Động đình hồ ngoại sử (từ chương 28)
CDDLT 05.01.2005 19:27:10 (permalink)
HỒI THỨ 28

Đoái thương muôn dặm tử phần,
Hồn quê theo ngọn mây tần xa xa.

(Kiều)



Hồng Hoa hít một hơi, vận khí, lùi lại hai bước, rồi phóng chưởng. Trưng Nhị biết chưởng này không tầm thường, vội phát chiêu Lưỡng Ngưu tranh phong trong Phục Ngưu Thần Chưởng đỡ. Chưởng của nàng gió lộng ào ào, làm những người công lực yếu trong phòng muốn nghẹt thở. Bịch một tiếng, chưởng của Trưng Nhị bị mất tích, người nàng bay vọt về sau. Là người cực kỳ thông minh, kinh nghiệm chiến đấu có thừa. Còn ở trên không nàng dã hít một hơi chân khí. Lộn người hai vòng, hóa giải chưởng lực đối thủ. Thực tế nàng bị Hồng Hoa đánh bại. Người ngoài nhìn tưởng nàng xử dụng chiêu thức đặc biệt. Cử tọa chỉ có thầy trò Lê Đạo Sinh với Trần Năng biết nàng bại mà thôi. Vì họ cùng môn phái, cùng xử dụng một thứ võ công. Lê Đại Sinh khâm phục, nghĩ:

– Con nhỏ này là đồ tôn sư huynh ta. Võ công thua xa bọn Đức Hiệp, Vũ Hỷ. Từ trước đến giờ, ta không hiểu sao nó lại nổi tiếng khắp Lĩnh Nam. Thì ra nó thông minh, biết biến hóa.

Là người thông minh, mẫn tiệp. Lê Đạo Sinh học văn, học võ đều thành. Xưa sư phụ ông thu chín đệ tử. Chỉ có ba người thành đại nghiệp. Người thứ nhất, đại sư huynh, Trưng Đại Minh, ông nội Trưng Nhị. Sau được truyền chức chưởng môn phái Tản Viên. Người thứ nhì, nổi danh đạo đức, y đạo là Trần Đại Sinh. Người thứ ba là Lê. Muốn trở thành Thái-sơn Bắc-đẩu võ lâm. Lê đã thành công. Ngồi ở ngôi vị Thái-sơn Bắc-đẩu, nhìn sang giới quan lại, Lê muốn làm quan lớn, đạt được chức đô-úy, cầm quân vùng Giao-chỉ. Nhưng với chức đô-úy Lê bị thái-thú sai khiến, Lê muốn làm thái-thú.

Lê có tính hiếu thắng kỳ lạ, trái hẳn với Đào Thế Kiệt. Lê muốn bất cứ điều gì cũng phải đạt được. Điều Lê nghĩ, việc Lê làm, Lê đều tự cho là phải. Ai làm trái Lê, cản trở Lê, đều là kẻ thù của Lê hết. Tất cả cái xấu của Lê là của kẻ thù. Tất cả cái tốt của kẻ thù là của Lê. Lê nhất tâm, nhất trí đào tạo mười đệ tử. Trong khi đào tạo, Lê bắt họ chịu kỷ luật thực khắc khe. Ngược lại họ nhận được bản lĩnh vô địch. Họ chỉ cần tuân lệnh Lê là đủ. Ngoài ra, họ muốn giết người, cướp của, hãm hiếp ai, Lê cũng nhắm mắt lờ đi. Khi con người được luật pháp, luân lý kềm chế, trở lại với vị trí tính thiện của họ. Còn cứ để tự do, thú tính ngày phát triển. Các đệ tử của Lê, ở trong hoàn cảnh đó.

Dưới mắt Lê, Nguyễn Thành Công, Đặng Thi Kế cho đến Đặng Thi Sách, Trưng Nhị đều là người bất tài, bất chính, vô hạnh, vì họ làm trái với Lê. Lê thấy họ nối tiếng, dân chúng kính phục, Lê ghen lồng lộn, hại họ. Lê có biết đâu họ nổi tiếng vì có tấc lòng son đối với Lĩnh Nam.

Hồng Hoa, Trưng Nhị lại xông vào đấu với nhau chưởng nữa. Trưng Nhị xuất chiêu Ngưu tẩu như phi. Còn Hồng Hoa xuất một chiêu rất thô kệch, không có gió. Chưởng chưa ra, mà mồ hôi nồng nặc truyền khắp phòng. Trưng Nhị biết đây là Huyền-âm độc chưởng. Nàng thấy Phan Anh xử dụng đấu với Trần Năng. Khúc-giang ngũ hiệp nói rằng: Nội công tâm pháp Huyền-âm độc chưởng, gốc ở Long-biên, đường đường, chính chính, nhưng đã hợp với ngũ độc. Nên trong cái chính có cái tà đi theo hại người.

Cách đây hơn hai trăm năm. Vạn tín-hầu Lý Thân thống lĩnh đệ tử Âu-Lạc sang Hàm-dương đấu với võ sĩ Trung-nguyên. Trong ngày đầu thì chống đỡ tìm hiểu chiêu thức địch. Tối về nghiên cứu các thế phá, hôm sau phản công. Sau khi đại thắng võ lâm Trung-nguyên. Ngài cùng đệ tử tổng hợp các chiêu thức sáng chế thành một hệ thống mới. Từ đó, ngài tìm ra một lối luyện công âm-nhu khắc chế dương-cương. Đặt trên nguyên tắc Dĩ nhu, chế cương. Sau này Đồ Thư cùng võ sĩ Tần Thủy Hoàng sang đánh Lĩnh Nam bị lạc bại, từ trần. Khi rời Trung-nguyên, Lý Thân để lại một đệ tử là Trần Mạnh Chi, làm Nội giám hiệu-úy. Mạnh Chi lấy vợ Trung-nguyên, sinh con, đẻ cháu lập ra phái Trường-bạch. Trường-bạch sơn là vùng núi nhiều côn trùng độc. Các đệ tử phải chống chất độc, lâu ngày thành ra kỹ thuật của môn phái. Đến đời thứ năm. Trong môn phái có biến chuyển lớn. Một đệ tử họ Phan có kẻ thù bắt giam, tra khảo. Đòi khai cách luyện nội công Âm-nhu. Y không chịu. Kẻ thù cho Rắn, Rết, Nhện, Tầm và Bò Cạp, đốt. Nhờ bản lĩnh kháng độc sẵn có, y không bị độc chất làm hại. Một đêm sau khi vận công. Y giật mạnh tay, gông cùm vỡ tan. Y tĩnh ngộ ra rằng chính nhờ trong lúc vận khí chống độc. Nọc độc hợp với chân khí thành một thứ nội lực mới. Mạnh vô cùng.

Y rời nhà tù, đánh phá tổng đàn đối phương. Đối phương bị trúng chưởng của y lập tức bị đau đớn khủng khiếp rồi chết. Y trở về phụ mệnh sư phụ: kể cho sư phụ nghe mọi chuyện. Sư phụ y, giòng dõi Trần Mạnh Chi. Bảo y dùng chưởng lực đánh thử vào thú vật, y ngoan ngoãn tuân theo. Con vật đau đớn, nổi điên mà chết. Sư phụ y thấy vậy cho là tà phái âm độc, khuyên y bỏ đừng luyện tiếp.

Một ngày kia, ông khám phá ra y vẫn bí mật luyện độc công. Ông trục xuất Phan khỏi môn phái. Y nổi giận giết sư phụ, chiếm lấy chức chưởng một. Từ đấy phái Trường-bạch thành phái Huyền-âm độc chưởng. Khắp Trung-nguyên ai nghe tiếng cũng kinh hồn táng đởm. Đến đời thứ ba, chưởng môn là Phan Sùng, võ công lừng danh thiên hạ. Kết huynh đệ với Lưu Huyền, tức Cảnh-Thủy hoàng đế.

Phan Sùng một lần nhìn thấy hoàng-hậu của Cảnh-Thủy, đem lòng say đắm. Y hại ba người anh kết nghĩa Lưu Huyền, Lý Diệt, Chu Huy, xưng vương. Tướng sĩ nhiều người không phục, bỏ y theo phò Lưu Diễn. Lưu Diễn chết. Họ theo Lưu Tú tức Quang-Vũ. Trong trận đánh Trường-sa, Phan Sùng chết giữa loạn quân. Toàn gia bị tru lục. Phái Trường-bạch bị truy lùng rất gắt.

Hôm Phan Anh đại chiến với Trần Năng, bị Khúc-giang ngũ hiệp nhận diện được. Bây giờ sào huyệt chót của y bị bại lộ. Anh hùng còn phát giác ra tông tích đại ma đầu Mao Đông Các. Mao nổi danh cùng thời với Thiên-sơn lão tiên, Trần Đại Sinh, Nguyễn Phan. Y tung hoành thiên hạ, không úy kị ai. Thiên-sơn lão tiên viết thư khuyên y. Y không hối cãi, còn viết thư thách ngài đến tổng đàn phái Trường-bạch giao đấu, với một trong ba sư huynh đệ của y.

Thiên-sơn lão tiên là đại anh hùng, đại hiệp sĩ. Ngài viết thư mời Trần Đại Sinh, Nguyễn Phan từ Lĩnh Nam sang, cùng trừ mối họa võ lâm. Mao Đông Các thấy Thiên-sơn lão tiên xuất hiện cùng với hai cao nhân Lĩnh Nam, y vẫn không coi vào đâu. Trận đầu, y đấu ngang tay với ông. Trận thứ nhì sư huynh của y bị Trần Đại Sinh dùng Phục Ngưu Thần Chưởng đánh chết. Ngược lại, ông trúng Huyền-âm độc chưởng. Trận thứ ba, sư thúc của y đấu với Nguyễn Phan. Không đầy một trăm hiệp, ông dùng Long-biên kiếm pháp giết chết. Nguyễn Phan muốn trừ dứt mối họa cho võ lâm. Ông giết luôn y. Đoạt thuốc giải cứu Trần Đại Sinh. Không ngờ, y giả chết. Bây giờ tái xuất hiện.

Truyện nầy, Trưng Nhị được Khất đại-phu thuật cho nghe từ lâu. Nàng đã có ý niệm về Huyền-âm độc chưởng.

Trưng Nhị biết chưởng Hồng Hoa lợi hại, nhưng nàng là người can đảm, hít một hơi chân khí, lên đinh-tấn, tay trái bắt quyết, tay phải ra chiêu Ngưu ngọa ủ sơn trong Phục Ngưu thần chưởng đỡ. Chưởng phóng ào ào chụp xuống người Hồng Hoa. Nhưng chưởng mới đi được nửa chừng. Trưng Nhị thấy có bàn tay để vào lưng mình. Một luồng chân khí theo tay lan khắp cơ thể. Chưởng của nàng đang dương-cương, biến sang nhu hòa, mạnh như trời long đất lở. Vừa lúc đó chạm vào chưởng Hồng Hoa. Bịch một tiếng, kình lực Hồng Hoa mất tăm mất tích. Y thị lảo đảo, lùi lại mấy bước. Mặt tái mét, đứng run run như người sốt rét.

Mọi người đều ngạc nhiên. Vì hai chưởng đầu, Trưng Nhị kém xa Hồng Hoa. Không ngờ chưởng thứ hai, nàng thắng dễ dàng như vậy. Trưng Nhị nhìn về sau, thì ra người để tay lên lưng mình là Trần Năng. Nguyên hôm đấu võ ở Vương-sơn, Trần Năng nghe Tăng Giả Nan Đà nói rằng:

– Người tập Thiền cao, có thể dùng chân khí của mình truyền vào người bệnh nhân, chữa bệnh cho họ.

Nàng là đệ tử Khất đại-phu, rất giỏi y khoa. Nàng đã áp dụng chữa bệnh cho binh sĩ, đều kết quả. Bây giờ thấy Trưng Nhị đấu với Hồng Hoa, nàng nghĩ: Mình với Trưng Nhị cùng môn phái Tản-viên, có thể tiếp chân khí cho nhau. Vì vậy Trần Năng mới chuyền chân khí giúp Trưng Nhị, quả nhiên thành công.

Hiện diện trong phòng có hàng trăm người. Chỉ mình Trần Năng. Trưng Nhị biết mà thôi.

Trưng Nhị hỏi Hồng Hoa:

– Tiêu sư tỷ, ngươi thấy thế nào?

Hồng Hoa hít một hơi vận chân khí. Chân khí bị tuyệt, vận không ra. Người nàng bải hoải, như sau một cơn đau kịch liệt. Văn Thanh Hoa thấy em đấu với Trưng Nhị, hai chưởng của Trưng Nhị đang từ cương biến sang nhu, làm tan biến chưởng của đối thủ. Nàng hỏi sư muội:

– Sư muội! Cái gì đã xảy ra?

Tiêu Hồng Hoa lắc đầu:

– Không rõ nữa, công lực của em gần như mất hết.

Mặt nàng nhăn nhó, tỏ ra gặp bất tường. Văn Thanh Hoa nhìn Mao Đông Các hỏi ý kiến. Mao Đông Các gật đầu. Nàng tiến tới trước Trưng Nhị chắp tay nói:

– Tiểu muội Văn Thanh Hoa. Xin được lĩnh giáo mấy cao chiêu của Tản-viên song phượng, Lĩnh Nam.

Trưng Nhị mỉm cười:

– Văn sư tỷ với tôi không thù, không oán, việc gì phải hao tốn nguyên khí? Tại sao chúng ta không kết bạn, mà lại phải đánh nhau? Vừa rồi Tiêu sư tỷ ra tay tấn công Hồ sư muội. Tôi mới phải đỡ đòn dùm, chứ có muốn gây thù chuốc oán đâu.

Văn Thanh Hoa chỉ vợ chồng Phan Anh:

– Đã không thù oán. Tôi lớn mật dám xin Hồ sư tỷ tha cho vợ chồng Phan Anh hiền đệ. Chúng tôi cảm ơn đại đức của sư tỷ.

Hồ Đề cười:

– Vợ chồng Phan Anh khi không tấn công người. Tôi vì cứu người mà ra lệnh cho Thần-xà cắn lại. Chứ tôi muốn giết, thì những con rắn độc của tôi đã táp vợ chồng Phan sư huynh từ đầu. Chứ đâu còn đến nay?

Nàng húyt sáo một tiếng, mấy con trăn buông vợ chồng Phan Anh ra. Vợ chồng Phan Anh mặt tái mét lùi lại, hỏi Mao Đông Các:

– Thái sư phụ, xin Thái-sư phụ định liệu.

Mao Đông Các thấy sự bất hảo, hướng vào Lê Đạo Sinh:

– Lê hầu, ngươi định phản Hán triều để theo Thục chăng?

Lê Đạo Sinh mỉm cười:

– Lão phu đã quyết định. Không can thiệp vào sự tranh giành trong nội cung nhà Hán. Mã thái-hậu cũng thế, Hàn thái-hậu cũng vậy, xin Mao tiên-sinh miễn cho lão phu việc phải quyết định theo Mã hay theo Hàn.

Mao Đông Các hướng vào Trưng Nhị nói:

– Ngôi nhà này của tổ tiên họ Phan. Xin mời các vị rời khỏi nay cho.

Quận chúa Lý Lan Anh chí vào Phan Anh:

– Y là khâm phạm của triều đình. Hoàng thượng treo thưởng cho ai bắt được tông tộc họ Phan được phong vạn-hộ hầu. Tài sản của chúng cũng sẽ bị tịch thu, ban thưởng cho người bắt. Vợ chồng hắn xâm phạm Hàn thái-hậu lần này là lần thứ nhì, không thể tha được. Lê tiên sinh, xin tiên-sinh ra tay cho.

Lê Đạo Sinh là người xảo quyệt. Y tính toán: Ở đây võ công Mao Đông Các có lẽ ngang với ta. Ta có bốn đệ tử võ công cao. Như vậy nếu xảy ra động thủ, ta đánh với Mao Đông Các. Bốn đệ tử của ta kém vợ chồng Phan Anh một chút. Vạn nhất động thủ, bên phía chúng còn Tiêu Hồng Hoa, Văn Thanh Hoa. Bên ta thua là chắc. Vì vậy y nhìn Trần Năng, Trưng Nhị, lên tiếng:

– Trần Năng! Sư thúc có lệnh: Ngươi bắt vợ chồng Phan Anh cho ta.

Bản tính Trần Năng lí lắc, cứng đầu. Đến sư phụ nàng là Khất đại phu, nàng còn dám đùa vui. Huống hồ Lê Đạo Sinh. Nàng nói:

– Sư thúc, quận chúa bảo sư thúc bắt giặc lập công với triều Hán, chứ đâu có bảo cháu? Trước nay cháu đã vì nhà Hán vào sinh ra tử, đánh Xuyên-khẩu, Bạch-đế và hoàng-thành của Thục, rốt cục cũng thành hư vô. Cháu không muốn lập công nữa. Xin sư thúc ra tay cho.

Lý Lan Anh bước đến trước mặt Khúc-giang ngũ-hiệp chắp tay nói:

– Sư phụ, sư thúc. Xin các vị vì hiệp nghĩa đúng ra chủ trì công đạo. Đệ tử muôn vàn đội ơn.

Nói rồi nàng thụp xuống đất lậy, nước mắt đầm đìa.

Trần Ngũ Gia phất tay không cho nàng quì. Một luồng kình lực đỡ nàng dậy. Ông nhìn sư huynh:

– Đại sư huynh, trước khi rời núi, chúng ta đã hẹn trước phải làm việc này để nêu cao nghĩa hiệp.

Trần Nhất Gia lắc đầu:

– Không nên! Sư đệ, chúng ta đã hứa tha cho Phan Anh trên đồi Vương-sơn. Thì không thể nuốt lời. Việc làm vô luân phi nghĩa cúa Xích Mi, đưa đến kết quả cả giòng họ bị tru diệt, như vậy đủ rồi. Vả lại, hôm ở trên đồi, vị Phật-gia Tăng Giả Nan Đà chẳng giảng cho chúng ta nghe về nghiệp chướng đó ư? Khi nghịch cảnh đã xảy ra, nên buông xuôi, chẳng nên chối trả. Nếu chúng ta vì Cảnh-Thủy hoàng đế giết tuyệt giòng họ Phan, thì xưa Cao-tổ nhà Hán giết tuyệt giòng họ Kình Bố, Bành Việt, Hàn Tín, ai trả thù cho họ đây?

Tự nhiên trong góc phòng có tiếng tiêu dìu dặt, thê lương thổi lên, làm mọi người quên đi cảnh chém giết trước mắt họ. Họ cùng hướng nhìn về đó, thấy một thiếu nữ nhỏ tuổi, xinh đẹp, đang cầm ống tiêu đưa lên miệng mà thổi bài Hận Ô-giang, tác phẩm của Tư-mã Tương Như đời Tiền Hán. Nhân ông đi qua Ô-giang, sáng tác, diễn tả mối hận mất nước của Hạng Võ. Đâu đó lại có tiếng xên hòa nhịp theo tiếng tiêu. Mọi người đổ mắt nhìn, thì ra Lê Chân.

Nguyên Lê Chân, đệ tử phái Sài-sơn, rất giỏi âm nhạc. Nàng thấy Sa Giang thối tiêu, thì rút kiếm ra, lấy mũi tiêu đánh vào lưỡi kiếm, âm thanh vang lên, giống như tiếng xênh đánh nhịp. Tiếng nhạc dìu dặt, trầm bổng cúa hai thiếu nữ có bàn tay tiên, uốn nắn âm thanh, làm cho mọi người đều buồn man mác. Rồi như không tự chủ được. Hàn Tú Anh, công chúa Vĩnh-Hoà cũng lấy đàn ra hòa nhịp. Hàn Tú Anh đánh đàn Tỳ bà, Vĩnh Hòa đánh đàn Cầm. Thế là bốn người như say, như tỉnh, ru hồn mọi người vào giấc mộng.

Bản nhạc vừa dứt, Sa Giang bước ra hướng vào Mao Đông Các hỏi:

– Mao lão tiên sinh, tiểu nữ muốn thỉnh giáo tiên-sinh một truyện, không biết có được hay không?

Đông Các đang ngồi nhắm mắt dưỡng thần, không nói một câu. Những người có mặt tại đó, trừ Khúc-giang ngũ-hiệp, Trần Năng, Trưng Nhị đã được Khất đại phu kể cho nghe, nên biết thân thế y. Còn lại, họ không biết y là ai. Cứ như lời Phan Anh nói, y là thái sư-phụ của hắn. Như vậy Mao là sư phụ Xích Mi. Chỉ nghĩ đến điều nay, cũng đủ làm cho mọi người rùng mình kinh hãi.

Trước đây Phan Sùng cầm gươm theo Lưu Huyền khởi binh, bản lĩnh nghiêng trời lệch đất. Cao thủ của Vương Mãng đối trận với y, chỉ một hai chiêu mất mạng như chơi. Trong trận đánh cuối cùng, Nghiêm Sơn thống lĩnh quân đội vây y. Dù quân sĩ của y đã bị giết hết. Y vẫn vượt được vòng vây chạy trốn. Nghiêm Sơn xua đạo cung thủ vây. Y vừa đánh vừa chạy. Trên người bị đến hơn trăm mũi tên, mà vẫn không ngã. Cuối cùng, y kiệt lực, rơi kiếm, vẫn cố thoát lên núi. Lúc tướng Hán là Đặng Vũ đuổi tới nơi, thấy thây y vập nát, nằm bên sườn núi, liền cắt đầu đem về nộp cho Nghiêm Sơn.

Thế mà người ngồi đây là sư phụ của y, thì công lực cao thâm không biết đến đâu mà lường. Cứ vào lời giới thiệu của Phan Anh, hai thiếu nữ Văn Thanh Hoa, Tiêu Hồng Hoa tuy là đồ tôn, nhưng bản lĩnh do chính Mao Đông Các truyền thụ, nên cao hơn vợ chồng Phan Anh một bực.

Bản lĩnh vợ chồng Phan Anh đâu có tầm thường, lúc chúng bắt Hàn Tú Anh, Hoàng Đức, Đức Hiệp là cao thủ bậc nhất nhì Lĩnh Nam, đối chưởng với chúng hai chưởng đã phải phun máu ra. Rồi Hồng Hoa đối chưởng với Trưng Nhị, chỉ hai chưởng đủ làm Trưng Nhị lạc bại, thì bản lĩnh Hồng Hoa còn cao hơn vợ chồng Phan Anh là thực, chứ không phải chỉ qua lời Phan Anh.

Khi thấy Sa Giang hỏi Mao Đông Các, thì biết có gì bí ẩn, tất cả im lặng nghe cuộc đối thoại:

Mao Đông các mở mắt nhìn Sa Giang:

– Tiểu cô nương, ta coi thân thủ cô nương rõ ràng người phái Thiên-sơn. Tại sao lại đi với những người Lĩnh Nam? Cô nương là ai?

Nghe Mao Đông Các hỏi, Sa Giang giật mình, vì lão già nầy chỉ nhìn dáng đi của nàng đã biết rõ môn hộ, kiến thức của lão quả thực vô song. Sa Giang cười lễ phép:

– Kiến thức Mao tiên-sinh thực hơn người. Tiểu nữ họ Vương tên Sa Giang. Không những tiểu nữ thuộc phái Thiên-sơn, mà còn là con gái của một trong Thiên-sơn thất hiệp.

Mao Đông Các gật đầu:

– Thì ra cô nương là ái nữ của Thiên-sơn cầm tiên, hèn chi tiếng tiêu không ru người ta vào giấc mộng. Lão phu nghe dường như người đời tặng cho cô nương đại danh Thiên-sơn tiên tử có đúng không? Cô nương còn nhỏ tuổi, đã nổi danh thiên hạ rồi. Cô nương muốn hỏi lão phu điều gì, cứ nói ra.

Sa Giang cười:

– Tiểu nữ nghe nói, phái Trường-bạch dạy đệ tử luyện độc chưởng, nhưng chỉ dạy đánh người, mà không dạy cách giải độc cho người. Thuốc giải độc chỉ một mình người chưởng môn biết cách điều chế mà thôi. Không rõ tiên-sinh có biết chế không? Tiểu nữ dám cả gan xin tiên-sinh ba viên cứu một người.

Mao Đông Các mở to mắt nhìn Sa Giang:

– Cô nương cần xin thuốc cứu ai?

Sa Giang chỉ vào Đức Hiệp:

– Cháu muốn xin thuốc chữa cho vị tiên sinh đây. Ban nãy người đối chưởng với Phan Anh, đã bị Phan Anh đẩy ngũ độc vào người. Hiện giờ chưa sao, nhưng chỉ một giờ sau, sẽ đau đớn đến chết đi sống lại.

Nghe Sa Giang nói, Đức Hiệp đưa tay lên nhìn, quả thấy bàn tay ẩn hiện màu xanh. Y đưa tay trái lên sờ thấy tê tê. Mặt y tái mét. Trưng Nhị đã đối với Hồng Hoa ba chưởng, bất giác nàng cũng rùng mình, đưa tay lên nhìn, thấy tay vẫn như thường mới yên tâm.

Mao Đông Các lắc đầu:

– Lão phu chỉ biết đánh người, mà không biết cứu người. Còn chuyện giữa Phan Anh với Đức Hiệp có liên quan gì tới cô nương đâu?

Sa Giang chỉ vào Hồng Hoa:

– Có chứ, sao lại không. Vị tỷ tỷ nầy đẹp như tiên, cháu trông thấy mà lòng còn xao xuyến. Chính tỷ tỷ đây cũng bị trúng Huyền-âm chưởng, sau mấy giờ, cũng đau đớn rồi da bị phồng lên, chảy nước vàng, bảy bảy bốn mươi chin ngày sau sẽ chết. Một giai nhân tuyệt thế mà chết như vậy chẳng đáng thương xót ư?

Hồng Hoa nghe nói, đưa tay lên nhìn, tay nàng cũng ẩn hiện màu tím nhạt thì thất kinh hồn vía, đứng nhìn tay mình mà ngẩn ra.

Hồng Hoa chỉ vào mặt Trưng Nhị:

– Mi tự hào là anh hùng Lĩnh Nam, danh môn chính phái, mà mi cũng luyện Ngũ-độc chưởng?

Sa Giang vẫy tay, lắc đầu:

– Hồng sư tỷ lầm rồi. Trưng sư tỷ thuộc phái Tản-viên, võ công đường đường chính chính. Trưng sư tỷ lại là anh hùng đương thời, đâu có dùng thứ võ công độc ác nầy? Chẳng qua, Tiêu sư tỷ tự hại mình mà thôi.

Tiêu Hồng Hoa ngạc nhiên:

– Ta hại ta?

Sa Giang gật đầu:

– Sư tỷ quên rằng: dùng độc chưởng đánh người, thì chất độc theo chân khí nhập vào cơ thể đối phương. Nhưng khi gặp phải người nội công cao hơn mình, chất độc phóng ra đánh người, bị đẩy trở lại thân thể mình. Phàm người bị Huyền-âm độc chưởng của phái Trường-bạch đánh vào, một giờ sau, đau đớn vô cùng. Cơn đầu hơn giờ, rồi sau đó cách ngày lên cơn một lần. Nếu không được thuốc giải độc, sau 49 ngày kiệt lực mà chết. Còn người bị đẩy ngược chất độc trở về, da sẽ phồng lên, nước vàng ri rỉ chảy ra, đau đớn cùng cực, 49 ngày sau cũng chết.

Sa Giang chỉ vào Trưng Nhị:

– Văn sư tỷ đánh Trưng sư tỷ ba chưởng. Hai chưởng đầu, độc chất nhập cơ thể Trưng sư tỷ. Sang đến chiêu thứ ba. Trưng sư tỷ có nội lực mạnh hơn, đẩy chất độc trở lại người Văn sư tỷ. Chứ Trưng sư tỷ làm gì biết độc chưởng mà đánh người.

Trưng Nhị nhìn Trần Năng tỏ ý cám ơn, vì nếu nàng không được Trần Năng trợ lực thì đã bị trúng độc rồi.

Lê Đạo Sinh cũng hướng vào Mao Đông Các nói:

– Mao Tiên Sinh, tại hạ dám xin tiên sinh ban thuốc giả cho xá đồ.

Mao Đông Các lắc đầu:

– Lão phu hoàn toàn không có thuốc giải. Tuy nhiên muốn cứu lệnh đồ cũng dễ thôi. Chỉ cần lệnh đồ trung thành với Mã thái-hậu, thuốc giải sẽ có ngay. Còn không thì… Ha… Ha, trừ khi ngươi thắng được ta.

Lê Đạo Sinh lắc mình một cái, tới bên Mao Đông Các, y phóng chưởng đánh Mao.

Lê Đạo Sinh là đệ nhất kỳ nhân Lĩnh Nam. Võ công của y hiện thời chỉ thua Khất đại phu với Đào Kỳ một chút. Y lại kinh nghiệm nhiều, biết võ công Mao Đông Các cao, nên y ra chiêu cực kỳ dũng mãnh. Chưởng lực của Lê Đạo Sinh làm căn nhà rung rinh như gặp bão. Sa Giang lui lại đứng sau Trần Năng. Còn Khúc-giang ngũ hiệp đứng trước Hàn Tú Anh và Vĩnh Hòa công chúa hóa giải áp lực.

