Những cánh mai trước gió(tiểu thuyết về chiến tranh và tình yêu)

Tác giả Bài
spiderkien
  • Số bài : 80
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.04.2007
Những cánh mai trước gió(tiểu thuyết về chiến tranh và tình yêu) - 05.07.2008 02:39:41
Những cánh mai trước gió
                     -Tuỳ Phong-

dựa trên những câu chuyện có thật về chiến tranh Việt Nam



 
Tôi rảo bước trên bờ Hồ trong một chiều thu Hà Nội. Bầu trời sáng trong và nắng cũng rất trong, nếu không để ý thì sẽ không nhận thấy màu vàng trong nắng. Gió chỉ thổi rất khẽ nhưng cũng đủ làm lay lay hàng liễu rủ trên mặt hồ. Đang thả hồn mình trong cảnh hồ thơ mộng, tôi chợt nghe chiếc điện thoại của mình reo:
-         Alô, Hương à- tôi nói.
-         Kiên à. Mình xin lỗi, mình sẽ đến trễ mười lăm phút nha.
-         Ừ, không sao đâu. Mình sẽ chờ.
-         Ok, lát gặp Kiên hen. Bye- Hương dập máy.
 Hương là người bạn chat của tôi. Cô là người ở trong Thành phố Hồ Chí Minh còn tôi là người Hà Nội. Đợt này cô ra Bắc, tôi đã hứa sẽ làm hướng dẫn viên du lịch miễn phí cho cô ở Hà Nội. Chúng tôi hẹn gặp nhau ở Bờ Hồ và cô vừa báo sẽ trễ mười lăm phút, thế là tôi quyết định mình sẽ đi dạo một vòng Hồ. Đã lâu lắm tôi không tản bộ quanh Bờ Hồ, cảm giác ấy lúc nào cũng thật đặc biệt. Hồ Hoàn Kiếm là khu vực tấp nập, náo nhiệt nhất của thủ đô với dòng xe cộ qua lại nhộn nhịp, ở đây có thể dễ dàng bắt gặp những người Tây cao lớn, đủ mọi chủng tộc hay những đôi trẻ yêu nhau đang cặp kè dạo bước. Tuy vậy, ngay giữa khu vực sôi động ấy, tôi lại tìm thấy trong mình một cảm giác thật bình yên. Tôi vừa tản bước vừa tận hưởng cái thư thái trong tâm hồn mình. Tôi đưa mắt nhìn Tháp Rùa ngự ở giữa Hồ, được bao bọc khỏi cái ồn ào, náo nhiệt của chốn đô thành bởi mặt nước hồ dịu êm, sóng lăn tăn gợn nhẹ. Tôi lại ngắm cầu Thê Húc, ngắm đền Ngọc Sơn, ngây người trước vẻ đẹp nhỏ bé, dung dị mà đi mãi vào lòng người của Hồ Gươm. Thế rồi tôi lại bước tiếp, thử khám phá lại những cảm giác mình đã lãng quên. Bất chợt, một cơn gió mạnh nổi lên. Thật kì lạ, trời đang yên dịu bỗng dưng lại có một làn gió mạnh làm rung cả cành cây, cuốn những chiếc lá bay tả tơi. Cơn gió đến rồi đi trong chớp mắt. Tôi chợt nhận ra sau khi cơn gió biến mất, có hai cánh mai vàng rơi trong không trung trước mặt tôi. Tôi giơ tay đón lấy hai cánh hoa, trong lòng bỗng dậy lên một niềm bâng khuâng khó tả…   
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.07.2008 02:44:01 bởi spiderkien >

spiderkien
  • Số bài : 80
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.04.2007
RE: Những cánh mai trước gió(tiểu thuyết về chiến tranh và tình yêu) - 05.07.2008 02:42:23
Chương 1: Hai đóa mai vàng
 
 Thanh Trúc và Khánh Vân là hai chị em xinh đẹp nổi tiếng ở trường nữ sinh Gia Long. Cô chị Thanh Trúc năm nay mười tám học bậc đệ nhất còn cô em kém hai tuổi học bậc đệ tam. Nhiều người bảo hai cô giống như Thúy Kiều và Thúy Vân vậy: “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”. Thanh Trúc đẹp một vẻ mặn mà như như trái xoài thơm vừa đến thì chín ngọt, vỏ ngoài vàng mướt nõn nà nom đã thấy thòm thèm nhưng bên trong thì còn ngọt ngào thơm ngon hơn cả cái ấn tượng mà vẻ bên ngoài đem lại. Khuôn mặt nàng thoang thoảng một nét buồn cao xa, cả những khi cười đùa vui vẻ thì cái nét buồn ấy vẫn phảng phất trên khuôn mặt nàng. Cái nét ấy không phải do nàng hay buồn vẩn vơ mà chính cái vẻ buồn buồn tạo hóa ban tặng trên khuôn mặt đã tạo ra cái tính cách ấy ở nàng. Nhưng giá có phải trở nên buồn bã gấp trăm lần nàng thì năm ngàn nữ sinh trường Gia Long sẵn sàng đánh đổi để được nhận lấy cái sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành ấy. Khuôn mặt nàng thanh tú và hài hòa đến mức tưởng như nó là khuôn mặt bức tượng thần Vệ Nữ do Miken Ănggiêlô tạc nên hay như trong một bức tranh mà danh họa Leonard Da Vinci đã vẽ theo “tỉ lệ vàng”. Cặp môi nàng gợi niềm mộng mơ cho bất kể chàng trai nào vô phúc chạm mặt, khiến họ quên hết mọi lạc thú trên đời mà chỉ ngày ngày mơ tưởng được chiếm hữu làn môi ấy. Cái mũi thanh thanh, hai má trắng hồng dáng hơi bầu bầu, cặp chân mày không quá thưa cũng không quá dày, mọi nét nhỏ trên khuôn mặt nàng dường như đạt đến độ hoàn hảo. Nhưng vượt qua cả mức hoàn hảo là đôi mắt nàng. Đôi mắt trông vừa dịu dàng lại vừa bao dung, trong trẻo như tiếng vĩ cầm và dạt dào chan chứa yêu thương: sông Cửu Long có bao nhiêu nước thì đôi mắt nàng cũng chứa bấy nhiêu tình. Ví thử vua Bảo Đại còn trên ngai thì chắc hẳn Ngài sẽ vui lòng đánh đổi tất cả ngọc ngà châu báu lấy hai viên ngọc quí ấy rồi đặt làm quốc bảo của nước Nam. Cũng không biết chừng nếu đem sắc đẹp của nàng so với Tây Thi của phương Bắc thì ai đẹp hơn ai bởi khi nàng đau bụng phải nhăn mặt thì trông nàng vẫn xinh đẹp tuyệt vời.
 Khánh Vân lại đẹp theo một cách khác. Nàng trẻ trung sôi nổi và tràn đầy sức sống. Nếu cô chị giống như một vầng trăng dịu mát thì cô em lại giống như vầng mặt trời rực rỡ. Khánh Vân có vầng trán cao và đôi mắt linh lợi, những dấu hiệu của sự thông minh, nghịch ngợm và cái tính hiếu thắng y như một đứa con trai của nàng. Không giống chị thường chỉ cười mỉm và nhiều khi lấy tay che miệng, Khánh Vân hay có điệu cười tít mắt mím môi ai trông cũng phải cười theo. Đôi khuyên tai nhỏ của nàng mỗi lần lúc la lúc lắc khi nàng xõa tóc ra cột lại thì khiến bao cậu trai phải ghé mắt theo. Nàng biết thế nên rất hay cột lại tóc. Mười sáu trăng tròn nhìn nàng đã ra dáng thiếu nữ lắm rồi, ai cũng biết là chỉ một hai năm nữa Vân sẽ xinh gái không thua gì Trúc, “mà con bé còn hơn được chị nó cái nết vui vẻ vô tư, số nó về sau chắc sung sướng”, đấy là theo lời mẹ nàng. Khánh Vân thông minh và nhiều mánh nên dù ham chơi nhưng điểm nàng cao chẳng kém cô chị chăm chỉ học hành. Hai chị em đều lần lượt đậu vào trường Gia Long, ngôi trường danh giá bậc nhất Sài Gòn, niềm mơ ước của biết bao nữ sinh phương Nam. Hai chị em mỗi người mỗi vẻ, mỗi người một tính cách trái ngược nhau nhưng lại rất hợp nhau. Trúc bao giờ cũng nhường nhịn Vân, mỗi khi cha mẹ có mua cho Trúc thứ gì Vân thích là Trúc lại nhường cho Vân. Vân thì mỗi khi bị bạn bè “bắt nạt” đều ôm lấy Trúc mà kể tội lũ bạn. Thực ra Vân ghê gớm lắm, chẳng đứa con gái nào bắt nạt được Vân, chỉ cần không làm hài lòng Vân là nàng sẽ làm mặt giận trông đến là ghê, lúc ấy khuôn mặt xinh đẹp như thiên thần sẽ nhanh chóng chuyển thành bộ mặt tàn ác của quỉ dữ. Năm Vân học lớp đệ thất, chỉ vì nhỏ bạn bàn trên không chịu cho Vân mượn tập chép bài giải lại còn nặng lời với cô bé mà Vân mặt hằm hằm, mắt lườm lườm, lệ chảy ròng ròng trên má, khiến nhỏ bạn sợ quá mà phải chép hộ bài giải rồi xin lỗi rối rít. Biết tính Vân nên bạn bè cùng lớp ai cũng nhường nhịn nàng, tránh không để nàng phật lòng. Dù sao theo thời gian lớn dần, tính hiếu thắng của nàng cũng giảm bớt, nàng cũng muốn xóa dần nét con trai của mình để trở thành một thiếu nữ được nhiều chàng trai ngưỡng mộ như chị Trúc.
 Mỗi khi hai chị em duyên dáng cất bước bên nhau trong tà áo trắng, ngực đeo phù hiệu Bông Mai Vàng của trường Gia Long thì không chỉ đám con trai hay chầu chực ngoài cổng trường mỗi khi tan học phải tròn mắt mà cả những nữ sinh trong trường cũng phải xuýt xoa ghen tị. Hai bông mai vàng của đất Sài Gòn-Chợ Lớn này tuy thế lại là con gái gốc Hà Thành. Cha mẹ hai nàng vốn sinh ra ở Hà Nội là những trí thức Tây học quen nhau khi du học ở Paris. Đầu năm 1955, cả gia đình họ chuyển vào Nam sinh sống. Khi đặt chân đến đất Sài Gòn, gia đình họ gần như hai bàn tay trắng, nhưng nhờ bàn tay khối óc mà cha mẹ của hai chị em đã đưa cả gia đình đi lên. Lần lượt làm việc cho người Pháp, chính phủ Quốc gia rồi giờ làm việc cho một công ty dầu lửa của Mỹ, hai người đã gây dựng được cho gia đình một cơ ngơi khá giả, sắm được cả một chiếc xe Ford để đi lại. Đó là năm 1967, những năm tháng ác liệt của cuộc chiến giữa phe Mặt trận giải phóng cùng quân đội miền Bắc với phe Quốc gia cùng quân đội Mỹ và lực lượng Đồng Minh. Nhưng cuộc chiến ấy dường như ở xa lắm, nó đang tồn tại đâu đó trong những cánh rừng nhiệt đới, đối với hai chị em, đất nước này dường như chẳng hề có tiếng súng, trong mắt hai nàng chỉ có mái trường Gia Long mộng mơ thời áo trắng.          
  Một mùa hè nữa chẳng mấy chốc lại sắp đến nhưng đối với Trúc mùa hè này đặc biệt hơn mọi năm. Đây là năm cuối cùng Trúc còn được học ở mái trường này, được học ở cái lớp A6 này. Mẹ bảo nàng những năm tháng dưới mái trường trung học sẽ là những năm tháng đẹp nhất trong đời. Có lẽ mẹ nói đúng. Trúc nhớ lại ngày nàng nhận được tin đậu vào lớp đệ thất, đó là lần đầu tiên nàng làm cho cha mẹ hãnh diện. Gặp ai cha cũng khoe: “Con Trúc nhà tôi đỗ trường Gia Long đấy”. Trúc nhớ ngày đầu tiên đến trường Gia Long, cũng là lần đầu tiên cô bé Trúc mười hai tuổi được mặc áo dài, tất cả mọi thứ đều mới mẻ và thú vị. Ngôi trường mới sao mà to đẹp đến thế, sân trường sao mà rộng thênh thang đến thế. Buổi trưa hôm ấy dường như vừa mới đây thôi. Vậy mà thấm thoát đã hơn sáu năm trời, ngôi trường này đã gắn bó thân thiết, trở thành một phần không thể tách rời của Trúc chẳng khác nào không khí vậy. Những tâm sự ấy khiến Trúc lơ đãng một lúc mải nhìn ra ngoài ô cửa sổ rộng mà không nghe cô giảng. Đấy là một điều ít thấy ở Trúc vì nàng lúc nào cũng chép bài cẩn thận, nhất là trong giờ Lịch sử của cô Xuân. Với chất giọng Huế đằm thắm, cô đã truyền cho học trò tình yêu quê hương đất nước, yêu lịch sử đau thương với bao cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của cha ông. Thấy Trúc lơ đễnh, nhỏ Phụng ngồi cạnh bèn hỏi:
-         Mắc chứng gì bữa nay trông bồ lạ hén?
-         Không có gì- Trúc mỉm cười.
-         À mình biết rồi. Đang tương tư chàng nào đúng hông?
-         Làm gì có. Mình chỉ đang buồn vì sắp phải chia tay mái trường này thôi.
-         Ôi còn mấy tháng lận. Bồ thiệt là…
 Trúc ngước nhìn lên bục giảng, cô Xuân vẫn say sưa giảng bài. “Cô ơi, chỉ còn mấy tháng nữa con sẽ không còn được học cô rồi”, Trúc thầm nghĩ. Nhưng cũng có thể một ngày nào đó, Trúc có thể gặp lại cô, có thể lại ở trong lớp học này, với một cương vị khác. Nàng dự định học trường Sư phạm Quốc gia Sài Gòn. Nàng muốn được như cô Xuân, được đứng trên bục giảng, được ngắm những gương mặt học trò vô tư, nghịch ngợm, được truyền cho chúng những tâm huyết của mình. Đối với nàng, nghề giáo mới tuyệt làm sao.
 Hết giờ lịch sử, Trúc thấy Bé được cả lũ xúm xít vây quanh. Nó bảo được bà dì dạy cách bói tướng số nên đứa nào cũng muốn được bói. Bé không những biết bói chỉ tay mà còn xem được tướng mặt. Trúc đang ngồi tán chuyện với Phụng và Kim Ngọc thì thấy cả đám bói toán quay về phía mình:
-         Bói cho Trúc! Bói cho Trúc!- Trúc nghe giọng nhỏ Yến to nhất trong đám nhao nhao.
 Trúc muốn phì cười khi thấy Bé nhìn mặt mình soi mói một cách rất chi là nghiêm trọng, cộng với việc coi chỉ tay trước đó, nó phán:
-         Số Trúc vất vả… Ừm… Nhưng bồ luôn có quí nhân phù trợ…
  Đối với Trúc, coi bói cũng giống như một trò giải trí và rành là nàng chẳng mấy coi trọng những lời tiên đoán về số phận của mình. Nàng tin rằng số phận là do tự mỗi người tạo ra, vả lại nếu như định mệnh do một đấng siêu nhiên nào đó sắp đặt thì con người cũng chẳng cách nào thay đổi được, nếu thế thì đoán biết số mệnh cũng chỉ là một trò vô bổ.
 Chiều hôm ấy Trúc đi coi xi-nê cùng hai cô bạn thân Phụng và Yến. Vân cũng xin mẹ cho đi cùng các chị. Chẳng mấy lần các chị đi chơi mà không có mặt Vân, dù mẹ mỗi lần như thế thường kêu Vân: “Học thì không lo, chỉ nhắc đến đi chơi là sáng mắt ra”. Nhưng bà nói thế lấy lệ thôi chứ Vân mà đã giở giọng ngon ngọt nài nỉ thì dù là người có trái tim bằng đá cũng phải chiều lòng nàng, lại thêm các chị cũng thích có cô bé nhí nhảnh này đi cùng nên luôn hòa giọng xin hộ Vân. Bữa đó, rạp khá đông người vì người ta quảng cáo bộ phim rất hay. Sự mong chờ háo hức của bốn chị em từ mấy ngày nay đã không uổng phí. Bộ phim hài nói về một cặp cướp nhà băng khiến mọi người say sưa theo dõi từ đầu đến cuối. Đến lúc ra khỏi rạp, Vân bày tỏ sự thích thú của mình với các chị:
-         Ôi phim hay quá. Nhất định em phải coi lại lần nữa!
 Yến cũng hưởng ứng theo:
-         Phim này lãng mạn ghê há. Nếu có được một tình yêu như vậy thì chị cũng muốn đi cướp nhà băng luôn đó.
-         Nhưng sao người ta làm phim kì vậy, khác nào khuyến khích người ta đi ăn cướp đâu- Phụng băn khoăn.
-         Chị thật rắc rối. Chỉ là giải trí thôi mà… Ôi, anh diễn viên đẹp trai chết thôi. Vừa đẹp trai lại vừa phong độ. Em yêu anh ấy mất rồi- Khánh Vân bắt đầu mơ mộng.
-         Bé tí mà đã bày chuyện yêu đương. Tí nữa chị về chị mách mẹ cho xem- Trúc nói.
-         Ôi giá mà được đi cướp nhà băng với anh ấy- Khánh Vân dường như đã chết mê chết mệt chàng diễn viên.
 Ba cô chị cười rũ rượi khi thấy cô em gái có triệu chứng “tay nhặt lá chân đá ống bơ”. Trúc ngao ngán:
-         Ôi cái con bé này.
 Dù sao thì trong lòng nàng cũng muốn có được mối tình lãng mạn như vậy. Nàng thầm muốn được yêu hết mình, yêu cuồng nhiệt, yêu mù quáng như nhân vật nữ chính, yêu đến đỗi sẵn sàng từ bỏ con đường lương thiện để đi theo tiếng gọi của trái tim. Nhưng mặt khác, nàng lại sợ hãi cái thứ tình yêu ấy, nó đẩy con người ta vào vòng tội lỗi mà không cách nào thoát ra được. Rồi nàng lại nghĩ xã hội bây giờ sao mà loạn lạc thế, phim ảnh bây giờ cứ nhan nhản những hình ảnh bạo lực, bắn giết nhau, chẳng nhẽ ngoài đời thực cũng thế hay sao. Nàng đang sống trong một thế giới thơ mộng yên bình nhưng nàng biết cái đất Sài Gòn này dường như đang ngày càng tiến nhanh hơn trên con đường trở thành một thành phố tội lỗi với các tay ma cô và lũ đĩ điếm ngày càng lộng hành, nhất là vào ban tối và ở những con hẻm thưa vắng ánh đèn. Rồi biết đâu, người ta sẽ lại làm một bộ phim ca ngợi tình yêu của một tay anh chị với một ả điếm cùng nhau đi giết người. Ôi cái xã hội này rồi sẽ ra sao?
 Nhược điểm của Trúc là nàng quá đa cảm. Trong khi mối quan tâm của Vân chỉ giới hạn ở một món ăn ngon hay một bộ váy áo đẹp thì Trúc lại hay suy nghĩ đến những điều to tát như tương lai hay số phận. Nhưng chính cái nỗi đa cảm ấy lại khiến nàng trông càng xinh đẹp,dịu dàng, trở thành một mẫu mực kinh điển cho vẻ đẹp phương Đông. Nhiều chàng trai đã chết mê chết mệt cái vẻ đẹp ấy mà tự nguyện biến mình thành những cây si trước cổng nhà nàng. Nào đã hết, các chàng còn thi nhau gửi thư làm quen, tỏ tình rồi các dịp sinh nhật và ngày lễ đặc biệt nàng luôn nhận được những món quà và những bó hoa, nhất là ngày lễ Valentine thì ôi thôi không biết bao nhiêu hoa và sô cô la cho vừa. Thế nhưng chẳng chàng trai nào mở được cánh cửa trái tim nàng mà bọn họ chỉ khiến nàng cảm thấy phiền phức mà thôi. Vân nhiều lúc phát ghen với chị:
-         Chị sướng thế, được bao nhiêu người theo đuổi còn gì.
 Trúc nhăn mặt:
-         Giá chị nhường được cho em để em thấy là chẳng có gì thú vị hết cả.
 Và sau buổi đi chơi hôm nay thì Trúc lại càng thấm thía cái sự phiền phức do nhan sắc của mình mang đến. Suốt buổi chiếu phim có một gã ở hai hàng ghế trên cứ quay lại ngắm Trúc khiến bộ phim mười phần mất bảy phần hay. Nàng phải vờ như không biết nhưng trong lòng rất bực mình “sao lại có kẻ vô ý vô tứ thế nhỉ”. Vân nhận ra ghé tai chị thì thầm:
-         Anh kia cứ quay ra nhìn chị kìa.
-         Chị biết rồi. Người đâu vô duyên quá chừng.
 Vân gật gù ra bộ đồng cảm với nỗi khó chịu của Trúc nhưng trong lòng chỉ ấm ức tại sao gã trai kia không ngắm mình, nàng cũng xinh đâu thua Trúc là bao. Phải đến lúc sau Vân mới thật sự thông cảm cho chị khi gã trai đó lại xuất hiện trước mặt bốn chị em và buông lời trêu ghẹo Trúc:
-         Cô em nhà ở đâu để anh đưa về?
 Gã thanh niên cưỡi Honda tóc xoăn tít, trán sần sùi, đôi mắt giảo hoạt như mắt một con chuột cống trông thật dễ ghét. Trúc giận tái mặt chưa biết phải chửi mắng hắn thế nào thì nhỏ Yến đã lên tiếng:
-         Đồ Sở Khanh. Giữa ban ngày ban mặt dám giở trò ghẹo gái. Không cút đi tui la lên bây giờ.
 Nhỏ Phụng thì quay sang Khánh Vân nói mát mẻ:
-         Sao tự nhiên chị thấy không khí có mùi thum thủm vậy ta? Cứ như có đống phân nào quanh đây nghen.
 Gã thanh niên chẳng những không tỏ chút xấu hổ nào mà còn cười hô hố:
-         Các bé dễ thương dữ há.
 Rồi hắn quay sang nói với Trúc một câu cuối trước khi bỏ đi nghe như một lời hăm dọa:
- Cô em sẽ còn gặp thằng này nhiều.

spiderkien
  • Số bài : 80
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.04.2007
RE: Những cánh mai trước gió(tiểu thuyết về chiến tranh và tình yêu) - 05.07.2008 02:46:39
Chương 2. Một người khách quí



 
  Những sự bực mình khó chịu của Trúc gây ra bởi gã tóc xoăn kéo dài cho đến bữa tối khi có một vị khách được cha mẹ nàng mời tới dùng bữa. Đó là người đàn ông tên Lê Minh, hai bảy tuổi, làm phóng viên cho tờ Sài Gòn Mới, luôn làm cho mọi người thấy mến anh từ cái nhìn đầu tiên. Tướng anh đẹp trai, phong lưu, điệu bộ phảng phất nét gì đó ngang tàng, ngạo nghễ, nhưng không gây ấn tượng cho người khác rằng anh là một người thiếu khiêm tốn. Đôi mắt anh sắc như lưỡi dao dường có thể nhìn thấu mọi sự vật, biết hết mọi sự thật, soi sáng mọi bí mật sâu kín nhất. Vừa nhìn thấy anh, hình ảnh chàng cướp nhà băng đẹp trai phong độ trong bộ phim hồi chiều bỗng trở nên mờ nhạt trong tâm trí Vân. Rành là một nhà báo phải hơn đứt phường trộm cướp rồi và một con người bằng xương bằng thịt ngồi chung một mâm cơm chắc chắn đáng để ý hơn một hình ảnh xa vời không thực tế. Trí tưởng tượng của cô bé mười lăm tuổi bắt đầu đi xa. Nàng bắt đầu tưởng tượng đến giây phút được dựa vào vai anh, được đôi tay anh ôm vào lòng, rồi bàn tay kia sẽ vuốt ve mái tóc huyền, và đôi môi kia mới hấp dẫn làm sao. Nếu được đôi môi ấy hôn chắc hẳn phải tuyệt lắm. Nàng chưa bao giờ được hôn nên luôn tự hỏi nụ hôn có hương vị ngọt ngào đến mức nào mà trên phim hai người yêu nhau cứ muốn hôn hoài như vậy. Nàng ước sao sẽ được anh cướp lấy nụ hôn đầu. Vân nghĩ mình đã yêu anh ngay từ cái nhìn đầu tiên, một tình yêu sét đánh, dường như thần Cu-pi-đông quanh quẩn đâu đây đã bắn một mũi tên vào trái tim non nớt của nàng. Trúc cũng thấy mến anh nhưng là dưới một góc độ khác. Minh biết mọi sự trên đời, không chỉ dừng ở sự biết qua loa cái bề nổi của sự vật, mà anh còn hiểu nó, cảm nhận được nó, biết cái nguồn rễ sâu xa của mọi vấn đề, mọi sự việc. Trúc rất thích thú khi nghe những chuyện thú vị anh kể về nước Mỹ, nơi anh đã có hai năm tu nghiệp ở trường đại học Maryland. 



