Bát Tiên Đắc Đạo
Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 6 của 7 trang, bài viết từ 76 đến 90 trên tổng số 93 bài trong đề mục
bevanng 22.07.2008 13:03:24 (permalink)
Hồi Thứ 83

Núi Đào Hoa, chó quậy Vương tiểu thư
Trấn Hạ Khẩu, chó cắn Lã Động Tân.


Lã Động Tân mở mắt ra, tự thấy mình đang cưỡi trên lưng hạc, bay lượn giữa không trung. Động Tân vỗ nhẹ lên cổ hạc trắng, nói :
- Sư huynh hãy bay chầm chậm lại, tiểu đệ có lời muốn thỉnh giáo.
Đồng tử hạc giang rộng hai cánh, bay chầm chậm, nghển cổ lên, phát ra tiếng người :
- Sư phụ bảo tôi đưa sư huynh tới miền Giang Bắc. Tới đó, tự nhiên có người nghênh đón sư huynh, dẫn lên Lư Sơn, sư huynh còn gì phải nghi ngờ nữa chứ ?
- Tôi không nói chuyện đó. Vừa rồi, tôi còn đang nói chuyện với sư phụ, tại sao trong khoảnh khắc đã ở trên lưng sư huynh, còn bay lượn trên không trung, là nghĩa làm sao ?
- Đó là tiên pháp của sư phụ, sư huynh còn không biết, làm sao tôi hiểu được ?
- Sư phụ đang ở đâu ? Sư huynh có biết hay không ?
- Chẳng phải vẫn còn đang ở nhà sư huynh hay sao ? Sự việc này, tôi hoàn toàn không biết. Tôi chỉ biết sư phụ vời tôi tới, bảo tôi đưa sư huynh ra khỏi nhà. Ngoài ra, sư phụ không nói gì cả, làm sao tôi dám hỏi ?
Động Tân biết tri thức về đạo của đồng tử hạc có giới hạn, so với người thường không sai bao nhiêu, nên không hỏi nữa. Đồng tử hạc cũng không nhiều lời, lại đập mạnh đôi cánh, bay nhanh. Chừng nửa ngày trời đã từ Hà Trung bay tới Giang Bắc. Bên kia sông, về phía Đông là thành Nam Xương. Hạc trắng cho Động Tân leo xuống, nói câu “Hẹn gặp lại ?", lại vỗ cánh bay đi. Động Tân vội cúi đầu, chắp tay bái tạ.
Động Tân định thần lại, nghĩ thầm : "Sư phụ bảo ta tới Lư Sơn, mà theo lời đồng tử hạc nói, còn có một người nghênh đón ta, đưa qua sông, người ấy là ai vậy ?". Suy nghĩ một lát, không quan tâm tới người đó nữa. Nhìn xem địa phương này, đằng sau là núi, đằng trước là sông, có vẻ thanh nhã, sạch sẽ, ta đã tới đây, hãy rong chơi, thưởng ngoạn một hồi, cũng chẳng hại gì. Vừa tính cất bước, chợt thấy phía trước, một người đi tới, có dáng vẻ là một quản gia, trên mặt nhễ nhại mồ hôi. Người đó lại gần Động Tân, tâm trí để đâu đâu, đâm sầm vào chiếc áo của Động Tân. Động Tân không chút đề phòng, nhận cú va chạm mạnh, lùi lại mấy bước, bực bội nói :
- Vị đại ca này, đi đâu mà vội mà vàng, mắt nhắm mắt mở, đường rộng thênh thang thế mà cũng đâm sầm vào người ta ?
Người kia tỏ thái độ vô cùng hòa nhã, nghe mắng, vội tươi cười, chắp tay vái, luôn miệng xin lỗi, nói :
- Tại hạ có việc vội bên mình, phải đi một mạch ba mươi dặm đường, để mời cho được một vị cao tăng đắc đạo, tới nhà thu phục yêu tinh. Nhìn sắc trời đã tối, nghĩ trong nhà yêu tinh đang quậy tưng bừng, rất sợ làm lỡ việc của chủ nhân, nên tôi mới cuống cuồng, đầu óc u mê, rõ ràng nhìn thấy đạo trưởng phía trước, không hiểu vì sao vẫn đâm đầu vào, đụng phải đạo trưởng, lỗi quá chừng.
Động Tân cười, nói :
- Không sao. Không sao. Nhưng tôi nghe anh nói yêu tinh gì đó quả thật lạ lùng. Giữa ban ngày ban mặt, yêu tinh mà to gan, dám hiện ra ? Đại ca có thể nói rô cho tôi biết, được không ?
- Nói cũng không ngại gì, chỉ tiếc rằng trời sắp tối, tại hạ còn phải đi một chặng đường dài.
- Bần đạo cũng đang rảnh rỗi, không có việc gì làm, có thể đi theo đại ca, được hay không .
Người kia đưa mắt nhìn lại Động Tân từ đầu tới chân, nói :
- Nghe giọng, dường như đạo trưởng không phải người địa phương, há chẳng phải người tiên từ phương xa tới hay sao ?
- Nói người tiên thì sai quá xa, nói phương xa thì đúng đấy. Bần đạo là người Hà Trung, họ Lã, tên Nham, tự Động Tân, đi lần này là muốn lên Lư Sơn, học làm thần tiên, nên không thể kể là thần tiên được.
- Nói vậy, đạo trưởng ắt có tài học, khác xa với mấy ông nhà Nho bình thường, không hiểu có bản lãnh bắt yêu, trừ quái giùm chủ nhân tôi hay không ? Chỗ chúng tôi đang ở, có danh tiếng từ xưa gọi là trấn Hạ Khẩu, có đường sá ăn thông tới khắp nơi. Chủ nhân tôi được người trong vùng xưng là thiện nhân, có sản nghiệp rất lớn, họ Vương, được mọi người gọi là Vương viên ngoại. Trong nhà có một vị tiểu thư, tuổi vừa mười sáu, tài mạo song toàn, lại hiếu thuận cùng cha mẹ, đối xử với đám gia nhân chúng tôi rất tử tế Chẳng dè vào tháng ba năm nay, cô theo mẹ lên Hoa Sơn thấp hương cúng Phật, không biết bị yêu nhân nào dòm thấy, theo về tận nhà, ốp vào mình cô, nói ra những lời nhảm nhí, không thể kể hết. Theo nó nói, tiểu thư chúng tôi cùng nó có duyên phận. Nó khoe là người tiên, nếu viên ngoại chịu đem tiểu thư gả cho nó, nó có thể đem cả nhà lên trời. Viên ngoại đời nào chịu đáp ứng, đã mời nhiều vị đạo sĩ về làm phép khu trừ. Nhưng đám đạo nhân đó đều là những kẻ ham tiền, chỉ biết uống rượu, ăn thịt, làm gì có tài thu phục yêu quái ? Họ bị yêu nhân đánh cho một trận dập mũi, phù mỏ, toàn thân bầm dập, ôm đầu chạy như chuột lủi, ngay cả tiền công cũng không dám tới nhận lãnh. Từ khi viên ngoại trở mặt, yêu nhân không còn khách sáo nữa. Mỗi ngày nó tới nhà, quậy cho nát nước nát cái.
- Chà, có lắm chuyện cổ quái nhỉ.
Người kia rụt cổ, thè lưởi, nói tiếp :
- Nó có thủ đoạn vô cùng lợi hại. Nó có thể tay không phóng ra ngọn lửa xanh lè, thiêu đốt phòng ốc, đồ đạc, cháy lên phừng phừng, khiến người và gia súc sợ hãi, kêu gào, bỏ chạy tán loạn. Nhưng chỉ một lát, lửa tắt hoàn toàn, chẳng những phòng ốc còn nguyên vẹn, ngay cả một ngọn cỏ, một gốc cây, cũng không hề hấn. Có khi đám gia nhân tụ tập bàn chuyện, chợt nghe ầm ầm một trận, bức tường thấp đằng trước sụt lở. Mọi người vừa hấp tấp chạy trốn, bức tường đó lại vững chắc như cũ, một viên gạch nát, một cục đá vỡ cũng không thấy. Yêu nhân lại có phép che mắt người ta, khiến ông bố chồng nhận lầm nàng dâu là lão phu nhân, con trai nhận lầm mẹ đẻ là vợ mình. Những sự lầm lẫn đó chỉ xảy ra trong chớp mắt, cũng gây không ít chuyện dở khóc dở cười. Đạo trưởng thử nghĩ coi, yêu nhân quậy phá như thế, tuy không hại chết ai, cũng gây xáo trộn trong nhà, chẳng ai được yên lòng, luôn luôn phải đề phòng yêu tinh phá rối, Động Tân vội hỏi :
- Tiểu thư đã từng bị yêu nhân làm nhục lần nào chưa ?
Việc này quả thật kỳ lạ. Yêu nhân mỗi ngày đều tới, ép buộc tiểu thư thành hôn với nó, nhưng coi tình hình, dường như nó rất sợ tiểu thư. Đại khái mỗi lần nó tới, chỉ ở trong phòng tiểu thư mà ngồi nhìn, nhắm chừng tới lúc tiểu thư lên gường đi ngủ, nó đều rút lui, chẳng dám mạo phạm lần nào.
- Hình dung yêu nhân này, các anh đều nhìn thấy chứ ?
- Chúng tôi chưa nhìn thấy lần nào. Chỉ có tiểu thư, sớm tối bị nó quấn quít, là nhìn rõ. Theo lời cô nói, thì đó là một quái vật, lông lá đầy mình, có đuôi, và tướng mạo rất hung dữ. Tiểu thư là cành vàng lá ngọc, bình thường không rời khỏi phòng khuê, nay ở bên giường của cô có con yêu tinh ngồi chồm chỗm, há chẳng đau khổ lắm sao ?
Động Tân nghe vậy, đùng đùng nổi giận, nói :
- Không cần nói nữa. Tôi sẽ theo anh đi mời vị cao tăng, coi ông ta có trị được yêu quái hay không. Nếu ông ta không trị được, tôi sẽ để ý nhìn kỹ, coi yêu nhân này là con gì, rồi nghĩ cách thu phục nó. Nếu tôi không đủ bản lãnh, ắt trở về mời sư phụ tôi tới, trừ hại cho cả nhà chủ nhân, được không ?
Người kia mừng rỡ, nói :
- Nếu được vậy, chủ nhân tôi nhất định cảm kích vô cùng.
Lã Động Tân không nói nữa, theo người kia đi, tới một ngôi chùa cổ, có tên là "Báo Quốc thiền tự". Người kia tiến vào, xin gặp tri khách tăng, là Tri Viên hòa thượng. Động Tân theo sát tận nơi, thấy Tri Viên là một nhà sư lùn tịt, béo phì, đầu bự, tai to.
Người kia đưa trình bức thư của chủ nhân, Tri Viên tiếp nhận, xem qua, chẳng nói chẳng rằng, mà trước hết hỏi Động Tân là ai.
Người kia trả lời giùm là Lã đạo trưởng, tình cờ gặp nhau giữa đường, cùng tới bái kiến đại sư. Tri Viên mới hỏi Động Tân :
- Anh có phải Lã Nham ở Hà Trung đấy không ?
Động Tân ngạc nhiên vô cùng, hỏi :
- Sư phụ làm sao biết được tên họ bần đạo ?
Tri Viên không đáp, chỉ mỉm cười. Động Tân để ý nhìn lén thần thái nhà sư, thấy nụ cười của ông ta hiển nhiên hàm ý giảo hoạt, mới nghĩ thầm : "Ta cần phải lên núi Lư Sơn, không nên xen vào chuyện người khác, lỡ gặp phải người xấu gây sự khó khăn, sẽ rất nguy hiểm, lại làm lỡ dở công việc của ta. Chi bằng tìm cách rút lui cho yên chuyện, chẳng cần để ý có người tiếp đón ta hay không, tự mình qua sông cũng được". Chủ ý định xong, lại thấy Tri Viên đang đối phó với người quản gia kia, bàn bạc về tiền thu lao bắt yêu quái. Người này đã đồng ý sẽ chi ra hai ngàn lạng bạc, Tri Viên còn chưa chịu đáp ứng, gọi một người làm công trong chùa tới bảo anh ta đi mời lão sư phụ, và nói rõ : “Lã Nham ở Hà Trung đã tới". Động Tân ngạc nhiên vô cùng, cho rằng hòa thượng này ắt có thù oán gì với gia đình ta, biết ta tới đây, tìm cách báo thù. Việc đã đến nước này, đành lắng nghe xem sao, liệu cách mà giải quyết. Vì thế, mỉm cười, nói :
- Chuyện này thật kỳ quái. Sư phụ đã biết rõ tên họ bần đạo, sao còn một vị lão sư phụ, không nhận biết bần đạo ?
Tri Viên cười, nói :
- Anh đừng quá bận tâm. Vị lão sư phụ của chúng tôi đạo hạnh cực cao, biết được chuyện quá khứ, vị lai, có phép hô phong hoán vũ đằng vân giá vụ. ông ấy đối xử với người khác rất tốt, lại rất ưa thích người tài. Đợi một lát, gặp ông ấy, anh sẽ biết ông là một thiện nhân trong Phật môn.
Động Tân không còn cách nào khác, đành đứng đợi xem sao.
Bên kia, Tri Viên đã giảng hòa cùng người quản gia nọ, đợi việc thu phục yêu quái xong xuôi, sẽ thu nhận hai ngàn lạng bạc. Động Tân xuất thân là con nhà thế tộc, sẵn tính hào sảng, bình sinh chỉ biết tận tâm giúp người, hiểu đâu nổi chuyện trừ yêu, bắt quái mà cũng diễn ra như phường buôn bán thế tục, cò kè bớt một thêm hai, trong lòng thầm nghĩ là chuyện quái dị. Những nhà sư trong chùa này đại khái đều là những kẻ bỉ lậu, làm sao có bản lãnh bắt yêu ? Nghĩ tới đó, bỗng nghe nhà sau có tiếng giày lộp cộp. Tri Viên cười, nói :
- Lão sư phụ đã tới, Lã đạo huynh mau theo bần đạo ra đón.
Động Tân đành đứng dậy, theo Tri Viên ra ngoài, quả nhiên thấy một lão hòa thượng, râu tóc trắng phau, một chòm râu dài phất phơ, mắt sáng lấp lánh, cốt cách thanh kỳ, khoan thai đi tới.
Tri Viên vội tiến lên phía trước, nói nhỏ vài câu. Lão hòa thượng lộ sắc mặt vui mừng, hỏi :
- Người ấy ở đâu ?
Động Tân nghe giọng nói sang sảng như tiếng chuông, vội tiến lại thi lễ, nói :
- Đạo môn đệ tử Lã Nham kính cẩn tham bái thiền sư.
Lão hòa thượng đặt tay lên vai Động Tân, cất tiếng cười ha hả, nói:
- Tốt, tốt. Ta đợi anh đã lâu. Hãy đi theo ta, ta có chuyện muốn nói .
Động Tân nhìn mặt lão tăng, thấy vẻ khí khái, khác xa với vẻ nông cạn của Tri Viên, nghĩ thầm : "Quả là một nhà sư tốt. Vừa rồi, ta không nên nghĩ sai về ông ấy". Vì thế, cung kính đi theo lão tăng, tới thiền viện lại sụp lạy. Lão hòa thượng nói :
- Bất tất phải đa lễ. Lão tăng hồi ở nhà, mang họ Trương, hai trăm năm trước cắt tóc đi tu, lấy pháp hiệu là Thông Minh. Năm nay, ta đã được hai trăm bốn mươi lăm tuổi. Hôm trước, trong lúc nhập định, biết rằng hôm nay anh sẽ tới, nên đã dặn dò các đệ tử đặc biệt lưu ý, ở đây đợi anh. Anh có căn khí thâm hậu, bất luận tu tiên hay học Phật, đều dễ dàng khác thường. Ý lão tăng muốn khuyên anh nhập Phật môn. Lão tăng sẽ thu nhận anh làm đệ tử, đem đạo hạnh bình sinh truyền hết cho anh. Chẳng bao lâu, ta viên tịch, anh sẽ ở lại chùa này làm trụ trì, quản lĩnh một ngàn tăng chúng, mai sau có hy vọng rất lớn. Chẳng biết anh có tình nguyện hay không ?
Động Tân thấy câu hỏi quá bất ngờ, ngoài ý nghĩ của mình.
Cũng may, anh vốn thông minh, mẫn tiệp, vội khấu đầu, vái tạ :
- Sư phụ có thịnh ý tài bồi cho đệ tử, lẽ nào đệ tử không biết cảm kích ? Nhưng đệ tử, trước khi xuất gia, đã có tiên sư dìu dắt, chỉ bảo. Lần này rời nhà, chí tử là vâng lệnh thầy, lên Lư Sơn học tập kiếm pháp. Đệ tử đã nhập Đạo môn, không thể cải đạo. Cũng may, tam giáo đồng nguyên, tông chỉ đều là cảm hóa người đời, bỏ ác hướng thiện. Đệ tử tuy ở Đạo môn, chẳng khác gì qui y Phật pháp. Cửa Phật vốn rộng, sư phụ thịnh đức, cao niên, bụng dạ chẳng hẹp hòi, chắc không nỡ trách đệ tử.
Lão hòa thường nghe vậy, lặng lẽ hồi lâu, sau mới buông tiếng thở dài, nói :
- Người vô duyên, lại muốn cưỡng ép thành hữu duyên, quá là trái lẽ tự nhiên của tạo hóa. Ta đã sai lầm, ta đã sai lầm.
Nói rồi, nhắm mắt ngồi yên, hồi lâu không nói một tiếng. Về sau, Tri Viên tiến lại, đứng bên cạnh một lúc lâu, lão hòa thượng mới mở mắt ra, bảo anh ta:
- Ngươi tới nhà Vương viên ngoại, nên để ý cẩn thận. Yêu tinh này là con chó ngao của thần Nhị Lang. Hiện nay, vì trong nhà chủ nhân nó có chuyện, người ta thả nó ra ngoài, không ai quản thúc, nó mới bạo gan lẻn xuống phàm trần. Con chó này không dễ đối phó đâu. Trước hết, ta ban cho anh một bảo bối, có thể sử dụng để chém lên mình nó, nhưng bất tất phải hại tới tính mạng. Nó đã từng đi theo Nhị Lang, lập được nhiều công lao, mà cái tội phong lưu nho nhỏ của nó cũng không đáng chết. Hơn nữa, Vương tiểu thư vốn là cọp cái chuyển thế. Kiếp trước, cô ta tuy là mãnh thú, khá có nhân tâm, chưa từng sát hại loài người, nên kiếp này được chuyển thế làm người. Lại vì cô đối xử với đám thủ hạ, là những con ma trành, rất mực nhân hậu, nên đám ma trành quyến luyến không rời, luôn theo sát bên cô để bảo vệ, khiến chó ngao không thể lại gần cô, chưa làm ô nhục thân xác cô, nên tội danh của nó cũng giảm xuống một bậc. Nếu anh giết chết nó, chẳng những khó đối phó với thần Nhị Lang, mà việc xử phạt quá với tội danh còn kết oan nghiệt ở kiếp sau, anh đã hiểu chưa ?
Tri Viên thuận miệng xin vâng. Lão hòa thượng lại nói tiếp, dặn bảo anh ta :
- Lã Nham này đã quyết tâm không gia nhập Phật giáo chúng ta, anh cứ dẫn anh ta đi theo, cùng tới nhà Vương viên ngoại, để anh ta giúp anh một tay, giải quyết một vụ trọng án.
Tri Viên nghe vậy, bất giác đưa mắt nhìn Động Tân chăm chú. Động Tân nghe lão hòa thượng nói, nẩy ý nghi ngờ, không hiểu thật tình vụ này ra sao. Định cúi đầu hỏi vài câu nữa, đã thấy lão tăng nhắm mắt nhập định, đành ngỏ lời từ biệt, cùng Tri Viên đi ra.
Tri Viên lấy ra hai tấm giáp mã, đưa cho Động Tân một tấm, bảo buộc vào bắp vế, đưa tay vẽ bùa, nói rằng đây là phép thần hành, mỗi ngày đi được ba ngàn dặm. Động Tân mừng rỡ, theo Tri Viên ra ngoài cổng chùa, anh này dặn bảo quản gia nhà họ Vương :
- Anh cứ chậm rãi mà về nhà, chúng tôi đi trước đây !
Nói rồi, đưa tay vẫy gọi Động Tân, cùng cất bước. Động Tân quả nhiên thấy đi nhanh như bay, cũng không chút đau đớn nào. Trong chớp mắt, đã tới một nơi thị tứ đông đúc.
Nhìn sắc trời chưa tối hẳn, Tri Viên đưa tay chỉ một căn nhà cao và rộng, nói đó là nhà Vương viên ngoại. Hai người tới thẳng chỗ cửa, nói cho người canh cổng biết lý do mình tới đây. Người canh cổng vội chạy đi thông báo. Không bao lâu, vợ chồng Vương viên ngoại cùng các con, gồm tất cả chừng sáu bảy người, đều ra ngoài nghênh đón, gặp hai người, mời vào nhà trong. Gặp nhau lần đầu, hai bên trao đổi vài câu khách sáo. Sau đó, Tri Viên mới hỏi tình hình yêu nhân quấy nhiễu ra sao. Vương viên ngoại kể lể, đại khái không sai bao nhiêu, so với những lời quản gia đã nói với Động Tân. Nhân đó, viên ngoại hỏi Tri Viên có biết yêu tinh này là giống gì chăng ? Nó đã có tài quậy phá nhân gian, làm sao thoát khỏi tay nó ? Xem chừng tiểu nữ dường như không có vẻ sợ nó, là tại lý do gì ? Tri Viên đem những lời lão hòa thượng đã nói, kể lại. Kể lể một hồi, lại nói :
- Chúng tôi cũng chưa thăm dò đầy đủ tin tức về con chó này, nhưng chó là loài rất thính, nếu nó phát hiện ra có người tới bắt, ắt nó bỏ trốn tức thì. Đợi chúng tôi bỏ đi, nó lại quay về quậy phá, càng thêm nguy hiểm. Nhân lúc chúng tôi mới tới, nó chưa biết gì, phải khẩn trương thu phục nó, mới là thuận tiện. Xin viên ngoại dẫn chúng tôi tới phòng tiểu thư, để chúng tôi làm phép bắt yêu.
Viên ngoại mừng rỡ, đích thân cầm chiếc đèn lồng, cùng phu nhân đi trước dẫn đường, đưa một Tăng, một Đạo đi, quẹo qua chỗ cuối hành lang, lên lầu, tới thẳng khuê phòng của tiểu thư. Tới chỗ cửa, Tri Viên rút trong tay áo ra một bức họa đồ bằng vải, đưa cho Động Tân, bảo Động Tân đứng trấn giữ cửa, treo bức họa đồ lên khung cửa. Hễ thấy con chó nhẩy vào họa đồ, phải mau mau cuộn bức họa đồ lại, lập tức có thể khiến xương cốt của nó biến thành tro. Động Tân vội nói :
- Vừa rồi, lão sư phụ đã dặn dò kỹ, bắt phải lưu giữ tính mạng cho nó kia mà.
Tri Viên thổi "Phì !" một tiếng, nói :
- Ông già đó thật tình lẩm cẩm. Đã tới trừ yêu, thì phải trừ cho tuyệt nọc, còn nói lôi thôi bảo vệ tính mạng gì nữa ? Đã thế thì đừng xen vào chuyện người khác làm chi. Cái thói mèo khóc chuột, giả dạng từ bi đó, ta chẳng ưa chút nào.
Động Tân nghe vậy, lặng yên không nói, chỉ nhận lấy bức họa đồ, giữ việc canh cửa, đợi Tri Viên tiến vào phòng rồi, mới treo bức họa đồ lên.
Tri Viên theo chân viên ngoại và phu nhân tiến vào trong phòng. Lúc đó, tiểu thư đang ngủ trên giường, màn rũ bốn góc, không nghe hơi thở. Bên ngoài chỉ nghe tiếng con chó thở phì phò.
Nhìn kỹ, quả nhiên thấy một con chó dữ, coi rất hung tợn, nằm cuộn mình dưới chân giường, đang ngủ say. Tri Viên nói : "Con súc sinh này sướng thật !", lập tức bảo vợ chồng viên ngoại lùi lại một bước, đích thân cầm kiếm làm phép. Vợ chồng viên ngoại chỉ thấy rất nhiều thần tướng, thần binh, đột ngột xuất hiện. Tri Viên nói rõ nguyên do cho họ biết, các vị thần tướng đều đưa cao binh khí, nhắm về phía chân giường tiểu thư mà tấn công con chó. Con chó bị một vết đâm, rống lên một tiếng, chạy thẳng ra ngoài, cất tiếng sủa vang bốn phía. Binh khí của các thần tướng không làm tổn thương được nó, trái lại nó còn cắn bị thương một số thần binh. Tri Viên nổi giận, vung gươm chém. Con chó giương móng vuốt nhọn hoắt chống cự. Tri Viên múa kiếm vù vù, phát ra một luồng ánh sáng trắng như bạc, chỉ thấy ánh sáng chứ không thấy người. Con chó này đã từng đụng trận với nhiều thần chú, không tỏ vẻ hoảng hốt chút nào, nỗ lực giao chiến. Thoắt thấy nó tung bốn vó xông thẳng vào, thoắt thấy nó há miệng cắn người. Giao chiến hồi lâu, kiếm không đả thương được chó, chó cũng không thể làm tốn thương người. Cuối cùng, phía bên kia, thần đông, thế mạnh, con chó một mình không địch lại nổi. Khí lực cạn dần, nó vừa chiến đấu vừa lùi lại, tới chỗ cánh cửa, nghĩ cách tìm đường tẩu thoát.
Ngước nhìn lên, nó thấy phía trước là một khu rừng rộng lớn, có núi có sông, có cây có hoa, lại có rất nhiều động vật nho nhỏ, như lợn, dê, gà, ngỗng... đang ở trong đó tung tăng rong chơi, thật tiêu dao, thoải mái. Chó làm gì có tri thức như người, làm sao hiểu được cánh khu rừng chỉ là ảo cảnh bầy ra để dụ nó ? Đang tìm chỗ chạy trốn, vừa thấy khu rừng, nó liền nhẩy vào. Lã Động Tân ở bên ngoài, đang dán mắt vào bức họa, không chợp mắt, bỗng nhiên không nhìn thấy gì nữa, vội vã cuộn bức tranh lại. Cuộn được nửa chừng, chợt nhớ lại lời lão tăng đã nói, liền suy nghĩ . "Chủ của con chó này là thần Nhị Lang, cùng những người như sư phụ ta sẵn có giao tình, nay ta hại chết chó ngao của ông ấy, sau này sư phụ ta còn mặt mũi nào mà nhìn Nhị Lang ? Chi bằng, nhân cơ hội này, ta thả nó ra ?” Nghĩ vậy rồi, liền thả bức họa đồ xuống. Vừa thả nửa chừng, bỗng nhiên thấy một con chó dữ nhảy ra, xuất kỳ bất ý cắn vào chân Động Tân một miếng. Động Tân chỉ kịp kêu lên một tiếng "A !", liền ngã vật ra đằng sau.

#76
    bevanng 22.07.2008 13:26:59 (permalink)
    Hồi Thứ 84

    Lã Động Tân làm ơn mắc vạ
    Bạn gửi gắm, Hằng Nga đưa tin.


    Lã Động Tân lúc mới xuất gia, được Chung Li Quyền ban cho chiếc áo "Hỗn nguyên bát quái" khoác lên mình. Áo này kỵ nước, kỵ lửa, không sợ binh đao. Nhưng lần đầu đụng độ, lại gặp phái chó ngao của thần Nhị Lang. Con chó này không phải loài thú tầm thường. Từ thời thượng cổ nó đã khổ công tu luyện, tuy không thành tiên đạo, cũng đạt được tấm thân muôn kiếp không hủy hoại. Răng của nó lại vô cùng lợi hại, nhờ đó nó từng theo chủ nhân lập được nhiều công lao, cắn chết không ít yêu nhân, quỉ quái. Tự nhiên là uy lực hàm răng của nó không thể so sánh với nước lửa và các thứ binh khí. Huống chi lúc đó Lã Động Tân nhất tâm làm việc tốt, chỉ nghĩ chuyện cứu tính mạng con chó, không kịp đề phòng nó từ trong họa đồ nhẩy ra. Nó đang căm hận mấy người đối địch với nó, chẳng cần biết ai vào ai, tưởng đâu Động Tân là người được sai phái, đứng rình chỗ cửa để hại nó. Vì thế, vừa từ trong bức họa đồ nhẩy ra, đang tìm đường chạy trốn, thấy Động Tân đứng đó, liền xông vào, táp cho một miếng vào cẳng. Áo đạo của Động Tân, như trên đã nói, có thể chống lại nước lửa, gươm đao, nhưng không chế ngự nổi răng chó. Động Tân bị chó cắn vào chân, la lên một tiếng, ngã lăn ra đất, bất tỉnh nhân sự. Lúc đó, anh ta còn mang cơ thể huyết nhục, bị chó cắn một miếng, đau đớn vô cùng.
    Chó ngao cắn Động Tân xong, bỏ chạy đi liền. Phía sau, Tri Viên cùng vợ chồng Vương viên ngoại chạy ra, thấy Động Tân bị thương, vội xúm vào đỡ dậy. Tri Viên oán hận Động Tân, nói anh này khi không nổi cơn điên, đã bắt được con chó dữ, cuộn trong tấm họa đồ, vĩnh viễn không còn lo hậu hoạn, bỗng mắc chứng gì lại thả nó đi ? Nó còn ôm lòng oán hận, ngày mai lại tới gây sự, ta cũng chịu phép, không cách gì thu phục nổi nó. Họa này do ngươi gây ra, ngươi tự lo giải quyết, ta không hơi đâu mà giúp đỡ ngươi. Còn vết thương đau nhức, do ngươi tự chuốc lấy, đừng trách người khác. Tri Viên nói liền một hơi, rồi lớn tiếng cáo biệt, đòi đi.
    Động Tân vừa đau vừa thẹn, lại bị mắng mỏ một trận, không tìm được lời nào để đối đáp. Vợ chồng Vương viên ngoại nhìn nhau mà than thở, rất sợ chó quái trở lại, tính mạng cả nhà đành chôn vùi vào miệng chó. Động Tân vô cùng áy náy, nói :
    - Xin viên ngoại yên tâm. Con chó này do bần đạo thả ra, bần đạo phải biết kế xua đuổi nó, khiến nó vĩnh viễn không dám hẻo lánh đến đây. Việc này ngày nào không giải quyết xong, bần đạo thề rằng ở lại quí phủ ngày đó, liều chết với nó.
    Không đợi Động Tân nói dứt câu, Tri Viên cười nhạt, nói :
    - Được, được. Nếu sớm biết ngươi có tài như thế, viên ngoại hà tất phải sai người đi xa mời ta ? Nhưng nay thì tốt rồi. Đã có một vị đại tiên trông cửa giữ nhà cho ông bà, chắc rằng yêu ma, quỉ quái đều không dám tới nhà gây sự, sá gì chú chó con con ? Bần tăng lo việc không xong, đạo pháp có hạn, thật tình không thể chống lại con súc sinh. Thành thật xin lỗi, tôi phải đi đây.
    Nói rồi, giận dữ bước xăm xăm ra cửa, định đi. Vương viên ngoại vội năn nỉ, ngăn cản, nói:
    - Sư phụ từ xa tới đây, vất vả đã nhiều. Lúc này trời còn chưa sáng, chỉ mới sang canh ba, bất luận thế nào cũng xin sư phụ dừng chân, ở lại một đêm, sáng mai đi sớm cũng được.
    Tri Viên đành nghe theo, ở lại qua đêm. Hôm sau, vào lúc giữa trưa, Tri Viên vừa ra cửa, đụng ngay phải một nhà sư, do chùa sai tới để thăm dò tin tức. Tri Viên nhìn lại, nhận ngay ra là Tri Giác hòa thượng của bản tự, vội ngừng chân, hỏi Tri Giác tới đây có chuyện gì, Tri Giác nói :
    - Lão sư phụ đã sớm biết chuyện hôm qua hai người không thu phục nổi yêu quái.
    Tri Giác nói chưa dứt lời, Tri Viên đã nhẩy dựng lên, nói :
    - Nói gì vậy ? Tôi theo lão sư phụ đi đã nhiều nơi, thu phục không ít yêu nhân, sá gì một con chó nho nhỏ ? Đừng nói với tôi rằng lão sư phụ không hề biết việc thất bại này là tại anh kia.
    Nói rồi, lại đưa tay chỉ Động Tân, nói :
    - Sư huynh cứ hỏi hắn coi. Không biết từ đâu tới một đạo nhân quê mùa, không chút bản lãnh, mà lão sư phụ của chúng ta lại tin tưởng hắn, còn định thu nhận làm Thiền môn đệ tử nữa chứ. Hứ ! Hạng người này chỉ xứng đáng làm anh thầy pháp, gạt người đời để kiếm ăn. Nếu thật tình hắn ở trong Thiền môn thì, hà hà, làm mất mặt tăng nhân chúng ta hết ráo !
    Tri Giác thấy Tri Viên huênh hoang như thế, trong khi Động Tân ngồi ngay ngắn, không có sắc thẹn, cũng không tranh cãi một lời, mới gật đầu, nói :
    - Tri Viên sư huynh đừng nên nóng nẩy. Sư phụ không hề nói anh không đủ bản lãnh, thu phục yêu nhân không nổi, chỉ nói số đã định trước, con chó này không đáng chết vì tay anh. Chẳng những nó không đáng chết vì tay anh, mà tội của nó cũng không đáng chết, người ta không thể giết nó được. Sư phụ há không dặn dò kỹ rồi sao ? Tại sao anh không thèm để ý, cứ nhất định đưa nó vào chỗ chết, là nghĩa lý gì ?
    Tri Viên bị hỏi một hơi, không biết đường nào trả lời, đứng ngẩn người ra. Tri Giác lại nói :
    - Lão sư phụ làm việc gì, làm sao sai lầm được ? Thầy đã biết tính anh nóng nẩy, nhưng lại trao pháp bảo cho anh, rõ ràng đã cho anh toàn quyền hành động, tự định đoạt việc sống chết. Anh đã không nghe lời thầy, sao còn đổ lỗi cho người khác ? Còn như vị Lã đạo hữu này, lai lịch ra sao, vị tất anh đã biết rõ, hẳng cần phải nói nhiều. Nói chung, anh ta mỗi khi gặp khó khăn, tự có thần tiên giúp đỡ. Nay anh cứ giao việc này cho anh ta giải quyết, coi kết quả ra sao.
    Tri Viên tỏ ý không phục :
    - Nếu đã vậy, lão hòa thượng ngay từ đầu nên phái anh ta tới đây một mình, thì giờ này làm gì có chuyện ? Hà tất phải bắt chúng ta xen vào chuyện người khác, hôm nay còn phiền tới sư huynh cất công tới đây. Thế có phải là lắm chuyện hay không ?
    - Anh chớ nên nóng nẩy. Há chẳng nghe sư phụ giảng về duyên phận và lý số hay sao ? Người có định duyên, việc có định số, ông trời cũng không thể đổi lại, huống chi là người phàm chúng ta ? Nói thực cho anh biết, sư phụ đã thừa biết tính cách của anh, hễ đại quyền nắm trong tay, nhất định không chịu tha mạng cho ai, nên mới kêu Lã đạo hữu đi cùng, chính là muốn giúp cho con chó một cánh viện binh.
    Tri Viên nghe vậy, cất tiếng cười hô hố, ha hả, nói :
    - viện binh với chẳng viện binh, chỉ có chuyện chó cắn Lã Động Tân thì thấy.
    Mọi người nghe vậy, đều cười rộ lên. Tri Giác cười, nói :
    - Anh đừng nói vậy. Mọi chuyện đều không vượt qua dự liệu của lão sư phụ. Lã đạo hữu nhất định phải cứu chó quái, chó quái cũng nhất định phải cắn Lã đạo hữu. Mấy người chưa tin, để rồi sẽ thấy.
    Nói rồi, xòe bàn tay cho thấy một viên thuốc mầu trắng, cất tiếng gọi Lã Động Tân :
    - Lã đạo hữu lại đây. Đây là viên thuốc trị vết thương, sư phụ đã dự bị giành cho anh. Sư phụ còn nói : Chó này mà cắn vào chỗ khác trên thân thể, tính mạng đã tiêu tùng. Cũng may anh có áo đạo bảo hộ, nó chỉ cắn bị thương ở cẳng anh thôi. Vết thương tuy rất đau, cũng may áo đạo không bị cắn rách.
    Mọi người nghe vậy, đều chú ý nhìn, và đều "ồ ?" lên một tiếng, cho là điều kỳ lạ. Chiếc áo đạo che kín tận gót chân, rõ ràng răng chó phải cắn xuyên qua lớp áo, mới tới được da thịt bên trong, vậy mà da thịt bị thương, chiếc áo không một vết xước. Quả là một báu vật hiếm có trong trời đất. Tri Viên thấy vậy cũng phải khen ngợi. Động Tân chắp tay vái Tri Giác, ngỏ lời cảm ơn lão hòa thượng. Tri Giác mới lấy viên thuốc, chà lên vết thương, thoáng chốc da thịt liền như cũ, chẳng còn đau đớn gì. Tri Giác nói :
    - Lã đạo huynh, việc gì cũng có số định trước. Con chó quái này phải nhờ tay anh xua đuổi mới được, người khác can thiệp vào, không có tác dụng.
    Tri Viên còn muốn nói lôi thôi, Tri Giác gạt đi, nói :
    - Sư phụ sai tôi tới gọi anh, theo tôi về chùa, bất tất phải nấn ná ở lại đây. Việc này, một mình Lã đạo hữu giải quyết cũng đủ rồi.
    Tri Viên đành nghe theo, cùng Tri Giác xin cáo biệt Vương viên ngoại cùng Lã Động Tân kính cẩn đưa tiễn tận cửa.
    Hai người đi rồi, Vương viên ngoại cùng Lã Động Tân trở vào nội sảnh. Động Tân mới hướng về phía viên ngoại, ngỏ lời tạ lỗi, nói:
    - Xin viên ngoại hãy yên tâm. Lã Mỗ tuy không chút đạo hạnh, nhưng đến lúc vạn bất đắc dĩ, cũng sẽ mời sư phụ tới đây giúp đỡ. Sư phụ tôi là đại la kim tiên Chung Li Quyền, hiệu là Văn Phòng tiên sinh. ông ấy có bản lãnh nghiêng trời lệch đất, đối với chú nhân con chó ngao là thần Nhị Lang lại có mối giao hảo cũ. Ông đã biết tôi ở đây giải quyết chuyện này. Lúc tôi lo việc không xong, ông cũng biết nữa, nhất định sẽ tới đây, bất luận là dùng biện pháp mạnh mẽ hay nhẹ nhàng, đều giải quyết ổn thỏa, viên ngoại còn sợ gì nữa ?
    Vương viên ngoại bái tạ, nói :
    - Đệ tử được thượng tiên chiếu cố, giúp đỡ cho, lẽ nào lại không yên tâm ? Nhưng chẳng biết con yêu này bao giờ mới tới ? Nó không tới ngày nào, tôi nằm không yên gối ngày đó. Sư phụ của thượng tiên đã có đạo pháp cao như thế, tốt nhất là nên xin ông ấy chịu khó dời gót lên trời, cáo tố cùng thần Nhị Lang, mau mau thu hồi con chó. Như thế, mọi việc yên hết, cả nhà tôi được an tâm, mà thượng tiên cũng không phải nấn ná ở đây, uổng phí thời giờ quí báu.
    Động Tân nghe vậy, ngần ngại trong lòng. Bản thân ta lần đầu học đạo, tuy được sư phụ giáo huấn lâu năm, biết được khá nhiều phép thuật, nhưng trong bấy nhiêu năm miệt mài chốn danh lợi, những đạo pháp học được không có thời giờ dụng công ôn luyện, lại vì yên vui chốn gia đình, sống cuộc đời bình thản, thủy chung không có cơ hội thí nghiệm, chẳng biết có linh hay không ? Lại thêm một điều , lúc trước sư phụ phái đồng tử hạc đưa ta đến đây, nay muốn trở về thỉnh cầu sư phụ, phải lội bộ, ít ra cũng mất từ mười tới mười lăm ngày đường. Vả lại, về đến nhà, nhất định là gia đình ngăn cản, không cho đi, há chẳng tự ta làm hại ta hay sao? Nghĩ đến đó, bất giác phiền muộn trong lòng. Vì Vương viên ngoại vài ba phen khẩn cầu, đành đem nội tình nói rõ cho biết, lại nói thêm :
    - Sư phụ tôi đúng là kim tiên trên trời. Tôi tới đây là do ông phái hạc trắng đưa đi. Đến đây rồi, khi không xen vào chuyện tào lao, chịu nhiều đau đớn, những chuyện đó sư phụ tôi đều liệu định được cả, ông đã không kêu tôi về thỉnh thị ý kiến, đủ thấy ông liệu định đến nơi đến chốn. Đúng lúc, ắt có cao nhân tới giúp đỡ. Viên viên ngoại yên tâm. Người tu đạo chúng tôi tối kỵ nói khoác lác, huyênh hoang. Tôi đang tự do một thân, vì chuyện gì mà phải tự chuốc lấy khổ, chịu ở lại quí phú để đợi yêu vật ?
    Vương viên ngoại không biết nói sao, đành cùng phu nhân ngỏ lời cảm ơn, và sai thu dọn một căn phòng sạch sẽ, để Động Tân ở.
    Động Tân ở được ba ngày, chẳng nhận được tin tức gì, ruột nóng như lửa đốt. Nhân lúc đêm khuya thanh vắng, đẩy cửa ra ngoài, dạo bước dưới trăng, chắp hai tay sau lưng, đi tới đi lui, trầm ngâm suy nghĩ, không biết tìm cách gì để kết thúc vụ này. Nghĩ mãi không ra, bất giác buông tiếng thở dài. Bỗng nghe giữa thinh không dường như có tiếng con gái cười lanh lảnh, Động Tân kinh ngạc, ngửng đầu nhìn lên, thấy một đám mây ngũ sắc, ngừng lại giữa những đám mây đen. Giữa đám mây lành, một người đẹp đang đứng, ăn mặc theo lối cung nữ, tay cầm phất trần, vẫy gọi Động Tân, cười nói :
    - Người xuất gia có tâm sự gì, mà thở vắn than dài như thế ? Đã có điều vướng bận trong lòng, sao không mau mau trở về, hưởng phúc chốn nhân gian .
    Động Tân nghe vậy, vừa ngạc nhiên vừa thẹn thùng, vội quì xuống, lạy dập đầu, nói :
    - Xin tiên cô hạ phàm, chỉ giáo đệ tử.
    Nói chưa dứt lời, đám mây đã hạ thấp, ở ngay trước mặt, biến thành một làn khói xanh, theo gió bay đi tứ tán. Trước mặt là một tiên cô, đứng nghiêm chỉnh, hướng về phía Động Tân, phất tay một cái, nói :
    - Đứng dậy đi, đứng dậy đi. Đừng làm tổn thọ bần đạo.
    Động Tân đứng lên, lại vái bốn vái, tiên cô cũng cung kính đáp lễ tự giới thiệu là Hằng Nga chốn cung trăng, trước đây vì nhiễm tình trần tục, bị Thái âm tinh chủ đày xuống phàm trần, may gặp Thiết Quài tiên sư cứu vớt, đưa về cung trăng, đội ơn tinh chủ thương yêu, tha thứ, cho theo hầu như cũ. Gần đây, tinh chủ vâng lệnh Ngọc đế, sửa sang tinh cầu, sao cho mặt trăng ngày một sáng sủa, soi tỏ khắp vũ trụ. Tinh quân mới chọn trong đám tiên cơ, lấy một số người có tài có đức, sai đi khắp nơi, điều tra tình hình ánh trăng chiếu xuống trần gian ra sao, trở về báo cáo với tinh chủ. Bần đạo được chọn trong số người đi điều tra, nhân qua núi Lư Sơn, gặp Hà đại tiên cô, yêu cầu ở lại, trò chuyện nửa ngày trời. Cô nói rằng vâng lệnh thầy là Huyền Nữ, ở lại núi này để đợi một người, truyền thụ Thiên độn kiếm pháp cho anh ta. Tôi mới hỏi người cô đang đợi là nhân vật nào ? Cô cho biết đó là Lã Động Tân, đệ tử của Văn Phòng tiên sinh.
    Động Tân nghe vậy, vừa mừng vừa ngạc nhiên, vội nói :
    - Thưa tiên cô, đệ tử chính là Lã Động Tân. Gia sư Chung Li Quyền bảo đệ tử tới Lư Sơn, ở đó có người truyền cho Thiên độn kiếm pháp, thì ra là Hà đại tiên, thật may mắn cho đệ tử. Nào ngờ vừa tới nơi, gặp ngay một chuyện nhỏ buộc vào thân, khiến đệ tử tiến thoái lưỡng nan. Vì thế mới đứng dưới trăng mà than thở, chẳng dè bị tiên cơ nhìn thấy, đệ tử thật hổ thẹn vô cùng.
    - Việc khó khăn của anh, ta hiểu rồi. Chẳng phải là Hà tiên cô nói cho ta biết, cũng không phải ta có tài tiên tri, mà là trên đường đi, tới dưới chân núi Kim Sơn, ta gặp được Trương Quả đại tiên. ông ấy vì cứu độ cho một người, vừa từ núi Long Hổ trở về, gặp ta, mới đem chuyện của anh nói cho ta biết. Người mà lần này Trương đại tiên hạ phàm cứu độ, cũng là người được lệnh sư chiếu cố ủy thác cho đại tiên thay mặt mình giải quyết công việc. Việc đó đã giải quyết xong, đại tiên trở về núi, nhân tiện gặp tôi, đem chuyện kể lại, lại nhờ cậy tôi gửi một bức thư cho thần Nhị Lang, bảo Nhị Lang mau mau thu hồi chó ngao, để anh khỏi phải nấn ná chốn nhân gian, lỡ dở việc tu đạo.
    Động Tân nghe vậy, lại luôn miệng cảm tạ. Hằng Nga hé cặp môi hồng, mỉm cười, nói :
    - Vị tiên sinh này đúng là ưa đa lễ, tôi chằng quen thói khách sáo đó chút nào.
    Động Tân bất giác đỏ mặt, không biết nói sao. Hằng Nga lại nói:
    - Anh chưa từng trải việc đời, thường hay e thẹn, tôi không nói giỡn với anh nữa, mà hỏi anh một chuyện đứng đắn nhé. Anh có hiểu vì sao tôi với Nhị Lang trước nay không từng quen biết, mà Trương đại tiên lại nhờ tôi đưa tin cho Nhị Lang, anh có biết hay không ?
    Động Tân vội nói :
    - Đệ tử không hiểu lý do, xin tiên cô chỉ giáo.

    #77
      bevanng 22.07.2008 13:58:58 (permalink)
      Hồi Thứ 85

      Trách em gái, Nhị Lang nổi giận
      Trả nợ tình, thánh mẫu mắc nạn.