Mao Đông Các bật người dậy, tay phát chưởng đỡ. Binh một tiếng, trong phòng, ghế, bàn cùng bật lộn xuống đất. Cả hai cùng lùi lại một bước. Mao Đông Các râu tóc dựng ngược mặt mũi đỏ gay. Còn Lê Đạo Sinh mặt tái mét.

Mao Đông Các cười nhạt:

– Không ngờ chưởng lực của Lĩnh Nam hùng hậu đến bậc nầy. Lê tiên sinh, tiếp chưởng của ta.

Mao Đông Các bước trái ba bước, phóng một chưởng. Chưởng phong cực kỳ dũng mãnh. Lê Đạo Sinh thấy chưởng lực đối phương bao hàm Âm Dương, sát thủ ghê người, mùi tanh nồng nặc, biết rằng một sống, một chết. Y vội vận hết công lực phát chiêu Ngưu hổ tranh phong trong Phục Ngưu thần chưởng, là một chiêu Dương cương bậc nhất của phái Tản-viên. Hai chưởng gặp nhau. Binh một tiếng. Bàn ghế trong đại sảnh bị áp lực của chưởng phong vỡ, văng tứ tán. Mấy Thần-ưng bị chưởng lực hất bay khỏi nhà. Sa Giang, Hồ Đề, Lê Chân những người công lực thấp, tuy đứng sau Trần Năng, Phật Nguyệt, được hai người phát chưởng hóa giải áp lực, mà vẫn tức lồng ngực. Còn Khúc-giang ngũ hiệp đứng trước Hàn Tú Anh và công-chúa Vĩnh Hòa, họ cùng phát chưởng mới hóa giải áp lực, che chở được.

Vừa đối với nhau hai chưởng, Lê Đạo Sinh thấy mình khó thắng Mao, vội lui lại chắp tay:

– Đắc tội! Xin Mao tiên sinh ban thuốc giải độc cho tiện đồ, đế khỏi mất hòa khí giữa chúng ta.

Trưng Nhị nghĩ: Dù sao Đức Hiệp cũng là người của phái Tản-viên. Tuy y nghe theo sư phụ, đi vào đường tà. Tôn chỉ của phái Tản-viên đời đời là dù trong nhà lầm lỗi đến đâu, cũng phải bảo vệ, không để cho người ngoài sát hại. Nàng tiến lên cầm tay Đức Hiệp xem qua, thấy đã biến màu tím xanh.

Nàng nói với Mao Đông Các:

– Mao tiên sinh, võ công ngươi tuy cao thực. Song ở đây còn có Lê thái sư thúc của tại hạ, còn có Khúc-giang ngũ hiệp, sư tỷ Phật Nguyệt. Nếu bọn tại hạ cùng ra tay thì Mao tiên sinh nghĩ sao? Liệu ngươi có cứu được hai vị Tiêu, Văn sư tỷ rời khỏi đây không? Lại còn hơn trăm người nhà họ Phan trên đảo nầy đều bị tại hạ bắt giữ nữa. Ngươi mau đưa thuốc giải đi.

Đức Hiệp đưa mắt nhìn Trưng Nhị, gật đầu. Tỏ ý cám ơn.

Mao Đông Các vẫn lầm lỳ:

– Ta không có thuốc giải.

Trưng Nhị cười:

– Thế thì được. Tại hạ xin tạm giữ vợ chồng Phan Anh cùng Tiêu, Văn sư tỷ ở đây, đợi lão gia mang thuốc đến cứu sư thúc Đức Hiệp và Tiêu sư tỷ. Nếu lão gia đến trễ, sư thúc Đức-Hiệp có chết, cũng được vợ chồng Phan thái tử cùng chết làm bạn cho vui. Lại thêm Tiêu, Văn nhị vị sư tỷ đẹp thế nầy cùng chết cũng chẳng thú lắm sao?

Mao Đông Các ngẫm nghĩ một lát rồi móc trong bọc ra cái túi vải. Y mở cái túi vải, vẫy Hồng Hoa, Đức Hiệp nói:

– Được, các ngươi lại đây.

Y móc trong túi ra hai viên thuốc, màu hồng. Búng tay một cái hai viên thuốc hướng hai người bay tới rất chậm, nhưng kình lực mạnh vô cùng. Đức Hiệp, Hồng Hoa xòa tay ra bắt, viên thuốc chạm vào tay hai người tan ra thành bụi. Đám bụi hồng nhập vào tay hai người biến mất.

Mao Đông Các nói:

– Đây không phải thuốc giải, mà chỉ là thuốc cầm chừng không cho chất độc phát tác. Sau 49 ngày nếu không có thuốc giải, các ngươi mới bị chất độc hành hạ. Vậy trong 49 ngày đó, ta sẽ kiếm thuốc giải về cho các ngươi.

Bây giờ mọi người mới biết thuốc giải là do Mao Đông Các dùng thủ kình bắn ra, viên thuốc quay với tốc độ cực mạnh, khi gặp bàn tay Đức Hiệp, Hồng Hoa thì vỡ tan và nhập vào trong da.

Mao Đông Các vừa cất túi thuốc vào bọc. Thì y cảm thấy có điều gì khác lạ, như người đánh trộm dưới chân. Y vội vọt người lên cao tránh, cúi xuống nhìn, thấy bị ba con rắn lục bám vào chân. Y biết thứ rắn này chỉ Lĩnh Nam mới có, nếu chúng cắn phải thì chết lập tức. Còn lơ lửng trên không, y dùng tay búng vào mấy con rắn nhỏ. Nhưng mấy con rắn như có linh tính, đã nhảy vọt khỏi chân, chui vào trong áo Đông Các. Đông Các hoảng kinh buông túi thuốc, hai tay đập vào áo giết rắn. Thì ba con rắn nhảy khỏi người y bò xuống đất, chạy lại phía Hồ Đề, chui vào trong cái túi vải của nàng. Trong khi đó một Thần-ưng từ trên cao kêu đến choác một tiếng, lao tới táp túi thuốc, rồi bay lại đậu trên vai Hồ Đề.

Nói thì chậm, chứ diễn biến thực mau. Từ lúc Mao Đông Các nhảy lên, búng rắn, đập rắn, buông túi thuốc, Thần-ưng tha túi thuốc, chỉ thoáng một cái. Trong sảnh đường, người nghiêm trang nhất là Hàn Tú Anh, công chúa Vĩnh Hòa và Trưng Nhị, cũng phải bật cười về tài nghịch ngợm của Hồ Đề. Nguyên từ ngày Trưng Nhị gặp Hồ Đề trong trận tranh chức Thống-lĩnh 36 động Nam Mê-linh, hai người như có một cái gì hợp tính nhau. Trưng Nhị mưu trí, bác học, nghiêm trang. Còn Hồ Đề ít học, hào sảng như nam tử, còn tính tình nghịch ngợm không biết đâu mà lường. Trên đường từ Giao-chỉ sang Trung-nguyên, hai người cưỡi cùng một con voi trắng, có ngà chéo nhau, càng thân hơn. Trưng Nhị đang phân vân không biết giải quyết truyện Đức Hiệp ra sao, Hồ Đề đã ra tay. Mọi người đều cười ồ lên, khiến Mao Đông Các bực mình. Y nhìn Hồ Đề quát:

– Lại cũng mi nữa. Hãy đưa túi thuốc đây, nếu không đừng trách ta.

Hồ Đề huýt sáo một tiếng, Thần-ưng bay tới táp túi thuốc, bay khỏi sảnh đường, vọt lên nền trời mất hút. Hồ Đề xòe tay nói:

– Tiên sinh thứ lỗi, con ác điểu chắc đói quá, táp túi thuốc mang đi mất rồi.

Mao Đông Các nhảy vèo lại phía Hồ Đề chụp nàng. Hồ Đề hoảng kinh, nhảy tới sau Phật Nguyệt núp. Mao Đông Các thấy Phật Nguyệt còn trẻ, có ý khinh thường. Y xuất trảo chụp nàng. Phật Nguyệt rút kiếm chĩa về trước. Mũi kiếm chỉ đúng tim Mao Đông Các. Nếu người y tiếp tục vọt tới, thì kiếm sẽ xuyên qua tim. Kinh hoảng, y uốn cong người đi. Hai tay phát chưởng đẩy vào kiếm của nàng. Phật Nguyệt đẩy Hồ Đề sang bên cạnh. Còn nàng bước xéo về trái hai bước. Kiếm chiêu vẫn đâm vào giữa ngực Mao Đông Các.

Thanh Hoa đứng ngoài, thấy Thái sư phụ sắp mất mạng, vội rút kiếm đánh vào sau lưng Phật Nguyệt. Phật Nguyệt thu kiếm về. Chỉ thấy ánh thép loé lên, râu tóc Mao Đông Các rơi lả tả. Thanh Hoa kêu thét lên một tiếng, kiếm rơi xuống đất. Y thị lùi lại, tay trái ôm cườm tay phải, máu chảy ròng ròng.

Mao Đông Các tuy suýt mất mạng. Y vẫn không ngưng. Lợi dụng Phật Nguyệt, Hồ Đề đứng cách nhau xa, tay phải y phóng chưởng đánh Phật Nguyệt. Tay trái chụp Hồ Đề.

Có tiếng quát:

– Ngừng tay.

Nguyên khi thấy Hồ Đề trêu Mao Đông Các, Khúc-giang ngũ hiệp đã chuẩn bị trước. Nên thấy nàng bị Mao Đông Các tấn công thì Tứ và Ngũ Gia đồng xuất thủ. Mao Đông Các còn lơ lửng trên không, đã phát hai chưởng đỡ chưởng của Tứ Gia, Ngũ Gia. Binh một tiếng, người y bật lui trở lại. Trong khi Tứ Gia, Ngũ Gia cũng thấy chân tay muốn tê liệt, khí huyết đảo lộn.

Mao Đông Các cười nhạt:

– Khúc-giang ngũ hiệp vang danh thiên hạ, mà hai người đánh một sao?

Tứ Gia cười:

– Bọn anh em tại hạ chỉ vô tình xuất thủ cứu người, chứ không phải xuất thủ đánh tiên sinh. Mong tiên sinh thứ lỗi cho.

Vừa rồi, y xuýt mất mạng về kiếm pháp Long-biên của Phật Nguyệt. Qua một chưởng, Mao Đông Các thấy Tứ Gia, Ngũ Gia công lực không kém y là bao. Thế thì Nhất, Nhị Gia có lẽ công lực còn cao hơn y. Y thở dài nói với Hồng Hoa, Thanh Hoa, vợ chồng Phan Anh:

– Ta đi đây. Ta sẽ trở lại cứu các ngươi sau.

Thấp thoáng một cái, y đã biến khỏi sảnh đường. Hồ Đề gọi Thần-ưng lấy túi thuốc đưa Trần Năng nói:

– Sư tỷ, không biết bên trong có những gì?

Trần Năng mở túi thuốc ra thấy bên trong có 5 túi nhỏ, mỗi túi đựng một thứ thuốc màu sắc khác nhau: Vàng, trắng, đen, xanh, và đỏ. Trần Năng tuy là đệ tử của Khất đại-phu, nhưng nàng không phân biệt được đó là những thứ thuốc gì. Nàng cầm lấy bỏ vào bọc nói:

– Trong năm thứ nầy, thứ màu đỏ có thể cầm cự được Huyền-âm độc chưởng. Ta cứ tạm giữ lấy để cứu Đức Hiệp sư đệ. Đợi gặp sư phụ, sẽ hỏi về bốn thứ thuốc kia.

Trưng Nhị thấy trời đã khuya, nàng nói với Hàn Tú Anh:

– Xin bá mẫu cùng công-chúa ở lại trên đảo. Thái sư thúc của cháu võ công vô địch thiên hạ. Người cùng các sư thúc hộ giá bá-mẫu thì không còn sợ gì nữa. Cháu đã truyền lệnh cho một hải đội đem 40 chiến thuyền đóng xung quanh bảo vệ đảo. Trên trời lúc nào cũng có Thần-ưng bay lượn canh phòng. Dù cho con chuột, con mèo muốn đột nhập đảo cũng không được.

Nghe Trưng Nhị nói với Hàn Tú Anh. Lê Đạo Sinh chửi thầm trong bụng:

– Con nhỏ nầy đúng là đồ mất dạy. Bề ngoài nó làm như tử tế với ta. Sự thực nó cho Thủy-quân, Thần-ưng cầm tù ta. Thôi! Ta đã đến nước nầy, đành nín nhịn cho qua.

Trưng Nhị truyền lệnh đem vợ chồng Phan Anh, Hồng Hoa, Thanh Hoa, cùng đám tôi tớ trên đảo lên thuyền. Trần Năng truyền trói tất cả lại, giam dưới khoang. Lúc trói đến Á Nương, nàng chú ý thấy y thị nháy mắt ra hiệu. Trần Năng truyền giải tù nhân xuống dưới khoang. Hỏi Á Nương:

– Không biết bà có điều chi bà muốn nói với tôi?

Á Nương trả lời bằng tiếng Việt:

– Cô nương! Tôi muốn lĩnh giáo mấy chiêu võ công cao siêu của cô nương.

Dứt lời, bà vung chưởng đánh liền. Chưởng phong hùng hậu không thể tưởng tượng được. Trưng Nhị, Trần Năng cùng bật lên tiếng kinh hoàng. Vì chiêu đó là chiêu Song ngưu qui gia. Một chiêu khó xử dụng nhất trong 36 chiêu Phục Ngưu Thần Chưởng.

Á Nương vừa nói, đã xuất chiêu. Trần Năng chỉ biết vọt người lên cao tránh thế chưởng hiểm ác. Á Nương chuyển chưởng từ dưới lên cao thành chiêu Lưỡng ngưu tranh phong. Trần Năng hoảng hốt chụm hai tay lại đánh vào chưởng của nàng... Bốn chưởng gặp nhau, cùng một thứ nội công Dương-cương. Cùng là Phục Ngưu thần chưởng. Thế mạnh như thác đổ. Ầm một tiếng. Trần Năng bay vọt lên cao. Nàng đá gió một cái, thân hình bay vọt về cuối thuyền. Á Nương di chuyển theo, cung tay xuất chiêu Tứ Ngưu phân thi. Đây là chiêu đánh thẳng vào giữa rồi hai tay tỏa ra hai phía. Trần Năng vẫn còn ở trên không, hoảng hốt, vận Thiền-công, đánh vào giữa chưởng của Á Nương. Á Nương thu chưởng về, nhảy lùi lại bốn bước. Bà cười gằn:

– Cô nương! Tôi muốn lĩnh giáo võ công cao siêu của cô nương. Tức võ công Tản-viên. Chứ không muốn đấu với Thiền-công.

Trần Năng, Trưng Nhị thấy Á Nương nói tiếng địa phương Giao-chỉ, chữ lĩnh giáo nàng nói thành nĩnh ráo. Chữ cao siêu nàng nói thành cao thiêu. Từ nội công, đến chiêu số, đều thuộc võ công Tản-viên. Công lực mạnh không thể tưởng được. Có lẽ cao hơn Phong-châu song quái, Đức Hiệp nhiều. Chỉ kém Khất đại-phu, Đào Kỳ một chút mà thôi.

Trong đầu óc Trưng Nhị, nảy ra không biết bao nhiêu nghi vấn: Với công lực, chiêu thứ thế này, thì Á Nương không phải là người học lóm. Có lẽ bà là đệ tử bản môn. Bà là ai, mà sao mình không biết? Nàng liền lễ phép nói:

– Tiểu bối xin bà cho biết phương danh?

Á Nương không trả lời, vung chưởng đánh nữa. Chưởng không có gió, cũng không có lực. Chiêu thức rất tầm thường. Trưng Nhị, Trần Năng cùng bật lên tiếng kêu:

– Ái chà!

– Ối trời!

Nguyên trong phái Tản-viên, có một bài quyền rất thô kệch, trái với nguyên tắc võ học, gồm 36 chiêu, do tổ sư đời thứ 20 đặt ra. Mục đích để đệ tử môn phái gặp nhau, biết rõ vai vế của nhau:

Á Nương đánh đến nửa chừng, ngưng lại hỏi:

– Các ngươi đã hiểu chưa?

Trưng Nhị biết đây là cao nhân bản phái. Võ công cao hơn cả Nguyễn Thành Công, Đặng Thi Kế nhiều. Nàng nghĩ nát óc, mà không tìm ra bà là ai.

Trưng Nhị lễ phép hơn:

– Xin tiền bối dạy cho ít câu.

Á Nương cười nhạt, hít một hơi, vung chưởng hướng cột buồm. Cột buồm lớn như vậy, gãy đến ầm một cái. Bà cười:

– Các ngươi không nhận được ta ư? Thôi, các ngươi cứ giam ta lại như tù nhân. Ta không thèm nhìn mặt các ngươi nữa.

Trần Năng nói:

– Tiền bối không dạy cho mấy câu, làm sao tiểu-bối hiểu được.

Á Nương cười nhạt mấy tiếng, thủng thỉnh xuống khoang thuyền giam tù nhân. Bà nhắm mắt dưỡng thần.

Trần Năng hỏi Trưng Nhị:

– Trưng Nhị! Tôi mới nhập môn sau. Không biết nhiều về nhân vật bản phái. Bà nầy là ai? Công lực mạnh đến như vậy?

Trưng Nhị đáp:

Trưng Nhị đáp:

– Có lẽ Á Nương vai vế ngang với sư thúc. Giả sử có Trưng Trắc hay Đặng Thi Sách ở đây, thì họ biết được. Ít ra Á Nương cũng là đệ tử của thái sư phụ, hoặc của thái sư thúc Lê Đạo Sinh. Hành tung của bà thực kỳ bí. Bà là người Giao-chỉ, sang đây từ hồi nào, mà làm tỳ nữ cho Xích Mi? Thực khó hiểu. Tại sao bà ẩn thân ở trong nhà tù Trường-sa?

Khúc-giang ngũ hiệp quan sát hành tung của Á Nương từ đầu đến cuối. Họ có năm người, nghe rộng, biết nhiều, mà cũng lắc đầu, không hiểu Á Nương là ai.

Trần Tứ Gia nói:

– Tôi Nghi Á Nương chỉ muốn báo cho hai vị biết: Bà là người nhà. Bà đang làm việc gì bí ẩn, có lợi cho Lĩnh Nam, vì hoàn cảnh, không tiện nói ra. Vậy các vị cứ giả giam bà như những người khác là hơn hết.

Trần Năng gật đầu:

Trần Nhất Gia hỏi:

– Trưng Nhị! Tại sao cháu biết sào huyệt của Phan Anh trên đảo mà bố trí cuộc bao vây?

Trưng Nhị cười:

– Khi vợ chồng Phan Anh đánh nhau với Trần sư thúc bị thua, y giả tự tử, y là người xảo quyệt. Vì y biết đánh không lại Trần sư-thúc. Hàn thái-hậu được cứu thoát, thì vợ chồng y khó toàn tính mạng, y phịa ra chuyện bắt Hàn thái-hậu để cứu mẹ. Y đem chữ hiếu ra làm động lòng Ngũ-hiệp và Tượng-quận tam anh quả nhiên các vị mắc mưu mà tha cho y.

Trần Tứ Gia gật đầu:

– Tôi nghĩ ra rồi, khi vợ chồng y vung kiếm lên tự tử, cùi chỏ hơi rung động, đó là chúng giả tự tử, rồi chờ kiếm sát tới cổ thì ngưng lại. Không ngờ vị Phật-gia ra tay cứu, để cho y hoàn thành việc lừa chúng ta.

Trưng Nhị chỉ Sa Giang nói:

– Không phải mình tiểu-nữ khám phá ra âm mưu của vợ chồng Phan Anh, mà tiểu sư muội đây cũng khám phá ra. Này nhé Phan Anh nói rằng bắt Hàn thái hậu để được tước vạn-hộ hầu với một trăm ngàn lượng vàng, rồi sau khi bị đánh bại y lại nói rằng để cứu mẹ bị tù tại Trường-sa. Mà theo Tượng-quận tam anh thì không còn một tù nhân nào của đám phản loạn Xích Mi cả. Cuối cùng vợ chồng y xin cho Á Nương ra khỏi nhà ngục. Á Nương tuổi chưa tới bốn mươi, Phan Anh tuổi trên ba mươi làm sao có thể là mẹ con được, nên y giả nhận là tỳ nữ của mẹ để lãnh ra. Tượng quận tam anh đã biết Á Nương giả câm để mưu đồ một chuyện gì trong thành Trường-sa, nhưng chưa tìm ra. Vì một lời hứa, các ông để Á Nương ra đi. Kỳ thực Á Nương là Tiểu Lan. Lúc bọn Phan Anh rời Trường-sa, tiểu nữ cho Thần-ưng theo dõi. Chính Thần-ưng đã dẫn bọn tiểu nữ tới đây.

Trần Nhất Gia cảm động nói:

– Người ta đồn Trưng Trắc, Trưng Nhị là loại rồng loại phượng quả không sai. Lưu manh đến như Phan Anh mà cũng không qua mặt được. Bọn Lê Đạo Sinh đang hùng hổ, làm tôi tớ Mã thái-hậu, chỉ một cuộc xếp đặt, chúng trở về với Hàn thái-hậu. Nhưng lão phu có đôi lời muốn bàn, Trưng Nhị phải làm sao để họ trở về Lĩnh Nam, mới vẹn toàn.

Sáng hôm sau, mọi người trở về thành Trường-sa. Trưng Nhị hợp các anh hùng Lĩnh Nam bàn việc. Nhóm Lê Đạo Sinh không được mời tham dự, bị coi như thần tử nhà Hán.

Mọi người đề cử Trần Nhất Gia chủ tọa, vì ông lớn tuổi, nổi tiếng đạo đức nhất. Ông khẳng khái không từ chối, bước lên bàn chủ tọa ngồi. Lê Chân là người đọc sách, từ trước đến giờ nàng giữ cuốn sổ nhật ký ghi chép mọi biến chuyển từ khi rời Lĩnh Nam đến giờ. Nàng đứng lên trình bày chi tiết mọi biến chuyển, cho tới đêm đại chiến trên hồ Động-đình. Bấy giờ Khúc-giang ngũ-hiệp, Tượng-quận tam anh mới biết trong khi họ lưu lạc giang hồ, đám anh hùng Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam đã làm những chuyện kinh thiên động địa.

Lại Thế Cường đứng lên bàn:

– Kế hoạch chúng ta như sau: Một là chuẩn bị nổi dậy ở Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam. Việc này do Đặng Thi Sách, Trưng Trắc, Nguyễn Tam Trinh, Nguyễn Trát, Đào Thế Kiệt, Đào Thế Hùng, cùng các môn phái, đảm trách, tạm coi như xong. Vì ba quận này vẫn còn chế độ Lạc-hầu, Lạc-tướng. Các Lạc-hầu, Lạc-tướng đều một lòng phục quốc. Chúng ta chỉ phất cờ là xong. Hai là chiếm lại ba quận Nam-hải, Tượng-quận, Quế-lâm. Việc này cũng không hẳn khó, vì tuy không còn chế độ Lạc-hầu, Lạc-tướng. Nhưng các thái-thú, đô-sát, đô-úy đều là người Việt. Mới đây Quang-Vũ hạ chiếu chỉ cách chức Nghiêm Sơn. Cử Lê Đạo Sinh làm thứ-sử Quảng-châu. Phong cho các đệ tử y làm thái-thú, đô-úy ba quận Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận. Lê chưa lên đường nhậm chức, thì các thái-thú đã được chúng tôi thông báo, nên tách rời khỏi chế độ triều Hán. Họ giữ vững cương thổ. Các đạo quân tòng chinh Trung-nguyên trở về, đóng rải rác khắp ba quận, đề phòng quân Quang-Vũ đánh xuống phía Nam.

Lê Chân tiếp:

– Đạo Kinh-châu tuy chúng ta thành công, nhưng khi khởi hành từ Dương-bình quan chỉ có Trưng Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Phật Nguyệt, sư bá và cháu, tức có sáu người. Nay thêm Khúc-giang Ngũ hiệp với Tượng-quận tam anh là 14 người. Bây giờ chúng ta làm gì? Kéo quân trở về Lĩnh Nam hay đánh ngược lên Nam-dương?

Hàn Bạch góp ý kiến:

– Lão phu có ý kiến như thế này. Ở đây chúng ta cứ để Trưng cô nương điều động như cũ, không biết ý kiến các vị thế nào?

Khi Hàn Bạch đưa ra câu này chủ ý hỏi Khúc-giang ngũ hiệp. Bởi có ba nhóm. Nhóm từ Lĩnh Nam qua thì Trưng Nhị vẫn điều khiển rồi. Thêm ý kiến Hàn Bạch nữa, là nhóm Tượng quận đã đồng ý. Chỉ chờ nhóm Khúc-giang mà thôi.

Trần Nhất Gia là người anh hùng hào sảng. Ông nắm được sự việc, nói với Trưng Nhị:

– Trưng Nhị, cháu tuy nhỏ vai, nhỏ tuổi, nhưng từ mưu trí, đến điều binh khiển tướng bọn ta không bằng cháu được. Vậy nhất thiết, chúng ta sẵn sàng tuân lệnh cháu.

Trưng Nhị có hùng tâm, đại lược. Nàng khẳng khái nói:

– Sư thúc dạy thế, cháu xin tuân lệnh.

Nàng hướng vào mọi người nói:

– Tượng-quận anh hùng nghĩa sĩ rất nhiều. Nhưng chưa có ai hợp nhất họ lại được. Ở đây sư bá Hàn Bạch là người đã cầm quân quen, hiểu cách tổ chức của người Hán, xin Hàn sư bá, Vương sư bá trở về Tượng-quận, kết hợp anh hùng nghĩa sĩ rồi ngày 15 tháng 3 chúng ta đại hội ở núi Tam-sơn, hồ Động-đình, để cùng bàn chuyện khởi nghĩa. Riêng sư bá Chu Thanh, trấn thủ Trường-sa, Linh-lăng, điều luyện sĩ tốt, chờ khi khởi sự thì tiến về Quế-lâm, Nam-hải.

Chu Thanh hỏi:

– Liệu Công-tôn Thuật có cho tôi trấn giữ hai quận nầy không?

Trưng Nhị cười:

– Chúng ta chiếm Kinh-châu từ tay Hán cho Thục do mưu kế, chứ không phải do đánh chiếm, lòng người còn chưa phục. Cho nên Công-tôn Thiệu sợ Hán đánh từ phía Nam lên. Nay tôi giữ lại hai thành này, do sư bá trấn giữ, Công-tôn Thiệu cầu mà không được.

Trần Nhất Gia nghe Trưng Nhị bàn chuyện. Ông gật đầu liên tiếp tỏ vẻ khâm phục. Trước đây ông chỉ nghe tiếng Trưng Nhị, từ hôm gặp nhau ở Vương-sơn đến giờ. Ông thấy tất cả năm anh em của ông võ công tuy cao, nhưng việc điều binh khiển tướng, việc ước tính chuyện thiên hạ còn thua cả Sa Giang, Hồ Đề chứ đừng nói gì so với Trưng Nhị.

Trưng Nhị hướng vào Khúc Giang Ngũ hiệp:

– Còn Ngũ sư bá xin về Nam-hải, kết hợp anh hùng hào kiệt, chuẩn bị sẵn. Đợi sau đại hội Động-đình hồ, chúng ta tiến quân về, sẽ có nội ứng ở trong. Chỉ một trận lấy được Nam-hải. Sư bá nhớ ngày hội là 15 tháng 3 trên núi Tam-sơn.

Nàng nói với mọi người:

– Còn lại đội Thần-hổ, Thần-báo, chúng ta giao cho sư bá Chu Thanh, trấn thủ Linh-lăng, Trường-sa.

Nàng hướng vào Trần Năng:

– Sư thúc cùng với Sa Giang lên đường đi Trường-an, thông báo mọi sự cho sư tỷ Hoàng Thiều Hoa. Ước hẹn đại hội hồ Động-đình ngày 15 tháng ba. Sư thúc nhớ hỏi thái sư thúc về thuốc trị Huyền-âm độc chưởng.

Nàng nói với Lê Chân:

– Sư muội Lê Chân, Hồ Đề cùng tôi theo sư bá Lại Thế Cường đánh Nam-dương làm cho Quang-Vũ thất kinh hồn vía. Có vậy, y mới bỏ Trường-an chạy. Hoàng sư tỷ thừa thế chiếm Quan-Trung.

Nàng nói với Phật Nguyệt:

– Sư tỷ đi theo Hàn Tú Anh về Lạc-dương. Tôi cử Lê thái sư thúc cùng ba đệ tử của người theo hộ tống. Xin sư tỷ nhớ một điều: chú ý hành tung của Lê thái sư thúc, nếu người có gì thì ra tay ngay. Vì chỉ có sư tỷ mới khống chế được thái sư thúc mà thôi. Đức Hiệp hiện bị trúng Huyền-âm độc chưởng. Thuốc giải trong tay chúng tôi, sư tỷ có thể dùng áp lực bắt y tuân theo lệnh mình được. Vợ chồng Phan Anh, Hồng Hoa, Thanh Hoa tôi giao cho sư bá giữ ở Trường-sa làm con tin.

