Anh hùng Tiêu Sơn (từ hồi 11)
CDDLT 06.01.2005 17:46:51 (permalink)
Hồi thứ mười một


Lĩnh Nam Bảo Quốc Hoà Dân Công Chúa





Đến đó cuộc đối thọai của hai người tạm ngừng, vì có nhiều tiếng pháo nổ, tiếng người vỗ tay. Thì ra Đinh Ngô-Thương tổng-trấn Thanh-hóa đứng ra chúc tụng Mỹ-Linh. Y đến trước Mỹ-Linh cung kính hành lễ. Y nói thực lớn:
- Hạ thần, Đinh Ngô-Thương, tổng trấn Thanh-hóa kính cẩn ra mắt công chúa điện hạ. Kính chúc công chúa điện hạ thánh thể an khang, tâm thường an lạc.
Sau đó Đinh Ngô-Thương ê a kể lể công việc cai trị trong trấn, toàn những kết qủa tốt đẹp. Sau Đinh Ngô-Thương đến các quan, lần lượt đến bái yết công chúa, dâng lễ vật. Đợi cho các quan bái yết xong, Mỹ-Linh vận nội lực nói lớn:
- Tuân chỉ dụ của đức Thuận-thiên hòang đế. Hôm nay tôi tới đây để cùng các vị dự lễ tế Bà-vương. Như các vị đã biết, kể từ khi lập quốc đến giờ, vùng Thanh-hóa của ta thời nào cũng nảy sinh ra các bậc anh tài phò vua, cứu nước. Thôn nào, xóm nào cũng có bậc hiền tài làm gương cho dân chúng. Chịu gian lao suốt đời, mưu cứu nước như anh hùng Đào Thế-Kiệt, Đinh Đại, Đào Thế-Hùng. Lập đại công với quốc gia, khảng khái tuẫn quốc như Đào Kỳ, Đào Hiển-Hiệu, Đào Phương-Dung, Quách Lãng. Cũng đất này, anh hùng Đô Dương, Chu Bá, Nguyễn Thành-Công tử thủ chống giặc Hán. Thế rồi, hai trăm lẻ năm năm sau, các anh hùng Cửu-chân lại cùng Triệu Trinh-Nương, nổi dậy đánh giặc Ngô. Sự tuy không thành, song khí tiết anh hùng, muôn đời không phai. Hôm nay chúng ta cùng tụ lại đây để tưởng nhớ công lao các bậc tiền nhân. Hoàng đế có ban sắc chỉ gia phong cho các anh hùng tuẫn quốc đồng thời với Triệu Trinh-Nương.
Lê Thuận-Tông ngồi sau đạo-sư Nùng-Sơn tử. Nó hỏi:
- Sư phụ. Đức hoàng đế ban sắc chỉ phong thần cho bà Triệu cùng các tướng của bà, đây là lần đầu tiên trong lịch sử hay vốn có từ trước?
Nùng-Sơn tử, sẽ vỗ tay vào vai đệ tử:
- Con hỏi câu đó thực phải. Để thầy nói cho con nghe về điển lệ Đại-Việt. Chắc con biết Quốc-tổ, Quốc-mẫu lập quốc ra sao rồi chứ?
- Thưa thầy con biết.
Nùng-Sơn tử tiếp:
- Khi đức hoàng đế bản triều vừa lên ngôi (1010), ngài nghĩ ngay đến việc phong thần cho các anh hùng dựng nứơc, qui luật đã định rõ ràng. Đầu tiên là những vị được tôn phong. Tôn phong khác với tấn phong. Tôn có nghĩa là những bậc có địa vị qúa cao, hơn hẳn hoàng đế. Hoàng đế chỉ dám « tôn » chứ không dám phong tặng. Đó là các vị được tôn lên hàng quốc tổ như Phục-hy, Thần-nông, Hùng-vương (gồm các vua Hùng từ Kinh-dương vương, Lạc Long-Quân trở xuống), An-dương vương. Triều đình truyền xây đựng đền thờ khắp nơi. Hằng năm các ngày giỗ, ngày đản sinh, tổ chức hội rất lớn. Tại Thăng-long chính hoàng đế đứng chủ lễ. Tại địa phương, thì quan chức cao nhất đứng chủ tế. Mọi chi phí do công qũi đài thọ. Lọai thứ nhì là các bậc thánh. Thánh có thánh Gióng tức Phù-đổng Thiên-vương, thánh Chèm tức Vạn-Tín hầu Lý Thân, Nhị Thánh tức hai bà Trưng. Sau, Lão-học ngày càng ảnh hưởng rộng, thêm hai vị thánh nữa là Chử Đồng Tử và Tiên-Dung . Thứ ba đến các thần. Thần chia làm năm bậc khác nhau. Bậc cao nhất là các anh hùng dựng nước, có huân công với dân tộc như Đào Kỳ, Phương-Dung, Thánh-Thiên, Phùng Vĩnh-Hoa, Đàm Ngọc-Nga, Triệu Trinh-Nương, Ngô Quyền v.v. Bậc thứ nhì là các thần hiển linh, giúp đỡ, che chở cho dân chúng, được gọi là phúc thần. Các quan địa phương theo thỉnh nguyện của dân chúng dâng biểu về triều. Bộ lễ có bổn phận cứu xét, rồi tâu lên hoàng đế ban sắc phong. Bậc thứ ba, là những vị có công với thôn xóm. Khi chết dân chúng thờ cúng. Những vị đó dù không hiển linh cũng vẫn được phong. Thứ tư là những vị thần trong truyền kỳ, như thần sông, thần núi, thần sấm, thần sét. Những lọai thần này nếu hiển linh giúp dân. Quan địa phương theo thỉnh nguyện của dân chúng, dâng biểu về triều. Bộ lễ cứu xét một lần nữa, nếu có gì nghi hoặc, bộ cho điều tra lại, rồi thượng biểu lên hoàng đế, ban sắc phong.
Ông ngừng lại cho học trò theo kịp, rồi tiếp :
__ Đối với bà Triệu, hồi tiền Lý. Vua Lý Nam-Đế đã ban sắc phong cho bà vào năm Giáp-tý (544 sau Tây-lịch). Đến thời Lý lại một lần nữa ban chỉ dụ tu bổ đền thờ cùng lăng bà. Tuy các đời trước chỉ phong bà là thần, họăc công chúa họăc linh thần. Song dân chúng vẫn gọi bà là Lệ-hải Bà-vương. Hôm nay công chúa đem sắc chỉ của Thuận-thiên hoàng đế đến tế lăng bà Triệu, truy phong bà cùng các vị anh hùng theo bà khởi nghĩa.
Nghi lễ tế bắt đầu.
Hà Thiện-Lãm, Trần Anh đến ngồi cạnh Thanh-Mai. Thanh-Mai hỏi:
- Nãy đến giờ hai em đi đâu?
- Bọn em tuân lệnh anh ba Tạ Sơn theo dõi một bọn Tầu. Chúng ẩn ẩn hiện hiện đó vẻ gian dối. Anh Sơn dặn bọn em báo cho chị biết, phải tối cẩn thận. E chúng ám sát chị Mỹ-Linh.
Thanh-Mai gật đầu:
- Em yên tâm.
Từ hồi có trí nhớ, Lãm, Tông từng xem tế nhiều lần. Chúng xem chỉ để mà xem, tuyệt không hiểu những động tác đó ra sao. Bây giờ bên cạnh chúng có Thanh-Mai. Trong tâm tưởng, chúng cho rằng cái gì Thanh-Mai cũng biết, chúng tha hồ mà hỏi.
Thiện-Lãm hỏi Thanh-Mai:
- Thông thường tế các thần khác, tam sinh gồm trâu, dê, lợn. Hôm nay tế bà Triệu lại thay trâu bằng nai. Em đố chị biết tại sao đấy?
- Chắc hồi còn sống bà thích ăn thịt nai?
- Không phải. Đương thời, bà Triệu cấm giết trâu, bò, hầu giữ hai con vật này, dùng cầy cấy.
- Nai thì làm sao tĩnh sinh được?
Thiện-Lãm nhăn mặt:
- Tĩnh sinh là gì vậy?
- Em không biết à? Trước khi tế một ngày, chủ tế phải làm lễ cáo yết, dắt tam sinh ra khám xét xem chúng có thực khỏe không? Có béo tốt không? Có sạch sẽ không. Sau khi biết chắc tam sinh thực tốt, ông cầm chén rượu đổ vào đầu chúng. Sau đó người ta mới giết chúng. Lễ đổ rượu có tên tĩnh sinh.
Thiện-Lãm hiểu được ý nghĩa đổ rượu vào đầu tam sinh. Nó sướng quá, hỏi:
- Mọi năm, trước khi tế một ngày, ban trị sự mặc áo thụng, đem kiệu đến nhà vị làm văn tế, rước bản văn về. Người viết văn tế cũng phải đội mũ, mặc áo thụng đi theo. Tới đền, ông chủ tế ra đón vào. Sao năm nay không có lệ đó?
Thanh-Mai bẹo má nó:
- Hai thằng giặc này! Hôm qua Mỹ-Linh nói rồi, không nhớ sao?
- Ừa nhỉ! Năm nay quan đại học sĩ trong triều làm văn tế. Bản văn rước từ Thăng-long về đây được mấy ngày rồi. À, em hỏi, ngoài Bắc tế có giống như ở đây không?
- Giống! Việc tế tự tối quan trọng. Vì vậy thời vua Đinh, đã ban hành bộ Quốc-triều điển lệ , ấn định rõ phương thức tế tự, thờ cúng. Vì vậy cả nước tế giống nhau.
Thời Lý, việc tế ấn định như sau: đầu tiên phải có một người chủ tế. Chủ tế có thể chọn một vị đạo cao đức trọng, hoặc một vị khoa bảng. Khi tế những anh hùng, thường chọn những vị có chức tước cao nhất. Bốn người bồi tế. Bồi tế đứng sau chủ tế năm bước. Bồi tế cứ theo chủ tế. Chủ tế làm gì, cũng làm như vậy.
Ngoài sân, các quan viên tế đã đứng vào chỗ. Thiện-Lãm nhận ra các chức sắc, nó nói:
- Ông chủ tế họ Đinh tên Ngô-Thương, hiện làm tổng trấn vùng Thanh-hoá. Bốn ông bồi tế gồm Tuyên-vũ sứ Đàm Toái-Trạng, còn ba ông kia thuộc kỳ hào vùng này.
Thanh-Mai hỏi:
- Hai ông Đông xướng, Tây xướng kia là ai?
- Ông Đông xướng là Đề-đốc thủy quân. Còn ông Tây xướng coi kị binh trấn này.
Nó hỏi Thanh-Mai:
- Tại sao lại có hai ông đứng quay mặt vào bên phải, bên trái chủ tế vậy?
Thanh-Mai nhắc sẽ:
- Hai ông đó có tên nội tán hầu nhắc chủ tế phải làm gì.
- Như vậy tức nhiên hai ông tán ra lệnh cho chủ tế phải không? Còn hai mươi ông đứng hai bên kia để làm gì?
- À, họ có tên chấp sự lát nữa sẽ dâng hương, dâng rượu, hoặc chuyển đọc chúc văn. Nghĩa là làm những việc lặt vặt.
Đến đó quan viên tế đều vào chỗ, áo thụng như đại triều, mũ cánh chuồn, đai ngọc. Người đồng văn cầm dùi đánh ba hồi trống tế mở đầu. Ông Đông xướng hô lớn:
- Khởi chung cổ!
Hai ông chấp sự đi hai bên, vào chỗ giá để chiêng trống. Một ông đánh trống, một ông đánh chiêng. Cứ một tiếng trống, tiếp theo đến tiếng chiêng. Sau ba hồi chiêng trống, đánh tiếp ba tiếng dõng dạc, rồi vái ba vái lui ra.
Ông Đông xướng lại hô:
- Nhạc sinh tựu vi...i...ị...ị!
Phường bát âm tấu nhạc. Nhạc tế bà Triệu không hiểu ai đề nghị, và đề nghị từ bao giờ, mà tấu các bản : Động-đình ca để mở đầu, tiếp theo tấu nhạc thiết triều đời vua Hùng. Nhạc cực kỳ hùng tráng.
Tiếp theo các ông xướng thi nhau xướng, chủ tế kiểm điểm tế vật xem có đầy đủ, thanh khiết không. Thiện-Lãm kể:
- Chị biết không, hàng năm trong trấn cử ra ba người có tâm huyết phụ trách nuôi tam sinh tế bà. Năm nay cả ba người nuôi nai, lợn, dê đều thuộc làng em lĩnh vinh dự. Chị xem con nai có béo không? Con lợn kia to kém gì con nghé? Con dê lớn hơn con lợn nhiều. Lệ tế ở đây để nguyên tam sinh. Nai, dê thui cả con. Lợn phải luộc chín.
Thanh-Mai hỏi:
- Tại sao lại có tới mai mươi mốt con lợn lớn nhỏ khác nhau trên hai dẫy bàn thờ kia vậy?
- À đó là lợn của các xã, các hội, cùng các quan văn võ trong trấn. Khắp vùng này, ai cũng mong đến ngày hôm nay, để được quỳ gối lễ Bà.
Đến đó tiếng xướng cực lớn, làm Thanh-Mai, Thiện-Lãm phải ngừng lại:
- Nghênh thần cúc cung bái!
Tất cả chủ tế, bồi tế v.v. đều xuống gối.
- Hưng!
Tất cả lên gối.
- Bái!
Tất cả xuống gối.
Sau khi lên gối, xuống gối lễ đủ tám lễ. Tiếp theo lễ dâng rượu, dâng hoa quả xong, lại có tiếng xướng:
- Bình thân, phục vị!
Mọi người về chỗ mình. Tiếng xướng:
- Nghệ độc chúc văn.
Tức độc văn tế. Tiếng xướng rõ ràng, tuân chỉ hoàng đế, người soạn văn tế là Hàn lâm học sĩ, kiêm thị trung Lý Nhân . Nhưng người đọc lại là một chức quan ở Cửu-chân. Vị Đông-xướng cất cao giọng:
- Phụng chỉ Đại-Việt hoàng đế, người đọc văn tế là Thự mẫn thư lang, quản câu ngự phủ, đồng trung thư kiện biên tu, kiêm thủ Thanh-hóa trại, Cửu-chân huyện, cộng sự Vũ Anh-Thông .
Vũ Anh-Thông tiến đến trước bàn thờ quỳ gối, mở trục giấy ra. Ông đằng hắng một tiếng rồi cất cao giọng đọc. Văn tế thời Lý còn ảnh hưởng của thời Lĩnh-nam. Thể văn dùng thường là văn xuôi, chứ không dùng lối văn biền ngẫu như đời Lê, đời Nguyễn sau này. Bài văn tế khá dài. Sau đọan mở đầu nói về việc dựng nước của vua Hùng, vua An-dương, tiếp đến đọan ca tụng cuộc khởi binh của vua Trưng. Đoạn ca tụng Lệ-hải Bà-vương như sau:
« ...Trải hơn 200 năm, dân Việt do phương Bắc cai trị. Người Việt bị coi như trâu như chó. Muốn cam phận trâu ngựa cũng không yên, sống không nổi, chết cũng không xong.
... Hào kiệt bao phen nổi lên, ngặt vì thế nước chông chênh, mà giặc Bắc đông người, nhiều của, nên đành nuốt hận. Uất khí tụ lại thành căm gan, tím mật.
...Đất Cửu-chân, địa linh nhân kiệt, anh hùng đã nhiều, nữ kiệt cũng lắm. Giặc Ngô ngày càng hung bạo, bắt dân trói lại từng xâu, đưa sang Kiến-nghiệp làm lính đánh Ngụy. Lương gạo bị thu, trâu bò không còn đủ để cầy bừa. Dân chúng căm hận, nguyền rủa chó Ngô... »
Bỗng nghe tiếng kêu véo inh tai nhức óc. Vũ Anh-Thông đang quỳ, bị bật tung lên cao, rồi ngã vật ra. Đầu vỡ làm đôi, óc, máu bầy nhầy.
Biến cố xẩy ra đột ngột, cao thủ tham dự có hàng trăm, mà không ai ngờ tới. Véo, véo hai tiếng nữa, chỉ thấy bóng xanh thấp thoáng, Thanh-Mai đã đứng trước Mỹ-Linh, nàng rút kiếm gạt đánh choang, choang hai tiếng. Mỹ-Linh kinh hoàng nhìn lại thì ra hai qủa phi trùy ám toán nàng. Nếu không có Thanh-Mai ra tay nhanh thì nàng đã chết rồi.
Trong sân rối lọan cả lên. Tạ Sơn từ phía sau vọt lên trước. Chàng vung tay chụp một người quần áo rách rưới ngồi lẫn trong đám dân chúng. Người này bật tung một cái, vọt lên cao, tránh cái chụp chụp của Tạ Sơn. Tạ Sơn biến chiêu thần tốc từ cái chụp biến thành chưởng hướng lên trời. Người kia từ trên cao phóng xuống một chưởng. Hai chưởng gặp nhau đến Bùng một tiếng, cát bụi bay mịt mờ. Người kia bay lên cao. Ở trên cao, y đá gío một cái, người bay vọt về phía bàn thờ. Tạ Sơn vọt theo đánh lên một chỉ. Người đó còn ở trên cao, tay rút kiếm khoa một vòng. Y đã đáp xuống đất. Y cười khì:
- Tưởng võ công Giao-chỉ thế lào, hóa ra tầm thường thôi.
Giọng nói của y lơ lớ, thì ra y là người Hán.
Trong khi hai người đấu với nhau, thì đạo quân Ngự-long vây kín khu lễ đài, trong tư thế chuẩn bị tác chiến. Tạ Sơn đã rút kiếm ra cùng người kia giao chiến. Kiếm pháp của Tạ Sơn là kiếm pháp Tiêu-sơn, đường đường, chính chính, rõ ràng là kiếm pháp con nhà Phật. Còn kiếm pháp người kia khi nhanh, khi chậm, điêu luyện. Hai ngươi đầu với nhau được trên năm mươi hiệp. Lý Mỹ-Linh đứng quan sát trận đấu, nàng hỏi Nùng-Sơn tử:
- Thưa đạo trưởng, kiếm pháp của người này thuộc môn hộ nào vậy?
Nùng-Sơn tử đáp:
- Kiếm-pháp Hoa-sơn. Hoa-sơn là một phái võ ở vùng Giang-tô. Phái võ được thành lập trên hai trăm năm. Võ công cực kỳ ảo diệu. Có thời phái Hoa-sơn đã lấn át cả phái Thiếu-lâm, Võ-đang. Cách đây mấy năm, nhân võ công nước Đại-lý trở thành vô địch thiên-hạ, làm cho Tống triều lo lắng không ít. Hồi đầu năm qua, vua Tống cho mở võ đài ở Biện-kinh, tuyển anh hùng vô địch. Võ đài tuyển trong một tháng, kết quả, đệ tử phái Hoa-sơn là Địch Thanh đoạt chức vô địch, giật giải trạng nguyên. Đệ tử phái Thiếu-lâm giật giải bảng nhãn. Còn đệ tử phái Võ-đang chỉ đoạt được giải Thám-hoa.
Lê Thuận-Tông hỏi:
- Thưa sư phụ, tại sao anh Sơn chưa thắng được tên ăn mày kia?
Nùng-Sơn tử giảng:
- Có hai lý do. Tạ chỉ-huy sứ tuổi còn trẻ, công lực không được làm bao. Trong khi tên Hán kia đã già, công lực cao thâm khôn lường. Điều thứ nhì là võ công Tiêu-sơn xuất phát từ Thiền-công, tinh kỳ thì có, nhưng căn bản vẫn không hung dữ để có thể đàn áp được đối thủ đễ dàng. Nếu người đấu với tên Hán thuộc phái Đông-a thì tên Hán kia chịu sao nổi.
Tạ Sơn đang đấu với tên người Hán, chàng dùng hết sức mình mà không hạ được đối thủ. Trong khi chàng là Điện-tiền chỉ huy sứ, thống lĩnh toàn bộ Ngự-lâm quân, thì còn gì là thể thống? Nghe Nùng-Sơn tử nói, chàng tỉnh ngộ. Chàng chưa học kiếm pháp Đông-a, nhưng đêm trước đã cùng Thanh-Mai trao đổi mấy chiêu. Chàng nghe sư phụ dặn Kiếm pháp Đông-a với Tiêu-sơn cùng nguồn gốc. Chỉ khác ở điểm kiếm pháp Đông-a đánh ngược lại với Tiêu-sơn . Tạ Sơn định đánh chiêu Mã qúa Hằng giang , theo đúng kiếm pháp Tiêu-sơn thì kiếm từ dưới vung lên, rồi biến chiêu đưa vào ngực đối thủ. Chàng đổi thành từ dưới tạt ngang, đưa vào chân đối thủ. Kiếm đáng lẽ vòng sang phải, chàng vòng sang trái. Xoẹt một tiếng, tên ăn mày bị trúng đầu gối. Y nhảy vọt lên chửi thề:
- Con mẹ nó tên Nam-man dữ qúa.
Y đánh liền mười chiêu, với lối đánh như cả hai cùng chết. Tạ Sơn chiết với y mười chiêu, rồi chàng lại đổi ngược kiếm pháp Tiêu-Sơn. Choảng một tiếng, hai kiếm chạm nhau, chàng cảm thấy cánh tay tê chồn.
Tạ Sơn đổi chiêu thình lình thắng đối thủ dễ dàng. Chàng đổi thêm chiêu nữa, tay y trúng kiếm. Kiếm rơi xuống đất. Chàng dí kiếm vào cổ y nói:
- Quỳ xuống, bằng không ta lấy mạng mi.
Từ phía dân chúng có tiếng cười khanh khách:
- Tưởng võ công Giao-chỉ thế nào, hóa ra hai người đánh một.
Ba người bước ra. Họ trang phục theo lối khách trú. Một người to béo, tuổi khoảng ba mươi. Một người dáng dấp như thư sinh, tuổi khoảng hăm ba hăm bốn, và một đạo sĩ tuổi khá gìa. Tên thư sinh vung tay bắt kiếm của Tạ-Sơn.
Tạ Sơn lượn kiếm một vòng, đẩy vào ngực y. Y không coi kiếm chàng vào đâu, dùng hai ngón tay kẹp cứng thanh kiếm Tạ Sơn. Y rung tay một cái, kiếm Tạ Sơn gẫy làm mấy mảnh. Y cười ha hả.
Tạ Sơn bật một chưởng, đẩy mấy mảnh kiếm gẫy vào người thư sinh. Thư sinh vọt người lên cao tránh khỏi. Tạ Sơn không nhân nhượng, đánh ngược lên một chưởng. Thư sinh đá gió một cái, bật người ra xa hơn hai trượng, rơi xuống đất. Tạ Sơn tấn công y bằng hai chưởng liền. Y cười nhạt một tiếng, vung tay đỡ. Bình, bình hai tiếng. Tạ Sơn bật lui ba bước, khí huyết trong người chạy nhộn nhạo.
Nguyễn Khánh truyền đạo Ngự-long vây bọn này đến bẩy tám vòng. Y quát:
- Các người là ai?
Thư-sinh nói:
- Tại hạ họ Địch tên Thanh.
Y vừa lên tiếng, khắp quảng trường bật lên tiếng ồ...

Mặt trời ngả về tây. Nắng chiều chiếu chụp xuống núi rừng xanh tươi mầu vàng úa. Thỉnh thoảng có đám mây trắng trôi lững lờ về vùng núi xanh xa xa. Người dân Cửu-chân dự hội tế Bà-vương có cảm tưởng như Bà đang ngự trên đám mây nhìn xuống dương gian.
Tướng-quân Nguyễn Khánh cầm cờ đỏ chỉ một cái, hơn trăm Thiên-tử-binh bao vây ba người vào giữa, cung dương thẳng. Chỉ cần một hiệu lệnh nhỏ, là buông tên.
Mười đội thiếu niên Hồng-hương, gươm đao sáng ngời đứng vây vòng ngoài. Lại còn ba đội giáo chúng Hồng-thiết giáo cung tên đứng sau, sẵn sàng nhảy vào vòng chiến.
Địch Thanh cười nhạt:
- Ta từ Trung-quốc sang đây muốn nói truyện với võ-lâm Giao-chỉ, chứ không muốn nói truyện với đám binh lính này.
Một đạo trưởng Hồng-thiết giáo bước ra cười nhạt:
- Ta, Hoàng Can thủ lãnh Hồng-thiết giáo trấn Thanh-hóa. Chúng ta là người võ lâm. Người muốn nói gì?
Địch Thanh vẫn bình tĩnh:
- Hồng-thiết giáo bọn mi chẳng qua là bọn cướp, uống máu người. Ta không nói truyện với mi.
- Thế thì được.
Hoàng Can vẫy tay, giáo chúng Hồng-thiết cầm ống tiêu thổi lên điệu nhạc âm thanh ma quái, như từ cõi âm vọng về. Lập tức, từ trong cái xe đậu gần đó, hàng trăm con rắn từ từ bò ra, vây xung quanh thầy trò Địch Thanh. Địch Thanh kinh hoảng, vung tay phát chưởng hướng vào đàn rắn. Thì lập tức bốn con rắn vọt lên quấn quanh người y. Vung tay chụp, thì mấy con rắn trườn xuống chân, rồi lên cổ. Y chụp con trên cổ, thì con khác luồn vào bụng. Y nhảy nhót, chụp một lúc, thủy chung vẫn không chụp được con nào.
Đông-Sơn lão nhân thấy đệ tử lâm nguy, lão nghĩ:
- Phải khống chế tên Hoàng Can này, mới hy vọng cứu Địch Thanh.
Lão nhảy vèo đến, tay xử dụng cầm-long công, bắt Hoàng Can. Nhưng tay lão vừa chạm vào cổ Can, thì bốn con bọ cạp sắc xanh mướt không hiểu đã bám trên tay lão từ hồi nào. Lão kinh hoảng, dùng tay trái búng mấy con bõ cạp khỏi tay phải. Nhưng tay trái vừa vung lên, thì bốn con bọ cạp chui vào trong tay áo lão.
Hoàng Can nói lớn:
- Sao? Địch trạng nguyên. Người có muốn nói truyện với Hồng-thiết giáo ta không?
Chợt Địch Thanh ngoạc mồm ra đọc một tràng tiếng quái dị:

Ta pha tà ka la.
Sa sa thanh thí u tơ lơ ma.
Củng thiên chi ha ha.
Đạo ta cà mạ mạ thì di hu.


