nói với Hà tiên cô :
- Nó chính là con nghiệt súc đã đại náo đạo tràng trong loa cung. Hai ba phen thất bại, nó tính chiếm cứ sông Tiền Đường, làm căn cứ địa. May cho Huyền Châu Tử ra sức giữ gìn, nó không làm gì được. Nhưng kiếp số đã định, sau này nó lại quấy phá một trận nữa. Ta đi lần này là muốn đem lai lịch lão giao nói cho Huyền Châu Tử biết, để có thể bảo hộ sinh linh trăm họ. Nếu không kịp thời ngăn chặn, cũng có thể cứu ứng đúng lúc.
Tiên cô nghe nói, rất khâm phục. Thiết Quài tiên sinh lại đem lai lịch lão giao nói cho Nguyệt Anh nghe, Nguyệt Anh kinh hãi, nói:
- Chúng ta có quyết chí cầu tiên, cũng khó được đại đạo. Lão giao này đã có đạo hạnh thâm hậu, sao lại hoành hành như thế, há chẳng phải tự chuốc lấy họa diệt vong, uổng phí cả vạn năm công hạnh ư !
Thiết Quài tiên sinh và Hà tiên cô nghe nói, nhìn nhau mà than thở. Lúc đó vừa vặn tới nhà họ Lam, ba người từ trên không trung đáp xuống. Cả nhà Hồ thị đều quì phía trước, không dám ngừng đầu. Nguyệt Anh không dám nhận đại lễ, tránh qua một bên. Hồ thị thấy Nguyệt Anh đi chung với hai vị tiên, biết cô cũng đã thành tiên không dám có ý khinh mạn chút nào. Lại sợ cô tới để báo thù những việc ngược đãi trước đây, bà ta run bần bật, miệng nói lắp bắp :
- Thưa Vương... Vương... Vương tiểu thư, Vương thiếu... thiếu thiếu phu nhân. '
Cố làm ra vẻ kính trọng mà thân mật. Chẳng dè Thiết Quài tiên sinh thét lên một tiếng, khiến mụ kinh hồn, táng đởm, ngã ngất ra. Nguyệt Anh vội tiến lại, đỡ dậy, nói nhỏ vào tai, giọng khích lệ :
- Không cần phải sợ. Sư phụ tôi là thiên tiên hữu đạo, tới đó là để cứu bà, khiến bà thoát khỏi thảm kiếp, không phải đọa kiếp luân hồi. Bà hãy tĩnh tâm lãnh giáo, khéo sửa đổi lỗi lầm, bảo đãm sau này bà sẽ được điều tốt lành.
Hồ thị nghe vậy, lại run rẩy, nói :
- Tiểu... tiểu thư có ý tốt, ta đã biết rõ. Hận rằng ta ngu dốt tối tăm, không nhận biết người tốt. Những điều trước đây ta đối với cô không được đẹp, mong cô đừng để dạ.
Nguyệt Anh nghe vậy, càng thêm bối rối, vội nói :
- Hãy mau nghe tiên sư chỉ giáo. Bà hãy nhìn coi tiên sư đang cầm vật gì trong tay.
Hồ thị tự động nhìn về phía Thiết Quài tiên sinh. Mụ không nhìn còn đỡ, một khi đã nhìn, càng thêm khiếp hãi, kêu lên một tiếng, ngã lăn ra, miệng sùi bọt mép, bất tỉnh nhân sự.
Nguyên đồ vật Thiết Quài cầm trong tay là một tấm gương nhỏ, hình tròn, chỉ to rằng miệng chén. Hồ thị nhìn vào, liền thấy một vùng rộng bao la, cảnh đầu tiên mụ nhìn thấy là một căn phòng, trong phòng có một người bệnh đang nằm. Ngoài ra còn có hai người, một nam một nữ, đang bàn nhau chuyện đánh thuốc độc giết người bệnh. Bệnh nhân vừa uống xong thuốc, lập tức nẩy người lên, bảy khiếu (1) đều ra máu tươi. Điều kỳ lạ là căn phòng đó rất giống một phòng trong nhà họ Lam, người bệnh chính là Lam Văn, hai người đánh thuốc là chị em họ Hồ. Tình trạng Lam Văn nằm chết rất ghê sợ. Hai chị em lăng xăng một hồi, rồi Hồ Thiên lo dọn dẹp, lau chùi xác chết, không để lại một dấu vết. Tấm gương đã lưu lại hình ảnh sống động về việc hai đứa bức tử Lam Văn, chính xác tới từng chi tiết, khiến Hồ thị khiếp sợ, lăn ra chết. Thiết Quài tiên sinh thấy mụ chết giấc, liền hướng về phía mụ, thổi phù một hơi. Hồ thị dần dần tinh lại, trong lòng hiểu rõ mọi chuyện, không muốn nhìn vào gương nữa, nhưng những cảnh hiện ra trong gương vẫn đập vào mắt mụ, cho thấy những chuyện xảy ra sau khi Lam Văn chết, nào là Hồ thị tự ý chuyên quyền, nào là Hồ Thiên ton hót, xúi bẩy, mưu hại vợ chồng Thái Hòa thế nào, vì sao Lam Hưu biết được, nửa đêm thông tin cho Nguyệt Anh, rồi Hồ Thiên vu hãm Nguyệt Anh, làm ầm ĩ cửa nhà... cặp vợ chồng bé phải chạy trốn, Hồ Thiên dẫn thuộc hạ đuổi theo... Thái Hòa, Nguyệt Anh gặp tiên, được lên trời, Hồ Thiên bị sét đánh chết. Tất cả những cánh đó hiển hiện trong gương, Hồ thị nhìn thấy, liền ngẩn ngơ như say, như mê, bất giác đưa mắt nhìn Thiết Quài tiên sinh. Tiên sinh liền bảo Nguyệt Anh :
- Hãy dẫn bà ta đi, hỏi xem bà ta có chịu hối lỗi, làm lành, thành tâm làm một người tốt, không làm việc ác nữa, được không? Nếu biết rộng thi âm đức, làm nhiều việc thiện, ông trời quyết không bít ngõ người hối lỗi, tự tân, sau này công hạnh viên mãn, còn được nhiều điều tốt lành, ngoài trí tưởng tướng.
-------------------------------
(1) Bảy khiếu (thất khiếu) : bảy lỗ hổng trong người, thường được kể là  2 mắt, 2 lỗ mùi, 2 lổ tai, và hậu môn.

Nguyệt Anh tuân lệnh, dẫn Hồ thị vào phòng trong, chiếu theo những ý nghĩ của sư phụ, khổ công khuyên nhủ, chỉ dẫn một phen.
Hồ thị liền sáng suốt trong lòng, hiểu ra liền, lập tức đứng dậy, chạy ra nhà ngoài, quì trước mặt Thiết Quài tiên sinh, lạy bôm bốp, khóc mà rằng :
- Tôi đã hối hận những việc làm không phải trước đây, quyết tâm làm việc thiện. Nếu có lời nào giả dối, hoặc giữa đường cải tiết... Nói rồi, đưa ngón tay út lên miệng, cắn mạnh một cái, đứt ngón tay, máu tuôn như xối, đau thấu tim gan, nhịn đau nói tiếp :
- Thân này sẽ không được chết lành, mà như ngón tay này, đứt làm hai khúc.
Nói dứt lời, đau quá mà hôn mê. Thiết Quài tiên sinh rất hài lòng vì thấy Hồ thị quyết tâm như thế, gật đầu tán thưởng :
- Nói được câu này thì tội lớn cách mấy cũng có thể tha thứ.
Lại hướng về phía Hồ thị, thổi phù một hơi, Hồ thị lồm cồm ngồi dậy, máu ở vết thương ngưng lại. Thiết Quài tiên sinh nói vài lời an ủi. Hồ thị giữ lại lóng tay bị cắn đứt, nói :
- Để mỗi ngày nhìn ngắm, tránh khỏi giẫm lên vết xe đổ.
Thiết Quài tiên sinh giải quyết xong việc nhà họ Lam, lại dẫn tiên cô và Nguyệt Anh, cưỡi mây bay đi, tới thẳng địa phương Hải Ninh, tìm tới ngôi miếu của Huyền Châu Tử.
Huyền Châu Tử từ khi nhận chức đến nay, nhiều lần hiển linh nên việc hương khói rất thịnh. Nghe Thiết Quài tiên sinh tới thăm, ông vội ra đón. Hai vị tiên gặp nhau, vui mừng cười lớn tiếng, dắt tay nhau, vào trong miếu. Tiên sinh bảo tiên cô, Nguyệt Anh ra mắt Huyền Châu Tử, tỏ lòng ngưỡng mộ. Huyền Châu hỏi Thiết Quài về tình hình cuộc vân du, Thiết Quài tiên sinh hỏi ông kia về việc giữ đất, đề phòng lão giao, nhân đó kể lại chuyện gặp lão giao ở giữa đường. Huyền Châu thở dài, nói :
- Con vật này chưa trừ khử, đất Chiết còn mắc cạn. Tiểu đệ tuy đã hội ý với long vương, nhiều lần bày cách ngăn chặn đường ra vào của nó, những con yêu này thần thông quảng đại, không thua kém chúng ta, nếu sơ xuất là trúng ngay gian kế của nó. Lúc đó tính mạng của trăm vạn sinh linh khó bảo toàn, trách nhiệm đổ lên đầu một mình tiểu đệ. Tiểu đệ tự nhận tài năng nông cạn, gánh trọng trách này, mỗi khi nghĩ đến, thường run rẩy sợ hãi.
Đạo huynh đã không bỏ rơi, hạ cố tới đây, ắt có điều gì chỉ dạy.
- Đạo hữu quá khiêm tốn. Lão giao tuy dữ, nhưng xưa nay tà không thắng chính. Huống chi lại có đạo huynh cẩn thận lưu tâm, ngồi chấn cửa biển, lại được vợ chồng Bình Hòa giúp đỡ, chắc hẳn lão giao cũng không làm gì được đâu. Nếu xảy ra chuyện gì ngoài ý nghĩ, là tại kiếp số, không sao tránh khỏi. Chỉ cần đạo huynh trước sau như một, không bê trễ, không cẩu thả, đừng vì cao hứng nhất thời mà quên đi việc cảnh giới hàng ngày. Như vậy, kiếp số có tới cũng không can dự gì tới đạo huynh.
Huyền Châu Tử luôn miệng khen phải, nhưng trong lòng cảm nhận những lời Thiết Quài tiên sinh chỉ bảo không được thiết thực lắm, chẳng qua chỉ là những câu cửa miệng biểu hiện sự tắc trách, vì thế trên mặt hiện ngay ra thái độ không mấy khâm phục. Thiết Quài tiên sinh hiểu ý, nhưng giả bộ như không biết. Chiều tối, Huyền Châu Tử sai người dọn ra những trái cây tươi của Giang Nam, những đặc sản đất Việt Trung, để đãi ba người khách phương xa. Chủ khách chuyện trò vui vẻ, ăn uống tận tình. Hôm sau, Thiết Quài tiên sinh lại dẫn tiên cô, Nguyệt Anh rời khỏi Hải Ninh, nhắm hướng Bắc đi trung châu. Tiên sinh bỗng cười, nói với Nguyệt Anh:
- Ta sẽ dạy cô một trò chơi nhé.
Nguyệt Anh không hiểu ý, tiên cô mới nói :
- Sư huynh đã thấy trước tác dụng, hiền muội chỉ nên dụng tâm học tập, bất tất hỏi nhiều.
Thiết Quài tiên sinh niệm chú lâm râm, bảo Nguyệt Anh đọc lại rõ to cho thuộc, lại nắm hai tay cô, viết vào lòng bàn tay hai chữ lờ mờ, nói :
¬- Niệm câu chú ngữ, có thể thực hiện phép tàng hình. Nhưng đây không phải chính đạo, chẳng thể dùng lâu, đại khái chỉ có thể ứng nghiệm trong một, hai ngày. Hai chữ lờ mờ trên tay cô chính là bùa chú. Lúc muốn tàng hình, cứ đưa lòng bàn tay trái lên trên, lập tức người ta không nhìn thấy cô ở chỗ đang đứng. Chừng nào muốn hiện ra, lại lật ngược bàn tay xuống, lập tức thân hình xuất hiện trở lại. Phép thuật loại này chỉ là trò chơi, không được coi là phép tiên đứng đắn. Phép tàng hình chính thức, phải có công lực thật sự mới thực hiện nổi, có thể biến hóa vô cùng, cũng không cần dùng tới bùa chú.
Tiên sinh lại nói tiếp :
- Chuyến đi này là vì việc của Thái Hòa, nhưng cũng vì cô mà ra. Ta đối với cô đã mười phần tin tưởng, riêng với Thái Hòa, ta còn không dám quyết đoán cậu ta có đổi chí hay không. Vì thế mới nhân dịp này thử thách cậu ta một phen, coi có thành tâm hay không. Nếu cậu ta quả thật có tương lai, thì qua lần thử thách này, càng thêm kiên định lòng tu đạo. Cậu ta sớm lên trời ngày nào, cô sớm xuất thế ngày ấy. Vì thế mới nói vì cậu ta, mà thật tình là vì cô đối với Thái Hòa, cô có tâm nguyện giống hệt như ta đối với Hà sư muội vậy. Sư muội một ngày chưa thành tiên, ta cũng một ngày không lên trời. Hy vọng sau này, Thái Hòa sẽ vì cô mà dụng tâm học tập, đặc biệt nỗ lực, để cô có thể yên tâm, mà ta cũng được an ủi.
Nguyệt Anh lúc đó mới hiểu rõ tấm lòng của Thiết Quài tiên sinh, vội hỏi :
- Vậy muốn thử thách Thái Hòa, phải làm thế nào.
Thiết Quài tiên sinh liền chỉ dẩn cho cô, nên làm... như thế, như thế, nhất thiết không để lầm lỡ, mới biết được chân tình của Thái Hòa. Nguyệt Anh lĩnh mệnh.
Thiết Quài tiên sinh chợt ngó xuống dưới, chỉ tay về phía một thôn xóm hạ giới, nói :
- Đây đã là địa giới Dự Châu, nằm phía Nam sông Hoàng hà. Ta chắc Thái Hòa đêm nay sẽ tới đây xin tá túc. Hiện tại cậu ta còn đang ở giữa đường, ta cùng Hà sư muội đi trước tới đó, hù dọa cậu ta một phen, coi cậu có can đãm hay không. Cô hãy tới thôn xóm, theo kế sách của ta mà giải quyết, không được để hỏng việc.
Mọi người hạ thấp đám mây, rơi xuống một miếu thổ địa. Thổ địa vội ra nghênh tiếp thượng tiên, Thiết Quài tiên sinh nói rõ ý mình vì sao tới đây, nhờ ông ta chiếu cố Nguyệt Anh, vì cô còn trẻ hiểu biết chưa sâu, e có điều sai lầm gì chăng. Vì thế, Nguyệt Anh ở lại trong miếu để đợi Thái Hòa.
Thiết Quài tiên sinh cùng Hà tiên cô ra khỏi miếu, dùng phép rút đất, tới phía sau một vách núi, cách xa đó hơn mười dặm. Thiết Quài tiên sinh chỉ tay về một khu rừng đằng trước, nói :
- Trong khu rừng kia, có một người đang đi thất thểu, chính là Thái Hòa đấy. Nơi đó vắng vẻ không người, cô hãy ngó xem có phải cậu ta đang bồi hồi nhìn quanh bốn phía, ắt hẳn đang muốn tìm người để hỏi thăm đường phải không ? Hiền muội hãy mau ra tay, dẫn dắt cậu ta đi tới.
Tiên cô cất tiếng cười, lắc mình một cái, biến ra một bà lão, tóc bạc phơ, đón đường Thái Hòa. Bên kia, Thái Hòa vì trời sắp tối, lạc mất đường đi, đang tính tìm một người để hỏi thăm đường.
Bỗng thấy phía trước có một bà lão đi tới, lòng mừng khấp khởi, vội tiến lại thi lễ, hỏi :
- Bần đạo đang muốn lên núi Vương Ốc, vì đi mãi đã lỡ độ đường, xin lão bà chỉ cho chỗ nào là đường cái, có thể tìm nơi nghỉ đỡ ?
Tiên cô quay nhìn về phía sau, chỉ dẫn :
- Cậu cứ theo lối bên kia mà đi, sẽ vượt qua một vách núi, lại đi tiếp chừng năm, sáu dặm, sẽ có thôn xóm, có thể nghỉ đỡ qua đêm.
Thái Hòa chắp tay vái, cám ơn, rồi rảo bước mà đi. Lúc đó trời đã sắp tối, mặt trời xuống dần. Thái Hòa càng thêm nóng lòng, muốn đi cho mau. Nào ngờ vách núi ở ngay phía trước, đi mãi không tới. Thái Hòa vừa bực tức, vừa buồn cười, nghĩ thầm : "Mình đã vội, lại lâm vào hoàn cảnh này. Con đường đi dài hay ngắn, đã có chiều dài nhất định, tại sao lại thấy lúc gần, lúc xa ? Chắc hẳn tại lòng mình nóng vội, mới có cảm giác như thế". Tuy nói vậy, nhưng con đường lúc đó quả thật kỳ quái, rõ ràng là cách không xa, đi hoài không tới, ánh mặt trời càng lúc càng ngắn lại, bóng hoàng hôn đã buông xuống. Lúc Thái Hòa tới được chỗ vách núi, đã cảm thấy kiệt sức, bất giác cất tiếng, nói:
- Theo lời lão bà nói, qua khói vách núi, còn phải đi thêm sáu, bảy dặm đường nữa, mới có thôn xóm. Bây giờ trời đã tối đen, đường đi không nhận ra nổi, thật khổ vô cùng. Vả lại nhìn núi này tuy không cao lắm, nhưng đường núi quanh co, còn sợ hùm sói, giặc cướp xuất hiện đột ngột. Nếu gặp phải những thứ đó chẳng những trong tay ta không một tấc sắt, khó chống cự, mà lúc này toàn thân ê ẩm, muốn chạy cũng không thoát, biết làm sao đây ?
Suy nghĩ một hồi, liệu chừng ngồi lại chỗ này cũng không phải thượng sách, đành phấn khởi dũng khí tiến lên. Vừa vượt qua khỏi vách núi, bỗng nhiên cây cối trong rừng rung chuyển, một cơn gió quái nổi lên, dường như có ý nhầm chỗ chung quanh Thái Hòa mà vây chặt. Thái Hòa ngước mắt nhìn lên trên núi, chợt thấy trong đám rừng có hai đĩa đèn rất lớn, phát ra ánh sáng lấp lánh. Thái Hòa lấy làm lạ, nghĩ thầm : "Trên núi vốn không có người ở, tại sao lại có thứ đèn lớn thế này ? Vừa rồi mình chẳng thấy gì, sao đột nhiên lại xuất hiện hai ngọn đèn này ? Ai đem treo chúng lên, treo để làm gì ?"
Nghĩ một hồi, bất giác căng mắt nhìn ra xa. Vừa nhìn rõ, liền kêu lên một tiếng, ngã lăn ra đất.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 20.07.2008 18:14:04
Hồi Thứ 62

Mãng xà nằm vắt ngang hai núi, thành đường đi.
Đơn thân tìm hỏi đại đạo, vì đạo quên thân.