Phân định xong, nàng gặp Công-tôn Thiệu. Công-tôn Thiệu đã được thông báo việc chiếm Linh-lăng, Trường-sa trọn vẹn, các huyện đều đầu hàng. Chu Thanh đã cử huyện-lệnh, huyện-úy mới.

Các tướng sĩ tề tựu đủ. Công-tôn Thiệu đưa mắt cho Lữ Vi, Sa Giang và các tướng, đồng loạt đứng dậy hướng vào anh hùng Lĩnh Nam chắp tay:

– Toàn thế phái Thiên-sơn và sĩ dân Thục kính cẩn tri ơn anh hùng Lĩnh Nam giúp đỡ chúng tôi đã chiếm lại Thục, lại được thêm Kinh-châu.

Trần Nhất Gia là người lớn tuổi nhất trong đám, đứng lên nói:

– Bước đầu chúng tôi giúp các vị, sau này chúng tôi cử sự, cũng nhờ các vị giúp đỡ.

Công-tôn Thiệu chắp tay nói:

– Khi Lĩnh Nam khởi sự, toàn thế phái Thiên-sơn, xin đem hết tâm trí, tài năng đền ơn đền đáp nghĩa cử.

Ông nói với các tướng:

– Khi rời đất Thục ra đây, hoàng-thượng cho phép ta được toàn quyền thăng chức, tước cho các tướng tới tước hầu. Vì vậy, hôm nay xin đại diện hoàng-thượng, thăng chức tước cho các huynh đệ.

Sau đó ông thăng cho bảy ngườì tước hầu, làm thái-thú bảy quận.

Ông hướng vào Vũ Chu:

– Vũ sư đệ. Ngươi với ta là chỗ sư huynh đệ trong môn phái. Ngươi lại trẻ, võ công cao cường, ta phong ngươi là Trấn-đông tướng quân, tước Động-đình hầu, lĩnh Thứ-sử Kinh-châu. Nhưng ta đặt ngươi dưới quyền điều động của sư huynh Chu Thanh, chuẩn bị sĩ tốt, khởi nghĩa ở Lĩnh Nam, vậy ngươi phải cư xử cho khéo.

Ông quay lại nói với đô-đốc Phạm Sử:

– Phạm sư đệ, ta phong ngươi làm thái-thú Giang-lăng. Lĩnh chức đô-đốc tước Quế-dương hầu. Ngươi được đặt dưới quyền sư huynh Chu Thanh, để thao luyện binh mã, chuẩn bị khởi nghĩa ở Lĩnh Nam. Nhất thiết mọi việc phải theo Chu sư huynh.

Ông truyền thăng tất cả các tướng sĩ lên một bậc. Mở rộng cửa nhà tù, đại xá thiên hạ. Phàm những ai có tội đều xóa bỏ hết. Ai có ruộng đất tài sản bị triều Hán tịch thu được trả lại.

Ngày hôm sau đại quân tiến lên đánh Nam-dương. Trưng Nhị viết bài hịch, kể tội Quang-Vũ, phổ biến trong dân chúng, nói rõ Thục tiến quân về chiếm Lạc-dương, diệt Quang-Vũ.

Đại quân lên đường, Trưng Nhị cùng Hồ Đề cắt cử Thủy-quân đóng giữ hòn đảo của Phan Anh.

Giữa lúc hai người chuẩn bị lên đường, Thần-ưng bay về báo cho biết Mao Đông Các đang dùng thuyền, vòng xuống phía Tây, trở lại Trường-sa. Trưng Nhị bàn với Lê Chân:

– Mao Đông Các trở lại Trường-sa, chắc định cứu bọn đồ tôn khỏi nhà tù. Như vậy rõ ràng y có thuốc giải độc trong tay, chứ không phải đi tìm đâu xa nữa. Chúng ta phải tìm hiểu bằng nầy vấn đề: Một là Tiểu Lan tức Á Nương ẩn ở thành Trường-sa làm gì? Tại sao Phan Anh không vào thành cứu y thị ra, mà phải nhờ Hàn Bạch thả ra? Mao Đông Các, Phan Anh theo Mã thái-hậu với mục đích gì? Chắc chắn không phải vì công danh. Vì dù sao Mã thái-hậu cũng không thể phong chức tước cho nhóm đồng môn của Xích Mi được.

Trưng Nhị, Lê Chân, Hồ Đề trở lại thành Trường-sa. Chu Thanh, Vũ Chu nghe tin vội vàng ra đón. Trưng Nhị vào thành, thuật vấn đề cho hai người nghe.

Vũ Chu nói:

– Vậy chúng ta có thể theo dõi xem âm mưu trường kỳ mai phục của nhóm Trường-bạch trong triều đình nhà Hán với mục đích gì?

Trưng Nhị ghé tai Vũ Chu dặn dò mấy câu, rồi nàng cùng với Hồ Đề chờ trời tối, ẩn thân trên một ngọn cây quan sát. Đến canh hai, Thần-ưng tuần tiểu đâm bổ xuống khi nhà lao, thì biết rằng Mao Đông Các đã đột nhập khi nhà tù. Vũ Chu chuẩn bị một lối đi đặc biệt cho Trưng Nhị với Hồ Đề vào nhà lao. Ẩn thân nghe ngóng tình hình.

Hai người vào nhà tù ẩn mấy khắc, đã thấy một bóng người, thân pháp nhanh không thể tưởng tượng được vượt tường vào trong. Trưng Nhị nhận ra Mao. Dường như y đã vào đây nhiều lần. Nên các khúc quẹo, ngã rẽ y không dừng lại. Y nghe ngóng một lúc rồi huýt sáo. Có tiếng huýt sáo đáp lại từ phòng giam của Phan Anh. Lập tức y vọt tới cửa, hỏi:

– Anh nhi! Ngươi đấy hả? Hồng Nhi, Thanh Nhi, Gia Nhi đâu?

– Mấy hôm trước thì giam riêng. Không hiểu sao họ giam chung. Họ đối xử tử tế lắm. Cho ăn uống đầy đủ, lại cho giường chiếu nằm, cùng nước tắm nữa. Có điều chân tay bị xích bằng xích sắt.

Mao Đông Các tiến lại trước cửa phòng. Y khẽ vung tay một cái, cánh cửa nhà tù bật ra. Y lọt vào trong. Y cầm xích sắt lên xem rồi nói:

– Xích thép thế nay không cắt đứt được rồi. Ta để đây cho ngươi hai thanh trủy thủ, mỗi ngày ngươi vận sức cắt dần, chỉ cần cố gắng hai ngày là xích sắt đứt.

Mao Đông Các móc trong bọc ra bốn viên thuốc, bỏ vào miệng Hồng Hoa nói:

– Hồng Nhi, con nuốt vào đi.

Hồng Hoa nuốt cả bốn viên. Mao Đông Các cười:

– Bọn lĩnh Nam ngu như lợn. Năm viên thuốc năm màu, để khử năm thứ độc. Con nên nhớ rằng ngũ độc là nọc rắn, rết, nhện, tằm, bò cạp. Nọc rắn nhập tâm. Tâm thuộc hỏa, thuốc màu đỏ. Vì vậy thuốc giải màu đỏ. Nọc rết nhập phế. Phế thuộc Kim, thuốc màu trắng. Vì vậy thuốc giải màu trắng. Nọc bò cạp nhập can. Can thuộc mộc, thuốc màu xanh. Thuốc giải màu xanh. Nọc nhện nhập tỳ. Tỳ thuộc thổ, thuộc màu vàng. Thuốc giải màu vàng. Nọc tầm nhập thạân. Thận thuộc thủy thuốc màu đen. Thuốc giải màu đen:

Ngưng một lúc Mao tiếp:

– Đợi các người rời khỏi đây. Ta bảo cho tên Đức Hiệp biết. Nếu y chịu qui phục ta. Ta sẽ trao thuốc giải cho nó.

Trần Nghi Gia nói:

– Mã thái-hậu dùng chúng ta để kiềm chế anh hùng thiên hạ, thực đúng. Người nào trúng độc chưởng rồi, chỉ có cách cúi đầu tuân theo mệnh lệnh chúng ta. Cứ 360 ngày lại được uống một viên thuốc chống độc. Quần thần nhà Hán phải cúi đầu tuân lệnh Mã thái-hậu.

Phan Anh nói:

– Còn thái-hậu lại phải tuân lệnh chúng ta. Chẳng mấy chốc nữa, chúng ta lấy lại đại nghiệp của phụ hoàng cháu.

Mao Đông Các hỏi Tiểu Lan tức Á Nương:

– Còn chuyện đó thế nào, ngươi nói đi.

Tiểu Lan lắc đầu:

– Lão gia, xin lão gia cứu cháu ra khỏi đây. Cháu mới nói.

Mao Đông Các cười nhạt:

– Mi không tin ta ư?

Tiểu Lan lắc đầu:

– Không phải vậy. Nói ra ở đây, sợ lộ chuyện. Tường có mạch, vách có tai. Chỗ chôn cất kho tàng đó lão gia đã biết rõ rồi. Còn làm cách nào đào lên nô tỳ giữ trong tay. Từ khi Phan vương-gia qua đời. Nô tỳ chịu không biết bao nhiêu cay đắng, ẩn ở Trường-sa. Nay đã tìm được manh mối mọi sự. Xin nói để lão gia biết, cả Ngọc-tỷ truyền quốc cũng nằm trong tay cháu.

Phan Anh hỏi:

– Dì Thiếu Lan, có thực thế không?

Á Nương nói:

– Sao không thực. Hồi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, bà thái-hậu cầm ngọc tỷ đập y, bị mẻ mất một góc. Vương Mãng đã dùng vàng bịt góc đó lại. Chi tiết nay chỉ mình tiểu tỳ biết mà thôi.

Mao Đông Các cật vấn một lúc Á Nương cũng nhất định không nói. Y giơ tay vỗ khẽ vào vai Á Nương. Nàng kêu lên một tiếng Ái chà đầy vẻ đau đớn.

Mao Đông Các cười khẩy:

– Nếu ngươi không chịu nói. Ta nhả chướng lực. Ngươi bị trúng ngũ độc. Xem ngươi có chịu nói ra không? Ngươi mau khai đi, ta sẽ cho thuốc giải.

Á Nương nghiến răng. Tỏ ý cương quyết:

– Tiểu tỳ hầu cạnh Vương gia bao năm, được Vương gia tín nhiệm, cho biết mọi sự. Vì vậy không phải bất cứ ai tiểu tỳ cũng nói. Lão tiên sinh muốn giết thì cứ giết đi. Tiểu tỳ không sợ đâu, dù đau chết cũng không nói ra.

Phan Anh hỏi:

– Ta là con trưởng của người. Không lẽ A Di cũng không cho ta biết sao?

Á Nương lắc đầu:

– Thái tử là người thừa kế của vương-gia. Đương nhiên tiểu tỳ phải nói. Có điều thái-tử lại đi cúi đầu thần phục Quang-Vũ, kẻ thù cúa vương-gia, thì làm sao… làm sao tiểu tỳ nói được?


#1
    CDDLT 05.01.2005 19:29:27 (permalink)
    HỒI THỨ 29

    Ngọc tỷ truyền quốc



    Phan Anh thở dài:

    – A Di không hiểu ta cũng phải. Bấy lâu nay ra dấu A Di. Bây giờ nói ra cũng không muộn. Ta nói cho A Di biết một điều tối mật: Phụ hoàng ta vẫn còn sống.

    Tiểu Lan kinh ngạc:

    – Thực sao?

    Phan Anh quả quyết:

    – Sau trận đánh Trường-sa, ai cũng tưởng phụ hoàng băng hà. Sự thực người vẫn còn sống trên thế gian này.

    Tiểu Lan ngạc nhiên:

    – Hoàng thượng vẫn còn tại thế à? Tiểu tỳ không tin. Không thể như thế được. Hiện hoàng thượng ở đâu.

    Phan Anh đáp:

    – Trận đánh Trường-sa, phụ vương ta võ công cao gấp bội Nghiêm Sơn. Nhưng Nghiêm dùng binh giỏi hơn. Người bị bại. Người lên núi, cho một tên quân mặc quần áo của người. Người đánh y chết. Thân thể nát bấy. Vì vậy Đặng Vũ đuổi tới, nghĩ rằng phụ vương ta đã qua đời. Kỳ thực người vẫn ở ẩn trong Hoàng cung Lạc-dương.

    Tiểu Lan ngơ ngác:

    – Sao lại ẩn ở Lạc-dương?

    Phan Anh đáp:

    – Người thử nghĩ coi, phụ vương ta ở ẩn để tránh con mắt truy lùng của Quang-Vũ, ngay tại Hoàng cung ai còn nghi ngờ?

    Phan Anh ngừng một lát tiếp:

    – Hành tung của phụ vương ta, không ai biết được. Ta là con, mà gặp cũng rất khó khăn, nữa là người khác. Phụ vương ta khống chế Mã thái hậu. Dùng Mã thái-hậu áp đảo Tam-công, triều đình. Người cử Trần Lữ đầu quân theo Đặng Vũ. Dùng độc chưởng khống chế y. Người cử Tạ Thanh Minh đầu quân với Tần-vương Lưu Nghi ở Trường-an, dọ biết tình hình. Một ngày kia, chúng ta áp chế được quần thần nhà Hán. Nếu A Di nói cho ta biết việc đó, thì đại sự lo gì không xong?

    Tiểu Lan lắc đầu:

    – Đợi diện kiến hoàng-thượng, tiểu tỳ mới nói. Tiểu tỳ nhất quyết không đổi ý. Tiểu tỳ cũng không tin Mao lão gia. Tiểu tỳ chỉ nói với thái-tử mà thôi. Thái tử ơi! Khi nào thoát khỏi đây. Tiểu tỳ sẽ nói với thái-tử.

    Mao Đông Các cười:

    – Có vậy mà ngươi cũng hẹp hòi. Ta là thái sư phụ của thái-tử, mà ngươi cũng không tin sao? Thôi được ta đi ra, để ngươi nói với thái-tử.

    Mao Đông Các móc trong bọc ra năm viên thuốc đưa cho Phan Anh:

    – Đây là thuốc giải, nếu thị nói rồi thái-tử cho thị uống.

    Nói rồi y đi ra.

    Tiểu Lan nói vào tai Phan Anh:

    – Hoàng-thượng bị Mao lão giết chết từ năm năm rồi. Việc đó tiểu tỳ biết hết. Thái tử chỉ biết hoàng-thượng băng hà, mà không biết nguyên do tại sao phải không?

    Phan Anh lắc đầu:

    – Ta không tin.

    Tiểu Lan nói với Phan Anh:

    – Thái tử! Ngươi đã biết cách đây hơn ngàn năm, Chu Võ Vương phạt Trụ, thu được kho tàng đầy vàng bạc châu báu, cất dấu ở trong cung. Nhà Chu trải tám trăm năm, các chư hầu tiến cống không biết bao nhiêu mà kể. Vàng ngọc truyền đến cuối đời Chu gom góp lại thành kho tàng lớn. Kho tàng ngọc truyền đến cuối đời Chu gom góp lại thành bảy nước, lại thu thêm được châu báu. Tần bại, Hạng Vũ vào Hàm-dương trước, lấy được. Sở bị diệt. Kho tàng thuộc Lưu Bang. Lưu Bang đem chôn ở một nơi thực bí mật. Rồi suốt đời Hán, của cải súc tích được bao nhiêu, lại cũng đem chôn cùng vào một chỗ với kho tàng, mà không sao biết chỗ. Khi hoàng-thượng đánh Vương Mãng, nô tỳ theo hầu. May mắn tìm được hộp đựng Ngọc-tỷ truyền quốc, dưới cái giếng sâu. Dưới đáy hộp có tấm bản đồ ghi chú nơi chôn kho tàng. Hoàng thượng không ngờ Mao Đông Các phản hoàng-thượng. Lão tiên sinh này báo tin cho Mã Thái Hậu biết. Mã-hậu thuyết phục Mao lão-gia phản hoàng-thượng, để độc chiếm kho tàng một mình. Mao lão gia nghe theo.

    Phan Anh hỏi:

    – Mao lão tiên sinh là thái sư phụ ta. Tại sao người lại phản phụ hoàng ta?

    Tiểu Lan thở dài:

    – Điều đó dễ hiểu lắm. Trường-sa vương trước kia chỉ sủng ái Hàn Tú Anh. Vì vậy Mã Vương-phi buồn rầu, cô độc. Không hiểu cơ duyên nào đó, Mao lão-gia gặp Mã vương-phi. Hai người trở thành tình nhân. Trường-sa vương bị Vương Mãng giết chết. Mao lão gia cứu Vương phi ra ngoài thôn dã ở ẩn. Chờ tới khi Quang-Vũ trung hưng, cho người tìm Mã vương-phi vào cung. Phong làm thái-hậu. Mao lão gia theo Mã thái-hậu về Lạc-dương. Thỉnh thoảng lão gia thăm hoàng-thượng. Hoàng thượng nhờ Mao lão gia đào kho tàng. Mao lão gia nhận lời. Không ngờ trong lúc ân ái mặn nồng với Mã thái-hậu, Mao lão gia nói ra hết. Tiểu tỳ còn biết rõ: Mao lão gia với Mã thái-hậu có hai người con gái. Thái-tử có biết hai cô gái đó ở đâu không?

    Phan Anh lắc đầu:

    – Ta không biết. Hai đứa trẻ đó hiện ở đâu?

    Tiểu Lan chỉ vào Hồng Hoa, Thanh Hoa:

    – Là hai vị cô nương nầy.

    Tiểu Lan tiếp:

    – Mã thái-hậu thụ thai, dấu kín, sinh đẻ xong, đưa ra ngoài cho Mao lão gia nuôi. Vì vậy thái-tử thấy, Hồng Hoa, Thanh Hoa tuy họ khác nhau, mà mặt giống nhau như hai giọt nước. Mao lão gia hiện giả làm vệ sĩ trong cung, đi lại với Mã thái-hậu. Mã thái-hậu khám phá ra chuyện Nghiêm Sơn là con nuôi Hàn thái-hậu, bà muốn nhờ tay Mao lão-gia giết Hàn thái-hậu, sau giết Quang-Vũ để cho Mao lão gia lên làm hoàng đế.

    Tiểu Lan buồn bã tiếp:

    – Hoàng thượng bại trận Trường-sa. Lúc quân tan, thế cùng, tiểu-tỳ ở bên cạnh, hoàng-thượng dặn tiểu tỳ giả câm, ẩn trong thành, trông coi chỗ cất Ngọc-tỷ truyền quốc với bản đồ kho tàng. Vì vậy tiểu tỳ mới cố sống đến ngày nay.

    Phan Anh hỏi:

    – Từ hồi đến giờ. Phụ-hoàng có liên lạc với ngươi không?

    Tiểu Lan đáp:

    – Có. Cứ mấy tháng một lần. Người tự rạch mặt cho thành sẹo. Người đến Lạc-dương đầu quân làm thị vệ. Từ đấy người ở ẩn trong cung, dùng độc chưởng kiềm chế quần thần. Cho đến một ngày kia. Hoàng-thượng kiềm chế Mã thái-hậu. Không ngờ Mã thái-hậu không sợ độc chưởng, vì bà được Mao lão gia dạy cách chế thuốc giải. Bà vờ sợ hãi, rồi nhờ Mao lão-gia giết Hoàng-thượng.

    Phan Anh hỏi:

    – Ngươi có biết di thể phụ-hoàng ta chôn ở đâu không?

    Tiểu Lan đáp:

    – Dĩ nhiên là biết. Chính tiểu tỳ đem người chôn ở ngoài thành Lạc-dương.

    Hồng Hoa xem vào:

    – Tiểu Lan, truyện có thực hay không?

    Tiểu Lan cười:

    – Thực hay không thì cô nương tự biết. Cô nương là đệ tử của Mao lão gia. Tức khâm phạm của triều đình, sao lại được lão gia bí mật dẫn vào cung triều kiến thái-hậu? Tại sao Mã thái-hậu lại yêu thương hai vị cô nương như vậy?

    Hông Hoa, Thanh Hoa nhớ lại một đêm, hai nàng được thái sư phụ dẫn vào cung yết kiến Mã thái-hậu. Mã thái-hậu ôm lấy hai nàng, nước mắt trào ra, rồi tặng cho hai nàng không biết bao nhiêu vàng bạc châu báu. Từ đó cứ mỗi tháng một lần, hai nàng nhập cung yết kiến Mã thái-hậu. Hai nàng nhớ lại: Cứ mỗi lần hỏi thái sư phụ, cha mẹ là ai, Mao Đông Các đều lắc đầu không trả lời. Thì ra thái sư phụ là cha hai nàng. Còn Mã thái-hậu là Mẫu-thân. Việc đời thực lắm éo le.

    Tiểu Lan nói với Phan Anh:

    – Đợi ra khỏi nơi đây, tiểu tỳ sẽ nói cho thái-tử biết rõ chỗ cất Ngọc tỷ.

    Bỗng một bóng nhảy vào cười rộ lên:

    – Phan Anh, Tiểu Lan! Đáng lẽ ta không giết các ngươi. Nhưng chuyện bí mật của ta, các ngươi đã biết rồi, ta phải ra tay.

    Mao Đông Các, thò tay vào bọc rút ra cây búa. Y vung lên một cái, xích trói Hồng Hoa, Thanh Hoa đứt rời ra. Y hướng vào Tiểu Lan phóng một chưởng. Nhanh như chớp Tiểu Lan lăn người ra xa tránh khỏi chưởng đó. Thân pháp bà nhanh không thể tưởng tượng được. Ngoài sự ước đoán của Mao Đông Các. Mao Đông Các cười gằn:

    – Thì ra ngươi cũng biết võ? Võ công ngươi là võ công Lĩnh Nam.

    Tiểu Lan đứng thẳng người dậy cười:

    – Mao Đông Các! Ngươi có mắt như mù! Ta họ Trần, tên Thiếu Lan, người phái Tản-viên đất Lĩnh Nam. Ta chủ trương phản Hán phục Việt, khởi binh phục quốc. Chẳng may mất thế, bị người Hán bắt làm nô tỳ. Ta theo Xích Mi, xúi Xích Mi tàn hại nhà Hán, khiến Trung-nguyên loạn lạc. Có thế Lĩnh Nam ta mới nổi lên đuổi người Hán dễ dàng. Ta đâu có phải thứ nữ tỳ hèn hạ.

    Mao Đông Các lại vung chưởng tấn công Thiếu Lan. Thiếu Lan nhảy sang phải tránh, rồi phản công. Chưởng của bà chưa phát ra hết, gió lộng ào ào. Bình một tiếng đánh trúng ngực Mao Đông Các. Mao đông Các không phòng bị, trúng một chưởng như trời giáng. Người y lảo đảo, ngã ngồi xuống. Thiếu Lan phóng tiếp chưởng thứ nhì. Hồng Hoa, Thanh Hoa quát lên, tấn công vào hai bên. Thiếu Lan đẩy chưởng của Hồng Hoa vào Thanh Hoa, lùi lại tấn công Mao Đông Các. Mao đã phục hồi được sức lực. Hai người tái diễn cuộc đấu.

    Trưng Nhị đứng ngoài kinh ngạc:

    – Võ công Trần Thiếu Lan mạnh muốn hơn Lê Đạo Sinh, chỉ kém Khất đại-phu với Đào Kỳ. Vậy nàng là đệ tử của ai trong bản phái?

    Thình lình Mao Đông Các nhảy ra khỏi nhà tù. Tay y liệng một vật tròn vào trong. Tia lửa lóe ra như chớp. Một tiếng nổ kinh hồn phát ra.

    Trưng Nhị la lên:

    – Gian tế, gian tế, bắt gian tế mau.

    Lập tức các nơi trống chiêng đánh vang lên. Mao Đông Các vội cùng với Hồng Hoa, Thanh Hoa vọt mình ra khỏi nhà ngục. Vừa ra khỏi, thì đã thấy đèn đuốc sáng trưng. Bên ngoài nhà ngục, quân sĩ đã dàn ra từ bao giờ. Mao Đông Các cùng Hồng Hoa, Thanh Hoa vung chưởng tấn công, họ chỉ nhô lên thụp xuống mấy cái, đã mất tích vào đêm tối.

    Vũ Chu tiến tới trước Trưng Nhị nói:

    – Tiểu tướng bất lực để gian tế chạy thoát, mong quân sư trị tội.

    Trưng Nhị cười:

    – Vũ Thứ-sử! Tất cả chúng ta đây, không ai là đối thủ của một trong hai người con gái đó. Chứ đừng nói là đối thủ của lão già. Cứ để chúng chạy, chúng không thoát khỏi tay tôi đâu.

    Trưng Nhị vào nhà tù, thấy Tiểu Lan chỉ còn thoi thóp thở. Nàng sai mở còng cho vợ chồng Phan Anh, nói:

    – Phan thái-tử, ngươi đi thôi. Nếu ngươi muốn về Lạc Dương giết Mã thái-hậu trả thù cho cha mẹ, môn hộ thì cứ đi. Thiếu Lan có tôi chiếu cố.

    Phan Anh cúi lạy Thiếu Lan, vái Trưng Nhị nói:

    – Trưng cô nương, kẻ thù của kẻ thù là bạn ta. Cô nương với chúng tôi, cũng như Quang Vũ đều có chung kẻ thù là Mã thái-hậu với Mao Đông Các. Vậy chúng ta là bạn. Bọn chúng tôi đi đây.

    Hai người hú lên một tiếng, phóng mình vào đêm tối.

    Trưng Nhị lại bên Thiếu Lan, cầm mạch, thấy khi có khi không. Bỗng Thiếu Lan mở mắt ra nhìn Trưng Nhị. Nàng nói bằng tiếng Việt:

    – Trưng Nhị! Ngươi có phải là Trưng Nhị không?

    Trưng Nhị đáp:

    – Đúng! Đệ tử là Trưng Nhị đây.

    Thiếu Lan nói:

    – Những người biết tiếng Việt ở đây có thể tin được không?

    Trưng Nhị quả quyết:

    – Ở đây chỉ có ba người. Một là đệ tử. Hai là Lê Chân ba là Hồ Đề. Tất cả đều đáng tín nhiệm.

    Thiếu Lan nói:

    – Trưng Nhị! Ngươi mau bồng ta vào căn phòng cũ của ta. Ta có cái này cần trao cho ngươi. Nếu không e trễ mất.

    Máu miệng bà lại ri rỉ chảy ra. Người bà run lên bần bật. Hồ Đề tính mau mắn, bồng Thiếu Lan rời ngục, trở về căn phòng cũ của bà. Bà nói:

    – Hồ Đề cô nương. Cô nương có Thần-ưng, mau gọi chúng đến gác xung quanh cẩn thận. Lê cô nương gác cửa ngoài, cầm kiếm đứng canh. Còn cháu Trưng Nhị ở đây. Ta trao cho cháu một vật tối quan trọng.

    Hồ Đề huýt sáo gọi Thần-ưng, rồi cầm kiếm đứng gác cạnh Trưng Nhị. Thiếu Lan mệt nhọc, thở phều phào:

    – Cháu ơi! Ta họ Trần. Cha ta tên Trần Đại Sinh, thường được đời gọi là Khất đại-phu.

    Trưng Nhị, Lê Chân kêu lên ngạc nhiên:

    – Úi cha! Thì ra sư thúc là con của thái sư thúc đây à? Hèn gì võ công người cao gần ngang với thái sư-thúc.

    Thiếu Lan tiếp:

    – Ta tên Trần Thiếu Lan. Cha ta chỉ có một mình ta. Lớn lên người gả ta cho đệ tử của người là Trần Anh. Chúng ta có với nhau hai đứa con gái sinh đôi là Quế Hoa, Quỳnh Hoa. Chúng ta gửi con cho người nuôi dùm, để chuyên tâm lo phục quốc. Thất bại, chồng ta tuẫn quốc. Ta bị cầm tù đưa sang Trung-nguyên làm cung nữ của Trường-sa vương. Ta thừa dịp trốn đi, theo Xích Mi. Ta dùng đủ cách khích Xích Mi làm loạn Trung-nguyên, hầu anh hùng Lĩnh Nam có thể phục quốc.

    Thiếu Lan thở một lát rồi nói:

    – Khi Xích Mi chết. Ta đang giữ Ngọc Tỷ và bản đồ kho vàng. Từ đấy để tránh sự săn đuổi của phái Trường-bạch. Ta giả câm ở thành Trường-sa coi việc nấu ăn cho tù nhân. Ta theo dõi, biết mọi điều diễn biến ở Giao-chỉ. Ta nghe cha và hai con ta đang theo quân đánh Thục. Hy vọng đạo quân đó qua đây, ta làm nội ứng chiếm thành. Không ngờ… không ngờ Mao Đông Các và Phan Anh tìm được tông tích ta.