-         Em đã đi qua nhiều nơi ở miền Đông nước Mỹ anh chị à. Phong cảnh và con người nơi đó tuyệt lắm. Đáng nhớ nhất là lần những người bạn học rủ em đi lễ hội hoa anh đào bên bờ sông Potomac. Cảm giác thật thú vị và thoải mái khi bốn phía rợp một màu hồng phớt, lúc đấy mình như quên hết mọi buồn phiền. Có mấy đứa trẻ còn rủ tụi em chơi cùng, trông tụi trẻ con Tây chẳng khác nào những thiên thần nhỏ vậy.
 Trúc ngạc nhiên hỏi:
-         Em tưởng lễ hội hoa anh đào chỉ có ở Nhật Bản thôi.
 Minh đáp:
-         Đúng vậy. Những cây hoa anh đào này được người Nhật đem tặng cho nước Mỹ như một món quà của tình hữu nghị giữa hai nước. Về sau khi Nhật đánh Trân Châu Cảng, người ta có cắt bỏ vài cây anh đào để tỏ sự phẫn nộ nhưng khi quan hệ hai nước tốt đẹp trở lại thì những cây hoa anh đào lại được trồng thêm. Anh không biết lễ hội hoa anh đào ở Nhật thế nào nhưng chắc nó cũng chỉ được đến vậy là cùng. Tiếc là khí hậu ở đây không hợp chứ ngắm hoa anh đào hai bên bờ sông Sài Gòn cũng thú vị lắm nhỉ.
 Cha mẹ Trúc cũng rất hứng thú với những câu chuyện về nước Mĩ. Trước nay họ vẫn giữ ý nghĩ văn minh thế giới nhất phải là Ba Lê còn nước Mĩ dẫu đang nổi lên như một quyền lực mới nhưng vẫn là một đất nước non trẻ, một anh nhà giàu mới phất, sao sánh bằng kinh đô hoa lệ của cựu thế giới với bề dày truyền thống hàng nghìn năm được.
 Mẹ Trúc hỏi:
-         Đô thị ở bên đó thế nào?
-         Văn minh dễ sợ chị à. Thành phố của nó ăn đứt Sài Gòn mình. Nhà của nó cao vút lên tận trời. Vùng của em có thành phố Baltimore, cũng là một hải cảng, văn minh phát sợ luôn. Chẳng biết mấy chục năm nữa Sài Gòn có bằng được nó bây giờ không à.
 Sau một hồi tán chuyện về nước Mỹ thì câu chuyện lại xoay sang chủ đề chiến tranh. Dù muốn dù không thì mọi câu chuyện vào lúc này đều dính dáng đến chiến tranh. Bóng ma của chiến tranh đang treo lơ lửng trên đầu mọi người dân Việt Nam, bất kể miền Nam hay miền Bắc, bất kể Hà Nội hay Sài Gòn, dù họ theo phe Cộng sản hay Cộng hòa hay thậm chí là chẳng theo phe nào cả. Ông Cường, cha của Trúc, là một người chống Cộng nhiệt thành. Thuở thanh niên, ông đã cảm phục tinh thần yêu nước của những người vô sản, đã hằng mong đem kiến thức học được từ phương Tây giúp sức cho chính quyền Cách mạng của Cụ Hồ nhưng bị vỡ mộng vì tiếng nói của ông, một người được học hành đến nơi đến chốn, chẳng có chút trọng lượng nào so với những anh chàng mà ông tả là “ngu dốt, kiêu căng với ưu điểm duy nhất là lòng nhiệt tình để phá vỡ tất cả những điều tốt đẹp từ chế độ cũ để lại”. Ông hỏi Minh:
-         Cậu nghĩ người Mỹ có thể giúp chúng ta chiến thắng không?
 Minh suy tư:
-         Quân đội Mỹ là một đội quân thiện chiến, đặc biệt quân đoàn thủy quân lục chiến của họ toàn những thiện xạ. Nhưng chỗ này không phải chiến trường của họ. Những vũ khí hiện đại của họ chỉ phát huy được sức mạnh ở những chiến địa rộng rãi chứ không phải trong những khu rừng rậm như ở đây. Trực thăng vận từng là một chiến thuật hữu hiệu nhưng kể từ trận Ấp Bắc, Việt Cộng đã bắt đầu tìm được cách đối phó. Dù người Mĩ đã mở nhiều cuộc hành quân “tìm và diệt” nhưng xem ra khó lòng bình định được nông thôn trong một hai năm. Cuộc chiến này sẽ còn kéo dài.
 Ông Cường hỏi tiếp:
-         Việc ném bom miền Bắc theo cậu liệu có khiến Hà Nội chịu ngừng tiếp tay cho Việt Cộng không?
 Minh ngạc nhiên đáp lại:
-         Ồ vậy là anh không hiểu cuộc chiến này rồi. NLF là cánh tay mặt của Hà Nội ở miền Nam, người ta sao có thể tự chặt cánh tay của mình đi được. Dù người Mĩ có ném bao nhiêu bom cũng không lung lay được quyết tâm thống nhất đất nước của họ đâu. Sở dĩ Hà Nội ngồi vào bàn đàm phán là một cách hoãn binh. Họ đang tìm cách đối phó với việc ném bom của không lực Mĩ.
-         Dù sao tôi cũng không thích việc người Mĩ ném bom miền Bắc. Bom của họ có chính xác đến mấy thì cũng không tránh được việc rơi xuống đầu một số đồng bào của chúng ta.
-         Người Mỹ đã làm cho cuộc chiến này rối tung lên từ ngày họ đổ quân vào Việt Nam. Lính của họ không phân biệt được đâu là bạn đâu là thù, đâu là Việt Cộng đâu là dân thường, thậm chí họ còn giết nhầm cả lính Quốc gia.
 Khánh Vân thấy câu chuyện đang lái sang một chủ đề chẳng có gì thú vị bèn nhăn mặt:
-         Bố ơi, sao cứ nhắc đến đánh nhau hoài à. Chán chết.
-         Vân, sao con vô ý trước mặt anh Minh thế- mẹ nàng nhăn mặt.
-         Không sao đâu chị Tú à. Cô bé có cá tánh lắm. Chị thật có phúc vì có hai cô con gái vừa xinh xắn lại vừa giỏi giang.
 Được Minh khen, Vân cũng thấy thích nhưng nàng lại không hài lòng vì bị gọi là “cô bé”: “Mình đâu còn bé nữa”.
-         Anh Minh giỏi Anh văn thế có thể kèm em học môn này không?- Vân hỏi.
 Mẹ nàng lại chỉnh:
-         Anh Minh đi làm rồi, sao rảnh mà kèm con được.
-         Anh nhận lời cô bé. Nhưng gia sư này nghiêm khắc lắm, lười học sẽ bị đánh đòn đấy.
-         Vâng ạ- Vân phấn khởi.
-         Chị sợ công việc em cũng bận bịu lắm.
-         Việc của em chủ yếu cũng là lê la quán xá thôi chị à. Chị cứ để em kèm Vân, em thấy quí cô bé nên mới làm. Mà em đâu có làm chơi, tiền công cũng mắc lắm nha.
  Ông Cường cười:
-         Vậy phải nhờ cậu giúp con bé rồi.
 
  Sau bữa cơm, hai chị em bị xua về phòng chơi để “người lớn nói chuyện”. Cha mẹ hai nàng và vị khách đáng mến vừa uống trà vừa đàm đạo. Về phòng, Vân tâm sự với Trúc:
-         Chị thấy anh Minh thế nào?
-         Anh ấy rất hiểu biết, nói chuyện cũng rất hay.
-         Và rất hấp dẫn nữa.
-         Ôi cái con bé này. Em lúc nào cũng chỉ để ý linh tinh.
-         Anh ấy chịu kèm em Anh văn nữa. Em sẽ được gặp anh ấy luôn. Thích quá Trúc ơi!
 Trúc mỉm cười trước cái tính trẻ con của Vân. Nàng biết Vân chẳng mấy nghiêm túc trong chuyện học Anh văn mà chỉ muốn được tiếp xúc với anh Minh. Nàng thấy cô em mình cũng có lí. Được một người hiểu biết như anh Minh kèm cặp chắc sẽ rất hay. Trúc đoán không sai. Vân rất thích học Anh văn cùng vị gia sư của mình. Những buổi học của Vân không giống một buổi học chút nào mà giống những chuyến dạo chơi thì đúng hơn. Buổi học đầu tiên của hai thầy trò diễn ra trong một quán ăn Trung Hoa ở khu Chợ Lớn. Khi các món ăn đã được bày ra, hương thơm phưng phức từ những món xào món rán món chiên tỏa ra khiến đôi mắt Vân sáng long lanh thích thú. Nhưng Minh chưa cho dạ dày nàng được thỏa mãn một cách dễ dàng:
-         Đọc được hết tên các món bằng tiếng Anh rồi mới được ăn nha?- Minh cười, ánh mắt tinh ranh nhìn Vân.
-         Dạ, cơm là rice, cá là fish, gà là chicken, canh là gì nhỉ?
-         Là soup.
-         Vâng, soup, rau là vegetable, thịt là meat. Em ăn được chưa?- Vân tươi hơn hớn nhìn Minh hãnh diện về trình độ Anh văn của mình.
-         Chưa được. Em đọc sai hết rồi. Các món này là cơm chiên, gà nướng, cá kho, rau muống xào, thịt lợn chua ngọt, canh gà. Nào đọc lại xem.
  Niềm kiêu hãnh bị vùi dập phũ phàng khiến Vân giận dỗi:
-         Hứ. Anh ác như phát xít ấy. Không đọc nữa, em cứ ăn.
-         Trông kìa, cô học trò của tôi dỗi rồi cơ đấy. Thế mà bữa trước hứa sẽ nghe lời thầy. Xạo quá!
-         Ai bảo anh bắt nạt em.
-         Đó là phương pháp dạy của anh. Mới đó mà đã không muốn học rồi. Vậy sao bằng chị Trúc được?
 Thấy mình bị so sánh với chị, Vân nhăn mặt:
-         Anh không biết mà cũng nói. Em học đâu có thua gì Trúc.
 Nhìn thấy sự khó chịu trên khuôn mặt Vân, Minh nhận ra ngay mình đã đánh trúng điểm yếu của cô học trò.
-         Nhưng anh thấy Trúc có một điểm thua Vân?
-         Điểm gì?
-         Vân xinh hơn.
 Vân sung sướng ngỡ ngàng. Trước nay ai cũng khen ngợi nhan sắc của Trúc nhiều hơn Vân, các cây si trước cửa nhà nàng cũng toàn là của Trúc, lần đầu tiên có một người nói Vân xinh hơn Trúc, mà người đó lại là Minh, một chàng trai hào hoa lôi cuốn. Má nàng đỏ ửng lên như một trái táo chín.
-         Nhưng muốn xinh thì phải bớt giận dỗi đi. Trông em làm mặt giận xấu lắm.
-         Dạ, em nghe lời anh. Thôi anh dạy em đọc tên các món đi.
 Vân chuyển sang thái độ biết nghe lời. Đó là một điều kì lạ nếu biết rằng Vân chưa bao giờ để người khác lấn lướt mình, nàng quen mọi thứ phải theo ý muốn của mình, chỉ có Minh mới khiến được nàng phải ngoan ngoãn nghe lời như vậy.
-         Anh Minh, khen một món ngon thì nói thế nào?
-         Delicious.
-         Không ngon?
-         Bad.
-         Rất kinh?- Vân tinh nghịch hỏi.
-         Disgusting.
-         Thịt lợn chua ngọt delicious còn canh gà thì disgusting anh ạ.
 Hai người cười vui vẻ. Vân đã thực sự coi Minh như một người thầy. Mỗi buổi học với nàng là cả một niềm háo hức mong chờ vì chẳng bao giờ trước nàng sẽ học ở đâu và học cái gì. Khi thì nàng được dẫn vào một quán cà phê sang trọng nhìn ra ngoài ô cửa kính học tên những phương tiện qua lại trên đường, khi thì đến trường đua ngựa Phú Thọ để học cách sử dụng động từ tiếng Anh. Minh đã truyền cho cô học trò ngỗ nghịch của mình lòng say mê với Anh ngữ đến mức Vân còn chịu đọc thêm quyển sách dạy những câu hội thoại tiếng Anh lúc rỗi rãi. Trong lúc ấy, Trúc cũng phải miệt mài với đống bài vở. Năm nay phải thi tú tài nên vốn tính đã siêng giờ nàng lại càng siêng hơn. Nàng thạo hết các dạng bài tập toán, lí, hóa và thuộc làu làu mấy cuốn sách sử, địa, vạn vật. Nhỏ Phụng thấy thế mới bảo Trúc:
-         Sao bồ siêng gì siêng dữ vậy? Để phần cho thiên hạ với chớ.
 Trúc mỉm cười thay cho lời đáp. Phụng lại tiếp:
-         Mình coi bồ dạo này xanh xao và gầy đi. Học giỏi mà làm chi rồi cũng đi lấy chồng thôi. Má mình dạy là con gái thông minh quá không lấy chồng được đâu. Đấy, má mình hồi xưa cũng học giỏi lắm, tiếng Pháp nói chả thua gì mấy bà đầm, rồi lấy ba mình, hai ông bả suốt ngày la nhau. Má biểu với mình là giá má ngu ngu chút thì nhà mình đã yên, đằng này cứ thấy ông nói sai là bả chữa lại, thành ra…


 Trúc nghe nhỏ Phụng nói mà thấy buồn cười. Thời đại mới nam nữ bình đẳng mà Phụng lại có tư tưởng phong kiến như vậy. Trúc nghĩ đến mẹ. Mẹ nàng cũng học cao mà có ảnh hưởng gì đâu, bố mẹ vẫn rất thương yêu nhau và gia đình vẫn rất hạnh phúc. Có được điều đó bởi hai người luôn tôn trọng nhau và bởi bố nàng không có cái tính gia trưởng. Trúc ước về sau cũng lấy được một người đàn ông tuyệt vời như bố. Hạnh phúc của người phụ nữ, thời nào cũng vậy, là lấy được một tấm chồng tử tế. Nhưng dù sao cái đó là chuyện tương lai, chưa phải nghĩ đến nó lúc nào hay lúc ấy. Bây giờ mối bận tâm duy nhất của Trúc là chuyện học hành. Được học là cả một niềm hạnh phúc, được đến trường học cùng bạn bè, thầy cô thì niềm hạnh phúc lại nhân lên gấp nhiều lần. Trong số các thầy cô ở bậc đệ nhất, ngoài cô Xuân, Trúc còn đặc biệt mến cô Mai Chi dạy Việt văn. Cô Mai Chi có hai tình yêu lớn trong đời là thơ ca và học sinh. Tuy cô bảo yêu học sinh hơn người yêu nhưng Trúc nghĩ cô nói xạo vì cô thích diện, trong giờ thỉnh thoảng lại lấy gương ra soi. Ngoài tật xấu đó ra thì cô Mai Chi là một giáo viên tuyệt vời, vừa thương học trò lại vừa dạy hay. Chính cô đã truyền cho Trúc tình yêu đối với thơ ca. Bởi thế nàng rất quan tâm khi nghe nhỏ Phụng báo tin cô bị ốm:
-         Mình nghe nói cô Mai Chi bị ốm phải nghỉ lên lớp hai ngày nay đó.
-         Thật à… Vậy tụi mình đến thăm cô đi.
-         Ừ phải đó.
-         Rủ cả Yến nữa, chiều nay mình đi luôn.
 Nhưng Yến hôm đó không đi được, chỉ có Phụng với Trúc tới nhà cô Mai Chi. Thấy hai cô học trò đến thăm, cô Mai Chi rất vui và mời hai đứa một lượng trái cây tưởng có thể ăn cả ngày không hết.
-         Các em đến thăm thế này cô mừng lắm.
-         Cô ốm thế nào ạ- Trúc hỏi.
-         Cô bị cảm sơ sơ thôi. Nghỉ hai ngày cũng đỡ nhiều.Mai cô lại lên lớp được rồi. Hai đứa ăn trái cây đi.
-         Dạ.
-         À thế lớp mình chuẩn bị làm bích báo thế nào rồi?
-         Dạ, bài vở nhiều quá nên các bạn cũng chưa viết được nhiều cô ạ - Phụng nói.
-         Vậy à. Cô mong chờ bài thơ của Trúc lắm nhé. Bài thơ bữa trước Trúc làm rất hay.
-         Dạ, em có biết làm thơ đâu ạ. Tại hôm đó cô giao cả lớp phải làm nên em mới viết thôi.
-         Vậy thì bây giờ cô giao nhiệm vụ cho em phải viết một bài thơ thật hay cho báo lớp. Viết không hay là cô phạt đấy nhé.
-         Dạ- Trúc mỉm cười, hai má hồng lên niềm mến yêu cô Mai Chi.
 Ba cô trò mải chuyện quên cả thời gian. Đến lúc Trúc và Phụng tạm biệt cô thì trời cũng xẩm tối. Con đường bỗng trở nên vắng vẻ, đèn đường đã bật lên, không soi rõ mặt đôi ba người qua lại. Âm thanh nhộn nhịp của Sài Gòn về đêm chỉ vọng lại từ những con phố xa xa, ngỡ như là vọng lại từ quá khứ. Một chú chó nhà ai sủa loạn xạ không những chẳng xé toang sự vắng vẻ mà dường muốn gọi thêm nỗi âu sầu. Một đám bốn người thanh niên vừa ra khỏi hẻm khiến con đường bớt đi phần yên tĩnh bằng những tiếng trò chuyện xôn xao khiến cả phố phải nghe thấy.
-         Bữa nay thằng nào không xỉn thì không được về.
-         Ra quán bà Tư hay quán mụ Sáu.
-         Bữa trước tao còn thiếu tiền mụ Sáu, giờ ra đấy mụ làu bàu khó chịu bỏ cha. Ra quán bà Tư đi.
-         Này, có hai con nhỏ đằng kia dáng trông ngon à nghen- một gã nói nhỏ.
-         Ờ rủ hai nhỏ đi nhậu với anh em nào.


 Đám thanh niên bèn sán đến chỗ Trúc và Phụng.
-         Hai bé ơi, đi chơi với tụi anh đi. Vui lắm nghen.
 Trúc thấy sợ. Trời thì nhá nhem mà đường thì vắng vẻ quá. Những gã ghẹo gái kiểu này nàng cũng không phải chưa từng gặp nhưng trên phố xá đông đúc vào ban ngày thì không sao chứ hoàn cảnh thế này không biết chúng còn dám làm gì. Nàng bắt đầu thấy hối hận vì đã không để ý đến giờ giấc, giờ biết làm sao đây, la lên không biết có ai chịu giúp không mà có khi chỉ càng làm kích động mấy gã này. Nàng thấy cô bạn thân mọi hôm đáo để là thế mà giờ cũng sợ tái mặt. Trúc nghĩ phải đấu dịu với chúng hi vọng mấy gã này còn chút tử tế: 
-         Dạ, không được đâu. Bọn em không được phép về muộn, không là bị mắng liền- Trúc đáp.
-         Ôi dào. Xinh thế này ai nỡ mắng bé.
 Một gã khác bỗng dưng “à” lên:
-         A! Tưởng ai hóa ra người quen. Cô em còn nhớ anh hông?
 Trúc sợ hãi nhận ra đó là gã tóc xoăn đã trêu nàng lần đi xem phim hôm trước. Vẫn cái nhìn gian xảo ấy, vẫn nụ cười khả ố ấy, nàng hiểu rằng mình đã rơi vào một rắc rối lớn. 
-         Mày quen nó hả Hùng?
-         Bữa trước tao và nhỏ có gặp ở rạp chiếu bóng. Tụi mình đã trò chuyện với nhau rất vui, đúng không bé?
-         Trời ạ, đúng là duyên trời đây mà. Thế này thì hai bé không thể không đi với tụi anh.
 Cả đám cười ồ lên trong khi Trúc và Phụng vẫn im lặng tính kế thoát khỏi mấy tên vô lại này. Chợt một giọng nói cất lên dõng dạc:
-         Bốn thằng chúng mày cậy đông ăn hiếp hai em gái mà cũng xứng là nam nhi sao?
 Trúc nhận ra giọng nói ấy. Đó chính là Minh. Trúc đã cảm thấy đỡ sợ hơn khi thấy Minh nhưng rồi nỗi lo lắng vừa dịu đi lại dâng trào. Anh chỉ có một mình còn bọn chúng có những bốn tên, làm sao địch lại được. Nãy giờ vài ba người qua đường thấy đám du côn cũng vội lảng đi cho nhanh. Sau một khắc ngỡ ngàng, tên Hùng “xoăn” lại buông ra điệu cười khả ố:
-         A! Phải chăng đây là chàng Lục Vân Tiên giữa đường ra tay cứu giúp người đẹp?
 Ba gã còn lại lớn tiếng cười nhạo Minh. Hùng “xoăn” tiếp tục giọng mỉa mai:
-         Thú vị đây nha. Tao chưa bao giờ được coi tuồng. Múa thử vài đường xem nào?
-         Đúng rồi, múa đi chớ Lục Vân Tiên.
 Chúng cười ha hả với nhau. Minh cứng cỏi đáp:
-         Tụi mày mau để người ta đi. Tao sẽ tha cho.
-         Má nó chứ! Thằng này khùng rồi. Khỏi lôi thôi, dạy cho thằng Lục Vân Tiên dỏm này biết mùi đời luôn.
 Bốn gã thanh niên xông vào Minh. Anh tránh được cú đấm của Hùng “xoăn”, tống một cú khá đau vào mặt một gã khác, nhưng ngay lập tức bị dính một đá vào bụng. Không chọi nổi bốn tên, Minh bị đánh ngã xuống đường, ôm bụng đau đớn.
-         Có vậy thôi mà cũng đòi phá đám tụi tao à- Hùng “xoăn” châm chọc Minh- Tao thất vọng về mày quá Lục Vân Tiên à.
-         Đúng là gặp thằng khùng thiệt mà.
 Cả bọn tiếp tục nhạo báng Minh. Hùng “xoăn” nâng đầu Minh lên rồi đấm một cú trời giáng. Minh không thấy đau nhưng đầu choáng váng, mắt hoa lên trong giây lát. Rồi anh thấy một dòng chất lỏng nhỏ hơi âm ấm chảy ra từ mũi anh. Anh sờ tay lên mũi mình và thấy một màu đỏ tươi của máu. Một gã khác tiếp tục thụi vào bụng anh một cú đá nữa. Cú đá dường như không khiến Minh đau đớn bằng Trúc. Nàng có cảm giác cú đá ấy không phải đá vào bụng anh mà chính là đá vào bụng nàng. Trúc rơi nước mắt xót xa cho Minh. Phụng thì từ nãy giờ vẫn cứng đờ trong nỗi sợ hãi.
-         Thôi. Đánh thằng này chán quá. Kiếm trò gì khác vui hơn đi tụi bay.
-         Đi nhậu tiếp thôi chớ.
-         Thiệt mất hứng. Đang vui vẻ tự dưng gặp thằng khùng.
 Đám thanh niên ngủng ngoẳng bỏ đi, tiếp tục ba hoa cười nói, chả thèm quan tâm đến Trúc và Phụng. Trúc chạy đến chỗ Minh, anh vừa mới ngồi dậy.
-         Anh có đau lắm không?- Trúc xót xa nhìn anh, mắt hoe đỏ, má vẫn còn xót lại một hàng lệ chưa khô.
-         Chút xíu thôi. Không sao đâu.
-         Bị đánh chảy máu mũi thế kia mà còn bảo không sao- Trúc giận dỗi nói, rồi quay sang Phụng bảo- Phụng chạy ra phố mua bông băng thuốc tím đi.
-         Sao anh ngốc thế! Một mình làm sao mà đánh lại bốn người!
-         Dào ôi, anh đâu có khờ. Không thế sao được ngắm em khóc dễ thương thế này.
-         Ôi trời! Anh đúng là đồ đểu.
 Trúc đấm thùm thụp vào vai Minh, nước mắt tiếp tục trào ra nhưng là những giọt nước mắt sung sướng nhẹ nhõm vì rắc rối đã qua. Anh khẽ ôm lấy Trúc an ủi như thể nàng mới là người bị hại chứ không phải anh:
-         Thôi nào, mọi chuyện qua rồi.
  Trúc thấy một cảm giác lạ lẫm. Dường như cùng trải qua cảnh hoạn nạn cùng nhau khiến nàng và anh xuất hiện một mối giao cảm. Anh là người đàn ông đặc biệt nhất nàng từng gặp, một người đã khiến nàng thấy mến từ cái nhìn đầu tiên và cũng là kẻ đáng ghét nhất trên đời khi giở giọng đùa cợt lúc nàng đang lo cho anh muốn chết, một người hiểu biết mọi chuyện trên đời mà cũng là một gã ngốc không biết lượng sức mình. Chưa có người đàn ông nào nếu không tính đến bố lại đến được gần nàng như vậy. Nàng cứ muốn được ôm như thế này mãi nhưng bỗng nàng phải khẽ đẩy anh ra. Vân đang hớt ha hớt hải chạy lại.
-         Anh Minh sao rồi hả chị?
 Trúc bèn thuật lại mọi chuyện cho cô em gái. Vân cũng lo lắng không kém gì Trúc. Vừa nãy Minh đang đưa Khánh Vân về nhà sau một buổi học thì thấy Trúc đang bị mấy gã thanh niên trêu ghẹo. Minh bèn bảo Vân đi gọi tuần cảnh rồi xông vào giải nguy cho Trúc. Vân chạy tìm mãi mà không thấy tuần cảnh, khi quay lại thì mọi chuyện đã kết thúc như vậy. Phụng lúc ấy cũng vừa mua thuốc về để Trúc lau mũi và bôi thuốc cho Minh.


 Tối hôm ấy Trúc vẩn vơ với những nghĩ suy, chẳng tập trung được vào bài vở. Nàng vừa trải qua một buổi chiều nhiều cảm xúc. Từ những giây phút vui vẻ ấm áp tình thầy trò bên cô Mai Chi đến những khoảnh khắc sợ hãi, lo âu khi gặp mấy gã thanh niên, rồi đau đớn, xót xa khi phải chứng kiến cảnh anh Minh bị đánh, cuối cùng là nhẹ nhõm, bâng khuâng khi chăm sóc cho anh. Nàng nhớ lại cảm giác bối rối khi đôi mắt anh nhìn nàng, nàng đã không dám nhìn thẳng vào đôi mắt ấy, có lẽ do sợ anh sẽ nhìn thấy sự lo lắng nàng dành cho anh trong đôi mắt ngọc dịu dàng. Thực ra mọi chuyện đều tốt đẹp nếu như nàng không mắc phải một cảm giác kì cục, một điều khiến nàng không thoải mái. Đó là anh Minh thế này anh Minh thế kia, anh Minh đưa em đến chỗ này anh Minh đưa em đến chỗ kia. Vậy mà hình như là nàng cũng bắt đầu thinh thích anh ta. Nhưng nàng lại nghĩ cũng chẳng có gì to tát, có lẽ chỉ là một sự nhầm lẫn, nàng vốn giàu tình thương người nên những cảm xúc ấy cũng chỉ là tình thương đối với một người gặp nạn cộng thêm lòng kính mến đối với một người giỏi giang, tất cả chỉ có thế. Nàng không muốn làm em gái mình buồn nên gạt sang một bên những ý nghĩ rằng nàng thích Minh. Vân chẳng hề hay biết nỗi lòng của Trúc, vẫn tỉ tê với nàng những lời ca ngợi Minh:
-         Anh ấy thật dũng cảm. Biết không đánh được bốn thằng đó mà vẫn xông vào để cứu chị.
-         Ừ, chị cũng thấy thế.
 Trúc biết điều là cứ phải đồng ý với Vân kẻo động đến “anh Minh của nó” là kiểu gì con bé cũng cáu lên. Thực lòng nàng vẫn nghĩ hành động của Minh có chút gì ngốc nghếch. Thiệt là…

spiderkien
  • Số bài : 80
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.04.2007
RE: Những cánh mai trước gió(tiểu thuyết về chiến tranh và tình yêu) - 05.07.2008 02:50:39
Chương 3. Yêu và ghét
 
  Chẳng mấy chốc mà Vân sắp tròn mười sáu. Nàng sắp trở thành một thiếu nữ rồi. Vân đứng một lúc lâu trước tấm gương soi, ngắm hình ảnh phản chiếu trong gương với niềm tự hào, kiêu hãnh. Nàng thấy mình xinh đẹp quá. Giá như chiếc gương kia có phép thần thì nàng sẽ hỏi “gương kia ngự ở trên tường, thế gian ai đẹp được dường như ta”. Dạo gần đây đã có một anh chàng ở trường Petrus Kí si mê nàng. Anh quanh quẩn trước cổng nhà nàng, gửi những bức thư tình cho nàng. Thật tội cho anh chàng, nếu anh xuất hiện sớm chút xíu thì có lẽ nàng đã đáp lại tình cảm của anh. Nhưng giờ trái tim nàng đã thuộc về Minh còn anh chàng kia chỉ là một tấm bằng chứng minh cho sắc đẹp của nàng. Nàng chẳng những không thấy thương cảm một người phải chịu đựng nỗi dày vò của con tim mà trái lại càng thấy thích thú khi biết mình là nguyên nhân của nỗi đau khổ ấy.
-         Sao mà đứng trước gương lâu thế cưng của chị?- Trúc không nhịn được cười khi thấy Vân cứ chăm chú soi mình trong gương như thế.
-         Chị thấy em thế nào?
-         Xinh lắm. Em gái chị đã thành thiếu nữ rồi đấy.
-         Thật không? Không biết anh Minh có thích em không nhỉ?
 Nói xong, Vân đỏ mặt. Trúc ôm lấy Vân, thì thầm:
-         Nếu không thích em thì anh ta đúng là đồ ngốc.
 