Hoàng Can nghe Địch Thanh đọc chú, gương mặt y cực kỳ kho coi. Y hú lên một tiếng, bao nhiêu rắn, rời Địch Thanh trườn xuống đất, rồi chui về xe. Can đến trước Đông-Sơn lão nhân thu mấy con bọ cạp về. Y chắp tay:
- Xin tiên sinh thứ tội, tiểu nhân không biết.
Rồi lùi về chỗ giáo chúng.
Tạ Sơn thấy bọn Hồng-thiết đang hùng hùng hổ hổ, mà Địch Thanh đọc có mấy câu chú, lập tực rút lui, thì không hy vọng gì vào chúng nữa. Chàng phất tay ra hiệu cho binh đội lui lại. Chàng hỏi Địch Thanh:
- Người tên Địch Thanh? Phải chăng người là đệ tử phái Hoa-sơn, vừa mới đây người đoạt chức vô địch trong trận đấu võ đài vùng Biện-kinh?
Địch Thanh cười rất thanh nhã:
- Tạ huynh quả không hổ với chức Điện-tiền chỉ-huy-sứ. Kiến văn Tạ huynh rộng mênh mông. Truyện vừa mới xẩy ra ở Trung-nguyên mà Tạ huynh đã biết. Tại hạ qủa không xứng với chức vô địch Trung-nguyên. Sở dĩ tại hạ đạt được giải Hoàng-long, do anh hùng bốn biển nhường cho đó thôi.
Địch Thanh chỉ vào người béo tròn:
- Vị này là đại-sư huynh tại hạ. Họ Dư tên Tĩnh.
Trong khi Tạ Sơn không biết Dư Tĩnh là ai, thì Địch Thanh chỉ vào đạo-sĩ:
- Vị này là Đông-sơn lão-nhân, sư phụ của tại-hạ.
Cả quảng trường cùng bật lên tiếng ồ . Vì Hoa-sơn tứ lão khét tiếng võ lâm trên 20 năm qua. Họ mang tên Đông, Tây, Nam, Bắc. Lão này mang tên Đông cho nên trang phục mầu xanh. Dư luận đồn Hoa-sơn tứ lão võ công cao thâm không biết đâu mà lường. Chỉ nguyên đệ tử của Đông-sơn lão nhân là Địch Thanh đọat chức vô địch võ đài Biện-kinh thì đủ biết võ công sư phụ Địch còn cao thâm biết là dường nào?
Lê Thuận-Tông hỏi Nùng-Sơn tử:
- Sư phụ. Gã Địch Thanh đựơc vua phong anh hùng vô địch hay võ lâm bầu lên?
Nùng-Sơn tử ngơ ngác không hiểu nhìn Thanh-Mai. Thanh-Mai đáp:
- Nguyên khi vua Tống Chân-tông băng vào niên hiệu Càn-hưmg nguyên niên, để di chiếu cho con thứ 6 là thái tử Trinh lên nối ngôi, bấy giờ mới 13 tuổi. Thái-tử Trinh sinh ngày 14 tháng 4 năm Canh-Tuất (1010) mẹ là Lý thần-phi. Nhân Chương-hiến hòang hậu họ Lưu không con, nuôi Trinh làm con nuôi. Vua Chân-tông để di chiếu cho cho Lưu hòang hậu được quyền buông rèm nghe việc nước. Bấy giờ bên Đại-Việt, nhằm niên hiệu Thuận-thiên thứ 13 đương kim Thiên-tử (1022). Lưu hậu hay nghe lời dèm pha của bọn hoạn-quan, gây lắm truyện rắc rối, làm người trong nước không phục. Việc đầu tiên Lưu thay thế các tể-thần, phong Đinh Vị giữ chức tư-đồ kiêm thị-trung thượng-thư tả bộc-xạ. Phùng Thừa giữ chức tư-không kiêm thị-trung, khu-mật-viện-sứ, thượng-thư hữu bộc-xạ. Tào Lợi-Dụng được phong thượng-thư tả bộc-xạ kiêm thị-trung. Lại biếm chức danh sĩ Khấu Chuẩn đang là tư-mã Đạo-châu làm tham-quân Lôi-châu. Khấu Chuẩn buồn qúa, thành bệnh mà chết. Thấy vua còn nhỏ, Lưu hậu vốn thất học, quyết định việc nước hồ đồ, dân chúng không phục, mùa màng mất liền hai năm, tình hình Trung-nguyên rối lọan, các nước Tây-hạ, Thổ-phồn, Đại-lý, Liêu đều tự xưng đế, không nạp cống tế, đem quân vào xâm lấn.
Thanh-Mai liếc nhìn bọn Địch Thanh rồi tiếp:
- Năm năm sau, Thiên-thánh hoàng đế đã đến tuổi trưởng thành, có ý khôi phục đế nghiệp như thời vua Thái-tổ, Thái-tông. Nhà vua rất ham tập võ. Các quan hiến kế rằng muốn cho nước mạnh, phải có nhiều võ tướng dũng mãnh. Nhà vua nảy ra ý lập võ đài ở Biện-kinh, tuyển các võ sĩ phong làm tứơng cầm quân. Thể lệ đặt ra như sau: Người nào vô địch sẽ được lĩnh giải Hoàng-long, vua ban cho con rồng bằng vàng, được lĩnh bằng trạng-nguyên. Kế đó là hai người về nhì được lĩnh giải Bạch-phụng, vua ban cho con phụng bằng ngọc trắng, được lĩnh bằng bảng nhãn. Tiếp theo bốn người được ban giải Hắc-hổ, mỗi người sẽ lĩnh một đầu hổ bằng ngọc đen, được bằng thám-hoa. Bảy người kế tiếp được phong Thiên-thánh thất ưng. Thiên-thánh là niên hiệu của đương kim thiên-tử nhà Tống. Ngòai ra nhà vua còn tuyển thêm 18 anh hùng nữa gọi là Thập bát anh hùng. Tất cả được lĩnh đồng Tiến-sĩ. Tổng cộng 32 người đều được bổ là tướng cầm quân. Kể từ khi Tống Thái-tổ cầm quyền, đây là lần đầu tiên võ lâm Trung-nguyên từ tay trắng, phút chốc giữ địa vị trọng yếu. Phong trào luyện võ sôi nổi khắp Trung-quốc. Các nước Tây-hạ, Đại-lý, Thổ-phồn hqảng kinh, vội sai người tiến cống tỏ ý qui phục. Ngoại trừ Liêu vẫn đem quân quấy rối biên giới. Nhất là phương Nam, Đại-việt tuy vẫn cống hiến đầy đủ, song hễ có đụng chạm ở biên giới là xua quân đánh tràn qua.
Đến đó Thanh-Mai phải ngừng lại vì tiếng nói của Địch Thanh.
Địch Thanh vận nội lực vào đơn điền mói thực lớn:
- Tại hạ Địch Thanh, trước đây là một thôn phu vùng Hoa-sơn. Bản lĩnh võ công có, võ đạo có. Nhiều khi muốn đem tài ra, trước tuốt ba thứơc gươm hầu báo đáp hoàng ân, sau mang ấn phong hầu về làm rạng tổ tông, sư môn. Nhưng đường tiến thân vào binh nghiệp thực gian nan. Trước phải đầu quân, rồi mới từ từ thăng quan. Trong khi đó thì con các vương hầu, sinh ra đã được phong làm tướng làm sóai. Vì vậy tại hạ đành tiêu dao với cỏ cây. Không chịu tòng quân.
Đến đó y ngừng lại để quan sát cử tọa. Hầu như quân binh, dân chúng đều đồng ý với y. Y tiếp:
- Năm trước đây, thánh thiên tử đã nhìn thấy nhiều anh hùng, có tài, có đức, cứ phải chôn vùi cuộc đời với cỏ cây. Người cho tổ chức thi võ. Bên Đại-tống có văn trạng-nguyên, bảng-nhãn, thám-hoa, tiến-sĩ, thì cũng có võ trạng, võ bảng-nhãn, võ thám-hoa và võ tiến-sĩ. Hồng-ân ban xuống lấy một trạng-nguyên, hai bảng-nhãn, bốn thám-hoa, bẩy hòang-giáp, và mười tám tiến-sĩ, tổng cộng 32 người.
Quảng trường im phăng phắc không tiếng động. Địch Thanh tiếp:
- Tất cả 32 người đều được trọng dụng. Mới buổi sáng còn là thôn phu, buổi chiều bảng vàng ghi tên, được triều kiến long nhan, nhận ấn nguyên soái, ruổi ngựa đuổi giặc. Khi tại hạ được phong trạng-nguyên, tự cảm thấy tủi hổ khi nhìn về Lĩnh-nam. Đất Lĩnh-nam nghìn xưa vốn là nơi rồng nằm hổ phục, anh tài như lá trong rừng. Trước đây Vạn-tín-hầu Lý Thân chả từng được vua Thủy-hòang nhà Tần phong nguyên nhung ruổi ngựa khắp Vạn-lý trường-thành đuổi Hung-nô lên tận miền tuyết phủ đó sao? Dù sau khi hầu qua đời, Hung-nô nghe danh còn khiếp đảm. Ngày nay phái Mê-linh chẳng là đồ tôn của người đó sao? Lại như thời Đông-hán, Đào Kỳ của đất Cửu-chân, thắng khắp anh hùng Trung-nguyên, cầm quân đánh Thục, được phong Hán-trung vương.
Dân chúng, võ lâm hiện diện nghe một võ-trạng nguyên Trung-quốc ca tụng anh hùng người Việt đều mát lòng hả dạ, vỗ tay vang trời. Địch Thanh tiếp:
- Thiên-thánh hoàng đế coi con dân trong Thiên-hạ đều như nhau. Tống, Liêu, Việt, Hạ, Thổ đều là con dân cả. Ngài xuống chiếu truyền mở Anh hùng đại hội vào 15 tháng 3 năm tới tại Biện-kinh. Ngài truyền cho tất cả nam, nữ, Hán, Việt, Liêu, dù gìa, dù trẻ đều được tham đự. Tổng số lấy một trạng, hai thám, bốn bảng, bẩy hoàng gíap và 32 tiến-sĩ. Tất cả đều được phong chức từ tiết-độ-sứ tới chiêu-thảo-sứ.
Địch Thanh cất cao giọng:
- Nào các anh hùng võ lâm con cháu Vạn-tín-hầu, Bắc-bình-vương. Hãy mau mau lên đường đi Biện-kinh tham đự Anh hùng đại hội. Tại hạ sẽ thân hành gửi thư mời đến từng gia, từng phái sau.
Địch Thanh vừa ngừng, cử tọa vỗ tay vang dội, hết tràng này, đến tràng khác.
Nguyễn Khánh cầm roi chỉ vào mặt thầy trò Địch Thanh:
- Các người sang đây với tư cách võ lâmTrung-quốc, thăm võ lâm Đại-Việt hay do chiếu chỉ của Tống đế?
- Nếu với tư cách võ lâm thì sao? Do chiếu chỉ thì sao?
Nguyễn Khánh cười rung quảng trường:
- Nếu là võ lâm, thì thẻ bài nhập cảnh đâu? Có gì làm bằng rằng người là Địch Thanh? Luật lệ Đại-Việt cũng như Tống định rằng dân hai nước Hoa, Việt, muốn từ nước nọ sang nước kia phải có thẻ bài?
Dư Tĩnh cười nhạt:
- Luật lệ đó có từ bao giờ mà tại hạ không hề biết?
Chợt một âm thanh rất quen thuộc dùng lăng không truyền ngữ nói như rót vào tai Thanh-Mai. Nghe tiếng nói, nàng mừng run lên, vì chính là tiếng của sư thúc nàng tên Trần Kiệt. Như vậy phái Đông-a nhà nàng đã có mặt tại đây. Trần Kiệt giảng giải cho nàng một lúc, rồi dặn:
- Xuất hiện đi thôi!
Thanh-Mai bước khỏi khán đài, chắp tay hướng quần hùng hành lễ, rồi chỉ tay vào mặt Dư Tĩnh:
- Thưa các vị anh hùng Đại-Việt, vị này họ Dư tên Tĩnh. Trước đây thi đậu tiến sĩ, lại là cao thủ phái Hoa-Sơn. Dư tiên sinh hiện là biên cương trọng thần nhà Đại-Tống, giữ chức an-vũ sứ Quảng-tây lộ, tức điều động binh mã vùng biên giới Tống-Việt. Dư tiên sinh hằng tự hào rằng hàng ngày bên Đại-Việt có người đẻ thêm đứa trẻ, hay một ông già mới chết Khu-mật viện Quảng-đông cũng biết. Dư tiên sinh trực tiếp điều khiển nhiều toán tế tác sang Đại-Việt. Thế mà tiên sinh bảo không biết gì về luật lệ hai nước, thì quả khinh người quá.
Dư Tĩnh bị Thanh-Mai lột mặt nạ, y kinh hoảng:
- Cô nương là ai?
- Tiểu nữ là một con dân Đại-Việt. Này Dư tiên sinh, theo luật Tống khi một dân Tống muốn sang Đại-Việt, phải có thẻ bài, cùng giấy kiềm thự của quan trấn thủ biên giới Tống, rồi phải được quan trấn thủ Đại-Việt cho phép. Vậy những thẻ bài, cùng giấy của tiên sinh đâu?
Dư Tĩnh cười ha hả hỏi lại:
- Cô nương là ai? Ta có thẻ bài hay không, dễ thường phải trình cho cô nương chắc?
Tạ Sơn tiến lên chắp tay hướng Dư Tĩnh:
- Dư an vũ sứ! Tại hạ Tạ Sơn, điện tiền chỉ huy sứ Đại-Việt, xin thỉnh tiên sinh cho xem thẻ bài. Nếu tiên sinh không có thẻ bài, tại hạ đành vô phép với tiên sinh. Tiên sinh thử nghĩ coi, nếu như một tên trộm trâu, trộm bò cũng đến đây xưng là an vũ sứ sao?
Giữa lúc đó, có đoàn người từ dưới đồi đi lên. Dẫn đầu là một thớt voi khí thế cực kỳ hùng tráng. Phái đòan đông đến hơn trăm người. Họ trang phục rất kỳ lạ. Sau bành voi phất phới lá cờ có chữ Lạc-hầu Lạng-châu, phò mã Thân cạnh đó có lá cờ mầu xanh, trên thêu hàng chữ Lĩnh-nam Bảo-quốc, hòa dân công chúa . Một trung niên nam tử thân thể hùng vĩ, cằm vuông, mắt hổ, da hồng hào, cỡi trên con cọp trắng nõn. Trên bành voi là một thiếu phụ trẻ, mặc áo lụa vàng, giây lưng mầu hồng nhạt, quần đen, nhan sắc cực kỳ diễm lệ.
Mỹ-Linh xa chú mới hai ngày, nàng cảm thấy cô đơn, lo sợ viển vông, dù có thái-cô Tịnh-Huyền bên cạnh. Nay thấy thiếu-phụ. Nàng rời ghế ngồi, chạy đến trước ngựa cung cung kính kínhh hành lễ:
- Thần nhi Mỹ-Linh kính cẩn ra mắt cô-mẫu.
Nàng chưa kịp hành lễ với trung niên nam tử, thì thiếu-phụ phóng một chiêu cầm-long trảo. Người Mỹ-Linh không tự chủ được, bay vọt lên cao. Nàng đã ngồi trước bành voi với thiếu phụ.
Tạ Sơn đến trước voi, cung kính chắp tay hành lễ:
- Hạ thần Tạ Sơn, lĩnh điện-tiền chỉ-huy-sứ xin tham kiến công-chúa điện hạ và phò-mã.
Các quan văn võ trấn Thanh-hóa đồng cúi đầu hành lễ. Thiếu-phụ ôm Mỹ-Linh đáp xuống đất. Nàng tát yêu Mỹ-Linh hai cái rồi mỉm cuời:
- Con bé hay nhè của cô, bây giờ đẹp quá rồi.
Thiếu phụ với tay ôm đầu Mỹ-Linh vào ngực, nàng ghé miệng trái đào cắn lên má Mỹ-Linh. Người ngoài không biết liên hệ cô cháu. Cứ nhìn tướng mạo hai người giống nhau cũng đoán ra cùng nguồn gốc huyết tộc. Hai cô cháu giống nhau như hai giọt nước. Có điều ở thiếu-phụ thì đôi mắt sáng cực kỳ tinh anh. Nước da nàng trắng hồng, khuôn mặt trái soan, tóc để dài xuống lưng thon. Còn Mỹ-Linh thì da trắng trong, khuôn mắt dịu hiền, bàn tay trắng dài, dáng đi yểu điệu. Thiếu-phụ đó là con gái thứ nhì của Thuận-thiên hoàng đế. Nguyên hoàng đế có mười ba con gái. Năm 1009, khi lên ngôi, phong cho các con gái làm công chúa. Con gái đầu lòng được phong An-Quốc công-chúa gả cho sư điệt của ngài là Đào Cam-Mộc. Đào Cam-Mộc là học trò của sư-huynh nhà vua. Đào có công phò trợ nhà vua trong lúc dựng nghiệp. Lại gả con gái thứ nhì sắc phong Lĩnh-nam Bảo-quốc hòa dân công-chúa cho lạc-hầu Lạng-châu là Thân Thừa-Quý. Người đương thời thấy tên Lĩnh-nam bảo-quốc hòa-dân công-chúa dài qúa, mới gọi tắt là công-chúa Bảo-Hòa.
Gió chiều chạy qua đồi, mơn trớn da thịt, làm quần áo của thiếu-phụ với Mỹ-Linh bay nhè nhẹ. Quảng trường im lặng, để nhìn hai tiên nữ nói chuyện với nhau.
Hà Thiện-Lãm hỏi Nùng-Sơn tử:
- Sư phụ, hai vị đó là ai vậy.
Nùng-Sơn tử giảng:
- Nguyên hồi mới lập quốc, nước Văn-lang chia làm 100 vùng khác nhău. Mỗi vùng do một lạc-hầu coi về hành chính, kinh-tế; một lạc-tướng coi về quân sự. Chế độ này kéo dài trong mấy nghìn năm. Đến thời Lĩnh-nam, sau khi vua Bà tuẫn quốc, Mã Viện tâu về triều xin hủy bỏ chế độ lạc-hầu, thay vào đó bằng chế độ làng xã. Tuy vậy, khi Viện bị triệu-hồi. Dân chúng vẫn trở lại chế độ cũ. Sau này, trải qua thời đại Bắc thuộc dài gần nghìn năm, hầu hết miền đồng bằng đã trở thành quận huyện. Trừ miền núi, ảnh hưởng bởi phái Tây-vu vẫn gĩư nguyên. Các trang, động dần dần thống nhất thành châu. Nay còn hơn 20 châu chia làm hơn trăm trang, động. Tuy vậy chỉ có 7 châu lớn gọi là Bắc-địa thất châu là Vĩnh-an, Tô-mậu, Lạng-châu, Thất-nguyên, Quảng-nguyên, Bảo-lạc và Thiên-long. Khi đức Đại-Việt hoàng-đế mới lập nghiệp, gả em gái là công-chúa Hồng-Châu cho lạc-hầu Thân Thiệu-Anh. Nào ngờ công-chúa tìm người thế thân đi tu, tức là sư thái Tịnh-Huyền. Sau đức Kim-thượng lại gả công-chúa Lĩnh-nam Bảo-quốc hòa dân công-chúa thường gọi tắt là công-chúa Bảo-Hòa cho con trai Thân Thiệu-Anh là Thân Thừa-Quý, tức vị to lớn như Hộ-pháp kia.
Đến đó Nùng-Sơn tử phải ngừng lại, vì có nhiều tiếng quát tháo của phò-mã Thân Thừa-Quý và tiếng cãi vã của Đông-sơn lão-nhân.
Phò-mã Thân Thừa-Quý nghiêm nghị hỏi Đông-Sơn lão nhân:
- Người đường đường là một trong bốn đại cao thủ bậc nhất Trung-nguyên. Hà cớ gì vượt biên vào Đại-Việt ta làm truyện ám muội. Như vậy chẳng hóa ra tự mình làm hại thanh danh mình ư?
Đông-Sơn lão nhân cười khành khạch:
- Ta không ngờ một vị phò-mã văn võ kiêm-toàn như Thân lạc-hầu mà cũng không thông thế tục. Ta sang đất Giao-chỉ một cách đường đường chính chính, sao lại bảo rằng mất tinh thần võ-đạo Hoa-sơn?
Đàm Toái-Trạng bước ra chỉ mặt Đông-Sơn:
- Người là ai? Tên gì? Đến trấn Thanh-hóa của ta ăn nói vô phép. Bộ người chê gươm ta không sắc sao?
Nói xong, Trạng hô lớn:
- Quân bay, chuẩn bị cung nỏ.
Hơn trăm cung thủ hướng vào nhóm người Địch Thanh. Địch Thanh cười nhạt:
- Ta tưởng đến Cửu-chân sẽ gặp được nhiều nhân vật kỳ vĩ võ-lâm Giao-chỉ. Không ngờ chỉ gặp bọn hèn hạ, dùng binh đội đàn áp người.
Đàm Toái-Trạng cười nhạt:
- Bản-nhân là an-vũ-sứ trấn Thanh-hóa. Bản nhân chỉ biết luật pháp của đức hoàng-đế Đại-Việt chứ không cần biết luật lệ võ-lâm. Bản nhân có bổn phận bắt gian nhân. Bọn mi đến đây quấy rối trong trấn. Bản nhân hãy bắt để xét xử. Các ngươi có chịu buông vũ khí chịu trói hay không? Bằng không bản nhân hạ lệnh buông tên.
Địch Thanh cười khinh khỉnh:
- Chúng ta là tùy tùng của sứ đòan Thiên-triều, mượn đường qua đây để vào Chiêm-quốc. Người chẳng qua là một tên an-vũ-sứ của đất Giao-chỉ, mà cũng dám hỗn láo với chúng ta ư?
Đàm Toái-Trạng cười nhạt:
- Thì ra các vị là khâm sai Thiên-triều đấy. Xin các vị cho bản nhân được coi thẻ bài.
Địch Thanh luống cuống:
- Chúng ta không có.
Đàm Toái-Trạng nạt lớn:
- Quân bay đâu, gô cổ chúng nó lại.
Đông-Sơn lão nhân hỏi
- Xin an-vũ-sứ cho biết chúng tôi phạm tội gì?
Toái-Trạng nói:
- Thứ nhất, bọn mi nhập bản quốc không có thẻ bài của quan tổng-trấn Bắc-cương. Ta phải bắt mi điều tra xem mi đến bản quốc với mưu đồ gì. Thứ nhì, mi đến giữa hội tế Bà-vương gây hỗn loạn, đó là tội đại-bất kính. Chiếu luật Đại-Việt, phải tội phanh thây.
Toái-Trạng chỉ vào gã ăn mày bị bắt trói:
- Huống hồ tên này cùng bọn với mi. Y giết mệnh quan triều đình trong khi thi hành sắc chỉ của hoàng-đế, lại mưu sát công-chúa. Hai tội ấy đều phải lăng trì.
Đông-sơn lão-nhân đưa mắt cho Địch Thanh hỏi ý kiến. Địch Thanh dáo dác nhìn khắp nơi như muốn tìm ai. Song nhìn mãi cũng không thấy. Suy nghĩ một lát y nói:
- Sư phụ. Mình cứ chịu trói đi, rồi tính sau. Khổng-tử còn chịu buông xuôi để tránh tai nạn tại nước Trần mà.
Toái-Trạng ra lệnh cho Thiên-tử-binh trói ba người lại.
Cuộc tế lại tiếp tục. Một văn quan được chỉ định thay thế người đã chết đọc văn tế. Cuộc tế chấm dứt.
Vừa lúc đó, có tiếng tù và thổi, rồi một kỵ binh tay cầm cờ phi như bay lên đồi. Quân canh phòng tránh dạt sang hai bên. Mọi người đều biết rằng đó là ngựa lưu-tinh chạy trạm.
Thời Lý dùng phương tiện truyền tin giống như thời Lĩnh-nam. Trên đường từ các huyện về trấn, đều có những trạm thông tin. Như tại huyện có tin tức, thư tín khẩn, muốn trình về quan tổng-trấn, dùng phương tiện này. Một viên kỵ binh, đeo cái túi vải trước ngực. Trong túi đựng công văn khẩn, rồi phi ngựa từ huyện tới trạm thứ nhất. Tới nơi, trao túi cho viên kỵ binh thứ nhì. Viên này lại phi tới trạm thứ ba. Cứ như thế cho tới trấn. Bất cứ quan, quân, dân lớn nhỏ thấy ngựa lưu tinh đều phải tránh xa. Ai không tránh, phạm tội ngăn trở việc quốc-gia đại sự, phải tội chém.
Viên kỵ binh xuống ngựa đến trước Đàm Toái-Trạng kính cẩn trình lên cái túi trước ngực. Đàm Toái-Trang mở túi ra, lấy công-văn đọc. Y đọc xong đến trước Mỹ-Linh, cúi rập người xuống:
- Khải tấu công chúa điện-hạ, có văn thư khẩn của Khu-mật-viện nói rằng Thiên-tử triều Tống là Thiên-thánh hoàng đế (Tống Nhân-tông) gửi một sứ-đòan sang Chiêm-thành. Sứ đòan sẽ qua trấn Cửu-chân. Khu-mật-viện còn ban lệnh rằng, các quan trấn thủ dọc đường phải cung ứng mọi nhu cầu cần thiết như nhà ở, người hầu, lương thực, cùng sai binh tướng hộ vệ. Lệnh này trái với lệnh cách đây nửa tháng. Cách đây nửa tháng, lệnh nói rằng: sứ đoàn mượn đường qua Chiêm-thành. Không cần hộ vệ, cung ứng nhu cầu ẩm thực cùng tiếp đãi . Tiểu nhân thực không hiểu.
Lý Mỹ-Linh vẫy tay gọi Đinh Ngô-Thương, Đàm Toái-Trạng tới cạnh. Nàng nói nhỏ:
- Khu-mật-viện đổi lệnh, tức là hoàng-thượng đã biết rõ sứ-đòan giả mượn đường để do thám cùng ăn cắp di-thư. Như thế Khu-mật-viện muốn chúng ta thù tiếp, hộ vệ, tức là canh gác họ.
Đàm Toái-Trạng ngơ ngác:
- Truyện mới xẩy ra hai ngày. Bọn hạ thần chưa tấu về triều, sao hoàng-thượng đã biết?
Phò-mã Thân Thừa-Quý nói:
- Vậy chắc chắn sứ-đoàn không có bọn Đông-sơn lão nhân rồi. Vì cách đây hơn tháng, ta với công-chúa được tin báo có bọn gian phi Tống đột nhập vào lãnh địa các khê-động, thuyết phục các động-chủ, trang chủ phản Việt đầu Tống. Ta lập tức cho người theo dõi. Thì ra chúng có đến ba đòan. Ta đánh đuổi hai đòan về Ung-châu. Còn bọn mới tới là bọn này đây. Võ công bọn chúng rất cao cường. Chúng ta âm thầm theo chúng từ Lạng-châu tới Thăng-long. Song chúng không ở lại Thăng-long, mà khẩn cấp lên đường đi Trường-yên. Tại Trường-yên chúng dò thám phủ Khai-quốc vương. Phủ Khai-quốc vương canh phòng cực kỳ chu đáo. Chúng vừa lọt vào đã bị bại lộ. Cao thủ trong phủ Khai-quốc đông như vậy, mà cũng không bắt được chúng.
Đàm Toái-Trạng vừa định lên tiếng hỏi, thì từ dưới đồi, một đòan người ngựa đi lên. Dẫn đầu là Triệu Thành, phía sau còn có bọn Triệu Huy, Vương Duy-Chính. Tay Triệu Huy cầm cây cờ lớn, trên đề chữ Sứ đòan Đại-Tống . Triệu Huy hô lớn:
- Bách quan trấn Cửu-chân, thuộc Giao-chỉ mau mau tiếp sứ thần Thiên-triều.
Sứ đoàn Bình-nam vương Triệu Thành đến Đại-Việt bằng đường Khâm-châu, chứ không bằng đường Ung-châu như thường lệ. Sự thực một bộ phận phụ do bọn Địch Thanh, Đông-Sơn lão nhân theo đường Ung-châu vào dò thám vùng Quảng-nguyên, Lạng-châu. Không ngờ bọn này bị công chúa Bảo-Hòa và phò mã Thân Thừa-Quý khám phá ra, theo dõi rất gắt.
Thủ tục ngọai-giao thời Lý-Tống như sau: Khi sứ đoàn Trung-quốc tới biên giới, báo cho quan trấn-thủ. Quan trấn-thủ có bổn phận tiếp đón cung cấp chỗ ăn, ở, cùng người hầu, kể cả người tắm ngựa, cỏ, cho ngựa ăn. Sau đó cho ngưạ lưu-tinh báo về triều. Triều đình cử quan lên bên giới tiếp dẫn sứ-gỉa đến Thăng-long. Thường là lễ-bộ thượng-thư. Khi sứ đoàn tới nơi, thì thái-tử hoặc hoàng đệ sẽ mở cửa thành ra đón. Thành Thăng-long có các cửa Tường-phù, Quảng-phúc, Đại-hưng và Diệu-đức. Thông thường thì thái-tử mở cửa Đại-hưng ra đón sứ đoàn. Sứ đoàn được hướng dẫn tới cư ngụ ở điện Long-an. Ngày đầu, thái-tử chiêu đãi, trao đổi quà tặng. Ngày thứ nhì chánh, phó sứ vào yết kiến vua ở điện Kiền-nguyên, đọc chiếu chỉ của vua Tống sắc phong cho vua Lý. Song lần này sứ đoàn Bình-nam vương Triệu Thành không đến Đại-Việt, mà chỉ mượn đường sang Chiêm. Vì vậy triều đình cử Dực-thánh vương, em trai của vua hoàng đế lên châu Vĩnh-an đón, hương dẫn về tới Thăng-long, đãi tiệc tặng quà. Bình-nam vương Triệu Thành tự giới thiệu là người trong võ-lâm, không muốn những nghi thức phiền toái. Thành xin Dực-thánh vương để cho sứ đoàn tự tại. Thành xin triều đình sức giấy cho các trấn dọc đường giúp đỡ phương tiện khi được yêu cầu là đủ. Khu-mật-viện lập tức đạt giấy đi khắp nơi.
Nào ngờ Bình-nam vương Triệu Thành, dùng cái vẻ bề ngoài là võ-lâm, không cần nghi-thức, để dễ bề do thám, và nhất là tìm di thư thời Lĩnh-nam. Ngay khi rời Thăng-long lên đường đi Chiêm-quốc, Thành chia sứ đoàn làm hai. Một do Triệu Anh, Ngô Tích, Triệu Huy, Quách Quỳ lên đường đi Cửu-chân trước. Còn một do Triệu Thành dẫn Minh-Thiên, Vương Duy-Chính đi vòng sang Thiên-trường dò thám khu vực ảnh hưởng của phái Đông-a.


--------------------------------------------------------------------------------


Công-chúa Lĩnh-Nam Bảo-quốc hòa dân tại chùa Kiến-sơ thuộc xã Phù-đổng, huyện Gia-lâm, Hà-nội. Chùa xây năm 820, ngay cạnh đền thờ thánh Gióng (Phù-đổng Thiên-vương)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.01.2005 22:04:46 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 06.01.2005 17:48:42 (permalink)
    Hồi thứ mười hai


