Anh hùng Tiêu Sơn (từ hồi 16)
CDDLT 06.01.2005 17:57:40 (permalink)
Hồi thứ mười sáu


Lĩnh Nam Vũ Kinh




Thình-lình Triệu Huy lao người lại chỗ bụi hoa ba người nấp. Y xử dụng một thế hổ trảo chụp Mỹ-Linh. Thanh-Mai vọt người lên cao. Từ trên cao nàng phóng một chưởng xuống đầu Triệu Huy. Triệu Huy vội thu tay về biến thành chưởng đỡ chưởng của Thanh-Mai. Bình một tiếng, Thanh-Mai bật lên cao. Nàng cảm thấy trời long đất lở, khí huyết chạy nhộn nhạo trong người, tai kêu lên những tiếng vo vo như sáo diều.
Tự biết mình không phải đối thủ của Triệu, nàng đá gió một cái, tà tà đáp xuống trước thềm đền thờ. Triệu Huy thấy người đối chưởng với mình là một thiếu niên. Nhưng chưởng lực khá mạnh, cánh tay y cảm thấy ê ẩm. Nhất là trong chưởng đó bao hàm phong, lôi, thủy, hỏa, có sức sát thủ khủng khiếp. Lại thấy thiếu niên biết ứng phó, mượn sức vọt ra xa, để tự vệ.
Kinh nghiệm, Triệu-Huy biết đây là con nhà danh gia, được huấn luyện rất chu đáo. Trong chuyến đi này, Tống đế ban chỉ dụ cho Triệu Thành bằng mọi gía phải thu phục nhân tâm cùng kết thân với võ-lâm Lĩnh-nam. Vì vậy y tỏ vẻ khách khí:
- Triệu Huy phái Thiếu-lâm nhà Đại-tống, hân hạnh được biết danh tính thiếu hiệp. Thiếu hiệp mới bằng này tuổi, mà công lực dã tới mức không ngờ. Dường như thiếu hiệp thuộc phái Đông-a thì phải!
Thanh-Mai cố giữ giọng khàn khàn:
- Tại hạ là Trần Thông-Mai thuộc phái Đông-a, xin tham kiến Triệu đại hiệp.
Nàng tự xưng tên anh mình, để dấu tông tích. Nàng đảo ngược tên Mỹ-Linh, Bảo-Hòa đi, chỉ vào hai người:
—Vị này là em con dì với tại hạ, họ Lý tên Linh-Mỹ. Vị này là Nùng Hòa-Bảo, nghiã đệ của tại hạ.
Ngô Tích tỏ vẻ hiểu biết tình hình võ lâm Lĩnh-nam:
- Trần công tử, thì ra công tử là trưởng nam của Côi-sơn đại hiệp đấy. Khi còn ở Trung-nguyên, tại hạ từng nghe đồn rằng chưởng môn phái Đông-a có bốn người con. Con trưởng là Trần Thông-Mai tuy tuổi hai mươi, mà võ công cái thế. Thứ là Trần Thanh-Mai bác học uyên thâm. Hai người con còn nhỏ là Trần Tự-Mai, Trần Thanh-Nguyên kiến thức siêu phàm. Hôm trước đây anh em tại hạ đã được diện kiến nhị tiểu thư, tam công tử cùng tứ tiểu thư. Hôm nay mới hân hạnh được gặp đại công tử.
Triệu Anh chỉ vào miệng hầm:
- Bọn tại hạ đang đêm theo giúp Đàm hiệu úy thi hành mật lệnh của ngài Đàm an-phủ-sứ. Không biết đã phạm tội gì với các vị. Mà các vị lại đem rơm hun đốt anh em tại hạ gần chết ngộp?
Bảo-Hòa quên mất rằng mình giả trai, không còn là quận chúa. Nàng đem chính nghiã ra chất vấn:
- Này Triệu tiền bối. Người đường đường là tiến-sĩ nhà Đại-tống, lại là cao thủ bậc nhất phái Thiếu-lâm. Tại hạ tuy ở xó rừng núi, mà cũng nghe danh Tung-sơn tam kiệt, được Tống đế phong cho làm lang-trung phụ trách Khu-mật-viện người lại được cử theo Bình-nam vương cùng sứ đoàn sang Chiêm-quốc. Hà cớ lại đi ăn trộm?
Triệu Huy là người mưu trí cực kỳ cao thâm. Y tự biết ba thiếu niên này phục ở đây giữa đêm trăng, chắc chắn đã biết rõ sứ mệnh của bọn y. Hơn nữa ba người đã chất rơm đốt bọn y thì ba người cũng biết bọn y võ công cao hơn. Như vậy trong trận đấu này, ba thiếu niên đã biết mình, biết người thì có chối cũng vô ích. Y chỉ Đàm An-Hòa:
- Nùng thiếu hiệp trách bọn tại hạ như vậy, có điều đúng, có điều sai. Nhân tại hạ qua đây, Đàm hiệu úy nhờ tại hạ giúp ý kiến trong công vụ, nên bọn tại hạ đi theo người. Sao lại bảo là trộm cắp?
Mỹ-Linh chỉ ba xác chết:
- Các người đã ra tay giết ba người này, tội không nhỏ đâu nhé.
Triệu Huy cười:
- Giết ba người này chính là Vệ-vương. Lý thiếu hiệp núp ở đây từ lâu, hẳn đã nghe Vệ vương gia tường thuật thân thế. Vương gia đây là dòng chính thống của vua Đinh, thì ngài xử tử một vài con dân là truyện riêng của Giao-chỉ, anh em tại hạ đâu dám xen vào?
Mỹ-Linh hỏi An-Hòa:
- Gã họ Đàm kia. Mi đường đường là quốc cữu. Chị mi hiện là qúi phi, đang được sủng ái trong cung. Cha mi làm tể thần. Anh mi được trọng dụng làm tới tuyên-vũ-sứ, giữ chức tổng trấn vùng này. Thế mà mi lại tư thông với ngoại quốc. Hôm trước mi nghe lệnh Triệu Huy bắt giam người ngay, vô phép với con gái lương gia. Hôm nay mi lại dẫn những người này đi ăn trộm. Mi có biết tội này, sẽ đưa đến diệt tộc không?
Khi gặp lại Thanh-Mai, Mỹ-Linh, Đàm An-Hòa đã cảm thấy hơi quen quen. Trong nhất thời, y không đoán ra được tung tích nàng. Bây giờ nghe chất vấn, y mới tỉnh ngộ. Không nói, không rằng, y xuất thế ưng-trảo chụp Mỹ-Linh.
Hôm trước vì tuân lời Tịnh-Huyền, Mỹ-Linh không dám động thủ, An-Hòa mới vô phép được với nàng. Chứ hôm nay, nàng đã học được nhiều kinh nghiệm, nàng là đệ tử yêu của Huệ-Sinh, đệ nhất cao thủ đương thời, dễ gì y chạm vào người nàng được? Mỹ-Linh không tránh né, cũng không đỡ đòn. Nàng ra tay sau, mà lực đạo tới trước, tát vào mặt An-Hòa hai cái, y ngã lộn đi một vòng.
Tuy bị đau, nhưng An-Hòa vọt người dậy, vung chưởng tấn công Mỹ-Linh. Mỹ-Linh đá cho y một lưu vân cước. Y lại ngã lộn đi hai vòng. Biết không phải đối thủ của Mỹ-Linh. Y nói với Triệu Huy:
- Triệu đại nhân, con nha đầu này tên thực là Mỹ-Linh, thứ nữ của Khai-thiên vương Phật-Mã. Y thị được phong là công chúa Bình-dương.
Triệu Huy đã nhận ra Bảo-Hòa, Thanh-Mai, y cười:
- Thân quận chúa, Trần cô nương. Các vị giỏi thực, đã qua mặt được bọn tại hạ. Không hiểu bọn tại hạ có tội gì với các vị, mà các vị theo phá hoài?
Về võ công, kinh nghiệm thì Mỹ-Linh kém Bảo-Hòa với Thanh-Mai, chứ về luật pháp, văn học, nàng được thầy là một nhà Nho cực kỳ uyên thâm, tên Lý Đạo-Thành dạy dỗ rất kỹ. Nàng lên tiếng:
- Triệu an-phủ-sứ. Bất cứ ai nói câu đó thì được chứ người nói thì không được. Về văn, người đậu tiến-sĩ. Về võ người là cao thủ phái Thiếu-lâm lại đang giữ trọng trách trấn nhậm biên cương trọng thần, coi biên giới phía Nam nhà đại Tống. Người phải biết luật lệ chứ? Đừng nói ta là công-chúa, Bảo-Hòa là quận-chúa, mà bất cứ con dân Đại-Việt nào, thấy đạo tặc đều phải ngăn cản. Huống hồ, các người đường đường là sứ thần đại Tống, lại đi ăn trộm. Hôm trước bọn người với Quách Qùi ăn trộm ở đền thờ Tương-Liệt đại-vương. Địch Thanh trộm vàng ở Lạng-châu. Hôm nay các người đến đây ăn trộm ở đền thờ đanh nhân Trung-quốc. Ta phải bắt giải về triều Tống để trị tội.
Tiếng nói Mỹ-Linh trong mà ngọt ngào, nhưng lý luận đanh thép. Bọn Triệu Huy nhìn nhau chưa biết hành động ra sao. Để ba cô gái này đi, thì cơ mưu bị bại lộ. Hơn nữa trong chuyến đi, nhiệm vụ của bọn y có ba phần. Một là ăn trộm di thư thời Lĩnh-nam. Hai là kết nạp võ lâm Đại-việt, ba là gây bất hòa giữa võ lâm, dân chúng với triều đình nhà Lý, chuẩn bị đánh chiếm Đại-việt, lập lại quận huyện.
Bây giờ di thư ra manh mối. Y với Đinh Tòan đã khám phá ra ký hiệu ghi trên chiếc áo da của vua Đinh, tìm được nơi cất. Y biết nơi cất di thư có cơ quan, cạm bẫy nguy hiểm. Y bàn với An-Hòa, sai ba viên hiệu úy tìm trước. Nếu có nguy hiểm thì bọn chúng chết thay. Còn trường hợp tìm ra rồi, thì Đinh Toàn sẽ ra tay giết ba viên hiệu úy để bảo mật. Khi Toàn giết ba viên hiệu úy, đương nhiên An-Hòa lĩnh thêm tội trạng là theo nghịch thần nhà Đinh, giết quan quân. Như vậy An-Hòa suốt đời bị bọn y không chế.
Ngờ đâu vừa xuống hầm tối, thì bị chị em Thanh-Mai hun khói. Bọn chúng ngộp thở tưởng chết. Giữa lúc nguy nan, thì tìm ra được cửa khác, thông với đáy hồ sen trước ao, mà thoát nạn.
Bây giờ y phải hành động thế nào? Để ba cô gái này đi, thì quan quân kéo đến, di thư không đến tay. Đụng chạm đến Mỹ-Linh, y không sợ, vì khi sang đây, đương nhiên y đối lập với triều đình .Song đụng với Thanh-Mai, là đụng với phái Đông-a, người nhiều, võ công cực kỳ cao. Tống đế truyền bằng mọi gía phải mua chuộc, y không thể trái chỉ. Đụng đến Bảo-Hòa là đụng đến 207 khê động, ắt biên giới phía Nam Trung-quốc không yên? Vậy phải làm thế nào bây giờ?
Triệu Huy đưa mắt nhìn Triệu Anh, cả hai gật đầu, như đồng ý giết ba con nhỏ này đốt xác đi,thì ai mà biết được. Thanh-Mai nhìn sắc diện bọn Triệu Huy, biết nguy hiểm sắp tới, nàng nói với Bảo-Hòa:
- Sư phụ chị đang nhập thiền ngoài bờ hồ. Em ra mời người vào nói truyện với Triệu đại nhân.
Triệu Huy cười nhạt:
- Trần cô nương. Cô nương không qua mắt tại hạ được đâu. Nếu sư phụ cô nương ở đây, thì không bao giờ cô nương phải dùng rơm đốt anh em tại hạ. Cô nương ơi, giữa cô nương với anh em tại hạ không thù, không óan. Triệu vương gia của tại hạ lại sủng ái cô nương cùng cực. Song một là vì việc nước. Hai là vì tự bảo vệ mạng sống, anh em tại hạ phải vô phép với cô nương.
Mỹ-Linh hất hàm hỏi Triệu Anh:
- Các người định giết chúng ta ư? Ông nội ta sẽ băm vằm các người ra từng mảnh. Đừng nói ông nội ta, chỉ cần các người đụng đến sợi tóc của Thanh-Mai thôi, thì dù người có cánh bay lên trời cũng không thoát khỏi màng lưới phái Đông-a trả thù.
Đinh Toàn đang muốn thu phục nhân tâm để trở về làm vua, y kéo Triệu Anh vào một góc nói nhỏ:
- Triệu lang trung, cần có giải pháp nào tốt đẹp chứ tôi không thuận giải pháp giết ba tiểu cô nương này. Nước tôi có câu tục ngữ cái kim bọc giẻ lâu ngày cũng ra. Nếu các vị giết chúng, mạng sống cá nhân các vị cũng như gia đình không tòan với phái Đông-a. Lại bọn họ Thân đang làm vua 207 khê động giáp giới Hoa, Việt ắt cử binh sang trả thù. Lý Công-Uẩn đời nào chịu khoanh tay khi các vị giết cháu yêu của lão? Các vị sang đây tìm di thư, chưa biết có hay không, mà đã gây chiến, tôi e Tống đế sẽ tru di tam tộc các vị. Các vị chỉ cần khống chế chúng, đợi lấy di thư xong, hay thả ra, tôi cho là giải pháp tốt nhất.
Triệu Anh gật đầu, nhận thấy lời Đinh Toàn đúng. Y nói với Thanh-Mai:
- Trần cô nương, bọn tại hạ xin cô nương dạy cho mấy chiêu.
Bảo-Hòa cười nhạt:
- Đánh nhau thì đánh nhau. Thân Bảo-Hòa này đâu sợ các người. Xin Triệu đại nhân cho thể lệ cuộc đấu.
Triệu Huy cười:
- Thế thì còn gì bằng. Tại hạ có ba huynh đệ, thêm Vệ vương là bốn. Bên quận chúa có ba người, chỉ cần các vị thắng được hai người trong bọn tại hạ là đủ, không biết quận-chúa, muốn đấu bằng phương thức nào?
Thanh-Mai hỏi Đinh Toàn:
- Đinh vương gia. Thời đức Tiên hoàng dựng nghiệp, ông nội tiểu nữ từng cầm gươm theo hầu, lập đại công. Khi thành đại nghiệp, Tiên-hòang phong cho tước công, người không nhận. Lại khi Lê Hoàn cướp ngôi nhà Đinh, ông nội tiểu nữ định khởi binh trả thù. Chỉ vì lúc đó giặc Tống sắp qua, người đành chịu nhịn. Hiện giờ, trong phái Đông-a không một ai làm quan với triều Lý. Chẳng lẽ vương gia lại đi đấu với bậc con cháu công thần nhà Đinh ư? Như vậy dù sau này chiếm lại được giang sơn, thì ai phục vương gia nữa đây?
Đinh Toàn gật đầu:
- Ta không dự vào cuộc đấu này. Triệu lang-trung, các vị tính sao thì tính.
Triệu Huy đổ quạu, y muốn lên tiếng chửi, mà không tiện. Y nói với Thanh-Mai:
- Chúng ta cùng đấu ba cuộc. Nếu bên cô nương thắng hai cuộc, thì bọn tại hạ tha mạng sống cho các cô. Các cô chỉ phải khuất thân theo anh em tại hạ trong một tháng. Còn ngược lại...
Thanh-Mai biết ngược lại chúng giết chị em nàng. Thế không đừng được, Thân Bảo-Hòa tán thành, nàng nói:
- Chính ta là người khởi xướng đem rơm nướng các người, ta lại đã từng theo các người từ Bắc-biên về đây. Ta xin đấu trận đầu. Trong ba vị, dường như Triệu lang-trung võ công cao nhất thì phải. Ta xin được lĩnh giáo cao chiêu của người.
Thanh-Mai biết võ công Bảo-Hòa tuy cao thực, song còn kém mình xa, thế mà nàng lại nhận đấu với Triệu Anh là tên có võ công cao nhất trong bọn, thì ắt nàng có mưu kế gì đây. Hôm trước đến Địch Thanh, mà nàng còn làm cho dở sống dở chết, thì đối với Triệu Anh hẳn nàng có phương pháp kiềm chế.
Thanh-Mai liếc nhìn Bảo-Hòa, chỉ thấy đôi mắt nàng sáng long lanh như hai viên kim cương.
Triệu Anh cười:
- Thân quận chúa. Ta nể quận chúa vì quận chúa là con vua bà vùng Nam biên đại Tống. Chứ còn đấu võ thì... hà hà, chỉ cần ba chiêu, ta bắt quận chúa như bắt con rùa trong rọ. Nào, quận chúa ra chiêu đi.
Bảo-Hòa phóng chưởng tấn công liền. Triệu Anh kinh ngạc không ít. Y nghĩ:
- Con mọi này thực không biết điều. Đến bố nó là Thân Thừa-Qúi, chưa chắc đã chịu được ta qúa trăm hiệp, mà y thị dám đấu với ta, thì thực là ngạo mạn quá sức.
Y vung tay đỡ, bộp một tiếng, cánh tay y tê dại. Còn Bảo-Hòa thì lảo đảo lùi lại ba bước. Qua một chiêu, Triệu Anh thấy chưởng của Bảo-Hòa tinh diệu vô cùng. Y không dám coi thường, hỏi:
- Quận chúa. Chiêu vừa rồi dường như không phải võ công Tây-vu. Nó là võ công gì vậy?
Bảo-Hòa cười:
- Nó là chiêu Ác ngưu nan độ trong Phục-ngưu thần chưởng. Hãy đỡ chiêu thứ nhì.
Nàng lại đánh ra một chiêu nữa. Triệu Anh đỡ, rồi lui một bước. Bảo-Hòa đánh chiêu thứ ba. Mồ hôi Triệu Anh vã ra như tắm, y lùi đến sát tấm bia đá, dựa lưng vào bia chống đỡ. Khi Bảo-Hòa đánh đến chiêu thứ 12, thì y bải hoải cả chân tay. Song sang chiêu thứ mười ba, thì nàng lại đánh trở lại từ chiêu đầu.
Triệu Anh tỉnh ngộ:
- Mình nghe nói xưa kia Đào Kỳ danh trấn Trung-nguyên, Lĩnh-nam nhờ ba mươi sáu chiêu Phục-ngưu thần chưởng. Nay con nhỏ này dường như mới luyện, mà uy lực đã đến dường này. Hà! Y thị chỉ biết có mười hai chiêu, không đủ biến hóa, bằng không mình phải bỏ mạng tại đây.
Triệu Anh không thèm đỡ chiêu của Bảo-Hòa, tay trái đánh một hư chiêu, tay phải xuất ưng trảo túm sau gáy nàng. Hư chiêu chưa ra, mà Bảo-Hòa đã cảm thấy ngộp thở. Người nàng choáng váng, chưa kịp định thần, thì đã bị nhắc bổng lên cao.
Triệu Anh cười:
- Tiểu quận chúa. Người chịu thua chưa? Ta nghe Phục-ngưu thần chưởng có 36 chiêu, mà sao quận chúa chỉ thuộc có 12 chiêu?
Bảo-Hòa nói:
- Ta ngộp thở quá làm sao mà nói cho được. Người hãy cho ta thở chút xíu đã.
Triệu Anh bỏ nàng xuống đất. Y vừa thu tay về thì cảm thấy có vật gì động đậy, lành lạnh từ cổ chui xuống ngực. Tưởng là ám khí. Y kinh hoàng, giật áo dũ ra. Vật đó chuồn xuống bụng, bụng y đau nhói một cái. Y luồn tay vào chụp vật đó ra, thì là con rắn lục mầu xanh, óng ánh đưới trăng. Y vội hít một hơi, vận chân khí chống độc.
Bảo-Hòa tung một nắm phấn trắng bao trùm người y. Y hít trọn vẹn đám phấn vào ngực. Người y choáng váng, rồi ngã ngồi xuống đất. Bảo-Hòa cười ngất:
- Đa tạ Triệu đại hiệp đã nhẹ tay cho. Triệu đại hiệp, trận thứ nhất tại hạ thắng. Như vậy là thắng trận đầu rồi đấy nhé.
Triệu Huy hỏi sư huynh:
- Đại-ca, cái gì vậy?
Triệu Anh gượng gạo:
- Bị rắn cắn. Trúng độc. Chân tay bải hoải.
Triệu Huy nghĩ rất nhanh:
—Trước hết ta đánh bại con nha đầu họ Trần, sau đó túm cổ cả hai con này một lúc. Không cần đạo lý nữa, mới mong lấy thuốc giải cứu đại ca.
Y nói với Thanh-Mai:
- Trần cô nương, tại hạ lớn tuổi hơn cô nương, mà đấu với cô nương, e mang tiếng lớn hiếp bé. Vậy thế này: tại hạ đấu với cô nương mười chiêu. Nếu trong mười chiêu, cô nương làm cho tại hạ phải lui lại năm bước thì coi như tại hạ thua.
Y phát chiêu tấn công Thanh-Mai. Thanh-Mai biết cái gì sắp xẩy ra. Nàng vận đủ mười thành công lực đỡ chiêu của Huy. Bình một tiếng, Thanh-Mai bật lui lại bốn bước liền. Trong khi cánh tay Huy cũng cảm thấy ê ẩm. Y nhủ thầm:
- Trước đây sư phụ ta thường nói, chưởng pháp phái Đông-a trong cái nhu có cái cương, rất khó chế thắng. Bây giờ ta mới hiểu. Ta không nên giết con nhỏ này vội, cứ thủng thẳng xem võ công Đông-a như thế nào.
Thanh-Mai thấy Triệu Huy suy nghĩ. Nàng phát chiêu thứ nhì tên Đông hải lưu phong. Đây là một chiêu dũng mãnh nhất trong 18 chiêu Đông-a chưởng pháp. Triệu Huy thấy chiêu chưởng hung dữ, y lùi lại một bước đẩy ra một Kim-cương Thiếu-lâm chưởng. Bình một tiếng, Thanh-Mai bật lui hai bước, còn Triệu Huy thì đứng im.
Triệu Huy cười nhạt:
- Trần cô nương, cứ khoan thai phát chưởng, không đi đâu mà vội.
Trong khi ngộp thở, vô tình Thanh-Mai vận khí về Đốc-mạch, rồi dẫn tới huyệt Mệnh-môn, đưa qua thận, dồn sang Nhâm-mạch, phát chiêu Thủy ba vô để, đúng như Huệ-Sinh dạy nàng. Triệu Huy thấy chưởng không có gió, tưởng nàng đã kiệt sức, y phất tay, chỉ vận có ba thành công lực. Không ngờ khi hai tay giao tiếp nhau, y cảm thấy một lực đạo vô cùng nhu hòa phát ra. Bịch một tiếng, y bị bật lui liền bốn bước, trong khi Thanh-Mai đứng nguyên.
Mặt Triệu Huy nhợt nhạt:
- Trần cô nương. Tôi muốn lĩnh giáo võ công Đông-a chứ đâu có muốn lĩnh giáo võ công Tiêu-sơn? Vừa rồi cô nương dùng chiêu thức Đông-a, mà dùng nội lực Tiêu-sơn, như vậy không kể.
Thanh-Mai muốn kéo dài thời gian chờ viện binh. Nàng cười khanh khách:
- Này Triệu đại nhân, sao người hủ lậu lắm vậy. Người có biết rằng tổ sư phái Đông-a nhà tôi là Trần Tự-Viễn, nhân học nội công Tiêu-sơn mà lập ra môn phái ư? Thôi được, tôi phát chiêu thứ tư đây này.
Thanh-Mai áp dụng lý thuyết của Huệ-Sinh dậy. Nàng phát chiêu Kình ngư thăng thiên, bằng cách dẫn khí theo Đốc-mạch đến huyệt Chí-dương đưa vào tim, một phần đến huyệt Mệnh-môn đưa vào thận, rồi cho hai luồng khí giao nhau. Chưởng phong xoáy như con trốt ập về trước. Triệu Huy ra chiêu đỡ. Không ngờ khi hai chưởng sắp gặp nhau, Thanh-Mai chỉ phát ra ở Thủ-tam-âm kinh thuần âm. Huy khám phá ra thì đã muộn. Bộp một tiếng, y loạng choạng lui lại... y phải nhảy vọt lên cao để khỏi ngã.
Triệu Huy biết nếu còn chần chờ, e Thanh-Mai sẽ dùng kỳ chiêu. Không chừng y bị bại cũng nên. Song qua mấy chiêu, y tìm thấy trong Đông-a chưởng pháp đôi phần phảng phất giống Thiếu-lâm chưởng của y. Có điều Đông-a chưởng pháp hung dữ hơn nhiều. Y nghĩ thầm trong lòng :
- Trước đây ta nghe sư phụ nói trong các phái võ Lĩnh-nam, chưởng pháp mạnh nhất phải kể phái Tản-viên với Phục ngưu thần chưởng. Chưởng pháp này lúc đầu thuần đương, do Sơn-Tinh chế ra. Sau Vạn-tín-hầu Lý Thân chế ra Long-biên kiếm pháp, thắng được Sơn-Tinh bên bờ sông Hắc-long. Long-biên kiếm đặt cơ sở trên âm nhu. Tuy thắng được Sơn-Tinh, nhưng Lý Thân cũng khâm phục pho chưởng này vô song, vô đối. Ông nhân ba mươi sáu chiêu Phục-ngưu, chế ra ba mươi sáu chiêu âm nhu khắc chế ba mươi sáu chiêu dương cương. Đến thời Đông-hán, thì Phục-ngưu chưởng âm nhu bị tuyệt tích, mà các chiêu dương cương cũng chỉ còn mười hai. Sau Hán-trung-vương Đào Kỳ có cơ duyên tìm luyện được cả âm lẫn dương chửơng, mà thành anh hùng vô địch. Từ ngày ấy đến giờ trải một nghìn năm, Lĩnh-nam bị sát nhập làm quận huyện Trung-quốc, quan cai trị các thời cấm tập võ. Võ công thời Lĩnh-nam gần như bị tuyệt chủng.
Y nhìn Thanh-Mai, nhăn mặt:
- Ngày nay tuy vẫn còn phái Tản-viên, Mê-linh, song Phục-ngưu chưởng dường như chỉ sót lại mười hai chiêu. Còn Long-biên-kiếm thì mất hết tinh hoa. Ta đã đấu với một vài cao thủ phái Tản-viên, thì thấy chưởng Phục-ngưu mạnh tuy có mạnh. Song hôm nay đối bốn chưởng với con nha đầu này, mới thấy chưởng Đông-a hung hiểm vô cùng. Nếu bảo rằng dương cương thì cũng thấy dương cương, nếu bảo rằng âm-nhu thì cũng thấy âm-nhu. Song trong cái cương nhu hợp nhất này có ẩn tàng cái sát thủ ghê gớm. Hèn chi trước khi lên đường, hoàng thượng ân cần dặn đi dặn lại phải mua chuộc phái Đông-a bằng mọi giá. Tuyệt đối cấm gây hấn với họ. Con nhỏ này là con gái yêu Trần Tự-An, đương kim chưởng môn Đông-a. Năm nay y thị khỏang 17-18 tuổi là cùng, mà công lực đã tới dường này thì không ai có thể ngờ tới. Ta nghe sư bá chưởng môn Thiếu-lâm nói, người đã đối chưởng với Tự-An, mà chỉ chiụ được có 15 chiêu, đành xin thua. Hôm nay ta cứ chần chờ đấu với con này ít chiêu nữa xem sao.
Triệu Huy chỉ biết nội công phái Đông-a xuất phát từ phái Tiêu-sơn một cách lờ mờ. Mà phái Tiêu-sơn với Thiếu-lâm cùng đặt căn bản trên Thiền-công nhà Phật. Thiền công quang minh chính đại, mà sao Đông-a chưởng lại sát thủ như vậy?
Triệu Huy phát một Kim-cương ban nhược trong Thiếu-lâm chưởng tên Vô nhân giả tướng. Chiêu này chuyên hóa giải tất cả những chưởng hung ác khác. Thanh-Mai thấy Huy tần ngần một lúc, nàng đoán hai chiêu vừa rồi mình áp dụng thủy hỏa tương hợp trong Thiền-công mà Huệ-Sinh mới dạy khiến cho y sợ. Bây giờ nàng trở về với Đông-a chưởng thuần túy, nàng ra chiêu Phong ba hợp bích Chưởng phong ào ào tuôn ra. Trong khi chưởng phong dồn dập, nàng cố bỏ Lục-căn ra ngoài. Triệu Huy thấy rõ ràng chưởng của nàng cực kỳ hùng hậu, rồi lại biến mất. Khi hai chưởng giao nhau, chưởng của Thanh-Mai không mất tích như y thường thấy mỗi khi đấu với người khác. Ngược lại chưởng của y như hạt muối rơi xuống biển. Người y bay bổng lên cao. Y phải cố định thân mới đứng xuống đất an toàn. Ngô Tích giật mình:
- Tam đệ, cái gì vậy?
Mặt Triệu Huy nhợt nhạt như gà cắt tiết. Y hít hơi lấy lại thăng bằng:
- Không hiểu nữa.
Triệu Huy khám phá ra Thanh-Mai mới học được một thứ nội công, mà chưa có dịp xử dụng. Hôm nay nàng đem ra thí nghiệm lần đầu. Y cần thắng nàng tức khắc, bằng không thì khó kiềm chế nổi.
Y hít hơi vận đủ mười thành công lực, đánh xuống ba chưởng. Thanh-Mai thấy chưởng lực y hùng hậu vô cùng, nàng không dám đỡ, vội vọt mgười lên cao tránh. Triệu Huy không tha, y đánh ngược lên một chỉ.
Thanh-Mai ở trên cao, thấy chỉ của y bao trùm hạ bàn. Nàng kinh hoảng rút kiếm lia ngang dưới chân. Triệu Huy thu chỉ nhảy lui lại. Thanh-Mai vừa rơi xuống đất, lực đạo hết. Triệu Huy túm lấy phiá sau cổ nàng.
Bỗng y cảm thấy như có ai đánh trộm vào sau gáy. Y vung tay gạt. Bộp một tiếng, tay y chạm phải vật gì mềm mại, vỡ tung ra làm nhiều mảnh, bay tứ tung. Mùi thơm bốc lên, thì ra một quả bưởi.
Bọn Triệu Huy kinh hãi, không biết người tung bưởi ở đâu, tung bằng cách nào, mà không một tiếng động. Người này dường như không ác ý với chúng. Bằng không chúng mất mạng rồi.
Trong khi y suy nghĩ, một vật khác lại bay tới trước ngực y. Kình lực làm y ngộp thở. Y vội buông Thanh-Mai, vận sức vào hai chân thực ững, bắt lấy vật đó. Y nhìn lại, thì ra một cái đầu con hoẵng nướng, đã khoét hết thịt.
Bọn Thanh-Mai, Bảo-Hoà nhận ra cái đầu con hoẵng, hồi chiều chị em nàng lóc thịt ăn, rồi chôn ở trong rừng. Cả ba mừng không thể tưởng tượng được, vì biết đây là cao nhân theo bên cạnh mình.
Triệu Huy nói lớn:
- Cao nhân phương nào xin cho được tương kiến.
Không có tiếng trả lời. Xa xa vọng lại tiếng chim đánh ống dài thê lương dưới trăng. Bọn Đinh Toàn, Triệu Anh cùng chạy xung quanh, bới cỏ, vạch cây tìm, mà nào thấy ai?
Triệu Huy đang lo lắng về cao nhân, bị Thanh-Mai đục một quyền trúng vai, đau thấu xương. Y nổi cộc đánh liền ba chưởng như vũ bão. Thanh-Mai đở được hai chưởng, chân tay rũ liệt, nàng ngã ngồi xuống. Triệu Huy túm cổ áo nhắc bổng nàng lên cao.
Y định quật chết, nhưng nghĩ lại mấy chiêu nhập môn vừa rồi của phái Đông-a, khiến y đã choáng váng, thì với một cao thủ y chịu sao nổi? Phái Đông-a người nhiều thế mạnh, đến Tống đế còn kiêng nể. Nếu y giết con gái yêu của chưởng môn, thì dù có cánh bay lên trời cũng không toàn mạng. Nghĩ vậy y bỏ nàng xuống, quát lớn:
- Trần cô nương chịu thua rồi. Như thế mỗi bên thắng một trận. Vậy trận kết thúc là trận thứ ba. Nào, mời công-chúa Bình-dương xuất thủ dạy dỗ cho nhị sư huynh tôi mấy chiêu.
Giọng nói của y đểu giả vô cùng.
Mỹ-Linh biết mình tuổi còn nhỏ, công lực không được làm bao, muôn ngàn lần không bằng Ngô Tích. Nàng mỉm cười:
- Tôi nghe Ngô đại hiệp nổi tiếng tài kiêm văn võ, được phong tới chiêu-thảo-sứ. Vậy không biết chúng ta đấu văn hay đấu võ.
Vô tình Mỹ-Linh đánh trúng yếu điểm của Ngô. Trong ba sư huynh, sư đệ, thì võ công Ngô kém nhất. Song y tự hào văn chương quán thế, mà rút cục y chỉ được phong chức quan võ. Trong khi Triệu Anh được phong tới lang-trung, Triệu Huy được phong tới an-phủ-sứ là chức tước cả văn lẫn võ. Từ lâu y không nói ra, nhưng vẫn ấm ức trong lòng. Bây giờ Mỹ-Linh thách y đấu văn, thực là dịp y được trổ tài. Y kính cẩn nói:
- Tại hạ xin được hầu tiếp tài nàng Ban, ả Tạ của công-chúa điện hạ.
Trong khi hai người nói truyện, thì Triệu Anh đau đớn khủng khiếp, miệng y rên lên hừ hừ, hai hàm răng đánh vao nhau lộp cộp. Triệu Huy dơ tay lên nói:
- Xin công-chúa nói với quận-chúa Bảo-Hòa trao thuốc giải cho Triệu đại ca. Bằng không, chúng tôi bất chấp luật lệ võ lâm.
Biết không đừng được, Bảo-Hòa móc trong túi ra một viên thuốc, đưa cho Huy:
- Đây là thuốc trừ rắn. Còn thuốc trừ phấn độc, phải dùng châm cứu mà trị. Tôi không biết châm cứu. Trước hết Triệu tam hiệp phải cắt một lỗ nơi vết thương cho máu chảy bớt chất độc ra ngòai. Còn viên thuốc này, thì bỏ vào miệng, vận khí cho mau tan. Khi thuốc tan trong vị, dùng khí dẫn thuốc theo Thủ-thái-âm phế kinh, sau đó lưu chuyển khắp vòng Đại-chu thiên. Trong bẩy lần bẩy là bốn mươi chín ngày không được xử dụng võ công, cũng không được uống rượu, cùng gần đàn bà. Bằng không thì đừng có chê thuốc của tôi không công hiệu.
Triệu Huy trấn ở biên cương đã lâu, y biết Bảo-Hòa nói thực. Trong trận đánh Như-hồng cách đây mấy năm, đã có nhiều người trúng phấn độc, lương y xem xét rồi dùng châm cứu chữa khỏi. Nhưng phấn thì không nguy hiểm trong chốc lát. Đợi sau việc ở đây kiếm thầy châm cứu cũng còn kịp? Y biết phấn độc này để quá mười ngày mới nguy hại. Còn hiện thời, chỉ làm chân tay tê liệt mà thôi.
Triệu Huy nhét viên thuốc trị nọc rắn vào miệng sư huynh. Y lầm con dao nhỏ rách một vết nhỏ trên vết rắn cắn ,máu chảy ra ngoài đầm đìa. Phút chốc mặt Triệu Anh tươi hẳn lên, y không run rẩy nữa.
Ngô Tích hỏi Mỹ-Linh:
- Xin công chúa cho đầu đề.
Mỹ-Linh moi trong bọc ra một bình son, một cái nghiên, sáu cái bút. Nàng đổ son vào nghiên, cầm bút chấm son, viết trên thành cái bể cạn:
- Nam-sơn trúc bất tận.
Nét bút hoa dạng, sống động, trong cái nhu, có cái sắc sảo. Cả bọn Triệu Huy đều đã sống cạnh những bậc đại danh Nho triều Tống. Những người hoa tay thực không thiếu, nhưng đa số họ đều già. Ở đây, Mỹ-Linh tuổi bất quá mười sáu, lại là con gái, cho nên bọn Huy đờ người ra.
Mỹ-Linh cười:
- Mấy chữ mèo cào không bõ làm trò cười cho bậc danh sĩ đại Tống. Xin mời Ngô tiên sinh đối cho.
Lúc nghe Mỹ-Linh đòi đấu văn, Ngô Tích tưởng nàng sẽ đem ý nghĩa kinh điển ra thi thố với mình. Nào ngờ nàng lại bắt đấu bút pháp, và bắt thù tụng bằng câu đối. Ngô có trí nhớ, đọc thiên kinh, vạn quyển, nhưng bút pháp y lại rất dở. Đã trót, y đành cầm bút suy nghĩ. Thanh-Mai không cho y suy nghĩ, nàng muốn y chia trí, cười nói:
- Này Ngô đại nhân, coi chừng thua cô em tôi thì phiền lắm đấy. Trước kia Tào Thực bẩy bước thành thơ. Từ nãy đến giờ nếu tôi bước thì đã được bẩy trăm bước, mà Ngô đại nhân chưa xong vế đối ư? Để tôi giảng ý nghiã vế trên của Bình-Dương cho đại nhân nghe. Em tôi đề vế câu đối trên bể cạn nhỏ xíu. Trên bể có vài nhánh trúc. Thế mà em tôi ví với rừng Nam-sơn bên qúi quốc là nơi có hàng vạn mẫu, chuyên trồng trúc để làm bút viết.
Nàng chợt dừng lại, vì không muốn trêu Ngô Tích. Bởi trong ba người cùng bọn, Ngô có vẻ ôn hòa, nghiêm trang, tư thái khác phàm. Sở dĩ nàng với Bảo-Hòa bầy ra cuộc đấu là muốn kéo dài thời gian, đợi viện binh. Nay viện binh chưa tới, mà cuộc đấu kết thúc, dù chị em nàng có thắng, bọn chúng cũng phải giết để phi tang. Vì vậy nàng muốn nói mấy câu mua lấy chút cảm tình của Ngô:
- Cây trúc tượng trưng cho người quân tử. Em tôi muốn ví tiên-sinh giống như trúc rừng Nam-sơn đấy.
Ngô Tích quả bị chia trí. Sự thực y có coi câu đối trên ra gì đâu.Y có thể đối lại bằng cả chục vế khác. Ngặt vì nếu y thắng, thì sư đệ của y sẽ giết ba cô gái này. Y là văn nhân, vốn lãng mạn, đa tình. Y đành chịu nhục, chứ không muốn ba cô gái xinh đẹp thế kia phải chết uổng. Y ném bút nói:
- Tại hạ chịu thua công chúa.
Chị em Thanh-Mai kinh ngạc đã đành, bọn Triệu Huy sững sờ người ra. Y hỏi:
- Nhị ca... việc này...
Ngô Tích nhăn mặt:
- Không hiểu sao hôm nay đầu óc ta lộn xộn qúa, nghĩ không ra.
Y nói với Mỹ-Linh:
- Xin công chúa cho thêm vế nữa.
Mỹ-Linh cầm bút viết thêm:
- Đông hải ba vô cùng.
Ngô Tích tấm tắc khen:
- Hay tuyệt, vế này đối với vế trên chan chát: biển Đông sóng không bao giờ hết . Cái bể cạn con con này, mà công chúa ví với biển Đông thì còn gì hay hơn. Khâm phục, khâm phục.
Thanh-Mai, Mỹ-Linh biết Ngô Tích tốt với chị em nàng. Cả hai chắp tay:
- Đa tạ Ngô tiên sinh dạy dỗ.
Ngô Tích nghĩ lại một chút, chợt tìm ra Mỹ-Linh chửi xéo bọn y. Song đã trót. Y biết hai câu trên nàng lấy trong bài biểu đánh Lý Mật đời Đường. Về đời Đường, khi sọan bại biểu kể tội Lý Mật, danh sĩ đã viết rằng:
- Quyết Đông hải chi ba lưu ác bất tận,
Khánh Nam-sơn chi trúc thư tội vô cùng.