Thái Hòa thấy trên núi hiện ra hai ngọn đèn lớn, lấy làm kinh dị. Chừng nhìn kỹ lại nhận ra đó không phải hai ngọn đèn mà là đôi mắt của một con trăn, cực kỳ to lớn. Đầu nó to như cái thúng, thân nó lớn, mấy người ôm không xuể, lại dài mười dặm.
Đầu ở núi này, bụng vắt ở trên đỉnh núi bên kia, cách xa năm dặm. Hồi nhỏ đi học, cậu từng nghe kể về cố sự, nói có con chạch, nuốt được con heo mập. Lúc đó, cậu cho là chuyện kỳ dị, ghê sợ, đêm nằm không ngủ được. Nào hay con vật được nhìn thấy hôm nay, còn hoang đường, quái đản, không sao tưởng tượng, và đáng sợ hơn con lươn nuốt heo rất nhiều. Cũng may lúc này, cậu vừa lập chí cầu tiên, gác bỏ tính mệnh ra ngoài suy nghĩ, nên lấy lại lòng can đảm, hùng tráng hơn xưa rất nhiều, dần dần ổn định tinh thần, đứng dừng lại, nói to cho một mình nghe :
- Thái Hòa ơi Thái Hòa, ngươi đã là người cầu tiên hỏi đạo, đừng nói là con lươn nho nhỏ, dài mười dặm, thân to mười ôm, ngay cả chân long, che lấp trời đất, trút biển lật sông, cũng chẳng đáng sợ. Đi lên, đi lên, mặc kệ nó, đường ta ta cứ đi, sợ cái gì ?
Liền mạnh dạn bước những bước dài, nhắm phía trước mà tiến lên. Nhưng trong lòng thỉnh thoảng vẫn không quên được con lươn nho nhỏ, lo ngay ngáy, bước chân lật đật, không do mình điều khiển. Luôn luôn tự nhắc nhở, tự trách mình, nói "Đừng nghĩ tới nó, đừng nghĩ tới nó. Nghĩ tới nó là không hảo hán !", mà đôi chân chẳng chịu nghe lệnh chỉ huy. Đang lúc gạt bỏ tính mạng qua một bên để tiến tới, hai ngọn đèn trên núi dường như hiểu được hướng đi của cậu. Bỗng nghe con trăn chuyển mình răng rắc, cặp mắt như hai ngọn đèn cứ nhắm vào thân mình Thái Hòa mà chiếu sáng.
Đồng thời, một luồng khí tanh tưởi bốc ra, xông lên tận mũi, không sao chịu nổi. Rõ ràng con quái này đã gây chuyện với Thái Hòa đây mà. Nó vươn cổ, đưa cái đầu bự hướng về phía trước. Chỉ nghe một tiếng ầm vang giữa không trung, con vật khổng lồ nằm vắt ngang giữa trời, gác đầu lên một cành cao của cây cổ thụ rất to, cách chỗ Thái Hòa đang đứng chừng mười trượng. Thái Hòa lúc đó đã gần hôn mê, không rảnh mà xét xem cái đuôi trăn nằm vắt ngang đỉnh núi nào. Chỉ nghe cây cổ thụ rung chuyển từ gốc tới ngọn, cành cây kêu răng rắc như muốn gẫy đôi, đủ biết sức lực con trăn mạnh cỡ nào. Thái Hòa lúc đó rõ ràng đang ở dưới cổ con trăn, mà thân của nó nằm cách mặt đất chưa đầy năm thước. Nếu nó đột nhiên hạ mình xuống, có thể đè chết Thái Hòa, hoặc giả nó phì hơi, quẫy mình một cái, có thể hất cậu văng ra xa mấy dặm.
Kinh hãi hơn nữa là cặp mắt trăn cứ chiếu thẳng về trước, dường như đang muốn tiến lại gần Thái Hòa. Lúc đó, cậu ta chỉ còn cách mau mau lùi về đằng sau, nếu tiến lên một bước, sẽ sớm chôn thân trong bụng trăn mà thôi. Trong lúc vô cùng kinh hãi, Thái Hòa chuyển nghĩ, cảm thấy đã lâm vào tuyệt cảnh, chỉ còn nghĩ cách bảo vệ tính mạng. Bất luận thế nào, không gì bằng tạm lùi về đằng sau, tìm một khoảng đất rộng và bằng phẳng, ngồi nghỉ một đêm, đợi khi trời sáng sẽ tính kế khác. Nghĩ tới chỗ đó, đột nhiên lại nhớ tới những lời hùng tráng mình đã nói trên núi Thái sơn.
Hiện tại sư phụ và Nguyệt Anh không có đây, nhưng tự mình đã lẻo miệng khoe khoang những gì, làm sao quên được ? Trên con đường phía trước, những nỗi nguy hiểm có thể xảy ra liên tục, nên vừa gặp chuyện ngoài ý nghĩ, đã vội nghĩ tới việc lùi bước, làm sao tới được Vương Ốc sơn ? Làm vậy, chẳng những đắc tội với sư tôn, còn để cho Nguyệt Anh, Dương Nhân chê cười, mà đạo hạnh của bản thân cũng vĩnh viễn không có ngày tiến bộ. Còn nữa, người ta sống ở đời những chuyện an nguy, tồn vong đều có số trời. Số đã đáng chết, ta có lùi lại, qua được chỗ này, con trăn kia có thể chuyển mình, đuổi theo, thì cái thân hình nhỏ bé này chưa đáng làm món điểm tâm cho nó. Hoặc giả gặp phải hùm sói, giặc cướp, không chết vì con trăn, cũng chết vì mấy thứ kia thôi. Nếu số không đáng chết, còn có hy vọng thành tiên, ta có thể chui qua bên dưới con trăn, chỉ cần nhẹ nhàng, len lén, đừng làm kinh động đến nó là được. Nghĩ đến đó, lòng can đảm chợt nổi lên, đồng thời nẩy ra một ý nghĩ trẻ con, muốn đem thân mình ra làm thí nghiệm, coi thật sự ta có tu đạo được hay không. Tức thì chắp hai tay lên trán, ngước mặt nhìn trời, thành tâm khấn vái :
- Đệ tử Lam Thái Hòa quyết tâm tu đạo, không tránh nguy nan, nếu đại đạo chắc thành, lên trời có ngày, xin thần linh phù hộ cho đệ tử vượt qua được nạn chui vào bụng rắn này; nếu tiền đồ không có hy vọng, đệ tử cũng không thiết kéo dài kiếp sống khổ sở này. Người ta sống trên đời, lẽ nào không chết ? Trước sau cũng một lần chết, thì chết bạo hay chết an lành, có gì phân biệt ? Chết sớm hay chết muộn cũng thế thôi. Xin thần minh hiển linh ứng, đem đệ tử nhét vào bụng trăn, đệ tử quyết không oán hận.
Nói rồi buông tay xuống, ổn định tinh thần, mạnh mẽ sải bước, tiến về phía trước. Vừa đi được vài bước, thì... Không xong rồi !
Con trăn đã không khách sáo với Thái Hòa, và cũng chẳng hiểu nó nghĩ gì mà duỗi thẳng thân mình, và rồi chỉ thấy thân hình khổng lồ và đen sì của nó từ trên không trung rơi bịch xuống mặt đất, cái đầu vẫn đặt trên ngọn cây, cái đuôi đã nằm trên đỉnh núi, khúc giữa nằm trên mặt đấy, chắn ngang lối đi của Thái Hòa. Lúc đó, là gan của cậu ta vừa được thổi phồng, lập tức teo tóp. Cậu nằm lăn ra đất, miệng kêu lên :
- Trời ơi, trời ơi ! Chẳng lẽ thật tình ta không có hy vọng tu đạo, phải làm con giun nhỏ, chui vào bụng con lươn này ? Tại sao các vị sư tôn lại đẩy tôi vào bước đường cùng, bắt tôi phải chết ? Nếu sư phụ có ý muốn lấy tính mạng tôi, còn cứu tôi thoát khỏi bàn tay của ông cậu độc ác làm gì ? Sư phụ ôi, quả thật lão nhân gia đã cố tình ghẹo con đây mà !
Nói một chập, khóc một chập, lại nhìn lại mình con trăn, vẫn chẳng thấy động đậy. Nhưng phía sau cậu không có thứ gì ngăn trở, nếu muốn lùi về đằng sau, có thể bình an vô sự. Tuy nhiên Thái Hòa đã tự nhận mình là người tu đạo, cần phải luyện công phu "khắc kỷ, thận độc" (1), dẫu tính mạng nguy trong khoảnh khắc, cũng tuyệt đối không có ý lùi về sau, và cũng không hề nghĩ tới một phương pháp nào để hy vọng vượt qua thân trăn. Lúc đó, trời đã tối mịt, nhìn cảnh hoang dã chung quanh, không hề có đèn đóm gì. Chút ánh sáng giúp cậu nhận ra đường đi chỉ là cặp mắt trăn, chiếu sáng như hai ngọn đèn. Như trên đã nói, cặp mắt này vẫn luôn luôn chiếu thắng về phía Thái Hòa. Trong lúc không có việc gì làm, cậu lại nảy ra một ý nghĩ trẻ con : "Nếu có thể kết bạn, làm anh em với bác lươn này, nhờ bác chiếu sáng, soi đường cho ta tiến về thôn làng đằng trước, chẳng tốt lắm sao ?". Cậu cũng tự biết đó chỉ là ý nghĩ trẻ con, làm sao có được điều tốt đẹp như thế ?
-----------------------------------------------
(1) Nghiêm khắc với bản than, thận trọng khi ở một mình.

Đang lúc ngẩn ngơ, chợt thấy con trăn khẽ cử động, tất cả cây cối trên núi xào xạc, chim chóc kinh hãi bay lên, tản ra bốn phía.
Tự nhiên Thái Hòa kinh hãi, ngồi ngay xuống đất, lặng lẽ đợi đem thân táng vào bụng trăn. Giây lát, một trận cuồng phong nổi lên, cây cối dao động, cát bay đá chạy, rào rào rơi xuống đầu Thái Hòa, khiến cậu ta ngồi ôm đầu chịu trận. Nào ngờ con quái lại tung mình nhảy lên không trung, cách mặt đất hơn mười trượng. Thái Hòa nhìn toàn thân con trăn, so với thần long trên trời, trong trí tưởng tượng bình thời của cậu, chẳng thua gì nhau. Lúc đó, trong lòng Thái Hòa lại nổi lên hy vọng được sống, thật mạnh mẽ. Cậu âm thầm khấn vái thiên thần phù hộ, mau mau ra tay, lôi con quái lên trời, đem đi chỗ khác. Đó quả là điềm lành cho biết sau này cậu sẽ đắc đạo thành tiên. Ai ngờ con trăn bay giữa không trung, không hề bị ai nắm giữ, cũng chẳng có thiên thần nào ra tay lôi nô đi, mà thân hình nó từ từ dãn ra, dần dần hạ xuống đất, nằm vắt ngang giữa hai đỉnh núi, biến thành một con đường núi, rất rộng, có thể qua lại dễ dàng giữa hai trái núi. Vài trăm năm sau, con đường núi này vẫn còn có người qua lại, các vị cố lão tương truyền, gọi chỗ đó là "Thần mãng ao" (đường đèo thần mãng), và thôn làng ở cửa núi được đặt tên là mãng du ao" (đường đèo nơi mãng xà rong chơi).
Từ đời Đường, Tống trở về sau, chỗ đường đèo đó cư dân cứ giảm dần, nhân đó bị yêu quái chiếm giữ. Sau Lã Thuần Dương (tức Lã Động Tân, dùng một hòn đất lấp kín cửa núi, từ đó con đường mới không thông hành. Đến nay, nhân sĩ bản xứ còn có người biết chuyện cũ, hiểu vì sao nơi đây được đặt tên là Mãng du ao. Nhưng đó là chuyện sau này.
Nói tiếp về Thái Hòa, cứ nhắm phía trước mà đi, thấy sắc trời đã tờ mờ sáng, toàn thân mỏi rời, thất thểu bước tới cửa miếu thổ địa, đưa tay gõ nhẹ lên cánh cửa. Lát sau, cửa mở hé một cánh, bên trong có người bước ra, là một người đẹp tuyệt trần, nghiên nước nghiêng thành, khiến Thái Hòa nhìn thấy, liền ngó sững.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 20.07.2008 19:23:12
Hồi Thứ 63

Miếu thổ địa, cùng bàn huyền lý.
Làng ôn nhu dẫn dụ đạo đồng.