    Nàng mỉm cười tiếp:

    – Ta sắp chết rồi! Trưng Nhị nói với cha ta hãy trả thù cho ta. Ban nãy ta nói chỗ cất Ngọc-tỷ cho Phan Anh, Nghi Gia là nói láo. Ta bảo Ngọc-tỷ cất dưới nền nhà của điện Vị-ương. Mục đích đưa Phan Anh với Mao Đông Các chém giết nhau. Chứ thực sự ta vẫn giữ bên mình, đâu có rời ta?

    Trưng Nhị ngạc nhiên, vì hôm ở trên hồ Động-đình nàng bắt được Thiếu Lan, đã cho khám xét thật kỹ, đâu còn gì mà bảo Ngọc-tỷ?

    Thiếu Lan bảo Trưng Nhị:

    – Ta chết đến nơi rồi. Hãy đưa cho ta con dao nhỏ.

    Hồ Đề đưa con dao cho Thiếu Lan, bà cầm lấy đâm vào bụng, rạch ra một cái thực dài.

    Hồ Đề, Trưng Nhị tuyệt không ngờ Thiếu Lan làm vậy. Hai người muốn cản thì đã muộn. Thiếu Lan mổ bụng, moi ra cái bọc vải. Bà mở bọc vải ra, bên trong có một vật bằng ngọc khá lớn. Bà đưa cho Trưng Nhị:

    – Đây, Ngọc-tỷ truyền quốc đây. Cháu hãy cầm lấy tùy tiện xử dụng. Còn miếng vải này, vẽ sơ đồ nơi chôn cất kho tàng. Cháu cùng các anh hùng Lĩnh Nam đào lên, dùng vào việc phục quốc.

    Trưng Nhị cầm lấy miếng vải, gấp lại bỏ vào bọc. Nàng ngắm nghía Ngọc-tỷ, thấy vuông vức, bốn cạnh, mỗi cạnh bốn tấc. Mặt ấn có khắc tám chữ triện :

    Thụ mệnh vu thiên, thọ ký vĩnh xương.

    Thiếu Lan nói:

    – Nguyên đời Sở vương, có người thợ ngọc là Biện Hòa, đi qua núi Kỳ-sơn, thấy phụng đậu trên tảng đá mà gáy. Biện Hòa đem tảng đá về, đập ra bên trong tìm được khối ngọc lớn, dâng cho vua Sở. Sau ngọc đó về tay Tần Thủy Hoàng. Đời Tần Thủy Hoàng năm thứ 25, thừa tướng Lý Tư chính tay viết 8 chữ trên vào phiến ngọc, sai khắc thành ấn. Niên hiệu thứ hai mươi tám đời Tần Thủy Hoàng, nhân nhà vua du hồ Động Đình gặp sóng lên, thuyền muốn chìm. Nhà vua sai ném ấn ngọc xuống hồ, sóng tự nhiên im. Niên hiệu thứ 38 Tần Thủy Hoàng qua Hoa-âm gặp dị nhân đem dâng cái hộp. Mở ra thấy cái ấn này. Sau con Thủy Hoàng là Tử Anh dâng cho Cao-tổ nhà Hán. Nhà Hán dùng làm Ngọc-tỷ truyền quốc. Đến đời Hán Bình Đế, Vương Mãng cướp ngôi. Y sai Vương Tam, Tô Hiến vào cung đoạt ấn. Bà Hiếu-nguyên hoàng thái-hậu cầm ấn ném Vương Mãng, Ngọc tỷ mẻ một góc. Xích Mi lấy lại của Vương Mãng, y dùng vàng bịt lại góc bị bể. Xích Mi giao cho ta giữ. Y đâu có biết ta ghi lòng phục quốc, chiếm Ngọc Tỷ và bản đồ kho tàng. Bây giờ các ngươi hãy giữ Ngọc-tỷ, đào kho tàng lên, làm phương tiện phục hồi Lĩnh Nam.

    Đến đó Thiếu Lan, thở hắt ra một cái, rồi nước mắt chảy ròng ròng. Bên cạnh nàng, tiếng sáo tỉ tê như khóc như than cho người liệt nữ bạc mệnh của Lê Chân thổi lên trong đêm trường tịch mịch.

    Trưng Nhị sai chôn cất Thiếu Lan thật cẩn thận bên ghềnh sông Tương-giang đổ vào hồ Động-đình. Khắc trên mộ:

    Liệt nữ Lĩnh Nam Trần Thiếu Lan chi mộ.

    Sau khi giành được độc lập, phục hồi Lĩnh Nam, Trưng đế phong cho Trần Thiếu Lan: Anh thư bảo quốc, diệu tài, đại lược, linh-ứng công chúa. Và cho cất đền thờ. Dân chúng quanh vùng cầu gì được nấy.

    Chú giải

    Sau này các sứ thần Đại Việt đời Đinh, Lê, Lý, Trần nhân đi qua Động-đình hồ đều có ghé miểu thắp hương, tưởng nhớ người Việt-nữ có tấc lòng với tổ quốc. Trước đền thờ, một tấm bia đá đề:

    Lĩnh Nam liệt nữ, Bảo quốc anh thư miếu.

    Trải qua các đời Đinh, Lê, Lý, Trần, Trương Phụ thu ngọc phả mang về Kim-lăng (1407). Vì vậy không biết đời Lê, Nguyễn, các sử gia Đại Việt có còn tế lễ như những đời trước không?

    Đầu năm 1981, cuối năm Canh Thân, thuật giả từ Paris đi Bắc-kinh. Đổi máy bay từ Bắc-kinh đi Trường-sa tìm di tích về anh hùng Lĩnh Nam, đã tìm được di tích của bà. Trong một cuốn sách nói về tỉnh Hồ-nam, có đoạn ghi :

    “Miếu thờ liệt nữ Lĩnh Nam Trần Thiếu Lan ở ghềnh sông Tương-giang. Hồi cách mạng văn hóa bị phá hủy. Nay chỉ còn cái nền”.

    Thuật giả thuê xe đến cửa Tương-giang, lần mò hỏi thăm dân chúng. Họ chỉ vào khu đất bằng phẳng, cách bờ sông khoảng hai trăm thước, đó là một khu vườn. Tôi nói với chủ vườn rằng: Ngôi mộ, miếu của một vị tổ cô xa đời. Chúng tôi ở ngoại quốc, trở về thăm mộ người.

    Chủ vườn vui vẻ, hướng dẫn thuật giả ra xem mộ. Mộ xây bằng đá ong. Trải bao thỏ lặn ác tà bị sứt mẻ, nhưng vẫn còn nguyên. Bia trên mộ không còn nữa. Chủ vườn cho biết, hồi Cách Mạng Văn Hoá, bọn Vệ binh đỏ kéo đến đập phá miếu, gỡ tấm bia trên mộ mang đi mất. Còn tảng đá dùng làm bệ thờ trên ghi sắc phong của Trưng Đế, nặng quá, bọn chúng để lại.

    Thuật giả tới cạnh tảng đá, trên còn lờ mờ đọc được:

    “ ….bảo quốc,linh ứng….”.

    Hồi năm 1981, du khách tới Trung-quốc, muốn chụp hình, quay phim, phải xin phép rất khó khăn. Thành ra thuật giả muốn chụp hình kỷ niệm, mà không được. Thuật giả cũng muốn tu bổ mộ bà nhưng vì thời gian ở Trường-sa giới hạn, và còn phải xin phép với nhiều thủ tục nên không kịp. Sau này bạn đọc có ai muốn viếng mộ ngài xin theo chỉ dẫn nói trên, tất vẫn còn thấy mộ.

    Sa Giang đã thuật về cuộc chiến Kinh Châu cho Phương Dung nghe xong.

    Phương Dung nghe Sa Giang kể truyện, nàng hỏi:

    – Sư muội, thế sư thúc Trần Năng đâu?

    Sa Giang nói:

    – Khi rời Trường-sa được ít dặm, bọn tiểu muội gặp Tăng Giả Nan Đà. Ngài muốn đến Trường-an cùng với bọn tiểu muội. Bọn tiểu muội thấy mình đã có tiên ông Khất đại-phu, thêm một vị Bồ-tát sẽ vui lắm. Vì vậy trên đường đi chúng em có thêm ngài. Ngài chỉ ăn hoa quả như chim không ăn cá thịt. Sư tỷ, không ai ngờ ngài ăn uống như vậy mà công lực cao dường ấy. Suốt dọc đường ngài giảng thiền cho Trần sư tỷ nghe. Em chẳng hiểu gì cả. Ngài giảng những gì nào là Nhân ngã tứ tướng rồi giảng kinh Lăng-già, Kim-cang. Em nghe câu hiểu câu không. Còn Trần sư tỷ thì khoan khoái trong lòng. Trần sư tỷ nói, nhờ có ngài dạy dỗ, mà trên đường từ Trường-sa về đây, công lực của sư tỷ cao gấp bội. Trần sư tỷ bảo em đi trước gặp sư tỷ trình bày mọi sự. Không biết bao giờ Trần sư-tỷ với vị Bồ-tát sẽ đến.

    Bỗng tiếng Trần Năng nói vọng lại:

    – Bồ-tát và Trần sư tỷ đến từ lâu rồi. Sư muội khỏi lo lắng nữa.

    Phương Dung là người cực kỳ thông minh. Tuy nàng chưa biết Phật-giáo. Chỉ nghe Sa Giang kể, nàng đã biết được một phần nào cách xưng hô với Tăng Giả Nan Đà. Nàng chắp tay hướng ngài hành lễ:

    – A Di Đà Phật. Đệ tử Phương Dung, kính cẩn tham kiến Bồ-tát.

    Nàng nhìn ngài: Nước da đen bóng, đầu không tóc. Lưng quấn tấm cà sa mầu đại hồng. Khuôn mặt cười mà không cười. Ánh mắt chiếu ra vẻ từ bi. Chỉ nhìn đã thấy ấm áp dễ chịu:

    Tăng Giả Nan Đà đáp lễ Phương Dung:

    – A Di Đà Phật! Đại phúc. Đào phu nhân sao lại muốn khóc thế kia?

    Phương Dung giật mình. Quả thực nàng gặp hai thất bại: Thiều Hoa bị bắt, không hiểu tình trạng ra sao. Đó là thất bại thứ nhất. Thứ nhì, Tiên-yên nữ hiệp bị trúng Huyền-âm độc chưởng, đau đớn chết đi sống lại. Hiện đang nằm hấp hối. Nàng bó tay, không biết làm cách nào chữa trị.

    Phương Dung chắp tay:

    – Bạch Bồ-tát. Đệ tử quả đang có mối ưu phiền trong lòng không nguôi. Vì vậy không ngăn cấm được nước mắt. Mong Bồ-tát hóa giải cho.

    Tăng Giả Nan Đà mở to mắt nhìn Phương Dung. Ngài không ngờ một thiếu nữ trẻ xinh đẹp nhu mì, gặp ngài lần đầu đã biết cách xưng hô như những Phật-tử chính tông thuận thành.

    Phương Dung là người cực kỳ thông minh, chỉ nghe Sa Giang thuật truyện, nàng đã ghi nhớ được một số thuật ngữ trong nhà Phật, đem ra ứng dụng, khiến cho vị Bồ-tát phải ngạc nhiên.

    Lục Sún nghe tin Sa Giang đến. Chúng ào vào trướng Phương Dung gặp nàng. Giữa Sa Giang với Lục Sún tuổi ngang nhau. Gặp nhau là đùa giỡn vui vẻ.

    Sún Lé nói:

    – Nầy chị Sa Giang! Chị thua cuộc rồi đấy nhé! Bọn nầy đã đọc được sách binh thư rồi!

    Phương Dung hỏi:

    – Thua cuộc gì vậy?

    Sún Rỗ nói:

    – Chị Sa Giang chê bọn chúng em không biết chữ chẳng khác gì mù. Chúng em nói học chữ không khó. Chị Sa Giang đánh cuộc với em rằng: Trong vòng sáu tháng, nếu chúng em học chữ đến trình độ đọc được sách. Thì chị ấy phải về Lĩnh Nam phản Hán phục Việt với bọn em. Ngược lại bọn em thua cuộc, thì cả đời phải làm nô bộc cho chị ấy.

    Phương Dung cười với Sa Giang:

    – Sư muội! Em thua rồi. Từ hôm rời Dương-bình quan, chị ngạc nhiên tại sao Lục Sún lại chăm học chữ thế. Thì ra vì muốn thắng cuộc.

    Sa Giang e thẹn:

    – Trong thâm tâm em muốn được thua, để về Lĩnh Nam chống bọn Hán bốn chân. Sau nầy lịch sử Lĩnh Nam ghi: Niên hiệu Lĩnh Nam thứ… con gái người Hán tên Vương Sa Giang, đến Giao-chỉ, diệt bọn tham quan người Hán.

    Sún Cao trầm ngâm hỏi Tăng Giả Nan Đà:

    – Sư phụ! Có cách nào cháu chịu chết thay cho sư bá Tiên-yên không?

    Tăng Giả Nan Đà nói:

    – Tất cả đều là nghịch cảnh. Nghịch cảnh đã bày ra trước mắt thì phải chấp nhận. Muốn giải nghịch cảnh ấy phải trở về với mình. Tự lòng mình giải lấy, chứ không thể nhờ người khác được

    Phương Dung nghe Tăng Giả Nan Đà nói một câu, bên trong bao hàm nhiều ý nghĩa cao siêu, nàng chỉ hiểu đại khái: Việc bày ra trước mắt ngoài ý muốn. Mỗi số phận con người đều bị những cái ngoài ý muốn đó. Phải chấp nhận. Còn buồn, vui do chính mình phải tháo bỏ ra, mới thoát được. Nàng cung kính mời ngài vào doanh, đem trái cây, hai tay cung kính dâng lên.

    – Đệ tử thành tâm cúng dường. Mong Bồ-tát thu dụng cho.

    Tăng Giả Nan Đà hai tay tiếp mâm trái cây, đáp:

    – Thực là đại duyên.

    Tiếng Tiên-yên nữ hiệp đau đớn, rên rỉ ở trong trướng vọng ra.

    Trần Năng hỏi:

    – Ai đau đớn vậy?

    Phương Dung thở dài:

    – Sư bá Trần Thị Phương Chi.

    Trần Năng vào trướng. Người Tiên-yên nữ hiệp vàng vọt, chỉ còn xương bọc da, đang nằm vận công chống với cơn đau. Nàng cầm tay bà chẩn mạch. Mặt thất sắc nói:

    – Sư tỷ đã giao chiến với người phái Trường-bạch ư?

    Phương Dung gật đầu, kể chuyện Trần Lữ và Tạ Thành Minh. Trần Năng cũng kể chuyện Phan Anh, Trần Nghi Gia và Mao Đông Các. Nàng móc trong bọc ra một túi thuốc đưa cho Phương Dung:

    – Túi thuốc này lấy được từ người Mao Đông Các. Chả biết có dùng được không? Nếu là thuốc giả, cho sư tỷ dùng thì tối nguy. Giá có sư phụ ở đây, người phân biệt được ngay.

    Sún Lé ngồi đó nói:

    – Có gì khó đâu, chúng ta có hàng vạn tù binh Hán, lấy thuốc này cho chúng uống. Nếu là thuốc độc thì chúng chết. Còn chúng không chết thì là thuốc giải, đem cho sư bá uống.

    Tăng Giả Nan Đà chắp tay:

    – A Di Đà Phật! Tội quá, tội quá! Cứu một mạng, giết một mạng như vậy cũnh như không. Thôi để bần tăng uống thử thuốc nầy cho.

    Tiên-yên nữ hiệp đã bớt đau, tỉnh dậy. Bà nghe thấy nói vậy, lắc đầu:

    – Xin Bồ-tát đừng làm thế. Tiểu nữ không tiêu thụ được ân đức này đâu.

    Tăng Giả Nan Đà bảo Tiên-yên nữ hiệp:

    – Mời thí chủ hãy ngồi kiết già theo bần tăng, để bần tăng nói về đạo của Đức Thế Tôn cho thí chủ nghe.

    Tiên-yên nữ hiệp ngồi theo ngài. Ngài giảng về tiểu sử đức Phật. Sau đó ngài tiếp:

    – Phàm người theo đạo Đức Thế Tôn, thì lăn mình vào mệnh hổ đói, xẻo thịt cho chim ưng ăn cũng không ngại. Đào phu nhân, đưa thuốc cho bần tăng.

    Lời nói của ngài uy nghiêm quá. Phương Dung không chống được. Nàng đưa túi thuốc cho ngài.

    Ngài lấy viên thuốc màu đỏ định bỏ vào miệng. Phương Dung thấy vậy lòng đầy bất nhẫn. Nàng chụp viên thuốc trong tay ngài. Tay nàng chạm vô bàn tay ngài. Nàng giật bắn người lên, vì một kình lực nhu hòa truyền vào người nàng. Tuy lấy được thuốc, nhưng người nàng bị rung động mạnh.

    Tăng Giả Nan Đà khoan thai giảng giải:

    – Để bần tăng nói cho Đào phu nhân nghe. Phàm người theo đạo Đức Thế Tôn, dù nhảy vào miệng cọp đói, xẻo thịt cho chim ăn cũng không từ.

    Phương Dung thấy ngài chưa bỏ thuốc vào miệng. Nàng tìm cách kéo dài thời gian, may ra đoạt lại viên thuốc. Nàng khẩn khoản nói:

    – Đại sư, đệ tử thật ngu tối, chưa từng nghe biết tại sao người theo đạo Phật, lại tự nguyện nhảy vào miệng cọp, xẻo thịt cho chim ưng ăn?

    Trên mặt Tăng Giả Nan Đà thoáng hiện ra nét vui mừng:

    – Đào phu nhân đã hỏi. Bần tăng xin vì phu nhân mà nói về pháp của Phật. Người tu đạo, nguyện nhảy vào miệng cọp đói, xẻ thịt cho chim ưng ăn được chép trong kinh Hiền-ngu. Câu truyện như thế này:

    "Khoảng cách thời gian lúc Đức Thích Ca tại thế vô số kiếp. Ở Châu Diêm Phù Đề có một ông vua tên Ma Ha La Đàn Na, cai trị ba nghìn nước nhỏ, vua có ba con trai. Người thứ nhất tên Ma Ha Phù Na Bình. Người thứ nhì tên Ma Ha Đề Bà. Người thứ ba tên Ma Ha Tát Đoá.

    Người con thứ ba, có tính phúc đức, rộng lòng từ bi quảng đại, chí khí cao cả, hiền hậu hiếu thảo, thương dân, giúp vật. Một hôm vua dẫn hoàng hậu, thứ phi, cung nga và cả ba con vào rừng chơi. Nhân lúc nhà vua nằm nghỉ dưới gốc cây. Ba hoàng tử cùng nhau dạo bước. Tới khu rừng bên cạnh, thấy một con cọp mẹ và hai con cọp con. Cả ba gầy gò, chỉ còn da bọc xương, nằm thoi thóp thở. Chứng tỏ cả ba mẹ con cùng đói quá, kiệt sức. Cọp mẹ định ăn thịt hai con. Thấy thế Thái-tử Ma Ha Tát Đóa nói với hai anh:

    – Các anh nhìn kìa! Cọp mẹ đói quá, đang muốn ăn thịt con, phải có súc vật máu nóng, giết thịt đem cho nó ăn.

    Thái-tử Ma Ha Tát Đoá nghĩ: Ta sống thác trong bao kiếp đến nay. Bỏ thân cũng đã nhiều. Song trọng những thân ấy chỉ gây thêm tội nghiệp tham, sân, si chứ chưa từng đem thân ấy làm lợi cho chúng sinh. Tại sao không đem thân này đổi lấy trí tuệ từ bi bất diệt?

    Nghĩ là làm. Thái-tử để hai anh đi trước. Còn mình chậm lại, rồi lui về sau. Ngài gieo mình vào miệng cho cọp ăn thịt. Cọp đói lâu ngày mất hết nghị lực, run rẩy không há mồm ăn được. Thái-tử dùng cây nhọn đâm cổ cho máu phọt vào miệng cọp. Ba mẹ con cọp liếm máu, dần dần có sức tỉnh dậy, cùng ăn thịt Thái-tử. Phút chốc chỉ còn lại mấy khúc xương.

    Hai người anh dạo chơi một lúc, không thấy em, bèn quay trở lại thì chỉ còn thấy cái đầu và đống xương trên mặt đất. Hai ngài vội vàng báo cho vua và hoàng hậu. Ngài thương xót con vô cùng, khóc lóc thảm thiết. Còn thái-tử sau khi thác, hồn được sinh về cõi trời, tự nghĩ rằng: Ta được phép thiên nhãn, coi năm cõi như vật trên bàn tay. Chắc đời trước ta làm phúc gì, nay mới được như vậy.

    Vị thái-tử đó là một trong những tiền thân của đức phật Thích Ca Mâu Ni vậy.

    Trong khi Tăng Giả Nan Đà thuyết pháp, các anh hùng Lĩnh Nam hiện diện có Tiên-yên nữ hiệp, Phương Dung, Lục Sún. Tám người say mê theo dõi. Ngài thuật xong nói:

    – Vì vậy, nay bần tăng chỉ thử nuốt viên thuốc, chưa hẳn là thuốc độc. Dù có là thuốc độc cũng không bằng gieo mình vào miệng cọp đói.

    Trong lòng Sún Cao tự nhiên mở rộng, một ý nghĩ thoáng qua, nó kính cẩn chắp tay lễ Tăng Giả Nan Đà:

    – Kính bạch Hoà-thượng. Nếu như đệ tử thấy một người bị rắn cắn. Đệ tử biết nếu để lâu, người đó sẽ chết. Đệ tử nguyện hút máu độc, cứu người như thế có nằm trong đạo lý Phật-gia không?

    Tăng Giả Nan Đà liếc nhìn Sún Cao, ngài gật đầu:

    – A Di Đà Phật. Tiểu thí chú có ngộ tính thực cao. Nếu tiểu thí chủ hút nọc độc cứu người đã có hạnh Bồ-tát rồi. Trường hợp tiểu thí chủ biết rằng hút nọc cứu người, mình sẽ chết, mà vẫn hút, quả thực tiểu thí chủ có trái tim Bồ-tát, thành Phật vậy.

    Sún Lé chắp tay hỏi:

    – Bạch sư phụ, còn chuyện xẻo thịt cho chim ăn nguồn gốc thế nào? Xin sư phụ từ bi dạy cho chúng đệ tử.

    Tăng Giả Nan Đà khoan thai giảng:

    – Tích nầy cũng lấy trong kinh Hiền-ngu. Chuyện như sau:

    "Lại cũng trong thời quá khứ, tại cõi Diêm Phù Đề này, có một vị vua tên Thi Tỳ, ở thành Đề Bà Bạc Đề. Lúc đó nước mạnh, dân giầu. Nhà vua thống trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông. Nhà vua có hai muôn cung tần, thể nữ, năm trăm hoàng tử, một vạn đại thần. Vua có hạnh từ bi, thương dân như con.

    Bấy giờ trên trời, vua Đế Thích gặp lúc năm đức ly thân, sắp tới ngày chết. Khí sắc ông âu sầu. Ông Tỳ Thủ Yết Ma thấy thế hỏi rằng:

    – Tâu bệ hạ. Hồi này thần thấy khí sắc bệ hạ kém xưa nhiều lắm. Chẳng hay có chuyện chi? Xin nói cho hạ thần được rõ.

    Vua Đế Thích đáp:

    – Khanh không biết hay sao? Hoa trên đầu ta héo. Triệu chứng chết đã xuất hiện. Mạng sống không còn là bao. Hiện nay ở thế gian không có giáo pháp Như Lai, ta biết qui hương về đâu, nên buồn.

    Ông Thủ Yết Ma tâu rằng:

    – Hiện nay ở thế gian, Châu Diêm Phù Đề có một ông vua tự theo hạnh Bồ-tát, tên là Thi Tỳ, tâm ý vững bền tinh tiến lắm. Vị vua đó sau sẽ thành Phật. Xin bệ hạ tới đó qui y, thì lai sinh sẽ được đầy ý nguyện, hay tôn vinh trên cõi nhân, thiên hoặc xuất thế gian.

    Vua Đế Thích phán:

    – Nếu quả như khanh nói, thực may cho ta lắm. Tuy nhiên ta phải thử xem thực hư thế nào đã. Vậy khanh hóa làm chim bồ câu. Ta hóa làm chim ưng. Khanh bay trước, ta bay sau. Khi tới nơi khanh bay vào lòng nhà vua, xin nhà vua cứu. Ta đến sau, đòi trả bồ câu để ăn thịt. Xem nhà vua giải quyết ra sao?

    Tỳ Thủ Yết Ma tâu:

    – Bồ Tát là người từ bi, phúc đức, chúng ta nên cúng đàn, trợ giúp. Chẳng nên làm những sự đau khổ đến Bồ-tát.

    Vua Đế Thích liền đọc bài kệ:

    Ngã diệc phi ác tâm,
    Như trân báo ứng thí,
    Dĩ thử thí Bồ Tát,
    Tri vi chí thành phủ.

    (Ta vốn chẳng ác tâm,
    Muốn thử bồ tát xem,
    Là vàng thực hay giả?
    Chí thành đâu có sao?)

    Vua Đế Thích đọc xong, Tỳ Thủ Yết Ma hóa làm bồ câu bay trước. Vua Đế Thích hóa làm chim ưng bay theo. Tới nơi, bồ câu bay thẳng vào lòng vua Thi Tỳ tỏ vẻ sợ hãi. Chim ưng bay theo sau đứng ở trên điện nói:

    – Tâu bệ hạ! Xin ngài trả lại cho tôi con chim bồ câu kia.

    Vua Tỳ Thử đáp:

    – Trả cho ngươi ăn thịt ư? Ta có nguyện cứu tế muôn loài, nó đã lại đây cầu cứu ta. Ta không trả đâu. Trả có khác gì giết chết nó.

    – Tâu bệ hạ. Ngài tự nói cứu muôn loài, mà cứu nó, ắt tôi chết đói. Tôi không phải là một trong muôn loài sao? Cứu một mạng, mà giết một mạng cũng như không.

    Nhà vua thấy chim ưng nói có lý. Ngài nghĩ bây giờ ta lấy thịt loài khác cho chim ưng ăn. Giết một con vật, để cứu con bồ câu thì cũng vô ích. Chi bằng ta cắt thịt ta cho nó ăn là hay hơn hết.

    Ngài cầm dao cắt một miếng thịt đùi, đưa cho chim ưng:

    – Đây ngươi ăn miếng thịt của ta thay cho bồ câu.

    Chim ưng không đồng ý:

    – Tâu bệ hạ, theo lẽ công bằng, thì ngài phải đem cân ra. Để bồ câu một bên, thịt ngài một bên. Thịt ngài và thịt chim phải bằng nhau mới được.

    Vua làm theo. Bắt đầu ngài để một miếng, vẫn không bằng. Rồi hai miếng, ba miếng… cho đến hết hai bắp vế vẫn không bằng. Ngài quyết định đứng lên cân. Bấy giờ trới đất tự nhiên chuyển động sáu lần, thân thể nhà vua lành lặn như cũ. Vua Thi Tỳ chính là một tiền kiếp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni vậy.

    Sún Cao đến bên Phương Dung mở túi, lấy viên thuốc đỏ cầm ra xem. Nó nói với Tăng Giả:

    – Đại-sư! Đệ tử nguyện uống viên thuốc này thử xem. Nếu đệ tử chết thì là thuốc độc. Còn đệ tử sống, thì là thuốc chữa bệnh, có thể dùng cứu bao nhiêu người khác đang khổ vì Huyền-âm độc chưởng.

    Nói rồi bỏ viên thuốc vào miệng. Mọi người cùng bật thành tiếng kêu thất thanh. Nhưng đã trễ. Trần Quế Hoa từ ngoài bước vào, vung tay phóng một Lĩnh-nam chỉ. Véo một tiếng, chỉ trúng viên thuốc. Viên thuốc bay vọt khỏi tay Sún Cao, trúng vào viên đá kêu đến cách một tiếng, vỡ tan tành.

    Tăng Giả Nan Đà gật đầu:

    – Tiểu thí chủ! Ngươi có tâm Bồ-đề, thực đáng quí thay. Song việc này nên để bần tăng làm. Đào phu nhân, đưa thuốc cho bần tăng.

    Phương Dung đưa túi thuốc cho ngài. Ngài cầm lấy, bỏ viên màu đỏ vào miệng nhai, rồi nhắm mắt nhập định. Một lát sau, trên đầu ngài có khói trắng bốc lên, mồ hôi xuất ra dầm dề. Mặt ngài tái mét. Trần Năng hoảng sợ, đưa tay bắt mạch ngài, thấy một luồng điện cực mạnh, nhu hòa đẩy tay nàng ra. Trần Năng sợ quá vội thu tay lại.