Nghĩa là: dù lấy hết nước biển Đông rửa cũng không hết tội ác. Dù cắt hết trúc Nam-sơn cũng không chép hết tội ác.
Ngô Tích ngửa mặt lên trời cười, tỏ ý tha thứ. Mỹ-Linh muốn nói một câu cảm ơn y, mà anh em y không hiểu, nàng nói bâng quơ:
- Quân tử thản, đãng đãng.
Câu này lấy ý trong Luận-ngữ, nghĩa là người quân tử dù gặp việc bất như ý sự, lúc nào cũng thản nhiên.
Ngô Tích chắp tay tạ Mỹ-Linh:
- Đa tạ công chúa quá khen.
Y nói với Triệu Huy:
- Chúng ta thua hai trận. Tuy nhiên vì việc cơ mật, chúng ta cần giữ ba cô này mấy ngày, rồi sau đó thả ra. Như vậy không làm mất lời hứa, lại không hại gì đến công việc.
Triệu Huy có ý định sau ba trận đấu, dù thua, dù thắng, y cũng giết ba người để phi tang. Nhưng một, y sợ trách nhiệm, trái chỉ dụ Tống đế là không được gây hấn với võ lâm Lĩnh-nam. Hai, y sợ đụng tới phái Đông-a. Y đành tuân lệnh nhị sư huynh. Tuy nhiên y cần dọa Bảo-Hòa:
- Bây giờ ta trói ba cô lại. Nếu trong mấy ngày, không tìm ra thầy châm cứu, ta sẽ giết ba cô chôn chung với đại huynh ta. Như vậy đại huynh có chết cũng đỡ cô độc. Ta nói trước, trong khi đi theo bọn ta, các cô phải tịnh khẩu. Nếu các cô mở miệng, ta quyết không tha.
Y quẳng dây cho An-Hòa trói ba người lại. Sau khi trói bọn Bảo-Hòa, An-Hòa còn lấy khăn lụa cột miệng lại. Y nói sẽ vào tai Triệu Anh:
- Triệu đại nhân. Tôi nghi con nha đầu này có thuốc giải, mà y thị không chịu đưa ra. Bây giờ chúng ta đem phấn độc bắt thị ngửi. Nếu thị có thuốc, ắt phải tự cứu mình. Bằng không thì thị chết chung với đại nhân.
Triệu Anh không ngờ gã họ Đàm lại linh mẫn đến thế. Y lục trong bọc Bảo-Hòa, quả có hộp phấn độc, y lấy chiếc lá múc ra một ít, rồi vung chưởng đánh vào đầu Bảo-Hòa. Bảo-Hòa ngộp thở, nàng ngửa mặt lên trời hít hơi. Đúng lúc đó, y bắn phấn độc vào mặt nàng. Bảo-Hòa vốn tính ngang bướng, nàng biết mình trúng độc, mà vẫn nín thinh không nói một lời. Thanh-Mai thấy mồ hôi nàng vã ra, thì hỏi:
- Quận chúa. Có sao không?
Bảo-Hòa cười nhạt:
- Tôi không sao cả.
Bảo-Hòa nhìn về phía con đừơng dẫn vào đền, tuyệt không thấy bóng viện quân. Nàng nghĩ:
- Lát nữa đây chúng sẽ bắt bọn ta đi. Chi bằng ta để lại dấu vết cho anh ta biết mà tìm.
Nàng giả vờ say thuốc, chân tay run rẩy, trong khi đó dùng ngón tay viết xuống mảnh vườn phía sau mấy chữ vùng Tây-vu.
Từ đầu đến cuối, Quách Qùi không nói, không rằng, bây giờ y mới lên tiếng:
- Sư thúc. Cô này viết chữ để lại cho đồng bọn.
Nói rồi y chỉ vào mấy chữ Bảo-Hòa vừa viết:
- Mấy chữ này có nghiã Em bị bọn Tống bắt, hãy hỏi chim ưng để biết đường.
Triệu Huy lấy chân di vết tích mấy chữ ấy đi. Thanh-Mai chữa thẹn:
- Quách công tử. Tổ tiên Quách công tử quả bền chí thực. Lúc đầu ta lấy làm lạ, tại sao Tống đế sai sứ đoàn sang Đại-Việt với một công tác cực mật, mà lại mang một thiếu niên như công tử theo. Thì ra vì công tử biết nói tiếng Việt, và đọc được chữ Khoa-đẩu.
Nàng nói với Bảo-Hòa:
- Xưa kia Quách Quân-Biện bị bắt làm tù binh, y đã dầy công học tiếng Việt, cùng chữ Khoa-đẩu. Y biết rằng quân luật triều Tống rất nghiêm, khi bị giặc bắt, mà không tự tử, lúc được tha về e khó thóat tội bêu đầu. Tống bị thua trận Bạch-Đằng, muốn báo thù ắt phải cần người biết nói, biết viết chữ Việt. Y được tha chết. Y đem chữ Khoa-đẩu dạy con cái. Cho nên Quỳ mới đọc được.
Triệu Huy nói với Đinh Toàn:
- Nào bây giờ chúng ta cùng xuống hầm. Tuy vậy ta cần để Đàm hiệu-úy giữ miệng hầm. Còn ba con cọp cái này, thì phải mang theo. Tôi đi trước, phiền vương gia đi sau coi chừng chúng.