 Hai chị em cười khúc khích với nhau như thể vừa biết một điều bí mật thú vị. Hai nàng luôn thương yêu, quyến luyến nhau như thế. Dù Vân có bao nhiêu tính xấu thì Trúc cũng chỉ nhìn thấy ở đó những nét đáng yêu và dù Vân có phạm bao nhiêu lỗi thì Trúc cũng sẵn sàng bao dung hết thảy, chỉ cần Vân ôm lấy Trúc và thủ thỉ tâm tình thì Vân sẽ là một thiên thần nhỏ với đôi mắt ngây thơ, hồn nhiên, vô tội. Nếu không có Vân thì Trúc sẽ buồn chết mất khi lúc nào cũng phải kè kè ôm lấy đống bài vở. Không chỉ Trúc mà những cô nữ sinh nghịch ngợm của lớp A6 cũng lo lắng khi kì thi tú tài chẳng mấy chốc mà sẽ đến. Nhỏ Phụng vốn tính lớt phớt, học hành qua loa, giờ đây cũng phải lao vào cái guồng quay ấy. Nhỏ than vãn với Trúc:
-         Sao kiếp học trò khổ vậy nè? Bao giờ mới hết khổ hở trời?
-         Chịu đựng một chút nữa thôi. Mình nghe các anh chị nói lên đại học nhàn lắm.
-         À, cái anh hôm trước vì tụi mình mà bị đánh ấy, ảnh tên gì nhỉ?
-         Anh Minh. Con Vân nhà mình mê chàng như điếu đổ.
-         Thật hả? Có lí đấy. Trông ảnh đẹp trai thiệt, lại nghĩa hiệp nữa chớ. Người như ảnh bây giờ hiếm lắm. Bao nhiêu tuổi?
-         Hai bảy. Hơi già. Mà Phụng cũng quan tâm đến chàng nhỉ?- Trúc nhìn Phụng cười với ánh mắt đầy ẩn ý.
-         Thôi cô ơi. Tui hông dám với cao. Thế đứa nào thấy chàng bị đánh mà khóc rưng rức chớ? Tui làm sao mà cạnh tranh được với chị em hoa khôi nhà cô.
 Trúc biết mình bị hớ nên lặng im không nói gì. Đúng lúc ấy thì thầy Phương bước vào lớp. Phương, thầy dạy toán của lớp A6, là một giáo viên trẻ. Anh trông chẳng khác mấy một chàng sinh viên, đằng sau cặp kính cận là khuôn mặt dễ mến hay cười. Anh hiền như cục đất, lại dễ xấu hổ nên hay bị lũ học trò nghịch ngợm lớp A6 trêu chọc. Nhiều lúc thấy thầy đỏ mặt bối rối khi bị những đứa con gái trong lớp đùa ác, Trúc thấy thương thầy và thầm trách lũ bạn sao nỡ làm tội thầy. Thầy Phương vừa bước vào lớp đã hớn hở:
-         Tôi vừa nghe được một thông tin thú vị. Các em có muốn biết không?
-         Tin chi vậy thầy?
-         Thầy nghe các giáo sư Việt Văn bảo giải bài thơ hay nhất trong đợt báo xuân kì này rơi vào lớp ta. Các em có biết là ai không?
 Cả lớp quay lại nhìn Trúc thay cho câu trả lời.
-         Đúng rồi. Chính là em Trúc. Các em cho Trúc một tràng pháo tay nào.
 Trúc ngỡ ngàng hạnh phúc. Nàng nghĩ một cô học trò ban A như mình sao viết hay bằng các bạn học ban C. Chỉ vì lời hứa với cô Mai Chi mà nàng đã viết bài thơ ấy, bài thơ về một cô học trò về thăm ngôi trường cũ của mình.
 
Qua trường cũ
 
Con đường xưa là lá
Lá bây giờ thành hoa
Hoa phượng hồng lệ đỏ
Đỏ mắt nhớ người xa .

Tóc em xưa là gió
Gió bây giờ thành mây
Mây lặng lờ cuối phố
Mây buồn ai có hay

Áo em xưa là nắng
Nắng bây giờ thành mưa
Mưa oà rơi vụn vỡ
Trắng lạnh mờ lối xưa .

Ngôi trường xưa là nhớ
Nhớ bây giờ thành thương
Thương một thời thơ dại
Mực tím rơi bên đường…

 
 Ngôi trường Gia Long thương mến, nơi Trúc đã đi qua những năm tháng học trò, đã là nguồn cảm hứng cho bài thơ của nàng. Một phút thoáng qua, những kỉ niệm gọi về khiến nàng đặt bút và viết. Nàng đã gắn bó với ngôi trường ấy bảy năm trời, bảy năm hạnh phúc êm đềm thuở cắp sách đến trường. Như mới ngày hôm qua thôi, nàng còn là cô bé nhỏ xíu háo hức trong lần đầu được mặc chiếc áo dài trắng đến trường. Như mới ngày hôm qua thôi còn là cô bé xắn quần nhảy lò cò quanh sân trường với lũ bạn.Vậy mà giờ nàng đã lớn mất rồi, đã sắp phải chia tay mái trường này rồi. Ngôi trường thơ mộng được bao bọc bởi bốn con đường rợp bóng cây, bốn con đường “tình” dẫn các chàng trai từ muôn phương đổ tới trên túi thêu phù hiệu những là Petrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản. Con đường chánh dẫn tới các lớp học có hai hàng cây phủ mát nắng lao xao nên thơ chẳng khác nào đại lộ Catinat. Con đường ấy đã chứng kiến cô bé Trúc bé xíu ngày nào dần trở thành cô Trúc lớn xinh hôm nay, từng bước từng bước một. Sau này xa cách, nàng sẽ nhớ lắm con đường ấy, con đường đẹp như tuổi học trò mộng mơ thơ dại. Và nàng sẽ nhớ lắm bốn cánh cổng trường. Cổng chánh của trường trông ra đường Phan Thanh Giản nằm trong một khối nhà sừng sững xây theo lối kiến trúc cổ Tây phương với nóc mái nhọn và những ô cửa sổ cao, chiếc đồng hồ gắn sát mái miệt mài đếm thời giờ từng giây từng giây một trôi như thầm nhắc các cô học trò đừng bỏ phí những giờ phút êm đẹp dưới mái trường này. Cổng Ngô Thời Nhiệm thường tập trung những sập hàng lưu động bán đồ lưu niệm, kim tuyến rực rỡ đủ sắc màu trong những ngày lễ Tết, giáng sinh. Nàng hay mua những tấm thiệp xinh xắn ở đây để viết tặng những nhỏ bạn của mình. Cổng Đoàn Thị Điểm trông qua trường Saint Exupéry, những lúc ngồi nghỉ giải lao ở cổng này, nàng được ngắm những dãy hoa leo trên bờ tường cao thắm tươi sắc đỏ sắc vàng. Nhưng nàng yêu nhất chiếc cổng nho nhỏ dẫn ra đường Bà Huyện Thanh Quan. Bên kia đường là ngôi chùa Xá Lợi với ngọn tháp cao oai nghiêm, hồi còn đi xe đưa rước của trường, nàng hay lang thang qua đây nên những pho tượng Phật trở nên gần gũi thân thương với nàng. Đường Bà Huyện Thanh Quan, những hàng cây dài rợp bóng, vào mùa lá đổ trải lên một tấm thảm dệt bằng những lá vàng lá đỏ. Trên không trung, những chiếc lá đu đưa ngẩn ngơ trong gió không biết nên đáp xuống đâu, ngẩn ngơ như ánh nhìn của người thiếu nữ theo chiếc lá vàng, ngẩn ngơ như ánh nhìn của cậu học trò theo tà áo trắng mộng mơ. Và không thể bỏ qua ở đường Bà Huyện Thanh Quan là những hàng quán với những me, xoài, cóc, ổi, đặc biệt bò bía và nước đá đậu ở đường này thì ngon nổi tiếng Sài Gòn. Những khi tan học, nàng hay ra đây với Phụng và Yến, cùng nhấm nháp những món khoái khẩu và trêu ghẹo nhau, dỗi hờn nhau. Chao ôi, những giây phút tuyệt đẹp ấy sắp kết thúc rồi sao. Bảy năm trôi nhanh như một giấc mộng đẹp, liệu khi tỉnh dậy rồi đời có còn đẹp như mơ…
 
  Ngày Vân tròn mười sáu, nàng nhận được bao nhiêu là quà và thiếp của bố mẹ, của chị và bạn bè. Nhưng nàng vẫn thấp thỏm chờ đợi một món quà nữa. Bởi thế khi có tiếng chuông cửa, nàng vội lao xuống ngay:
-         Để con mở cửa.
  Và điều nàng chờ đợi đã đến. Đứng trước cửa là Minh đang dựa vào chiếc Vespa màu ngọc bích của anh. Trông Minh bảnh bao trong bộ Âu phục, môi ngậm điếu thuốc, dưới ánh đèn đường khuôn mặt anh vừa có vẻ cao xa vời vợi lại vừa như chứa biết bao dục vọng khát khao trần tục. Anh mỉm cười nói:
-         Ồ cô bé Vân đã lớn rồi đấy. Em trang điểm coi được đó.
 Vân mừng rỡ khi được nghe lời khen của Minh. Nàng hỏi:
-         Quà của em đâu?
 Minh cười thành tiếng:
-         Đây, đây! Anh phải cắt ngắn buổi hàn huyên với ông thứ trưởng để đem quà sinh nhật đến cho tiểu thơ đây.
-         Quà gì vậy?- Vân háo hức
-         Mở ra biết liền. Thôi anh về nghen. Chúc sinh nhật vui vẻ.
 Minh ngồi lên xe. Vân giận dỗi:
-         Làm gì mà vội thế? Anh không thích nói chuyện với em à?
-         Nhưng tuần nào chẳng gặp nhau.
-         Hôm nay sinh nhật mà chẳng hỏi thăm người ta gì cả.
-         Ừ thôi anh xin lỗi. Thế có chuyện gì kể cho anh nghe nào?
 Chợt Vân ôm lấy Minh. Nàng đã chờ đợi giây phút được anh ngỏ lời, được vòng tay anh ôm vào lòng, nàng đã trang điểm cốt chỉ để anh si mê nhưng anh sao nỡ dửng dưng. Hay trong lòng anh đã thầm yêu nhưng còn ngần ngại bố mẹ nàng? Nếu anh đã không dám ngỏ lời thì nàng sẽ làm, nếu anh không dám ôm nàng thì nàng sẽ sà vào lòng anh. Nàng nhắm mắt lại để cảm nhận hơi ấm của anh, hơi thở của anh và nhịp đập của trái tim anh.
-         Em yêu anh- nàng nói bằng một giọng ngọt ngào, say đắm như thể miệng đang ngậm mật ong.   
  Trong một thoáng nàng tưởng anh đã xao lòng nhưng rồi anh nhẹ nhàng từ chối khéo:
-         Em chưa biết thế nào là yêu đâu, cô bé ạ?
-         Lúc nào em cũng chỉ nghĩ đến anh. Như thế không phải là tình yêu thì là gì? Hay anh chê em còn con nít? Em đã lớn thật rồi mà.
 Anh khẽ đẩy nàng ra, tay đặt lên bờ vai nàng, mắt nhìn thẳng vào mắt nàng và nói:
-         Có lẽ em đang lầm tưởng về cảm xúc của mình đấy. Nghe anh đi. Ráng học tốt, những chuyện khác hãy gác sang một bên nghe.
 Nàng gật đầu buồn bã. Anh vặn chìa khóa, nổ máy, rồi quay lại mỉm cười với nàng:
-         Happy birthday!
 Sau đó anh vặn ga phóng đi. Tiếng phành phạch của chiếc Vespa trôi dần vào đêm tối để lại người thiếu nữ với gói quà trên tay bọc trong đó niềm nuối tiếc, hụt hẫng. Vân tiu nghỉu quay về phòng. Trúc hỏi em:
-         Đúng anh Minh không?
-         Ừ.
-         Vậy sao mặt mày em ủ rũ thế?
-         Vừa đến đã vội về ngay.
 Chứng kiến từ đầu sự háo hức của Vân nên Trúc thầm trách Minh đã khiến em gái mình tụt hứng.
-         Thôi đừng ủ rũ nữa, mở xem cái gì đi- Trúc nói.
  Vân mở gói quà ra. Khi nhìn thấy thứ bọc bên trong thì lòng nàng thấy ấm trở lại.
-         Ồ nước hoa này. Nước hoa Pháp đấy cưng ạ- Trúc trầm trồ.
  Vân xao xuyến với những ý nghĩ miên man. Nếu Minh tặng nàng nước hoa chứng tỏ anh không còn coi nàng là con nít nữa mà là một người thiếu nữ cần phải làm duyên. Nàng ngửi mùi nước hoa, một hương thơm say đắm, quyến rũ và quí phái khiến nàng thích thú. Nỗi buồn sớm trượt qua tâm trí Vân như nó vẫn thường thế, nàng thầm nhủ:
“Nhất định mình sẽ có được anh”.
 
 
**********
 
 
 Minh nhâm nhi li cà phê, mắt nhìn xuyên ra ngoài tấm kính của tiệm café Givral để theo dõi những sinh hoạt trên đường Tự do mà anh cũng như nhiều người Sài Gòn vẫn quen gọi theo tên cũ của nó là đường Catinat. Lúc sớm sủa thế này nhìn con đường thơ mộng hơn với hai hàng cây cao râm mát chạy dọc cho đến nhà thờ Đức Bà. Người qua lại còn thưa thớt và những chiếc ô tô chưa đậu đầy bên lề con đường vốn không lấy gì làm rộng rãi. Lúc này chỉ có nắng sớm hé từ những tán cây làm xôn xao con đường nên thơ chứ không có cái xô bồ náo nhiệt khi những cặp tài tử giai nhân đi bát phố lúc chiều tối. Đối diện với tiệm Givral là khách sạn Continental và nhìn hắt sang là tòa nhà hạ nghị viện, tòa nhà với cánh cổng vòm lớn lõm về bên trong là một nét kiến trúc độc đáo của thủ đô Nam Việt Nam. Thỉnh thoảng ở đây lại có những cuộc biểu tình, những màn diễn thuyết, những cảnh tuyệt thực, phản ánh cái không khí chính trị sôi động của Sài Gòn. Thật không gì tiện hơn ở những quán café trên đường Tự do để theo dõi được sân khấu chính cũng như đằng sau cánh gà của vở diễn chính trị li kì ở miền Nam Việt Nam này. Minh thôi không nhìn ra ngoài ô cửa khi người mà anh đang chờ đã tới: Trần Bảy, thiếu tá quân đội Việt Nam Cộng hòa. Anh cũng trạc tuổi Minh, da ngăm ngăm và tiếng nói sang sảng. Vừa gặp Minh, Trần Bảy đã tươi cười hớn hở:
-         Lâu không gặp ông bạn. Hôm nay có tin gì không?
 Minh đáp lại bằng nụ cười tinh quái:
-         Có chớ. Ông dân biểu Lê Văn Xương mẫu mực của chúng ta vừa bị khui ra là ngoại tình với một cô bằng tuổi con mình.
 Trần Bảy ngạc nhiên:
-         Ồ vậy mà coi gã đó đạo mạo lắm cơ. Thế vợ gã có xé xác ra không?
-         Đời nào. Bả lành lắm, chắc là chịu nhịn cho nhà cửa êm ấm thôi.
-         Ai mà biết được- Trần Bảy cười lớn- Con vợ tôi trông ngoan lắm mà về nhà chẳng khác nào sư tử Hà Đông. Còn vụ của lão Thanh sao rồi? 
-         Vụ đó chìm xuồng lâu rồi. Các ông to nhà ta đều đã nhận phần của mình trong vụ đó mà, sao khui ra dễ thế được. Nghe đâu lão Thanh này còn buôn ma túy với một tay người Tàu Chợ Lớn, tuồn hàng từ Hồng Kông về.
-         Ghê thật. Thảo nào lão tậu được ngôi biệt thự ngon lành vậy.
-         Dạo này ông lưu lạc xứ nào mà da đen nhẻm vậy?
-         Ờ bận rồi tôi lên Tây Nguyên giao lưu với các anh em người Thượng của chúng ta nè. Hội FULRO trên đó vẫn làm căng lắm nghe. Mà kể cho ông tin này, nghe chơi thôi nghen, để lộ ra thì rầy rà cho tôi lắm - Giọng Trần Bảy bắt đầu hạ xuống- Sắp có một chiến dịch lớn chưa từng có để truy quét Việt Cộng.  
-         Ở vùng chiến khu C Cộng sản đúng không?- Minh cũng hạ giọng theo.
-         Sao ông biết?
-         Tôi cũng có nguồn tin riêng của mình chớ.
-         Hà hà tôi quên béng mất là ông hay chơi với mấy người Mĩ. Đúng thế. Ngài Westmoreland có vẻ đặt hi vọng rất nhiều vào chiến dịch lần này. Để coi người Mĩ có nhổ được cái gai Việt Cộng hộ chúng ta không… Dạo này vẫn làm ở Sài Gòn Mới chớ?
-         Chà. Vừa nghỉ được mấy bữa rồi. Chuyển sang làm cho tờ Newsweek của Mĩ.
-         Ô hô, khéo ông sắp thành người Mĩ rồi đấy nhỉ.
-         Có thể lắm- Minh tỉnh bơ- Biết đâu mai mốt tôi lại cưới được một em người Mĩ  da trắng tóc vàng ấy chớ. 
 
 Hai người bạn cũ lâu ngày không gặp hàn huyên rất lâu, sau đó họ rủ nhau đi hồ bơi rồi đi mát-xa. Chia tay Trần Bảy về nhà, Minh gọi điện đến cho ông Cường báo mình sẽ không thể tiếp tục dạy kèm Anh văn cho Khánh Vân nữa. Nghe tin ấy, Vân cảm thấy hụt hẫng vô cùng. Nàng tự hỏi mình đã làm gì sai để khiến anh không muốn gặp lại. Chẳng nhẽ chỉ vì cái đêm hôm ấy hay sao, cái đêm mà nàng đã tỏ tình với anh. Nàng có điểm gì không tốt mà tại sao anh không thể dành cho nàng một chỗ trong trái tim anh. Nàng có điểm gì không tốt mà tại sao anh lại ghét nàng đến thế. Nàng không hiểu nổi. Trái tim non nớt của nàng bị tổn thương. Chao ôi, mối tình đầu ngây thơ trong trắng không một vết gợn nhỏ lại là mối tình không được đáp lại. Không chỉ là nỗi buồn của kẻ si tình mà Vân còn phải chịu đựng sự nhục nhã của kẻ bị từ chối. Nào có bao giờ phụ nữ lại đi tỏ tình với đàn ông, thế mà nàng đã làm như vậy đấy, để giờ đây phải chịu đựng nỗi xấu hổ dày vò. Đôi mắt Vân như hai hòn than rực cháy, tình yêu cuồng nhiệt mà nàng dành cho Minh giờ chuyển thành nỗi căm hận tột cùng. Nàng đau đớn khi tưởng tượng ra cái nhìn khinh khỉnh anh dành cho nàng, trời ơi sao mà ngốc, nàng đã tự biến mình thành con ngốc rồi. Nàng chợt nhìn thấy lọ nước hoa anh đã tặng cho nàng, nỗi giận sôi sục khiến nàng cầm lấy lọ nước hoa quẳng luôn vào tường. Cái lọ vỡ tan ra. Lòng nàng cũng thế, vỡ tan ra thành trăm mảnh. Nàng không biết sẽ gắn lại những mảnh vỡ ấy thế nào nhưng lúc ấy nàng chỉ muốn đập tan ra. Và giờ khi nó đã tan ra rồi thì nàng ngồi thừ ra. Cơn giận dữ dần nguôi ngoai cũng là lúc nàng thấy tủi thân ghê gớm. Nỗi giận ngập tràn trong đôi mắt nàng dần dần rút đi bỏ lại một khoảng trống mênh mông. Rồi từ khóe mắt nàng, lệ bắt đầu tuôn rơi. Nàng tự nhủ mình không được khóc, không thể nào rơi nước mắt vì tên khốn ấy, nhưng nàng không kìm được cảm xúc của mình. Cổ họng nàng nghẹn lại vì uất ức. Nàng bắt đầu thút thít khóc. Nghe có tiếng là lạ, Trúc trở vào phòng thì thấy lọ nước hoa vỡ tung tóe ở góc phòng còn Vân thì đang gục đầu vào gối. Biết Trúc vào, Vân ngước đầu nhìn lên. Trúc sững sờ khi thấy đôi mắt đỏ hoe của em gái, đôi mắt ấy nhìn nàng đăm đăm, trên cằm Vân một giọt nước mắt đọng lại đang chuẩn bị nhỏ xuống. Trúc sà đến ôm lấy Vân hốt hoảng:
-         Em làm sao thế này?
 Chỉ chờ có thế, Vân gục đầu vào vai Trúc, nhấc hòn đá chẹn lòng mình ra khơi thông cho dòng suối buồn tủi tuôn trào:
-         Em khổ quá chị ơi.
 Vân nghẹn ngào khóc nức nở trong lòng Trúc. Trúc thương em quá. Nàng chưa bao giờ thấy Vân buồn như thế. Vốn tính đa cảm, nàng cũng bị lây nỗi buồn của Vân dù chẳng biết Vân buồn vì điều gì. Nước mắt nàng cũng lã chã rơi. Hai chị em ôm nhau khóc. Nỗi buồn vì thế cũng chia vơi…
 
 Bốn tháng sau
 
 Trúc đã thi đậu vào trường đại học sư phạm quốc gia Sài Gòn chỉ chờ ngày nhập học. Vân thì đã có người yêu, chính là anh chàng học trò Petrus Kí đã theo đuổi nàng từ lâu. Nhưng nàng không yêu Trung, tên anh ta, nàng nhận lời làm bạn gái Trung chỉ vì nàng cần có người yêu, cần được chiều chuộng, cần được đưa đi chơi, đi ăn kem, đi xem phim. Hơn tất cả, nàng cần có người yêu để chứng tỏ cho Minh thấy rằng anh ta cũng chẳng có gì ghê gớm, anh ta không đến với nàng thì cũng vô khối người khác sẵn sàng lấp chỗ trống của anh ta, nàng muốn Minh phải hối hận để trả thù cho việc anh đã khiến nàng phải bẽ mặt. Và ngay lúc ấy thì nàng đã có sẵn Trung để thỏa mãn ước muốn của mình. Anh hơn nàng một tuổi, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của một mẫu bạn trai lí tưởng, con nhà tử tế, khuôn mặt ưa nhìn, có chí học hành, anh có tất cả ngoại trừ điều quan trọng nhất là anh không làm Vân rung động. Tính anh hiền lành, nhút nhát, anh luôn để Vân lấn át, và điều gì anh không thích làm nhưng Vân đã muốn anh làm thì anh luôn là người phải chiều theo ý Vân. Một mặt anh yêu nàng nhưng mặt khác anh lại sợ nàng. Tưởng như hai điều ấy không thể đi kèm với nhau ấy vậy mà nó lại rất lô-gíc. Điều Trung sợ nhất là Vân rời bỏ anh, nàng quá tuyệt vời, tuyệt vời đến mức anh không tin được là nàng đã chịu đến với anh, chỉ cần được ở bên nàng, được ngắm khuôn mặt xinh đẹp của nàng, được nghe giọng nói của nàng thì anh cảm thấy mình tràn đầy sức sống. Cho dù Vân hay giận dỗi và quá đáng thì Trung cũng chỉ thấy trong đó những nét đáng yêu của nàng. Một buổi tối cuối tuần, Trung và Khánh Vân dạo bước trên đường Tự do. Việc Trung trễ hẹn với Vân khiến nàng bực mình suốt từ nãy đến giờ.
-         Sao có mỗi việc đến đón em đúng giờ mà anh cũng không làm được nhỉ?
-         Anh đã biểu là má anh kêu anh đi mua thuốc mà. Hơn nữa anh cũng chỉ trễ năm phút thôi mà.
-         Má anh! Má anh!- Vân nói trong nỗi uất ức- Lúc nào cũng má. Sao không ở nhà với má luôn đi. Khỏi phải đi chơi với tôi làm gì. 
 Thấy nàng giận dỗi, Trung cảm thấy bối rối.
-         Thôi. Anh xin lỗi. Anh sai rồi.
-         Anh chỉ biết có xin lỗi thôi à. Sao tôi lại cặp bồ với một kẻ vô dụng như anh chứ?
 Trung lo lắng chỉ sợ Vân đòi chia tay. Anh không biết phải nói gì để xoa dịu cơn giận dữ vô cớ của nàng, chỉ mong là nó sẽ tự xẹp xuống. Chợt Vân nhìn thấy Minh. Anh đang đi vào tiệm café Givral. Trong đầu nàng chợt nảy ra một ý nghĩ. Thái độ của nàng đối với Trung bỗng nhiên quay ngoắt một trăm tám mươi độ. Nàng tỏ ra hối hận:
-         Ôi em xin lỗi. Tại sao em lại có thể nói với anh những lời như thế? Em thật là một con bé ích kỉ.
 Thấy Vân đã hết giận, Trung cảm giác nhẹ nhõm hẳn. Nàng lại trở thành một cô gái đáng yêu như bình thường. Trung lại thấy tình yêu thương trong lòng mình dâng trào khi thấy vẻ ăn năn trên khuôn mặt xinh đẹp của nàng. Anh an ủi nàng:
-         Thôi đừng tự trách mình. Anh cũng có một phần sai mà.
-         Anh không trách em chứ?
-         Anh làm sao trách em được. Thương em còn chẳng hết nữa là.
-         Thật không?
-         Thật!
 Vân ôm lấy cánh tay Trung, ngả đầu vào vai anh, thủ thỉ:
-         Em cũng thương anh lắm… Mình vào Givral đi anh.
 Trung đang sung sướng trong men tình ngây ngất. Lâu lắm rồi Vân mới ngọt ngào với anh như thế. Anh nói:
-         Vào đó làm chi. Đồ uống trong đó mắc lắm mà cũng chẳng ngon. Mình cứ đi bát phố thế này chẳng hay hơn sao. Anh thấy là…
 Đúng lúc ấy thì Trung thấy Vân đang lườm mình.
-         Ừ anh thấy mình vào Givral cũng hay đó.
 Vậy là cặp trai gái trẻ tuổi, tay trong tay, vai kề vai, cùng bước vào Givral. Ai cũng thầm ghen tị với một cặp đẹp đôi lại quấn quít yêu thương nhau như họ. Trung vốn đã sung sướng giờ lại thêm phần tự hào, hãnh diện khi sóng bước cùng người con gái xinh đẹp, rạng rỡ, mơn mởn sức sống tuổi xuân như Vân. Nàng dắt Trung qua chỗ Minh ngồi, vờ như vô tình bắt gặp anh:
-         A anh Minh!
 Minh quay lại:
-         Vân đấy à.
-         Dạ. Lâu lắm mới gặp anh.À còn đây là anh Trung, bạn trai em.
-         Chào anh- Trung nói.
 Minh bắt tay chào Trung. Anh cười:
-         Coi bộ các em thương nhau dữ há?
 Trúc cũng tươi cười trả lời :
-         Dạ. Anh ấy chiều em lắm.
-         Thế thì tuyệt quá. Chúc mừng em.
 Đúng lúc ấy thì người Minh đợi đã đến. Đó là một phụ nữ trẻ hai mươi lăm tuổi người Mĩ là phóng viên của hãng thông tấn AP, khá xinh đẹp và quyến rũ.
-         Ah, Martha! Wait a second (A, Martha! Đợi tôi một chút)
 Rồi Minh quay sang đôi tình nhân trẻ:
-         Xin lỗi các em. Anh đã hẹn với chị Martha từ trước. Các em ở lại vui vẻ nghen.
 Minh bèn dẫn Martha vào chỗ ở góc phòng. Thấy Minh chẳng tỏ vẻ gì buồn khi thấy nàng và Trung, Vân cảm thấy thất vọng. Nàng đã hi vọng sẽ khiến anh ta phải hối tiếc vì đã từ chối nàng, vậy mà trông anh ta lại còn có vẻ vui. Ngó anh chuyện trò vui vẻ với Martha, nàng lại càng bực mình. Chẳng hề hay biết những suy nghĩ của Vân, Trung còn hồn nhiên phát biểu:
-         Chị Martha trông đẹp nhỉ.
 Vân ức quá, bỏ ngay tay Trung ra:
-         Đẹp thì anh đi mà yêu chị ta.
 Thấy Vân lại nổi cơn giận dỗi vô cớ, Trung ngơ ngác chẳng hiểu gì. Trông anh chàng đến là tội …
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.07.2008 02:51:49 bởi spiderkien >

spiderkien
  • Số bài : 80
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.04.2007
RE: Những cánh mai trước gió(tiểu thuyết về chiến tranh và tình yêu) - 05.07.2008 02:53:37
Chương 4. Buổi dạ tiệc đáng nhớ
 