    Ngài ngồi một lúc mới mở mắt ra, gương mặt lại hồng hào như thường. Ngài nói với Phương Dung:

    – Đào Phu nhân, thuốc này cực độc, dùng không được. Dùng thì cơn đau trấn tĩnh, nhưng sau đó người sẽ mất hết năng tính nhân từ.

    Ngài trao thuốc cho Trần Năng nói:

    – Hùng phu nhân, hôm ở lăng Trường-sa, bần tăng đọc kinh Phật để hóa giải độc chất trong người phu nhân. Hôm nay bần tăng lại dùng kinh Phật hoá giải chất độc của Tiên-yên nữ hiệp đây.

    Ngài nói với Tiên-yên nữ hiệp:

    – Bần tăng xin vì thí chủ nói về nguồn gốc pháp môn Thiền của nhà Phật. Pháp môn Thiền bao gồm mấy chữ:

    Giáo ngoại biệt truyền,
    Bất lập văn tự,
    Trực chỉ chân tâm,
    Kiến tính thành Phật.

    Không lập văn tự, vì Thiền không có một nguyên tắc nào cả. Nếu có nguyên tắc thì không phải là Thiền. Người tu Thiền phải tự mình trở lại với chân tâm mình, thoát ra ngoài Nhân, Ngã tứ tướng, tự mình giác ngộ mà thành Phật.

    Ngài ngừng lại một lúc nói:

    – Người đầu tiên được Phật tổ truyền tâm ấn là ngài Ma Ha Ca Diếp. Một hôm Phật tổ lên đài Linh-sơn thuyết pháp. Pháp hội có đến mấy trăm ngàn người chờ nghe. Ngài lên đài tay cầm bông hoa, miệng mỉm cười. Pháp hội không ai hiểu ý Phật. Chỉ có ngài Ma Ha Ca Diếp hiểu ý, mỉm cười đáp lại. Phật tổ nói: Ta có nhãn tăng chính pháp, diệu tâm Bồ Đề, vô pháp vô tướng, nay truyền cho Ma Ha Ca Diếp.

    Nhãn tâm chính pháp là chính pháp chứa trong đôi mắt Phật vậy. Kể từ ngài Ma Ha Ca Diếp, truyền tâm ấn đến đời bần tăng là đời thứ tám.

    Tiếp theo ngài giảng về phép Thiền định, làm thế nào bỏ ra ngoài được Nhân ngã tứ tướng. Bỏ ra ngoài được cái Vọng Tâm, để xóa bỏ đi hết những gì trong con người.

    Tiên-yên nữ hiệp nghe đến đâu, tỉnh đến đó, mồ hôi bà xuất dầm dề.

    Tăng Giả Nan Đà tiếp:

    – Bây giờ thí chủ hãy hít một luồng khí, tưởng tượng luồng khí đó như sợi tơ vàng vào mũi, rồi vào cổ, xuống Phế, Tâm, qua Tỳ, Vị.

    Ngài nói đến đâu, Tiên-yên nữ hiệp làm theo đến đó.

    Ngài tiếp:

    – Bây giờ chí chủ chuyển chân khí từ Tỳ, Vị, tỏa ra ngoài da.

    Tiên-yên nữ hiệp làm theo lời ngài, một lát da căng như mặt trống rất khó chịu, miệng đắng, lưỡi nhạt, chân tay run run, rồi các đồ vật trong phòng quay tròn, bà cảm thấy như mình bị dốc ngược. Tuy nhiên Tiên-yên nữ hiệp là người tính khí quật cường, nhất định nghiến răng không kêu than. Bên cạnh bà Tăng Giả Nan Đà vẫn đọc kinh Phật:

    ….Thị chư pháp không tướng,
    bất sinh bất diệt,
    bất cấu bất tịnh,
    bất tăng bất giảm.
    Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức.
    Vô nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý.
    Vô sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp.
    Vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới,
    vô vô minh diệc, vô vô minh tận.
    Nãi chí vô lão, tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo.
    Vô trí diệc vô đắc...

    Trần Năng nhận ra ngài đang đọc đoạn giữa bài kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh. Ngày nọ nàng được ngài giảng đoạn đầu kinh Lăng-già, giác ngộ mà thắng được Trần Gia Nghi. Rồi ngài giảng đoạn đầu bài kinh Bát Nhã, nàng áp dụng vào vận khí mà thắng Phan Anh. Sau đó ngài giảng tiếp đoạn kinh Lăng-già mà đẩy được chất độc của Huyền-âm thần chưởng ra ngoài. Cho nên bây giờ nghe ngài đọc đoạn sau của kinh Bát Nhã, thì nàng hiểu liền. Nàng xếp chân ngồi kiết già, vận khí.

    Ngài giảng:

    Bát nhã ba la mật đa tâm kinh là pháp môn của Thiền Tông nhà Phật. Đức Phật giảng cho đệ tử của ngài là ngài Xá Lợi Phất. Kinh Bát Nhã lấy chữ Không làm căn bản. Trong kinh Kim-cang Phật dạy đệ tử là ngài Tu Bồ Đề rằng: Nhược hữu Bồ Tát... Nghĩa là nếu có vị Bồ Tát nào thấy Tướng ta của ngài, rồi thấy Tướng của người rồi thấy Tướng của chúng sinh, tức chẳng phải Bồ Tát. Tại sao vậy? Khi đã có Ngã tướng, liền có Nhân tướng. Đối với Ngã tướng, Nhân tướng chẳng phải chỉ có một người, mà có nhiều người, do vậy có Chúng sinh tướng. Nói thì nhiều chứ thực sự ra phải bỏ ngã tướng thì tự nhiên bỏ được hết các tướng khác.

    Phật dạy rằng: Các pháp đều không có tướng. Đã không có thì làm sao sinh? Làm sao diệt, làm sao dơ bẩn, làm sao tăng? Làm sao giảm? Cho nên trong thế gian nầy Ngũ uẩn đều không. Ngũ uẩn là gì? Tức là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành Thức.

    Cho nên nhập Thiền, phải bỏ mọi sắc giới hình ảnh ra ngoài tức vô nhãn rồi không chú ý đến âm thanh tức vô Nhĩ. Không ngửi thấy mùi gì nữa thành vô tị, không chú ý đến mùi vị là vô Thiệt. Khi bỏ ra ngoài được ngũ uẩn, thì ý tưởng không còn nữa, cái thân cũng biến mất. Đến trình độ nầy thì không có sắc, không có thanh, không có hương, không có vị, không có súc nữa. Như vậy con người đi đến không còn già, chết tức không còn khổ nữa.

    Lúc đầu Tiên-yên nữ hiệp chống trả cơn đau, không chú ý được lời giảng của ngài. Nhưng có một câu lọt vào ta bà Bỏ ra ngoài mắt, tai, mũi, lưỡi và thân ý. Bà nghĩ: Nếu bỏ ra ngoài được như vậy thì con người chết rồi còn gì? Chết rồi thì hết đau đớn nữa. Nghĩ vậy bà thử không chú ý đến màu sắc, bà thấy dễ dàng quá. Bà bỏ ra ngoài âm thanh cũng dễ dàng quá. Bà bỏ hết cả sáu thứ ra ngoài. Quả bà không biết gì nữa. Thế nhưng trong khi bỏ ra như vậy, ý thức giới vẫn làm việc, chân khí vẫn luân lưu trong người bà. Trong cơn mê mê tỉnh tỉnh bà nghe tiếng giảng sang sảng của Tăng Giả Nan Đà. Nghe đến đâu bà áp dụng đến đó. Khi ngài ngưng giảng. Bà từ từ tỉnh dậy, mở mắt ra, thấy mồ hôi mình xuất đầm đìa ướt hết y phục. Mồ hôi tanh hôi không thể tưởng tượng được bốc ra.

    Cơn đau đớn kinh khiếp giảm. Chân tay có thể cử động được. Tăng Giả Nan Đà lên tiếng:

    – A Di Đà Phật, thí chủ hãy vận khí qua mũi, xuống cổ, vào Phế, Tâm, đưa tới Tỳ, Vị. Rồi, thí chủ đưa xuống Đại-trường, Thận, Tiểu-trường. Rồi, tiếp tục đưa xuống đùi, đầu gối, bàn chân. Sau đẩy ra ngoài.

    Tiên-yên nữ hiệp làm theo, thấy mùi tanh tiết ra ở chân bốc lên nồng nặc.

    Cứ thế, bà tiếp tục vận khí suốt ngày, đến chiều, bà mới ngưng lại để nghỉ ngơi. Bà vận khí cho đến khuya, thấy không còn trở ngại gì khác nữa. Tiên-yên nữ hiệp đứng dậy, thấy người khỏe mạnh khác thường, cái đau đớn không còn nữa. Bà biết vị Bồ-tát dạy Thiền để chữa bệnh cho mình. Bà quì xuống chắp tay hành lễ:

    – Sư phụ! Tạ ơn đại đức sư phụ đã cứu đệ tử.

    Tăng Giả Nan Đà tủm tỉm cười:

    – Cũng là túc duyên tiền kiếp cả đó thôi. Thí chủ tiếp tục luyện thêm ba ngày, thì chất độc tống ra ngoài hết sạch.

    Ba hôm sau Tiên-yên nữ hiệp đã đẩy được chất độc ra ngoài. Bà bước ra sân trướng dạo chơi. Trong khi đi, bà tập bỏ ra ngoài nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý, nhưng vẫn vừa đi vừa nhìn cảnh vật một cách mơ hồ. Trong mơ hồ bà đụng phải một cây lớn. Bà giật mình, cung tay đẩy mạnh vào cây. Khiến cây rung động lên thật mạnh, âm thanh trầm trầm chuyển đi vang dội cả một vùng. Bà kinh hãi nghĩ:

    – Sao công lực ta biến thành âm nhu mạnh thế này ?

    Bà chắp tay thử vận khí Tứ đại giai không đập mạnh vào cây. Cây to bằng bắp chân, kêu đến rắc một cái, từ từ đổ xuống. Có tiếng hoan hô:

    – Công lực sư tỷ đến thế này thì không ai bì được nữa rồi.

    Bà quay lại thì ra sư đệ Đặng Đường Hoàn. Đặng Đường Hoàn nổi tiếng chưởng lực mạnh nhất Lĩnh Nam, chỉ thua có hai người là Khất đại-phu và Lê Đạo Sinh, sau nầy thêm vào Đào Kỳ. Ông hít hơi vận khí phát một chưởng đánh vào cây khác, bằng bắp chân. Rầm, cây gãy đôi từ từ đổ xuống. Ông bảo Tiên-yên nữ hiệp:

    – Sư tỷ đánh vào gốc cây còn lại xem sao?

    Tiên-yên nữ hiệp vận khí theo Vô nhãn tướng, phóng một chưởng. Rắc, gốc cây đã được tiện đứt bằng phẳng như bị chặt một nhát dao rất ngọt.

    Đặng Đường Hoàn chắp tay:

    – Sư tỷ, chưởng lực của sư tỷ mạnh dường nầy, bây giờ nếu gặp Trần Lữ, sư tỷ có thể trả thù được rồi đấy.

    Tăng Giả Nan Đà từ xa đến:

    – A Di Đà Phật. Tiên-yên nữ hiệp có thể chấp nhận cho bần tăng một lời hứa chăng?

    Tiên yên nữ hiệp chắp tay:

    – Sư phụ cứ dạy, đệ tử nguyện theo.

    Tăng Giả Nan Đà nói:

    – Nếu sau này nữ hiệp gặp Trần Lữ, đừng hại y. Nữ hiệp hãy dùng những gì của nhà Phật hóa giải hết chất độc trong người y. Như vậy thí chủ cứu được nhiều người. Đại phúc đến với thí chủ.

    Chiều hôm đó Phương Dung được thám mã cho biết:

    – Quang-Vũ cử Ngô Hán cầm quân mặt Đồng-quan chống Thục. Còn Đặng Vũ giữ Nam-dương. Mã Viện đem quân phòng vùng Uất-lâm, Thương-ngô.

    Phương Dung nói với Công-tôn Tư:

    – Quang-Vũ rút khỏi Trường-an. Quân Hán còn chưa đầy mười vạn, so với quân Thục trên ba mươi vạn. Thái-tử chỉ giơ tay một cái là lấy được các thành trì xung quanh.

    Nàng chỉ lên bản đồ tiếp:

    – Sau khi lấy xong Quan-trung. Thái-tử chỉnh bị quân mã mấy năm sau chiếm Trung-nguyên. Chúng tôi rời đây về Lĩnh Nam phục quốc. Thái-tử phải cẩn thận, nếu không Hán đánh về phía sau Thái-tử. Chúng tôi sẽ theo sát Quang-Vũ.

    Công-tôn Tư, Tề-vương Tạ Phong sai làm tiệc tiễn đưa anh hùng Lĩnh Nam. Trong bữa tiệc, Sa Giang ngồi cạnh Công-tôn Tư nói nhỏ:

    – Sư huynh, tiểu muội được phụ thân chấp thuận cho theo Trưng Nhị. Tiểu muội không ở bên đại ca được. Vậy tiểu muội có đôi lời thưa riêng với đại ca.

    Rồi nàng thuật lại chi tiết lời nói của Lê Đạo Sinh, Mao Đông Các về việc Công-tôn Thi liên lạc với Hán, chính y làm gian tế của Hán. Cuối cùng nàng kết luận:

    – Giặc ngoài dễ đánh. Giặc trong khó trị. Mong sư huynh đề phòng. Anh em thực. Nhưng khi họ trở mặt, e trở tay không kịp. Sư huynh chắc không quên vụ Thái-tử Lịch Sanh chết oan?

    Công-tôn Tư cảm động:

    –Đa tạ sư muội. Ta sẽ nhớ kỹ lời sư muội.

    Phương Dung họp anh hùng Lĩnh Nam. Nàng đứng lên nói:

    – Hoàng sư tỷ bị bắt, chúng ta phải cứu ngay. Vậy những vị sau đây sẽ cùng tôi đi cứu Hoàng sư tỷ: Sư bá Trần Công Minh, Đặng Đường Hoàn, Tiên-yên nữ hiệp, Cao Cảnh Minh, Cao Cảnh Sơn, sư thúc Trần Năng, sư tỷ Giao Chi, sư muội Trần Quốc. Tất cả còn lại do sư bá Lương Hồng Châu, Đinh Công Thắng chỉ huy, đến hồ Động-đình chờ trước.

    Lục Sún hỏi:

    – Bọn chúng em đi đường nào?

    Phương Dung đáp:

    – Lục Sún đi Lạc-dương.

    Sa Giang hỏi:

    – Em đi cứu Hoàng sư tỷ hay đi hồ Động-đình?

    Phương Dung đáp:

    – Sư muội dẫn đường phái đoàn đi hồ Động-đình, để họ hỏi bỡ ngỡ.

    Phương Dung cho mọi người hóa trang làm binh lính Hán, đi Lạc-dương. Việc giả binh Hán rất dễ dàng, vì Phương Dung có đủ thẻ bài của tất cả các đạo quân Hán. Chỉ ba ngày sau, mọi người đã tới Lạc-dương. Lạc-dương là kinh đô mới của Quang-Vũ. Dân cư đông đúc. Nhà cửa mọc lên như nấm.

    Phương Dung an trí Lục Sún với đội Thần-ưng ở núi Bắc-mang. Nàng dặn các Sún không cho chim bay lượn nhiều, sợ thám mã Hán biết, e gặp khó khăn. Nàng nói với Đặng Đường Hoàn:

    – Sư bá tạm ở núi Bắc-mang cùng với Giao Chi, Giao long nữ, cai quản bọn Lục Sún với đội Thần-ưng. Chúng ta dùng Thần-ưng liên lạc với nhau. Việc trước mắt là dọ thám xem chúng giam Hoàng sư tỷ ở đâu? Khất đại phu với Đào tam lang đã làm gì?

    Lục Sún dầu sao cũng là đám thiếu niên, tính nhạy cảm. Từ hôm theo quân tòng chinh đến giờ, chúng đi với Trưng Nhị, Hồ Đề, Lê Chân. Trần Năng và Phật Nguyệt. Trong năm người, nhiều tình cảm nhất là Trưng Nhị với Phật Nguyệt. Nhưng họ không có thì giờ săn sóc chúng. Khi đổi mặt trận. Chúng theo đạo Trường-an, sống gần Hoàng Thiều Hoa nhiều nhất. Hoàng Thiều Hoa tuy chưa có con. Song nàng có kinh nghiệm chăm sóc cho Đào Kỳ, nên biết tâm lý Lục Sún. Vì vậy chị em sống bên nhau giữa chốn ba quân, mà tình ý thâm trọng. Từ hôm nàng bị bắt, Lục Sún khóc mấy ngày, rồi bản tính quật cường nổi dậy, chúng bàn định cách cứu Thiều Hoa, Phương Dung chưa cho chúng đi. Chúng nhất định đòi đi ngay. Phương Dung đem quân luật ra bắt chúng phải ở núi Bắc-mang. Bề ngoài chúng tuân lệnh. Trong lòng chúng phản đối.

    Sún Rỗ kêu lên:

    – Bất công, em phản đối sư tỷ Phương Dung. Đi cứu Hoàng sư tỷ mà không cho Lục Sún đi là cớ gì? Nếu vậy Lục Sún sẽ đi riêng. Lục Sún vào hoàng cung bắt sống hoàng-hậu, công-chúa, thái-tử... đem đổi cho Quang-Vũ lấy Hoàng sư tỷ. Nếu Quang-Vũ làm Hoàng sư tỷ đau đớn, Lục Sún cũng làm người của Quang-Vũ như vậy.

    Trần Năng an ủi Lục Sún:

    – Các sư đệ ngoan ngoãn mới được. Đây là kinh đô Lạc-dương. Nếu Lục Sún làm ồn lên chỉ nguyên mấy vạn thị-vệ cũng đã giết hết chúng ta, còn ai cứu Hoàng sư tỷ nữa?

    Trần Công Minh vốn tính nóng nảy quát mắng:

    – Lục Sún không được ồn ào. Phải tuân lệnh sư tỷ Phương Dung, nếu không phải đòn.

    Tâm lý trẻ con bao giờ cũng thế. Khi thấy điều gì không vừa ý, chúng phản đối một cách tự nhiên. Người lớn cần giải thích cho chúng đúng lý, chúng mới chịu tuân theo. Còn dùng uy quyền, áp lực chúng nín chịu, nhưng rồi khi vắng mặt người lớn chúng sẽ hành xử theo ý chúng. Lục Sún thấy sư bá quát mắng. Chúng nhìn nhau, không nói gì, nhưng trong lòng nổi lên một cơn giông tố.

    Chúng đợi cho Phương Dung cùng mọi người đi rồi, lấy mắt ra hiệu cho nhau, cùng lên chỏm núi hội nghị. Nguyên Lục Sún xuất thân là những trẻ mồ côi, cha mẹ chúng bị người Hán giết chết. Chúng bơ vơ, được Hồ Đề đem về nuôi nấng, dạy dỗ từ nhỏ. Chúng chơi với nhau thân như ruột thịt, nghịch ngợm không biết đâu mà lường.

    Sau khi ngồi xuống sáu tảng đá khác nhau, Sún Lé nói:

    – Hoàng sư tỷ bị Quang-Vũ bắt đi đã lâu không có tin tức gì. Bây giờ chúng ta cho Thần-ưng trinh sát đi tìm xem sư tỷ bị giam ở đâu? Vậy chúng ta cùng vào thành Lạc-dương một lúc.

    Sún Rỗ tiếp:

    – Sư tỷ Phương Dung có mang theo năm Thần-ưng đưa tin. Vậy chúng ta thấy chúng bay lượn ở đâu, tránh chỗ đó, không thể để sư tỷ bắt được. Sư tỷ bắt được, sẽ đuổi chúng ta trở lại đây mất. Không chừng còn bị phạt nữa là khác.

    Sún Cao hỏi:

    – Từ đây vào thành Lạc-dương cũng hơi xa. Chúng ta phải dùng ngựa mà đi. Vào thành rồi chúng ta mới dọ thám. Nhưng chúng ta lấy tiền đâu trả nhà trọ, mua cơm ăn? Chúng ta học nói tiếng Hán, nhưng giọng nói của chúng ta là giọng Trường-sa. Hay chúng ta phải giả làm ăn mày để bọn Hán không biết.

    Sún Lé lắc đầu:

    – Giả ăn mày thế nào được? Chúng ta đi ngựa mà giả ăn mày ư? Bây giờ chúng ta lấy những bộ quần áo đẹp Hoàng sư tỷ may cho mặc vào. Người Hán thấy chúng ta ăn mặc đẹp, cưỡi ngựa, đeo ngọc đầy người tưởng chúng ta là con vua chúa mới thú.

    Nó lấy tay nải, moi ra cái túi, mở miệng túi: Trong túi đầy ngọc trai ngọc bích, hồng ngọc, vàng bạc không thiếu gì. Nguyên hôm đánh thành Ngọc-đế, chiếm được kho tàng Thục. Trưng Nhị chở về Lĩnh Nam. Sún Lé nhanh tay, bốc lấy một ít cho vào túi. Nó có ý định rằng về Lĩnh Nam làm quà cho bạn bè. Bây giờ nó đưa ra, làm các Sún khác reo hò mừng rỡ.

    Lục Sún cũng như Hồ Đề, đi đâu cũng đều mang theo mỗi người vài con trăn, mấy con rắn, rết, bò cạp, nhện thực độc phòng thân. Trong 600 Thần-ưng của Lục Sún, chúng cũng luyện một đội đặc biệt hai chục Thần-ưng cực kỳ tinh khôn, để hộ vệ. Trong hai chục Thần-ưng nầy. Hồ Đề mang theo mười con, còn lại mười lúc nào chúng cũng mang theo bên cạnh, để sai vặt. Khi thì đưa thư, khi thì hái hoa quả, khi thì phơi quần áo.

    Sún Hô bàn:

    – Bây giờ chúng ta cứ ngoan ngoãn ăn cơm rồi đi ngủ. Đợi trời gần sáng hãy lấy ngựa đi. Như vậy sư bá Đặng Đường Hoàn không biết đã đành, đến sư tỷ Giao Long cũng không ngờ tới.

    Chúng ăn cơm rồi mắc võng, leo lên ngủ. Tới nửa đêm, Sún Lé thức giấc trước. Nó đánh thức từng đứa một, lén lấy ngựa ra đi. Trời gần sáng tới thành Lạc-dương, vừa đúng lúc thành mở cửa. Chúng cưỡi ngựa ngao du khắp phố phường. Lần đầu tiên chúng được đi chơi trong một thành phố náo nhiệt như vậy. Cái gì đối với chúng cũng hay cũng lạ hết. Trong khi chúng đi, trên trời mười con Thần-ưng cứ là là trên cao. Gặp cây nào đậu cây ấy. Đi đến trưa, chúng bắt đầu đói. Sún Lé bàn:

    – Chúng ta vào tửu lầu đánh chén một bữa đã, rồi sẽ tìm cách sai Thần-ưng đi dò tin tức Hoàng sư-tỷ.

    Sún Rỗ hỏi:

    – Phải đem vàng đi đổi tiền đã?

    Sún Lé móc trong túi ra một nén vàng:

    – Không cần, cứ đưa cái này ra, nhà hàng sẽ đổi tiền cho mình.

    Bốn đứa tìm đến một tửu lầu, nhà hàng thấy sáu thiếu niên trang phục sang trọng. Lưng đeo cung tên, bảo kiếm, tưởng rằng thiếu niên con quan lớn. Họ sai tửu bảo chạy ra đón. Tửu bảo chia nhau đứa cầm cương, dắt ngựa ra sau cho ăn cỏ. Đứa cúi rạp người xuống mời Lục Sún.

    Khi khởi hành từ Lĩnh Nam, Hồ Đề cho Lục Sún mặc theo lối người rừng. Trông rất quê kệch. Từ ngày bọn Lục Sún theo Hoàng Thiều Hoa đến giờ. Nàng ra lệnh may cho chúng mỗi đứa hàng chục bộ quần áo sang trọng. Thiều Hoa từng là đệ tử yêu của Đào Thế kiệt, nàng sống trong nhung lụa đã quen. Sau này làm vợ Nghiêm Sơn, một vị Lĩnh-nam công, uy quyền bao la, muốn gì được nấy, nàng sống nếp sống đài các đã lâu. Nàng đánh cho mỗi Sún mấy cái vòng chân, đeo vàng, ngọc đầy người, khiến bọn tửu bảo trông thấy tưởng chúng là con nhà vương tôn, đưa chúng lên bàn chưng hoa rất đẹp.

    Chủ nhân tửu quán đến khoanh tay hỏi:

    – Không biết các vị công tử dùng gì?

    Sún Cao rành về ăn uống. Nó đã ăn với Hoàng Thiều Hoa, nên biết món ăn ngon. Nó nói:

    – Trước hết cho tôi sáu bát Vi-yến nấu với trứng gà. Sau đó cho sáu con cá-chép chưng thập-cẩm, sáu con gà nướng ngũ-vị hương, mười hai con bồ-câu quay dòn. Trái cây có thứ nào tươi tốt nhất, đắt nhất mang ra đây.

    Sáu đứa ngồi ăn uống giữa tửu lầu lớn nhất kinh đô Lạc-dương, nghênh ngang coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Ăn nửa chừng, có tiếng hô:

    – Tránh ra, nhường chỗ cho các quan lớn.

    Bọn Lục Sún chú ý nhìn: năm quân nhân Hán, mặc theo lối Thị-vệ hoàng cung, rồi cùng ngồi vào bàn gần đấy. Lát sau thêm một nho sinh tới nữa là sáu. Một Thị-vệ mặc quần áo đội-trưởng, gọi chủ quán lại gần hỏi:

    – Bọn trẻ con nào vậy?

    Chủ quán đáp khẽ:

    – Không rõ! Sáu vị công tử cùng cỡi ngựa đến đây. Thấy cách phục sức, tôi đoán họ là vương tôn, công tử chứ không phải thường. Họ kêu toàn món ăn rất đắt tiền.

    Người đó nói sẽ:

    – Ngoài bọn sáu người ra, tuyệt đối không cho ai lên lầu này nữa nghe!

    Chủ quán cúi rạp người xuống tỏ ý vâng lệnh. Sún Lé nói khẽ bằng tiếng Việt:

    – Này! Chúng mày không được lên tiếng. Để tao muốn làm gì thì làm nghe, nếu không lộ mặt nạ hết.

    Nói rồi nó gọi chủ quán:

    – Cho ra một bình rượu thực ngon lên đây.

    Chủ quán hơi ngạc nhiên đôi chút, rồi cũng đưa lên một bình rượu lớn. Sún Lé cầm bình rượu lại bàn của sáu người Hán. Nó đến bên đội-trưởng cúi đầu chào nói:

    – Bọn tiểu đệ nhân ngày xuân, muốn kính mời quí huynh một chung rượu lạt, gọi là duyên may gặp gỡ giữa đường. Mong quí vị không chê bọn tiểu đệ hủ lậu quê mùa.

    Đội trưởng bọn thị vệ hơi bỡ ngỡ. Y nhìn thấy Sún Lé đeo vàng, ngọc, đầu để tóc dài, nước da đen, trông rắn rỏi khỏe mạnh, có thiện cảm. Y nói:

    – Đa tạ tiểu huynh đệ. Chúng tôi xin nhận.

    Sún Lé cầm bình rượu rót ra từng chung mời bọn họ uống. Nho sinh uống rồi hỏi:

    – Chẳng hay các tiểu huynh đệ là công tử của vị vương tôn đại thần nào vậy?

    Sún Lé cười:

    – Bọn tiểu đệ họ Lưu, đều ở Trường-sa. Bọn tiểu đệ về đây chúc mừng sinh nhật một người. Thú thực trông thấy các vị đại ca, bọn đệ cảm tình lắm. Nhưng tiểu đệ không dám nói người mà bọn tiểu đệ chúc mừng sinh nhật.

    Bọn thị vệ nghe vậy, đoán bọn trẻ nầy là con cháu bậc vương tôn. Vì chúng biết Quang-Vũ sinh trưởng ở Trường-sa. Bề trên chúng họ Lưu thì đúng là quốc thích rồi.

    Sún Lé hỏi đội trưởng:

    – Chẳng hay quí tính các đại huynh đây là gì? Hiện thuộc cơ đội nào trong hoàng-cung?

    Đội trưởng thấy Sún Lé hỏi đúng khuôn phép, càng tin đây là đám vương-tôn thực. Y nói:

    – Tiểu huynh họ Mã tên Huy. Còn năm vị này thuộc đội Thị-vệ hầu cận thái-hậu.

    Sún Lé cười:

    – Thì ra đại huynh là ngoại thích đây. Chắc đại huynh con cháu của Mã thái-hậu hẳn. Còn bốn vị đại huynh đây chắc ở Trường-an mới về?

    Rồi hắn ta nói với chủ quán:

    – Tất cả tiền cơm, rượu của sáu vị, tính về ta.

    Mã Huy tuyệt không ngờ, đứa trẻ này lại hào hoa như vậy. Y nói mấy câu cám ơn, rồi giới thiệu:

    – Năm vị Thị-vệ này quả mới từ Trường-an về. Suốt mấy ngày qua các vị phải trông coi một tù nhân. Hôm nay mới được rảnh rỗi ra đây uống rượu.