      Hằng Nga nói với Lã Động Tân :
      - Tôi với Nhị Lang trước nay chưa từng qua lại, tại sao Trương Quả đại tiên lại nhờ tôi đưa thư cho Nhị Lang ? Chuyện này khá dài dòng, để từ từ tôi nói anh nghe. Nguyên Nhị Lang có một người em gái, ở cuối đời nhà Chu, tu thành đại đạo, được Ngọc đế xuống chiếu, phong làm Nguyên Chân phu nhân, là người mà người đời nay ngoa truyền, xưng là thánh mẫu nương nương. Theo như lời đồn đại, phu nhân tuy đắc đạo, thụ phong, nhưng vẫn nợ người trần một mối nhân duyên. Số là hồi nương nương ở dưới phàm trần, từ hồi nhỏ đã được cha mẹ hứa gả cho một thiếu niên si tình. Chàng thiếu niên này là công tử nhà đại gia, trời cho có tài mạo song toàn, thần thái tuyệt thế, từ khi gia đình đưa sính lễ hỏi vợ cho, nghe nói tiểu thư tứ đức gồm đủ, xinh đẹp như tiên, lòng thầm vui sướng. Không dè cô tiểu thư đó, từ nhỏ đã không dùng đồ tanh tưởi, không mặc lụa là. Đến chừng có chút tri thức, liền dốc lòng tu đạo, cha mẹ cũng không thể ngăn cấm, chị em không khuyên can nổi. Vừa mười lăm tuổi, liền bỏ nhà đi tu. Chàng thiếu niên được tin, khóc rống lên, thổ huyết ra mà chết. Tiểu thư, sau khi tu thành đại đạo, được phong phu nhân, mỗi khi nghĩ đến người chồng vì nặng tình với mình mà chết, không khỏi khắc khoải trong lòng, thường nói : "Bản thân ta làm người tiên, không làm được điều gì tốt cho người khác, lại hại chết người chồng đa tình, ân hận biết mấy !"
      Thần Nhị Lang nghe được câu nói đó, thường chế nhạo cô, trách móc cô, nói cô không nên nuôi lòng phàm như thế. Đã giữ lòng phàm, sao không chuyển kiếp làm người trần gian, còn ở trên trời làm chi ? Phu nhân nghe vậy, giận dỗi nói:
      - Những lời muội muội nói là chí tình, chí lý. Người phàm còn không quên tình, bỏ lý, huống hồ là tiên, Phật ?
      Nhị Lang nổi giận nói :
      - Cô tham luyến tình dục như thế, chỉ sợ không thoát khỏi bị đày xuống hồng trần, tiếc cho bao năm đạo hạnh, một sớm thành hư không. Còn sợ rằng càng ngày càng lún sâu vào đường mê, rơi xuống vòng luân hồi, lúc đó chẳng ai cứu nổi cô.
      - Muội muội chẳng qua chỉ nói về tình lý, việc gì mà phải đoạ xuống phàm trần ? Ca ca nói quá lố như thế, thực đáng tức cười.
      - Hiền muội nói sai rồi. Người và tiên khác nhau, cũng bởi chút ý niệm nuôi trong lòng, như một mầm cây. Trong lòng đã có ý niệm phàm tục, liền khác biệt với thần tiên. Chỉ sợ những lời cô nói hôm nay, chính là gốc rễ của đủ thứ tai kiếp. Cô còn không tự giác ngộ, dám lem lém tranh cãi cùng ngu huynh, há chẳng đáng chê cười, đáng thương hại hay sao ?
      Phu nhân thấy Nhị Lang có ý hăm dọa mình, liền cười lạt, nói:
      - Tôi chỉ biết hai chữ "tình, lý" thông hành khắp ba cõi. Bất luận là người phàm hay tiên, Phật, ai đã thoát khỏi phạm vi đó ? Lão Quân tổ sư, bản thân là tổ của thần tiên, đã mấy lần hạ phàm, là vì lý gì ? Như Lai bên Tây phương, tình nguyện xuống địa ngục để cứu vớt người đời, lại vì lý gì ? Muội muội tuy không dám hỗn láo so sánh với hai vị đạo tổ đó, nhưng cũng chẳng chịu đứng ở ngoài vòng tình lý, khiến người đời chê cười, nói tôi là một tiên nhân không hiểu tình lý. Nói là thiết thực, vạn nhất có vì lý do hại chết người, mà sau này bị đày xuống hồng trần, để hoàn tất nghiệt án, muội muội cũng không từ chối. Còn việc minh tâm kiến tính, tự cảnh giác, để quay về với bản chân, hoàn toàn tùy thuộc vào bản thân, có biết giữ khí tiết tu trì hay không. Chưa hề thấy người hạ phàm nào bị đọa lạc vào vòng luân hồi, vạn kiếp không giải thoát.
      Nhị Lang nghe em gái nói lôi thôi như thế, bất giác nổi giận đùng đùng, nói :
      - Ta đã năm lần bảy lượt cảnh cáo ngươi, ngươi còn mê đắm như thế, thật uổng danh cho ngươi, thân làm thần tiên, nhận sắc phong của Ngọc đế, mà chẳng khác gì người phàm trên đời. Ta làm huynh trưởng, quan tâm tới ngươi, đã nói hết tình hết lý, mà ngươi vẫn chấp nê, không chút hồi tâm chuyển ý, ta đành để ngươi tự do, tự tiện, muốn làm Lão Quân tổ sư, hay Phật Như Lai, xin cứ tự nhiên. Ta không có đại công hạnh, đại phúc phận ấy đâu, chỉ biết khắc khổ, giữ phận mình thôi, chứ làm đại la tiên lữ, ta cũng chẳng dám có vọng tưởng. Từ nay anh em ta, đường ai nấy đi, được chưa ?
      Phu nhân thấy Nhị Lang ức hiếp mình như thế, bực tức nói :
      - A huynh sao phải khổ tâm ép buộc muội tử ? Những lời muội tử nói, chẳng qua chỉ là kiến giải của bản thân, cho rằng khắp vòng trời đất, bốn biển năm châu, dù việc lớn hay nhỏ, công hay tư, cũng phải lấy tình lý làm gốc. Hồi muội tử ở dưới trần gian, đã thừa lệnh cha mẹ, hứa gả cho người ta. Nay người ta vì muội tử mà chết, muội tử đã hại chết anh ta để được làm người tiên, nhận chức chốn thiên tào, nếu không tìm cách báo đáp, chẳng hóa ra trong lòng không có chút hối tiếc nào ? Không thể nói : làm người tiên chẳng cần phải có lương tâm. Rồi, không cần giảng đạo lý, cứ việc làm lợi cho mình, gây họa cho người, cũng được hay sao ? Em biết trong thâm tâm a huynh cũng cho đó là việc không phải. Đã thừa nhận những hành vi đó là không nên làm, thì trước khi có thể trả ơn người ta, cũng phải có lòng hối lỗi, rồi một khi có cơ duyên, lập tức tìm cách báo đáp. Đó là nỗi lòng của muội tử, không hề ẩn chứa chút tình dục, nghĩ chuyện hạ phàm, kết hôn nhân với người ta. Vả lại, nếu muội tử có ý niệm phàm tục như thế, tại sao hồi bấy giờ không thuận theo lệnh cha mẹ, nghe lời khuyên của các chị em, mà lại khổ công cầu đạo, tu tiên . Vì khổ tâm tu hành, mới được lên trời, thụ phong tước hiệu, cùng a huynh đứng vào tiên ban, ngang hàng nhau.
      Nhị Lang vốn là một vị thần nóng tính, tự cường, hiếu thắng, không chịu cho ai khuất phục mình, nay bị em gái cãi tay đôi, không biết đường nào trả lời, bất giác nổi cơn lôi đình, đưa tay chỉ phu nhân, hét to lên :
      - Được, được ? Ngươi có bao lăm công đức, đạo hạnh cao thâm cở nào, mà dám cùng ta tranh cãi, bắt bẻ ? Người đã to gan như thế, đủ thấy trong lòng ngươi không còn coi ta là huynh trưởng nữa. Ta cũng bất tất phái thừa nhận một đứa em gái làm bại hoại môn phong như ngươi . Từ nay về sau, đường ai nấy đi, không còn hỏi han tới nhau nữa, để ta khỏi phải vì ngươi mà ứa gan.
      Phu nhân nghe tới câu "bại hoại môn phong", bất giác tức tối, khóc ầm lên, nắm áo Nhị Lang, tính lôi kéo đi triều kiến Ngọc đế, viện giải nỗi oan khuất. Nhị Lang đời nào chịu cho em gái lôi kéo, mới gỡ tay ra, xô đẩy phu nhân, ngã lăn ra đất, giận dữ nện mạnh gót giày cồm cộp, đi ra. Đi vài bước, quay đầu nhìn lại, thét mắng :
      - Còn một câu này ta nói cho ngươi biết, hãy nhớ kỹ. Ngươi muốn lấy chồng cũng được, muốn theo trai cũng được, nhưng phải thoát ly tiên giới, trở xuống chốn phàm trần ngay. Và ta cấm ngươi không được nhắc tới tên ta. Ta kể như ngươi đã chết rồi, không hỏi tới nữa. Nếu ngươi có trên trời, làm náo loạn, hoặc mượn danh tiếng ta, làm chuyện bại hoại, ta sẽ đem ngươi trấn áp dưới chân núi Thái Sơn, khiến ngươi không có ngày ngóc đầu lên được, ngươi đã hiểu chưa. Từ biệt !
      Nói rồi, không quay đầu lại, giận dữ bỏ đi.
      Hằng Nga ngừng một lát, kể tiếp :
      - Nhưng đã là thần tiên, không được phép nói chơi, cũng không được thiếu nợ ai một điều gì. Nguyên Chân phu nhân đã thiếu nợ tình đối với người chồng chưa cưới, lại ở trước mặt thần Nhị Lang nói rõ mấy câu, tình nguyện trả nợ tình người đó. Ở phu nhân chỉ là câu nói vô tâm nhưng cõi âm, cõi dương, cõi người, cõi trời, cõi nào cũng có các vị nhật dạ du thần, hàng ngày dạo chơi khắp nơi, chuyên ghi chép những lời nói, hành động của người ta. Một khi đã ghi vào sổ, trình lên Thượng đế, Lão tổ phê chuẩn, liền thành định số. Dù anh đạo đức cao bao nhiêu, công hạnh sâu cỡ nào, cũng không thoát khỏi định số. Trong cung trăng chúng tôi, lại có một vị Nguyệt lão, chuyên quản lý việc hôn nhân phối hợp ở các cõi. Ông có một cuốn sách, ngay trang đầu ghi chép việc nam nữ phối hợp, ghi rõ cả năm, tháng. Cuốn sách này thật kỳ quái, không cần dùng bút viết ra chữ. Hễ trên trời, dưới đất có một cặp phối ngẫu, tới lúc việc hôn nhân phát động, liền có tên họ hai người nam nữ ghi trong sổ. Chẳng những là hôn duyên chính đáng, ngay cả những cặp vợ chồng tạm bợ, hoặc chỉ hoan lạc trong một thời gian ngắn, cũng không thoát ra ngoài cuốn sách này; cũng không hiểu người nào đã thay mặt Nguyệt lão viết lên đó. Đợi tới lúc hai người kết hợp, Nguyệt lão mới cho các thư lại trong phủ, dùng sợi dây đỏ cột chân họ lại.
      Nay Nguyên Chân phu nhân vô ý nói ra lời hứa, khéo làm sao người vị hôn phu thời xa xưa của bà đã chuyển kiếp làm người, sinh ra ở đất Dương Khúc, tỉnh Sơn Tây, họ Vương tên Xương, vừa tới tuổi đội mũ, lên Kinh ứng thí, đi ngang qua miếu Nguyên Chân phu nhân, tục gọi là miếu thánh mẫu. Lúc đó, trời đổ cơn mưa lớn, Vương Xương vào miếu tránh mưa, chợt thấy pho tượng thánh mẫu, hình dung mười phần xinh đẹp. Hạng thiếu niên là hay bộc lộ tình cảm, nhất thời hứng lên, không cần biết tới chuyện tạo nghiệt hay không, liền dùng phấn viết lên hai vách tường mấy câu thơ nhảm. Lúc đó, phu nhân được Hứa chân quân mời đi chơi sông Tiền Đường, ngắm nước thủy triều. Tới chừng bà về đến miếu, thấy hai bài thơ xằng bậy, trong lòng giận dữ, lập tức phái thần binh giữ miếu, nổi cơn gió đuổi theo Vương Xương, bắt về, định giải lên thiên đình luận tội, đưa xuống âm tào trừng phạt, khép tội rất nặng. Không dè Vương Xương tới miếu, vì bị gió thần thổi vào mặt, nên đầu óc mê man, nằm gục dưới hành lang, dường như đang ngủ. Phu nhân chưa kịp xét hỏi, bỗng nghe báo có Nguyệt lão tới. Bà kinh ngạc, tự nghĩ mình là người tiên, cùng Nguyệt lão chẳng có quan hệ gì, ông ấy tới đây làm chi ? Nhưng người ta đã tới, cũng đành phải lấy lễ tiếp đãi, mời vào. Vừa làm lễ tương kiến xong, Nguyệt lão liền hướng về phía phu nhân, lên tiếng chúc mừng. Phu nhân vừa kinh ngạc vừa tức giận, cho rằng Nguyệt lão có ý đùa giỡn bà. Đến chừng Nguyệt lão lấy sách đưa cho coi, bà mới hiểu người tù nằm dưới thềm, trước mắt bà, chính là người chồng chưa cưới năm xưa. Một vụ trùng án, đến nay nên kết thúc.
      Bấy giờ phu nhân mới cất tiếng khóc, rất hối hận đã không nghe lời anh trai, để đến nay tạo thành một đoạn nhân duyên tiên phàm. Nguyệt lão lại hai ba lần khuyên nhủ :
      - Đã có tục duyên, sớm muộn gì cũng có hồi chung cuộc, chi bằng sớm kết liễu, để củng cố tiên nghiệp, tránh khỏi tình cảnh thân làm người tiên, lòng vẫn giữ ý niệm phàm tục, chỉ tổ cho các vị đồng đạo chê cười.
      Phu nhân nghe vậy, mới nghĩ rằng việc đã đến nước này, đành chấp nhận kết hôn cùng Vương Xương. Vì sợ ông anh biết được, lại gây chuyện sóng gió, ngay hôm đó bà nhờ Nguyệt lão đứng chủ hôn, gọi tỉnh Vương Xương, nói rõ cho biết. Phu nhân nhòm lén Vương Xương, thầy thần thái tuyệt hảo nghi biểu khác thường, không thẹn là chồng của bà. Sau khi thành hôn, phu nhân vướng chức kim tiên, không thể hạ phàm, vì vậy Vương Xương cứ tiếp tục lên đường ứng thí. Lúc hai người chia tay, Nguyệt lão lại tới, nói rõ chàng ta đi lần này, ắt trúng khôi khoa. Và theo như sách hôn nhân chàng còn có một người vợ khác, là vị tiểu thư, con gái Ngưu thượng thư. Nguyên Chân phu nhân nói :
      - Lang quân đã ở phàm trần làm quan, phải có người vợ trên dương thế, thay chàng trông coi việc cửa việc nhà. Chỉ mong rằng chàng lấy được công danh, nên sớm rời xa biển khổ. Thiếp đã là vợ chàng, mối duyên cũ đã giải quyết, món nợ tình đã trả xong. Sau này đắc chí thành danh, chàng nên mau chóng rút lui. Nếu chàng còn nhớ đến tình, có thể về miếu gặp thiếp, thiếp sẽ đem những bí quyết tu đạo trao tặng cho chàng. Nếu chàng mãi mê thanh sắc, tham luyến công danh, e rằng lần sau gặp lại, không còn cứu vớt được nhau. Chẳng bao lâu, thân nằm trong quan tài, cùng hủ nát với cỏ cây, một chút kết quả cũng không đạt được, còn phụ tấm lòng thiếp khuyến hóa chàng ngày hôm nay.
      Vương Xương nhất nhất nhận lời, rơi nước mắt mà ra đi.
      Sau khi chàng đi rồi, phu nhân có bầu được một tháng, nằm tĩnh dưỡng trong miếu, đợi kỳ khai hoa nở nhụy, sẽ đem con trả cho Vương Xương, để từ đó nghiệt duyên kết liễu, có thể an tâm giữ chức vụ, không còn chút ý niệm trần tục nào nữa. Ai hay tiên phàm phối ngẫu là phạm luật trời. Vương Xương kiếp trước nặng tình với phu nhân mà chết, phu nhân đã đem thân báo đáp, luận về tội trạng tuy có chỗ giảm khinh, nhưng không thể tha bổng, mà còn phải chịu nhiều gian nan, vất vả, mới tiêu trừ xong nghiệt chướng.
      Trong khi đó, Nhị Lang phụng mệnh Ngọc đế, nhận chức "đô tuần án sứ", có nhiệm vụ đi tuần tra ba cõi, chuyên kiểm tra các việc thiện ác công tội của tiên phàm ở khắp ba cõi : thượng, trung và hạ giới, để tâu trình Ngọc đế thường hay phạt, trừng trị hay ban thưởng. Ông ấy tuy là vị thần minh cương trực, nhưng cũng ưa khôi hài. Một hôm, tại bàn tiệc do Thiết Quài tiên sinh chiêu đãi, Nhị Lang gặp được Hà tiên cô, là đại đệ tử của Huyền Nữ, cũng là người đang ở Lư Sơn, chờ đợi một người để truyền thụ kiếm pháp. Rượu ngà ngà, mọi người nói cười ầm ĩ, Hà tiên cô trong lúc vô ý, đề cập tới chuyện kiếp trước của mình, cùng với việc tu đạo ra sao, kể lại từ đầu tới cuối. Nhị Lang vỗ tay, cười lớn tiếng, nói :
      - Hèn chi ai ai cũng nói Hà tiên cô đã có chồng. Té ra chuyện đó có thực, nay cô tự nói ra, mới biết người đời không đổ oan cho cô !
      Hà tiên cô cho rằng Nhị Lang cố tình chọc quê mình, bất giác đỏ mặt. Trong lúc nóng vội, không tự kiềm chế, cô thuận miệng nói ra :
      - Nhị Lang đừng đoán mò, nói xấu người ta. Em gái ông với người phàm trần làm chồng, bản thân ông làm đô tuần án ba cõi, mà chuyện gia đình ông cũng không điều tra ra hay sao ?
      Câu nói vừa rời khỏi miệng, cả bàn tiệc kinh hãi, tiên cô cũng tự hối là đã lỡ lời, biến đổi sắc mặt. Nhị Lang vốn là một vị thần tinh minh, những sự việc trong ba cõi, từ việc lớn như quốc kế dân sinh, đến việc nhỏ như chuyện vặt vãnh, bình thường, chẳng việc nào thoát khỏi tai mắt ông. Riêng có chuyện em gái với Vương Xương là ông không biết tí gì. Một là vì Nhị Lang quá tự tin, cho rằng trong gia đình mình, quyết không thể có chuyện phạm pháp. Thứ hai, đây là chuyện gia đình ông, có quan hệ tới thể diện của ông, mọi người đều có thể biết, nhưng không ai dám thổ lộ với ông.
      Đó là chuyện thường tình. Tuy nhiên, chuyện này có quan hệ tới kỷ cương trên trời, dẫu không phải lớn lao gì, nhưng lâu ngày cũng bị lộ, không thể giữ bí mật mãi, chẳng qua là tiên cô nói sớm ra thôi. Nhị Lang nghe lời nói đó, bỗng nhớ lại những lời hai anh em tranh cãi trước đây, biết rằng câu chuyện tiên cô nói ra ắt không phải vô căn cứ. Chỉ vì mình có ý chế giễu người ta, mới bị người ta moi ra chuyện xấu của gia đình mình. Bản thân làm tuần án, chuyện tư tình em gái bị moi ra, làm sao lấp liếm cho nổi ? Nói ra chỉ thêm nhục mà thôi. Chỉ thấy Nhị Lang tái mặt đi, hai mắt đỏ sọc hồi lâu không nói một lời. Tiên cô biết mình đã gây nên họa, vội hướng về phía Nhị Lang bồi tội, nói rằng những điều mình vừa nói ra đều là lời giỡn chơi, thật tình không có chuyện đó, xin Nhị Lang tha lỗi lỡ lời. Nhị Lang lại có suy nghĩ khác : "Thân danh là tuần án sứ, giữ chức vụ kiểm tra, bản thân không ngay thẳng, làm sao có thể uốn nắn người khác ? Bất luận chuyện này có thật hay không, cũng nên công khai điều tra mới phải. Đồng thời đối với tiên cô, chẳng những không nên giận dỗi, còn phải cảm ơn cô đã cảnh tỉnh ta mới đúng". Vì thế, ông đột nhiên lại gần tiên cô, vái một vái, nói :
      - Tiên cô đừng nên nghi ngờ. Tôi há phải hạng ác thần, yêu tiên, quen dối trá, thiên vị ? Ở chức vụ của tôi mà bản thân có điều hiềm nghi, làm sao sữa chỉnh được người khác ? Khổ nỗi thường ngày các vị bằng hữu ngộ nhận, tưởng rằng việc này nên giữ bí mật, để giữ thể diện cho tôi, đã khiến tôi không nghe phong thanh được điều gì, có biết đâu rằng làm vậy là hại tôi, lầm lỡ công vụ, hủy hoại danh tiết ? Nay những lời tiên cô nói, tuy chỉ là nói đùa, cũng rất bổ ích cho tôi. Nhị Lang tôi coi đó là những lời chân tình của bạn bè chơi với nhau bằng đạo nghĩa chân chính. Nhân đây, tôi xin chân thành biểu lộ lòng cảm kích và lo âu, đợi giải quyết xong việc công, sẽ tới cúi đầu bái tạ trước mặt tiên cô.
      Nói rồi, hướng về phía tiên cô, vái một vái, quay nhìn các vị tiên trên bàn tiệc, gật đầu, rồi tất tả bước ra. Các vị tiên đều nói :
      - Nhị Lang đi lần này, ắt đem Nguyên Chân phu nhân ra trừng trị thẳng tay, làm sao cho tốt đẹp mọi chuyện đây ?
      Hà tiên cô rất hối hận vì đã lỡ lời, cất tiếng khóc. Thiết Quài tiên sinh cười, nói :
      - Các vị quả thật không hiểu đạo lý, vì nghĩ xuẩn đã làm hỏng việc. Những chuyện lớn như thế này, có quan hệ tới kỷ cương của thiên đình. Trên trời không thể so sánh với phàm gian, giả sử tiên cô không nói ra chăng nữa, thì các vị đại la kim tiên đều có bản lãnh chưa bói đã biết. Nhị Lang không biết, chỉ vì quá tự tin, không nghi ngờ gì về gia đình mình, nên tạm thời mơ hồ, nhưng rốt cuộc cũng có ngày ông hiểu rõ, cần gì đợi người khác tố cáo ? Vì thế, tiên cô bất tất phải để tâm làm chi. Bàn về trách nhiệm của Nhị lang, bất kể là em gái hay ai khác, một khi biết được sự việc ông ấy phải lập tức điều tra cho rõ, giải quyết cho thỏa đáng. Chúng ta hãy đợi Nhị Lang giải quyết vụ án cho tròn vẹn, coi ông phát lạc ra sao. Chúng ta ở đây đông đảo các vị tiên nhân, ai nấy đều tận tâm tận lực, giúp đỡ Nguyên Chân phu nhân, bảo đảm cho bà ta khỏi chịu nhiều đau khổ. Đợi khi bà tai qua nạn khỏi, lại lấy danh nghĩa đám đông, lập một bản tấu chương dâng lên Ngọc đế, xin tội cho phu nhân. Nếu Nhị Lang cố chấp, cũng còn có cách thương nghị với ông ấy, sợ gì ?
      Các vị tiên nghe vậy, đều vỗ tay, khen là hay lắm.
      Lam Thái Hòa cười, nói với Hà tiên cô :
      - Té ra những lời tiên cô buộc miệng nói ra trong bàn tiệc, lại trở thành những lời tốt đẹp, thành toàn cho Nguyên Chân phu nhân.
      - Tôi chưa thấy được điều đó.
      - Tại sao không ? Cô thử nghĩ coi, Nguyên Chân vi phạm luật trời, tội ấy bà ta tự gánh chịu, Nhị Lang lãnh chức tuần án, giải quyết vụ án là phận sự của ông ấy. Nhưng vụ án phát giác ra bởi cô được mọi người đồng lòng ủng hộ, sau này sẽ chiếu cố tới phu nhân, như vậy chẳng phải cô đã làm tốt cho bà ta hay sao ?
      Mọi người nghe vậy đều cười ầm lên. Riêng tiên cô vẫn áy náy trong lòng, nhân đó kiên quyết yêu cầu mọi người đừng giải tán, hãy ở lại, chờ nghe tin tức. Các vị tiên đều đồng ý. Đợi được nửa ngày, Thiết Quài tiên sinh vận dụng thần cơ, biết rõ sự tình, bất giác tắt nụ cười, nói :
      - Các vị coi ông Nhị Lang này chẳng phải chàng ngốc hay sao? ông ta đã đem em ruột của mình trấn áp dưới chân núi Thái Sơn rồi !
      Các vị tiên kinh hãi, thất sắc, Hà tiên cô cũng nóng vội, biến đổi sắc mặt, nước mắt rơi lã chã, thúc ép Thiết Quài tiên sinh mau nghĩ ra kế gì cứu Nguyên Chân phu nhân.
      Hằng Nga kể tới đó, dù chuyện này chẳng can dự gì tới mình, Lã Động Tân cũng vò đầu bứt tóc, nói :
      - Hỏng mất rồi ! Ông thần Nhị Lang này quả thật quá hung ác Em gái ông phạm kỷ cương thiên đình, cũng có Nguyệt lão đứng chủ hôn, để kết liễu trọn vẹn vụ án tình. Bàn về tội, cố nhiên là nên trừng trị, bàn về tình cũng có chỗ dung tha. Nếu không giảng tình lý, cứ đem trị tội thẳng tay, há chẳng phải quá đáng hay sao ? Chẳng hiểu các vị đại tiên có nghĩ ra cách gì cứu phu nhân hay không ?
      Hằng Nga cười, nói :
      - Việc của anh chưa xong, hơi đâu mà anh lo thay cho cổ nhân ? Vả lại ngần ấy vị thiên tiên, lại không cứu nổi một người hay sao ?

      #78
        bevanng 22.07.2008 14:21:13 (permalink)
        Hồi Thứ 86
         
        Cứu thánh mẫu, mượn nhà lưu ly
        Tiễn em bé, đặc chế đèn sen báu.
         
        Lã Động Tân hỏi Hằng Nga :
        - Cuối cùng, các vị tiên làm cách nào cứu được Nguyên Chân phu nhân ?
        Hằng Nga cười, nói :
        - Anh quả là chàng ngốc. Ngần ấy vị đại la thiên tiên, chẳng lẽ không có người nào đủ thủ đoạn dời non, lấp biển ? Khoan nói là đem nhốt dưới ngọn núi Thái Sơn, ngay cả đem trấn bà ta dưới đáy biển, dời núi ở khắp nơi, đè lên mình bà ta, thì các vị tiên cũng đủ bản lãnh di chuyển núi đi chỗ khác, xuống biển yêu cầu Long vương giúp đỡ, cứu được phu nhân. Nhưng Thiết Quài tiên sinh không muốn dùng tới những biện pháp mạnh bạo như thế, là vì phu nhân thật tình phạm pháp, Nhị Lang mới phải dụng hình. Nếu lập tức cứu bà ta ra, thì thứ nhất là làm trái luật trời, thứ hai là làm mất uy tín Nhị Lang. Cuối cùng, tiên sinh mới nghĩ ra một biện pháp lưỡng toàn, không làm tổn thương thể diện Nhị Lang, cũng không phá hoại luật trời mà khiến Nguyên Chân phu nhân không cảm thấy nỗi khổ tù tội vẫn tưởng như an tọa trong miếu trước đây. Biện pháp đưa ra, mọi người đều hoan nghênh.
        Thiết Quài tiên sinh đi đầu, dẫn theo các vị tiên, cùng lên đỉnh núi Thái Sơn. Nơi đó có động phủ của Thiết Quài, hiện đang do đệ tứ của ông là Dương Nhân coi sóc, làm chỗ tu chân. Thiết Quài tiên sinh cùng chúng tiên tới động phủ, Dương Nhân vội quì xuống tiếp đón, mời vào bên trong, hỏi nguyên do vì sao mọi người tới đây. Thiết Quài tiên sinh nói sơ qua cho biết, liền kêu Dương Nhân đi ra ngoài, vời gọi các vị tổ địa bản sơn, vào động phủ gặp mặt. Dương Nhân nghe lời, vời gọi tất cả các thổ địa lớn nhỏ cộng chung chừng ba mươi vị. Thiết Quài tiên sinh nói với các vị đó :
        - Hiện có Nguyên Chân phu nhân, bị anh ruột là thần Nhị Lang trấn áp ở dưới núi này. Bần đạo thương bà ta vô tâm mắc tội, tình cũng đáng thương, đặc biệt yêu cầu các vị đạo trưởng cùng tới đây giúp đỡ. Theo ý bần đạo, luật trời không thể không tuân, thể diện thần Nhị Lang không thể không giữ. Nguyên Chân phu nhân đã phạm luật trời, phải chịu trừng phạt, tạm thời khuất thân ở đây. Chúng tôi chỉ dự bị giúp bà ta, cho trọn tình bạn bè, bảo hộ cho bà khỏi phải chịu nhiều đau khổ. Biện pháp thứ nhất là xây dựng cho bà một động phủ ở dưới núi này, làm chỗ cho bà chịu tội và tu chân. Tuy rằng bà không thể ra khỏi núi, chúng tôi cũng muốn bất chợt tới thăm bà, nên biện pháp thứ hai là đào một đường hầm xuyên qua núi. Biện pháp thứ ba là nhờ các vị tôn thần ra sức giúp đỡ, khi động phủ xây xong, đường hầm đào rồi, thỉnh thoảng phái nhân viên tới trông coi, đừng để đường đi tắc nghẽn. Cũng xin các vị tùy thời chiếu cố, nếu phu nhân có yêu cầu gì, hoặc muốn nhắn tin gì, các vị có thể tới động phủ của tôi, liên lạc với học trò tôi là Dương Nhân. Chẳng biết các vị có ủng hộ nghĩa cử này hay không ?
        Các thổ địa nghe xong, tất nhiên là vui vẻ nhận lời, nói : “Tuân chỉ !"
        Thiết Quài tiên sinh vỗ về họ vài câu, lập tức kêu gọi mọi người cùng đi thăm Nguyên Chân phu nhân. Các vị tiên tới đầu núi, Thiết Quài tiên sinh liền thi triển pháp lực, khiến tòa núi Thái Sơn nứt làm đôi, mở ra một lối đi. Mọi người rơi xuống tới đáy núi, mới nhìn thấy phu nhân đầu bù tóc rối, mặt mũi lem luốc, mặc quần áo tù phạm, nằm cuộn tròn dưới đất, như thể chết rồi.
        Trong các vị tiên, có Hà tiên cô là đàn bà, giàu lòng từ bi, lại nhận thấy mình có trách nhiệm, vì đã gây ra việc này, trong lòng rất bứt rứt. Cô đi lên trước, vừa khóc vừa kêu gọi, đỡ phu nhân dậy.
        Phu nhân thấy các vị tiên, vừa buồn vừa thẹn, còn nghi là gặp nhau trong giấc mộng. Tiên cô nói rõ ý mọi người tới đây, tự nhận tai họa này là do cô gây ra, biểu thị lòng hối tiếc. Phu nhân cất tiếng than dài, nói :
        - Tất cả đều là định số. Tiểu muội phạm luật trời, hiện nay đã hoài thai. Tất cả những sự việc đó, cuối cùng cũng phải tiết lậu, có can dự gì tới tỉ tỉ ? Nay đội ơn tỉ tỉ mời được các vị sư thúc bá, sư huynh đệ , từ xa tới đây, ra tay cứu vớt, muội tử vô cùng cảm kích. Mai sau tội mãn, tai qua, có ngày lại được nhìn thấy ánh mặt trời thì ơn đức của tỉ tỉ và các vị, muội tử nguyện báo đáp tận tình.
        Các vị tiên nghe vậy, đều cảm thấy chua cay trong lòng.
        Thiết Quài tiên sinh lại làm phép, xuất hồn rong chơi hải phủ, tìm tới Thủy tinh cung, hỏi mượn và đem về bầy biện năm, sáu căn phòng lưu ly. Mỗi căn phòng đó có treo một hạt minh châu rất lớn, phát ánh sáng rực rỡ như ban ngày, lại có hai hạt châu, tránh rét và kỵ nóng. Phu nhân mang thân tù tội, bỗng được nhà cửa tiện nghi như thế, so với hồi ở trong miếu, cảm thấy thoải mái gấp bội, trong lòng mười phần vui sướng. Sau đó, các vị tiên còn mang về bầy biện trong phòng đủ thứ đồ đạc cần thiết, còn sang trọng hơn những nhà giàu có trên đời. Phu nhân cười, nói :
        - Đội ơn các vị đối đãi thế này, thật không biết lấy lời gì để cảm tạ. Nhưng ở đây lâu ngày, quá thoải mái thế này, lại sợ rằng mai sau thoát tội, còn luyến tiếc mãi không nỡ bỏ đi.
        Các vị tiên nghe vậy, đều cười rộ lên. Thiết Quài tiên sinh gật đầu nói :
        - Người tu đạo phải gạt bỏ những chuyện bi hoan, mới khỏi bị tình trần tục ràng buộc. Nay còn hai việc, phải nói rõ với phu nhân. Thứ nhất, chúng tôi đã quyết định, bất kể phu nhân ở đây bao lâu, chúng tôi có hơn mười người, mỗi năm sẽ cử một người tới đây, truyền thụ cho phu nhân chút đạo pháp, phu nhân ở trong lòng đất, có thể chuyên tâm tu luyện, mai sau thoát nạn, trở về trời, có thể giúp Ngọc đế giải quyết nhiều công việc.
        Phu nhân cảm kích vô cùng, khấu đầu lạy tạ. Thiết Quài tiên sinh lại nói tiếp :
        - Việc thứ hai là chẳng bao lâu sẽ sinh một vị công tử. Vì cậu bé này, Hà đại tiên cô sẽ thay mặt bà, đi hái những bông hoa, hấp thụ tinh anh của núi sông, quang hoa của mặt trời, đem về chế thành một cây đèn, gọi là đèn sen báu. Sau khi bà sinh nở, hãy đem đứa bé cùng cây đèn, đặt chung ở căn phòng phía Đông, tự nhiên có thổ địa thay mặt bà, đem đứa bé trao cho chồng bà là Vương Xương. Ánh sáng ngọn đèn này không phải ánh sáng của trần gian, ánh sáng đó chiếu ra, nhất thiết yêu ma, quỉ quái phải tránh xa mười dặm. Ánh sáng đó lại thông đạt tính linh, chỉ đường cho người đi lạc. Ví dụ như ta muốn đến một nơi nào, chẳng cần phải hỏi thăm đường, cứ theo hướng ánh sáng chiếu tới mà đi, nhất định không lầm lạc.
        Thiết Quài tiên sinh nói tới đó, Hà tiên cô hăng hái nhận lời :
        - Việc này cứ giao cho tôi giải quyết, ắt không lầm lỡ.
        Một vị thổ địa già rời khỏi chỗ ngồi, nói :
        - Sau này phu nhân hạ sinh công tử, trách nhiệm hộ tống đã có tiểu thần đảm nhận, chẳng cần nhờ tới bọn quỉ dịch. Xin phu nhân cứ yên tâm.
        Thiết Quài tiên sinh biết ông này là thổ địa, trông coi một vùng rộng năm mươi dậm quanh đây, vội hướng về phía ông ta, thi lễ nói:
        - Tôn thần chịu vất vả như thế, quả thật phu nhân không còn lo lắng.
        Nguyên Chân phu nhân vội hướng về phía Hà tiên cô và lão thổ địa, cúi đầu lạy tạ.
        Lam Thái Hòa cảm thấy bản thân mình chưa hết lòng, vội nói:
        - Tôi sẽ kiếm về cho phu nhân vài người phục dịch.
        Các vị tiên hỏi :
        - Đó là một việc tốt, liệu anh có chu toàn nổi không ?
        Thái Hòa hỏi vị tổng thổ địa núi Thái Sơn :
        - Quanh đây có nữ yêu không ?
        - Nữ yêu làm gì không có ? Cách đây chừng trăm dặm, có con tinh thỏ trắng, tụ tập một đám chồn, thỏ, quấy rối nhân gian. Chẳng phải thượng tiên muốn bắt vài đứa, em về phục dịch phu nhân đấy ư?
        Thái Hòa gật đầu, nhận là phải, thổ địa nói :
        - Việc đó cũng tốt, chỉ sợ bọn chúng dã tính không thuần, làm phiền phu nhân thôi.
        Thái Hòa cười, nói :
        - Bần đạo đã có cách, khiến chúng không thể giở thói man rợ. Vả lại, phu nhân đắc đạo nhiều năm, bọn yêu ma thấy bà, sẽ hết sức hầu hạ, để hy vọng sau này được thành chính quả, lẽ nào còn dám quật cường ?
        Thổ địa nghe lời, dẫn Thái Hòa đi, cùng độn thổ tới địa phương đã nói. Rất may, thỏ tinh đang ở bãi đất trống, cùng nhiều nữ yêu bứt cỏ, chơi trò "đấu co". Bọn chúng thấy Thái Hòa thần thái lỗi lạc, tư cách khác phàm, lấy làm lạ. Cầm đầu nhóm là tinh thỏ vẫn còn giữ thói man rợ, liền nói với đám yêu vài câu, rồi làm bộ quyến rũ, cười khe khẽ, tiến lên phía trước, nghênh tiếp Thái Hòa, cất tiếng hỏi :
        - Đạo trưởng vì sao đến đây ?
        Nhìn lại, thấy đi theo Thái Hòa là một ông lão, nhận ngay ra đó là vị thần đô thổ địa bản sơn, liền nói .
        - ông già này cũng đi theo làm chi ? Quả là ông khách bất ngờ.
        Thái Hòa nói :
        - Vô sự chẳng đặt chân lên Tam bảo điện. Ta là pháp sư Lam Thái Hòa, đặc biệt tới đây để mời vài vị tỉ muội, đi theo ta tới một nơi, chiếu cố một vị thiên tiên có tước hiệu, hiện đang mắc nạn. Trong tương lai, tự nhiên có phúc phận, được kết quả tốt. Ai tình nguyện, hãy theo ta đi liền.
        Thỏ tinh nghe nói, bất giác cười lớn tiếng, nói :
        - Coi ông có phong thái bất phàm, có vẻ là một đạo nhân thông minh, té ra chỉ là một chàng ngốc. Chúng tôi ở đây thoải mái, tiêu dao tự tại, chẳng ràng buộc gì, ai mà tình nguyện đi theo ông, làm đầy tớ người khác ? Nếu ông muốn dùng sức mạnh, lôi kéo chúng tôi đi, thì chẳng khác gì chuồn chuồn lay cột đá, không hề nhúc nhích. Chi bằng ông ở lại nơi đây, làm sơn chủ của chúng tôi, chị em chúng tôi năm người, tình nguyện làm vợ ông, cùng hưởng cảnh thanh nhàn, há chẳng tuyệt diệu hay sao? Thượng tiên thấy thế nào?
        Nói rồi, nhìn vào mặt Thái Hòa mà nháy mắt, đưa đẩy làn thu ba, làm điệu bộ lả lơi, quyến rũ. Nếu người phàm mà gặp phải cảnh này, ai mà thoát khỏi tiêu hồn, táng phách, rơi vào mê hồn trận ? Chẳng dè gặp phải tay Lam Thái Hòa, đạo tâm chuyên nhất, uổng công cho tinh thỏ giở trò ma mị. Vừa nghe nó nói, Thái Hòa hét ngay một tiếng, như sấm nổ giữa thinh không, tay lăm lăm thanh kiếm, chỉ ngay mặt tinh thỏ, nói :
        - Ngươi tính giỡn mặt ta hả ? Thôi, thôi, để ta trổ một trò nho nhỏ cho ngươi coi nhé !
        Nói rồi, há miệng thổi, phun ra một luồng sáng bạc, vây chung quanh con thỏ, biến thành vô số đao nhọn, nhầm vào tinh thỏ mà lao xuống, chỉ chực tấn công. Thỏ tinh hãi quá, vội quì xuống, dập đầu lạy, xin tha mạng, tình nguyện đi theo thượng tiên, hầu hạ vị tiên nhân mắc nạn. Thái Hòa hít một hơi, luồng sáng bạc liền chui vào trong miệng. Chàng ta mới bảo tinh thỏ đứng lên, dẫn nó đi theo, tới chỗ cửa động. Thỏ tinh lại chỗ mấy chị em thương lượng.
        Đám yêu tinh này đều là những đứa có nghĩa khí, nghe tinh thỏ nói đều đồng ý đi theo. Thái Hòa mừng lắm, lập tức đứng chỗ chính giữa, nói cho chúng biết xuất thân và tước phong của Nguyên Chân phu nhân, lý do vì sao hiện nay là lâm vào cảnh khó khăn, được các vị tiên đồng lòng giúp đỡ thế nào, kể lại đầu đuôi. Trước khi đi, lại răn đe chúng :
        - Các ngươi là dị loại, tu được tới trình độ này, chẳng phải chuyện dễ dàng. Nhưng giữa chừng bỏ phế việc học, tụ tập nhau làm bậy, có khác gì bọn thảo khấu cường nhân trên đời, rốt cuộc cũng có ngày bị thiên binh tiêu diệt. Sao bằng nhân cơ hội này, bỏ tà qui chính, hết lòng phục vụ phu nhân. Mai sau phu nhân qua cơn hoạn nạn, trở lại ngôi vị, lẽ nào lại bỏ rơi các ngươi ? Lại còn nhiều vị tiên nhân dạy dỗ, nâng đỡ, các ngươi cũng có ngày lên trời, liệt vào tiên ban. Cơ hội ngàn năm khó gặp đó, nếu các ngươi bỏ lỡ, chẳng đáng tiếc lắm ư ? Bọn ta sẽ chọn trong núi này vài yêu nhân, tài bồi cho chúng, chẳng bao lâu cũng thành chính quả. Trong khi đó, các ngươi mãi mãi vẫn là yêu ma, nhìn lại mình, há chẳng hổ thẹn lắm sao ?
        Bọn yêu nghe vậy, đều hân hoan, kêu lên :
        - Nguyện theo đại tiên ra đi, quyết không hối tiếc ! Nếu thay lòng đổi dạ, xin thiên lôi đánh chết !
        Thái Hòa hài lòng, nói :
        - Các ngươi có chí khí như thế, mai sau ắt thành chính quả.
        Nói rồi, giải tán bớt đám tiểu yêu, đưa cho những đứa còn lại mỗi đứa một lá bùa hộ mệnh, dẫn chúng về địa phủ, gặp các vị tỉên. Năm con yêu thấy các vị tiên, người nào cũng có phong thái rạng rỡ, tỏ ý khâm phục, thề hết lòng phục dịch phu nhân. Các vị tiên mừng rỡ, từ biệt phu nhân, mỗi người đi một nơi.
        Trong khi đó, Nhị Lang, vì em gái làm chuyện đáng xấu hổ, không mặt mũi nào mà nhìn người khác, mới lên thiên cung, xin trả lại chức, trở về đất phong Quán Khẩu. Con chó ngao trước nay không rời xa ông trong khoảnh khắc, ông cũng bỏ lại nơi công phủ, chẳng dẫn đi theo. Vì thế, con chó mới lẻn xuống phàm trần, quậy phá lung tung.
        Hằng Nga nói tới đây, ngừng lại một lát để nghỉ mệt, lấy hơi.
        Động Tân đã hiểu rõ sự việc, nói :
        - Trước đây, đệ tử rất thắc mắc,vì sao Nhị Lang là một vị thần nghiêm túc, lại không quản thúc chặt chẽ, để con chó ngao, là vật luôn theo sát bên mình, có thể lẻn xuống phàm trần ? Nay nghe lời tiên cô nói, đệ tử đã hiểu rõ nguyên do, không còn quái lạ nữa. Nhưng xin hỏi tiên cô, Trương đại tiên nhờ cô đưa lá thư gì ? Vì sao không đưa người khác, lại nhờ tiên cô ? Rốt cuộc, con chó này, Nhị Lang có thu về hay không ? Xin tiên cô mau mau nói rõ.
        Hằng Nga gật đầu, nói :
        - Anh đừng nóng vội. Đây là đoạn cốt yếu của câu chuyện, tự nhiên tôi phải nói cho anh rõ. Nguyên Chân phu nhân tới ngày khai hoa nở nhụy, sinh được một người con trai, đặt tên là Vương Thái. Lúc đó, tuy bà ở dưới lòng đất, thật chẳng khác gì ở trong miếu. Mọi việc đều có các bà thổ địa chăm lo, lại có mấy đứa nữ yêu tận tâm hầu hạ, chẳng có gì phải lo lắng, khổ sở. Chiều tối hôm đó, Hà tiên cô lại đem tới cây đèn sen báu, tự nhiên có lão thổ địa, tay xách đèn, tay bồng đứa bé, thay mặt phu nhân, đưa tới kinh thành. Quả nhiên lúc đó Vương Xương đã cưới con gái Ngưu thượng thư làm vợ. Hôm đó, tiểu thư mộng thấy thần thổ địa đem tới cho mình một con trai, tỉnh dậy đang cùng chồng bàn bạc về giấc mơ. Lúc đó, trời chưa sáng rõ, chợt nghe trên nóc nhà có tiếng trẻ khóc oa oa, rất lấy làm lạ. Vợ chồng mặc áo trở dậy, sai người leo lên nóc nhà xem thử, liền thấy một đứa bé mày thanh mắt sáng, bên cạnh có một đĩa đèn dầu, ngoài ra còn có một phong thư kèm theo. Trước đây, hồi Vương Xương kết hôn cùng tiểu thư, có đem chuyện nói rõ cho tiểu thư biết, nhưng tiểu thư chỉ cho là chuyện nói đùa, nay mở thư ra xem, mới rõ sự thật. Trong thư kể rõ lai lịch của cây đèn, yêu cầu Vương Xương phải luôn luôn đặt đèn này bên cạnh đứa bé, có thể tránh được mọi tai ương, mà sau này còn có thể soi gương cho đứa bé đi tìm mẹ nó.
        Vợ chồng thấy đứa trẻ này là con của tiên đẻ ra, nên yêu quí nó vô cùng .Vương Xương nhớ tới cuộc gặp gỡ với Nguyên Chân phu nhân đau lòng quá khóc lóc hồi lâu, thành bệnh nặng. Về sau, không biết nghe lời người nào, nói rằng đèn sen báu của đứa bé có thể tránh được tai nạn, hoặc giả trị được bệnh cũng không chừng, mới đem treo đèn ở đầu giường người bệnh. Quả nhiên bệnh Vương Xương lập tức dứt liền, mà tinh thần còn mạnh mẽ hơn trước. Từ đó về sau, trong nhà hễ có người bệnh, đều dùng đèn sen báu chiếu vào, lập tức khỏi bệnh. Bà mẹ Ngưu tiểu thư năm đó đã ngoài tám mươi, mắc bệnh tim, thở khò khè, cũng dùng đèn này trị khỏi. Vì thế, cả nhà coi cây đèn như một bảo bối, mà đối với đứa trẻ, cũng sủng ái lạ thường.
        Hà tiên cô vẫn còn day dứt vì lỗi của mình, nên đặc biệt quan tâm tới Nguyên Chân phu nhân. Cô nhận trách nhiệm liên lạc giữa hai mẹ con, không nài vất vả, thường xuyên lui tới giữa kinh thành và vùng núi Thái Sơn, đem tin tức của đứa bé báo cáo với phu nhân. Nghe đâu Thiết Quài tiên sinh toan định, sau này Nhị Lang quyết không dung cho em gái rời khỏi núi, nên chuyện này chưa êm, còn một phen tranh chấp cam go. Các vị tiên cùng Nhị Lang đều là chỗ bạn bè đồng đạo, không tiện ra mặt thương thuyết, đành phải đợi đứa bé lớn lên, mọi người dụng tâm dạy dỗ nó, nâng đờ nó, để nó có bản lãnh cao hơn Nhị Lang, sau đó mới có thể bênh vực mẹ, đánh bại ông cậu, nghênh đón mẹ ra khỏi núi, phục hồi chức vị.
        Hiện tại, những việc này đều giao cho Hà tiên cô chủ trì. Các vị tiên nghe tin Nhị Lang nén thẹn trở về đất Thục, ngay cả chuyện nhà cũng không hỏi tới nữa, lấy làm khó nghĩ quá chừng.
        Mọi người bàn nhau, phải tìm một biện pháp nào để gỡ thể diện cho Nhị Lang. Họ nghĩ tới câu nói của cổ nhân : "Gỡ chuông phải nhờ tay người buột chuông", đều nói :
        - Việc hôn nhân này do Nguyệt lão làm chủ. Nguyệt lão đã đứng chủ hôn cho Vương Xương và phu nhân, có thể thấy cuộc hôn nhân này không phải cẩu thả. Sai lầm của phu nhân ở chỗ quá sợ anh trai, cứ giấu giấu diếm diếm, mới thành tội "lấy chồng không xin phép anh". Nhưng xét về căn bản, vẫn là vì kính trọng anh, như vậy tội của phu nhân cũng có chỗ giảm nhẹ, đồng thời thể diện của Nhị Lang cũng gỡ lại được. Nhưng việc này, Nguyệt lão không đứng ra làm chứng, làm sao Nhị Lang tin được ?
        #79
          bevanng 22.07.2008 14:47:35 (permalink)
          Hồi Thứ 87

          Nguyệt lão đứng ra hòa giải
          Nhị Lang thu hồi chó ngao.