 
 
 Trúc nom thật kiêu sa với cặp môi son và đôi má hồng, duyên dáng trong bộ đầm màu thiên thanh, nàng chuẩn bị theo bố mẹ đến buổi tiệc chiêu đãi của vị đại tá Warren Whitehurst. Khi nghe nói có nhiều chàng trai ở đó thì Vân cũng nhất mực đòi đi nhưng không được vì Vân còn đang bị cảm. Vân chỉ còn biết tiếc nuối dặn chị khi về phải kể lại những điều thú vị trong buổi dạ tiệc. Đó là lần đầu tiên Trúc được dự một buổi tiệc chiêu đãi và cũng là lần đáng nhớ nhất.
 Buổi tiệc trà diễn ra ở nhà riêng của ngài đại tá, một biệt thự rộng rãi, to đẹp mà chủ nhân trước đây của nó hẳn là một người Pháp giàu có. Phải đến bảy chục người tham gia buổi tiệc trong đó chủ yếu là những sĩ quan người Mĩ, những người bạn Việt Nam của ngài đại tá và thân nhân của họ. Trúc thoáng thấy ngài Westmoreland ghé qua một lát gặp ngài đại tá nhưng rồi lại vội vã đi ngay. Ấn tượng về vị tổng tư lệnh quân đội Mĩ ở Việt Nam trong tâm trí Trúc là một người còn khá trẻ so với quyền lực mà ngài nắm trong tay, ngài có một đôi mắt cương nghị của nhà binh nhưng phong cách lại lịch thiệp, ân cần như một nhà ngoại giao. Ngoài vị tướng người Mĩ ra, một người nữa trong số các vị khách khiến Trúc để ý là Minh. Sau mấy tháng không gặp trông anh vẫn thế, vẫn là con người hào hoa, sôi nổi và hay cười đùa. Dường như anh không hề để tâm đến sự hiện diện của Trúc vì còn mải chuyện với ngài đại tá và bạn bè ông. Trong lúc ấy, mẹ đưa Trúc đến giới thiệu với Maguerite, một phụ nữ trẻ người Pháp. Vừa gặp hai người đã thấy mến nhau bởi họ đều là những cô gái được giáo dục tốt, tính tình lại hiền hậu, chan hòa. Vốn là người phụ nữ xinh đẹp theo kiểu phương Tây nhưng Maguerite cũng phải khen sắc đẹp của Trúc:
-         Trúc đẹp quá. Rất vui được làm quen với em.
-         Dạ, em cám ơn chị. Chị nói tiếng Việt giỏi quá.
 Maguerite mỉm cười:
-         Chị vốn mang trong mình một nửa dòng máu Việt mà. Mẹ chị là người Việt. Chị sinh ra và lớn lên ở Việt Nam nên dù mang quốc tịch Pháp nhưng tâm hồn chị là tâm hồn của một người Việt.
 Thấy Maguerite nói giọng Bắc, Trúc bèn hỏi:
-         Có phải trước đây chị ở miền Bắc không?
-         Ừ. Chị cũng là người Hà Nội như em đấy. Chị vẫn luôn nhớ về Hà Nội, nhớ Hồ Gươm, nhớ Tháp Rùa, nhớ những con phố cổ. Hà Nội đẹp lắm. Em còn nhớ Hà Nội không?
-         Có. Dù phải xa Hà Nội khi còn nhỏ nhưng trong tâm trí em Hà Nội vẫn luôn là một cái gì đó thơ mộng và yên bình biết bao.
 Đối với Maguerite, Hà Nội đúng là một nơi như thế chỉ trừ vài hình ảnh thoáng qua mà kí ức từ khi còn là một cô bé chưa đầy bốn tuổi còn lưu giữ lại. Đó là cái năm đầy biến động của lịch sử: năm 1945. Nàng nhớ hình ảnh ông bố người Pháp của nàng bị bọn Nhật bắt đi, nàng phải rời khỏi ngôi biệt thự của mình để đến sống trong một căn hộ, qua ô cửa sổ nhỏ đó nàng thấy những chiếc xe rơ-moóc chở đầy xác người chết đói, qua ô cửa sổ đó cô bé Maguerite đã thấy người ta tụ tập mít tinh rất đông trước quảng trường Nhà hát lớn và hò hét cũng rất to. Khi ấy nàng chẳng biết những điều ấy có ý nghĩa gì, nàng chỉ thấy sợ hãi, và những hình ảnh hãi hùng ấy không bao giờ dứt hẳn khỏi trí nhớ của nàng. Khi thoáng sợ hãi đi qua thì nàng đáp lời Trúc: 
-         Phải. Không biết đến bao giờ chị em mình mới được thăm lại Hà Nội?
 Nỗi tiếc nhớ quê hương đã bắc nhịp cầu nối con tim của hai con người trước nay chưa hề quen biết. Maguerite rất quí Trúc và còn mời nàng tới nhà chơi. Hai chị em đang chuyện trò rất vui thì Maguerite phải ra tiếp một người quen. Thấy Trúc đứng một mình, một chàng trai bèn đến làm quen với nàng:
-         Xin chào người đẹp. Anh có thể mời em một li chớ?
-         Vâng, dĩ nhiên là được.
 Chàng trai nhìn khôi ngô, tuấn tú, bảnh bao trong bộ complet.
-         Em tên gì?
-         Em tên Thanh Trúc.
-         Còn anh là Minh Nhật- anh nói-Thanh Trúc có thấy người đang đứng cạnh chuyện trò với ngài đại tá không?
-         Vâng.
-         Ba anh đấy, ông quen biết rất rộng. Vợ ông Thiệu hay đến nhà anh chơi lắm. Thanh Trúc đang học ở đâu nhỉ?
-         Dạ, em mới đậu đại học sư phạm quốc gia Sài Gòn.
-         Vậy à. Anh thì vừa du học ở Mĩ về. Bên đó tân tiến lắm, không lạc hậu như mấy trường ở đây đâu. Em có thích sang đó học không, anh sẽ nhờ ba anh giúp cho.
-         Dạ, em không dám làm phiền anh đâu.
-         Ôi dào, chuyện nhỏ mà, có gì đâu mà phiền. Anh nói một tiếng là ba anh chịu liền.
-         Với lại em cũng không muốn xa gia đình.
 Đúng lúc ấy, ngài đại tá mời mọi người khiêu vũ. Một giọng nói vang lên sau lưng Trúc khiến tim nàng đập nhanh hơn:
-         Xin lỗi, anh có thể mời em nhảy không?
 Trúc quay lại để thấy ánh mắt đầy bí ẩn của Minh nhìn nàng.
-         Vâng- nàng đáp.
 Rồi nàng quay ra nói với Nhật như một lời chào từ biệt:
-         Rất vui được làm quen với anh.
 Anh chàng lộ thoáng thất vọng trên khuôn mặt khi chưa kịp đưa mối quan hệ với người đẹp đến một mức sâu sắc hơn. Tuy thế anh vẫn lịch sự mỉm cười với nàng theo phong cách của một bậc quân tử. Trúc bảo với Minh:
-         Anh không biết là anh vừa cứu em đâu.
-         Khỏi anh chàng đó hả? Có phải cậu ta lại đem khoe ba mình và cái mác du học sinh ở Mĩ không?
 Trúc gật đầu ngạc nhiên. Cứ như thể Minh nghe lén cuộc trò chuyện giữa nàng và Nhật vậy. Minh nói tiếp:
-         Nhưng chắc cậu ta không nói ba mình là một kẻ lật lọng, từng làm việc cho Pháp, rồi lại phản bội người Pháp để theo Nhật, từng thề trung thành với Diệm nhưng khi Diệm đổ thì quay ra chửi bới chế độ cũ, bây giờ ông ta là người của Mĩ nhưng ai biết được sau này thế nào. Và chắc cậu ta cũng không nói là đã bị đuổi về nước vì thành tích học tập đáng tuyên dương của mình ở Mĩ.
 Trúc cười khúc khích khi nghe chất giọng trào phúng của Minh.
-         Ôi anh thật là…
 Chợt nàng lại cảm thấy ánh mắt anh nhìn nàng đầy lôi cuốn:
-         Trông em đẹp lắm- giọng anh quyến rũ một cách mê hoặc.
 Trúc thấy tim mình đập rộn ràng, đôi mắt mình bối rối, má mình đỏ lên ngượng ngùng. Nhạc đã bắt đầu nổi lên.
-         Em không biết nhảy.
-         Không sao, cứ bước theo anh.
 Tay anh ôm lấy nàng. Nàng bước theo bước nhảy của anh. Bỗng nàng sực nhớ đến Vân và nỗi buồn của cô em gái gây ra bởi con người đang nhảy với nàng. Nàng nhớ ra rằng anh ta thật đáng trách. Thế mà nãy giờ nàng lại thấy trong mình một tình cảm yêu mến anh. Nàng hỏi:
-         Anh đã làm Vân buồn lắm đấy. Sao anh lại bỏ không kèm nó?
-         Công việc của anh bận.
-         Anh bỏ mà không một lời giải thích với nó.
 Minh im lặng. Anh biết không thể bào chữa được cho việc đó. Trúc nói tiếp:
-         Nó thương anh lắm.
-         Anh biết.
 Trúc thấy giận quá:
-         Vậy tại sao?
-         Em muốn biết tại sao ư?
-         Phải.
 Họ vẫn bước theo tiếng nhạc dịu êm.
-         Vì em.
-         Vì em?- Trúc ngỡ ngàng.
-         Từ lần trông thấy em khóc thì anh đã không thể nghĩ đến ai khác nữa.
  Trúc bối rối. Những ý nghĩ của nàng như hóa đá. Minh nói tiếp:
-         Em có cho phép anh từ giờ qua lại với em không?
-         Giống như là hẹn hò?
-         Đúng vậy.
 Nàng nhìn vào đôi mắt anh, đôi mắt chứa đầy đam mê, đầy những bí ẩn và cám dỗ. Nàng như người mê đáp, giọng nhỏ như thầm thì:
-         Vâng.
 Nàng tiếp tục bị cuốn đi trong điệu nhảy, liệu có phải nàng cũng đang nhảy trong một vũ điệu khác: vũ điệu tình yêu. Những người ngồi ngoài không ngớt lời ca ngợi đôi nhảy trai tài gái sắc. Bố mẹ Trúc cũng thấy hãnh diện vì cô con gái của mình. Trong mắt họ, nàng không còn là cô Trúc bé bỏng ngày nào, nàng đã thực sự trưởng thành rồi…
 Khi Trúc nói “vâng” với Minh thì nàng không ý thức được hậu quả của câu nói ngắn ngủi ấy. Bây giờ khi ngồi trên xe, ngắm đường phố chạy ngược qua ô cửa kính nàng mới thấy lo. Nếu Vân biết chuyện nàng với Minh thì con bé sẽ phản ứng thế nào, mà sớm muộn gì Vân cũng biết. Nàng tự hỏi tại sao mình lại nhận lời Minh để rồi bây giờ lâm vào tình thế khó xử này. Nàng yêu Vân biết bao và nàng không muốn để em gái mình phải buồn, nhất là người gây ra nỗi buồn ấy lại là nàng. Đang miên man với những suy nghĩ như thế thì mẹ nàng hỏi:
-         Con thấy anh Minh thế nào?
 Câu hỏi của mẹ khiến nàng bối rối:
-         Thế nào là thế nào? Mẹ hỏi gì kì vậy?
-         Mẹ hỏi thật nhé con có thích anh Minh không?
 Nàng trả lời khẽ khàng:
-         Có.
-         Ừ, mẹ thấy anh ta cũng được đấy.
  Mẹ mỉm cười ôm Trúc vào lòng, nàng đã thấy nhẹ nhõm hơn khi chia sẻ tâm tư của mình với mẹ. Nhưng đến khi về phòng Vân tíu tít hỏi Trúc về buổi tiệc trà thì một nỗi nặng nề lại bao phủ lên lòng nàng. Nàng kể về ngôi biệt thự của đại tá Whitehurst, nàng kể về những người mình đã thấy như ngài Westmoreland, nàng kể về cuộc gặp gỡ với Maguerite và Minh Nhật, nàng kể tất cả chỉ trừ có sự xuất hiện của Minh ở buổi dạ tiệc. Trúc có cảm giác như mình đang lừa dối Vân, thấy cái ôm trìu mến của cô em gái như chứa đầy những mũi gai đâm vào lòng mình. Nhưng nàng đã làm sai điều gì đâu nhỉ?

spiderkien
  • Số bài : 80
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.04.2007
RE: Những cánh mai trước gió(tiểu thuyết về chiến tranh và tình yêu) - 05.07.2008 02:57:00
Chương 5. Con đường tình yêu
 
  Buổi hẹn đầu tiên đem lại cho Trúc biết bao nỗi niềm âu lo. Trái tim nhạy cảm của nàng nhiều lúc như muốn nghẹn lại vì những xao xuyến và sợ hãi. Nàng thấy trong lòng dâng lên một niềm thích thú được ở bên Minh, chỉ riêng nàng và anh thôi, không có ai khác. Nhưng hi vọng bao nhiêu thì lo lắng cũng bấy nhiêu, đôi lúc nàng cảm thấy sợ anh. Ánh mắt của anh như chứa đầy những bí ẩn không lời giải đáp, vừa quyến rũ, mê hoặc nhưng cũng vô cùng nguy hiểm. Nếu đó là một nỗi sợ mơ hồ thì còn một nỗi lo lắng khác thực tế hơn đối với Trúc: thái độ của Vân khi biết nàng đi chơi với anh. Con bé hẳn sẽ giận nàng lắm, làm sao không giận cho được khi chị gái mình lại hẹn hò với người mình từng một lòng yêu thương. Những ưu tư muộn phiền dường như khiến khuôn mặt nàng càng đẹp hơn. Nàng chỉ đánh chút phấn nhẹ, tô chút son hồng là khuôn mặt đã trở nên lung linh diễm lệ bởi lớp trang điểm chính của nàng không phải phấn son mà là cái nét buồn kiêu sa. Nàng ngắm mình trước gương. Trong gương là hình ảnh người con gái trong bộ váy đầm màu thiên thanh, mái tóc ngắn ôm lấy cổ, vấn chiếc bờm nhỏ cùng màu váy, được tô điểm thêm bằng đôi vòng tai. Nàng mỉm cười hài lòng, người con gái trong gương cũng mỉm cười theo, nụ cười dù tươi nhưng vẫn phảng phất chút buồn. Vân vào phòng, thấy Trúc đứng trước gương bèn sà vào ôm lấy vai Trúc từ phía sau:
-         Trúc của em xinh quá. Chuẩn bị đi chơi với chàng à?  
-         Chàng nào? Chị chuẩn bị đi xem xi-nê với mấy chị lớp đại học thôi mà.
-         Không qua được mắt em đâu. Khai ra mau.
-         Cái con bé này. Chị nói thật mà không tin.
 Trúc đành phải dối Vân. Đến gần lúc hẹn, Trúc ra ban công đứng chờ Minh đến. Ánh sáng ngày sắp tắt khiến cảnh thiếu nữ đứng ở ban công chờ người thương trông càng thi vị. Cảnh ấy cũng đẹp tựa như khi chàng Romeo ngắm Juliet đứng ở ban công dưới ánh trăng đêm, nơi khởi đầu cho mối tình tuyệt đẹp làm rung động con tim biết bao thế hệ. Hay nếu có thêm chậu hoa ti-gôn thì nàng sẽ là người thiếu nữ bên hoa ti-gôn làm say lòng một chàng họa sĩ mộng mơ nào đó vô tình đi qua. Khi Minh đến, Trúc vẫy tay bảo anh chờ rồi lẻn xuống hi vọng Vân sẽ không biết. Nàng nhanh nhẹn ngồi lên yên sau chiếc vespa màu ngọc bích, bảo anh đi luôn, rồi thở phào nhẹ nhõm vì đã giấu được Vân. Nhưng Trúc đã nhầm, khi chiếc Vespa đã khuất bóng Vân mới thôi núp mình sau ban công. Nàng biết người đó là Minh, cái người mà Trúc đang thầm thương trộm nhớ, cũng chính là cái người đã từ chối tình yêu của nàng, và xót xa hơn, dường như người đó cũng yêu Trúc. Vết thương cũ chưa kịp lành đã lại bị cứa thêm. Trái tim nàng như muốn hét lên với trời đêm: “Tại sao lại là Trúc? Tại sao lại là người tôi yêu thương nhất?”
  Minh và Trúc đi bát phố Bonard như bao cặp trai gái Sài Gòn vẫn làm mỗi dịp cuối tuần. Đại lộ Bonard, hay là đường Lê Lợi dài rộng thênh thang như con đường tình của đôi trai tài gái sắc. Những cơn gió nhè nhẹ làm không khí dịu mát để bù đắp cho cái tiết trời nóng bức của Sài Gòn lúc ban ngày. Hai người nắm tay nhau dạo bước trên đường. Cảm giác nắm tay anh thật thích, bàn tay anh ấm áp, dịu dàng, truyền cho nàng một niềm tin rằng nàng đang được dẫn dắt và che chở, nàng cảm thấy an toàn trong bàn tay ấy. Anh hỏi nàng:
-         Em biết anh đang nghĩ gì không?
-         Em không biết.
-         Anh đang nghĩ liệu mình có thể nắm tay em đi hết con đường này không.
-         Việc ấy khó vậy sao?
-         Đôi khi ta không biết được điều gì đang đợi mình ở phía trước. Có thể bây giờ việc nắm tay em rất dễ nhưng biết đâu lát nữa anh mệt và không còn sức để nắm tay em nữa.
-         Nếu anh mỏi tay thì em sẽ níu tay anh.
-         Em sẽ không buông tay anh chứ.
-         Không đâu.
 Nàng dựa đầu vào vai anh, tận hưởng thứ hạnh phúc êm đềm. Nàng thì thầm với anh:
-         Em thích cứ mãi thế này.
-         Anh cũng thế.
-         Tại sao anh lại yêu em?
-         Vì em đẹp, ngay cả lúc khóc cũng đẹp.
-         Nhưng nếu em không đẹp thì anh có còn yêu em?
-         Em nghĩ anh sẽ trả lời sao?
-         Anh sẽ nói có.
-         Dù lòng anh nói không?
-         Bởi điều đó làm vui lòng em.
-         Anh sẽ không nói thế.
-         Vậy anh sẽ nói không.
-         Không thể đơn giản nói có hoặc không cho câu hỏi của em. Anh yêu em bởi em là Thanh Trúc. Nếu em có một vẻ bề ngoài khác thì tâm hồn em cũng sẽ thay đổi, không phải tâm hồn của Thanh Trúc, nói cách khác vẻ bề ngoài và con người bên trong của em không thể tách rời nhau, nếu thiếu một trong hai thứ ấy em sẽ không còn là Thanh Trúc nữa, mà anh thì chỉ yêu Thanh Trúc thôi. Nói tóm lại, anh yêu em vì cả vẻ ngoài và tâm hồn em.
-         Anh thật khéo nói- nàng cười.
-         Em không biết anh là nhà báo à?
-         Những nhà báo như anh thật nguy hiểm cho xã hội.
-         Còn nguy hiểm hơn em tưởng đấy- anh bỡn cợt.
-         Thế cơ à?
-         Không tin à, anh sẽ chứng minh cho em thấy.
 Anh đặt lên môi nàng nụ hôn say đắm, nụ hôn đầu bỡ ngỡ bâng khuâng. Nàng thôi lo lắng về Vân, cũng chẳng để ý đến người qua lại, nhắm mắt thả mình trôi vào giấc mộng uyên ương.
 Tay trong tay, vai kề vai, họ đi hết đường Lê Lợi, đến tòa nhà Hạ nghị viện quẹo trái đi đường Tự do để đến Nhà thờ lớn. Đứng trước bức tượng Đức Mẹ Maria, dù không theo Đạo nhưng nàng cũng thầm nguyện ước để anh mãi mãi bên nàng.
-         Anh ước điều gì- nàng hỏi.
-         Anh ước điều ước của em trở thành sự thật.
-         Anh không sợ em ước có được một chàng trai khác đẹp trai hơn anh, tài giỏi hơn anh à.
-         Em sẽ không ước thế đâu.
-         Sao anh biết?
-         Vì em yêu anh.
-         Anh tự tin quá đấy.
-         Không thế làm sao chiếm được trái tim em.
 Trúc cười, Minh dường như lúc nào cũng muốn trêu nàng, thật là một kẻ đáng ghét một cách đáng yêu. Anh ôm nàng vào lòng. Nàng thấy không gian như dừng lại, thời gian như dừng lại, những âm thanh rộn rã của xe cộ ngay đó cũng dường như trôi về xa xôi, nàng chỉ còn nghe tiếng hai trái tim cùng chung nhịp đập.
*****
  Khi về đến nhà, trái tim nàng vẫn còn thổn thức yêu thương. Khuôn mặt buồn buồn của Trúc chưa bao giờ tươi như thế. Thỉnh thoảng nàng lại tủm tỉm cười một mình. Nàng đâu biết nỗi buồn của Vân. Khi Vân hỏi thì nỗi lo lắng mới lại ùa về xâm chiếm tâm hồn nàng:
-         Đi với chàng vui không?
-         Chị đã bảo đi với đám bạn thôi mà.
-         Trúc ơi, chị không biết nói dối rồi. Đi với bạn sao lại diện thế?
 Trúc bắt đầu bối rối:
-         Ừ thì…
-         Em biết anh ấy đúng không?- Vân hỏi tiếp.
 Tim Trúc dường muốn thót lại. Dường như Vân đã biết tất cả. Nàng nín lặng.
-         Có phải là anh Minh?
  Đến đây thì Trúc biết rằng không thể giấu được nữa. Cái kim trong bọc sớm muộn cũng lòi ra, có điều nó đến sớm hơn Trúc nghĩ.
-         Đúng vậy.
-         Hai người hẹn hò với nhau?
-         Phải.
 Trúc thấy mình chẳng khác nào tên tội phạm bị cảnh sát tra hỏi và phải khai hết mọi tội lỗi của mình.
-         Tại sao chị lại giấu em?
-         Chị sợ em giận.
 Trúc đã sẵn sàng đón nhận sự trừng phạt của Vân nhưng nàng nhầm. Vân ôm lấy nàng:
-         Chị ngốc lắm. Em sẽ không để con người đó chia rẽ chị em mình đâu. Chị có biết người em yêu nhất trên đời là chị không? Còn với con người đó, em đã chẳng còn chút tình cảm nào nữa, em đã quên anh ta rồi.
 Nghe những lời cảm động như thế, Trúc bật khóc. Nàng khóc vì hạnh phúc, đám mây đen đã bị xua tan, chẳng còn gì khiến nàng lo lắng nữa. Lúc này đây nàng là người hạnh phúc nhất, nàng đang sống trong tình yêu thương của bạn bè, người thân, nàng đang yêu và được yêu bởi một người đàn ông. Những ngày tháng yêu thương tươi đẹp dường như sẽ chẳng bao giờ chấm dứt. Những chiều tan học đứng chờ anh, nàng thu hút biết bao ánh nhìn của những cậu sinh viên mơ mộng, rồi từ niềm khao khát những ánh mắt ấy chuyển thành tiếc nuối khi tà áo trắng xa dần theo chiếc vespa màu ngọc bích. Những buổi xem phim mà khi ra khỏi rạp chẳng nhớ nổi nội dung phim thế nào, chỉ nhớ đến ánh mắt bờ môi anh nồng nàn. Hạnh phúc quá nhưng vẫn còn chút gợn trong những ngày tháng ngọt ngào của nàng: đất nước vẫn chưa dứt chiến tranh. Biết bao người vẫn tiếp tục ngã xuống trên những ruộng đồng, trên những cánh rừng vì mưa bom lửa đạn. Đến bao giờ máu mới ngừng rơi trên đất nước Việt Nam này?

spiderkien
  • Số bài : 80
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.04.2007
RE: Những cánh mai trước gió(tiểu thuyết về chiến tranh và tình yêu) - 05.07.2008 02:59:22
Chương 6. Tết mậu thân