Lam Thái Hòa được người tiên cứu ứng, thoát hiểm, lên tới miếu thổ địa, trời vừa rạng sáng. Cậu cảm thấy vừa đói vừa mệt, chân tay bải hoải. Cậu đưa tay gõ cửa, người mở cửa ra đón là một người đẹp tuyệt trần. Thái Hòa không ngờ gặp một cô gái đẹp đến thế, ngẩn người ra, vội vòng tay chào, hỏi có phải cô nương là người không thường trú tại miếu này chăng, bần đạo vì đi gấp, giữa đường đã gặp phải chuyện bất ngờ, may có thượng tiên bảo hộ , đã thoát hiểm đến đây, muốn nhờ nơi này làm chỗ nghỉ chân, không biết cô nương có chấp thuận hay không. Cô nương nhìn Thái Hòa quần áo tả tơi, tỏ vẻ ngạc nhiên lẫn thương cảm, mới cười, nói:
- Người xuất gia đến đâu cũng là nhà, huống hồ nơi đây là chỗ miếu mạo? lẽ nào lại không thể ở nhờ ? Tuy hiện giờ người coi miếu không có ở đây, nhưng tôi với ông ta là chỗ thân thích, có thể thay mặt ông mà làm chủ. Đạo trưởng bất tất phải khách sáo, cứ vào đây mà dùng trà.
Thái Hòa bấy giờ mới yên tâm, ngỏ lời cảm ơn, theo cô gái bước vào. Bên trong có một phòng khách nhỏ, cô nương mời Thái Hòa ngồi, và kêu một người ăn mặc ra vẻ một đạo cô hãy đi pha trà mang lên, lại nói :
- Đạo trưởng từ xa tới đây, chắc là đói khát lắm rồi. Nơi đây hoang vắng, không có gì để đãi khách, chỉ có món mì sợi của tục gia, do chúng tôi nấu, đạo trưởng có dùng được không ?
Thái Hòa lúc đó đã thấy bụng đói, sôi sùng sục, mà chưa dám mở miệng ra đòi hỏi, được lời như cởi tấm lòng, vội đứng dậy bái tạ. Cô nương mỉm cười, bảo đạo cô mau đi nấu hai tô mì, đem tới.
Đạo cô vâng lời, đi ngay. Không bao lâu bưng tới hai tô thật lớn, bốc khói nghi ngút, mùi mì thơm lừng. Thái Hòa đã đói meo, không khách sáo, cầm đũa gắp mì, ăn liền. Cô nương thấy cậu đói mèm, ăn vội, vừa đáng tức cười vừa đáng thương, liền nói :
- Ở đây không có ai khác, đạo trưởng tự nhiên, chẳng cần khách sáo.
Nói rồi, ngồi xuống cuối bàn, cùng ăn chung cho vui, nhân thể hỏi thăm lai lịch của cậu, Thái Hòa nhất nhất kể ra.
Cô nương nghe chuyện, lấy làm lạ. Đợi cậu ăn xong, mới nói :
- Đạo trưởng đừng trách tôi nói nhăng. Tôi thấy đạo trưởng có vẻ là danh gia tử đệ, lại đang tuổi thanh xuân, tại sao không nghĩ chuyện học hành cho giỏi, làm quan làm tê, hưởng cảnh phồn hoa trên đời, lại đi lang thang khắp nơi, vào sinh ra tử, chịu mọi gian khổ ? Trên đời quả thật có người tiên hay sao ? Người tiên có thể tùy tiện tu thành được chăng .
Thái Hòa không để cô nói dứt, đã cười, trả lời :
- Thì ra cô nương tuy ở trong miếu, nhưng không mấy tin đạo, nên mới nói những lời trái lẽ như thế. Xưa nay người ta thường nói thần tiên vốn là người phàm làm nên, có lý nào quyết chí cầu đạo lại không thể thành tiên ? Còn nói trên đời không hề có thần tiên, người khác còn có thể bán tín bán nghi, chứ bần đạo mười phần tin chắc cả mười. Nói vậy không phải dựa vào lý luận mà nói, thật tình bần đạo đã được tận mắt nhìn thấy thánh tích của thần tiên, và không chỉ một hai lần mà thôi đâu. Không cần nói tới người khác, ngay sư tôn của bần đạo đã là một vị chân tiên trên thượng giới. Mới tối qua thôi, ngài đã đứng trên không trung điều khiển mãng xà, cứu bần đạo thoát nạn. Đương nhiên đó là một vị thần tiên, nếu không, làm sao có được thứ pháp lực đó ? Làm sao khiến nổi con súc sinh ngu độn, hung hãn phải cúi đầu nghe lệnh ?
Nói tới đó, lại nhớ tới những sự việc trước đây, mới đem những việc kỳ dị mình vừa trải qua, kể sơ lược cho cô nương nghe. Cuối cùng, lại nói giọng khẩn thiết :
- Chẳng giấu gì cô nương, bần đạo lúc bé là người đặt nặng tình đời, đạo tâm không có chút nào. Lúc đó, trong lòng vẫn thường nghĩ tới chuyện làm quan, tác tể, phát tài phát phúc, hưởng vài chục năm hạnh vận trên đời. Tới chừng vài lần gặp biến cố, mới dần dần hiểu ra rằng người ta sống trên đời, bất luận phú quí đến đâu, vinh hoa cỡ nào, chung qui cũng chỉ là mây khói, chớp mắt chẳng còn gì. Đồng thời, nhờ tiên sư chỉ điểm, bạn bè khuyên bảo, mới biết trên đời quả có người tiên, lại biết đích xác rằng người tiên đều là người phàm, nhờ tu luyện mà thành. Nhân đó, tôi mới thấu triệt rõ ràng, hiểu được rằng cảnh vinh quang tạm bợ không tài nào sánh kịp phúc phận vô cùng, và nếu nhắm vào danh lợi ngắn ngủi, sẽ để mất hạnh phúc vĩnh cửu. Vì thế, tôi mới quyết tâm vất bỏ tất cả, để theo lời thầy dạy, tình nguyện chịu khổ sở một đời, chỉ cần cầu cho được đại đạo của thần tiên. Đại đạo đã thành, thần tiên chỉ có thể đạt, đó là điều quá tốt đẹp. Vạn nhất giữa đường gặp nguy hiểm, đến nỗi bỏ xác quê người, hoặc táng thân vào bụng thú, chẳng qua cũng chỉ là một lần chết. Đã là cùng một lần chết, thì giàu sang như vương hầu khanh tướng, với nghèo hèn như đẩy xe, mang vác, có gì phân biệt ? Chết già trên giường, với chôn thân trong bụng thú, cũng như nhau. Bần đạo thấu hiểu những mối quan hệ đó, nên đã coi phú quí như đám mây nổi, mà những chuyện sống lâu, chết trẻ, hay chết lành, chết dữ, bần đạo cũng không để trong lòng, chỉ chuyên tâm nhất ý, hướng theo con đường dẫn tới đại đạo mà đi. Đi thông suốt hay không thông suốt, điều đó là do mệnh số định trước, sức người không thể vãn hồi, hà tất phải để trong lòng ?
Cô nương nghe nói, bỗng ngẩng đầu lên, nhìn Thái Hòa chăm chú, tươi cười nói :
- Theo tôi thấy, cuộc đời một người, ngắn thật là ngắn, nhưng chính vì quá ngắn ngủi, ta mới phải mau mau mưu cầu khoái lạc, chứ đợi khi có chuyện thất thường, tìm không còn kịp nữa. Còn nói về chuyện tu đạo, xét cho cùng là quá hoang đường, chỉ có thể lừa gạt được những kẻ ngu ngốc, chứ người thông minh một chút chẳng thể tin được. Đạo trưởng thử xét lại coi, những bậc thánh hiền, hào kiệt xưa nay, cùng những người tuyệt thế thông minh, ai là chẳng ham muốn sống mãi không già, vĩnh viễn làm người tiêu diêu ngoài đời ? Tại sao chẳng nghe họ nói tới việc tu tiên học đạo, mà đều đem thân lo việc nước việc dân, làm minh quân, lương thần, vì việc quốc thái dân an mà tạo lập sự nghiệp ? Không thể nói họ đều là những thằng ngố, không hiểu được người phàm có thể thành tiên.
Thái Hòa nghiêm sắc mặt, nói :
- Cô nương nói vậy sai rồi. Trên đời vốn có tam giáo, một là Nho, hai là Thích, ba là Đạo. Nho giáo đã tốt thịnh ở trung thổ, Thích giáo mới bắt đầu ở phương Tây, trong khi Đạo giáo chúng ta khởi nguồn tử thủa khai thiên lập địa. Tuy không thịnh bằng Nho, Thích hai nhà, nó có lịch sử từ lâu đời, hơn hẳn hai nhà kia. Cô nương vừa hỏi tại sao các thánh hiền, hào kiệt không tu đạo, câu nói đó tưởng chừng có lý, thật ra là ta chưa hiểu sâu về nguyên lưu tông phái, cùng nội dung tông chỉ của các giáo phái đấy thôi. Nên biết ba tôn giáo tuy có đường lối khác nhau, nhưng mục đích ích quốc, lợi dân thì là một. Như chúng tôi, hiện mới xuất gia, thời kỳ thành đạo còn xa, nhưng muốn tu thành đại đạo, cũng phải một mặt rèn luyện công phu tu trì bản thân, mặt khác phải lập nhiều âm công, khéo kết thiện duyên, lấy cái tâm làm cơ sở, giữ lòng mình mười phần vững chắc, mới có thể vững chắc bước tiến công, đạt được diệu đạo. Âm công càng nhiều, thiện duyên càng rộng, thì việc thành tựu mới càng lớn. Những phương pháp và cách tiến hành như thế, thử hỏi so với Nho, Thích hai đạo giáo, có gì phân biệt ? Lại nói về hai nhà kia, họ cũng có công phu tu đạo, tình trạng tuy khác, mà lý thì là một. Tức nhiên kết quả là họ cũng có niềm vui bên trong. Nho, Thích hai nhà đã có đường lối riêng của họ, tự nhiên họ chẳng phải dùng tới công phu của chúng ta, giống như chúng ta tự có công khóa, hà tất phải bắt chước họ ?
Cô nương cười lớn tiếng, nói :
- Càng tốt. Đã nói rằng ngoài việc tu tiên, còn có đạo trường sinh, việc gì cứ phải khăng khăng đòi xuất gia ?
Thái Hòa mới nghe, bất giác ngẩn người ra, nhưng rồi phản bác.
- Đã nói tu đạo có thể thành tiên, hà tất phải thay đổi, đi theo đường lối của Nho, Thích ? Huống chi việc tu trì của tam giáo, quí nhất là giữ chuyên nhất, không đổi. Như lời bàn của cô nương, tự người đã xuất gia, còn nên trở về lo liệu việc nhà, lập nên sự nghiệp trên đời ? Điều đó Đạo gia nhất quyết không chấp nhận mà hai nhà kia cũng không thể nào dung nạp.
Nói đến đây, Thái Hòa cảm thấy trong lòng buồn bực vì cô gái cứ quấy rầy mình. Cô này tuyệt nhiên không chịu hiểu lẽ phải, chỉ muốn cùng cậu kéo dài câu chuyện. Nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy mặt trời đã lên cao, gió ban mai lùa vào phòng, Thái Hòa cảm thấy sau bừa ăn, tinh thần tăng lên, không còn thấy mệt mỏi nữa. Nhưng cậu muốn rời xa cô nương, vội nói :
- Cô nương đã chấp nhận cho bần đạo tạm trú, bần đạo vất vả suốt đêm qua, lúc này chân tay rã rượi, xin cô nương vui lòng cho phép tôi đi nghỉ, cho dãn gân dãn cốt.
Cô nương nhìn Thái Hòa không có vẻ gì là mệt mỏi, liền nói giọng giễu cợt :
- Món mì sợi của tôi không phải thứ thực phẩm tầm thường, bán ngoài chợ. Người nào ăn vào, khí huyết liền tăng gấp mấy lần, nếu mỗi ngày ăn một tô, có thể hết bệnh, tăng tuổi thọ, tại sao đạo trưởng vừa ăn một tô lớn, còn nói là tay chân bải hoải ? Nếu chẳng phải cậu không có phúc thụ hưởng, cũng là bao tử của cậu không được tốt, giữ không nổi thức ăn bồi bổ đó. Đủ thấy hai chữ “tu tiên", cậu tuyệt đối không có hy vọng gì đâu, mà táng thân vào bụng thú, như lời cậu nói, đã có tám, chín phần chính xác rồi đó !
Nói rồi, lại nhoẻn miệng cười, ngó Thái Hòa đăm đăm, nói :
- Tôi đem lòng trung thực của đàn bà, nói cậu chẳng chịu nghe, cậu cậy mình thông minh, lem lém miệng cãi. Hạng người ngoan cố như thế, quả thật tôi mới gặp lần đầu.
Nói rồi, lại nhìn Thái Hòa chăm chú, nhíu cặp lông mày đẹp, nửa như oán hờn, nửa như cầu khẩn, rơm rớm nước mắt, lộ vẻ yêu kiều, ủy mị, khiến người có lòng sắt đá cũng không tránh khỏi vừa thương vừa yêu. Thái Hòa không biết làm sao, vội cúi đầu, không nói một tiếng, ngay cả nhìn cô nương cũng chẳng dám. Lúc đó, vị đạo cô đứng hầu một bên mới mỉm cười, lên tiếng :
- Vị đạo trưởng này bề ngoài có vẻ là một đạo sĩ nghèo khổ, rõ ràng là một đại gia công tử. Cô nương nhà tôi năm nay vừa mười tám tuổi, dung mạo, tài đức hiếm có trên đời, ngay cả các vị thần tiên trên trời, vị tất đã có người vượt qua cô. Lão gia nhà tôi lúc còn sống, từng làm quan lớn nước Sở, quyền cao chức trọng. Đêm qua, lão nhân già về báo mộng cho tiểu thư, nói : "Ngày mai có một vị đạo sĩ trẻ tuổi, tới đây xin ở nhờ. Người đó với con có duyên phận vợ chồng, con hãy giữ anh ấy lại, kết hôn nhân". Vì thế, tiểu thư nhà tôi sáng nay dậy sớm, chờ đợi. Không dè vừa bước xuống giường, đạo trưởng đã tới gõ cửa, cho thấy đây là trời ban lương duyên, không sai chút nào. Sở dĩ tiểu thư nhà tôi năm lần bảy lượt khuyên cậu đừng xuất gia, cùng vì ý nghĩ đó. Công tứ hãy nghĩ lại coi, tiểu thư nhân phẩm, tài hoa như thế, kiếm khắp trên đời, có thể tìm được người thứ ba hay không ? Thiếu gì những vị vương tôn, công tử, tìm cách cầu thân, nhưng chưa có người nào vừa ý tiểu thư. Nay cô đã để mắt xanh tới công tử, quả là phúc nhân không dễ gì có được đâu. Theo tôi nghĩ, công tử nên cởi bộ quần áo đạo sĩ, đổi mặc Nho phục, kết thành mối lương duyên. Nếu muốn tu tiên, hãy đợi sau hai, ba chục năm hưởng hạnh phúc vợ chồng, bấy giờ hai người đồng tâm đồng chí, cùng dụng công tu luyện. Chỉ cần lòng phàm tĩnh lại, sẽ tùy lúc mà lên trời. Vả lại, hai vợ chồng cùng tu, lúc dụng công sẽ náo nhiệt hơn. Còn hơn là đơn độc một thân, lội sông vượt núi, trải qua nhiều nguy hiểm. Xin công tử nghĩ lại.
Thái Hòa không dè đạo cô lại nói những lời như thế, bất giác cười ha hả, nói:
- Tốt lắm, tốt lắm. Thì ra chủ tớ hai người cố ý giữ khách, đặt chuyện lão chủ nhân báo mộng, để ép buộc ta là một người xuất gia, phải rơi vào vòng tay của tiểu thư, kết làm cặp vợ chồng ân ái. Tuy đây là thịnh tình của tiểu thư, và lòng ưu ái của lão chủ nhân, nhưng tôi cũng không chịu để người khác ép buộc đâu. Vừa rồi tôi đã nói, ngay cả bàn thân và tính mạng, tôi đã gác bỏ ngoài cuộc đời, thì dầu là tiên thiên giáng hạ, kết phối nhân duyên, tôi cũng dứt khoát không dám nhận. Xin tiểu thư hãy để mắt tìm một người khác môn đăng hộ đối, một vị vương tôn, công tử có tài mạo tương xứng với cô mà kết phối ngẫu. Hãy tha thứ cho bần đạo cố chấp, đã để phụ tấm thịnh tình.
Nói chưa dứt lời, đã thấy cô nương, nước mắt ròng ròng, gục xuống bàn mà thổn thức. Thái Hòa quính quáng, không biết làm sao, chỉ biết năn nỉ cô, mặt khác lại muốn rời xa ngay tức thì, mới cầu xin đạo cô dẫn mình tới phòng khách nghỉ ngơi. Đạo cô thấy Thái Hòa quá ngang ngạnh, liền giận dữ trong lòng, nói lớn tiếng :
- Có phải công tử nghi tôi nói chuyện hoang đường đấy không? Trong mộng, lão chủ nhân đã đem tên họ, lai lịch của công tử kể ra rành rành. Nếu công tử không tin, để tôi nói rõ cho cậu nghe nhé. Xin hỏi công tử có phải họ Lam, tên Thái Hòa hay không ? Có phải cậu là người ở làng Mỗ , xứ Mỗ không ? Chẳng phải mẹ kế của cậu đã gây chuyện, lăng nhục vợ chồng cậu, nhân đó hai người mới chống đối lại, cùng kéo nhau ra khỏi nhà, cùng đâm đầu xuống sông...
Đạo cô đem những chuyện cũ của Thái Hòa, kể ra tường tận, như thể chính mắt cô ta được nhìn thấy. Thái Hòa bất giác trợn trừng mắt, há hốc miệng, không nói được một lời. Chừng nghe cô ta nói tới chuyện vợ chồng đâm đầu xuống nước, Thái Hòa lại chuyển nghĩ : "Chẳng lẽ nó là ma, mới biết rõ việc nhà ta như thế! Cô tiểu thư ngồi trước mắt kia, là yêu tinh gì, biến thành người đẹp, tới đây để dẫn dụ ta ? Nếu quả như vậy, ngoài cái chết ra, ta còn tìm được biện pháp nào khác để đối phó ? Cô ta chưa trở mặt, ta lại không có chút bản lãnh nào, đương nhiên không thể gây sự được với cô ta". Vì thế, lại lên tiếng năn nỉ đạo cô :
- Tôi từng thề độc trước mặt sư phụ, kiếp này không được đại đạo, sẽ chịu quả báo thảm khốc. Lòng nhã ái của tiểu thư, thật tình tôi không dám nhận, còn như lòng chiếu cố của lão chủ nhân dưới suối vàng, tôi sẽ không bao giờ quên, sau này có dịp, nhất định sẽ báo đáp. Những lời tỉ tỉ đang nói, tôi cũng không dám lãnh giáo. Tôi đã không để vào tai, xin chị đừng nói nữa.
Đạo cô mỉm cười, nói :
- Quả là chuyện lạ. Ngày nay, trên đời sao lắm người trẻ tuổi, cứ một mực đòi xuất gia ? Lần trước đã có một vị lang quân đòi tu đại đạo gì đó, kết quả đại đạo chưa đạt được, trước gặp phải một tên cướp, thí cho một đao, lấy đi tính mạng nhỏ bé. Cách đó không bao lâu, không dè lại có một chàng ngốc, thấy việc trước mắt tốt đẹp như thế, mà nỡ vất bỏ, đòi đi vào đường tuyệt lộ, thật kỳ quái vô cùng.
Vị cô nương nãy giờ không nói gì, chỉ cúi đầu, ngồi lặng lẽ, nước mắt long lanh, dường như có điều thương tâm, nghe đạo cô nói, mới khẽ cất tiếng :
- Người ta đã không muốn tôi, chị còn nhiều lời làm chi ? Hãy dẫn cậu ta đi nghỉ đi, bất tất phải phí lời ?
Nói rồi, lại ngồi buồn bã, hai hàng nước mắt lăn tăn rơi xuống, đột nhiên lại gục mặt xuống tận ngực, không ngửng lên nữa. Thái Hòa vô cùng bứt rứt, nhưng không kiếm lời an ủi cô, chỉ hướng về cô ngỏ lời cảm tạ, lập tức đứng dậy, theo đạo cô đi ra, tới một căn phòng nhỏ ở đầu hành lang phía Tây. Trong phòng, kê một chiếc giường, chăn nệm trên đó vô cùng sạch sẽ, thơm phức. Đạo cô khẽ mỉm cười, nói :
- Cậu coi đó là chiếc giường thêu của tiểu thư nhà tôi. Cô là người rất ưa sạch sẽ, nay lại đem chăn nệm của mình cho cậu nằm nghỉ thoải mái, cậu vốn không phải người có trái tim sắt đá, sao không hề hồi tâm chuyển ý chút nào ?
Thái Hòa nghe vậy, vội quay mình, bước ra ngoài, nói :
- Dứt khoát tôi không dám tiết mạn tiểu thư, xin chị kiếm cho tôi một căn phòng khác, với một chiếc giường gỗ, đủ ngả thân thôi. Người xuất gia dùng những đồ đạc của người khác, càng sang trọng càng tăng thêm tội lỗi. Tôi là người mới học đạo, không thể để giảm phúc như thế.
Vừa nói, vừa bước ra cửa. Không dè đạo cô cất tiếng cười hì hì, dùng sức lôi cậu trở lại, nói :
- Cậu tính đi đâu ? Nơi đây chỉ là một tòa miếu hoang, làm gì có nhiều phòng ốc ? Ngoại trừ căn phòng này, mới được sửa sang lại, làm phòng tạm trú cho khách, còn tìm đâu ra một căn phòng trống trải ?
Thái Hòa vội nói :
- Nếu vậy, tôi nằm trên điện thờ, đánh một giấc cũng được. Phòng khuê của người ta, sao có thể cho phép thất lễ ?
Đạo cô nghe vậy, trên mặt hiện ra vẻ lúng túng, không được tự nhiên, cười nhạt :
- Cậu làm toàn những chuyện khiến người khác khó xử. Người ta đã lo giường mền cho cậu đầy đủ, cậu còn lôi thôi, lắm chuyện . Cậu ở đây là khách, lẽ nào chúng tôi lại để khách phải khó chịu . Giường gỗ, nệm rơm, những thứ thô lậu đó, chúng tôi chẳng dám đem ra đối đãi với người dưới, huống chi là đối với cậu ? Còn  chuyện nằm trên đại điện ngủ khò chẳng qua chỉ là câu nói chơi, chúng tôi đâu dám khinh mạn khách đến thế ? Ngày mai, miếu chủ biết được, lại trách chúng tôi. Tôi khuyên cậu cứ ở đây, hưởng thụ một ngày hạnh phúc, đừng nghĩ lôi thôi gì nữa.
Nói rồi, vận dụng tất cả sức mạnh, xô đẩy Thái Hòa một cái, ngã lăn ra trên chiếc giường nệm. Thái Hòa cảm thấy đạo cô có sức mạnh phi thường. Cô ta vừa ra tay đẩy mạnh, cậu đã cảm thấy như ngàn cân đè nặng, không sao gượng nổi. Không hiểu cô gái này lấy đâu ra thứ thần lực đó, Thái Hòa kinh hãi trong lòng, liệu rằng đấu lực với cô ta ắt không thành công, chỉ còn cách là mềm mỏng năn nỉ mà thôi. Cậu vừa đứng dậy, định mở miệng, đạo cô đã không để cậu nói, lại xô mạnh một cái, khiến cậu ngã lăn ra giường. Cô ta lại lấy mền chùm kín đầu cậu, mỉm cười nói :
- Xin lỗi, tôi không thể bồi tiếp.
Nói rồi, cười lên một tiếng, bỏ đi.
Thái Hòa nằm suy nghĩ lung tung một hồi, bỗng chuyển nghĩ : “người tu đạo tùy ngộ nhi an, giẫm lên nguy hiểm như đi trên đất bằng. Việc đến đâu hay đấy, có gì mà phải suy nghĩ ?". Định tâm một lát, thần thái an nhàn, dần dần đi vào cơn mộng.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 21.07.2008 10:28:07
Hồi Thứ 64

Vương Nguyệt Anh bày kế thăm dò phòng ngủ
Đông Phương Sóc dùng trí ăn trộm đào tiên.