Nhưng chúng chỉ chú ý đến Bảo-Hòa mà quên mất Mỹ-Linh. Nguyên trong phái Mê-linh, các đệ tử đều học văn tự Khoa-đẩu. Thân-mẫu Mỹ-Linh rất giỏi loại văn tự này. Bà đem đạy cho nàng. Trong khi bọn Triệu Huy chú ý đến Bảo-Hòa, thì nàng dựa lưng vào cây chuối, dùng móng tay viết mấy chữ Khoa-đẩu Thiệu-Thái, em với Bảo-Hòa bị nạn. Theo dấu chim ưng tìm bọn em.
Triệu Huy cầm đuốc đi trước. Xuống bẩy bậc thềm thì vào hẳn trong hang động. Hang rộng khỏang mười bước, hình bát giác, mỗi cạnh lại có một cửa ngách. Giữa là bốn tảng đá đặt song song nhau, hình dạng như cái ghế. Triệu Huy cầm đuốc soi vào mấy cái ghế, thấy không có gì lạ, y lại soi tới tám tấm vách đá. Tấm thứ nhất khắc hình cái búa. Bên dưới chằng chịt những chữ. Y không hiểu chữ gì. Y hỏi Đinh Toàn:
- Phải chăng đây là chữ Giao-chỉ?
Đinh Toàn lắc đầu:
- Giao-chỉ không có chữ, từ hơn nghìn năm nay đều dùng chữ Hán như Trung-quốc.
Khi vào đến miệng hầm, Bảo-Hòa đã biết các bia đều chép bằng chữ Khoa-đẩu. Nàng lờ đi như không chú ý tới. Nàng biết Đinh Tòan cũng học chữ Khoa-đẩu như nàng. Có lẽ Tòan không muốn bọn Tống ăn cắp học thuật Lĩnh-nam, y chối cho qua.
Triệu Anh hỏi Quách Quỳ:
- Đồ đệ, người có đọc được chữ này không?
Quách Quỳ liếc qua, y đã biết rất tường tận các tấm bia đều chép bằng văn tự Khoa-đẩu. Tính láu cá nổi dậy, y nghĩ:
- Sư phụ có dạy ta cả đời, thì bất quá võ công cũng bằng người mà thôi. Võ công của Thiếu-lâm muôn ngàn lần không thể so với võ công trong bộ Lĩnh-nam vũ kinh. Chi bằng mình làm bộ không biết, rồi âm thầm chép lấy, đem về luyện tập. Chỉ mấy năm, bản lĩnh mình thành vô địch, bấy giờ sư phụ có khám phá ra, cũng chẳng làm gì nổi mình.
Quỳ làm bộ nhăn mặt, coi đi, coi lại rồi nói:
- Cứ trăm chữ, đệ tử mới đọc được một chữ, thành ra không hiểu gì cả. Mong sư phụ tha tội.
Soi sang tấm thứ nhì, có khắc hình một đứa trẻ cỡi ngựa, tay cầm gậy, con ngựa phun ra những tia lửa dài. Dưới cũng khắc chữ cổ. Tấm thứ ba vẽ một cái xe, bắn ra nhiều mũi tên. Tấm thứ tư vẽ hình con trâu mập. Trên lưng trâu, một người cỡi trong tư thế đánh xuống đầu trâu. Tấm thứ năm vẽ một con sông, cạnh năm ngọn núi. Tấm thứ sáu, vẽ hình tám con vật: khỉ, ong, rắn, voi, chó, ưng, beo, cọp.
Triệu Huy muốn ngộp thở. Y soi tới tấm thứ bẩy có hình con rồng bay lượn. Tấm thứ tám vẽ hình con phượng. Y rút kiếm trao cho Triệu Anh:
- Đại ca hãy cầm thanh kiếm này, đề phòng. Nếu ba cô nương đây có dở chứng thì giết không tha.
Y cầm đuốc cùng Đinh Toàn đi vào đường hầm thứ nhất, cạnh tấm bia vẽ hình đứa trẻ chăn trâu. Đường hầm hẹp khoảng một người đi lọt. Hai bên có nhiều tấm bia. Trên bia khắc chi chít những chữ quái dị cùng đồ hình võ công. Tất cả có ba mươi sáu đồ hình khác nhau. Y quay lại các tấm bia phía sau cũng có ba mươi sáu đồ hình nữa. Y suy nghĩ:
—Đây là võ công gì mà có tới 72 chiêu.
Y hỏi Đinh Toàn:
- Vương gia. Vương gia có biết trong các kho võ công Lĩnh-nam, pho nào có 72 chiêu không?
- Có, đó là kiếm pháp Long-biên. Trong 72 chiêu biến hóa thành âm, dương, hóa ra 144 chiêu... rồi biến thành tới mấy trăm ngàn chiêu theo Bát-quái.
Triệu Huy lẳc đầu:
- Lạ một điều, nếu là kiếm pháp, thì sao đây lại khắc hình chưởng pháp?
Quách Quỳ theo sát chân sư thúc. Nó đọc qua biết trên bia chép Phục-ngưu thần chưởng. Phía trước chép ba mươi sáu chiêu dương. Phía sau chép ba mươi sáu chiêu âm.
Y lui trở ra, theo phía sau tấm bia khắc hình con rồng, thì thấy vẽ những chiêu thức kiếm thuật. Y chán nản lui trở lại, thuật cho Triệu Anh, Ngô Tích nghe. Tuy Anh bị trúng độc, song nhờ công lực mạnh, đầu óc cũng không đến nỗi mê man.
Hai người nhìn Đinh Toàn. Toàn cũng đang vò đầu, vò óc nghĩ không ra.
Đinh Toàn chợt chỉ vào một cái bia nhỏ, ngay cửa đường hầm đi xuống:
- Bia chữ Hán.
Huy, Tích cùng Đinh chạy lại. Một tấm bia nhỏ trên khắc chữ Hán, nét khắc rất thanh tao. Y lấy vạt áo lau bụi, đọc:
Ta vốn sinh, lớn lên trong ở Thục, trong gia đinh võ lâm. Thân phụ ta cùng sáu đồng môn kết thành Thiên-sơn thất hùng. Nhân thời thế lọan lạc, bẩy người rút gươm khởi nghĩa cưú dân, mưu lập nước Nghiêu-Thuấn. Nào ngờ trời không chiều người, sự nghiệp chỉ được vài chục năm rồi tan vỡ.
Quách Quỳ học sử Lĩnh-nam rất kỹ, y nói:
- Sư thúc, đúng rồi. Người khắc bia này họ Vương tên Sa-Giang, gốc đất Thục. Bà ta nổi tiếng hoa khôi thời Đông-Hán. Cha của bà tên Vương Nguyên,làm thừa tướng cho Ngỗi-Hiêu. Khi Thục bị Hán diệt, y còn kháng chiến mấy năm mới bị diệt.
Triệu-Huy đọc tiếp:
Nhân Thục liên kết với Lĩnh-nam, ta găp đấng quân tử Đào Nhị-Gia,kết thành phu phụ. Từ lúc gặp nhau, chúng ta như đôi chim liền cánh. Chàng sủng ái ta cùng cực, tình nghiã như nước, tưởng không bao giờ hết. Ta theo chàng chinh chiến, khi thì Trường-an, khi thì Động-đình, khi thì Nam-hải.
Niên hiệu vua Trưng thứ ba, vua Bà cùng triều đình bị Lê Đạo-Sinh phục binh, dùng muôn nghìn mũi tên sát hại. Bắc-bình vương Đào Kỳ cùng vương phi là tể tướng Lĩnh-nam, muốn đánh một trận cho thỏa lòng rồi chết. Ngặt vì còn con nhỏ, ra đi không đành. Vương là sư huynh của Nhị-Gia. Vương ủy thác hai con là Tử-Khâm cùng Tường-Qui cho trượng phu với ta. Chúng ta vì thế không được tuẫn quốc với người.
Quách Quỳ giảng:
- Đào Nhị-Gia hồi còn bé có tên Sún-Rỗ, học trò Đào Thế-Kiệt. Nhị gia là một đại tướng khét tiếng với đội Thần-ưng.
Triệu Huy mừng quá, muốn đứng tim:
Ngày mười lăm tháng tám. Vương phi hộ tống vợ chồng chúng ta ra khỏi vòng vây Long-biên, dặn ta đem hai con vào Cửu-chân, chịu nhục, ẩn thân nuôi dạy dùm người. Vương còn trao bộ « Lĩnh-Nam vũ kinh » cùng bộ « Dụng binh yếu chỉ » cho trượng phu ta, vì sợ học thuật Lĩnh-nam mai một.
Nay Tử-Khâm, Tường-Qui đều thành người, văn tài lỗi lạc, võ công vô địch. Trong khi đó, tuổi chúng ta đã trên năm mươi. Ta bàn với trượng phu cần khắc tất cả bộ Lĩnh-nam võ-kinh với bộ Dụng-binh yếu-chỉ, rồi chôn một chỗ. Để khỏi làm mất đi biết bao tâm huyết của tiền nhân. Nhân tìm được bãi đất này, chúng ta khắc để lại. Ta tự biết, chôn đâu rồi cũng có thể bị đào lên. Chúng ta mới nghĩ được một kế: các tham quan Hán sang Lĩnh-nam cai trị. Muốn yên thân, họ luôn tự xưng sang giáo hóa man dân. Họ bắt thờ Nhâm Diên, Tích Quang, để dân chúng dễ qui phục họ. Vì vậy nơi thờ Nhâm, Tích không bao giờ người Hán dám động đến. Nhân đó chúng ta bỏ tiền xây đền thờ trên động đá này là ý nghĩa đó.
Đương thời ta được tôn làm « Cầm tiên, tiêu thần ». Sợ rằng sau khi chết đi, nghệ thuật không còn, ta cũng khắc bia để lại. Kẻ hậu thế có duyên thì tìm được mà học, dưới suối vàng, ta cũng đỡ ân hận.
Khắc ngày lành, tháng Giêng niên hiệu Lĩnh-nam thứ ba mươi.
Vương Sa-Giang.
Triệu Huy nói với Đinh Toàn:
- Vương gia, quả thực kho tàng học thuật Lĩnh-nam đây rồi. Nhưng tất cả lại chép bằng chữ Lĩnh-nam, đến vương gia cũng không biết, thì ai đọc được bây giờ?
Thình lình Ngô Tích à lên một tiếng:
- Ta hiểu rồi.
Triệu Huy hỏi:
- Hiểu cái gì?
- Hiểu nội dung mấy tấm bia này. Thời Lĩnh-nam, có bẩy phái võ và nhóm Tây-vu là tám. Đây là tám cái bia chép lại di thư tám phái. Bia khắc đứa trẻ cỡi ngựa kia chắc là chép võ công phái Sài-Sơn. Vì tổ sư phái này là Phù-Đổng thiên-vương. Bia khắc xe chở máy bắn tên kia chắc là chép võ công phái Hoa-Lư. Còn mấy bia kia, sư đệ thử đoán xem thuộc phái nào.
Quách Quỳ biết nếu mình chối tuột không biết chữ Khoa-đẩu, e sư phụ nghi ngờ. Y làm bộ đọc được vài chữ:
- Sư phụ. Tấm bia khắc cái búa, chép võ công phái Cửu-chân.
Y làm bộ nghẹo đầu, nghẹo cổ một lúc rồi nói:
- Bia có hình đứa trẻ cỡi trâu chép võ công phái Tản-viên.
Triệu Huy đoán già:
- Tấm bia khắc hình con rồng chắc là chép võ công phái Long-biên. Còn bia khắc hình tám con vật kia, tượng trưng cho tám đội binh thú rừng thời Lĩnh-nam của Tây-vu, hẳn là chép võ công Tây-vu.
Ngô Tích chỉ vào hai tấm bia còn lại:
- Tấm bia khắc con phụng, chắc ghi võ công phái Quế-lâm. Tấm còn lại khắc hình năm ngọn núi hẳn là chép võ công phái Khúc-giang.
Hơn ngàn năm trước, khi vua Trưng ra lệnh chép học thuật Lĩnh-nam để lại, thì Khúc-giang ngũ hùng đã qua đời, vì vậy học thuật phái Khúc-giang thất truyền. Tấm bia khắc năm ngọn núi chính là nơi chép bộ Lĩnh-nam dụng binh yếu chỉ. Còn bia khắc con phụng, chép võ công phái Thiên-sơn, cùng nghệ thuật đàn, tiêu của Sa-Giang. Ngô Tích tuy thông minh, mà đóan cũng không ra.
Lúc ở trên sân đền, Bảo-Hòa viết mấy chữ Khoa-đẩu, bị Quách Quỳ khám phá ra. Từ khi xuống hầm thấy những tấm bia khắc chữ Khoa-đẩu, Quách Quỳ giả bộ không hiểu hết... nàng biết trước sau gì bọn Triệu Huy cũng bắt nàng dịch sang Hán-văn cho chúng. Vì vậy nàng giả bộ trúng độc, nằm thiêm thiếp ngủ. Tuy nhiên vẫn lắng tai nghe ngóng động tĩnh. Quả nhiên Triệu Huy trở lại chỗ ba chị em nàng ngồi, gọi:
- Này quận chúa Bảo-Hòa. Chữ Khoa-đẩu là chữ cổ xưa của Lĩnh-nam. Cô nương biết viết, tất biết đọc. Phiền cô nương dịch sang Hán-văn dùm tại hạ. Tại hạ cam đoan sẽ đem cô nương trở về Lạng-châu an toàn.
Thanh-Mai đỡ lời Bảo-Hòa:
- Quận chúa bị các vị phun phấn độc, hiện đang mê man. Xin các vị chữa cho quận chúa trước, rồi hãy bàn đến dịch võ kinh. Tôi nói cho các vị biết, chữ Khoa-đẩu hiện chỉ còn hai người đủ khả năng đọc được. Một là sư phụ của Bảo-Hòa. Hai là Bảo-Hòa. Sư phụ Bảo-Hòa dường như qui tiên rồi thì phải. Các vị mau chữa cho Bảo-Hòa ngay mới kịp.



<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.01.2005 22:21:18 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 06.01.2005 17:58:50 (permalink)
    Hồi thứ mười bảy