    Chính Khí Tộc Việt




    Phái đoàn Triệu Huy đã dò la ra tông tích bộ Lĩnh-nam võ-kinh rồi xẩy ra cuộc dụng võ ở đền thờ Tương-liệt đại vương. Quách Quỳ bị bắt. Sau khi bọn Triệu Anh tìm thấy cuốn phổ trong bụng pho tượng. Y tưởng đó là di thư... thì bị người bịt mặt cướp mất. Bọn y đuổi theo, đánh nhau suốt đêm, người bị mặt quẳng trả bọn y cuốn phổ. Bọn y mở ra coi, thất vọng ê chề. Khi trở về tìm Quách Quỳ, thì Quỳ bị bắt giải lên tri huyện. Bọn y bàn với nhau rằng phải vu cáo cho Tôn Trung-Luận ăn trộm châu báu của sứ đoàn. Mưu kế đã định, bọn Triệu Huy tìm đến dinh an-vũ-sứ Đàm Toái-Trạng. Đàm Toái-Trạng sai em là Đàm An-Hòa điều tra. Đàm An-Hòa bị Triệu Anh dụ nên bí mật làm việc với Thiên-sứ, sẽ được phong chức tước lớn. Vì vậy y không cần cứu xét đến luật pháp, yêu cầu huyện lệnh tha Quách Quỳ, rồi chính y trói Tôn Trung-Luận, giải trở về đền Tương-liệt đại-vương. Trong khi đi đường, gặp đoàn của công chúa Bình-dương.
    Còn phái đoàn Triệu Thành đến Thiên-trường, không dò được tin tức gì của phái Đông-a. Bọn chúng lên đường đi Cửu-chân. Dọc đường gặp đòan của Triệu Anh. Triệu Anh cho biết di thư đã hé lộ một chú ánh sáng. Thế là cả hai nhập làm một lên núi Chung-chinh, đụng độ với Khai-quốc vương. Trong khi đi đường, chúng được biết ngày hôm sau có buổi lễ tế Lệ-hải Bà-vương. Vương Duy-Chính cho Triệu Thành biết rõ rằng triều đình nhà Lý phong thần, tổ chức tế Lệ-hải Bà-vương, rõ ràng khuyến khích sĩ dân thiên hạ chống Trung-quốc. Sứ đoàn nên tìm cớ đến đó, may ra tìm được thêm chi tiết nào về di thư chăng. Thế rồi bọn chúng cùng theo Đàm An-Hòa trở lại đền thờ Tương-liệt đại vương, rồi xẩy ra cuộc đụng chạm với người bịt mặt. Triệu Thành bị người bịt mặt bắt đi, rồi được thả ra. Chúng tuyệt vọng, tìm Tôn Trung-Luận,thì được tin ông đã đi dự lễ tế Lệ-hải Bà-vương. Bọn Thành kéo lên dự lễ đúng lúc bọn Địch Thanh bị bắt.
    Đàm Toái-Trạng tới trước ngựa Triệu Thành:
    - An-vũ-sứ trấn Thanh-hóa nước Đại-Việt, xin tham kiến Bình-nam vương, Thiên-sứ Đại-tống.
    Triệu Thành chỉ bọn Địch Thanh:
    - Cô-gia lĩnh chỉ Thiên-tử sang phủ dụ man dân phía nam. Hôm qua đã bị bọn trộm cướp cản đường. Hôm nay tùy tòng của cô-gia lại bị các người bắt trói làm nhục. Thì ra các người không coi Thiên-triều vào đâu cả.
    Triệu Thành nói lớn:
    - Chúa người là Lý Công-Uẩn, trước đây cướp nghiệp của họ Lê, thực đáng ghét. Song Thiên-triều lờ đi cho, tưởng rằng chúa người hết tâm hết sức phủ dụ dân chúng, diệt cướp, bắt trộm. Nào ngờ?
    Y hỏi Vương Duy-Chính:
    - Vương chuyển-vận-sứ, những chức tước đã phong cho Lý Công-Uẩn ra sao?
    Vương Duy-Chính kính cẩn đáp:
    - Niên hiệu Đại-trung Tường-phù thứ 3 (1010) đời vua Chân-tông bản triều đã phong cho chức Kiểm-hiệu thái-phó, Tĩnh-hải tiết-độ-sứ, quan-sát- sứ, xử-trí-xứ, An-nam đô-hộ, Ngự-sử đại-phu, Thượng-trụ-quốc, Giao-chỉ quận- vương, suy-thành thuận-hóa công-thần . Cũng năm đó thêm Đồng-bình-chương-sự . Đến niên hiệu Đại-trung Tường-phù thứ 5 (1012) lại thêm cho Khai-phủ nghi-đồng tam-ti, dực đái công-thần .
    Duy-Chính ngừng lại một lát rồi tiếp:
    - Niên hiệu Đại-trung Tường-phù thứ 7 (1014) lại thêm cho mỹ-tự Bảo-tiết thủ-chính công-thần . Sang niên hiệu Đại-trung Tường-phù thứ 10 (1017) lại gia phong Nam-bình vương . Sang niên hiệu Thiên-hy nguyên-niên (1018) gia phong Kiểm-hiệu thái-úy . Niên hiệu Càn-hưng nguyên-niên (1022) gia phong lên tột đỉnh Kiểm-hiệu thái-sư .
    Triệu Thành thở dài:
    - Thiên-triều không ngớt thăng quan cho chúa người. Chúa người trọng dụng người, ban cho chức an-vũ-sứ coi trấn Thanh-hóa, người lười biếng, để trộm cướp tụ tập. Đến ngay sứ đoàn mà chúng không từ. Hỏi rằng đối với dân chúng, trộm cướp còn hòanh hành tới đâu?
    Tạ Sơn đến trước mặt Triệu Thành nói lớn:
    - Này Bình-nam vương gia. Vương-gia là sứ-gỉa Thiên-triều, đến nước tôi. Ở ngôi chủ nhân, chúng tôi nhường nhịn vương-gia thực, song nhường nhịn cũng có giới hạn. Tống Thiên-tử truyền Vương-gia mựơn đường nước tôi sang Chiêm, chứ không sai vương-gia sang nước tôi ăn trộm. Hôm trước đây bọn Triệu Anh, Ngô Tích, Triệu Huy, Quách Quỳ vào đền thờ Tương-Liệt đại-vương ăn trộm, bị bắt qủa tang. Thế mà họ còn vu cáo cho kẻ bắt trộm ăn cướp vàng bạc của họ.
    Dân chúng nghe Triệu Thành nói năng hỗn láo, tức muốn cành hông, mà không biết phải biện-minh như thế nào cho phải. Nay nghe Tạ Sơn hạch tội bọn Thiên-sứ, họ hả hê trong lòng, cùng vỗ tay vang dội.
    Tạ Sơn tiếp:
    - Nước tôi với qúi quốc, từ mấy nghìn năm đã phân cương vực, tiếng nói, phong tục. Chúa tôi phải nhận sắc phong của qúi quốc chẳng qua là muốn tránh chiến tranh mà thôi. Chứ sĩ dân chúng tôi há sợ Trung-nguyên sao? Sông Bạch-đằng hết hai lần thây người Hán lấp nghẹt chưa đủ sao?
    Tổng-trấn Thanh-hóa lĩnh chức tiết-độ-sứ Đinh Ngô-Thương cũng nói:
    - Thiên-sứ mượn đường qua nước tôi, rồi làm truyện đạo-tặc đó là điều sai quấy không dung thứ. Dù cho chúa tôi có là quan triều Tống chăng nữa, như Vương Duy-Chính vừa nói: Triều Tống phong cho chúa tôi tước Nam-bình vương, kiểm-hiệu thái-sư, Khai-phủ nghị đồng tam-tư... Chức tước chúa tôi cao hơn Vương-gia nhiều. Thế mà Vương-gia kêu tên tục chúa tôi ra mà mạ lị. Xin Vương-gia nhớ rằng gươm chúng tôi để trong bao lúc nào cũng sắc.
    Vương Duy-Chính cười nhạt:
    - Đinh tiết-độ-sứ muốn đe dọa chúng ta ư?
    Đinh Ngô-Thương cười nhạt:
    - Tôi chỉ đem lý ra mà nói. Về vụ trộm cướp trong trấn, không do Đàm an-vũ-sứ trách nhiệm, mà do tôi. Tôi Đinh Ngô-Thương, lĩnh tiết-độ-sứ, Tổng- trấn Thanh-hóa, tôi có bổn phận điều tra vụ trộm ở đền thờ Tương-Liệt đại vương.
    Đinh Ngô-Thương chỉ vào bọn Địch Thanh:
    - Người tùy-tòng của Thiên-sứ can tội trộm, còn phá phách đền thờ anh hùng nước tôi. Tôi có thể vì thể diện của Thiên-sứ mà bỏ qua. Còn bọn này, không có tên trong danh sách tùy-tòng sứ-đoàn. Chúng can tội nhập cảnh không phép, do thám quân tình. Tội nặng khộng tha thứ là chúng giết mệnh quan của chúa tôi giữa lúc đang đọc văn tế.
    Địch Thanh tỏ vẻ quật-cường chỉ vào tên ăn mày bị trói:
    - Giao-chỉ vốn là quận huyện của đại Tống. Hoa nhân, Việt nhân cũng thế. Vậy mà trong bài văn tế, các người không ngớt mạt sát người Hoa. Rõ ràng Vũ Anh-Thông đọc bọn chó Ngô . Vì vậy vị huynh đệ của ta là Lý Tự mới tung phi trùy giết y.
    Công-chúa Bảo-Hòa chỉ mặt Địch Thanh:
    - Này trạng-nguyên họ Địch. Người đường đường là đệ nhất cao thủ Trung-quốc. Người lại là đệ tử của một trong Tứ đại thần kiếm phái Hoa-sơn, mà nói năng như vậy ư? Tên ăn mày này rõ ràng tung ba mũi phi trùy. Hai mũi định giết chết cháu Bình-dương của ta. Một mũi giết Vũ Anh-Thông. May đâu có Trần Thanh-Mai nữ hiệp vung kiếm cứu cháu ta. Còn Vũ Anh-Thông vốn là quan văn nên bị giết chết. Như vậy mà người dám nói rằng tên ăn mày kia nổi giận vì lời văn tế ư?
    Triệu Thành biết sự không ổn. Y tỏ vẻ ôn hòa:
    - Được, cô-gia nhận lỗi vì không quản cố thuộc hạ, để chúng phạm tội. Theo luật bản triều, khi nha thuộc của vương hầu phạm tội, thì trả lại, để chủ trừng trị. Cô gia xin an-vũ-sứ, tiết-độ-sứ vì cô-gia tha cho bọn Địch Thanh và Lý Tự.
    Đinh Ngô-Thương đến trước công-chúa Bảo-Hòa trình:
    - Xin công-chúa điện hạ ban chỉ dụ.
    Bảo-Hòa suy nghĩ không biết giải quyết ra sao thì có tiếng nói nhỏ như muỗi kêu rót vào tai:
    - Nếu nay mình bắt giam bọn Địch Thanh, ắt Triệu Thành chạy về Thăng-long xin triều đình tha bọn chúng, chắc chắn triều đình sẽ ban lệnh ân xá. Chi bằng mình tha chúng tại đây cho giản dị. Như vậy chúng tưởng ta vô dụng. Chúng sẽ hành động không úy kị gì. Trong khi đó ta tung người theo dõi, khắc biết rõ hành tung của chúng.
    Báo-Hòa không biết tiếng của ai, song tiếng nói rất quen thuộc, thân ái, ấm áp vô cùng, rõ ràng là tiếng nói phụ nữ. Nàng thấy người này đưa đề nghị hợp lý, bèn bảo Đinh Ngô-Thương:
    - Thôi chúng ta cũng nên vị nể Bình-nam vương, giao bọn tội phạm cho người trừng trị.
    Đinh Ngô-Thương truyền cởi trói cho bọn Địch Thanh. Đinh vừa truyền lệnh, thì Đông-Sơn lão nhân chuyển động thân mình, bao nhiêu dây trói đứt hết. Địch Thanh quát lên một tiếng, giật mạnh hai tay, dây trói đứt tua tủa. Mọi người đều kinh hoàng về công lực của thầy trò Đông-Sơn. Triệu Thành cười lớn:
    - Cô-gia cần tỏ cho các người biết: thuộc-hạ của cô gia không dễ gì các người bắt được. Sở dĩ họ để cho các người trói, vì cô gia dặn họ khi đến Giao-chỉ thì mình là khách, phải tôn trọng chủ nhân mà thôi. Các người cứ nhìn đó mà coi.
    Địch Thanh tỏ vẻ nhũn nhặn, y tiến tới trước công-chúa Bảo-Hòa:
    - Thân phu nhân. Địch Thanh này kiến thức thô lậu, mong phu-nhân chỉ dạy cho một vài điều.
    Công-chúa Bảo-Hòa gật đầu:
    - Được, Địch trạng-nguyên cứ nói.
    Địch Thanh kính cẩn:
    - Chúng tôi là thần tử nhà Đại-tống. Thân hầu là chưởng-môn phái Tây-vu, lại làm vua một cõi. Thân hầu cùng phu nhân có hàng trăm việc ích lợi cho dân, cho võ lâm. Hà cớ gì hai vị bỏ phí thời gìơ theo cản trở sư-phụ cùng sư-huynh tại hạ. Hơn tháng nay, người của phái Tây-vu không ngớt theo chọc phá bọn tại hạ. Cuối cùng đích thân quân-hầu cùng phu nhân theo bọn tại hạ tới đây? Bọn tại hạ không thù, cũng không hề có điều chi sai quấy với qúi phái, với Lạng-châu.
    Thân Thừa-Quý đáp:
    - Người bảo không có lỗi gì với phái Tây-vu ư? Ta hỏi người nhé: Mấy tháng nay người âm thầm vượt biên giới đến các khê, động thuộc quyền của ta làm gì chẳng lẽ người không tự biết ư? Ngày rằm tháng trước, người tới tổng-đàn của phái Tây-vu lục lọi không còn thiếu gì. Đến ngay tượng của Hồ tiên-cô người cũng lật lên. Tượng của Thiên-ưng lục tướng, người cũng không tha. Như vậy mà người bảo rằng không vô lễ ư?
    Đến đó, một cặp nam nữ thiếu niên leo lên đồi. Nam cực kỳ hùng vĩ tuổi khoảng mười tám. Nữ thì thanh nhã tuổi khỏang mười sáu, mười bẩy. Nam cỡi trên lưng một con cọp lông đen nhánh. Nữ cỡi con ngựa mầu đỏ như máu. Điều lạ là cả hai con vật đều không cương. Họ rời thú, xuống đất. Hai con thú thủng thỉnh theo sau. Hai người đến đứng sau Thân Thừa-Quý.
    Địch Thanh trông thấy đôi nam nữ thiếu niên, y nổi giận lôi đình:
    - Thằng khốn nạn! Con nha đầu kia! Ta phải bắt mi lột da, nấu thịt ăn cho hả giận mới được.
    Y chuyển động thân mình, tay phải xử dụng hổ trảo. Tay trái xử dụng ưng trảo chụp thiếu nữ. Thiếu nữ dường như không để ý đến hai thế trảo của Địch Thanh. Nàng cười ha hả. Chỉ chậm một chút, trảo của Địch đã bao trùm người nàng.
    Tạ Sơn đứng gần, thấy vậy vội phát một quyền đánh vào lưng Địch Thanh. Chàng hy vọng, y phải thu tay về đỡ thế quyền của chàng, thì thiếu nữ có thời giờ phản kích. Không ngờ Địch Thanh biến trảo trái thành chưởng, đỡ quyền của Tạ-Sơn. Tay phải tiếp tục chụp thiếu nữ. Binh một tiếng, Tạ Sơn bật lui đến ba bước, khí huyết chạy nhộn nhạo, tai chàng kêu lên những tiếng vo vo không ngớt. Chàng cảm thấy khí từ ngực đưa lên cổ. Oẹ một tiếng, chàng mửa ra búng máu.
    Địch Thanh cười nhạt:
    - Xin lỗi Tạ chỉ huy sứ. Tại hạ mới vận có ba thành công lực.
    Tạ Sơn biết y nói thực. Chàng muốn nhảy đến giải cứu cô bé, mà vô lực.
    Mọi người kinh hoảng, thấp thoáng một cái, có bóng nâu rơi vào giữa Địch Thanh với thiếu nữ. Bóng đó chụp thiếu nữ nhảy lùi hai bước. Địch Thanh nhảy theo, tay trái y phát quyền đánh vào vai bóng nâu. Bóng nâu tung quyền đỡ. Bộp một tiếng, cả hai đều bật lui lại.
    Bấy giờ mọi người mới thấy bóng nâu là một nhà sư. Mặt nhà sư trơ như gỗ, rõ ràng ông đeo mặt nạ da người, lộ đôi mắt sáng loáng. Địch Thanh kinh hãi tự nghĩ:
    - Ta tưởng với bản lĩnh mình, hiện vô địch thiên hạ. Tại sao nhà sư này lại đỡ được quyền của ta? Trông y dường như còn trẻ thì phải?
    Địch Thanh cười nhạt:
    - Nam nữ thụ thụ bất tương thân. Tiểu sư phụ động lòng trần, ôm thiếu nữ trong tay thế kia, thanh qui để đâu?
    Nhà sư không nói không rằng, nhảy lui một bước, vô tình ông tới trước Dư Tĩnh. Dư Tĩnh phóng một chưởng cực kỳ hùng hậu vào nhà sư. Nhà sư xuất chưởng đỡ. Bùng một tiếng. Cả hai lùi lại. Nhà sư tung thiếu nữ ra xa, đỡ chưởng thứ nhì của Dư Tĩnh, thì Địch Thanh đã chụp được thiếu nữ.
    Mọi người đều kinh ngạc tự hỏi:
    - Bản lĩnh điện tiền chỉ huy sứ đâu phải tầm thường? Thế sao chỉ một chiêu hời hợt của Địch Thanh, đã phun máu miệng. Như vậy công lực y ắt cao thâm khôn lường! Thế nhưng nhà sư là ai? Dáng người còn trẻ thế kia, mà coi bộ không thua gì Dư Tĩnh, Địch Thanh. Lại nữa, giữa chốn đông người, nhà sư dám ôm thiếu nữ, thực là điều không tưởng tượng nổi.
    Nhà sư vọt người theo tấn công Địch Thanh, thiếu nữ nói:
    - Đa tạ tiểu sư phụ. Tên này không hại được tiểu nữ đâu. Tiểu sư phụ khỏi mất công dạy dỗ y.
    Nhà sư khoanh tay nhìn Địch Thanh.
    Từ lúc nhà sư xuất hiện, trong lòng Thanh-Mai nảy ra những tình cảm nao nao trong dạ, khó hiểu. Dáng dấp nhà sư rất thân ái, rất quen với nàng, mà tuyệt nàng không nhớ gặp ông ở đâu?
    Địch Thanh nhấc bổng thiếu nữ lên rồi hỏi:
    - Suốt một tháng qua, người theo dõi ta làm gì? Anh em người trêu ghẹo ta dọc đường với mục đích gì? Lại cả tên hòa thượng áo nâu này nữa.
    Dường như thiếu nữ không tỏ vẻ sợ hãi. Nàng cười lớn:
    - Thế người bắt ta làm gì? Người có bỏ ra không?
    Con cọp xám thấy chủ lâm nguy, nó gầm lên một tiếng, chồm hai chân trước chụp Địch Thanh. Địch Thanh vọt mình lên cao. Tay trái y túm thiếu-nữ. Tay phải phóng một chưởng xuống đầu con cọp xám. Chưởng phong của y cực kỳ hùng hậu, những người đứng gần đều cảm thấy nghẹt thở, phải bật lui mấy bước để hóa giải. Con cọp nhảy lên cao tránh thế chưởng của Địch. Chưởng đánh xuống đất, bùng một tiếng, lủng thành một hố khá sâu.
    Thiếu nữ quát lanh lảnh:
    - Sơn-Sơn, không được vô phép. Ta với Địch trạng nguyên đùa cợt chơi, mi mau lui ra.
    Con hùm xám vẫy đuôi lui lại.
    Nàng nói với Địch Thanh:
    - Người đùa như vậy đủ rồi, hãy bỏ ta xuống.
    Địch Thanh cười nhạt:
    Ta không bỏ người xuống. Nếu người không trả lời ta, ta vung tay một cái, người sẽ nát xương ra mà chết.
    Thiếu nữ hỏi công chúa Bảo-hòa:
    - Mạ mạ ơi, giết tên này hay tha?
    Bấy giờ mọi người mới biết nàng là con gái của công chúa Bảo-hòa và lạc-hầu Thân Thừa-Quý. Lạ một điều, con gái bị một cao thủ nhấc lên, tính mệnh khó bảo tòan, mà hai người thản nhiên như không. Nghe con gái hỏi, công chúa Bảo-hòa nghiêm nghị:
    - Con hư, Địch trạng nguyên với con đùa bỡn nhau đã hơn tháng nay, sao con đòi giết người ta. Hãy tha Địch trạng nguyên ra.
    Thiếu nữ cười khúc khích:
    - Này Địch Thanh. Mạ mạ ta bảo ta không được giết người. Vậy người bỏ ta xuống mau. Bằng không người chết thì mạ mạ đánh đòn ta đó.
    Địch Thanh cùng mọi người còn ngơ ngác, không hiểu bằng cách nào, mà thiếu nữ dám đe dọa Địch trong khi Địch vung tay một cái, nàng nát xương ngay.
    Địch Thanh cười:
    - Thì ra cô nương là quận chúa, ái nữ của lạc hầu Lạng-châu đấy. Này quận chúa, nếu người có tài hãy thóat khỏi tay ta, ta mới phục.
    Thiếu nữ cười khúc khích:
    - Được!
    Bỗng Địch-Thanh kêu lên một tiếng aí chà rồi buông tay ra nhảy lùi lại. Thiếu nữ ung dung đến bên mẹ. Nàng cười:
    - Mạ mạ ơi. Con tha nó rồi đấy.
    Bấy giờ mọi người mới thấy Địch Thanh hai tay ôm lấy nhau tỏ vẻ đau đớn cùng cực. Triệu Thành hỏi:
    - Địch trạng nguyên, cái gì vậy? Địch Thanh nhăn nhó:
    - Trúng độc.
    Hai tay Địch tím ngắt, sưng vù trông thực khủng khiếp. Triệu Thành cười nhạt:
    - Thân lạc hầu, Tây-vu là danh môn chính phái. Tại sao qúi ái nữ lại dùng độc dựơc hại người của ta.
    Thiếu nữ cười nhe hàm răng trắng như bắp:
    - Này ông Thiên-sứ. Tôi có phóng độc hại Địch trạng nguyên đâu. Địch trạng nguyên chụp tôi. Trên người tôi có chất độc, Địch trạng nguyên tự mình làm, tự mình chịu, sao Thiên-sứ còn trách bố tôi. Tôi đã hỏi mạ mạ rằng giết hay tha y. Mạ mạ bảo tha, chứ không tôi đã giết y rồi. Y trúng độc của tôi không chữa thì trong một ngày mới chết, chứ bây gìơ thì không sao cả. Y muốn sống, cũng dễ thôi, điều cần thiết là y phải chặt hai tay đi.
    Đông-Sơn lão nhân muốn dùng võ công. Song Triệu Thành đưa mắt tỏ ý ngăn cản. Rồi y hướng vào công-chúa Bảo-hòa:
    - Công chúa điện hạ. Địch trạng nguyên trẻ người non dạ, lỡ vô phép với qúi quận chúa. Mong công chúa dung tình ban thuốc giải.
    Công-chúa Bảo-hòa mỉm cười:
    - Bình-nam vương gia. Địch trạng nguyên với mấy đứa con tôi tuổi còn trẻ. Chúng đùa với nhau cho khỏi buồn. Vương gia để tâm làm gì.
    Bà nói với Đàm Toái-Trạng:
    - Đàm an-vũ-sứ. Nhân có Vương gia cùng sứ đòan đến đất Cửu-chân lễ đền thờ Lệ-hải Bà-vương. Xin an-vũ-sứ chuẩn bị cho sứ đoàn vào lễ.
    Triệu Thành kinh ngạc:
    - Cô-gia phải lễ... Triệu Ẩu ư?
    Triệu Thành chợt hiểu, đây là điều kiện công-chúa Bảo-hòa đặt ra: muốn cứu Địch Thanh, thì y phải khấu đầu làm lễ trước lăng mộ một vị thần linh Giao-chỉ. Điều y không thể chấp nhận. Triệu Trinh-Nương đối với dân Việt, thì là một vị đại anh hùng, phất cờ khởi nghĩa, toàn dân cúi đầu phụng thờ. Vua Lý vừa ban sắc chỉ phong làm Lệ-hải Bà-vương, tôn kính không gì bằng. Đối với người Hoa, thì bà là một cô gái ương nghạnh, tụ tập bè đảng làm loạn thời Tam-quốc, bị dẹp tan. Thường người Hoa gọi là Triệu Ẩu. Triệu Thành đường đường là hoàng đệ, lĩnh chức thái-úy coi Khu-mật-viện tước phong đến Bình-nam vương, cầm binh quyền Thiên-triều trong tay. Y sang Đại-Việt với tư cách sứ thần thay mặt vua. Thế mà nay phải cúi đầu làm lễ trước Triệu Ẩu thì còn gì là thể thống? Nhưng y tự biết cục diện ngày hôm nay, nếu y không nghe lời công-chúa Bảo-hòa thì Địch Thanh phải chết.
    Y khôn ngoan, lại có tài thu phục nhân tâm. Y nghĩ đến khi xưa Ngô Khởi thân làm tướng mà ghé miệng mút mủ ở vết thương cho một người lính, sau việc đó tiếng đồn lan rộng, quân lính không ai mà không cảm phục Ngô. Y quyết định rất nhanh: phải cứu Địch Thanh. Y lẳng lặng đi trước, bọn Vương Duy-Chính, Đông-Sơn lão nhân theo sau.
    Bọn Triệu Thành vừa đến trước bàn thờ, thì Đàm Toái-Trạng hô lớn:
    - Tấu nhạc!
    Chiêng, trống, nhạc nổi lên. Triệu Thành qùi trước, bọn Vương Duy-Chính quỳ sau. Mỗi người lễ 8 lễ. Lễ tất. Công chúa Bảo-hòa tươi cười nói:
    - Nào chúng ta bầy cỗ mời Thiên-sứ cùng sứ đoàn thụ lộc Bà-vương.
    Bấy giờ công chúa Bảo-hoà mới lễ phép hỏi nhà sư trẻ:
    - Tiểu sư phụ! Đa tạ tiểu sư phụ quan tâm tới cháu gái nhà tôi. Tiểu sư phụ pháp danh là gì? Đệ tử cao nhân nào?
    Nhà sư tần ngần một lát rồi đáp:
    - Xin công chúa thứ lỗi. Tiểu tăng vì lẽ riêng không thể thố lộ thân thế cùng sư đồ. Tiểu tăng được lệnh sư phụ theo dõi sứ đoàn, phòng họ ăn trộm bảo vật Đại-Việt.
    Công chúa Bảo-hoà nghĩ thầm:
    - Dường như thiếu niên này không phải nhà sư thực. Y được cao nhân nào đó sai theo dõi sứ đoàn. Căn cứ vào tiếng nói, y còn trẻ, khoảng hai chục tuổi là cùng. Với hai chục tuổi, mà võ công y đến trình độ này, thì sư phụ y hẳn phải là nhân vật khét tiếng. Mắt y luôn luôn để vào Bảo-Hoà, rõ ràng y có tình ý với con gái ta. Được, ta lờ đi cho tình cảm ấy nảy nở. Y đã xiêu lòng vì Bảo-Hòa, trước sau y cũng phải tìm đến ta.
    Triệu Thành thấy Bảo-Hòa lờ đi không cho Địch Thanh thuốc giải. Nếu y thôi thúc thì chẳng hóa ra nhát gan sao? Chợt nghĩ được một kế, y bảo Địch Thhanh :
    - Địch trạng nguyên mau đến tạ ơn công chúa đã cứu mạng đi.
    Địch Thanh giận tím gan, nhưng đứng trước cái chết gần kề. Y phải tuân lệnh chủ nhân. Y đến trước công-chúa Bảo-hòa khom lưng:
    - Tiểu nhân đa tạ công-chúa cứu mạng.
    Công-chúa Bảo-hòa chỉ con gái:
    - Nó là con gái của chúng tôi tên Thân Bảo-Hòa. Chúng tôi hiếm hoi, được hai trai đầu lòng, mà chỉ có mình nó là gái. Vì vậy tôi lấy nhũ danh của mình đặt cho con.
    Lịch sử Việt-nam nói về công chúa Bảo-Hòa có hai thuyết khác nhau. Một thuyết nói ngài là con thứ vua Lý Thái-tổ, gả cho Thân Thừa-Quý, lạc hầu Lạng-châu, có công lớn trong việc đánh Nùng Trí-Cao, bình Chiêm. Một thuyết nói công chúa vốn là người miền thượng, cùng hai anh có công đánh sang vùng Ung-châu, Liêm-châu, kháng chiến hồi quân Tống xâm lăng Đại-Việt. Các sử gia đời sau không ngớt cãi nhau. Sự thực có đến hai công chúa Bảo-Hòa. Chỉ độc gỉa Anh hùng Tiêu-sơn là biết rõ ràng rằng trong trường hợp nào, tại sao có hai anh hùng cùng mang tên Bảo-Hòa. '
    Quận chúa Thân Bảo-Hòa vẫy tay:
    - Địch trạng nguyên, lại đây, tôi cho thuốc giải.
    Phò-mã Thân Thừa-Quý sợ con mình làm nhục Địch Thanh qúa, gây thù chuốc oán sau này. Ông móc trong bọc ra hai viên thuốc, đưa lên tay búng một cái. Hai viên thuốc quay tròn với tốc độ thực mau, kêu lên nhửng tiếng vo vo từ từ bay tới Địch Thanh. Khi hai viên thuốc sắp tới tay Địch Thanh thì vỡ tan thành bụi chụp xuống người y.
    Một đám mây trắng trôi ngang bầu trời xanh ngắt. Ánh nắng dịu hẳn xuống, gío chiều thổi nhè nhẹ, không khí buổi lễ bớt ngột ngạt.
    Trong khi biến cố xẩy ra, Thanh-Mai ngồi yên lặng phía sau Mỹ-Linh, để bảo vệ cho sư muội. Từ lúc thấy anh em Thân Bảo-Hòa lên đồi, phong thái uy nghi, tư cách khác phàm. Tuổi họ ngang nàng, võ công e không thua. Qua mấy câu đối đáp, Thanh-Mai biết đây là những người được giáo dục giống chị em nàng. Sợ nàng quên mất việc Lý Tự giết Vũ Anh-Thông, Thanh-Mai nói nhỏ vào tai Bảo-Hòa mấy câu. Thân Bảo-Hòa gật đầu cười. Nàng hướng vào Triệu Thành:
    - Triệu vương gia, bố tôi đã ban thuốc giải cho Địch trạng nguyên. Thế còn việc tên Lý Tự giết mệnh quan Đại-Việt thì vương gia tính sao đây? Miệng nói, tay nàng ngắt bông hồng trên lộc bình cạnh bàn thờ, cài lên mái tóc Thanh-Mai, rồi liếc ngang mắt nhìn người bạn mới. Thanh-Mai nắm lấy tay Bảo-Hòa.
    Triệu Thành xuất thân là một hoàng tử, tài kiêm văn võ. Với tuổi của y, thì trong nhà không thiếu gì thê thiếp xinh đẹp. Ở Trung-nguyên, quyền lực y chỉ thua có hoàng đế. Y hăng say tổ chức quân đội, giao du với võ lâm, cho nên các khuê nữ, tiểu thư, quận chúa ngưỡng mộ y như một ông thần. Y muốn cô nào, cha mẹ cô ấy hãnh diện đem con gái dâng cho. Những người con gái đến với y trong tư thế dâng hiến, khiến cho y không mấy ưa thích. Từ ngày bôn tẩu giang hồ sang Đại-Việt đã hơn hai tháng không gần đàn bà, khiến y nhìn cô gái nào cũng thấy đẹp. Hôm đầu gặp Trần Thanh-Mai, y đã chết mê, chết mệt vì nhan sắc của nàng. Y tìm thấy ở Thanh-Mai, một thiếu nữ hồng hào, khoẻ mạnh, linh họat của người tập võ. Hơn nữa hầu hết thiếu nữ Trung-nguyên thấy y là qùi gối hành lễ. Lần đầu tiên y thấy một thiếu nữ chất vấn, đấu chửơng với y. Hôm nay y gặp công-chúa Bảo-hòa với nhan sắc diễm lệ trong tư thế uy nghiêm của một vua Bà. Cạnh công chúa Bảo-hòa còn con gái bà, còn Mỹ-Linh... toàn người đẹp mà y không thể tưởng nổi. Cho nên khi nghe quận chúa Thân Bảo-Hòa chất vấn, y tỏ vẻ muốn được nghe nàng nói truyện:
    - Thân quận-chúa. Theo ý quận-chúa, điều kiện gì quận chúa mới tha cho Lý Tự?
    Thân Bảo-Hòa chỉ Đàm Toái-Trạng:
    - Cũng dễ thôi, Vương gia trao y cho tuyên-vũ-sứ xử theo luật lệ Đại-Việt. Luật lệ Đại-Việt có dự trù trường hợp kẻ sát nhân muốn tránh khỏi tội, nạp tiền thế mạng.
    Nàng quay lại hỏi Đàm Toái-Trạng:
    - Đàm đại nhân, trường hợp Lý Tự giết chết Vũ Anh-Thông, thì y phải bồi thường cho gia đình nạn nhân bao nhiêu tiền?
    Đàm Toái-Trạng đáp:
    - Theo bộ Hình thư bản triều, tội cố sát phải nộp một ngàn lượng vàng. Trong một ngàn lượng, hai trăm lượng nộp vào công khố, tám trăm lượng trao cho người thừa kế nạn nhân.
    Triệu Thành cười:
    - Được, cô-gia nộp vàng thế mạng cho Lý Tự.
    Y quay laị hất hàm, Triệu Huy mở trong bọc lấy ra một trăm nén vàng, trao cho Triệu Thành:
    - Khải tấu vương gia, đây một trăm nén, mỗi nén mười lượng, cộng thành một ngàn lượng.
    Triệu Thành cầm vàng trao cho quận chúa Thân Bảo-Hòa:
    - Thân quận chúa, tại-hạ xin nhờ quận chúa trao vàng cho gia đình Vũ Anh-Thông. Bây giờ tại hạ phải lên đường đi Chiêm-thành. Lúc trở về thế nào cũng tới Lạng-châu tạ lỗi với Thân lạc hầu, phu nhân và nhất là với quận-chúa.
    Thái độ của Triệu Thành đối với quan chức Đại-Việt rất hống hách. Song đối với Thanh-Mai, Thân Bảo-Hòa lại rất nhũn nhặn. Y hướng Thanh-Mai, Bảo-Hòa xá một xá:
    - Trần, Thân cô nương, non xanh còn đó, thế nào trên đường trở về,tại hạ cũng đến Thiên-trường, Lạng-châu thăm các vị.
    Từ lúc lên đồi, thiếu niên đi cạnh Thân Bảo-Hòa không nói một câu. Bây giờ chàng mới lên tiếng:
    - Địch trạng nguyên. Người bắt em ta nhấc lên định giết chết về tội trêu ghẹo người suốt tháng qua. Chẳng may trên áo em ta có phấn độc, nên người tự hại người. Chắc người còn ấm ức chưa tiết hận ra được phải không?
    Địch Thanh đã đến cửa qủi-môn quan, được trở về. Tuy vậy trong lòng y còn giận cành hông. Nghe Thân Thiệu-Thái hỏi. Y trả lời bằng cái gật đầu. Trái với em gái lí lắc, Thiệu-Thái nghiêm trang, uy nghi. Chàng cười lớn:
    - Địch trạng nguyên võ công cao, kiến thức không tầm thường mà sao hủ lậu quá vậy. Bố ta hiện là phò mã hoàng đế Đại-Việt, được trao trọng trách trấn nhậm biên cương phía Bắc. Ngoài phòng gian, trong phủ dụ dân chúng, thì nhất cử nhất động của biên sự người phải biết. Ngay khi trạng nguyên cùng tôn sư vượt biên vào Quảng-nguyên của Hoàng sư thúc, bố ta đã biết rồi. Người còn đi dụ các trang động tham dự cái gì Thiên-hạ anh hùng đại hội vào năm tới. Có đúng không?
    Đông-Sơn lão nhân cùng Địch Thanh sượng sùng nhìn nhau. Vì cả hai thầy trò nhập biên Việt trời không biết, qủi không hay, sao Thân Thừa-Quý lại biết rõ ràng như vậy?
    Thân Thiệu-Thái biết Địch Thanh đang nghĩ gì rồi. Chàng tiếp:
    - Người không tin ư? Để ta nói cho người hay. Đầu tiên hai thầy trò người theo bọn lái buôn băng qua động Hoành-sơn thuộc Ung-châu, rồi vào châu Quảng-nguyên của Lưu sư thúc ta. Sau đó người trở về động Thái-bình thuộc châu Ung nghỉ trong bẩy ngày, rồi lại vào động Đình-lập thuộc châu Tô-mậu của thái sư thúc Vi. Từ đó người băng rừng vào Lạng-châu. Mạ mạ ta không nỡ hại người, sai anh em ta theo dõi. Em gái ta đùa cợt người, để người hiểu rằng tung tích bại lộ mà trở về Trung-nguyên. Không ngờ người chẳng hiểu nổi thiện ý của mạ mạ ta.
    Mặt Địch Thanh tái nhợt. Y than thầm: Mình đáng chết thực. Hành tung bị lộ mà không biết.
    Thiệu-Thái chỉ vào nhà sư trẻ tiếp:
    - Khi thầy trò người tới động Quang-lang, vô tình chúng ta khám phá ra rằng người còn bị tiểu sư phụ này theo dõi nữa. Người mua bánh chưng mang theo ăn. Em gái ta muốn cảnh cáo người, nên nhờ tiểu sư phụ lén lấy trộm bánh chưng của người, bóc ra, ăn mất nhân. Rồi nó bỏ vào đó một con chuột chết, gói lại cẩn thận. Bởi vậy người mới được ăn thịt chuột thối.
    Hôm trước thầy trò Địch Thanh mua bánh chưng, gói mang theo vì sợ rằng trên đường len lỏi vào các khê động không có hàng quán. Buổi trưa thày trò cắt bánh ra ăn, thì ôi thôi, nhân bánh là một con chuột, máu me dơ bẩn. Đông-Sơn lão nhân biết có bàn tay bí mật của cao nhân trêu chọc, mà không hiểu nổi bằng cách nào đã thay nhân bánh bằng con chuột chết. Trí nhớ giúp lão loé ra ánh sáng: một đêm nọ thầy trò ngủ trong rừng. Hai người cẩn thận treo cặp bánh lên cành cây, vì sợ để trong bọc, trời nóng dễ bị thiu. Không ngờ với bản lĩnh hai thầy trò nghiêng trời lệch đất, mà trong khi ngủ dưới gốc, bị người ta đổi bánh trên cành cây không hay. Y đưa mắt nhìn nhà sư:
    - Tên trọc còn trẻ, mà bản lĩnh tới dường này thực hiếm có.
    Thân Bảo-Hòa cười khúc khích:
    - Lúc người đến Vạn-nhai, người ăn trộm công khố Đại-Việt mười nén vàng. Người có mau đem trả không? Úi chao, ông trạng nguyên ăn trộm, đẹp mặt chưa?
    Địch Thanh giận tím gan, y quát lớn:
    - Vu cáo. Cô nương vu cáo cho người ta. Cô nương bảo ta ăn trộm, theo luật của Tiêu thừa tướng, thì bắt trộm phải có chứng cớ. Vậy chứng cớ đâu?
    Thân Bảo-Hòa cười nhe hàm răng trắng như bắp. Nàng mặc bộ quần áo ngũ sắc của vùng cao nguyên, khăn choàng cổ, dây lưng mầu hồng nhạt. Gió trên đồi thổi, y phục nàng bay phất phới trông như một thiên tiên. Nàng thừa biết Địch Thanh muốn nói rằng theo luật Tiêu Hà đời Hán làm ra, đến nay còn giá trị đối với triều Tống. Nàng vờ không biết:
    - Đây là đất Đại-Việt, thì phải dùng luật Đại-Việt. Ta chỉ biết luật Đại-Việt do công-chúa Phùng Vĩnh-Hoa làm thời vua Bà, chứ không biết luật của Tiêu thừa tướng hay tỏi thừa tướng nào cả.
    Sĩ dân Việt biết quận-chúa Bảo-Hòa đùa bỡn Địch Thanh, đem một danh nhân thời Hán ra làm trò cười. Mọi người cười ồ lên. Thân Bảo-Hòa liếc nhìn bố, mẹ, thấy cả hai cùng cười, nàng càng được thể, tiếp:
    - Vàng của công khố Đại-Việt đều gốc từ châu Quảng-nguyên. Mỗi thỏi vàng nặng mười lượng, trên có khắc chữ Thuận-thiên quốc bảo . Người ăn cắp vàng của Đại-Việt hoàng đế để trong bọc. Người có gan thử mở bọc ra cho mọi người coi nào?
    Triệu Thành đưa con mắt nghiêm khắc nhìn Địch Thanh. Khi rời Trung-nguyên sang Đại-Việt, Tống-đế đã chỉ dụ cho sứ đoàn phải dùng vàng bạc, châu báu mua chuộc quan lại, trang-chủ, động-chủ, khiến cho họ tối mắt lại mà theo Tống. Bây giờ nghe Thân Bảo-Hòa kết tội thầy trò Địch Thanh chắc như đinh đóng cột thì sự kiện không sai được. Bất cứ thầy trò Địch phạm tội gì y, cũng có thể tha thứ, duy tội trộm cướp thì không dung. Dung thứ sao được khi mục đích chuyến đi là đem cái giầu có, sung túc của Trung-nguyên khoe với Man-di, mà sứ đoàn ăn trộm thì không khác gì bôi do trát trấu vào mặt Tống-đế.
    Địch Thanh kinh hỏang, song y tự tin mình không trộm cắp thì dù Bảo-Hòa có vu oan cũng khó. Y mở bọc ra,trong bọc nào quần áo, nào sách vở, nào thuốc men, nào ám khí. Cuối cùng tới cái túi vải nhỏ. Y móc trong túi ra mười thỏi vàng sáng chói, đưa ra nói:
    - Đây rõ ràng là vàng Trung-nguyên, chứ làm gì có vàng Giao-chỉ mà...
    Y chưa nói hết câu, thì há hốc mồm ra, vì trên mười thỏi vàng, đều có in hình nổi của đức Quan-thế-âm, dưới có khắc chữ Thuận-thiên quốc bảo . Thân Bảo-Hòa nói với Triệu Thành:
    - Bình-nam vương gia, xin vương gia chứng cho: Địch trạng nguyên ăn cắp vàng, tôi nói đâu có sai? Nếu là vàng Đại-Tống thì khắc chìm hình hai con rồng chầu vào nhau, dưới có chữ Thiên-thánh bảo-khố chứ đâu có khắc hình Phật và niên hiệu hoàng-đế Đại-Việt?
    Vương Duy-Chính chạy lại cầm các thẻ vàng lên coi, rõ ràng hình Phật Quan-thế-âm nổi, không chối cãi vào đâu được. Y nói với Triệu Thành:
    - Vương gia. Vàng Đại-Việt thực.
    Địch Thanh cố moi óc xem bằng cách nào y đã bị đánh tráo vàng. Lúc khởi hành, Triệu Thành trao cho thầy trò y hai mươi nén vàng. Dọc dường y đã chi mất mất nén để mua chuộc khê-động, còn mười nén. Thế mà nay vàng Tống bỗng hóa ra vàng Giao-chỉ. Trong đầu óc y lóe ra một tia sáng. Nguyên lúc đến thuyết phục động trưởng Vạn-nhai, y đã đem tất cả hai nươi nén vàng bầy ra cho động-trưởng coi. Cạnh động-trưởng có một thanh niên đã cầm từng nén một bỏ vào túi cho y. Bây giờ y mới biết thanh niên đó là Bảo-Hòa giả trai. Song tình ngay, lý gian, khó cãi. Y đến trước Triệu Thành qùi xuống:
    - Vương gia. Thần bị oan.
    Triệu Thành có con mắt tinh đời. Y chỉ liếc qua đã biết Địch Thanh bị oan, mọi việc do Thân Bảo-Hòa xếp đặt. Y bảo Địch Thanh:
    - Người đem số vàng Đại-Việt, trả về cho Thân hầu.
    Địch Thanh giận tím mặt, song y phải cầm vàng trao cho Thân Thừa-Quý.
    Triệu Thành hô lớn:
    - Đi thôi.
    Y vọt lên ngựa, cùng đám tùy tòng xuống núi.
    Công-chúa Bảo-hòa gọi với theo:
    - Bình-nam vương gia. Khoan!
    Triệu Thành dừng ngựa lại:
    - Không biết công-chúa còn muốn dạy tại hạ điều chi nữa?
    Khác với mọi người, y hống hách trong chức vụ Thiên-sứ. Nhưng vì ngây ngất trước sắc dẹp Thân Bảo-Hòa, y dùng danh xưng võ lâm với mẹ nàng. Y còn dùng chữ dạy dỗ. Chỉ nghe vài lời đối đáp giữa Triệu Thành với con gái, cùng nhìn con mắt lấm lét của y, công-chúa Bảo-hòa đã hiểu tâm lý y. Bà cười:
    - Cách đây mấy hôm Khu-mật-viện lệnh cho quan chức Cửu-chân theo dõi việc sứ đoàn mượn đường qua đây. Song hôm nay lại nhận được lệnh mới, nói rằng cần hộ tống, bảo-vệ. Sở dĩ có lệnh mới, vì hôm trước tùy tùng của vương-gia là Triệu Huy báo với tuyên-vũ-sứ việc nhân viên sứ đoàn bị trộm cướp. Bây gìơ xin vương gia khoan đi, để chúng tôi sai tướng-binh theo hộ vệ.
    Bà quay lại nói với Đàm Toái-Trạng:
    - Tuyên-vũ-sứ, xin tuyên-vũ-sứ đích thân hộ tống sứ đoàn đến biên giới Chiêm-thành. Tôi cho đô-thống Nguyễn Khánh đem toàn bộ đạo Ngự-long theo.
    Triệu Thành kinh hoàng trong lòng. Y tự nhủ:
    - Hệ thống tế-tác Giao-chỉ thực kinh khủng. Đại-tống ta không thể nào theo kịp. Bọn Địch Thanh nhập biên bí mật như thế, mà bị chúng theo dõi, khám phá hết tung tích, hành trạng. Truyện ta với bọn Triệu Huy tìm di thư, mới hôm qua đây, mà Khu-mật-viện đã kịp thời truyền lệnh xuống. Với Đàm Toái-Trạng, Nguyễn Khánh thêm đạo quân Ngự-long, có khác gì chúng bỏ tù ta? Con bà nó. Tụi Giao-chỉ làm bộ lễ phép, phục vụ ta. Kỳ thực chúng áp tải ta. Thôi đành chịu.
    Đàm Toái-Trạng cùng Nguyễn Khánh, dẫn đạo Ngự-long theo bọn Triệu Thành xuống đồi.
    Thân Bảo-Hoà nói với nhà sư trẻ:
    - Tiểu sư phụ. Chúng ta cùng làm việc với nhau hơn tháng qua. Thế mà thủy chung tiểu nữ vẫn không biết dung nhan tiểu sư phụ ra sao. Tiểu sư phụ có thể bỏ khăn ra cho mọi người biết được chăng?
    Nhà sư chắp tay:
    - Tiểu tăng có tâm sự riêng, không thể lộ diện được. Mong quận chúa miễn trách phạt.
    Nói rồi nhà sư chắp tay xá một xá. Thấp thoáng, nhà sư đã biến vào đám dân chúng dự lễ.
    Từ lúc nhà sư xuất hiện, trong lòng Thanh-Mai cảm thấy bồi hồi khó tả. Nhìn dáng nhà sư rất quen, mà nàng không biết đã gặp ở đâu.
    Đinh Ngô-Thương mời tất cả đòan tùy tùng Mỹ-Linh cùng Thân Thừa-Quý về dinh tổng-trấn. Tới dinh, Thân Thừa-Quý nói với Đinh Ngô-Thương: Tôi có việc bàn riêng cùng công chúa, xin tiết-độ-sứ cho được tự do.
    Đợi Đinh Ngô-Thương cùng các quan ra ngoài, trong phòng chỉ còn Tịnh-Huyền, Mỹ-Linh với vợ con, phò-mã Thân Thừa-Quý chỉ Tịnh-Huyền:
    - Công chúa cùng các con có biết ai đây không?
    Thân Thiệu-Thái, đưa mắt nhìn rồi nói:
    - Bố ơi, có gì lạ đâu, đây là một sư bà đạo cao đức trọng.
    Thân Bảo-Hòa suy nghĩ một lát rồi trả lời:
    - Con thấy dường như sư bà với mạ mạ cùng em Mỹ-Linh giống nhau. Phải chăng sư bà là dì, là cô hay là chị của mạ mạ.
    Thân Thừa-Quý hỏi vợ:
    - Còn công chúa. Công chúa thấy thế nào?
    Công-chúa Bảo-hòa bật lên tiếng kêu:
    - Cô mẫu!
    Bà quên cả lễ nghi đương thời, chạy đến ôm lấy Tịnh-Huyền, nước mắt dàn dụa.
    Thân Thừa-Quý đưa mắt ra hiệu cho các con cùng qùi xuống ,rồi hô lớn:
    - Thần nhi kính cẩn ra mắt đại công-chúa điện hạ.
    Sư-thái Tịnh-Huyền phất tay, ra hiệu miễn lễ:
    - Các con không nên đa lễ. Mọi việc ở Lạng-châu tốt đẹp cả chứ?
    Thân phụ của Thân Thừa-Quý là Thân Thiệu-Anh được vua Lý Thái-tổ gả em gái là công chúa Hồng-Châu cho. Trên đường về Lạng-châu, công chúa truyền nữ tỳ xinh đẹp thay mình lấy chồng, còn bà đi tu, pháp danh Tịnh-Huyền. Sau 15 năm, sư thái Tịnh-Huyền tuân lời sư phụ, trở về Lạng-châu, nói hết mọi truyện cho Thân Thiệu-Anh nghe. Bấy gìơ Thiệu-Anh mới bật ngửa ra rằng vợ mình không phải em nhà vua, mà chỉ là một nữ tỳ. Sư thái Tịnh-Huyền đền bù cho Thiệu-Anh bằng cách hỏi con gái anh mình là công-chúa Bảo-hòa cho con trai Thiệu-Anh là Thân Thừa-Quý. Vua Lý Thái-tổ bằng lòng ngay. Nhà vua tưởng gả con gái cho em mình, nào ngờ...
    Sư thái Tịnh-Huyền tuy hạc nội mây ngàn, nhưng bà luôn luôn theo dõi mọi biến chuyển của Lạng-châu. Truyện công chúa Hồng-Châu đi tu, chỉ có vợ chồng Thân Thiệu-Anh biết. Sau khi công chúa Bảo-hòa về làm dâu họ Thân, mới được biết mẹ chồng không phải cô mình mà là nữ tỳ. Hôm nay, sau bao năm, cô cháu gặp nhau. Công-chúa Bảo-hòa có nhan sắc vô song, cùng chồng tổng trấn các khê-động Bắc biên nước Việt. Võ công bà cực cao, mưu trí trùm thiên hạ, nhưng tình cảm thực giầu. Bà xa cách cô từ lâu, nay gặp lại, khiến bà không cầm được nước mắt.
    Tịnh-Huyền ôn tồn nói với Thân Thừa-Quý:
    - Ta được tiêu dao hạc nội mây ngàn, hưởng thú thanh cao bao năm nay cũng nhờ lòng trung thành của mẹ con. Mẹ con theo hầu ta từ nhỏ. Nghĩa thì là chúa tôi. Song tình như chị em. Mẹ con xinh đẹp, đoan trang. Ta hằng ước mong tìm đấng anh hùng mà gả. Hay đâu hoàng-huynh bắt ta vu qui về làm dâu họ Thân. Nếu ta lấy chồng, thì không kiếm đâu được người phẩm chất hơn bố con. Nhưng chí của ta là cõi Bồ-đề. Ta đang luống cuống không biết làm cách nào để không trái lời dạy của huynh trưởng, mà tiêu dao cõi Phật, thì mẹ con tình nguyện làm bất cứ việc gì nếu ta cần. Ta mới nghĩ ra kế thế thân. Trên đường rước dâu từ Thăng-long về Lạng-châu, nhân nghỉ ở nhà trạm, ta thay quần áo làm cung nữ. Còn mẹ con mặc quần áo của ta làm công chúa. Về tới Lạng-châu mẹ con đóng vai công chúa truyền lệnh cho ta làm tỳ nữ phải đi tu, cầu phúc cho chủ. Thế là ta được toại nguyện.
    Công-chúa Bảo-hòa hỏi:
    - Bây giờ cô-mẫu có cần dấu thân phận nữa không?
    Không. Cô đã cho Bồ nhi, cho Mỹ-Linh cùng nhiều người biết rồi. Truyện xưa qúa, dấu diếm làm gì nữa. Anh ta có phiền trách thì cũng trễ rồi.
    Bà hỏi quận chúa Thân Bảo-Hoà:
    - Nhà sư cứu cháu ban nãy thân thế ra sao? Cháu gặp ở đâu?
    Thân Bảo-Hoà khoan thai kể :
    - Cách đây gần tháng, anh em nàng được lệnh mạ mạ theo dõi bọn Đông-Sơn lão nhân, Địch Thanh. Một hôm tới động Vạn-nhai. Hai anh em vào quán cơm ăn. Vừa lúc đó, cũng có nhà sư dừng ngựa, vào quán gọi một vài món ăn chay. Anh em Bảo-Hoà sống ở Bắc-biên từ nhỏ. Bắc-biên không theo đạo Phật, mà thờ 162 anh hùng thời Lĩnh-nam làm thần. Vì vậy hai người ít gặp tăng ni.
    Bản tính Bảo-Hòa hay đùa, nàng đưa mắt nhìn nhà sư, thấy da mặt vàng ủng, trơ trơ như người chết, thì biết nhà sư đeo mặt nạ da người. Nàng trêu:
    - Đại hoà thượng! Mời đại hoà thượng lại đây ngồi chung bàn với anh em tại hạ cho vui.
    Bảo-Hoà tưởng mình là con gái, mời nhà sư ngồi chung bàn, y không dám. Nào ngờ y đến ngồi cạnh nàng. Muốn trêu người, mà người không chuyển động, Bảo-Hoà càng trêu già:
    - Đại hoà thượng năm nay bao nhiêu tuổi? Có mấy vợ? Bao nhiêu con rồi.
    Nhà sư thản nhiên:
    - Tiểu tăng tu đạo đức Thế-tôn vì vậy không vợ, dĩ nhiên chẳng có con.
    Bảo-Hoà cười lớn:
    - Không vợ cũng có con được chứ! Tiểu nữ đoán chừng hoà thượng có nhiều con rơi.
    Nhà sư cười tha thứ:
    - Tiểu tăng tuy chưa có con, song nếu sau này thu đệ tử, cũng như có con vậy.
    Bảo-Hoà trêu đến cùng:
    - Hoà thượng ăn chay chi cho khổ. Nào mời hòa thượng xơi cái đùi gà luộc này đi.
    Nói rồi nàng xé đùi gà luộc bỏ vào bát nhà sư. Nhà sư chắp tay:
    - Đa tạ cô nương bố thí.
    Rồi y bưng bát cơm, có đùi thịt gà, miệng gọi con chó đang ngửng đầu chực, tay vỗ lên cổ nó:
    - Ăn đi! Ăn đi! Ngon lắm đó.
    Bảo-Hoà cười khúc khích:
    - Chắc chắn đại hoà thượng từng ăn vụng thịt gà, nên mới biết nó ngon lắm. Không chừng còn ăn cả thịt chó cũng nên.
    Thiệu-Thái thấy em đùa quá trớn, định xin lỗi nhà sư. Không ngờ nhà sư đáp:
    - Cô nương nói đúng. Hồi chưa đi tu, bần tăng đã ăn thịt gà, thịt chó. Không những ăn, mà còn ăn nhiều nữa. Từ ngày đi tu đến giờ, bần tăng chỉ ăn chay.
    Ăn chay có gì là ngon! Ở đây chỉ có anh em tại hạ. Hoà thượng xơi mấy miếng thịt, không ai biết đâu.
    Nhà sư vẫn mỉm cười. Bảo-Hoà nói với anh:
    - Tiếc quá, đại hoà thượng không được lấy vợ, bằng không em xin mạ mạ cưới làm chồng quách.
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.01.2005 22:06:45 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 06.01.2005 17:50:45 (permalink)
      Hồi thứ mười ba