    Sún Lé giật mình nghĩ:

    – Binh Thục bị Hán bắt rất nhiều. Đều giữ ở Đồng-quan. Vậy tù nhân mà năm thị vệ gác này là ai? Không lẽ là Hoàng sư tỷ?

    Nó lại gọi thực nhiều rượu, gọi cả năm Sún lại. Mỗi đứa thay nhau mời một tuần rượu. Bọn thị vệ uống đủ sáu tuần rượu, đã bắt đầu ngà ngà say.

    Một tên nói:

    – Mã đội trưởng! Thú thực từ ngày tôi ra đời đến giờ, chưa bao giờ thấy một người đẹp đến như người này. Hoàng-thượng lệnh chúng tôi giữ nàng, cấm không được hành hạ. Dường như ngài định tuyển nàng làm chánh cung nương nương thì phải. Chứ sao nàng là tù nhân, mà được cung phụng đủ thứ như vậy?

    Sún Lé giật mình, biết rằng tù nhân mà chúng giữ đúng là Hoàng Thiều Hoa rồi. Nó lờ đi làm như không biết, chỉ vào bức tranh Tây Thi treo trên tường hỏi:

    – Đại huynh! Người đàn bà đó có đẹp bằng Tây Thi không?

    Tên Thị-vệ cười:

    – Đẹp gấp vạn lần. Võ công nàng cao vô cùng. Chúng ta được lệnh phải xích nàng rất cẩn thận.

    Sún Lé lắc đầu:

    – Tôi không tin trên đời có người đẹp hơn bức tranh Tây Thi kia. Này đại huynh, người cho chúng tôi nhìn một cái, nếu quả thật như đại huynh nói đẹp hơn tranh Tây Thi tôi sẽ tặng đại huynh vật này.

    Nó thò tay vào bọc, móc ra một chuỗi ngọc trai đến mấy trăm hột. Nguyên chuỗi ngọc này nó lấy trong kho tàng tại thành Bạch-đế, nó cất giữ tới nay mới đưa ra.

    Tên thị vệ lắc đầu:

    – Chúng ta dù có đến một ngàn cái đầu cũng không dám cho các chú coi. Vì người này hiện giữ ở phủ Hoài-nam vương phía Đông thành.


    #2
      CDDLT 05.01.2005 19:32:09 (permalink)
      HỒI THỨ 30

      Thiên địa hữu chính khí.
      (Văn Thiên Tường)

      Nghĩa là:

      Trong trời đất, vốn sẵn có chính khí.



      Sún Lé làm mặt khẩn khoản:

      – Có khó gì, đại huynh bảo tôi là tiểu thái-giám. Được sai đến hầu hạ vương-phi, còn ai dám thắc mắc nữa?

      Đội trưởng Mã Huy cười:

      – Các chú còn nhỏ tuổi mà cũng thích nhìn giai nhân à? Chú nói đúng! Mã thái-hậu thường sai cung-nữ, thái-giám đưa thức ăn tới cho vương-phi. Nếu chú giả làm thái-giám thì được. Gần đây có tiệm bán quần áo thái giám. Để tôi mua cho chú một bộ mặc. Đố ai dám nghi ngờ nữa? Người đẹp bị giam ở phủ Hoài-nam vương. Mọi liên lạc với vương phủ, do thái-hậu quyết định: Nào là cử thị-vệ canh gác. Sai cung-nga, thái-giám hầu hạ. Cho đến cơm nước hàng ngày, cũng mang từ hoàng-cung sang. Nàng ta làm phản triều đình bị cầm tù. Khắp thành Lạc-dương ai cũng biết, đâu có gì bí mật mà sợ.

      Thấy chuỗi ngọc có uy lực biến Mã Huy từ tên thị-vệ mẫn cán, thành tên thị vệ dễ sai. Sún Lé được thể, móc trong túi ra bốn viên ngọc thạch màu xanh biếc. Nó trao tận tay cho bốn tên thị-vệ còn lại nói:

      – Đây là món quà nhỏ tặng các đại ca. Tôi nói thực cho các đại ca nghe cũng không sao. Chúng tôi là quốc thích, được tập ấm. Đại ca giúp chúng tôi coi mặt người đàn bà ít có trên đời này một lần cho thỏa chí, tôi rất đội ơn.

      Mã Huy nói:

      – Nếu vậy chỉ mình chú em coi thôi à?

      Sún Lé gật đầu:

      – Tụi kia nó chỉ thích ăn, nô đùa, một mình tôi tính phong lưu thích coi mà thôi.

      Nó quay lại nói với năm Sún:

      – Chúng mầy ở lại đây chờ tao. Tao đi một lát, sẽ về ngay.

      Nó móc túi quăng lại mấy thỏi vàng cho Sún Rỗ, dặn:

      – Cầm lấy mà trả tiền cơm, rượu. Nhớ tặng cho tửu bảo ít tiền nghe.

      Nó gọi tửu bảo lấy ngựa. Trước khi lên đường, nó nhét vào tay tửu bảo một nén bạc. Thời bấy giờ một nén bạc ăn 1800 đồng tiền. Lương tửu bảo mỗi tháng khoảng năm chục đồng là cao. Tửu bảo tự nhiên được một món phát tài lớn, cúi rạp người xuống tạ ơn nó. Mã Huy thấy Lục Sún còn nhỏ tuổi, trong người đầy vàng ngọc. Tin rằng chúng là công tử, vương tôn. Không nghi ngờ nữa.

      Sún Lé lên ngựa, theo bọn Mã Huy. Đến phía đông thành, chúng dẫn Sún Lé vào một dinh uy nghi, rộng lớn. Nhìn lên thấy chữ Hoài-nam vương phủ, nó nghĩ thầm: Hoài-nam vương tên Lưu Quang được đời tôn hiệu Thái-sơn thần kiếm. Hiện là Tướng quốc, coi hết quân đội trong tay. Trước đây ông đấu kiếm với sư tỷ Phật-Nguyệt bị thua. Trong trận đánh Trường-an, ta thấy ông một lần, tất ông cũng thấy ta. Nay gặp lại vị tất ông đã nhận ra, dù sao cũng cần tránh mặt ông, để khỏi lôi thôi. Với bản lĩnh của ông, dù trăn, dù rắn, dù Thần-ưng, cũng không địch lại.

      Đi qua ba lần cổng, mới vào hẳn trong dinh. Phủ Hoài-nam vương rộng lớn uy nghi, không kém gì hoàng-thành của vua. Mã Huy dẫn nó đến dãy nhà thứ chín, đi ra phía sau. Chỉ vào một căn nhà lớn, phía trước cái hồ nhỏ. Trong vườn trồng hoa, nói:

      – Người đẹp bị giữ trong đó. Lát nữa có người mang đồ ăn tới cho nàng. Ta bảo họ để chú mang vào. Chú tha hồ mà nhìn.

      Sún Lé ngạc nhiên:

      – Giai nhân là tù binh, sao không bị giam ở nhà ngục, mà giữ trong khu vực sang trọng thế này.

      Mã Huy cười:

      – Chú không biết đấy thôi. Người đẹp là Vương phi của Lĩnh-nam vương. Lĩnh-nam vương vốn bạn của hoàng-thượng. Không hiểu sao mới đây vương chống hoàng-thượng bị hoàng-thượng bắt giam. Vương-phi mang quân đánh Trường-an, cũng bị bắt. Hoàng thượng muốn giữ vương-phi, dường như để trao đổi với Thục hay Lĩnh Nam.

      Hai người ngồi nói chuyện đến trưa, có hai cung-nga, ba thái-giám đến. Chúng mang theo hai cái quả. Một cung nga nói:

      – Mã đội trưởng. Thái-hậu truyền đem cơm cho Lĩnh-nam vương-phi ăn.

      Mã Huy bảo:

      – Các ngươi cứ để đó. Sẽ có người mang vào cho vương phi.

      Bọn cung-nga, thái-giám để hai cái quả lại, rồi ra đi.

      Mã Huy bảo Sún Lé:

      – Phía trong còn hai lần cửa, đều có cung-nga ngồi chầu, để vương-phi sai bảo. Chú giả làm thái-giám, đưa cơm cho vương-phi. Chú đứng cạnh hầu vương-phi ăn cơm, tha hồ nhìn no mắt. Vương phi ăn xong, chú bưng bát dĩa ra.

      Sún Lé vâng dạ, bưng mâm cơm, rẽ mành mành bước vào, qua hai lần cửa đều có cung nga ngồi chầu chực. Vào đến cửa thứ ba, là một căn phòng lớn, trang trí hoa lệ. Nó liếc nhìn xem Thiều Hoa ở đâu, mà không thấy. Phía cuối phòng còn lần cửa nữa. Nó đoán:

      – Chắc Hoàng sư tỷ ở trong đó. Ta cứ đứng đây chờ. Lát sau sư-tỷ ra ăn cơm. Thình lình ta lên tiếng. Làm sư tỷ giật mình chơi.

      Một lát sau, có tiếng thở dài não ruột. Tiếng dép lẹp kẹp từ phòng trong ra. Hoàng Thiều Hoa mặc bộ quần áo lụa vàng rất đẹp, mặt nàng bơ phờ, tóc rối, tay chân bị khoá bằng xích sắt lớn, nàng ngơ ngẩn xuất thần, tưởng Sún Lé là tiểu thái giám. Nàng vẫy tay:

      – Ngươi mang cơm ra đi, ta không ăn đâu.

      Nói rồi nàng ngồi xuống bàn. Sún Lé đến phía sau nàng. Nó ghé miệng sát vào tai nói nhỏ bằng tiếng Việt:

      – Nếu sư tỷ không ăn thì em ăn một mình. Em đói lè lưỡi ra rồi đây.

      Thiều Hoa giật bắn mình quay lại, thấy Sún Lé nàng suýt kêu thành tiếng. Nàng vừa mừng vừa cảm động, ôm lấy đầu nó, không nói lên lời.

      Sún Lé nói:

      – Chúng em đến cứu sư tỷ. Sư tỷ thấy Lục Sún ghê chưa?

      Hoàng Thiều Hoa lắc đầu:

      – Khó lắm. Ở đây chúng canh phòng rất nghiêm ngặt, con chim bay ra cũng không lọt, làm sao thoát ra? Sư đệ làm cách nào lọt vào trong nầy?

      Sún Lé cười:

      – Lục Sún là con cháu Phù-đổng Thiên-vương. Làm gì mà chẳng thành công. Thôi chúng ta trốn đi ngay. Không bị lộ bây giờ.

      Nó móc trong bọc ra một cái búa bổ củi loại nhỏ, định chặt xích khóa chân tay cho Thiều Hoa:

      – Em chặt xích, rồi gọi Thần-ưng nó tới đánh thị-vệ. Sư tỷ với em nhân đó trốn ra ngoài.

      Thiều Hoa lắc đầu:

      – Không được đâu. Đây là dinh của Hoài-nam vương. Cao thủ đông như kiến cỏ, trong đó có cả Tương-dương cửu hùng, Ngũ-phương thần kiếm. Chỉ cần hô một tiếng, chúng kéo đến, em mất mạng, mà sư tỷ cũng không thoát được. Vô ích.

      Thiều Hoa hỏi tình hình bên ngoài. Sún Lé kể hết những gì đã xảy ra, nhất là những điều Sa Giang nói về mặt trận Kinh-châu. Thiều Hoa nghe mặt tươi hẳn lên. Nàng bảo Sún Lé:

      – Thế là Lĩnh Nam được phục hồi. Mọi việc coi như xong. Sư đệ, dù ta có chết cũng vui lòng. Bây giờ sư đệ hãy ra ngoài, tìm sư tỷ Phương Dung, bàn kế hoạch cứu ta thì hơn.

      Nghe đến tên Phương Dung, Sún Lé chột dạ, cúi mặt làm thinh.

      Hoàng Thiều Hoa thấy có gì khác lạ hỏi:

      – Sao? Em muốn chị trốn chạy ngay à?

      Nguyên Phương Dung cầm quyền quân sư, nàng luôn duy trì kỷ luật với bộn Lục Sún. Lục Sún là sáu đứa trẻ ở trên rừng, sống tự do đã quen. Muốn gì là làm. Phương Dung thường phải khắt khe với chúng. Mỗi khi nàng ra lệnh. Không cho chúng có ý kiến. Bắt thi hành đã. Sau khi thi hành xong mới được thắc mắc. Bây giờ Phương Dung an trí chúng ở núi Bắc-mang. Đang đêm chúng trốn đi thế này, chắc chắn nàng sẽ hỏi tội, trách phạt chúng. Thế mà Thiều Hoa bảo chúng trở về bàn với Phương Dung! Thấy Sún Lé ấp úng không trả lời, Thiều Hoa hỏi qua tin tức Trần Tự Sơn, Đào Kỳ. Sún Lé lắc đầu nói:

      – Em không rõ. Tất cả mọi người mới tới Lạc-dương, đi thám thính ngay. Không biết từ hồi ấy đến giờ, Trần đại ca, Đào đại ca đã làm gì ở đâu? Họ đã tìm được thuốc giải Huyền-âm độc chưởng chưa? Họ đi tìm Hàn Tú Anh để bảo vệ, thì không thấy. Còn đạo Kinh-châu không tìm, lại gặp. Họ lo tìm cách lấy thuốc giải cứu sư bá Tiên-yên, thì Bồ-tát Tăng Giả Nan Đà đã truyền Thiền Công, để sư bá tự giải độc.

      Hoàng Thiều Hoa hỏi:

      – Sư tỷ Trưng Nhị triệu tập anh hùng đại hội ở hồ Động-đình vào ngày 15 tháng 3, đại cáo việc phục hồi Lĩnh Nam. Vậy chỉ các anh hùng tòng chinh hay tất cả anh hùng trong nước tham dự?

      Sún Lé đáp:

      – Triệu tập hết. Mục đích đại hội là: Đọc di chiếu của vua An-Dương, đại-cáo phục quốc. Ban hành chính sách đại cương của Lĩnh Nam. Cử Trần đại ca làm hoàng-đế. Như vậy chị là hoàng-hậu Lĩnh Nam. Không biết bọn em sẽ làm gì? Tiểu vương Tây-vu chăng?

      Hoàng Thiều Hoa xoa đầu nó:

      – Chị biết Trần đại-ca không làm hoàng-đế Lĩnh Nam đâu. Chiếu chỉ của vua An-Dương nói rõ: Con cháu Phương-chính hầu suất lĩnh anh hùng, con dân Lĩnh Nam phục quốc. Khi nước phục hồi rồi, lập tức đại hội, cử người tuấn kiệt lên làm hoàng-đế. Tuyệt đối Trần đại-ca không được làm vua.

      Sún Lé gật đầu tỏ ý thông hiểu:

      – Sau đó Trần đại-ca với sư tỷ làm gì?

      Thiều Hoa lơ đễnh nhìn vần trời xuân, ánh nắng ban mai ấm áp, nói:

      – Ngao du thắng cảnh. Còn các em định làm gì?

      Sún Lé lắc đầu:

      – Từ bé, sư tỷ Hồ Đề dạy chúng em phục quốc. Lúc nào cũng nghĩ đến đánh đuổi giặc Hán. Bây giờ chả biết làm gì? Chắc bọn em trở về Tây-vu nuôi thú vật. Ở đó vui lắm.

      Thiều Hoa tát yêu nó:

      – Lĩnh Nam phục hồi. Chưa chắc Quang-Vũ để cho chúng ta yên. Chị nghĩ hoàng-đế Lĩnh Nam sẽ phong cho các em làm đại tướng quân, trấn thủ vùng Trường-sa, Nam-hải, phòng quân Hán.

      Sún Lé đã lớn. Từ hôm gặp Hoàng Thiều Hoa chúng được nàng dạy đọc sách. Chúng đọc đủ thứ binh thư của Thục, của Hán về luyện quân, xung phong, hãm trận. Tư tưởng của chúng đã trưởng thành. Chúng nhận chân được lời nói của Thiều Hoa. Sún Lé nói:

      – Trước kia, sư tỷ Trưng Nhị chuyên đem việc cử bọn em làm đại-tướng ra dọa, chúng em sợ mất vía. Bây giờ ngược lại, chúng em nghĩ những vị như Khất đại-phu, Nguyễn Trát, Nguyễn Tam Trinh mai đây sẽ già. Bọn con nít Trần Quốc, Sa Giang, Lục Sún lớn lên, phải đảm nhiệm việc quốc gia đại sự. À, em nói cho sư tỷ nghe: Chúng em đánh cuộc với Sa Giang. Cô ấy thua, tình nguyện về Lĩnh Nam với bọn em. Dường như giữa thằng Sún Rỗ với Sa Giang có tình ý với nhau. Chúng em biết, mà không dám trêu thằng Rỗ.

      Thiều Hoa biết Lục Sún đã lớn, bắt đầu biết yêu. Nàng mỉm cười:

      – Sa Giang nhu mì, lãng mạn. Sún Rỗ hào sảng cương quyết. Hai đứa mà thành vợ chồng thì tuyệt.

      Thình lình có tiếng hô uy nghiêm:

      – Thánh thiên tử giá lâm.

      Sún Lé hoảng kinh, nó mở túi đeo lưng, lấy một con trăn dài vung lên. Con trăn quấn vào cây xà nhà. Nó giật mạnh một cái. Người vọt lên cao. Nó nằm ép vào cây xà nhà ẩn thân.

      Quang Vũ đẩy cửa bước vào cùng với Hoài-nam vương Lưu Quang, Đặng Vũ, Mã Vũ. Lưu Quang hô:

      – Xin Lĩnh-nam vương phi tiếp thánh giá.

      Hoàng Thiều Hoa vẫn ngồi im bên mâm cơm, lơ đãng nhìn Quang-Vũ. Nàng cất tiếng nói:

      – Lưu Tú, người bắt được ra thì đem giết quách đi cho rồi. Ngươi giữ ta ở đây làm gì? Trước kia đại ca Tự Sơn với ngươi kết nghĩa huynh đệ. Nay ân đoạn, nghĩa tuyệt, không còn gì nữa.

      Quang-Vũ cười:

      – Vương phi nên biết rằng ngươi là nữ tướng làm phản. Ta bắt được, đương nhiên giết chết. Ta thấy nàng có sắc đẹp nghiêng nước ta vì thương hoa, tiếc ngọc, không nỡ giết. Ta giữ ngươi ở đây, chu cấp đủ tiện nghi. Ngươi ở tù mà sướng hơn hồi làm Lĩnh-nam vương phi.

      Hoàng Thiều-Hoa không ngờ Quang-Vũ nói câu đó. Nàng đưa mắt nhìn, thấy ánh mắt Quang-Vũ tiết ra tia lửa dục thèm thuồng, như muốn ăn tươi nuốt sống nàng. Quang-Vũ vẫy tay một cái. Lưu Quang và các tướng ra ngoài. Trong phòng chỉ còn Đặng Vũ với Quang-Vũ.

      Đặng Vũ nói:

      – Vương-phi có biết tại sao hoàng-thượng không giết vương-phi, ngược lại đối xử tử tế như thế này không?

      Hoàng Thiều Hoa lắc đầu:

      – Ta không biết. Bản tính y xưa nay lật lường, không tử tế với bất cứ ai. Ngay mẹ đẻ, y còn không nhận. Nay y đối xử tử tế với ta, chẳng qua y mưu đồ việc gì có lợi cho y mà thôi. Nhược bằng y thực tâm tử tế với ta, đã không khoá tay ta như thế này.

      Quang-Vũ đưa mắt nhìn Đặng Vũ:

      – Ngươi mở khóa cho Vương-phi.

      Đặng Vũ tâu:

      – Không nên, người này võ công rất cao. Mở xiềng ra, thần e y thị phạm giá rất khó đối phó.

      Quang-Vũ vẫn ra hiệu cho Đặng Vũ mở xiềng. Đặng Vũ cầm chìa khóa mở khóa chân, khóa tay cho Thiều Hoa, rồi đứng sang bên cạnh.

      Quang-Vũ cầm bình trà nóng, rót ra hai cái chung nói:

      – Trẫm mời vương-phi uống trà.

      Thiều Hoa cầm chung trà đưa lên miệng uống, nói:

      – Cám ơn ngươi.

      Quang-Vũ thở dài:

      – Nàng có biết trong người trẫm, có giòng máu hùng tài của đức Cao Tổ lại có giòng máu phong nhã của tiên-đế cùng thái-hậu không?

      Thiều Hoa gật đầu:

      – Dĩ nhiên ta biết chứ. Ta biết người, hơn người biết ta nữa. Phụ thân người tuy là Trường-sa vương, vẫn còn biết làm thơ, trốn ra ngoài thành hòa mình với kỹ nữ. Ông đã chiếm được lòng Hàn Tú Anh. Ta hỏi ngươi Hàn thái-hậu hiện tình ra sao?

      Quang-Vũ hỏi:

      – Nàng hỏi làm gì? Hàn thái-hậu có liên hệ gì tới người?

      Mắt phượng sắc như dao cau, Thiều Hoa liếc nhìn Quang-Vũ:

      – Thiên kinh, địa nghĩa. Cái đạo trị dân khắp thiên hạ, lấy chữ hiếu làm đầu. Có hiếu, mới có trung. Có trung anh hùng thiên hạ mới đem tính mạng ra giúp ngươi. Ngươi có mẹ, mẹ con xa nhau từ nhỏ. Hàn thái-hậu hy sinh cho ngươi biết bao nhiêu mà kể. Không có bà sai chồng ta đi cứu ngươi. Liệu hôm nay ngươi có còn sống được hay không? Giờ đây, bà bị không biết bao nhiêu cao thủ của Mã thái-hậu theo tìm giết. Ngươi thản nhiên ngồi hưởng lạc.

      Quang-Vũ cười lớn:

      – Ta là con đẻ, Tự Sơn là con nuôi. Ta bận quốc sự. Để Tự Sơn bảo vệ cho bà là đủ. Hôm ở điện Vị-ương, Tự Sơn nói với ta, y dẫn Khất đại-phu, Đô Dương, Đào Kỳ bảo vệ bà. Chỉ vẫn một Đào Kỳ, bất cứ cao thủ nào cũng không phạm đến bà được. Nàng đừng lo.

      Thiều-Hoa biết Quang-Vũ là đứa bất hiếu. Có nói nhiều cũng vô ích. Hỏi:

      – Ngươi cướp Tường Quy của Trương Minh Đức, rồi giết y. Ngươi tưởng ta cũng như Chu Tường Qui chăng?

      Quang-Vũ gật đầu:

      – Đúng đó. Hôm đối trận với nàng ở Trường-an. Ta thấy dung nhan nàng, hồn phách ta như biến mất. Ta ra lệnh cho Tương-dương cửu hùng bắt sống nàng. Hai người trong bọn họ bị mất mạng, ta suýt chết. Ta nghĩ, giá ta đổi cả giang sơn này để được nàng, ta cũng không tiếc. Vì vậy, ta vào đây bầy tỏ chân tình. Ta sẽ phong người làm chánh cung nương nương, cùng ta trọn hưởng vinh hoa phú quí.

      Thiều Hoa cười nhạt:

      – Ngươi là giống cầm thú! Vô liêm sỉ! Ngươi cướp vợ của tên Thị-vệ nhỏ bé Trương Minh Đức. Nhẫn tâm giết y để bịt miệng. Bây giờ ngươi lại muốn cưỡng ép ta. Ngươi biết ta là gái có chồng. Chồng ta là nghĩa đệ của ngươi. Ngươi thật như loài cầm thú. Ta nói cho ngươi biết, dù chết ta cũng thủ tiết với Tự Sơn đại ca. Ngươi đừng nhiều lời vô ích.

      Nghĩ đến công lao của chồng, vào sinh ra tử. Một tay gầy dựng nghiệp cho Quang-Vũ, bị y trở mặt. Nàng phóng một chưởng vào người Quang-Vũ. Nàng biết bên ngoài có nhiều nhiều cao thủ. Nếu phóng một chiêu không giết được y thì hỏng bét. Vì vậy nàng xuất chiêu Loa thành nguyệt ảnh của sư phụ dậy. Kình lực mạnh không thể tưởng tượng được. Đặng Vũ đứng cạnh, y hoảng kinh vung chưởng đỡ. Binh một tiếng, người y bật tung trở lại phía sau. Đụng vào tường đánh ầm một cái.

      Đúng ra với bản lĩnh học của Đào Thế Kiệt nàng không phải là đối thủ của Đặng Vũ. Bản lĩnh của Vũ ngang với Chu Bá, Đức Hiệp, kém Trần Tự Sơn, Đô Dương một bậc. Nhưng từ sau đại hội Hồ Tây. Nàng được Đào Kỳ dạy thêm. Hiện bản lĩnh nàng cao hơn Trần Tự Sơn nhiều. Trong đám nữ lưu Lĩnh Nam, nàng chỉ thua Nam-hải, Tiên-yên nữ hiệp mà thôi. Công lực nàng cao hơn Võ Phương Anh, Trưng Trắc, Trưng Nhị. Hơn nữa võ công Cửu-chân, khắc chế võ công Trung-nguyên, nên Vũ mới bị lạc bại.

      Nàng phóng chiêu thứ nhì vào người Quang-Vũ. Chưởng phong ào ào. Quang-Vũ kinh hãi là lên:

      – Mệnh ta hết rồi!

      Vừa lúc đó, một cái bóng xẹt cửa bước vào, vung chưởng đỡ đòn cho y. Người đó là Mã Vũ. Binh một tiếng vang dội, Thiều Hoa bật lùi đến hai bước.

      Còn Mã Vũ đứng nguyên. Thiều Hoa đã lấy lại được bình tĩnh. Nàng nghĩ:

      – Ta thà đấu chưởng với bọn chúng mà chết. Còn hơn để cho Quang-Vũ phạm đến ta.

      Nàng hít hơi, phóng một chưởng nữa. Chưởng phong ào ào tuôn ra. Đó là lớp thứ nhất của chiêu Hải triều lãng đãng. Mã Vũ tiến lên, đánh vào giữa chưởng của nàng. Binh một tiếng, cả hai lùi lại.

      Quang Vũ, Đặng Vũ cùng kêu lên một tiếng kinh ngạc:

      – Ủa!

      Vì bản lĩnh Mã Vũ ngang với Phùng Dị, Sầm Bành, mà cũng không thắng được Thiều Hoa. Chính Thiều Hoa cũng ngạc nhiên không ít.

      Chiêu này, do Thục An-Dương Vương chế ra, trước khi tự tử. Ngài nghĩ đến năm biến cố trong đời mình: Thửơ thiếu niên được bầu làm chúa vùng Tây-vu. Cử binh Tây-vu đánh vua Hùng. Suất lĩnh anh hùng đánh tan năm chục vạn quân Tần, giết Đồ Thư. Chế nỏ thần, đánh Triệu Đà. Cuối cùng vì nhẹ dạ, vì không biết dậy con, để mất nước. Trước cái thất bại, khí uất bốc lên, không chỗ phát tiết, mới chế ra năm lớp của chiêu Hải triều lãng đãng.

      Hoàn cảnh Thiều Hoa cũng gần như ngài: Suốt đời cũng chống chủ trương thần phục nhà Hán, lập đại công, xin Quang-Vũ phục hồi Lĩnh Nam. Quang-Vũ đã không cho thì chớ, còn bắt giam chồng. Nàng cầm quân đánh y, bị bắt cầm tù. Y còn dám vào tù buông lơi chọc ghẹo. Vì vậy lớp thứ nhất phát ra mạnh không thể tưởng tượng được.

      Mã Vũ chưa kịp phản ứng, Thiều Hoa phát lớp thứ nhì. Mã Vũ tiến lên vận đủ mười thành công lực đỡ. Binh một tiếng nữa, đồ đạc trong phòng bay ngổn ngang. Mã Vũ lui lại một bước. Đặng Vũ, Quang-Vũ bật lui khỏi phòng. Thiều Hoa phát lớp thứ ba. Chưởng chưa ra, mà gió lộng ào ào. Mã Vũ kinh hoàng, lui lại, vừa lúc đó Hoài-nam vương bước vào cùng vận súc đỡ với Mã Vũ. Binh, Thiều Hoa cảm thấy như trời long đất lở. Nàng lui lại ba bước. Còn Hoài-nam vương. Mã Vũ rung động toàn người.

      Thiều Hoa định phóng lớp thứ tư. Thì có tiếng hô:

      – Khoan! Xin Vương-phi bớt giận.

      Năm người cùng xuất hiện. Họ là Ngũ-phương thần kiếm.

      Hoàng Thiều Hoa thấy Ngũ-phương thần kiếm, nói mát:

      – Trước đây Ngũ kiếm bị nạn. Đào tiểu sư đệ của tôi cứu Ngũ kiếm. Ngũ kiếm nói rằng: Sau nầy Đào gia muốn gì Ngũ kiếm nguyện tuân theo. Thế mà trong trận đánh Trường-an. Ngũ kiếm trợ giúp Quang-Vũ bắt tôi. Hôm nay giữa lúc Quang-Vũ định xâm phạm tiết hạnh tôi. Mã Vũ, Lưu Quang hai người đánh một. Ngũ kiếm còn trợ giúp chúng, thế thì cái hiệp, cái nghĩa để đâu?