          Lã Động Tân hỏi :
          - Nguyệt lão hiện ở trên cung trăng, gần chỗ tiên cô, có thể tới Quán Khẩu, giải thích chuyện này với Nhị Lang được không?
          - Vì việc này, hiện giờ Trương Quả đại tiên đang nhờ tôi giao thiệp với Nguyệt lão, cốt ý mời ông ấy tới Quán Khẩu một chuyến. Nguyệt lão vì việc nghĩa, khó nỗi từ chối. Bây giờ, tôi phải trở về cung trăng, trước tiên giải quyết việc này cho ổn thỏa, nhân tiện nhờ Nguyệt lão đưa tin cho Nhị Lang, nói rõ cho ông này biết chuyện con chó ngao đang gây rối. Nhị Lang không thể vì chuyện riêng trong gia đình mà bỏ bê công vụ, đến nỗi quên luôn con chó, không ngó ngàng gì tới, để nó có cơ hội lẻn xuống phàm trần, gây hại cho người vô tội, trong đó có gia đình Vương viên ngoại, bị thiệt hại nhiều nhất. Ông ấy là người có trách nhiệm, không muốn hại ai bao giờ, một khi nghe được chuyện này, tất nhanh chóng thu hồi chó ngao, trừ hại cho dân, đồng thời giải vây cho anh, há chẳng phải một công đôi việc hay sao ?
          Động Tân mừng rỡ, bái tạ Hằng Nga, nói :
          - Nếu không được tiên cơ quan tâm giúp đỡ, đệ tử thật tình khốn đốn, không nghĩ ra được cách gì để giải quyết, chẳng biết ngày nào mới lên được Lư Sơn học kiếm pháp, hại tới Hà đại tiên cô nóng lòng chờ đợi.
          - Đây là việc chung, mọi người cùng lo giải quyết. Theo lời Trương đại tiên nói, đạo hữu có lai lịch rất lớn, chẳng những chúng tôi không bì kịp, ngay cả các đại la thiên tiên cũng không hơn được. Hiện nay, tuy đạo hữu còn đang tìm hỏi đạo, nhưng đến lúc cần thiết, sẽ có người tiên chiếu cố, bảo hộ.
          Hằng Nga nói rồi, nhoẻn miệng cười, nói lời tạm biệt. Tức thì, mây ngũ sắc lại hiện ra trước mặt, Hằng Nga leo lên. Đám mây từ từ lên cao, khoảnh khắc đã lên đến lưng chừng trời, Hằng Nga đứng trên đó, đưa tay vẫy chào. Động Tân tiễn tiên cô đi rồi, định thần nhìn lại, thấy mình vẫn đang ở nhà họ Vương. Lại ba ngày nữa. Không thấy chó quái trở lại, cũng không được tin tức gì về Nhị Lang.
          Khuya hôm đó, tập xong bài tập luyện khí, Động Tân vừa tính lên giường đi nghỉ, chợt nghe ngoài cửa sổ có tiếng gió ào ào, thầm lấy làm lạ. Nhìn ra bên ngoài. Qua lớp giấy dán cửa sổ, thấy đầu hói của một vị hòa thượng ló ra, dường như đang rình rập, thăm dò, cách xa hơn mười bước. Động Tân có nhãn lực khác xa người thường, có thể nhìn rõ được mọi vật từ xa. Nhưng anh ta bẩm sinh có tính trung hậu, tuyệt đối không nghi ngờ có ai làm ác, nên cũng không đề phòng kẻ gian. Nhìn một hồi, cho rằng chẳng có chuyện gì, mới tắt đèn đi ngủ. Ai ngờ, lát sau lại có tiếng gió nổi lên, lần này ào ào một trận, Động Tân nghi ngờ, nghĩ thầm : "Chẳng phải là chó quái ảo hóa thành nhà sư, tìm đến gây sự ư ?". Nghĩ vậy, nhưng vẫn không trở dậy, qua tấm màn che nhìn ra xa, thấy một hòa thượng mạnh mẽ, đang dùng tay cào lớp đất bên dưới lớp tường dầy, khoét được một lỗ hổng rất lớn, chui qua chỗ đó, bò vào. Lúc này Động Tân đã nhìn rõ, nhận ra Tri Viên hòa thượng, hôm trước đã cùng với anh tới đây bắt yêu. Nghĩ ông này làm trò kỳ quái như thế, ắt phải có ý đồ gì xấu, mới leo xuống giường, thắp đèn lên, đường hoàng bước ra gặp Tri Viên. Tri Viên thấy mặt Động Tân, không nói gì cả, trước nhất nhìn chăm chú vào chiếc áo đạo Động Tân đang mặc, sau đó mới lên tiếng hỏi :
          - Lã đạo hữu, cho bần tăng mạo muội hỏi một câu. Chiếc áo đạo hữu đang mặc, có phải vẫn khoác trên mình đạo hữu từ hôm đó hay không ?
          Động Tử, cười đáp :
          - Đệ tử nghèo rớt mồng tơi, làm gì có chiếc áo thứ hai ?
          Tri Viên lại ngắm nghía một hồi nữa, lại cầm đèn soi cho rõ, hân hoan nói :
          - Đúng đấy, đúng đấy. Vừa rồi ở trong bóng tối, nhìn không rõ lắm, cứ tưởng mầu áo hôm nay khác với mầu chiếc áo anh mặc hôm nọ. Nay nhìn kỹ, đã nhận rõ là cùng mầu. Bây giờ, tôi muốn thương lượng với anh một việc nho nhỏ, chẳng biết có chịu đáp ứng hay không ?
          Bấy giờ, Động Tân đã đoán được bảy, tám phần ý đồ của Tri Viên, liền cười, đáp :
          - Chỉ cần đừng tổn hại cho tôi, mà có lợi cho hòa thượng thì có gì mà chẳng tuân mệnh ?
          - Không thể nói là không tổn hại cho anh, nhưng tổn thất đó kể ra cũng không lớn. Nói cho dứt dạt là có tốn thất cho anh, nhưng anh cũng không nên từ chối. Thưa thực với anh, từ hôm chia tay cùng anh, lòng tôi cứ thắc thỏm, từng giờ từng phút nghĩ tới...
          Tri Viên bỏ lửng câu nói, Động Tân vội nói :
          - Đội ơn quan tâm, cảm kích vô cùng.
          Tri Viên ngớ mặt ra một lúc, sau suy nghĩ lại về lời nói của Động Tân, bát giác thổi "Phì !" một tiếng :
          - Khoan đã, khoan đã ! Tôi với anh là chỗ bèo nước gặp nhau, có gì mà quá quan thiết tới anh ? Tôi chỉ nghĩ tới chiếc áo đạo của anh thô !
          Động Tân đã hiểu rõ ý nghĩ của Tri Viên, cười cười, nói :
          - Thì cũng kể như là quan thiết vậy. Chiếc áo đạo là đồ vật đệ tử mặc trên mình, mà hòa thượng để ý tới, thì đệ tử cũng phải cảm kích chứ.
          - Anh quá khách sáo rồi. Nhà chùa chúng tôi chỉ nói thực tế, không hoa mỹ. Nói thực với anh, từ hôm đó, tôi luôn nghĩ tới chiếc áo đạo, tuy hiện tại đang khoác trên mình anh, giá mà đưa tôi sử dụng thì hay hơn. Vì thế, hàng ngày tôi tiếp cận bên anh, rình lúc anh đi ngủ, lấy về, bảo quản thay anh. Nói xin lỗi, đạo sĩ các anh là hạng nhỏ nhen, chiếc áo đạo đáng giá bao nhiêu, mà mỗi ngày, từ sáng tới tối đeo dính bên mình, lúc đi ngủ cũng không chịu cởi ra, ngay cả khi đại tiểu tiện cũng thế. Tôi rình sáu ngày liên tiếp, có lúc ấn mình đằng sau nhà, có khi núp dưới chân tường. Có hôm, tôi ở trên đỉnh màn, ngóng tới nửa đêm. Nếu anh không tin, tôi trưng bằng chứng cho anh coi. Tôi thấy anh đứng ở trong sân, cùng một cô gái nói đủ thứ chuyện, những gì là thần Nhị Lang, Lý Thiết Quài... còn có một phu nhân nào đó, và những thổ thần. Đứng nói riết, nói riết, không biết mỏi chân nữa chắc ? Lã đạo huynh, hãy nói thật tôi biết, người con gái đó là ai ? Tại sao không thấy cô ta từ ngoài cửa tiến vào, cũng không thấy anh mời cô ta ngồi xuống đất nói chuyện, và sau đó cô ra đi bằng cách nào ? Đừng nói cô ta cũng giống như tiểu tăng, có tài phi thiềm tẩu bích đấy nhé .
          Động Tân thấy Tri Viên nói những lời trái lễ nghĩa như thế, bất giác vừa buồn cười vừa tức giận, liền cười, nói : :
          - Thật tình tôi không thể đem tên họ và lai lịch của cô gái đó nói cho ông nghe được. Là một vị hòa thượng, sao ông lại tò mò, thọc mạch như thế ? Tôi nói ra, chỉ sợ làm tăng khẩu nghiệp của ông mà thôi. Thật tình lòng tôi không nỡ hại ông, xin thứ lỗi không thể nói ra.
          Tri Viên nghe vậy, chẳng những không tức giận, còn tươi cười nói :
          - Toàn những lời vớ vẩn, nói ra chẳng ích lợi gì. Nói thật cho anh biết, từ hôm đó ta đã hiểu ra rằng anh là hạng người bủn xỉn, nhỏ nhen. Bất luận thế nào, anh không thể cởi áo đạo ra, là vì bên mình chẳng có vật gì đáng giá, chỉ có độc nhất một chiếc áo, cởi ra rồi, lấy đâu quần áo lót che thân ? Nói tóm một lời, chiếc áo đạo này, anh không thể cởi ra được.
          Động Tân cười lớn tiếng, nói:
          - Nói đúng quá đi mất. Thượng nhân tả cảnh bần cùng của bần đạo, cứ như vẽ ra trước mặt, hoặc giả ông được nhìn tận mắt, cũng không bằng. Nhưng người xưa có nói : người quân tử gặp lúc khốn cùng, vẫn giữ vững tiết tháo" , thì nghèo khổ có hại gì ? Chúng ta chỉ cần phóng nhãn quang cho xa, giữ khí lực cho lớn, việc gì phải hau háu nhìn tài vật của người khác, hở ra là nghĩ cách trộm cắp ? Đáng tiếc cho hạng người đó, cho dù giàu có nhất nước, mà phẩm hạnh đem vất đi, thì còn gì là tư cách con người nữa chứ ? Hạng người đó, cho dù giầu có cách mấy, cũng là người bỏ đi.
          Tri Viên vẫn cười, nói :
          - Anh cũng giỏi chửi bới người ta. Nhưng nên biết rằng người nào đã đạt tới trình độ như bọn ta, thì thưởng hay phạt, khen ngợi hay chửi mắng, cũng vô dụng thôi. Cần nhất là để ý tới lợi ích thực tại thôi. Anh có nói hay, nói giỏi thế nào, ta vẫn là ta. Hôm đó, ta về tới chùa, suy đi nghĩ lại, đã nẩy ra một chủ ý. Chủ ý đó gồm có hai biện pháp. Bước thứ nhất là cách nhũn nhặn, tức là như hiện nay chúng ta đang trò chuyện tử tế, ta sẽ vái anh một vái, nói Lã đạo huynh, thành thật xin lỗi, anh có thể đem áo đạo tặng cho tôi được không ? Bần tăng đã chuẩn bị sẵn hai trăm lạng bạc, đủ cho đạo hữu sắm hai chục chiếc áo khác, còn sang hơn chiếc áo đạo này. Như vậy, kể như đạo hữu không chịu thiệt thòi gì. Nếu đạo hữu đồng ý, chúng ta nối lại tình giao hảo, gọi anh xưng em, vĩnh viễn không đứt đoạn mối giao tình, há chẳng phải điều tốt đẹp nhất đời hay sao ?
          Động Tân gật đầu, nói :
          - Còn bước thứ hai của biện pháp ?
          Tri Viên không trả lời, mà đưa cặp mắt hau háu nhìn khắp căn phòng một hồi, chợt thấy chỗ chân tường có mấy quả cầu bằng giấy mà trẻ con thường đá chơi, lớn nhỏ gồm bốn quả cầu tất cả, liền nhặt lên tay, xếp chúng thành một hàng. ông ta há miệng thổi một hơi, từng quả cầu bay lên bức vách, xuyên thủng bức tường thành bốn lỗ hổng, nằm gắn chặt trong đó. Động Tân kinh hãi, nghĩ thầm: "Quả là công phu đích thực, tuyệt nhiên không phái trò ảo thuật. Chiếc áo đạo của ta có thể chế ngự được binh đao, nước lửa, chẳng biết có chịu nổi sức tấn công của công phu này hay không ? Đang suy nghĩ, bỗng thấy Tri Viên quay mặt lại, nhe răng ra cười, lộ vẻ dử tợn, rồi đưa tay che miệng, cất tiếng ho, khạc ra một cục đờm, rơi xuống tấm ván sàn nhà, khoét tấm ván thành một hố sâu hun hút.
          Động Tân tuy ở bên sư phụ, học tiên đạo nhiều năm, biết được khá nhiều về huyền lý, cũng chưa từng được thấy công phu võ thuật như thế này, trong lòng kinh hãi, nhưng ngoài mặt không thể tỏ ra khiếp nhược. Không đợi Tri Viên mở miệng, vội giữ nét mặt bình thản, mỉm cười :
          - Không dè thượng nhân có thứ bản lãnh cao đến thế. Đại khái là trò đùa mà bọn trẻ con năm ba tuổi thường học hỏi để giỡn chơi, chứ gì ? Đáng tiếc cho ông gia nhập Phật môn đã lâu, uổng phí thời gian để học lấy pháp môn vô bổ như thế này. Nên biết Phật pháp vô biên, thứ bản lãnh của ông chỉ làm trò chơi cho người tu đạo mà thôi. Chiếc áo bần đạo đang mặc, không phải do nhân công tạo thành, cũng không phải của riêng, bần đạo sẵn có, mà do gia sư Văn Phòng tiên sinh ban cho, có thể chế ngự được đao binh, nước lửa. Vì thế, từ hôm rời nhà cho đến nay, chưa dám cởi ra trong khoảnh khắc, mà cũng không dám khinh suất đem tặng cho người khác. Bần đạo tuy là chủ nhân chiếc áo, vẫn chưa biết nó có hiệu dụng lớn đến thế nào. Theo lời gia sư nói, nó có thể chế ngự được đao binh, nước lửa, nhưng chẳng biết, ngoài những thứ đó ra, nó có thể chịu đựng nối quá cầu giấy trên tay thượng nhân bắn ra, hoặc bãi đờm từ miệng ông khạc ra hay không ? Vì thế, bần đạo còn đang phân vân, tự thẹn không nghĩ ra cách gì để đền ơn người tri kỷ. Nay bần đạo nghĩ ra một biện pháp, có thể giải quyết ôn hòa cho cả đôi bên. Cũng bất tất phải qui định là trái cầu giấy hoặc bãi đờm, xin thượng nhân cứ thi triển tất cả tài năng bình sinh, ra sức phá hủy chiếc áo. Nếu ông vừa ra tay, chiếc áo đạo dã rách toang, thì chiếc áo rách đó bần đạo coi là vô dụng, mà thượng nhân cũng không mặt mũi nào khoác nó lên mình, vấn đề đã được giải quyết xong. Trái lại, nếu thượng nhân đem hết bán lãnh và vũ dũng ra, mà vẫn không thể làm tổn hại chiếc áo, đủ thấy bần đạo chẳng cần có bản lãnh như ông, chỉ nhờ cậy một chiếc áo cỏn con, cũng đủ chế thắng thượng nhân. Nếu thượng nhân có ngàn, vạn cánh tay, có thể bắn ra ngàn vạn trái cầu nhỏ, có trăm, ngàn cái miệng, khạc ra vô số bãi đờm, thì chiếc áo lỗ chỗ vết bẩn, thượng nhân có đủ can đảm khoác nó lên mình hay không ? Như vậy, vấn đề lại được giải quyết. Thượng nhân, ông thử coi những biện pháp đó có thỏa đáng hay không ?
          Tri Viên không trả lời, rút trong tay áo ra một bảo kiếm, đâm thẳng vào Động Tân. Động Tân trong tay không có vũ khí sắc bén, chỉ trông cậy vào chiếc áo đạo che thân, như chiếc áo giáp, né qua né lại. Trong khi đó, Tri Viên rất sợ làm rách chiếc áo, nhắm những chỗ cơ thể Động Tân không có áo che phủ mà đâm. Động Tân linh cơ sáng suốt, hiểu được ý đó, lúc nào tránh được thì tránh, tránh không được thì kéo áo che phủ. Đâm tới đâm lui được vài hiệp, bỗng nghe một tiếng "Soảng !", mũi kiếm của Tri Viên đụng phải áo bào, ánh lửa phát sáng lòe, mũi kiếm gẫy cụt. Tri Viên giận quá, nghiến răng căm hận, nói :
          - Trước hết ta hãy đâm mù hai mắt của ngươi, coi ngươi còn cách gì né tránh nữa không ?
          Vừa nói vừa mò trong tay nải, rút ra một con dao găm, nhắm hai mắt Động Tân mà đâm. Động Tân hoảng quá. Thấy một luồng sáng, nhắm về phía mắt mình mà lao tới, Động Tân vội né qua một bên, nhưng không còn kịp nữa, bất giác "A ?" lên một tiếng, ngã vật ra đằng sau. Tri Viên mừng quá, chạy lại để lột chiếc áo đạo Nhưng Động Tân vẫn khỏe mạnh như cũ, đợi hắn đến gần, bỗng tung hai vó, đứng bật dậy, luồn quanh chiếc bàn vuông, lẻn ra phía sau, từ đó có thể chạy ra khỏi cửa. Động Tân chợt nghĩ ra một kế, xô chiếc bàn ngã xuống, cản đường Tri Viên. Động Tân chạy thoát ra cứa rồi, Tri Viên nổi giận đùng đùng, đưa chân đá phốc chiếc bàn vuông, dùng sức quá mạnh, khiến mặt bàn vỡ toang, mấy cái chân bàn gẫy lìa, bay ra mỗi chỗ một cái, đụng phải bức tường vôi. Tri Viên đuổi theo Động Tân, ra tới ngoài, lại gây một trận ầm ĩ. Toàn thể người nhà họ Vương đều kinh hãi, thức dậy, xách đèn lồng, mang đuốc, ra theo. Vương viên ngoại thấy một Tăng, một Đạo đang đánh nhau, luôn miệng kêu khổ, hô to lên :
          - Hai vị sư phụ có điều gì cần nói thì nói, có chuyện gì chăng nữa, cũng nên thương lượng cùng nhau, nói cho rõ ra, muôn ngàn lần không nên động thủ.
          Hai người đang đánh nhau đến hồi quyết liệt, lời nào mà lọt nổi vào tai ? Lúc đó, Động Tân hoàn toàn nhờ cậy vào chiếc áo đạo che chở, chỉ biết né tránh, không tìm được đường nào mà chạy. Cũng may, con đao găm của Tri Viên đâm trúng tay áo của chiếc áo đạo, văng đi mất, Tri Viên đành đánh tay không, nhắm đầu và chân Động Tân mà đập. Có lúc hắn đập trúng chiếc áo đạo, cảm thấy như thể đấm nhằm khối thép. Tuy hắn đã luyện được công phu làm giảm cơn đau, nhưng da thịt người ta làm sao chống lại sắt thép ? Hắn cảm thấy hai tay tê nhức, chịu không thấu. Bên kia, Động Tân cũng đã sức cùng lực kiệt, chịu không nổi nữa rồi.
          Chính lúc mười phần nguy nan, chợt nghe trên không trung có tiếng chó sủa. Vợ chồng Vương viên ngoại nghe tiếng, vội bò lăn ra đất, chuồn đi, miệng kêu "ông Trời cứu mạng ! Chó quái lại tới báo thù rồi !".
          Động Tân và Tri Viên nghe rõ ràng có tiếng người ở trên không trung quát mắng :
          - Súc sinh, đã gây nên đại họa, còn dám sủa nữa hả ?
          Hai người ngửng đầu lên, thấy một vị thần mặc giáp vàng, tay dắt một con chó, từ trên không đáp xuống. Ông thần thấy Động Tân đánh không lại Tri Viên, đưa chân đá một phát, khiến Động Tân bay lên không trung, giây lát biến mất. Ông lại đưa một tay ra, ghì chặt lấy Tri Viên, giao cho con chó canh giữ, dặn nó :
          - Dẫn hắn về chùa Báo Quốc, giao cho sư phụ hắn. Ta sẽ tới sau.
          Con chó sủa lên một tiếng, cắn vào bắp vế Tri Viên. Tri Viên. nhận ra nó là con chó ngao, hôm nọ đã bị mình đuổi đi, biết vị tôn thần mặc áo giáp vàng ắt là thần Nhị Lang, chủ nhân của con chó kinh hãi quá chừng, chẳng dám nhúc nhích. Chỗ chân bị chó cắn máu ra lênh láng, đau đớn vô cùng, vội lên tiếng xin tha mạng.
          Nhị lang thét con chó :
          - Bất tất phải cắn hắn. Hạng người rắp tâm làm giặc như hắn, máu thịt hôi tanh, e rằng làm bẩn miệng mày đó.
          Chó ngao liền sủa lên một tiếng, lôi kéo Tri Viên, cùng bay lên không trung, nhắm hướng chùa Báo Quốc mà tới.

          #80
            bevanng 22.07.2008 17:28:59 (permalink)
            Hồi Thứ 88

            Đi lạc đường, chợt nghe gian án
            Giữa canh khuya, thấy ma hiện hồn.


            Lã Động Tân bị Nhị Lang đá một phát, bay bổng lên không trung, cảm thấy cơ thể bồng bềnh trôi đi, giữa những đám mây, rồi từ từ hạ xuống, ước chừng phân nửa thời gian nấu chín một nồi cơm, mới đặt chân tới đất. Định thần giây lát, mở mắt ra nhìn khắp bốn phía, thấy thân mình đang đứng trên một ngọn núi, ở giữa khu rừng thâm u. Tuy đang đêm khuya, cặp mắt Động Tân sáng tỏ, nhìn được rõ ràng mọi vật. Động Tân thầm suy nghĩ, cảm thấy tức cười. Từ khi rời nhà đến nay, lúc đầu được đồng tử hạc đưa đi, nay lại bị Nhị Lang đá một phát, thân thể mình chẳng khác gì một trái banh, bị người ta đá qua đá lại, trái với chủ ý của mình. Bây giờ ta đang ở đâu ? Cảnh giới này là gì ? Cả hai lần, anh đều không biết rõ. Lần trước còn gặp được ông quản gia nọ để hỏi thăm đường, biết mình đã tới Hạ Khẩu. Nay bị đá một phát, rơi xuống đỉnh núi, với trăng mờ, sao thưa, núi cao rừng rậm, nhất thời không tìm ra người nào để hỏi thăm đường. Suy nghĩ một hồi, tự nói cho mình nghe :
            - Mặc kệ. Ta cứ ngồi đây một đêm, đến khi trời sáng, sẽ tìm ra đường đi. Cũng chẳng cần nghĩ tới người đưa ta qua sông. Hôm nay thần Nhị Lang đã xuống phàm trần, chắc là Nguyệt lão đã tới mời ông đi. Con chó ngao đã ở bên cạnh ông, hẳn là nó không tới khuấy phá tiểu thư nhà họ Vương, trách nhiệm của ta kể như hoàn tất. Lúc ta ở Hạ Khẩu, vốn là không có chuyện gì lớn, hà tất phải vịn vào câu nói của đồng tử hạc, đợi người đưa ta qua sông ? Có thể đồng tử chỉ nói giỡn chơi, cố tình chọc phá ta. Nhưng không hiểu cú đá của Nhị Lang đã đưa ta đi bao xa ? Có thể là đã đưa ta tới một chỗ, thuận đường lên Lư Sơn, cũng có thể đẩy ta tới chỗ lam sơn chướng khí, không vết chân người, mới thật khốn đốn.
            Nói tới đó, bất giác thở "Phì !" một tiếng, nói tiếp :
            - Người xuất gia sao lại có thứ lo nghĩ xa xôi đó ? Nghĩ vớ nghĩ vẩn như thế, không khỏi bị Hằng Nga chê cười.
            Vì thế, tìm một tảng đá lớn, ngồi bắt chéo chân, vận huyền công.
            Trời tang tảng sáng, bỗng nghe trong khu rừng có tiếng trẻ con nô đùa, lòng thầm cho là lạ, liền đứng dậy, lần theo tiếng động, khoan thai tiến bước, quả thấy ba, bốn đứa trẻ nhà quê, có trai có gái, đang tụ tập một chỗ, để đùa giỡn. Động Tân nghĩ thầm : “Theo tình hình này, dưới núi ắt có người ở đông đúc, chi bằng túm lấy đám trẻ con này, hỏi vài câu. Hiểu được đây là đâu, ta mới xác định được lộ trình". Vì thế, vững chắc chân tiến lại, đứng dưới một gốc cây, xem lũ trẻ nô đùa một hồi. Bọn trẻ cũng nhìn thấy Động Tân, ngừng cuộc chơi, tô ý thắc mắc, nói :
            - Mới sáng sớm, ở đâu ra đạo nhân này ?
            Một bé gái tỏ vẻ hiểu biết :
            - Đạo nhân này dường như không phải người địa phương.
            Một bé trai hỏi :
            - Vì sao mày biết ?
            - Thúc thúc nhà tao cũng là đạo sĩ vậy. Ông thường cùng một đám đạo nhân ra ngoài làm thầy pháp kiếm ăn, sao ta lại không nhận ra các đạo sĩ chứ ? Nhưng ta chưa hề thấy đạo sĩ nào như ông này. Các đạo sĩ ở địa phương này thường giông giống mấy ông nông dân của chúng ta, người nào người nấy đen nhẻm mà thô kệch, không như anh đạo sĩ này, trắng trẻo, tuấn tú, và rất ưa nhìn.
            Câu nói vừa nói ra, khiến Động Tân mỉm cười, đã thấy đứa con trai lúc đầu lên tiếng .
            - Chà ! Mày thích anh đạo sĩ này rồi há ? Hai người tuổi tác cũng không chênh lệch bao nhiêu. Mày năm nay được mười một tuổi, xem chừng anh ta chỉ lớn hơn tao hai, ba tuổi, cùng lắm là mười lăm, mười sáu tuổi thôi. Nay trời ban lương duyên, khiến sáng sớm đã gặp nhau một chỗ, đủ thấy hai đứa đáng sánh duyên vợ chồng, để tao làm mai cho nhé !
            Đứa con gái tuy còn ít tuổi, cũng hiểu đó là ý tưởng không tốt, liền đỏ mặt, đưa tay chỉ đứa con trai, cất tiếng chửi mắng. Mấy đứa con nít giậm chân, vỗ tay, cười ầm ĩ. Động Tân thấy chúng ghẹo nhau quá mức, vừa buồn cười vừa tức giận, không muốn hỏi thăm chúng nữa, chỉ đứng ngây người ra nhìn. Đứa con gái cãi lại đám đông, liền cất tiếng khóc. Bọn trẻ vội nói :
            - Tiểu Kim Tử khóc rồi ! Để mẹ nó biết, ắt nói chúng ta ghẹo con gái bà. Chúng ta mau chuồn thôi !
            Nói rồi, ồn ào bỏ đi. Chỉ còn lại đứa con gái ngồi trên bãi cỏ, khóc thút thít. Động Tân thấy không ai, đưa mắt nhìn đứa con gái, bất giác kinh hãi, nghĩ thầm : "Nơi hoang sơn này, sao có cô bé thanh tú xuất trần như thế ? Coi tướng mạo cô ta, tuy không có điểm gì đặc biệt hơn người, nhưng một bộ mặt thanh tú, phối hợp với một thân hình có cốt cách thanh kỳ thế kia, thì chiếu theo những lời đạo gia nói, rõ ràng là có tiên phong, tiên cốt. Hèn chi người ta thường nói Lư Sơn là vùng đất danh thắng trong thiên hạ, địa linh nhân kiệt, nên một cô bé nhà quê cũng là một nhân tài. Để khỏi nhận lầm, ta nên điều tra kỹ mới được". Chủ ý định rồi, mới tiến lại vài bước, lên tiếng khuyên nhủ :
            - Tiểu cô nương đừng khóc, đừng khóc. Bọn chúng chỉ đùa giỡn cô đấy thôi. Nếu cô khóc, chúng càng đắc chí, ghẹo thêm.
            Tiểu Kim Tử nghe Động Tân nói, không khóc nữa, nhướng cặp mắt đen láy nhìn Động Tân từ đầu tới chân, đánh giá một hồi, không nói tiếng nào, cũng không đứng dậy, chúm chím cười, cúi đầu nhìn xuống, bứt mấy cọng cỏ. Động Tân lại hỏi :
            - Xin lỗi tiểu cô nương, đây là đâu ? Núi này gọi là núi gì ?
            Tiểu Kim Tử nghe hỏi, cười hì hì, ngửng nhìn lên, nói :
            - Người ta thường nói mấy ông đạo sĩ có tính khí ngờ nghệch, anh đạo sĩ này quả thật có vài phần ngốc nghếch. Bản thân đang ở đâu cũng không biết, há chẳng phải khù khờ lắm sao ?
            Nói rồi, lại cười lên một chập. Động Tân thầm nghĩ lai lịch đời mình quá lạ lùng, nếu đem kể hết với cô bé, e rằng cô ta sẽ kinh hãi, nên chỉ thuần miệng nói vài lời mơ hồ, nói rằng mình nhất thời ham ngắm cảnh núi, nên đi lạc đường, xin cô chỉ giáo.
            Tiểu Kim Tử nửa tin nữa ngờ, nói :
            - Thì ra quả thật anh không phải người địa phương ?
            - Cô nghe giọng nói của tôi, không nhận ra ư ?
            Tiểu Kim Tử gật đầu công nhận, nói :
            - Chỗ này gọi là núi Lư Sơn...
            Động Tân vừa nghe đến đó, liền ngạc nhiên, xen lẫn vui mừng, vội hỏi :
            - Tiểu cô nương vừa nói gì ? Chỗ này gọi là núi Lư Sơn ?
            Tiểu Kim Tử lại cười lần nữa, nói :
            - Nói anh ngốc, anh không thừa nhận; cho anh biết chỗ đang đứng, anh lại không tin, không lẽ nói anh từ trên trời rơi xuống, hoặc từ dưới đất chui lên ? Không thế nữa, thì là bị người xấu lừa gạt, đưa tới đây, hoặc giả bị gió độc thổi bay tới đây,cũng nên. Ngốc đâu mà ngốc lạ đời đến thế !
            Động Tân bị cô bé chế giễu một hồi, mới nói sơ qua lai lịch đời mình, bất giác tự đỏ mặt, nói:
            - Tiểu cô nương, cô đừng vặn hỏi chuyện tôi nữa. Chỉ xin hỏi tiểu cô nương, nơi đây có phải địa giới Nam Xương hay không ? Cô vừa nói tới Lư Sơn, vậy có thác nước rất lớn, và nổi tiếng ở gần đây hay không ?
            Tiểu Kim Tử đưa bàn tay nhỏ bé, chỉ về phía xa xa, nói:
            - Dưới ngọn núi bên kia, chẳng phải một thác nước hùng vĩ hay sao ? Chỗ đó gọi là Hương Lô Phong, quanh năm có du khách tới tham quan không dứt. Trước đây cha tôi, vì làm ruộng thất bát, đã từng làm nghề khiêng kiệu cho mấy người tới thăm núi, được đâu chừng một năm, kiếm được khối tiền ra đó. Nhưng rồi, vì thân hình ông ấy không được đẹp, lại vì rượu chè be bét, khiêng kiệu không xong, làm ruộng cũng không nổi. Cũng may, cha tôi còn giữ được đám ruộng nhỏ, đủ cung cấp cho ông tiền tiêu xài hàng năm.
            Động Tân nghe cô bé kể hết chuyện nhà, cảm thấy tức cười.
            Lại biết nơi này chính là Lư Sơn, mà mình cũng đang muốn lên núi đó, lòng thầm cảm ơn thần Nhị Lang đã đá một phát, đưa mình tới đây. Đây là thần cơ diệu dụng của tiên gia, cũng giống như hôm mình rời khỏi nhà, sư phụ chỉ hét lên một tiếng, đã đưa mình lên lưng hạc, bay tuốt lên không trung. Suy nghĩ một lát, lại cất tiếng hỏi :
            - Chú của tiểu cô nương cũng đã xuất gia, phải không ?
            Tiểu Kim Tử nghe hỏi, tỏ vẻ ngạc nhiên :
            - Làm sao anh biết ?
            Động Tân thấy cô bé quên ngay được những lời cô vừa nói với đứa con trai lúc nẫy, thật đáng tức cười, mới gật đầu, nói :
            - Tôi có tài bói toán, hiểu được chuyện trong lòng người khác. Xin hỏi tiểu cô nương, cô có nghe chú cô nói tới chuyện gần đây có thần tiên nào mới tới hay không ?
            Tiểu Kim Tử cười lớn tiếng, nói :
            - Anh cũng là đạo sĩ, sao lại nói ra những lời trật trìa như thế?
            Động Tân lấy làm lạ, nói :
            - Sao ? Nói vậy mà là lời trật trìa hay sao ?
            - Sao lại không phải nói trật trìa ? Những lời nói đó chỉ để cho người khác nói ra, đạo sĩ các anh không nên nói.
            Động Tân nghe vậy, càng cho là kỳ quái, không biết nói sao.
            Tiểu Kim Tử lại cười, nói :
            - Tôi thường nghe chú tôi cùng đám đạo sĩ nói chuyện, nói ra những gì là thần tiên, yêu quái, toàn những lời mà các đạo sĩ bịa đặt để lừa gạt người ta. Người ta có tin, mấy ông mới kiếm ăn được, cho thấy những lời đó là hoàn toàn bịa đặt, không căn cứ. Anh là đạo sĩ mà cũng tin tưởng như người khác, nói ra những lời vừa rồi, há chẳng phải những lời trật trìa hay sao ?
            Động Tân nghe cô bé nói một thôi một hồi, chợt hiểu ra, bất giác cất tiếng cười ha hả, nói :
            - Thì ra là vậy. Chắc chú cô không phải đạo sĩ chân chính, chẳng qua chỉ là thầy pháp, giúp người ta làm chút pháp sự, để kiếm tiền chi dụng thôi. Bản thân làm đạo sĩ mà không tin chuyện thần tiên, yêu quái, đâu có được ?
            Tiểu Kim Tử còn muốn nói nữa. Bỗng nghe dưới núi có tiếng đàn bà, vừa tiến lên vừa thét oang oang :
            - Tiểu Kim Tử, Tiểu Kim Tử ! Con tiện tì nhanh như cắt, hở ra một chút là mày đã lặn mất, mò tới chỗ này rồi !
            Đồng thời lại có tiếng trẻ con nói :
            - Con gái bà hiện giờ đã vớ bẫm. Nó vừa kiếm được một chàng trai tốt đáo để, làm một đạo sĩ hẳn hoi, ngang ngang với lão nhị nhà bà đấy. Mai này, hai đứa hết thành vợ chồng, cũng kể là chỗ môn đăng hộ đối.
            Câu nói chưa dứt, đã nghe tiếng tát lên má bôm bốp, tiếng người đàn bà chửi mắng, tiếng thằng bé giậm chân kêu gào, khóc thật to, từ xa tới gần, tiến dần lên núi. Tiểu Kim Tử không tỏ vẻ gì là sợ hãi, vẫn tiếp tục cười hi hi, bứt một đám cỏ rậm. Động Tân đứng không yên chân, lại sợ Tiểu Kim Tử bị mẹ đánh mắng, vội nói :
            - Tôi phải đi đây. Cô không nghe má cô chửi bới, đang tiến lên đây hả ? Mau ra đón bà ấy đi.
            Tiểu Kim Tử cười, nói :
            - Sợ cái gì ? Anh không phải đạo sĩ chân chính, nên sợ bà ta bắt được, làm nhục chứ gì ? Cho dù thật tình tôi có bạn trai chăng nữa, cũng không đến lượt bà ta quản lý tôi. Mọi người đều sợ bà ta hung dữ, chứ tôi không sợ. Tử tế thì tử tế lại, nếu bà ta không tốt, thì... Hừ, hừ ? Đố tránh khỏi tui đem chuyện riêng của bà ta nói ra, xem cha tôi có đánh chết bả hay không ?
            Động Tân bất giác kinh hãi, thè lưởi, nghĩ một cô gái còn nhỏ xíu nói ra những lời dâm đãng, quá quắt, mai này lớn lên sẽ ra sao? Có tiếc là tiếc cho cô có diện mạo xinh đẹp, cốt cách thanh nhã mà thôi. Đại khái chỉ tại phong tục của địa phương này quá hư hỏng, hoặc là gia phong quá ti tiện, đần dần tiêm nhiễm vào đầu óc nhỏ bé, thuần khiết và cao thượng của cô, đưa đến chỗ bại hoại.
            Suy nghĩ một lát, thấy chẳng gì bằng đường ta ta đi, đừng chàng ràng ở đây, để bị ác phụ đánh mắng. Chủ ý định rồi, liền co cẳng bỏ chạy. Chạy vài bước, còn nghe đằng sau có tiếng chửi rủa, thét mắng ầm ĩ. Động Tân là người nhiệt tâm đệ nhất, là người số một trong đám tu đạo ưa xen vào những chuyện thiên hạ. Nghe những tiếng ồn ào như thế, liền ngần ngừ, nghĩ thầm : "Cô bé này tuy chẳng tốt lành gì, nhưng vì chuyện của ta mà bị mẹ đánh mắng, hẳn hóa ra chính ta đã hại cô hay sao ? Hiện giờ, ta chẳng có việc gì gấp gáp, hãy quay lại đấy, xem thử thế nào". Nghĩ rồi, liền xoay mình, trở lại chỗ cũ. Liền thấy một bà nhà quê đanh đá, nắm đầu Tiểu Kim Từ, vừa đánh vừa chửi, lôi kéo xuống núi. Còn có thằng bé lúc trước chọc ghẹo Tiểu Kim Từ, cũng đi theo sau, khóc lóc ầm ĩ, hăm dọa sẽ trở về nhà tố cáo với cha mẹ. Động Tân đứng nhìn, thấy cảnh vừa tức cười vừa đáng giận. Không ngờ Tiểu Kim Tử mở miệng ra nói, phát ra một câu, khiến người nghe phải kinh hãi, choáng váng .
            - Bà dám đánh tôi, đừng trách tôi chống đối lại bà. Tôi hãy hỏi bà : Bà nội tôi lúc chết ra sao ? Anh trai tôi lúc chết thế nào ? Để về nhà, tôi nói rõ cho cha tôi biết, coi bà có nói lấp liếm nổi hay không ?
            Chỉ một câu nói đủ khiến người đàn bà kia sẹp xuống liền, vất ngay cây roi trong tay, lên tiếng an ủi Tiểu Kim Tử :
            - Con ngoan, con mà quật cường như thế, chẳng ra vẻ con gái chút nào. Nếu con nói ra những lời này, mẹ sẽ bảo cha con đánh con chết, coi con làm được chuyện gì hay ho hay không ?
            Tiểu Kim Tử đã chiếm được thượng phong, đổi ngay thái độ, ngước đầu nhìn lên. Động Tân vội ẩn mình đằng sau gốc cây. Tiểu Kim Tử nhìn, không thấy người nào, mới cười, nói :
            - Mẹ ơi, chỉ cần mẹ đừng đánh con, con nhất định ủng hộ mẹ, một lòng về phe với mẹ. Nếu mẹ muốn con đi mời ông bác họ Vương, con sẽ đi ngay, cũng không nói cho cha và thúc thúc biết. Mẹ thấy có tốt hay không ?
            Hai mẹ con cười cợt với nhau, cùng xuống núi, qua một khúc quanh trên núi, không thấy đâu nữa. Động Tân đứng sau gốc cây, nghe hết câu chuyện, ngẩn người ra một hồi. Trong lúc vô ý, anh đã nghe được chuyện bí mật trong gia đình người khác, hốt nhiên hiểu rõ sự tình, bên trong ẩn chứa một vụ án gian về chuyện giết chết mẹ chồng, sát hại con trai, bất giác nghiến răng chèo chẹo, nói :
            - Trên đời lại có hạng đàn bà dâm đãng, hung hãn thế này sao? Rất không nên quay trở lại, rình coi chuyện náo nhiệt. Sự việc xấu xa, thê thảm này, ta đã nghe đầy lỗ tai rồi. Chuyện gia đình người ta, ta quản không nổi đâu. Chẳng gì bằng đường cái thênh thang, ta đi cho rồi.
            Nhưng Động Tân là người nhiệt tâm cứu đời, làm sao bỏ đi cho nổi ? Đang hồi hộp đứng nhìn, chợt thấy cậu con trai lúc trước cũng đang bồi hồi, ngồi dưới gốc cây tùng trước mặt, không hiểu đang làm gì. Động Tân mạnh dạn tiến lại. Cậu kia trông thấy, toét miệng ra cười, tỏ vẻ ngạc nhiên, hỏi :
            - Đạo nhân này còn không đi đi, quanh quẩn ở đây làm gì ?
            Động Tân cười, nói :
            - Cậu rất ưa xen vào chuyện người khác, bị người đàn bà kia đánh mắng cũng đáng.
            Cậu bé kia nghe vậy, nghiến răng, mắm môi, cất tiếng chửi :
            - Con mụ cường đạo giết người, mất hết thiên lương đó, tôi mà nắm được, nhất định sẽ đem chuyện riêng của mụ, nói vung cho mọi người cùng nghe. Lúc đó, mụ mới biết được thủ đoạn của Ngưu Đại Mao này ra sao.
            - Cậu có tên là Ngưu Đại Mao ?
            - Chính thế. Tôi tên Ngưu Đại Mao, em trai tôi kêu Ngưu Nhị Mao. Tôi còn có em gái, tên Tam Mao, chơi thân với con bé Tiểu Kim Tử vừa rồi.
            - Tại sao cậu gọi người đàn bà kia là cường đạo giết người, và chửi bà ta dữ dội như thế ?
            Ngưu Đại Mao nói giọng phẫn uất :
            - Anh không nghe vừa rồi con gái bà ta nói những gì hay sao ? Tôi định lập tức lôi mụ cùng về thôn xóm, nói hết sự việc của mụ, để mụ mất mặt một phen ! Sau rồi, tôi nghĩ việc này là việc quá lớn, cha mẹ tôi thường ngăn cấm, không cho tôi được nói tới. Nếu chuyện này làm ầm ĩ lên, cha mẹ tôi đánh tôi chết. Vì thế, tôi núp chỗ này, không đi theo để nói chuyện của mụ nữa.
            Động Tân cười, nói :
            - Anh không muốn gây chuyện ầm ĩ, còn ẩn thân chỗ này làm gì?
            Đại Mao cười cười, đánh trống lảng, bỗng nhiên lại nói :
            - Đạo sĩ ca ca, anh có muốn biết chuyện riêng của người đàn bà này không ? Tôi nói rõ cho anh nghe nhé. Chuyện này, bọn con nít trong thôn chúng tôi, đứa nào cũng biết hết ráo. Chỉ che mắt được người chồng và em chồng của mụ, cả hai cùng không biết tí gì.
            Động Tân ngồi xuống, nghe Đại Mao nói :
            - Người đàn bà này là Ngưu thị, vợ của Chu Tiểu Quỉ trong thôn. Thằng cha Tiểu Quỉ này, anh không nhìn thấy thì thôi, hễ anh nhìn thấy, bảo đảm anh cười đứt ruột. Hắn có cái đầu lệch lạc, cái cổ u lên thành bướu, nhìn xa tưởng là người hai đầu. Thân hình hắn lùn tịt, không cao hơn bọn trẻ chúng tôi bao nhiêu. Mặt hắn rỗ chằng rỗ chịt, hai mép con mắt rũ xuống tùm hụp, chung quanh cái mũi nhô cao, trông thật dễ sợ. Còn vợ hắn, mà chúng tôi thường chế nhạo, gọi là chị hai của Chu Tiểu Quỉ, tuy không có tướng người sang trọng, nhưng ai nấy đều khen bà ta có thân hình mềm mại, mầu da trắng bóc. Vậy nên bà ta làm sao chịu nổi ông chồng xấu xí như thế, nên đã sớm cặp kè với một người đàn ông. Chú Tiểu Quỉ lại ham rượu, rượu say rồi, chẳng biết trời trăng, người đàn bà liền mở cửa sau, cho người đàn ông kia vào. Chà, tôi chưa kịp nói cho anh biết, người đó chính là người mà Tiểu Kim Từ gọi là ông bác nhà họ Hoàng đó. Bọn trẻ chúng tôi đều không nhận thức rõ ông này, nhưng cha mẹ tôi và nhiều người khác đều nói đó là một ông già. Nhưng vị Vương lão gia này thật tình là người rất tốt. Không ai nói ông chẳng phải người tốt, là vì ông ấy có tiền, lại chịu giúp đỡ người khác, đã cứu giúp cho nhiều người. Vì thế, ông ta ra ra vào vào nhà họ Chu, cùng Ngưu thị làm những chuyện mờ ám, mà không ai tìm tới gây sự, gian tình của hai người giữ kín, không từng bại lộ. Có thể người ta không sợ Ngưu thị, nhưng còn nể mặt Vương lão gia.
            Động Tân nghe chuyện, còn rất mù mờ, mới hỏi :
            - Vương lão gia này đại khái là người ưa chọc ghẹo đàn bà, con gái, chứ gì ?
            - Không phải đâu. Đối với người khác, ông ta rất giữ gìn phép tắc, chỉ cặp với một mình Ngưu thị. Mỗi khi ông ta tới, Ngưu thị liền thoa son, dồi phấn, đợi sẵn. Hai người âm thần đi lại, đã được ba, bốn năm. Mọi người đều biết, riêng có Chu Tiểu Quỉ là ù ù, cạc cạc. Bà mẹ của Chu Tiểu Quỉ phát giác gian tình, định tố cáo cùng con trai. Người đàn bà như ngồi trên lửa, nhờ gian phu giúp một tay, đè chặt bà lão trên giường, xiết chặt cổ họng, khiến bà lão tắt thở mà qua đời. Ngày hôm sau, tên quỉ say rượu mới biết mẹ chết. Nhưng hắn là người hồ đồ, chẳng hiểu gì cả, mua áo quan về liệm, đem đi chôn, là xong. Mụ có thằng con trai lớn, nếu trời cho còn sống, năm nay được mười hai tuổi, bằng tuổi với tôi, ai ngờ nó chết yểu ? Nó biết được mẹ nó cùng gian phu giết bà nội, muốn đem sự tình nói ra cho mọi người đều biết. Người mẹ nhiều lần đánh mắng nó, nó giận lên, không nhịn nữa, kể hết chuyện xấu của mẹ. Dâm phụ hận con vô cùng, mua một gói thạch tín đem về, thuốc chết con trai. Sau khi cậu ta chết, tôi có tới nhà nhìn mặt, thấy trên mặt người chết có nhiều dấu máu đen, coi rất thê thảm ! Lần này, tên quỉ say rượu cũng chẳng biết gì, khiêng con lên một mô đất trên núi, vùi xuống đó, là xong. Mọi người đều nói Chu Tiểu Quỉ là kẻ quá xuẩn ngốc, sau này tính mạng cũng giao vào tay mụ đàn bà độc ác mà thôi.
            Động Tân nghe nói, giận vô cùng, hận rằng không thể tức khắc đuổi theo, thí cho người đàn bà một đao, chết tốt. Nghĩ lại, việc này chẳng quan hệ gì tới mình, đôi bên chẳng phải bà con, cũng không quen biết, làm sao ta có thể tùy tiện xen vào việc gia đình người ta ? Suy nghĩ một hồi, Ngưu Đại Mao cũng bỏ đi, Động Tân mới thong thả xuống núi. Trước hết, đi một vòng trong thôn xóm, nhận định rõ nhà cửa của Chu Tiểu Quỉ. Sau đó, vào lúc tối, tới đứng dưới gốc cây, đối diện với cửa sau căn nhà. Vào lúc canh hai, quả nhiên thấy một người đàn ông, ăn mặc tề chỉnh, tiến lại chỗ cánh cửa, gõ nhẹ một tiếng. Bên trong có người ra mở, chính là người đàn bà đã gặp lúc ban ngày. Bà ta cùng ông kia nói cười hỉ hả, cùng tiến vào nhà trong. Động Tân nói một mình :
            - Chính mắt ta thấy, việc này là chính xác rồi. Chỉ tiếc rằng gian phu có thần thái ra vẻ một chính nhân quân tử, tại sao lại quấn quít với người đàn bà này ? Hẳn là nghiệt duyên kiếp trước đây.
            Nói chưa dứt lời, bỗng thấy một trận gió lạnh từ dưới chân nổi lên, quấn quít quanh thân, đẩy tới đẩy lui, dường như có vật gì níu kéo. Động Tân tuy can đảm, cũng cảm thấy ớn lạnh. Vận nguyên thần, trừng mắt nhìn, chỉ thấy một khối khí đen, từ dưới đất bay lên, tỏa ra xa, cách Động Tân chừng mười bước, phát ra tiếng kêu chíu chít, mười phần thê thảm. Động Tân kinh hãi, hạ thấp giọng, nói :
            - Quỉ vật nào đây, nếu có điều chi oan khuất, hãy hiện hình ra mắt ta, ắt ta sẽ giải oan cho.
            Câu nói vừa phát ra, trên đường bỗng có một người bộ hành, hướng về phía Động Tân xăm xăm chạy tới, quì xuống đất, nắm lấy hai chân Động Tân, không buông, cất tiếng kêu khóc, cầu xin thượng tiên thân oan.

            #81
              bevanng 22.07.2008 18:06:51 (permalink)
              Hồi Thứ 89

              Xuống Lư Sơn, trị gian phu dâm phụ.
              Vào hang đá, được đất lành rộng rãi.