  
  Cũng như bao người Việt khác, Trúc và Vân yêu những ngày Tết biết bao. Trong những ngày lễ Tết, bao lo toan, bộn bề của cuộc sống mưu sinh như ngừng lại, cả tiếng súng cũng sẽ bặt im để nhân dân cả hai miền Nam Bắc được ăn Tết. Trong những ngày này, người ta chỉ còn hướng đến gia đình, tổ tiên. Sáng ba mươi Tết, Trúc và Vân theo mẹ đi chợ hoa. Những bông hoa muôn màu khoe sắc, mọi người náo nức đi chợ hoa, sự tươi vui của phiên chợ khiến hai nàng cũng thấy lòng mình rộn rã. Tết ở trong giọng nói, Tết ở trong tiếng cười, Tết ở trong lòng người, Tết ở trong đất trời. Đêm giao thừa, trong tiếng pháo nổ lép tép, trong tiếng lẩm nhẩm khấn vái của mẹ trước mâm cỗ gia tiên, Trúc hân hoan chuẩn bị đón chào năm mới, năm con khỉ. Vân thì đang giục cả nhà ra đường hái lộc. Bỗng dưng có tiếng chuông cửa, Vân ra mở cửa. Nàng ngỡ ngàng khi người bấm chuông vào cái giờ oái oăm này lại là Minh. Vân lạnh lùng nói:
-         Để em vào gọi Trúc.
-         Thôi khỏi, anh nói với em cũng được.
 Vân bị vẻ nghiêm trọng trên khuôn mặt Minh thôi miên.
-         Nghe này, bảo mọi người ở yên trong nhà, đừng đi đâu nghe chưa.
-         Tại sao?
-         Anh không chắc nhưng có một số dấu hiệu cho thấy Việt Cộng chuẩn bị tấn công vào Sài Gòn.
-         Sài Gòn? Làm sao mà…
-         Thôi. Anh phải về. Nhớ lời anh dặn nha.
 Minh đi vội vã cũng như lúc đến. Anh đi rồi, Vân vẫn chưa hết bàng hoàng. Nàng nghĩ đường đường là thủ đô, làm sao Việt Cộng dám đánh vào. Bao năm nay, Sài Gòn có nghe tiếng súng đâu. Nhưng vẻ hoang mang trên khuôn mặt Minh khiến nàng cũng mười phần thì tám chín phần tin lời anh nói. Dù nàng có tự nhủ mình phải ghét anh thế nào chăng nữa thì thật lòng nàng vẫn luôn yêu anh, và chỉ có anh mới khiến được cô gái ương bướng như nàng nghe theo. Vân đang tươi tỉnh là thế, bỗng chốc ủ rũ bảo bố:
-         Bố ơi, không đi ra đường nữa nhé.
 Trúc cười:
-         Em làm sao thế? Vừa đòi đi bằng được bây giờ lại bảo ở nhà.
-         Anh Minh vừa đến.
-         Anh ấy đâu?- ông Cường hỏi.
-         Về rồi. Đến bảo mọi người ở yên trong nhà. Hình như Việt Cộng tấn công Sài Gòn hay sao đó- Vân nói.
 Trúc cũng như bố mẹ đều bất ngờ trước cái tin ấy. Nhưng nếu Minh đã nói thế thì cũng đáng tin lắm vì anh ở trong ngành báo biết nhiều tin tức mà. Sáng mồng một Tết, khi trên đài phát thanh tổng thống Thiệu thông báo Việt Cộng vi phạm lệnh ngừng bắn và tuyên bố bãi bỏ lệnh ngừng bắn của chính phủ thì cả nhà Trúc bẳt đầu hơi tin vào những lời Minh nói. Nhưng đến đêm hôm đó, khi nghe những tiếng súng đì đùng thì cả nhà vẫn ngỡ rằng đó là tiếng pháo reo ngày Tết, chỉ đến khi sáng dậy thấy người ta xôn xao Việt Cộng tấn công thành phố thì họ mới hoàn toàn tin lời Minh. Lệnh giới nghiêm được ban bố khắp thành phố, không ai được phép ra đường và cũng chẳng ai muốn ra đường để ăn đạn lạc cả. Cảnh giới nghiêm tù túng khiến một cô gái sôi nổi như Vân phát ngán lên được. Cả ngày chỉ có ngồi nghe đài, xem tivi, mà toàn là chuyện chính trị với đánh nhau, chẳng thú vị gì cả. Đã thế còn chẳng được đi ăn quà vặt, rồi chuyến đi tắm biển Vũng Tàu với lớp cũng phải hủy. Bao nhiêu nỗi ấm ức dồn lại khiến đang đọc quyển tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, Vân bỗng dưng thốt lên với Trúc:
-         Em ghét Việt Cộng.
-         Sao thế?
-         Hỏng hết cả Tết của người ta rồi.
 Vân nhăn nhó giận dỗi trông rõ khổ sở. Nàng đau khổ khi không thể trút được nỗi giận dỗi vào ai. Việt Cộng ư? Nhưng Việt Cộng là ai, là rất nhiều người và cũng chẳng là ai. Hay là giận chính phủ, giận quân đội, giận cảnh sát đã để cho Việt Cộng tràn vào thành phố, vậy thì phải giận ông Thiệu, nhưng ông ta thì chẳng có ở đây. Người duy nhất ở bên nàng lúc này là Trúc nhưng Trúc thì chẳng có gì để cho nàng giận cả. Giá mà có Trung ở đây thì nàng đã trút giận vào đầu anh ta rồi. Thế mà mấy lần anh ta gọi điện hỏi han thì nàng lại ậm ừ qua loa rồi gác máy. Nỗi tù túng khiến nàng muốn giải phóng hết bực bội trong người. Nàng hét to:
-         Aaaaaaaaa… Em chán lắm rồi. Em không biết đâu, Trúc bày trò gì vui đi.
-         Hay chị hát cho em nghe nhé.
 Vân thở dài:
-         Thôi…
 Nàng ra ban công đứng hít thở khí trời. Ngoài đường, không khí có vẻ đã bớt căng, thỉnh thoảng mới có tiếng súng lẻ tẻ mà cũng chỉ ở xa xa, đâu như ở mạn Chợ Lớn. Trên đường đã lác đác có vài người chạy xe. Vân bỗng nảy ra một ý. Nàng lẻn xuống nhà lấy chiếc velo solex đang tiu nghỉu nằm xếp xó, ra đường phóng đi. Nàng tính sang chơi ông bà ngoại và cậu mợ, ở nhà mấy người ngồi nhìn mặt nhau hoài phát chán lên được. Nhưng đi được một lúc nàng bắt đầu thấy hối tiếc sao mình không ngồi nhà. Những con đường mọi khi đông đúc là thế mà giờ vắng vẻ đến rợn người. Không bóng người qua lại, không tiếng xe cộ ồn ào, những con đường tựa như trong một thành phố chết. Nàng sợ quá vặn ga phóng nhanh mong cho chóng đến nơi. May sao cuối cùng cũng đến, ông bà và cậu mợ thấy cô cháu quí hóa thì mừng lắm, mời nàng ăn bánh mứt rồi nhiệt tình hỏi han. Hôm nay nhà ông bà đông hơn mọi ngày, có cả mấy người họ hàng từ vùng bị Việt Cộng tấn công tới tị nạn. Lũ trẻ con làm ầm ĩ cả nhà. Một đứa chạy ra khoe với Vân:
-         Chị ơi, em trông thấy Việt Cộng rồi đấy.
-         Nói xạo! Chị không tin.  
-         Thật. Em tận mắt thấy nó trèo lên cây, tay cầm khẩu súng xịn lắm, dài bằng từng này này- thằng bé lấy hai tay ra hiệu- lưng còn giắt cả quả lựu đạn.
-         Thế nó không nhìn thấy em à?
-         Lúc đầu không thấy, nhưng lúc sau nó phát hiện ra em, nó cười với em. Em sợ quá, chạy ù về nhà luôn.
 Nghĩ tới cảnh tượng ấy, Vân cười tủm tỉm. Chắc thằng bé ở nhà hay bị dọa Việt Cộng đến bắt, giống như nàng hồi nhỏ bị bố dọa nếu hư là đêm Việt Cộng đến bắt đi làm dân công. Hồi đó ngô nghê, chả biết làm dân công là thế nào nhưng nàng cũng sợ lắm. Ngồi chơi được một lúc thì mọi người giục nàng về. Mợ còn bắt Vân phải mang về nào bánh chưng, giò chả, kẹo mứt dồn thành mấy bịch cột sau xe. Vân phóng về, nhưng lần này không hên như lúc đi. Đang phóng trên đường ngon lành thì nàng bị chiếc xe jeep của quân đội đuổi theo tuýt còi. Nàng dừng xe, đầu óc tê cứng trong nỗi sợ hãi. Mấy người lính bắt đầu khám mấy bịch thức ăn. Trong lúc đấy, một ông sĩ quan to béo, mặt đen như Bao Công hỏi nàng:
-         Cô có biết đang lệnh giới nghiêm không?
-         Dạ, biết ạ.
-         Biết sao còn ra đường?
 Nàng nghĩ mình mà khai là “Tại ở nhà chán quá” thì kiểu gì cũng vô tù nên đành nói:
-         Dạ, đi xin thức ăn.
-         Cô xem đã có ai chết đói đâu. Tôi nghi kiểu này cô nằm vùng, tiếp tế cho địch lắm.
 Nghe ông sĩ quan nói mà nàng rụng rời chân tay. Tội vi phạm lệnh giới nghiêm còn chưa đến nỗi chứ tội tiếp tế cho địch chắc là tiêu quá, không biết chừng bị xử bắn luôn ấy chứ. Nghĩ đến bố mẹ, nghĩ đến Trúc, những người thương yêu nhất của mình, nước mắt nàng ứa ra. Nàng sụt sịt khóc, tay quệt dòng lệ lăn trên má. Nàng hối hận quá, nghĩ sao mình lại dại dột thế cơ chứ. Đúng lúc nàng đang chìm trong vực thẳm tuyệt vọng thì một anh chàng sĩ quan cao ráo bước xuống xe. Anh gỡ chiếc kính đen, để lộ khuôn mặt điển trai, trắng trẻo, dù ánh mắt nghiêm nghị đúng kiểu con nhà binh. Thấy Vân khóc, anh bước tới, ngắm nghía nàng từ đầu đến chân rồi hỏi trống không:
-         Mấy tuổi, học trường nào?
-         Mười bảy, trường Gia Long- nàng đáp gọn lỏn, tay còn mải chùi nước mắt.
 Ánh mắt người sĩ quan trẻ dịu lại. Anh ngó những giọt nước mắt lăn trên má nàng một hồi rồi quay lại bảo người sĩ quan to béo:
-         Chả ai tiếp tế cho địch bằng bánh trưng, giò chả đâu. Thôi, cho cổ đi.
 Rồi anh quay lại, cùng nàng nhặt những thứ đồ ăn bị rơi xuống đất. Anh nói với nàng bằng một giọng dịu dàng:
-         Em gái tôi cũng học Gia Long đấy.
 Lúc về kể chuyện cho Trúc, Trúc tròn mắt khâm phục Vân. Cuộc phiêu lưu của Vân thật lí thú chẳng thua gì những cuộc phiêu lưu của cậu Tom Sawyer. Vân được dịp phổng mũi. Nàng còn tỏ vẻ tiếc rẻ với Trúc:
-         Tiếc quá Trúc ạ, anh sĩ quan đó đẹp trai thế mà em bỏ qua cơ hội làm quen.
-         Ôi cái con bé này, tình thế nguy cấp như vậy mà vẫn còn để ý đến mặt mũi người ta. Em có người yêu rồi mà vẫn còn tơ tưởng lung tung sao?
-         Em chán rồi- Vân lạnh lùng- Đợi kiếm được anh khác em sẽ đá anh ta.
 Trúc cũng đành bó tay trước cái cô tiểu thư đỏng đảnh này.
“Đúng là hết thuốc chữa”, nàng nghĩ. Rồi những suy nghĩ miên man lại lấp đầy tâm trí nàng. Nỗi sợ hãi khi nghe tiếng súng bắn, tiếng lựu đạn nổ lúc ban đầu đã nhạt phai, chỉ còn là nỗi lo cho những người thân, những bạn bè của mình, và nhất là cho người yêu. Nàng chỉ biết cầu nguyện cho họ được bình yên. Trúc lại nghe tiếng súng nổ. Nàng buông một tiếng thở dài. Chiến tranh đã vào thành phố rồi…
 
 Bob Perry mang vẻ trầm tư hơn thường ngày. MACV vẫn khăng khăng rằng Việt Cộng đã thất bại nặng nề sau hai cuộc nổi dậy đồng loạt, rằng người Mĩ sắp đi đến chiến thắng cuối cùng. Nhưng năm ngoái họ cũng đã luôn nói rằng mình đang thắng, rằng Việt Cộng sắp bị quét sạch, ấy vậy mà Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đã chứng minh lực lượng của họ còn hùng hậu thế nào qua hai cuộc tổng tấn công trên khắp miền Nam. Những cuộc tiến công ấy đã gieo vào lòng người phóng viên tờ Newsweek sự hoài nghi về kết cục của cuộc chiến. Liệu nước Mĩ và đồng minh của mình có thể chiến thắng trong cuộc chiến này như lời họ vẫn khẳng định hay không? Ngày đầu đến Việt Nam, anh còn tràn đầy tin tưởng vào chiến thắng nhưng càng ngày niềm tin ấy càng bị xói mòn. Một chính quyền tham nhũng tràn lan, một đội quân hèn nhát giỏi ức hiếp dân lành hơn là Việt Cộng, đó là bức tranh của Nam Việt Nam. Nếu không có quân đội Mĩ gánh lấy trách nhiệm chiến đấu thì người bạn Đồng minh châu Á của họ đã sụp đổ lâu rồi. Nhưng giờ đây thì chính quân đội Mĩ cũng đang gặp khó khăn khi phong trào phản chiến trong nước đang dâng cao chưa từng thấy gây sức ép đưa quân Mĩ về nước trong khi tướng Westmoreland còn đang yêu cầu tăng thêm quân. Bob Perry đem nỗi băn khoăn của mình chia sẻ với người trợ lí của mình:
-         Minh này, cậu có nghĩ chúng ta thực sự thắng trong hai đợt vừa rồi không?
 Minh nhìn vào mắt Bob và nói:
-         Phải, chúng ta đã thắng. Việt Cộng đã thất bại, họ đã không đạt được bất cứ mục tiêu nào ngoại trừ việc gây cho dân chúng Mĩ các anh tâm trạng bi quan. Họ đã tổn thất quá nặng nề.
-         Nhưng rồi họ sẽ phục hồi lại.
-         …
-         Và rồi cuộc chiến này sẽ chẳng bao giờ kết thúc…
-         Anh đã hiểu đúng vấn đề. Như tôi đã nói nhiều lần với anh Bob ạ, giết một Việt Cộng anh sẽ đẻ thêm nhiều Việt Cộng khác, rốt cuộc bạo lực chỉ sinh ra bạo lực mà thôi. Người nông dân đâu có hiểu học thuyết Mác-Lênin hay cái nền tự do dân chủ của các anh, điều họ cần là được yên ổn làm ăn trên mảnh ruộng của mình. Vậy mà anh thấy đấy, từ khi đặt chân lên đây, người Mĩ không đem lại nhiều điều cho họ ngoài bom đạn.     
 Minh mỉm cười một cách bí ẩn. Bob đăm chiêu một lúc rồi đứng dậy:
-         Tôi phải đi viết bài đây.
Không chỉ có Bob bi quan, không chỉ có người Mĩ bi quan, đám mây u ám cũng đang bao trùm lên tâm trạng những sĩ quan người Việt. Cầm cốc bia 33, Trần Bảy cụng li với Minh nhưng vẻ tếu táo đã không còn, thay vào đó là nỗi lo lắng:
-         Tôi lo lắm. Người Mĩ mà rút khỏi Việt Nam thì chúng ta đi đứt.
-         Họ sẽ không rút đâu.
-         Tôi nghe bảo dân Mĩ họ biểu tình dữ lắm.
Người Mĩ đã dính quá sâu vào đây rồi. Ông yên tâm, họ sẽ không rút quân ngay đâu. 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.07.2008 22:14:18 bởi spiderkien >

spiderkien
  • Số bài : 80
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.04.2007
RE: Những cánh mai trước gió(tiểu thuyết về chiến tranh và tình yêu) - 15.07.2008 22:16:28
Chương 7. Anh chàng lãng tử
 





  Năm Mậu Thân là một năm khó khăn với những người dân Sài Gòn. Sau hai cuộc tổng tiến công của Mặt trận giải phóng miền Nam, nhiều người đã mất nhà cửa, giá cả sinh hoạt thì leo thang, trăm ngàn mối lo hằn trên gương mặt người Sài Gòn. Nhưng rồi điều quí giá nhất là cuộc sống lại trở lại bình yên như trước, những nếp sinh hoạt cũ lại trở lại bình thường, lệnh giới nghiêm được dỡ bỏ, người Sài Gòn lại cùng nhau vượt qua những tháng ngày khó khăn. Nụ cười rạng rỡ lại nở trên môi Vân.
 Vân đã nói chia tay với Trung được một tháng. Nàng đã chán anh rồi. Lúc ấy Trung còn sửng sốt ngỡ là nàng đùa hay chỉ là một lần giận dỗi vô cớ nữa như tính nàng vẫn thế, nhưng hóa ra đó là sự thật. Trung vẫn hi vọng có thể kéo nàng quay lại, anh không chịu tin rằng nàng đã chẳng còn chút tình cảm nào với anh. Anh tìm cách gặp nàng để nói chuyện nhưng nàng tránh mặt anh. Trúc thấy Trung cứ lởn vởn trước nhà chờ một cơ hội để gặp Vân thì thấy thương thương. Mấy lần Trúc đã hỏi Vân:
-         Em định tránh mặt cậu ấy đến bao giờ? 
 Trúc cũng muốn giúp Trung nhưng đáp lời Trúc bao giờ cũng là trái tim sắt đá của Vân:
-         Kệ anh ta.
  Vậy là Trúc chỉ biết ái ngại cho chàng thanh niên hiền lành, dễ mến và thầm trách cô em gái của mình sao quá vô tình.
  Sau đó, mấy hôm không thấy bóng Trung, Trúc nghĩ có lẽ cậu ta đã chấp nhận rời xa Vân. Nhưng một hôm tan học ở trường sư phạm về, Trúc đã gặp Trung. Trung đến để gặp nàng:
-         Chị Trúc, chị đưa giùm bức thư này cho Vân được không?
-         Sao cậu không đưa thẳng cho nó?
-         Vân tránh mặt em, vậy nên em mới tìm chị.
-         Thực tình chị rất tiếc về chuyện của hai đứa.
-         Chị ơi, Vân làm sao vậy?
 Trúc ngập ngừng không biết phải nói sao.
-         À, chị…chị cũng không rõ.
-         Vân có người khác sao?- Trung hỏi tiếp.
-         Không, không có đâu.
 Trung buồn bã nói:
-         Thôi, chị chỉ cần đưa bức thư này cho Vân là được.
 Nhìn Trung lủi thủi quay về, lòng Trúc lại càng thấy thương chàng trai ấy hơn. Cầm trên tay bức thư của Trung, Trúc thầm mong nó sẽ làm Vân động lòng. Nhưng khi nàng đưa bức thư cho Vân, Vân chẳng thèm đọc mà quẳng bức thư đấy. Trúc khuyên mãi Vân mới chịu nghe.
-         Thôi được. Chị đọc xem anh ta viết gì?
 Trúc cầm bức thư lên đọc. Sắc mặt nàng bỗng tái đi:
-         Cậu ta hẹn em chiều mai gặp ở cầu chữ Y. Nếu em không tới thì cậu ta sẽ nhảy cầu tự vẫn.
-         Anh ta không có gan làm chuyện đó đâu.
 Lúc này thì Trúc thực sự thấy phẫn nộ.
-         Em ác thế. Nhỡ cậu ấy chết thì sao?
 Nhưng câu nói của Trúc cũng chẳng làm Vân suy suyển.
-         Mới thất tình một tí mà đã đòi tự vẫn, đàn ông loại đó có chết em cũng chẳng tiếc.
 Vân bỏ ra ngoài đóng sập cửa phòng, bỏ lại Trúc cùng nỗi uất ức.
“Con bé này càng ngày càng quá quắt”, nàng nghĩ.
  Cả ngày hôm sau, Trúc thấy bồn chồn không yên, ngồi trên giảng đường mà những lời giảng của vị giáo sư cứ trôi tuột khỏi đầu nàng. Cứ chốc chốc nàng lại nhìn đồng hồ và lo lắng cho Trung. Thế rồi nàng quyết định bỏ dở cả tiết học để tới chỗ Trung hẹn Vân. Khi đến nơi, nàng thấy Trung đang đứng bất động, thả cho tâm hồn mình trôi lững lờ trên con sông Sài Gòn, mặc cho dòng xe cộ qua lại trên cầu. Khi Trúc lại gần, Trung nói, ánh mắt vẫn hướng về xa xăm:
-         Vậy là Vân không tới hả chị?
 Trúc đành phải nói dối:
-         Nó..nó bận nên nhờ chị tới báo với cậu.
 Trung quay lại nhìn Trúc:
-         Chị thật tốt vì đã an ủi em. Em hiểu, Vân đâu có quan tâm em sống hay chết đâu.
 Trúc tự trách mình đã để Trung nhận ra. Vân nói đúng, nàng không biết nói dối, những lời không đúng mà  miệng nàng nói ra thì chính đôi mắt nàng lại phủ nhận.
-         Cô ấy chưa bao giờ thương em cả- Trung nói.
-         Cái đó…đâu đến mức như vậy.
-         Em biết điều đó, biết ngay từ đầu nhưng vì quá yêu Vân mà em đã tự lừa dối mình.
 Trúc bèn tìm cách an ủi chàng trai si tình:
-         Cậu đừng buồn thế. Hãy tìm một người khác tốt hơn, nó không xứng với cậu.
-         Không, em không xứng với cô ấy. Em không thể mang lại cho cô ấy những thứ cô ấy mong đợi, những thứ cô ấy đáng được hưởng. Dù sao, quãng thời gian vừa rồi là những tháng ngày đẹp nhất đời em. Em không hối tiếc đâu.
-         Bây giờ cậu tính làm gì?- Trúc hỏi.
-         Còn làm gì nữa. Không có cô ấy thì đời em còn ý nghĩa gì nữa.
-         Cậu nói vậy là sao?- Trúc hoang mang.
-         Chị à, em không muốn sống nữa.
 Nghe Trung nói mà Trúc thấy ức quá. Hết Vân giờ lại đến Trung, bọn trẻ bây giờ càng lúc càng chẳng ra làm sao. Nàng bèn nói với Trung:
-         À chị hiểu rồi, thì ra Vân nói đúng, cậu là một thằng hèn.
 Câu nói đó của Trúc ngay lập tức có tác dụng. Trung lớn tiếng:
-         Em không hèn. Em không sợ chết, em sẽ chết vì cô ấy.
-         Nếu ai thất tình cũng đòi tự vẫn như cậu thì chắc loài người tuyệt chủng mất.
-         Chị không hiểu, chuyện của em không giống như vậy.
-         Đúng vậy, chị chẳng hiểu gì chuyện của cô cậu cả. Nhưng chị hiểu là nếu cậu mà tự vẫn thì chỉ làm con bé coi thường cậu hơn mà thôi. Tại sao không đứng dậy và làm cho nó hối tiếc vì đã bỏ cậu?
 Trung suy nghĩ một lúc rồi nói:
-         Em hiểu rồi… Thôi, chị về đi.
 Trúc lo lắng:
-         Cậu không định nhảy cầu đấy chứ.
 Trung mỉm cười:
-         Chị yên tâm. Em chỉ muốn đứng đây một mình thôi.
 Trúc cất bước đi về, bỗng dưng nàng nghe tiếng Trung gọi:
-         À này…
 Trúc quay lại:
-         Sao vậy?
 Trung mỉm cười:
-         À không… Em chỉ muốn nói… ai lấy được chị thì tốt số lắm đó…
 
 Trúc thấy lòng nhẹ nhõm. Điều đáng tiếc đã không xảy ra, nàng đã cứu được một sinh mạng. Sau đó nàng được biết Trung sang Canada du học, có lẽ để quên đi mối tình đầu sâu đậm. Trúc tin rằng Trung sẽ có một tương lai tươi sáng bởi nàng biết cậu ta không phải một kẻ hèn nhát…
 