      Hoàng Kiếm chắp tay thi lễ với mọi người, đáp:

      – Vương phi bớt giận. Chúng tôi cần tới đây, nêu cao cái nghĩa trong thiên hạ. Chúng tôi là năm anh em ở Quan-trung, dấy nghĩa phù Cảnh-Thủy hoàng-đế, diệt Vương Mãng. Đó là việc nghĩa. Triều đình cử chúng tôi sang Lĩnh Nam xét việc Vương-gia, xem có đúng Vương-gia phản triều Hán không? Chúng tôi thấy rằng không. Triều Hán muốn chúng tôi làm khó dễ Vương-gia. Ngược lại chúng tôi giúp Vương-gia, giúp dân Việt phục hồi đất nước. Đó là hiệp. Chúng tôi cùng Tiên-yên nữ hiệp về Trường-an xét tội quần thần nhà Hán. Giữa lúc Thục đánh Hán. Trong con mắt chúng tôi, Thục là giặc. Chúng tôi đánh Thục.

      Bạch Kiếm tiếp:

      – Chúng tôi đến dinh Hoài-nam vương, cứu vương-phi. Gặp giữa lúc vương-phi đấu cùng Hoài-nam vương, Mã Vũ, chúng tôi phải can. Vương-phi nhớ dùm: Không phải người Hán nào cũng là Tô Định, là Mã thái-hậu. Chúng tôi giúp dân Việt. Tại đây có hai người cảm tình với Lĩnh Nam là Bô-lỗ đại tướng quân Mã Vũ và Hoài-nam vương. Vì vậy thấy vương-phi xuất chiêu đấu với họ. Tôi sợ hai bên tổn nguyên khí, hại đến tình Hán-Việt. Mới lên tiếng cản vương-phi.

      Thiều Hoa lui lại, chắp tay xá:

      – Tôi nói quá lời. Mong Ngũ kiếm rộng dung.

      Hoàng Kiếm nói với Quang-Vũ:

      – Lĩnh-nam vương với bệ hạ có kết tình huynh đệ. Tình ấy đã tuyệt ở điện Vị-ương. Đó là chuyện cũ. Còn một tình nữa không tuyệt được: Đó là tình con một mẹ. Bệ hạ là con Hàn thái-hậu. Lĩnh-nam vương là con nuôi. Hai vị là anh em. Có đúng vậy không?

      Quang-Vũ gật đầu:

      – Đúng thế!

      Hoàng Kiếm cười nhạt:

      – Đạo Quân, Thần, Phụ, Tử của đức Khổng Tử là giềng mối cho nhà Đại-hán. Lĩnh-nam vương-phi là em dâu của bệ hạ. Sao bệ hạ lại vào đây trêu ghẹo người? Vua không giữ đạo, mong gì có bề tôi trung lương?

      Mặt Quang-Vũ tái nhợt nhạt. Y nhìn Mã Vũ, Đặng Vũ, Hoài-nam vương, thấy nét mặt của họ hiện ra vẻ đồng ý với lời kết tội của Hoàng Kiếm. Y là người xảo quyệt, quyết đoán mau lẹ. Y nói:

      – Trẫm biết lỗi. Cổ nhân nói: Hữu quá tắc cải. Nghĩa là gặp việc sai thì sửa đổi.

      Quang-Vũ liếc mắt nhìn Thiều Hoa, rồi cùng bọn Hoài-nam vương ra ngoài. Ngũ-phương thần kiếm nói với Thiều Hoa:

      – Thưa vương-phi, tôi sẽ tìm đủ cách, bắt triều Hán thả Vương phi ra. Nếu họ không tha. Tôi sẽ cứu vương-phi.

      Ngũ kiếm chắp tay xá Thiều Hoa, ra ngoài.

      Họ ra khỏi một lát thì Mã Huy bước vào hỏi Thiều Hoa:

      – Tâu vương-phi, viên thái-giám nhỏ vào hầu vương-phi đâu rồi.

      Hoàng Thiều Hoa đáp:

      – Y đã đi ra cùng với Quang-Vũ rồi.

      Mã Huy kinh hoảng vội chạy ra ngoài.

      Sún Lé từ trên cao nhảy xuống. Nó cươi khì khì:

      – Súyt nữa sư tỷ giết được Quang-Vũ.

      Nó lấy cơm cho Thiều Hoa ăn. Thiều Hoa vừa dụng võ, có hơi đói, nàng ăn rất ngon lành. Ăn xong nàng giục Sún Lé:

      – Em ra ngoài bàn kế cùng sư tỷ Phương Dung cứu chị mau.

      Sún Lé lắc đầu:

      – Nếu em là sư tỷ, em sẽ giả vờ ưng Quang-Vũ, rồi lợi dụng lúc gần y với thái-hậu, vung chưởng giết chết cả hai, có phải được việc không? Vậy thế nào Quang-Vũ cũng đến nữa, sư tỷ giả bộ ưng đi nghe.

      Vừa lúc đó có tiếng hô lớn:

      – Thái-hậu giá lâm.

      Sún Lé chui tuốt vào gầm giường. Ngoài cửa một mệnh phụ và mấy thị-vệ bước vào, đội trưởng thị-vệ Mã Huy quì xuống khấu đầu:

      – Tiểu nhân Mã Huy xin tiếp thánh giá thái-hậu.

      Người mệnh phụ, tức Mã thái-hậu vẫy tay:

      – Ngươi ra ngoài canh gác. Nếu không có lệnh của ta, tuyệt đối, không cho bất cứ ai vào.

      Mã Huy ra ngoài, trong lòng hồi hộp. Y sợ lỡ Mã thái-hậu khám phá ra Sún Lé e cái đầu y không còn.

      Mã thái-hậu cùng với hai người con gái, một thị-vệ già vào phòng.

      Hoàng Thiều Hoa ngồi trên giường, lơ đãng nhìn đi chỗ khác.

      Gã Thị-vệ già nói lớn:

      – Thái-hậu giá lâm. Xin Lĩnh-nam vương-phi tiếp giá.

      Hoàng Thiều Hoa nhìn ra, thấy một thiếu phụ tuổi năm mươi, dáng người đậm đà, phục sức sang trọng. Nàng thản nhiên:

      – Phải chăng bà là Mã thái-hậu.

      Mã thái-hậu gật đầu:

      – Còn ngươi có phải Lĩnh-nam vương phi, tên Hoàng Thiều Hoa chăng?

      Thiều Hoa gật đầu:

      – Bà đoán chỉ đúng một nửa. Tôi đúng tên Hoàng Thiều Hoa, nhưng không còn là Lĩnh-nam vương-phi nữa.

      Mã thái-hậu ngắm nhìn nàng từ chân tới đầu, rồi gật gù:

      – Đẹp thực! Trên đời này ta chưa từng thấy ai đẹp hơn. Thảo nào công-chúa Vĩnh Hòa đẹp như vậy. Ta định gả cho Nghiêm Sơn, y nhất định từ chối để cưới cô. Cô quả là người có phúc.

      Hoàng Thiều Hoa thản nhiên không nói gì, mặc mụ tán tụng. Tên thị-vệ già thấy chân tay Thiều Hoa không mang xiềng xích, y e ngại nhắc chừng Mã thái-hậu:

      – Tâu thái-hậu, Lĩnh-nam vương phi đẹp sắc nước hương trời. Trông bề ngoài thì ôn nhu văn nha như thế này, nhưng võ công không phải tầm thường. Rất ít người địch lại vương-phi. Trước kia, hồi còn là khuê các tiểu thư, võ công của vương-phi không bằng vương-gia. Nhưng sau nhờ sư đệ Đào Kỳ chỉ dẫn thêm. Hiện nay võ công vương-phi cao hơn vương-gia một bậc.

      Mã thái-hậu gật đầu:

      – Ta nghe Hoài-nam vương nói, trong trận đánh Thục. vương-phi đấu chưởng với Vương Phúc ngang tay. Thế thì ta e rằng võ công vương-phi còn cao hơn Phục-ba tướng quân Mã Viện. Trong trận đánh Trường-an, Tương-dương cửu hùng võ công dường ấy, tả xung hữu đột, thiệt mạng mất hai người mới bắt được nàng. Hoàng thượng cũng suýt mất mạng.

      Mã thái-hậu ngừng lại nhìn Thiều Hoa:

      – Ta đến đây muốn thương lượng với vương-phi một chuyện.

      Hoàng Thiều Hoa cười nhạt:

      – Còn thương lượng gì nữa? Ta là tướng ra trận, bị ngươi bắt được, chỉ có chết mà thôi. Ngươi mau đem ta chém quách cho rồi.

      Tên thị-vệ già vung tay phóng một chưởng êm nhẹ vào cái ghế bằng gỗ lim cứng như đá. Cái ghế vỡ tan ra từng mảnh, mà không bật thành tiếng kêu. Y nói:

      – Giết ngươi thì dễ quá rồi. Ta nói cho ngươi hay. Nếu ngươi biết điều nghe lời thái-hậu, ta để ngươi yên. Bằng không ta giết chết ngươi, rồi lột quần áo, mang đi phơi ở khắp các chợ cho thiên hạ xem.

      Hoàng Thiều Hoa tánh tình nhu nhã. Nhưng nàng là đệ tử yêu của Đào Thế Kiệt, nổi tiếng Cửu-chân song-kiệt, được giáo huấn võ đạo rất chu đáo, coi việc phục quốc đại sự làm lẽ chính. Còn mọi sự bỏ ra ngoài.

      Nàng cười lớn:

      – Cứ coi thân thủ của ngươi, thì võ công không đứng hạng nhất, cũng đứng hạng nhì đất Trung-nguyên. Ta thấy cái gì là Thái-sơn thần kiếm, Tương-dương cửu hùng, Ngũ-phương thần kiếm… e rằng không phải đối thú của ngươi. Vừa rồi ngươi phát ra một chưởng, kình lực âm nhu tỏ ra đường đường chính chính. Mà tại so trong cái chính đó lại có cái tà? Vì ta thấy cái mùi tanh bốc ra nồng nặc. Chưởng của ngươi dường như Huyền-âm độc chưởng phải không? Ngươi là người thế nào đối với Xích Mi, Trần Lữ, Tạ Thanh Minh? Còn ngươi đe giết ta, lột quần áo đem phơi ở chợ ư? Hừ, cái lối hành sự hèn mạt như vậy của triều Hán đã có từ lâu rồi. Lã thái-hâïu chả từng tàn ác với Thích Cơ gấp mấy lần đó sao? Ta không sợ đâu.

      Tên thị-vệ già nhìn Mã thái-hậu, nhìn hai thiếu nữ đi theo, trong con mắt lộ vẻ khâm phục. Y cười nhạt:

      – Lĩnh-nam vương phi quả không hổ là gái Việt, kiến thức quảng bác. Vương-phi đã động thủ với Trần Lữ và Tạ Thành Minh rồi phải không? Vương-phi thấy võ công của họ thế nào?

      Hoàng Thiều Hoa vẫn nói giọng ôn nhu:

      – Võ công bọn chúng thua ngươi rất xa. Dường như chúng ở dưới ngươi một vai. Vậy ngươi là sư bá, sư thúc của chúng phải không? Cả hai tên đều đã giao đấu với tiểu sư đệ ta. Chúng chỉ chịu được một chưởng. Độc chất bị tiểu sư đệ ta đẩy ngược trở về. Chúng suýt mất mạng. Ta nghe nói, phái Trường-bạch nhà ngươi còn một tôn sư võ học, họ Mao tên Đông Các, sư phụ của Phan Sùng. Không lẽ là ngươi?

      Tên Thị-vệ già gật đầu:

      – Đa tại Lĩnh-nam vương phi quá khen. Theo vương-phi thì võ công Đào Kỳ với ta, ai cao ai thấp.

      Hoàng Thiều Hoa lắc đầu:

      – Ta không biết. Vì nội công ngươi với sư đệ ta cùng một nguồn gốc. Cả hai luyện tới chỗ tối cao. Giữa cái tối cao, làm sao mà phân biệt được? Có điều ngươi thua xa mấy nhân vật khác.

      Mao Đông Các lắc đầu:

      – Không lẽ trên đời nầy còn có người võ công cao hơn ta với Đào Kỳ?

      Hoàng Thiều Hoa mỉm cười:

      – Tại sao lại không? Ngươi quên mất câu Cao nhân tắc hữu cao nhân trị hay sao? Nếu ngươi gặp kiếm pháp của Phật Nguyệt, Phương Dung hay Nguyễn Phan tiên sinh liệu ngươi có dám cho rằng mình vô địch nữa không? Còn một vị người Tây-trúc nữa tên Tăng Giả Nan Đà, chắc ngươi nghe Phan Anh kể rồi chứ? Liệu nội công ngươi có bằng ngài hay không?

      Hoàng Thiều Hoa nhìn hai thiếu nữ đứng cạnh Mao Đông Các.

      – Hai vị cô nương đây phải chăng là Hồng Hoa, Thanh Hoa. Hai cô rất thâm tình với ngươi và thái-hậu?

      Câu hỏi nầy làm Mao Đông Các và Mã thái-hậu giật mình nhìn nhau. Cả hai cùng như muốn nói với nhau:

      – Điều bí mật này loan truyền mau lẹ thực. Trần Thiếu Lan tức Á Nương mới tiết lộ gần đây, nghĩa là cùng thời gian Hoàng Thiều Hoa bị bắt. Tại sao nàng cũng biết? Như vậy không phải chỉ mình Thiếu Lan biết chuyện này mà còn nhiều người biết.

      Mối ẩn tình giữa Mã thái-hậu với Mao Đông Các chỉ có một mình Trần Thiếu Lan biết. Trần Thiếu Lan tiết lộ cho vợ chồng Phan Anh cùng anh hùng Lĩnh Nam theo đạo quân Kinh-châu biết mà thôi. Ngờ đâu Sa Giang, Trần Năng đến Trường-an thuật chuyện cho nhóm anh hùng Lĩnh Nam đạo Trường-an nghe. Bọn Lục Sún cũng biết rõ. Vừa rồi trong lúc gặp Hoàng Thiều Hoa, Sún Lé kể sơ lược cho nàng nghe. Vì vậy nàng thuận miệng nói ra, khiến Mã thái-hậu với Mao Đông Các cùng rùng mình kinh hãi.

      Nguyên sau khi rời khỏi Trường-sa, Mao Đông Các cùng hai con gái Hồng Hoa, Thanh Hoa khẩn cấp về Trường-an gặp Mã thái-hậu. Họ báo cho bà biết, mọi chuyện đa bại lộ. Ngày một ngày hai Hàn Tú Anh cũng được đưa về Lạc-dương gặp Quang-Vũ. Mã thái-hậu không tin lời Mao Đông Các. Bà muốn biết chắc mọi sự, mới hỏi phe đảng của bà đi theo Quang-Vũ. Ngờ đâu chúng lại biết rất ít. Bà nghe nói, Quang-Vũ bắt được vợ của Nghiêm Sơn là Hoàng Thiều Hoa, giao cho Hoài-nam vương giam giữ. Bà đích thân thẩm vấn nàng cho rõ đầu đuôi, hầu ứng phó kịp thời. Bây giờ, Thiều Hoa vô tình nói một câu, làm cả bà và Mao Đông Các đồng kinh hoàng. Mao Đông Các hỏi:

      – Tại sao ngươi biết võ công của ta xuất thân chính phái?

      Hoàng Thiều Hoa là đệ tử phái Cửu-chân, sư phụ nàng đã dạy, kẻ thù có hay thì cũng phải công nhận hay. Bạn hữu có dở, cũng phải nhận dở. Chứ đừng lấy cái dở của mình mà bảo của quân thù, đừng lấy cái hay của quân thù mà bảo của mình. Nàng nói:

      – Tại sao ngươi biết võ công của ta xuất thân chính phái?

      Hoàng Thiều Hoa là đệ tử phái Cửu-chân, sư phụ nàng đã dạy, kẻ thù có hay thì cũng phải công nhận hay. Bạn hữu có dở, cũng phải nhận dở. Chứ đừng lấy cái dở của mình mà bảo của quân thù, đừng lấy cái hay của quân thù mà bảo của mình. Nàng nói:

      – Trước kia Vạn-tín hầu Lý Thân để lại một đệ tử tên Trần Mạnh Chi làm vũ-vệ hiệu-uý cho Tần Thủy Hoàng. Trần tiên sinh lấy vợ Trung-nguyên lập ra phái Trường-bạch. Các ngươi là hậu duệ cúa Vạn-tín hầu, không lấy võ đạo làm việc giúp đời, lại đi luyện độc chưởng hại người. Ngươi uổng là đệ nhất cao nhân đương thời, mà lại đi làm chức thị vệ nhỏ bé cho thái-hậu. Tiếc ơi là tiếc.

      Mao Đông Các cười nhạt:

      – Cứ như vương-phi, ta phải làm chức gì mới xứng đáng?

      Hoàng Thiều Hoa nhìn y một lát rồi nói:

      – Bằng vào võ công, ngươi phải là một đại tướng quân, trấn thủ biên cương. Nếu ngươi có kiến thức, biết điều khiển ba quân, phải ở vào địa vị như trượng phu ta.

      Mao Đông Các nhìn Mã thái-hậu:

      – Thái-hậu có nghe vương-phi nói không? Lĩnh-nam vương phi quả có con mắt tinh đời. Vương-phi xứng đáng tri kỷ của ta.

      Ngừng một chút lão lại nói với thái-hậu:

      – Lão phu xin để thái-hậu nói chuyện với vương-phi.

      Thiều Hoa thấy Mao Đông Các xưng Lão phu với Mã thái-hậu, nàng không ngạc nhiên, bởi họ là già nhân ngãi, non vợ chồng.

      Mã thái-hậu phất tay một cái, Mao Đông Các, Hồng Hoa, Thanh Hoa lui ra ngoài. Trong phòng chỉ còn lại bà với Thiều Hoa.

      Hoàng Thiều Hoa nhìn Mã thái-hậu, hỏi:

      – Bà cho vệ sĩ ra ngoài, không sợ tôi dùng võ với bà ư?

      Mã thái-hậu lắc đầu:

      – Ta nghe nói Lĩnh-nam vương-phi là người biết xử sự. Giữa ta với ngươi không thù, không oán. Tại sao ngươi lại dùng võ công với ta?

      Hoàng Thiều Hoa cười:

      – Bà lầm rồi! Mã Thúy Hoa với Hoàng Thiều Hoa thì không thù không oán. Còn giữa Mã thái-hậu với cô gái Việt Hoàng Thiều Hoa thù oán chồng chất cao như núi Thái-sơn, rộng như biển Đông.

      Mã thái-hậu ngạc nhiên:

      – Ta muốn nghe vương-phi nói.

      Hoàng Thiều Hoa ngồi nghiêm chỉnh nói:

      – Trước khi vào truyện, xin bà đừng gọi tôi là Lĩnh-nam vương-phi nữa. Bởi phu quân của tôi đã bẻ kiếm, đoạn tuyệt ân nghĩa với Lưu Tú. Người không còn là Lĩnh-nam vương, tôi cũng không còn là Lĩnh-nam vương phi. Tôi nói chuyện với bà là một thiếu phụ Lĩnh Nam đối thoại với một thiếu phụ Hán. Tôi không còn gọi bà là thái-hậu, không còn gọi Quang-Vũ là hoàng-thượng, vì chúng tôi không phải là thần tử nhà Hán. Tôi, Hoàng Thiều Hoa, đệ tử Đào-hầu đất Cửu-chân, thuộc giòng dõi An-Dương vương. Chúng tôi đang muốn phục hồi Lĩnh Nam trong tay người Hán. Bà là thái-hậu của người Hán, bà muốn vĩnh viễn chiếm nước tôi, đó là một điều khiến bà với tôi thành thù hận. Thứ nhì bà dùng tiền bạc, mua chuộc bá quan, sai cao thủ đi các nơi hại chồng tôi. Hại nhũ mẫu của chồng tôi. Đó là hai điều oán. Thứ ba, hiện tôi bị người Hán của bà cầm tù, đó là ba điều thù hận. Cả ba điều, chủ động đều do phía bà gây ra. Nếu tôi vung tay phóng chưởng giết bà. Dù Mao Đông Các, với hai con của bà có bản lĩnh nghiêng trời lệch đất cũng không cản trở kịp.

      Từ hôm bị bắt làm tù binh. Hoàng Thiều Hoa được đối đãi cực kỳ tử tế. Vì mối phẫn hận chồng chất không chỗ phát tiết. Bây giờ nghe Mã thái-hậu nói bằng giọng khinh thường mình. Mối phẫn hận như lửa gặp gió, bốc lên ngùn ngụt. Nàng nhìn Mã thái-hậu, rồi bất thình lình bước về trước vận khí phóng chưởng định giết bà cho hả giận. Song bản tính ôn nhu, khí khái không muốn đánh người không có võ. Nàng nhấc bổng bà lên, tay kia phóng chưởng vào cái ghế bằng gỗ lim bà đang ngồi. Bình một tiếng, cái ghế gỗ lim bị đánh bể tan tành. Chưởng của nàng là Thiết-kình phi-chưởng, cực kỳ cương mãnh.

      Mao Đông Các nghe tiếng ghế vỡ, vội chạy vào. Thì nàng đã để thái-hậu ngồi xuống chiếc ghế khác. Mã thái-hậu kinh hồn động phách. Bà không bao giờ ngờ một cô gái nhu mì, yểu điệu thế kia mà lại có chưởng lực mạnh dường ấy! Bà vốn kinh nghiệm, thông minh, thấy nàng chỉ đánh vỡ ghế, biết nàng làm vậy để phát tiết mối giận. Bà vẫy tay cho Mao Đông Các ra ngoài:

      – Vương phi biểu diễn chưởng lực cho ta coi, chứ không có gì khác lạ, các người ra ngoài đi.

      Bà nói với Hoàng Thiều Hoa:

      – Chưởng lực của vương-phi thực dũng mãnh, có lẽ còn hơn vương-gia nữa. Ta vào đây để thương lượng một điều, lợi cả hai bên. Một bên Lĩnh Nam, một bên là ta. Vương-phi hãy kiên nhẫn ngồi nghe.

      Hoàng Thiều Hoa bản tính nhu hòa, nàng bảo:

      – Tôi xin nghe lời bà.

      Mã thái-hậu hỏi:

      – Khi ngươi kết hôn với Nghiêm Sơn. Ngươi có biết Nghiêm Sơn là người Việt không?

      Hoàng Thiều Hoa lắc đầu:

      – Tôi gặp Tự Sơn trong trận đánh giữa quân Hán với tráng đinh của Đào trang. Tôi nhận kết hôn với Tự Sơn vì thấy ở Tự Sơn một con người hào sảng, anh hùng, nghĩa khí. Tự Sơn đúng mẫu người giống như sư phụ tôi. Gốc tôi mồ côi từ nhỏ. Được sư phụ đem về nuôi dưỡng, dậy dỗ, thương yêu hơn con đẻ. Do vậy, sư phụ trong con mắt tôi là một ông thần. Cho nên những gì giống người, tôi đều khâm phục hết. Tôi kết hôn với chàng vì lẽ đó. Mãi về sau Tự Sơn mới cho tôi biết nguồn gốc của chàng. Tôi càng kính yêu chàng hơn.

      Mã thái-hậu gật đầu:

      – Thế nghĩa là Tự Sơn có chí phục quốc trước khi lấy cô, chứ không phải y lấy cô rồi, do cô thuyết phục, y mới phản Hán, phục Việt?

      Hoàng Thiều Hoa không nghĩ đến điều đó, nên khi bị hỏi, nàng bâng khuâng không trả lời. Suy nghĩ một lúc nàng mới nói:

      – Tự Sơn có chí phục quốc từ nhỏ. Phụ thân chàng là Phấn-uy đại tướng quân của Trường-sa vương. Ông là cháu bảy đời Phương-chính hầu Trần Tự Minh, Tể tướng Thục. Khi An-Dương vương tuẫn quốc. Ngài truyền chiếu chỉ nhường ngôi cho con trưởng Phương-chính hầu, lo phục quốc. Đến đời thân phụ chàng, ông cải tên họ, làm quan với Hán. Trước khi từ trần, ông đưa di chiếu phục quốc cho chàng. Dặn bằng mọi giá phục hồi Lĩnh Nam.

      Ngưng một lát nàng tiếp:

      – Công việc chàng cứu Lưu Tú, giúp y khởi binh, không quan hệ gì đến phục quốc cả. Cho đến khi chàng được phong Lĩnh-nam công, lúc mới nhân chức tước của mình, đồng tình với anh hùng Lĩnh Nam trong việc phục quốc. Mà dù… chàng có được phong Tần-vương, Triệu-vương, chàng cũng ban hành chính sách rộng rãi. Mưu hạnh phúc cho dân.

      Nàng thở dài nói:

      – Đúng ra chúng tôi khởi binh phản Hán từ lâu. Ngặt vì chàng cản trở. Chàng nghĩ rằng, Lĩnh Nam quá xa với Trung-nguyên. Triều Hán cho Lĩnh Nam phục hồi. Hàng năm Lĩnh Nam tiến cống, chẳng hơn triều đình cử sang một bọn tham quan hại dân sao? Chàng tổ chức đại hội Tây-hồ, đưa anh hùng sang cầu phong. Giữa lúc sắp lên đường, Quang-Vũ phong chàng làm Lĩnh-nam vương, cầm quân đánh Thục. Chàng yêu cầu anh hùng Lĩnh Nam đánh giúp Hán, lập công. Đợi sau khi diệt Thục, cầu xin phục hồi đất nước sẽ dễ dàng hơn. Chàng khuyên anh hùng Lĩnh Nam không nên khởi binh. Khởi binh ắt có chiến tranh, trăm họ điêu linh. Đó là đường lối của chàng. Anh hùng Lĩnh Nam nghe chàng.

      Mã thái-hậu gật đầu:

      – Theo Tự Sơn, như vậy y có thể vẹn tình huynh đệ với Quang-Vũ, trọn tình với cô và với bạn hữu Lĩnh Nam?

      Hoàng Thiều Hoa gật đầu:

      – Đại thể như thế. Chàng không muốn chiến tranh xảy ra, người Hán chết, người Việt chết vô ích. Chàng không muốn giữa đồng bào, giữa bạn hữu Lĩnh Nam với bạn hữu Trung-nguyên giết nhau. Chàng cũng không muốn công danh phú quí. Chàng định sau khi xong mọi việc, thì họp anh hùng Lĩnh Nam lại để họ bầu lấy một người thống lĩnh. Trước đây An-Dương vương đã được huynh đệ bầu lên một lần. Hiềm vì bấy giờ chưa có nguyên tắc rõ ràng, để ngài làm vua quá lâu. Bây giờ anh hùng các nơi sẽ lập ra cơ chế, như người nào được bầu làm thống lĩnh, chỉ được ngồi tại vị từ năm tới mười năm mà thôi.

      Mã thái-hậu kinh ngạc:

      – Cô nói thêm chi tiết được không?

      Hoàng Thiều Hoa tiếp:

      – Đất Lĩnh Nam chúng tôi không có dân chúng sống rải rác. Họ đều ở trong các trang, ấp động. Mỗi nơi có một Lạc-hầu, Lạc-tướng cai trị. Tự Sơn định rằng trong sáu vùng Quế-lâm, Tượng-quận, Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam. Cứ mấy chục trang ấp sẽ bầu một vị Lạc-công coi về cai trị, một Lạc-tướng coi về quân sự an ninh. Các Lạc-công, Lạc-tướng bầu lấy một vị Vương để cai trị một vùng. Lĩnh Nam có sáu vị Vương. Sáu vị Vương đó đặt dưới quyền Hoàng-đế Lĩnh Nam. Hoàng đế do toàn thể Lạc-hầu, Lạc-tướng, Lạc-công, Vương-gia bầu. Sáu năm một lần.

      Mã thái-hậu đứng lên đi đi lại lại, một lúc sau mới nói:

      – Chính vì điều đó mà hoàng-thượng, tam-công các vị vương thân đại thần họp nhau hơn tháng tìm đường lối đối phó. Cuối cùng đưa ra phương cách bắt giam, giết Nghiêm Sơn.