              Người kia nắm chặt hai chân Động Tân, kêu lên :
              - Xin thượng tiên thân oan ! Xin thượng tiên thân oan !
              Động Tân có cặp mặt rất sáng, trong đêm tối cũng nhìn rõ mọi vật, thấy vậy liền thu hết can đảm, hô to :
              - Ngươi là oan quỉ ở đâu ? Vì sao chết oan, hãy nói rõ cho ta biết, ta mới nghĩ ra biện pháp thân oan cho ngươi chứ.
              Hồn ma khóc lóc tố cáo, giọng thảm thiết :
              - Tiểu quỉ tôi chính là con trai lớn của Chu Tiểu Quỉ, tên gọi Chu A Minh. Vừa rồi thổ địa lão gia truyền dụ cho tôi, nói rằng “Có vị Lã đại tiên đến đây. Oan tình của ngươi, ngoài ông ấy ra, không ai giải quyết nổi. Tiểu quỉ tôi mới hỏi : "Không biết vị đại tiên đó có chịu đứng ra làm chủ, thân oan cho tôi hay không ? Thổ địa nói : "Ông ấy đã biết chuyện nhà của ngươi rồi. Hôm nay, Ngưu Đại Mao đã ở trên núi tố cáo với ông ấy. Vị đại tiên này rất có nhiệt tâm, chịu giúp người. Hiện giờ, ông ấy đang quanh quẩn chỗ cửa sau nhà ngươi, đại khái là đang chuẩn bị giải oan tình cho bà cháu ngươi đó. Mau tới cầu khẩn ông ấy đi. Để chậm trễ, ông ấy đi mất. Bỏ lờ cơ hội này, oan tình của bà cháu ngươi đành quăng xuống đáy biển, không còn ai giúp hai người xuất đầu lộ diện". Vì thế, tiểu quỉ tôi vội vã đi tìm hồn ma bà nội, cùng tới đây van xin thượng tiên, rộng thi ơn đức, giải oan khí cho bà cháu tôi. Ơn đức đó, chúng tôi mãi mãi không quên.
              Sau đó, người này biến đổi giọng nói, thành giọng của một bà lão kể lại sự việc một lượt. Động Tân biết đó tiếng của bà nội tiểu quỉ A Minh, liền khẳng khái nói :
              - Thổ địa nói không sai đâu. Nhưng chẳng phải ta không chịu xen vào chuyện người khác, chỉ vì ta xuất gia chưa lâu, đạo hạnh không có, mà việc của hồn ma ta mới gặp lần đầu, chẳng biết phải tìm biện pháp gì, để cứu hai bà cháu, giải tan oan khí.
              Hai hồn ma phải nhập vào thân thể người đi đường, mới phát ra được tiếng nói, vì thế giọng nói mới thay đổi, chợt nam, chợt nữ, chợt trẻ, chợt già. Người đó nghe Động Tân nói, vội quì xuống, dập đầu lạy, lên tiếng :
              - Chỉ xin đại tiên dẫn hồn ma chúng tôi tiến vào nhà, chúng tôi tự có cách đối phó với kẻ thù. Bất quá là gây ầm ĩ lên, ắt có các vị du thần, thuộc hạ của thành hoàng lão gia tới tra xét. Lúc đó, lại cầu xin đại tiên làm chủ, giúp chúng tôi một lời chứng minh. Thành hoàng thương chúng tôi chết oan, nhất định sẽ đặc cách thi ân, chấp nhận cho chúng tôi sớm chuyển kiếp làm người. Chúng tôi đội ơn vô cùng.
              - Nếu như vậy, các người tự về nhà cũng được, hà tất phải nhờ ta dắt đi ?
              Người kia đổi giọng bà lão, nói :
              - Cửa trước cửa sau đều có thần canh cửa trấn giữ, chúng tôi không dám tiến vào. Được đại tiên dẫn dắt một lần, lần sau chúng tôi có thể tùy ý ra vào.
              Lã Động Tân đành nhận lời, lại dặn dò :
              - Vậy, các ngươi đi theo ta. Còn người đi đường kia, hãy buông cho hắn đi đi, chẳng cần phải quấn quít lấy hắn.
              A Minh đáp :
              - Người này cũng không phải kẻ tốt lành gì đâu. Hắn đánh cha, mắng mẹ, tư thông vợ em dâu, lại đem đứa con của người em bán cho người ta, đem đi phương xa, làm chú hề . Lương tâm của hắn chết từ lâu rồi, tuy sống trên đời, hắn không còn chút dương khí nào, nên hai chúng tôi mới có thể phụ vào thân xác hắn. Nếu là người chính trực, qui củ, dương uy rất thịnh, hồn ma chúng tôi vừa tới gần, liền tan ra thành mây khói, làm sao chúng tôi dám quấn quít lấy hắn .
              Động Tân nghe vậy, buông tiếng than thở, nói :
              - Tuy nói vậy, xét cho cùng, hắn cùng hai ngươi cũng không thù, không oán, hắn làm ác, tự có báo ứng, không can dự gì tới hai ngươi. Hiện giờ đã về tới nhà mình, hai ngươi cứ đeo bên mình hắn cũng bất tiện, hãy thả cho hắn về nhà đi.
              Câu nói chưa dứt, người kia bỗng ngã lăn ra đất, lát sau tỉnh dậy. Động Tân cũng không để ý tới hắn, nhắm hướng cửa sau nhà họ Chu đi tới, nhặt một cục đá, đập lên cánh cửa một cái. Liền thấy bên trong có ánh đèn, lát sau có tiếng đàn bà, vừa chửi vừa tiến ra :
              - Nửa đêm nửa hôm, chết đâu thì chết, còn lết xác về nhà làm chi ?
              Động Tân nghe vậy, biết Chu Tiểu Quỉ còn chưa về nhà. Cánh cửa vừa mở, liền thấy hai luồng khói đen, từ dưới đất bốc lên nhiễu quanh người đàn bà ra mở cửa. Lã Động Tân chú mục nhìn kỹ, nhận ra đó là người đàn bà đanh đá, đã gặp được trên núi, vào lúc ban ngày. Người đàn bà bị hai hồn ma nhập xác, liền bất tỉnh nhân sự, buông rơi cây đèn, quên cả đóng cửa, không nói tiếng nào, quay ngoắt trở lại, chạy thằng vào nhà trong. Giây lát, trong nhà có tiếng kêu khóc ầm ĩ, tiếp theo là tiếng đập bàn đập ghế, quăng đao, ném gậy. Một lát nữa, có người từ bên trong chạy xộc ra cửa, trốn nhanh như cắt. Động Tân nhận rõ đó là gian phu, vừa tiến vào nhà lúc nẫy. Biết Ngưu thị đã bị hai hồn ma nhập xác, hiện đang hóa rồ, Động Tân thầm cho là lạ, mình ở lại đây cũng vô ích, liền trở lại đường cũ, tìm một lương đình, ngồi nghỉ qua đêm.
              Sáng sớm hôm sau, trở lại thăm dò tin tức, chẳng dè ngoài cửa đã treo nhiều đồ dùng của đạo sĩ, bên trong một giàn kèn trống, thanh la, não bạt, ống sáo... tấu lên ầm ĩ, Động Tân cười, nói :
              - Đây là tại Chu Tiểu Quỉ bị hai hồn ma phá phách, mới nhờ em trai làm thầy pháp, tính tống cổ hai hồn ma ra khỏi cửa. Hạng người man rợ cẩu thả này, tính mạng bản thân không bảo toàn nổi, còn tính chữa bệnh cho con vợ dâm đãng, hung hãn.
              Nghĩ tới đó, tự động nhướng mắt nhìn vào trong nhà, liền thấy ở cuối nhà có một cô bé đi ra. Vừa nhìn, nhận ngay ra là Tiểu Kim Tử. Tiểu Kim Tử vừa nhìn thấy Động Tân, liền chạy lên nhà trên, báo động cho một anh lùn, mặt rỗ, đại khái là Chu Tiểu Quỉ. Còn có một người cao lớn, cũng rỗ mặt, ăn mặc theo lối đạo sĩ, mà Tiểu Kim Tử gọi là thúc thúc. Hai anh em cùng tiến ra cửa, không hỏi ất giáp gì, xông vào đánh Động Tân túi bụi, lôi kéo tới chỗ pháp đàn. Lã Động Tân hỏi :
              - Các ngươi vô duyên vô cớ giữ ta, đánh ta, để làm gì ? Ta lại không quen biết các ngươi, có thù oán gì chứ ?
              Đạo sĩ kia hét lên :
              - Đạo nhân quê mùa ở đâu đến đây ? Không thăm dò tiếng tăm nhà ta, dám to gan đến đây, phóng xuất mấy con yêu quái, làm đảo loạn gia đình huynh trưởng ta hả ?
              Lã Động Tân đang muốn hỏi hắn có bằng cớ gì, ai ngờ từ nhà trong, người đàn bà đanh đá vừa nghe biết Động Tân tới, vội vã chạy ra, phục xuống đất, lạy như tế sao, hô to :
              - Thượng tiên cứu chúng tôi ! Thượng tiên cứu chúng tôi !
              Lã Động Tân hoàn toàn bất ngờ, chẳng hiểu ra sao. Đến chừng thấy hai anh em mặt rỗ ngẩn người ra, mới liệu định đó là tiếng nói của hai bà cháu A Minh. Nhưng anh đang đòi anh em đạo sĩ trưng bằng cớ, tự nhiên không tiện thừa nhận, liền hét lên :
              - Ngươi là đàn bà nào đây ? Vì sao cùng ta không quen biết, lại tới quấy nhiễu ?
              Chẳng dè hai hồn ma không hiểu nỗi khổ tâm của Động Tân, nói một câu phản lại anh :
              - Đại tiên ơi, chúng tôi là mẹ đẻ và con trai Chu Tiểu Quỉ, lúc chập tối được đại tiên dẫn tới...
              Câu nói chưa dứt, anh em Chu Tiểu Quỉ liền cười lạt, nói :
              - Thế nào ? Bọn yêu quái đã khai ra, ngươi còn chối nữa thôi ?
              Động Tân lúc đó đúng là có miệng không thể nói, chỉ đành an định tâm thần. Lại nghe người đàn bà khóc lóc, nói :
              - Không dè thằng quỉ say rượu hoàn toàn không giảng đạo lý còn mời một đám đạo sĩ về làm phép, xua đuổi chúng tôi.
              Lã Động Tân lấy làm lạ, hỏi :
              - Tên đạo sĩ này cũng có pháp thuật hay sao ?
              - Pháp thuật tuy không có, nhưng bùa chú thì có. Vừa rồi chúng niệm lâm râm kinh kệ trong một cuốn sách về thu yêu bắt quỉ, khiến chúng tôi quằn quại như bị lửa đốt, kim đâm, vừa tính chạy trốn thì gặp đại tiên trở lại. Đại tiên ơi, ngài là kim tiên trên trời, hãy giải quyết việc này đến nơi đến chốn. Rất mong ngài cảnh cáo chúng, không được làm chuyện hồ đồ. Chúng tôi chính là mẹ đẻ và con cháu của hai đứa đó mà.
              Câu nói đó mọi người đều nghe rõ, Chu Tiểu Quỉ nói với em trai:
              - Không cần phải nói gì nữa. Tên đạo nhân quê mùa này đã dẫn yêu tinh tới nhà, giả danh là A Minh và mẹ chúng ta, tìm tới gây sự. Hắn còn cả gan trở lại, lén lút thăm dò. Nếu không phải hắn nhúng tay vào chuyện này, tại sao hắn lại đặc biệt quan tâm, mới sáng sớm đã tới, nghe lén tin tức ?
              Câu nói đó khiến Động Tân khớp mỏ, không nói được lời nào.
              Chu Tiểu Quỉ nổi giận, nói :
              - Tên đạo sĩ quê mùa này tội lỗi rành rành, chúng ta hãy đem giam cầm hắn một nơi, coi hắn làm được điều gì để quấy rối ?
              Các đạo sĩ đều đồng ý, nói :
              - Phải nên làm vậy ?
              Một người còn nói :
              - Cứ trói tay trói chân hắn lại, khỏi phải cử người canh gác, hắn cũng không mọc cánh mà bay đi.
              Hai anh em Chu Tiểu Quỉ đều tán thành. Chúng xúm vào trói chặt chân tay Lã Động Tân. Động Tân thấy bọn chúng đông đảo, tự biết không chống nổi đám đông, lại thấy đứa nào đứa nấy đều ngu như heo, có giải thích cũng không ăn thua, đành lặng yên, cũng không kháng cự, để mặc chúng trói mình như đòn bánh tét.
              Chu tiểu Quỉ lại nói :
              - Đằng sau có căn nhà nát, để chứa những đồ đạc không dùng tới. Chúng ta hãy nhốt hắn trong đó, đợi má của Tiểu Kim Tử khỏi bệnh, mới thả hắn ra, thẩm vấn kỹ càng, đập cho một trận. Nếu lần sau hắn còn dám mò tới, chúng ta sẽ lấy mạng chó của hắn.
              Mọi người nghe vậy, ồn ào tán thành, lôi kéo Động Tân tới căn nhà nát, đóng chặt cửa lại, gài thêm ổ khóa. Anh em Chu Tiểu Quỉ ở bên ngoài, nói :
              - Chúng tôi không có chút bản lãnh nào, ngay cả dọa quỉ cũng không đủ tài. Anh là đại la kim tiên, đạo thuật thông thiên, hãy ở trong này nghỉ ngơi vài ngày, thử trổ tài nghệ kinh người cho chúng tôi xem thử.
              Nói rồi, hò hét một lát, bỏ đi mất tiêu. Lã Động Tân bị giam trong phòng, vừa buồn vừa giận. Căn nhà này vốn là nhà xí, được cải tạo lại, nên mùi hôi thối cứ từng đợt từng đợt xông ra, đâm thằng vào mũi, chịu đựng không nổi. Lã Động Tân nghĩ thầm : “Chiếc áo đạo này có thể chế ngự được binh đao, nước lửa, hoặc giả bịt nổi mùi xú uế cũng nên". Cũng may dây trói hai tay không chặt lắm, dùng sức cựa mạnh một cái, rút ra được cánh tay phải, vội đưa tay áo lên cao, che lấy mũi, quả nhiên không ngửi thấy mùi hôi thối gì nữa. Lại phất tay áo vài cái, Động Tân giải quyết xong vấn đề, có thể cảm thấy thoải mái.
              Tới giờ ăn trưa, Chu Tiểu Quỉ sai Tiểu Kim Tử đem cơm tới cho Động Tân. Động Tân sợ cô bé phát hiện ra, lại đưa hai tay vào dây trói như cũ, sau đó mới lên tiếng năn nỉ cô bé cởi trói hai tay, để anh có thể ăn cơm thoải mái. Tiểu Kim Tử thật tình cũng ưa anh đạo sĩ đẹp trai, mới cởi trói hai tay cho anh, nói :
              - Anh đạo sĩ này tự làm khổ mình. Chuyện gia đình tôi, bản thân tôi cũng không dám nói ra, anh là người ngoài, việc không can dự gì tới mình, anh xen vào làm chi ? Hiện tại, hồn ma bà nội và anh trai tôi đã bị đám bạn của chú tôi, dùng kinh kệ đuổi đi rồi. Má tôi đã khỏi bệnh điên, chỉ còn mệt mỏi trong người, chỗ bụng bị bà nội tôi dùng tay cào cấu, đang đau đớn, rên la, nhưng chẳng bao lâu cũng khỏi thôi. Chỉ có anh là đáng chết. Cha tôi và chú tôi đang bàn bạc, tính lấy mạng anh đó.
              Động Tân vừa ăn cơm, vừa hỏi :
              - Tại sao bà nội và anh trai cô không tìm ông họ Vương hư hỏng mà gây sự ?
              - Sao không dám ? Nhưng ông này có cơ linh nhạy bén. Lúc má vừa phát bệnh điên, cha cũng chưa về nhà, má túm lấy ông này, miệng nói láp ráp nhiều câu, không dè ông ta có bản lĩnh rất lớn, chẳng những không mê đi, còn xô mạnh một cái, mở cửa sau, trốn mất. Chẳng rõ ông ấy có pháp thuật gì hay không, mà oan quỉ không thể lại gần.
              Lã Động Tân nghe vậy, trầm ngâm một hồi, lại cầu xin cô bé cứu tính mạng mình. Tiểu Kim Tử suy nghĩ một lát, gật đầu, nói :
              - Cũng có một cách, nhưng phải đợi suốt buổi chiều nay, coi mấy ông đạo sĩ có động tác gì hay không, đến tối tôi mới mang theo con dao, cắt dây trói, thả anh ra để anh theo lối cửa sau trốn đi. Nhưng sau này, anh tính làm gì để đền ơn tôi ?
              Nói rồi, nhìn Động Tân, cười chúm chím, làm những điệu bộ lả lơi quyến rũ. Động Tân nghĩ thầm . "Tệ hại quá rồi ? Làm sao một cô bé mới tí tuổi đầu, đã biết được những cách tư tình như thế này? Ta biết đối phó ra sao đây ? Người xuất gia làm sao có thể nói ra những lời dối trá, để lừa gạt cô ? Nếu không đáp ứng, cô lại không chịu phóng thích ta đâu.
              Nghĩ một lát, đành nói câu hàm hồ :
              - Tiểu cô nương chẳng nên nói giọng như thế. Nhất định bần đạo không phải kẻ vô lương tâm. Mai sau có duyên, được gặp lại tiểu cô nương, tự nhiên bần đạo sẽ hết lòng đền ơn.
              Tiểu Kim Tử cúi đầu, trầm ngâm, hỏi :
              - Anh nói thật không đấy ?
              - Người xuất gia sao có thể nói gạt ?
              Tiểu Kim Tử mừng rỡ, nói :
              - Tôi nhất định cứu anh. Chỉ sợ ăn cơm xong, chú tôi lại bàn với cha tôi, làm khó dễ anh, lúc đó tôi hết cách cứu anh.
              Nói rồi, thu dọn chén bát, ra đi, đóng cửa lại như cũ.
              Cô bé đi rồi, Động Tân trông mong mặt trời mau lặn, Tiểu Kim Tử mau tới. Không ngờ, vừa qua giờ ngọ, chưa tới giờ mùi, bỗng nghe tiếng chân thình thịch, từ xa tới gần. Không bao lâu, thấy anh em Chu Tiểu Quỉ hiện ra, phía sau còn có một đạo sĩ cao lớn.
              Ba người vào phòng, thấy tay phải của Động Tân thoát ra khỏi dây trói, đều lấy làm lạ, hỏi :
              - Ai cởi trói cho ngươi vậy ?
              Lã Động Tân sợ liên lụy tới Tiểu Kim Tử, vội nói :
              Các ông có lòng tốt, mời tôi ăn cơm, tôi không có tay, làm sao ăn được ? Bần đạo bất đắc dĩ mới phải cựa mạnh một cái, nới lỏng mối dây trói, rút được cánh tay ra. Sau đó, không biết cách nào tự trói lại như cũ, đang đợi các vị đến, phiền các vị phí tâm sức trói lại giùm cho.
              Nói rồi, đưa tay phải ra sau lưng, chờ trói. Chu Tiểu Quỉ thấy vậy, cười nói :
              - Tên này quả thật ngang ngạnh, không biết sợ chết là gì. Hiện giờ chúng ta đến đây, là muốn mời người di chuyển tới một địa phương, rất u nhã, thích hợp cho bậc cao nhân như người hưu dưỡng, an thân. Lúc này không còn sớm sủa, hãy cất nhắc thân thể đi nào.
              Trong lúc hắn nói, hai tên đạo sĩ đã trói chặt hai tay Lã Động Tân, còn thắt chặt hai múi vững chãi, cười nói :
              - Để coi hắn còn dùng móng tay cởi ra được nữa hay không ?
              Chu Tiểu Quỉ vội nói :
              - Hai người anh em chẳng cần nói giỡn nữa. Hãy đưa hắn ra khỏi đây, để khỏi bận tâm suy nghĩ.
              Tên đạo sĩ cao lớn liền vác Động Tân lên vai, anh em Chu Tiểu Quỉ theo sau, cùng ra khỏi căn nhà nát, men theo một lối đi hẹp. Đi hết con đường đó, lại quành về bên trái. Tiểu Quỉ tiến lên phía trước, đi tới một bụi tre rậm rạp. Gạt những cành tre qua một bên để lấy lối đi tiến vào một khu vườn hoang rất rộng. Ba người áp giải Lã Động Tân, đi hết khu vườn hoang, tới một mô đất cao, Tiểu Quỉ đưa mắt nhìn quanh một vòng, nói :
              - Ma quỉ không thấy một tên nào. Mau ra tay đưa hắn tới chỗ ở mới.
              Là Động Tân phiền muộn trong lòng, nghĩ thầm "Không biết ba tên xuẩn ngốc này đưa ta tới chỗ u nhã nào đây". Suy nghĩ chưa xong, đã bị tên đạo sĩ quăng một cái, nằm ngay trên mặt đất. Mở mắt ra nhìn, bất giác thầm kêu khổ. Thì ra dưới mô đất cao, có một hang động sâu thăm thắm, không nhìn thấy đáy. Miệng hang bị đám cỏ hoang che lấp, nên nhìn không rõ. Lã Động Tân phát hoảng, nghĩ thầm : "Xem tình hình này, rõ ràng chúng muốn đem ta chôn vùi dưới hang. Rành rành là một hang tối, mà chúng lại nói là di chuyển ta tới chỗ ở mới". Còn đang suy nghĩ, đã nghe Chu Tiểu Quỉ phát hiệu lệnh:
              - Các vị huynh đệ còn không mau mau đưa hắn xuống hang, đứng ngẩn ra đó làm gì ? Lỡ gặp người đi qua, việc này khó giải quyết.
              Tên đạo sĩ nghe vậy, dùng hết sức lực, xô đẩy Động Tân tới miệng hang, hai anh em Tiểu Quỉ lại giúp một tay, phát hoang đám cỏ. Ba tên gian ác vừa hì hục làm việc, vừa nói giỡn chơi :
              - Chuyện này rất giống với một chuyện.
              - Giống với chuyện gì ?
              - Chẳng phải giống chuyện anh tiều phu lỡ chân rớt xuống hang, gặp được tiên cô, cùng nhau kết mối thiên duyên đó sao ?
              - Tỉ dụ như vậy chưa chính xác. Một khi tên này rớt xuống hang, chúng ta lấp miệng hang lại, hắn ra bằng cách nào ?
              Ba tên cất tiếng cười vang. Lã Động Tân nghĩ thầm : "Không nghĩ ra nổi anh em Chu Tiểu Quỉ này lại là những kẻ xấu, giết người không chớp mắt, trời quả báo lấy phải con vợ giết chết mẹ đẻ và con trai, vậy mà vẫn làm vợ chồng ân ái". Đang suy nghĩ, chợt cảm thấy thân mình bị xô mạnh, tung lên cao, và trong chớp nhoáng, lăn xuống miệng hang. Động Tân lúc đó không còn để ý tới sinh mạng, nên cũng không cảm thấy sợ hãi gì. Thân thể bị trói bó giò, nên lúc rơi xuống, không đụng phải một vật nào. Trong thời gian chừng uống xong một chén trà, mới rơi xuống đất. Lã Động Tân nhớ tới lời người xưa kể về động không đáy, tự hỏi đấy có phải một thứ động như thế hay không ? Điều kỳ diệu là lúc mới vào miệng hang, thấy tối đen như sơn, không chút ánh sáng, dần dần lại thấy sáng ra, trong đầu liền lóe một tia hy vọng : dù thân thể có rơi xuống đất, nhờ chiếc áo đạo bảo hộ, cũng không đến nỗi chết.
              Ai ngờ trong thiên hạ có những chuyện kỳ lạ, đến độ không ai đoán ra nổi. Lã Động Tân rơi xuống mặt đất, cảm thấy bên dưới mềm như bông, khắp mình không một vết xây xát. Mở mắt ra nhìn, thấy một vùng đất rộng rãi, phẳng phiu, cỏ mềm như tơ, hoa đưa hương thơm ngát, chim hót véo von. Khắp nơi bầy ra những đình đài, lầu gác, những hòn giả sơn, những giòng suối chảy. Hai chữ "u nhã" mà Chu Tiểu Quỉ nói tới, không thể để mô tả cảnh tượng nơi đây. Động Tân cảm thấy vui sướng, ngoài ý muốn. Nhìn lại thân mình, những sợi dây trói bứt đi từ bao giờ chẳng rõ, mà tay chân cũng không hề cảm thấy chút đau đớn nào ? Từ chỗ nguy hiểm tột cùng, chuyển sang chỗ đất lành hiện nay, Động Tân không nén được vui mừng, hét to lên :
              - Lã Nham ta nay đã được lên tiên cảnh !
              Câu nói chưa dứt, bỗng nghe bên tai có tiếng oanh vàng thỏ thẻ:
              - Tiên cảnh thì còn xa lắm. Hôm nay chỉ mới đáng kể "nhập động chi tân" (1), không uổng hai chữ "động tân" mà anh lấy làm biệt hiệu.
              Động Tân nghe vậy, liền ngạc nhiên, quay nhìn lại, thấy một cô gái đẹp, chừng mười bảy, mười tám tuổi, dẫn dắt vài cô bé, chừng trên dưới mười tuổi, đang đứng dưới một khóm hoa, bên cạnh anh. Động Tân nhận định người đẹp là nữ chủ nhân,vội khom mình vái dài, nói :
              - Đệ tử Lã Nham, vì gặp nạn, vào động phủ tiên sư, xin được cứu giúp.
              ------------------------------------------
              (1) Người khách vào động. Đây là cách chơi chữ.

              Cô gái vội đáp lễ, nói :
              - Chúng ta chỉ kể là bạn bè, danh xưng "tiên sư”, không dám nhận đâu.
              Cô gái mời Động Tân ngồi xuống cỏ, cô cũng ngồi theo. Mấy cô bé đứng hầu chung quanh, rất nghiêm chỉnh. Người đẹp mở lời :
              - Một người ưa xen vào những chuyện không phải của mình, thích giúp người khác dẹp nỗi bất bình, tất nhiên là người có nhiệt tâm, làm việc đường hoàng. Nhưng cũng phải tự hỏi mình có đủ tài năng hay không. Vả lại, việc gì cũng có hoãn gấp, có trước sau, gấp việc trước mà hoãn việc sau, mới là chính lý. Điều đó anh có hiểu hay không ?
              Lã Động Tân nghe vậy, sợ hãi trong lòng, nói :
              - Đệ tử đã hiểu. Đệ tử vì học kiếm mà rời nhà ra đi, được thần Nhị Lang đưa tới đây, đạo hạnh chưa học được tí gì, không biết đi tìm sư học đạo, trước hết đã nhúng tay vào chuyện tào lao, quả là ngu muội tột cùng, chẳng trách đã gặp phải bao chuyện rắc rối, ngoài ý nghĩ. Nay đệ tử suy nghĩ lại, tin chắc tiên sư chính là người truyền thụ kiếm pháp cho đệ tử, tức Hà đại tiên cô, có phải không ? Đệ tử mắt thịt, nhất thời không nhận ra, tội đáng chết muôn ngàn lần.
              Nói rồi, lại đứng dậy, định lấy lễ vái thầy ra mắt. Hà tiên cô vội lùi lại vài bước, xua tay lia lịa :
              - Truyền thụ đạo pháp, bất tất phải là thầy trò. Chúng ta không có duyên phận thầy trò, chỉ là tình đồng đội thôi. Anh cứ nhất định lấy lễ vái thầy đãi tôi, tôi không truyền thụ kiếm thuật cho anh đâu.
              Lã Động Tân đành nghe theo, nhân đó đem những việc mình đã làm trước đây, kể lại một lượt. Tới chuyện gặp hai hồn ma, dẫn chúng về nhà, tiên cô cười, bảo :
              - Anh không biết rõ chuyện này. Người vợ Chu Tiểu Quỉ tất nhiên là tội đáng chết, nhưng gian phu lại là người rất tốt. Nửa đời sau, ông ấy còn có phúc mệnh rất lớn, hai hồn ma kia làm sao có thể lại gần ông ấy ? Vừa tới gần, chúng liền bị linh quang trên đầu ông ấy đẩy ra xa. Vả lại còn có các quỉ tốt âm tào luôn luôn theo sát bên ông để hộ vệ, các quỉ hồn dẫu có điều oan khuất, cũng không dám gây sự với ông.
              Lã Động Tân nghe vậy, liền kinh hãi, nói :
              - Những lời tiên tỉ nói, cùng với những điều tiểu đệ đã nghe được trên núi, quả thật khó hiểu. Một người bất tiếu, bất pháp như thế, làm sao còn có những điều tốt lành ? Thật tình tiểu đệ không hiểu.

              #82
                bevanng 22.07.2008 18:36:06 (permalink)
                Hồi Thứ 90

                Bạch Xà đền ơn phóng sinh
                Thần tiên chưa thoát tình duyên.


                Nghe Động Tân hỏi, tiên cô cười, nói :
                - Hễ không biết rõ nội dung, chưa thẩm tra kỹ, rất dễ xét đoán thiên lệch. Ông họ Vương này tằng tịu với vợ người khác, tất nhiên là phải chịu tội. Nhưng xét cho cùng, chẳng qua chỉ là tội gian dâm thôi...
                Câu nói chưa dứt, Động Tân đã tiếp lời :
                - Không, không. Theo như đệ tử nghe được, ngoài tội gian dâm, còn hơn thế nữa.
                - Chuyện này, anh đã nghe cậu bé Ngưu A Mao nói, phải không?
                - Thật tình, chẳng riêng gì A Mao, người trong thôn, ai biết được vụ án gian này, đều khoái bàn ngang tán dọc, lại còn ngắt đầu, sửa cuối thêm mắm dặm muối, khiến sự thật đổi khác hoàn toàn. Nói tóm một lời, vụ án này không phát giác thì thôi, một khi phát tác, ông họ Vương ắt biến thành hung phạm, đồng lõa giết người. Tuy nhiên, những điều lắt léo bên trong vụ án, không thể che giấu nổi những người trong đám thần tiên chúng ta. Lã đạo huynh, trước hết tôi nói thực với anh một điều. Tôi dám quả quyết ông họ Vương này, chẳng những không phải là hung phạm giết người, ngay cả chuyện hai người, một già một trẻ, chết ra sao, ông ta cũng không hay biết. Cũng vì ông họ Vương là một chính nhân quân tử, nên người đàn bà họ Ngưu, tuy thông gian với ông ta, cũng không dám đem chuyện giết người, trái luân thường đạo lý như thế, nói cho ông ta nghe. Vì thế, đến bây giờ, ông ấy vẫn không tin hai người già và trẻ kia chịu oan khuất mà chết. Chỗ hư hỏng của ông ta chỉ là tội gian dâm vợ người khác. Nên biết người này, bình thời không phải người hiếu sắc, ham khoái lạc. Vợ ông ta chết đã mười năm, ông vẫn ở vậy nuôi con, không chịu tục huyền. Ngay cả những chốn gió trăng tầm thường, ông cũng không đặt chân tới. Muốn bàn chuyện này cho thỏa đáng, tôi phải nói tới những việc ở kiếp trước. Anh có biết người đàn bà nhà họ Chu kiếp trước là giống gì không ? Đó là một trong những nhân tài, môn hạ của giáo chủ Ma giáo, là một bạch xà tinh đấy. Năm đó, hai phe chính tà đại náo ở thôn Hoài Hải, chém giết một trận long trời lở đất. Việc này, những người tu đạo, những vị đã vượt ra ngoài cuộc đời, đại khái đều biết cả.
                Lã Động Tân gật đầu, nói :
                - Đúng vậy. Việc này, tôi có nghe gia sư Văn Phòng tiên sinh nhắc tới.
                Tiên cô lại nói tiếp :
                - Xà tinh này, sau khi chiến bại, không hiểu vì sao, đã rơi vào tay một ông chài, may được một người có lòng tốt, bỏ tiền ra mua và đem phóng sinh. Vì thế xà tinh không giây phút nào quên việc đáp đền ơn lớn. Trải qua hơn ngàn năm mới được giáo chủ Ma giáo chấp thuận cho chuyển kiếp làm người, đem thân đền ơn người phóng sinh. Nhưng xà tinh có hành vi bại hoại, hại người quá nhiều, nên số định rằng nó có chuyên tâm làm người đàng hoàng cũng không được như ý muốn. Vì thế, vừa xuống trần thế, nó liền lấy lầm phải Chu Tiểu Quỉ. Tiếng là đền ơn mà xuống trần, thực tế chỉ là cô vợ hờ. Nói vậy, anh đã hiểu ân nhân của bạch xà tinh là ai rồi chứ ?
                Động Tân gật liền mấy cái, nói :
                - Tôi đã hiểu. Họ Vương này chính là người đã phóng sinh bạch xà ở kiếp trước.
                Tiên cô lại nói :
                - Việc nhân duyên của người đời, bất luận là chính hay tà, đều có nguyên do từ kiếp trước. Ai cũng nói chuyện vợ chồng chính đáng được chú định từ kiếp trước. Trong sách của Nguyệt lão hiện ra tên họ hai người, rồi sợi chỉ hồng cột chân, sau đó mới phối hợp nhân duyên. Có biết đâu rằng những cặp vợ chồng phối hợp tạm bợ, cũng chẳng phải chuyện ngẫu nhiên. Trong sách hôn nhân cũng có ghi tên họ hai người. Bàn về họ Vương cùng người đàn bà nhà họ Chu thành tựu gian tình, há không có chút lai lịch nào ? Nếu biết được lai lịch của họ, thì chuyện này cũng chẳng có gì là lạ.
                Động Tân nghe vậy, chỉ biết gật đầu. Hà tiên cô lại nói :
                - Nhưng tôi biết chắc cặp nam nữ này quấn quít lấy nhau, dấy lên ở kiếp này, vì tất đã kết thúc ở đây. Vì xà tinh quyết chí đền ơn, ơn chưa đền xong, thậm chí còn làm hại tới ân nhân, thì lòng ân hận càng sâu, mưu đồ đền ơn càng gấp, càng khó tìm ra biện pháp thỏa đáng. Chúng ta may mắn là người vượt ra ngoài cuộc đời, tiêu diêu tự tại, nên không có mối lo về tính mạng. Thời gian vài ba trăm năm trên nhân gian, dưới con mắt chúng ta, chỉ là một chớp mắt, nên kết cuộc của hai người này ra sao, chẳng sợ không được nhìn thấy.
                Động Tân tỏ vẻ ngạc nhiên, vội hỏi :
                - Tiên tỉ đã nói vậy, có thể biết được tương lai của hai người này hay không ?
                Tiên cô cười, nói :
                - Anh đúng là một người nhiệt tâm. Đã xen vào chuyện người khác, còn đòi biết chuyện vài trăm năm sau. Tiếc rằng tôi đạo hạnh không sâu, không hiểu tường tận chuyện hai người này. Nhưng có thể dự đoán đại khái rằng, năm trăm năm sau, bạch xà này lại ra đời, mưu tính việc đền ơn. Họ Vương lúc đó thành một người nghèo khổ, được bạch xà săn sóc, giúp đỡ, tự nhiên là được nhiều điều tốt lành. Nhưng vì bản thân xà tinh mắc nghiệt chướng kiếp trước quá nặng, nó gây ra thảm kiếp cho ân nhân suốt mấy chục năm, kết quả cuối cùng mới được mỹ mãn. Đại khái là vì từ kiếp này sang kiếp khác, nó ôm khư khư ý niệm đền ơn, không bao giờ quên, một điểm lương tâm đó, những người bình thường trong Ma giáo không thể có được, đã cảm động lòng trời, hứa cho nó được tự sửa đổi, quay về nẻo chính. Đại lược tình hình là như vậy.
                Trên đây là những lời Hà tiên cô bàn về chuyện bạch xà đền ơn, người làm sách xin góp thêm vài lời cho rõ hơn. Lần thứ nhất là việc Ngưu thị cùng họ Vương gây nên một gian án, đã nói ở trên. Lần thứ hai xảy ra vào năm trăm năm sau, Bạch thị cùng Hứa Tiên kết làm vợ chồng chính thức, về sau bị Pháp Hải hòa thượng trấn áp ở dưới tháp Lôi Phong, bên Tây Hồ. Hai mươi năm sau, con trai của Bạch thị thi đỗ trạng nguyên, phụng chỉ tế tháp, lúc đó Bạch thị cũng ăn năn hối lỗi, quy y Phật pháp. Việc đó khá nhiều người biết(1), sách này bất tất phải kể lại.  
                ---------------------------
                (1) truyện “Thanh Xà, Bạch Xà” khá phổ biến bên Trung Quốc, gần đây lại được quay thành phim.

                Lại nói tiếp chuyện Lã Động Tân nghe Hà tiên cô nói xong, mới hỏi tiên cô coi chỗ này là chỗ nào ? Vì sao lại nằm ở đáy hang sâu trong lòng đất ? Cách mặt đất bao xa ? Muốn ra khỏi đây, phải theo đường nào ? Vì sao tiên tỉ lại ở đây ? Nghe hỏi một thôi một hồi, tiên cô cười, trả lời :
                - Chỗ này là động phủ tôi mới mở ra, có tên là động Ngọc Ốc. Gần đây có pháp chỉ của tổ sư ban xuống, bảo tôi chọn một chỗ ở nhất định, làm chốn tu chân. Những vị như Thiết Quài tiên sinh, Văn Phòng tiên sinh, cùng Lam Thái Hòa, Trương Quả... đều giữ nguyên nền nhà cũ sửa sang lại thành nơi ở mới. Riêng phần anh, tuy chưa đắc đạo, đã được tổ sư đặc biệt quan tâm. Nghe đâu ngài đã chọn cho anh một nơi động phủ, sau này thầy anh, là Văn Phòng tiên sinh, sẽ đích thân dẫn anh tới.
                Lã Động Tân nghe vậy, vội hướng lên không trung vái tạ. Hà tiên cô lại nói :
                - Đây là một hang động rộng lớn dưới lòng đất, và vì nó sâu thăm thẳm, không nhìn thấy đáy, nên chẳng ai thèm ngó tới. Ba năm trước, tôi theo Huyền Nữ sư tôn du ngoạn tới đây, đi tới dưới sơn cốc, cảm thấy chân dẫm lên mặt đất phát ra tiếng lịch bịch, dường như bên dưới trống rỗng. Huyền Nữ liền vời thổ địa tới hỏi, mới rõ nguyên do. Sư tôn cười, hỏi tôi : "Động phủ của thần tiên, nếu không ở trên đỉnh núi, cũng ở ngoài mặt biển. Nay con thử nghĩ khác đi, kiến tạo một căn nhà dưới lòng đất, có thích thú hơn không ? Tất nhiên là tôi vui mừng vái tạ, sư tôn mới vời gọi nhiều người thợ ma tới phục dịch, dùng búa thần, đồ dùng của quỉ để đập phá và xây dựng, không bao lâu biến đổi được chỗ đầm sâu muôn trượng, thành một đất lành rộng rãi, bốn mùa đều là mùa xuân, suốt năm nắng ráo, ngày đêm mát mẻ. Có thể nói, từ khi có động phủ thần tiên đến giờ, không nơi nào được như nơi này, u nhã tột cùng. Nói tới lối đi để ra khỏi động, thì có hai chỗ. Thứ nhất là chỗ miệng hang, từ đó anh đã vào đây. Lúc đầu tôi có ý định dùng một hòn đất để bít kín miệng hang, để khỏi làm hại người lỡ chân rơi xuống. Nhưng Huyền Nữ sư tôn nhìn xa biết rộng, sớm liệu định rằng sau này tôi sẽ phải ở đây, truyền thụ Thiên độn kiếm pháp cho một người, người đó phải theo cửa hang mà vào trong động, nên không thể lấp miệng hang đi được.
                Động Tân nghe nói, lại khấu đầu làm lễ, lạy tạ Huyền Nữ từ xa. Tiên cô nói tiếp :
                - Nay anh đã tới, sẽ ở lại đây lâu dài. Một hai ngày nữa, tôi sẽ thay mặt anh, ra ngoài giải quyết một số công việc anh còn bỏ dở, nhân tiện phong tỏa cửa hang, kể như bổ khuyết một khuyết điểm của trời đất. Sau này, chúng ta cần lối ra vào, đã có thác nước ở bên dưới kia. Bất luận là người nào, nếu không biết phép thủy độn, không thể vào trong động, nếu không biết phép thổ độn, cho dù vào được trong hang, cũng không tới được động phủ của tôi. Thác nước này coi như một công cụ của thiên nhiên nhằm bảo vệ chúng ta. Thác nước chảy siết, thế nước cực mạnh, chỉ đứng nhìn cũng đủ ngán ngẩm.
                Lã Động Tân nghe nói, vô cùng mừng rờ, nhân đó lại hỏi :
                - Tiên tỉ vừa nói sẽ thay tôi giải quyết công việc còn bỏ dở, có phải nói tới chuyện người vợ của Chu Tiểu Quỉ hay không ? Thiết nghĩ bà ta cùng gian phu đã có nguyên ủy thâm sâu, chúng ta hà tất phải quan tâm tới chuyện tào lao này làm chi ?
                - Nhân duyên là nhân duyên, phạm pháp vẫn là phạm pháp. Ta không giải quyết tội thông gian của họ đi nữa, chẳng lẽ tội giết con, hại mẹ chồng cũng bỏ qua, không hỏi tới ? Vả lại, người đàn bà này quá hung bạo, độc ác, việc xảy ra lần này còn di hoạ tới con gái, sau này có thể để mặc cho cô bé tự do phóng túng hay sao ? Thằng chồng Chu Tiểu Quỉ lại quá hôn ám, tàn nhẫn, vì bệnh vợ mà làm hại tới anh. Tuy anh chưa bị hắn tàn hại, nhưng hành động độc ác của hắn cũng kể như cố ý giết người. Hạng người như thế không đáng để sống trên đời. Thằng em hắn chịu chung một tội danh, nếu không đến nỗi giết liền, ít ra cũng phải chịu tội tàn phế, để anh em hắn không thể làm hại tới người khác. Việc thiện ác phải báo ứng ngay lúc còn sống, mới tránh khỏi người đời hoài nghi là không có thiên đạo. Còn họ Vương kia, việc thông gian vốn không phải bản tâm, và việc thông gian dẫn đến hại mạng người, hắn vốn không tham dự, nhưng cũng đáng trừng trị nhẹ. Lại may cho người đó làm việc thiện rất nhiều, giúp người cũng lắm, tạm thời chỉ phạt cái tội phong lưu nho nhỏ thôi. Vả lại, từ xưa tới nay, việc nhân gian đã có quan phủ giải quyết, không cần chúng ta phải làm chuyện bao đồng. Hơn nữa, vụ án này xảy ra đã lâu rồi, không ai đứng ra tố cáo, e rằng người chết chịu oan khuất cũng khó nỗi giải oan. Tiên gia chúng ta vốn tùy duyên mà hành thiện, tùy việc mà cứu người, hà tất phải hiển lộ việc báo ứng để mọi người cùng coi ?
                Lã Động Tân gật đầu khen phải.
                - Lời tiên tỉ bàn bạc, chính hợp ý tiểu đệ. Làm thần, làm tiên quí ở chỗ giúp người đời, làm những việc khuyên nhủ, trừng giới. Nếu tâm nguội, mặt lạnh, chỉ để ý tới việc thanh nhàn cho bản thân, không lý gì tới chuyện người khác, thì đó là độc thiện kỳ thân, có ích gì cho đời ?
                Tiên cô nghe vậy, mỉm cười :
                - Lòng người không giống nhau, mỗi người một kiến giải, chỉ cần giữ được nhân và trí, tùy việc mà làm.
                Động Tân không nói gì nữa, để hết tâm trí vào việc học Thiên độn kiếm pháp. Theo lời tiên cô nói, kiếm pháp này do Hỏa Long chân nhân sáng tác, nhưng phép đó chưa hoàn chỉnh, chỉ có thể tùy tâm biến hóa, tùy chí thay đổi. Về sau, Huyền Nữ bổ khuyết, đến chỗ thần hóa, nếu luyện thành thục, có thể ngự thần trong kiếm, tàng kiếm trong tâm. Động Tân bản chất thông minh, khác hẳn người phàm tục, học một biết ba, Hà tiên cô khen ngợi vô cùng.
                Động Tân ở trong động, thấm thoắt đã được hai năm, đại thể về kiếm pháp đã học được hết. Đồng thời, đem những pháp thuật Chung Li Quyền truyền thụ trước đây, luyện tập rất thuần thục.
                Một hôm, Hà tiên cô nói với anh ta :
                - Kiếm pháp anh đã học xong, chỉ cần tìm được một thanh báo kiếm nữa thôi. Cũng nên nhớ lại lời ước hẹn với sư phụ, ba năm (1) gặp lại, mau mau đi tìm ông ấy, xin ông tìm cho một thanh kiếm tốt, rồi dụng công luyện tập, để có thể vận dụng tùy theo ý mình.
                -------------------------------
                (1) Nguyên văn là : "đã được ba năm ". Theo lối tỉnh năm của người Trung Quốc và người Việt Nam, đứa bé đẻ ra đã được một tuổi, qua năm, lên hai tuổi. Cũng vậy, việc để tang ba năm thật ra chỉ có hai năm. Chỗ này cũng thế.