 Về phần Vân, nàng vô tư chẳng hề biết mình suýt nữa đã gây ra cái chết của một con người. Chiều hôm ấy, Vân còn mải lên thư viện Việt-Mĩ với nhỏ Sương học cùng lớp. Nhỏ Sương rủ Vân lên thư viện thực ra chẳng phải vì ham hố học hành gì mà vì nghe kể thư viện to đẹp có máy lạnh ngồi mát và nhất là lại có nhiều nam thanh nữ tú ở đó. Nhỏ Sương không chỉ thích những chàng trai mà còn thích ngắm con gái đẹp nữa, chẳng thế mà nhỏ rất ngưỡng mộ người chị của Vân, người con gái đẹp nhất Gia Long, từng cùng với Mai Ngọc của Trưng Vương đóng vai Hai Bà Trưng trong lễ hội hàng năm. Vân đang chán nên cũng muốn đi thử tới thư viện cho biết. Suốt cả buổi, nàng chẳng đọc được hết một trang sách mà chỉ mải tán chuyện với nhỏ Sương, những câu chuyện chỉ xoay quanh việc nhận xét người này người nọ:
-         Hai anh chị kia đang tán nhau kìa- Vân nói.
-         Đôi đó nhìn như Quách Tĩnh với Hoàng Dung vậy.
-         Vậy là sao?
-         Coi bộ bồ chưa đọc “Anh hùng xạ điêu” rồi? Chị áo hồng vừa xinh vừa thông minh nè còn anh đó mặt trông đần như heo.  
 Vân nghe nhỏ Sương nói không nhịn được cười. Nàng cười khúc khích, không biết một ánh mắt đang chăm chú nhìn mình từ góc phòng. Một chàng sinh viên bên cạnh nhắc:
-         Hai cô nương ơi, nói nhỏ chút xíu cho mọi người còn đọc.
 Nhưng hai đứa cũng chỉ nhớ được một lúc rồi lại hồn nhiên nói cười, quả nhiên người xưa nói chẳng sai: hai người đàn bà và con vịt là thành một cái chợ rồi. Lúc ra về, Vân bất ngờ được một chàng sinh viên đến chào:
-         Chào em, còn nhớ anh không?
 Anh chàng có thân hình cao ráo, khuôn mặt lãng tử, và để râu cằm. Vân ngạc nhiên hỏi:
-         Dạ, em quen anh lúc nào nhỉ?
-         Ừ tụi mình cũng mới quen cách đây hai giây thôi.
 Thấy anh ta tỉnh bơ, Vân cười láu lỉnh:
-         Gặp ai anh cũng làm quen như thế à?
-         Không, chỉ với những cô gái dễ thương thôi. Vả lại, không phải ai cũng làm anh mất một buổi ngồi vẽ như em đâu.
 Anh ta chìa ra bức vẽ trên trang giấy học trò, đẹp và giống Vân đến lạ kì, đôi mắt tinh nghịch ấy, nụ cười rạng rỡ ấy, không lẫn vào đâu được.
-         Ôi đẹp quá- Vân reo lên.
-         Em có nụ cười đẹp lắm đó- anh nói.
 Được khen, Vân rất thích. Nàng bắt đầu làm quen với anh chàng họa sĩ lãng mạn này.  Nàng được biết anh tên là Duy, sinh viên trường Khoa học. Nàng đã nhận lời đi chơi với anh vào cuối tuần, dù sao nàng không thích phải ở nhà những ngày cuối tuần vì đó là những ngày Trúc sẽ đi chơi với Minh. Mỗi khi nghe tiếng phành phạch của chiếc vespa đậu trước cửa nhà, Vân lại thấy lòng mình hụt hẫng, nàng vẫn không quên được Minh. Nàng nghĩ có lẽ mình sẽ không bao giờ yêu được một ai khác nữa.
  Vân đi chơi với Duy mà lòng không vui. Những món quà vặt mọi khi nàng thích là thế nhưng hôm nay bỗng trở nên vô vị, những lời chuyện trò với Duy cũng chẳng thú vị như hôm đầu gặp mặt, lòng nàng cứ vẩn vơ với hình ảnh Minh hôn lên má Trúc trước cửa nhà khi nãy. Nhận thấy Vân có tâm sự, khi đi dạo phố Duy bèn hỏi nàng:
-         Nụ cười rạng rỡ của em biến đâu mất rồi?
-         Sao cơ ạ?
-         Hình như bữa nay em có chuyện buồn phải không?
-         Dạ không… Chỉ là mấy chuyện vớ vẩn thôi.
 Hai người lặng im bước tiếp.
-         Anh à- Vân nói- Nếu như người mà mình yêu và một người thân thiết với mình lại yêu nhau, nếu thế thì em phải làm gì?
-         Coi bộ em đang gặp rắc rối lớn nghen.
-         Em có nên tránh mặt họ không?
-         Coi nào, em đâu thể chạy trốn mãi được.
-         Hay là phá họ?
-         Đó cũng là một cách- Duy cười phá lên- Nhưng làm thế người thiệt thòi nhất lại là em đó.
-         Vậy phải làm sao hả anh?
-         Đừng để ý đến họ nữa, hãy chú tâm làm những việc em thích hoặc là thử tìm một người khác chẳng hạn.
-         Nhưng dường như em chẳng thể yêu ai khác ngoài anh ấy.
-         Coi nào, tình yêu có thể chỉ là một thói quen mà thôi.
 Duy mỉm cười nhìn Vân. Những điều anh nói không giải quyết được vấn đề của Vân nhưng dù sao nó đã khiến nàng cảm thấy nhẹ lòng. Vân mỉm cười với anh.
-         Đó, đúng rồi, đó mới là Khánh Vân mà anh thích.
-         Anh nghĩ em có phải một con bé ích kỉ không? Nhiều người bảo em thế.
-         Đúng đó, một cô nhóc ích kỉ dễ thương.
-         Anh nói chuyện buồn cười thật đấy.
-         Này,về nhà anh chơi không. Anh muốn cho em coi cái này.
-         Thôi, em ngại bố mẹ anh lắm.
-         Ba má anh mất rồi mà, nhà chỉ còn anh hai anh thôi nhưng anh ấy cũng bận buôn bán suốt chẳng mấy khi về nhà.
 Vân đồng ý về nhà Duy, căn nhà gọn gàng ngăn nắp, trang trí khá đẹp. Đập vào mắt Vân là cây đàn dương cầm đặt ở góc phòng.
-         Anh chơi được dương cầm à?
-         Ừ, thứ anh muốn tặng cho em chính là một bản nhạc.
-         Ôi thích quá, anh đàn đi. Bài gì vậy anh?
-         Một bản dạ khúc của Sô-panh.
 Những ngón tay của Duy bắt đầu dạo bước trên những phím đàn. Điệu nhạc chậm rãi, du dương, nhẹ nhàng với những cảm xúc tinh tế gợi trong lòng Vân một cảm giác thanh bình, êm ả. Mọi nỗi buồn phiền, bực dọc trong lòng nàng như lắng lại, như hòa tan trong bản nhạc. Nàng ngắm khuôn mặt Duy, khuôn mặt anh thoải mái nhẹ như một thoáng mây bay. Trong hơn hai mươi bản dạ khúc của Sô-panh, đây là bản anh thích nhất, bản dạ khúc trên cung mi giáng trưởng. Khi nốt nhạc cuối cùng đã cất lên, dư vị của bản nhạc vẫn còn ngân nga trong lòng người thiếu nữ.
-         Anh đàn hay quá.
-         Merci. Sao? Em hết buồn rồi chớ?- Duy mỉm cười.
-         Vâng, anh ạ. Khi nào em buồn anh lại đàn cho em nghe nhé.
-         Rất hân hạnh được phục vụ tiểu thơ.
 Anh cúi người, điệu bộ trịnh trọng đến mức khiến Vân bật cười, nụ cười tít mắt, rạng rỡ như vầng dương ngày mới.
 
Anh đàn cho em khúc nhạc đêm

Cho đôi giọt lệ rớt bên thềm

Ru em thôi nhớ người xa ấy

Ru trái tim này quên yêu em...
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.07.2008 22:19:25 bởi spiderkien >

spiderkien
  • Số bài : 80
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.04.2007
RE: Những cánh mai trước gió(tiểu thuyết về chiến tranh và tình yêu) - 26.08.2008 00:58:08
Chương 8. James O’Brien



 Bước ra khỏi chiếc máy bay của hãng Air Vietnam, James O’Brien đặt chân lên Sài Gòn, hòn ngọc của Viễn Đông. Đây không phải lần đầu tiên James tới Việt Nam, anh đã từng cầm súng chiến đấu ở đất nước này nhưng khi đó thành phố duy nhất anh từng đặt chân đến là Đà Nẵng. Thủ đô Sài Gòn là một thành phố khác hẳn, với những xa lộ rộng thênh thang, với những nét kiến trúc mang đậm dấu ấn của người Pháp khiến ai đặt chân đến đây có thể nhầm tưởng mình đang lạc vào Paris. Đi trên đường phố Sài Gòn, James thấy một cảm giác thú vị, khác hẳn với Việt Nam mà anh từng biết, không phải một Việt Nam chiến tranh mà là một Việt Nam thanh bình. Ở đây không thấy bóng dáng người lính, không thấy bóng dáng chiến tranh, trên gương mặt những con người nhỏ bé da vàng ấy hiện lên sự yên bình, có phảng phất nét lo toan nhưng cũng chỉ là những lo toan vụn vặt cho cuộc sống thường ngày, nó không giống với sự bình thản mà anh đã từng thấy ở những người nông dân Việt Nam trong những cuộc hành quân truy quét Việt Cộng, cái vẻ bình thản sẵn sàng đối mặt với những tai họa luôn rình rập.
 James được các đồng nghiệp ở văn phòng Newsweek tại Sài Gòn chào đón, trong số họ anh nhanh chóng làm quen với Lê Minh, người Việt duy nhất được Newsweek nhận vào vị trí phóng viên. Minh nói tiếng Anh đúng giọng Mĩ chuẩn, phong cách thì tự tin, cởi mở và hào hiệp khiến James nghĩ anh ta chẳng khác nào một người Mĩ vậy. James hiểu không phải đơn giản mà tờ báo danh tiếng nhận một người Việt vào làm phóng viên: Minh có bằng báo chí của đại học Maryland và có ưu thế là sự hiểu biết sâu sắc của một người bản xứ. Ngay ngày đầu ở Sài Gòn, James đã được Minh rủ đi café. Từ quán café nhìn ra đường phố, James có một cảm giác rất thú vị.
-         Sài Gòn về đêm đẹp quá- anh nói- Trước nay tôi chỉ biết một Việt Nam chiến tranh chứ chưa biết một Việt Nam hòa bình thế này.
-         Anh đã từng tham chiến ở Việt Nam?
-         Đúng vậy, từ ba năm trước, hồi đó tôi ở trong lực lượng thủy quân lục chiến đóng ở Đà Nẵng.
-         Vậy điều gì đã biến người lính trở thành một phóng viên vậy?- Minh cười.
-         À, thực ra tất cả chỉ là những sự ngẫu nhiên mà thôi.
 “Phải rồi, tất cả những điều mình đã làm chỉ là do một chuỗi những sự ngẫu nhiên mà thôi”, James trầm ngâm. Trong đầu anh quá khứ lại hiện về như tất cả mới ngày hôm qua…
 
*************
 
 James O’Brien ngồi trên thảm cỏ xanh say mê ngắm hồ Mendota. Những con sóng xì xào như lời bài hát mặt hồ chiều chiều ngân nga để ru lấy tâm hồn những con người ở cái thành phố Madison này. Những làn gió nghịch ngợm lướt băng băng cuốn theo những hạt nước li ti vừa mới thoát khỏi mặt hồ chưa kịp bốc lên trời thành mây trắng. Những con gió ấy nô giỡn trên mặt hồ chưa chán còn táp cả vào mặt James mong làn hơi mát rượi của mình có thể làm dịu bớt cái nhìn đau đáu trên đôi mắt anh. Nhưng không, đôi mắt anh vẫn tha thiết nhìn về phía chân trời, chẳng phải vì nơi đó lấp ló đôi ba cánh buồm trắng của những tay chơi vênh váo ở câu lạc bộ thuyền buồm, cũng chẳng phải vì những bông mây mịn màng đang dạo chơi nơi đấy. Đôi mắt anh như muốn nhìn xuyên qua bức họa thần tiên của thiên nhiên trước mặt. Nói theo cách của Enstein, ánh mắt anh muốn vượt qua cả ánh sáng. Nói theo cách của những người trần chúng ta, ánh mắt ấy muốn nhìn thấy cả quá khứ, hiện tại, tương lai. James muốn biết điều bí ẩn mà hàng ngàn năm nay loài người vẫn mòn mỏi kiếm tìm: số phận của chúng ta. Rốt cuộc chúng ta sinh ra trong cõi đời này là vì mục đích gì. Chúng ta sinh ra để rồi chết đi. Sự tồn tại của mỗi chúng ta dù ngắn ngủi chỉ như một cái chớp mắt của thời gian nhưng nhất định nó phải mang một ý nghĩa gì đó. James tự hỏi ý nghĩa cuộc đời anh là gì. Một làn gió nữa phả hơi mát vào mặt anh gợi cho tâm hồn nhạy cảm ấy nhớ về hồ Michigan. Trước mặt anh, hồ Mendota to rộng là thế nhưng không tài nào sánh được với hồ Michigan. Dù là hồ lớn nhất trong bốn hồ ở Madison nhưng thật khập khiễng khi đem nó so với hồ Michigan, một trong Ngũ hồ ở Bắc Mỹ. Sự rộng lớn của hồ Mendota cũng mang vẻ gì đó hiền lành, ngây thơ và yếu ớt của chốn đô thành. James có cảm giác hình ảnh hồ Michigan vẫn gần với trái tim mình hơn, một hình ảnh lớn lao, hùng vĩ và man dại. Hồ Michigan gắn với thuở ấu thơ của anh. Kí ức của anh vẫn còn in đậm kỉ niệm lần đầu tiên được chiêm ngưỡng vẻ hùng vĩ của con hồ mà tên của nó theo tiếng thổ dân đã tự giới thiệu về mình một cách giản dị: “cái hồ lớn”. Đó là năm anh lên bốn tuổi được cha cho ngồi trên lưng ngựa dạo trên bãi cát vàng, James nhớ rõ mình đã há hốc mồm thốt lên:
-         Whoao!!!
 Giọng nói sang sảng của cha anh vang lên như mới ngày hôm qua thôi:
- Thật tuyệt vời. Hồ Michigan đấy con trai.  
James O’Brien sinh ra và lớn lên ở trang trại Cây sồi. Trang trại bao trùm một diện tích năm trăm mẫu Anh ở hạt Marinette, một vùng đất còn hoang sơ mới được khai phá từ cuối thế kỉ mười chín. Cha anh, ông John O’Brien, thừa hưởng mảnh đất của cha mình, đã ra sức mở mang vương quốc của ông để biến mình thành một điền chủ lớn, người sở hữu một trong những đàn bò sữa đông nhất bang Wisconsin. Ông John là một người nóng nảy nhưng vô cùng nhân hậu, những tính cách hình thành từ dòng máu Ái Nhĩ Lan chảy trong huyết quản của ông. Ông có thể lao vào ăn thua đủ với một tên đô con dám xúc phạm những người Ái Nhĩ Lan nhưng không bao giờ đánh một roi vào những chú bò cũng như bỏ mặc một kẻ đói khát. Giọng nói ông ồm ồm sang sảng đôi khi giống tiếng gầm gừ của một con sư tử. Mỗi khi ông cất tiếng hát thì ai nấy đều thấy khó chịu, thế mà ông thì luôn mồm hát dân ca, nhất là mỗi khi hứng chí ông lại hát bài “Anh lính xung phong Ái Nhĩ Lan”:
 “Nào hãy rót cho đầy cốc những chàng trai và nâng chén với tôi
 Rồi đây lá cờ Ailen và lá cờ sao hợp chủng quốc sẽ tới
 Và những kẻ phản bội hay những tên phiến loạn sẽ run rẩy trong nỗi sợ hãi của chúng
 Khi tới đây chúng sẽ phải đối mặt với những chàng trai Yankee và những người lính xung phong Ái Nhĩ Lan!
 Chúa phù hộ cho Washington, cái tên được đất nước này tôn kính
 Chiến thắng sẽ đến với Meagher,Nugent, và những người lính xung phong Ái Nhĩ Lan!”
 
 Đó là một bản hùng ca tuyệt vời được những người lính Hợp chủng quốc cất lên trong cuộc nội chiến Nam Bắc một trăm năm về trước nhưng với chất giọng ồm ồm của mình, ông O’Brien đã biến nó thành một hình thức làm phiền lỗ tai của vợ và bốn cậu con trai. Trong bốn người con ấy, James là cậu cả. Anh thừa hưởng tính quyết đoán và lòng nhân hậu của bố, nhưng lại mang nét điềm tĩnh và đôi mắt của mẹ. Màu xanh đôi mắt James tựa như màu xanh mặt nước hồ Michigan. Tưởng như trong lần đầu tiên anh được ngắm hồ, màu xanh thăm thẳm của mặt nước đã tràn vào và nhấn chìm mãi mãi đôi mắt ấy. Đôi mắt đẹp tuyệt vời ấy không mỏng manh như pha lê mà rắn chắc như kim cương. Khi ông O’Brien nhìn vào đôi mắt ấy và bảo:
-         Mày đừng học đại học làm gì, James ạ. Ở lại trông nom trang trại cùng cha mày chẳng sướng hơn sao. Mày học thế cũng đủ rồi đấy.
Đôi mắt xanh màu nước Michigan đã đáp lại kiên quyết:
-         Không, con sẽ đi học đại học.
 Chẳng phải James yêu quí gì những con chữ đến mức phải cãi lại người cha nóng tính. Môn học duy nhất anh yêu thích là môn toán. Tài năng toán học của anh có lẽ xuất phát từ ngày bé thích đếm xem trang trại Cây sồi có bao nhiêu con bò, bờ sông Michigan có bao nhiêu hòn đá và bầu trời Marinette có bao nhiêu ngôi sao. Tuy vậy các môn còn lại anh đều dở. Sở dĩ anh muốn vào trường đại học vì hai lí do. Thứ nhất, anh muốn tiếp tục theo đuổi đam mê với môn bóng rổ, chính thành tích chơi bóng ở trường phổ thông đã giúp anh được nhận vào đại học Wisconsin với một bảng điểm khiêm tốn nếu không muốn nói là tệ hại. Thứ hai và quan trọng không kém, Jenny cũng vào trường đại học Wisconsin. Jenny là bạn gái của James, họ bắt đầu cặp với nhau từ năm học cuối ở trường phổ thông sau một buổi dạ tiệc. Mọi thứ diễn ra thật tuyệt, Jenny và bóng rổ, James có cả hai nhưng giờ đây anh lại ngồi một mình ngắm hồ Mendota và suy nghĩ vẩn vơ về số phận của mình.
 Bỗng nhiên trước mắt anh, hồ Mendota biến mất, đường chân trời biến mất, một màu đen kịt ụp vào mắt anh.
-         Ôi, Jenny thôi nào. Anh biết chỉ có em thôi.
 Jenny cười khúc khích.
-         Thật chẳng giống anh chút nào. Ngồi một mình ngắm hồ. Không khéo đêm nay Madison có bão.
 Jenny Muller, con một ông bố người Đức, là một bông hoa đẹp của những cánh rừng Wisconsin. Nàng là sự pha trộn độc đáo những nét hoang dã của rừng xanh với nề nếp giáo dục nghiêm khắc của bà mẹ dòng dõi quí tộc Pháp. Thành ra trông nàng vừa duyên dáng thanh lịch như một nàng tiểu thư của vương triều Buốc-bông, vừa tràn đầy sức sống như những cô gái Hawaii suốt ngày đùa giỡn với nắng vàng và biển xanh. Nàng có thể rực rỡ trong những buổi dạ tiệc nhưng đồng thời cũng có thể nép mình dưới những trang sách. Nàng yêu những cuốn sách, những cuốn tiểu thuyết, cho nên nàng đã chọn cho mình chuyên ngành văn học Mỹ. Trong khi ấy, James chẳng bao giờ lật được quá hai trang một cuốn sách dầy đặc chữ. Đôi khi anh tự hỏi những cuốn sách ấy có gì hấp dẫn khiến nàng say mê như thế.
-         Hình như em yêu những quyển sách vớ vẩn ấy hơn cả anh- có lần anh đã không kìm được sự giận dỗi  của mình.
-         Ô kìa, anh ghen đấy à- Jenny cười tinh nghịch- Ai đời lại đi ghen với sách- nàng bĩu môi trông chẳng hề đáng ghét mà nom càng xinh tươi trong mắt James.
 Xuất hiện cùng với Jenny là một anh chàng cũng cao gần sáu phít giống như James nhưng vóc người đậm hơn, vầng trán cao và một cái mũi to ngự trên khuôn mặt. Đó là người bạn thân thiết của James, Grant Taylor. Tên anh được đặt theo tên vị tướng lừng danh đã đánh bại tướng Lee trong trận quyết chiến ở Gettysburg, và sau này trở thành vị Tổng thống thứ mười tám của Hợp chủng quốc. Grant thể hiện lời chào với James bằng một quả đấm thụp vào lưng:
-         Sao trông rầu rĩ thế chàng trai? Bị thằng Billy chơi xỏ à?
 Không biết là cú đấm hay cái tên Billy đã đưa James trở về với con người thường ngày của anh. Anh bật dậy:
-         Ồ cái thằng Billy đần độn đó sao đáng để mình phải bận lòng. Chỉ là mình vẫn còn buồn trận thua của đội hôm trước thôi.
-         Anh yêu, hôm đó anh chơi xuất sắc mà. Lũ con gái đằng sau em cứ kêu gào tên anh suốt. Hẳn Billy phải tức lộn ruột lên ấy chứ - Jenny nói.
 Billy là thằng con ông phó thống đốc bang, lùn hơn James mười phân nhưng sự kiêu căng, hợm mình của hắn thì cao hơn hẳn. Không hiểu vì nỗi gì mà Billy đặc biệt căm ghét James. Hắn luôn tận dụng mọi cơ hội để chọc tức James, luôn mồm kêu anh là “thằng chăn bò nhà quê” và xoáy sâu vào điều đó: “Cái tay vắt sữa bò của mày mà cũng biết cầm bóng cơ à?”. Bởi thế khi Jenny vẽ nên trong đầu anh khuôn mặt tức giận của Billy thì James thấy thật hả hê.
 Sau những phút giây chuyện trò tán gẫu bên hồ Mendota gió lộng, ba người rảo bước quay về. James nắm tay Jenny, phía còn lại của anh là chàng Grant luôn mồm không ngớt ngán ngẩm về việc học hành.
-         Thật lòng mình đâu có ngờ học đại học lại mệt thế. Suốt ngày lăn lộn trong thư viện với những bài báo cáo chết tiệt. Mà mấy ông giáo sư thì khiến mình phát ngán với cái giọng giảng bài như cha Frank đang đọc kinh cầu hồn.
 Trong lúc Grant độc thoại thì James và Jenny mỉm cười nhìn nhau. James đặt lên môi nàng nụ hôn chóng vánh. Anh tự hỏi tại sao mình lại có thể yêu Jenny nhiều đến thế. Sau ba năm bên nhau, anh vẫn không hề đánh mất niềm yêu thương dào dạt dành cho nàng như cái thuở ban đầu. Anh yêu sao giây phút được ngắm Jenny lúc nàng ngồi đọc sách trên bãi cỏ, lúc ấy trông nàng hoàn toàn nhẹ nhõm, thư thái và đẹp như một thiên thần vậy. Nhiều khi anh không kiềm chế được cảm xúc của mình, lại sà đến bên vuốt ve mái tóc vàng mềm mại, ấp má vào bờ má trắng hồng thơm một mùi hương rất nhẹ mà lưu lại rất lâu trong tâm trí James. Những lúc ấy, Jenny kể cho anh nghe những điều trong sách khiến cô thích thú dù anh chẳng hiểu mấy những điều cô nói:
-         Thơ Byron mới tuyệt làm sao anh à. Em chưa thấy ai viết được những vần thơ dạt dào yêu thương như thế.
-         Vậy à? – James cố tỏ ra quan tâm đến anh chàng Byron kia, nhưng thực ra anh chỉ quan tâm đến đôi mắt long lanh niềm thích thú của Jenny.
-         Để em đọc cho anh nghe một bài thơ của ông nhé.
-         Ừ.
 
Jenny bắt đầu đọc, má nàng ửng hồng, khuôn mặt rạng rỡ và đôi mắt tươi vui một cách mơ màng dù bài thơ nàng đọc rất buồn:
Và ta không còn bước bên nhau
 
Và ta không còn bước bên nhau
Trong những đêm lối về rất muộn
Dù đôi tim vẫn cùng nhịp đập
Dù ánh trăng vẫn sáng trên đầu
 
Như lưỡi gươm bào mòn chiếc vỏ
Như hồn ta đôi lúc bồi hồi
Như con tim phải ngừng mỗi nhịp
Và tình yêu đến lúc nghỉ rồi
 
Dù yêu thương ngập tràn đêm tối
Và bình minh sẽ lên rất vội
Nhưng ta sẽ không còn chung bước
Dưới vầng trăng xưa ta sánh đôi.
 
-         Hay không anh?
-         Ừ, hay- James vẫn mơ màng ngắm đôi mắt nàng.
-         Ồ James, chắc anh chẳng nghe em nói gì đâu nhỉ. Tại sao em lại yêu một người chả có chút tinh tế nào như anh thế?
-         Bởi vì em rất ngốc- anh trả lời bỡn cợt rồi hôn lên má nàng.
 