      Bồ Tát Vô Ngại




      Bảo-Hoà ngổ ngáo nói vậy, nàng những tưởng rằng nhà sư sẽ giận lắm. Không ngờ nàng thấy nhà sư rùng mình, rồi quay đi, không dám nhìn nàng nữa. Đến đó thầy trò Địch Thanh vào quán, gọi mấy món ăn. Địch Thanh thấy anh em Bảo-Hoà, y tiến lên chỉ vào mặt:
      - Con nha đầu kia! Mi theo chọc phá ta hơn tháng qua. Tưởng mi trốn đâu, không ngờ hôm nay ta bắt được mi ở đây.
      Địch Thanh dơ tay chụp Thiệu-Thái, kình lực tay y phát ra mạnh vô cùng. Y nhắc bổng Thiệu-Thái lên. Tay kia chụp Bảo-Hoà. Nhà sư lạng mình đứng trước nàng, quát lên:
      - Ngừng tay!
      Địch Thanh cười nhạt, vung tay tát nhà sư một cái. Nhà sư không đỡ, né đầu tránh khỏi. Tay phải nhà sư chĩa ngón chỏ ra. Véo một tiếng, vai Địch Thanh đau nhói. Y phải buông Thiệu-Thái ra.
      Đông-Sơn lão nhân kêu lên:
      - Tiểu sư phụ! Phải chăng vừa rồi tiểu sư phụ xử dụng Lĩnh-nam chỉ, đã thất truyền.
      Nhà sư chắp tay đáp lễ:
      - Lão nhân thực tinh mắt. Tiểu tăng mới luyện được có ba thành.
      Địch Thanh định tấn công nhà sư, nhưng y chợt nhớ nhiệm vụ của mình, không được hiển lộ thân thế. Vì vậy y chỉ vào mặt Bảo-Hoà:
      - Nể mặt tiểu sư phụ, ta tha cho anh em mi lần này.
      Nói rồi hai thầy trò mua mấy tấm bánh chưng, rồi ra đi. Bấy giờ anh em Thiệu-Thái mới tạ lỗi với nhà sư. Hai bên tuổi còn trẻ, họ trao đổi với nhau nhiều về nhiệm vụ. Nhà sư cho biết, ông tuân lệnh sư phụ âm thầm theo giúp anh em Thiệu-Thái thu thập tin tức về bọn gian tế Tống.
      Thế là hai bên cùng kết thành bạn. Họ âm thầm theo dõi thầy trõ Địch Thanh. Nhà sư tuyệt đối chiều Bảo-Hoà. Nàng muốn nhà y ăn trộm bánh của thầy trò Địch Thanh, cho nàng móc nhân ăn, rồi bỏ chuột chết vào. Nhà sư làm theo ngay. Nàng muốn nhà sư đem vàng Đại-Việt, đổi vàng Đại-tống trong túi hành trang thầy trò Địch Thanh, nhà sư cũng cố thực hiện cho được.
      Tịnh-Huyền nghe xong, bà suy nghĩ, hỏi Thanh-Mai:
      - Thanh-Mai, nhà sư đó thuộc phái Đông-a chăng?
      Thanh-Mai lắc đầu:
      - Nhà sư nhảy ra cứu Bảo-Hoà bằng thân pháp Đông-a. Y chụp nàng nhảy lên bằng thân pháp Mê-linh. Hai chiêu quyền đánh Địch Thanh thuộc bộ Thiên-vương chưởng của phái Sài-sơn. Khó có thể quyết định ông ta thuộc môn phái nào.
      Công chúa Bảo-Hoà hỏi Đinh Ngô-Thương:
      - Đinh tiết độ sứ. Tôi có một thắc mắc: trong khi Hồng-hương thiếu niên bao vây bọn Địch Thanh hùng hùng, hổ hổ. Bỗng nhiên bọn chúng đọc lên một tràng quái gở, lập tức đám Hồng-hương thiếu niên cúi đầu tạ tội. Tại sao vậy?
      Đinh Ngô-Thương bứt rứt:
      - Thần cũng không rõ. Xin điện hạ để thần điều tra, rồi phúc bẩm sau.
      Đinh Ngô-Thương đặt tiệc trong dinh mời mọi người ăn. Sau bữa tiệc, Tạ Sơn đứng lên hỏi:
      - Đinh tiết-độ-sứ, tiểu tướng muốm gặp một số người trong trấn có việc cơ mật. Mong tiết-độ-sứ giúp cho.
      Theo chức quan triều Lý, thì tiết-độ-sứ cao hơn điện-tiền chỉ-huy-sứ nhiều. Song tiết-độ-sứ là chức quan trấn nhậm ở xa. Còn điện-tiền chỉ huy sứ là chức quan tín cẩn vừa chỉ huy lực lượng bảo vệ nhà vua, vừa trông coi hệ thống tình báo quốc gia. Nên các quan lớn nhỏ đều kiêng nể. Nghe Tạ Sơn hỏi, Ngô-Thương tỏ ý lo lắng:
      - Chỉ-huy sứ cần gặp những ai?
      - Tôi muốn gặp em ruột của tuyên-vũ-sứ là Đàm An-Hòa cùng viên hiệu úy Vi Bản, chúa ngục Vương Dương, các cai ngục.
      Đàm Toái-Trạng gọi tên quân hầu vào truyền lệnh. Một lát bẩy người tới. Đàm An-Hòa vừa trông thấy Tịnh-Huyền, Huệ-Sinh, Nùng-Sơn tử v.v. Y chỉ mặt mọi người nói:
      - Thưa Đinh đại nhân, mấy tên này ăn trộm bảo vật của sứ-đòan. Hôm qua tôi bắt giam, không hiểu sao chúng ở đây?
      Đinh Ngô-Thương tái mặt, hỏi:
      - Bằng vào cớ gì mi dám bảo những vị này là quân trộm cướp?
      Mặt Đàm An-Hòa tái nhợt. Y đứng chết trân. Đinh Ngô-Thương khoan khoái trong lòng. Y xuất thân làm quan võ, vào sinh ra tử không biết bao phen. Y lại là bạn thời thơ ấu của đương kim thiên-tử (Lý Thái-tổ). Con gái y được tuyển làm thứ phi của thái-tử Phật-Mã, tước phong Khai-thiên vương. Mai này hoàng đế băng hà, thái-tử lên nối ngôi, con gái y đương nhiên thành hoàng-hậu, mẫu-nghi thiên-hạ. Y được phong tiết-độ-sứ tổng-trấn vùng Cửu-chân. Trong khi đó Đàm Toái-Trạng chỉ là một viên đô-thống. Em gái Trạng được tuyển vào làm quí-phi cho hoàng-đế, dù Trạng chẳng có công gì cũng được bổ làm tuyên-vũ-sứ Thanh-hóa, quyền hành không thua Thương. Hai bên thường xẩy ra xung đột lặt vặt. Nay y thấy em Trạng là An-Hòa, vô phép với công-chúa, thì, y chắc họ Đàm đến ngày tàn.
      Y nói với Tạ Sơn:
      - Tôi xin trao bẩy tên này cho điện-súy, tùy nghi điều tra.
      Tạ Sơn gọi đô-thống Nguyễn Khánh vào:
      - Phiền đô-thống đem bẩy người này ra lấy khẩu cung, rồi cho tôi biết rõ ngọn nguồn việc đánh thuốc độc sư thái cùng công-chúa.
      Tạ Sơn kể sơ lược mọi biến chuyển trong mấy ngay qua cho Đinh Ngô-Thương nghe. Thương kinh tâm động phách. Y biết rằng dù Tịnh-Huyền có tâm Bồ-tát, dù Huệ-Sinh là cao tăng đắc đạo, luật lệ đương thời tuy có nhiều điều châm chước song anh em họ Đàm khó tránh khỏi bay đầu.
      Đợi Nguyễn Khánh giải ba phạm nhân đi rồi, Tạ Sơn kính cẩn nói với công-chúa Bảo-hòa:
      - Công-chúa điện-hạ. Khi rời Thăng-long, thần theo Khai-quốc vương đến đây. Bây giờ không rõ Quốc-vương đi đâu. Mọi việc xin công chúa phát lạc.
      Công-chúa Bảo-hòa gật đầu:
      - Được, tôi xin đảm trách.
      Bà nói với mọi người:
      - Bọn Triệu Thành, Địch Thanh sang Đại-Việt với năm nhiệm vụ. Thứ nhất tìm di thư thời Lĩnh-nam. Điều này chúng thành công đôi chút là phăng ra đầu mối. Điều thứ nhì là dò xét tình hình trong nước ta. Điều này chúng thành công lớn, vì đã dụ dỗ được một số người Việt, quan lại làm gian tế cho chúng. Tuy nhiên Tạ điện-súy đã nắm được đầu mối. Thứ ba là chúng dụ dỗ các trang, động vùng Bắc Đại-Việt. Điều này chúng khá thành công. Song chúng tôi khắc có biện pháp đối phó. Điều thứ tư là dụ dỗ võ lâm Đại-Việt sang dự cuộc tuyển võ năm tới. Mục đích của chúng muốn anh hùng thiên hạ giết nhau. Còn lại bao nhiêu, trở thành thù hận nhau. Những người trúng cách, sẽ được phong chức tước, cầm quân đánh dẹp các vùng lân bang cho chúng. Như cao thủ Tây-hạ, Đại-lý, Thổ-phồn đánh Đại-Việt. Cao thủ Đại-Việt đánh Liêu. Cao thủ Liêu đánh Tây-hạ, Đại-lý. Điều này tôi trở về kinh tâu phụ hoàng rồi định liệu. Điều thứ năm là dụ dỗ Chiêm-thành, hầu Chiêm sẵn sàng đánh phía sau ta, rồi chúng cất quân đánh phía trước.
      Bà quay sang hỏi Tôn Trung-Luận:
      - Tôn tiền bối. Người là hậu duệ của anh hùng thời Lĩnh-nam. Qua lời tường thuật của cháu Mỹ-Linh, tôi thấy tiền-bối có tấm lòng son với xã tắc, lại tài kiêm văn võ. Thế mà tiền bối cứ mai một ở thôn dã chẳng đáng tiếc ư? Bình-nam vương Triệu-Thành nhà Tống đã phong chức tước cho tiền bối. Ngụ ý của y tuy thâm hiểm, song cũng là điều đáng cho tôi suy nghĩ. Đản hiện theo em tôi hành quốc-sự. Tôi xin thượng tấu về triều, trọng dụng tiền bối.
      Tôn Trung-Luận đáp:
      - Công-chúa hiểu cho hoàn cảnh đặc biệt tôi phải giả nhận chức tước của bọn Tống...
      Mỹ-Linh đến cạnh Trung-Luận cầm tay ông:
      - Bác Luận à. Cháu là bác Luận cháu cũng làm thế. Một là lừa cho bọn cướp đánh nhau, ta đứng ngoài vỗ tay. Hai là tránh bị chúng đánh cho thiệt thân. Cô của cháu có dám trách bác đâu? Bác chịu khó ra gánh vác việc nước, nối chí tiền nhân xưa.
      Một là lời nói của Mỹ-Linh trong, ngọt. Hai là thái độ của nàng bình dân, ấm áp. Tôn Trung-Luận cảm động:
      - Luận này nguyện tuân lời công-chúa điện hạ.
      Công chúa Bảo-hòa nói với đám trẻ Trần Anh, Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm:
      - Các con còn nhỏ tuổi, sớm hấp thụ đựơc cái tự hào dân tộc. Văn có thể học mà có. Võ có thể tập mà thành. Còn thiên tính hứơng về đại-nghiã dân tộc rất hiếm hoi. Cô sẽ nói với bố mẹ các cháu, đem các cháu về Thăng-long theo học ở trường Quốc-tử-giám. Tiền chi phí nuôi dữơng, cô lo hết.
      Trần Anh, Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm là những đứa trẻ ham vui, thích đùa nghịch, hiếu động. Chỉ vì may mắn ở gần đền thờ Tương-liệt đại-vương, Lệ-hải Bà-vương, hằng ngày nghe phụ huynh nhắc nhở công nghiệp người xưa, chúng khâm phục, mộng làm những gì đại sự quốc gia, trong khi những đứa cùng tuổi chỉ biết đánh khăng, đánh đáo. Mấy ngày qua, chúng như lạc đừơng vào lịch-sử. Chúng được nhìn, được nghe những gì thấy trong sách vở. Chúng được nói truyện, ăn uống cùng với những vị hoàng-tử, công-chúa. Mà hoàng-tử, công- chúa lại đối xử với chúng trong tình thương yêu hơn cả cha mẹ chúng đối với chúng. Ba đứa đến trước công-chúa Bảo-hòa cùng phò-mã Thân Thừa-Quý qùi gối:
      - Chúng con tạ ơn công chúa, và phò-mã..
      Nùng-Sơn tử nhắc chúng:
      - Phàm hành đại lễ với cha, mẹ, chú, bác, cô, dì thì lạy bốn lạy. Đối với hoàng-đế, hoàng-tử, công-chúa, sư-phụ thì lạy tám lạy. Công-chúa mở rộng lòng từ bi, thương yêu các con, nhận nuôi các con, vậy các con lạy bốn lạy coi như lạy bố mẹ nuôi.
      Bốn đứa trẻ lậy đủ bốn lạy. Quận-chúa Thân Bảo-Hòa hỏi mẹ:
      - Mạ mạ ơi. Cả ba đứa này đều là em con cả sao?
      - Ừ. Nào bây giờ anh chị em nhận nhau đi.
      Từ lúc gặp nhau, Mỹ-Linh và Thân Thiệu-Thái cứ quấn quýt bên cạnh nhau, hết truyện nọ sang truyện kia. Hai người là anh em con cô, con cậu, song hoàn cảnh khác nhau. Mỹ-Linh học văn, học võ, mà chưa một chút kinh nghiệm. Còn Thân Thiệu-Thái học võ nhiều hơn học văn. Hàng ngày cùng bố mẹ ruổi ngựa dọc biên thùy dẹp trộm cướp, phòng quân Tống, kinh lịch có thừa. Truyện trò tưởng không bao giờ hết. Thiệu-Thái đang say truyện, nghe mẹ nói vội ngừng lại. Thân Bảo-Hòa nói:
      - Này ba đứa, nghe chị nói đây.
      Hà Thiện-Lãm cười:
      - Dạ em nghe.
      - Ở vùng Lạng-châu không kêu thân-mẫu bằng mẹ, mà kêu bằng mạ mạ. Còn bố thì kêu giống như miền xuôi. Trong nhà ta có ba anh em. Lớn nhất là anh Thiệu-Thái. Tốt bụng, bởi vậy bụng lớn gần bằng cái trống. Trong bụng anh có một đàn hổ.
      - Hổ???
      - Ừa. Người ta nói ăn như hổ. Trong bụng anh ý có đàn hổ. Bởi vậy ăn bao nhiêu cũng không biết no. Tướng anh ụt ịt như con lợn, chúng ta gọi anh bằng lợn.
      Bị em gái trêu, Thiệu-Thái dơ tay phẩy một cái làm như tát yêu hụt. Thân Bảo-Hòa tiếp:
      - Anh Thiệu-Thái có tật cả ngày không nói một câu. Kế đó là anh Thiệu-Cực. Anh Cực thì miệng như con két, nói cả ngày. Anh Cực trấn thủ Lạng-châu thay bố, mẹ. Anh Cực khôn ngoan, linh lợi, mưu trí. Vì vậy bọn ta gọi anh ấy là cú rừng.
      Thuận-Tông kinh ngạc:
      - Cú rừng! Cái tên xấu quá.
      - Không xấu đâu! Con cú thường cúi đầu ủ rũ. Thế mà trong đầu nó tính toán trăm mưu nghìn kế. À, còn chị, trước chị là con út. Bây giờ có bọn em mất chức út.
      Công chúa Bảo-hòa bẹo má Trần Anh:
      - Ta cùng phu-quân theo dõi bọn Tống, không ngờ thêm được ba đứa con. Như vậy ta có sáu đứa tất cả. Ngày xưa Quốc-tổ, Quốc-mẫu có những 100 con. Ta cần nuôi thêm 94 đứa nữa.
      Bà kính cẩn nói với Tịnh-Huyền:
      - Cô mẫu. Thiện-Lãm đã được Nùng đạo trưởng thu làm đệ tử. Thần nhi kính xin cô mẫu mở tâm Bồ-đề thu hai cháu Lê Thuận-Tông, Trần Anh làm đệ tử. Một mai chúng sẽ là rường cột quốc-gia, là sứ giả hoằng dương đạo pháp.
      Tịnh-Huyền mỉm cười:
      - Duyên phúc biết mấy.
      Hai đứa trẻ quì trước Tịnh-Huyền lễ tám lễ, cùng gọi:
      - Sư phụ.
      Bà xoa đầu hai đứa trẻ:
      - Hôm nay sư phụ thu hai con làm đệ tử. Các con trở thành đệ tử ngoại đồ của phái Mê-linh. Tên Mê-linh như các con biết là thủ đô thời Lĩnh-nam. Sau khi vua Bà tuẫn quốc ở Cẩm-khê, các tướng tiếp tục kháng chiến, hoặc ẩn thân vào dân chúng. Những người còn sống sót tiếp tục truyền thụ võ công cho đệ tử. Suốt gần, một nghìn năm, diễn ra trước sau 24 cuộc khởi binh, thì 20 là do con cháu di thần thời Lĩnh-nam. Như các con biết thời Lĩnh-nam có các phái Tản-viên, Sài-sơn, Long-biên, Quế-lâm, Khúc-giang, Hoa-lư, Cửu-chân. Trong gần nghìn năm, các võ phái không ngớt tranh chia rẽ. Võ phái này hại võ phái kia. Trong võ phái thì chi phái này hại chi phái kia. Nói xấu, dèm pha nhau rồi tiến tới chém giết nhau. Đến thời Thập-nhị sứ quân còn tàn hại hơn nữa. Mỗi võ phái theo một sứ quân tàn sát đồng đạo. Vật cùng tất phản, uốn qúa hóa cong. Đến lúc tưởng tan nát hết, thì nảy ra hai thiên tài võ học, đó là thiền-sư Vô-Ngại thuộc phái Tiêu-sơn và Hoa-Minh thần-ni thuộc phái Long-biên. Hai vị này mời các tôn sư võ học tới họp, rồi đưa ra ý kiến chỉ giúp một mình vua Đinh. Vì vậy vua Đinh thắng hết các sứ quân, thống nhất sơn hà.
      Thanh-Mai hỏi:
      - Sư phụ, con nghe bố con nói rằng thiền-sư Vô-Ngại, trước khi làm chưởng môn phái Tiêu-sơn, ngài tu ở chùa Sơn-tĩnh, thuộc Cửu-chân. Ngài có thu nhiều đệ tử người Trung-quốc phải không?
      Tịnh-Huyền đưa mắt nhìn Huệ-Sinh :
      - Đại-sư, việc này bần ni không rành cho lắm.
      Huệ-Sinh đáp:
      - Gần như thế. Đời thứ mười bản phái, có bốn cao tăng đắc đạo. Đó là La Qúi-An, Pháp-Thuận, Ma-ha Kỳ-vực (Mahamaya) và Vô-Ngại. Võ công, Phật-pháp đều siêu đẳng. Tổ Vô-Ngại có sang Trung-quốc thuyết pháp nhiều năm. Trong lúc ẩn cư tại chùa Sơn-tĩnh, một đại thi hào đời Đường là Thẩm Thuyên-Kỳ có tới thăm. Thẩm nghe người thuyết pháp trong mười ngày. Giác ngộ, Thẩm xin qui y. Thẩm được ngài truyền Phật-pháp, chứ Thẩm không học võ công Tiêu-sơn. Thẩm có làm bài thơ tạ ngài nguyên văn như sau:

      Thượng-sĩ sinh Thiên-trúc,
      Phân thân hóa Nhật-nam.
      Nhân trung xuất phiền não,
      Sơn hạ tức Già-lam.


      Hiện diện hơn mười người, thế mà chỉ riêng quận chúa Thân Bảo-Hòa nghe đọc đọan thơ trên, trong lòng tự nhiên bừng bừng như có ánh sáng chiếu vào. Nàng gật đầu liên tiếp. Lê Thuận-Tông hỏi:
      - Chị Bảo-Hòa, bốn câu tên nghĩa là gì vậy? Thơ đã bằng chữ Hán, lại mang ý nghĩa cao-siêu của nhà Phật thì bọn em làm sao hiểu được?
      Bảo-Hòa cười đáp:
      - Thẩm gọi tổ Vô-Ngại là Thượng-sĩ. Thượng-sĩ cùng nghĩa với Bồ-tát. Ý Thẩm nói Tổ trước đây chính là đức Phật sinh ở Thiên-trúc, nay phân thân giáng thế xuống đất Nhật-nam. Lòng ngài trong sạch. Bao nhiêu phiền não đều biến đi. Dưới núi ngài dựng Già-lam.
      Huệ-Sinh đọc tiếp:

      Tiểu-gỉan hương vi sát,
      Nguy phong thạch tác am.
      Đằng ái vân gian bích.
      Hoa thê thạch hạ đàm.
      Tuyền hành u cung hảo.
      Lâm quải dục y kham.



      Thân Bảo-Hòa lại giảng:
      - Thẩm ca tụng cuộc sống của ngài. Ngài giặt quần áo phơi ở giữa rừng hương, nào là cảnh khe suối thơm, ngài ngồi hóng mát, nào là cảnh am làm bằng đá. Chim rừng được hạnh Bồ-tát của ngài truyền cho cũng biết tập thiền định. Vượn đứng nghe giảng kinh. Xung quanh ngài, vách đá dây mây cuốn, hoa trên mặt đầm xếp lớp lên như thang.
      Huệ-Sinh đọc tiếp:

      Đệ tử ai vô thức,
      Y vương tích vị đàm.
      Siêu nhiên hổ khê địch,
      Chích thọ hạ hư lam.