      Bà chắp tay vào nhau, tỏ vẻ lo sợ, nói:

      – Cô có biết tại sao không? Muôn ngàn lần cô không biết. Khi chưa gặp cô, ta hoàn toàn không hiểu cô. Cô cũng hoàn toàn không hiểu ta. Ai cũng chỉ biết đến cái lợi cho mình. Ta đâu có biết đến những điều cô thù hận ta như cô vừa kể. Cô cũng không biết những điều ta sợ hãi người Lĩnh Nam. Ta hỏi cô điều nầy nhé: Khi Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, sức mạnh như nghiêng trời lệch đất. Thế mà hắn sai Đồ Thư mang tới 500,000 quân sang đánh Lĩnh Nam. Trải qua mấy năm, chiếm được Nam-hải, Quế-lâm và Tượng-quận, với đồng không nhà trống. Cuối cùng Đồ Thư bị giết, toàn quân bị diệt. Bấy giờ dân số Lĩnh Nam bất quá hơn ba triệu người là cùng. Anh tài chia rẽ, kẻ theo Văn-Lang, người theo Âu-Lạc, mà còn mạnh thế…

      Hoàng Thiều Hoa tuy không nhiều mưu trí như Trưng Trắc, Trưng Nhị, Phương Dung, hay Vĩnh Hoa, nhưng kiến thức nàng rất rộng. Đến đây nàng hiểu ra ngay, nói với Mã thái-hậu:

      – Phải rồi. Sau Triệu Đà tài tuy chẳng là bao, lại không được lòng dân. Thế mà y mang quân đánh Trường-sa. Làm Trường-sa vương vỡ mật kinh hồn. Huống hồ nay đất Lĩnh Nam, nhân tài như lá trên rừng, như nước dưới biển. Người người quyết tâm, ngày ngày mong phục quốc. Rồi lại tổ chức một cơ chế được lòng dân, thì có thể quay lên phía Bắc xưng hùng chiếm Trung-nguyên. Vì vậy mà Hán ra tay trước. Có phải thế không?

      Mã thái-hậu gật đầu:

      – Đúng như vậy. Cho nên dù Nghiêm Sơn xin một con ngựa, một thanh gươm tiêu dao tự tại, Quang-Vũ vẫn không cho là thế. Vì thả Nghiêm ra, Nghiêm trở về Lĩnh Nam không thần phục nữa. Y thù hận Hán, thì Trung-nguyên nguy mất. Do thế chúng ta chịu tiếng vong ân bội nghĩa với Nghiêm Sơn còn hơn sau nầy sẽ có cái họa lớn xẩy ra.

      Hoàng Thiều Hoa thở dài:

      – Bây giờ tôi hiểu bà, hiểu Quang-Vũ. Thì ra bà hiểu tôi hơn tôi hiểu bà. Bà tự thị rằng khi nói ra sự thực, tôi sẽ hết thù hằn bà, cho nên bà mới ngồi đây một mình với tôi. Tôi khâm phục bà, tôi tiếp tục gọi bà là thái-hậu… Thưa thái-hậu, ban nãy bà muốn cùng tôi bàn chuyện lợi ích hai bên. Bây giờ xin bà cho biết.

      Mã thái-hậu đứng lên khép cửa lại, nói:

      – Ngươi coi ta là thái-hậu nhà Hán. Ta lại coi ngươi là vương-phi của Lĩnh-nam vương. Này vương-phi, những gì ngươi với ta thỏa thuận, liệu Lĩnh-nam vương có thuận hay không?

      Hoàng Thiều Hoa suy nghĩ, đắn đo rồi nói:

      – Từ ngày tôi là vợ của chàng, tình yêu như nước sông Hoàng-hà. Chàng nói gì tôi cũng thuận. Tôi nói gì chàng cũng nghe. Nếu thái-hậu tin tôi, thì cứ nói.

      Mã thái-hậu thở dài:

      – Ta là thái-hậu của nhà Hán. Uy quyền hơn Quang-Vũ, quần thần, vương tôn đều tuân phục. Song lúc nào cũng lo sợ, không yên. Về tình yêu, trước kia tiên-đế chỉ sủng ái Hàn Tú Anh chứ không ngó ngàng gì đến ta. Còn Vương-phi thì diễm phúc không ai bì kịp. Lĩnh-nam vương chỉ sủng ái một mình Vương-phi. Chuyện Quang-Vũ không phải con ta, vương-phi đã rõ. Ta bỏ không biết bao nhiêu tiền của thu phục cao thủ, khống chế quần thần, hầu phòng việc tiết lộ. Ta sai nhiều cao thủ đi giết Hàn Tú Anh. Đến nay ta tuyệt vọng. Chính Lê Đạo Sinh cũng phản ta. Công-chúa Vĩnh-Hòa thượng biểu tâu với hoàng-thượng về Hàn Tú Anh. Bọn họ đang trên đường về Lạc-dương triều kiến với Quang-Vũ. Quang-Vũ cũng biết việc này do chính Lĩnh-nam vương thuật lại tại điện Vị-ương ở Trường-an. Khi Hàn Tú Anh trùng phùng với Quang-Vũ, mạng ta khó toàn…

      Hoàng Thiều Hoa phất tay, tỏ ra lời nói của thái-hậu không đúng, nàng ngắt lời thái-hậu:

      – Thái-hậu luận sai rồi. Quang-Vũ tuy không do thái-hậu sinh ra, nhưng y cũng do thái-hậu nuôi dưỡng. Dù thế nào chăng nữa, không đời nào y dám bất hiếu với thái-hậu. Thái-hậu là chánh-phi của tiên-đế. Y dám hại thái-hậu ư? Tôi tin rằng y không dám. Huống hồ những người tuân phục thái-hậu trong triều rất nhiều.

      Mã thái-hậu ngắt lời:

      – Cô lại tự tin rồi! Cô quên mất chuyện giữa ta với Mao Đông Các, Hồng Hoa, Thanh Hoa sao? Dù không có chuyện Hàn Tú Anh, Quang-Vũ cũng sẽ giết chết chúng ta. Vì vậy chúng ta không thể ngồi im để bị bắt.

      Hoàng Thiều Hoa hiểu ngay, Mã thái-hậu muốn phía Lĩnh Nam giúp sức, tổ chức đảo chánh. Có thể giết Quang-Vũ, đưa Mao Đông Các hay một ấu quân lên thay. Đây là chuyện mà chính ngay những người trông rộng nhìn xa như Trưng Nhị, Phương Dung cũng không ngờ tới. Nàng biết thế, nói thẳng vào đề:

      – Vậy ý muốn của thái-hậu như thế nào cứ xin nói ra.

      Mã Thái-hậu nói:

      – Lượng tiểu phi quân tử, vô độc bất trượng phu. Phàm người anh hùng phải bỏ cái tiểu tiết. Tôi định nhờ phía Lĩnh Nam ám sát Quang-Vũ. Tôi đưa một ấu quân lên thay. Trong thời gian đó, tôi nắm lấy quyền bính rồi sẽ liệu.

      Hoàng Thiều Hoa đã đoán trước được ý của Mã thái-hậu. Nàng không ngạc nhiên lắm:

      – Nếu phía Lĩnh Nam giúp thái-hậu giết y, thái-hậu sẽ giúp chúng tôi điều gì gọi là có qua có lại?

      Mã thái-hậu nhìn vào mắt Hoàng Thiều Hoa:

      – Điều thứ nhất, chúng tôi trả Lĩnh Nam cho người Lĩnh Nam. Sau này không bao giờ đem quân xuống đánh. Đời đời Trung-nguyên, Lĩnh Nam sơn hà hai nước không xâm phạm của nhau.

      Trông bề ngoài, Hoàng Thiều Hoa, người ta chí thấy vẻ văn nhu ôn nhã, nét thanh tao, đẹp tuyệt trần. Ai cũng tưởng nàng dễ lung lạc, dễ thuyết phục. Ngược lại, nàng minh mẫn, uy nghi. Trên đời ngoài sư phụ, sư mẫu ra chỉ có Đào Kỳ, nói gì nàng cũng nghe. Vì Đào Kỳ vừa là tiểu sư đệ, vừa là người hợp tính, gần gũi, lại hiểu nàng nhất. Nàng chiều theo ý tiểu sư đệ như chiều một đứa con. Còn lại ngay Trần Tự Sơn tuy nàng thuận theo thực, nhưng vẫn giữ cái lý chính của nàng, là phục hồi Lĩnh Nam. Mã thái-hậu thấy bề ngoài nàng như vậy. Bà đưa ra cái bẫy cài nàng. Nàng biết liền, trả lời:

      – Thái hậu nói như vậy không công bằng. Chúng tôi xuất mã giết Quang-Vũ cho thái-hậu, để thái-hậu đoạt giang sơn vào tay. Sự thực thái-hậu cũng làm được vậy. Thái-hậu không dám làm, vì làm sẽ bị anh hùng thiên hạ chống đối, phải nhờ đến chúng tôi. Có điều thái-hậu bảo trả Lĩnh Nam cho người Lĩnh Nam, điều nầy hứa cũng như không. Vì đất Lĩnh Nam hiện nay đã nằm trong tay chúng tôi. Giải đất Trung-nguyên còn chưa vững. Trường-an thất thủ. Công-tôn Tư sắp tiến về Đồng-quan. Kinh-châu đã về tay Thục. Đại quân đang đánh vào Nam-dương. Nếu chúng tôi từ Lĩnh Nam kéo về chia đôi giang sơn nhà Hán cũng dễ thôi. Việc gì chúng tôi phải chờ thái-hậu trả đất Lĩnh Nam cho chúng tôi? Có một điều duy nhất lời hứa đời đời không xâm phạm lẫn nhau còn tạm nghe lọt tai.

      Mã thái-hậu không ngờ mình già đời, mà kiến thức không bằng một cô gái trẻ. Bà tự bào chữa:

      – Nếu giết Quang-Vũ, Trung-nguyên đại loạn, đó là dịp tốt cho Lĩnh Nam chứ sao?

      Hoàng Thiều Hoa gật đầu:

      – Đối với thái-hậu, tôi là vương-phi của Lĩnh-nam vương. Nhưng đối với anh hùng Lĩnh Nam, địa vị tôi còn kém sư phụ tôi xa. Sư phụ tôi lại kém Trưng Nhị, Phương Dung, Vĩnh Hoa, Lại Thế Cường, Cao Cảnh Minh rất nhiều. Các điều thái-hậu nói, tôi phải bàn với phu quân của tôi. Sau đó bàn với anh hùng Lĩnh Nam. Phu quân tôi không phải ông vua có toàn quyền như Quang-Vũ, mà là một trong những anh hùng họp nhau phục quốc mà thôi.

      Ngưng một lúc nàng nói:

      – Phu quân tôi với Quang-Vũ tuy đã ân đoạn nghĩa tuyệt. Mà bảo giết Quang-Vũ, tôi e người không chịu đâu. Người thà để Quang-Vũ phụ mình. Chứ người không nỡ phụ Quang-Vũ. Thôi được, tôi nhận lời thái-hậu. Đợi tôi gặp phu quân. Tôi sẽ nói với người.

      Mã thái-hậu đứng dậy:

      – Được, chúng ta cứ như thế mà làm. Ta đi đây. Ta tìm cách thả vương-phi ra, để tương kiến với vương-gia.

      Bà đứng lên đi ra ngoài.

      Đợi bà ra ngoài rồi, Sún Lé mới chui ra. Nó nhe răng cười hì hì. Vừa lúc đó Mã Huy vào, vẫy tay gọi nó:

      – Chú em đi ra mau.

      Hoàng Thiều Hoa phất tay:

      – Này Mã đội-trưởng, ta thấy chú bé nầy hợp mắt quá, muốn lưu chú ấy lại đây. Vậy ngươi để chú ấy ở với ta.

      Mã Huy lắc đầu:

      – Vương-phi xét cho. Tiểu nhân thực không dám tuân lệnh vương-phi.

      Hoàng Thiều Hoa lách mình một cái. Nàng dùng thế trảo chụp Mã Huy. Y trầm người tránh, nhưng tay nàng như con trạch lướt theo, túm lấy vai y. Y hoảng sợ phóng chưởng đánh vào bụng nàng. Nàng hít hơi chịu đòn, không đưa tay đỡ. Binh một tiếng, người Mã Huy bay vọt trở lại đụng vào cửa. Y nằm chết giấc, do phóng chưởng đánh nàng, bị chân khí phản ứng khiến y bị thương. Hoàng Thiều Hoa dẫm chân lên ngực y nói:

      – Mã thái-hậu cùng ta thỏa thuận nhiều việc quốc gia đại sự. Người còn sai mở khoá cho ta. Ta thấy chú bé này dễ thương, xin ngươi cho chú ấy ở lại đây hầu ta. Chú sẽ là người liên lạc giữa ta với thái-hậu. Ngươi ở ngoài chắc đã nghe chúng ta nói chuyện, thế mà ngươi dám chống lại chỉ dụ của thái-hậu ư? Quân nầy to gan thực. Ta mà nhả chân khí ngực ngươi bể nát, tim gan tan tành, ngươi có biết không?

      Mã Huy kinh hoàng nói:

      – Tiểu nhân đắc tội, xin vương-phi đại xá.

      Hoàng Thiều Hoa đã ở với Trần Tự Sơn lâu ngày. Nàng hiểu biết hết những lề lối uẩn khúc trong quan trường. Nàng dọa Mã Huy:

      – Mã thái-hậu sai ngươi canh ta, để hầu hạ ta. Vậy nhất thiết những gì ngài đến thăm ta, ngươi không được tiết lộ với ai, dù rằng với hoàng-thượng. Nếu ngươi tiết lộ ra ngoài, thái-hậu sẽ tru di tam tộc ngươi. Bây giờ ngươi dẫn chú bé nầy ra ngoài đi.

      Hoàng Thiều Hoa ghé tai Sún Lé dặn nó mấy câu. Nó đi ra. Mã Huy nghe phong phanh chuyện Mã thái-hậu không phải mẹ đẻ Quang-Vũ. Bà còn thu phục rất nhiều cao thủ, hành sự bí mật. Ai trái ý một chút là mất mạng như chơi. Bây giờ theo Thiều Hoa nói, Lục Sún sẽ là người liên lạc giữa Lĩnh-nam vương-phi và thái-hậu. Y có cái tội ăn hối lộ, dẫn Sún Lé vào gặp Thiều Hoa. Nếu tội này tới tai thái-hậu thì y bị tru di tam tộc, nghĩ đến điều đó mồ hôi y toát ra như tắm.


      #3
        CDDLT 05.01.2005 19:34:38 (permalink)
        PHỤ LỤC

        Một vài văn bia nói về vua Trưng



        Vua Trưng là một trong các đại anh hùng, mà dân Việt thờ kính trên khắp lãnh thổ. Chưa một sử gia, một văn nhân, một danh nhân nào tìm được một chút khuyết điểm của ngài. Ở đâu có người Việt là có đền thờ ngài.

        Dưới đây thuật giả xin trích dịch hai bài văn khắc trên bia đá, tại đền thờ ở Đồng-nhân, nay thuộc quận Hai Bà Trưng, Hà-Nội. Đền dựng vào niên hiệu Đại-Định thứ 3 (1142) đời vua Lý Anh-tông, tại bãi Đồng-nhân bên bờ sông Hồng. Vì bãi đất bị nước sông Hồng xoáy làm lở, năm 1819 dân Đồng-nhân dời đến khu Giảng-võ của triều Lê, thuộc thôn Hương-viên, làng Đồng-nhân, tức địa điểm hiện tại. Trong đền có tượng hai bà, che màn phía ngoài. Hai bên là tượng thờ nữ đại công thần thời Lĩnh-Nam. Chùa Viên-minh ở bên trái đền, có lối đi thông sang chùa. Hồi mười hai tuổi, thuật giả thường đi học qua đền thờ vua Trưng. Thời gian 1945 về trước, các phụ huynh dạy con cái rằng:

        “Khi qua đền thờ vua bà, phải mở mũ, cúi đầu, hai tay khoanh lại. Nếu thấy lá rụng, rác rơi trước đền, phải nhặt lên”.

        Đền thờ hai bà ở Đồng-nhân là nơi mang nhiều kỷ niệm về thời thơ ấu của thuật giả. Năm 1972, nghe tin B52 san bằng đền thờ Đồng-nhân, thuật giả khóc đến hơn mười ngày. Sau được biết đền vẫn còn, mới thôi.

        Năm 1993, thuật giả trở lại Thăng-long, đã đến lễ vua Trưng cùng các vị anh hùng. Trụ trì bấy giờ là ni-sư Đàm Vinh. Sư khỏe mạnh, thông minh. Sư dẫn thuật giả thăm tháp của chư tổ. Liên tiếp từ năm 1993 đến 2001, lần nào về Việt Nam, thuật giả cũng đến đền Đồng-nhân lễ vua Trưng, và dĩ nhiên cúng dường.

        Dưới đây, tôi xin dịch hai bài văn bia ở đền thờ Đồng-nhân, Hà-nội. Bia này vẫn được bảo quản rất tốt.

        Bài thứ nhất :

        Văn bia chép sự tích vua Trưng

        Thế gian có sự nghiệp thần kỳ, khiến lòng người không kìm hãm được súc động chăng?

        Nước Đại-Nam ta, từ thời Hồng-bàng đến đời Lê, trên mấy ngàn năm, xuất hiện nhiều anh hùng, tranh giữ giang sơn, lập nền chính thống, sử sách còn ghi Đinh, Lý, Trần, Lê.

        Than ôi! Đấng trượng phu phải như vậy. Trượng phu trong đám nữ lưu, xứng đáng có hai bà Trưng. Vua Bà là con lạc tướng, giòng dõi vua Hùng, sinh ra vốn dị thường. Ngặt vì từ khi nước Văn-lang bị mất, thế nước thuộc nhà Thục (1) rồi thuộc Hán, trải hơn hai trăm năm ăn nhờ ở đậu, không luận làm gì. Thêm vào đó, quan lại nhà Hán tàn bạo, hào kiệt không ngóc đầu dậy được, hoàn cảnh như vậy mà vua Bà làm lên sự nghiệp mới thực kỳ lạ, mới thực đáng phục.

        Chị vì chồng. Em vì chị, nhấc tay, quát một tiếng, khiến tên thái thú bỏ chạy. Chỉ mấy ngày chiếm được trên năm mươi thành (2). Uy trấn Lĩnh-Nam, danh vang Hoa-hạ. Tài trí như Phục-ba mà bại hai ba lần. Thanh thế khiến nhà Hán nhức đầu vỡ mật. Khi sự việc chẳng như ý, chị em cùng trầm mình ở Hát-giang.

        Than ôi! Trí tuệ biết dường nào! Dũng lược biết dường nào. Nghĩa lớn biết dường nào! Chị em một nhà, anh hùng thiên cổ, có lẽ trong nữ lưu chưa từng có, mà cũng hiếm thấy có sự tương tự như thế.

        Anh hùng khởi sự, không thể đem thành bại luận bàn. Việc làm của nhị Trưng càng không nên luận bàn thành bại. Nghìn năm sau (ta) đọc sử cũ chính khí còn bốc dậy.

        Lịch đại trải đến bản triều, việc thờ cúng Hai-bà được ghi vào quốc lễ. Đền thờ xây dựng khắp nơi, đó là uy danh của Hai-bà còn truyền lại.

        Đền thờ Hai-bà do dân xã Đồng-nhân thuộc huyện Thanh-trì đã xây dựng lên từ lâu ở bờ sông. Gần đây bãi sông lở, dân xã tìm được khu vườn sáu mẫu, đất Vũ-miếu xưa, thuộc thôn Hưng-viên, huyện Thọ-xương, xin triều đình ban cho để lập đền, hương khói phụng thờ. Triều đình khâm ban chiếu chỉ chuẩn y, thể theo ý dân, bằng chứng hãy còn. Chân dung Hai-bà trải qua bao đời vẫn không đổi, linh ứng lạ kỳ, truyền tụng có chứng.

        Nhân tìm được tấm bia không chữ, dân chúng nhờ tôi viết văn, ý định mượn bia, truyền lại sự việc tỏ tường. Tôi muốn mượn tấm bia này, bầy tỏ sở kiến của mình. Mong cao nhân đọc bia, sửa lại cho đúng.

        Nay làm bài ký.

        Minh-mệnh vạn vạn niên,
        nay mới là năm thứ hai mươi mốt.
        Năm Canh-Tý, trung tuần tiết trọng hạ, ngày tốt.
        Tứ tiến sĩ, khoa Bính-Tuất, nguyên đốc học Bắc-Ninh.

        Vũ Hoán-Phủ, hiệu Đường-xuyên soạn.

        Chú giải

        (1) Theo quan niệm của tác giả, triều Thục là ngoại xâm, không đúng lý.

        (2) Tác giả nói năm mươi thành là không kể mười lăm thành thuộc Tượng-quận. Vua Trưng khởi binh chiếm sáu mươi lăm thành, trong vòng hơn tháng. Sử sách còn ghi lại số thành đó như sau:

        – Tượng-quận 15 thành.
        – Nam-hải 14 thành.
        – Quế-lâm 10 thành.
        – Giao-chỉ 10 thành.
        – Cửu-chân 9 thành.
        – Nhật-Nam 7 thành.

        (3) Ý chỉ trận hồ Động-đình, làm rung động Trung-nguyên. Vua Quang-Vũ nhà Hán phải đem quân tới Kinh-châu tiếp viện, đích thân đốc chiến.

        (4) Thời Lĩnh-Nam có năm trận đánh lớn:

        – Trận Trường-an do Hoàng Thiều-Hoa làm chúa tướng. Nguyễn Phương-Dung là quân sư, đánh tan hai mươi vạn quân Hán. Bên Hán, đích thân vua Quang-Vũ chỉ huy. Hán bại, mất Trường-an, lui về giữ Lâm-đồng.

        – Trận hồ Động-đình do công chúa Phật Nguyệt chỉ huy. Bên Hán do Mã Viện, Lưu Long, Đoàn Chí chỉ huy. Hán thiệt ba mươi vạn người, Lĩnh-Nam mất năm vạn quân. Phía Lĩnh-Nam, các anh hùng Quách Lãng, Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương tuẫn quốc.

        – Trận Tượng-quận do công chúa Nguyệt-đức Phùng Vĩnh-Hoa chỉ huy. Lĩnh-Nam mất năm vạn người, Hán mất hai mươi lăm vạn. Phía Lĩnh-Nam mất Tượng-quận. Các anh hùng sau đây tuẫn quốc: Đặng Đường-Hoàn, Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang, Đinh Xuân-Hoa.

        – Trận Nam-hải do công chúa Thánh-Thiên tổng chỉ huy với các đại tướng khét tiếng Lĩnh-Nam: Đào Phương-Dung, Trần Quốc, Tử-Vân, Lê Chân, Đàm Ngọc-Nga, Lê Ngọc-Trinh, Lê Thị Hoa, Phan Đông-Bảng, Vũ Công-Chất. Phía Hán do Mã Viện, Lưu Long, Đoàn Chí chỉ huy với các đại tướng vô địch Chu Long, Trịnh Sư, Ngô Anh, Vương Hùng, Phùng Đức, Sầm Anh, Mã Anh, Mã Huống, Mã Dư. Lĩnh-Nam mất bảy vạn người. Hán mất bốn mươi vạn. Các anh hùng Lê Chân, Vũ Công-Chất, Phan Đông-Bảng, Lê Thị Hoa tuẫn quốc.

        – Trận Hành-sơn do bà Hoàng Thiều-Hoa tổng chỉ huy. Phía Hán do vua Quang-Vũ thân chinh. Bên Hán do Mã Viện chỉ huy. Lĩnh Nam mất năm vạn người. Hán mất mười lăm vạn. Trận này nhiều anh hùng tuẫn quốc.

        – Trận Lãng-bạc, phía Lĩnh-Nam vua Trưng ngự giá thân chinh công chúa Gia-hưng Trần Quốc tổng chỉ huy. Bên Hán do Mã Viện chỉ huy. Lĩnh Nam thiệt năm vạn người, Hán mất hai mươi lăm vạn.

        Trong sáu trận, thì Mã Viện tham dự ba trận hồ Động-đình, Hành-sơn. Lãng-bạc, đều bị thua. Vì vậy văn bia mới nói tài trí như Mã Viện mà bại đến ba lần.

        (5) Tức khu Giảng-võ đời Lê.

        (6) Lối văn sáo ngữ thời xưa: Nghĩa là Minh-Mệnh vạn vạn năm, nay mới là năm thứ hai mươi mốt tức 1840.

        (7) Trung tuần tiết trọng hạ là tháng năm.

        (8) Tiến-sĩ khoa Bính-Tuất, ý chỉ tác giả đậu tiến sĩ năm 1826.

        (9) Vũ Tông-Phan (? -1862) tự Hoán-Phủ, hiệu Lỗ-Anh, nguyên quán làng Hòa-dương, huyện Đường-an, tỉnh Hải-dương.




        BÀI THỨ NHÌ

        Văn bia kỷ niệm Viên-minh tự

        Sự vật dựa vào cái cũ, mà làm lớn ra, quy mô ngày càng tăng gọi là trùng tu. Hoặc gọi là tân tạo, không phải không đúng.

        Viên-minh tự ở bãi Đồng-nhân, cổ tự của Thăng-long. Cạnh chùa là đền thờ nhị Trưng. Nhị Trưng có công đánh đuổi giặc Bắc, dựng nền móng cho nước, lại là tổ đầu tiên dành độc lập cho nước Đại Nam. Sự nghiệp hùng vĩ của nữ anh hùng đã sáng ngời trong lịch sử. Ai người có tấc lòng son mà không chiêm ngưỡng, sùng bái? Chư thiện nam, tín nữ các nơi đổ về như nước chảy, như mây tụ lại. Đúng là đền thờ của đất nghìn năm văn vật vậy.

        Việc hương khói trong chùa do vị trụ trì đảm trách, truyền nhau đời này qua đời khác. Tổ thứ nhất pháp danh Đàm Kiên đầu tiên đến trụ trì, công xây dựng đã thực to lớn. Kế đến tổ thứ nhì Đàm-Chất, tam tổ Đàm-Nghĩa hưởng kế tục, vẫn giữ nếp tốt, do vậy việc thờ phụng trong chùa ngày càng phồn thịnh. Tứ tổ, pháp danh Đành-Hinh, xây thêm đền nữa, thờ các thần linh sông núi. Ngũ tổ pháp danh Đàm-Thuận, trùng tu đền nhị Trưng, ngày càng nguy nga tráng lệ, lại xây thêm một nhà thờ tổ, một nhà khách. Đền miếu trang nghiêm, qui mô to lớn, khiến Viên-minh tự trở thành đại thắng tích trong các đại cổ tự mỹ thuật của Thăng-long. Công đức liệt tổ, ai cũng nghe, cũng thấy, tín đồ trong vùng ca tụng công đức.

        Trải nhiều năm mưa gió phũ phàng, nhà cửa đổ nát. Thay cũ, làm mới thực khó khăn, lớn lao thay. Bần ni nghĩ rằng: việc nghĩa bất khả từ nan, trách nhiệm không thể ủy thác cho người khác. Vì vậy năm Canh-Ngọ (1930), bèn thuê thợ khởi công. Chỗ hỏng sửa lại mới, chỗ hẹp xây rộng ra. Trải mấy năm chịu khó xây dựng, cả đền, lẫn chùa, đều hoàn thành, xếp đặt lại huy hoàng, cảnh chùa cao đẹp, khiến kiến trúc cổ sẵn có, được mở rộng, lớn đẹp hơn xưa.

        Đấy là do thập phương chư Phật độ trì, và anh linh nhị Trưng phù hộ, quả phúc viên mãn, mừng sao kể siết.

        Nhân ngày khánh thành, lược thuật đôi lời, khắc vào bia đá, di truyền hậu thế, chép pháp danh liệt tổ. Mong rằng từ việc kiến trúc, đến trùng tu, công đức trụ trì của liệt tổ trước sau tại chùa này sẽ trường tồn với núi Nùng, sông Nhị.

        Nay liệt kê pháp danh liệt tổ trụ trì Viên-minh tự trên bãi Đồng-nhân như sau:

        Đệ nhất tổ: Tỳ-kheo ni, pháp danh Đàm-Kiện.

        Đệ nhị tổ: Tỳ-kheo ni pháp danh Đành-Chất.

        Đệ tam tổ: Tỳ-kheo ni, pháp danh Đàm-Nghĩa.

        Đệ tứ tổ: Tỳ kheo Ni, pháp danh Đàm Hinh.

        Đệ ngũ tổ: Tỳ kheo ni, pháp danh Đàm Thuận.

        Hoàng-triều Bảo Đại năm thứ bẩy (1932)

        Ngày tốt, năm Nhâm Thân, tháng mười một.

        Tỳ-kheo ni,pháp danh Đàm-Thư
        Trụ trì Viên Minh tự cẩn ghi.

        Đông-giang Hoàng Tăng-Bí (1)
        Phó bảng Hà Đông, năm Canh-Tuất (1900) kính soạn.

        Chú giải

        (1) Hoàng Tăng-Bí (1883-1939) tự Nguyên-phủ, quán làng Vẽ tức Đông-ngạc, huyện Từ-liêm, tỉnh Hà-Đông. Ông đậu phó bảng năm 1910, không ra làm quan. Ông tham gia phong trào Đông-kinh nghĩa thục. Bị người Pháp bắt giam, quản thúc ở Huế. Sau ông ra Hà-nội viết báo.


        #4
          NuHiepDeThuong 06.01.2005 22:21:59 (permalink)
          Truyện đã đưa vào thư quán.

          Xin chân thành cảm ơn CDDLT đã góp sức.

          Chúc vui.
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9