                Lã Động Tân hướng về phía tiên cô, vái tám vái, tạ ơn truyền thụ kiếm pháp, lại cầu xin tiên cô đưa tiễn ra khỏi động. Tiên cô cười nói:
                - Anh học kiếm pháp đã sang năm thứ ba(1), mà công dụng bằng người khác học một trăm năm. Hiện tại anh có thể ra động, vào nước nhẹ nhàng như đi trên đất bằng, cần gì tới tôi đưa tiễn ? Nhưng tôi cũng đang muốn ra ngoài biển, để thăm một người, nên có thể tiễn anh một quãng, cũng được.
                Hai người, kẻ trước người sau, cùng ra khỏi động. Đi chừng vài bước, đã nghe tiếng nước chảy róc rách bên dưới, Động Tân nghĩ thầm : “Há chẳng phải thác nước từ trên cao chảy xuống tới đây ư? Nguồn của nó ở xa lắm mà". Ngửng đầu nhìn lên, quả nhiên thấy thác nước đổ xuống tới đây. Tiên cô cười, nói :
                - Anh đứng ngẩn ra đó làm gì ? Người tiên đi đường, cũng giống như người phàm trần vậy thôi. Bước một bước, tiến lên bước nữa, tuần tự mà tiến, mới có thể ngày đi vạn dặm, đêm vòng quanh bốn biển.
                Động Tân hiểu ra đạo lý đó, bất giác cười vang. Tiên cô lại nói :
                - Anh hãy đem những bản lãnh đã lĩnh hội được, thi triển cho tôi xem thử. Những pháp thuật anh học được, nếu không đem ra thí nghiệm, đến lúc phải dùng tới, sẽ lóng ngóng tay chân, sử dụng không được tự nhiên, thậm chí có thể hoảng hốt, làm hỏng phép tắc tai họa không nhỏ đâu.
                Lã Động Tân nghe lời, bắt quyết tị thủy, xông vào thác nước, quả nhiên lướt qua ngàn, vạn dòng nước chảy, mà quần áo không thấm một giọt nước, cùng tiên cô lên tới đỉnh núi, tiên cô chỉ xuống một thôn trang ở chân núi, nói :
                - Anh có nhớ ra được đó là chỗ anh đã vì người khác dẹp nỗi bất bình, làm náo loạn cả một vùng hay không ?
                Lã Động Tân cười, nói :
                - Đúng đó. Trước đây vì sợ phân tâm lúc học đạo, nên chưa từng đề cập tới chuyện này. Rốt cuộc, tiên tỉ đã đem trừng trị con ác phụ, cùng thằng chồng và em chồng ngu xuẩn và độc ác của mụ, và tên gian phu nữa, tất cả đều bị trị tội đích đáng. Hiện nay, mấy người đó còn sống trên đời hay không ?
                - Việc này giải quyết không dễ dàng chút nào. Nhưng tôi cũng đã ra tay, trước hết dùng một thủ đoạn để trị người đàn bà, bắt mụ phải tự viết ra lời cung khai, sau đó tôi mới nói rõ cho bọn chúng biết : Người bị rơi xuống hang động chính là một vị tiên nhân chân chính. Ông ấy có lòng tốt, tới đây để thân oan cho người chết, tạm thời giữ lại tính mạng cho người sống các ngươi. Nghe rõ chuyện, hai anh em liền hối lỗi, xin tha mạng, còn nghĩ tới chuyện vào hang động để tìm kiếm anh, đem về, hứa trước mặt anh là sẽ đem người đàn bà chôn sống, hoặc là quăng mụ ta xuống hang. Tôi mới nói : “Người ta là tiên nhân, nói chi tới hang động nho nhỏ đó, cho dù các ngươi đem ông ấy chôn vùi dưới núi Lư Sơn chăng nữa, ông ấy cũng đủ bản lãnh để ra khỏi đó. Các ngươi làm sao đụng tới một cọng tóc ông được ? Các ngươi muốn đi tìm ông ấy đem về, chỉ sợ rằng các ngươi tự đem tính mạng chôn vùi trong hang động thôi. Bất tất phải làm chuyện đó. Nhưng các ngươi đang lúc thịnh thời, dám nghĩ chuyện làm hại người khách lẻ loi, tội danh đó, không trừng trị không xong". Vì thế, tôi đem hai đứa ra thi hành hình phạt chặt chân. Còn Ngưu thị, tự nhiên phải giết tức thời. Chỉ còn gian phu, tôi lại điều tra rõ ràng, biết người này có tên gọi là Vương Khắc Minh. Vì thương hắn vô tâm mà làm chuyện đó, lại nghĩ hắn thường ngày làm việc thiện, nên thả cho đi. Tôi xem tướng mạo người này không tục, dẫu làm việc bất pháp kia, ấn đường vẫn sáng, đại khái chưa đầy năm năm, đã có thể thênh thang trên đường mây.
                Lã Động Tân lại hỏi :
                - Còn người con gái của Chu Tiểu Quỉ, là Tiểu Kim Tử, há chẳng phải đã biến thành trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ hay sao ? Người con gái này có dung mạo thanh tú, không tục, chỉ tiếc cho cô đã sinh ra trong một gia đình như thế, từ nhỏ tập quen thói hạ lưu, tiêm nhiễm những thói hư tật xấu, từ lời ăn tiếng nói cho tới hành động, chỗ nào cũng đáng chán ghét cả. Bình tâm mà bàn, không thể kể cô có bản chất xấu trái lại còn coi là điều bất hạnh nữa.
                Tiên cô gật đầu, cười nói :
                - Người ta cất tiếng oa oa chào đời, không có một điểm ác tâm nào cả. Chừng lớn lên, bị ngoại vật dẫn dụ, mới dần dần biến thành hư hỏng. Nhưng người này bản chất không được tốt, rất dễ bị lôi cuốn, và rồi lại chuyên dụ dỗ người khác, tội trạng càng lớn, càng nặng.
                Động Tân buông tiếng thở dài, nói :
                - Cô bé này quả thật rất hoạt bát, sáng sủa, lanh lợi. Nay không hiểu đã ra nông nỗi thế nào ?
                Tiên cô cũng tỏ vẻ ngậm ngùi, rồi chợt chuyển nghĩ, nói :
                - Chà, tôi nghĩ ra rồi. Trước đây, lúc anh cùng cô bé gặp nhau trên núi, còn có một cậu bé tính làm Nguyệt lão se duyên cho hai người, hèn chi anh chẳng đặc biệt nhớ tới cô bé ?
                Động Tân vội nói :
                - Tiên tỉ là tiền bối, là thầy của tôi, không nên châm chích người ta như thế. Ngày mai gặp sư phụ, tôi nhất định tố cáo với sư phụ, nói tiên tỉ đã dạy tôi làm những chuyện xấu, để coi sư phụ có đồng ý với chị hay không ?
                Câu nói đó khiến cô cười lớn tiếng, nói :
                - Anh đừng nói lấp liếm. Những lời tôi nói không phải hoàn toàn là những câu chọc ghẹo anh. Lúc ở nhà Chu Tiểu Quỉ, anh đã nói với cô bé những gì ? Có đáp ứng những điều cô đòi hỏi hay không ? Anh hãy nhớ kỹ lại coi. Người tiên không nói chơi, cũng không nói nhăng, một lời đã nói ra, liền thành nhân quả. Tôi có lòng tốt khuyên nhủ anh, hãy khoan đi tới sông Tương, trước hãy đi tìm cô bé, vì cô nghĩ ra một phương pháp, sớm độ thoát cho cô. Đó cũng kể như anh tận tâm tận lực, làm tròn trách vụ của mình, đối với lời hẹn ước, chẳng có gì là không tốt !
                - Hôm nay tiên tử toàn nói những câu giỡn chơi, là nghĩa lý gì ?
                - Vừa rồi là nói giỡn, tôi cũng nói thật cho anh biết : cô bé đó chẳng bao lâu cũng qua đời, mà lúc này anh lại không làm được điều gì để giúp cô. Đó là vì thần tiên làm việc gì cũng phải quang minh chính đại, anh không thể vì cô bé mà làm chuyện mạo hiểm. Nhưng xét cho cùng, chuyện đó cũng gần như qua sông chặt cầu, là việc chúng ta không nên làm. Anh cứ đợi mà xem. Người đó ở kiếp này không có điều gì tốt đẹp đối với anh, kiếp sau lại cùng anh làm một đôi tình nhân. Hãy ghi nhớ những lời tôi nói giỡn ngày hôm nay.
                Lã Động Tân nghe nói, không biết trả lời ra sao, nhưng lúc đó, anh cũng không thể thừa nhận những lời tiên cô nói, đành nói lấp liếm :
                - Thôi thôi, đã tới kỳ ước hẹn với sư phụ tôi rồi. Ta phải khẩn trương đi tới sông Tương, không ở đây mà nói tào lao được nữa.
                - Chính thế. Chúng ta tạm biệt nhé . Tôi cũng phải ra ngoài biển, tìm một người đồ đệ của tôi. Nghe đâu cậu bé đó gần đây đã làm nên một sự nghiệp rất lớn. Tôi phải khẩn trương tới ban khen cậu ta mới được.
                Lã Động Tân vội hỏi người đồ đệ đó có phải Vương Thái hay không, tiên cô vẫy tay từ biệt, nói :
                - Đúng đấy, đúng đấy ! Đi thôi, đi thôi ! Tôi không có thời giờ nói chuyện nữa.
                Nói rồi, tung mình nhảy lên đám mây ngũ sắc, giây lát biến mất. Lã Động Tân cũng vội vã đi tới bờ sông Tương.

                #83
                  bevanng 22.07.2008 18:48:30 (permalink)
                  Hồi Thứ 91

                  Đồi núi Minh hạc, gặp sư phụ.
                  Dưới núi Thiên Bình, hỏi thăm chồn tiên.


                  Sông Tương ở phía Nam hồ Động Đình,và sông Quế Giang của miền Nam, bắt nguồn cùng một nơi, chảy theo hai nhánh khác nhau. Chỗ đầu nguồn của hai sông đó là nơi mà từ xưa đã có tên là đỉnh núi Minh Hạc phong. Ngọn núi đó cao muôn trượng, tiều phu hiếm khi tới đây hái củi, vì thế có rất nhiều loài thú chạy, chim bay, lấy chỗ đó làm nơi nương thân, tránh khỏi bẫy sập của thợ săn. Trên chỗ cao nhất của ngọn Minh Hạc phong, có một cây phong cổ thụ, cao vút tầng mây. Loài hạc trắng thông linh tính lấy ngọn cây phong này là nơi làm tổ. Người địa phương tương truyền rằng loài hạc này xây tổ đã vài trăm năm. Những khi gió mát, trăng sáng, đêm khuya vắng vẻ, người ở quanh vùng đó ba trăm dặm có thể nghe được tiếng hạc kêu, phát ra từ trên đỉnh núi. Tiếng hạc kêu rất thê lương, buồn thảm, gợi mối sầu cho người lữ khách, nghĩ chuyện về quê, hoặc cảm động lòng người chinh phu. Có người còn nói rằng hạc này là hạc tiên, tiếng kêu của nó không phải tiếng chim thường hót. Vì thế, từ xưa truyền lại, gọi tên núi này là Minh Hạc (hạc kêu).
                  Vào những năm đầu của niên hiệu Khai Nguyên, đời nhà Đường, người dân quanh vùng không được nghe tiếng hạc kêu nữa. Một số người gan dạ rủ nhau, kết thành nhóm, cùng leo lên đỉnh núi xem thử. Ở dưới những gốc cây phong nhìn lên, quả thấy những tổ chim hạc, nhưng chẳng thấy hình bóng con hạc nào. Người ta nói rằng hạc đã mãn kiếp số, bay về trời rồi. Truyền thuyết này phù hợp với chuyện Huyền Châu Tử trấn thủ Chiết Giang, để lầm lỡ công vụ, bị đầy xuống trần làm chim hạc.
                  Hôm đó, trời vừa sang thu, thời tiết mát mẻ. Sau cơn mưa rào, bầu trời trong sáng. Vừa chập tối, một vầng trăng sáng ló ra trên đỉnh núi, con hạc nọ rời tổ bay đi, du ngoạn một vòng, gặp một số chim bạn, cùng nhau tụ tập ở chỗ rừng sâu, kể lể chuyện bình sinh. Trong những con chim đó có con kiếp trước làm người không nên nết, bị phạt tội làm chim, có con kiếp trước tu đạo không thành thật, bị phạt tội, mang hai cánh, gia nhập đoàn chim bay, chịu bao nỗi thống khổ vì sương gió. Luận về phẩm chất, lai lịch, chúng đều thua xa con hạc nọ, mà tình trạng mắc nạn, chịu tai kiếp, cũng không giống chút nào. Con hạc đó không dám oán trời, trách đất, chấp nhận cuộc sống, giữ lòng trung chính, dẫu không lập được nhiều công đức, cũng chưa dám giữ ý nghĩ xấu bao giờ.
                  Chỉ vì gặp phải giao long ác độc hung hăng làm ác, mình sơ ý không kịp đề phòng, mới đến nỗi mang họa sát thân, đày vào kiếp luân hồi. Nhớ lại một ngàn năm tu đạo, kết cuộc không thoát khỏi mang thân chim chóc. Nghĩ tới đó, hạc ta bất giác nhỏ nước mắt.
                  Bình nhật nương thân giữa đám rừng cây, tuy có chỗ ở yên ổn, cũng không có lúc nào dám lơ là, mất cảnh giác, thậm chí lúc ngủ cũng đứng một chân. Tuy không phải như Việt vương Câu Tiễn nằm gai nếm mật để lập chí báo thù, hoặc như Tô Tần đâm vào đùi cho tỉnh ngủ, hạc ta cũng tập theo thói quen chịu khốn khổ, để tự cảnh tỉnh, hy vọng lâu ngày cũng được thoát nạn, trở về chức vụ cũ, không mắc lỗi lầm cũ nữa. Vả lại, tuy bản thân đang ở chỗ biếm chích, lòng nó vẫn luyến tiếc, nhớ tới cảnh tiên, tuyệt nhiên không dám phế bỏ việc học đạo một ngày nào, nên phải đứng một chân trong giấc ngủ, để dễ dàng tỉnh ngủ, khả dĩ tăng thêm học lực. Hễ là người đi học, nếu không trải qua gian khổ, khó tạo nên học nghiệp lớn lao, người hay chim cũng vậy thôi. Hạc ta nỗ lực phấn đấu như thế, cũng cảm động lòng trời, hứa hẹn có ngày tha tội phục hồi chức vụ. Về sau hễ là loài hạc, con nào cũng hâm mộ hạc kia khổ chí mà thành tiên, nên đều bắt chước cách khổ tu đó. Vì thế ngày nay, hễ hạc ngủ là co một cẳng lên.
                  Lại nói tiếp chuyện chim hạc kia, cùng nhiều con chim đồng đạo bàn luận với nhau một hồi, rồi vì đôi bên trí tuệ không đều, phẩm tính khác biệt, cảm thấy cuộc trò chuyện không còn hứng thú, ngỏ ý cáo từ. Đúng lúc đó, mặt trăng lên đến giữa trời, ánh trăng sáng sủa, trong vắt, coi rất dễ thương. Hạc ta bất giác nổi lòng lo lắng, buồn bã, nhìn vầng trăng sáng, buông tiếng thở dài.
                  Các chim kia kinh hãi, thất sắc nhìn nhau, nói :
                  - Anh hạc đã nổi chứng ngớ ngẩn mất rồi !
                  Chúng không thể ở lại, hò reo một tiếng, bay tản lạc, trở về tổ nghỉ ngơi. Còn lại một mình con hạc nọ, lúc khóc lúc cười, lúc ca lúc múa, làm ồn lên một hồi, khiến các vị tiên trên cung trăng hay được, cũng đồng tình với nó, thương cho nó vì lẻ loi mà phát cuồng.
                  Một trận cuồng phong nổi lên, kéo đám mây đen, che khuất mặt trăng. Mặt trăng ẩn mình sau đám mây, không ló ra nữa, để khỏi nhìn con hạc lẻ loi, đáng thương. Hạc ta hiểu được ý trăng, bất giác gật đầu, buông tiếng thở dài, nói :
                  - Các vị đạo huynh, chắc các vị không nỡ thấy tôi chịu tai kiếp, chẳng muốn nhìn tôi phải cô đơn, tịch mịch, nên ẩn mình trong đám mây chứ gì ? Ôi, cảm kích biết mấy !
                  Câu nói chưa dứt, đã nghe bên tai có tiếng người nói :
                  - Đời có lúc trị lúc loạn, vận số có khi hưng khi suy, con người ta cũng có lúc thăng trầm khác nhau. Ngươi không để mờ tối bản lai, thông đạt tính linh, chấp nhận điều nghịch, nương theo điều thuận, luôn luôn giữ được cách nhìn thông đạt, tại sao chỉ vì một vấp váp nho nhỏ, mà mang dạ bất bình ?
                  Giọng nói dịu dàng, như tiếng đàn bà. Hạc ta kinh hãi, nghĩ mình bị đày tới đây đã lâu năm, chưa từng giữa lúc đêm khuya thanh vắng nghe được tiếng đàn bà. Nếu đây không phải tiên tử, ắt cũng tiên yêu, chứ yêu nhân làm sao có được tri thức đó ? Hẳn là tiên nhân, không còn ngờ gì nữa. Vì thế, nó vội vàng quì gối, khấu đầu vái lạy, tự nhận lỗi mình, và xin được thấy tiên dung.
                  Lại nghe người tiên cười, nói :
                  - Chúng ta vốn là đồng đạo, chẳng dám nhận đại lễ ấy đâu. Ta là Hằng Nga trên cung trăng đây. Vừa rồi gặp được Thiết Quài tiên sinh, ông ấy nhờ ta nhắn tin cho ngươi biết, nói rằng ngươi bị biếm chích, lập chí thanh cao, khắc khổ tu từ, việc đó Ngọc đế đã nghe biết, hứa cho ngươi vào ngày trung thu năm nay được thoát tội, lúc đó tự có cao nhân tới cứu ngươi. Vậy trong khoảng thời gian giữa giờ thân và giờ dậu, ngươi hãy ở giữa đường đèo trên núi mà chờ đợi, sẽ thấy hai đạo nhân, một già một trẻ, tức là các vị sư phụ của ngươi đấy. Ngươi hãy vái mà xin thụ nghiệp. Hai người đó tự có cách độ cho ngươi nhập thế.
                  Hạc ta vội nói :
                  - Đệ tử mắc tội, đi đầy, khổ chí tu đạo, vốn rất sợ rơi vào chốn phàm trần, không thể tự cứu. Nay được tiên sư cứu cho, lại độ cho xuống trần thế, thì đừng cứu độ còn tốt hơn.
                  Hằng Nga cười, nói :
                  - Ngươi là thượng tiên có chức đã lâu năm, nói ra những lời như thế, có khác gì kẻ mới học đạo ? Ngươi mắc tội vào thân, biến thành loài chim đã lâu, nếu không xuống nhân gian một chuyến, làm sao có thể chuyển sang thân người ? Mang thân hạc cũng có thể thành tiên được đấy, nhưng sau khi thành tiên, rốt cuộc vẫn là dị loại. Vả lại dị loại tu tiên, so với làm người tu tiên, khó khăn hơn nhiều. Ngươi chỉ biết rằng một khi nhập thế, liền biến thành phàm phu tục tử, có biết đâu rằng phàm phu tục tử rốt cuộc vẫn hơn cầm thú rất nhiều, huống chi ngươi giữ được bản tính không diệt, gần đây lại có nhiều công phu tu luyện, thì tư chất tiên đó, dẫu có xuống nhân gian, cũng không đến nỗi hao mòn. Lại được tiên sư hộ trì, dẫn dắt, thì thời gian chuyển sinh làm người trần gian chỉ trong chớp mắt, liền thành chân tiên. Đó là vì Thiết Quài tiên sinh là chỗ bạn bè cũ của ngươi, đã khổ tâm nghĩ cách thành toàn cho ngươi, tại sao ngươi còn nói ra những lời trật trìa như thế?
                  Hạc ta nghe vậy, vội khấu đầu lạy tạ. Hằng Nga cũng không muốn nói thêm, xuất hiện chân thân, cưỡi mây bay lên không trung. Giây lát, mây đen kéo đi, trăng sáng lại ló ra, sáng sủa hơn trước. Hạc ta vội quì lạy. Từ đó, những lúc đêm tối, nó không cất tiếng kêu ai oán nữa, cũng không ở trên núi đi nhàn tản, mà đứng ngây người ra ngắm trăng, mong đợi ngày rằm tháng tám.
                  Hôm đó, trời vừa chập tối, nó chiếu theo lời Hằng Nga chỉ dẫn, lần xuống núi, ở chỗ đường đèo bay lượn một hồi, rồi đứng lại, ngước nhìn lên trời, cúi nhìn xuống núi, nhìn quanh bốn phía. Vừa qua giờ thân, nó nghĩ thầm : "Cuối cùng, đã tới giờ rồi !". Lúc đó, nhảy nhót hay bay lượn nó đều không dám, chỉ đứng ở chỗ đất cao, để có thể nhìn lên cao, cúi xuống thấp, kính cẩn trông đợi tiên sư đến. Nào ngờ nó đợi hoài đợi hủy, chẳng thấy bóng một người nào.
                  Hạc ta bất giác cảm thấy nóng ruột quá chừng. "Chẳng lẽ Hằng Nga đã nói sai giờ giấc . Há chẳng phải đó là khoảng thời gian giữa giờ mùi và giờ thân ? Thế này thì lỡ dở mất giờ ta đi đón tiếp mất thôi. Vì thế hai vị tiên sư trách ta không có lòng thành, nên chẳng chịu cho ra mắt chăng ?". Nghĩ tới đó, bất giác lại đâm ra nghĩ quẩn, nghi ngờ những lời Hằng Nga đã nói. Chung qui lỗi cũng tại ta khinh suất tin lời cô ấy. Tại sao hôm nay ta không đi sớm, từ giờ sau ngọ, đảo quanh một vòng xem thử ? Cơ hội ngàn năm khó gặp đã để lỡ, há chẳng đáng tiếc, đáng buồn hay sao ? Nghĩ tới đó, cơ hồ muốn từ trên vách núi nhảy xuống, chết quách cho rồi !
                  Đang lúc bàng hoàng, đau khổ như thế, lại nghe bên tai có tiếng người nói :
                  - Nam nhi làm việc, sao lại lúc khóc, lúc cười, thất thường như thế ? Sao lại học thói đàn bà, con gái, há chẳng đáng thẹn, đáng chê cười lắm ru !
                  Hạc ta nghe nói, liền thấy sự việc lại có hy vọng lắm rồi. Chẳng cần biết người đó là ai, vừa nói những gì, nó vội quì xuống, nằm gục trên phiến đá, lạy dập đầu, hô to :
                  - Tiên sư cứu con ! Tiên sư cứu con ?
                  Lại nghe bên tai có tiếng cười, nói :
                  - Ngươi đã sai trái thật tình. Ta đã nói với ngươi ra sao, tự nhiên phải có hai vị tiên sư tới chứ. Nóng vội làm chi ? Hai vị tiên sư đó, vừa là thầy vừa là học trò của nhau. Kiếp này làm lão sư, kiếp trước lại là học trò. Vị lão sư hiện giờ có tên gọi Chung Li Quyền, ngoại hiệu là Văn Phòng tiên sinh, người học trò gọi là Lã Nham, tự Động Tân, là người mới xuất gia gần đây, vừa ở trên Lư Sơn học Thiên độn kiếm pháp với Hà tiên cô. Hai thầy trò có ước hẹn từ ba năm trước, hẹn gặp nhau ở đây. Cả hai đều là sư phụ của ngươi, vì thế mới nói ngươi có hai vị tiên sư lận.
                  Hạc ta nghe nói, biết ngay người nói là Hằng Nga, vui mừng khôn xiết.
                  Hằng Nga lại đem quan hệ trước đây của hai vị tiên Chung, Lã, nói rõ một hồi. Cuối cùng, nói tới việc hai vị tiên đã quyết định giờ này sẽ tới. Nhân vì Lã tiên đã học xong kiếm pháp, chỉ còn thiếu một thanh kiếm tốt để sử dụng, sư phụ mới dẫn ông ta tới Cô Tô một chuyến. Trước đây, người đồng đạo là Trương Quả tiên sinh, trong lúc vân du miền Ngô Việt, từ xa nhìn thấy ở địa phương Cô Tô có kiếm khí xuất hiện lờ mờ, mới tới các nơi danh sơn tìm kiếm, hỏi han, phát hiện ra được kiếm khí đó phát ra từ núi Thiên Bình, ở ngoại thành Cô Tô, hiện đang bị một yêu nhân giữ chặt, không cho kiếm đó xuất hiện ngoài đời. Nhưng bản thân yêu nhân lại không thể vận dụng được. Trương tiên mới thương lượng cùng hắn ba bốn lần, hắn vẫn lắc đầu, nên Trương tiên mới tố cáo cùng Chung tiên. Chung tiên biết rằng kiếm này rốt cuộc sẽ về tay Lã tiên sử dụng. Thực ra không chỉ có một kiếm, vì khi vận dụng, nó phân hai kiếm thư hùng. Theo người ta nói, vào thời Ngô Việt, có hai vợ chồng Can Tương, Mạc Da luyện chế được hai thanh kiếm. Về sau phân tán ra trong nhân dân, cho tới cuối đời nhà Hán, có chồn yêu nhặt được thanh Can Tương, mới lần mò tìm ra nốt thanh Mạc Da. Rốt cuộc, cả hai thanh kiếm vào tay một người.
                  Một đêm, bỗng nghe trong nhà có tiếng nam, nữ nói chuyện với nhau, kế đó nghe hai thanh kiếm đụng nhau lách cách, thấy ánh kiếm lấp loáng. Đến sáng nhìn lại, hai thanh kiếm đã hợp làm một. Chồn tiên sợ quá, cho là thần vật, mới đem giấu ở dưới núi Thiên Bình, lại tự tìm ra một động phủ trên núi làm nơi cất giấu, đích thân giữ gìn. Người mà Trương tiên nói ở trên chính là yêu nhân này. Trương tiên lại biết rõ lai lịch Lã tiên, nghe ông ta đã học xong kiếm pháp, tình nguyện đưa hai thầy trò đi lấy kiếm. Vì thế, hai người đó nhất định sẽ tới đây, chỉ có điều tới chậm một chút thôi. Lã tiên định tới đây liền, giải quyết việc của ngươi cho xong, rồi mới đi lấy kiếm, để ngươi khỏi phải nghểnh cổ trông ngóng. Nào ngờ Trương tiên nhận được pháp chỉ của tổ sư, phải tới kinh thành, nhận một nhiệm vụ trọng đại, chỉ có thể đi lấy kiếm cho xong, để còn phải mau mau vào kinh làm việc. Vì thế, họ đã khiến ngươi phải mất công chờ đợi. Vừa rồi, ta đứng trên mây, thấy ngươi nóng vội, nghĩ cũng thương tình. Về sau, Thiết Quài tiên sư phái người báo tin cho ta biết, nhờ ta thông tri cho ngươi một tiếng. Đại khái trễ nhất là sáng sớm mai, hai vị tiên sư cũng tới đây.
                  Câu nói chưa dứt, bỗng nghe trên không trung có tiếng cọp gầm. Hằng Nga cười nói :
                  - Tới rồi, tới rồi ! Con cọp này chính là con cọp mà Chung tiên thu phục được, hồi còn là một cậu bé. Thiết Quài tiên sinh đã đem nuôi giùm ở núi Thiếu Thất, ngày nay đem trả lại, làm con vật để cưỡi. Hiện nay, trong các vị thần tiên, chỉ có Chung tiên là người cưỡi cọp, vậy không phải ông ấy tới, còn ai vào đây ?
                  Hằng Nga vừa nói, vừa hiển xuất thân hình, đưa tay vịn cổ hạc, đứng đợi. Quả nhiên tiếng cọp lại gần, mây đen kéo đi, mặt trăng hiện ra, soi sáng hai vị tiên nhân, cùng cưỡi trên lưng một con mãnh hổ vằn vện, coi bộ hung dữ. Hai vị tiên hướng về phía Hằng Nga hành lễ, sau đó Lã tiên đem con cọp buộc vào gốc cây.
                  Hằng Nga dẫn dắt chim hạc, bảo nó cúi đầu lạy hai vị tiên. Chung Li Quyền vỗ lên đầu hạc, cười nói :
                  - Tội nghiệp cho ngươi bị đày xuống trần đã mấy trăm năm, vẫn chưa để bản chân mờ tối, tiền trình hắn là rộng lớn, không biết đâu mà lường.
                  Chim hạc vừa buồn rầu vừa cảm động, kể tỉ mỉ hoàn cảnh đi đầy, hai vị tiên đều nói :
                  - Việc trước chúng ta đã hiểu rồi, bất tất phải thuật lại. Nay chúng ta muốn dẫn ngươi xuống nhân gian một chuyến, ngươi có bằng lòng hay không ?
                  Chim hạc khấu đầu lạy, nói :
                  - Được tiên sư tài bồi cho, đệ tử lẽ nào lại không tình nguyện ?
                  Hai vị tiên đều gật đầu, tỏ ý hài lòng. Hằng Nga lại hỏi tới chuyện thu nhận kiếm, Lã tiên liền đưa kiếm báu cho cô xem.
                  Hằng Nga tiến lại, vừa đưa tay ra để nhận lấy, chợt cảm thấy muôn đạo hàn quang phát ra, bắn lên tận những đám mây, khiến ánh trăng của Hằng Nga cũng bị lay động. Chung Li Quyền vội đưa ra một ngón tay, nhắm vào mũi kiếm, phất một cái, bấy giờ kiếm quang mới thu lại, ánh trăng ổn định trở lại. Hằng Nga cười, nói :
                  - Không xong rồi ! ông có kiếm này, có thể phá hủy cung trăng của tôi mất thôi.
                  Câu nói đó khiến hai vị tiên và con hạc cùng cười rộ. Hằng Nga lại hỏi :
                  - Kiếm này lợi hại thế nào ? Sao trước nay không nghe ai nói tới?
                  Chung Li Quyền đáp :
                  - Những binh khí bình thường, dùng lâu ắt hư hỏng. Chỉ có loại kiếm báu, do thần tiên đích thân luyện tinh hoa của năm kim loại chế ra, càng lâu ngày, càng phát ánh sáng rực rỡ. Còn thanh kiếm này, tuy không do thần tiên chế ra, nhưng kim chất của nó cũng là những tinh hoa lượm lặt được từ xưa đến nay, ở khắp nơi, lại gia thêm tinh huyết của người mới tạo thành. Ngày xưa, hai vợ chồng Can Tương, Mạc Da chế luyện kiếm, phải nhảy vào lò nấu, góp tinh huyết của người sống, sắt mới chảy ra. Sau khi chết, anh hồn của họ phụ vào hai thanh kiếm. Tới chừng chồn già lượm được, gom về một nơi, vợ chồng mới được gặp lại nhau, nhập chung làm một. Lại ở trên núi tu luyện thêm vài trăm năm, nhận được tinh khí của sông núi, mặt trời mặt trăng, nên mới phát ra ánh sáng, có thể át được ánh sáng, vào nước rẽ nước, gặp lửa dập tắt lửa. Bản thân thanh kiếm đã thành tiên, nay lại rơi vào tay người tiên, quả là giai thoại đặc sắc nhất từ xưa tới nay. Cô nghĩ coi, như vậy nó đã lợi hại hay chưa ?
                  Hằng Nga nghe nói, thè lưỡi, khen là kỳ lạ. Chung Li Quyền quay nhìn Lã Động Tân, nói :
                  - Kiếm này là bí vật trong trời đất, là báu vật kỳ lạ trong vũ trụ, người bình thường không dễ gì có cơ hội được nhìn thấy nó, và đã là báu vật kỳ lạ, thì không nên đem khoe khoang, chỉ tổ động lòng tham của người khác.
                  Lã Động Tân vội dạ dạ, xin nghe lời, thu hồi kiếm báu, cất vào trong bao. Hằng Nga lại hỏi tới chuyện Trương Quả, Chung tiên nói:
                  - Tức cười cho ông này, là người không ham vui chuyện du hí cõi hồng trần, lần này lại phải làm một chức quan nhỏ, trông coi chuyện nghệ thuật, múa hát. Đại khái là chẳng bao lâu nữa đương kim hoàng đế về chầu trời, vị hoàng đế nối ngôi tuy là một anh quân, nhưng chịu hệ lụy từ các vị tiên hoàng nhiều đời trước, e rằng bản thân sẽ gặp phải thảm kiếp, khiến nhà Đường bước vào thời trung suy, xe loan phải thiên di đi xa, chỉ không đến nỗi mất nước mà thôi (1). Trương Quả đi lần này, chính là vâng chỉ Ngọc đế tạo thành kiếp số. Vừa hay, vì đệ tử của tôi đi tìm kiếm báu, chúng tôi cùng tìm tới chồn già. Chồn già cho biết bản thân hắn không có phúc, nên không sử dụng được thanh kiếm này. Vừa nhấc lên tay, thanh kiếm liền nặng chỉu, vì thế hắn phải đem kiếm giấu ở dưới núi. Nhưng bản thân hắn đã phí biết bao tâm huyết mới được kiếm này, lại mất công gìn giữ mấy trăm năm, nên không dễ gì nhường cho người khác. Trương Quả mới nghĩ ra một cách, nói : “Hiện tại, ta đang tìm một người, ứng kiếp mà ra đời. Nếu ngươi chịu từ bỏ thanh kiếm này, ta bảo đảm rằng ngươi lập được đại công. Chỉ cần ngươi đường đường chính chính giữ bổn phàm, không làm việc gì ra ngoài khuôn phép, hoặc giả làm việc gì tà đãng chăng nữa, thì sau khi kiếp số định rồi, ngươi cũng thành chính quả". Chồn già nghe nói, vô cùng mừng rỡ, vui vẻ dâng kiếm lên. Bản thân hắn được chúng tôi viết điệp văn xuống âm phủ, để chuyển kiếp làm một người Bắc Phiên. Vì mắc nhiều việc như thế, chúng tôi tới trễ một chút, không đúng như giờ giấc đã ước hẹn.
                  ------------------------------------------
                  (1) Nói tới chuyện Đường Minh Hoàng, vì loạn An Lộc Son, phải bỏ kinh thành chạy vào đất Thục. Tới Mã Ngôi, quân sĩ qui tội cho Dương quí phi, đòi giết, nhà vua phải theo ý đám đông, đem thắt cổ quí phi.

                  Hằng Nga lại hỏi :  
                  - Tình hình kiếp số lần này ra sao, có thể nói trước được không?
                  Chung Li Quyền gật đầu, nói :
                  - Thiên cơ vốn không thể tiết lậu, nhưng chúng ta chẳng chỗ xa lạ. Nói sơ lược cũng không hại gì. Đại khái sau khi con chồn này đi đầu thai, triều đình Trung Quốc sẽ có tranh chấp nội bộ. Việc nội tranh này có liên quan tới bà hậu phi trong cung. Phụ nữ sống buông thả bên trong, người Hồ tạo phản bên ngoài, thành thế trong ứng ngoại hợp, tạo nên kiếp nạn. Đại khái tình hình là như vậy.
                  Hằng Nga lại hỏi :
                  - Vừa rồi đạo huynh nói rằng vị vua mới gặp phải tai kiếp, là hệ lụy từ các vị thiên tử nhiều đời trước, nói như vậy là nghĩa làm sao ?
                  Chung Li Quyền đáp :
                  - Thiên tử bản triều rất anh minh, chỉ tiếc rằng ngài khiếm khuyết nhiều về mặt luân thường, nên dâm phong rất thịnh, đến nay dưới âm tào còn để lại nhiều huyền án. Nhưng nguyên nhân lớn nhất vẫn là chuyện gia đình nhà họ Lý (1), là vì tiên hoàng đế dụng binh hải ngoại, chinh phạt nước của người lùn (2). số là nước đó, con cháu được phúc của tổ tiên, được làm vua, nhưng mấy trăm năm nay quyền chính trị nằm trong bọn Ma giáo. Hiện giờ, vị quốc sư nước đó là một con tê giác thành tinh, nghe tin binh sĩ trung nguyên tới, liền gom gió khắp bốn phương về một chỗ, tạo thành gió lốc rất mạnh, nhận chìm chiến thuyền nhà Đường, người chết vô số. May có con trai Vương Xương là Vương Thái, được Hà tiên cô chỉ điểm, học được nhiều pháp thuật của thượng tiên, dự bị để đi xẻ núi cứu mẹ, tuy tuổi còn nhỏ, đã có bản lãnh cực cao, mắt thấy binh sĩ Trung Quốc bị cuồng phong dìm chết, vừa giận vừa buồn, liền sử dụng phép cuốn nước biển, oanh kích núi, một mặt ngăn chặn gió lốc, một mặt kích động cho các núi lớn của nước người lùn, nhất tề phun lửa, và làm cho mặt đất rung chuyển, làm chết vô số người. Từ nay về sau, nếu người lùn dám xâm phạm thượng quốc, làm chuyện tàn bạo, bất nhân, cứ theo cách đó mà niệm chú lâm râm, thì những nơi phồn hoa nhất của nước đó cũng bị oanh kích, tan như ngói vỡ.
                  --------------------------------
                  (1) Họ của các vua nhà Đường .
                  (2) Người lùn thưởng để chỉ người Nhật, đây là người Cao Ly.


                  #84
                    bevanng 22.07.2008 19:37:32 (permalink)
                    Hồi Thứ 92

                    Trị nước lùn hung bạo, dùng phép địa chấn.
                    Tạo nên kiếp số, lão lang ẩn thân Lê Viên (1)


                    Dưới ánh trăng, trên bờ sông Tương, Hằng Nga cùng hai vị tiên Chung, Lã, vì cứu độ chim hạc, đã tụ họp một chỗ, bàn chuyện phiếm. Chung tiên đem tiền nhân hậu quả việc vua nhà Đường ứng vận kiếp số, kể sơ lược một hồi, nhắc tới Vương Thái, tuy còn ít tuổi đã vì lòng yêu nước, tạo nên kiếp nạn cho nước người lùn, giết người vô số.
                    Mọi người nói chuyện hồi lâu, chẳng dè trời bắt đầu rạng sáng. Hằng Nga thấy ánh trăng đã mờ nhạt, không thể ở lại, đành xin cáo từ, ra đi. Lúc đó, hai vị tiên Chung, Lã mới đưa chim hạc xuống âm ti, thương lượng cùng Diêm vương cho nó được đi đầu thai vào một nhà trung hậu, lương thiện, đời đời làm quan. Đứa con trai đó về sau là Hàn Tương Tử, một trong tám vị tiên. Cha cậu là Hàn Hội, chú ruột là một trong bát đại gia Trung Quốc, và là người nhiệt liệt bảo vệ Khổng giáo, tức là Hàn Văn công, tự là Xương Lê, được người đời sau xưng tôn là Hàn Xương Lê.
                    -----------------------------------
                    (1) Lê Viên: tên do Đường Minh Hoàng đặt cho khu nhả, ở đó các cung nữ học múa hát, diễn kịch.

                    Sau khi đưa chim hạc đi đầu thai, Chung Li Quyền lại dẫn Lã Động Tân tới đất Thục, tìm tới vách núi Khiển Vân, trên dãy Nga Mi, để tập luyện đan, dưỡng khí. Lúc ra đi, Động Tân hỏi thăm tình hình cha mẹ mình ở trong nhà, Chung Li Quyền cười nói :
                    - Anh chẳng cần bận tâm. Cha mẹ anh được ta điểm hóa, đã chán ghét cảnh hồng trần, đang ở nhà tu đạo. Ta còn dạy cho họ nhiều khẩu quyết nhập môn và công phu tu dưỡng. Đại khái tới lúc anh thành công, họ đã có vài phần công hạnh, anh có thể đích thân tới độ cho cha mẹ anh một phần nào, cũng chẳng khó khăn gì. Còn con trai anh, vốn là người trong trường công danh, sau này tự cậu ta đi kiếm công danh, anh cũng chẳng cần phải quan tâm.
                    Động Tân cảm kích bái tạ.
                    Là Động Tân ở vách núi Khiển Vân được năm năm, thấu hiểu chuyện nhân quả, quay về bản chân. Kể từ lúc xuất gia đến giờ, chưa quá mười năm, đã thành đại la tiên thể, ngang hàng với Thiết Quài, Chung Li Quyền, là những vị thần tiên thành công mau nhất. Chung qui cũng tại ông ta có căn cơ cực thâm hậu, lại tồn tâm cứu đời giúp người. Ông vâng chỉ Ngọc đế hạ phàm, không thể đem so sánh với những người bị biếm chích, đày xuống hồng trần. Sau khi thành đạo, ông lại được Lão tổ ban cho cuốn "Huyền giáo bí khu”, phàm các pháp thuật của thần tiên ba cõi, đều có ghi hết trong sách này, gồm đủ vạn tượng bao la, đoạt cả công lao của tạo hóa, có thể kể là bộ kỳ thư hoàn bị nhất trong Đạo giáo. Các vị thần tiên thông thường không có duyên được để mắt tới, ngay cả tám vị tiên, ngoài Thiết Quài, Chung Li Quyền ra, vị tất đã có người được nhìn trộm. Về sau, Động Tân lại được kiêm lãnh chức vụ cũ, là Đông Hoa đế quân, thì cuốn sách trên được cất giấu trong điện Đông Hoa. Động Tân đọc hết sách này, thần thông quảng đại, thánh tích rất nhiều. Người đời nhân đó đều xưng là Lã tổ, hoặc Thuần Dương Tử, chứ không gọi tên họ ra. Động Tân là danh hiệu ông tự xưng, còn xưng là Hồi đạo nhân nữa. Chữ "Hồi" gồm hai chứ “Khẩu',cùng với chữ "Lã" (1) là tương đồng. ông còn xưng là "Sơn Thạch tiên sinh", Sơn Thạch chính là chiết tự của chữ Nham (2), tên tục của ông. Vì ông ôm ấp hoằng nguyện phổ độ tất cả chúng sinh, nên trong lúc các vị tiên đều lên trời, hiếm khi đặt chân trở lại trần thế, thì riêng Lã tổ thường hóa thành hình người, mỗi khi tới địa phương nào, lại tùy ý cải danh, để âm thầm theo dõi người đời. Đó là chuyện sau.
                    -------------------------------------
                    (1) Hồi, Lã đều có 2 chữ Khẩu.
                    (2) Nham, chiết tự thành sơn, Thạch.