      Thân Bảo-Hòa giảng:
      - Thẩm tự hận rằng mình ngu tối, chưa thông hiểu Phật pháp, ngồi đàm luận cùng sư phụ, đến hổ còn kinh ngạc, nhìn ra khắp nơi khói lam bay mịt mờ.
      Thanh-Mai suy nghĩ một lát, nàng hỏi Huê-Sinh:
      - Bạch sư bá, đệ tử có một vài thắc mắc về tổ Vô-Ngại và Thẩm Thuyên-Kỳ. Kỳ sinh năm Bính-thìn, tức niên hiệu Hiển-khánh nguyên niên đời Đường Cao-tông (656), chết năm Qúi-sửu niên hiệu Khai-nguyên nguyên niên đời Đường Huyền-tông (713). Trong khi đó tổ Vô-Ngại lại tham gia vào việc thống nhất của vua Đinh, tức cách nay chưa tới trăm năm. Không lẽ tổ sống đến ba trăm tuổi?
      Huệ-Sinh gật đầu:
      - Cháu thực thông minh. Để bần tăng giảng cho cháu nghe. Chắc cháu có biết về thuật đầu thai, đổi xác trong nhà Phật chứ?
      - Dạ cháu có nghe. Truyện này bên xứ Tây-tạng. Đức Quan-thế-âm phân thân đầu thai vào một vị cao tăng, cai trị xứ này. Khi về gìa, thấy xác mình sắp mục, ngài nằm nhập thiền, rồi thình lình xuất hồn bay về một hướng nào đó, Nơi ấy ngài biết sắp có đứa trẻ ra đời. Ngài nhập vào xác đứa ấy. Trong khi ngài xuất hồn bay đi, các đệ tử của ngài tụ lại trên bờ ao trong cung của ngài nhìn xuống nước. Hồn ngài bay đi đâu, bóng in dưới nước. Khi thấy rõ ngài nhập vào xác đứa trẻ rồi, thì lập tức vào điện kiểm lại thân thể ngài, quả nhiên ngài đã viên tịch. Xác ấy được đem đốt đi. Rồi họ kéo nhau tới nhà đứa trẻ sơ sinh, rước đứa trẻ đó về thay ngài làm Đạt-lai Lạt-ma.
      Mỹ-Linh hỏi:
      - Chị Thanh-Mai à. Thế nhỡ hồn đứa trẻ đó không phải đức Quan-thế âm phân thân thì sao?
      - Sau khi đem đứa trẻ về nuôi, đợi nó lớn lên, các đệ tử phải thử thách nó. Như hỏi lại những truyện hồi tiền kiếp ngài sống, xem có đúng không. Như khi ngài sắp tịch, thì ngài làm nhiều bài kệ bí mật bỏ bào một tráp niêm phong kín. Đợi khi đứa trẻ lớn, bắt trả lời về nội dung từng bài kệ một. Nếu tất cả mấy bài đều đúng. Bấy giờ mới cho làm lễ đăng quang. Không lẽ ngài Vô-Ngại cũng là Quan-thế-âm phân thân?
      Huệ-Sinh gật đầu:
      - Ngài nguyên là Tôn-gỉa A-Nan tái sinh.
      Mọi người cùng bật lên tiếng kêu kinh ngạc. Huệ-Sinh tiếp:
      - Ngài giáng sinh vào niên hiệu Canh-tý, niên hiệu Phổ-thông nguyên niên đời Lương Vũ-Đế, bên Trung-nguyên (520). Năm Đinh-tỵ, niên hiệu Khai-hoàng thứ mười bẩy, đời Tùy Văn-Đế (599), khi thấy xác mình sắp mục, ngài gọi đệ tử lại trăn trối rằng Ta thấy giòng giống Việt sắp bị tuyệt diệt. Ta giáng sinh làm tăng, mong mở lại nước. Truyện chưa thành thì xác mục. Sau đây ta bay về phương nam, tìm trẻ sơ sinh, tái nhập thế. Ta để lại năm bài kệ làm tin, gói trong năm bao thư. Các người đợi kiếp sau ta sáu tuổi sẽ có cái mà thử. Nói rồi nhập thiền. Đệ tử y lời, ra suối nhìn bóng hồn ngài bay in xuống mặt nước, thấy rõ hồn ngài nhập vào một trẻ sơ sinh. Hôm sau đệ tử của ngài tới nhà bố mẹ đứa trẻ nói cho biết, xin đem về nhà nuôi. Bố mẹ đứa trẻ đứa trù trừ không tin hỏi con rằng : Nếu phải hồn đại-sư Vô-Ngại thì chớp mắt năm cái . Đứa trẻ không nói được, chớp mắt đủ năm lần. Thế là đứa trẻ được đem về chùa Tiêu-sơn nuôi. Sau sáu năm, đứa trẻ đã lớn. Đệ tử đem từng bao thư, bắt đọc bài kệ bên trong. Đứa trẻ thuộc làu, đọc trơn tru.
      Thân Bảo-Hòa hỏi:
      - Thế ngài Vô-Ngại mà Thẩm Thuyên-Kỳ được gặp là ngài thứ mấy
      - Là Vô-Ngại thứ nhì.
      Thân Thiệu-Thái hỏi:
      - Bạch thầy, thế ngài Vô-Ngại bị hủy diệt rồi tái nhập xác trước sau mấy lần?
      - Tất cả bốn lần. Sau khi xác lần thứ tư mục. Ngài gọi chư đệ tử lại dặn: Kỳ này ta đi luôn. Từ nay nước Việt lại tái lập. Ta không còn phải bận tâm nữa . Sau đó tịch.
      Mỹ-Linh gật đầu:
      - Thế gian đều có Phật tính. Ai cũng thành Phật được cả. Duy có lời nguyện là quan trọng. Hạnh nguyện của ngài A-Nan với đất Việt quả thực phúc đức vô vàn. Con nghĩ những Bồ-tát như thế nhất định không chịu thành Phật đâu. Không chừng ngài còn tái sinh nữa. Con nghe đời thứ mười một phái Tiêu-Sơn còn hai vị đắc pháp nữa. Con chỉ biết pháp danh một vị là Sùng-Phạm. Còn một vị nữa, con không biết.
      Huệ-Sinh chỉ vào bức tranh vẽ một hòa thợng mập ú, cười toe tóet tay cầm tràng hạt treo trên tường:
      - Là Bố-Đại hòa thượng.
      Tất cả mọi người hiện diện đều bật lên tiếng kêu kinh ngạc. Mỹ-Linh mở to mắt:
      - Là ngài à? Ngài không phải là Di-Lặc bồ-tát à? Hồi ở trong cung, con thờ ngài, ước mong được thấy ngài.
      Huệ-Sinh nhìn học trò với con mắt thương cảm:
      - Con sẽ được như ý.
      Thân Bảo-Hòa chợt nói:
      - Phàm các vị Bồ-tát đều có hạnh nguyện cả. Khi các vị thực hành xong lời nguyện, mới chịu thành Phật. Di-Lặc tôn giả đâu phải mới giáng sinh lần đầu ở nước Việt mình?
      Huệ-Sinh gật đầu:
      - Đúng thế, ngài giáng sinh lần này là lần thứ ba.
      Mỹ-Linh suy nghĩ một lúc rồi hỏi:
      - Sư phụ! Thế lần thứ nhất ngài giáng sinh, vào lúc nào?
      - Vào thời Lục-triều, tại nước mình, ở vùng Quảng-đông bây giờ. Cái tên Bố-Đại có từ đó?
      Thuận-Tông hỏi:
      - Đại sư! Bố-Đại nghĩa là gì vậy?
      - Bố là vải, đại là cái túi. Nguyên đi đâu ngài cũng đeo cái túi vải. Ai cúng dàng gì, ngài cũng nhận hết, rồi ngài đem cho bọn trẻ con. Lần thứ nhì ngài giáng sinh ở trấn Nghệ-an bây giờ, bấy giờ gọi là Nhật-nam. Ngài vân du sang Trung-quốc vào đời Đường, thuyết pháp cho chúng sinh. Trong những người nhiều hạnh được gặp ngài có thi sĩ Trương Tịch. Trương Tịch làm bài thơ khen ngợi ngài.
      Huệ-Sinh hỏi Thanh-Mai:
      - Cháu có biết gì về thi sĩ Trương Tịch không?
      Thanh-Mai ngồi ngay ngắn lại:
      - Thưa sư bá có. Trương Tịch (767-830) tự là Văn-Xương, người đất Hoà-châu thuộc vùng Ô-giang đời Đường. Đỗ tiến sĩ niên hiệu Trinh-nguyên. Lúc đầu ông dạy học ở Quốc-tử-giám. Sau lên Quốc-tử-giám tư nghiệp. Cuối cùng ông làm đến chức tiết độ sứ. Bài thơ ông làm để ca tụng ngài Bố-Đại như sau:

      Độc hướng song phong lão,
      Tùng môn bế lưỡng nha,
      Phiêu kinh thượng tiêu diệp,
      Quải nạp lạc đằng hoa,
      Thứu thạch tân khai tỉnh,
      Xuyên lâm tự chủng ma.
      Thời phùng Nam-hải khách,
      Man ngữ vấn thùy gia?


      Thuận-Tông hỏi Mỹ-Linh:
      - Thơ chữ Hán khó quá. Chị giảng cho em nghe đi.
      Mỹ-Linh vuốt tóc sư đệ, rồi nàng dịch:

      Ở trên tuyệt đỉnh núi,
      Cửa thông hai cánh gài.
      Viết kinh trên láø chuối,
      Treo áo lạc hoa mây.
      Tạc đá đào giếng mới,
      Mở rừng trồng cây đay.
      Nếu gặp khách Nam-hải,
      Tiếng man hỏi nhà ai?


      Bảo-Hòa hỏi:
      - Lần đầu ngài có tên Bố-Đại, thế lần thứ nhì ngài mang tên gì?
      - Lần thứ nhì, ngài vẫn mập, vẫn đeo túi vải, người ta vẫn gọi ngài là Bố-Đại, nhưng ngài có pháp danh là Duy-Giám.
      Mỹ-Linh « á » lên một tiếng:
      - Sư phụ, con biết rồi, ngài được vua Đường mời sang kinh đô Trung-nguyên thuyết pháp. Lúc trở về, lại một thi sĩ lừng danh thời thịnh Đường là Giả-Đảo làm thơ tiễn ngài. Bài thơ như sau:

      Giảng kinh Xuân điện lý,
      Hoa nhiễu ngự sàng phi,
      Nam-hải kỷ hồi hoá?
      Cựu sơn lâm lão qui.
      Súc phong hương tốn ấn.
      Lộ vũ khánh sinh y.
      Không thủy ký như bỉ.
      Vãng lai tiêu tức hy.


      Thuận-Tông lại đưa mắt nhìn Mỹ-Linh cầu cứu. Mỹ-Linh nhoẻn nụ cười:
      - Để chị dịch cho Tông nghe:

      Giảng kinh trong cung điện,
      Ngự viên hoa Xuân bay.
      Tha hương từ mấy độ?
      Núi cũ về từ nay.
      Mưa rơi trên áo bạc.
      Gió thổi hương ấn phai.
      Biển không là thế đó,
      Xa vắng tin nào hay?


      Thiện-Lãm hỏi Thanh-Mai:
      - Thế còn thi sỉ Giả-Đảo? Ông là ai?
      - Ông người Triệu-châu (Hà-bắc) thủa nhỏ ở vùng Tung-sơn Hà-nam. Ông đỗ tiến sĩ niên hiệu Đại-lịch đời Đường (766-779). Sau khi đó được bổ làm Mật-thư tỉnh hiệu thư lang. Cuối cùng lên tới chức tư-mã Hàng-châu. Ông là một trong mười thi sĩ danh tiếng, được tặng danh hiệu Thập tài tử Đại-lịch .
      Bảo-Hòa nhìn sư thái Tịnh-Huyền:
      - Thưa thái cô, nước mình tưởng mất, song nhờ các thiền sư mà dựng lại được. Vì vậy, người ta thường nói Thầy tăng mở nước Phật Giáo quả thực đã cứu dân mình.
      Tịnh-Huyền liếc nhìn Thân Bảo-Hòa, bà thấy dường như đứa cháu này với bà như đã quen nhau từ nhiều kiếp. Bà nói:
      - Phúc đức qúa. Cháu có hạnh Bồ-tát, chỉ nghe qua mà đã hiểu ý người xưa. Bây giờ bần ni xin tiếp. Sau khi vua Đinh thống nhất sơn hà, các tôn sư gặp nhau, thành lập môn phái. Phái Tiêu-sơn, Đông-a mới thành lập, không có gì thay đổi. Phái Sài-sơn, Tản-viên vẫn giữ nguyên. Phái Cửu-chân, Long-biên, Hoa-lư, Khúc-giang, Quế-lâm thống nhất thành phái Mê-linh. Đệ tử Tây-vu của công-chúa Hồ Đề tự thống nhất thành phái Tây-vu.
      Lê Thuận-Tông hỏi:
      - Bạch sư-phụ, tôn chỉ của phái Mê-linh thế nào?
      - Lấy tinh thần Lĩnh-nam làm yếu chỉ: tất cả cho đất nước. Hy-sinh thân mình, hy-sinh gia-đình, môn phái cho đại cuộc dân tộc. Bất cứ thời nào, sau khi hoàn thành sứ mạng, cũng không nhận tưởng thưởng của triều đình. Tổng-đàn của bản phái hiện giờ đặt tại Mê-linh, không xa với tổng đàn phái Tản-viên.
      Trần Anh hỏi:
      - Bạch sư phụ, hồi nãy sư-phụ dạy rằng thu bọn con làm ngoại đồ. Vậy thế nào là ngoại đồ? Con nghĩ đệ tử là đệ tử chứ sao lại là ngoại đồ. Thế có nội đồ không?
      - Con hỏi thực phải. Kể từ khi thành lập, các chưởng môn nhân bản phái đều là tỳ-kheo ni. Vì vậy khi thu đệ tử chúng ta chia làm hai. Nội đồ là những đệ tử được thọ giới tỳ-kheo thành tăng ni. Còn ngoại đồ là đệ tử tục gia. Các con là đệ tử tục gia nên ta gọi là ngoại-đồ.
      Lê Thuận-Tông hỏi:
      - Sư phụ đã thu bao nhiêu đệ tử rồi?
      - Trước các con, ta thu ba nữ đệ tử. Thể lệ bản phái, lấy chữ sau của sư phụ đặt làm chữ đầu cho đệ tử. Sư phụ của ta pháp đanh Duyên-Tịnh, thì pháp danh của ta là Tịnh-Huyền. Ba sư tỷ của các con có pháp danh Huyền-Thanh, Huyền-Lam, Huyền-Ninh.
      Lê Thuận-Tông chỉ Thanh-Mai hỏi:
      - Chị Thanh-Mai, anh Tự-Mai cũng là đệ tử của sư phụ phải không?
      - Không hoàn toàn. Hai người là đệ tử phái Đông-a, nhưng qui y tam bảo với ta. Ta là bản-sư của hai người, chứ không phải sư-phụ. Bản-sư cao qúi hơn sư-phụ nhiều.
      Thân Bảo-Hòa xen vào:
      - Người học võ chỉ có một sư-phụ mà thôi. Khi muốn học thêm võ với người khác phái, thì phải hỏi sư phụ mình. Sư phụ có đồng ý mới được học. Còn ngược lại trong đạo Phật khi gặp một người đạo pháp cao hơn, mình kính cẩn nghe dạy dỗ, thì người đó thành bản-sư, không cần phải hỏi bản sư mình nữa. Cho nên người Phật-tử có nhiều bản sư. Các em thường niệm Nam vô bản sư Thích-ca Mâu-ni Phật . Ngài cũng là bản sư vậy.
      Tịnh-Huyền nhìn Thân Bảo-Hòa mỉm cười.
      Lê Thuận-Tông chợt nhớ ra điều gì:
      - Mấy hôm nay con thấy nào là bác Trung-Từ, nào là bọn Tống, kể cả sư phụ đều bận tâm về bộ Dụng binh yếu chỉ và bộ Lĩnh-nam vũ kinh. Như vậy võ công thời Lĩnh-nam thất truyền hết rồi hay sao? Không lẽ từ hồi ấy đến giờ võ công không tiến hơn được chút nào cả, mà phải tìm di thư?
      Tịnh-Huyền gật đầu:
      - Đúng đấy.Võ công thời Lĩnh-nam đã mất đi căn bản. Người sau chỉ nhớ được phân nửa. Rồi từ cái phân nửa đó, sáng chế thêm ra. Nếu bây giờ tìm được toàn bộ võ công Lĩnh-nam mà hợp những gì mới sáng chế ra, thì thực bao la vô cùng. Tóm lại võ công Tản-viên, Sài-sơn, Tây-vu, Mê-linh là võ công có từ xưa. Rồi cách đây năm trăm năm, do Thiền-công nhập vào nước ta, nên có thêm phái Đông-a, và Tiêu-sơn. Tuy vậy người ta tìm kinh sách cũng có, mà tìm kho tàng Tần-Hán, Âu-Việt cũng có.
      Bọn trẻ nhao nhao lên:
      - Sư phụ! Kho tàng đó nhiều vàng lắm phải không?
      Bà đưa mắt nhìn Thanh-Mai. Thanh-Mai nghiêm nghị:
      - Các em ngồi im lặng chị kể cho nghe về hai kho tàng này. Bất cứ nước nào, dù Tống, dù Việt, dù Chiêm... ai tìm được kho tàng ấy, coi như nước trở thành giầu có súc tích.
      Trần Anh hỏi:
      - Kho tàng Tần-Hán chắc của người Tầu, còn kho tàng Âu-Việt hẳn của tộc Việt.
      - Đúng thế. Trước hết chị kể về kho tàng Tần-Hán. Khi vua Văn-vương nhà Chu diệt Trụ, phong tám trăm chư hầu. Hàng năm các chư hầu tiến cống châu ngọc, vàng bạc không thiếu gì. Trải tám trăm năm, kho tàng trở thành khổng lồ. Tần diệt nhà Châu chiếm kho tàng đó. Tần đem quân diệt bẩy nước, thống nhất thiên hạ. Bao nhiêu của cải cướp được đem về Hàm-dương. Hán tiến quân vào Hàm-dương cướp kho tàng ấy, sau chôn ở nền điện Vị-ương, gọi là kho tàng Chu-Tần. Đời Hán, đem quân đánh cướp các nước xung quanh, cùng chư hầu tiến cống, thành kho tàng Tây-Hán. Khi Vương-Mãng cướp ngôi nhà Hán. Y gộp hai kho tàng làm một thành kho tàng Tần-Hán, đem chôn ở hồ Động-đình. Khi vua Trưng thành đại nghiệp, sai đào lên mang về Lĩnh-nam. Số bảo vật phải chở trên năm mươi xe mới hết.Thuận-Tông sáng mắt ra:
      - Chà lớn quá. Thế kho tàng đó chôn ở đâu?
      - Khoan đã. Bây giờ nói về kho tàng Âu-Việt. Quốc tổ phong trăm con, mỗi người trấn nhậm một nơi. Hàng năm các hoàng tử mang châu báu về dâng ngài. Trải tám mươi tám đời vua Hùng, qua mấy ngàn năm, các Lạc-hầu, Lạc-tướng dâng về triều không biết bao châu báu. Kho tàng đời Hùng chất cao như núi. Vua An-dương diệt vua Hùng, chiếm kho tàng ấy. Vua An-dương cai trị tộc Việt, được các Lạc-hầu, Lạc-tướng tiến cống cũng thành kho tàng nữa. Triệu Đà chiếm Âu-lạc, y chập hai kho tàng làm một, đem về để ở Phiên-ngung. Con cháu Triệu Đà bị Hán diệt. Kho tàng lọt vào tay Trường-sa vương nhà Hán, gọi là kho tàng Âu-Việt. Sau kho tàng ấy chuyển chủ, thuộc Trường-sa vương Công-tôn Thiệu. Khi Trưng Nhị giúp Hán đánh Công-tôn Thiệu. Đặng Vũ hứa ai vào thành Bạch-đế đầu tiên, y sẽ cho kho tàng ấy. Thiên-ưng lục tướng bắt sống Công-tôn Thiệu, vào thành đầu tiên. Kho tàng do đó trở về Lĩnh-nam. Trưng Nhị sai Hồ Hác đem về Lĩnh-nam chôn cất.
      Ngừng một lúc, Thanh-Mai tiếp:
      - Sau khi thành đại nghiệp, vua Trưng sai đào kho tàng Tần-Hán về cất một nơi. Khi công chúa Phùng Vĩnh-Hoa cùng Bắc-bình vương Đào Kỳ chép bộ Lĩnh-nam vũ kinh, cũng chép cả nơi chôn cất hai kho tàng ấy.
      Mỹ-Linh đã nghe Khai-quốc vương nói về kho tàng này nhiều lần, chi tiết hơn Thanh-Mai, song đây thuộc cơ mật quốc gia, nàng không dám nói ra. Chỉ thêm vào mấy lời:
      - Vì vậy, suồt hơn nghìn năm nay, võ lâm Hoa, Việt thi nhau tìm bộ Lĩnh-nam vũ kinh. Nếu tìm ra, sẽ trở thành giầu có vô cùng, theo đó luyện tập, thành anh hùng vô địch.
      Đến đấy một tên tiểu-hiệu vào hành lễ với Đinh Ngô-Thương:
      - Khải bẩm đại nhân có Sùng-ban lang-tướng Ngô An-Ngữ cùng phu nhân xin vào tiếp kiến.
      Ngô-Thương gật đầu:
      - Cho vào.
      Một vị tướng tuổi trên ba mươi cùng một thiếu-phụ nhan sắc xinh tươi bước vào. Cả hai đều đeo kiếm. Ngô An-Ngữ hành lễ quân cách với Đinh Ngô-Thương.
      - Tiểu tướng nhận được chỉ dụ của Khai-quốc vương đem bản bộ quân mã thuộc quyền vào đóng trên đảo Nghi-sơn thi hành nhiệm vụ đặc biệt. Tiểu tướng trình diện đại-nhân, để xin giúp đỡ chiến thuyền chở quân ra biển.
      Đinh Ngô-Thương gật đầu:
      - Bản nhân sẽ cung cấp cho tướng quân đầy đủ vào giờ Dần ngày mai tại cảng Bắc.
      Chợt thấy trong phòng có Trần Thanh-Mai. Ngô An-Ngữ ngạc nhiên:
      - Thanh-Mai, sư muội cũng ở đây sao?
      Thanh-Mai kính cẩn:
      - Thưa sư huynh, em theo hầu bổn sư dự lễ tế Lệ-hải Bà-vương mới xong. Sư huynh vẫn mạnh chứ ?
      Ngô An-Ngữ chỉ thiếu phụ đi cùng:
      - Đây là vợ của sư huynh, tên là Hàn Diệu-Chi.
      Diệu-Chi thấy Tạ Sơn cũng tỏ vẻ mừng:
      - Chú Sơn. Công việc chưa xong ư? Cô ấy cũng đi cùng với anh chị vào đây có cả các cháu nữa, đang ở ngoài xe.
      Nàng hướng ra ngoài gọi:
      - Thuần-Trúc vào đây. Anh Sơn ở trong này.
      Thiếu-phụ tên Ngô Thuần-Trúc lưng đeo kiếm bước vào.
      Thuần-Trúc, Diệu-Chi nhìn thấy Tịnh-Huyền. Cả hai quì mọp xuống đất:
      - Đệ tử Hàn Diệu-Chi, Ngô Thuần-Trúc tham kiến sư thúc.
      Tịnh-Huyền phất tay ra hiệu miễn lễ:
      - Các con đi đâu đây?
      Nguyên Ngô An-Ngữ là đệ tử phái Đông-a, giữ chức Sùng-ban lang-tướng dưới quyền Khai-quốc vương. Chàng là đệ tử của chưởng môn Trần Tự-An, thân sinh Trần Thanh-Mai. Vì vậy Thanh-Mai thấy chàng vội vấn an, và gọi là sư huynh. Chàng có em gái tên Ngô Thuần-Trúc, cùng bạn là Hàn Diệu-Chi được sư thái Tịnh-Tuệ thu làm đệ tử. Ngô Thuần-Trúc kết hôn với Tạ Sơn. Trúc lại mai mối bạn mình là Hàn Diệu-Chi cho anh. Hai cặp tài tử đều đầu quân dưới trướng Khai-quốc vương ở Trường-yên. Mới đây Khai-quốc vương tiến cử Tạ Sơn lên chức điện-tiền chỉ-huy-sứ, thống lĩnh Ngự-lâm-quân. Còn Ngô An-Ngữ thống lãnh đội quân hộ vệ Khai-quốc vương, kiêm tổng trấn thành Trường-yên. Tạ Sơn đẫn đạo quân Ngự-long theo hộ tống Khai-quốc vương với công-chúa Mỹ-Linh vào Cửu-chân dự lễ tấn phong bà Triệu. Tạ Sơn chưa về, thì Ngô An-Ngữ được lệnh đem đạo quân Quảng-thánh vào trấn trên đảo Nghi-sơn với nhiệm vụ bí mật. Khi đi, Ngữ mang theo vợ cùng hai con tên Tuấn, Hiến theo. Thấy chồng đi lâu chưa về, vợ Tạ Sơn là Ngô-thuần-Trúc cũng dẫn con gái là Tạ Thuần-Khanh theo đi du lịch xem cảnh trí Cửu-chân. Không ngờ đến đây, họ gặp nhau.
      Ngô An-Ngữ thấy Lý Mỹ-Linh, vội hành lễ:
      - Tiểu tướng xin tham kiến công-chúa điện-hạ.
      Lý Mỹ-Linh hỏi:
      - Ngô tướng quân. Tôi có đôi thắc mắc, xin tướng quân cho biết tướng quân nhận lệnh trực tiếp từ chú hai tôi, hay qua trung gian người khác? Chú tôi hiện ở đâu?
      - Thưa, tiểu tướng không rõ vương-gia ở đâu. Từ hôm vương gia cùng công chúa Nam du đến giờ, tiểu tướng chưa gặp lại người. Còn lệnh thì tiểu tướng nhận từ Khu-mật-viện. Trong lệnh, Khu-mật-viện nói rõ rằng do chỉ dụ của vương-gia.



      <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.01.2005 22:10:19 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 06.01.2005 17:53:02 (permalink)
        Hồi thứ mười bốn