    Vạn Hoa Sơn Trang



    Ngô Tích rất quan tâm đến sức khỏe của Bảo-Hòa. Y chạy lên miệng hầm gọi Đàm An-Hòa:
    - Đàm hiệu úy. Gần đây có ông thầy châm cứu nào giỏi không?
    - Có thì có đấy, nhưng ông ta ở trong Vạn-thảo sơn-trang. Từ đây đến Vạn-thảo sơn-trang ít ra một ngày đường.
    Ngô Tích mau mắn:
    - Một ngày thì một ngày, chúng ta dùng ngựa phi thật nhanh đến mời ông ta, hẳn mau hơn. Tên ông ta là gì?
    Đàm An-Hòa lắc đầu:
    - Không ai biết tên thực ông là gì, bao nhiêu tuổi. Người ta thường gọi ông là Hồng-Sơn đại phu. Ông ta gàn bướng lạ lùng. Ông ta chỉ nhận chữa trị cho những bệnh nhân mà không thầy thuốc nào chữa được. Khi ông ta muốn chữa, thì dù bệnh nhân không chịu, ông cũng đè ra chữa. Còn khi ông ta không muốn chữa thì dù tiền rừng bạc biển, dù quan quyền ông ta cũng từ chối. Thành ra lâu ngày dân chúng gọi ông là Hồng-Sơn quái nhân.
    Triệu Huy, Đinh Tòan cũng đã lên mặt hầm. Đinh Toàn hỏi:
    - Ông ta có biết võ công không?
    - Khải tấu vương gia, thần không biết rõ.
    Triệu Huy quả quyết:
    - Tôi không tin ông ta chê tiền. Chúng ta cứ tới đó, trả giá gấp một vạn lần, thì ông ta ắt phải tối mắt lại mà nhận. Bây giờ thế này, phiền Đàm hiệu úy đi với chúng tôi tới Vạn-thảo sơn trang một lần xem sao.
    Đinh Toàn đề nghị:
    - Thế thì Ngô nhị gia, Triệu nhất gia, cùng đi với Bảo-Hòa. Còn Triệu tam gia cùng tôi chờ ở đây.
    Triệu Huy nghĩ rất nhanh:
    - Trong khi đại ca, nhị ca ra đi với An-Hòa. Ở đây chỉ còn mình ta, lỡ Đinh Toàn trở mặt thì e ta không địch nổi y. Lại thêm hai con nha đầu Thanh-Mai, Mỹ-Linh nữa. Ta không dại gì mà tự giam mình vào chốn nguy hiểm.
    Y lắc đầu:
    - Tôi bàn thế này. Chúng ta mượn chiếc xe ngựa của ông từ chở đại ca, Quỳ với Bảo-Hòa. Tôi đánh xe đó. Còn xe của chúng ta thì An-Hòa đánh, trên chở nhị ca, và hai con nha đầu. Còn Đinh vương gia cỡi ngựa.
    Ngô Tích nhiều mưu trí nhất trong bọn. Y ra lệnh cho Quách Quỳ:
    - Này Quỳ, sư điệt đọc không nổi những tấm bia này, nhưng chép thì hẳn được. Vậy sư điệt hãy mượn bút của công-chúa Bình-dương, chép tất cả di thư, rồi chúng ta hủy bia đi. Như vậy trên thế gian này, chỉ chúng ta có di thư mà thôi.
    Quách Quỳ biết không đừng được, y lục trong bọc Mỹ-Linh, thấy đủ bút, mực nhưng không có giấy. Lục sang bọc Thanh-Mai, thấy có quyển sách khá dày, y mở ra coi. Sách viết bằng chữ Hán, ngòai bìa đề Lĩnh-Nam di sử, đầu óc y lóe một tia sáng:
    - Sư thúc, mình chép bằng son, xen vào giữa những chữ in của cuốn sử này.
    Triệu Huy cầm đuốc soi cho Quách Quỳ chép. Trong khi Ngô Tích lên miệng hầm truyền cho ông bà từ làm cơm ăn, cùng đem thêm đuốc với bổi xuống hầm. Tám tấm bia quá dài, Quách Quỳ phải chép liền hai mươi ngày mới xong. Trong hai mươi ngày đó, chị em Thanh-Mai bị chúng giam dưới hầm. Tuy bị tù, nhưng được cái chúng tung tiền ra, ông từ cung đốn thức ăn cực kỳ thịnh sọan.
    Bảo-Hòa bị trúng độc, tuy vậy tinh thần vẫn tỉnh táo. Nàng giả vờ mê man, để bọn Tống không làm khó dễ. Còn Mỹ-Linh, nàng làm như không biết chữ, tò mò đi xem những tấm bia. Triệu Huy cười chế diễu:
    - Công chúa văn hay chữ tốt, nhưng tiếc rằng đứng trước bia này, nó có chửi công chúa, thì công chúa cũng không biết.
    Mỹ-Linh giả ngây, mỉm cười. Nàng lần mò đến trước tấm bia có khắc hình con rồng, nhẩm đọc:
    Long-biên kiếm pháp.
    Sáng tổ Lý Thân, tước phong Vạn-tín hầu.
    Mỹ-Linh muốn nghẹt thở. Nàng nhớ lại trong một đêm trăng trên núi, thái-cô của nàng là sư thái Tịnh-Huyền dạy kiếm pháp Long-biên cho nàng. Bà nhấn mạnh rằng kiếm pháp này gồm hai phần. Phần căn bản có 72 thức. Mỗi thức biến hóa ra thành 36 chiêu. Phần thứ nhì là 72 thức trấn môn nối liền các chiêu lại thành một dây. Nếu học được cả hai, sẽ thành anh hùng vô địch. Bây giờ nàng thử đọc xem, biết đâu không tìm được những bí mật đã thất lạc.
    Nàng đọc kỹ, quả phần căn bản có 72 thức, cùng cách biến hóa, đúng như Tịnh-Huyền dạy. Nàng đọc sang phần thứ nhì, thấy có 90 câu quyết trấn môn . Đọc lần đầu nàng không hiểu gì cả. Suy nghĩ một lúc nàng thấy trong đó có nhiều thuật ngữ mà mình không hiểu. Chợt trong đầu nàng lóe lên tia sáng: hôm bị giam trong tù, Tịnh-Huyền bắt nàng học đi, học lại những thuật ngữ và dặn dò : « người xưa chép võ công, sợ rằng kẻ vô tư cách đọc được, mới chép bằng thuật ngữ đặc biệt ». Vì vậy bà bắt nàng học thuộc các thuật ngữ đó.
    Vốn thông minh, Mỹ-Linh nhẩm một lúc thuộc tất cả 72 thức trấn môn cùng 90 câu quyết, rồi lần mò đi xem các tấm bia khác.
    Bọn Triệu Huy tuyệt không ngờ nàng biết chữ Khoa-đẩu, chúng để nàng tự do muốn làm gì thì làm. Bọn chúng nào ngờ trong hai mươi ngày, Mỹ-Linh thuộc tất cả những gì chép trên tám tấm bia. Lúc đọc đến tấm bia có vẽ con trâu, phía dưới còn ghi chú :
    Bồ-tát Tăng-gỉa nan-đà đến Lĩnh-nam hoằng dương đạo pháp vào niên hiệu vua Trưng thứ nhất. Một đêm gặp Trưng Nhị, Hồ Đề, Trần Năng trên hồ Động-đình. Ngài giảng linh Kim-cương, Bát-nhã, Lăng-gìa. Song chỉ có Trần Năng ngộ đựơc. Trong trận đánh Vương-sơn, Trần Năng đã hợp Thiền-công với nội công Tản-viên, mà thành vô địch. Nay xin chép vào đây.
    Mỹ-Linh đọc tiếp:
    - Người nào muốn luyện Thiền-công này, trước hết phải thấu hiểu yếu chỉ kinh Kim-cương, Lăng-gìa, Bát-nhã đã.
    Mỹ-Linh cười thầm:
    - Gì chứ kinh Kim-cương, Bát-nhã, Lăng-già thì mình thuộc làu từ hồi còn thơ. Sư phụ giảng đi, giảng lại cho mình đến mấy lần rồi.
    Mỹ Linh là đệ tử yêu của cao tăng đắc đạo. Vì vậy nàng thấu ý nghĩ mọi kinh điển nhà Phật. Bây giờ thấy bia chép yếu chỉ luyện công, nàng hiểu liền. Ngẫm nghĩ một lúc, nàng nhẩm đọc, rồi hít hơi vận khí thử, thấy trong người khoan khóai vô cùng. Nàng không dám luyện nữa, vờ xem qua, nhẩm đọc, nghĩ:
    - Để đêm ta luyện thử. Chúng tưởng ta luyện nội công Tiêu-sơn, như vậy mới yên.
    Đêm đó nàng nhắm mắt luyện Thiền-công như trong bia đá dậy, thì thấy chân khí biến mất, trong lòng trống không. Nàng giật mình:
    - Không xong, nếu tiếp tục luyện, chân khí ta sẽ bị tuyệt thì nguy.
    Song trong đêm đó, tiềm thức làm việc, nàng tiếp tục luyện. Sáng dậy thấy trong lòng không còn gì cả, nhưng người lại khỏe vô cùng. Nàng nghĩ thầm:
    - Tại sao thế nhỉ? Bao nhiêu công lực sư phụ, chú hai dạy mình biến mất rồi, mà mình lại mạnh khoẻ thế này? Mình nghe sư phụ nói, nhà Phật có bốn loại Thiền-công là Vô-ngã tướng, Vô-nhân tướng, Vô-chúng sinh tướng và Vô-thọ giả tướng. Trong bốn loại đó thì Vô-ngã tướng uy lực mạnh nhất, nhưng nay đã thất truyền. Không lẽ là thần công này?
    Nàng đến tấm bia chép Phục-ngưu thần chưởng, Lĩnh-nam chỉ nhẩm học thuộc lòng.
    Chiều hôm ấy, ông bà từ đem thức ăn vào cho bọn Triệu Huy. Ăn xong, Ngô Tích bàn:
    - Hôm qua, chúng ta ngủ trên đền, chỉ có ba con ngạnh đầu ngủ dưới này với Quách Quỳ. Hôm nay chúng ta ngủ cả dưới này cho an ninh.
    Bọn chúng gọi ông từ mang chiếu đến cho chúng. Quách Quỳ ngáp dài:
    - Sao hôm nay buồn ngủ quá thế này không biết.
    Câu nói của Quỳ làm mọi người cùng thấy có gì khác lạ, bởi tất cả đều buồn ngủ ríu mắt lại.
    An-Hoà làm ra vẻ hiểu biết, y nói:
    - Hồi chiều chúng ta ăn canh rau ngót nấu với cả rô. Rau ngót làm buồn ngủ mà thôi, không có gì lạ đâu.
    Cả bọn ngáp dài rồi ngủ.
    Trong khi bọn Triệu Huy bàn tán, Mỹ-Linh vẫn ngồi luyện công. Trái với mọi người, nàng vẫn thấy tỉnh táo vô cùng, không hề buồn ngủ.
    Nàng luyện được một lúc, thấy trong người khoan khoái vô cùng. Quay lại, từ Thanh-Mai, Bảo-Hoà cho đến bọn Triệu Huy đều ngủ rất sâu. Mỹ-Linh kinh ngạc:
    - Dường như có người bỏ thuốc mê vào canh. Cho nên mọi người mới ngủ say thế này? Thế tại sao mình cũng ăn canh mà không bị trúng độc?
    Chợt Mỹ-Linh nhớ lại: xưa kia công chúa Yên-Lãng Trần Năng luyện Vô-ngã tướng Thiền-công, chống được Huyền-âm độc chưởng. Vì vậy nay nàng luyện Thiền-công này, thuốc độc không ngấm vào người nàng được. Nàng nhủ thầm:
    - Bất biết kẻ nào hạ độc. Ta cứ im lặng xem chúng làm gì?
    Nàng vờ nằm xuống ngủ. Quả nhiên không lâu, có tiếng chân người đi nhẹ nhàng. Lát sau một bóng đen xuống hầm. Bóng đen đánh lửa, đốt lên ngọn đuốc, rồi cầm soi vào các bia đá. Mỹ-Linh nghiêng đầu nhìn. Suýt nữa nàng bật lên tiếng la. Thì ra bóng đen chính là nhà sư đã ra tay cứu Bảo-Hoà trong đại hội Lệ-Hải bà vương.
    Trong đầu óc Mỹ-Linh có không biết bao nhiêu nghi vấn:
    - Nhà sư trẻ này là ai? Chính phái hay tà phái? Ai sai nhà sư lên Bắc-biên theo dõi bọn Địch Thanh? Nhà sư có bản lĩnh cao lắm, mới đấu được mấy chiêu của Dư Tĩnh, Địch Thanh. Không biết có phải nhà sư đã ném đá giết con hoẵng, rồi ăn vụng nửa con hoẵng nướng không? Lại còn người ném quả bưởi đánh Triệu Huy không chừng cũng là nhà sư này cũng nên.
    Nhanh như chớp, nhà sư cầm bút chép những võ công trên bia đá. Chép đến gần sáng thì xong. Nhà sư theo lối cũ ra khỏi hầm.
    Mỹ-Linh cười thầm:
    - Bọn Triệu Huy tưởng mình tìm ra di thư. Nào ngờ ta tự nhiên toạ hưởng. Rồi nhà sư kia cũng biết, đánh thuốc mê mọi người, vào chép di thư.
    Trời sáng tỏ, bọn Triệu Huy thức giấc. Chúng tự cho rằng mình ngủ mê. Chúng bàn định đủ truyện. Cuối cùng bàn truyện đi Vạn-thảo sơn trang.
    Trong khi bọn Triệu Huy bàn định, Bảo-Hòa nói sẽ vào tai Thanh-Mai, Mỹ-Linh:
    - Cứ để cho bọn chúng bàn nhau. Tôi có cách thoát thân rồi. Thanh-Mai với Mỹ-Linh cứ ngoan ngoãn theo chúng đến Vạn-thảo sơn-trang.
    Ngô Tích bắt Quách Quỳ kiểm điểm lại xem có sai chữ nào không. Sau khi biết chắc di thư chép lại đầy đủ, Triệu Huy, Ngô Tích cầm kiếm vạc các tấm bia đi. Phút chốc, bia chỉ còn là những phiến đá lồi lõm. Triệu Huy dẫn ba chị em Thanh-Mai ra khỏi hầm. Y cùng với Ngô Tích, Đinh Tòan đem đá lấp cửa hang như cũ,rồi kéo cái bể cạn lại che dấu vết.
    Gần một tháng bị giam dưới hầm, bây giờ Bảo-Hòa mới được ra ánh sáng mặt trời. Nàng thấy ông từ với vợ con đứng bên miệng hầm, thì biết ông đã được giải cứu. Triệu Huy rút thanh kiếm múa một vòng. Tia thép sáng ngời. Y dí kiếm vào cổ ông từ. Vợ con ông kêu rú lên. Y móc trong bọc ra nén vàng đưa cho bà từ:
    - Đây là phần thưởng cho ông bà. Nếu ông bà tiết lộ những gì ở đây với người khác, ta sẽ giết cả nhà.
    Không đợi ông bà từ cảm ơn, Triệu Huy nói với Thanh-Mai:
    - Bản tâm chúng tôi không muốn trói công chúa với cô nương. Ngặt vì các cô đều là sư tử dữ, vì vậy tôi phải vô phép. Song chúng tôi chỉ trói giới hạn để các cô vẫn đi đứng như thường, miễn các cô không chạy trốn được là đủ. Tôi xin nói trước, trên đường đi, các cô kêu lên một tiếng, bất đắc dĩ tôi phải chặt đầu các cô.
    Bảo-Hòa thấy trên đầu nàng, đôi chim ưng vẫn bay lượn. Nàng vờ lui vào bụi cây đi tiểu, gọi chim ưng xuống. Nàng móc tờ giấy ở trong ống, dưới chân chim, thì ra đó là một bức thư của Thân Thiệu-Thái. Nàng đọc qua, rồi xé bỏ, huýt sáo cho chim bay đi.
    Bọn Triệu Huy đốc thúc cho xe lên đường. Xe của Ngô Tích có An-Hòa dẫn đường đi trước, xe chở Bảo-Hòa theo sau. An-Hòa tỏ vẻ thông thạo đường lối:
    - Trên đường đi chúng ta phải vượt cửa Thần-đầu, trên núi đường uốn cong như ruột dê. Dưới chân núi là Vạn-hoa-trang, Vạn-thú-trang. Cuối cùng tới Vạn-thảo sơn-trang là nơi quái-nhân ở.
    Khởi hành từ lúc mặt trời ló dạng, đến khi ánh nắng vàng úa đổ xuống đầu, thì đã qua được trên trăm dặm. Xe đang đi ngon trớn, phía trước có con ngựa phi ngược chiều, phóng như bay. Quách Quỳ tinh mắt kêu lên:
    - Ngựa hoang, nó chạy một mình, không có người cỡi.
    Bọn Triệu Huy cùng dương mắt nhìn. Con ngựa dần dần tới gần. Ngô Tích kêu lên:
    - Lạ không kìa, ngựa có yên cương đàng hoàng, mà không người cỡi.
    Triệu Huy vẫy tay ra hiệu, cả hai chiếc xe cùng dừng lại, y bảo Quách Quỳ:
    - Sư điệt, cháu xuống ngăn con ngựa đó lại, bắt mà cỡi.
    Quách Quỳ nhanh nhẹn nhảy xuống đứng bên đường, tay nó cầm sợi dây thắt thòng lọng. Khi con ngựa tới gần tầm, nó vung tay. Sợi dây từ từ chụp xuống đầu ngựa. Con ngựa né đầu sang bên cạnh tránh khỏi. Hai chân trước dựng đứng dậy, miệng hí lên lanh lảnh.
    Quách Quỳ vung dây chụp nữa. Con ngựa lại né tránh dễ dàng. Sau khi tránh khỏi sợi dây, con ngựa hí lên, nó chụp hai chân trước xuống đầu Quách Quỳ. Quách Quỳ vọt người lên cao, định cỡi lên lưng ngựa. Khi mông y sắp chạm vào lưng ngựa, thì một bàn tay nhỏ bé tát vào mặt y hai cái. Y ngã chúi đầu xuống đất. Y vội lộn một vòng, đáp trên mặt đất.
    Y ngửa mặt nhìn lên, người đánh y là một thiếu niên ngang tuổi, đang ngồi chễm chệ trên mình ngựa.
    Thiếu niên chỉ mặt Quách Quỳ:
    - Mày là ai, mà dám ăn cắp ngựa của tao?
    Bấy giờ bọn Triệu Huy mới biết thiếu niên tinh nghịch, bám hai chân vào lưng ngựa, còn mình ẩn thân dưới bụng, thành ra ai cũng tưởng ngựa không người cỡi. Triệu Huy kinh ngạc:
    - Ta là tướng cầm quân vùng biên giới bắc Trung-quốc, đối phó với Tây-hạ, nơi đây tập trung tất cả kị mã tài nhất thiên hạ, thế mà chưa từng thấy ai có bản lĩnh kị mã như thiếu niên này.
    Quách Quỳ bị tát đau, ỷ có sư phụ, sư thúc bên cạnh. Nó lớn lối:
    - Tao thấy ngựa mày chạy lấn đường, tao bắt. Chứ tao thèm ăn cắp con ngựa điên của mày làm gì?
    Thiếu niên từ trên mình ngựa tà tà đáp xuống, nó vung roi ngựa quất vào đầu Quách Quỳ. Quách Quỳ khinh thường, tay chụp roi ngựa giật mạnh. Chỉ nghe đến vù một cái, thiếu niên bị bay bổng lên cao.
    Thanh-Mai kinh hãi la lớn:
    - Nguy quá!
    Song nàng bị trói tay, không can thiệp được. Tiếng la vừa dứt, thì binh, binh hai tiếng, Quách Quỳ bay xuống dưới ruộng. Y đứng dậy, bùn dính đầy quần áo, đầu tóc, trông thực thảm hại.
    Thì ra thiếu niên nhân cái giật của Quỳ, đã mượn sức vọt người tới, phóng vào Quỳ hai phi cước.
    Quách Quỳ xổ ra một tràng tiếng Trung-quốc:
    - Con mẹ mày, tên Nam-man đánh trộm.
    Thiếu niên dường như không biết tiếng Trung-quốc, hỏi lại:
    - Mày nói gì vậy?
    Cả bọn Triệu Huy cười ồ lên. Thanh-Mai thấy thiếu niên còn nhỏ tuổi, mà bản lĩnh ngang với Tự-Mai em mình, thì biết đây là con nhà danh gia, được huấn luyện rất chu đáo. Nàng lên tiếng:
    - Này em ơi, đứa trẻ này họ Quách tên Quỳ. Nó chửi em đó.
    Rồi nàng dịch lại nguyên văn cho thiếu niên nghe. Thiếu niên giận lắm:
    - Được, tao tát vào mặt mày đây.
    Rồi nó vung tay lên. Quách Quỳ xuống chảo mã tấn, trả đòn. Cuộc đấu bắt đầu. Ngô Tích nói với Triệu Huy:
    - Sư đệ, công phu luyện tập của thằng này không hơn Quách Quỳ. Nhưng võ công của nó khắc chế võ công Quách Quỳ, nên y cứ bị lâm thế bị động hoài.
    Vừa lúc đó một chiếc xe ngựa đi tới. Trên xe có một thiếu nữ nhan sắc diễm lệ, tuổi khoảng mười tám. Dường như nàng không quan tâm đến cuộc đấu, thản nhiên ngồi trên xe nhìn trời đất.
    Quách Quỳ bị thiếu niên đánh trúng ba bốn cái tát, mặt nó đỏ ngầu những máu. Thiếu nữ ngồi trên xe cau mày:
    - Cái thằng cà-chớn. Thời giờ đã không có, mà còn đi đùa nghịch với thằng chệt con làm gì! Có mau lên không! Tối này về nhà, tao đánh què cho biết thân.
    Nghe thiếu nữ dọa, thiếu niên nói:
    - Này thằng Tầu-con. Ngừng nghe. Đánh nữa chị tao phạt tao.
    Miệng nói, tay đánh hai chiêu cực quái dị. Quách Quỳ trông rất rõ mà y không tránh được. Người y bay bổng lên cao, rơi xuống cái đụi. Y không ngồi dậy được nữa.
    Thiếu niên nhìn thiếu nữ, méo miệng làm xấu. Thiếu nữ vung tay, roi ngựa quấn ngang người thiếu niên. Tay nàng rung một cái, thiếu niên đã bay bổng lên lưng ngựa. Trong khi lơ lửng trên không, nó nhổ một bãi nước miếng, trúng giữa mặt Triệu Huy.
    Triệu Huy nổi giận:
    - Thằng quỉ Nam-man.
    Chửi rồi y bay người lên cao, phóng chưởng đánh thiếu-niên. Thiếu-nữ lên tiếng:
    - Cái thằng hư qúa. Làm mất thời giờ. Có giải quyết mau đi không?
    Chưởng của Triệu Huy đâu phải tầm thường. Thiếu niên chĩa ngón tay phóng ra một chỉ. Nếu Triệu Huy tiếp tục đánh tới, thì bàn tay y bị thương. Y vội biến chưởng thành cầm nã, định bẻ gẫy ngón tay thiếu niên. Thiếu niên hú một tiếng. Con ngựa khụy chân xuống, rồi lao về trước. Triệu Huy đánh hụt, người y rơi xuống đất.
    Y quên mất thân phận một đại cao thủ của mình, rút kiếm ra chiêu Vân hoành Tần-lĩnh định chẻ thiếu niên với ngựa làm hai.
    Thiếu nữ rung tay, roi ngựa duỗi ra, rồi cuốn lấy thanh kiếm của Triệu Huy. Lách cách hai tiếng, kiếm của y gẫy làm hai. Tay y chỉ còn cầm cái chuôi.
    Thiếu niên méo miệng trêu bọn Triệu Huy:
    - Bọn chệt, có giỏi chơi keo nữa.
    Ngô Tích vung kiếm định tấn công thiếu niên.
    Thiếu nữ lên tiếng:
    - Các người là ai, mà đến vùng ba xã Vạn này, định ăn cắp ngựa, rồi lại muốn giết người?
    Đàm An-Hòa quát lớn:
    - Các người không được vô lễ. Đây là hai vị đại nhân tháp tùng Thiên-sứ đại Tống. Các người có mau xuống xe xin lỗi người ngay không? Bằng không ta bắt về dinh tuyên-vũ-sứ chặt đầu.
    Thiếu nữ cười nhạt:
    - Đúng ra, ta không muốn gây sự làm gì. Nhưng đây là bọn sứ Tầu, thì ta cần cho chúng mấy cái tát.
    Thiếu nữ từ xe vọt người lên cao. Từ trên cao, nàng phóng chưởng đánh Triệu Huy, Ngô Tích. Hai người vội đứng dậy phát chưởng đỡ. Bình, bình, hai người choáng váng, thối lui ba bước. Còn thiếu nữ mượn đà, bay về xe. Nàng cười:
    - Ta dạy dỗ mi như vậy cũng đủ rồi. Ta đi đây.
    Chợt nhìn thấy ba chị em Thanh-Mai bị trói. Thiếu nữ vung roi lên. Cây roi như con rắn, mổ vào dây trói. Dây đứt hết.
    Nàng hỏi:
    - Các em là ai mà bị bọn này bắt trói như vậy?
    Bảo-Hòa chỉ Mỹ-Linh:
    - Cô này tên Lý Mỹ-Linh.
    Thiếu nữ hỏi:
    - Cô họ Lý à? Thế cô có liên hệ gì với Lý Công-Uẩn không?
    Thời bấy giờ, muốn nói đến vua Lý Thái-Tổ, phải gọi là Thuận-thiên hoàng đế, nếu gọi tên tục ra thì phải tội chém. Nghe thiếu nữ gọi tên ông nội sách mé như vậy, Mỹ-Linh bực mình:
    - Tôi là cháu nội đức hoàng đế.
    Thiếu-nữ nhổ nước miếng đánh toẹt một cái, rồi hô lên:
    - Đi thôi! Ta không muốn nhìn mặt con cháu thằng khỉ đột chăn trâu, ở chùa.
    Nói dứt lời, nàng giật cương cho ngựa chạy. Thiếu niên quay lại méo mặt làm xấu trêu Quách Quỳ, rồi cho ngựa chạy theo.
    Bọn Triệu Huy ngơ ngác nhìn nhau. Y hỏi Thanh-Mai:
    - Trần cô nương kiến thức uyên bác. Cô nương có biết bọn vừa rồi là ai không?
    Thanh-Mai mỉm cười:
    - Tôi không rõ. Nếu căn cứ vào võ công, thì cũng có thể đoán được lý lịch họ. Thiếu niên có thuật kị mã siêu việt, ắt thuộc phái Sài-sơn. Phái Sài-sơn vốn là đồ tử đồ tôn của Phù-đổng thiên vương, thuật kỵ mã trên thế gian này không ai sánh kịp. Trong khi thiếu niên đấu với Quách công tử, y dùng võ công Cửu-chân, khắc chế võ công Trung-nguyên. Lại lúc đấu với Triệu tam gia, y dùng Lĩnh-nam chỉ pháp. Lĩnh-nam chỉ pháp vốn là võ công do Khất-đại-phu Trần Đại-Sinh với Bắc-bình vương Đào Kỳ chế ra. Lại khi thiếu nữ vung roi cắt đứt dây trói cho bọn tôi, chiêu thức đó do bồ tát Tăng-giả Nan-đà thời Lĩnh-nam truyền cho công chúa Trần Năng. Vì vậy khó có thể đoán ra họ thuộc phái nào.
    Triệu Huy nhìn Mỹ-Linh, y cười đểu giả:
    - Công chúa. Công chúa tự hào trăm họ Đại-việt đều quay đầu qui phục triều đình. Thế mà hôm nay, còn có người nghe đến họ Lý phát buồn nôn, phải nhổ nước miếng.
    Mỹ-Linh lờ đi như không nghe lời Triệu Huy nói.
    Mặt trời đã nhô lên khỏi ngọn tre, chiếu ánh nắng chói chang trên rừng núi. Hai chiếc xe lăn bánh trên con đường cái quan, rộng mà dài hun hút. Vì Đàm An-Hòa mặc quân phục của cấp hiệu-úy, nên dọc đường dân chúng tưởng xe quan nha đi bắt người. Tới quá Ngọ, xe vượt qua núi, rồi đổ đèo. Đàm An-Hòa chỉ khu thung lũng xanh tươi nói:
    —Kia là Vạn-hoa sơn-trang. Chúng ta vào đó ăn cơm đã.
    Đinh Toàn hỏi:
    - Đàm hiệu úy có quen thuộc với trang chủ không?
    - Thưa vương-gia không. Cứ như người ta kể lại, Vạn-hoa sơn trang mới được thiết lập vào đời vua Đinh. Chủ nhân là người rất giỏi nghề canh nông. Trong sơn trang trồng không thiếu thứ hoa nào cả. Sơn-trang có một quán ăn cho khách thập phương qua đường ăn ở trọ. Cho nên ai có tiền thì vào được, không cần quen biết.
    Ngô Tích cho gò xe lại nói với Triệu Huy:
    - Tam đệ, chúng ta dừng chân ở quán Sơn-trang kia kiếm cái gì ăn đã.
    Đàm An-Hòa tán đồng:
    - Quán này thuộc Vạn-hoa trang. Chúng ta dừng lại đó ăn cơm thì tuyệt.
    Quách Quỳ hỏi lại:
    - Đàm hiệu úy có quen biết trang chủ không?
    - Không. Nhưng trang chủ mở nhà tửu lâu tiếp khách. Chúng ta có tiền thì vào được.
    Triệu Huy ra lệnh cho Đàm An-Hòa:
    - Chúng tôi nói tiếng Việt giọng lơ lớ. Vậy kể từ lúc vào quán, nhất thiết mọi việc do hiệu-úy lo liệu. Tôi chỉ xin nhắc lại một lời, chúng tôi theo sứ đoàn Đại-tống. Nước Đại-tống giầu có súc tích, đức kim thượng không tiếc tiền chi phí cho bọn tôi. Vì vậy ăn phải chọn những món đắt nhất, ngon nhất.
    Hai chiếc xe từ từ ngừng bánh trước quán ăn. Quán không lớn, nhưng thực sạch sẽ. Trước quán có hai chậu cảnh. Trong chậu trồng hai cây hoa mào gà. Hoa nở đỏ chói. Sân quán có dàn thiên-lý. Hoa vàng rực rỡ.
    Một người đàn bà, dáng người thanh nhã, tóc bạc như cước nhưng da mặt hồng hào, bước đi khoẻ mạnh. Bà thấy trong năm vị khách sang, một đứa trẻ xuống xe, theo sau là ba thiếu nữ tuyệt sắc bị trói tay thì hơi ngạc nhiên. Song trên con đường cái quan này, quan nha bắt người giải qua là thường. Bà đon đả chào:
    - Kính chào qúi khách. Không biết quí khách muốn dùng cơm ở quán hay muốn vào Sơn-trang thăm hoa?
    Đàm An-Hòa hách dịch:
    - Đây là các vị đại nhân thuộc sứ đoàn Thiên-triều. Chúng tôi muốn vào ăn cơm trong Sơn-trang.
    Nói rồi y giới thiệu tên họ, chức tước từng người.
    Bà già mời bọn Triệu Huy, Đinh Tòan vào cái bàn lớn, trên bàn chưng hai bình hoa tươi, hương thơm ngạt ngào. Bà chỉ cho chị em Thanh-Mai một cái bàn bên cạnh:
    - Ba cô ngồi đây.
    Bà già nói:
    - Xin quí khách ngồi chờ một lát, sẽ có người hướng dẫn qúi khách thăm Sơn-trang. Qúi khách dùng món ăn gì, chúng tôi xin làm dâng lên.
    Đàm An-Hòa nghĩ thầm : Đã vậy lão gia gọi những món thực trân quí cho bay không cung ứng nổi. Y nói:
    - Chúng tôi đi đường xa, trời lại nắng. Xin cho uống trà ướp sen trước. Món thứ nhất là thịt đùi nai tơ xào với mướp hương. Món thứ nhì cho mỗi người một đùi gà hấp ngũ vị hương. Nhớ phải là đùi gà tơ đấy nhé. Món thứ ba là canh mướp đắng, nhân nhồi bên trong phải đủ tám thứ trân quí. Bà có biết tám thứ trân quí là gì không?
    Bà già thấy Đàm sanh ăn, mỉm cười:
    - Thưa quí khách, tám món trân quí gồm bốn loại dưới biển là tôm hùm, sò huyết, cua gạch, mực thẻ, thêm bốn thứ gia vị là nấm hương, hành tía, rau ngót, mộc nhĩ.
    - Giỏi. Món thứ tư là chim cu quay, trong bụng nhồi năm thứ rau thơm. Không biết trong trang có đủ không?
    - Thưa quí khách, có đủ. Một là xương xông, hai là ngổ, ba là húng tía, bốn là tỏi tía, năm là hành trắng.
    - Còn tráng miệng xin cho thứ trái nào quí nhất trong trang.
    Sau khi mọi người ngồi vào bàn, bà già vẫy tay gọi, một thiếu niên tuổi khoảng mười tám, hai mươi:
    - Nhân-Nghĩa, mau ra giữ ngựa cho quí khách.
    Nhân-Nghĩa là một thiếu niên vạm vỡ, dáng điệu hiên ngang, da tươi hồng. Y cầm cương, cột ngựa vào mấy cái cọc. Không biết y làm cách nào, mà một lát mang ra được đến ba bó cỏ xanh tươi sạch sẽ cho ngựa ăn. Như quen việc, y múc nước trong cái vại, tắm ngựa.
    Ngô Tích thấy thiếu niên chu đáo, y móc trong túi ra một lượng bạc, vẫy tay gọi:
    - Chú em, ta tặng chú em chút ít, gọi là thưởng công mẫn cán của chú.
    Thời bấy giờ nước Đại-việt dùng tiền do vua Lý Thái-tổ mới đúc mang tên Thuận-thiên thông- bảo. Tiền đúc bằng đồng thau, có ba lọai. Đồng nhỏ nhất gọi là một tiền, rồi tới đồng năm tiền và đồng mười tiền. Một quan có sáu trăm đồng. Cứ ba quan, ăn một lượng bạc, mười lượng bạc ăn một lượng vàng. Tiền công của một đứa trẻ chăn ngựa khỏang một tiền mỗi ngày. Tự nhiên Nghiã được tới 1.800 đồng. Y cúi rập người xuống cảm ơn.
    Đinh Toàn thắc mắc:
    - Xá gì một chút công cho ngựa ăn, mà Ngô an-phủ-sứ phải phí tiền vậy?
    Triệu Huy cười:
    - Chúng ta là sứ đoàn Thiên-triều, giầu có ức vạn. Cho vậy còn là ít đó.
    Quách Quỳ ngơ ngác:
    - Sư thúc, cháu không hiểu.
    Ngô Tích nói sẽ vào tai Qùi:
    - Khi vua Tống Thái-tổ Triệu Khuông-Dẫn chiếm được vùng sông Trường-giang, lập tức mang quân thanh toán hầu hết các nước xung quanh. Tuy vậy vẫn còn sáu nước Kim, Liêu, Tây-hạ, Thổ-phồn ở phía Bắc và Đại-lý, Đại-việt ở phía Nam. Sau nhiều trận đánh với các nước phương Bắc, quân Tống bị thất bại nặng nề. Vó ngựa chinh phạt tạm dừng lại.
    Y thở dài:
    - Vua Tống Thái-tổ chết đi, mà lòng còn ấm ức. Ngài để di chiếu lập em trai là Triệu Khuông-Nghĩa kế nghịệp. Trong di chiếu, ngài dặn các vua kế nghiệp sau này phải chiếm hết các mước xung quanh. Vua Thái-tông thấy mở rộng lãnh địa lên phía Bắc chạm phải binh lực qúa hùng hậu của Tây-hạ, Kim, Liêu. Ngọn cờ đành chỉ xuống Nam. Khu-mật-viện nhà Tống nghiên cứu rất kỹ tình hình đất Việt tâu lên: Nước Việt trước đây có tên Văn-lang, sau đổi ra Lĩnh-nam, đất rộng, dân đông, có chữ viết, tiếng nói, văn hóa rực rỡ như Trung-nguyên. Vào thời Đông-Hán, vua Bà cai trị, một lần định đem quân đánh chiếm Trung-quốc. Từ khi vua Bà chết rồi, Lĩnh-nam bị Trung-quốc cai trị 900 năm. Cho mãi đến năm Tân-mão (931) mới có một hào kiệt tên Dương Diên-Nghệ nổi lên đánh đuổi người Hán. Song Nghệ chỉ là một thứ quân phiệt, tự xưng tiết-độ-sứ .Sự nghiệp ông kéo dai năm năm thì bị Kiều Công-Tiễn giết chết (937). Con rể ông là Ngô Quyền giết Công-Tiễn, đánh trận Bạch-đằng bắt giết thái-tử Hoằng Tháo của Nam-hán, lập triều đình (939). Nhà Ngô lập quốc, sau một ngàn năm bị cai trị, chưa kịp tổ chức thành một nước có kỷ cương thì Ngô Quyền mất (944). Đại-việt lâm vào tình trạng sứ quân. Mười hai sứ quân nổi lên đánh giết lẫn nhau. Đinh Bộ-Lĩnh thắng tất cả các sứ quân mà lên ngôi vua.
    Quách Quỳ thắc mắc:
    - Lúc Đinh Bộ-Lĩnh mới được nước, nội trị chưa vững, sao mình không đem quân sang đánh chiếm, có phải dễ dàng không?
    - Có đấy chứ. Nhưng Lĩnh khôn lắm, niện hiệu Khai-bảo thứ nhì (969) y sai sứ sang cống, xin qui phục. Triều đình bàn đi, tính lại. Có ý kiến đưa ra nên đánh Giao-chỉ trước, giữ lấy vùng giầu có, rồi quay lên Bắc. Có ý kiến nên đánh Tây-hạ trước. Trong triều không có quyết định thống nhất. Cuối cùng vua Thái-tổ ban chỉ bỏ đánh Giao-chỉ. Vì Giao-chỉ quân ít nhưng võ lâm thì mạnh hơn các nước kia. Do đó triều đình ưng chuẩn, phong cho Đinh Bộ-Lĩnh làm Giao-chỉ quận vương. Con y là Đinh Liễn làm Kiểm-hiệu thái-sư, Tĩnh-hải quân tiết độ sứ, An-nam đô hộ phủ. Gã Đinh Toàn đi cùng với mình đây là con Đinh Bộ-Lĩnh. Còn truyện Đinh Bộ-Lĩnh cùng Đinh Liễn bị giết thế nào hôm qua Đinh Toàn đã nói rồi.
    Ngô Tích ngừng một lát, rồi tiếp:
    - Khi Lê Hoàn cướp ngôi nhà Đinh, triều đình sai Hầu Nhân-Bảo đem 20 vạn quân, ba mười vạn dân phu sang đánh, ông nội con được gửi theo giúp, bị thất bại... truyện này con biết rồi. Cho nên từ khi đức kim thượng lên ngôi, người tìm đủ mọi cách đánh chiếm Giao-chỉ. Bình-nam vương được chỉ định coi Khu-mật-viện. Đầu tiên vương gia cử năm đoàn sang dò thám, nghiên cứu tình hình... rồi đích thân vương gia dẫn bọn mình sang với năm chỉ dụ. Một là chia rẽ họ Lý với võ lâm. Hai là mua chuộc các cao thủ Giao-chỉ. Ba là tìm di thư thời Lĩnh-nam. Bốn là lôi kéo võ lâm Lĩnh-nam sang Trung-nguyên thi võ, rồi dùng họ đánh các nước phía Bắc. Khi các nước phía Bắc bị diệt, thì Giao-chỉ như cá nằm trên thớt, giết lúc nào mà chả được? Năm là trong chuyến đi này, sứ đoàn phải tỏ ra nước đại Tống giầu súc tích. Có như vậy, man dân mới hướng về Thiên-triều.
    Tích bẹo má Quỳ:
    - Con thấy không? Chút công ông từ chẳng làm bao, mà ta cho hai nén vàng, tổng cộng mười lượng. Còn thằng nhỏ này, công chỉ đáng một tiền, ta cho gấp 1.800 lần. Tin này đồn ra, bọn Nam-man sẽ thi nhau tìm chúng ta mà qui phục.
    Một lát, hai cỗ xe từ phía chân núi đi tới. Mỗi xe có bốn con lừa kéo. Người đánh xe đi trước là một cô gái áo tím. Người đánh xe đi sau là cô gái mặc áo hồng. Trên mỗi xe có hai hàng ghế, mỗi hàng ghế ngồi được ba người.
    Bà gìa kính cẩn mời khách:
    - Xin mời quí khách viếng Sơn-trang,
    Ngô Tích nhìn hai cô gái ngỡ ngàng:
    - Đành rằng trong lịch sử còn ghi gái Việt xinh đẹp. Nhưng xinh đẹp là những tiểu thư, những con nhà giầu. Chứ có đâu hai cô gái này là thôn nữ đánh xe thuê mà cũng đẹp dường này?
    Hai thiếu nữ tuổi khoảng mười sáu, mừơi bẩy, dáng người hơi cao ,lưng tròn, bàn tay trắng mịn, nước da mặt tươi hồng. Các cô mặc áo lụa, quần lụa đen. Trên người thoang thoảng tiết ra mùi hương.
    Triệu Huy, Đinh Tòan, Triệu Anh, Quách Quỳ đi xe của cô gái áo tím. Ngô Tích, Đàm An-Hòa, ba chị em Thanh-Mai đi xe của cô gái áo hồng. Cô gái áo hồng thấy ba chị em Thanh-Mai bị trói, thì hơi nhăn mặt một cái, rồi thản nhiên như không.
    Cô gái áo-tím tự giới thiệu:
    - Tôi có tên là Nàng-Tía, được chủ nhân trao cho nhiệm vụ hướng dẩn du khách. Cô em tôi có tên Nàng-Hồng. Chúng tôi được lệnh chủ nhân thù tiếp các vị.
    Đàm An-Hòa chỉ bà già tóc trắng hỏi:
    - Có phải lão bà kia là chủ nhân không?
    - Không. Bà có tên là Bạch-Nương, phụ trách tiếp khách.
    Xe hướng chân núi lăn bánh. Đầu tiên qua cái cổng bằng đá xếp lại. Trên nóc cổng có hàng chữ đề:
    « Vạn hoa sơn trang. »