                    Nay lại nói tới lúc Lã tổ thành đạo xong, ông theo sư phụ đi rong chơi khắp nơi, trong vài năm trời, lập được nhiều công đức. Ông lại được sư phụ hội cùng Thiết Quài, Thái Hòa, Hà tiên cô, kéo nhau lên tham bái Ngọc đế, được Ngọc đế ban yến ở điện Linh Tiêu, đặc biệt ban lời hiểu dụ, khuyên ông cố gắng làm tròn chức vụ. Ra khỏi điện, Chung Li Quyền dẫn Động Tân đến tham bái tổ sư, yết kiến vương mẫu, Huyền Nữ, và đi thăm thần tiên ở các động. Sau đó, Chung tiên lại bầy tiệc trong động phủ của mình, mời các vị tiên đều tới tham dự. Trong tiệc, bàn tới việc Trương Quả hiện ở kinh sư. Vua Đường muốn gặp mặt Trương Quả, nhưng ông ta nhất quyết không chịu triều kiến. Vì vua Đường tin yêu một ban yêu đạo, khiến yêu khí đầy dẫy trong cung, nên Trương Quả không chịu đánh bạn với bọn chúng, nhưng ông ta cũng không muốn đối đầu với chúng làm chi. Nhân chuyến này, Chung Li Quyền cười, nói với Lã tổ :
                    - Trương lão tính tình quá cố chấp, tránh né. Đã thụ mệnh chủ trì kiếp số, cũng nên tùy tục một chút mới phải. Phen này anh xuống núi, chúng ta hãy tới thăm ông ấy, nếu giúp đỡ ông được một hai phần, cũng là công đức của anh.
                    Lã tổ vui vẻ nhận lời, nói :
                    - Đệ tử tình nguyện tới đó.
                    Tiệc tan, các vị tiên đều nhận quà biếu đem về, Lã tổ cũng nhận một phần, vái tạ, và ngay hôm đó theo Chung Li Quyền tới Trường An. Lúc đó, Trương Quả đang hóa thành một vị linh quan, trông coi việc âm nhạc, múa hát, ẩn thân ở trong vườn lê, Chung Li Quyền tới thăm ông ta, giới thiệu Lã tổ, để hai người quen biết nhau, lại nói rõ ý tới đây giúp đỡ. Trương Quả rất hân hoan, nói :
                    - Tôi tuy sống chen lộn chỗ này, nhưng rất ghét bọn chúng kiêu căng, nói rác tai. Hiện có một chuyện, kể ra cũng thú vị lắm. Đó là có tên yêu đạo Diệp Pháp Thiện ton hót trước mặt thiên tử, nói rằng trong Lê Viên có một ông lão, chẳng có tên tuổi gì, tự xưng là si lão (ông già ngờ nghệch). Người đó chính là Trương Quả hóa thân, có nhiều đạo thuật. Thiên tử đã mấy lần sai nội quan tuyên triệu tôi, tôi đều thác bệnh, không đi, lại nhờ chưởng ban của chúng tôi ba bốn lần bẩm tấu rằng đó là một người vừa già vừa ngờ nghệch, ngoài việc dạy hát ra, chẳng có chút bản lãnh nào, hoàng thượng đừng nên tin lời pháp sư nói nhảm. Nào ngờ Diệp yêu nghe vậy, tức giận, đỏ mặt tía tai,vội vã tâu rằng : "Nếu đã vậy, bệ hạ hãy cho gọi hắn vào cung, nhìn tận mắt, bắt toàn ban linh quan tử đệ tới ca hát, coi người đó có phải người tiên hay không. Lúc đó chúng thần tự có biện pháp khiến hắn không thể che giấu nữa". Thiên tử nghe lời xằng bậy đó, lập tức cho đòi toàn ban chúng tôi vào cung. Tôi nhất quyết không chịu hiển xuất chân diện mục, đã tới đó dưới dạng một lão già. Tôi lại không quen thể chế quan gia, làm bộ ngớ ngớ ngẩn ngẩn, lại bảo đám nhân viên hóa trang cho tôi thành một người nhà quê. Lúc đó, thiên tử rất chú ý đến tôi, đợi chúng ca múa xong, liền sai trung quan vời tôi tới kiến giá. Tôi lại biến thành một thằng bé để sai vặt, thiên tử liền nói : "Không phải người này. Vừa rồi trẫm thấy rõ ràng là một ông già, tại sao bay giờ lại lôi tới một đứa nhỏ ?". Chưởng ban cuống lên, không hiểu ra sao, chỉ dập đầu lạy, nói : "Tiểu nhân đáng chết ! Thật tình vừa rồi lôi tới thì là một ông già, không hiểu vì sao trong chớp mắt đã biến đổi hình dạng thế này. Người này, bản thân tiểu nhân cũng chưa nhìn thấy bao giờ, cũng không hiểu từ đâu tới”. Thiên tử rất nghi ngờ, đích thân hỏi tôi “Ngươi là ai?", tôi bẩm tấu là giáo sư trong Lê Viên, thiên tử nghe vậy, liền tươi cười trở lại, hỏi các giáo sư trong ban chúng tôi có bao nhiêu người, tôi bẩm tấu rằng : "Chi có một mình tiểu nhân, cùng hai vị phó ban, vì không nghe tuyên triệu, nên chưa từng tiến cung". Thiên tử lấy làm lạ, bảo tôi trở xuống, ráng lo dạy dỗ chúng về ca từ. Tôi vừa bước xuống, liền biến thành người già trở lại, liền nghe mọi người trong cung cười ầm lên, kêu là kỳ lạ. Diệp Pháp Thiện nghe được, liền tâu . "Bệ hạ thấy đó, người này nếu không thần thông quảng đại, sao có thể biến đối nhanh chóng ngay trước mặt bệ hạ. Nếu không phải thần tiên chân chính, sao dám to gan như thế”. Thiên tử nghe vậy, gật đầu liền mấy cái, lại cho triệu tôi lên, tươi cười hiểu dụ : "Có người nói khanh chính là người tiên Trương Quả hạ phàm, du hí chốn hồng trần, có đúng hay không ? Trẫm rất tin Đạo giáo, hâm mộ thần tiên, nếu quả là Trương tiên, ngại gì mà không cho trẫm thấy chân dung . Trẫm hoan hỉ nghênh tiếp, mời khanh ở luôn trong cung, để sớm chiều nghe chỉ bảo, ý khanh thế nào ?”
                    Nghe đến đây, Lã tổ liền cười, hỏi :
                    - Xin hỏi sư thúc đối phó ra sao ?
                    - Đời nào ta chịu thừa nhận, tất nhiên là kiếm lời hàm hồ nói ' “Sinh bình, ngay cả bạn bè họ Trương hạ thần cũng không có, và cũng không biết chữ "Trương" viết như thế nào, làm sao thần có thể là Trương tiên được ?". Thiên tử không biết làm sao, đành cho chúng tôi rút lui. Xem chừng nhà vua lấy làm lạ. Thấy ta lúc già lúc trẻ, nên lúc bàn với người khác về chuyện này, ngài mới đùa bỡn gọi ta là "lão lang".
                    Hai vị tiên nghe vậy, liền cười nói :
                    - Cách xưng hô hay lắm, danh hiệu hay lắm. Quả là một giai thoại trong Lê Viên.
                    Chung tiên lại gật đầu, nói :
                    - Chúng tôi sớm biết ông được hưởng phúc lớn, sau này sẽ được những người sinh sống về nghệ thuật ca múa hương khói phụng thờ, nhưng e rằng hai chữ "lão lang" sẽ còn truyền tụng về lâu về dài.
                    Lã tiên cũng cười, nói :
                    - Lê Viên là đầu mối của hí ban, lão lang lại làm ông tổ dạy nghề cho hí ban, thì sau này nghề múa hát, ca kịch có căn cơ vững chắc, sẽ tiến rất xa, không thể thiếu việc phụng thờ lão lang làm thần, đúng như lời thầy tôi suy đoán.
                    Câu nói đó khiến Trương Quả cười ngất. Chung Li Quyền liền nghiêm sắc mặt, nói :
                    -Vừa rồi là nói giỡn, sự thật vẫn là sự thật. Đạo huynh đã nhận trách nhiệm rất lớn, đã vào khu cấm địa trong hoàng thành, sao còn cố chấp, nhất định không chịu gặp thiên tử ? Người xuất gia chúng ta tùy tục kết duyên, không nhất định một điều gì, chỉ cầu có ích cho dân, là ra sức mà làm việc. Thiên tử ngày nay tuy ứng số gặp tai kiếp, nhưng là người thành tâm hiếu đạo, siêng năng việc chính trị, thương yêu dân chúng, tích chứa điều phúc, thì dù cho kiếp số đã định, tại sao không thể vãn hồi, hoặc giả giảm bớt tai biến ? Như vậy cũng có phần bổ ích cho dân, cho nước. Việc hiện thành những công đức như thế, mà không nghĩ đến, chẳng uổng danh kim tiên trên trời lắm sao ?
                    Trương Quả nghe vậy, hoạt nhiên tỉnh ngộ, nói :
                    - Tiểu đệ ngu muội, kiến thức không rộng, lại thêm bẩm tính cố chấp, không thích hàng ngày gần gũi thiên nhan, nên mới có điều lầm lỡ như thế. Nay được chỉ dẫn, khác nào mở mang chỗ tối tăm. Nghe đâu thiên tiên tử hiện đang ra lệnh cho Diệp Pháp Thiện, bảo hắn tìm cách gì khuyên nhủ tôi tiến cung. Ngài hứa tôn tôi làm quốc sư, sớm chiều thụ giáo. Vậy nên sớm muộn gì Pháp Thiện cũng tới tìm tôi. Tôi lỡ làm chuyện hí lộng rồi, nay lại thừa nhận mình là Trương Quả, biết ăn nói làm sao ?
                    Lã tiên cười, nói :
                    - Việc ấy rất dễ. Hoàng đế đã muốn gặp sư thúc, thế tất lại cho người tới Lê Viên vời gọi. Lúc đó, tôi sẽ thay mặt sư thúc, ảo hóa thành si lão, sư thúc chỉ việc ngồi yên một chỗ nào đó. Đợi khi hoàng thượng hỏi tới, tiểu điệt tự có cách nói năng, đưa sư thúc xuất hiện đường đường chính chính. Thứ nhất là đánh tan những lời cuồng ngôn sư thúc đã nói về si lão, tránh khỏi tội khi quân. Thứ hai là làm rõ việc Diệp Pháp Thiện trần tấu không thật, từ đó hoàng đế xa lánh hắn, để hắn khỏi gây rối trong nhân gian. Đó là kế "một công đôi việc", sư thúc thấy thế nào ?
                    Hai vị tiên Chung, Trương đều nói :
                    - Kế đó rất hay !
                    Ba vị tiên đang tụ họp bàn tán bỗng thấy trưởng ban trong Lê Viên tiến vào. Hai vị tiên Chung, Lã vội tránh qua chỗ khác. Trưởng ban thấy mặt Trương Quả, liền chau mày, lộ vẻ sầu khổ, giậm chân xuống đất, nói to tiếng:
                    - Lão sư phụ ơi, chuyện nát bấy lên rồi ! Chẳng hiểu vị Diệp pháp sư chơi trò gì với chúng ta nữa đây. Ông ấy cứ nhất quyết nói sư phụ là Trương địa tiên. Nay hoàng thượng lại tuyên triệu chúng ta vào cung diễn kịch, ca múa. Tiếng rằng ca kịch, mục đích chỉ nhắm vào một mình sư phụ. Ông ta muốn chứng minh cho mọi người thấy sư phụ có phải Trương tiên hay không. Chính miệng Diệp pháp sư nói ra như vậy, còn hăm he tôi rằng nếu sư phụ không chịu thừa nhận, liền bắt trưởng ban tôi, tống vào thiên lao, sau đó mới nói chuyện với sư phụ. Theo tôi nghĩ, sư phụ dẫu không phải Trương tiên chăng nữa, cũng có bản lãnh biến hóa nào đó. Nếu không, tại sao hôm đó có thể biến hóa, lúc già, lúc trẻ, khiến mọi người cười ầm lên ? Sư phụ đã có bản lãnh như thế, hãy đợi khi hoàng thượng vời vào bệ kiến, cứ hàm hồ nhận đại một lời, cũng có chỗ tốt đẹp, lại tránh được hậu hoạn. Trước hết là cứu được sinh mạng cho trưởng ban tôi, chẳng tốt hay sao ?
                    Trương Quả nghe vậy, liền nói :
                    - Chà, tên Diệp Pháp Thiện này quả là độc ác. Hoàng thượng yêu cầu hắn đi tìm ta, hắn không dám giáp mặt ta thì thôi, tại sao lại đi hăm dọa người khác ? Hắn đã vô lý như thế, ta phải bầy một trò ghẹo hắn, cho hắn biết thủ đoạn của si lão ta là thế nào. Trưởng ban đại gia, xin ông đừng buồn, hôm nay đi gặp hoàng thượng, giải quyết trái phải, việc đó ta tự đảm nhiệm, quyết không để liên lụy tới ông đâu. ông hãy yên tâm.
                    Trưởng ban nửa tin nửa ngờ, đi lo chuẩn bị các nhạc cụ, tập hợp toàn ban nghệ sĩ, cùng Trương Quả đích thân dẫn dắt họ vào cung. Lúc này, chỉ trong chớp mắt, vai trò của lão lang đã thay đổi, do Lã tổ đảm nhiệm.
                    Hí ban vào tới trong cung, hoàng đế không ra lệnh trình diễn, mà cho đòi trưởng ban cùng lão lang tiến lên, ra mắt. Trước tiên, ngài lấy lời dịu dàng hiểu dụ, mỗi lời mỗi gọi Trương Quả là tiên nhân, chỉ yêu cầu người tiên hiển xuất bản lai diện mục, vui lòng nhận chức quốc sư cho trẫm. Sau thấy lão lang một mực chối từ, long nhan sa sầm, lập tức ra lệnh bắt trưởng ban, đem giam vào ngục. Trưởng ban sợ hãi thất sắc, vội quì dưới điện, dập đầu lạy đến chảy máu đầu. Lã tổ bất giác cười thầm, cất tiếng hô to :
                    - Xin hỏi bệ hạ, dựa vào đâu mà cho rằng tiểu nhân chính là Trương tiên ?
                    Hoàng đế phán rằng chính Diệp pháp sư đã nói ra, Lã tổ mới nói :
                    - Hạ thần xin được gặp mặt pháp sư, hỏi cho ra lẽ.
                    Hoàng đế nghe vậy, thấy bí quá. Là vì lúc Diệp pháp sư nói, ông ta đã ba bốn lần cầu xin hoàng thượng đừng nhắc tới tên ông, nay bỗng đòi ra làm chứng, há chẳng thất tín với ông hay sao ?
                    Hoàng đế ngần ngừ một lát, mới nói :
                    - Khanh bất tất phải cầu kiến pháp sư. Ông ấy thường không muốn gặp người khác đâu.
                    Lã tổ khấu đầu, nói:
                    - Tiểu nhân cũng không đòi hỏi gặp pháp sư làm chi, chẳng qua là hôm đó lui chầu trở về, tiểu nhân cứ nghĩ tới nghĩ lui, không hiểu vì sao bệ hạ cứ cho thần là Trương tiên ? Tiểu nhân mới xin gặp sư phụ mình, là Chung tiên nhân, tiên nhân nói : “Muốn gặp Trương tiên không khó. Nhưng phải nhờ Diệp pháp sư đích thân đi Chung Nam sơn một chuyến mới được. Ngoài ông ấy ra, không ai làm nổi đâu”. Cứ đó mà xét, tiểu nhân không phải Trương tiên, và có thể là Trương tiên đang ở trên núi Chung Nam, lại phải cần Diệp pháp sư vất vả một phen mới được.
                    - Lúc đầu sao không chịu nói, để bây giờ trẫm đòi bắt trưởng ban mới chịu khai ra ?
                    - Lúc trước, tiểu nhân rất sợ pháp sư khiển trách, nên chẳng dám nhiều chuyện. Nay thấy bệ hạ nổi cơn lôi đình, nếu không nói thật, thì trước là trái ý thánh thượng, sau là để tội tới trưởng ban, chung qui đều là lỗi của thần, sao còn dám giữ kín trong lòng, để chuốc lấy tai họa khó lường ?
                    Hoàng đế gật đầu, cho lui. Ngay sau đó lại cho gọi Diệp pháp sư lên. Bọn Lã tổ còn ở dưới thềm, từ xa xa nhìn thấy hoàng đế nói chuyện với ông kia, dường như cho biết lão lang không phải chân tiên, mà chân tiên đang ở Chung Nam sơn, yêu cầu pháp sư phải đi một chuyến. Kế đó, thấy Pháp Thiện phủ phục dưới thềm, không rõ là nói những gì, chỉ thấy hoàng đế lộ sắc mặt không vui, bực tức thoái trào.
                    Lã tổ về đến Lê Viên, cất tiếng cười ha hả, nói với Trương Quả :
                    - Thưa sư thúc, tiểu diệt chỉ nói một câu là mọi chuyện êm hết! Nhân đó, đem những lời đối đáp với hoàng đế kể lại cho hai vị tiên Chung, Trương cùng nghe.
                    Hai vị tiên nghe xong, đều cười, nói:
                    - Cách đó rất hay ! Sáng sớm mai, nhất định Diệp Pháp Thiện sẽ tới cầu kiến lão lang, anh cứ... vậy, vậy mà đối phó, bắt hắn phải mỏi cẳng một chuyến. Sau đó, lại dùng biện pháp... như thế, như thế. Có thể tự động xin gặp vua, chẳng cần hắn tiến dẫn, để hắn không biết đường đâu mà đối phó.
                    Lã tổ mỉm cười, nhận là phải.
                    Sáng sớm hôm sau, quả nhiên Diệp Pháp Thiện tới, xin gặp lão lang. Lã tổ lại biến ra lão lang giả, ra tiếp kiến, hỏi hắn vì sao tới đây ? Pháp Thiện bẽn lẽn, nói :
                    - Chẳng dám giấu gì tôn giá, bần đạo nhất thời lầm lỡ, trước mặt thánh thượng có nói tôn giá chính là Trương Quả đại tiên. Nào ngờ thánh thượng có lòng cầu hiền tha thiết, có chí mộ đạo thâm sâu, muốn tìm Trương đại tiên cho bằng được. Chẳng dè tôn giá ra mắt thánh thượng, không chịu thừa nhận một tiếng, còn đề cử tôi đi Chung Nam sơn một chuyến. Chuyện đó không cần đề cập tới nữa, chỉ xin hỏi tôn giá có biết đích xác Trương đại tiên ở đâu hay không ? Nếu quả thật có Trương tiên ở Chung Nam sơn, tôi có phải vất vả đi một chuyến, cũng kể như vì nước cầu hiền, ai lại dám không đáp ứng ? Giả sử tới bên đó, không có Trương tiên, làm sao tôi có thể trở về phục chỉ . Vì thế, bần đạo đặc biệt tới đây, cầu xin tôn giá, ớ trước mặt thiên tử, nói rõ một câu đúng sự thật, chẳng những bần đạo thật lòng cảm ơn tôn giá, mà hoàng thượng cũng cảm kích vô cùng.
                    Lã tiên thấy giọng lưỡi hắn vô cùng điêu ngoa, mới nghĩ thầm : “Tên khốn này, không cho nếm mùi lợi hại, hắn cứ tưởng chúng ta là một lũ ngốc", nhân đó mới mỉm cười, nói :
                    - Pháp sư dạy quá lời rồi. Hạng người như tiểu nhân sao dám nói trước mặt thiên tử chứ ? Phiền đại giá pháp sư đến đây, cũng là muôn ngàn lần sợ hãi rồi. Còn chuyện Chung Nam sơn có Trương tiên hay không, chẳng qua chỉ là tiểu nhân được nghe tệ sư phụ nói phiếm một câu thôi. Hiện nay, tệ sư phụ đã lên núi Thiên Thai, không định rõ ngày về. Uổng công pháp sư tới đây, tiểu nhân chẳng biết nói sao, lòng thật áy náy, xin pháp sư lượng thứ.
                    Diệp Pháp Thiện nghe vậy, lòng nóng như lửa đốt, nghĩ thầm : “Rõ ràng người là Trương Quả, sao còn bắt ta đi tìm Trương Quả thứ hai ?". Nhưng không thể nói ra được, đành nén giận, hạ thấp giọng, hỏi :
                    - Nếu quả thật ở Chung Nam sơn có Trương tiên, bần đạo đi lần này, chẳng biết người tiên có chịu cho gặp mặt hay không ? Muôn ngàn lần mong tôn giá nói thật cho biết, đừng thoái thác nữa.
                    Lã tiên thấy Pháp Thiện lộ vẻ nóng ruột, cảm thấy bất nhẫn trong lòng, mới mỉm cười, nói :
                    - Tiểu nhân cùng Trương tiên chẳng có mối quan hệ gì, làm sao biết được ông ấy có chịu tiếp kiến hay không ? Những điều tiểu nhân nói đều là sự thật, sao dám có ý thoái thác ? Pháp sư đã hỏi tới tiểu nhân biết được điều gì, cứ thành thật bẩm báo. Tiểu nhân đã từng hỏi tệ sư phụ: nếu hoàng thượng phái người đi mời Trương đại tiên, chẳng biết đại tiên có chịu tiếp kiến hay không ? Tệ sư phụ cười, nói : "Thần tiên lấy trung hiếu làm gốc, lấy việc cứu đời làm hoài bão, nếu hoàng thượng ngự giá, đương nhiên là Trương tiên tiếp đón. Nếu phái người khác đi, trước hết phải xem người đó có thành tâm hay không ? Nếu có chút lòng khinh mạn, có chút ý gian xảo, dù cho có được gặp mặt, người tiên cũng chẳng thổ lộ chân tình, không chịu đi theo đâu”.
                    Pháp Thiện nghe vậy, bất giác đổ mồ hôi lạnh. Nhưng được lão lang nói rõ cho biết, đã thầm mừng lắm rồi, vội hướng về phía Lã tiên vái tạ, cáo từ về phủ.
                    Hôm sau, Pháp Thiện mang theo thư mời của thiên tử, tiến về Chung Nam sơn. Cuộc hành trình kéo dài, không chỉ một ngày, lại đi qua nhiều nơi hoang vu, hoặc trèo đèo, lội suối, vô cùng vất vả.

                    #85
                      bevanng 22.07.2008 21:35:31 (permalink)
                      Hồi Thứ 93

                      Diệp Pháp Thiện đi tìm Trương Quả lão.
                      Lã Thuần Dương thử thách Bạch Mẫu Đơn.


                      Diệp pháp Thiện chịu nhiều đau khổ, lúc đói lúc khát, qua một chặng đường dài, trải qua biết bao nguy hiểm, mà không dám nói một câu oán than, cuối cùng mới lên được núi Chung Nam. Lúc bấy giờ, Chung Li Quyền cũng giã biệt hai vị tiên Lã, Trương, nói rằng cần phải ra ngoài biển thăm bạn bè , bảo hai vị tiên ở lại kinh sư. Ông cũng thuận tiện thay mặt Trương Quả, ở dưới núi Chung Nam, biến thành một đạo đồng, đợi Pháp Thiện tới.
                      Khi Pháp Thiện xuất hiện, Chung Li Quyền chỉ lo hái thuốc, không để ý gì tới hắn. Pháp Thiện thấy đạo đồng, mừng như lượm được của báu, vội tiến lại thi lễ, nói :
                      - Xin chào tiểu huynh đệ.
                      Chung Li Quyền quay đầu nhìn lại, vẫn tiếp tục làm công việc của mình, miệng lẩm bẩm một mình :
                      - Thằng cha quê mùa ở đâu tới, cùng lắm mới sống được bốn, năm chục năm, dám kêu ta là tiểu huynh đệ ? So với hàng cháu chắt của ta, ngươi còn thua tới ngàn, vạn tuổi.
                      Pháp Thiện nghe vậy, kinh hãi nói :
                      - Thì ra là một vị đạo trưởng. Bần đạo có một câu thỉnh giáo, xin đừng tiếc lời chỉ dẫn.
                      Chung Li Quyền vất dụng cụ đang cầm trong tay đi, hỏi :
                      - Ngươi hỏi điều gì ? Có phải là người từ trong kinh phái đến đây để tìm Trương tiên đấy chăng ?
                      Pháp Thiện càng thêm kinh hãi, vội vái một vái, nói :
                      - Chính thị ! Đệ tử là Diệp Pháp Thiện, phụng chiếu chỉ của đương kim hoàng đế, đặc biệt tới đây để mời Trương đại tiên, mong đạo trưởng thông báo cho một lời.
                      Chung Li Quyền không trả lời, lại nói lẩm bẩm :
                      - Nếu ngươi sớm biết cung kính như thế, đã không đến nỗi chịu nhiều gian khổ. Mình cũng ra ngõ gặp gái hay sao mà bị xúi quẩy, lầm lỡ biết bao thời giờ.
                      Pháp Thiện nghe vậy, biết rằng đạo đồng châm biếm mình, không dám trả lời, cung kính đứng một bên, đợi cho đạo đồng lên tiếng trở lại. Chung Li Quyền lại cười một chập, nói :
                      - Thằng cha ngu ngốc này, trở về đi thôi. Người ta đã sớm làm quốc sư của hoàng thượng rồi, người còn đứng ngớ mặt ở đây làm gì?
                      Pháp Thiện bất giác ngẩn người ra một lúc, nói :
                      - Thì ra Trương đại tiên đã biết tin tức, tự mình tiến kinh từ trước rồi.
                      Chung Li Quyền thở "Phì" một tiếng, nói :
                      - Cái gì gọi là tiến kinh ? Thế nào gọi là tới trước với tới sau ? Người ta như mặt trời, mặt trăng, chỗ nào cũng chiếu tới nơi, là đồng thể với trời đất, có cảm tất ứng. Nói ông ấy ở kinh, há phải ông ấy chưa từng ở núi này ? Nói ông ấy đi trước, rất có thể ông ấy động thân sau ngươi. Vũ trụ này quá chật hẹp, có việc gì là không thể thực hiện ? Người chạy mướt mồ hôi, tự cho là đã đi một quãng đường ngàn dặm, nhưng dưới con mắt của thần tiên, bất kể cách xa bao nhiêu, chỉ cần bước một hai bước là tới, đâu có đáng kể là chuyện lớn lao ? Đi đi, đi đi, thật tình ta không có thời giờ nói chuyện tào lao với ngươi.
                      Nói rồi, cúi nhặt dụng cụ lên, tiếp tục công việc hái thuốc.
                      Pháp Thiện ngơ ngẩn một hồi, trong lòng phát sinh ảo tưởng, nghi ngờ đồng tử ở trước mắt có thể là Trương tiên chăng ? Nếu ta làm điều gì lầm lỡ, chỉ tổ cho người ta chê cười. Vạn nhất ông ấy hăm dọa, ép buộc ta động thân, mà ta không chịu đi, rất có thể bị ông ấy hại chết như chơi. Vừa nghĩ tới đó, bỗng thấy đạo đồng lại vất dụng cụ xuống, cất tiếng cười ha hả, nói:
                      - Nói thực cho ngươi biết, vừa rồi người đã nghĩ sằng, đi vào ma đạo mất rồi. Thiên hạ làm gì có thần tiên hăm dọa người ? Người đã có thành ý đến đây, tự nhiên người ta thấy được lòng lo lắng của ngươi, chấp nhận lời yêu cầu của ngươi, đã sớm ở trong cung rồi. Nếu ngươi không tin, hãy ở lại vùng phụ cận núi này, thuê một căn nhà tranh mà ở đó, đợi tới lúc Trương đại tiên cáo lão về vườn, thế nào chẳng có ngày gặp ông ấy.
                      Pháp Thiện nghe nói, mới biết rằng quả thật Trương Quả không từng rời xa kinh sư một bước. Cậu đồng tử trước mắt đây, không biết có phải hóa thân của Trương tiên, hay bạn bè ông ấy ? Chỉ hận mình công lực nông cạn, không thể nhận định rõ mà thôi.
                      Hắn vừa nghĩ tới đó, Chung Li Quyền đã cất tiếng cười vang, nói :
                      - Đã biết mình công phu không nhiều, sao không mau mau trở về dụng công luyện tập, còn ở đó mà khoe tài khoe giỏi, đòi làm pháp sư gì đó, chỉ tổ người ta chê cười ?
                      Pháp Thiện thấy việc gì đạo đồng cũng biết trước, như xoáy vào gan phổi của mình, bất giác sợ hãi quá chừng, vội dập đầu lạy tận đất. Chung Li Quyền lại cất tiếng cười, nói :
                      - Bảo ngươi trở về, ngươi không chịu đi, khuyên ngươi ở lại đây dụng công luyện tập, ngươi lại không chịu, cứ một mực quấn quít bên ta làm gì ? Nhưng thôi, ta cũng thương ngươi đường xa vất vả, chịu khổ đã nhiều, nay ta giúp cho ngươi một trận gió, đưa ngươi trở lại kinh sư vậy.
                      Nói rồi há miệng, thổi một làn hơi, tức thì một trận gió lớn nổi lên, đưa Diệp Pháp Thiện từ dưới đất bay tuốt lên chín tầng mây, trôi nổi vật vờ. Pháp Thiện sợ hãi, vội nhắm chịt hai mắt , ngay cả cử động chân tay cũng không dám. Một hồi, nghe gió lặng, cảm thấy thân mình rơi xuống, mới mở mắt ra nhìn. Ôi, một chuyện lạ xảy ra, bản thân đang nằm trên giường của mình. Mở mắt nhìn quanh, thấy không sai chút nào : đây là nhà của mình.
                      Kinh hãi kêu lên một tiếng, làm kinh động tới đám gia nhân bên ngoài, và bọn đàn bà, con gái đang ở phòng phía trước, tất cả cùng kéo tới thăm hỏi. Họ thấy Pháp Thiện há hốc miệng, mắt mở trừng trừng, không biết nói sao. Vợ Pháp Thiện là Vương thị lên tiếng trước nhất :
                      - Chà ? ông về hồi nào vậy ? Sao không vào bằng cửa trước ? Cũng chẳng hiểu ông vào bằng cách nào, lại nằm đây mà ngủ !
                      Pháp Thiện nghe vậy, lại nhắm hai mắt, hồi tường những việc đã qua. Những chuyện trước, chuyện sau cứ lần lượt hiện ra trước mắt. Pháp Thiện mới nhìn mọi người, hỏi :
                      - Chẳng phải chúng ta đang gặp nhau trong giấc mơ ư ?
                      Vương thị vặc liền :
                      - Ban ngày ban mặt, nằm mơ nỗi gì ?
                      Pháp Thiện định thần một lát, bất giác nói không ra hơi, cho mọi người rút lui, chỉ giữ lại Vương thị trong phòng, đem những chuyện vừa qua, nhất nhất kể lại. Vương thị nghe xong, liền hiểu rõ, cười nói :
                      - Uổng danh ông là người hiểu biết, chuyện như vậy cũng không nghĩ ra. Người ta là đại la kim tiên, tự nhiên là có pháp lực vô biên, thần thông quảng đại. Theo tôi thấy, mọi chuyện xảy ra từ trước tới sau, đều do Trương tiên một mình bầy ra, để làm trò đùa. Nhân thấy ông dài lưởi, lắm điều, đối với ông ta lại không chút lễ mạo, ông ta mới bầy trò, cho ông nếm mùi đau khổ. Sau thấy ông có thành tâm - Thần tiên là không bao giờ đối xử quá đáng với người khác - ông ấy mới giúp cho một cơn gió, đưa ông về nhà. Nói tóm lại, những gì là si lão, lão lang, sư phụ của lão lang, và đạo đồng ở Chung Nam sơn nữa, đều là Trương tiên một thân ảo hóa.
                      Pháp Thiện nghe vậy, nửa tin nửa ngờ, chỉ biết sửa sang lại mũ áo, lập tức vào cung. Liền thấy thiên tử cùng một vị lão đạo đang ngồi, bàn về Huyền kinh bí kíp, Pháp Thiện càng tin lời vợ nói là đúng. Thiên tử vừa thấy mặt, liền nói :
                      - Vất vả cho khanh quá.
                      Pháp Thiện biết vị đạo nhân kia chính là Trương Quả, vội dập đầu lạy nói :
                      - Trương đạo trưởng đã về đây rồi. Vi thần chỉ vì dài lưởi, suýt nữa không thể trở về, thấy mặt bệ hạ.
                      Thiên tử cười, hỏi thăm tình hình chuyến đi, Pháp Thiện đứng dậy, hướng về phía Trương Quả, vái mấy vái, nói :
                      - Bệ hạ bất tất phải hỏi cặn kẽ hạ thần. Mọi chuyện đều có Trương quốc sư nhúng tay vào, bệ hạ cứ từ từ hỏi ông ấy, sẽ rõ tất cả.
                      Trương Quả cười, nói :
                      - Lại nói nhảm rồi ! ông không nhớ những lời vợ ông đã nói hay sao ?
                      Từ đó, Trương Quả vâng chiếu chỉ, an thân ở Tập hiền viện. Những lúc rảnh rỗi, được vời vào trong cung, để giảng huyền lý về việc tu đạo. Lúc đầu, những tưởng thiên tử có thể tu đạo, lập đức, làm một vị vua thánh minh, nếu có gặp phải kiếp số, cũng vãn hồi được một, hai phần. Thiên tử thời bấy giờ là Huyền Tông hoàng đế khi mới lên ngôi rất siêng năng việc chính trị, thương yêu dân chúng, và những năm thuộc niên hiệu Khai Nguyên có thể kể là thời thịnh trị của nhà Đường. Về sau, thiên hạ thái bình, muôn dân lạc nghiệp, vị thiên tử này dần dần sinh ra kiêu dâm, hôn ám.
                      Đến khi đổi niên hiệu là Thiên Bảo, trong cung có sủng phi Dương Ngọc Hoàn, bên ngoài có hạnh thần An Lộc Sơn, cấu kết nhau, sống buông thả nơi cung cấm. Các đại thần trong triều lại kết đảng mưu lợi riêng, làm nhiễu loạn thời cuộc. Trương ở trong triều đã nhiều năm, mắt thấy thiên hạ nhiều việc, kiếp số đã thành.
                      Tên An Lộc Sơn này chính là con chồn già đã rời bỏ núi Thiên Bình, đi đầu thai trước đây. Những hành vi của hắn đã nhiều lần vượt ra ngoài khuôn phép. Trương Quả biết thiên hạ chẳng bao lâu sẽ đại loạn, không thể cứu vãn, hà tất còn sống chen lộn giữa triều đường làm chi. Một hôm tan chầu trở về, đem ý rút lui nói với Lã tiên. Lã tiên mấy hôm nay cũng mới phát sinh một chuyện phong lưu, nghe Trương Quả nói, liền cười, bảo :
                      - Cháu cũng mới có một người tình nhân, gần đây đang giao hảo với nhau, làm sao có thể bỏ kinh thành mà đi được ?
                      Trường Quả nghe vậy, liền cười lớn tiếng :
                      - Thần tiên mà có tình nhân ? Anh đã dở chứng rồi đây.
                      Lã tổ nghiêm sắc mặt, nói :
                      - Tại sao thần tiên lại không được phép có tình nhân ? Nếu sư thúc không mắc chuyện gì lớn, hãy theo cháu đi chơi một chuyến, mới rõ người tình nhân của cháu là trang quốc sắc thiên hương, xứng đáng với mối chung tình của cháu.
                      Trương Quả nghe chuyện bất ngờ, liền nói :
                      - Vậy tôi theo anh đi, coi thử thế nào.
                      Nói rồi, tính theo Lã tiên đi liền, Lã tiên vội nói :
                      - Khoan đã. Đây là chỗ yên hoa, chúng ta ăn mặc thế này, không thích hợp chút nào.
                      Trương Quả cười nói :
                      - Thì ra anh không dám hiển xuất bản lại diện mục ra mắt người ta. Cho thấy anh đãi người không chút thành ý, sao có thể kể là tình nhân được ?
                      Câu nói đó khiến Lã tổ á khẩu, không biết đường nào trả lời, đành cười xòa. Vì thế Lã tổ biến ra một thư sinh trẻ trung, Trương Quả cũng biến ra một nhà buôn trung niên, hai người cùng rời khỏi Tập hiền viện, lội bộ mà đi. Qua nhiều khu phố đông đúc, mới tới một ngôi nhà đồ sộ. Lã tổ đưa tay gõ cửa, bên trong có người ra mở, là một người ăn mặc ra dạng một gia nhân. Vừa thấy Lã tổ, ông ta cất tiếng gọi Vương công tử, mặt mày tươi tỉnh, và rất cung kính, lại quay qua Trương Quả vái một vái. Trương Quả cười, nói :
                      - Ở đây anh cũng có thớ lắm, chỉ tiếc là anh đóng vai Vương công tử.
                      Lã tổ đưa mắt ra hiệu cho Trương tiên đừng nói. Hai người tiến vào cửa, đi qua một sân rộng, vòng quanh một hành lang dài, mới tới khu nhà chính. Trương tiên hỏi nhỏ Lã tổ coi đây là đâu, Lã tổ cũng hạ thấp giọng, nói :
                      - Sư thúc đừng nên hỏi, lát nữa sẽ biết.
                      Trương tiên tỏ ý buồn bực. Đi một lát, tới một đại sảnh, từ đằng sau tiến ra nhiều cô gái trẻ trung, quần áo đẹp rực rỡ, cô nào cô nấy đều tươi cười, cất tiếng gọi Vương công tử. Trong đám có một người dung mạo rất đẹp, tuy tuổi đã lớn, còn giữ được nét phong vận, vẻ yểu điệu quyến rũ, các cô khác không sao theo kịp.
                      Lã tổ cười, nói với Trương tiên :
                      - Đây là tình nhân của tiều điệt, có tên là Bạch Mẫu Đơn.
                      Trương Quả nghe tên gọi "Bạch Mẫu Đơn", lại nhìn tình cảnh trước mắt, mới biết Lã tổ đã chơi khăm, dẫn mình tới một nhà thanh lâu, trong lòng dở khóc dở cười, đành nén nhịn. Bạch Mẫu Đơn vẹt các cô gái ra, tiến lại gần, mỗi tay nắm tay một vị tiên, lôi kéo đi, qua phía sau đại sảnh, tới một gian hoa sảnh nho nhỏ.
                      Hai bên hoa sảnh, treo hai tấm màn dài tận đất, đưa mùi hương thơm nức mũi. Bạch Mẫu Đơn dẫn hai vị tiên vào một căn phòng phía Đông. Trương tiên ngửng đầu nhìn, thấy trong phòng trưng bầy nhiều đồ đạc sang trọng. Đáng chú ý nhất là một bàn trang điểm của phụ nữ, đẹp lộng lẫy. Trương tiên đưa tay chỉ cho Lã tổ thấy, cất tiếng cười ha hả. Lã tiên nói:
                      - Có gì đáng cười đâu ? Sư thúc quả là ít thấy, lạ nhiều !
                      Trương Quả đáp :
                      - Ta không cười điều gì khác, chỉ cười anh đa tình, không sợ sa xuống A Tì địa ngục sao ?
                      Lã tiên cười, nói :
                      - "Chết dưới khóm mẫu đơn. Làm quỉ cũng phong lưu". Nàng có tên Bạch Mẫu Đơn, cháu tình nguyện chết vì nàng.
                      Trương Quả chưa kịp đáp Bạch Mẫu Đơn cũng không để cho Lã tổ lên tiếng, đưa cánh tay ngà ngọc bịt lấy miệng Lã tổ, cười nói :
                      - Người đời nói ra câu nào, cũng cầu mong điều cát lợi, riêng vị công tử này, mở miệng ra là nói tới chết. Anh đòi chết vì em, em không cho anh chết, đã sao ?
                      Hai vị tiên nghe vậy, cũng cất tiếng cười ha hả. Bạch Mẫu Đơn phật ý, lộ vẻ thẹn thùng, hờn dỗi, ngả vào mình Lã tổ, giữ chặt lấy, không buông. Lã tổ vội lên tiếng dỗ dành. Trương tiên đứng một bên, thấy hai người quấn quít, bất giác lắc đầu, lát sau lên tiếng đòi đi. Lã tổ không biết làm sao, đành đi theo, cùng trở về Tập hiền viện.
                      Trương tiên vô cùng thắc mắc về chuyện này, nhưng cũng biết Lã tổ quyết không phải vô ý mà làm như vậy, mới hỏi lý do. Lã tổ đem sự tình kể lại, nói :
                      - Cô gái này cùng cháu kể là bạn cũ từ lâu lắm rồi. Kiếp trước, cô tên là Tiểu Kim Tử, họ Chu. Lúc cháu lên Lư Sơn học kiếm pháp, chúng cháu đã từng có mối quan hệ với nhau. Lúc đó, cháu từng nói lỡ một câu, chấp nhận một lời yêu cầu của cô. Nay hai người tình cờ gặp lại nhau nơi đây. Lúc học kiếm pháp, cháu có đem chuyện này kể lại với Hà đại tiên cô, tiên cô mới trách cháu, nói rằng người tu đạo không nên khinh suất hứa hẹn với ai một điều gì, vì một câu nói lỡ lời có thể kết thành món nợ oan nghiệt về sau. Khi cháu tới kinh sư, người con gái kia đã chuyển kiếp làm người, lạc vào xóm thanh lâu. Tiểu điệt vừa nhìn, thấy cô dung nhan thần tình, nói năng sắc sảo, y hệt như kiếp trước, không sai chút nào. Cháu liền xúc động trong lòng, nhớ lại những lời tiên cô nói, thấy người con gái này quả có phúc phận rất lớn, phải nhờ tay cháu độ thoát cho. Vì thế, cháu mới dự tính từ chỗ tình cờ quen biết, tìm cách nâng đỡ cô một phen, để khỏi phụ lòng cô, ở kiếp trước đã cùng cháu kết một đoạn duyên phận.
                      Trương tiên hoạt nhiên tỉnh ngộ, nói :
                      - Ta đã liệu tính trong chuyện này phải có một lý do nào đó, nay mới hiểu ra, chẳng trách cháu cùng cô kia kết làm một cặp tình nhân.
                      Lã tổ lại nói :
                      - Không giấu gì sư thúc, cháu đã thử thách cô nàng hai lần rồi. Lần thứ nhất, cháu thử thách cô về lương tâm ra sao. Là vì ở kiếp trước, khi còn bé, cô đã bị bà mẹ độc ác áp chế, nên cô có lòng dạ rất xấu, mà một cô bé bình thường không nên có. Nhưng đó chẳng qua chỉ là cách tự vệ của cô, xét về tình có thể tha thứ. Nhưng, để cho chắc chắn, cháu mới nghĩ ra một cách để thử thách cô. Một hôm, cháu giả bộ mắc bệnh nguy kịch, sắp chết, liền thấy cô khóc lóc thảm thiết, mời thầy thuốc điều trị, lại xem bói xem toán, cuống cuồng lên.
                      Trương tiên nghe vậy, liền cười ầm lên :
                      - Anh lầm rồi. Những chỗ thế này, làm gì có người thật lòng đối xử với người khác. Cô ta khóc lóc, làm bộ khẩn trương, kỳ thực chỉ là thủ đoạn của gái lầu xanh mê hoặc người ta.
                      Lã tổ không đợi nghe hết câu, liền lắc đầu, nói :
                      - Sư thúc quá khe khắt rồi. Những thủ đoạn của kỹ nữ chỉ lừa gạt nổi người thường, làm sao lừa dối nổi thần tiên chúng ta ? Đây là … đây là …
                      - Là cái gì ? Là thần tiên trong giới kỷ nữ hả ?
                      Lã tổ không cãi lại, kể tiếp :
                      - Lần thứ hai, cháu lại tìm cách thử thách cô về mặt đảm lượng, coi có quyết tâm, dám liều tính mạng hay không ? Lần này, cháu cũng được hoàn toàn yên tâm. Sau đây, cháu sẽ tiến hành cuộc thử thách thứ ba.
                      Lã tổ là một nhân vật phong lưu trong giới thần tiên. Việc ông ba lần thử thách Bạch Mẫu Đơn và độ cho tình nhân thành địa tiên đã được người đời truyền tụng, về sau lại thêm nhiều lời ngoa truyền, mỗi người nói một cách. Người ta còn đặt thành tuồng hát, lấy tên là “Lã Động Tân tam thí Mạch Mẫu Đơn" - Lã Động Tân ba lần thử thách Bạch Mẫu Đơn - kèm theo nhiều ca khúc. Sau rồi, "ba lần thử thách” lại được sửa đổi thành "ba lần đùa cợt", và vở tuồng có tên là “Lã Động Tân tam hí Bạch Mẫu Đơn".
                      Đây nói tiếp việc Lã tổ đem chuyện thử thách Bạch Mẫu Đơn kể lại cho Trương tiên nghe. Trương tiên mới hỏi cách thử thách đó như thế nào, Lã tổ cười nói :
                      - Những sự tình này, tùy cơ mà phát sinh, không nhất định một điều gì. Nay xin hỏi sư thúc nên rời khỏi triều cương như thế nào ?
                      Trương tiên thở dài, nói :
                      - Ta từ khi vào triều làm quốc sư đến giờ, thấm thoắt đã ở trên dương thế hơn hai chục năm. Trước mắt thấy thiên tử ngày một hôn ám, nếu có mời ta vào cung, thì ngoại trừ những lúc cao hứng, bàn bạc những câu hư ngôn vô bổ trong Đạo kinh ra, chỉ yêu cầu ta bầy trò ảo thuật đùa bỡn, cho mọi người cười vui một trận. Lại có một chuyện khiến ta rất khó ở lại chỗ này. Đó là việc con chồn già đầu thai làm An Lộc Sơn, đã ngang nhiên làm loạn cung vi, gây nên lắm chuyện xấu xa. Thiên tử không sáng suốt, đã nhận hắn làm con nuôi. Những chuyện đáng xấu hổ như thế, ta nhìn đã ngứa mắt, chỉ muốn giết hắn chết ngay cho rồi. Nhưng hắn là người ứng kiếp mà sinh ra, ta không thể thu thập hắn được. Cũng may ta đã sớm có kế thoát thân, chẳng bao lâu sẽ thực hiện, để âm thầm ra đi không nghe, không thấy. Hiền diệt thấy thế nào ?
                      Tiểu diệt đã tính toán giùm cho sư thúc rồi. Đại khái là trong vòng năm, ba ngày nữa, ắt có thể rời triều, trở về dân dã. Nhưng cũng còn phải thu nhận một đồ đệ, đem theo mới được.

                      #86
                        bevanng 22.07.2008 22:02:32 (permalink)
                        Hồi Thứ 94

                        Xoay lưng cưỡi lùa, Quả lão hiển linh ứng
                        Trả nợ trần tục, Lã tổ độ tình nhân.


                        Đây nói chuyện Đường Minh Hoàng, từ sau khi mời được Trương Quả đại tiên làm quốc sư. Lúc đầu, nhà vua thành tâm thỉnh giáo về Huyền môn đại đạo, về sau đam mê tửu sắc, ngay cả việc quốc gia đại sự cũng không buồn hỏi tới, làm gì còn có lòng tu tiên, liễu đạo nữa ! Nhân thấy Trương tiên có nhiều thần kỳ thánh tích, những khi cao hứng, nhà vua mới vời người tiên tới để làm trò ảo thuật mua vui.
                        Có một lần, Minh Hoàng thấy Trương tiên cưỡi một con lừa rất mạnh mẽ, tỏ ý ham thích. Trương tiên mỗi khi ra khỏi nhà, liền ngồi xoay lưng lại mà cưỡi lừa, một kiểu cưỡi lừa rất kỳ dị, cứ để như vậy mà cưỡi nhong nhong vào cung, lại cho lừa chạy một vòng quanh ngự hoa viên để rong chơi. Trương tiên vốn là người có lòng trung hiếu, đối với thiên tử luôn luôn giữ lòng tôn kính, thiên tử đã ra lệnh, tự nhiên là ông chẳng dám làm trái bao giờ. Nhận được chiếu vời gọi vào vườn hoa, ông cưỡi con lừa chạy một vòng, không thay đổi cách ngồi. Con lừa đó cũng kỳ lạ, chẳng cần chủ nhân phải xoay đầu về đằng trước để chỉ dẫn, nó đã biết ý ông, lúc nhanh lúc chậm, đi đúng đường, không bao giờ lầm lẫn. Chạy một vòng, được thiên tử vời vào cung ban yến, Trương tiên liền buộc con lừa ở trong hoa viên. Nhà vua lại ra lệnh đem lương thực tới cho nó ăn, Trương tiên vội từ chối, nói :
                        - Con lừa của hạ thần không biết ăn lương thực, tối đa chỉ ban cho nó một chén nước là đủ.
                        Thiên tử chuẩn tấu, sai nội thị dắt con lừa đi cho uống nước, một mặt sai bầy yến tiệc để đãi Trương tiên.
                        Nói chuyện một hồi, thiên tử mượn cớ rời bàn tiệc, bảo quần thần ở lại bồi tiếp Trương tiên, còn ngài lén lút đi xem con lừa.
                        Nội thị bẩm tấu rằng con lừa đã uống hết một chén nước lạnh, không chịu uống nữa. Thiên tử liền truyền lệnh ban rượu uống. Nội thị liền khiêng tới một vò rượu thật lớn, cho con lừa uống. Con lừa vừa uống một ngụm, liền cảm thấy vị lạ, không chịu uống tiếp.
                        Thiên tử nổi giận, phán :
                        - Nó không uống rượu, lôi đi chém đầu.
                        Con lừa nghe lời dụ, không đợi nội thị cưỡng ép đổ rượu, liền ngửng đầu lên, đưa hai chân trước nâng đỡ vò rượu, cho rượu chảy xuống ào ào, ngửa cổ uống cạn vò rượu, lập tức quì xuống, đưa cao hai chân trước, hướng về phía thiên tử, làm ra vẻ vái lạy tạ ơn.
                        Thiên tử rất hài lòng, vừa tính lên tiếng khen thưởng vài câu, không dè tửu tính phát tác, con lừa mềm nhũn ra, ngả mình xuống đất, nằm nghiêng qua một bên, không nhúc nhích. Nội thị hò hét, nó cũng không trở dậy, đá một phát, nó cũng không nhúc nhích.
                        Lại nghe có tiếng bình bịch, như thể đá vào một cái khung bằng giấy. Thiên tử thấy lạ quá, đích thân tiến lại, đá liền hai phát, phát ra hai tiếng liên tiếp, dường như đá phải con lừa hàng mã, dùng nan tre kết lại thành một cái khung, dán giấy ra ngoài.
                        Thiên tử vừa ngạc nhiên, vừa buồn cười. Nhìn kỹ con lừa, thấy nó trắng dã hai mắt, hơi thở dứt hẳn. Thì ra số thọ của con lừa đến hôm đó là chấm dứt. Thiên tử lúc đó quính quáng, vội hỏi :
                        - Các ngươi xem thử, có cách nào cứu được nó không ? Nếu không cứu nổi, mau đem đi chôn. Chừng nào lão đạo tra xét, thì nói con lừa chạy trốn mất rồi. Không được nói rõ sự thật ra, kẻo ông ta coi chúng ta là một lũ con nít, ham vui đùa.
                        Nói chưa dứt lời, một nội thị đã đưa tay nâng con lừa lên, liền kinh hãi kêu lên :
                        - Đúng là một con lừa giả, một con lừa bằng giấy.
                        Thiên tử ngạc nhiên, nhìn kỹ lại, quả là một con lừa hàng mã, không sai chút nào, bất giác cười ha hả, nói :
                        - Lão đạo này thật tình có ý đùa cợt, đem một con lừa hàng mã để lừa gạt người ta. Nếu không đổ hết một vò rượu, làm sao phát hiện ra chuyện này ? Các người hãy khiêng con lừa lên, đi theo ta, tới hỏi lão đạo cho rõ.
                        Thiên từ đi trước, đám nội thị theo sau khiêng con lừa hàng mã, tới thẳng chỗ Trương tiên đang ngồi Thiên tử lên tiếng :
                        - Lão đạo này quả là ưa lừa gạt người, dám dùng một con lừa hàng mã, cưỡi nhong nhong vào cung của trẫm.
                        Trương tiên vội phủ phục, tâu :
                        - Con lừa hạ thần cưỡi quả thật là con lừa giấy, chỉ nhờ thần dùng chút kỹ năng, biến nó thành con lừa thật thôi. Vừa rồi bệ hạ đổ rượu cho nó uống say, chân tướng mới bại lộ. Thì cũng như thứ cọp giấy mà người đời thường nói tới, nhìn xa cứ tưởng là thật, nhất thời cũng có thể lừa gạt người đời, nhưng nhất quyết không thể duy trì lâu dài. Vì thế, việc trong thiên hạ chỉ có chân thật là đáng quí, giả trang đáng kể làm gì ?
                        Thiên tử nghe vậy, gật đầu đồng ý, nói :
                        - Khanh quả có tài châm biếm. Xin hỏi cọp giấy có thể khiến cho cử động được không ?
                        - Tất cả đều phải nhờ cậy vào một chút đạo pháp. Cọp cũng như lừa, có gì phân biệt ?
                        Thiên tử liền truyền lệnh lấy nan tre và giấy, định chế thành một con cọp, để Trương tiên làm thí nghiệm. Trương tiên liền bẩm tấu .
                        - Bất tất phải chế thành con cọp hàng mã. Thần có thể lấy một tờ giấy trắng, niệm chú ngữ, lập tức tạo ra con cọp.
                        Thiên tử hài lòng, lập tức truyền lệnh làm thử. Trương tiên cầm tờ giấy trong tay, vo tròn lại, niệm chú lâm râm, buông tay ra, hét lên một tiếng. Tức thì hiện ra một con mãnh hổ vằn vện, nhe răng múa vuốt, nhảy nhót dưới thềm. Thiên tử rất sợ con cọp nhảy lên, vội hỏi cọp này có cắn người được không ? Trương tiên tâu rằng :
                        - Lừa giấy đã có thể đi lại trên đường, cọp giấy sao không thể cắn chết người ?
                        Thiên tử hãi quá, vội nói :
                        - Khanh đạo pháp cao minh, thần thông quảng đại, thật đáng kính, đáng phục ! Xin thu hồi cọp giấy lại, đừng để nó phát tác dã tính, giết lầm người ta.
                        - Có thần ở đây, sợ gì cọp giấy hành hung ?
                        Trương tiên nói rồi, phất tay một cái, cọp giấy liền ngã lăn ra.
                        Trương tiên nói là sẽ biến đổi nó thành tờ giấy trở lại. Thiên tử và quần thần nhìn kỹ. thấy con cọp tuy đã chết, vẫn giữ hình dáng một con cọp. Riêng Diệp pháp sư nhìn thấy đó là một viên giấy vo tròn. Trương tiên cất tiếng cười vang, cúi nhặt viên giấy lên, mở ra, thành một tờ giấy hẳn hòi.
                        Lại một lần khác, thiên tử nghe Trương tiên tửu lượng rất khá, có ý muốn đổ rượu cho say, mới sai người bỏ thuốc vào trong rượu, ép Trương tiên uống cạn một bình. Trương tiên quì tâu :
                        - Thần tửu lượng rất kém, uống quá chén ắt có điều thất thố. Bệ hạ muốn ban rượu cho thần uống đến say, thì thần có một đồ đệ có thể nhờ nó uống thế. Nếu được bệ hạ chấp nhận, thần sẽ vời nó tới ngay.
                        Thiên tử hỏi đệ tử đó đang ở đâu, Trương tiên hướng lên trời vẫy tay một cái, tức thì nghe có tiếng nổ vang, tức thì một tiểu đạo sĩ tuấn tú từ một góc điện bay xuống, như thể chim sa. Thiên tử rất hài lòng, vời tới, hỏi vài câu. Đạo đồng đối đáp từ tốn, nghi biểu đàng hoàng, thiên tử rất ưa thích, liền truyền ban rượu. Đạo đồng uống một hơi hết mười bình, không có vẻ gì là say. Ban tiếp mười chén lớn, lại uống cạn sạch. Thiên tử mới nói :
                        - Hãy vào hậu cung, mang vò ngư tửu thật lớn ra đây, coi anh ta có uống hết hay không ?
                        Trương tiên vội quì tâu :
                        - Không thể ban thêm rượu. Thêm rượu ắt say xỉn, say xỉn ắt mất nghi thức. Tiệc rượu này chẳng qua chỉ để giúp bệ hạ một cuộc vui cười nếu để mất nghi thức, ắt sinh ra càn dỡ, trái với ý vi thần muốn giải khuây cho bệ hạ.
                        Thiên tử không nghe, sai đi lấy liền. Đạo đồng bỗng ngã lăn ra đất. Trương tiên vội nói :
                        - Thằng nhỏ này chẳng biết phép tắc là gì, xin bệ hạ tha thứ.
                        Vừa nói, vừa lấy một chiếc khăn lớn, đậy lên mình đạo đồng.
                        Một lát sau, nội thị trở lại bẩm báo : vò ngự tửu biến đâu mất, không tìm ra tung tích. Thiên tử nổi giận, nói :
                        - Cung cấm là nơi trọng địa, lẽ nào có chuyện mất đồ vật ?
                        Lập tức truyền lệnh tra xét. Trương tiên vội quì tâu :
                        - Xin bệ hạ bớt giận, vò rượu ở dưới khăn của tiểu thần.
                        Thiên tử kinh ngạc, truyền nội thị mở khăn lên coi. Nào ngờ chẳng thấy đạo đồng đâu, chỉ thấy một vò rượu đầy ắp bên dưới.
                        Trút rượu ra đong thử, thì thấy vừa đúng số rượu đạo đồng vừa uống, không thiếu một giọt. Thiên tử bất giác cười ầm lên.
                        Lại một lần khác, thiên tử nói với Cao lực sĩ (1) :
                        - Trẫm nghe nói rượu cận (2) mà không biết đắng, chỉ có thần mới làm nổi.
                        - Bệ hạ cho Trương Quả uống thử xem sao.
                        ---------------------------------------
                        (1) Thái giám tin cẩn của Đường Minh Hoàng. (2) cận : một loại cây có hoa mẩu tím, thường dùng để ngâm rượu.