        Sơn Tĩnh Cổ Tự




        Lý Mỹ-Linh hỏi Tạ Sơn:
        - Tạ điện-súy, hôm qua chú hai tôi còn ở đây với chúng ta. Làm cách nào chú hai truyền lệnh về cho Khu-mật-viện được?
        Tạ Sơn gật đầu:
        - Khải tấu công chúa, được. Nếu vương-gia muốn, chỉ cần hai gìơ lệnh tới Thăng-long. Khu-mật-viện làm lệnh trong nửa giờ. Lệnh gửi từ Thăng-long tới Trường-yên trong nửa giờ. Đạo Quảng-thánh chỉ cần một giờ là có thể lên đường. Từ Trường-yên tới đây không cần tới một giờ.
        Mỹ-Linh chỉ Tịnh-Huyền, công-chúa Bảo-hòa, Thân Thừa-Qúi giới thiệu với Ngô An-Ngữ. Ngô An-Ngữ vội hành lễ quân cách. Nhưng trong đầu óc chàng nghi hoặc không ít. Vì chàng biết rõ Tịnh-Huyền là sư thúc của vợ, nay bỗng nhiên lại là đại công chúa, em đức hoàng-đế.
        Công-chúa Bảo-hòa chỉ ghế nói:
        - Ngô tướng quân ngồi đây. Thì ra phu nhân Tạ tướng quân lại là em Ngô tướng quân. Cả hai vị cùng là cao đồ phái Mê-linh. Ở Lạng-châu tôi có nghe danh Thụy-khê song-phụng hành hiệp cứu đời. Hai phu nhân cũng đi theo giúp trong quân ư?
        Hàn Diệu-Chi e thẹn:
        - Công-chúa quá khen, làm chị em tiểu-nhân hổ thẹn.
        Tịnh-Huyền ngắt lời:
        - Diệu-Chi! Bảo-hòa là cháu của ta. Con là đệ tử của sư tỷ ta .Hai bên tuy không cùng môn hộ, mà tình thâm nào kém ruột thịt. Hai con ít tuổi hơn Bảo-Hòa, thì gọi là sư tỷ được rồi. Đừng khách sáo, nào công chúa, nào tiểu-nhân, nghe không thân mật tý nào cả.
        Hàn Diệu-Chi, Ngô Thuần-Trúc hướng công-chúa Bảo-hòa:
        - Sư-tỷ.
        Công-chúa Bảo-hòa chắp tay tạ Tịnh-Huyền:
        - Đa tạ cô-mẫu lại cho con thêm hai sư muội.
        Tịnh-Huyền tủm tỉm cười. Công-chúa tháo hai chiếc vòng ngọc đỏ tươi trên tay đeo vào tay Hàn Diệu-Chi, Ngô Thuần-Trúc:
        - Gọi là chút quà mọn làm lễ diện kiến. Đúng như cô mẫu nói hễ có duyên, thì tự nhiên gặp nhau . Chị sinh ra làm công-chúa, các em sinh ra là khuê nữ. Vì sẵn có duyên từ tiền kiếp, nên hôm nay lại tái hồi ở đây. Nguồn gốc tuy có khác, song chúng ta cùng nhau gánh vác sơn-hà. Ở Bắc-biên, chị nghe nói nhiều về Thụy-khuê song phượng hành hiệp suốt một giải Long-thành, nên trong tâm sẵn có lòng muốn kết thân, mà chưa có dịp. Hôm nay mới được như nguyện.
        Thanh-Mai nhìn công-chúa Bảo-hòa, trong lòng nàng rộn lên những niềm vui:
        - Hồi ở nhà, mình thường nghe bố nói: Thằng cha Lý Công-Uẩn, xuất thân chăn trâu, chăn bò, nhưng thực có phúc. Nó sinh ra muời ba con gái, đều khác đời. Công chúa An-quốc giúp cha dựng nghiệp. Công-chúa Bảo-hòa tổng trấn biên cương .
        Thanh-Mai vẫn tự hào được bố truyền dạy bản lĩnh hơn người. Hôm nay nàng mới biết ngoài bầu trời này còn bầu trời khác. Nàng nghĩ thầm:
        - Bắc cương hiện có hai trăm khê động. Suốt từ thời Lĩnh-nam đến giờ, tự tách ra khỏi chính quyền trung-ương. Dù thời Hán thuộc, Tùy thuộc, Đường thuộc họ sống tự tại. Thuế không đóng, binh dịch không tuân. Mỗi khê, mỗi động như một nước. Gần đây triều Ngô, Đinh, Lê tuy họ qui phục, nhưng vẫn giang sơn một cõi, giống như sứ quân. Khi vua Lý lên cai trị, họ mới chịu nộp thuế, chịu binh dịch, nhưng vẫn không nhận các chức quan của triều đình cử tới. Phải đợi tới khi con gái thứ nhì của đức vua được phong Lĩnh-nam bảo quốc hòa dân công chúa kết hôn với họ Thân, trở thành vua bà vùng Lạng-châu, các sắc dân 207 khê-động dần dần qui tụ, thống nhất thành một khối. Nay trên danh nghĩa hai vị là phò-mã, công-chúa giữ chức vụ tổng-trấn Bắc-cương, chứ thực ra là vua vùng núi rừng Đại-việt. Triều đình, cũng như võ-lâm không ai hiểu bằng cách nào công-chúa khiến các khê-động qui phục mau như vậy. Bây giờ thấy thái độ đối với ba đứa trẻ, với Diệu-Chi, Thuần-Trúc, mình mới biết công-chúa dùng đức thu phục nhân tâm.
        Hàn Diệu-Chi dẫn vào hai đứa con trai, một đứa tên Tuấn mười tuổi. Một đứa tên Hiến, tám tuổi. Thuần-Trúc chỉ có con gái tên Thuần-Khanh tám tuổi. Ba đứa trẻ theo lời chỉ của bố mẹ hành lễ với mọi người.
        Thanh-Mai hỏi Ngô An-Ngữ:
        - Sư huynh, các cháu đã tập võ chưa? Chúng tập võ công Đông-a hay Mê-linh?
        An-Ngữ đáp:
        - Anh cho cháu tập võ công Đông-a trước. Bản lĩnh chúng cũng khá. Anh chờ chúng lớn rồi mới cho tập võ-công Mê-linh.
        Khi An-Ngữ nói đến đó thì Tuấn đang hành lễ với Thân Bảo-Hòa. Thình lình Bảo-Hòa nắm tay đấm thẳng vào mặt nó. Không tránh né, cũng không đỡ đòn, nó xuống đinh-tấn, vung chân phải đá vòng vào mặt nàng. Bảo-Hòa tuyệt không ngờ thằng bé phản ứng lạ lùng như vậy, nàng phải nhảy lùi lại sau mới tránh khỏi. Tuấn không nhân nhượng, nó vọt người theo tấn công liên tiếp hai đòn rồi mới ngừng lại.
        Ngô An-Ngữ bảo con:
        - Con mau tạ ơn quận-chúa đã dạy con bài học phản ứng đi.
        Tuấn cúi đầu tạ ơn. Thân Bảo-Hòa kéo nó lại gần, hôn lên trán:
        - Bé ứng phó mau thực. Tại sao bé không đỡ đòn của cô mà chỉ tấn công thôi. Quyền pháp phái Đông-a nghiêm chỉnh, kín đáo. Bao gìơ cũng bảo vệ hạ bàn rất vững, mà bé không bảo vệ, chỉ lo tấn công?
        Tuấn kính cẩn nói:
        - Thưa quận-chúa. Nếu người tấn công cháu là kẻ thù thì cháu phải thủ cho chắc rồi mới phản đòn. Còn đây quận chúa muốn thử nghiệm võ công của cháu. Mà thử nghiệm là gì? Tức muốm biết bản lĩnh của cháu. Quận chúa đâu phải kẻ thù? Đã không phải kẻ thù thì quận chúa tấn công chỉ là gỉa. Gỉa thì không cần đỡ. Không lẽ quận chúa là người lớn lại đánh chết cháu?
        Thình lình Bảo-Hòa xỉa tay vào mặt Tuấn. Nó trầm người xuống tránh khỏi, rồi bật ngược người lên, hai chân đá hậu vào cổ nàng. Bắt buộc Bảo-Hòa phải lùi lại hai bước để tránh đòn. Chân nàng quét dưới đất. Nếu trúng hai tay, nhất định Tuấn sẽ ngã lộn đi một vòng. Nó co tay lại, rồi duỗi ra thực mạnh, người vọt lên cao. Nó lộn một vòng. Chân phải nó đá vào huyệt Nhân-nghinh trước cổ, chân trái đá vào huyệt Hạ-quan bên tai. Bảo-Hòa chụp hai chân Tuấn. Nàng không dám dùng kình lực, sợ nó bị thương. Còn ở trên cao, nó co chân lại, hai tay biến thành chỉ, xỉa vào tay nàng. Bắt buộc Bảo-Hòa phải lui lại hai bước nữa.
        Thân Bảo-Hòa gật đầu:
        - Đứa trẻ này đã nhanh trí, lại minh mẫn, sự nghiệp sau này không nhỏ. Này Tuấn, sau này lớn lên cháu định làm gì?
        Tuấn chắp tay:
        - Thưa quận-chúa, cháu sẽ phải như Bắc-bình vương Đào Kỳ, hay ít ra cũng phải như Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung.
        Huệ-Sinh bật lên tiếng :
        - A-di-đà Phật. Trung-tín hầu, Bắc-bình vương sinh vào thời loạn thì mới có sự nghiệp trùm hòan vũ. Chứ nay con sinh vào thời bình thì sao thi hành được cái chí đó?
        Ngô Tuấn kính cẩn chắp tay:
        - Bạch đại-sư, Đại-việt mình không bao giờ có thái bình cả.
        Thanh-Mai gật đầu liền ba lần, rồi hỏi:
        - Tuấn, tại sao con bảo Đại-Việt không
        bao giờ có thái bình?
        Tuấn nhìn bố, nhìn mẹ rồi nói:
        - Bố với mẹ cháu thường bàn rằng kể từ nghìn xưa, người Trung-quốc ảnh hưởng bởi các văn gia, tự coi mình là thiên hạ. Ông vua nào cai trị Trung-quốc cũng bắt các nước phải tuân phục. Hễ nước nào không tuân phục thì họ đem quân đánh. Như Đại-việt hiện nay tuy có thái bình, nhưng phương Bắc người Tống không ngừng kiếm truyện. Phương nam họ xúi Chiêm-thành cướp phá. Vậy thì thái bình ở chỗ nào.
        Tịnh-Huyền hỏi:
        - Nếu như con là vua Đại-việt, thì con làm gì?
        - Con không bao giờ muốn làm vua. Có muốn làm cũng không được. Con chỉ muốn được cầm quân. Nếu con cầm quân, thì trước tiên đánh Chiêm cho chúng sợ, không dám quấy phá. Rồi đem quân đánh sang Trung-quốc đòi lại đất cũ thời vua Hùng.
        Huệ-Sinh gật đầu tỏ vẻ tán thành. Ông hỏi Ngô An-Ngữ:
        - Lý luận của cháu thực là lý luận của hào kiệt. Không biết Ngô tướng quân đã đặt tên tự cho cháu chưa?
        - Bạch đại sư chưa. Xin đại sư ban cho cháu một tên tự.
        Huệ-Sinh ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
        - Được, tôi đặt cho cháu tên tự là Thường-Kiệt. Trên đời này, tất cả đều là vô thường. Nhưng tinh khí anh kiệt thì muôn thủa. Vì vậy cháu phải xứng đáng với chữ thường kiệt.
        Ngô Tuấn chắp tay tạ ơn:
        - Đa tạ đại sư. Đệ tử nguyện ghi lời đại sư dạy dỗ.
        Thường-Kiệt ngừng lại hỏi Thân Bảo-Hòa:
        - Thư cô, cô nhận cháu làm đệ tử có được không?
        Bảo-Hoà vuốt tóc nó:
        - Được chứ, bây giờ thì cô chưa đủ bản lĩnh dạy cháu. Cháu cứ học với bố mẹ đi, lớn lên cô sẽ thu làm đệ tử.
        Mỹ-Linh kéo Thường-Kiệt lại ngồi bên cạnh:
        - Cháu học văn chưa?
        - Có, cháu đã học Tứ-thư. Còn Ngũ-kinh mới bắt đầu. Cô ơi, tại sao mình không có chữ, mà phải học chữ của người Tầu?
        Mỹ-Linh khẽ cắn vào má Thường-Kiệt:
        - Mình có chữ đấy cháu ạ. Thời cổ mình có văn-tự Khoa-đẩu. Sau thời Lĩnh-nam, người Tầu cai trị mình, họ cấm không cho học, bắt học chữ Nho. Bao nhiêu sách vở chở về Tầu hết. Vì vậy những sách của mình viết vào thời Hùng-vương, An-dương-vương có hàng nghìn, hàng vạn, mà nay không còn lưu giữ được bộ nào cả. Thời Tần Thủy-hòang về trước, học thuật Trung-quốc rực rỡ vô cùng. Bách-gia, chư tử đều khởi từ đó. Bên mình thịnh hơn. Thế mà nay người Việt chỉ biết sách vở Tầu mà thôi, vì sách Việt thất truyền.
        Thường-Kiệt nhăn mặt:
        - Không lẽ trên toàn nước Việt mình, nay không còn ai biết chữ Khoa-đẩu?
        Câu hỏi của thằng bé không ai trả lời được, người nọ nhìn người kia. Lê Thuận-Tông cũng thắc mắc với Tịnh-Huyền:
        - Bạch sư phụ, theo con nghĩ thì mình chẳng nên tìm bộ Dụng binh yếu chỉ cùng bộ Lĩnh-nam vũ-kinh làm chi. Vì hai bộ đó viết bằng văn-tự Khoa-đẩu. Dù mình có tìm được cũng vô ích mà thôi. Câu nói của Lê Thuận-Tông kéo mọi người về thực tại: đang phải đối phó với các đoàn dò thám của nước Tống. Khai-quốc vương cùng Tôn Đản, Trần Tự-Mai không biết đi đâu?
        Tịnh-Huuyền nói:
        - Việc ở đây coi như tạm xong. Bắc biên cương không thể vắng mặt chủ soái lâu ngày. Thừa-Qúi với Bảo-Hòa phải lên đường về Bắc-biên ngay. Bần ni cùng với Lê Thuận-Tông, Trần Anh trở về Mê-linh. Nùng đạo sư cần dẫn Hà Thiện-Lãm về tổng đàn cho làm lễ nhập môn.
        Bà chắp tay nói với Huệ-Sinh:
        - Bồ nhi cùng với Tự-Mai, Tôn Đản không biết bao giờ trở lại. Phiền đại-sư cùng Thanh-Mai ở lại chờ bọn họ.
        Phò-mã Thân Thừa-Qúi nói với Tôn Trung-Luận:
        - Tôn tiên sinh, xin tiên sinh chuẩn bị hành trang cùng gia đình, lên đường với chúng tôi cho tiện. Cháu Đản đi với Khai-quốc vương, khi việc kết thúc sẽ cũng lên Bắc-biên sau.
        Công-chúa Bảo-hòa hạ lệnh:
        - Bọn Tống bằng đủ mọi cách ắt trở lại đây. Việc đầu tiên, chúng sẽ lật tường viên gạch, viên ngói ở đền thờ Nhâm-Diên tìm di thư. Vậy Tạ điện-súy cùng Hàn sư muội ở lại canh chừng đền thờ Tương-liệt đại-vương, Lệ-hải Bà-vương. Võ công chúng rất cao thâm, tuyệt đối không được giao chiến với chúng. Nếu cần dùng quân sĩ với cung nỏ. Chúng có làm bậy, chỉ cần xuất hiện chúng thấy động sẽ bỏ đi. Ngô tướng quân cùng Hàn sư muội trấn ngoài đảo Nghi-sơn, chu toàn nhiệm vụ Khu-mật-viện giao cho.
        Bà nói với con gái, con trai:
        - Mặc dầu có Đàm an-vũ-sứ, cùng Nguyễn Khánh theo kèm sứ-đòan. Tuy vậy ta cũng không an tâm. Hai con tiếp tục theo dõi chúng, dù phải sang Chiêm.
        Bà nói với Thanh-Mai:
        - Sư muội biết nói tiếng Chiêm, tiếng Hán. Võ công kiến thức sư muội không mấy người có. Ta nhờ sư muội theo giúp hai con ta.
        Mỹ-Linh thấy sắp phải về Thăng-long. Mắt nàng đỏ ngầu, long lanh muốn khóc. Nàng nói với công-chúa Bảo-hòa:
        - Cô ơi. Cô cho con ở lại đây chờ chú hai. Đây là lần đầu tiên con gặp chị Bảo-Hòa cùng anh Thiệu-Thái. Cô cho con ở lại đi, để chúng con có dịp truyện trò với nhau.
        Thấy từ lúc gặp nhau, Thiệu-Thái, Mỹ-Linh truyện trò rất tương đắc, không muốn xa nhau. Thân Thừa-Qúi vốn dễ tính hơn vợ. Ông sợ vợ bắt cháu về Thăng-long. Ông nói :
        - Ừ cháu ở lại. Khi bác về qua Thăng-long thế nào cũng vào hội kiến với bố cháu. Bác sẽ nói với bố cháu cho.
        Ông dặn hai con:
        - Bình-Dương chưa từng ra ngoài nhiều. Các con phải chiếu cố cho em nghe .Nếu có gì sơ xẩy thì bố đánh què cả hai. Mọi việc nhất thiết phải nghe lời dạy dỗ của đại-sư Huệ-Sinh.
        Mọi người lên đường tức thì.
        Huệ-Sinh nói với Đinh Ngô-Thương:
        - Sau đây chúng tôi không giám làm phiền đại-nhân nữa. Chúng tôi xin đến chùa Sơn-tĩnh ở, hầu chờ vương-gia.
        Đinh Ngô-Thương hỏi:
        - Bạch thầy, nơi đây là chốn bụi hồng, sợ ô uế áo nhà Phật. Vì vậy thầy cần nơi yên tĩnh hành Thiền. Chùa Sơn-tĩnh là chi phái của chùa Tiêu-sơn. Tuy nhiên còn công-chúa, quận chúa thì sao? Vì Nguyên-Hạnh đại-sư trụ trì Sơn-tĩnh tự từ lâu, không chấp thuận cho nữ nhân ở trong chùa.
        Thân Bảo-Hòa ngắt lời Đinh-ngô-Thương:
        - Tôi nghe Nguyên-Hạnh đại-sư tổ chức một lực lựơng tên Hồng-hương, tiếng tăm vang dội. Tổ chức ấy như thế nào?
        Đinh Ngô-Thương tỏ vẻ hãnh diện:
        - Ngài Nguyên-Hạnh thực là đại Bồ-tát, che chở cho trấn chúng tôi. Ngài vốn bác học đa năng, thường chú ý đến thanh thiếu niên. Từ khi về trụ trì Sơn-tĩnh, ngài chiêu tập bọn vong mạng, bọn thiếu niên hư hỏng, đem về dạy dỗ, dùng các thiếu niên đó san bằng khu thung lũng hoang vu, thành lập bốn xã Sơn-tĩnh. Mang tên Đông, Tây, Nam, Bắc. Dân trong xã hoàn toàn ăn chay, sống như những tăng sĩ. Chỉ khác một điều họ được lấy vợ, lấy chồng.
        Thanh-Mai đã từng nghe nói về Nguyên-Hạnh. Nàng thắc mắc:
        - Thưa Đinh đại nhân, thế tại sao đại nhân lại dạy rằng ngài Nguyên-Hạnh che chở cho trấn Thanh-hóa?
        Đinh Ngô-Thương vui vẻ đáp:
        - Cô nương hỏi vậy thực phải. Nguyên nam nữ thiếu niên trong bốn xã Sơn-tĩnh được học văn, học võ, luyện tập, tổ chức thành đoàn ngũ như binh sĩ, lấy tên là Hồng-hương thiếu niên. Họ đều mặc quần áo nâu, cổ quàng khăn đỏ. Họ sang các làng xung quanh giúp tráng đinh canh phòng đạo tặc, giúp người gìa yếu, chăm sóc trẻ mồ côi. Thành ra trấn chúng tôi suốt bao năm qua không có trộm cắp. Tối đến đi ngủ, nhà không phải đóng cửa. Khi có trận mạc, các thiếu niên Hồng-hương theo giúp trong quân.
        Huệ-Sinh nói với Mỹ-Linh, Bảo-Hòa:
        - Nguyên-Hạnh đại sư là đệ tử của Bố-Đại hòa thượng đấy. Bố-Đại hòa thượng là thái sư thúc của ta. Như vậy ta phải gọi ngài Nguyên-Hạnh là sư thúc. Sư thúc không muốn cho con gái ở trong chùa, thì chẳng nên trái ý người.
        Đinh Ngô-Thương tiếp:
        - Các xã Sơn-tĩnh mỗi năm mở đại hội vào tháng 6-7-8 cho thập phương kéo về ăn ở trong xã, học đạo, luyện Thiền. Còn ngòai ra ngài không muốn cho đàn bà con gái lên chùa.
        Mắt phượng dựng ngược, quận-chúa Thân Bảo-Hòa hỏi Đinh Ngô-Thương:
        - Đại-sư Nguyên-Hạnh xuất thân từ đâu? Niên kỷ bao nhiêu rồi mà còn hồ đồ như vậy? Phàm cao tăng,thì tứ đại giai không. Nam cũng thế, nữ cũng vậy. Con chó con mèo với hòa thượng đều vô thường cả, có khác gì nhau? Sơn-tĩnh là ngôi chùa thuộc hệ thống Tiêu-sơn. Trước đây tôi đã từng ở trên chùa Tiêu-sơn được thì sao không ở trên chùa Sơn-tĩnh được?
        Đinh Ngô-Thương thở đài:
        - Quận chúa dạy vậy thì đúng phép Phật rồi. Song đây là môn qui của chùa Sơn-tĩnh. Bởi Sơn-tĩnh là nơi đức Phật hóa thân giáng thế đến mấy lần, trong xác tổ Vô-Ngại của phái Tiêu-sơn. Phụ thân Nguyên-Hạnh đại sư họ Hồ nguyên là người võ lâm Trung-nguyên, sang kiều-ngụ trong trấn. Đại-sư đi tu lúc mười tuổi, là người cực kỳ thông minh, học đâu hiểu đó. Đại-sư đã trứ tác nhiều sách vở về Phật-giáo. Tuy vậy đại-sư cũng không dám bỏ qui luật nghìn năm của Sơn-tĩnh.
        Tính Mỹ-Linh ôn hòa. Nàng sợ người chị họ vốn tính cương cường không mấy tin Phật pháp, nếu bà chị có quyết định gì khác, phạm đến vị cao tăng, e khó ngăn cản:
        - Thôi chị Bảo-Hòa, Phật giáo có muôn vàn pháp môn. Chúng ta theo Thiền-tông thì lấy yếu chỉ kinh Kim-cương, Lăng-gìa làm lẽ chính. Vua cũng thế, tôi cũng vậy, chó, gà cũng không kém. Ta chẳng nên bắt người khác theo mình. Chị em ta cứ ở nhờ trong dinh tổng-trấn là được rồi. Tuy nhiên Sơn-tĩnh là nơi đức Phật phân thân giáng-sinh, chúng ta cần tới hành hương. Một là lễ Phật, hai là thăm danh lam thắng cảnh.
        Mỹ-Linh kính cẩn nói với Huệ-Sinh:
        - Sư-phụ. Bao gìơ sư-phụ lên chùa Sơn-tĩnh?
        - Ngay bây giờ.
        Nàng chỉ Thiệu-Thái, Bảo-Hòa:
        - Xin sư phụ cho chúng con đi cùng.
        - Con là đệ tử Tiêu-sơn, đương nhiên đến vùng Cửu-chân thì phải lên chùa Sơn-tĩnh lễ Phật. Kể từ khi bản-phái được thành lập, thì chưởng môn bao gìơ cũng trụ trì tại Tiêu-sơn. Vị chưởng-môn sẽ chọn trong tăng chúng, vị đạo hạnh cao nhất, cử vào trụ trì chùa Sơn-tĩnh. Sơn-tĩnh vẫn là ngôi chùa thuộc quản nhiệm của bản phái.
        Khi Mỹ-Linh chuẩn bị lên đường, nàng đọc được trên mặt Tạ Sơn những nét lo âu. Biết tính người sư-huynh vốn cẩn thận, tận tụy. Nàng nói mấy câu an ủi:
        - Sư huynh khỏi lo cho em. Em theo sư-phụ lên chùa lễ Phật. Cạnh còn chị Thanh-Mai, anh Thiệu-Thái, chị Bảo-Hòa, thì dù bọn Tống có hung dữ đến đâu, chúng cũng chẳng làm gì đựơc em.
        Thanh-Mai hỏi Thân Bảo-Hòa:
        - Thân quận chúa.Tôi nghe nói khắp Lĩnh-nam mình, phái Sài-sơn là hậu duệ của Phù-đổng thiên vương, thì thuật kỵ-mã đứng đầu. Thứ đến phái Tây-vu. Vậy bản lĩnh kỵ mã của quận chúa hẳn không ai bì kịp. Nhất là bản lĩnh đang phi ngựa, đổi ngựa cho nhau.
        Bảo-Hòa cười:
        - Em sống ở trên rừng, lại sát biên giới, bắt buộc từ sáu tuổi phải biết cỡi ngựa. Bản lĩnh tuy cũng khá, song không bõ làm trò cười cho chị.
        Mỹ-Linh nói với Bảo-Hòa:
        - Chị dạy em thuật đổi ngựa đi.
        Ngựa Huệ-Sinh, Thanh-Mai là chiến mã của phủ Khai-quốc vương, to lớn hùng dũng. Còn ngựa của Bảo-Hòa là ngựa rừng, nhỏ con, trông không xứng tý nào cả. Còn Thiệu-Thái thì cỡi con cọp mầu đen như nhung. Mỹ-Linh hỏi:
        - Anh Thái này, làm cách nào con hùm xám này chịu để cho anh cỡi. Lỡ ra nó táp anh một miếng thì sao?
        Thiệu-Thái cười:
        - Ở Lạng-châu, ai cũng nuôi thú rừng giữ nhà hoặc săn bắn. Con hùm này mồ côi mẹ từ bé. Anh đi săn gặp nó bơ vơ một mình. Anh bắt dem về nuôi. Nó chơi đùa với Bảo-Hòa suốt ngày. Hồi đầu nó đữ lắm. Sau này Bảo-Hòa thường uốn nắn, huấn luyện nó , riết rồi nó trở thành hiền như con mèo.
        Thiệu-Thái hú một tiếng dài. Con cọp đang nằm ở gốc cây đứng dựng dậy, chạy lại vẫn đuôi như con chó. Bảo-Hòa ôm lấy cổ nó, vuốt lên bộ lông đen bóng. Nó liếm tay Bảo-Hòa như ...chó. Bảo-Hòa nói với nó:
        - Sơn-Sơn ơi, mi phải ngoan ngõan với Mỹ-Linh nghe. Mỹ-Linh bảo gì mi cũng phải tuân như tuân lệnh cô, thì cô mới thương nghe.
        Con hùm gật gật cái đầu. Mỹ-Linh vọt lên lưng nó. Bảo-Hòa hô:
        - Phi.
        Con cọp phóng theo đàn ngựa. Thiệu-Thái cỡi ngựa của Mỹ-Linh. Ngựa của Huệ-Sinh, Thanh-Mai, Thiệu-Thái phải có cương. Còn ngựa của Bảo-Hòa, cũng như con cọp, không cương. Bảo-Hòa điều khiển như điều khiển người. Ngựa Bảo-Hòa phi song song với ngựa Thiệu-Thái. Thình lình nàng quát lên một tiếng. Cả hai anh em vọt lên cao. Nàng đáp xuống lưng ngựa Thiệu-Thái, Thiệu-Thái đáp xuống lưng ngựa nàng. Bảo-Hòa nói với con cọp:
        - Sơn-Sơn ơi, đi chậm lại, ngang với ngựa của cô đi.
        Con cọp chạy chậm lại. Bảo-Hòa nói với Mỹ-Linh :
        - Em vận khí vào đơn điền, rồi dẫn chân khí theo túc Dương-minh vi-kinh, túc Thái-âm tỳ-kinh đến huyệt Túc-tam-lý, Âm-lăng-tuyền, sau đó vọt lên cao theo thức Thần-ưng lăng không, em sẽ đáp lên lưng ngựa chị. Chị cũng sẽ vọt lên lưng con hùm.
        Mỹ-Linh vận khí thử một lần, thấy không có gì khó khăn. Nàng làm lại ba lần cho ăn chắc, rồi vọt lên cao. Nhưng thay vì vọt về trước, nàng lại chỉ lên thẳng. Thành ra khi nàng rơi xuống, thì ngựa Bảo-Hoà cũng như con hùm đã tới trước. Thế là nàng rơi xuống đất. Nàng phải vận khí để đáp xuống, thì con hùm phản ứng rất nhanh. Nó ghì chân trước, hai chân sau, theo đà của mình quay một vòng, đầu nó đã trở ngược chiều, nó vọt tới, vừa đúng lúc Mỹ-Linh đặt chân xuống lưng nó. Không cần điều khiển, nó lại quay một vòng, chạy theo đàn ngựa.
        Nói thì chậm, chứ động tác Mỹ-Linh vọt lên. Con cọp ghì chân trước quay một vòng, vọt tới đỡ chân chủ, rồi quay một vòng nữa, tiếp tục phi... xẩy ra trong chớp nhoáng.
        Bảo-Hòa nói vọng sang:
        - Bình-Dương ơi, khi em vọt, thì phải tính tới truyện ngựa đã tới phía trước mấy bước. Vì vậy em phải vọt về trước thay vì lên cao. May mà con hùm nó biết, lùi lại đỡ em. Chứ không em đã rơi xuống đất. Em làm lại đi.
        Mỹ-Linh quát lên một tiếng người vọt lên cao, về phía trước. Người nàng rơi xuống vừa đúng lúc con cọp chạy tới. Nàng đứng trên lưng nó an tòan.
        Bảo-Hòa tiếp:
        - Bây giờ em lại ngồi xuống lưng hùm như thường. Được rồi. Em hít hơi tụ khí vào trung Đơn-điền, rồi dẫn tới huyệt Túc-tam-lý, Âm-lăng-tuyền như hồi nãy, sau đó vọt lên xéo về trước ngựa chị.
        Mỹ-Linh vọt lên như Bảo-Hòa nói. Nàng đã đáp trên lưng ngựa của mình. Ngược lại Bảo-Hòa đáp trên lưng cọp. Thiệu-Thái nhìn Bình-Dương, lòng chan chứa niềm vui:
        - Bây giờ Bình-Dương, Bảo-Hòa với anh cho ngựa chạy song song... Được rồi. Bình-Dương với Bảo-Hòa đổi ngựa. Sau đó Bình-Dương đổi ngựa với anh.
        Ba anh em vừa phi ngựa, vừa đổi ngựa. Hai con ngựa, một con cọp vẫn phi song song, bụi bay mịt mù.
        Từ dinh tổng-trấn Cửu-chân đến chùa Sơn-tĩnh phải mất nửa ngày sức ngựa. Ba người vừa đi, vừa đổi ngựa trên không. Trong khi đó thì Huệ-Sinh giảng kinh cho Thanh-Mai nghe. Từ lúc biết Huệ-Sinh kết huynh đệ với bố mình, Thanh-Mai không cần gĩư ý tứ, lễ nghi khách sáo. Nàng biết nội công phái Đông-a nhà mình phát xuất từ phái Tiêu-sơn. Ngược lại ngoại công phái Tiêu-sơn lại phát xuất từ phái Đông-a. Mà nội công phái Tiêu-sơn lại rút từ yếu-chỉ kinh Tượng-đầu, Lăng-gìa. Nàng hỏi:
        - Thưa sư bá. Hôm trước, thiền-sư Minh-Thiên, thủ tọa Đạt-ma đường phái Thiếu-lâm lúc đầu cứ lầm rằng chưởng pháp của Tiêu-sơn với Thiếu-lâm là một. Rồi sau chỉ đấu một chiêu với anh cả, mà nhận ra chỗ khác biệt giữa Tiêu-sơn Tượng-đầu chưởng với Thiếu-lâm Kim-cương chưởng là tại sao?
        Minh-Thiên đáp:
        - Trước hết Tượng-đầu chưởng rút yếu chỉ nội công từ kinh Tượng đầu tinh xá. Kim-cương chưởng rút yếu chỉ từ kinh Kim-cương. Cả hai cùng gốc từ pháp môn Thiền-na nhà Phật. Cả hai cùng có chủ yếu là bỏ ra ngòai Nhân, ngã tứ tướng. Tức khi nhập Thiền, bỏ ra ngòai Lục-căn tức Nhãn-căn, Nhĩ-căn, Tỵ-căn, Thiệt-căn, Thân-căn, Ý-căn. Tức nhìn mà không thấy, nghe mà không biết, ngửi mà không triệt hương, lưỡi tuy có, mà không cảm thấy vị, thân tuy tại thế, mà tự biến đi không biết, ý không tức tư tửơng không họat động... Bởi vậy phần nội công hai pho chưởng giống nhau. Còn khác nhau là Kim-cương chưởng do tổ thứ tám của phái Thiếu-lâm chế ra, sức mạnh vô song. Nhưng sức ấy chỉ hóa giải lực đối phương, tuyệt không phản kích.
        Thanh-Mai ngắt lời:
        - Như vậy thì chưởng pháp Thiếu-lâm chẳng có ích gì sao?
        - Không phải tất cả Thiếu-lâm chưởng đều dùng để hóa giải, mà chỉ có Kim-cương chưởng mới hóa giải mà thôi. Còn Tiêu-sơn Tượng-đầu chưởng do tổ Duy-Giám của Tiêu-sơn chế ra. Sự thực tổ Duy-Giám không phải là người khởi chế ra. Tổ chỉ nhân Thiên-ưng chưởng, sửa đổi cho bớt hung hiểm mà thôi. Như cháu biết, Thiên-ưng chưởng đo tổ sư phái Đông-a dùng Thiền-công phái Tiêu-sơn chế ra. Vì vậy Tiêu-sơn Tượng-đầu chưởng phát ra vừa có cái nhu hòa, hóa giải lực đối thủ của nhà Phật, vừa có cái sát thủ đượm phong lôi, thủy, hỏa, ghê gớm của tục gia.
        Thanh-Mai vẫn nghe biết rằng tổ của nàng là Trần Tự-Viễn nhân học Thiền-công phái Tiêu-sơn rồi thành lập phái Đông-a. Song nàng chưa được phân giải rõ ràng. Hôm nay nghe Huệ-Sinh giảng, nàng như sáng mắt ra. Nàng hỏi:
        - Trong Đông-a chưởng pháp, phân rõ rằng khi phát chưởng, thì thận khí thuộc thủy, tâm-khí thuộc hỏa. Phải làm sao cho thủy chế được hỏa, thì sức mới mạnh. Hiện trong phái Đông-a rất ít người có khả năng vận khí thăng bằng thủy hỏa. Cháu đã nhiều lần thử, mà không thành công. Bố cháu bảo rằng muốn đạt tới trình độ đó phải trên bốn mươi tuổi. Thưa sư bá, sư bá có cách nào giúp cháu vượt qua cái khó khăn ấy không? Thế trong phái Tiêu-sơn, thủy hỏa khác nhau ra sao?
        Huệ-Sinh mỉm cười:
        - Để ta đọc cho cháu nghe:

        Thủy hỏa nhật tương tham,
        Do lai vị khả dàm.
        Báo quân vô sở xứ,
        Tam tam, hựu tam tam.
        Tự cổ lai tham học,
        Nhân, nhân chỉ vị Nam.
        Nhựơc nhân vấn tân sự,
        Tân sự nguyệt sơ tam.


        Thanh-Mai đã nghe bố nói rằng Huệ-Sinh là một cao tăng đắc đạo, thành Bồ-tát rồi, song vẫn chưa rời thế tục, nguyện ở lại giúp thế gian. Bây giờ nghe ông đọc bài kệ, nàng tự nghĩ thầm:
        - Sư bá muốn dạy thêm Thiền-công cho mình, mà không muốn trực tiếp giảng. Bài kệ trên nói: Thận khí là nước với tâm khí là lửa, hàng ngày vốn có sẵn trong người, kiềm chế lẫn nhau. Nguồn gốc của chúng không thể bàn đến được. Ta nói cho cháu biết chúng không có xứ sở. Ba với ba cộng thành sáu. Tại sao sáu vẫn là sáu? À phải rồi trong kinh Thủ-lăng-nghiêm có nói rằng : « Nhất căn ký phản nguyên. Lục căn thành giải thoát. » Nghiã là một căn đã hoàn nguyện. Sáu căn thành giải thoát. Trong phép luyện Thiền-công, nếu luyện căn nào mình cho là quan trọng. Căn đó thành rồi thì năm căn khác cũng đạt được. Đọan dưới người muốn nói gì? Từ xưa đến giờ người đến học đạo, luyện công đều chỉ có một phương hướng. Nếu nay có ai hỏi cái mới, thì cái mới cũng như trăng mồng ba. Trăng mồng ba là trăng mới ló, vậy tức phải trở lại nguồn gốc.
        Thanh-Mai vừa tìm được một tia sáng, yếu chỉ Thiền-công Tiêu-sơn. Nàng hướng vào Huệ-Sinh:
        - Đa tạ sư bá chỉ điểm.
        Huệ-Sinh mỉm cười:
        - Cháu hít hơi, dẫn khí theo Đốc-mạch, tới huyệt Chí-dương thì chia làm hai. Một cứ tiếp tục dẫn theo Đốc-mạch tới huyệt Mệnh-môn. Sau đó dẫn khí từ huyệt Chí-dương vào tâm, cùng một lúc dẫn khí từ huyệt Mệnh-môn vào thận. Cuối cùng giáng khí từ tâm xuống thận.
        Thanh-Mai vận khí như Huệ-Sinh giảng, quả nhiên nàng cảm thấy chân khí nhộn nhạo tụ vào đơn điền mạnh vô cùng. Huệ-Sinh vẫy tay cho anh em Thiệu-Thái, Bình-Dương cứ tiếp tục đổi ngựa, phi ngựa. Ngựa ông với Thanh-Mai lùi lại sau. Ông chỉ vào khu rừng ven đường:
        - Ta tạm vào đó.
        Hai người ghì ngựa dừng lại. Huệ-Sinh chỉ vào cây thông bằng cổ chân, bảo Thanh-Mai:
        - Cháu vận Đông-a chưởng pháp đánh vào cây này cho sư bá xem nào?
        Thanh-Mai hít hơi, vận khí phát chiêu Thủy ba vô để hướng vào gốc cây. Chưởng phong ào ào phát ra. Bộp một tiếng, cây rung rinh như bị bão, nhưng không gẫy. Nàng đỏ mặt:
        - Công lực cháu thấp qúa không bõ làm trò cười cho sư bá.
        Huệ-Sinh vẫy tay:
        - Cháu còn trẻ. Công lực thấp thì tập sẽ cao. Không có ai sinh ra mà biết hết cả. Nào, bây giờ cháu vận khí theo Đốc-mạch dẫn đến huyệt Mệnh-môn rồi đưa vào thận. Sau đó chuyển ra Nhâm-mạch, dẫn vào Thủ-tam-âm kinh, rồi lại phát chiêu Thủy ba vô để.
        Thanh-Mai vận khí lần thứ nhất, không thông. Đầu óc nàng chóang váng. Huệ-Sinh búng tay một cái, viên sỏi từ tay ông kêu rít lên vo vo, trúng giữa huyệt Đại-trùy của nàng. Nàng cảm thấy như người bay bổng lên, cái chóng mặt biến mất. Huệ-Sinh nhắc nhở:
        - Phàm vận khí theo Thiền-công, phải bỏ ra ngoài lục căn. Sắc tướng, lục căn làm cho khí phân tán khắp cổ, vì vậy bị nghẹt tại huyệt Đại-trùy. Bây giờ cháu vận lại một lần nữa.
        Thanh-Mai tập trung tinh thần, nhắm mắt. Đầu tiên bỏ ra ngòai tiếng động xung quanh. Quả nhiên một căn bỏ ra được, năm căn còn lại cũng biến mầt. Lần thứ nhì nàng được như ý muốn. Chưởng phong phát ra không có gió. Chưởng trúng vào thân cây, phát ra tiếng bịch. Tiếng kêu vang đi rất xa, kéo dài như một luồng sóng biển, liên miên không ngừng.
        Huệ-Sinh hỏi:
        - Cháu thấy thế nào?
        - Bạch sư bá, cháu hiểu rồi. Chưởng đầu cháu phát ra, dùng chân khí hỗn hớp của cơ thể, nên âm dương thăng bằng. Vì vậy cây rung lên thực mạnh. Chưởng sau cháu phát ra xử dụng thận khí. Thận chủ thủy, thuộc thuần âm, nên chưởng phát không có gió, trái lại sức âm nhu trấn động rất đài.
        Huệ-Sinh gật đầu:
        - Cháu thông minh thực. Ta e rằng còn hơn thân phụ cháu. Bây giờ cháu lại vận khí theo Đốc-mạch, dẫn đến huyệt Chí-dương, đưa vào tim. Rồi từ tim, cháu chuyển khí ra Thủ-thiếu-âm tâm kinh, Thủ-khuyết-âm tâm bào kinh, cuối cùng lại phát chiêu Thủy ba vô để xem nào!
        Thanh-Mai hít hơi vận khí, phát chiêu. Chưởng phong phát ra ào ào như sóng vỗ, cát bụi bay mịt mù. Cây bật lên tiếng rắc, rồi đổ xuống.
        Thanh-Mai trợn tròn mắt ra vì ngạc nhiên. Nàng không ngờ chưởng lực của mình lại mạnh như vậy. Huệ-Sinh như biết nàng định đặt câu hỏi, ông vẫy tay:
        - Cơ duyên chỉ có chốc lát. Cháu gắng mà học. Đừng thắc mắc nữa. Nào bây giờ cháu vận khí như ta dạy, dẫn khí vào tâm, thận cùng một lúc, rồi đưa tâm khí, thận khí vào đơn điền, chuyển ra Đốc-mạch, đưa vào Thủ-tam-dương kinh, sau đó phát chưởng.
        Thanh-Mai vận khí xuất chiêu, hướng vào gốc cây. Chưởng phong phát ra như cơn gió lốc. Binh một tiếng, gốc cây bật tung lên cao, rồi rơi xuống. Nàng chạy lại xem, thì gốc cây bị tiện đứt bằng phẳng như tiện.
        Huệ-Sinh giảng:
        - Cái khó nhất khi luyện Thiền-công là bỏ ra ngoài Lục căn. Trong khi giao đấu, muôn hình, ngàn trạng hiện ra, rồi lo lắng, rồi hiếu thắng...Vậy phải làm thế nào bỏ được Lục-căn?
        Thanh-Mai lắc đầu:
        - Cháu không làm được như thế.
        - Làm được chứ! Bản sư cháu có dạy cháu kinh Bát nhã ba la mật đa tâm kinh rồi mà. Phàm trước khi đọc kinh, muốn lòng trong sáng như trời không mây, thì người Phật tử phải khởi đầu bằng kinh Bát-nhã. Sau đó muốn tụng kinh gì thì tụng. Đôi khi tụng kinh rồi, không hiểu nổi, lòng vướng mắc, phiền tạp, thì một lần nữa tụng kinh Bát-nhã, lòng trong sáng trở lại.
        Những điều Huệ-Sinh giảng, Thanh-Mai đã được Tịnh-Huyền dạy rồi. Có điều nàng không ngờ giữa tụng kinh với luyện công lại là một. Như tỉnh ngộ, nàng nói lớn lên:
        - Cháu hiểu rồi. Sư phụ dạy cháu Phật-pháp có muôn vàn pháp môn, nhưng chung qui vẫn chỉ có một mối. Đạo Thế-tôn vô thủy vô chung.
        Huệ-Sinh vui vẻ:
        - Từ sau này luyện công,cháu đừng quên những gì học hôm nay, cũng như những điều tự khải ngộ. Thôi ta đi.
        Hai người lên ngựa, chạy theo anh em Thiệu-Thái, lát sau đuổi kịp.
        Bảo-Hòa tinh ý, quay lại nói với Thanh-Mai:
        - Những người có duyên phần từ kiếp trước, thì kiếp này trước sau gì cũng gặp nhau.
        Huệ-Sinh mỉm cười. Đến đó ông chỉ về dẫy núi xa xa:
        - Kìa là chùa Sơn-tĩnh.
        Trên ngọn núi xa xa, mây trắng trôi qua, khi khuất, khi hiện một dẫy nhà ngói đỏ, giữa những lùm cây xanh rì. Ngựa phi một lát đã tới gần. Ngọn núi không cao, đứng dựng giữa cánh đồng lúa con gái xanh rì. Trên đồng nhấp nhô những người đánh kỳ, tát nước. Họ thấy bốn con ngựa, một con hùm phi như bay, thì dừng tay đứng nhìn. Tới chỗ đường quẹo vào chân núi, cả năm người gò cương ngựa đi chậm lại. Hai cô gái đang tát nước nhìn thấy Thân Thiệu-Thái nói bâng quơ:
        - Chàng này coi được quá.
        Một cô khác tiếp:
        - Người gì mà béo ụt, béo ịt, giống con lợn nhà mình quá.
        Các cô cùng cười lên. Một cô tiếp:
        - Nếu đem bán lợn đứng, cũng được mấy quan tiền đấy.
        Một cô thêm:
        —Thôi để em đem chàng lợn về làm chồng. Có lợn còn hơn nằm không.
        Nói rồi cô cất tiếng ngâm sa mạc:

        Hỡi anh đi đường cái quan,
        Dừng chân đứng lại em than đôi lời.