    <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.01.2005 05:35:40 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 06.01.2005 18:00:43 (permalink)
      Hồi thứ mười tám


      Vạn Thảo Thôn Trang




      Xe đi qua cổng, vào trong trang. Tất cả mọi người đều không kềm chế được, kêu lên một tiếng ồ lớn: trên một cánh đồng cỏ xanh mướt, kéo dài tới chân núi. Ở giữa có con đường lát bằng những tảng đá xanh, mặt phẳng lỳ. Hai bên trồng toàn hoa, có khu hoa mầu trắng. Có khu hoa mầu hồng. Có khu hoa mầu vàng. Hương đưa bát ngát.
      Nàng-Tía chỉ ngọn núi nói:
      - Trong ngọn núi kia có động An-Tiêm, am Mỵ-Nương, suối Trương-Chi. Chủ nhân tôi ở đó.
      Triệu Huy đã từng làm thị vệ trong hoàng cung nhà Tống. Vì có tài trồng hoa, y được Tống đế sủng ái đặc biệt. Sau đó y tiến cử hai sư huynh. Vì vậy khi thấy Vạn-hoa-trang, y kinh hoàng vì sao hoa ở đây từ sắc tới hương đều hơn hoa ở hoàng cung nhiều. Tuy vậy bề ngoài y phải làm ra vẻ coi thường. Xe ngưng lại, Nàng-Hồng chỉ vào mười khu trồng hoa mà giảng:
      - Thưa quí khách đây là khu hoa hồng. Hoa hồng sớm được trồng trong nước tôi. Sử kể trong ngày cưới, Quốc-tổ Lạc Long-Quân, đem mười thứ hồng dâng cho nhạc gia. Vì vậy từ ngày ấy, khắp nước tôi đều dùng hoa hồng trong tình yêu. Hoa hồng còn được gọi là hoa Âu-Cơ do gốc tích đó mà ra.
      Ngô Tích ngắt lời:
      - Tôi tưởng hoa hồng là hoa hồng thôi. Chứ làm gì có đến mười loại?
      Nàng-Hồng cười:
      - Ngô tiên sinh có đùa không? Người đã đậu tiến sĩ Tống triều, không lẽ không biết gì về hồng? Được, tôi xin vì tiên sinh mà nói. Hoa hồng còn có tên nguyệt-quý hay nguyệt nguyệt hồng hay hoa trường xuân. Nguyệt để chỉ phụ nữ. Hoa hồng xinh đẹp, có hương thơm, nhưng cánh hồng dễ bị vỡ. Cho nên trong nước tôi nam nữ đều được trọng. Mà nữ được nâng niu như cánh hồng.
      Nàng-Hồng ngừng lại nhìn ba chị em Thanh-Mai, rồi lại nhìn bọn Triệu Huy. Đàm An-Hòa nói:
      - Ba cô này là quân trộm cắp, bản nhân bắt giải về trấn để chém đầu. Cho nên chúng không đáng gọi là hoa.
      Mỹ-Linh nghe Đàm An-Hòa nhục mạ, uất khí cành hông, nhưng tay bị trói không xử dụng võ công được. Nàng chợt nhớ đến thuật đổi ngựa mà Thân Thiệu-Thái mới dạy. Nàng hít hơi vận sức vào chân vọt xéo về phía trước. Trong khi đó xe vẫn chạy từ sau tiến tới. Mỹ-Linh từ từ rơi đúng chỗ ngồi cũ. Khi chân sắp tới xe, nàng đá vào mặt An-Hòa một cái .Y ngã chúi xuống xe.
      Triệu Huy sợ có truyện lôi thôi, y bảo An-Hòa:
      - Hiệu úy sang xe tôi, đừng về xe cũ nữa.
      Nàng-Hồng mỉm cười tiếp:
      - Hoa hồng tuy đẹp, tuy thơm, cánh dễ vỡ, nhưng kẻ phàm phu tục tử không biết nâng niu, ra tay dập liễu vùi hoa, thì tay chạm phải gai hồng liền .Gai hồng cứng, nhọn, có chất độc, ai chạm phải, thì đau thấu tâm can.
      Đàm An-Hòa biết Nàng-Hồng chửi xéo mình, y đổ quạu:
      - Hồng với bạch. Hoa là hoa, đàn bà là đàn bà, báu gì mà ví với hoa.
      Y còn định nói nữa, nhưng gặp phải cái nhìn nghiên khắc của Ngô Tích, y hoảng sợ im bặt.
      Nàng-Hồng vẫy cho xe Nàng-Tía ngừng lại với xe mình:
      - Bây giờ tôi xin giới thiệu Mười giống hồng hoa tiếng Hán-Việt gọi là Thập loại danh hồng hoặc Thập đại trường xuân.
      Mọi người nhìn ra hai bên đường, mỗi bên đều có một khỏanh rộng, dài ước hơn dậm trồng toàn một thứ hồng mầu trắng hơi ngà ngà xanh. Tuyệt ở chỗ những khóm hồng hoa nhỏ bằng đầu ngón chân đều nằm sát đường đi. Tiếp theo lớp thứ nhì hoa lớn hơn chút nữa. Cho đến chỗ xa nhất thì hoa to bằng cái đĩa. Nàng-Hồng tiếp:
      - Hồng có mười loại, mỗi loại một mùi hương riêng. Người thì thích mùi hương này, người lại ưa thích mùi hương khác. Duy chỉ có loài hồng trắng bất cứ ai cũng ưa, cũng nâng niu. Vì vậy còn có tên Trường xuân hoa niên hay nói nôm na là hoa con nít. Hoa hồng trắng tượng trưng cho con gái từ tuổi mới sinh cho đến năm lên mười, lòng dạ còn trong, chưa vẩn bụi trần. Hoa mang tên Trường-xuân hoa niên vì trẻ còn nào cũng có mùi thơm, ai cũng thích hôn, không ai ghét hương thơm con nít cả.
      Nàng-Hồng dẫn mọi người đi bộ, tới khu thứ nhì. Khu này trồng toàn một loại hồng, mầu vàng nhạt. Kỳ ở chỗ những cánh ở sát trong nhụy hơi phơn phớt mấy điểm mầu hồng nhạt. Nàng-Hồng tiếp:
      - Đây là loại hồng thứ nhì. Loại này tượng trưng cho cô gái đã đến tuổi biết sầu muộn vu vơ, biết mơ màng nhìn trăng khuya, biết hái những đóa hoa e ấp. Nhưng cô không hiểu tại sao. Vì vậy những cánh bên trong mới phớt vài điểm hồng là thế. Lọai hồng này có tên Hoàng-hoa khuê nữ Hoàng hoa khuê nữ đứng xa thì mùi hương thoang thoảng, đứng gần thì như không có mùi gì cả. Các thiếu nữ từ mười đến mười ba tuổi cũng thế. Các đấng quân tử thấy xinh đẹp thì xin chờ, chứ đến gần mà nói truyện yêu, thương, nàng nào hiểu gì?
      Ngô Tích ghé mũi vào mấy bông Hoàng-hoa khuê-nữ, thì quả lại không thấy mùi hương thơm như y đứng nhìn, hương tự bốc lên. Y đứng thẳng người, mùi hoa lại thoảng thoảng đưa hương. Y gật đầu:
      - Quả như lời cô nương nói.
      Đợi cho khách ngắm hết mấy ngàn khóm Hoàng-hoa khuê-nữ. Nàng-Hồng tiếp:
      - Bây giờ qúi khách theo tôi tới phía trước. Kia là hai khu vườn trồng lọai hồng thứ ba. Loại này sắc vàng tươi. Những cánh bên trong hồng nhạt, những cánh bên ngoài mầu vàng sậm. Theo thời gian, Hoàng-hoa khuê nữ lớn lên. Nàng e thẹn ấp ủ trong tim một bóng quân tử.. Đôi khi nàng yêu một trang nam nhi trong trí tưởng tượng, lòng nàng ấp ủ khôn nguôi. Nghĩa là thân thể, cũng như bề ngoài nàng vẫn còn là khuê nữ. Nhưng trong tim đã có bóng chàng. Cho nên người Việt chúng tôi đặt tên là Trường-xuân e ấp hay Trường-xuân sầu muộn.
      Đinh Toàn không thích hoa, ông ngắt lời Nàng-Hồng:
      - Từ nãy đến giờ cô nói nào hoa con nít, hoa con gái, sao không có hoa thiếu nữ lấy chồng?
      Nàng-Hồng nhoẻn một nụ cười:
      - Thưa quí khách có đấy. Thế rồi tuổi dậy thì đến. Người con gái xinh đẹp lạ thường, cơ thể có mùi hương đặc biệt. Càng tắm nhiều bao nhiêu mùi hương trong da thịt càng tiết ra nhiều bấy nhiêu. Mơ mộng chỉ để mà mơ mộng... rồi có chàng quân tử nhờ người mai mối. Cha mẹ nàng hứa gả. Sau lễ hỏi, nàng được coi như gái có chồng, nhưng cơ thể nàng vẫn còn trinh tiết. Kìa qúi khách nhìn những gốc hồng, hoa nở thực đẹp, mà mầu thì lạ lùng, nửa bông mầu trắng, nửa bông mầu đỏ. Danh sĩ đất Việt gọi loại hồng này là Sửa bước vu qui. Đó là loại thứ tư.
      Miệng nói Nàng-Hồng chỉ vào vườn hoa khác. Hồng cánh nhỏ, tươi thắm, mầu hồng nhạt, mờ mờ như hoa trong sương. Trên cánh hoa gờn gợn giống giọt nước chảy.
      Nàng-Hồng nói:
      - Bây giờ thiếu nữ đến ngày vu qui. Tiêu biểu là loại thứ năm. Đang sống ở nhà với bố mẹ, anh chị em. Lát nữa đây phải lên đường về nhà chồng. Giã từ tất cả những gì quen biết, nhất là giã từ bố mẹ. Nàng nhớ công sinh thành, dưỡng dục, bất giác giọt lệ tuôn rơi. Thế nhưng trong phút cảm động ấy, lát nữa đây nàng lại lặn ngụp trong tình yêu, trong hạnh phúc. Nghĩ đến đó mặt nàng ửng hồng. Quí vị nhìn những gốc hồng, hoa nở mầu hồng nhạt, lăn tăn giọt lệ kia thì đủ thấy tâm trạng của thiếu nữ vu qui. Danh sĩ Việt đặt tên lọai hồng này là Thiếu nữ vu qui. Trong dân gian Việt có câu thơ, diễu các cô gái trong ngày vu qui, hạnh phúc tràn đầy mà khóc là khóc giả bộ, như anh chàng thi hỏng mỉm cười:

      Cười như chàng trẻ hỏng thi,
      Khóc như cô gái lúc đi lấy chồng.


      Đã có người dịch sang Hán-văn như sau:

      Khấp như thiếu nữ vu qui nhật,
      Tiếu tự thư sinh lạc đệ kỳ.


      Nàng-Hồng dẫn đoàn người tiến tới khu vườn thứ sáu, trồng toàn một thứ hồng nhung. Hoa nở đỏ ối.
      Nàng nói:
      - Bây giờ nhà trai rước dâu về nhà chồng. Bước đi vui vẻ, bước đi e thẹn. Lễ tơ hồng xong, nàng và chồng chia nhau mỗi người uống một ly rượu hợp cẩn. Say vì rượu, say vì men tình. Người nàng ngây ngất. Bởi vậy người ta gọi thứ hồng nhung này là Chung rượu hợp cẩn.
      Cả bọn ngây người ra nhìn khu vườn rộng dài bát ngát hồng nhung, hương thơm ngào ngạt. Họ như ngây như dại, không muốn bước chân đi.
      Qua khu vườn hồng thứ sáu, tới một căn nhà mái lợp ngói đỏ, cột mầu xám. Bốn phía không tường. Ở giữa có ba cái bàn bằng đá mầu hồng nhạt. Trên bàn đã bày đầy đủ những món Đàm An-Hòa gọi. Hai thiếu nữ khác aó mầu thiên thanh, quần lụa đen đón khách vào nhà ăn. Hai nàng pha trà sen bưng tới mời khách.
      Triệu Huy cầm chung trà đưa lên miệng, hương thơm ngạt ngào, mà nước trà lại lạnh ngắt. Uống một hớp, thấy tỉnh người ra, y hỏi:
      - Thưa cô nương, cách pha trà thế nào, mà nước lại lạnh như thế này?
      Thiếu nữ kính cẩn đáp:
      - Sơn-trang chúng tôi cũng pha trà bằng nước đun sôi, mới hai ba tăm thì đổ vào bình. Bình của chúng tôi đậy thực kín, rồi dìm xuống đáy suối, một lúc sau, nước sẽ lạnh, mà hương thơm không mất.
      Ngô Tích cầm đũa ăn, mà còn thắc mắc:
      - Hồng cô nương. Sau khi hợp cẩn, mới có sáu loài hoa. Còn những bốn loại nữa kia mà.
      Nàng-Hồng đáp:
      - Quí khách nhìn sang bên phải. Kìa toàn một thứ hồng cánh nhỏ, mầu đỏ như nhung. Thế nhưng những cánh ở trong trên đầu có vùng trắng. Đó là loại thứ bẩy diễn tả tâm trạng thiếu nữ sau đêm động phòng. Trong trắng thì có trong trắng, nhưng bây giờ nàng đã là một người đàn bà, không thể trở về đời sống khuê nữ nữa. Danh sĩ đất Việt đặt tên loại hồng này là Động phòng hoa chúc.
      Nàng-Hồng lại chỉ sang bên phải:
      - Kia là loại hồng thứ tám. Bông hồng có nhiều cánh kết chặt lại với nhau. Tưởng như gió bão, tưởng như sóng dậy cũng không làm vỡ được. Lọai hồng này tượng trưng cho người đàn bà có chồng, lòng dạ kiên quyết, chỉ biết có chồng. Cho chồng tất cả những gì mình có. Vì vậy được mệnh danh là Nhất kiến chung tình.
      Nàng chỉ sang phía trước:
      - Xin quí khách nhìn về phía trước. Trong vườn trồng toàn một loài hoa bông nở thực lớn, cánh mầu đỏ sẫm, bông nào cũng nở thực lớn đầy nhụy. Đó là loại thứ chín. Hoa được đặt cho tên là Truyền tử lưu tôn. Hoa nay nụ nở ra thực lớn, chứ không nở từ từ như lọai khác, vì vậy hoa được ví như người phụ nữ sinh con. Nhưng chữ sinh nở nghe thô tục, không hợp với nhiệm vụ quí báu của phụ nữ, cho nên được đặt thêm mỹ tự Khai hoa, nở nhụy. Sau thành ngữ này được dùng để chỉ phụ nữ lâm bồn, riết rồi người ta quên cả tên hoa.
      Nàng Hồng chỉ vào luống hoa hai mầu: Hồng nhạt và trắng:
      _ Thế rồi cuộc sống êm đềm trôi qua, năm mươi năm sau, bẩy mươi năm sau, người con gái ngày nào, bay giờ đầu đã bạc, nhưng tình thương con cháu vẫn rạo rực, do vậy bông hoa cánh xung quanh thì hồng, mà giữa lại trắng, đó là hoa Lão giả an vi, loại thứ 10.
      Nàng-Hồng nói đến đó, rồi bước khỏi phòng ăn, lẩn bước vào các bụi hồng. Khi bọn Triệu Huy ăn xong, thì Nàng-Hồng, Nàng-Tía cùng trở lại. Ngô Tích hỏi:
      - Qúi trang có tên Vạn-hoa sơn trang. Không biết còn những thứ hoa nào?
      Nàng-Tía chỉ vào khu vườn rộng bao la, sát đến chân núi:
      - Chỉ sợ quí khách không có thời giờ. Bằng như quí khách ưa thích, chị em chúng tôi xin đưa qúi khách xem tất cả mọi thứ hoa thơm của Đại-Việt. Hay ít ra quí khách cũng nên thưởng qua Thập đại đanh hoa tức mười thứ loại hoa danh tiếng. Mỗi lọai lại chia thành mười thứ khác biệt. Mười nhân với mười thành một trăm.
      Ngô Tích thắc mắc:
      - Có một điều tôi không hiểu. Từ khi sang Giao-chỉ, tôi thấy cái gì cũng đặt trên con số mười, con số một trăm. Trong khi kinh Dịch lại chú ý đến con số chín.
      Nàng-Hồng lắc đầu không hiểu. Thanh-Mai cười:
      - Dễ thôi, Quốc-tổ với Quốc-mẫu kết hôn, sinh ra trăm con, phong mỗi người một nứơc, thành trăm họ. Con số một trăm là con số trời đất sinh ra. Thập đại danh hoa là mười. Trong con số mười, lại nở ra mười thứ khác thành một trăm.
      Ngô Tích gật đầu tán thành:
      - Bên Trung-quốc chúng tôi cũng có Thập đại danh hoa không biết có khác nhau với Giao-chỉ không? Xin cô nương cho biết tên mười thứ hoa quí bên Giao-chỉ.
      Nàng-Tía tính đốt ngón tay kể:
      - Một là hoa Lan nở vào mùa Xuân. Hai là hoa Hồng nở vào cuối Xuân sang hạ. Ba là Kim-quế nở vào đầu Hạ. Bốn là hoa Sen nở vào mùa hạ. Năm là Đỗ-quyên, hoa chỉ nở về giữa mùa hạ. Sáu là Sơn-trà nở vào đầu thu. Bẩy là hoa cúc, nở vào toàn mùa thu. Tám là Mẫu-đơn nở vào mùa đông. Chín là Thủy-tiên nở vào dịp Tết, mười là hoa Mai trắng, nở vào mùa đông.