                        Thiên tử liền sai lấy rượu cận ban cho Trương tiên. Trương tiên uống vào, bất giác say túy lúy, nói :
                        - Rượu gì mà có mùi lạ thế này ?
                        Thiên tử thấy ông quá say, liền truyền kê một chiếc giường trong cung, kêu nội thị đỡ ông lên nằm ngủ. Hôm sau thức dậy, răng ông biến ra mầu đen kịt. Trương tiên cười cười, cầm cây như ý trong tay, chà qua một lượt, răng lại trắng bóc.
                        Lại một lần khác, theo thiên tử đi săn, bắt được một con nai rất lớn. Thiên tử ra lệnh đem nấu con nai, để nhắm rượu. Trương tiên nói:
                        - Đây là con nai tiên, thọ một ngàn tuổi. Ngày xưa, vào năm Nguyên Thú thứ năm, Hán Vũ đế lên rừng săn bắn, bắt được con nai này, đem thả ra. Không dè đến nay nó vẫn còn ở trên nhân gian.
                        Thiên tử hỏi :
                        - Có gì làm bằng chứng ?
                        Vũ đế bắt được nai, đem phóng sinh, có lấy một tấm thẻ nhỏ bằng đồng, buộc vào sừng bên trái của nó.
                        Thiên tử sai xét nghiệm, quả thấy một tấm thẻ đồng, dài chừng hai tấc, chỉ có điều là chữ khắc trên đó đã mờ, không thể nhận rõ. Thiên tử lại truyền cho treo tấm thẻ thứ hai, lên sừng bên phải của con nai, rồi đem thả ra. Nhân đó, thiên tử tán thưởng tài bác học của Trương tiên.
                        Trương tiên ở trong triều hơn hai mươi năm. Thiên tử đối với ông chẳng qua chỉ để làm trò, mua vui, tìm cách giải trí tầm thường, còn chuyện quốc kế, dân an không thèm ngó ngàng. Vì thế, nhiều lần ông đòi đi. Nhưng thiên tử một mực cầm giữ, không chịu cho đi. Trương tiên vốn là người cẩn trọng nhất trong bát tiên, thấy thiên tử đối xử với mình có tình cảm, không dám cố chấp, đòi đi cho bằng được cũng không nỡ bỏ đi mà không cáo biệt. Bấy giờ, Lã tổ ở chung chỗ với ông, sớm chiều không rời xa, ông mới đem tình cảnh khó xử nói với Lã tổ. Từ hôm cùng Lã tổ tới chơi chốn lầu xanh trở về, Trương tiên không nêu chuyện về núi ra nữa. Nhưng Lã tổ đã vì sư thúc tính toán, nói rằng ông hãy còn tục duyên vài ngày nữa, tục duyên đã mãn, tự nhiên ông được toại ý còn được một đồ đệ tốt nữa. Trương tiên nghe vậy, cũng không quan tâm tới chuyện vị lai nữa. Ai ngờ thiên tử thấy ông nhiều lần hiển xuất điều linh dị, từ lâu rất muốn biết xuất thân của ông ra sao, đã ba bốn lần hỏi tới, nhưng Trương tiên vẫn không chịu nói thật. ông rất sợ nói rõ bản lai diện mục sẽ khiến người ta kinh hãi, và cũng có phần e thẹn về xuất thân dị loại của mình, không khỏi thiên hạ chê cười. Thiên tử không biết được sự thật, mới đem chuyện này hỏi Diệp Pháp Thiện. Lúc đầu Pháp Thiện không chịu nói, thiên tử mới nói khích ông ta :
                        - Ngươi bản thân làm pháp sư, chính ngươi lại tiến dẫn Trương Quả, tại sao ngươi không biết xuất thân của ông ấy ? Đủ thấy người làm pháp sư cũng chỉ là hữu danh vô thực, tuyệt nhiên không có chút đạo hạnh nào.
                        Pháp Thiện bị nói khích, liền đỏ mặt, lại thêm nóng gấp, vội nói:
                        - Sao thần lại không biết rõ Trương quốc sư ? Nhưng thần rất sợ quốc sư biết thần lẻo mép, bắt thần phải chết. Lúc đó, bệ hạ có thể vì thần năn nỉ quốc sư, xin ông đừng làm khó hạ thần, được không ?
                        Thiên tử cười, nói :
                        Lời khanh nói ra, vào ngay tai trẫm, trẫm không nói cho ai biết, làm sao quốc sư biết được ?
                        - Bệ hạ quá xem thưởng quốc sư rồi. Quốc sư là kim tiên, chúng ta có một câu nói, một hành vi, ông ấy biết liền, cần gì phải có người khác truyền tới tai ? Khanh cứ mạnh dạn nói ra. Nếu quốc sư chống đối khanh, trẫm ắt can thiệp.
                        Pháp Thiện nghe vậy, liền đem chuyện Trương Quả nói ra, từ thủa khai thiên lập địa là con chuột già khổ công tu luyện, sau biến thành con dơi, tu đạo thành hình người, lại tu thành tiên đạo ra sao, nhất nhất kể lại. Thiên tử đang nghe, cảm thấy hứng thú, bổng nhiên Pháp Thiện kêu lên một tiếng, trào máu tươi ra đằng miệng, ngã lăn ra đất, kêu to lên :
                        - Quốc sư tha mạng ! Quốc sư thứ lỗi !
                        Thiên tử kinh hãi thất sắc, vội lên tiếng năn nỉ, cầu xin giùm Pháp Thiện, lại sai nội thị nâng đỡ hai bên, để ông này hướng lên không trung mà dập đầu lạy. Lúc đó máu mới ngưng lại, Pháp Thiện thất thểu bước về nhà. Tuy máu ngừng chảy, nhưng toàn thân đau đớn. Bà vợ thấy vậy, mới khuyên chồng nên đi tìm Trương tiên, trần tình sự việc, tự nhận tội và xin vái người tiên làm thầy. Pháp Thiện hiểu ra, ôm bệnh tới cầu kiến Trương tiên, chiếu theo những lời vợ chỉ bảo, năn nỉ Trương tiên. Trương tiên thấy Pháp Thiện có thành ý, lại thông minh hơn người, từ khi nhận chức quốc sư đến giờ, khá siêng năng, thanh khiết, chưa từng có hành vi bất pháp, liền đem lòng thương yêu, thu nhận làm đệ tử.
                        Từ khi Pháp Thiện nói ra lai lịch Trương tiên, thiên tử e ngại, chỉ sợ Trương tiên không được hài lòng, nên mấy ngày liền không dám tuyên triệu ông. Lã tổ mới cười, nói với Trương tiên :
                        - Lời tiểu điệt ứng nghiệm rồi, sư thúc muốn ra đi, thì đây là cơ hội tốt nhất, sao sư thúc còn không nói tới chuyện ra đi ?
                        - Ngày nào, giờ phút nào mà ta chẳng nghĩ tới chuyện ra đi ? Chẳng qua chỉ vì thấy anh chưa giải quyết xong chuyện với Bạch Mẫu Đơn thôi. Hai nữa là về biện pháp để ra đi, ta cũng chưa có chủ ý.
                        Lã tổ liền cười, nói :
                        - Nói thực với sư thúc, việc thử thách Bạch Mẫu Đơn cháu đã làm xong, chỉ đợi ý sư thúc là lập tức lên đường, rời khỏi kinh thành.
                        - Sao mau chóng như thế ? Chuyện đó anh giải quyết thế nào, nói rõ ta nghe, để ta góp ý cho.
                        - Việc này cũng không dễ dàng gì đâu. Hôm đó, tiểu điệt có nói cho sư thúc biết thân thế và lai lịch của Bạch Mẫu Đơn, thật đầy đủ. Sau đó, cháu trở lại nhà nàng, lúc đầu cũng chỉ nói những chuyện phong hoa, tuyết nguyệt, sau thấy nàng rất hứng khởi, cháu mới nói sơ qua về kiếp số, cũng không thể tùy tiện phô diễn nhiều lời. Đến tối, hai người lên giường nằm, nói chuyện vãn, nàng bỗng đề cập tới chuyện tuổi xanh qua mau, nhan sắc ngày một suy tàn, chốn lầu xanh chẳng phải nơi luyến tiếc, ở lâu. Nói đến đó, nàng buồn rầu, khóc tấm tức, cháu mới bàn tới chuyện thoát khỏi chốn lửa nồng, gá nghĩa cùng một trang thiếu niên công tử, giàu có mà chung tình. Nàng nghe qua, tỏ vẻ trầm ngâm suy nghĩ. Cháu âm thầm theo dõi, quan tâm tới nàng. Nửa đêm, nàng bỗng thức dậy, đánh thức cháu, đòi bàn chuyện tiếp. Thì ra nàng cảm những lời cháu đã nói, bỗng chuyển nghĩ tới việc tu đạo. Vì cháu từng nói với nàng rằng cháu có quen biết với nhiều vị tiên nhân, nàng mới năn nỉ cháu nói cho biết ở địa phương nào có tiên nhân, để nàng đích thân đi tìm, cầu xin người tiên thu nhận làm đệ tử, tình nguyện vất bỏ hồng trần, vĩnh viễn gia nhập Huyền môn. Cháu thấy nàng sớm giác ngộ như thế,vừa kinh ngạc, vừa vui mừng, mới giảng giải vài câu cho nàng hiểu, lại đưa ra một chiếc gối nhỏ, bảo nàng kê đầu vào mà nằm ngủ một giấc, thật yên tĩnh. Trời chưa sáng rõ, nàng bỗng thức dậy khóc lóc, quì lạy ở đầu giường, miệng gọi sư phụ, xin cứu đệ tử thoát khỏi cảnh hồng trần. Nàng thuật lại những điều đã thấy trong mộng, hiểu kiếp người là gian nan, khốn khổ, cảnh phồn hoa, phú quí chẳng đáng luyến tiếc. Nàng còn xác nhận cháu là thần tiên, cầu xin cháu thoát độ cho nàng. Cháu thấy nàng thông minh, lại thương nàng thành tâm cầu khẩn, mới hứa thu nhận nàng làm đệ tử, lại đem lai lịch kiếp trước của nàng, nói rõ cho biết. Sau đó, cháu dùng phép đưa nàng ra khỏi chốn thanh lâu, giúp nàng một cơn gió, đưa tiễn tới Chung Nam sơn. Hiện nay, nàng đang ở Chung Nam sơn, không chút hối tiếc cuộc đời cũ thành tâm tinh tiến, không ngại gian khổ. Cháu đã bố trí xong xuôi, sau này sẽ tài bồi cho nàng một phen. Cháu ước tính cho nàng năm trăm năm nữa sẽ tu thành đại đạo.
                        Trương tiên nghe vậy, cười nói :
                        - Như vậy là anh đã quá tận tình với người rồi. Cô ta sớm giác ngộ, nhận anh làm sư phụ, sau này ắt thành tiên. Nhưng sao anh phải thừ thách cô tới ba lần như vậy ?
                        Sư thúc bàn như vậy rất đúng. Nhưng một cô gái bình thường, may mắn gặp được chúng ta, chỉ cần một ý niệm sáng suốt, đã thành tiên liền, sao tránh khỏi cô ỷ y, không biết tới gian nan nguy hiểm, không hiểu thế nào là cay đắng.
                        - Anh không nghĩ tình cùng gối, cùng giường hay sao ?
                        Lã tổ nghe vậy, cười ầm lên.
                        Hai người nói chuyện một hồi, Trương tiên lại bàn tới chuyện ra đi, Lã tổ mới ghé tai thì thầm, nói tiếp :
                        - Làm như vậy, không để lộ một vết tích nào.
                        Trương tiên vỗ tay, khen là diệu kế.
                        Ngày hôm sau, thiên tử rốt cuộc cũng nhớ ra Trương tiên đã ba ngày không vào triều, lòng rất thắc thỏm, chỉ sợ ông không vui, lại đòi về núi, mới sai bốn vị nội thị, mang theo ý chỉ, cùng nhiều trái cây thơm ngon, hiếm có, ban cho Trương tiên. Nào ngờ lúc đó Trương tiên đang mắc bệnh nguy kịch. Nội thị vừa tới cửa, gia nhân đã lên tiếng hỏi trước, và nói cho biết quốc sư đang mang bệnh nặng, không thể tiếp chỉ. Nội thị đành để trái cây lại mà về, bẩm tấu thiên tử. Thiên tử kinh hãi, vội hỏi Diệp pháp sư :
                        - Thần tiên cũng mắc bệnh nữa sao ?
                        Bấy giờ Diệp Pháp Thiện đã làm đồ đệ của Trương tiên, sớm biết ý ông thầy, vội nói :
                        - Thần tiên cũng như người thường, mắc bệnh là chuyện tự nhiên.
                        Thiên tử vừa định phái thái y tới xem bệnh, bỗng nghe báo quốc sư đã mãn kiếp, qua đời. Thiên tử càng kinh hãi, liền cùng Diệp Pháp Thiện và nhiều người nữa, cùng ngồi xe loan kéo tới Tập hiền viện điếu tang. Vừa tới nơi, có các quan ở Tập hiền viện bước ra, xin hoàng thượng mau mau hồi loan, nói rằng :
                        - Quốc sư vừa chết, xác liền thối rữa, bốc mùi xú uế, e động tới thánh thể.
                        Thiên tử sinh ghi : "Người bình thường chết, xác cũng không thối rừa liền, huống chi quốc sư vốn là tiên thể, sao mau hư nát như thế ?". Liền dặn dò Diệp pháp sư ở lại, lo việc tế lễ, nhân thể để ý coi xem quốc sư chết thật hay chết giả ? Hoặc giả là giả bệnh rồi chết để lén lút trở về núi ? Biết rõ sự tình, mau quay về bẩm tấu cho trầm biết. Nói rồi, lên xe trở về cung. Diệp Pháp Thiện  vâng chỉ ở lại, cùng tất cả nhân viên ở Tập hiền viện, cùng các vị công khanh lo đám tang. Mọi người lo liệu việc liệm xác, nhập quan cho Trương tiên, như một người chết bình thường, sau đó  khiêng áo quan ra khỏi cửa Tập hiền viện, đem đi chôn. Theo những người khiêng cửu, áo quan cũng nặng như một người bình thường. Thiên tử hay tin, tin rằng Trương tiên đã chết thật.
                        Mãi về sau, An Lộc Sơn làm loạn kinh thành, xe loan thiên tử bôn ba vào đất Thục, giữa đường bỗng thấy một vị thần tiên tư trên trời đáp xuống, hướng về phía thiên tử vái ba vái, chớp mắt biến mất. Người theo hầu trình lên thiên tử một phong thư. Mở ra coi trong đó thuật lại nhân quả việc loạn, từ trước tới sau, thật rõ ràng. Trong thư còn có lời khuyên thiên tử nên trở lại kinh thành, và chúc ngài trân trọng mình rồng. Kèm theo lá thư, còn có cây như ý được thiên từ ban cho năm xưa, trên đó có khắc tên họ. Lúc đó, thiên tử mới biết Trương Quả chưa chết, hôm nay gửi thư cho ngài. Về sau, ngài hồi loan, sai khai quật mộ, mở áo quan ra coi, thấy bên trong chỉ là một cây gậy tre.

                        #87
                          bevanng 22.07.2008 22:48:53 (permalink)
                          Hồi Thứ 95

                          Chống dị đoan, Văn công công kích Đạo giáo
                          Giáng mưa lành, Tương Tử hiển thần thông.


                          Đây nói chuyện Hàn Tương Tử thác sinh vào nhà họ Hàn, thấm thoát đã được hơn mười năm. Từ hồi cậu bé mới lên năm, cha cậu là Hàn Hội thấy con trai thông minh xuất chúng, mới nói với em trai là Hàn Dũ :
                          - Thằng bé Tương Tử có thiên tư rất tốt, sau này có hy vọng là một nhân tài, chúng ta phải mời một ông thầy giỏi, dạy nó đọc sách mới được.
                          Hàn Dũ nghe anh nói, để ý tìm kiếm khắp nơi, trước sau mời được vài vị tiên sinh nổi tiếng uyên bác, về dạy cho một mình Tương Tử. Không ngờ Tương Tử bẩm sinh thông tuệ, bất cứ kinh sách nào, hễ cậu xem qua một lượt là đọc ra vanh vách, chẳng phiền thầy giáo giảng giải, mà cậu còn hiểu thấu những chỗ cao siêu áo diệu trong sách nữa. Có những chỗ ông thầy chỉ dẫn không rõ ràng, Tương Tử liền viện dẫn điển cố và những chứng cứ ngoài sách vở, nói ra những đạo lý vô cùng chính xác, khiến mấy ông tự than mình không bằng học trò, dạy được một thời gian, đành xin thôi. Vì thế, lúc Tương Tử được mười hai tuổi, đã thay đổi tới bốn, năm vị tiên sinh, đều có tiếng tăm.
                          Trong vòng một trăm dặm, ai cũng nghe nói vị công tử nhà họ Hàn chính thật thần đồng, các vị lão sư túc nho, tự nhận mình tài giỏi, rất sợ đụng phải tay thần đồng này, rồi đến mất hết danh tiếng một đời, chẳng ai chịu nhận lời mời. Tìm kiếm đã lâu, không mời được vị danh sư nào, Hàn Hội nói với Hàn Dũ :
                          - Xem ra những vị tự xưng danh túc đời nay, bản lãnh cũng chỉ thường thường thế thôi. Nếu không, tại sao không vượt qua nổi thằng bé nhà ta ?
                          Hàn Dũ nghiêm sắc mặt, nói :
                          - Huynh trưởng đừng nói vậy. Trẻ thơ, dù có chút thông minh chăng nữa, cũng chỉ hiểu biết hời hợt thôi. Đến chỗ uyên ảo của cổ nhân, chẳng biết kiến giải của nó đúng hay sai, huynh trưởng đã vội đánh giá nó cao như thế là không được. Còn những vị tiên sinh trước đây chúng ta mời về, theo tiểu đệ biết, đều có học thức vững chắc, bản lãnh rất cao. Các ông ấy bẩm chất thông minh, dẫu không bằng Tương Tử chăng nữa cũng đều có chân tài, thực học.
                          Khoan nói chuyện gì khác, chỉ nói tới việc các ông khổ công đèn sách mấy chục năm, quyết nhiên một đứa trẻ mới học có năm, ba năm, tí toét vài ba chữ, sao có thể sánh kịp ? Sở dĩ các ông từ chối xin về, hoặc giả vì cảm thấy tinh thần không ổn định, sợ làm hỏng tương lai của đệ tử, hoặc giả vì Tương Tử cậy mình thông minh, không khỏi có những lời cuồng vọng, tự cao tự đại, mà các ông nể mặt anh em ta, không tiện nói ra chân tình, đành xin chia tay. Huynh trưởng sao lại quá tin Tương Tử có tài học vượt qua các vị danh túc . Những lời nói như vậy rất không nên để thằng bé nghe được. Nó còn trẻ tuổi, không biết trời cao đất dầy, nếu nghe được, càng thêm cuồng phóng, tự tôn, mật cao hơn trán. Đến nông nỗi đó huynh trưởng ơi, chỉ sợ một chút thông minh chẳng phải điều phúc lợi, hoặc giả giống như lời Mạnh Tử phê bình nhân vật Bổn Thành Quát (1) mà thôi. Điều đó chẳng những không phải phúc cho thằng bé, còn là họa cho nhà họ Hàn chúng ta.
                          Hàn Hội nghe vậy, lặng yên không nói.
                          --------------------------------------------
                          (1) Bổn Thành Quát là người nước Tề, kém tài năng mả được bổ làm quan. Mạnh Tử tiên đoán trước người này sẽ bị dân chúng giết chết (Mạnh Tử XIV 29)

                          Ba tháng mùa đông sắp qua, mùa xuân đang tới, chính là lúc cần thiết cho Tương Tử học tập, mà tìm hoài không ra một vị tiên sinh. Anh em nhà họ Hàn thường bàn tới chuyện này, thấy là vấn đề không dễ giải quyết. Ai ngờ vào cuối tháng chạp, bỗng có một người thanh niên tìm tới nhà, đưa danh thiếp xin gặp hai vị lão đạo nhân. Hai anh em nhìn danh thiếp, thấy đề ba chữ “Lã Cốc Bằng” liền lục lọi trí nhớ, mà không nhớ ra có người bạn nào có tên gọi đó, cùng sửa lại quần áo ra tiếp kiến, thấy người này chưa đầy ba mươi tuổi, mặt đẹp như ngọc, môi tựa thoa son, anh tuấn khác thường. Hai anh em đều kinh ngạc, thấy từ xa đến nay chưa bao giờ được gặp một nhân vật tuấn nhã như thế. Trong lòng nghĩ vậy ngoài mặt lộ vẻ mười phần mến mộ. Nói chuyện một hồi, mới biết người này là một tú tài thi rớt, tự tin mình học rộng tài cao, không trúng ý khảo quan, nên chẳng nghĩ chuyện kiếm công danh nữa, chỉ lo mở mang mối học sẵn có, truyền đạt cho đám hậu sinh.
                          Nghe công tử trong quí phủ thông minh khác thường, nhiều vị danh túc thấy khó mà rút lui, đến nay vẫn chưa mời được vị sư phó đích đáng nào, tiểu sinh không ngại ngu dốt, tài học kém cỏi, tình nguyện tới đây xin tự giới thiệu, mời công tử ra gặp mặt. Nếu không được tin cậy, tiểu sinh lập tức rút lui.
                          Hai vị lão đại nhân nghe chàng kia nói giọng sang sảng, khí phách khác thường, tin chắc phải là người có lai lịch rất lớn, một mặt ngồi tiếp chuyện, một mặt cho gọi Tương Tử tới, ra mắt Cốc Bằng. Lúc đó Hàn Hội rất sợ Tương Tử kiêu căng, đã từng làm khó được bao vị lão sư túc nho, lại đang lúc trẻ tuổi, thiếu chín chắn, lỡ nói một câu xúc phạm thì phiền. Nào ngờ Tương Tử vừa thấy Cốc Bằng, liền nhìn kỹ để đánh giá, rồi lập tức tiến lại, mỉm cười vái một vái, tự động dập đầu lạy bôm bốp, miệng nói :
                          -Vị này mới đúng là ông thầy của Hàn Tương Tử.
                          Hai anh em thấy tình huống đó, vô cùng ngạc nhiên, mới cười, nói với Cốc Bằng :
                          - Thằng bé này cậy mình thông minh, thường tỏ ra quá quật cường. Mỗi khi mời được một ông thầy tới nhà, chưa bao giờ thấy nó vui lòng và tâm phục như lần này.
                          Cốc Bằng cười, trả lời :
                          - Những tài năng thiếu kiềm chế, phải có cách dạy đặc thù. Có thể là mấy vị lão sư trước đây, tuy tài học rất cao, nhưng chưa từng dạy qua các học trò đặc biệt thông minh, đĩnh ngộ chăng ? Mấy vị đó coi công tử đây là tài năng bình thường, nên đã dạy theo cách dạy các trẻ phổ thông, chẳng trách nào công tử học không vô.
                          Hàn Hội nhân đó nhờ Cốc Bằng khảo nghiệm sức học của Tương Tử, thật tình là muốn xem bản lãnh của ông thầy ra sao. Cốc Bàng thừa biết ý đó, nhưng cũng vui vẻ nhận lời, dựa theo tài học hiện thời của Tương Tử cho cậu nói năng thoải mái. Tương Tử nhận ra mình học thức còn thiển cận, nhờ Cốc Bằng chỉ dẫn, hiểu ra được những điều vi tế, thâm sâu, bất giác hớn hở, nhắc lại ý đã nói trước đây :
                          - Vị này mới thật sư gia chân chính của con ! Ông nói những đạo lý thật bình thường, mà phát giác ra được những chỗ con lấn cấn, không nói ra được. Đủ thấy tiên sinh có công phu chân thật.
                          Hàn Dũ vốn rất sợ Tương Tử cậy mình thông minh, đọc kinh sách theo kiểu hời hợt, coi những trước tác của cổ nhân là quá dễ dàng, nay thấy Cốc Bằng vừa tới, khảo sát bước đầu đã khiến Tương Tử thấy đọc sách là gian khổ, từ đó về sau không dám đem kiến giải nửa vời của mình mà xem thường người khác. Vì thế, ông rất mãn nguyện, hai anh em liền mời Cốc Bằng tiên sinh ở lại nhà, dạy dỗ Tương Tử trong ba năm liền. Tương Tử chẳng những sức học tiến mạnh, mà nhân phẩm cũng nâng cao, vào nề nếp.
                          Bấy giờ Hàn Hội đã qua đời, Hàn Dũ đối với Cốc Bằng tiên sinh vẫn bội phục hoàn toàn, không quan tâm tới việc học của Tương Tử. Ai ngờ về sau phát hiện một sự việc, khiến ông vô cùng bất mãn. Là vì Tương Tử từ khi theo Cốc Bằng đọc sách đến giờ, chỉ ưa thích nghiên cứu sách Đạo học, lại còn học tập những gì là tĩnh tọa, nội công, và kim đan, đại đạo gì gì đó, khiến Hàn Dũ tức giận quá chừng chừng. Ông vốn tự nhận mình là người bảo vệ Khổng giáo, lấy việc truyền đạo, kế thống làm trách nhiệm, nay thấy thằng cháu ruột có xu hướng gia nhập dị giáo, ông còn nói ai nghe đây ? Nhưng khi phát hiện tình hình này, thì đã trể mất ba năm. Theo Tương Tử nói, cậu ta đã toàn tâm toàn ý đặt vào Đạo môn, ngay bây giờ phải rời nhà, đi tu đạo. Hàn Dũ giận quá, cầm cây roi dài, tra xét Tương Tử :
                          - Những học vấn này, ai dạy cho mày? Có phải vị Cốc Bằng tiên sinh đã truyền thụ hay không ?
                          Tương Tử không sợ hãi chút nào, thản nhiên nói:
                          - Tam giáo đều là thánh giáo, tại sao lại cho rằng Phật, Đạo hai phái nhất định phải là mối học dị đoan ? Thúc phụ hủy báng Phật, Đạo hai nhà, chỉ vì thấy trên đời, các vị hòa thượng, đạo sĩ chỉ biết làm bậy, lừa dối người đời đế kiếm ăn, không có một chút học thức nào, nên mới vơ đũa cả nắm đấy thôi. Thật tình, những hạng người như thế chính là giặc của hai phái, chẳng những Khổng giáo không dung, ngay cả Phật, Đạo hai nhà cũng không thừa nhận. Đó là những kẻ giả mạo chiêu bài, mượn tiếng Thần, Phật để kiếm ăn mà thôi. Nếu thúc phụ bình tâm tĩnh khí, đem những lời vi ngôn, áo nghĩa chân chính của hai phái, và Huyền kinh bí tịch ra nghiên cứu kỹ, sẽ thấy trong đó có những điều mà Nho gia cũng không theo kịp.
                          Hàn Dũ nghe vậy, liền đập bàn, giậm chân, lớn tiếng mắng Tương Tử là đồ không chúa, không cha, là hạng di địch, cầm thú, lại nói thêm :
                          - Đó toàn là những sách hay ho của thằng Lã Cốc Bằng đã dạy cho mày đó mà ? Lúc đầu tao đã nghi nghi, sao hắn lại tự giới thiệu, không đợi mời đã đến nhà xin việc ? Từ xưa đến nay, làm gì có ông thầy nào cẩu thả và thiếu tự trọng như thế ? Cũng bởi tại mày là đứa hèn kém bất tài, bao nhiêu ông thầy giỏi, mày đều hỗn láo xem thường xem khinh, chê bai tuốt tuột. Bất đắc dĩ mới phải giữ lại người này, tạm thời dùng thử. Vì thế nên, không rõ người này lai lịch ra sao, đã từng dạy dỗ trẻ con nhà nào, tao đã hồ đồ giữ hắn lại, mà lưu giữ tới ba năm lận. Lỗi cũng tại ta mấy năm nay bận chuyện quốc sự, ít có thời giờ điều tra việc học của mày, không dè mày thiếu tự trọng đến thế, mỗi ngày một lấn sâu vào đường rẽ, ngõ tắt. Tuy rằng trách nhiệm dạy dỗ thuộc về ông thầy, nhưng lỗi cũng tại mày quá quật cường, bất pháp. Bao nhiêu ông thầy đàng hoàng, phép tắc, mày đều chê bai, không học. Vậy mà con người ngông cuồng, trẻ tuổi, nói nhảm làm càn, mày lại hâm mộ, kính trọng, việc gì cũng nghe theo. Xét cho cùng, cũng bởi mày là đứa hèn kém, không chịu học mà ra. Từ nay về sau, nếu mày muốn làm con cháu nhà họ Hàn, thì phải nghe lời thúc phụ chỉ giáo, bao nhiêu mối học dị đoan đã lỡ tiếp thu ba năm qua, phải đem liệng bỏ cho bằng hết. Chẳng những không được nói tới, ngay cả suy nghĩ tới cũng cấm tuyệt ! Cũng may cháu còn trẻ, lại có thiên tư rất tốt, nếu chịu bỏ công cố gắng chừng ba năm nữa, ắt phải thành công, ra ngoài kiếm công danh dễ như trở bàn tay. Nếu không cháu không xứng đáng là con cháu nhà họ Hàn, mà ra ngoài xã hội, cháu cũng không có chỗ đặt chân.
                          Tương Tử thấy chú nói gay gắt như thế, lòng không được vui, chỉ mỉm cười, nói :
                          - Chú có ác cảm với Đạo giáo như thế, chắc hẳn chú coi cháu là một đứa xấu xa, không thể tha thứ chứ gì ? Xin nói thật để chú biết, dù chú coi cháu chẳng ra gì, cháu cũng được sư phụ nói cho biết chú là Quyển Liêm đại tướng trên điện của Ngọc hoàng, vì đắc tội bị đầy xuống phàm trần. Nếu cháu muốn thành đạo, thì việc trước nhất là phải độ thoát cho chú, sau đó cháu mới có thể lên trời nhận chức được. Thưa chú, chú có biết sư phụ của cháu là ai không ? Nhắm chừng chú chuyên tâm lo việc kế thừa các vị thánh nhân trong Khổng giáo, vị tất chú đã biết được những vị kim tiên trong Đạo giáo. Tuy nhiên, cháu không thể không nói với chú một tiếng : vị sư tôn hiện giờ của cháu chính là người có danh vọng rất lớn trong Đạo môn, cũng tỉ như các nhân vật Nhan, Tăng, Mạnh, Tuân (1) trong Khổng môn vậy. Ông ấy họ Lã, tên Nham, tự là Động Tân. Cốc Bằng, tức người bạn trong hang, là ẩn ngữ của Động Tân, người khách trong động. Thưa chú, vị Lã tiên sinh này chính là đại la kim tiên trên trời đó.
                          --------------------------------------
                          (1) Bốn nhân vật chủ yếu trong Khổng giáo: Nhan Hồi, Tăng Sâm, Mạnh Kha và Tuân Khanh.

                          Tương Tử còn tính đem xuất thân và việc tu đạo của Lã tổ, cùng với tình hình hai người làm thầy trò với nhau trong ba năm qua, báo cáo lại với Hàn Dũ, chẳng dè Hàn Dũ vừa nghe xong mấy câu trên đây, liền tức giận, bịt chặt hai tai, miệng thét lên :
                          - Hỏng rồi, hỏng rồi ! Thằng này nó điên ! Thằng này nó điên !
                          Một mặt vỗ bàn đánh "Chát ?", kêu người đi gọi ông thầy tới. Tương Tử thấy tình trạng tức giận của chú thật đáng tức cười, vội ngăn cản, nói :
                          - Thúc phụ chẳng cần nóng nẩy. Lã sư phụ của cháu đã sớm tính toán, biết hôm nay là ngày hai thầy trò chia tay. Bây giờ chú sai người đi gọi ông ấy, e rằng trễ mất rồi.
                          Hàn Dũ không tin, thôi thúc gia nhân mau tới thư phòng, coi lão sư gia có đây, mời lại đây cho ta. Người gia nhân "dạ !" một tiếng, định đi. Chẳng dè cậu thư đồng ứng trực thư phòng bỗng chạy lại, đụng phải người kia. Hàn Dũ thét mắng, hỏi thư đồng tới đây làm gì? Thư đồng tiến lại vài bước, trình lên một phong thư.
                          Thì ra đó là thư của Lã sư gia gửi cho Hàn Dũ. Hàn Dũ lấy làm lạ, vội mở ra coi. Bên trong đại ý nói : "Cháu của ngài kiếp trước vốn là kim tiên trên trời, vì để lầm lỡ việc công, bị đầy xuống trần, ở trên bờ sông Tương. Anh ấy vốn là bạch hạc tu thành tiên thể, lần này lại mang xác hạc. Kỳ hạn đi đầy đã mãn, nên được tôi và thầy tôi là Chung Li Quyền Văn Phòng, cùng thu nhận làm đệ tử. Nhân đó, đưa anh ấy xuống dương gian, để tiếp tục việc tu đạo, sau đó mới có thể độ thoát anh ấy lên trời, trở lại bản chân". Lá thư còn nói tới kiếp trước của Hàn Dũ, đúng như lời Tương Tử đã nói.
                          Phần cuối lá thư ghi : "Cháu của ngài bẩm sinh thông tuệ, tu đạo dễ dàng, ba năm sau đã thông hiểu huyền lý, ngay bây giờ nên sớm rời nhà, lên danh sơn tu dưỡng. Hai mươi năm sau đã có thể thành công nho nhỏ, và ba mươi năm sau cậu có thể đích thân độ cho thúc phụ thành đạo". Cuối lá thư còn có một câu cáo biệt.
                          Hàn Dũ xem thư, tức giận không nói nên lời, đưa cả hai tay xé bức thư tan nát. Lạ lùng thay, tờ giấy bị xé liền lại như cũ. Hàn Dũ thấy vậy, vừa kinh hãi vừa tức giận, nói :
                          - Yêu đạo đã dụ dỗ cháu ta, còn dám chọc quê ta nữa sao ?
                          Liền gọi gia nhân đem lửa tới, đốt cháy lá thư. Gia nhân vâng lệnh, đốt lá thư, rõ ràng cháy thành tro than, bay tá lả, nhưng chỉ trong chớp mắt, một tờ giấy hoa tiên lành lặn lại nằm trên mặt bàn. Hàn Dũ ngước mặt lên trời, cất tiếng than :
                          - Yêu nhân tác quái, chung qui chỉ tại ta đức mỏng, kém tài, hoặc giả họ Hàn nhà ta gặp vận trắc trở. Giỏi cho thằng cháu, bị yêu tinh dẫn dụ, phá hỏng mất rồi. Đến nước này, mày tính sao đây? Có phải mày quá tin yêu nhân, nhất định xu hướng đường dị đoan, để sau này lưu độc trung nguyên, di họa cho đám hậu học, mày hãy ra đi cho sớm. Tao cũng không dám lưu giữ mày trong nhà, để làm tội nhân của danh giáo, làm đứa cháu phản lại tổ tông. Với tư cách người chú, tao cũng không nỡ đưa mày lên nha môn trừng trị, hoặc đuổi mày ra ngoài cõi di địch. May cho mày có tiên sư nâng đỡ, đã dự bị sẵn sàng xuất gia, xin cứ tự tiện. Nếu trong lòng mày còn biết có tao là thúc phụ, còn nhớ tới cha mẹ, tổ tiên, hãy nghe lời ta giáo huấn, mau suy nghĩ lại cho chính đáng, đừng có nói nhảm làm càn, mà hãy khôn khéo đọc kinh truyện của thánh hiền, làm đứa cháu ngoan của nhà họ Hàn. Mai sau ứng thí thành danh, làm vinh diệu tổ tông, hãy còn là chuyện nhỏ, ta còn mong ước cháu có thể giúp ta hoàn thành sự nghiệp vĩ đại là tán dương thánh hiền, bảo vệ đạo nữa đó.
                          Nói rồi, không ngó tới lá thư, thở hổn hển mà đi.
                          Ngay trong đêm đó, Tương Tử thảo một lá thư dài, trong đó thuật rõ chí tu đạo của mình, hy vọng thúc phụ hồi tâm chuyển ý, để khỏi rơi vào tai kiếp, lời lẽ vô cùng khẩn thiết. Viết xong, cậu để lại lá thư trong phòng, len lén rời nhà, tìm lên núi Tung Sơn tu đạo.
                          Về phần mình, Hàn Dũ sau khi mắng mỏ Tương Tử một trận, trở về phòng riêng, vẫn còn tức giận, thở không ra hơi. Phu nhân hỏi duyên cớ. Hàn Dũ kể sơ lược tình hình. Phu nhân ngỏ lời oán trách chồng :
                          - Bác cả qua đời, để lại có một thằng con đó thôi. Bác gái yêu quí nó như của báu. Trước đây, bác trai mắng nó vài câu, bác gái liền khóc hu hu. Hôm nay, sao ông lại dạy dỗ nó kiểu nặng nề như thế ? Đứa bé này có tính ngờ nghệch, suốt hai năm qua (1), cùng vị Lã sư phụ không rời xa trong khoảnh khắc, thân mật vô cùng. Mỗi khi tan khóa học, gặp người nhà, nó thường nói rằng sư phụ nó chính là đại la kim tiên, nói những gì là thần thông quảng đại, học vấn uyên thâm, tự khoe rằng cứ theo thầy học tập như thế, sau này có thể thành tiên. Nó còn nói thúc phụ tuy có công với Nho giáo, nhưng kiếp trước chính là người tiên có tước vị trên điện Linh Tiêu, sau này thế nào cũng quay về với Đạo giáo thôi. Đến lúc đó, còn phải nhờ nó dẫn nhập Đạo nữa. Những lời nói như vậy, chúng tôi nghe đã lâu rồi. Ai cũng cho là lời nói của trẻ con, làm sao hiểu nổi? Đến năm nay, mới thấy nó có nhiều sự việc, đích xác là nó làm những điều kỳ lạ. Nó từ dưới đất nhảy lên không trung, du hành trên mây. Nó còn có thể chui xuống đất, chốc lát biến mất. Theo nó nói, những điều đó đều do sư phụ truyền thụ cho, cũng chẳng đáng kể gì, chẳng qua chỉ là trò chơi nho nhỏ của thần tiên. Còn những mối học chân chính về tính mạng, cùng với thuật trường sinh bất lão, kim đan đại đạo... mới là quan trọng.
                          --------------------------------
                          (1) Trên ghi 3 năm, thật tinh chỉ tròn 2 năm. Lý do đã được giải thích một lần rồi.

                          Phu nhân nói đến đó, Hàn Dũ liền nóng nẩy, giậm chân đập bàn, đứng dậy, trách mắng phu nhân một trận, nói những chuyện như thế bà không nên ẩn giấu đến tận bây giờ, để đến nỗi nuôi dưỡng nhược điểm cho thằng bé. Hàn Dũ nghĩ thầm : "Thằng bé này dầu sao cũng còn trẻ, được ta giáo huấn một trận vừa rồi, nó sẽ hiểu ra. Lại may là sư phụ nó đi rồi, từ nay ta chịu phí chút công sức uốn nắn, quản lý nó chặt chẽ, sẽ tốt thôi". Ông trầm ngâm suy nghĩ một hồi, chợt mắc công vụ, phải đi ra ngoài. Đi chưa bao lâu, bỗng được tin Tương Tử đã rời nhà, ông liền đổ mồ hôi lạnh khắp châu thân, vội vã trở về nhà. Đến nơi, thấy cả nhà đang ầm ĩ lên, mọi người xúm vào mà trách móc ông. Hàn Dù chỉ biết thở dài, không nghĩ ra được một biện pháp nào để giải quyết.
                          Ba năm sau, Tương Tử có nhờ người làng gửi một bức thư thăm hỏi gia đình một lần, tất nhiên là cả nhà mừng rỡ, chẳng cần phải nói. Lại mươi năm nữa, Tương Tử được Văn Phòng tiên sinh ban cho cuốn sách "Thiên Cung Mỹ Vựng", chàng ra công luyện tập, năm năm sau đã thông hiểu được đại ý. Đúng lúc đó, Lã tổ hạ giáng núi Tung Sơn, bảo Tương Tử xuống núi, điểm hóa cho thúc phụ. Tương Tử ăn mặc theo lối đạo sĩ, cưỡi mây bay tới kinh thành, về nhà gặp mẹ là Từ phu nhân. Phu nhân thấy mặt Tương Tử, mừng như bắt được của báu từ trên trời rơi xuống.
                          Tương Tử quì gối, dâng lên mẹ và thím mỗi bà một viên thuốc. Bấy giờ hai bà phu nhân đều đã ngoài năm mươi, suy nhược, lắm bệnh, vừa uống thuốc vào, tinh thần chuyển thành mạnh mẽ, như hồi còn trẻ vậy.
                          Tương Tử ra mắt chú, Hàn Dũ vẫn còn giận dữ, hỏi cháu ở ngoài học được những gì ? Tương Tử kể đại lược vài câu. Hàn Dũ nổi giận, sai người xúm vào lột bỏ áo đạo của Tương Tử. Tương Tử tuyệt nhiên không chống cự, mặc cho mấy người kia ra sức lột áo. Chẳng dè chiếc áo đạo như thể dính chặt vào da thịt, lột nửa ngày không xong. Đang lúc ồn ào như thế, chợt nghe có thánh chỉ tới.
                          Thì ra là thiên tử thấy hạn hán đã lâu, dân tình khổ sở, phái Hàn Dũ tới đền thờ xã tắc, lên đàn cầu mưa. Hàn Dũ chẳng dám chậm trễ, mặc quần áo, đi liền. Tương Tử mới cười, nói với mẹ và thím :
                          - Thúc phụ đi cầu mưa lần này, cầu tới năm, ba năm cũng không được giọt mưa nào đâu.
                          Bà thím tin tưởng người cháu có đạo pháp, mới nói :
                          - Cháu ngoan, cháu đã nói vậy, hãy đi giúp chú một tay, cũng là lập công đức vậy. Làm như thế cũng khiến thúc thúc tin tưởng vào đạo pháp của cháu, không còn chống đối cháu nữa, chẳng tốt hay sao ?
                          Tương Tử lắc đầu, nói :
                          - Giúp thúc phụ là bổn phận của cháu, còn nói thúc phụ tin Đạo e rằng hơi sớm. Theo cháu thấy, ít ra cũng phải mười tám năm nữa mới được.
                          Nói xong, lắc mình một cái, biến mất. Trong khi đó, Hàn Dũ đang ở trên đài, thành tâm lo lắng, cầu xin Trời ban cho một cơn mưa lành, cho dân bớt khổ. Nào ngờ khẩn cầu từ sáng sớm tới giờ ngọ, vẫn chưa thấy một giọt mưa nào. Ngay cả những đám mây đen cũng chẳng xuất hiện, trời nắng chang chang, ông mặt trời vẫn ra oai, đổ lửa xuống trần gian. Đang lúc Hàn Dũ, lòng nóng như lửa đốt, bỗng thấy một đạo nhân khập khiễng đi tới, đứng ở dưới đài, nhìn lên Hàn Dũ mà cười mỉa. Hàn Dũ giận dữ quá chừng, lập tức sai người xuống lôi đạo nhân lên. Hai bên binh sĩ dạ ran, bắt đạo nhân, lôi lên đài. Hàn Dũ hỏi vì sao mà cười, đạo nhân nói :
                          - Bần đạo chẳng cười chuyện gì khác, chỉ cười đại nhân chỉ biết làm quan, ngay cả bản lãnh cầu mưa cũng không học được chút nào, há chẳng đáng chê cười hay sao ?
                          Hàn Dũ giận dữ nói :
                          - Ngươi là đạo nhân quê mùa nào, ở đâu đến đây ? Đã dám chê cười lão phu, nói ra những lời cuồng vọng, hẳn ngươi phải biết cầu mưa chứ ?
                          Đạo nhân ngang nhiên đáp :
                          - Bản thân không biết, há dám cười ai ?
                          Hàn Dũ liền sai làm thử, nếu không ứng nghiệm, lập tức lôi đi chém đầu. Đạo nhân liền cười, chẳng cần viết tấu chương dâng lên Thượng đế, cũng không dùng bùa chú, chỉ cầm gươm báu chỉ thẳng lên trời, miệng hét to lên :
                          - Thần sấm sét đang ở đâu ?
                          Liền nghe trên không trung có tiếng người nói :
                          - Pháp sư vời gọi tiểu thần, có ý chỉ gì ?
                          Mọi người trên đài liền ngước nhìn lên không trung, thấy ông Sấm Bà Sét, dẫn theo nhiều vị thiên thần, thiên tướng, đứng ở trên mây, hướng về phía đạo nhân thi lễ. Mọi người ngạc nhiên, đứng ngẩn người ra, rồi không ai bảo ai, cùng quì xuống lạy một lượt. Có người còn hướng về phía đạo nhân mà vái, miệng gọi"đại tiên", khiến Hàn Dũ biến sắc mặt, nổi giận đùng đùng, chỉ mặt đạo nhân mà mắng :
                          - Đạo sĩ quê mùa to gan. Bảo ngươi làm mưa, ngươi lại hí lộng pháp thuật gạt người, nhiễu loạn dân tâm hay sao ?
                          Đạo nhân vẫn bình thản, nói với người trên mây :
                          - Nơi đây hạn hán, hoàng thượng hạ chỉ cho quan đại thần tới đây cầu mưa, nhưng ông ấy giữ ý niệm trần tục quá nặng không tìm đại đạo, chẳng được trời thương, ban cho mưa lành. Cầu đảo đã nửa ngày trời, chẳng được giọt nước nào. Bần đạo không nỡ thấy trăm họ chịu tai ương, đã đi Đông Hải cầu xin Long vương cho mượn một gáo nước, dự bị phân phát cho trăm họ. Xin các vị tôn thần mau kéo mây, bần đạo tức khắc tưới nước xuống.
                          Hàn Dũ thấy đạo nhân nói những lời không căn cứ, lại muốn làm khó ông ta. Bỗng nghe giữa không trung một tiếng sét nổ đánh "Đoàng !", tiếp đó chớp lia chớp lịa, mây đen kéo tới kìn kịt, trong khoảnh khắc, trời đất tối tăm, mặt trời mất ánh sáng. Trên bầu trời, những tia chớp loang loáng như những con rắn vàng, khiến mọi người nhìn hoa cả mắt. Dân chúng reo hò, hô to : "Chân tiên ban mưa, may cho dân biết mấy !". Ở trên đài, quan thượng thư già họ Hàn, vốn tính ngang ngạnh, không phục, cũng phải đứng trơ mắt ếch, miệng há hốc, chẳng biết nên làm gì. Đang lúc đó bỗng nhiên một tiếng sấm lại nổ vang trời, mọi người thấy đạo nhân nhảy vọt lên, bay tuốt lên lưng chừng trời, tay cầm một chiếc bình nhỏ, nhắm về khắp bốn hướng mà vẩy nước. Trong chớp mắt, mưa lớn đổ xuống ào ào, thế mạnh không ai đương nổi. Mọi người vội chạy xuống đài, tìm chỗ ẩn núp. Trong khoảng thời gian chừng ăn xong bừa cơm, đạo nhân lại ở trên không trung, hô to :
                          - Dân chúng mượn nước đã đủ chưa ? Hãy nói ta nghe một tiếng, để tránh khỏi nạn lụt lội, còn tai hại hơn hạn hán nữa.
                          Mọi người đều hô :
                          - Đủ rồi, đủ rồi ! Xin đừng tưới thêm. Mời đại tiên xuống đây, để chúng tôi lạy tạ.
                          Đạo nhân nghe nói, cầm kiếm phất một cái, cơn mưa ngưng liền.
                          Mọi người ra khỏi đài, thấy đạo nhân đứng trên đài, hướng về phái Hàn Dũ thi lễ, nói :
                          - May mắn không để nhục mệnh.
                          Dân chúng không quản quần áo ướt sũng, lấm lem, cùng quì xuống một lượt, dập đầu lạy. Hàn Dũ đứng ngẩn ra một hồi, đột nhiên nổi giận, thét mắng đạo nhân, và nói :
                          - Ta vẫn không tin trận mưa này là do ngươi cầu xin được.
                          - Vạn con mắt đều nhìn rõ sự tình, không phải bần đạo cầu xin được, chẳng lẽ lại là đại nhân ? Bần đạo là người đứng ngoài cuộc đời, không cầu công danh, cũng không ham phú quí, chẳng hề có ý tranh công với đại nhân, đại nhân sao phải khổ tâm cãi chầy cãi cối, tỏ ra con người hẹp lượng như thế ?
                          Hàn Dũ nổi giận, nói :
                          - Lấy gì làm bằng cứ ?
                          Dạo nhân cười :
                          - Mọi người đều thấy, chưa phải bằng cứ hay sao ? Nhưng nếu đại nhân còn chưa tin, hãy trở về quí phủ mà coi. Trong sân nhà ngài có một vại nước trống không, nay đã chứa nước ngập sâu tới ba thước, một tấc, bảy phân.
                          Hàn Dũ liền sai người áp giải đạo nhân về nhà ông, đo lượng nước mưa, quả nhiên không sai chút nào. Bỗng nhiên đạo nhân lại quì xuống, nói :
                          - Thưa chú, nay chú đã tin đạo pháp hay chưa ? Xin sớm đi theo cháu, tu đạo đi thôi.
                          Hàn Dũ kinh ngạc, cúi nhìn xuống, thấy đạo nhân chính là Hàn Tương Tử, cháu mình.

                          #88
                            bevanng 22.07.2008 23:21:16 (permalink)
                            Hồi Thứ 96

                            Chế rượu, mượn hoa, hai lần trổ phép tiên.
                            Lam quan, Tần lĩnh, chín lần độ Văn Công.