        Các cô gái nông thôn thường hát trêu ghẹo con trai qua đường, Thiệu-Thái thấy đã thường, chàng lờ đi như không biết. Còn nếu chàng hỏi han điều gì, các cô sẽ hát trêu tiếp, không biết đâu mà trả lời. Còn Mỹ-Linh lần đầu tiên được nghe hát Sa-mạc, nàng hỏi cô gái:
        - Chị ơi! Chị muốn hỏi anh tôi điều gì?
        Cô gái vừa hát cười:
        - À, tôi muốn hỏi khi khăn của anh cô rơi thì ai nâng cho. Lại khi túi của anh ấy rách thì ai sẽ sửa cho?
        Mỹ-Linh hỏi Thanh-Mai:
        - Thế nghĩa là gì?
        Thanh-Mai đáp:
        - Cô ấy muốn hỏi anh Thiệu-Thái có vợ chưa đấy.
        Bảo-Hòa nói sẽ:
        - Để chị trả lời cho.
        Nàng cất cao giọng hát:

        Đối địch thì dịch lại đây,
        Bên thừng bên chão xem dây nào bền.


        Cô gái cũng không vừa:

        Đêm qua trời sáng trăng rằm,
        Anh đi qua cửa, em nằm không yên.
        Mê anh chẳng phải mê tiền,
        Mê anh béo ị giống con lợn sề.
        Thấy anh em tưởng ngủ mê,
        Tưởng rằng lợn đực đem về giết ăn.


        Thân Thiệu-Thái hát đáp lại:

        Đố ai đốt cháy ao bèo,
        Để ta gánh đá bên đèo về ngâm.
        Bao giờ cho đá mọc mầm,
        Thì ta kết nghĩa tri âm với nàng.


        Một cô gái cười khúc khích:
        - Anh ơi, làng em năm nay thiếu một ông ỉn. Xin mời anh về làng thay thế ông được không? Cam đoan cả làng sẽ chiều chuộng anh hết sức.
        Thiệu-Thái ngơ ngác:
        - Ông ỉn là ông gì vậy?
        Đến đó, Thiệu-Thái phải cho ngựa chạy theo Huệ-Sinh, vì ông đã đi khá xa. Một cô gái không chịu thua hát vọng theo:

        Ba cô cỡi ngựa lên chùa,
        Cái cô áo trắng bỏ bùa cho sư.
        Sư về sư ốm tương tư.
        Ốm lăn, ốm lóc cho sư trọc đầu,
        Ai làm cho dạ sư sầu,
        Cho ruột sư héo như bầu đứt dây.


        Huệ-Sinh là cao tăng đắc đạo, ông đã vượt ra khỏi vòng nam, nữ. Vì vậy khi nghe cô thôn nữ hát ghẹo, ông cười khoan thứ:
        - Trước đây bần tăng nghe nói con gái xứ Thanh-hóa miệng cười tươi như hoa, mà rút kiếm chém giặc lúc nào không hay. Hôm nay mới được biết, sự thực còn hơn lời đồn.
        Năm người cho ngựa men theo con đường núi lên chùa. Hai bên đường trồng hoa, cây cảnh cắt tỉa thực tinh vi. Khi mới vào dốc đường là hai cây ngâu hoa vàng, cắt tỉa thành hình hai con hạc chầu. Kế đến là những hàng thược dược mầu vàng, mầu đỏ. Qua hàng thược dược, tới ngọn suối, nước chảy róc rách. Bên bờ suối có mấy con hạc trắng dứng tỉa lông. Cạnh suối là một vùng cỏ non mọc xanh mơn mởn. Mấy con nai nằm phơi nắng dưới gốc cây.
        Ngựa lên được khỏang trăm trượng, tới cổng thứ nhất. Cổng lợp ngói tráng men xanh . Cánh cửa gỗ lim mầu đen óng ánh. Cột tô son đỏ chói.
        Hai nhà sư trẻ túc trực trong cánh cổng, có lẽ là tri-khách tăng. Hai người kính cẩn hành lễ:
        - A-di đà Phật. Đệ tử kính thỉnh pháp danh đại-sư cùng cao danh, qúi tính các vị thí chủ.
        Huệ-Sinh đáp:
        - Bần tăng là Huệ-Sinh.
        Rồi ông giới thiệu bọn Bình-Dương.
        Hai vị tri-khách nghe đến tên Huệ-Sinh, vội vàng hành đại lễ:
        - Thì ra sư bá giá lâm. Đệ tử Hạnh-Chân và Hạnh-Như kính cẩn vấn an sư bá.
        Hạnh-Chân cầm dùi đánh vào cái chuông treo trước cổng năm tiếng, rồi đứng tránh sang một bên nhường lối cho Lâm-Khu đi. Hai người chạy ra cầm dây cương ngựa cột vào những cái cọc trước cổng. Khi nhận ra con cọp không cương, Hạnh-Như kinh hãy kêu lên, lùi lại:
        - Ối... A-di đà Phật, ông ba mươi.
        Con hùm dường như muốn trêu chọc Hạnh-Như, nó gầm lên một tiếng nhe hàm răng trắng ởn. Hai nhà sư trẻ vội núp sau Huệ-Sinh.
        Thân Bảo-Hòa cười:
        - Này hai tiểu sư phụ. Tôi nghe nói trong kinh Phật dạy rằng người tu hành thì dù nhảy vào miệng cọp đói, dù xẻo thịt cho chim ưng ăn cũng vui lòng, có đúng không?
        Hạnh-Chân vừa run vừa đáp:
        - Có...đúng như thế.
        Bảo-Hòa càng đùa:
        - Hai vị tiểu sư-phụ. Hai vị là đệ tử nhà Phật, vậy hãy nhảy vào miệng ông kễnh nhung đi, để thành chính qủa. Ông kễnh này đói lắm rồi đó. Hai tiểu sư phụ đi tu từ nhỏ, thân thể tinh khiết, chắc thịt thơm ngon lắm.
        Con hùm hiểu được tiếng chủ. Nó lại quen lối đùa của Bảo-Hòa. Nó nhe răng từ từ tiến lại trước hai nhà sư trẻ. Hạnh-Như run rẩy:
        - Ông kễnh ơi. Thịt bần tăng hôi lắm. Đã ba ngày bần tăng chưa tắm. Nếu ông kễnh ăn thịt bần tăng vào ắt sinh bệnh đấy.
        Huệ-Sinh biết Bảo-Hòa đùa, ông muốn biết cô gái miền thượng-du này đùa đến đâu. Ông mỉm cười đứng nhìn. Bảo-Hòa bảo con hùm:
        - Sơn-Sơn ơi, trong hai vị tiểu sư phụ đây, mi muốn ăn vị nào trước? Tội nghiệp từ sáng đến giờ mi chưa có gì bỏ bụng, chắc đói lắm rồi.
        Hai nhà như thấy con hùm đến gần, thì càng run, núp sau Huệ-Sinh, miệng lắp bắp:
        - Sư bá. Xin sư bá cứu đệ tử với.
        Hạnh-Chân chỉ Hạnh-Như:
        - Ông kễnh ơi! Ông có đói thì xơi thịt em bần tăng trước. Thịt em bần tăng mềm hơn thịt bần tăng.
        Chợt có tiếng nói lớn:
        - Hạnh-Chân, Hạnh-Như. Đại-hùng, đại-lực các con để đâu? Hãy can đảm tiến lên đứng đối diện với ông ba mươi xem nào. Nếu ông nhảy vào vồ, thì dùng võ công chống lại.
        Hai nhà sư trẻ qua cái sợ ban đầu. Được người nhắc, can đảm trở về. Hai người đứng Đinh-tấn, quắc mặt nhìn con hùm xám. Có tiếng nói:
        - Hãy đem Phật-pháp ra mà thuyết giảng.
        Hạnh-Như dõng dạc nói:
        - Này ông kễnh. Giữa bần tăng với thí chủ không thù, không óan. Hà cớ thí chủ lại làm dữ với bần tăng? Nếu như các tiền kiếp của bần tăng có gây nghiệp qủa với thí chủ, thì thí chủ cứ tiến đến mà đòi nợ.
        Con hùm không thấy Bảo-Hòa đùa nữa. Nó lùi lại gật đầu, đứng dựng bằng hai chân sau. Hai chân trước chắp lại hành lễ với mấy nhà sư vừa từ trên núi xuống. Bảo-Hòa nhìn lại người dạy Hạnh-Chân, Hạnh-Như là một vị hòa thượng gầy người vừa phải, trông sắc tướng không lấy gì làm đặc biệt. Hai hàm răng gồ ghề, cái vàng, cái đỏ, con mắt lờ đờ như người tửu-sắc. Đi cạnh hoà-thượng là ba nhà sư trung niên khác.
        Nhà sư hỏi Huệ-Sinh:
        - Quốc sư. Ngọn gió nào thổi quốc-sư tới đây thăm ta.
        Huệ-Sinh hành lễ:
        - A Di đà Phật. Sư thúc, người vẫn thường an lạc chứ? Tiểu đồ vì lời nguyện, dùng hết sức giúp dân Việt xây dựng quốc uy, rồi mới tịch, nên theo giúp Khai-quốc vương, vì vậy mới tới thăm sư thúc.
        Ông giới thiệu bọn Thanh-Mai, Thiệu-Thái, rồi ông chỉ vào vị hòa thượng:
        - Vị này là Nguyên-Hạnh, sư thúc của bần tăng.


        <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.01.2005 22:14:56 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 06.01.2005 17:55:18 (permalink)
          Hồi thứ mười lăm


          Phế Đế Đinh Triều




          Huệ-Sinh ngạc nhiên:
          - Cứ như quận-chúa nói, thì chủ nhân của cặp ưng này là ai? Họ theo dõi hành động của Sơn-tĩnh với mục đích gì?
          Bảo-Hòa đưa mắt nhìn Thiệu-Thái như muốn hỏi ý kiến của anh. Thiệu-Thái tiến lại cầm lấy chân đôi chim xem xét. Mỹ-Linh thấy đôi chim dễ thương, nàng đưa tay vuốt lông nó. Thình lìnhh nó ré lên một tiếng lớn, dương cánh xù lông, trợn mắt như định mổ tay nàng. Nàng vội vàng dụt tay lại, mắng nó:
          - Loài súc sinh, mi định nhá thịt ta hả?
          Thiệu-Thái an ủi Mỹ-Linh :
          - Em đừng giận. Chim này do người nuôi dạy, nó rất khôn. Chỉ chủ nhân hoặc người biết cách điều khiển mới mó vào nó được. Em muốn làm thân với nó, để anh bảo nó đã.
          Rồi Thiệu-Thái líu lo mấy tiếng. Đôi chim ưng hướng Mỹ-Linh gật đầu chào. Chúng cọ cổ vào bàn tay nàng. Thiệu-Thái nói:
          - Chúng xin lỗi Bình-Dương đấy. Em có thể đùa với chúng được rồi.
          Mỹ-Linh đưa tay vuốt ve lông chim. Thanh-Mai hỏi Bảo-Hòa:
          - Tôi nghĩ người nuôi cặp chim này e không nuôi một đôi, mà còn nuôi nhiều đôi khác. Họ là ai vậy?
          Thiệu-Thái nhìn về chân trời xa xa chàng nghĩ thầm:
          - Đúng như Thanh-Mai nói. Người nuôi cặp chim có nhiều liên hệ với bản phái. Thân thế của người này rất cao. Mình lại không biết rõ là ai. Người này nuôi nhiều chim ưng, sai canh phòng, theo dõi động tĩnh chùa Sơn-tĩnh không biết để làm gì? Dường như mỗi ngày sai một cặp đến đây. Đại sư Nguyên-Hạnh không để ý, nên tưởng chúng chỉ là một cặp chim hoang. Ta không nên cho đại sư Nguyên-Hạnh biết vội,
          Chàng nói lảng:
          - Không hẳn thế! Tôi chắc chủ nhân của chúng chỉ nuôi có một đôi. Song phúc đức kém quá, chúng thấy đại sư Nguyên-Hạnh sắp đắc pháp Bồ-tát, nên đến đây chầu.
          Nguyên-Hạnh nghe nói, mặt biến sắc, tự chửi thầm:
          - Mình đáng chết thực, thấy cặp chim ưng thường đến đậu trên cây đa, những tưởng chúng là chim hoang, không ngờ là chim có chủ... họ dùng nhiều cặp chim theo dõi mọi động tĩnh của mình. Họ theo mình mấy năm liền, mà không ra mặt thì hẳn là kẻ thù chứ không phải người thân. Vậy mình phải cố gắng hỏi cho ra chân tướng kẻ thù mới được.
          Nguyên-Hạnh cố lấy bình tĩnh trở lại:
          - Cứ như thế-tử nói thì chủ nhân cặp chim ưng này thuộc phái Tây-vu?
          Theo tại hạ nghĩ cao nhân này không thuộc phái Tây-vu, nhưng có liên hệ rất sâu sa.
          Thanh-Mai ngơ ngác:
          - Như thế nghĩa là?
          Thiệu-Thái giảng giải:
          - Như cô nương biết, bản phái gốc từ Hồ tiên-cô, húy Đề. Thời Lĩnh-nam thống-lĩnh toàn quân là Bắc-bình vương Đào Kỳ, tiên cô được phong công chúa, phó thống lĩnh quân mã. Sau khi vua Bà tuẫn quốc, Hồ tiên-cô ẩn thân dạy đệ tử. Vì vậy tất cả võ công các phái khác bị mai một. Duy đệ tử Tây-vu còn giữ nguyên được. Sau khi Hồ tiên-cô qui tiên, các đệ tử Tây-vu thành lập phái. Mỗi trang, mỗi động vẫn sống tự do, tự tại. Trải trên nghìn năm mà giữ trang động như thời Lĩnh-nam. Trong khi miền xuôi, bị người Hán biến thành làng xã. Đến đời ông nội tôi...
          Nguyên-Hạnh tiếp lời:
          - Giai đọan lịch sử này bần-tăng biết. Nội tổ của thế-tử là Thân Thiệu-Anh, võ công vô địch, một lòng với xã-tắc. Trong khi vua Ngọa-triều tại vì, người tách 207 trang động khỏi Lê triều, coi như một nước riêng biệt. Người dự định đem quân về lật đổ triều Lê. Giữa lúc đó thì đức kim thượng nhà ta được Trung-nghĩa hầu Đào Cam-Mộc cùng các tướng tôn lên ngôi cửu-ngũ. Lúc đầu người từ chối, sau quần thần khuyên can rằng nếu người không lên ngôi vua, e có nội chiến. Quân Tống nhân đó kéo sang, thì cái vạ mất nước trên nghìn năm tái diễn. Đức kim thượng đành nhận lời lên ngôi. Sau khi người lên ngôi, thì lạc-hầu Thân Thiệu-Anh gửi sứ về tỏ ý qui phục.
          Thiệu-Thái gật đầu:
          - Đúng như đại sư nói. Thời Lĩnh-nam, Hồ tiên-cô có tám đạo quân tham chiến, quân Hán nghe đến tên là kinh tâm động phách. Đó là Thần-ưng, Thần-hổ, Thần-long, Thần-ngao, Thần-phong, Thần-báo, Thần-tượng, Thần-hầu.
          Nguyên-Hạnh chợt nhớ ra:
          - Phải rồi, bản lĩnh của đệ tử Tây-vu là huấn luyện thú rừng thành binh đội. Như hồi nãy đến giờ, thế-tử, quận-chúa dùng tiếng nói của chim ưng, nói với chúng, mà sai khiến được. Vì vậy khi thấy chim ưng do người nuôi dậy thì hai thí chủ biết liền. Không lẽ người nuôi chim ưng này thuộc phái Tây-vu?
          Thiệu-Thái lắc đầu:
          - Không phải. Trong trên ba nghìn tiếng nói của chim ưng mà chúng tôi học để điều khiển chúng, thì có khỏang hai nghìn tiếng có từ thời Lĩnh-nam, còn lại là đời sau chế ra. Từ lúc chúng tôi nói truyện với chim ưng, thì khám phá ra rằng có nhiều tiếng tôi nói chúng không hiểu, ngược lại chúng nói nhiều tiếng, chúng tôi không hiểu. Vì vậy Bảo-Hòa mới quyết đóan chủ nhân của chúng có uyên nguyên với phái Tây-vu mà thôi.
          Nguyên-Hạnh nhìn Mỹ-Linh, hỏi Thiệu-Thái:
          - Phải chăng công-chúa điện-hạ đây sắp về làm dâu họ Thân?
          Thiệu-Thái kinh ngạc:
          - Tại sao đại-sư lại hỏi như thế? Chúng tôi là anh em con cô con cậu. Mẫu thân tôi là chị ruột của thân phụ Bình-Dương.
          Huệ-Sinh mỉm cười:
          - Sư thúc của bần tăng nói đúng đó. Nguyên khi đức kim thượng còn hàn vi, có kết huynh đệ với nội tổ của thế-tử. Hai bên ăn cùng mâm ,ngủ cùng giường. Có một lần người hứa sẽ gả công-chúa Hồng-Châu cho nghĩa đệ. Người còn hứa, đời đời họ Lý sẽ gả con gái cho họ Thân. Cho đến đời thân phụ của thế-tử, lại được người gả công-chúa Bảo-Hòa cho. Bần tăng nghĩ, sau này thái-tử lên nối ngôi ắt gả Bình-Dương cho thế-tử.
          Bảo-Hòa lắc đầu:
          - Truyện này không thể có được. Vì mạ mạ của đệ tử đã hỏi con gái động trưởng Vật-dương là Vi Huệ-Chân cho anh Thiệu-Thái rồi. Đã có Huệ-Chân, thì anh Thiệu-Thái không thể thêm Bình-Dương được. Mạ mạ sẽ cắt chân.

          Hồi còn nhỏ Mỹ-Linh thường nghe mẫu thân kể cho nghe giai thọai này. Song nàng chưa đủ lớn để có ý niệm về hôn nhân. Nàng nghe nói, Lạng-châu là châu lớn nhất Đại-việt, do họ Thân cai trị, theo lối lưu truyền huyết tộc. Vì ảnh hưởng từ thời Lĩnh-nam, dân Lạng-châu theo chế độ mẫu hệ. Để tỏ lòng trung thành với nghĩa huynh, lạc-hầu Thân Thiệu-Anh cưới thái cô Hồng-Châu. Tuy nói rằng cưới, chứ sự thực đón thái-cô lên làm chúa vùng núi rừng Bắc-biên. Không ngờ thái cô Hồng-Châu say mùi đạo, không màng phú quý, bỏ đi tu, người nữ tỳ bỗng trở lên vua bà Lạng-châu. Sau đó ông nội nàng lại gả cô nàng cho con của Thân Thiệu-Anh với tỳ nữ là Thân Thừa-Qúi. Cô nàng được phong tước Lĩnh-Nam bảo-quốc hoà dân công-chúa thường gọi tắt là công-chúa Bảo-hòa. Cô nàng trở thành vua bà Lạng-châu, thống lĩnh tất cả 207 châu động vùng Bắc-biên. Cô nàng có hai con trai, không biết nàng sẽ bị gả cho ai? Nàng đưa mắt nhìn người Thiệu-Thái, quả thực là một bậc nam tử. Thân thể hùng vĩ, cử chỉ đường bệ. Khái niệm về tình yêu bỗng đến thực nhanh. Mặt nàng đỏ ửng, cúi xuống, không dám nhìn Thiệu-Thái nữa.
          Thanh-Mai hỏi Mỹ-Linh:
          - Này Bình-Dương, em có bao nhiêu chị em gái?
          Tất cả chín người. Em là lớn nhất. Song không phải cùng mẹ. Phụ vương có tất cả bẩy vương-phi, ngoài ra còn thêm hai mươi bốn mỹ-nữ nữa.
          Thanh-Mai lại hỏi Bảo-Hòa:
          - Còn quận chúa. Quận-chúa có mấy anh em trai. Phụ-thân quận-chúa có bao nhiêu phi-tần?
          Bảo-Hòa cười:
          - Chị này lẩn thẩn. Ở Lạng-châu trên thì thờ vua Trưng, Hồ-tiên-cô. Lạng-châu tôn trọng phụ nữ. Trong 207 châu-động thì đến 99 do nữ chúa cai quản. Người tổng quản là châu trưởng Lạng-châu bao giờ cũng là nữ, thường gọi là vua Bà. Mạ-mạ tôi là đương kim vua Bà. Luật bản triều cho phép chồng có nhiều vợ. Nhưng phép vua thua lệ làng. Cả vùng Bắc-biên theo chế độ một vợ một chồng. Vợ, cũng như chồng lôi thôi là bị tội nặng. Bố chỉ có một mình mạ-mạ. Anh Thiệu-Thái lớn nhất, thứ đến anh Thiệu-Cực, cuối cùng là tôi.
          Thanh-Mai cười:
          - Như vậy khó biết sau này trong chín chị em của Bình-Dương, ai sẽ về làm dâu họ Thân? Từ năm mười lăm tuổi, bố mẹ Thiệu-Thái đã hỏi Vi Huệ-Chân con gái động trưởng Vật-dương cho chàng. Ngày làm lễ hỏi, chàng được thấy mặt Huệ-Chân một lần. Như tất cả các cô gái vùng thượng du khác, Huệ-Chân học cỡi ngựa, săn thú, sống với thiên nhiên. Từ đấy, cứ mỗi tiết chính chàng lại phải mang lễ vật đến động Vật-dương dâng bố mẹ vợ. Trong dịp này, chàng có dịp phi ngựa, săn thú cùng với Huệ-Chân. Hai người dần dà trở thành đôi bạn thân. Nhưng tuyệt nhiên cả hai chưa hề sinh ra một chút tình yêu trai gái nào. Mạ mạ chàng quyết định cuối năm nay sẽ cưới Huệ-Chân về Lạng-châu. Tuy sắp có vợ, mà chàng thấy rửng rưng như không. Mấy hôm nay, theo lệnh mạ mạ, chàng cùng em gái đuổi theo bọn Địch Thanh vào tới trấn Thanh-hóa thì gặp cô em họ Lý Mỹ-Linh. Khác với các cô gái thượng du chàng đã gặp. Mỹ-Linh ôn nhu, văn nhã. Nàng có một sắc đẹp huyền ảo, mờ mờ như người trong mơ. Mỹ-Linh với chàng là anh em cô cậu. Vì vậy nàng không tỵ hiềm nam nữ. Hai người gặp nhau là truyện trò không ngừng. Bây giờ nghe em gái nhắc đến mối hôn nhân với Huệ-Chân, tự nhiên chàng cảm thấy đau nhói trong tim. Bất giác chàng liếc nhìn Mỹ-Linh, buông tiếng thở dài.

          Bỗng có tiếng chim kêu từ xa vọng lại, mọi người ngước mắt nhìn lên: từ phía Tây, một đôi chim ưng khác bay lại. Chúng kêu lên một tràng liên tiếp. Cặp chim ưng đang đậu trên bụi cây kêu lên mấy tiếng đáp lại, rồi vọt lên cao.
          Bảo-Hòa nới với Huệ-Sinh:
          - Đúng rồi. Chủ nhân thấy đến giờ, đôi chim này không về, sai đôi chim kia đi tìm.
          Nàng hướng lên trời hú một tiếng dài. Đôi chim mới tới hạ cánh ngay cạnh đôi chim cũ. Thấy trên bàn có bút nghiên, Thiệu-Thái cầm bút viết liên tiếp đầy một trang giấy, rồi chàng cuộn lại, bọc thêm bên ngoài một lớp giấy nữa, rồi buộc vào chân một con ưng. Chàng huýt sáo mấy tiếng. Đôi chim cũ cất cánh bay bổng lên cao, biến vào phương trời Tây. Còn đôi chim mới bay lên cành đa cao chót vót đậu.

          Thanh-Mai đứng lên nói với Huệ-Sinh:
          - Trời đã về chiều, tiểu-nữ cùng Bình-Dương, Bảo-Hòa trở lại dinh tổng-trấn. Còn Thiệu-Thái, xin đại-sư chiếu cố cho.
          Nguyên-Hạnh đứng lên tiễn khách:
          - Rất tiếc qui luật bản tự có từ xưa, thành ra bần-tăng không thể lưu công-chúa, quận-chúa lại được. Xin hai vị đại-xá.
          Trước khi rời chùa, bỗng Bảo-Hòa cất tiếng líu lô nói với Thiệu-Thái một hồi dài. Thiệu-Thái luôn gật đầu. Xuống tới chỗ cột ngựa, Bảo-Hòa nói:
          - Chúng ta lấy ngựa đi. Còn con cọp này để lại đây cho anh Thiệu-Thái.
          Ba người xuống đến chân núi, Mỹ-Linh hỏi Bảo-Hòa:
          - Ban nãy em thấy anh Thái viết thư, chắc là gửi cho chủ của chim ưng. Anh ấy viết một thứ chữ gì kỳ lạ, em không đọc được. Rồi khi xuống núi, chị nói líu lo gì với anh Thái vậy?
          Bảo-Hòa biết cô em họ chưa ra đời, ít kinh nghiệm. Nàng nói:
          - Anh Thái ước đóan người nuôi chim ưng tất có liên hệ với phái Tây-vu, vì vậy anh ấy viết thư cho người ấy bằng chữ Tây-vu. Thứ nhất hỏi xem người đó là ai. Thứ nhì hỏi nguyên do nào người ấy sai chim ưng theo dõi động tĩnh của chùa Sơn-tĩnh. Chị thấy chùa Sơn-tĩnh có nhiều vẻ kỳ bí, nên dặn anh Thiệu-Thái cẩn thận đề phòng. Tiếng mà chị dùng để nói với anh Thái là tiếng Thái.
          Thanh-Mai nhắc nhở:
          - Khi rời trấn về Tây-vu, phò-mã dặn chúng ta phải theo dõi bọn Tống. Vì chưa chắc chúng chịu đi ngay, mà còn trở lại đền thờ Tích Quang, Nhâm Diên đào bới tìm di thư. Ông Tôn Trung-Luận đánh lừa, mà cho đến giờ phút này chúng cũng không biết.
          Mỹ-Linh ngây thơ:
          - Cô mẫu đã phái Đàm Tóai-Trạng theo hộ tống bọn họ. Kỳ thực để canh gác, thì sao bọn họ có thể trở lại đền Nhâm, Tích tìm di thư?
          Bảo-Hòa cười:
          - Em nhớ rằng bọn chúng sang Đại-Việt không phải chỉ có ba tóan. Hồi đầu chúng ta đụng bọn Triệu Huy, sau đó đến bọn Triệu Thành xuất hiện. Kế tiếp bọn Địch Thanh. Chúng còn nhiều toán nữa. Có điều tôi không rõ chúng liên lạc với nhau bằng phương tiện nào?
          Thanh-Mai chỉ con đường phía trước:
          - Con đường kia có hai ngả. Một ngả về dinh tổng trấn. Một ngả tiến ra biển, nơi có đền thờ Nhâm, Tích. Bây gìơ chúng ta không về dinh nữa, mà lên đường thẳng tới đền thờ thì hơn.
          Ba người rẽ ngựa hướng bờ biển. Khi thấy đẫy núi xa xa, Thanh-Mai chỉ tay:
          - Kìa là đảo Nghi-sơn, trên có núi Biện-sơn, chỗ tường trắng trên đỉnh núi là đền hai vị anh hùng Đào Nghi-Sơn, Đào Biện-Sơn thời vua Trưng. Sườn núi còn đền thờ nữa, đó là đền thờ Mỵ-Châu. Còn kia là bãi biển Ngọc-đường, nơi có đền thờ Nhâm,Tích.
          Bảo-Hòa hỏi:
          - Có phải Đào Nghi-Sơn, Đào Biện-Sơn là anh ruột Bắc-bình-vương Đào Kỳ không?
          Đúng đấy.
          Ngựa phi như gió, thoáng một cái đã tới nơi. Thanh-Mai bàn:
          - Cạnh đền thờ có nhiều nhà dân. Vậy chúng ta dấu ngựa, vào rừng nằm nghỉ, đêm sẽ ra dò thám thì tiện hơn. Đi dò thám mà trang phục thế này, coi bất tiện lắm. Chúng ta phải giả trai để dấu tông tích.
          Ba người cho ngựa chạy vào rừng. Họ tìm khu cây cối rậm rạp, cột lại. Thanh-Mai bàn:
          - Để giả trai, chúng ta cần ba bộ quần áo. Mỹ-Linh, em từng gỉa trai. Em có mấy bộ?
          Bốn bộ.
          Mỹ-Linh mở bọc ra, nàng lấy quần áo trao cho Thanh-Mai, Bảo-Hòa. Thoáng một cái, ba người đã trở thành ba Nho-sinh, áo, mũ, giầy giống nhau. Thanh-Mai bàn:
          - Chúng ta giả trai thì được rồi, nhưng còn tiếng nói, phải làm sao cho tiếng khàn khàn giống tiếng đàn ông mới được.
          Bảo-Hòa chỉ cây sung bên bờ suối:
          - Không có gì khó cả. Mỗi đứa chúng tan ăn mấy quả sung xanh thì tiếng khàn khàn ngay.
          Thanh-Mai vọt mình lên cao, quơ tay một cái, nàng đã hái được mấy quả sung. Mỹ-Linh cầm lấy ăn, nàng nhăn mặt:
          - Khó ăn chết đi được. Chát qúa.
          Thanh-Mai hát nghêu:

          Con cò đậu cọc cầu ao,
          Ăn sung, sung chát, ăn đào, đào chua.
          Bao giờ cho nước có vua,
          Cho dân có gạo, cho chùa có sư.