Thái Hòa tỉnh giấc mơ vào lúc giữa trưa, nghe loáng thoáng có 1 tiếng con gái, đang đẩy cửa bước vào. Cậu kinh hãi quá chừng, tỉnh ngủ liền, vội vã ngồi dậy, thì cô gái đã tới gần bên giường, vén màn giường lên. Thái Hòa nhận rõ là cô tiểu thư đã tiếp chuyện với cậu lúc sáng tinh mơ, bất giác nhớ lại những lời cô đã nói, chẳng có nghĩa lý gì. Chỉ thấy cô nương giữ vẻ đứng đắn, đàng hoàng, hỏi cậu:
- Lang quân đã tỉnh dậy, có thể cho đem điểm tâm tới, chàng xơi lại ngủ tiếp, được không ?
Thái Hòa vội đặt chân xuống đất, cô gái đã đưa tay ngăn lại, nhoẻn miệng cười, nói :
- Lang quân sao quá sơ tình đến thế ? Chúng ta chỉ là bèo nước gặp nhau, nhưng đã có người chết báo mộng, chính là trời định lương duyên, sao chàng còn cố chấp ? Há chẳng nghe nói thần tiên cũng có người đã thành gia thất đấy ư ?
Thái Hòa vội xua tay lia lịa :
- Cô nương đừng nói tới những chuyện đó, khiến tôi càng thêm hổ thẹn. Cô nương là người nhà trời, tự nhiên sẽ có các vương tôn công tử, anh hùng tài tử, tới tìm cô để kết giai ngẫu suốt đời, việc gì phải quấy rầy bần đạo ?
Cô nương nghe vậy, ửng hồng hai má, ra dáng thẹn thùng, nói:
- Lang quân đừng hiểu lầm ý em, coi em là hạng con gái hạ tiện dâm bôn. Cha em là danh thần trong triều, mẹ em cũng thuộc gia đình danh tiếng. Em tuy thô lậu, từ bé đã được gia đình giáo huấn, những việc thi thư, nữ công đều biết rành, há có thể bắt chước hạng con gái hạ lưu, không tránh hiềm nghi, tấn công con trai ? Thật ra chỉ vì cha em báo mộng rõ ràng, cũng coi như cha mẹ đã cho phép, mà lang quân ngay hôm đó từ xa tới, quả là mối lương duyên tuyệt hảo. Nếu để cơ hội này vuột khỏi, e rằng khó kiếm được một dịp nào khác. Vì thế, không tránh hiềm nghi, quên đi điều hổ thẹn, và thấy trong miếu không người lạ mặt, em lại phải tới gặp lang quân, mong chàng hứa cho một lời, đính kết hôn nhân, để em sớm có chỗ gửi thân suốt đời, mà cha mẹ ờ nơi chín suối cũng được yên dạ. Chẳng biết lang quân có thấu hiểu nỗi khổ tâm, mà nhận lời hay không ?
Thái Hòa vừa nghe cô kia nói, vừa để tâm coi thần sắc và cử động của cô, không thấy có vẻ gì là lả lơi, nảy ý nghi ngờ, không hiểu ý cô nàng ra sao. Nhưng thấy cô cứ quấy rầy mình, cậu không thể leo xuống giường, đành nhắm chặt mắt , ngồi ngay ngắn, không trả lời một câu. Cô nương tự cảm thấy cụt hứng, thở dài một tiếng, lặng lẽ trở ra. Chỉ nghe cô kia sập mạnh cánh cửa, bỏ đi. Thái Hòa không nghe tiếng gì nữa, tính chuyện ngủ trở lại.Nhưng trong lòng ngổn ngang trăm mối, không sao chợp mắt, mà dùng công phu khắc chế trở lại, cũng không hiệu quả. Cậu tự giận mình, nói to tiếng cho một mình nghe :
- Lam Thái Hòa ơi, Lam Thái Hòa ! Ngươi ở trước mặt sư tôn, lém miệng khoe khoang, nay bước đầu tu luyện cũng không đạt được lại mắc vào ma nạn này. Nếu ngươi để tâm dao động, chẳng những người không còn mặt mũi nào nhìn sư phụ và người vợ đồng môn, mà còn bị đánh xuống địa ngục, vĩnh viễn không ngóc đầu lên nổi. Nay gặp lúc khẩn yếu, quan thiết, bất luận thế nào ngươi cũng phải gạt bó tính mạng qua một bên, mới tốt.
Vừa nói tới đó, lại nghe trong phòng như có tiếng đàn bà cười, Thái Hòa ngạc nhiên quá chừng, đưa mắt nhìn quanh, nhưng chẳng thấy một bóng người, tự cho là mình nghe lầm, đành bỏ qua. Tức thì, vận nguyên công, ngồi yên lặng. Hồi lâu, tâm tư mới ổn định, bỗng lại nghe bên ngoài có tiếng cãi cọ. Lắng tai nghe kế bất giác kinh hãi. Giọng nói của một người, nghe sao giống giọng Vương Nguyệt Anh, vợ mình, đến thế. Lại vểnh tai lắng nghe, nhận ra quả thật là Vương Nguyệt Anh đang ở bên ngoài tranh cãi với các cô gái tự làm mai cho mình. Thái Hòa rất kinh hãi, nghi ngờ, nghĩ nơi đây là hoang thôn vắng vẻ, sao Nguyệt Anh có thể tới được ? Chẳng lẽ sư phụ biết ta gặp khó, đặc biệt phái cô tới cứu ta ? Nghĩ tới đó, liền muốn phá cửa bước ra, cùng Nguyệt Anh thấy mặt nhau. Bước thẳng tới chỗ cửa ra vào, nhận thấy cánh cửa tuy không lớn, nhưng rất vững chắc. Đưa tay xô thử, không thấy động đậy, bất giác hoảng hốt. Lại lắng tai nghe, thấy bên ngoài, hai người càng lúc càng to tiếng, từng câu, từng câu lọt vào tai Thái Hòa. Nghe rõ tiếng Nguyệt Anh mắng cô kia là con tiện tì vô sỉ, dám dụ dỗ chồng người. Cô kia cũng không nhịn, cãi lại ầm ĩ. Náo loạn một hồi, Nguyệt Anh nối giận, rút kiếm cầm tay, cô kia hoảng sợ, bỏ chạy. Sau lại nghe đạo cô lên tiếng năn ni Nguyệt Anh, và Nguyệt Anh thả cho cô ta đi. Thái Hòa hết lòng mong mỏi Nguyệt Anh tới mở cửa, để vợ chồng gặp mặt nhau. Nào ngờ đợi suốt nửa ngày, chẳng thấy gì, mà bên ngoài cũng im hơi lặng tiếng.
Tới chiều tối, bụng đã thấy đói, chợt quay đầu nhìn lên mặt bàn kê gần giường, thấy trên đó có ổ bánh mì rất lớn, cùng với một chai nước. Thái Hòa chẳng cần suy nghĩ, bẻ bánh ra ăn, rót nước ra uống. Nghe bên ngoài, hoàn toàn yên tĩnh, Thái Hòa lại lên giường đi ngủ, sáng mai sẽ tính kế khác. Có thể là phá cửa sổ, nhảy ra ngoài cũng nên.
Thái Hòa đánh một giấc, tới lúc tờ mờ sáng, chợt nghe bên tai có tiếng người nói :
- Lang quân hãy giữ mình trân trọng. Sư tôn kêu em tới xem xét đạo tâm của anh. Cũng may anh lập chí kiên định, em có chứng cớ để báo lại với sư tôn. Chúng ta bất tất phải gặp mặt, chỉ thêm quấy rối tâm trí anh mà thôi. Hãy mạnh mẽ lên đường, kỳ gặp mặt lần sau không xa mấy đâu.
Thái Hòa nghe rõ ràng là giọng nói của vợ yêu quí Nguyệt Anh, đưa mắt dáo dác nhìn quanh, chẳng thấy người nào, liền bật cười, nói :
- Chắc là sư phụ dạy cho cô ấy phép tàng hình, tới đây để ghẹo ta.
Liền bước xuống giường nhìn xem, thấy cửa phòng mở toang. Tìm kiếm một hồi, chẳng bắt gặp người nào. Thái Hòa biết sư phụ có thể tùy thời sai người tới xem xét tâm chí cua mình, và ớ đâu cũng có người bảo hộ cho cậu. Vì thế cậu càng kiên định tâm chí, mạnh dạn tiến lên.
Không bao lâu, Thái Hòa lên tới núi Vương Ốc. Giữa đường gặp bao nhiêu gian nan, nguy hiểm, cậu đều vượt qua. Lên tới núi, cậu tự tìm một chỗ an thân, tĩnh mịch để bắt đầu tu luyện. Mới đầu, chưa dứt bỏ được thức ăn nấu nướng, mà núi thì cao, đường thì xa, cậu lo ngại không biết kiếm đâu ra thức ăn. Nào ngờ mỗi sáng thức dậy, cậu đều thấy trong thạch động có sẵn lương khô và các thứ trái cây, không hề khiếm khuyết. Nửa năm sau, số lượng thức ăn giảm dần, nhưng vẫn đủ cho cậu no bụng. Hai năm sau, cậu mới dứt bỏ được thức ăn nấu nướng. Từ đó, cứ cách ba năm, Thiết Quài tiên sinh lại một lần tới kiểm tra công hạnh của Thái Hòa, truyền thụ đạo thuật cho cậu.
Cũng trong thời gian này, Chung Li Quyền ở trên núi Thái Hoa đã đọc xong Huyền kinh ba cuốn, vâng pháp chỉ của tổ sư, truyền lại cho Lam Thái Hòa.
Thấm thoắt mà đã qua mấy trăm năm, truyền từ nhà Tây Hán sang nhà Đông Hán. Lúc đó, Trương Quả ở trên núi Võ Đang, cũng được Văn Mỹ chân nhân, thỉnh mệnh Nguyên Thủy và Lão Quân, truyền cho sách "Ngọc Hư đại điển". Hà tiên cô được Huyền Nữ gọi về, đích thân truyền thụ "Huyền Môn yếu đạo", cùng với Thiên độn kiếm pháp. Các vị tiên trên đây đều đã đạt được tám, chín phần đạo hạnh.
Bấy giờ, nhân gian đang vào đời Minh đế nhà Đông Hán. Minh đế vốn là Phật môn đệ tử chuyển kiếp, là ông vua đầu tiên sùng ngưỡng Phật giáo, nhân đó quan lại và nhân dân đều bỏ Nho, Đạo hai giáo, qui phụ về Phật. Nguyên Thủy, Lão Quân đề phòng môn hạ đệ tử tranh hơn thua với người đời, mới gọi tất cả các đại đệ tử, cùng các Đế quân, Tinh quân, cho tới các kim tiên có chức, tán tiên không chức, tập họp ở cung Bát Cảnh, giảng về lẽ "tam giáo đồng nguyên", các thế lực chốn phàm gian tuy có lúc thịnh lúc suy, tất cả đều do định số sai khiến, ba giáo phái đều ôm ấp chủ nghĩa "làm lợi cho người", đã có người khác phụ trách, hà tất phải tranh công với họ làm chi ? Trong mấy trăm năm, các môn hạ đệ tử tự nguyện lui tới chốn trần thế, âm thầm trợ giúp Phật môn, cùng lập công quả. Những người ưa tĩnh, ghét hiêu hiêu tự đắc, không muốn gây nhiều chuyện, thì đều ở trên núi tu dưỡng, hà tất hỏi tới chuyện đời ? Các đệ tử vâng pháp chỉ, đều cảnh giới môn hạ đệ tử, đồng lòng tuân thủ. Vì thế, từ nhà Đông Hán về sau, thường thấy Nho, Phật hai phái công kích nhau, ghét nhau như nước với lửa. Riêng có người của Đạo môn là không tham dự, chính là công của hai vi đại tổ sư, đã ban huấn dụ.
Nay nói về đời Vũ đế nhà Tây hán, có Đông Phương Sóc, hiệu là Mạn Thiến, chính là ngôi sao Mộc tinh chuyển thế. Từ nhỏ ông đã được các vị tiên quan đồng đạo hạ phàm, truyền thụ cho nhiều thứ Pháp thuật, lớn lên học được bản lãnh khá cao, có thể ra vào cõi u minh, chưa bói đã biết. Vũ đế đang lúc ưa thích đạo, nghe tiếng ông, vời vào triều, phong làm Thái trung đại phu. Đông Phương Sóc có tính khôi hài, tuy ở trong triều, cũng không giữ gìn triều nghi. Có khi, trước mặt thiên tử, thích nói là nói, thích cười là cười, có lúc còn đem thiên tử tôn nghiêm ra làm trò hề. Thiên tử hàng ngày ngồi giữa triều đình, đôi lúc cảm thấy gò bó, khó chịu, nay được một nhân vật hoạt kê để cùng cười nói, cảm thấy thích thú, nên thiên tứ cũng không trách cứ, còn thấy ông là một người thẳng thắn, đáng yêu, càng thêm sủng ái.
Xưa nay, người ta thường truyền tụng, nói Tây vương mẫu từng cảm lòng thành của thiên tử, tha thiết cầu tiên, nên đã giáng hạ vào Hán cung, cùng vua bàn luận về Đạo, ở chơi tới ba ngày. Thật ra, câu chuyện này chỉ là màn kịch do Đông Phương Sóc đặt ra. Vũ đế là người hiếu dũng, ham chiến tranh, đặt ra sưu cao thuế nặng, từ lâu bị trời giận, người oán. Nếu ngoài miệng ông ta có nói là ưa thích đạo chăng nữa, người tiên làm sao có thể tin được ? Huống chi vương mẫu là lãnh tụ các nữ tiên, sao có thể hạ phàm dễ dàng như thế ? Lại còn ở lại trong cung tới ba ngày, hành động đó có khác gì người phàm ? Sự thật hoàn toàn không phải như vậy. Vì Vũ đế biết được Đông Phương Sóc đã nhiều lần mời thần tiên xuống chơi, ông ta mới năn nỉ Đông Phương Sóc, năm lần bảy lượt nhờ ông này mời cho được Dao Trì thánh mẫu. Đông Phương Sóc biết rõ chuyện này rất khó giải quyết, nhưng nhà vua cứ liên tục thúc giục, nếu từ chối thắng, ắt có trở ngại trong quan hệ vua tôi.
Nếu cứ thực tình bẩm báo với vương mẫu, thì chẳng những là vô ích, mà còn khiến vương mẫu nổi giận, khiển trách. Không biết làm sao, Đông Phương Sóc mới nghĩ ra một biện pháp, đặc biệt thỉnh cầu các vị đồng đạo, đóng giả làm vương mẫu cùng các thị nữ, bắt chước cả xe loan, nghi trượng của tiên gia, cùng cưỡi mây tới đứng ở trên không, giảng cho Vũ đế nghe về đạo pháp, ba ngày liền. Tuy hoàn toàn là giả mạo, nhưng cũng ráng ban xuống lời vàng tiếng ngọc, nếu quả thật Vũ đế chịu nghe theo một, hai điều, cũng có hy vọng được trời ngó lại, ban cho nhiều hồng phúc, làm nên được một bậc hiền vương. Nào ngờ nhà vua chỉ tỏ ra mộ đạo ở bề ngoài, nói ra toàn một giọng khách sáo, không có chút thành ý nào. Người nói cứ thao thao bất tuyệt, người nghe cứ mơ mơ, màng màng, muốn ngủ. Trước tình hình đó, khoan nói vị Tây vương mẫu chân chính biết được, ắt sẽ chán ghét, ngay cả người đóng giả vương mẫu cũng cảm thấy ông vua này đã quá mê muội, không còn thuốc chữa. Bà tiên này miễn cưỡng ở lại trong cung ba ngày, hoàn toàn không vừa ý, đành bỏ đi. Trong khi đó, Vũ đế lại có những suy tính riêng của ông ta. Ông này là người thông minh tuyệt đỉnh, đối với những lý luận bình thường, có thể nói ông ta không cần hỏi cũng biết, không cần giảng cũng hiểu. Lần này nghe vương mẫu lâm phàm, trong lòng ông chỉ mong mỏi được những nghị luận tân kỳ, có thể tăng trưởng kiến thức, khai sáng tâm can. Thật tình, những lời giảng dạy hoàn toàn không đáp ứng được nguyện vọng của ông ta. Nhưng thật tình, nguyện vọng của ông chỉ đơn giản là xin được linh đan, tiên dược, để có thể sống mãi không già, hưởng phúc của một ông vua, kéo dài ức vạn năm, có vậy mà thôi.
Sau ba ngày nghị luận, Vũ đế toàn nghe những lời kinh điển chán ngấy, chẳng có chút nào là đặc sắc, mới mẻ. Mà bà vương mẫu giả cũng không hiểu thời vụ, thấy ông ta không có chút hứng thú nào, còn giảng làm chi những lẽ chí đạo ? Kết quả là Hán Vũ đế đã hoàn toàn thất vọng. ông này là một trong số hiếm hoi các vị anh quân của lịch sử Trung Quốc, đã dễ dàng đoán ra mưu mô giảo quyệt của Đông Phương Sóc, đại khái là tên này mời vương mẫu không nổi, lại sợ trẫm giận, đã kiếm một vị tiên nào đó đóng giả. Nghĩ vậy, nhà vua liền nổi giận, lập tức kêu hoàng môn quan đi gọi Đông Phương Sóc vào cung. Đông Phương Sóc lúc đó đang ở nhà luyện chế một thứ thuốc viên, đột nhiên nghe tuyên triệu, biết ngay có chuyện bất thường, có thể là một tai họa ngoài ý nghĩ. Ông ta mới bấm đốt ngón tay, biết rõ sự tình, liền vò đầu bứt tóc. Nhưng mệnh vua rất khẩn trương, không thể diên trì, đành đi theo viên quan tiến vào hoàng cung. Trên đường đi, chợt nghĩ ra một ý. Vào tới trong cung, thấy Vũ đế không lộ vẻ gì là tức giận, vẫn giữ vẻ bình thán, cười hỏi:
- Khanh đã mời được vương mẫu về đây, liên tiếp ba ngày truyền thụ cho trẫm về kinh điển và yếu quyết dưỡng sinh, trẫm đều lãnh hội được. Nhưng trẫm nghe nói vườn đào của vương mẫu hiện nay đang nở rộ. Đào đó năm ngàn năm mới một lần ra hoa, lại năm ngàn năm mới một lần kết trái. Mỗi lần đào ra trái, vương mẫu đều giữ lại nhiều trái, để ban thưởng cho các vị tiên. Có trái để nguyên trên cây, một vạn năm không hái xuống, vẫn không hư hoại. Thứ đào tiên đó, người phàm ăn vào một trái, chẳng những bách bệnh tiêu trừ, mà còn tăng thêm tuổi thọ. Lần đầu mới gặp vương mẫu, trẫm không tiện hỏi xin, khanh có thể thay mặt trẫm, xin bà ban cho vài trái, được không ?
Đông Phương Sóc không liệu nổi Vũ để có thể đưa ra yêu cầu oái oăm như thế. Rõ ràng nhà vua đưa ra vấn đề khó khăn này, là để thăm dò việc vương mẫu thực, giả thế nào. Nếu mình không chấp nhận lời yêu cầu, hoặc cầu xin đào không được, sẽ lòi ra chân tướng vương mẫu giả mạo, bản thân mình không tránh khỏi tội khi quân. Vì thế, Đông Phương Sóc đành tạm thời nhận lời, tâu rằng :
- Vương mẫu hạ phàm ba ngày, hôm nay ắt trở về phương Tây(1) đương nhiên thần cũng tùy giá về cung Dao Trì, nhân đó sẽ hỏi xin vài trái, đem về hiến dâng bệ hạ.
----------------------------
(1) Không phải phương Tây của nhà Phật, nhưng cung Dao Trì của vương mẫu nằm về hướng Tây trên thiên đình, nên bà này vẫn thường được gọi là Tây vương mẫu.