                            Tương Tử vài ba lần khuyên chú tu đạo, Hàn Dũ không nghe, còn nổi giận, sai người bắt Tương Tử lôi đi, đem về giao cho mẹ chàng quản lý. Lúc đó, Từ phu nhân đã vững tin Tương Tử tu tiên đắc đạo, không muốn gượng ép lưu giữ Tương Tử ở lại nhà làm gì, mới nói với con :
                            - Chú của con mong cho con đỗ đạt, nên người, chính là bổn phận của bậc trưởng bối. Nay con đã tu tiên đắc đạo, cũng là thực hiện chí hướng của mình, mẹ cũng bất tất phải nghe lời chú, làm khó cho con. Nhưng có một câu cũng nên nói rõ : con đã là người có pháp lực thần thông, đi mây về gió, qua Đông sang Tây, chẳng mất nhiều thời giờ. Vậy từ nay về sau, con nên thường xuyên về nhà, đợi chừng nào mẹ nhắm mắt tắt nghỉ, lúc đó muốn về hay không, là tự ý con, chẳng ai ngăn cản.
                            Tương Tử vội thưa :
                            - Xin mẹ yên tâm, Đạo gia rất trọng điều trung hiếu. Nếu hài nhi không có lòng tưởng nhớ đến mẫu thân, sao còn về thăm ? Hạng người như thế, có khác gì loài cầm thú . Hai vị sư phụ của con đâu có thèm nhận con làm đệ tử ? Mẹ đừng bận tâm suy nghĩ, chỉ cần con khắc khổ học tập, vài năm nữa là tiền trình rộng mở. Tới ngày con đắc đạo, lên trời, nhất định mẹ vẫn còn trên dương thế. Con sẽ thoát độ cho mẹ, hưởng phúc trường thọ.
                            Phu nhân nghe nói, ấm áp trong lòng. Tương Tử thấy điểm tỉnh cho chú không có hiệu quả, đành trở về núi Túng Sơn.
                            Lại qua nhiều năm nữa, cứ cách hai, ba năm, Tương Tử lại về nhà một lần, hiển lộ thần thông phi thường cho thúc phụ coi. Nhưng Hàn Dũ bẩm sinh có tính ngang ngạnh, nói thẳng : cho dù hoa bay khắp trời, Tương Tử có nói hay cách mấy, làm chuyện lạ cỡ nào chăng nữa, ông cũng không động lòng, cứ tiếp tục sự nghiệp cũ của mình, và không buồn ngó tới Tương Tử. Tương Tử cũng kiên trì theo đuổi ý định của mình, phải thoát độ cho thúc phụ cho bằng được. Chàng ta đã điểm hóa cho Hàn Dũ được bảy lần, nay là lần thứ tám, đúng vào kỳ bát tuần thượng thọ của Hàn Dũ. Tương Tử vì việc chúc thọ, lại trở về nhà. Hàn Dũ nghĩ mình tuổi đã cao, thấy cháu từ xa về, cũng cảm động trong lòng. Những điều thường ngày ông chán ghét ở Tương Tử cũng giảm đi phân nửa. Tới ngày sinh nhật, ông còn sai Tương Tử thay mặt mình làm chủ bữa tiệc, chuyện trò với các vị công khanh, khách khứa. Mọi người biết Tương Tử là một thần tiên hữu đạo, ai cũng khẩn thiết cầu xin chàng giảng về đạo trường sinh bất lão. Tương Tử mới đem những phương pháp hữu ích cho thân tâm, lựa những điều giản dị và dễ hiểu, tùy hoàn cảnh mà truyền thụ một lượt. Chẳng dè điều đó lại kích động Hàn Dũ, nổi giận đùng đùng, nói Tương Tử không nên nói ra những điều tà thuyết như thế, ở trước mặt ông. Tức thì gọi cháu tiến lại, hỏi :
                            - Anh lém mồm lém miệng, ở trước mặt biết bao vị tôn trường, mà dám tự tiện nói ra những lời nhảm nhí, thử hỏi trong ngần ấy năm trời, anh ra ngoài học được những gì ?
                            Tương Tử nghe hỏi, liền ngâm mấy câu :
                            “Núi xanh, mây che khấu
                            Nơi ấy chính là nhà
                            Đêm tối ăn ngọc dịch
                            Ban ngày uống giáng hà
                            Đỉnh ngọc giữ tiên dược
                            Lò luyện bạch chu sa
                            Một bầu tàng tạo hóa
                            Gươm báu chém tà ma
                            Rót rượu mời bằng hữu
                            Khoảnh khắc nở bông hoa
                            Ai muốn theo học đạo
                            Ngắm hoa núi với ta”

                            Hàn Dũ nổi giận, nói :
                            - Lại những lời cuồng ngôn !
                            Quan khách đều nói :
                            - Đã nói lớn lối, ắt có bản lãnh. Cháu của ngài đã nhiều lần hiển lộ linh ứng, mà chúng tôi không có duyên được coi. Hôm nay may mắn gặp nhau, ngại gì mà không thi triển thần thông, khiến mọi người được mở rộng tầm mắt, tăng thêm kiến thức ?
                            Hàn Dũ nhân đó nói :
                            - Nó từng tự khoe có thể chế ra rượu, bắt hoa nở, hãy bảo nó làm thử xem sao.
                            Tương Tử cười, nói :
                            - Đó chẳng qua chỉ là đạo thuật nho nhỏ, không liên quan gì tới đại đạo chân chính. Cháu xin tuân lệnh chú, đem rượu tới chúc thọ chú, và khiến hoa nở để đẹp lòng quan khách. Nhưng điều cháu kỳ vọng ở chú là bởi điều sau, không bởi điều trước. Nếu đem chút thuật mọn ra để dẫn dụ chú, quả thật đó là điều đại bất kính.
                            Hàn Dũ nói ngay :
                            - Nói lắm cũng vô dụng. Sao không mau thực hiện .
                            Tương Tử không trả lời, kêu người mang tới một chiếc vò rỗng, đặt ở trước sân, lấy chiếc khăn đậy lên, gõ gõ ba tiếng, miệng niệm lâm râm. Mở khăn ra, qua nhiên đầy một vò rượu. Tương Tử rót mời Hàn Dũ trước, sau tới các vị quan khách, nói :
                            - Thưa các vị đại nhân, rượu của bần đạo chẳng phải thứ rượu tầm thường, mà là ngọc dịch của tiên phủ. Bất luận là ai, uống vào một chén, tuổi thọ liền tăng một kỷ (1) mọi bệnh tật tiêu trừ.
                            Các vị khách đều cạn chén, Tương Tử mới chỉ tay vào vài ông khách ngồi trên bàn tiệc, nói :
                            - Mỗ đại nhân, Mỗ thượng thư, các ông vẫn có chứng bệnh ấy, bệnh nọ, bây giờ khỏi cả rồi chứ ?
                            Nhiều vị khách chưa thấy cảm giác gì, riêng có một vị Lưu đại nhân, mắc chứng hen suyễn đã lâu, vừa uống một chén, lập tức hết đờm, hơi thở bình thường, mà trong người thoải mái, liền lớn tiếng nói với Hàn Dũ :
                            - Hàn đại nhân, cháu của ông đúng là thần tiên hữu đạo.
                            Chuyện gì khác không cần bàn, chỉ nói chuyện anh ấy ban cho một chén rượu tiên, đã khiến căn bệnh tiểu đệ ôm nửa đời người, lập tức dứt hẳn. Chẳng phải diệu đạo của thần tiên thì là gì ?
                            ---------------------------
                            (1) 12 năm.

                            Bản thân Hàn Dũ, mấy năm gần đây, cơ thể suy nhược, thường thấy đau lưng chịu không nổi, lại thêm chứng lãng tai, hoa mắt, vừa uống rượu xong lập tức mắt sáng, tai nghe rõ, mà xương cốt cũng cứng cáp, dễ chịu vô cùng, cảm động trong lòng. Nghe Lưu đại nhân nói, bất giác gật đầu vài cái, cười với Tương tử, và nói :
                            - Chẳng phải chú muốn làm khó gì cháu, nhưng cháu hãy trổ phép thuật làm hoa nở, để các vị đại nhân có hứng thú uống rượu.
                            Tương Tử vâng lời, hỏi mọi người coi ai thích ngắm hoa gì ?
                            Mọi người cố ý nói ra những loại hoa không nở vào thời điểm này.
                            Tương Tử làm ra vẻ khó khăn, nói :
                            - Những cây hoa đó, lúc này gốc rễ đã tàn lụi, cành cây khẳng khiu. Bây giờ biết tìm đâu ra những loài hoa đó ?
                            Hàn Dũ nói liền :
                            - Thấy ngay mà, cháu chỉ nói toàn là chuyện nhảm nhí.
                            Tương Tử đáp :
                            - Xin chú đừng nóng vội. Hôm nay là ngày đại thọ của thúc thúc, cháu từ xa về đây để làm gì ? Nếu đem kỹ năng nhỏ nhặt ra làm trò đùa, không khỏi mang tiếng thiếu thành kính. Trên đời lúc này tất nhiên không có loài hoa đó, chỉ còn cách lên vườn hoa của Vương mẫu, mượn về là được.
                            Hàn Dũ vội hỏi :
                            - Vườn hoa của Vương mẫu cách đây bao xa ?
                            - Nói tới lộ trình, nếu cưỡi mây bay đi, cũng phải mất chừng năm, ba năm, nếu là người phàm trần cuốc bộ phải mất hai, ba ngàn năm. Nhưng cảnh tượng thần tiên, vốn là hư hư, thực thực, núi Linh sơn ở ngay trong đầu ta, tiên cảnh gần gụi trong gang tấc. Đường lên vườn hoa Vương mẫu, cháu chỉ coi như từ trong này bước ra ngoài cửa.
                            Nói rồi, bước ra sân, hướng lên không trung, đưa tay vẫy. Mọi người đều nghe rõ có tiếng xào xạc, một đàn hạc trắng rất đông bay tới. Tương Tử nói :
                            Xin các vị đại nhân đừng cười. Đây toàn là các bạn đồng đạo của tôi từ kiếp trước. Nay tôi phải nhờ họ đi mượn hoa đem về.
                            Mọi người đều khuyên : chẳng nên phí tâm sức như thế. Tương Tử không nghe, dặn dò đám hạc trắng vài câu. Chúng liền bay đi, cao vút tầng mây, chốc lát biến mất. Tương Tử lại vào bàn tiệc, cùng mọi người vui uống. Hồi lâu, lại nghe tiếng hạc kêu lanh lảnh, mọi người cùng ra sân. Ngửng đầu nhìn lên, thấy vô số hạc trắng, đem về ngàn vạn loại danh hoa. Tương Tử cười nói :
                            - Đây là Vương mẫu chiếu cố bần đạo, thấy những con hạc do tôi sai đi, không mang hết được số hoa, nên đặc biệt phái những hạc tiên trong vườn, vác đỡ về đây.
                            Câu nói chưa dứt, đám hạc đã bay xuống, đậu đầy trong sân, lắc mình một cái, biến ra các đồng tử mày thanh mắt sáng, đem những bông hoa bầy khắp đại sảnh. Mọi người nhìn ngắm, thấy có những loài hoa đặc sản của một số địa phương, có những loài hoa nở ra ở các mùa khác nhau trong năm. Lại có loài hoa người trần gian chưa từng nhìn thấy bao giờ. Tất cả đều phô mầu sắc rực rỡ, tỏa hương thơm ngát khắp phòng. Trong đó, còn có một đóa hoa cực lớn, trồng trong một chiếc chậu lớn, bằng ngọc bích. Hình dạng hoa đó như hoa mẫu đơn, nhưng lớn hơn rất nhiều. Bông hoa phát ra ánh sáng lấp loáng, hiện rõ hai câu thơ :
                            “Ải Lam, tuyết ngập khó qua
                            Núi Tần, mây tỏa, quê nhà thấy đâu ? ".

                            Hàn Dũ hỏi :
                            - Vậy là ý gì ?
                            Tương Tử đáp :
                            - Đó là chuyện tương lai của thúc phụ. Thiên cơ khó tiết lậu, cháu chẳng dám nói trước. Chú cứ ghi nhớ lấy, sau này sẽ thấy ứng nghiệm.
                            Bấy giờ, Tương Tử thấy thúc phụ đã có ý tin đạo, sau khi tiệc tan, lại khổ công khuyên nhủ lần nữa. Nhưng Hàn Dũ chưa dứt tục tình, chẳng chịu nghe theo, Tương Tử đành buông một câu : - "Xin trân trọng tạm biệt !", lại trở về núi Tung sơn.
                            Một năm sau, Hàn Dũ vì dâng biểu can gián vua về việc rước cốt Phật, đã đắc tội, bị đày đi Triều Châu, thuộc vùng Lĩnh Nam.
                            Tới ngày lên đường, Hàn Dũ dẫn theo hai tên gia đinh. Tới một nơi nọ, bị lỡ độ đường, trời lại giáng xuống một trận mưa tuyết rất lớn, toàn thân ướt lạnh, bụng đói meo. Người già lâm vào hoàn cảnh này, quả thật là quá sức chịu đựng. Hai tên gia đinh ngồi co ro bên nhau, dưới một gốc cây, không ngó ngàng gì tới chủ nhân, còn buông lời oán hận chủ nữa. Hàn Dũ bất giác ngước mặt nhìn trời, cất tiếng than dài :
                            - Hàn Dũ ta một đời trung thực, dốc lòng tin đạo thánh hiền, vì sao lúc tuổi già còn mắc nạn, rơi vào tình trạng này ?
                            Hai tên gia đinh nghe được, nói to tiếng :
                            - Đại nhân bất tất phải nói những lời oán thán. Đang yên lành ở trong triều làm quan, ông lại nói ra những lời cuồng ngôn, chọc giận thánh thượng, rõ ràng tự chuốc lấy vạ. Đến nay gặp phải thảm báo. Chỉ tội nghiệp cho hai chúng tôi, lỡ gửi thân vào quí phủ, những tưởng được sống yên lành, có việc làm ăn đàng hoàng, ai ngờ điều tốt lành chưa thấy đâu, đã phải theo chân ông, chịu nhiều khổ sở. Đường phía trước còn xa, Triều Châu lại là nơi nước độc, rừng thiêng, chúng tôi thật tình chịu không nổi vất vả. Trong nhà chúng tôi, từ người già cả đến đứa trẻ thơ, đều trông cậy vào chúng tôi để sinh sống, lỡ chúng tôi có bề gì, lấy ai nuôi họ ? Xin đại nhân thông cảm, tự đi một mình, chúng tôi phải tìm đường khác mà đi thôi.
                            Hàn Dũ nghe vậy, kinh hãi nói :
                            - Hai ngươi bỏ đi, để ta ở lại một thân già, chịu chết đói, chết rét dọc đường hay sao ?
                            Hai người kia cười nhạt, nói :
                            - Ông nói tức cười thật. Ông chỉ biết nghĩ đến ông, coi tính mạng lão gia của ông là khẩn yếu, mà không nghĩ tới những người dưới như chúng tôi, sinh mạng cũng quan trọng như ông vậy.
                            Hàn Dũ nghe chúng nói những câu vô lễ như thế, tự nghĩ lại cả cuộc đời mình, từ lúc trẻ đến lúc già, chưa từng bạc đãi người dưới. Riêng hai người này, từ đời cha mẹ đã vào hầu hạ trong phủ, kể là tình nghĩa chủ tớ đã hai đời, được thân phụ ông nuôi nấng tử tế, ngoài tiền công trả sòng phẳng, còn bỏ tiền cưới vợ cho người làm công, lập thành gia thất, những chi phí đó đều do Hàn phủ ban cho. Lần này bị biếm đi Triều Châu, ông mới đặc biệt kén chọn hai người này, cho đi theo, nào ngờ chúng không chịu nổi đói lạnh vất vả bỏ ông lại dọc đường như thế này. Cho thấy ở trên đời, lòng người không thể trông cậy.
                            Suy nghĩ đến đó, ông mới tìm lời thương lượng với hai tên gia nhân. Thương lượng không hiệu quả, ông nổi nóng, mắng chúng một trận. Chẳng dè, hai đứa đã rắp tâm làm phản, dùng lời dịu ngọt năn nỉ, còn chẳng ăn thua, huống hồ là chửi mắng ? Hai người nghe chửi, liền vác hành lý của Hàn Dũ lên vai, đồng thanh nói : "Xin lỗi ông chủ, chúng tôi không thể hầu hạ" vội vã bỏ đi liền. Hàn Dũ biết có đuổi theo chúng cũng không kịp, đành để mặc chúng đi, cũng chẳng nghĩ tới chuyện chạy theo để đòi lại đồ vật Lúc đó, tuyết rơi ngập trời, đằng trước không thấy thôn làng, đằng sau không có chỗ trú chân. Nhìn quanh, chỉ thấy một vùng rộng lớn mấy chục dặm đều là bình nguyên, tuyết phủ trắng xóa.
                            Cũng may bên mình còn con ngựa bạch, hai tên giặc lưu tình, không cướp đi mất. Ngoài con ngựa đó ra, không nhìn thấy một động vật nào khác. Còn như con người, đừng trông mong được thấy. Hàn Dũ lúc đó lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan, lại tự cảm thấy từ tinh thần tới thể xác, đều không kham nổi việc qua đêm lạnh, dưới ánh trăng. Vả lại qua một đêm rồi, sáng mai chẳng biết có tìm được thôn làng hay không, và tìm ra con đường nào để tới Triều Châu đây ? Tưởng nghĩ bản thân đã già rồi, rốt cuộc không thoát khỏi cảnh xin ăn dọc đường, giữa chốn nhân gian. Suy nghĩ lung tung, không tìm ra cách giải quyết. Trời đã sập tối, tạm thời hãy quất roi cho ngựa tiến lên. Nào ngờ con ngựa cũng không chịu đựng nổi lạnh giá, khuỵu hai chân xuống đất, không chịu đi nữa. Ngay cả chủ nhân cũng chìm trong lớp tuyết, không thể cử động chân tay. Hàn Dũ lúc đó khổ sở vô cùng, muốn chết cho xong. So với chết bằng dao đâm, chết bằng thuốc, chết vì treo cổ, chết chìm dưới nước, thì chết vì vùi lấp dưới tuyết vẫn sạch sẽ hơn. Nhưng bản thân ta là quan đại thần, chẳng thà chết vì quốc pháp còn hơn bắt chước kẻ đàn ông, đàn bà tầm thường, tìm cái chết lãng nhách. Nghĩ đến đó, liền mím môi, cắn răng, nhắm chịt hai mắt, không quan tâm tới những bông tuyết lớn đập lên thân mình. Gió bấc thổi, lạnh buốt, đập vào mặt, đau rát. Tiếng con ngựa bạch hí lên, nghe thê lương, dường như cũng không muốn để lọt vào tai.
                            Hàn Dũ nằm vùi dưới đống tuyết một thời gian dài, sắc trời đã tối mịt. Bỗng nhiên, ông mở mắt ra nhìn, thì... Ô kìa, một cảnh tượng lạ lùng hiện ra. Rõ ràng mình đang nằm vùi dưới tuyết, ở giữa chốn đồng không mông quạnh, không hề có nhà cửa, thôn xóm, đã di chuyển hồi nào mà hiện giờ mình ở trong một gian lương đình ? Chẳng những thế, còn có con ngựa bạch cùng chung hoạn nạn, cũng đang nằm cuộn tròn dưới đất, thở khò khè. Hàn Dũ kinh ngạc vô cùng, cứ tưởng mình đang nằm mơ. Nhất thời, ông phấn chấn tinh thần, lồm cồm ngồi dậy, đưa mắt nhìn quanh, thấy phía đối diện là một chiếc giường. trên đó một đạo nhân trẻ tuổi đang ngồi ngay ngắn. Thấy Hàn Dũ tỉnh dậy, đạo nhân vội đứng lên, tiến lại gần bên Hàn Dũ, mỉm cười, nói :
                            - Thúc phụ còn nhớ thằng cháu Tương Tử này hay không ?
                            Hàn Dự định thần nhìn kỹ, nhận ra người cháu Hàn Tương Tử, đứng trước mặt mình mà cười, hiểu ngay ra Tương Tử đã thi triển thần thông, tới cứu mình, mừng rỡ không biết để đâu cho hết.
                            Hàn Dũ cảm động trong lòng, bầu nhiệt huyết nổi lên, khiến ông không nén được lòng, vội ôm chầm lấy Tương Tử, nước mắt rơi lã chã, hổn hển nói :
                            - Cháu ngoan của ta, ta không dè nổi được gặp cháu ở đây, cứ tưởng chú cháu ta gặp nhau trong mộng.
                            Tương Tử đỡ chú ngồi lên giường, nhắm vào ông hà hơi ba lần. Hàn Dũ chợt cảm thấy mình trẻ ra, toàn thân ấm áp, tinh thần tăng gấp bội, chẳng những quên hết nỗi khổ sở vì tuyết lạnh, mà cảm giác về những nỗi vất vả đường dài trong mấy ngày qua cũng tiêu tan tất cả. ông đứng ngay dậy, bước tới vài bước, thấy con ngựa đang nằm thở khò khè, dường như đang hấp hối, liền yêu cầu Tương Tử chữa trị cho nó. Tương Tử lại nhắm vào con ngựa, phà một hơi thở, con ngựa liền đứng bật dậy, hướng về phía chủ nhân gật đầu vài cái, ra dáng cám ơn. Tương Tử bất giác thở dài, nói :
                            - Vật còn như thế, người lại thua sao ? Người đời vì danh, vì lợi toan tính vất vả, đến khi sắp chết, lại cầu mong được sống hết tuổi thọ, chết an lành trên giường. Kết cuộc đó chẳng đáng thương xót than thở lắm sao ?
                            Hàn Dũ lúc bấy giờ đã hiểu rõ tiên đạo là vĩ đại, hết lòng hướng về thần tiên đại đạo, nhớ lại trước đây đã nhiều lần xua đuổi Tương Tử, lòng rất hổ thẹn, ăn năn. Tương Tử hiểu được ý chú, ngỏ lời an ủi, khen ngợi. Hàn Dũ nhân đó hỏi cho biết nơi này là đâu, Tương Tử nói :
                            - Thúc phụ còn nhớ câu thơ hiện ra trong khóm hoa hay không? Chỗ này có tên gọi là Lam quan.
                            Hàn Dũ vừa nghe, liền nhớ ra, nói lớn tiếng :
                            - Số đã định trước, tránh đâu cho khỏi ? Chú đã nhớ ra câu thơ của cháu, nay lại gặp nhau ở đây, không thể không làm một điều gì để kỷ niệm.
                            Nhân đó, sáng tác một bài thơ Đường luật, cất cao giọng ngân nga :
                             “Sáng dâng biểu quyết can vua
                            Chiều nhận chiếu biếm cõi xa ngàn trùng
                            Đã lòng ngăn tệ trừ hung
                            Trung trinh dám quản long đong thân già
                            Ải Lam tuyết ngập khó qua
                            Núi Tần mây tỏa quê nhà thấy đâu ?
                            Cháu theo chú đến Triều Châu
                            Xương tàn ta đó liệu sao lượm về .
                            (Cao Bá Vũ chuyển lục bát, theo nguyên tác :
                            “Nhất phong triều tấu cửu trùng thiên
                            Tịch biếm Triều Châu lộ bát thiên
                            Bản vị thánh triều trừ tệ sự
                            Cảm tương suy hủ tích tàn niên ?
                            Vân hoành Tần lĩnh gia hà tại ?
                            Tuyết ủng Lam quan mã bất tiền
                            Tri nhữ viễn lai ưng hữu ý,
                            Hảo thu ngô cốt chướng giang biên")

                            Từ đó, Hàn Dũ một lòng hướng Đạo. Tương Tử lại dẫn chú đi gặp hai vị sư phụ Chung, Lã của mình. Hai ông nói cho Hàn Dũ biết chuyện kiếp trước. Hàn Dũ vốn thông minh tuyệt đỉnh, lại có tiên duyên, tự nhiên là dễ tỉnh ngộ. ông tu đạo chưa đầy mười năm, tâm tính đã sáng rõ. Về sau, ông lên núi Thiếu Thất, thuộc tỉnh Hà Nam để tu đạo, được Thái Bạch kim tinh dẫn lên trời, triều kiến Ngọc đế, được khôi phục chức cũ. Trên đây là những cố sự được người đời truyền lại, nói về việc “Tương Tử chín lần độ cho Văn Công”.
                            Tương Tử sau khi độ thoát Hàn Dũ, lại về nhà độ cho mẹ là Từ phu nhân được thành địa tiên. Việc nhà đã xong, chàng lại về núi Tung sơn, tiếp tục luyện tập Huyền kinh.
                            Đến đời nhà Bắc Tống, Vương Nhất Chi được Thiết Quài tiên sinh cứu độ, lại sinh ra đời, làm em trai bà Tào thái hậu, có tên là Tào Đại, được người đời gọi là Tào quốc cữu. Ông này nhất tâm tu đạo không lưu luyến hồng trần, Thiết Quài tiên sinh mới kêu Lã tổ cùng Hàn Tương Tử tới khảo nghiệm một hồi. Biết được Tào quốc cữu có đạo tâm vững chắc, Tương Tử mới ở lại trong phủ quốc cữu đích thân chỉ điểm đại đạo cho quốc cữu.

                            #89
                              bevanng 23.07.2008 10:02:22 (permalink)
                              Hồi Thứ 97

                              Cây đu giăng mắc trong lỗ đồng tiền
                              Cứu mẹ hiền, kết liễu nghiệt duyên trần thế.


                              Tào quốc cữu là em ruột bà Tào thái hậu đời nhà Tống, gồm hai anh em, người anh là Tào Đại, người em là Tào Nhị. Tuy cùng một mẹ sinh ra, hai người có tính tình và hành vi khác hẳn nhau.
                              Quốc cữu có tính nhân từ, trung hậu, thích yên tĩnh, nói năng nhỏ nhẹ, không hề tranh chấp với đời. Tuy là người trong chốn phồn hoa, ông không từng dự nghe việc triều chính. Nhưng hễ có ai gặp khó khăn, cầu xin giúp đỡ, ông đều làm theo hết khả năng, ra sức giúp đỡ. Vì thế, người ta ai cũng gọi ông là đại thiện nhân. Tào Nhị tính khí khác hẳn, nham hiểm độc ác, lại coi tiền bạc như tính mạng. Tuy làm quốc cữu, mà tính khí biển lận, thường dựa vào thế hoàng thân quốc thích, để áp bức dân thường, tìm cách bóc lột người khác, ra sức vơ vét cho đầy túi tham. Trong vòng vài chục năm, trở thành giầu sụ, cũng không cần biết mình đã hại chết bao nhiêu mạng người, phá tán bao nhiêu gia đình. Quốc cữu nhiều lần khuyên can, hắn chẳng chịu nghe, đành phải tâu rõ với thái hậu, rồi hai anh em chia nhà ra mà ở. Tuy nhiên, trước sau gì thì hai người vẫn ở chung một thành, có chuyện gì xảy ra cũng không tránh khỏi người ta nắm đầu ông anh mà kiện cáo. Những người bị Tào Nhị hại thường tìm tới quốc cữu khóc lóc mà tố cáo, hoặc khẩn cầu ông giúp đỡ. Quốc cữu không thể làm gì được em trai, chỉ biết làm hết sức mình, rốc túi ra mà bồi thường người ta. Ông lại không ham của cải, tiền bạc tới nhà ông mà không có lý do chính đáng, ông chẳng chịu nhận. Ông cũng có tính cần kiệm, việc chi tiêu trong phủ vô cùng dè sẻn. Lại vì việc của Tào Nhị, phải đền bù thay cho hắn cũng mất nhiều tiền bạc, nên trong có vài năm, mang danh là quốc cữu gia, mà nhà nghèo rớt mồng tơi. Bản tâm ông chỉ ưa thích đại đạo, những gì là công danh, lợi lộc, ông chẳng bận tâm. Mang danh là hoàng thân quốc thích ông không màng tới chuyện giàu nghèo, ăn cơm rau, mặc áo vải cũng được rồi. ông thường nói với mọi người :
                              - Ta đội ơn hoàng gia, không cầy có ăn, không dệt có vải may áo. Trong lúc người khác phải vất vả mưu cầu cuộc sống, ta được ở yên trong nhà để đốt nhang, thành tâm lo việc tu đạo, thì phúc khí ấy, không biết ta đã tu mấy kiếp mới được ? Chẳng dè em trai ta, suốt ngày chỉ nghĩ tới chuyện cướp đoạt tiền bạc của người khác. Không biết nó gom góp tiền bạc cho nhiều để làm gì . Nếu nói là cần chi dụng cho việc ăn mặc, thì mỗi người chỉ có một miệng để ăn, một thân để khoác áo, sao không so sánh với ta là người không tiền, cũng ăn uống đầy đủ, cũng quần áo như ai ? Nếu nói là để lại cho con cháu, thì đáng thương cho hai công tử nhà đó, vì được cung cấp tiền bạc quá mức, đã trở thành mấy chàng công tử bột, ngoài chuyện cờ bạc, đĩ điếm ra, không có chút bản lãnh nào, thật khác xa với hai đứa con trai tôi, chỉ biết chăm lo đọc sách, tuy không có gì đặc sắc cũng tránh được miệng đời chê bai, nói con cháu các ông hoàng thân quốc thích toàn là những kẻ đầu rỗng tếch, mà quần áo thì lòe loẹt .
                              Tào quốc cữu từ khi được hơn hai mươi tuổi, đã tu đạo, ăn chay trường. Ba mươi tuổi, được hai vị tiên Lã Động Tân, Hàn Tương Tử đích thân tới nhà khảo sát đạo tâm, kết quả là rất hài lòng. Lúc chia tay, hai ông hiển xuất chân thân, vọt lên trời mà ra đi. Tào quốc cữu trông thấy, tin chắc trên đời quả có thần tiên, đạo tâm càng thêm kiên định.
                              Về sau, Hàn Tương Tử lại tới nhà Tào quốc cữu, cùng ông bàn về đại đạo trong ba ngày liền. Sau đó, Tương Tử quyết định ở lại luôn trong phủ quốc cữu. Thỉnh thoảng, Tương Tử phải lên Bắc, xuôi Nam, nhưng hễ xong công việc, liền trở về ở với Tào quốc cữu.
                              Thấm thoát đã hơn mười năm, nhân thấy Tào quốc cữu thành tâm tu đạo, đạt được đạo hạnh kha khá, hiểu được nhiều phép thuật, Tương Tử mới bảo ông ráng đợi thêm vài năm nữa, lúc em trai ông tội ác chất đầy, nghiệp ông mới mãn. Lúc đó, ông có thể xuất gia, đi du sơn ngoạn thủy, đoàn luyện gân cốt. Quốc cửu nghe vậy, biết em trai mình ắt có kết quả không tốt, mà ông là người rất hiếu hữu, nên cảm thấy trong lòng rất buồn thương, từng đem ý Tương Tử nói mí mí cho em trai biết, có ý cảnh tỉnh. Nhưng Tào Nhị cả một đời chỉ biết có tiền tài, nên những gì là báo ứng, là đại đạo, hắn hoàn toàn không để tâm. Có lúc quốc cữu khuyên răn quá tha thiết, dường như muốn khóc, Tào Nhị lại cất tiếng cười ha hả, nói huynh trưởng là đồ si ngốc, e rằng sau này biến thành bệnh điên mất thôi. Hắn liền tới thái y viện mời một quan thái y, về phủ quốc cữu, xem mạch cho anh trai. Ông thầy thuốc tới nhà, thấy quốc cữu chẳng có bệnh tật gì cả, mới hỏi duyên do. Thì ra là Tào Nhị, vì lòng hữu ái, đã mời thầy thuốc về trị bệnh tim cho huynh trưởng. Quốc cữu lâm vào hoàn cảnh dở khóc dở cười, đành cảm tạ thầy thuốc, tiễn ông ta về. Tương Tử nghe biết sự tình, cười ngất, nhân đó nói với quốc cữu :
                              - Em ông tội ác ngút trời, có chặt một rừng tre mà ghi chép, cũng không hết tội. Kết cuộc của ông ta đã định sẵn dưới âm ti, ông làm sao cứu nổi ?
                              Quốc cừu khóc mà rằng :
                              - Đệ tử lẽ nào không biết hạng người đó, ngu như heo, hiểm độc như chồn, tham lam như sài lang, vốn không thể nói lý lẽ được Nhưng ở địa vị làm huynh trưởng, đệ tử cũng không thể không ngăn ngừa nó khỏi lún sâu vào tội lỗi, lại không đủ tài khuyên nhủ, dẫn dắt nó vào đường chính, nên lòng này cứ canh cánh lo âu, làm sao yên được . Đệ tử chỉ biết làm hết sức mình, nếu có thể lôi kéo nó ra khỏi ác niệm được một phần nào, cũng kể như đã làm tròn trách nhiệm của trưởng huynh rồi. Còn nghe hay không nghe, sửa đổi hay không sửa đổi, là quyền của nó, đệ tử làm sao ngăn được ?
                              Tương Tử nghe vậy, than thở không dứt.
                              Một hôm, đúng vào ngày sinh nhật của quốc cữu, Tào Nhị kéo cả gia đình tới phủ uống rượu mừng. Quốc cữu rất ghét sự phiền nhiễu, không mời một người bạn nào. Chỉ riêng trong chỗ cốt nhục tình thân, không thể không theo đúng lễ nghi, đặt một tiệc rượu, ăn uống vui vẻ trong gia đình. Trong tiệc, Tào Nhị chỉ nói toàn những chuyện trong vòng danh lợi, quốc cữu chỉ bàn tới đạo lý, hai anh em mỗi người đề cập tới một lãnh vực, hoàn toàn trái ngược nhau. Quốc cữu chợt nghĩ tới một sự việc, rời bàn tiệc, nói :
                              - Hôm nay là ngày sinh của anh, chú thím và các cháu tới uống chén rượu mừng, ngu huynh xiết bao cảm kích. Ngu huynh mới học được một trò chơi nho nhỏ, xin đem làm thử, để mọi người hứng thú uống rượu, được không ?
                              Vợ chồng Tào Nhị đều nói :
                              - Ít khi thấy huynh trưởng vui vẻ như hôm nay, chúng tôi xin hoan nghênh.
                              Đám trẻ con nghe nói có trò vui, lại càng hoan hỉ, đứng dậy tất cả xúm lại vây quanh quốc cữu, coi ông trổ phép thuật. Quốc cữu sai người đem tới một đồng tiền, có lỗ ở giữa, buộc hai sợi dây bắt chéo nhau thành hình chữ "thập",ở giữa lỗ đồng tiền. ông cầm đồng tiền trong tay, giơ cao lên, thổi một làn hơi, miệng niệm lâm râm, rồi hô to . "Lớn lên ! Lớn lên !" Đồng tiền lớn dần lên, giây lát to bằng một thanh la (1) rất lớn. Quốc cữu lại nhắm mắt niệm chú, được một con chuột lớn. Quốc cữu bắt con chuột, bỏ lên sợi dây giăng trong lỗ đồng tiền, hô to . "Mau !". Tức thì con chuột chạy trên hai sợi dây giăng, chạy lên chạy xuống, qua Đông qua Tây, không ngừng nghỉ. Mọi người nhìn thấy, cười ha hả, reo hò ầm ĩ.
                              Tào Nhị vỗ tay tán thưởng, nói :
                              - Huynh trưởng quả thật có bản lãnh, có hứng thú. Chỉ một con chuột, cũng bầy ra được một trò chơi. Nhưng không biết huynh trưởng đã huấn luyện nó từ hồi nào, mà khiến nó leo lên leo xuống, chạy tới chạy lui, mà không bao giờ ra thoát lỗ đồng tiền ? Nhưng nếu nó ra khỏi vòng kiềm tỏa, chắc là hứng thú hơn nhiều.
                              Tào quốc cữu cười, nói giọng bình thản :
                              - Chà, hiền đệ có ý nghĩ hay đấy. Chú muốn con chuột nhẩy ra khỏi lỗ đồng tiền chứ gì ? Ôi, con chuột này là đồ ngu xuẩn, chỉ biết chạy lung tung, càng chạy càng cuống quít, bế tắc, rốt cuộc chẳng bao giờ thoát ra khỏi lỗ đồng tiền. Chỉ chừng nào nó mệt quá, lăn ra chết mới thôi. Thật đáng thương, thật đáng cười ? ông vừa nói vừa đưa mắt nhìn lén Tào Nhị. Nào ngờ Tào Nhị thật tình ngoan cố và nham hiểm. Chẳng biết hắn có hiểu thâm ý huynh trướng hay không, cứ một mực cười giễu. Quốc cữu thấy em trai hồ đồ như thế, lại vừa lúc con chuột lao xuống vị trí thấp nhất, ông mới bắt lấy nó, đem thả ra, và nói :
                              - Trò chơi này có tên gọi là "quẩn quanh trong lỗ đồng tiền", và dường như đồng tiền này có một ma lực rất lợi hại, khiến cho con vật nào lọt vào trong đó không thoát ra được. Trò đánh đu sau đây cũng như vậy.
                              Nói rồi, ông cởi sợi dây chữ thập ra, đem hai đầu dây buộc vào một thanh gỗ nhỏ, tạo thành hình dáng một cây đu. ông lại thổi một làn hơi, hô to một tiếng, đồng tiền lại lớn bằng một thanh la. Ông lại niệm chú, bắt về một con thỏ trắng, bỏ nó lên cây đu. Con thỏ ra sức đu, lúc lên cao, lúc xuống thấp, hiến khán giả một trận cười lăn lộn. Quốc cữu thấy em trai không để ý gì tới trò chơi này, bất giác buồn rũ trong lòng, rồi không nhịn được nữa, mới buông tiếng thở dài, nói:
                              - Mấy người coi đó, con thỏ này thật là ngu xuẩn, cũng như con chuột lúc trước vậy. Nó chịu áp lực của đồng tiền, cứ bám chặt lấy cây đu không rời xa một phút nào, ra sức đu lên, đu xuống, kết quả là kiệt sức, lăn ra chết. Nó chết rồi, đồng tiền lại vào túi ta thôi. Thật đáng thương, thật đáng cười ?
                              Tào Nhị nghe tới đây, mới thấy nóng mặt, đỏ bừng hai má, nhưng lại đổi ngay thái độ, cất tiếng cười như điên như cuồng, nói :
                              - Hay lắm, hay lắm. Huynh trường đừng bầy trò chơi nữa. Chúng tôi đến đây để uống chén rượu mừng, chẳng ngờ huynh trưởng lại đem con thỏ, con chuột ra chê cười chúng tôi, là một lũ ngu xuẩn, chỉ biết đánh đu, leo trèo, không hưởng một chút hạnh phúc nào.
                              Quốc cữu thu nhặt đồng tiền, thả con thỏ ra, nâng cao chén rượu của mình, cụng ly với em trai, nói :
                              - Muốn hưởng hạnh phúc, phải vĩnh viễn rời khỏi hoàn cảnh hiện tại. Người đời bị hấp lực của đồng tiền, không thể tự do tự tại tiêu dao theo ý mình, cả đời lo việc mưu sinh, vì danh vì lợi, đến khi thần chết tới, có khác gì con chuột, con thỏ kia, long đong vất vả làm trò cười cho chúng ta ? Vì thế, kẽ sĩ thông đạt rất trọng mối học về tính mạng, cầu đạo trường sinh. Những đồ vật chúng ta hiện có, dù ngắm thấy đẹp cỡ nào, dùng có tốt cách mấy, chung qui cũng chỉ như đồng tiền này, ta nắm trong tay, hoàn toàn không thuộc về ta cất giữ, chẳng qua ta chỉ là một kẻ nô tài, tạm thời cất giữ giùm cho thiên hạ mà thôi. Vàng bạc, tiền của, gấm vóc ta càng tích góp cho nhiều, càng mang khốn khổ vào thân, lại có thể nguy tới tính mạng nữa. Thật tình, người đời hầu hết đều mắc phải sai lầm đó.
                              Quốc cữu bàn luận một hồi, tự cho rằng mình đã khổ tâm khuyên giải em trai, lời lời rành rẽ. Nào ngờ Tào Nhị nghe nói, lời lời đáng ghét, chỗ nào chỗ nấy đều đáng hận. Đang nghe, hắn quay sang bắt chuyện với bà vợ quốc cữu, ngầm chê bai huynh trưởng nói nhiều mà chẳng đi đến đâu. Quốc cữu thấy vậy, bầu nhiệt tâm nguội ngắt, cảm thấy những lời Tương Tử nói với mình trước đây, chẳng sai chút nào. Tào Nhị đã mê lầm đến thế, mình nói chỉ như nước đổ lá khoai, còn khiến em trai chán ghét, tình cảm anh em mất hết. Chẳng qua là số đã định, làm sao cứu vãn ?
                              Thôi thì, đường ai nấy đi, đành đợi khi mình tu thành đại đạo, thấy nó trầm luân trong biển khổ, lại tìm cách cứu vớt nó, họa may được phần nào chăng ? ông đem ý đó nói với Tương Tử,
                              Tương Tử đáp :
                              - Tôi đã sớm nói trước với ông rồi. Việc này có số định trước, ông vì tình cảm anh em, biết làm không được, nhưng vẫn làm, đó là lòng tốt của ông. Vì thế, tôi không nó ngăn trở, để ông tận tâm tận lực vì em trai thôi. Thật tình việc làm đó không có chút tác dụng nào.
                              Quốc cữu lặng yên, không nói. Tương Tử khuyên ông bỏ qua chuyện người khác, sớm nghĩ tới tiền trình của bản thân, mới là khẩn yếu. Quốc cữu nghe lời dạy dỗ, từ đó ra công, gắng sức lo việc tu đạo của mình.
                              Tương Tử được các vị tiên yêu cầu cùng đi Thái sơn, liệu lý công việc của mẹ con Vương Thái, đành tạm biệt cùng Tào quốc cữu, ước hẹn ba năm sau sẽ gặp lại nhau tại đỉnh núi Hành sơn. Quốc cữu ở lại ghi nhớ lời dặn, tĩnh tâm tu dưỡng trong nhiều năm.
                              Quả nhiên sau này, Tào Nhị bị nhân dân tố cáo, các quan ngự sử hạch tấu, hoàng thượng có chỉ giao xuống cho tam pháp ti điều tra sự thật. Bấy giờ, thái hậu mất đã lâu., trong triều đã thay đổi cảnh tượng. Phe nhóm cũ của Tào Nhị đều mất chức, về vườn, thế lực suy giảm hết. Tào Nhị bị tam pháp ti xét xử, lập tấu chương dâng lên, đòi xử tử Tào Nhị. Hoàng gia khai ân, chỉ sung công tài sản, miễn cho toàn gia hình phạt phát phối. Riêng Tào quốc cữu, từ lâu không dự nghe chuyện triều chính, không từng kết giao với người ngoài, nên tránh khỏi liên lụy. Quốc cữu nhân đó đem việc nhà giao hai con trai xử lý, thu liệm hài cốt của Tào Nhị, đem an táng. Công việc xong xuôi, ông mang dép cỏ, chống gậy tre, rời khỏi nhà, lên núi Hành sơn, để gặp Hàn Tương Tử. ông tuy tu đạo đã nhiều năm, nhưng chưa từng rời chân khỏi kinh thành một bước, nay bỗng nhiên một mình lặn lội trên con đường dài, dãi gió dầm sương, tất nhiên không tránh khỏi vất vả. Cũng may, ông đã học được nhiều pháp thuật, chế ngự được tà ma ngoại đạo, nên cũng không gặp phải nguy hiểm gì, có thể bình yên leo lên đỉnh núi Hành sơn. Tương Tử đã có mặt từ trước, chuẩn bị sẵn cho quốc cữu một gian thạch động. Sư huynh đệ gặp nhau, mừng rỡ vô cùng,
                              Tương Tử mới cười, nói :
                              - Ông coi đó, thấy ông đường xa vất vả, tôi đã chuẩn bị sẵn cho ông một nơi ở mới ngon lành. Từ xưa tới nay, những người tu đạo, ít có ai được người khác quan tâm tới như thế. Đó là vì ông đã cẩn thận tu trì mấy trăm năm qua, nên được Thiết Quài tổ sư đặc biệt lưu ý tài bồi cho ông, ngày nay ông mới được tốt số như vậy.
                              Quốc cữu nghe nói, vội hướng lên không trung, dập đầu lạy tạ. Nhân đó, ông hỏi tới việc của Vương Thái, Tương Tử mới nói :
                              - Việc này là do các vị tiên sư chủ trương toàn cuộc từ mấy trăm năm trước, nay chỉ thúc đẩy cho công việc tiến triển tới giai đoạn chót mà thôi. Thật tình, nhân vật chủ yếu trong việc này chỉ có một mình Hà đại tiên cô. Chuyện lần này là do Nguyên Chân phu nhân kiếp số đã mãn, đến lúc thoát nạn, tiên cô mới triệu tập chúng tôi, cùng tới núi Thái sơn. Lại tới đảo Bồng Lai, vời gọi con trai bà ta là Vương Thái. Mọi người mở một hội nghị, lấy ý kiến của tất cả mọi người, đưa thư tới cho thần Nhị Lang, theo cách tiên lễ hậu binh. Vì năm xưa Vương Xương kết duyên cùng phu nhân, là do Nguyệt lão đứng chủ hôn, nên phải nhờ Nguyệt lão đưa thư tới cho Nhị Lang. Tính khí Nhị Lang ra sao, các vị tiên đã được lãnh giáo một phen rồi. Bây giờ đề cập tới chuyện cũ, không chừng ông ấy lại giận, thậm chí có thể sứt mẻ tình cảm bạn bè, ông ấy không thèm khách sáo nữa. Lá thư gửi đi, quả nhiên Nguyệt lão ôm đầu trở về. Theo Nguyệt lão nói, Nhị Lang vừa nhận được thư, liền lớn tiếng chửi mắng các bạn can thiệp vào chuyện gia đình người khác, lấy số đông áp bức, chẳng còn chút tình bạn nào. Ông ấy còn thách đố chúng tôi, nếu muốn trở mặt động thủ, ông ấy sẽ tâu lên Ngọc đế, xin điều động toàn bộ thiên binh, thần tướng dưới quyền ông, cùng chúng tôi so tài cao thấp một phen. Nghe những lời bất cận nhân tình như thế, chúng tôi sớm biết Nhị Lang quyết không dung tình. Nhưng là chỗ bạn bè lâu năm với nhau, mọi người bảo nhau đừng nên tức giận. Chúng tôi mới dặn nhỏ Vương Thái, báo cậu ta dùng lời nhỏ nhẹ mà giao thiệp, chỉ cầu cứu được mẹ cậu là tốt. Chúng tôi gồm hơn mười vị tiên thiên, đều đem các loại pháp bảo cho cậu mượn, đứng sau lưng cậu hỗ trợ, thì chẳng phải sợ gì Nhị Lang. Vương Thái nghe mẹ mình bị vùi lấp dưới núi Thái sơn, lòng đau như cắt, muốn đi cứu mẹ ngay. Hà tiên cô phải ba, bốn phen can ngăn, sau đó Trương Quả lão lại khuyên nhủ Vương Thái, nói : "Mẹ cháu tuy ở dưới đáy núi, nhưng vẫn được thoải mái như ở trong điện của bà vậy. Hãy đợi tới ngày bà mãn tai nạn, tự nhiên sẽ được xuất đầu. Lúc đó, bằng vào pháp lực của cháu, một ngọn núi Thái sơn muốn bứng đi xa ngàn, vạn dặm cũng chẳng khó khăn. Về phần Nhị Lang, tuy luôn miệng nói ra chuyện thù hằn, nhưng thấy mẹ cháu xuất đầu, cũng biết rằng mẹ cháu đã thoát tai nạn, lẽ nào lại không đáp ứng?". Vương Thái nghe khuyên bảo, mới không nói gì nữa.
                              Về sau, cha của Vương Thái là Vương Xương, tu thành địa tiên, từng tới dưới núi Thái sơn, họp mặt với mẹ cậu. Vương Thái cũng được Hà tiên cô chỉ dẫn, tới đó hội họp. Vợ chồng, cha con gặp nhau ở động phủ, bên dưới núi Thái sơn, cùng khóc lóc bi ai, làm kinh động tới Nguyên Thủy, Lão Quân hai vị tổ sư, các ngài đại phát từ bi, đem sự tình tâu lên Ngọc đế, nói Nguyên Chân phu nhân, vào tháng này năm nay được xuất đầu, phục hồi chức vị. Vì thần Nhị Lang quá quật cường, Vương Thái phải cùng ông cậu tranh cãi rất lâu, lời ngay, ý thẳng, không ngại gì đụng chạm tới ông cậu, chỉ mong cậu hiểu ra mà tha thứ cho mẹ. Được các vị tiên ngầm ủng hộ, Vương Thái càng thêm phấn chấn. Kết quả Nhị Lang phải chấp nhận cho Vương Thái xẻ núi cứu mẹ. Vương Thái dùng chiếc búa thần, niệm chú lâm râm, vạch một con đường hầm xuyên qua núi, vào đón mẹ ra, cùng Nhị Lang gặp mặt. Mẹ con Vương Thái hướng về phía Nhị Lang cúi đầu nhận lỗi, Nhị Lang cũng vui vẻ tha lỗi.
                              Hàn Tương Tử kể xong câu chuyện, lại hỏi thăm tình trạng gần đây của Tào quốc cữu, lại truyền cho ông nhiều điều về Huyền môn đại đạo, bảo ông ở trên núi Hành sơn tu trì. Hai mươi năm sau, Lã tổ lại vâng lệnh Lão Quân ban cho quốc cữu cuốn sách “Linh Hư Ngọc Kíp toàn hàm" của cung Bát Cảnh, quốc cữu đọc luôn trong mười năm trời, mới hoàn toàn đắc đạo, cùng với Lý Thiết Quài, Chung Li Quyền, Lã Động Tân, Hà tiên cô, Lam Thái Hòa, Trương Quả, Hàn Tương Tử, họp thành nhóm bát tiên, mà người đời gọi là "Bát động thần tiên".
                              Đến đây, sách này đã thuật lại đầy đủ lai lịch việc tu đạo của bát tiên. Phần tiếp theo là vài sự việc xảy ra, sau khi bát tiên đắc đạo.

                              #90
                                Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 6 của 7 trang, bài viết từ 76 đến 90 trên tổng số 93 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9