      Ghi chú,
      Xin xem hình Thập đại danh hoa ở phụ lục AHTS, Q2.

      Ngô Tích như say mê với hoa. Y hỏi tiếp:
      - Ngoài ra trong trang còn những loại hoa gì nữa?
      Nàng-Tía mỉm cười:
      - Nhiều lắm, như hoa Nhài, tuy nhỏ mà thơm lạ thường. Hoa Ngọc-lan hương thơm nồng, bay đi rất xa. Hoa Dạ-hương, khi đêm về mới có mùi hương. Hoa Huệ vừa thơm, vừa tươi lâu. Hoa Thiên-lý tuy không thơm mấy nhưng nấu canh ăn được.
      Nàng chỉ trên sườn núi:
      - Trên sừơn núi kia trồng mười thứ hoa Sơn-trà. Tổng cộng một trăm giống hoa, mỗi giống phân ra mười loài. Mỗi loài mười thứ. Tổng cộng thành một vạn thứ hoa. Cho nên chủ nhân tôi mới đặt tên Vạn-hoa sơn-trang là do ý nghĩa đó.
      Nàng-Tía mời mọi người lên xe, tiếp tục tiến đến chân núi. Núi Vạn-hoa không cao, không có đá. Trên sườn núi trồng hoa thơm, cây trái khắp sườn. Phía sau ngọn Sơn-trang có ngọn Đại-thạch dựng đứng lên như chọc trời. Giữa sườn Đại-thạch có ngọn thác rót xuống đỉnh ngọn Sơn-trang. Thành ra ngọn Sơn-trang tỏa ra năm con suối, chia núi thành sáu khu. Năm ngọn suối chảy vào cái hồ lớn dưới chân núi. Từ dưới bờ hồ, leo núi lên sườn khoảng năm mươi bậc, mỗi khu có một căn nhà làm bằng gỗ, cột kèo chạm trổ rất tinh vi. Phía trên mỗi căn nhà đều đề chữ Vọng-hoa-đài.
      Ngô Tích khen:
      - Người ta bảo Bồng-lai tiên cảnh đẹp không bút nào tả nổi. Không biết Bồng-lai có đẹp bằng nơi này không?
      Xe dừng lại trước cây cầu đá bắc ngang qua suối. Nàng-Tía nói:
      - Trên sườn núi Sơn-trang có sáu tòa nhà, gọi là Vọng-hoa-đài. Nếu quí khách muốn lên đó thưởng hoa thì xin đi bộ. Dường như bên qúi quốc có câu Đăng cao tác phú, khả vi đại phu nghĩa là lên cao làm được bài phú xứng đáng làm đại-phu.
      Triệu Anh tuy bị trúng độc, song công lực vẫn còn. Y lên tiếng:
      - Chúng tôi muốn thăm hết quí trang, ngặt vì tôi bị bệnh, phải tới Vạn-thảo sơn-trang chữa bệnh. Đợi khi trở về, chúng tôi sẽ ở lại quí trang ít ra một tháng để nghe cô nương giảng về hoa thơm, trái ngọt Giao-chỉ. Tuy nhiên nể lời cô nương, chúng tôi cũng lên Vọng-hoa-đài ngắm cảnh một lúc.
      Đinh Toàn chợt lên tiếng:
      - Quí trang rộng lớn, ít ra hàng ngàn mẫu, công phu trồng hoa tốn kém biết bao. Không biết mỗi ngày, quí trang có bao nhiêu khách tới? Như vậy làm sao đủ tiền chi phí? Chúng tôi muốn được ra mắt quí trang chủ có được không?
      Nàng-Tiá nghe đến Vạn-thảo sơn-trang, thì đưa mắt nhìn Nàng-Hồng, rồi trả lời:
      - Chủ nhân chúng tôi từ lâu không muốn tiếp xúc với khách. Tuy nhiên quí khách là Thiên-sứ, tôi thử vào thưa với người xem sao. Còn quí khách hỏi về chi phí trong trang này ư? Tốn kém không biết bao nhiêu mà kể. Tất cả 1257 nhân công. Còn tiền khách trả cho trang, thì trang chủ thưởng cho chúng tôi hết. Người không lấy một đồng.
      Lên Vọng-hoa-đài, Nàng-Hồng mời mọi người ngồi trước cái bàn bằng đá mầu trắng như tuyết, ghế bằng gỗ mầu gụ. Trên bàn có mười chậu hoa Lan. Một thiếu nữ áo thiên thanh, quần lụa đen bưng nước ra mời khách:
      - Trời nắng, trang chủ chúng tôi mời quí khách uống bát nước dừa non lấy thảo.
      Triệu Huy nói với thiếu nữ áo xanh:
      - Xin cô nương cho chúng tôi uống mấy chén rượu với ít quả.
      Ngô-Tích nói nhỏ với Triệu Huy:
      - Tam đệ. Tôi thấy trang này có nhiều điều kỳ bí. Chúng ta mau rời khỏi nơi đây. Chẳng nên uống rựơu.
      Đâu đó tiếng đàn thanh thót vọng ra, rồi có tiếng ca ngọt ngào:
      Khuyến quân mạc cự bôi,
      Xuân phong tiếu nhân lai.
      Đào lý như cựu thức,
      Khuynh hoa hương ngã khai.
      Đàm An-Hòa không hiểu, y hỏi Ngô Tích:
      - Ngô chiêu-thảo-sứ, bài hát nói gì vậy?
      - Đây là bài thơ của Lý Bạch đời Đường. Bốn câu này ngụ ý :Ta khuyên người chẳng nên từ chối rượu mời. Kìa gió xuân cười với ta đang hây hẩy thổi. Hoa đào, hoa mận như quen với ta, chúng hướng về ta mà nở.
      Giọng ca lẫn với tiếng đàn:

      Tạc nhật chu nam tử,
      Kim nhật bạch phát thôi.
      Cước sinh Thạch-hổ điện,
      Lộc tẩu Cô-tô đài,
      Quân nhược bất ẩm tửu,
      Tích nhân ai tại tai?


      Ngô Tích giảng tiếp:
      - Mới hôm nào mình còn là đứa trẻ tóc đỏ hoe. Hôm nay đầu đã bạc rồi. Điện Thách-hổ xưa kia nay cỏ mọc hoang. Đài Cô-tô thì hươu nai chạy chơi. Người xưa nay thì đâu mà anh không uống rượu?
      Có tiếng dép lẹp kẹp đi ra. Nàng-Tía chắp tay nói:
      - Trang chủ chúng tôi đã tới.
      Từ bọn Triệu Huy cho đến chị em Thanh-Mai đều kêu lên tiếng ái kinh ngạc. Từ lúc vào trang, thấy tổ chức tiếp đón chu đáo. Trang rộng lớn lạ thường. Mọi người tưởng trang chủ phải là một ông lão ít ra là trên sáu mươi. Không ngờ trước mặt họ là một phụ nữ mảnh mai, dáng điệu tha thướt. Mặt che bằng tấm lụa rất mỏng. Người nàng mặc chiếc áo đỏ chói, với chiếc quần lụa mầu đen. Trên cổ quàng khăn tím.
      Trang chủ lên tiếng:
      - Vạn-hoa sơn-trang ở trong hốc núi xa xôi, không ngờ lại được tiếp Thiên-sứ tới viếng. Nghe Hồng thuật lại, thì ba vị đều xuất thân tiến sĩ, lại là cao thủ phái Thiếu-lâm. Thực hân hạnh.
      Bọn Triệu Huy chỉ thấy lưng trang chủ thon, chân tay dài. Bàn tay búp măng, tiếng nói trong, thì biết nàng còn trẻ. Nhưng mặt nàng che bằng khăn lụa, bọn y không biết thế nào mà xưng hô.
      Ngô Tích lên tiếng trước:
      - Bọn tại hạ quấy quả trang chủ hôm nay, rồi phải lên đường. Xin hẹn ngày về sẽ được yết kiến lần nữa. Xin trang-chủ cho biết cao danh, quí tính.
      - Một phụ nữ quê mùa làm gì có danh cao với quí tính! Xin các vị cứ gọi bằng mụ Sơn-trang là đủ. Tiện thiếp họ Đào.
      Mỹ-Linh nghe tiếng nói của trang chủ, nàng thấy quen thuộc, thân ái vô cùng. Nhất là dáng đi, cùng cử chỉ. Nhất định nàng đã gặp trang chủ nhiều lần rồi. Trang chủ đưa mắt nhìn Mỹ-Linh một cái, rồi lại tiếp tục nói truyện:
      - Tiện thiếp có đôi lời mạo phạm, không biết ba cô gái này bị tội gì mà Thiên-sứ lại bắt tội như vậy.
      Triệu Huy chỉ Đàm An-Hòa:
      - Chúng tôi theo ngài chánh sứ là Bình-nam vương sang Giao-chỉ. Đàm tuyên-vũ-sứ cử Đàm hiệu úy theo hộ tống. Không ngờ dọc đường bị trộm. Đàm hiệu úy tìm ra ba cô gái này là thủ phạm nên bắt giam. Vì dọc đường các cô nói nhiều câu phạm thượng nên phải bịt mồm lại như vậy. Đào phu nhân mới gặp, tưởng mấy cô này tầm thường đấy. Thực ra võ công các cô cao thâm ít ai bì.
      Tay Mỹ-Linh bị trói, miệng bị cột dây lụa, nàng không nói được, đã vậy bọn Triệu Huy còn bịa truyện bêu xấu. Nàng liếc nhìn sang bên cạnh Huy, thấy Đàm An-Hòa đang cười chế diễu. Nàng dùng cùi chỏ hất một cái. Bát nước dừa để trước mặt nàng bay bổng về phía y. Bốp một tiếng, cái bát trúng mặt y vỡ làm năm sáu mảnh. Mặt y máu tuôn xối xả.
      An-Hòa nổi máu điên, y rút kiếm hướng Mỹ-Linh:
      - Dù gì ông cũng giết mày ngày hôm nay.
      Y vung kiếm hướng cổ Mỹ-Linh. Mỹ-Linh vọt người lên cao. Đợi kiếm lướt dưới chân, nàng co chân đá một cước. Kiếm của An-Hòa vuột khỏi tay bay ra xa. Thuận chân Mỹ-Linh đá thêm một cước nữa trúng bụng y. Y ngã lộn đi hai vòng.
      Ngô Tích quát lên:
      - Này Lý cô nương. Nếu cô nương không giữ lời hứa, ta chém đầu cô ngay tại chỗ này.
      Đào phu nhân lắc đầu:
      - Ba cô này đã xinh đẹp, võ công lại cao cường, thực hiếm có. Này Đàm hiệu úy, theo luật bản triều, khi người ta bị tội có thể dùng tiền chuộc ra. Ba cô đây phạm tội trộm thì chỉ phải chuộc mỗi cô năm lượng vàng là đủ. Không biết hiệu-úy có thể cho tôi chuộc các cô ra không?
      Đàm An-Hòa cương quyết:
      - Thưa Đào phu nhân, nếu các cô phạm tội trộm thường thì chuộc được. Đây các cô trộm của Thiên-sứ. Tiểu chức phải giải đến dinh tổng-trấn để đưa các cô về triều, hầu đức hoàng đế xử tội. Tiểu chức đành vô lễ, không thể tuân lệnh phu nhân được.
      Từ khi nhập Sơn-trang, chị em Thanh-Mai đã nghĩ đến kế thóat thân. Trong khi bị giam ở hầm đá, Bảo-Hòa cho Thanh-Mai biết dưới gót chân nàng có dấu một thanh Nga-mi kiếm. Chỉ cần chúng sơ ý, Thanh-Mai quay lưng lại trước mặt Bảo-Hòa, là rút được kiếm ra. Bảo-Hòa tự cọ tay vao kiếm, dây trói đứt, nàng có thể cắt dây cho Mỹ-Linh với Thanh-Mai. Tuy vậy Thanh-Mai còn lưỡng lự, vì thóat khỏi dây trói thì được, nhưng cả ba người cũng không địch lại một trong Tung-sơn tam-kiệt, thì thoát ra cũng vô ích. Ba người quan sát sơn trang, ngoài thiếu niên tên Nghĩa, còn lại toàn mỹ nhân, thì kiếm đâu ra cao thủ có thể đấu lại bọn này. Vì vậy cả ba lặng thinh chờ dịp khác.
      Đào phu-nhân lại hỏi:
      - Đàm hiệu úy, dường như lần đầu tiên hiệu úy tới tệ trang thì phải. Chứ các vị hiệu úy trong trấn Cửu-chân này, ít ra cũng đến đây đôi ba lần.
      Đàm An-Hòa khoe khoang:
      - Quả như Đào phu nhân dạy. Tại hạ mới tới đây mấy tháng. Tại hạ là em ruột của tuyên-vũ-sứ Đàm Toái-Trạng và cũng là em Đàm quí phi.
      Nghe đến Đàm quí phi, mặt Đào phu nhân thoáng một vẻ khác lạ, rồi trở lại bình thường.
      Triệu Huy không muốn nấn ná lại Vạn-hoa sơn-trang. Y đứng đậy chắp tay cáo từ:
      - Chúng tôi lĩnh sứ mệnh thiên tử trong mình, không dám ham vui. Xin từ tạ phu nhân cùng các vị cô nương ở đây. Hẹn khi nhị sư huynh tại hạ hết bệnh, sẽ trở lại xem cảnh đào nguyên một lần nữa.
      Đào phu nhân chỉ chị em Thanh-Mai:
      - Đây là địa phân Vạn-hoa trang. Hoa tượng trưng cho phụ nữ. Vì vậy xin các vị nể mặt chủ nhân mà gỡ khăn bịt miệng cùng cởi trói cho ba cô bé này, được chăng?
      Từ đầu, Ngô Tích không muốn trói, cũng chẳng đồng ý bịt miệng bọn Thanh-Mai. Nhưng sư-huynh, sư đệ không thuận. Bây giờ, nhân có lời Đào phu nhân, Tích rút kiếm, thấp thoáng ánh thép, bao nhiêu dây trói đứt hết. Tuyệt ở chỗ dây đứt, mà kiếm không chạm đến y phục một chút nào.
      Triệu Huy chú ý quan sát sắc mặt của Đào phu nhân cùng mấy cô gái áo xanh xem có phản gì không. Mà tuyệt không thấy sắc mặt bà thay đổi, cũng như khen ngợi chiêu kiếm của sư huynh. Từ lúc vào sơn-trang đến giờ, anh em y đều thắc mắc một điều: trang chủ có biết võ công không? Thế mà nay đến lúc ra đi, y cũng không tìm ra manh mối. Chiêu kiếm tuyệt vời của sư huynh y, nếu bà biết võ hẳn đã lên tiếng khen ngợi. Còn bà không biết võ, ít ra cũng phải rú lên kinh sợ. Thế nhưng Đào phu nhân cùng với mấy nàng thanh thản nhiên như không.
      Triệu Huy lấy trong bọc ra một nén vàng, kính cẩn bỏ vào đĩa, hai tay đưa cho Đào phu nhân:
      - Của ít lòng nhiều, xin gửi phu nhân, để tặng các vị cô nương. Vàng tuy quí, nhưng không xứng đáng với tài dạy dỗ của mấy vị cô nương.
      Đào phu nhân cầm vàng đưa cho cô gái áo xanh:
      - Con cầm lấy, tạ ơn Thiên-sứ, chị em chia nhau mà dùng.
      Cô gái áo xanh tiếp vàng, rồi bưng một chậu hoa thực đẹp, sắc đỏ tươi đưa cho Ngô Tích, giọng oanh vàng thỏ thẻ bằng tiếng Trung-quốc:
      - Thứ hoa này tên là Quân tử hoa. Chúng có mười lọai. Nay xin tặng danh sĩ một nhánh làm duyên.
      Từ Triệu Anh cho tới Quách Quỳ đều ngẩn người ra, vì người tặng vàng là Triệu Anh, mà nàng lại đem hoa cho Ngô Tích.
      Ngô Tích móc trong túi ra tấm thẻ bài, kính cẩn trao cho Đào phu nhân:
      - Phu nhân. Anh em tại hạ lĩnh chỉ dụ của Thiên-tử, xin gửi đến phu nhân cũng như tất cả anh hùng trong trang. Ngày rằm tháng tám sang năm, Thiên-tử mở Thiên hạ anh hùng đại hội ở Biện-kinh. Dù nam, dù nữ, dù Hán, dù Việt đều có quyền tham dự. Đại hội sẽ tuyển chọn một trạng-nguyên, hai bảng nhãn, ba thám hoa, ba mươi sáu tiến sĩ cùng bẩy mươi hai phó bảng. Kính mong phu nhân cùng anh hùng quí trang tới dự.
      Đào phu nhân không chối, cũng không nhận. Hai tay bà tiếp tấm thẻ bài có khắc hình hai con rồng vàng chấu vào nhau. Bà nói:
      - Đa tạ Thiên-sứ đã có lòng chiếu cố.
      Trong khi Triệu Anh nói truyện với Đào phu nhân, thì thiếu nữ áo xanh trao chậu Quân-tử-hoa cho Ngô Tích. Ngô đỡ lấy chậu hoa. Thiếu nữ liếc mắt đưa tình. Bàn tay nàng chạm vào tay Ngô. Ngô cảm thấy có cái gì mềm mền dưới tay, dường như một tờ giấy. Ngô bàng hòang như đi vào mộng. Y bái từ Đào phu nhân, rồi lên xe đi.
      Đâu đó văng vẳng tiếp đàn, lẫn với tiếng hát. Bảo-Hòa rút trong bọc ra ống tiêu bằng trúc mầu xanh biếc. Nàng đưa lên miệng thổi, hòa nhịp với tiếng đàn. Tiếng tiêu véo von vang đi rất xa. Ngô Tích nhận ra đó là một bài thơ của Tào-Đường:

      Thụ nhập Thiên-thai thạch lộ tân,
      Vân hòa thảo tĩnh quýnh vô trần.
      Yên hà bất tỉnh sinh tiền sự,
      Thủy mộc không nghi mộng hậu thân.
      Vãng vãng kê minh nham nguyệt hạ,
      Thời thời khuyển phệ động trung xuân.
      Bất tri thử địa tri hà xứ,
      Tu tựu Đào-nguyên vấn chủ nhân.


      Đinh Toàn hỏi Ngô Tích:
      - Ngô chiêu-thảo-sứ, họ hát hay họ nói gì vậy?
      Ngô Tích cười:
      - Họ hát, dường như trong bài hát ngụ ý mời bọn mình trở lại. Đây là một bài thơ của Tào-Đường. Tác giả dùng thơ thuật truyện Lưu, Nguyễn nhập Thiên-thai. Nguyên đời Hán có Lưu Thần, Nguyễn Triệu, nhân ngày tết Đoan-ngọ đi hái thuốc ở suối Đào-nguyên, núi Thiên-thai, gặp hai nàng tiên. Hai người ăn ở với tiên được một năm rồi về. Khi về tới nhà thì cháu bẩy đời đã chết cả rồi. Hai người trở lại núi Thiên-thai, nhưng chỉ thấy mây mù không có gì nữa. Bài này là bài thứ nhất tả cảnh hai người vào núi. Còn bốn bài nữa. Tôi không đủ khả năng dịch sang tiếng Việt.
      Mỹ-Linh ngâm:

      Thiên-thai đường đá chen cây,
      Mây êm cỏ lặng, chẳng dây chút trần.
      Khói mây quên bẵng phàm căn,
      Tưởng sau giấc mộng ra thân suối rừng.
      Tiếng gà khe đá gáy trăng,
      Trong hang chó sủa như mừng bóng xuân.
      Về đâu chốn ấy, xa gần,
      Tới đây ta hỏi chủ nhân vườn đào.