Vũ đế thấy Đông Phương Sóc mau mắn nhận lời, hoài nghi trong lòng, không hiểu chuyện này thật giả thế nào. Vì tham mấy trái đào tiên, ông ta giả tảng khen ngợi, cho Đông Phương Sóc đứng dậy.
Tối hôm đó, Đông Phương Sóc triều kiến vương mẫu, quả nhiên được theo hầu pháp giá, lên không trung bay đi, tới một tòa núi tiên ở ngoài biển. Trên núi có không ít vị tán tiên đồng đạo, trong đó có cả người đóng giả vương mẫu trước đây. Mọi người lập tức bàn bạc, coi nên làm cách nào để cầu xin đào tiên. Có người nói :
- Một người đã làm đế vương trên nhân gian, thì thể diện không phải nhỏ. Nếu cầu xin vài trái đào trước mặt vương mẫu, thì cũng không phải chuyện to tát gì. Vậy cứ lấy tình thực cầu xin vương mẫu là xong.
Người khác nói :
- Hán hoàng là người tàn bạo, không thua gì Doanh Chính. Chỉ vì đức trạch của tổ tiên thâm hậu, mới không đến nỗi nước mất, thân vong đấy thôi. Vương mẫu là người có từ tâm, rất không ưa hạng người như thế. Vạn nhất cầu xin một lần không được, không còn cách gì đề đòi hỏi lần thứ hai. Vả lại, Mạn Thiến bày ra việc đóng giả vương mẫu, đó cũng không phải việc làm quang minh chính đại. Nếu vì việc xin đào mà lòi ra vụ án kia, thì ông ta tự chuốc lấy khổ không ít.
Các vị tiên nghe vậy, đều lo thay cho Đông Phương Sóc. ông này là người thông minh, hoạt kê, cũng tự biết mình đã vì ưa đùa giỡn mà gây nên chuyện rắc rối, không biết phải làm gì. Cúi đầu suy nghĩ một lát, nảy ra một biện pháp, nhưng không tiện tuyên bố vào lúc này, mới từ biệt các vị tiên, rời khỏi núi tiên, trở về Dao Trì.
May mắn làm sao, đúng lúc đó Phật Như Lai bên phương Tây dự bị truyền giáo sang Đông thổ, mới mở một đại hội diễn giảng về Phật môn huyền lý, đạt giấy mời tới khắp các vị thần tiên.Vương mẫu là lãnh tụ quần tiên, đương nhiên là quan tâm tới sự việc này, mới cùng Nguyên Thủy, Lão Quân, và các đế quân, kim tiên, cùng lên đường sang Tây thổ.
Cung Dao Trì vốn là nơi yên tĩnh, vườn đào cũng không được canh gác nghiêm ngặt. Chỉ có một vị tôn thần giữ vườn, cùng vài vị tiên đồng, thị nữ, chia nhau ra đóng chốt canh giữ. Vương mẫu vốn tính từ ái, đối với người dưới rất mực khoan dung. Nhân dịp chủ nhân đi xa, bọn trẻ canh giữ vườn tất nhiên vui mừng hớn hở, ai cũng tự tìm cách vui chơi. Còn vị tôn thần giữ vườn, chỉ là một tiên sinh lớn tuổi, nhác việc, hơn nữa, vườn đào của vương mẫu, từ xưa tới nay không hề xảy ra chuyện mất trộm bao giờ. Có khả năng ăn trộm đào phải là những người có bản lãnh cực cao, thần thông quảng đại. Mà hạng người như thế chỉ có thể là chân tiên trên thượng giới, mỗi kỳ đại hội đào đều được đãi tiệc lớn, ăn uống thỏa thích làm gì đến nỗi tham ăn, làm vị thượng khách không muốn, lại muốn làm một kẻ trộm cắp ? Vị tôn thần giữ vườn, trên danh nghĩa là quản lý việc giữ vườn, nhưng thật tình không phải ngày đêm canh giữ, mà mở toang cửa vườn, để mọi người ra vào tự nhiên. Vậy mà, đừng nói tới việc trộm trái đào, ngay cả hoa đào, lá đào cũng không hề suy chuyển. Không dè có vị Mộc tinh, Đông Phương đại tiên, ở dưới phàm trần làm việc sai trái, nên phải lên Dao Trì làm một tên trộm đào.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 21.07.2008 10:44:32
Hồi Thứ 65

Đông Phương Sóc bày kế hái trộm đào.
Thần giữ vườn bỗng không mắc vạ.


Đông Phương Sóc tới Dao Trì, liền được tin vương mẫu đi xa tới Phật quốc, lòng mừng khấp khởi, nghĩ : "Thật là trời giúp ta thành công đây. Vương mẫu không có đây, chỉ còn một đám tiên lại thủ hạ của bà ở lại nhà, ta bất tất phải tới gặp chúng, tránh khỏi để lại nhiều vết tích của vụ ăn trộm". Tình hình trong vườn ra sao, ông đã biết rõ, liền biến ra một cô gái nhỏ, một tay cầm cây kéo hái hoa, một tay xách cái giỏ, khoan thai tiến vào cửa chính. May mắn làm sao, vị tôn thần giữ vườn, nhân chủ nhân không có nhà, công việc thanh nhàn, coi ngày dài như năm, không có có trò gì tiêu khiển, mới rủ một số tôn thần đồng đạo, kéo nhau tới căn nhà nhỏ bên cạnh cửa vườn, bày trò đánh bạc. Đông Phương Sóc bất giác cười thầm : "Vương mẫu dùng hạng người  này để giữ vườn, hỏng việc mất rồi. Nếu sớm biết thế này, chẳng cần có thánh chỉ của Hán đế, lão Sóc ta đã tới đấy hái trộm vài trái đào ăn chơi". Đang nghĩ như thế, đã nghe trong căn phòng nhỏ có tiếng người cười nói ồn ào, Đông Phương Sóc cười thầm, chầm chậm tiến lại, rón rén bước gần căn nhà nhỏ nhòm xem. Mấy người kia đang mải mê cờ bạc, không để ý tới người bên ngoài.
Đông Phương Sóc liền cười, lên tiếng :
- Các ông ham vui, chẳng biết trời đất là gì, trong vườn không có ai quản lý, lỡ có tên giặc nào to gan tiến vào, hái trộm đào thì sao ? Ngày mai thánh mẫu trở về, tra ra vụ mất trộm, các ông đố tránh khỏi tội.
Mọi người nghe tiếng, quay đầu nhìn lại, thấy một tiểu nha đầu liền thở phào, cười nói :
- Con nhỏ nhà ai đây ? Dù cho uống mật gấu, ăn gan cọp, cũng không có kẻ nào to gan dám tới đây ăn trộm đào.
Một người khác cười nói :
- Chỗ này là cơ quan đầu não của thiên tiên, từ thủa khai thiên lập địa đến giờ, những kẻ trộm cắp ở đâu đó, có một hai tên tới đây nhòm ngó, đều bị phát hiện ra liền.
Mọi người nghe vậy, ồn ào tán tụng. Vị tôn thần bất giác vuốt chòm râu, mở miệng nói to tiếng :
- Nói vậy là nghĩa làm sao ? Nơi nào chẳng có quân tử, thời nào chẳng có tiểu nhân, Dao Trì rộng lớn như thế, sao chẳng có một vài tên tiểu nhân vô phép vô tắc ? Huống chi chỗ này là nơi bà lãnh tụ quần tiên trú ngụ, thì các vị thần tiên ở bốn biển, chín châu, ngũ nhạc bát hoang, cho tới các yêu tinh, quỉ quái ở dưới biển, trên đất liền, cách vài ngàn năm lại tới triều yết một lần. Trong số đó, lẽ nào lại chẳng có một vài tên bất tiếu trà trộn vào ? Chẳng qua là bọn tiểu nhân khắp nơi, nghe oai danh vạn năm của tiểu thần, liền bở vía, chẳng dám đặt chân tới một hòn đất trong vườn này, nói chi tới chuyện hái trộm đào ?
Nói rồi, lại cất cao tiếng, nói với mọi người :
- Này các vị, chẳng phải tiểu thần ta dám khoe khoang, phách lối, chứ từ khi tiểu thần tiếp nhận chức vụ này, khu vườn của vương mẫu rộng lớn là thế, mà chớ hề nghe có tiếng gió thổi, cỏ động, chó sủa, gà gáy. Vì thế thánh mẫu mới khen thưởng ta, giao cho ta toàn quyền cai quản chỗ này, chẳng cần cử thêm người trông coi khu vườn.
Mọi người nhau nhau xưng tụng vị tôn thần, rồi chẳng để mất thời giờ, lại lao vào cuộc đổ bác, thật hào hứng. Đông Phương Sóc nghĩ thầm : "Theo tình hình này, vị tôn thần giữ vườn rõ ràng chỉ là mượn việc canh giữ vườn để tụ tập bài bạc mà thôi. Như vậy, làm gì có ai nghĩ chuyện tiến vào vườn này, kiểm tra một lần ? Vị thánh mẫu nhân từ, khoan hòa của chúng ta, không phải là phái người vào giữ vườn, mà là sai người tới canh gác sòng bài đấy thôi". Nghĩ tới đó, Đông Phương Sóc không nén được tiếng cười. Nhưng nghĩ tới việc khấn yếu chính thức hiện giờ của mình, không màng để ý tới mấy ông thần kia nửa, cười lên một tiếng, bỏ đi.
Trên đường đi, có khi phải chui qua đám hoa, gạt cành liễu sang một bên để lấy lối đi, Đông Phương Sóc cũng từng chạm trán với mấy cô nữ tiên để tóc xõa, hoặc cài hoa lên tóc, hoặc cầm một lá non trong tay, hoặc xách giỏ hoa, tất cả đều rong chơi, cười hỉ hả, kết thành từng nhóm năm, ba người, đi chơi khắp nơi, như đàn bướm lượn trên khóm hoa. Đông Phương Sóc có tính ưa chọc phá, nhìn cảnh đó liền quên bén việc chính yếu của mình, để nghĩ cách chọc ghẹo mấy cô nương này một phen. Đang lúc ngần ngừ, chợt thấy một cô gái áo hồng, tay cầm cái kéo hái hoa, cùng một cô gái áo xanh, tụ nhau dưới bóng mát của cây liễu, đang rủ rỉ nói với nhau một câu chuyện gì, vô cùng hứng thú. Đông Phương Sóc đưa mắt nhìn quanh, thấy vắng người, liền liều gan tiến lại, nở nụ cười nói với hai cô :
- Hai vị tỉ tỉ ở đây làm gì ? Sao không ra ngoài kia rong chơi như những người khác ?
Cô gái áo hồng nghe tiếng, liền đưa mắt nhìn cô bé Đông Phương Sóc, từ đầu tới chân, để đánh giá, và cất tiếng hỏi :
- Em là ai ? Chị ở trong vườn này đã lâu, sao chưa hề thấy mặt em lần nào ?
Cô áo xanh gật đầu, nói :
- Không sai chút nào. Trong vườn nhất định không có con bé này. Không biết nó từ đâu tới ? Tính đi chỗ nào ? Ở trong vườn để làm gì ?
Đông Phương Sóc tươi cười, nói :
- Hai vị tỉ tỉ không nhận ra em ư ? Em là con gái nhỏ của vị thần giữ vườn. Trước nay, em chưa từng vào vườn, nên các vị tỉ tỉ ở trong vườn cũng đông, mà em không nhận ra một chị nào.
Cô gái áo hồng nghe vậy, liền nói :
- Chà. Thì ra là con gái nhỏ của vị thần giữ vườn. Nhìn ông ta đã già khằn, ước chừng có tới năm, sáu trăm tuổi, mà còn sinh ra một vị tiểu muội muội, nhỏ xíu thế này ?
Nói rồi, nhìn cô kia, cả hai cùng cười phá ra. Đông Phương Sóc cười thầm trong bụng, nghĩ : "Các vị cô nương này chẳng hiểu việc đời là gì”. Nghe câu nói của hai cô, ông đã nghĩ ra một ý. Nhưng chưa kịp trả lời, đã nghe cô áo hồng hỏi :
- Trước nay, em chưa từng vào vườn, hôm nay định đi đâu ?
Đông Phương Sóc đáp :
- Trước nay, trong nhà em không có người làm công, em phải coi sóc đám tiểu huynh đệ, tiểu muội muội, nên không rảnh rỗi mà vào đây du ngoạn.
Hai cô gái nghe vậy càng ngạc nhiên, vội hỏi :
- Sao ? Em còn có tiểu huynh đệ, tiểu muội nữa ư ?
Đông Phương Sóc cười, đáp :
- Sao lại không ? Còn có tới mấy đứa lận. Cha em, ngoài chuyện này ra, còn lắm việc lôi thôi. ông ấy ham bài bạc, đánh từ sáng tới tối, mà vẫn đẻ ra một đàn con. Trên em, còn có hai mươi bảy, hai mươi tám vị huynh trường, tỉ tỉ, dưới em còn lóc chóc bốn, năm đứa. Câu nói đó khiến hai cô gái cười bò lăn. Đông Phương Sóc lại nói tiếp :
- Thật ra hôm nay, người lớn không tính sai em tới đây, chỉ vì các vị ca ca, tỉ tỉ của em, đã nhiều lần vào trong vườn này, người trong vườn quen mặt, nên không thể sai các anh chị ấy đi nữa.
Hai cô gái nghe vậy, kinh ngạc quá chừng, vội hỏi :
- Nói vậy là ý làm sao . Tại sao quen mặt lại không thể vào vườn ? Em lạ hoắc, lạ huơ, sao có thể tùy tiện vào đây ?
Đông Phương Sóc nghe hỏi, đưa mắt nhìn quanh, không thấy có người lạ, mới hạ giọng, nói :
- Em nói thực với hai vị tỉ tỉ chuyện này, hai chị không được nói lại với người khác. Nếu nói ra, sẽ lòi ra chuyện cha em phạm tội, ông ấy sẽ đánh em chết.
Hai cô gái nghe vậy, càng thấy là chuyện ly kỳ, mới được nghe lần đầu, vội nói :
- Chỗ này không có người lạ, em mau nói ra. Các chị quyết không tiết lộ, làm hỏng việc của em, em cứ mạnh dạn nói ra.
Đông Phương Sóc mới hạ giọng thật thấp, nói cho hai cô kia biết:
- Cha em vì tuổi già sức yếu, mỗi năm phải ăn một trái đào tiên, mới hết bệnh tật, đau đớn. Từ khi ông quản lý vườn đào, vào đúng thời điểm này, ắt sai các vị ca ca, tỉ tỉ của em tới đây, rình lúc không ai thấy, hái trộm một, hai trái mang về cho cha xơi. Quả nhiên, thân thể cường tráng, tinh thần sáng suốt như hồi trai trẻ. Năm nay, vốn tính sai người anh thứ hai mươi tám của em tới đây. Chẳng dè thánh mẫu đi chơi Phật quốc xa xôi, vị tổng thần cai quản núi này thường đi tuần tra ở ngoài khu vườn, gia gia sợ mắc vạ, đặc biệt sai em đi hái trộm. Thứ nhất vì em là khuôn mặt mới không ai nhận ra em, sau này thấy mất một trái đào, người ta cũng không tra cứu tới gia đình em. Thứ hai là em quá nhỏ tuổi nếu có bị người khác nhìn thấy, bất quá chỉ nói em dại dột, thèm ăn, chẳng đến nỗi là tội nặng. Sở dĩ sai em tới đây cũng vì ý nghĩ đó. Trong vườn cha em có nhiều thủ hạ, sợ em không thể ra tay, ông mới đặc biệt rủ rê nhiều người tới căn phòng nhỏ gần cửa vườn, để gầy sòng, vui chơi. Vì không ai chú ý, em mới dễ dàng lọt được vào trong này.
Câu nói đó khiến hai cô gái lại nhìn nhau chăm chú, không nói một tiếng. Đông Phương Sóc nhoẻn miệng cười, quay mình đi, len lỏi trong rừng cây, phút chốc biến mất.
Hai cô gái vô cùng hồi hộp, cùng bàn bạc :
- Hèn chi ông thần mắc dịch gần đây nổi máu ham bài bạc. Nguyên do là trong nhà ông ta có vấn đề, chẳng hóa ra người trông coi lại biến thành kẻ trộm hay sao ?
Cô áo hồng cười nhạt, nói :
- Lão già đó thật tình chẳng tốt lành gì. Bình thời, lão ỷ mình tuổi tác chẳng coi chúng ta ra cái quái gì. Năm ngoái, em sơ ý để bay chiếc khăn lụa vào trong đình tứ, tính vào đó để nhặt lại, không dè vừa tới cửa, gặp ngay lão ta ngăn cản, nói trời sập tối, đã tới lúc đóng cửa, bất luận là ai, cũng không được vào trong đó. Em tức khí, bỏ luôn chiếc khăn, không thèm năn nỉ xin lại nữa. Ai ngờ kẻ mặt sắt vô tư, chấp pháp vững như núi, lại là người dám làm những việc bất pháp như thế. Quả thật lão to gan, mỗi năm mỗi làm một lần như vậy, đã thành lệ mất rồi. Vậy mà thánh mẫu hàng năm còn ban thưởng cho lão nữa chứ. Lão là cái thứ gì, chẳng qua chỉ là một viên tiểu lại, có nhiệm vụ trông coi vườn, mà lên mặt hống hách, tác oai tác phúc ?
Cô áo xanh cười nhạt, nói :
- Tỉ tỉ đừng nhắc tới chuyện cũ, bỏ đi cho rồi. Nhắc tới chuyện trước, chị em mình ai mà chẳng bị lão hiếp đáp ? Người nào cũng nể lão tuổi cao, có tư cách, lại dưới uy quyền của lão, đương nhiên là phải kính lễ. Đó là chuyện nhỏ, bỏ đi cho rồi. Nhưng việc hôm nay có thể kể là vụ án lớn đó. Hiện nay số đào cũ, mới trong vườn đều có ghi vào sổ sách. Cứ mỗi ngàn năm, thánh mẫu lại phái người tới kiểm tra một lần. Hiện tại, số đào thiếu hụt không đáng bao nhiêu, nhưng kiểm tra lần sau, số đó không nhỏ. Ông ta là người giữ vườn, ai dám đổ ngờ cho ông ấy ? Tất nhiên là mọi điều nghi ngờ đều nhắm vào chị em ta, điều tra, thẩm vấn lôi thôi lắm. Nay đã biết rõ, chúng ta dại gì mà gánh tội thay cho lão ?
Hai người đang bàn tán xôn xao, lại có một đám nữ lang, nắm tay, bá vai, từ xa đi tới. Hai người quên lời hứa giữ bí mật cho Đông phương Sóc, lại nhân lúc tức giận, đem chuyện kể ra hết.Không bao lâu, câu chuyện đồn ầm lên, tất cả các cô thể nữ đều hay biết. Lâu nay, các cô bị ông thần giữ vườn áp chế, ôm mối hận trong lòng, mà không có cách gì báo thù, gặp được cơ hội này, thổ lộ hết tâm can. Lại sợ sau này kiểm tra ra, mình không tránh khỏi gánh tội thay người, các cô lo sợ lắm, mới họp đại hội ngay trên bãi cỏ. Trong số các chị em, có hai cô lớn tuổi nhất, lại có tài ăn nói, một người là Tố Nga, một người là Hàn Anh, được mọi người đề cử thay mặt chị em, mau tới tố cáo với vị tổng thần cai quản núi, để sau này kiểm tra ra số đào thiếu hụt, chị em khỏi bị liên lụy.
Vị tổng thần này vốn là một ông thần tinh minh, can cường, chính trực, bất khuất, khác hẳn ông thần giữ vườn ham đánh bạc. Nghe báo cáo, ông liền quyết định dẫn binh sĩ vào vườn bắt bạc. Mấy tay cờ bạc đang đánh, thấy ông tổng thần tiến vào, vội vội vàng vàng, đem giấu tang chứng đi, nhưng sớm bị các binh sĩ phát hiện, giữ được cả. Mấy tay cờ bạc tiu nghỉu, không dám nói một câu. Vị thần tổng quản mới nói với vị thần giữ vườn :
- Tôn thần ở đây, nhân lúc nhàn rỗi, bày trò chơi nho nhỏ, cũng được đi. Nhưng không biết gần đây ông có thường đi tuần tra, xem xét trong vườn hay không ? Có bắt gặp kẻ tiểu nhân nào trà trộn vào trong đó để ăn trộm đào chăng ? Việc này vô cùng hệ trọng, liên quan tới chức vụ canh giữ vườn của tôn thần đó !
Vị thần giữ vườn nghe nói, liền can đảm trở lại, vội đáp :
- Làm sao tiểu thần dám lơ là với công việc ? Chẳng giấu gì ngài tổng quản, từ khi tiểu thần nhận chức đến nay, ngày đêm chăm lo công việc, không dám trễ biếng lúc nào. Vì thế, nhờ hồng phúc của tổng quản đại nhân, hai trăm năm nay, chưa hề xảy ra một vụ trộm đào nào.
Tổng quản thần mỉm cười, nói :
- Vậy thì vất vả cho tôn thần quá !
Nói rồi, lập tức đứng dậy, nói :
- Có một việc nhỏ, tôi phải ra vườn xem thử. Tôn thần cứ tự nhiên, bất tất phải đi theo.
Vị thần giữ vườn nghe vậy, liền tái mặt.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 21.07.2008 11:40:57
Hồi Thứ 66