 Sau khi trao cho Jenny nụ hôn tạm biệt, James và Grant cùng về nhà. James sống chung với gia đình nhà Taylor. Bố anh và ông Taylor là những người bạn chí cốt nên khi James lên Madison học đại học, anh đã được gia đình nhà Taylor chào mời đến sống chung dưới mái nhà của họ, nơi đã trở thành mái nhà thứ hai của James.
  Hai chàng thanh niên về đến nhà thì bữa chiều cũng vừa dọn xong. Trong khi ấy, ông Taylor ngồi chăm chú đọc tờ nhật báo Wisconsin, chẳng hề mảy may xúc động trước hương vị thơm phức tỏa ra từ những món ăn. Là một Đảng viên Đảng Cộng Hòa, ông dành mối quan tâm đặc biệt cho những trang tin tức chính trị. Kể từ cuộc khủng hoảng hạt nhân tháng mười năm ngoái với Cuba, tình hình chính trị Mỹ bề ngoài thì khá yên ắng nhưng bên trong lại ẩn chứa những cơn sóng ngầm chỉ chực chồm lên bất cứ lúc nào. Cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho những người da đen do Martin Luther King khởi xướng và nỗi lo sợ làn sóng đỏ nhấn chìm thế giới tự do là những vấn đề làm đau đầu chính quyền Kennedy và nó cũng gây ra cho ông Taylor nhiều băn khoăn. Thấy ông cứ chúi mũi vào tờ báo, bà Taylor bèn nhắc:
-         Ông ơi dùng bữa đã. Lát nữa ăn xong tha hồ mà đọc báo.
Ông vẫn không bỏ tờ báo xuống:
-         Chà chà bà nghe này. Tay George Wallace đã phải bỏ lệnh cấm đám nhóc da đen trong trường đại học Alabama sau khi phải chịu sức ép của quân đội liên bang. Thực lòng, dù không tán thành chính sách cực đoan của gã Dân chủ này nhưng tôi cũng đồng tình với hắn ở quan điểm không thể để bọn chúng ngang hàng với người da trắng được.
 Bà Taylor chẳng để tâm đến chuyện chính trị còn hai chàng thanh niên thì quá mải mê đánh chén. Thành ra ông Taylor độc thoại một mình:
-         Dù đám Niggers cũng có những đứa thông minh sáng sủa như thằng Sean hay giao báo cho nhà mình nhưng phần đông chúng nó thì ngu dốt, nghiện ngập và… Ôi chúa ơi, một nhà sư tự thiêu trên một góc phố đông người qua lại ở Sài Gòn để phản đối chính quyền Diệm. Madam Nhu, đệ nhất phu nhân Việt Nam Cộng hòa, nói bà sẽ vỗ tay nếu được coi màn nướng thịt sư lần nữa.
 Cái tin giật gân ấy phá tan sự thờ ơ của các thành viên còn lại trong gia đình. Bà Taylor nhăn mặt:
-         Khủng khiếp quá. Thế kỉ hai mươi mà còn có kẻ tự thiêu như thời Trung Cổ hay sao?
 Grant thì cười đến mức suýt nghẹn:
-         Con thấy khoái bà phu nhân này rồi đấy. Bà này vui tính thật.
 Đó là lần đầu tiên hai tiếng Việt Nam đi vào trong đầu James. Đất nước nhỏ bé ở bán đảo Đông Dương vẫn còn là một xứ sở huyền bí đối với những người Mĩ. Khi nghe thoáng qua cái tên Đông Dương, James còn lầm tưởng nơi ấy cũng chỉ là một vùng lãnh thổ của đất nước Trung Hoa. Anh cũng như những người Mĩ khác, không ngờ rằng cái tên Việt Nam sau này sẽ mãi mãi gắn với lịch sử nước Mĩ trong những trang u ám nhất, bóng ma Việt Nam sẽ mãi mãi theo gót những người lính Mĩ đến những chiến trường mà họ đặt chân tới. Đó là Việt Nam, cái đất nước nhỏ bé mà James không hề biết nó có trên bản đồ thế giới không nữa. Sự hiểu biết về Việt Nam của một người quan tâm đến chính trị như ông Taylor cũng không khá hơn James bao nhiêu. Ông chỉ biết rằng cũng giống như Triều Tiên, Việt Nam bị chia cắt thành hai miền. Miền Bắc là miền đất do Cộng sản nắm giữ và lãnh tụ của miền Bắc Việt Nam là Hồ Chí Minh cũng giống như Kim Il-sung đứng đầu Bắc Triều Tiên. Miền Nam Việt Nam đang là miền đất tự do mà nước Mĩ lãnh trách nhiệm bảo vệ khỏi sự xâm thực của làn sóng đỏ đến từ phương Bắc. Tổng thống Kennedy đã tuyên bố nước Mĩ sẽ “gánh lấy mọi trách nhiệm, vượt qua mọi khó khăn, hỗ trợ mọi người bạn, chống lại mọi kẻ thù” để bảo vệ những miền đất tự do mà miền Nam Việt Nam là một trong những miền đất ấy, một con đê quan trọng mà nước Mỹ cần phải bảo vệ. Nhưng cái sự nghiệp cao cả ấy của nước Mĩ liệu sẽ đi đến đâu khi mà những người Cộng sản đang ầm ầm rung chuyển cả địa cầu. Cái chế độ tư bản theo cách gọi của những người Cộng sản liệu có đứng vững trước chế độ xã hội chủ nghĩa mới ra đời chưa đầy nửa thế kỉ đang độ thanh xuân tràn đầy sức sống. Liệu rồi chế độ tư bản có bị lật đổ như nó đã từng lật nhào ngai vàng phong kiến? Ông Taylor vẫn luôn canh cánh trong lòng những câu hỏi ấy. Sống ở cái nôi sinh ra chủ nghĩa McCarthy, ông không bị nhiễm lòng thù hận điên cuồng của người kế tục triều đại La Follete đối với Cộng sản nhưng đối với ông, Cộng sản là một thứ gì đó xa lạ và đáng sợ giống như một giáo phái cuồng tín sẵn sàng tử vì đạo cho cuộc Thánh chiến của mình.
  Tối hôm ấy, khi đã tắt đèn đi ngủ, chợt Grant hỏi James:
-         Học xong cậu sẽ làm gì?
-         Mình cũng chưa biết.
 Sau một thoáng suy nghĩ, anh trả lời:
-         Có lẽ mình sẽ đi du lịch châu Âu với Jenny một chuyến, sau đó sẽ về quản lí cái trang trại của ông già. Không, mình sẽ kinh doanh gì đó ở thành phố. Kể ra thì mình không thích bị gọi là một thằng nhà quê cho dù là một thằng nhà quê lắm tiền chăng nữa.
-         Mình thì muốn phục vụ trong quân đội. Nơi đó sẽ rèn giũa mình thành một chàng trai thực sự, James ạ. Mình sẽ được đối diện với những hiểm nguy, sẽ được trao những tấm huân chương, những thứ thể hiện sự khác biệt của mình với những gã trai khác. Những cô gái sẽ xao xuyến khi trông thấy mình trong bộ quân phục oai nghiêm với những tấm huân chương lấp lánh. Ấn tượng về hình ảnh bác mình trong buổi lễ diễu binh ở quảng trường tòa thị chính Wisconsin kỉ niệm chấm dứt thế chiến thứ hai vẫn in đậm trong tâm trí mình. Bác mình trông mới oai vệ làm sao, mình cũng muốn được như bác ấy. Và James ạ, nếu chẳng may mình ngã xuống nơi chiến trường thì quan tài của mình cũng sẽ được phủ bằng lá cờ Hợp chủng quốc. Được chết vì những ngôi sao và những vạch sọc thì cái chết ấy cũng xứng đáng biết bao. Những câu nói của ngài Tổng thống đã khiến mình suy nghĩ rất nhiều: “Đừng hỏi Tổ quốc có thể làm gì cho anh, hãy hỏi anh có thể làm gì cho Tổ quốc”.
 James bất ngờ vì Grant lại có những suy nghĩ chín chắn như vậy. Anh vốn ít khi tỏ ra mình là một con người nghiêm túc, thường chỉ nói với James những câu bông đùa cợt nhả, một anh chàng cũng giống James vô tư hồn nhiên như một tờ giấy trắng chưa bị cuộc đời vấy lên những vết mực nhem nhuốc. Trong họ vẫn còn nguyên vẹn những hoài bão, những ước mơ, những khát khao trong sáng đẹp đẽ nhất của tuổi thanh xuân. Họ là những chân dung tươi sáng của nước Mỹ, những đứa con xinh đẹp của mảnh đất tự do.
 
  Madison là một thành phố có khí hậu ôn hòa. Thời tiết nơi đây giống như một cô thiếu nữ mới lớn thích diện đủ bộ váy áo khác nhau trong một năm. Mùa xuân, nàng diện bộ váy tươi thắm đầy quyến rũ trang trí bởi màu xanh mơn mởn của cỏ cây. Mùa hạ, nàng rực rỡ trong sắc nắng vàng và đôi lúc làm những người dân thành phố thấy nóng bức bởi sức sống rạo rực toát ra từ người con gái ấy. Những ngày tháng bảy nhiệt độ ở Madison có khi lên đến bốn mươi độ C nhưng xen lẫn trong những ngày nóng bức ngột ngạt ấy là những cơn mưa dịu mát hình thành bởi những giọt hơi nước bốc lên từ bốn con hồ trong thành phố và trong những làn gió thổi từ hồ Michigan. Thời tiết mùa thu lại diện bộ váy xanh lục dịu dàng đằm thắm gợi cho con người những niềm suy tư trong khí trời mát dịu một nỗi buồn xa xăm. Khi ấy, lá của những cây phong trên con dốc cạnh hồ Mendota sẽ ngả sang màu đỏ tạo thành một bức họa tuyệt mĩ làm loạn nhịp những con tim khô cứng nhất. Đến mùa đông, khi người thiếu nữ mang chiếc váy màu trắng của băng tuyết thì nàng lại đẹp một vẻ khác, kiêu sa và lộng lẫy. Thường những bông tuyết chỉ rơi lơ thơ nhưng cũng có lúc tuyết rơi dày đến mức lũ trẻ con sung sướng hân hoan vì có thể nặn người tuyết còn người lớn thì lo lắng cho việc sưởi ấm ngôi nhà và tình trạng giao thông nguy hiểm ngoài đường.
 Thủ phủ bang Wisconsin tự hào được đặt tên theo James Madison, vị tổng thống thứ tư của Hợp chủng quốc và là cha đẻ của bản Hiến pháp Mĩ. Thành phố còn tự hào là nơi nuôi dưỡng tài năng của cậu bé sau này trở thành nhà kiến trúc sư lừng danh nước Mĩ Frank Lloyd Wright, người nghệ sĩ thổi vào những tòa nhà sự hài hòa tuyệt diệu với cảnh quan xung quanh, đặc biệt là với thiên nhiên cây cỏ, và một lối kiến trúc phá tan sự ngăn cách của những bức tường lạnh lẽo thay bằng không gian mở thanh thoát và phóng khoáng. Một niềm tự hào nữa không thể không nhắc đến của mỗi người dân Madison là tòa thị chính của bang đặt tại đây. Tòa nhà xây dựng theo lối kiến trúc Phục hưng với qui tắc đối xứng và những chiếc cột to chạm khắc họa tiết cầu kì giống những đền đài Hi Lạp. Mái vòm tòa thị chính là viên ngọc quí long lanh đính trên đường chân trời của thành phố. Trên đỉnh vòm là bức tượng “nữ thần tiến bộ”, biểu tượng của bang Wisconsin. Buổi tối, mái vòm tòa thị chính trở nên lung lình kì ảo trong ánh đèn. Dưới quảng trường tòa thị chính, James và Jenny tay trong tay dạo bước sau bữa tối ở một nhà hàng gần đó. Khung cảnh đông vui một cách thanh bình nơi đây cùng với không khí mát mẻ buổi tối cuối xuân khiến cặp tình nhân cảm thấy hạnh phúc êm đềm dường như mãi mãi là tấm thảm trải trên con đường họ sẽ cùng bước bên nhau trọn đời. James bỗng nhớ lại những lời Grant nói với mình hôm trước bèn đem kể với Jenny. Nàng đăm chiêu trả lời:
-         Grant là một chàng trai tốt nhưng anh ấy không hiểu thế nào là chiến tranh. Em đã đọc Hemingway và cảm nhận được chiến tranh tàn khốc thế nào. Nó sẽ giết chết tâm hồn con người ta bởi trong một trận chiến, anh phải giết người để bảo vệ mạng sống của mình.
-         Nhưng nếu đó là một cuộc chiến tranh vì chính nghĩa thì cũng đáng để ta hi sinh lắm chứ.
-         Em cũng không chắc trên đời này có cuộc chiến nào là chính nghĩa hay không bởi bản thân chiến tranh đã là phi nghĩa rồi.
-         Dù ta không muốn chiến tranh nhưng nếu kẻ thù cứ muốn gây hấn thì chẳng nhẽ chúng ta lại lùi bước sao. Không, như thế là hèn nhát, là nhu nhược. Khi đó chúng ta chỉ có thể chiến đấu để tự vệ, đó là một cuộc chiến tranh chính nghĩa.
 Hai người cùng im lặng. Họ không thể dung hòa quan điểm với nhau. James chịu ảnh hưởng của Grant, đã nhất trí với người bạn thân về sự cao cả của người lính phụng sự Tổ quốc. Jenny ngược lại cho rằng người lính là kẻ liều mạng một cách mù quáng cho sự phi nghĩa. Nàng ước ao trên trái đất này sẽ không còn gã ngốc nào đi lính, như thế sẽ chẳng còn những cuộc chiến tranh nữa. Không muốn gây bất hòa với cô bạn gái ương bướng, James bèn chuyển đề tài:
-         Kì nghỉ hè sắp đến rồi. Jenny này, em đã có kế hoạch gì chưa?
-         Em muốn đến bãi biển Palm, em ước ao đến đó lâu rồi mà chưa có dịp. Anh sẽ đi cùng em chứ.
-         Tất nhiên rồi. Nhưng trước đó tại sao em lại không đến thăm trang trại nhà anh nhỉ? Anh muốn giới thiệu em với gia đình anh. Hẳn các cụ sẽ rất vui.
-         Vâng- Jenny cười tít mắt- Em muốn cưỡi ngựa, anh sẽ dạy em chứ.
-         Ok. Em sẽ cưỡi ngựa giỏi như một chàng cao bồi miền Tây nhờ may mắn gặp được một người huấn luyện bậc thầy là anh đây.
-         Gớm- Jenny bĩu môi- Chẳng biết anh có phải bậc thầy cưỡi ngựa không nhưng về độ nổ thì anh đúng là bậc thầy đấy.
 
 Mùa hè ấy đáng lẽ phải là mùa hè hạnh phúc nhất đối với James nhưng thật bất hạnh, bi kịch đã giáng xuống đầu anh. Hôm ấy, Jenny đã học được cách cưỡi ngựa, nàng rất thích thú với điều đó và nói với James:
-         Anh thấy em giỏi không, vừa học đã biết cưỡi ngựa rồi nè?
-         Em thấy chưa. Nhờ có anh huấn luyện đấy? Thưởng công cho anh đi.
-         Anh muốn thưởng gì nào?
-         Một nụ hôn.
 Nàng cười:
-         Anh thật là… Bắt được thì em cho hôn.
 Nàng phóng ngựa đi, đầu ngoái lại nhìn anh cười, mái tóc vàng bay bay trong gió, đôi mắt nàng rạng ngời vui tươi. Anh sững sờ ngắm nàng quên cả phóng ngựa theo. Bất chợt, một tiếng súng nổ trong khu rừng của một người đi săn nào đó khiến con ngựa của Jenny hoảng sợ hất nàng xuống đất. James lạnh cả người khi chứng kiến cú ngã ấy. Anh chạy đến ôm lấy nàng.
-         Jenny, em không sao chứ? Jenny! Jenny!
 Anh vừa gọi vừa lay nhẹ nàng. Thấy nàng mở mắt, James mừng rỡ nghĩ rằng nàng sẽ không sao. Nhưng đôi mắt nàng chỉ nhìn anh được một giây rồi khép lại. Nàng không còn thở nữa. James bàng hoàng không tin rằng nàng đã mãi mãi xa anh. Trông khuôn mặt nàng như đang mỉm cười trong một giấc mộng đẹp. Suốt những ngày hôm sau, James bần thần ngẩn ngơ. Chỉ đến khi người ta ném những nắm đất xuống chiếc quan tài của nàng, khi mẹ nàng và những cô em gái gào khóc thảm thiết, anh mới sực tỉnh, mới chấp nhận sự thật rằng nàng đã xa anh thật rồi. Anh cay đắng nhớ lại hình ảnh nàng quay lại nhìn anh lúc phóng ngựa đi, khuôn mặt nàng mới rạng rỡ làm sao, mới sinh động làm sao, vậy mà giờ đây anh sẽ chẳng bao giờ còn được ngắm khuôn mặt ấy. Đám tang đã kết thúc, mọi người đã về hết nhưng James vẫn tần ngần ngồi cạnh mộ người yêu. Thấy bạn mình chưa vượt qua được nỗi bất hạnh, Grant đến bên an ủi:
-         Thôi về đi James, mình biết cậu rất buồn nhưng thời gian sẽ xoa dịu nỗi đau, chúng ta vẫn phải tiếp tục sống thôi.   
-         Cậu về trước đi. Mình không muốn bỏ Jenny, cô ấy ở đây một mình sẽ buồn lắm.
-         Thôi được, cậu nhớ về sớm đấy.
-         Grant này, mình vẫn nhớ hình ảnh Jenny quay lại nhìn mình lúc phóng ngựa đi. Nụ cười của cô ấy mới tuyệt vời làm sao. Mình nhớ những lúc ngắm cô ấy đọc sách. Mình ước gì mãi mãi được ngắm Jenny như thế, trông nàng giống như một thiên thần vậy. Làm sao chuyện này có thể xảy ra được? Làm sao cô ấy lại bỏ mình ra đi mãi mãi như thế?
 James gần như kích động. Grant nhìn anh với ánh mắt thông cảm và nói:
-         Mình rất tiếc.
  James chìm trong đau đớn, mất Jenny đời anh chẳng còn ý nghĩa. Tất cả những kế hoạch của đời anh đều có Jenny trong đó, bây giờ không còn nàng chúng trở thành những thứ đồ bỏ. Tốt nghiệp đại học, anh theo Grant ghi danh vào lực lượng thủy quân lục chiến. Khác với Grant, James không có lí tưởng phụng sự Tổ quốc mà chỉ muốn những trận chiến có thể làm mình quên đi hình bóng của Jenny. Vào lực lượng thủy quân lục chiến, trong ba phần thì một phần anh sẽ phải cầm súng chiến đấu. Nếu Jenny còn sống có lẽ nàng sẽ không đời nào để anh trở thành người lính nhưng giờ Jenny đã không còn, chẳng có ai ngăn anh được. Nếu Jenny còn sống, có lẽ anh sẽ không đời nào đi lính vì sợ cái chết sẽ chia cách anh và nàng nhưng giờ anh không sợ cái chết vì nó sẽ đưa anh đến với Jenny, có lẽ nàng đang chờ anh trên thiên đường.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.08.2008 01:00:44 bởi spiderkien >

spiderkien
  • Số bài : 80
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.04.2007
RE: Những cánh mai trước gió(tiểu thuyết về chiến tranh và tình yêu) - 26.08.2008 01:02:36
Chương 9. Hello Vietnam



 
 Con tàu rời Okinawa đã cập cảng Đà Nẵng. James nhìn Grant như muốn nói cái giây phút ấy sắp đến, họ sắp bước vào những hiểm nguy thật sự chứ không còn là những bài tập thao trường ở trại Pendleton hay ở Okinawa, họ biết mình sắp phải chiến đấu với những du kích Việt Nam. Trong cái năm 1965 ấy, chiến tranh ở Việt Nam bắt đầu được leo thang. Từ lâu, James và những người lính thủy quân lục chiến khác đã được huấn luyện để đối phó với lối đánh du kích, chuẩn bị tinh thần trước thời tiết khắc nghiệt ở đất nước ấy. Anh biết ngày này rồi sẽ đến, sớm muộn gì anh sẽ tới đất nước hình chữ S trên bán đảo Đông Dương. Đặt chân lên mảnh đất xa lạ, James khẽ cất tiếng chào:
-         Hello, Vietnam!  
 Mảnh đất ấy đáp lại lời chào của người lính Mĩ bằng một khí hậu dễ chịu, trời không nóng như mọi ngày, những làn gió nhẹ từ biển Đông mơn man mát dịu. Xuống tàu, những người lính theo lệnh lên xe tải để di chuyển tới căn cứ mới của mình. Ngồi trên xe, James bắt đầu nhìn ngắm khung cảnh Việt Nam. Những ngôi làng, thị trấn dần dần hiện ra với những ngôi nhà đơn giản, những khu chợ rộn ràng, những con người da vàng nhỏ bé. Khi xe đi qua một thị trấn, mấy đứa trẻ Việt Nam mừng rỡ reo hò:
-         A, lính Tây kìa chúng mày ơi!
-         Có cả súng kìa, đẹp quá.
-         Có phải súng thật không nhỉ?
-         Đồ ngu! Súng thật chứ còn gì.
 James vẫy tay chào bọn trẻ, thấy thế chúng cũng vẫy tay với anh cười. Những khuôn mặt hồn nhiên của trẻ thơ khiến James ấm lòng. Anh nghĩ mảnh đất này cũng khá thân thiện chứ đâu có khốc liệt như trong những bài giảng mà mình được huấn luyện.
 James và Grant được triển khai về trung đội ba ở đại đội Lima dưới quyền chỉ huy của trung úy Forrest Brandt, người đã từng chiến đấu ở Triều Tiên. James thấy mình may mắn vì được ở cùng một đơn vị với người bạn thân. Họ nhanh chóng hòa nhập với những người đồng đội mới của mình, những người con đến từ khắp mọi miền nước Mĩ: Kevin McGuire đến từ Long Island, New York, Larry Kingston đến từ Arkansas, Sean Connery từ New York city, Gary O’Connor từ Phoenix, Mark Griffin từ Detroit…
 Vừa chân ướt chân ráo đến, ngay ngày hôm sau James và Grant đã phải tham gia một cuộc hành quân nhỏ cùng với trung đội mới. Ngó vẻ cẩn trọng của những người đồng đội và của trung úy Brandt, James cũng cảm thấy căng thẳng. Dường như sau mỗi lùm cây, mỗi tảng đá, mỗi hốc đất là một du kích Việt Cộng đang rình rập. Mọi sự sơ suất có thể phải trả giá bằng cả tính mạng. Nhưng hành quân như thế cũng còn thoải mái chán so với nhiệm vụ gác đêm. Đến phiên đầu tiên trực gác, James được phân công trực cùng Larry. Anh chàng da đen hỏi James:  
-         Này, cậu quê ở đâu thế?
-         Wisconsin.
-         Vì sao nhập ngũ?
-         Muốn được quân đội rèn luyện- James bịa ra lí do.
-         Chà- Larry cười- Muốn lấy de với các em chứ gì. Mình còn lạ gì.
-         Ừ, tùy cậu nghĩ thế nào cũng được.
-         Chỗ anh em với nhau có gì mà phải ngại. Chẳng giấu gì cậu, mình vào đây chả phải vì lí tưởng cao đẹp gì mà cốt chỉ để kiếm miếng ăn thôi. Ở Arkansas chả có việc gì hay ho cho một thằng da đen chưa tốt nghiệp phổ thông cả. Này, nhưng đừng coi thường nhé, đúng năm học cuối mình dính vào vụ đánh nhau nên mới bị đình chỉ, chán quá bỏ học luôn. Để mình kể cho nghe vụ đó,…
 Larry cứ thế nói liến thoắng, dường như anh không chịu được sự im lặng. Nói một lúc thì anh buồn ngủ.
-         Này, mình ngủ một lúc đây. Cậu canh giùm mình nhé.
 Vậy là James phải đứng canh một mình. Nếu ban ngày đi hành quân căng thẳng bao nhiêu thì lúc này James còn căng thẳng gấp hai lần. Ban đêm không khí âm u, tĩnh mịch, thỉnh thoảng gió lại lùa vào tán cây xào xạc khiến anh thấy rùng cả mình. Bất chợt, James nghe tiếng bước chân làm những chiếc lá trên mặt đất kêu lạo xạo. Anh dồn hết sự chú ý của mình về phía lùm cây nơi phát ra tiếng động, ghé tai cố phát hiện ra những âm thanh nhỏ nhất. James hi vọng lúc nãy mình nhầm, có thể đó chỉ là tiếng gió lùa trên kẽ lá. Nhưng tiếng động lạo xạo lại phát ra và lần này James tin chắc đó là tiếng chân người. James bắt đầu nhận định tình hình, đó có thể là một tên du kích đơn lẻ hoặc là một nhóm vài ba tên, và trường hợp xấu nhất những kẻ núp sau lùm cây kia chỉ là một nhóm tiên phong thám thính. Tình hình nguy cấp như vậy mà gã da đen gác cùng anh lại ngủ say như chết. James đành phải nghĩ cách một mình tác chiến, dù sao trước hết phải quan sát xem bọn chúng di chuyển ra sao. Anh tiếp tục căng hết sự tập trung của mình ra để theo dõi cử động của quân địch. Trong một thoáng anh chợt nghĩ đến Jenny, hi vọng linh hồn nàng sẽ giúp anh bình an qua cơn nguy hiểm này. Tiếng chân di chuyển ngày càng nhanh hơn. James đã lên đạn, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, nếu chỉ có vài ba tên thì anh có thể xử lí gọn gàng được. Bóng đen vụt nhảy ra khỏi lùm cây, James nín thở. Rồi từ trạng thái căng như dây đàn, anh thở phào. Thì ra chỉ là hai con chó hoang, thế mà nãy giờ chúng làm anh hết hồn. Anh tự cười giễu mình: “Suýt vỡ tim vì hai con chó, mày dũng cảm lắm James ạ”

spiderkien
  • Số bài : 80
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.04.2007
RE: Những cánh mai trước gió(tiểu thuyết về chiến tranh và tình yêu) - 26.08.2008 01:06:51
Chương 10. Chiến dịch “trăng rằm”
 