      Thanh-Mai khen:
      - Em dịch hay thực.
      Nhân lúc mọi người không để ý, Ngô Tích bỏ mảnh giấy vào túi. Y đoán thiếu nữ viết riêng cho mình, thì chẳng nên cho người khác biết.
      Trong khi Mỹ-Linh ngâm, tiếng tiêu Bảo-Hòa vẫn hòa điệu theo. Nhưng Mỹ-Linh ngừng ngâm, mà tiếng tiêu vẫn còn lên cao chót vót, rồi mới từ từ xuống thấp, và ngừng hẳn.
      Xe tới cổng, thiếu niên tên Lý Nhân Nghiã đã đứng chờ sẵn. Y trao cương ngựa cho khách rồi chắp tay:
      - Vạn-hoa sơn-trang kính biệt quý khách, chúc quý khách thượng lộ bình an.
      Triệu Huy hô:
      - Đi thôi!
      Hai xe, một ngựa lục tục lên đường. Đi được hơn dậm, Ngô Tích hỏi Triệu Anh:
      - Đại ca. Đại ca nghĩ gì về Vạn-hoa sơn-trang?
      - Ta đoán chủ nhân phải là người có lai lịch rất lớn, mới dám đến thung lũng khai hoang, lập trại. Nhìn chung khu đất, ít ra đến hai nghìn mẫu. Như cô gái hướng dẫn nói, trong trang có tới 1257 người làm vườn. Lúc đầu khai khẩn, tốn kém đâu có ít? Tiếc rằng chúng ta mới qua Giao-chỉ, bằng không với loại người như thế tìm ra lý lịch đâu khó?
      Đinh Toàn tiếp:
      - Cứ nghe Nàng-Hồng nói, trong trang còn động An-Tiêm, am Mỵ-Nương, suối Trương-Chi... đẹp đến không thể tưởng tượng nổi. Điều chúng ta cần tìm hiểu: trong trang có người biết võ không?
      Triệu Huy suy nghĩ một lúc rồi nói:
      - Chắc không. Đào phu nhân muốn chuộc ba con sư tử này ra. Đàm An-Hòa không thuận, bà cũng làm thinh. Nếu trong trang có người biết võ, họ đã gây sự với chúng mình rồi.
      Quách Quỳ chợt kêu lên:
      - Nguy quá. Khi chúng ta lên Vọng-hoa-đài không mang theo hành lý, coi chừng bị người ta lấy hết tiền bạc thì nguy tai. Hôm trước Địch Thanh đã bị anh em họ Thân làm nhục bằng cách đó.
      Triệu Huy, Ngô Tích soát lại hành lý, vẫn còn y nguyên. Ngô Tích thở phào nhẹ nhõm:
      - Hú vía!
      Xe lại lên đèo. Con ngựa ì ạch lê bước. Khi gặp chỗ dốc quá, nó không lên nổi. Ngô Tích, Triệu Huy nhảy xuống xe đẩy phụ, xe từ bò lên. Khi xe bắt đầu đổ đèo, An-Hòa chỉ vào thung lũng bên giòng sông:
      - Kia là Vạn-thảo sơn-trang, nơi Hồng-sơn quái nhân ở.
      Bảo-Hòa nhìn lên trời, vẫn thấy đôi chim ưng bay là là trên đầu. Nàng mỉm cười tự tin:
      - Bọn này sắp chết đến nơi rồi.
      Xe đổ dốc thực nhanh, phút chốc đã xuống hết đèo. An-Hòa chỉ vào con đường mòn phía trái:
      - Quẹo lối này, thì tới Vạn-thảo sơn-trang.
      Từ đường cái quan, muốn vào làng, phải qua một cánh đồng bát ngát,lúa tháng ba, đang thì con gái, xanh tươi lạ lùng. Trên đồng, nhấp nhô những người tát nước, đánh kỳ, trải phân. Con hương lộ bị cắt ngang bởi cái cổng, trên cổng có chữ đề:
      « Vạn-thảo xã ».
      Làng Vạn-thảo cũng như muôn nghìn làng khác vào thời Lý, gồm có hai khu. Khu đồng ruộng mênh mông, trồng lúa. Khu dân chúng cư ngụ. Khu cư ngụ được tổ chức như một thành trì. Từ đồng ruộng vào là cái sách, tức một con lạch nhỏ. Sách rộng ít ra từ năm tới mười bước. Dưới sách cắm chông, hoặc những cành tre có gai. Vượt qua sách, tới một hàng rào thiên nhiên trồng tre. Những bụi tre lâu ngày trở nên dày đặc, đến con chuột con mèo chui qua cũng khó. Từ ngoài, du khách muốn vào trong làng phải qua một cái cổng. Có làng một cổng, có làng năm sáu cổng. Mỗi cổng một toán hoàng-nam canh gác.
      Khi thấy người lạ mặt vào làng, hoàng-nam hỏi xem khách muốn tới thăm ai, rồi thân dẫn tới nhà. Trước cổng xã, thường trồng cây đa họặc đề. Cũng có khi lại là cây gạo họăc cây chay. Dưới gốc cây, là hàng ghế cho du khách ngồi chờ.
      Cổng làng Vạn-thảo gồm nhiều viên đá chồng lên nhau. Hai bên cổng tọa lạc căn nhà gỗ nhỏ dùng làm điếm canh. Trong điếm, năm hoàng-nam, quần chẽn, áo nâu, dáng điệu khỏe mạnh. Ngay trước điếm, treo cái mõ bằng gỗ, tạc hình con cá chép. Một hoàng nam thấy xe người lạ, bước ra lễ phép hỏi:
      - Qúi khách tới làng chúng tôi có việc gì?
      Đàm An-Hòa hách dịch, móc trong túi ra đạo công-văn:
      - Ta là hiệu-úy, lĩnh mệnh của tuyên-vũ-sứ trấn Thanh-hóa theo hộ tống Thiên-sứ. Người mau gọi lý-dịch ra đây ta bảo.
      Hoàng-nam tiếp giấy đọc lướt qua, rồi y cầm dùi đánh ba tiếng mõ lớn ,ba tiếng nhỏ:
      - Xin hiệu úy chờ một lát. Lý-dịch sẽ ra tiếp ngài.
      Triệu Huy đưa con mắt nhìn vào trong làng: con đường trải bằng những tảng đá xanh rộng, dài ước hơn bước. Hai bên đường là hàng dậu trúc nhỏ, cắt tỉa bằng phẳng. Cứ một quãng dài, lại có nột con đường khác cắt ngang, thường được gọi là ngõ. Mỗi ngõ gồm nhiều ngách dẫn vào cái cổng. Trong cổng là nơi cư trú của một gia đình, một giòng họ.
      Cổng kiến trúc giống nhau, tường xây bằng gạch, mái lợp ngói, cánh cổng bằng gỗ. Trên hai cột cổng, đặt hai con chó đá. Trên mặt trước của cổng có đôi câu đối. Hai bên cạnh tường tiếp giáp với hàng dậu .Sau cổng, dân chúng cất nhà ở. Nhà nhà đều có ao cá, vườn hoa, vườn rau. Những ngôi nhà cách nhau bằng hàng dậu tre, dậu dâm bụt khá cao.
      Triệu Huy nghĩ thầm:
      - Khó đấy! Ta đánh nhau với Kim, Liêu, chỉ cần chiếm được kinh đô, cùng những thành lớn, thì coi như xong. Còn đất Giao-chỉ này lại khác. Nếu một triều đình được lòng dân, thì dù nhà đại Tống mình có chiếm được Thăng-long cũng vô ích. Cứ mỗi xã như kiểu này, lập thành một nước, một thành trì, thì đánh đến bao giờ mới chiếm cho được. Hèn chi, thời Đông-Hán, Mã Viện anh hùng là thế, mang đến mấy chục vạn quân, mà phải đánh trong năm năm mới thắng được. Thắng rồi còn phải trải qua bẩy năm nữa, mới bình định xong.
      Một ông lão, tóc hoa râm, mặc quần áo nâu từ trong đi ra. Hoàng-nam chỉ ông lão giới thiệu với bọn Đàm An-Hòa:
      - Ông cụ này là lý dịch của xã Vạn-thảo chúng tôi.
      Y quay lại, đưa tờ công văn cho lý dịch:
      - Cụ lý ơi. Có ông quan hiệu úy dẫn mấy ông thiên-sứ tới xã mình.
      Thông thường khi phủ Thanh-hóa cử quan về thăm hoặc kinh lý xã, thì sức giấy cho huyện. Huyện đạt giấy về xã chuẩn bị trước. Lần này Đàm An-Hòa đến bất thình lình. Vì vậy ông lý dịch tuy cầm lệnh của An-phủ-sứ trong tay, mà lòng nghi hoặc. Ông trao trả giấy cho Đàm, rồi thi lễ:
      - Chẳng hay hiệu úy quang lâm xã tôi có điều chi dạy bảo?
      Đàm chỉ vào Triệu Anh:
      - Tôi lĩnh mệnh hộ tống Thiên-sứ, chẳng may Thiên-sứ bị ốm. Chúng tôi đưa ngài đi tìm Hồng-sơn lão nhân trị bệnh.
      Ông lý à lên một tiếng:
      - Thì ra thế. Nhưng tiếc rằng Hồng-sơn lão nhân không phải là người trong làng Vạn-thảo. Trang trại của người ở phía nam làng chúng tôi. Đây là cửa đông. Nếu hiệu úy muốn đến Vạn-thảo sơn trang phải băng qua làng, xuất cổng nam. Từ cổng nam men theo đường núi, xa xa có ngọn thác Băng-sơn chảy xuống. Đó là nơi cư ngụ của người.
      Đàm An-Hòa hỏi:
      - Ông có thể cho người dẫn chúng tôi tới sơn-trang không?
      Ông lý gật đầu:
      - Được chứ. Được chứ. Tôi xin cho một hoàng-nam dẫn hiệu-úy đi.
      Triệu Huy thắc mắc:
      - Tại sao tráng đinh làng này lại gọi là hoàng-nam?
      Đàm An-Hòa lắc đầu, tỏ vẻ không biết. Ông lý trả lời:
      - Không phải trong làng tôi, mà trên toàn đất Việt, các thiếu niên từ mười sáu tuổi trở lên đến bốn mươi tuổi, đều gọi là hoàng-nam. Nguyên từ khi đức Thuận-thiên hoàng đế thuận mệnh trời cai trị dân Việt. Ngài ban chiếu chỉ rằng tất cả con trai đến tuổi mười sáu đều gọi là hoàng-nam, tức con của đức vua.
      Ông ngưng lại một lúc, quan sát sắc mặt Đàm An-Hòa, rồi tiếp:
      - Khi con trai đến mười sáu tuổi. Trong xã phải chép tên vào sổ gáy vàng, cử hành lễ trình tổ thực long trọng trước đền thờ vua Hùng. Kể từ đấy, con trai có quyền lấy vợ. Trong xã cấp cho mỗi hoàng nam một mẫu ruộng. Mẫu ruộng này không phải nộp thuế. Trong năm, những tháng làm ruộng, cấy lúa, làm mùa thì hoàng nam được ở nhà làm ruộng của mình, và giúp người khác. Những tháng còn lại, thì luyện tập võ nghệ, xung phong, hãm trận. Khi nhà nước có sự, tùy theo nhân đinh từng xã, gọi hoàng nam nhập ngũ. Thời gian hoàng nam vắng nhà, thì ruộng của họ, xã phải chia người ra cầy cấy dùm.
      Luật lệ, cùng tổ chức binh bị triều Lý, con trai đến tuổi mười sáu am hiểu cả. Duy Đàm An-Hòa cậy thế chị gái, cậy thế anh, không khai báo. Y lại cũng chẳng chú ý đọc sách, vì vậy y đặt câu hỏi, làm ông lý nghi ngờ:
      - Thiếu niên này trình giấy của An-phủ-sứ ra, nói rằng dẫn Thiên-sứ đi... đã là hiệu úy thì phải làm hoàng-nam trước, mà y không biết hoàng nam là gì thì thực lạ lùng. Ta phải cẩn thận, bằng không sẽ mắc vào tai nạn lớn.
      Ông chỉ một hoàng nam:
      - Cháu này họ Lê tên Phụng-Hiểu, cháu sẽ dẫn các vị qua cổng phía nam xã.
      Lê Phụng-Hiểu là một thanh niên cao lớn hùng vĩ, tuổi khoảng ba mươi. Lưng y đeo thanh đỏan đao. Nghe ông lý ra lệnh, y chắp tay tỏ ý tuân phục.
      Triệu Huy móc trong bọc ra bốn nén bạc. Y nhảy xuống xe đưa cho bốn hoàng nam:
      - Tôi là Thiên-sứ đức hoàng đế Đại-tống. Đại -tống giầu có, vàng bạc chất như núi. Tôi tặng mấy chú em chút ít tiêu vặt.
      Cũng như cậu bé Nghĩa ở Vạn-hoa sơn-trang. Đám hoàng nam thấy Huy cho bạc nhiều quá, họ tiếp bạc, mà còn tưởng trong giấc mơ. Huy lấy trong bọc ra một lượng vàng, đưa cho ông lý:
      - Xin tặng ông, để mua rượu uống.
      Từ ông Lý cho đến đám hoàng-nam, suốt đời sống nơi thôn dã, chỉ biết ruộng vườn. Họ có học, song chỉ đủ để đọc thông văn tự. Trong khi học, họăc nghe phụ huynh kể nhiều truyện về Trung-quốc, nhưng bằng danh tự bình dân Nước Tầu. Nào Tầu đem quân đánh ta, nào Tầu sai sứ sang, ta cử người đối phó, nào Tầu sang tìm vàng, giết con gái chôn theo làm thần giữ của. Trong lòng họ nghĩ rằng người Tầu là cái gì kinh khiếp. Nay Triệu Huy tặng vàng, bạc cho họ. Một tia lửa lóe lên: Tầu giầu có ức vạn.
      Triệu Huy, không chờ ông lý cùng đám hoàng nam cảm ơn, y dắt tay Lê Phụng-Hiểu lên xe cùng ngồi, rồi đánh ngựa chạy vào trong xã.
      Xe đi theo con đường đá. Triệu Huy thấy những viên đá lát đường có ba lọai. Một loại đài ước hai bước, rộng ước một bước. Một loại dài rộng bằng nhau, ước một bước. Còn một loại vuông vức hơn gang tay. Y thắc mắc:
      - Này Lê huynh đệ. Tại sao đá lát đường lại có ba loại khác nhau?
      Lê Phụng-Hiểu đang thắc mắc trong lòng rằng, tại sao các bạn y đều được thưởng bạc. Còn y dẫn đường Thiên-sứ mà lại không được? Nghe Triệu Huy hỏi, y trở về với thực tại:
      - Đó là lệ làng. Trong nước có luật vua, thì trong làng có lệ. Lệ làng tôi định rằng, con gái đến tuổi đi lấy chồng phải nộp treo. Trước kia treo đồng đều, mỗi đầu người năm quan tiền. Từ mười năm nay, xã trở nên giầu có, mà khi mưa xuống, nước trong núi tràn ra lầy lội khó chịu vô cùng. Cho nên các quan viên xã họp lại, đặt ra lệ: mỗi người đi lấy chồng phải nộp treo thêm một viên đá, kích thước đồng nhất. Sở dĩ có ba lọai đá, cũng do lệ làng cả. Con gái nhà giầu, phải nộp viên lớn. Con gái chức sắc phải nộp viên nhỡ. Con gái bạch đinh phải nộp viên nhỏ. Còn khi con gái lấy chồng làng khác phải nộp mỗi thứ ba viên.
      Chuyến đi này của bọn Triệu Huy là tìm hiểu mọi chi tiết đời sống xã hội Đại-việt, vì vậy y hỏi tiếp:
      - Còn trường hợp con gái lấy chồng làm quan, hay làm vua thì sao?

      - Tùy theo địa vị. Nếu chồng làm quan võ, có huân công thì được miễn. Còn quan, mỗi cấp nộp một khác. Trong xã tôi, có cô lấy một ông đội trưởng. Ông này theo đức vua Lê đánh Tống bị cụt một tay, mù một mắt. Làng đã không bắt nộp treo, còn cấp thêm cho hai mẫu ruộng. Người thứ nhì là ông tiên chỉ trong làng. Hồi còn trẻ, ông chỉ là đứa bé chăn trâu, mồ côi, không tiền cưới vợ, cũng chẳng ai gả con gái cho. Khi được chiếu chỉ gọi hoàng nam ra trận, ông được cử đi. Ông lập nhiều công trạng. Cách đây năm năm, trong trận đánh Như-hồng với người Tầu, ông bị mất một tay. Thiên tử phong cho ông tước hầu, ăn lộc nghìn hộ. Ông trở về, cả tổng đánh trống, đem kiệu rước ông. Ông cưới một cô gái đẹp nhất làng. Cả làng xây dinh cho ông.
      Ngô Tích vỗ vai Phụng-Hiểu:
      - Tỷ như con gái lấy chồng ngoại quốc, chắc phải nộp treo nhiều lắm Lê Phụng-Hiểu đang thắc mắc trong lòng rằng, tại sao các bạn y đều được thưởng bạc. Còn y dẫn đường Thiên-sứ mà lại không được? Nghe Triệu Huy hỏi, y trở về với thực tại:
      - Đó là lệ làng. Trong nước có luật vua, thì trong làng có lệ. Lệ làng tôi định rằng, con gái đến tuổi đi lấy chồng phải nộp treo. Trước kia treo đồng đều, mỗi đầu người năm quan tiền. Từ mười năm nay, xã trở nên giầu có, mà khi mưa xuống, nước trong núi tràn ra lầy lội khó chịu vô cùng. Cho nên các quan viên xã họp lại, đặt ra lệ: mỗi người đi lấy chồng phải nộp treo thêm một viên đá, kích thước đồng nhất. Sở dĩ có ba lọai đá, cũng do lệ làng cả. Con gái nhà giầu, phải nộp viên lớn. Con gái chức sắc phải nộp viên nhỡ. Con gái bạch đinh phải nộp viên nhỏ. Còn khi con gái lấy chồng làng khác phải nộp mỗi thứ ba viên.
      Chuyến đi này của bọn Triệu Huy là tìm hiểu mọi chi tiết đời sống xã hội Đại-việt, vì vậy y hỏi tiếp:
      - Còn trường hợp con gái lấy chồng làm quan, hay làm vua thì sao?
      - Tùy theo địa vị. Nếu chồng làm quan võ, có huân công thì được miễn. Còn quan, mỗi cấp nộp một khác. Trong xã tôi, có cô lấy một ông đội trưởng. Ông này theo đức vua Lê đánh Tống bị cụt một tay, mù một mắt. Làng đã không bắt nộp treo, còn cấp thêm cho hai mẫu ruộng. Người thứ nhì là ông tiên chỉ trong làng. Hồi còn trẻ, ông chỉ là đứa bé chăn trâu, mồ côi, không tiền cưới vợ, cũng chẳng ai gả con gái cho. Khi được chiếu chỉ gọi hoàng nam ra trận, ông được cử đi. Ông lập nhiều công trạng. Cách đây năm năm, trong trận đánh Như-hồng với người Tầu, ông bị mất một tay. Thiên tử phong cho ông tước hầu, ăn lộc nghìn hộ. Ông trở về, cả tổng đánh trống, đem kiệu rước ông. Ông cưới một cô gái đẹp nhất làng. Cả làng xây dinh cho ông.
      Ngô Tích vỗ vai Phụng-Hiểu:
      - Tỷ như con gái lấy chồng ngoại quốc, chắc phải nộp treo nhiều lắm.
      Lê Phụng-Hiểu bật cười:
      - Con gái làng tôi vốn xinh đẹp, lại giỏi tề gia nội trợ, làm gì có người phí... phí... thân xác đi lấy chồng ngoại quốc.
      Đúng ra trong xã Vạn-thảo, thường truyền tụng con gái phí l. cũng không lấy thằng Ngô. Ngô để chỉ người Tầu. Phụng-Hiểu quen miệng định phun ra. Nhưng nghĩ lại như vậy quá vô phép với khách. Y mới đổi thành phí thân xác.
      Từ khi gặp Thanh-Mai, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh, rồi mấy cô gái trong Vạn-hoa sơn trang, Ngô Tích tự nhiên có cảm tình với con gái Việt. Năm mười chín tuổi đậu tiến-sĩ, lại có võ công cao, y sớm được bổ ra làm quan. Tính y trung trực, không khéo lấy lòng tể-thần, vì vậy bị đưa xuống vùng Lưỡng-Quảng. Trong cái may, có cái rủi. Ra biên giới, y có dịp thi thố tài năng.Y lập được nhiều công trạng. Năm nay y mới hai mươi ba, mà đã lên tới Chiêu-thảo-sứ. Chức này cao hơn thiên-tướng, thần-tướng hai bậc. Thế nhưng y vẫn chưa lấy vợ. Y có tính lãng mạn, trong lần đột nhập vào các khê động Đại-việt, y được thấy những cô gái Việt thực kỳ lạ. Nhu mì, đoan trang, thì cũng như con gái Trung-quốc. Song trong họ ẩn tàng tính tình cương trực, bất khuất như nam tử. Y ước ao, sau khi hết nhiệm vụ, trở về Thăng-long sẽ xin hoàng đế nhà Lý cho cưới một cô gái Việt. Bây giờ nghe Lê Phụng-Hiểu nói, y như bị rơi xuống hồ nước lạnh. Y cãi:
      - Lệ làng này khắt khe quá. Trong lịch sử Đại-việt, công-chúa Gia-hưng Trần Quốc, chả từng lấy chồng Trung-quốc đó sao? Có ai trách bà đâu?
      Phụng-Hiểu cười:
      - Trường hợp ấy khác. Tiên sinh chẳng từng nghe nói con gái Việt yêu nước hơn yêu chồng đó sao?. Công-chúa Gia-hưng lấy Trấn-nam vương Vương Phúc, bởi ngài vì Lĩnh-nam xông pha trận tiền. Thời Lĩnh-nam vua Trưng đã từng chọn mỹ nhân đẹp nhất gả cho quốc-công Minh-Giang, Đô-Thiên. Nay dân chúng thờ cúng cả quốc công lẫn phu nhân. Nếu bây giờ có chàng trai Chiêm-quốc, Trung-nguyên, Lão-qua ra sức khuông phò Đại-Việt, tôi e những cô xinh đẹp nhất sẽ tranh nhau cưới làm chồng.
      Câu nói của Phụng-Hiểu đưa Ngô Tích về thực tại. Y sờ vào túi, nơi cất bức thư Nàng-Thanh đưa cho y tại Vạn-hoa sơn-trang.
      Qua câu truyện đối đáp giữa Ngô Tích với Lê Phụng-Hiểu, Thanh-Mai, Quách Quỳ đưa mắt nhìn nhau. Nguyên ngày nọ, tại đền thờ Tương-liệt đại vương Quách Quỳ bị Tự-Mai thẩm vấn về nguyên do bọn y sang Đại-việt. Y có nhắc đến trận đánh Như-hồng rằng: quân Tống sang cướp phá đất Việt, bị quan quân Việt truy kích. Võ lâm Trung-nguyên bênh quân Tống, võ lâm Đại-Việt bênh quân Việt. Cao thủ bên phía Trung-quốc chết nhiều. Từ nguyên do ấy vua tôi nhà Tống mới nghĩ đến việc gửi sứ đoàn sang tìm di thư. Không ngờ hôm nay họ lại được nghe truyện một phế binh Đại- việt của làng Vạn-thảo đã từng dự trận đó.