Thánh máu trở về, giải án oan.
Quỷ lại vì tình riêng, cho mượn trinh hồn.


Vị tổng thần giữ núi ở Dao Trì được các tiên nữ báo cáo : "ông thần giữ vườn đã có nhiều hành vi trái phép, lại để người ta hái trộm đào, án tình rất nặng". Tổng quản liền dẫn dắt thần binh tới vườn đào xem xét, đầu tiên phát giác ra vụ thần giữ vườn tụ tập bạn bè để đánh bạc, biết được lời tố cáo ông kia làm chuyện bất pháp là có thật, nhưng không tiện phát tác. Lại dẫn binh sĩ vào trong vườn, kiểm tra số đào mới và cũ, đối chiếu với số đào ghi trong sổ sách từ nhiều năm, đếm lại số đào hiện có trên cây, quả nhiên phát hiện ra thiếu mất hơn mười trái. Vì thế, ông phát lệnh tạm giữ vị thần coi vườn, đợi vương mẫu trở về phát lạc.
Ngàn xưa truyền lại, chỉ nói tới một vụ ăn trộm đào duy nhất, là do Đông Phương Sóc gây ra. Ngoài ra, không có một vụ thứ hai, thứ ba. Dao Trì là nơi thánh địa, có nhiều thiên thần bảo vệ, mà vương mẫu làm đầu các vị tiên, đồ đạc trong vườn của bà, kẻ nào to gan, dám tới ăn trộm chứ ? Đông Phương Sóc hái trộm đào, cũng là nhờ may mắn gặp đúng lúc vương mẫu Tây du, vị thần giữ vườn lại sơ suất, mới mắc phải tay ông ta.
Thánh mẫu trở về Dao Trì, xét đoán sáng suốt, một chi tiết nhỏ cũng không lọt khỏi sự phán đoán của bà. Chân tướng của vụ án hiển lộ rõ ràng, vương mẫu mới cho gọi vị thần giữ vườn tới, nói cho ông này biết chính Đông Phương Sóc đã hái trộm đào, lại vu hãm cho thần giữ vườn. Nhưng Đông Phương Sóc vốn tính nghịch ngợm, không có lòng làm việc ác. Vả lại, ông ta giúp cho Hán triều yên trị, có công với dân, nên cũng có thể khoan thứ. Nhưng sợ người khác bắt chước, làm chuyện vô pháp, cũng phải trừng phạt nhẹ, bắt phải chịu nhiều điều kinh sợ ở phàm trần. Còn ông thần giữ vườn, tuy không mắc tội ăn trộm đào, nhưng cũng mắc lỗi sao lãng chức vụ, phạt tội ba năm quét dọn vườn đào. Sau đó, nếu không mắc lỗi lầm nào khác, sẽ đổi sang làm một chức vụ mới. Việc phát lạc rõ ràng, mọi người đều xưng tụng thánh đức. Vị thần giữ vườn tuy bị biếm, cũng cảm kích vương mẫu đã giải oan cho mình. Riêng Đông Phương Sóc ăn trộm được đào, trở về hiến dâng cho Vũ đế. Vũ đế rất hài lòng, càng kính trọng ông ta.
Thấm thoát lại qua vài năm, Vũ đế vì chuyện vương mẫu giảng đạo pháp vu vơ, không tin chuyện tu tiên nữa. Nhân nghe quần thần nói là có một phương sĩ Lý Thiếu Quân có thể đi lại giữa cõi sống và cõi chết, lại biết phép trường sinh bất lão, nhà vua mới sai một vị trọng thần đi mời. Thiếu Quân là môn hạ đệ tử của giáo chủ Ma giáo, vừa gặp Vũ đế, liền đại ngôn rằng tu tiên chẳng khó khăn, lên trời dễ như trở bàn tay. Vũ đế đang bực về chuyện vương mẫu giả, nghe lời Thiếu Quân liền thấy hợp ý mình, nên rất sủng ái, phong cho Thiếu Quân tước vị còn cao hơn Đông Phương Sóc nữa.
Bấy giờ, Vũ đế có bà sủng phi Lý phu nhân vừa chết, đau đớn, buồn thương, không sao quên được. Thiếu Quân dò xét, biết được ý của Vũ đế, khoe rằng mình có thể khiến hồn người chết trở về, gặp mặt chúa thượng. Vũ đế mới sai dọn một tĩnh thất sạch sẽ trong cung, để Thiếu Quân thí nghiệm một phen.
Thiếu Quân ra khỏi cung, đi tìm một người bạn, tên là Vương Nhất Chi bàn bạc với ông này, mượn hồn của một nữ quỉ, dưới quyền sai khiến của Nhất Chi, bảo nên làm... như thế, như thế, vào cung giả làm hồn của bà phi, cùng hoàng thượng gặp mặt một lần. Bấy giờ, Nhất Chi tuổi đã cao, thần trí hồ đồ, cả ngày chỉ cùng một đám bạn bè uống rượu làm vui. Mỗi khi say xỉn, ông ta không còn lý gì tới công việc. Đệ tử của ông ta là Phí Trường Phòng, vì tình cảm thầy trò sâu đậm, thấy ông ta buông thả như thế, thường lấy lời khẩn thiết khuyên can. Nhưng Nhất Chi tự biết mình tu tiên không thành, nay đã quá già yếu, sống chẳng còn bao lâu, được ngày nào cứ vui ngày ấy. Trường Phòng khuyên nhiều lần, thấy ông ta không nghe, đành bỏ qua.
Lúc Lý Thiếu Quân hỏi mượn quỉ hồn để sử dụng, Vương Nhất Chi nhướng cặp mắt lờ đờ vì hơi rượu, nói :
- Việc đó rất dễ, ông cứ đem mười vò rượu ngon tới tạ tôi, tôi sẽ lựa ra cho ông một số quỉ hồn xinh đẹp nhất, muốn gầy hay béo, cao hay thấp, tùy ông chọn lấy một người, dẫn về mà sử dụng.
Lý Thiếu Quân cười, nói:
- Ông đúng là càng già càng nát rượu. Cứ cái đà này thì lá gan của ông bị tiêu tùng vì rượu mất thôi. Vạn nhất mà vì say khướt để hỏng việc, ngày mai toàn thể đám quỉ hồn xúm vào đả kích, ông chạy chỗ nào cho thoát thân ?
Vương Nhất Chi mắng :
- Nói nhảm. Tôi là đầu não của ngàn vạn quỉ hồn trong thiên hạ, con quỉ ác nào mà to gan, dám gây sự với tôi ?
Thiếu Quân vội nói :
- Nói chơi thôi, việc gì mà phải tức giận ? ông đòi mười vò rượu tốt, việc đó quá dễ dàng. Tôi sẽ lập tức sai đem lại đây cho ông, còn tặng thêm một bàn tiệc thịnh soạn, để ông nhắm với rượu, được chưa ?
Câu nói đó khiến Vương Nhất Chi mừng rỡ, chắp tay cảm tạ. Rồi lấy ra một danh sách ghi tên các nữ quỉ mới tới, nói ngay:
- Tối nay, ông cho đem rượu thịt tới, chúng ta uống với nhau một bữa thật sảng khoái, đến say khướt, rồi tôi sẽ chiêu tập quỉ hồn, cho ông được lựa chọn lấy một tên. Tôi lại dạy cho ông bí quyết điều khiển, để ông dẫn nó vào trong cung. Có thích giữ nó lại vài giờ, cứ việc giữ lại vài giờ, không thích giữ lại, lập tức đưa trả về đây cho tôi. Lão đệ, tôi vì ông lo liệu việc này, mười vò rượu và một mâm thức ăn, cũng chẳng tổn phí cho ông bao nhiêu, phải không ?
Lý Thiếu Quân vui mừng, từ biệt Vương Nhất Chi. Về đến nhà, lập tức sai đưa mười vò rượu đi trước, sau đó lại vào một tửu quán nổi tiếng, đặt một bàn tiệc thịnh soạn, nhờ đem tới cho Vương Nhất Chi. Sẩm tối, đích thân tới nhà Nhất Chi. Hai ông bạn cũ cùng đối ẩm, vô cùng hứng thú. Uống tới giờ tí, hai người đều chếnh choáng. Thiếu Quân vẫn không quên công việc, buông chén đứng dậy, yêu cầu Nhất Chi cho gọi một đám nữ quỉ tới. Vương Nhất Chi thừa hứng rượu, dẫn Thiếu Quân vào một gian mật thất, âm khí thảm thảm. Nhất Chi chúm miệng thổi khẽ, tức thì một khối khí đen từ dưới chân bốc lên. Thiếu Quân bất giác dựng ngược lông tóc. Định thần nhìn kỹ, nhận ra đó là một nam quỉ, tóc tai bù xù, hở ngực, đi chân đất, hướng về phía Nhất Chi, chắp tay vái, hỏi :
- Pháp sư có ý chỉ gì ?
Vương Nhất Chi dặn dò :
- Hãy gom đám nữ quỉ mới tới, vời tất cả tới đây, ra mắt ta.
Con quỉ "Dạ" to một tiếng, nổi trận gió đen, biến mất. Vương Nhất Chi nói :
- Vừa rồi là con quỉ sai, nghe lệnh tôi điều khiển.
Nói rồi, trổ phép thuật, căn phòng chợt sáng lên. Lát sau, vẫn chưa thấy động tĩnh gì, Thiếu Quân đứng một bên cất tiếng hỏi :
- Bao giờ quỉ hồn mới tới .
Vương Nhất Chi lại vẽ bùa, cầm cây kích chỉ trỏ, chợt hiện ra nét giận dữ trên mặt, hét lên :
- Làm ăn kiểu gì mà chẳng có phép tắc chi cả ? Đã lâu rồi, sao chưa vời gọi về đây ?
Nói chưa dứt lời, đã thấy trong phòng hiện ra những cơn gió lốc hướng về phía mặt đất mà cuộn tròn. Tức thì, nhiều nữ quỉ lên tiếng ồn ào, đứng ngay trước mặt, tất cả đều hướng về phía Vương Nhất Chi mà hành lễ. Thiếu Quân nhìn kỹ, thấy có người xõa tóc lòa xòa, bảy khiếu ra máu, có người quần áo tề chỉnh, mày thanh mắt sáng, môi đỏ răng trắng, không khác chi người sống, có cô mập như heo, ngu như bò, có cô cao hơn trượng, có cô lùn chưa đầy ba thước. Thiếu Quân đã từng nghe người trong cung mô tả hình dung bà phi quá cố, biết đó là người hơi gầy, thông minh lanh lợi, yểu điệu quyến rũ, liền chiếu theo những điều mình đã biết, lựa chọn hồi lâu tìm ra được một người, tuổi ngoài hai mươi, diện mạo rất giống với người đã được nghe mô tả, mới lại gần con quỉ đó, nhìn kỹ một phen, thấy cô ta má đào, mắt hạnh, môi đỏ, lưng eo, quả thật là một tuyệt thế giai nhân. Thiếu Quân vui mừng, nói:
- Vương huynh, xin phiền vị nương tử này đi theo tôi một chuyến.
Vương Nhất Chi gật đầu, nói :
- Được thôi, được thôi. Ông cứ dẫn cô ta đi.
Nói chưa dứt lời, đã thấy con quỉ kia nghiêm sắc mặt, hỏi :
- Xin hỏi pháp sư, ngài bắt tôi theo vị quan trưởng này đi đâu. Nên biết kiếp trước tôi là người không chịu khinh suất, cẩu thả, nên mới tìm con đường chết. Nay đã ra người dưới suối vàng, vẫn giữ vững chí khí, không thể ép buộc tôi phải đi theo một người đàn ông lạ hoắc. Chẳng thà sống cô đơn lạnh lẽo, còn hơn làm bạn với người trần gian. Xin pháp sư chuyển lời tới ông bạn của ngài, hãy chọn lựa người khác mà dẫn đi.
 Vương Nhất Chi vốn là người nóng nảy, lại có hơi rượu thúc đẩy, thấy một nữ quỉ dám quật cường như thế, lại sợ mất mặt với Thiếu Quân, liền quát mắng:
- Quỉ hồn như người mà dám chống lệnh chỉ huy hả ? Nói thật cho ngươi biết, vị trưởng quan này là người rất có thế lực trước đương kim hoàng đế. Ông ấy dẫn người vào cung gặp hoàng thượng, là có điều tốt đẹp cho người đấy. Việc đó, người khác cầu còn không được, người lại ngang nhiên từ chối, há chẳng phải ngươi làm mất mặt người đề cử hay sao ?
Nói rồi, không để nữ quỉ lên tiếng, lập tức bảo Thiếu Quân bắt quyết, lôi cô ta đi. Chỉ thấy một luồng gió thơm, cuồn cuộn chui vào tay áo Thiếu Quân. Vương Nhất Chi nói :
- Con quỉ này đã ớ sát bên ông, ông muốn thế nào, nó chiều theo thế ấy. Nhưng ông không được lợi dụng pháp lực, thông gian cùng nó. Tội danh đó rất lớn, chẳng những bản thân ông, ngay cả tôi cũng bị đập nát xương cốt.
Nói rồi, vẫy tay một cái, tất cả quỉ hồn biến thành những cơn gió lốc, tản đi tất cả. Hai người ra khỏi gian mật thất, lại lao vào tiệc rượu. Rượu tan, Thiếu Quân cười, hỏi :
- Vừa rồi, tôi không hề nghĩ tới bà phi của hoàng gia, không biết có cách nào mời bà ta về đây, được không ?
Vương Nhất Chi lắc đầu, nói :
- Việc đó rất khó. ông nên biết, một người đàn bà đã làm nên hoàng gia hậu phi, đương nhiên không phải cô gái tầm thường. Hoặc là một vì tinh tú hạ phàm, hoặc là thần tiên bị biếm chích, những hạng người đó sau khi chết, hoặc là trở về ngôi vị cũ, hoặc là lúc sống mắc tội, thì tội lỗi gia tăng, bị đày xuống địa ngục, không được siêu thăng. Nếu lúc sống lại có công, đã được trở về ngôi vị cũ, còn tăng thêm phẩm trật. Tất cả những hạng người đó, đều không thuộc quyền quản lý của tôi, nên tôi không mời về đây được. Nếu không phải vậy, tôi đã vì ông mà mời hậu phi nương nương, đem linh hồn của bà tới gặp hoàng đế, chẳng tốt hay sao ? Việc gì phải phí công tổn sức, làm việc ghép hoa, nối cành ?
Thiếu Quân lại hỏi :
- Nữ quỉ này tại sao quật cường như thế ? Ông là tổng quản của bọn chúng, mà xem chừng nó không sợ ông chút nào, là nghĩa lý gì ?
Vương Nhất Chi nói :
- Ông không nên xem thường con ma này. Cô ta là con gái của một nhà có học thức, họ Vương, tên Anh Anh. Cha mẹ cô đã hứa hẹn cuộc hôn nhân giữa cô và một người họ Lưu, từ khi hai trẻ còn nằm trong bụng mẹ. Lúc đó, hai nhà còn đang thịnh thời, kể như là môn đăng hộ đối. Nào ngờ cậu bé nhà họ Lưu là khắc tinh của gia đình, từ khi cậu ra đời, những chuyện người chết, thủy tai, mất của... liên tục xảy ra, đến nỗi cả một gia đình suy tàn, chẳng còn lại gì. Đến khi cậu lớn lên, cũng được đọc sách, đầy bụng kinh luân, nhưng nhà tan người mất, chỉ còn một thân trơ trọi, may nhờ một lão gia nhân nuôi dưỡng, lại bỏ tiền ra giúp đỡ, tìm cách đưa cậu tới nhà nhạc gia, mong được chiếu cố. Nào ngờ cha Anh Anh chẳng phải người tốt, nghe nhà họ Lưu lâm vào tình huống đó , sớm có ý đem con gái gả cho người khác. Anh Anh là cô gái xinh đẹp có tiếng, lại có tài ăn học, các thiếu niên tử đệ con quan, nhiều người tính chuyện hỏi cô làm vợ. Cha Anh Anh lần thứ hai chọn rể, chỉ dựa vào thế lực lớn nhỏ làm tiêu chuẩn, nói : "Nhà phá gia, chỉ cần có thế lực, lại phục hồi như cũ. Nếu không có thế lực, dù trước mắt đang dư giả, gặp phải một lần tai họa bất ngờ, cũng thành suy sụp". Vì thế, ý ông ta mặn với một vị công tử con quan tể tướng, để nhờ cậy thanh thế nhà kia, chẳng những chuyện tương lai chẳng cần lo lắng, mà bản thân ông cũng có thể trở thành một chức quan nho nhỏ. Đem ý nghĩ đó bàn với con gái, Anh Anh tiểu thư nhất quyết không chịu, nói : “Một gái gã cho hai chồng, khác chi loài cầm thú, bị thiên hạ chê cười, suốt đời mang tiếng xấu cải tiết". Người cha nghe vậy, tức giận vô cùng, bàn với bà vợ, đóng chặt cứa phòng dùng roi vọt áp bức con gái. Anh Anh chịu hình không nổi, miễn cưởng nhận lời, đợi tới đêm khuya vắng vẻ, treo cổ tự tận. Không dè, được người ta phát hiện sớm, cứu xuống. Từ đó, cha mẹ ghét bỏ con gái.
Đang lúc bực bội như thế, cậu công tử nhà họ Lưu tìm tới, xin ra mắt nhạc phụ. Cha Anh Anh chẳng muốn gặp mất chàng rể chút nào, nhưng sợ Anh Anh biết được chuyện này, vội lấy ra năm chục lạng bạc đưa cho chàng trai, nói cậu ta hãy về nhà đọc sách, hẹn cho hai năm mà không làm quan, thì đừng tới đây cầu thân. Chàng trai nhà họ Lưu vốn là người khí khái, vất trả năm chục lạng bạc ở trước cửa nhà nhạc gia, chỉ trời vạch đất, mắng mỏ một trận, làm náo loạn lên. Anh Anh tiểu thư biết được, ngay đêm đó phái đứa tiểu tì thân cận đưa tin cho chàng họ Lưu, thờ thủ tiết đợi chàng. Ai ngờ con tiểu nha đầu không kín miệng, tiết lậu chuyện này ra. Cha mẹ Anh Anh đem giam con gái vào một căn phòng, ngoại trừ những lúc đem thức ăn, nước uống, không ai được phép tới mở cửa. Lại dùng một kế sách, nói sở dĩ cô gái tìm cái chết, truy nguyên tội lỗi, đều ở chàng họ Lưu mà ra, sai người tới nhà, chửi bới ầm ĩ, dọa nạt cho chàng trai phải bỏ đi chỗ khác. Không dè cậu ta lại là người rất có nghĩa khí, nghe rõ chuyện, liền cất tiếng cười ha hả, nói : "Tiểu thư có thể vì ta mà thủ tiết, ta có chết cũng không tiếc thân. Nếu tiểu thư chết đi, ta cũng vì nghĩa, không sống một mình, quyết theo nàng xuống âm phủ, tố cáo trước Diêm vương, nói Vương lão gia tham thế phụ bần, ép bức con gái, đuổi con rể". Chuyện ầm ĩ lên, lọt vào tướng phủ, vị tể tướng không cho con trai cưới cô gái nhà họ Vương nữa. Cha Anh Anh tức giận quá chừng, lại nghĩ ra một độc kế, cố tình phao tin chàng trai nhà họ Lưu đã chết rồi, bảo gia nhân đồn ầm lên, lại than thở với nhau, nói chàng rể nhà ta chết thật đáng thương. Anh Anh hay được tin đó, lại đang lúc phẫn khích, không kịp tra xét, đợi lúc đêm khuya vắng vẻ, lại cởi dây lưng tự ải, lần này chết thật. Sau khi chết, oan khí không tàn, cô thường hiện hình trong nhà, làm náo loạn lên. Cha mẹ cô không biết đường nào cầu cứu, mới tìm đến tôi, nhờ tôi thu giữ cô lại. Thứ hồn trinh, phách nghĩa đó, không thể kể như quỉ vật tầm thường, không thể giữ lâu dưới âm tào. Đợi án tình tra xét xong, sẽ đưa cô đi đầu thai vào nhà quyền quí. Tôi mới lưu giữ cô có hai tháng, bây giờ ông dẫn cô đi, xong việc phải đưa trả cô về đây.
Còn một điều này, tôi cần nói rõ : ông cần dùng cô thay thế Lý phi, nhưng cô là một tiểu thư chưa xuất giá, lại là một cô gái trinh tiết, chưa biết có thể đóng thế vai đàn bà hay không. Mạo nhận làm phu nhân, vạn nhất lúc gặp mặt vua, cô hét lên một tiếng, sẽ gây nhiều điều bất tiện đấy. Tốt nhất là nên để cô cách hoàng đế xa xa, chỉ có thể nhìn mặt từ xa, chứ không thể đến gần, và cũng không thể nói năng cùng nhau.
Thiếu Quân nghe nói, hai ba lần cảm ơn lời chỉ giáo, dẫn quỉ hồn của Anh Anh vào cung, tâu với Vũ đế :
- Thần tuân chi đã đưa sinh hồn Lý phu nhân về đây, đợi tới giờ tí, có thể cùng bệ hạ gặp nhau. Nhưng bệ hạ là bậc cửu ngũ chí tôn, là chủ của thiên hạ, khí tượng uy nghiêm, mãnh liệt, e rằng quỉ thần cũng không dám tiếp cận. Lúc gặp nhau, chỉ nên đứng xa xa mà nhìn nhau, cũng không chắc có thể trò chuyện với nhau. Thần xin bề hạ lưu ý.
Vũ đế chỉ cần thấy mặt Lý phu nhân, có thể tiếp chuyện nhau hay không, để rồi sẽ tính. Nghe Thiếu Quân nói, nhà vua gật đầu chấp thuận.
Tới chừng nửa đêm, Thiếu Quân chuẩn bị mọi việc xong xuôi, liền mời Vũ đế đi gặp Lý phu nhân.