 Một buổi sáng đẹp trời, James đang chơi bóng rổ cùng những đồng đội ở trong trung đội của mình. Trận đấu đầy ắp tiếng cười vì Larry, mặc dầu là một tay giữ bóng điêu luyện, luôn biết cách làm cho trận đấu trở nên hài hước, và nhiều khi lố bịch đến mức khiến James phát bực. Sau khi James vừa tung một cú ném ba điểm hoàn hảo đến mức trái bóng chỉ gây ra một tiếng “sọt” khi chui qua rổ, bỗng dưng có lệnh tập trung toàn đơn vị.
-         Quỷ tha ma bắt, đang chơi dở mà.
-         Không biết chuyện gì nữa.
-         Cá là chúng ta lại phải đi lùng Charlie.
 Khi toàn trung đội đã tập hợp, James thấy ông bạn vàng Grant của mình cũng hậm hực không kém vì phải bỏ ván cờ vua đang hồi gay cấn.
-         Tớ sắp ăn được năm đô la của thằng Kevin.
 Trung úy Brandt đưa mắt sang chỗ James:
-         O’Brien và Taylor bàn bạc xong chưa? Khóa mõm các cậu vào.
 Rồi anh bắt đầu hô, giọng sang sảng:
-         Tất cả! Nghiêm! Chúng ta tập trung ở đây để nghe phổ biến. Ngày mai chúng ta sẽ có việc. Các cậu phải chuẩn bị hành trang của mình, đúng năm giờ sáng mai phải tập hợp ở đây. Tất cả chỉ có thế. Giải tán!
 James nghĩ đây có thể là một chuyện lớn đầu tiên anh được tham gia kể từ khi gia nhập đơn vị, lớn hơn những chuyện như canh gác hoặc những chuyến truy lùng Charlie lẻ tẻ mà anh từng tham gia cùng đại đội Lima. Tuy nhiên anh chẳng hề biết cái chuyện lớn ấy là cái gì. Anh sẽ đi đâu? Anh sẽ làm gì? Anh sẽ làm thế nào? Những cái đấy anh sẽ không được biết. Một nguyên tắc trong chiến tranh là người lính biết càng ít càng tốt. Anh chỉ cần làm theo lệnh chỉ huy, thế là đủ và anh cũng chỉ được phép làm đến thế, không được hơn. Không giống như trên giảng đường, một sinh viên được khuyến khích tham gia vào bài giảng, hỏi những câu hỏi, thậm chí tranh luận với giáo sư. Ở đây, những phẩm chất ấy không được đánh giá cao. Một người lính có phẩm chất tốt nhất là phải biết “câm mồm”, “im lặng” và tuân theo mọi mệnh lệnh của chỉ huy kể cả khi lệnh của ông ta là hành quân xuống địa ngục.
 Đêm hôm ấy, khi nằm mãi không ngủ được, James bèn hỏi Grant:
-         Cậu nghĩ ngày mai chúng ta sẽ làm gì?
-         Thì còn gì khác ngoài việc đi lùng bắt Charlie. Cá là chúng ta sẽ phải vào một khu rừng khỉ ho cò gáy đầy vắt và kiến rừng. Tất của cậu có khô không đấy. Rõ vớ vẩn, ở Madison thằng nào mà bàn đến chuyện vớ viếc là tớ nghỉ chơi ngay, vậy mà ở cái xứ chết mẹ này, cái của nợ đấy lại thành ra quan trọng.
 James bỗng hỏi vu vơ:
-         Liệu tớ có bị chết ở xứ này không nhỉ?
 James dường như tự hỏi mình. Anh biết nhắc đến cái chết là một điều không hay. Tất cả mọi người ở đây đều tránh nhắc đến nó hoặc là nhắc đến nó với một thái độ hài hước, một vẻ coi thường cái chết. Nhưng anh cảm nhận được rằng, khi màn đêm buông xuống, những người lính sẽ nghĩ đến cái chết một cách nghiêm túc. Họ thầm cầu nguyện mình sẽ sống sót trở về, và rồi những điều tốt đẹp sẽ chờ đón họ ở nước Mĩ. Mỗi người có một mơ ước riêng khi vào quân ngũ, người muốn theo nghiệp quân nhân, người muốn sau khi phục vụ quân đội sẽ có tiền để học đại học, còn anh, sau khi rời quân ngũ anh sẽ làm gì? Anh đã vào quân đội để quên đi Jenny, quên đi những ngày tháng tươi đẹp mãi mãi không thể trở lại, anh những muốn chiến đấu để được chết đi vì cuộc đời không có Jenny thì còn ý nghĩa gì nữa. Nhưng tất cả những mục đích mà vì nó anh gia nhập lực lượng thủy quân lục chiến đều không đạt được. Cứ mỗi khi màn đêm buông xuống những hình ảnh của Jenny lại hiện lên sinh động hơn lúc nào hết. Nỗi nhớ Jenny chiến tranh không hề làm nguôi ngoai mà ngược lại càng khiến nó khắc khoải thêm. Trong những giấc mơ chập chờn, anh loáng thoáng thấy mái tóc vàng của Jenny, anh đứng từ phía sau còn nàng đang ngồi đọc sách. Nàng quay mặt lại mỉm cười rồi bỗng nhiên tan biến vào hư vô. Lúc ấy anh tỉnh dậy và thấy giọt nước mắt lăn dài trên má. Có thể những người lính khác cũng có lúc khóc thầm trong đêm mà không ai hay nhưng vì những lí do khác. Họ muốn sống sót trở về với gia đình. Người thì nhớ mẹ, người thì nhớ vợ hay người yêu, người lại nhớ con thơ. Nhiều người đã tham gia trận chiến này sớm hơn James. Họ đã tiến hành cuộc hành quân “Ánh sáng sao” và nhiều cuộc truy quét nhỏ khác trong những cánh rừng Nam Trung Bộ. Chiến dịch “ánh sáng sao” là một trong những chiến dịch tìm và diệt lớn đầu tiên của lực lượng thủy quân lục chiến Mĩ ở đây để tiêu diệt trung đoàn một Việt Cộng. Thành công vang dội của chiến dịch đã cổ vũ tinh thần binh sĩ rất nhiều nhưng một mặt cũng cho họ thấy mình đang thực sự đối diện với cái chết. Tất cả đều sợ chết. James cũng vậy. Anh đã từng muốn chết, vậy mà khi cái chết dường như đang rình rập thì James lại sợ nó. Bản năng sinh tồn của con người quả thực mới mạnh mẽ làm sao. James cảm thấy giá trị của sự sống ở đây. Có lẽ đó là điều tuyệt vời duy nhất mà cuộc chiến này đã mang lại cho anh. Những nỗi niềm miên man ấy đưa anh vào giấc ngủ lúc nào không hay.
 Năm giờ sáng hôm sau, tất cả đơn vị được chở đi bằng những chiếc xe tải đến điểm tập kết. Lúc đến nơi thì mặt trời cũng vừa lên. Đó là một bãi biển và đơn vị đứng trên bãi cát vàng. Một ngày trời đẹp và không quá nóng, cái nóng hừng hực của Việt Nam thường làm binh lính Mỹ mệt mỏi. Cảnh biển thật đẹp, làn nước xanh biếc, James đứng ngắm từng con sóng trào đến rồi rút đi thật yên bình. Nhưng cảnh phải đứng chờ mãi khiến anh phát ngán và ngáp liên hồi trong khi cứ phải luôn tay đuổi lũ kiến mất dạy chực trèo lên quần. Anh phải chờ đến tận trưa khi mà hàng chục chiếc trực thăng khuấy động bầu trời rồi đáp xuống. Đó là một khung cảnh hoành tráng khiến James thấy trào lên một niềm  tự hào. Những chiếc trực thăng như một đàn chuồn chuồn khổng lồ ngạo nghễ với những chiếc cánh quạt vạm vỡ xé toang bầu trời. Chúng đại diện cho sức mạnh quân sự của nước Mĩ. Với sức mạnh ấy, quân đội Mĩ sẽ đánh bại bất kì kẻ thù hùng mạnh nào chứ đừng nói là một nhúm du kích Việt Cộng hay vài sư đoàn lính Bắc Việt.
 Một lần nữa, James cũng chỉ được nghe giảng giải sơ sài vài điều ít ỏi về chuyến hành quân lần này rằng lúc sáng B-52 đã nã bom vào vài trung đoàn Việt Cộng tập hợp ở thung lũng Quế Sơn và rằng đơn vị của anh phải đi giải cứu một trung đoàn Việt Nam Cộng hòa bị Việt Cộng đánh cho tan tác ngày hôm trước. Sau đó, toàn bộ đơn vị leo lên những chiếc trực thăng và được chở đến điểm đổ quân. Mọi việc đều thuận lợi vì dường như hôm nay là một ngày đẹp trời. Đại đội Lima đổ quân an toàn, tập hợp lại và bắt đầu hành quân.
 Sau khi đại đội đi vào một cánh đồng lúa chợt James nhìn thấy vài bóng người mặc pyjama đen cách đó vài trăm mét. Chẳng có gì khó nhận ra là họ đang bám theo đơn vị anh. Ngay lập tức, anh báo cho trung sĩ Hill và trung sĩ dùng radio để báo cho chỉ huy. Nhưng tất cả vẫn tiếp tục hành quân như không có gì xảy ra. Không có lệnh thì anh không thể tự tiện hành động. James thầm rủa mấy cái quân luật chết tiệt. Bây giờ thì đám người kia đã thành một nhóm khoảng mười lăm người và James trông rõ là chúng có AK47. Chúa ơi, còn gì bực mình hơn là biết kẻ thù ở đâu mà không được tấn công chúng, lại phải đợi lệnh hoặc chờ chúng ra tay trước rồi mới được tự vệ. James tiếp tục chửi rủa không tiếc lời luật quân đội. Chỉ cần một quả rocket thôi là bọn Việt Cộng kia sẽ về chầu ông bà, vậy mà…
 Một lúc sau khi vượt qua cánh đồng lúa rộng lớn, đại đội bắt đầu tiến vào một ngôi làng. Đại đội triển khai ba trung đội theo ba hướng. Trung đội một tiến vào theo hướng bên trái, trung đội ba đi theo hướng bên phải còn trung đội hai làm nhiệm vụ bọc hậu. Tất cả binh sĩ đều cảm nhận thấy một điều không lành sắp xảy đến. Một sự im lặng ghê rợn bao quanh ngôi làng này. Không có một bóng người, thậm chí còn không có cả một con gà chạy loanh quanh. Linh tính của họ đã không sai. Đại đội đã bị Việt cộng, những người rõ ràng có một con mắt quân sự không tầm thường, khép vào trong một vòng vây hình tam giác. Súng cối và súng máy từ trên đồi bắt đầu xả đạn.
-         Phục kích!
 Toàn đại đội nhanh chóng triển khai đội hình.James nấp vào sau một tảng đá cùng đội súng máy M-60, cầm khẩu M-14 ngắm bắn những tay súng Việt Cộng đang lấp ló sau những bụi cây. Một khung cảnh kinh hoàng diễn ra trước mắt James. Khói bụi mù mịt, đạn pháo ầm ầm như muốn đập tan bộ óc anh. Những tay súng máy bên cạnh anh vừa xả đạn vừa gào thét điên cuồng:
-         Đ. con mẹ lũ con hoang chúng mày! Nhận lấy con mẹ đạn của chúng mày đi, Charlie.   
 James nghe tiếng đạn chíu chít loạn xạ trong không khí xen lẫn với những tiếng nổ đùng đoàng và tiếng người hét điên loạn. Dù địa ngục khủng khiếp đến mấy thì chắc cũng chỉ đến mức này là cùng. Con người hoàn toàn biến thành lũ thú vật khát máu chỉ chực ăn tươi nuốt sống kẻ thù, xả đạn vào nhau, lấy đi mạng sống của nhau không chút ghê tay. Một lần, James có cảm giác một viên đạn sượt qua tai mình. Chỉ cần chệch vài li là anh sẽ mất mạng. Nhưng James không thấy sợ. James không chạy trốn. Chẳng có đường nào để chạy, con đường duy nhất để sống là bắn chết hết lũ Charlie.
 Bất chợt, một quả đạn súng cối nổ uỳnh ngay gần chỗ James làm người bắn súng máy bên cạnh tử nạn ngay tại chỗ còn bản thân anh thì bị mảnh đạn găm vào vai. Một cảm giác đau đớn tột cùng nhói trong óc anh. Tưởng như mảnh đoạn đã xé toang người anh làm trăm mảnh. Anh đau đến mức không thét lên được mà chỉ có thể rên lên những tiếng ư ử yếu ớt. Một thứ chất lỏng âm ấm tuôn ra từ vai anh: máu. Anh yếu ớt gọi y tá quân y. Bác sĩ Mills ngay lập tức chạy đến băng bó cho anh rồi đưa anh đến một chỗ nấp an toàn hơn. James thấy đỡ đau hơn lúc đầu, bên cạnh anh là đại úy McCartney. Ông đang cố liên lạc với trung tâm để xin trợ giúp.
-         Lima sáu gọi trung tâm. Lima sáu gọi trung tâm.
-         Trung tâm đang nghe. Nói đi Lima sáu. Hết.
-         Chúng tôi bị bao vây. Địch bắn rát quá. Chúng tôi cần hỏa lực mạnh. Yêu cầu pháo và máy bay trợ giúp đánh vào đồi 43. Hết.
-         Không được phép dùng pháo nhưng trong vòng mười lăm phút nữa máy bay sẽ dội bom đồi 43. Hết.
   Lúc này chợt James mới nghĩ đến Grant. Không biết Grant thế nào rồi. James lo lắng cho tính mạng người bạn hơn cả tính mạng mình. Bỗng James thấy Grant đang bị thương đang nằm ở một chỗ cách đó ba mươi mét. Quên cả đau đớn, anh chạy qua giữa làn đạn rồi ôm bạn mình bằng một sức mạnh phi thường rồi chạy về chỗ núp để bác sĩ Mills chạy chữa. Lúc đó,cái chết gần James hơn lúc nào hết nhưng trong đầu anh không hề có nỗi sợ hãi nào mà chỉ có một ý nghĩ: “Mình phải cứu Grant! Mình phải cứu Grant”. Grant bị thương ở bụng, máu thấm đẫm áo anh, môi anh nhầy nhụa máu, hơi thở anh khó nhọc. Sau khi băng bó cho Grant và tiêm morphin cho anh, bác sĩ Mills quay sang nói với James:
-         Cậu ấy sẽ không qua khỏi đâu nhưng cậu hãy cố gắng làm cho những giờ phút cuối của cậu ấy trở nên nhẹ nhàng.
 James phẫn nộ gầm lên:
-         Tại sao ông lại có thể gở miệng như thế? Chắc chắn cậu ấy sẽ qua được.
 Bác sĩ Mills lắc đầu nhìn James với một ánh mắt thông cảm trước khi chạy sang chỗ một nạn nhân khác. Dù mắng ông nhưng trong sâu thẳm, James biết ơn ông và hiểu ông cũng như những y tá quân y trong đội của ông thực sự là những người hùng của cuộc chiến này, họ đã đối mặt với cái chết như bao người lính khác, giành giật từng mạng sống trong tay tử thần.
 Một lúc sau thì không viện đã đến. Tiếng bom nổ như bầu trời đang sập xuống, như ngày tận thế đang đến đây, một nơi nào đó trong thung lũng Quế Sơn. Sau đợt bom, hỏa lực của Việt Cộng yếu đi một chút. Trung đội hai và trung đội ba bắt đầu triển khai ra cánh đồng trong khi trung đội một bọc hậu. Những loạt đạn súng cối và súng máy vẫn xen kẽ nhau không ngớt. Một chiếc trực thăng cứu hộ đã cố đáp xuống để đưa những người bị thương đi nhưng bị bắn nổ. Do đó đội trực thăng cứu hộ không dám mạo hiểm đáp xuống mà đành phải đợi. Chiến trường bắt đầu dịch ra xa khỏi chỗ James. Anh bắt đầu bình tĩnh trở lại sau những giây phút kinh hoàng vừa trải qua, chẳng khác nào vừa từ địa ngục quay về. Bên cạnh anh, Grant vẫn thở đều đều, mắt nhắm thiếp đi vì tác dụng của morphin. Cả James cũng thế, anh thấy mi mắt trĩu lại và từ từ thiếp đi khi morphin bắt đầu ngấm. Khi tỉnh dậy anh không biết mình đã thiếp đi bao lâu. Grant cũng đã tỉnh. James mừng quá, anh đã nói với bác sĩ Mills là Grant sẽ không chết và thực tế đang chứng minh điều đó,anh sẽ cười vào mũi vị bác sĩ, chắc chắn như thế. Rồi cả hai sẽ hồi phục và khi quay về Mĩ họ sẽ cùng đùa cợt với nhau về những lần thế này. Nhưng James đã nhầm, Grant đang chết và ý thức được rằng mình sẽ không qua khỏi. Anh nói với James bằng một giọng ngắt quãng:
-         James này, tớ sắp chết rồi.
-         Ồ tớ biết tỏng cậu đang đùa tớ, Grant ạ. Nhưng tớ không mắc lừa đâu- James cười.
-         Không, tớ nghiêm túc đấy.
-         …
-         Tớ không hối hận đâu James ạ. Được chết vì Tổ quốc thì cái chết của tớ không vô nghĩa rồi… Tớ chỉ hơi tiếc vì vẫn chưa được lấy vợ và có con… Tớ muốn có gia đình. Khi nào về Mĩ cậu cũng nên lấy vợ đi James ạ… Jenny ở trên thiên đàng chắc cũng muốn như thế, hãy kiếm một cô gái tốt… Ôi, tớ thì không được nữa rồi… Dù sao, tớ cũng được chết vì những ngôi sao và những vạch sọc. Giá như được nhìn thấy lá cờ Tổ quốc lần cuối.
 Grant bắt đầu thiếp đi và nói mê man:
-         Tớ buồn ngủ quá James ạ.
 James lay mạnh người bạn:
-         Dậy đi Grant, đừng ngủ, đừng ngủ.
-         Vô ích thôi. Đừng cố gọi tớ nữa.
 Nước mắt James bỗng trào ra, cổ họng như nghẹn lại. Anh hét vào tai Grant:
-         Đ. con mẹ cậu. Dậy đi đồ ngu. Mở mắt ra đi. Không là cậu sẽ chết đấy.     
 Nhưng Grant đã rơi hoàn toàn vào trạng thái mê man. Trước khi hoàn toàn tắt thở, anh kêu lên ba tiếng cuối cùng:
- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Mẹ ơi!
 Hỡi ôi trước lúc chết chúng ta bao giờ cũng nhớ đến cái con người hết mực nhân từ, tấm lòng bao la như biển cả, sẵn sàng bao dung hết thảy mọi lỗi lầm của chúng ta. Một giọt nước mắt lăn dài trên má của người đã chết. Nó hòa vào những giọt nước mắt lã chã rơi từ đôi mắt James để rồi rơi xuống mảnh đất Việt Nam này, cái mảnh đất xa nước Mĩ hàng ngàn dặm, ngăn cách bởi một đại dương bao la. James khóc nấc lên, xen lẫn tiếng khóc là những tiếng chửi rủa. Anh chửi Việt cộng, anh chửi Việt Nam, anh chửi cuộc chiến này, anh chửi cuộc đời này, cuối cùng anh chửi cả nước Mĩ, đất nước đã đưa những người con của mình đến cuộc chiến này.   
-         Quỷ tha ma bắt Johnson. Nếu những người Việt Nam muốn tàn sát nhau thì đó là việc của họ, việc quái gì Ngài phải đưa chúng tôi đến cái nơi quái quỉ này.   
 Nỗi căm giận của anh sục sôi nhưng dần dần rồi cũng dịu lại. Anh vẫn ôm lấy đầu Grant. Khuôn mặt Grant trông thật thanh thản. Grant đã chết một cách nhẹ nhàng, không đau đớn nhờ tác dụng của morphin. James nói với người bạn đã khuất:
-         Grant à, hãy mở mắt ra đi. Cảnh ở đây đẹp lắm. Cánh đồng trước mặt cậu xanh mướt kìa. Đất nước này mới tươi đẹp làm sao. Sau này khi chiến tranh kết thúc tụi mình có thể quay lại đây du lịch. Lúc đấy chắc tụi mình đã có con rồi nhỉ. Tớ sẽ chỉ cho tụi nó cái hòn đá mà cha tụi nó từng núp. Chúng nó sẽ thích lắm đấy. Phải rồi, khi nào chiến tranh kết thúc…
 James lặng ngắm mảnh đất thanh bình này. Tiếng súng đã ở phía xa, rất xa, xa như trong một cơn ác mộng, xa như trong một nỗi mơ hồ, trước mặt anh chỉ còn một bức tranh thiên nhiên vẽ bằng những gam màu xanh. Trong ánh nắng chiều yên ả, màu xanh mướt của những cây lúa rung rinh theo từng đợt gió, màu xanh vàng của những tàu lá chuối, màu xanh rì của ngọn đồi thoai thoải trước mặt và của những bụi cây lác đác, tất cả hòa thành một khung cảnh yên bình trải ra trước mắt anh. James nghĩ đất nước này thật đẹp nếu không có chiến tranh. Anh bỗng cất lời bài ca mà cha anh vẫn hát:
“Nào hãy rót cho đầy cốc những chàng trai và nâng chén với tôi
 Rồi đây lá cờ Ailen và lá cờ sao hợp chủng quốc sẽ tới
 Và những kẻ phản bội hay những tên phiến loạn sẽ run rẩy trong nỗi sợ hãi của chúng
 Khi tới đây chúng sẽ phải đối mặt với những chàng trai Yankee và những người lính xung phong Ái Nhĩ Lan!
 Chúa phù hộ cho Washington, cái tên được đất nước này tôn kính
 Chiến thắng sẽ đến với Meagher,Nugent, và những người lính xung phong Ái Nhĩ Lan!”
 
 Giai điệu hùng tráng của bài ca đã lấy lại tinh thần cho anh. Anh nghĩ cái chết của Grant là một cái chết xứng đáng. Chết vì Tổ quốc là một cái chết cao cả. Bao nhiêu người đã ngã xuống vì lá cờ Hợp chủng quốc, từ năm 1776 đến nay, bao nhiêu người đã ngã xuống cho sự tự do, vậy thì một cái chết của Grant nào có phải điều gì ghê gớm. Giờ đây James sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc. Kẻ thù của nước Mĩ cũng là kẻ thù của anh. Nhiệm vụ của anh là tiêu diệt Victor Charlie, cho dù anh có phải chết.
 Tối đến, trực thăng cứu hộ bắt đầu đáp xuống để đưa những người bị thương và cả những tử thi đi.

spiderkien
  • Số bài : 80
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 13.04.2007
RE: Những cánh mai trước gió(tiểu thuyết về chiến tranh và tình yêu) - 26.08.2008 01:09:01
Chương 11. Lá thư của một người cha





 Chiến dịch trăng rằm coi như kết thúc với James ngay từ ngày đầu tiên khi anh được đưa về bệnh viện quân y ở hậu phương. Những ngày sau đó, số thương vong của đại đội ít hơn nhiều và chiến dịch cũng khá thành công. James sau đó được trao tặng một “ngôi sao bạc” vì hành động dũng cảm cứu bạn mình. Đại tá McCartney chứng kiến hành động ấy đã gửi báo cáo để anh được sự ghi nhận của Tổ quốc. Ngôi sao bạc là huân chương cao quí thứ hai mà một người lính Mĩ có thể nhận được sau huân chương danh dự của Quốc hội, thứ huân chương duy nhất có thể đeo trên cổ. James ước thầm giá như ngôi sao bạc ấy được trao cho Grant. Grant là một người lính mẫu mực, một con người yêu nước nồng nàn, so với Grant, James thấy mình không thể bằng được. Ngoài ngôi sao bạc thì James còn thu hoạch được một “trái tim màu tím”, một huân chương cho mỗi lần bị thương của một người lính. Nó còn là tấm bằng chứng nhận lòng dũng cảm cho một chiến binh nên nhiều người lính thậm chí còn cảm thấy xấu hổ nếu không có ít nhất một “trái tim màu tím” khi từ chiến trường trở về.
 Ở trong bệnh viện, mọi thứ cũng không đến nỗi tệ đối với James. Vết thương ở vai của anh không quá nghiêm trọng và chỉ sau ba tuần là anh lại được quay về đơn vị. Trong thời gian ba tuần ở bệnh viện, anh cảm thấy dường như mình được trở về “nhà”. Anh có thể xem tivi, nghe radio, chơi ping-pong với những bệnh nhân khác. Anh cũng có bạn để trò chuyện. Larry nằm ở giường cạnh anh. Không may mắn như James, Larry phải cưa một chân, anh sẽ sớm được đưa về Arkansas, quê hương anh. Anh chàng da đen cảm thấy thế giới như sụp đổ, vẻ hài hước của anh chỉ còn được thể hiện trong lời nói cay đắng:
- Vậy là James ạ, chúng ta không thể chơi bóng rổ cùng nhau được nữa rồi.
 James cố tìm cách an ủi Larry:
- Còn nhiều trò chơi khác thú vị hơn bóng rổ mà.
 Anh buồn rầu nhớ lại lần đầu gặp Larry ở trung đội ba. Cậu ta đã bỡn cợt James:
-         Ồ. Chúng ta lại đón thêm một thằng FNG nữa.
 James cũng đáp lại, không vừa:
-         Và thằng FNG đó có một cú đấm bằng sắt đấy. Muốn thử không?
 Larry cười khoái trá:
-         Khà khà, tớ khoái cậu rồi đấy. Chào mừng đến với trung đội ba, O’Brien.
 Một Larry sôi nổi, bỗ bã, mồm mép dường như đã ở lại cùng cái chân nơi thung lũng Quế Sơn. Trước mặt James giờ đây là một Larry ủ dột, bi quan, trầm lặng. Larry thở dài:
-         Có vài gã Charlie tớ đã gặp ở chiến dịch “Ánh sáng sao” vài tháng trước. Thế mà hồi đó cứ tưởng đã quét sạch đám Việt Cộng đó rồi.
-         Điều đó thì nghĩa lí gì?
-         Nghĩa là chúng ta không thể thắng cuộc chiến này được James ạ. Những người đó họ sẽ chiến đấu đến khi thắng hoặc là chết. Họ căm thù chúng ta đến tận xương tủy, họ sẵn sàng sống chui rúc trong những khu rừng, những cái hầm như những con chuột, chỉ để chờ dịp tiêu diệt chúng ta. Họ sẵn sàng hi sinh hàng trăm người chỉ để giết được một người của chúng ta. James ạ, chúng ta sớm muộn gì cũng sẽ phải quay về thôi. Đây không phải là cuộc chiến của chúng ta, đây không phải là nơi của chúng ta.
 James không hiểu lắm những lời Larry nói. James nghĩ anh chàng da đen này dường như quá bi quan kể từ sau trận chiến ở Quế Sơn. Từ trước đến nay quân Mỹ vẫn luôn chiến thắng, Việt Cộng chưa bao giờ đánh bại được người Mỹ trong một trận chiến nào. Số thương vong của họ bao giờ cũng gấp chục lần lính Mỹ. Nhưng liệu điều đó có thật sự quan trọng không?
 Trong những ngày ở bệnh viện, James còn làm bạn với một nữ y tá người Việt Nam. Chị tên là Thu Bình, tuổi hơn ba mươi, nói tiếng Anh khá. James có cảm giác Thu Bình giống như một người mẹ hiền của các bệnh nhân, luôn biết cách làm cho họ dịu đi những vết thương thể xác và tinh thần bằng sự ân cần của mình. Vài ba lần James đã có những cuộc chuyện trò tâm sự với chị. Anh kể cho chị nghe về Jenny, về Grant, những người thân thiết nhất đã rời xa anh. Chị cũng mở lòng mình mà kể cho anh nghe câu chuyện buồn của chị:
-         Tôi cũng có một đứa em nhưng năm 54 nó đã ra ngoài Bắc đi theo cụ Hồ rồi. Từ đó đến nay đã hơn chục năm mà tôi không được tin tức gì của nó, cũng chẳng biết nó còn sống hay đã chết.
 Chị buồn rầu thở dài. James cũng buồn thay cho chị, những người Việt Nam là những người phải chịu đựng mất mát nhiều nhất từ cuộc chiến này. Một đất nước bị chia cắt làm hai, thế còn bao nhiêu gia đình phải chịu nỗi buồn chia li như Thu Bình?
  James đón lễ Giáng sinh ở bệnh viện. Mặc dù còn nhiều thiếu thốn nhưng những y bác sĩ trong bệnh viện quân y này đều cố gắng tạo ra một không khí Giáng sinh thật sự để làm dịu đi nỗi đau của bệnh nhân, để giúp họ vơi bớt nỗi nhớ nhà. Giáng sinh là một ngày lễ đặc biệt quan trọng đối với người Mĩ, cũng giống dịp lễ Tạ ơn, đó là dịp để mọi người hướng về gia đình. Đó là một buổi lễ Giáng sinh ấm áp đối với James theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng vì thời tiết ở nơi đây hầu như chẳng khi nào lạnh. Những bác sĩ, y tá, nhân viên, bệnh nhân, hầu hết là người Mĩ, đã đem lại cho James một cảm giác được về “nhà”. Mấy hôm sau, James nhận được một lá thư: bức thư của ông Taylor.
27 tháng 12 năm 1965
      James thân mến,
 Chúc con một Giáng sinh an lành và một năm mới hạnh phúc. Hai bác đã mong nhận được thêm một lá thư nữa từ Grant, nhưng nó đã không đến. Vài người bạn khác của nó cũng đã viết những bức thư nói tốt về nó. Đại úy McCartney cũng đã nhận xét về Grant rất tốt mặc dù hình như ông ấy không thực sự biết nó. Ông ấy đã kể cho hai bác về hành động anh hùng của con. Hai bác thực sự biết ơn con vì đã quên thân mình để cứu tính mạng nó, thật đáng tiếc là Chúa đã muốn nó về với Người. Hai bác đã để vị mục sư đọc một phần lá thư của con trong lễ tang, đoạn viết rằng nó là một con người tốt bụng, một người bạn tuyệt vời, một người con trung thành với Tổ quốc.
 Khi bác và bác gái đến nhà nguyện trong nhà thờ đêm trước lễ tang và ở đó suốt đêm, bác thấy Grant trông thật thanh thản. Trông nó còn như đang khẽ mỉm cười với hai bác. Bác đã không chịu được khi nhìn thấy nó như thế và phải ra ngoài trong khi bác gái cứ ngồi nhìn nó suốt đêm. Thật không dễ gì để chúng ta vượt qua được.
 Dù mất mát này quá lớn nhưng nó cũng chỉ là một phần bé nhỏ trong nỗi mất mát chung của đất nước, bao nhiêu người như Grant cũng đã hi sinh. Bác thật sự tự hào về nó, James ạ. Thật đáng tiếc bác chỉ có duy nhất đứa con này để dâng hiến cho đất nước.
  Hai bác sẽ cất giữ những bức thư của con và của những người bạn khác của Grant như những báu vật. Họ cũng là những người tuyệt vời như con vậy. Thật vui vì biết Grant có những người bạn như thế. Chúng ta yêu nó và nhớ nó rất nhiều.
  Cầu chúa phù hộ và che chở cho con
  Mr& Mrs Taylor