          Đó là câu hát được sáng tác trong thời gian nghìn năm mất nước của người Việt lưu truyền lại, thuận miệng Thanh-Mai hát chơi. Chờ cho Bảo-Hòa, Bình-Dương ăn sung xong, nàng nói:
          - Trời tối đến nơi rồi, bụng đói, lấy gì mà ăn bây giờ?
          Bảo-Hòa lấy trong bọc ra thanh nga-mi kiếm nhỏ. Nàng cắt cây, vót nhọn thành mấy mũi phi tiễn, rồi nói với Thanh-Mai:
          - Trong ba đứa mình thì chị có công lực cao nhất. Vậy chị dùng những mũi phi tiễn này, chúng ta đi săn thú rừng làm bữa ăn chiều. Vùng này thiếu gì gà rừng. Nào bây giờ chúng ta núp vào mấy tảng đá này chờ thú.
          Bảo-Hòa hú lên một tiếng dài. Con ngựa rừng của nàng với Thiệu-Thái hí lên đáp lại, rồi hai con chia hai ngả chạy đi. Thanh-Mai tỉnh ngộ:
          - Có phải Bảo-Hòa sai ngựa đi đuổi thú chạy lại phía này cho chúng mình săn không?
          Bảo-Hòa chưa kịp trả lời, thì từ phía trước nào gà rừng, nào hoẵng bị ngựa đuổi, đang chạy về phía ba người núp. Thanh-Mai vung tay lên, hai con gà rừng trúng phi tiễn, ngã vật ra. Con hoẵng chạy sắp tới nơi, mũi phi tiễn sắp tới đầu, thì nó ngã lộn đi một vòng, dãy dụa mấy cái, rồi nằm im.
          Bảo-Hoà reo lên:
          - Đủ rồi. Không nên giết nhiều thú vô ích.
          Reo xong, quay lại thấy Thanh-Mai tần ngần bên cạnh con hoẵng, nàng kinh ngạc hỏi:
          - Cái gì vậy?
          Thanh-Mai chỉ đầu con hoẵng:
          - Bảo-Hoà nhìn này! Từ xa mình thấy con vật chạy tới với tốc lực mau dị thường, chứng tỏ nó khoẻ mạnh. Mình phóng phi tiễn, phi tiễn không trúng mà con vật lăn ra chết. Mình không hiểu tại sao, mới xem lại. Này Bảo-Hoà nhìn này.
          Bảo-Hoà thấy đầu con vật bị trúng một viên đá lớn bằng quả chanh. Viên đá cắm sau vào óc, khiến con vật chết ngay. Vốn kinh nghiệm săn bắn, nàng nghĩ thầm:
          - Như vậy phải có một người công lực cao thâm khôn lường, phóng viên đá này vào đầu con hoẵng. Người này đứng phía sau Thanh-Mai, ném đá. Công lực Thanh-Mai đâu có tầm thường, mà viên đá bay xéo qua người, nàng không khám phá ra ắt người đó dùng âm kình.
          Bất giác nàng lớn tiếng:
          - Cao nhân nào, xin xuất hiện cho tiểu nữ được tương kiến.
          Gọi ba lần, không thấy có tiếng trả lời. Thanh-Mai lắc đầu:
          - Thôi, tiền bối không muốn hiển lộ thân thế cũng đành. Chị em chúng ta làm thịt hoẵng ăn vậy.
          Bình-Dương đứng trước một người chị họ đầy kinh nghiệm về nếp sống hoang dã, với một người chị kết nghĩa kinh lịch có thừa, nàng chỉ biết ngồi nhìn. Bảo-Hòa vẫy tay gọi Mỹ-Linh:
          - Em theo chị ra suối, lấy đất làm món gà rừng nướng theo lối Tây-vu. Em ở trong cung, thì không bao giờ được ăn món này đâu. Còn chị Thanh-Mai làm ơn lột da con hoẵng dùm.
          Bảo-Hòa vặt lông xong lấy nga mi kiếm mổ bụng hai con gà rừng, , moi ruột gan. Nàng cắt một khúc trúc, chẻ ra lấy một thanh làm lưỡi dao nhỏ. Dùng dao trúc, nàng dưa mấy nhát, bao nhiêu ruột gà xẻ làm đôi. Cái mề nàng lột vỏ bên trong. Sau khi rửa thực sạch nhét bộ lòng vào bụng gà. Nàng men theo bờ suối hái mấy thứ lá cây, nhét vào đầy bụng gà, rồi lấy dây rừng buộc lại:
          - Bình-Dương nên biết gà rừng thường không độc bằng gà vườn. Tuy vậy gà nào ăn vào cũng dễ sinh phong, sinh ngứa. Muốn cho khỏi ngứa thì ăn thịt gà với lá chanh hay hành sống. Ở đây không có lá chanh, chị dùng rau dền, rau sam, rau sàn bát, rau dền, xương xông, lá lốt thay thế. Mấy thứ này nhét đầy bụng gà, rồi buộc lại mà nướng. Bây giờ chúng ta đắp đất ra ngoài khi nướng thịt gà mới không bị cháy.
          Nói đến đâu nàng đắp đến đó, phút chốc hai con gà bị bọc đất sét kín mít. Bảo-Hòa đặt hai con gà kê giữa hai viên đá, rồi nàng lấy củi nhỏ châm lửa đốt. Một làn khói xanh bay tỏa lên giữa khu rừng u tịch.
          Thanh-Mai đã lột da con hoẵng, làm bộ lòng xong. Nàng cắt một cây trúc lớn, xuyên suốt qua bụng, rồi làm hai cái gạc treo lên, đốt củi nứơng.
          Gà rừng không lớn lắm, nên nướng mau chín. Bảo-Hòa gỡ đất bọc gà . Bên trong hiện ra thân gà mỡ vàng bóng ngậy. Nàng cầm con gà xé đôi đưa ra cho Mỹ-Linh, Thanh-Mai:
          - Nào ăn đi chứ.
          Mỹ-Linh cầm nửa con gà, mùi hương thơm bốc lên ngào ngạt. Bảo-Hòa dặn:
          - Em nhớ nghe, ăn bộ lòng gà lẫn với năm thứ rau mới tuyệt.
          Một là bụng đói, hai là sau một ngày phi ngựa, ba là lạ miệng, Mỹ-Linh cầm nửa con gà ăn hết sạch. Ba người chia nhau ăn hết hai con gà rừng mà bụng chưa no. Bảo-Hòa nhìn Mỹ-Linh tội nghiệp:
          - Bây giờ chúng ta ăn thịt hoẵng nướng. Cam đoan thơm, ngon không kém gì thịt gà.
          Nàng cầm nga-mi kiếm quay lại định cắt thịt hoẵng. Thì lạ chưa, mới đây con hoẵng còn đầy đủ, mà nay đã biến đâu mất hai cái đùi sau. Thanh-Mai, Mỹ-Linh cũng đã khám phá ra sự lạ lùng ấy. Cả ba người trố mắt nhìn.
          Mỹ-Linh hỏi:
          - Không chừng con thú nào đến ăn vụng...
          Nói hết câu đó nàng biết rằng không phải. Con thú nào mà có khả năng ăn hết nửa con hoẵng ắt phải lớn lắm. Thú lớn, dám đến cạnh ba người mà ăn vụng ắt phải có tiếng động. Nội công ba người tuy chưa cao thâm, song dù con gà, con chim đến gần trong hai trượng cũng nghe thấy, nữa là thú lớn.

          Thanh-Mai cầm cây trúc xuyên con hoẵng lên coi, nàng tìm ra vết cắt rất ngọt. Hai cái dùi bị tiện luôn cả xương. Như vậy là có người ăn vụng. Nàng rùng mình, vì với bản lĩnh của người này, nếu y có ác ý thì chỉ cần vung tay, ba chị em nàng đã không còn tính mạng. Nàng nói lớn:
          - Cao nhân nào gía lâm, xin cho Thanh-Mai phái Đông-a, Bảo-Hòa phái Tây-vu, Mỹ-Linh phái Tiêu-sơn được tương kiến.
          Không có tiếng trả lời. Bảo-Hòa ngửa mặt lên trời hú một tràng dài liên miên bất tuyệt. Tiếng hú vừa dứt thì có hai con chim ưng từ trên cao đáp xuống. Nàng vuốt ve nói với chúng mấy tiếng, rồi thả chúng bay lên không.
          Thanh-Mai hỏi:
          - Bảo-Hòa tìm ra người ăn vụng thịt rồi à?
          Không. Nguyên lúc rời chùa Sơn-tĩnh, em gọi đôi chim ưng đi theo, hầu canh gác gian nhân. Từ lúc rời chùa, lúc nào chúng cũng bay theo chị em mình, em không muốn nói ra đấy thôi. Nay thấy cao nhân xuất hiện, em gọi chúng xuống hỏi cho ra lẽ, thì chúng trả lời rằng đây là người nhà. Không biết ai mà có bản lĩnh dường này. Người ăn vụng bản lĩnh e không thua đại-sư Huệ-Sinh với Nùng đạo-trưởng.
          Mỹ-Linh ngây thơ:
          - Người này nhất định không phải tăng ni, vì tăng ni đâu có ăn vụng thịt? Ai mà có bản lĩnh ghê thế? Mà thôi, đã là người nhà, lại không có ác ý thì chẳng cần phải thắc mắc làm gì.
          Thanh-Mai nhìn lên trời đầy sao, nói bâng quơ:
          - Người ném đá giết hoẵng và cắt thịt hoẵng chắc cùng là một.
          Bảo-Hòa dứt khoát:
          - Chúng ta cứ đường đường chính chính thi hành lệnh của mạ mạ. Ai dám đụng đến chúng ta! Bây giờ chúng ta dưỡng thần một lát rồi lên đường.
          Ba người dưỡng thần một lúc, thì đêm đã buông màn. Thanh-Mai nhắc nhở:
          - Bảo-Hòa, Bình-Dương nhớ nghe: tuyệt đối tránh dùng võ công. Nếu có gì lạ chúng ta đốt pháo hiệu, binh mã trấn Thanh-hóa sẽ can thiệp.
          Ba người hướng đền thờ Nhâm, Tích lần tới. Ngôi đền nằm im lìm dưới ánh trăng vằng vặc, trông rõ như ban ngày. Đền nằm trên một khoảnh đất khá rộng, trông ra bãi biển. Trước đền có hai con ngựa đá trong tư thế đứng chầu đầu vào nhau. Từ ngoài đi tới bằng một lối đi, nằm giữa hai khỏanh ruộng. Cuối lối đi, là khu vườn, có ao sen. Hoa sen mùa hạ nở ra thơm ngát. Tiếng ếch nhái, chão chuộc dưới ao kêu liên hồi. Sau ao sen là cổng đền. Hai bên cổng có hai tấm bia đá lớn. Thanh-Mai đoán chừng bia này tạc vào thời người Hán cai trị đất Việt, để ca tụng công đức tưởng tượng của Nhâm, Tích. Nhanh nhẹn, ba người vượt qua cổng vào trong sân. Sân lát đá khá rộng. Giữa sân có chiếc bể cạn hình bán nguyệt rộng khoảng ba bước. Trong bể có giả sơn, nước trong vắt. Bảo-Hòa chỉ bụi mẫu đơn. Ba người núp vào đó.

          Bình-Dương đã nghe nói nhiều về người trong võ lâm hành hiệp. Hôm nay nàng mới chính thức được nhập cuộc. Trong khi im lặng theo dõi, nàng nghĩ vơ vẩn đến mẫu thân, không biết giờ này thân thể ra sao trong mồ? Phụ vương nàng bây giờ đang làm gì? Chợt Bảo-Hòa bấm sẽ vào lưng nàng rồi chỉ lên trời. Đôi chim ưng đang bay lờ lững bỗng lao vụt xuống phía con đường dẫn vào đền. Dưới ánh trăng hiện ra một bọn ba người cỡi ngựa đang tiến tới. Dừng ngựa ở sân ngoài, họ xuống ngựa, hiên ngang tiến đến giật chuông. Tiếng chuông lanh lảnh vang rất xa. Trong dẫy nhà dành cho ông từ lòe lên ánh sáng. Lát sau ông từ tay cầm bó đuốc tiến ra hỏi:
          - Đêm khuya quý khách đến viếng đền quan thái-thú có việc gì?
          Có tiếng đáp lại:
          - Bọn tôi đây mà.
          Thanh-Mai nhận ra tiếng Đàm An-Hòa.
          Nghe tiếng trả lời, ông từ mở cổng. Ba người bước vào. Đi cạnh Đàm An-Hòa là bọn Triệu Anh, Ngô Tích, Triệu Huy, Quách Qùi. Ông từ hỏi:
          - Không biết có truyện chi mà các vị trở lại giữa đêm khuya thế này?
          Đàm An-Hòa nói:
          - Hôm qua, chúng ta đã lục lọi khắp đền, mà tuyệt không tìm ra dấu vết những vật ấy. Đêm nay chúng tôi trở lại. Vì bản đồ cất dấu bị người lạ mặt cướp đi. Tôi nghĩ có lẽ người này cũng sẽ đến đây. Nên trở lại chờ y.
          Thanh-Mai chửi thầm:
          - Tên An-Hòa này quả thực khả ố. Ai lại giữa thời thịnh trị, trên có minh chúa, mà dám thông đồng với ngọai bang. Mấy ngày qua, y bị bọn Triệu Huy rồi Triệu Thành lừa dối, khinh khiến, thế mà bây giờ vẫn còn đi làm tay sai cho chúng. Ta phải nói với anh cả giết tên này đi làm những tên gian khác kinh sợ những tên gian khác mới được.
          Ngô Tích móc trong bọc ra một đĩnh vàng đưa ông từ:
          - Bình-nam vương gia truyền tôi ban thưởng cho ông. Đây là chút ít buổi đầu mà thôi. Đợi việc xong rồi, vương gia sẽ ban thưởng gấp trăm lần. Vương gia còn phong chức tước cho ông nữa.
          Ông từ khúm núm tiếp vàng:
          - Đa tạ vương gia. Đa tạ đại nhân.
          Triệu Huy nói như truyền lệnh:
          - Ông tắt đuốc đi, vào nhà dặn vợ con rằng nếu có động tĩnh gì thì nằm im, đừng có kinh hoảng. Còn chúng ta núp ngoài này chờ.
          Năm người chia nhau núp vào các bụi hoa. Thanh-Mai dùng thần công Lăng-không truyền ngữ nói với Bảo-Hòa:
          - Nếu có truyện gì, Bảo-Hòa để mình chị phản ứng là được rồi. Bọn này võ công rất cao cường. Dụng võ với chúng vô ích, mà còn nguy hiểm nữa.

          Thình lình hai con ưng bay trên trời kêu lên ba tiếng. Bảo-Hòa dùng cùi chỏ khẽ thúc vào Thanh-Mai, Bình-Dương ngụ ý có biến cố. Hai người nhìn lên không, thấy đôi chim ưng đang đâm bổ xuống phía sau đền. Không phải chờ đợi lâu, phía sau đền xuất hiện ba bóng đen, đều bịt mặt, họ vượt qua tường đáp xuống sân như chiếc lá rụng. Người thứ nhất cao lớn dềnh dàng, người thứ nhì béo mà lùn. Người thứ ba lùn tịt. Người to lớn bảo người béo mà lùn:
          - Sư đệ đứng đây đi. Đỗ quốc-cữu dặn rõ: « Chờ đêm hai ba, gìơ Tuất, ngồi lên lưng con lân trái, dơ tay thẳng lên trời. Bóng trăng dọi bóng ngón tay chỏ chỗ nào... »
          Người cao gầy nhảy lên lưng con lân, dơ tay thẳng lên trời, chiã ngón tay chỏ ra. Bóng ngón tay trỏ rọi xuống đúng vào đáy cái bể cạn giữa sân. Người gầy nhảy xuống khỏi con lân. Y nói:
          - Làm sao bây giờ? Không lẽ phá cái bể cạn này?
          Người cao lớn ra hiệu. Cả ba người vận sức đẩy mạnh, cái bể cạn kêu kẹt ,rồi lệch sang một bên. Ba người hì hục đẩy một lúc, cái bể cạn rời khỏi vị trí cũ đến ba bước. Người lùn cầm búa khẽ gõ vào viên đá dưới gầm bể cạn. Những tiếng cạch cạch vang lên nhè nhẹ. Cứ mỗi lần như vậy, y lại lắc đầu. Thình lình có tiếng kêu lộp cộp. Cả ba người cùng bật lên tiếng kêu:
          - Đây rồi.
          Người lùn lấy búa cậy viên đá có tiếng kêu lộp cộp lên. Dưới viên đá có lỗ hổng .Y cho tay vào sờ xọang, rồi nói:
          - Không có gì cả. Dường như đây là nắp hầm.Trên nắp hầm có cái khoen sắt.
          Miệng nói, y vận sức kéo mạnh. Cái khoen sắt không chuyển động. Người to lớn nói:
          - Tam đệ thử xoay cái khoen xem sao!
          Người lùn cầm cái khoen xoay tròn. Cái khoen kêu kẹt một tiếng rồi chuyển động. Y quay một lúc, thì cảm thấy dừơng như dưới chân chuyển động. Y vội vọt mình lên cao, vừa đúng lúc hơn hai chục viên gạch dưới chân thụt xuống. Người cao gầy nói:
          - Thì ra cái khoen là nắp cơ quan. Rút cái khoen ra, cơ quan chuyển động. Nắp hầm hạ xuống.
          Dưới ánh trăng sáng, những viên gạch xụp xuống hiện ra mấy bực thang bằng đá, thông vào đường hầm. Người to lớn ra lệnh:
          - Nhị đệ đứng canh gác ở ngoài này. Ta với tam đệ xuống hầm.
          Thình lình, có tiếng rú như cú kêu, rồi ba mũi tên hướng vào ba người bay tới, kình lực mạnh vô cùng. Cả ba kinh hòang, vọt mình lên cao. Ba mũi tên bay lướt dưới chân. Ba mũi tên trúng vào bia đá, kêu lên ba tiếng choang. Thì ra tên bằng sắt.
          Thanh-Mai kinh hãi:
          - Người nào mà công lực mạnh đến dường này? Lực tay của y e không thua bố mình làm bao. Không biết làm thế nào, mà y có thể bắn ba mũi tên một lúc?
          Người to lớn lên tiếng:
          - Cao nhân nào xin xuất hiện?
          Một quái nhân đầu bù tóc rối, khuôn mặt lồi lõm không còn ra mặt người. Trên lưng khoác chiếc áo bằng da thú rừng từ trên nóc đền đáp xuống nhẹ như chiếc lá. Người này không nói, không rằng, đưa tay chộp người thấp lùn. Người thấp lùn lạng người đi tránh. Thế tránh cực kỳ thần tốc. Song không hiểu quái nhân làm thế nào chụp được y, nhắc bổng lên cao. Người to lớn, và béo lùn đồng phát chưởng tấn công quái nhân để cứu đồng bọn. Chưởng phong hùng hậu vô cùng. Tay trái quái nhân cặp người lùn. Tay phải phát chưởng chống lại hai người. Thanh-Mai nhận ra chưởng pháp của quái nhân là Hoa-lư chưởng. Nàng chợt hiểu:
          - Thì ra quái nhân là người phái Hoa-lư, hèn gì có tiễn thủ kinh người. Mình nghe sư phụ nói, tiễn thuật bắn một lúc ba bốn mũi bị thất truyền từ khi vua Đinh Tiên-Hòang cùng con là Đinh Liễn bị giết chết. Không ngờ người này còn biết xử dụng.
          Thanh-Mai nhận thấy chưởng lực của hai người đấu với quái nhân ngang với bọn Triệu Huy, Ngô Tích chứ không ít. Song trong nhất thời nàng chưa nhận ra họ thuộc môn phái nào. Quái nhân thì công lực cực kỳ cao thâm, song các chiêu thức lại rời rạc, dường như biết rất ít. Vì vậy cuộc đấu vẫn không phân thắng bại. Thanh-Mai nói nhỏ vào tai Bảo-Hòa:
          - Không biết bọn mình đến trước hay quái nhân đến trước. Nếu quái nhân đến trước thì thực hỏng bét. Ông ta biết bọn mình ở đây, ắt có chủ ý đối với bọn mình rồi.
          Bỗng quái nhân quát lên một tiếng, nhảy lùi lại:
          - Các người đứng im. Nếu còn vọng động, ta bóp chết tên này liền.
          Người to lớn hỏi:
          - Cao nhân là ai?
          Quái nhân cười nhạt:
          - Ta là ai, cũng không đến cái thứ bọn mi hỏi tới. Bọn mi tới đền thờ Nhâm Diên, Tích Quang đào bới thế này đích thị là quân trộm cướp. Theo luật bản triều thì phải bỏ vào chuồng cho cọp ăn thịt.
          Mỹ-Linh nói vào tai Thanh-Mai:
          - Ông này lầm luật của bản triều với luật thời Đinh rồi. Luật thời Đinh định rằng kẻ nào vào các nơi tôn nghiêm trộm cướp nhẹ thì chặt chân, chặt tay. Nặng thì cho hổ ăn thịt. Từ khi ông nội lên ngôi vua, đã giảm nhẹ đi nhiều. Tội trộm chỉ bị đánh trượng, phát vãng chăn ngựa cho quân trong một năm mà thôi.
          Người to lớn quát lên:
          - Bọn ta không phải là trộm cướp, mà là quan quân. Bọn ta tuân lệnh tuyên-vũ-sứ tới đây làm việc cơ mật.
          Quái nhân cười nhạt:
          - Phàm làm việc quan, thì ban ngày đường đường chính chính mà tới. Hà cớ lại đi ban đêm. Nếu người thi hành lệnh quan, hãy cho ta xem thẻ bài.
          Người to lớn móc trong túi ra cái thẻ bài, đưa cho quái nhân. Quái nhân cầm thẻ bài lên xem rồi trả lại:
          - Các người cứ tiếp tục đi.
          Người cao lớn vừa đưa tay cầm thẻ bài, thì quái nhân xỉa bàn tay vào ngực y. Chỉ nghe rắc một cái. Y bay bổng về sau, rơi xuống bụi hoa, rồi nằm im. Quái nhân chuyển tay chụp gã cao. Gã cao đang kinh hoàng, không kịp trở tay, đã bị quái nhân bắt. Quái nhân vung tay hai cái, gã béo, mập bay bổng lên cao, rơi xuống sân, nằm im không động đậy. Quái nhân cười khoan khoái, lấy đá đánh lửa châm vào bó bổi dắt trên lưng, rồi vẫy tay gọi bọn Triệu Anh:
          - Các vị xuất hiện đi thôi.
          Bọn Triệu Huy, Đàm An-Hòa từ bụi cây bước ra. An-Hòa cung cung kính kính trước quái nhân:
          - Kính mừng vương-gia đã thành công.
          Nghe An-Hòa nói, Thanh-Mai, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh đều kinh ngạc không ít. Vì hiện trong triều Lý không một tước vương nào có hình dạng như quái nhân cả. Thanh-Mai càng nghi vấn khi thấy rõ ràng quái nhân giết ba cao thủ vốn là quan quân tuân lệnh Đàm Toái-Trạng, thế mà An-Hòa lại là người đồng bọn với quái nhân.
          Triệu Huy hú lên một tiếng. Ông từ trong đền bước ra. Ông nhìn ba xác chết một cách thản nhiên. Khi thấy đường hầm, ông kinh ngạc đến đờ người ra:
          - Tiểu nhân coi đền này đã lâu. Nào ngờ dưới bể cạn lại có đường hầm.
          Quái nhân cởi chiếc áo da bên ngoài, y để xuống bệ đá. Tay trái lấy con dao cắt đường chỉ, gỡ lớp lụa phía trong lật ra. Dưới ánh đuốc, hiện rõ tấm bản đồ. Triệu Huy nói:
          - Bây giờ chúng ta xem cho kỹ bản đồ đường hầm rồi hãy vào.
          Ông từ ngơ ngác chỉ vào quái nhân hỏi:
          - Vị này là vương tước Đại-Việt hay Đại-Tống?
          Triệu Huy đáp:
          - Vị này là Vệ-vương, nguyên là con thứ Đinh Tiên hoàng-đế.
          Ông từ ngơ ngác:
          - Thế là thế nào?
          Đàm An-Hòa đáp:
          - Nguyên trước đây vua Đinh có ba người con. Con lớn được phong Nam-việt vương. Con thứ, tức vương gia đây được phong Vệ-vương. Con thứ là Hạng-lang được lập làm thái tử. Niên hiệu Thái-bình thứ 10 (979), Nam-việt vương giết chết thái-tử Hạng-lang, rồi Đỗ Thích giết chết vua Đinh cùng Nam-việt vương. Triều thần tôn vương gia đây lên làm vua. Không ngờ Lê Hòan tư thông với Dương thái hậu, cướp ngôi, phế vương gia xuống làm Vệ-vương.
          Ông từ ngắt lời:
          - Tôi nghe nói Vệ-vương Đinh Tòan theo vua Lê đánh giặc ở vùng Cẩm-thủy trúng tên chết năm Tân-sửu (1001) nhằm niên hiệu Ứng-thiên thứ 8, chứ đâu có còn đến ngày nay?
          Quái-nhân buồn rầu nói:
          - Khi phụ hoàng cùng với Nam-việt vương bị ám hại, ta còn quá nhỏ. Ta còn nhớ khi ta được đưa vào triều kiến phụ hòang, thì ngươi chỉ còn thoi thóp thở. Người truyền đuổi hết tả hữu ra, chỉ để lại hai người là Định-quốc-công Nguyễn Bặc, Uy-quốc-công Đinh Điền. Phụ hòang ủy thác cho hai vị làm phụ chính, giúp ta trị nước. Người sai lấy chiếc áo đa trao cho ta và dặn rằng : Trọn đời ta nhờ chiếc áo này, mà trở thành anh hùng vô địch, thắng 12 sứ quân lập đại nghiệp. Vậy nếu sau này con muốn nắm được muôn dân, khuynh đảo anh hùng, phải theo bí quyết trong áo mà luyện tập . Nói rồi người đọc vào tai ta mười câu kệ. Bấy giờ ta vì kinh hỏang nên không nhớ được gì.
          Đinh Tòan ngửa mặt nhìn trời, rồi thở dài: Ta vừa được lên ngôi vua, thì Lê Hòan giữ chức thập-đạo tướng quân, mưu cướp ngôi. Nguyễn Bặc với Đinh Điền đem quân bắt y. Y đem quân chống lại. Hai bên giao chiến nửa ngày thì y bị bại. Y chạy vào cung cầu cứu với mẫu hậu ta. Mẫu hậu của ta tư thông với y từ lâu. Người cho một tên quân mặc quần áo của Lê Hoàn, rồi sai đem chém. Triều thần ai cũng tưởng Lê Hòan chết rồi. Nguyễn Bặc, Đinh Điền cho lui quân khỏi Hoa-Lư. Mẫu hậu truyền gọi Nguyễn, Đinh vào cung ủy lạo. Lê Hòan cho võ sĩ phục binh giết chết. Thế rồi Lê lên làm vua. Y định giết ta. May mẫu hậu hết sức che chở ta mới thoát nạn. Ta tuy sáu tuổi, khờ đại, song trong bóng tối còn nhiều người có lòng với Đinh triều. Đêm đêm họ âm thầm gặp ta, dặn dò ta phải đóng vai ngây dại. Năm ta mười tuổi bắt đầu tập võ. Lê Hòan là đệ tử phái Tiêu-sơn. Còn phụ hoàng ta thuộc phái Hoa-lư. Y dạy võ công Tiêu-sơn cho ta. Ta giả ngây, giả dại luyện tập không kết quả. Y tin thực. Trong khi đó đêm đêm vẫn có một kỳ nhân nhập hoàng thành dạy võ công Hoa-lư cho ta. Việc lâu ngày, bị bại lộ. Một đêm kỳ nhân nhập thành, bị Lê Hòan cho phục binh giết chết. Y không tra vấn ta điều gì cả. Ta biết y tìm cách giết ta.
          Đinh Tòan nghiến răng nói:
          - Năm ta 28 tuổi, nhân có giặc nổi lên ở Cẩm-thủy. Y đem quân đánh dẹp. Y mang ta theo. Ta biết y tìm cách giết ta. Trong lúc giao chiến với giặc ở trên sông. Ta bị một người vô danh từ sau bắn tên vào lưng. Nhưng ta đã được kỳ nhân luyện tập võ công Hoa-lư, nên tránh được. Đến mũi tên thứ ba, ta thấy tên đi không mạnh. Ta dơ tay lên, chờ mũi tên xuyên qua nách, thì kẹp lại. Ta giả loạng choạng như bị trúng tên, rồi ngã lộn xuống sông. Rơi xuống sông rồi, ta lặn vào bờ, ẩn dưới bụi cây. Mặc cho chiến trận xẩy ra, ta cứ thế lặn đi xa, sau chồi lên. Ta giả làm người khùng, ẩn nơi hoang sơn luyện tập võ.
          Ông từ nghe truyện cũng buồn lây:
          - Tôi nghe vua Đinh xưa là anh hùng vô địch, thế sao di thư để lại trong chiếc áo cho vương gia, mà vương gia luyện không có kết qủa?
          Đinh Tòan gật đầu:
          - Ta đem chiếc áo da ra tìm đi, tìm lại hàng ngàn lần cũng không ra di thư. Sau ta dùng dao, tháo lớp lụa bên trong, mới tìm ra được bản đồ cất di thư. Ta tuy có bản đồ, mà cũng không tìm ra nơi chôn cất. Ta lần mò sang Trung-quốc triều kiến Tống thiên tử để xin giúp ta về đọat lại giang sơn. Ta đem chiếc áo da ra làm tín vật. Song các quan bàn lui bàn tới không quyết định. Ta đành ẩn thân ở Trung-quốc, cho mãi đến niên hiệu Thuận-thiên thứ nhì (1011), Lý Công-Uẩn sai hai vị cựu thần nhà Đinh là Lý Nhân-Nghiã và Đào Khánh-Vân sang sứ Trung-quốc. Ta tìm đến gặp hai vị sứ. Lý Nhân-Nghiã không những không giúp ta, y còn khuyên ta nên hồi hương. Ta không nghe. Y bỏ về nước. Còn Đào Khánh-Vân gặp ta, y mừng lắm. Bởi y là đệ tử Hoa-lư. Y ở lại Tống, cùng ta mưu phục hồi nghiệp Đinh.
          Đàm An-Hòa hỏi:
          - Thưa vương gia, thế Đào Khánh-Vân hiện nay ở đâu?
          Y chết rồi. Trong khi nói truyện với y. Y kể cho ta nghe rằng xưa kia ông nội ta là Đinh Công-Trứ, làm thứ sử vùng châu Hoan, tức vùng này. Phụ hoàng ta nhân đó theo học phái Hoa-lư. Phái Hoa-lư từ khi vua Trưng tuẫn quốc, võ công bị mai một đi rất nhiều. Thế nhưng trong lần tắm sông, phụ hoàng ta đã tìm ra một hang động trong đó chép hết võ công thời Lĩnh-nam. Nhân đó người luyện tập thành anh hùng vô địch, mà thống nhất được giang sơn. Ta nảy ra ý cùng Đào Khánh-Vân trở về vùng Cửu-chân này tìm ra nơi cất di thư. Không may trên đường về, Khánh-Vân bị bắt, bị đánh bằng gậy cho đến chết. Còn ta, ta lộn trở qua Trung-quốc, rồi gặp Ngô chiêu-thảo-sứ đây bảo tấu. Tống thiên tử hứa sẽ giúp ta đem quân về đọat lại ngôi vua.Bước đầu người truyền ta theo Bình-nam vương đi tìm di thư. Nhờ tài mẫn tiệp, Triệu lang-trung đã tìm được những ký hiệu viết trên áo, rồi tìm ra hang động này... Thực phụ hòang ta linh thiêng, phò hộ ta, mới có ngày hôm nay.
          Ngô Tích chỉ vào đường hầm:
          - Chúng ta xuống dưới đó. Ông từ ở ngoài này canh chừng.
          Quái nhân cầm bó bổi đi trước, bọn Triệu Anh, Ngô Tích, Triệu Huy theo său. Đợi cho cả bọn đi rồi, thình lình Bảo-Hòa vọt mình ra khỏi bụi hoa chụp cổ ông từ. Nàng dí kiếm vào cổ:
          - Im ngay. Nếu lên tiếng ta giết chết liền.
          Thanh-Mai bảo Mỹ-Linh:
          - Em gọi đạo quân Ngự-long hay Quảng-thánh tới ngay.
          Mỹ-Linh cầm mũi tên, châm vào lửa, rồi dùng nội lực ném lên cao. Mũi tên nổ đến đoàng một tiếng rồi toả ánh sáng như một con rồng mầu tím.
          Bảo-Hòa hỏi Thanh-Mai:
          - Bây giờ chúng ta dùng đá lấp cửa hầm lại, thì bọn Triệu Huy hết đường lên. Đợi quân đến, sẽ mở cửa hầm bắt chúng.
          Thanh-Mai lắc đầu:
          - Không ổn. Công lực bọn này ghê lắm, chúng sẽ gỡ đá leo lên, bọn mình địch không nổi chúng đâu. Đối với bọn này phải ác mới được. Chi bằng dùng cỏ hun cho chúng ngộp hơi thì hơn.
          Phía sau đền có đống rơm. Ba chị em rút lấy mấy ôm rồi châm lửa trút xuống hầm. Mỹ-Linh hỏi:
          - Không có quạt, thì làm sao quạt khói xuống được?
          Thanh-Mai không trả lời, nàng vận khí phát chưởng hướng vào hầm. Gió chưởng cuồn cuộn tuôn ra. Đám rơm bốc cháy đỏ rực. Trong hầm có tiếng la hét rồi có tiếng ho sặc sụa. Bảo-Hòa, Mỹ-Linh rút thêm rơm đem đến cho Thanh-Mai.
          Hun một lúc, Bảo-Hòa nói:
          - Như vậy đã đủ rồi. Em sợ lỡ ra đường hầm có ngả khác thông ra ngoài, chúng ra được thì bọn mình nguy tai. Bây giờ chúng ta dùng đá lấp lại, rồi ẩn vào bụi cây, chờ hai đạo binh tới.
          Ba chị em cậy đá, gạch trên sân liệng xuống cửa hầm, phút chốc, hầm bị lấp kín. Ba người còn dùng sức đẩy cái bể cạn lật ngửa, rồi lấp lên trên. Bảo-Hòa trói ông từ lại, nhét dẻ vào miệng, đem bỏ sau bụi lau phía trước đền. Xong xuôi, ba chị em, tìm chỗ núp.
          Mỹ-Linh hỏi Thanh-Mai:
          - Hôm trước ông Tôn Trung-Luận bịa đại ra rằng di thư dấu ở đền thờ Nhâm, Tích, để bọn Tống phái đi cho bõ ghét. Không ngờ lại là sự thực.
          Bảo-Hòa cũng thắc mắc:
          - Nghĩ cũng điên đầu thực. Rõ ràng bọn Triệu-Thành có bản đồ cất di thư. Thế mà chúng còn bầy ra vụ trộm, rồi cướp ở đền thờ Tương-liệt đại vương để làm gì không biết?
          Ba người ngồi im, chờ hai đạo quân tới.
          Bỗng có tiếng chân người đi từ phía sau đền, rồi có tiếng đàn bà, trẻ con kêu khóc, lẫn với tiếng quát tháo. Thanh-Mai nhận ra tiếng Đàm An-Hòa:
          - Chồng mày đâu?
          Có tiếng đàn bà đáp lại:
          - Mới đây chồng tôi vào dặn tôi rằng bất cứ biến cố gì cũng không được lên tiếng, không được ra khỏi nhà. Rồi theo các ông đi...
          Có nhiều tiếng chân đi tới. Từ phía sau đền, Đàm An-Hòa cùng với bọn Triệu Anh, đi ra. Người nào đầu tóc cũng bù xù, quần áo xốc xếch. Đàm An-Hòa túm tóc một người đàn bà. Thanh-Mai đóan là vợ ông từ. Nàng chửi thầm:
          - Bọn này bị ta hun khói lấp cửa hầm. Chúng bị ngộp hơi tưởng chết. Không biết chúng thoát ra bằng ngách nào? Chắc ngách đó phải chui dưới nước, nên chúng ướt như chuột lột. Bọn chúng cho rằng ông từ hại chúng, tra khảo vợ con ông.
          Triệu Huy nói:
          - Tôi nghi chưa chắc người lấp hầm, cũng như hun chúng ta là ông từ. Đàm hiệu úy đừng hành tội bác
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.01.2005 22:17:22 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9