bevanng
  • Số bài : 10303
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.06.2008
RE: Bát Tiên Đắc Đạo - 21.07.2008 11:50:20
Hồi Thứ 67

Căng màn, mượn hồn, Thiếu Quân dối chúa.
Cứu trò, trổ phép, thần tiên hạ phàm.


Lý Thiếu Quân chiếu theo cách điều khiển quỉ mà Vương Nhất Chi đã chỉ bảo, thiết lập một mật thất ở trong cung. Trong phòng đó, cho treo một tấm màn đen, giữa màn treo một đĩa đèn dầu. Bố trí xong xuôi, ông ta thả hồn của Anh Anh ra, cho đi theo bên cạnh, sau đó mới mời Vũ đế tới, cho hai bên gặp nhau. Vũ đế nghe nói đã mời được linh hồn Lý phu nhân trở về, vừa cảm thương, vừa vui mừng, an ủi, theo chân Thiếu Quân bước vào mật thất.
Thiếu Quân mời Vũ đế ngồi ở trước tấm màn, tự mình chống kiếm bắt quyết, làm phép. Vũ đế nhìn chăm chú vào tấm màn, lúc đầu không thấy động tĩnh gì. Sau đó, bỗng một trận gió nổi lên, thổi ngọn đèn dầu chính giữa ngả nghiêng ngọn lửa, còn những ngọn nến phía trong màn phụt tắt, rồi sáng trở lại. Vũ đế là người rất can đảm, cũng thấy lông tóc dựng ngược. Thiếu Quân lại chúc mũi kiếm về phía ngọn đèn, gió mới lặng, đèn cháy sáng bình thường. Nhưng trong ánh sáng lung linh, dường như vẫn có âm khí nặng nề. Vũ đế nhìn chăm chú về phía bên trên góc tường, tiếp giáp với phần trên của tấm màn, tựa hồ như thấy hình bóng của một người đàn bà, hiện rõ lên trên tấm màn, phảng phất có vài phần giống Lý phu nhân, nhưng đích xác thì không phải bà phi.
Vũ đế nghĩ rằng chẳng qua là sau khi chết, bà phi đã biến đổi, chẳng lấy gì làm lạ. Lại nhìn kỹ, thấy hình người rời khỏi bức màn, khoan thai bước xuống, dường như nhắm về phía nhà vua mà tiến tới. Nhưng nhìn kỹ, lại thấy dường như người đó vẫn ở trên tấm màn, chưa từng chuyển động. Vũ đế trong lòng vừa nóng vội, vừa đau đớn, muốn kêu lên, nhưng lại sợ dương uy của mình có thể làm tán lạc âm hồn của nàng, đành nhẫn nại chờ đợi xem sao.
Trong giây lát, quỉ hồn dường như nhìn Vũ đế chăm chú, trên mặt bỗng hiện ra vẻ tức giận. Vũ đế kinh hãi quá chừng, nhớ lại phu nhân hồi tại thế, cảm tình với mình thật đôn hậu, tại sao sau khi chết, vợ chồng được gặp lại, lẽ ra phải vui buồn lẫn lộn, có đâu tỏ vẻ giận dữ . Trong lúc nhà vua đang suy nghĩ lung tung, con ma kia bỗng xoay mình, đưa lưng về phía Vũ đế, mặt hướng về tấm màn, không còn thấy mặt nhau nữa. Vũ đế đau đớn quá chừng, buột miệng đọc lên mấy câu thơ :
“Gót sen vàng đủng đỉnh
Ngụ gần, lại như xa
Chập chờn hình bóng ấy
Là người hay là ma? "
Ngâm dứt câu, liền đau đớn khóc rống lên, nước mắt tuôn xuống như mưa. Bỗng nhiên, một tiếng nổ vang, như tiếng sấm. Thiếu Quân vội vã chạy lại, đỡ Vũ đế, lôi đi. Vũ đế lúc đó không còn tự chủ, tự động đi theo Thiếu Quân, nhưng cặp mắt vẫn không nỡ rời khỏi bức màn. Không dè thấy quỉ hồn xõa mái tóc, thè lưỡi ra, dài ba tấc, bảy khiếu ra máu, hiện hình dạng một con ma thắt cổ, Vũ đế liền thét lên một tiếng, ngã lăn ra đất. Thiếu Quân vội đỡ dậy, dìu đi, trở về cung, sắc mặt lợt như tro. Nhà vua đuổi đám thị tùng đi, hỏi Thiếu Quân .
- Vì sao phu nhân biến ra hình ma thắt cổ ?
Thiếu Quân vội tâu :
- Đó là vì bệ hạ ngâm thơ, đã đánh bạt du hồn Lý phu nhân. Nguyên thần có dẫn theo bên mình một con ma thắt cổ, dính líu tới một vụ án quan trọng mà quỉ sư Vương Nhất Chi ủy thác cho thần điều tra. Hễ là người chết oan khuất, oan hồn không tan, tuy gặp dương uy, cũng vẫn hiện hình. Phu nhân lui rồi, con ma đó thừa cơ xuất hiện, muốn nhờ bệ hạ đứng ra giải oan.
Vù đế nghe vậy, liền nói:
- Con ma thắt cổ nào vậy. Vì sao nó phải chết oan ? Hãy tâu rõ cho trẫm biết, trẫm ắt vì nó báo thù.
- Việc này sớm hay muộn cũng phải nhờ bệ hạ tác chủ, chẳng qua là chưa tới lúc, nói cũng vô ích. Huống chi trong đó có ẩn chứa thiên cơ, tiết lậu là có tội, thần chẳng dám nói liều.
Vũ đế trong lòng đang đau khổ, nhớ tới Lý phu nhân, cũng không có tâm trí nghiên cứu, nói vài ba câu, rồi thôi. Thiếu Quân dẫn sinh hồn của Anh Anh đem về, trả lại cho Vương Nhất Chi.
Trong khi đó, Thiếu Quân vừa đi khỏi, Vương Nhất Chi gặp ngay học trò là Phí Trường Phòng tới hỏi thăm, biết được sự việc, không đồng ý chút nào, nói :
- Sư phụ bị Thiếu Quân lợi dụng rồi. Bất luận là trên trời hay dưới âm tào, dù là Ngọc đế hay Diêm vương, cũng đều trọng nam tử khí tiết, nữ tử trọng tình. Hạng người trinh tiết như Anh Anh, bao giờ cũng được thiên thần kính trọng, tam giới nể vì. Sư phụ bản thân là quỉ sư, đáng lẽ phải ngửng lên ứng với lòng trời, cúi xuống hợp với tình người, đối với hạng quỉ hồn đó, phải đặc biệt quan tâm, hết lòng kính trọng, mới đúng. Tại sao lại lạm dụng đạo lực, tùy tiện giao phó nàng cho kẻ thiếu tư cách, dẫn nàng đi đóng giả làm linh hồn một người đàn bà. Việc này chẳng những tiết mạn trinh nữ, e rằng còn làm mất phẩm cách của lão sư, là điều thiên thần không thể dung thứ. Đệ tử ngu độn, lấy làm lo thay cho lão sư.
Vương Nhất Chi đang say khướt, thần trí mơ hồ, nghe vậy liền cho rằng Trường Phòng có lòng hủy báng tiên sư, kiếm chuyện mắng mỏ thầy. Trường Phòng biết ông này đang xỉn, không dám tranh biện, chỉ khẽ thở dài, cáo biệt lui về. Hôm sau, Vương Nhất Chi hoàn toàn không còn nhớ gì tới chuyện đó, mà Trường Phòng cũng không đề cập tới nữa. Sau giờ trưa, Thiếu Quân tới, đem trả quỉ hồn, Nhất Chi mới nhớ lại chuyện hôm trước, những lời khuyên can của Trường Phòng lại hiện ra trong tâm khảm. Nhất Chi suy ngẫm, bất giác thấy những lời của Trường Phòng đều đúng cả. Anh Anh là cô gái trinh liệt, lúc sống khăng khăng giữ tiết, không chịu thay đổi, sau khi chết lại bị ta và Thiếu Quân lợi dụng đạo pháp, khinh miệt, làm sao nàng chịu cam tâm ? Những thứ hồn vía trinh liệt như thế, có thể thong dong du hành, tới lui khắp ba cõi, tiêu diêu ngoài vòng trời đất. Tuy hiện nay nàng dưới quyền cai quản của ta, chẳng bao lâu nàng cũng được Thượng đế tuyên triệu, đặc biệt vinh sủng. Lúc đó, nàng nhớ lại mối thù làm nhục, há có chịu bỏ qua, không nhắc tới hay không ? Sinh mạng và tiền đồ của ta, làm cách nào mà giữ được đây ? Nghĩ đến đó, bất giác sợ run lên, nhìn Thiếu Quân chăm chú, lại ngó qua Trường Phòng, thở dài một tiếng, nói giọng buồn rầu :
- Lão đệ, ta nhớ lại những lời chú nói ngày hôm qua, tự hận mình không biết kiềm chế, tính tình lại quá nóng nảy. Trước kia, ta từng theo học danh sư lâu năm, mà thiếu chút công phu nhẫn nại, suýt nữa mắc phải đại họa. May nhờ có thầy ta hiện nay ra tay cứu giúp, mới tránh khỏi bị đày xuống địa ngục, lại được nắm giữ chức vụ hiện nay. Nào ngờ ta chẳng chịu phấn đấu, sự việc xảy ra đã hơn một trăm năm, chẳng những ta không có chút tiến bộ, còn sa đọa vào rượu, để hỏng việc, đến nỗi bị người bạn xấu lừa dối, làm nhục trinh hồn. Sự việc không thể cứu vãn. Thế nào thượng đế cũng cho tra cứu, chỉ thẩm vấn một lần, là lòi ra ngay. Lần này, chắc chắn ta sẽ bị đày xuống địa ngục thôi. Còn nhớ năm xưa, thầy ta đã từng khẩn thiết cảnh giới, nói ta chẳng những không xứng đáng tu đạo, mà muốn làm con quỉ dữ cũng không dễ. Lời ám chỉ đó dường như muốn nhắc nhở ta phải luôn luôn để tâm đề phòng, kẻo rơi vào tình huống không tốt. Nay nhớ lại, đã cách hơn trăm năm, ta chưa hề làm một việc gì hư hỏng, nào ngờ lại xảy ra việc hôm nay. Lời dự đoán của thầy ta có phải ứng vào ngày này đấy chăng ? Ta tự xét lại một đời mình : cương trực, ưa làm điều thiện, ham chuộng nghĩa hiệp, tuy không dám tự nhận là người quân tử, cũng không đến nỗi hổ thẹn làm kẻ tiểu nhân, không ngờ cuối cùng việc tu đạo đã không thành, ngay cả địa vị quỉ tiên nho nhỏ cũng không giữ nổi, thậm chí lâm vào tình cảnh này, gây nên tai họa rất lớn. Một kiếp sống thừa chẳng đáng nói tới, nhưng ta còn mặt mũi nào nhìn thấy ta ở kiếp khác, và cũng không biết nói sao với Trường Phòng hiền đệ của ta nữa. Tất cả chỉ vì rượu làm mê mẩn thần trí, làm hỏng mọi chuyện, không sao cứu vãn, chỉ còn biết ngồi yên, đợi hình phạt giáng xuống mà thôi.
Nói rồi, thớ dài một tiếng, gục đầu xuống bàn mà thổn thức.
Trường Phòng vì tình cảm thầy trò sâu đậm xưa nay, thấy sư phụ thương tâm như thế, cũng bồn chồn, không tìm được lời nào để khuyên giải. Chỉ có tên mượn hồn ma để dối chúa, là Lý Thiếu Quân, vốn chẳng phải người tử tế, tuy thấy Vương Nhất Chi lâm vào tình trạng khốn quẫn, nhưng hắn vốn quen làm việc gian tà, coi việc khinh nhờn nữ quỉ chỉ là chuyện nhỏ. Thấy Vương Nhất Chi kể lể, khóc lóc, hắn chịu không nổi, liền cất tiếng cười nhạt, nói lớn tiếng :
- Ta chưa từng thấy tên khốn nào hèn mạt, vô dụng như ngươi, còn tự khoe là quân tử, thật không biết xấu hổ ! Thì ta là thằng bạn xấu đấy, là tiểu nhân đấy, cố tình tới đây để hại ngươi đó ! Cứ cho ngươi là quân tử đi, là chính nhân đi, tại sao ngươi không hề do dự, vừa nghe ta nói là đáp ứng liền ? Ngươi chuyên cai quản những việc như thế này, lẽ ra phải biết trong đó có những điều lợi hại và phép tắc ra sao chứ. Ta vốn chỉ muốn nhờ ngươi tìm cho một nữ quỉ tầm thường, ngươi lại chọn một trinh hồn, mới ra nông nỗi. Ngươi là đầu lĩnh của quỉ, đã đưa con ma này ra, làm sao ta có thể không tin ngươi, đem nó ra sử dụng ? Việc này hoàn toàn do ngươi gây ra, đến khi mắc vạ, ngươi lại đổ lỗi cho bạn bè, còn ra nghĩa lý gì ? Ngươi đã không biết suy xét, ta cũng không hơi đâu tranh cãi với một thằng hồ đồ như ngươi !
Nói rồi, nện mạnh gót chân, xăm xăm tiến ra cửa, bỏ đi. Thấy hắn đi đã xa, Vương Nhất Chi bất giác buông tiếng thở dài, quay đầu nhìn Trường Phòng, nói :
- Hiền đệ, chú thấy thế nào ? Hạng người này quả là không còn thiên lương gì nữa, ta tự trách mình không có con mắt, nhận lầm kẻ tiểu nhân làm chính nhân, tự gây tội nghiệt, còn nói gì nữa? Nhưng ta còn một điều phải nói rõ cho chú biết. Việc lần trước tuy rằng rất lớn, nhưng những kẻ bị giết đều là người hư hỏng, ta chỉ a dua theo, tình đáng dung thứ, lại nhờ lúc đó có thầy ta ở bên, giải nguy cho ta, mới thoát khỏi cái chết. Việc lần này hoàn toàn do ta tự gây ra tội nghiệt, không thể dung tha, cũng chẳng có hy vọng được một ông thầy thứ hai cứu cho đâu. Chắc rằng việc này phát giác ra cũng không lâu, nội trong vài ngày, sinh mạng ta đến đây chấm dứt. Ta chết đi chẳng đáng tiếc, vì dầu sao cũng còn chú là người đệ tử ta có thể truyền y bát. Từ hôm nay, ta sẽ đem hết pháp lực mà chú chưa học được đầy đủ, truyền thụ tất cả cho chú, để chú làm người truyền nhân của ta. Sau khi ta chết, chắc chắn thầy ta sẽ tới đây một lần, chú hãy vì ta thỉnh cầu lão nhân ra tay cứu vớt, khiến ta được giảm bớt một phần tội lỗi Đó là điều rất khẩn yếu, chú chớ quên nhé.
Trường Phòng nghe vậy, bất giác thương cảm trong lòng, buông tiếng thở dài. Nhưng việc đã đến nước này, khuyên giải cũng vô ích, Trường Phòng chỉ biết nói vài lời an úi mà thôi. Ở thiên tào, địa phủ, việc thưởng phạt rất nghiêm minh. Việc vừa xảy ra, dưới phàm trần còn có người chưa rõ, chứ trên thiên cung đã sớm có vị thần chuyên việc coi sóc ba cõi tâu lên Ngọc đế.
Ngọc đế được biết Vương Nhất Chi và Lý Thiếu Quân khinh nhờn trinh hồn, lừa dối chúa thượng, liền sai Mộc tinh Đông Phương Sóc tra rõ sự tình, để chính pháp sáng tỏ.
Từ khi Lý Thiếu Quân được triệu vào cung, Vũ đế mười phần sủng ái, cho đứng trên Đông Phương Sóc nữa. Nhưng Đông Phương sóc là người chính trực, trung tướng, đã đem thân đứng giữa triều đường, chỉ biết dẫn vua vào đường phải, sửa chữa lỗi lầm cho vua, vẫn thường khi dùng lời nói thẳng can gián. Nhưng vì Vũ đế không thích ông ta nữa, Lý Thiếu Quân vì lòng ganh ghét, đã thừa dịp hãm hại, nói đám vương mẫu và quần tiên lần trước Đông Phương Sóc mời về, chẳng qua chỉ là một bọn yêu nhân biến ra, chứ bà vương mẫu chân chính vẫn ngồi cao ở Dao Trì, chẳng rõ có biết tới chuyện này hay không. Đối với việc này, Vũ đế vốn có lòng nghi ngờ, nay nghe lời Thiếu Quân, lẽ nào lại không tin ? Nhưng việc xảy ra đã lâu, lại không tìm được chứng cớ, nhà vua đành bỏ qua.
Tuy nhiên, đối với Đông Phương Sóc, Vũ đế đã có lòng ghét bỏ, nghi kỵ. Đông Phương Sóc cũng hiểu được sự việc, nhưng lòng ông ta không để ở lợi lộc, nên hoàng đế sủng tín hay không, ông cũng không buồn bận tâm, chỉ lo chuyện tu luyện đại đạo của mình, chẳng muốn dự bàn việc triều chính. Đến khi phụng pháp chỉ của thiên đình, ông cũng có nghe biết việc Thiếu Quân cấu kết với Vương Nhất Chi hăm dọa hồn trinh của Anh Anh, bắt nàng đóng giả Lý phu nhân, lừa dối thiên tử. Nhưng việc đó chẳng can dự gì tới ông, ông không tiện nhiều lời. Nhưng bây giờ, việc đã liên quan tới trách nhiệm của ông, ông đành phải nghĩ cách giải quyết cho tốt. Hôm đó, ông ở trong nhà suy nghĩ cẩn thận, làm cách nào để lấy đi sinh mạng của Vương Nhất Chi và Lý Thiếu Quân. Vương Nhất Chi có pháp lực không cao, nhưng Lý Thiếu Quân biết nhiều tà thuật, tài năng không kém gì ông. Nếu để hắn chống đối, một là để mất thể thống thiên đình, hai là để dây dưa ngày giờ, e rằng sẽ bị Ngọc đế quở trách. Vả chăng Thiếu Quân hàng ngày ở gần bên vua, nếu ta vời gọi hắn, hắn có thể dựa hơi thiên tử để chống lại lệnh gọi, có khi còn dựa vào thế lực hoàng đế, bắt tội lại ta.
Việc này thật khó giải quyết. Nếu âm thầm phóng phi kiếm lấy mạng hắn, lại phạm tới thể chế, là phải thẩm tra tội trạng, minh chính dụng hình, mới khỏi thẹn với thân phận một pháp quan.
Thiên cung làm việc gì cũng phải quang minh, chính đại. Nghĩ tới đó Đông Phương Sóc cảm thấy thập phần nan giải. Trong lúc trù trừ, chợt cám thấy mệt mỏi, mới gục đầu trên bàn, đánh một giấc..
Đang ngủ thiu thiu, chợt nghe trên không trung có tiếng loan, hạc cùng kêu, tiếp đó thấy chim từ trên không sa xuống sân nhà, Đông Phương Sóc vội tỉnh dậy, bước ra cửa. Đưa cặp mắt ngái ngủ nhìn xem, thấy hai vị đạo nhân, một người mặc áo trắng, một người mặc áo đen, đang đứng giữa sân. Đông Phương Sóc không nhận biết hai người này, vội sửa lại quần áo cho ngay ngắn, tiến lại gặp mặt, hỏi hai vị tiên vì sao tới đây, pháp hiệu là gì ? Hai vị tiên nhìn nhau cười, lên tiếng :
- Mới xa cách nhau không lâu, đã không nhận ra chúng tôi rồi sao ?
Người mặc áo trắng là một vị tiên què, cười nói :
- Tôi tên gọi Lý Huyền, có ngoại hiệu Thiết Quài.
Lại chỉ vị tiên kia, nói :
- ông này là Huyền Châu Tử. Chúng tôi cùng ông đều là bạn bè kiếp trước, sao không nhận ra nhau ?
Đông Phương Sóc đạo hạnh cao thâm, nghe nói liền nhớ lại những việc ở trên thiên giới trước đây, vội cười, nhận tội, mời hai vị tiên vào thư phòng. Hai vị tiên cười, nói :
- Vô sự chẳng đặt chân lên Tam bảo điện. Chúng tôi đi chuyến này, chính vì Mộc tinh đang gặp phải chuyện khó xử, nên đặc biệt tới giúp đỡ ông. Vả lại cũng có một việc nho nhỏ, muốn cầu khẩn ông.
Đông Phương Sóc mời hai người ngồi, sau đó mới cười, hỏi :
- Có phải vì việc của Vương Nhất Chi đấy không ? Anh ta là cao đồ của Lý đạo huynh mà. Đáng tiếc rằng trong vụ này, anh ta đã làm những việc quá đáng, khó nỗi chu toàn.
Thiết Quài tiên sinh cười, nói :
- Bần đạo tới đây, đâu có phải để cứu tính mạng anh ấy ? Anh ta ở địa vị quỉ sứ, biết luật lại phạm luật, như thế mà có thể tha thứ, thì những kẻ phạm tội thập ác trong thiên hạ, còn ai là không đáng tha thứ ? Chẳng qua là tội ác lớn tới đâu chăng nữa, một khi thụ hình, chết là hết tội. ý của bần đạo là niệm tình thầy trò lâu năm, sợ rằng anh ta phải đày xuống âm tào, phải chịu khổ hình của địa ngục, không biết ngày nào mới ngóc đầu lên nổi ? Vì thế, muốn thương lượng với Mộc tinh, đợi sau khi anh ta chết, cho phép tôi được mang di thể anh ấy đi, khiến anh ấy lại có thể dụng công tu tập trong vài trăm năm, hoặc giả như vậy mà đạt được chút tài năng, để tôi được trọn tình thầy trò với anh ta. Giải quyết như vậy, chẳng biết có được hay không ?
Đông Phương Sóc vội đáp :
- Việc đó rất dễ. Trời có hình phạt thông thường, thụ hình rồi là xong, còn thêm hình phạt gì nữa ? Huống hồ Nhất Chi chỉ vì thói ham rượu, để mất lương tâm, mới ra nông nỗi. Luận về tình tiết, kể cũng đáng thương, đạo huynh chu toàn như thế, cũng có thể bù đắp cho anh ta một đời hiệp nghĩa, trung hậu, tiểu đệ lẽ nào lại chẳng tuân mệnh ?
Lại hỏi Huyền Châu Tử :
- Đạo huynh từ xa tới đây, có điều gì chỉ giáo hay không ?
Huyền Châu Tử cười, nói :
- Thiết Quài tiên sinh vì việc của học trò mà cầu xin, chứ bần đạo không có điều yêu cầu nào với đạo huynh. Chỉ vì đạo huynh hiện đang phụng chỉ chỉnh pháp Lý Thiếu Quân, tiểu đệ muốn cho đạo huynh biết người này trước đây đi theo Thông Thiên giáo chủ, đã tới đại náo thôn Hoài Hải, gây sự với La Viên phu nhân. Yêu vật này vốn là một con rùa lớn, tu luyện năm ngàn năm, đã có một pháp bảo luôn đem theo bên mình, có tên là "Giả nhãn cầu”. Đó là con ngươi, hắn đã sử dụng những đồ ô uế nhất trên đời, dùng bùa chú mà luyện thành. Nhãn cầu đó một khi xuất hiện, mọi người đều bị một lớp sương mù dày đặc che khuất hai mắt, đối diện không nhìn thấy nhau.
Huyền Châu Tử vừa nói tới đó, Đông Phương Sóc liền hiểu ra, gật đầu, nói :
- Hèn chi tôi nghe nói, lúc hắn đem quỉ hồn của Anh Anh, đóng thế vai Lý phi để cùng hoàng đế gặp mặt, hoàng đế chỉ nhìn thấy người, chứ không nhận rõ dung mạo, mờ mịt như ở trong lớp sương mù. Lúc đó, tôi không biết hắn có pháp lực gì mà có thể tạo ra cảnh tượng đó. Nay theo lời đạo huynh nói, có thể biết được là do nhãn cầu đó gây ra.
Huyền Châu Tử gật đầu, nói:
- Đó chẳng qua chỉ là chuyện nhỏ. Hoàng đế nhìn thấy Lý phu nhân hay không, cũng chẳng quan trọng gì. Đạo huynh vẫn chưa biết tình hình hắn quậy phá ở sông Tiền Đường ra sao đâu. Số là thủy triều ở sông Tiền Đường lên rất cao. Sau khi tôi tới nhận chức, mới dùng phép gom thủy triều các nơi về một chỗ, khiến tinh giao và rùa quái không thể đắc chí, đành ẩn thân ở dưới đáy biển. Những chỗ thủy triều lên quá cao, cũng có bần đạo quản lý, sai thủy binh trấn giữ, khiến bọn chúng dẫu giảo hoạt, cũng không làm gì được. Chẳng dè lão giao bày ra kế độc, năm trước đã mời rùa quái về hợp tác, lại cử binh xâm phạm. Rùa quái đem treo nhãn cầu, làm phép, khiến các thần tướng của tôi không thể nhìn thấy nhau. May nhờ Văn Mỹ chân nhân phái đồ đệ là Tuệ Thông dự tính trước, ở trên ngọn núi Văn Bút phong, thuộc tỉnh Phúc Kiến, luyện được một bình thủy tính, phát rạ ánh sáng chiếu vào, thu hút được sương mù của yêu quái. Vì thế rùa quái phải ẩn thân dưới biển, không dám ló đầu lên nữa. Ai ngờ con quái này lại biến thành hình người, tới đây mê hoặc hoàng đế. Bần đạo nghĩ, con quái này không bị trừ khử, còn làm hại cho người, nên vội tới đây trợ giúp đạo huynh, cùng trừ quái vật. Con quái này làm ác đã nhiều, sợ bị trời giết, nên nó thường đem treo giả nhãn cầu trong phòng, một là đề phòng người hành thích, hai là khiến người ta mờ mắt, không nhìn rõ nó ở chỗ nào. Nay đạo huynh phụng chỉ giải quyết việc này, nhưng sợ nhất thời chưa trừ nổi rùa tinh đâu.
Đông Phương Sóc nghe vậy, bất giác sợ hãi, vội chắp tay vái :
- Được đạo huynh không ngại đường xa ngàn dặm, tới đây chỉ giáo, dạy cho cách nào trừ khử yêu quái, thật may cho tiểu đệ, may cho dân chúng khắp nơi.


Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 4 trang, bài viết từ 31 đến 60 trên tổng số 93 bài trong đề mục