      <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.01.2005 05:40:16 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 06.01.2005 18:02:11 (permalink)
        Hồi thứ mười chín


        Tiên Cô Giáng Trần



        Xe đi vào giữa xã. Có tiếng ào ào từ xa đưa đến. Đinh Toàn lắng tai nghe:
        - Hình như gần đây có chợ. Chợ đang họp, nên có tiếng vọng lại. Này cháu, phiên chợ làng này họp vào những ngày nào?
        - Làng chúng tôi thuộc tổng Hồng-sơn. Tổng có ba xã. Xã nào cũng có chợ. Hội đồng quan viên ba xã họp nhau, đưa ra hương ước rằng: Xã Vạn-thảo phiên ngày một, ngày bẩy. Xã Vạn-thú họp ngày năm, ngày chín. Xã Vạn-hoa họp ngày ba ngày tám. Ngoài phiên ra, hàng ngày dân trong xã cũng họp chợ mua bán lẻ tẻ, gọi là chợ hôm, bởi họp từ sau giờ ngọ.
        Đinh Toàn ngậm ngùi trong lòng. Hồi y bị Lê-Hoàn cướp ngôi, tuổi còn nhỏ, y không có ý thức gì. Y thích ăn bún riêu. Mỗi lần như vậy y lại gọi người tỳ nữ tên Lê Thúy dẫn đi chợ phiên ngoài thành Hoa-lư. Từ sau trận Cẩm-thủy, y không biết tin tức Lê Thúy, cũng chẳng có dịp đi chợ phiên. Y đề nghị:
        - Cháu Hiểu này. Cháu có thể dẫn bọn ta xem chợ không?
        Hiểu nhanh nhẹn:
        - Thưa bác được, kính mời bác cùng các vị vào chợ mua sắm.
        Chợ Vạn-thảo nằm bên bờ sông. Sông không lớn, nhưng thuyền, bè từ các nơi đổ về lũ lượt đậu trên bến. Triệu Huy có nhiều ý thức nhất về quân-sự. Y ngây người ra nhìn những người dân quê Việt chèo thuyền, neo thuyền, đi đứng trên những con thuyền nhỏ tròng trành như xiếc leo dây. Y tấm tắc khen ngợi trong lòng:
        - Hơn nghìn năm nay, trong võ lâm truyền tụng rằng người Việt giỏi thủy tính nhất thiên hạ quả không sai. Thời Đông-hán thua Lĩnh-nam bẩy trận. Trong đó hết sáu trận là thủy chiến. Cứ như những người nông dân này, khi nhập ngũ, không cần huấn luyện, họ cũng là chiến sĩ thủy quân ưu tú nhất. Hoằng Tháo bị bắt trên sông Bạch-đằng. Đến bản triều bọn Lưu Trừng cũng bị mất mạng, chôn theo năm vạn quân trong cùng một giòng sông. Mình phải tấu về triều, tự hậu nếu đem quân sang Giao-chỉ, thì tránh dùng thủy chiến.
        Huy để ý, trên sông có ba loại thuyền. Loại nhỏ nhất đan bằng tre, lòng thuyền trát nhựa cản nước. Loại này dài không quá mười bước, rộng không quá năm bứơc. Trên nóc thuyền có mui che mưa nắng. Có thuyền mui hình cong như ổ tò vò. Có thuyền mui là một tấm phên tre lợp lá, chống bằng bốn cọc tre. Loại thuyền thứ nhì bằng gỗ, dài từ hai mươi bước tới ba mươi bước. Loại này chỉ có một tầng. Trên mặt sàn thuyền, chở đầy hàng hóa. Thuyền di chuyển bằng sức chèo hoặc bằng sức chống của sào. Lọai thứ ba hơi ít, đó là thuyền đinh đi biển. Thuyền cao vòi vọi, dài hàng trăm bước, cao hai, ba tầng. Tầng trên cùng có nhiều cột buồm, có buồng lái cho tài công. Tầng thứ nhì, và tầng cuối có nhiều chèo.
        Chợ Vạn-thảo chia làm hai loại gian hàng. Loại thứ nhất, ở trung ương gồm bốn cái đình lớn không tường, chỉ có cột gỗ, với nóc lợp ngói. Còn lại là lều, nóc bằng phên lát lá nón.
        Phụng-Hiểu chỉ đình:
        - Hàng ngày không có phiên, thì người trong làng họp chợ hôm. Chợ hôm ít người nên được họp trong đình. Khi có chợ phiên như hôm nay, thì ngày hôm trước người thị chợ phải đem cọc ra đóng, rồi chụp mái lều lên. Ai dùng lều phải trả tiền. Mỗi phiên một lều trả tiền-rưỡi.
        Chợ gồm nhiều khu, khu bán tơ vải, khu bán ngũ cốc, khu bán rau cỏ, khu ban tôm cá, khu bán thịt. Qua khu bán quà, Mỹ-Linh cứ liên miên hỏi về các món ăn. Phụng-Hiểu trả lời không kịp. Vừa đến mấy hàng bún riêu, hơi xông lên thơm nức. Đinh-Toàn chỉ một hàng nói:
        - Nào, mời các vị ngồi xuống ăn bún riêu đã.
        Cô hàng bán bún riêu tuổi khỏang mười bẩy, mười tám, dáng người rỏng cao, khuôn mặt thanh nhã, đôi môi hồng mọng. Cô mặc áo lụa mầu mỡ gà, yếm trắng, đầu vấn khăn mỏ quạ. Cô thấy Phụng-Hiểu, hỏi:
        - Anh trương-tuần. Anh dẫn khách đắt hàng cho em hả?
        - Đúng vậy, này cô Trúc, cô phải trả ơn anh đấy nhé?
        - Dĩ nhiên. Mình là người giáp Nhì với nhau, bao giờ chả bênh nhau.
        Cô hỏi Đinh Toàn:
        - Bún riêu có hai loại bát. Loại bát ăn cơm và loại bát ăn canh. Loại bát ăn cơm thì một tiền năm bát. Còn loại bát ăn canh thì một tiền hai bát. Bác muốn xơi loại nào?
        Triệu Huy xen vào:
        - Chúng tôi có chín người, với anh Hiểu là mười. Tôi xin trả tiền hết. Cô cứ múc mời khách. Bao nhiêu tiền tôi cũng trả.
        Bún riêu là món ăn bình dân của thôn quê Đại-việt. Đối với Thanh-Mai, Phụng-Hiểu, họ ăn thường ngày. Còn Đinh Toàn, từ ngày lưu lạc đến giờ đã gần bốn mươi năm, bây giờ mới được ăn lại. Còn bọn Triệu Huy, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh lần đầu tiên được ăn món ăn thôn quê, họ ngồi chờ cô hàng múc riêu, miệng nuốt nước miếng ừng ực.
        Cô hàng bún riêu lấy bún bỏ vào bát, rau muống của cô chẻ nhỏ như sợi tóc, ngâm nước, thành quăn queo. Trong rổ rau muống, còn có kinh giới, tía tô thái nhỏ. Hóa cho nên rổ rau muống đưa thêm mùi hương lên mũi thực khách thêm thơm tho. Sau khi bỏ bún vào bát, cô bốc rau muống, rau thơm bỏ lên trên. Cô không quên gắp tý mắm tôm với lát ớt vào cạnh bát. Cuối cùng, cô chan riêu, lễ phép mời khách:
        - Mời các ông, các bác, các cô, các cậu xơi đi.
        Đinh Toàn và hai ba cái, hết một bát. Cô hàng múc bát thứ nhì. Ông lại và mấy cái hết nhẵn. Trong khi đó Mỹ-Linh cũng ăn hết một bát. Nàng là công chúa, hàng ngày được ăn không biết bao nhiêu miếng ngon vật lạ, nhưng bún riêu là món bình dân, chưa bao giờ nàng được ăn. Sau khi ăn hai bát, bụng no rồi, nàng nghĩ:
        - May mắn mình theo chú hai ra ngoài mới được ăn những món này. Chỉ tội hai đứa em Kim-Thành, Trường-Ninh của mình, ở mãi trong cung, chẳng được ăn miếng ngon thôn quê. Kỳ này về kinh, mình phải rủ bọn nó trốn ra ngòai thành Thăng-long ăn quà mới được.
        Ăn xong, tính tiền, mười người ăn hết ba mươi mốt bát. Ngô Tích móc tiền trao cho cô hàng:
        - Phương danh cô là Thanh-Trúc phải không? Ba mươi mốt bát giá mười tiền rưỡi. Nhưng tay cô đẹp thế kia, mà múc riêu cho bọn phàm phu tục tử như tôi ăn thì biết trả bao nhiêu cho vừa? Thôi tôi trả cô một quan vậy.
        Một quan tiền Thuận-thiên là sáu trăm đồng, Tích trả cô gấp hai mươi lần gía bán thông thường.
        Thanh-Trúc ngơ ngác không hiểu. Phụng-Hiểu giải nghĩa:
        - Tiên sinh đây họ Ngô tên Tích, người nứơc Tống sang sứ nước ta. Tiên sinh thấy em xinh đẹp lễ phép, tặng thêm tiền cho em đấy.
        Thanh-Trúc ít học. Nàng hỏi lại:
        - Em đã dốt nát, không biết chữ, anh cứ nói chữ thì em hiểu sao nổi?
        Phụng-Hiểu giảng nghĩa:
        - Ông này là quan của Tàu. Vua Tàu sai đi sứ sang nước ta.
        Thanh-Trúc tươi mặt:
        - Cảm ơn ông sứ Tàu.
        Nàng liếc mắt nhìn tay, rồi lại cúi xuống nhìn chân Triệu Huy. Triệu Huy chưa hết kinh ngạc, nàng lại nhìn Ngô Tích, Triệu Anh. Đinh Toàn lạ lùng hỏi:
        - Cô hàng bún! Mấy vị này có gì lạ đâu mà cô nhìn kỹ thế?
        Thanh-Trúc nhoẻn một nụ cười:
        - Trong làng này có nhiều người ghẻ Tầu. Vì vậy tôi nhìn chân tay các ông Tầu xem có ghẻ không!
        Bảo-Hòa vỗ vai Trúc:
        - Cô đừng sợ. Ba ông sứ Tầu này không bị ghẻ chân tay, mà ghẻ tim, ruột.
        Bọn Triệu Huy biết Bảo-Hoà chửi mình, nhưng giữa chợ, y đành nhịn cho qua.
        Tới gốc cây đề, tiếng nhạc từ đâu đó vọng lại, êm tai lạ lùng. Mỹ-Linh rất giỏi âm nhạc, nàng lắng tai nghe, rồi nói:
        - Tiếng đàn bầu. Tại sao giữa chợ quê này mà lại có nghệ sĩ tài ba đến thế nhỉ? Chúng mình lại xem đi.
        Dưới gốc đa to cỡ mười người ôm. Một cặp nghệ sĩ đang trình diễn. Người chồng mù, tuổi khoảng ba mươi. Gương mặt khắc khổ, da dăn deo, nhưng đôi bàn tay rất đẹp. Người vợ tuổi khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu, gương mặt tươi như hoa. Đôi mắt sáng như sao.
        Người chồng ngồi trước cây đàn bầu, đang bật lên những âm thanh réo rắt. Người vợ tay kéo nhị, miệng hát. Bọn Thanh-Mai tới, thì khúc hát vừa hết. Thính chúng vỗ tay rào rào. Người đàn bà bưng cái rổ chìa ra. Mọi người ném tiền vào trong. Nàng luôn miệng nói câu cảm ơn.
        Triệu Huy thấy cây đàn có một dây, thì ngạc nhiên:
        - Đàn gì mà chỉ có một dây!
        Người vợ đáp:
        - Cây đàn này là nhạc khí có từ thời vua Hùng, do Trương Chi chế ra, tên gọi đàn bầu. Tiếng Hán-Việt gọi là Độc-huyền cầm.
        Người chồng hướng vào thính chúng:
        - Nào, bây giờ quý thính giả ưa thích bản nào, chúng tôi xin trình tấu.
        Một người hỏi:
        - Bản nào ông bà cũng thuộc sao?
        - Vâng! Chúng tôi thuộc hết.
        Ngô Tích rẽ đám đông, hỏi người đàn bà:
        - Ông bà có hát những bản nhạc Trung-nguyên do chúng tôi yêu cầu không?
        Người chồng lễ phép:
        - Thưa quan viên. Không biết quan viên thích thưởng thức bản gì?
        - Tôi muốn nghe bản Xuân dạ yến Trường-giang.
        Người chồng ngước đôi mắt mờ nhìn trời không trả lời. Người vợ cúi xuống suy nghĩ. Triệu Huy cười đểu dả:
        - Thôi, không biết hát bản đó, cũng chẳng hề gì. Bọn này làm sao biết được những bản cao như thế ? Chúng ta đi nào!
        Người chồng cười nhạt:
        - Chúng tôi suy nghĩ trước khi trình bày. Quan khách yêu cầu bản đó, thực là điềm gở. Nên chúng tôi còn trù trừ có nên hát không?
        Triệu Huy cười khành khạch:
        - Ông không biết hát bản đó tôi chẳng chấp đâu. Không biết thì nói không biết. Hà cớ gì nại ra rằng không tốt, với điềm gở?
        Người chồng nói bâng quơ:
        - Tôi nghe giọng nói quý khách, dường như là người Trung-quốc. Trung-quốc ở Bắc, Đại-Việt ở Nam. Thế mà quý khách muốn chúng tôi hát bài của Ngụy-Võ đế, đem quân Nam chinh. Quý khách có biết rằng bài này do Ngụy-Võ đế, trước khi vượt Trường-giang đánh Ngô, bầy tiệc rượu, cầm giáo múa dưới trăng rồi sáng tác không? Quý khách có biết rằng sau đó tám mươi vạn quân Tào bị đốt ở Xích-bích không?
        Triệu Huy đồ chừng rằng vợ chồng nhà hát không biết nói lảng. Y cương quyết:
        - Gở thì gở. Xin thử hát xem.
        Người chồng bật lên mấy tiếng đàn dài thê lương. Người vợ kéo nhị, cất cao tiếng hát:

        Đối tửu đương ca,
        Nhân sinh kỷ hà?
        Thí như triêu lộ,
        Khứ nhật vô đa.
        Khái đương dĩ khang,
        Ưu tư nan vong,
        Hà dĩ giải ưu.
        Duy hữu Đỗ Khang.
        Thanh thanh tử khâm,
        Du du ngã tâm,
        Đán vị quân cố,
        Trầm ngâm chí kim.
        Ao ao lộc minh,
        Thực dã chi bình,
        Ngã hữu gia tân,
        Cổ cầm suy sanh.
        Hạo hạo như nguyệt,
        Hà thời khả chuyết?
        Ưu tùng trung lai,
        Bất khả đoạn tuyệt.
        Vượt mạch, độ thiên,
        Uổng dụng tương tồn,
        Khế khoát đàm yên,
        Tâm niệm cựu du.
        Nguyệt minh tinh hy,
        Ô thước Nam phi,
        Nhiễu thụ tam đáp,
        Vô y khả chi.
        Sơn bất yếm cao,
        Thủy bất yếm thâm,
        Chu-công thổ bộ,
        Thiên hạ quy tâm.


        Bản nhạc dứt. Hai vợ chồng vẫn tiếp tục đàn. Người chồng nói:
        - Mời quý thính giả lắng tai nghe. Kẻ hèn này xin dịch, nếu có chỗ nào khuyết điểm, nhờ cao nhân chỉ dạy cho:

        Nâng chén rượu, ta ca một khúc,
        Ngẫm đời người mấy chốc ai ơi?
        Lăn tăn như hạt sương mai,
        Ngày qua, tháng lại, kéo dài được bao?
        Làm sao vơi được u sầu.
        Giải khuây ta uống một bầu Đỗ Khang.
        Nhớ người tà áo xanh xanh.
        Lòng ta khắc khoải, sao đành quên nhau?

        Chỉ vì nhớ bạn, lòng đau,
        Ngày dài trôi mãi, mà sầu nào nguôi.
        Tiếng nai ảo não trên đồi,
        Ăn đêm trong cánh đồng tươi hoa bèo.
        Nhà ta, bạn hữu cười reo,
        Cùng nhau tấu nhạc, thổi tiêu gảy đàn.
        Đêm nay ngập ánh trăng vàng,
        Làm sao ta vẫn bàng hoàng chưa khuây?
        Mối lo, canh cánh dạ này,
        Biết làm sao để cho ngày trôi qua?
        Đường đi vừa khó, vừa xa,
        Trăm cay, nghìn đắng, thế mà còn đây.
        Vui buồn trong bữa tiệc này,
        Nên lòng nhớ lại những ngày cùng nhau.
        Trăng khuya làm ánh sao mờ,
        Quạ sang Nam kiếm, đâu ra mặt trời.
        Lượn quanh cây lớn ba vòng,
        Tìm không chỗ đậu, lại cùng bay cao.
        Sơn nguy, thủy tận sợ nào?
        Chu-công hiếu khách anh hào về theo.


        Bọn Triệu Huy kinh hãi tự nghĩ:
        - Người này dường như mới mù. Chứ y mù từ nhỏ, sao có thể thuộc, hiểu được những bài ca có trình độ cao như thế? Không lẽ đất Việt toàn người giỏi vậy sao?
        Y cầm một thoi bạc trao cho người vợ:
        - Xin thù lao hai vị.
        Người vợ cầm lấy bạc. Nàng không tỏ vẻ mừng khi Huy cho số bạc quá lớn, chỉ nói nhẹ nhàng như gió thoảng:
        - Đa tạ quan viên.
        Người chồng hắng rặng một tiếng, rồi nói:
        - Quý khách thích nghe thơ Ngụy-Võ, chúng tôi xin hát bài Hành lộ nan. Bài này, Ngụy-Võ đế làm trên đường chinh Bắc, diệt Viên Thiệu, thống nhất Hán tộc.

        Bắc thượng Thái-hằng sơn,
        Nan tai hà nguy nguy,
        Dương trường phản cất khuất,
        Xa luân vi chi tồi.
        Thụ mộc hà tiêu sắt.
        Bắc thanh phong chính bi,
        Hùng bi đối ngã tỗn,
        Hổ báo giáp lộ đề.
        Khê cốc thiểu nhân dân,
        Tuyết lạc hà phân phân.
        Người vợ cất cao giọng ngâm lại câu:
        Hung bi đối ngã tỗn.
        Hổ báo giáp lộ đề.
        Tuyết lạc hà phân phân.


        Bà vừa hát vừa nháy Bảo-Hòa.
        - Tiểu cô nương! Tiểu cô nương có hiểu không?
        Bảo-Hòa lắc đầu. Mỹ-Linh giảng:
        - Bài thơ này của Ngụy-Võ đế tức Tào Tháo. Tào trên đường đi đánh Viên Thiệu đã làm ra. Nghĩa rằng: Phía Bắc có núi Thái-hằng, cao vòi vọi, đường đi quanh co như ruột dê. Xe cộ lên núi, bánh bị gẫy. Cây cối thực tiêu sơ. Gió Bắc thổi rét căm căm. Gấu ngồi trên hốc đá nhìn xuống. Hổ báo rống bên đường. Trong thung lũng dân chúng thưa thớt. Tuyết rơi phơi phới.
        Bảo-Hòa chợt hiểu ra:
        - Mình chết thực. Thì ra cặp vợ chồng này là người của Khu-mật viện Đại-Việt. Cậu hai bố trí họ để nhắn mình cái gì đây? Đúng rồi. Hai người này rõ ràng nói giọng Thăng-long, chứ đâu có phải tiếng Thanh-Nghệ?
        Bảo-Hòa móc túi lấy bạc tặng vợ chồng nhà hát. Giữa lúc đó có tiếng người dùng lăng không truyền ngữ nói vào tai nàng:
        - Gặp hổ, sai hổ. Gặp báo, sai báo. Hổ, báo không thắng thì dùng trăn. Đừng hỏi lôi thôi. Cứ đến khu bán thú vật sẽ biết.
        Triệu Huy thấy cặp vợ chồng nhà hát kỳ bí. Y thúc Lê Phụng-Hiểu:
        - Chuồn thôi.
        Họ tiếp tục đi tới khu bán gia súc. Tiếng trâu rống, tiếng ngựa hí, tiếng lợn kêu, tiếng chó sủa tạo thành âm thanh đặc biệt. Mùi xú uế xông lên nồng nặc, làm Mỹ-Linh choáng váng. Trong khu này, bán khá nhiều thú rừng, nào trĩ, nào công, nào gà rừng. Lại có chỗ bầy bán cả hươu, nai.
        Chợt Bảo-Hòa sáng mắt lên, khi nàng nhìn thấy mấy người thợ săn bán thú dữ. Trước mặt một ông lão tuổi khoảng sáu mươi, bầy ra ba cái cũi. Cũi thứ nhất trong giam năm đôi trăn lớn. Cũi thứ nhì giam một đôi báo. Cũi thứ ba giam một đôi hổ. Cạnh đấy còn một cái xe, trên có căn nhà nhỏ. Căn nhà không có cửa, mà chỉ có những lỗ bằng trứng gà. Bảo-Hòa biết đây là tổ nuôi ong mật. Nàng lên tiếng:
        - Cụ ơi, những thú này cụ bán cả ư?
        Ông cụ nghe giọng nói, nhìn dáng người Bảo-Hòa, thì biết nàng không ở trong tổng. Ông cười:
        - Cô hỏi chơi hay định mua?
        - Cháu định mua đem về nuôi.
        Người con trai ông thợ săn, tuổi khoảng hơn hai mươi, cười chế diễu:
        - Cô nói đùa. Cô tưởng mấy con thú này hiền hẳn. Nó mà gầm một tiếng, cô vỡ mật ra chết liền.
        Bảo-Hòa mỉm cười:
        - Nhà tôi không có chó. Tôi định mua về để chơi với chúng cho vui. Ông định giá đi?
        Ông già cười:
        - Trời đất ôi, có ai mua thú dữ về nuôi như chó bao giờ? Nếu cô sai bảo được những con thú này, tôi biếu cô đấy. Còn không thì một đôi trăn giá hai quan tiền. Đôi báo năm lạng bạc, đôi hổ bẩy lạng.
        Thanh-Mai thấy Bảo-Hòa nháy mắt, thì biết nàng đang tìm dịp thoát thân. Vì vậy nàng nói với ông thợ săn:
        - Ông giữ lấy lời nghe. Nếu em tôi sai bảo những con thú này được thì ông phải cho chúng tôi.
        Ông lão thợ săn quả quyết:
        - Quân tử nhất ngôn mà!
        Người đi chợ, cùng tất cả đám thợ săn thấy truyện lạ cùng bu lại xem. Bảo-Hòa tiến đến cũi giam hai con hổ, nàng gầm gừ mấy tiếng nhỏ. Hai con hổ đang nằm ủ rũ trong chuồng, nghe tiếng nàng, chúng đứng nhỏm dậy, vẫy đuôi mừng. Bảo-Hòa rút then mở cũi, rồi gầm lên mấy tiếng. Hai con hổ nhanh nhẹn chui ra khỏi cũi. Chúng nhảy vào vồ Triệu Huy, Ngô Tích.
        Hành động của nàng nhanh quá, đám thợ săn cũng như mọi người không ai ngờ tới. Dân chúng kinh hoàng chạy ra xa đứng nhìn. Ngô Tích, Triệu Huy chuyển thân, liệng hành lý cho Đinh Toàn với Quách Quỳ giữ, rồi xuất chiêu, phục hổ.
        Khi thấy Bảo-Hòa mở cũi hùm, Thanh-Mai ra hiệu cho Mỹ-Linh, rồi phóng chưởng tấn công Triệu Anh. Chỉ một chiêu nàng đã kiềm chế y, bẻ gập cánh tay ra sau. Bình thường, đấu võ Thanh-Mai không thể nào chịu của y được đến ba chiêu. Nay y bị trúng độc, khí lực không còn, y bị kiềm chế dễ dàng. Mỹ-Linh cũng chụp cổ Đàm An-Hòa bằng một chiêu cầm-long công. Nàng quay lại tìm Đinh Toàn với Quách Quỳ, không biết hai người trốn đâu mất!
        Triệu Huy, Ngô Tích đang dùng hết sức chống nhau với đôi hổ. Bảo-Hòa lại mở cũi thả đôi báo ra. Nàng hú lên một tiếng, chúng nhảy vào trợ sức với đôi hổ. Anh em Ngô Tích, Triệu Huy quả xứng đáng là đại cao thủ. Mỗi người chống với một cọp một báo, mà không nao núng.
        Bảo-Hòa đứng gầm gừ điều khiển hổ, báo tấn công ráo riết. Nàng chạy lại cũi chứa trăn, mở cũi húyt sáo mấy tiếng. Một đôi trăn vọt ra khỏi cũi, chúng phóng đến cuốn Triệu Anh, Đàm An-Hòa lại, như người ta dùng dây trói. Còn bốn đôi khác ngỏng đầu như người đứng, trong tư thế sẵn sàng tấn công anh em Triệu Huy.
        Dân chúng náo loạn cả lên. Tuy vậy họ vẫn không chạy, mà đứng thành vòng tròn xem ba cô gái lạ, mặt đẹp như tiên, có tài sai hổ, báo, trăn tấn công người. Trống báo động thúc liên hồi.
        Ông lý đã cùng một đội hoàng-nam xuất hiện, đao kiếm sáng ngời, làm thành vòng vây xung quanh đấu trường, đề phòng thú dữ.
        Chiến đấu được một lúc, Ngô Tích mệt muốn đứt hơi. Y nhìn sang bên cạnh, chiêu thức Triệu Huy đã rời rạc. Y nghĩ:
        - Tình thế này, chi bằng hãy tạm bỏ chạy. Đại ca ta là Thiên-sứ, chắc bọn chúng không dám hại. Ta cần tìm Bình-nam vương, để người can thiệp với vua Giao-chỉ bắt chúng tha đại ca ra.
        Nghĩ vậy y hú lên một tiếng, báo hiệu cho Triệu Huy bỏ chạy. Hai người cùng vận hết sức phát liền mấy chưởng, bình, bình. Hổ báo bị đẩy lui . Hai người vọt mình vào đám dân chúng trốn. Nhưng nhanh hơn, Bảo-Hòa huýt sáo mấy tiếng, tám con trăn phóng tới quấn hai người vào giữa.
        Hai người càng vùng vẫy, trăn cuốn càng chặt.
        Thanh-Mai mừng quá, nàng lấy mấy sợi dây của thợ săn trói bọn chúng lại. Bảo-Hòa bị trúng độc, thân thể rã rời. Sau trận đấu, nàng choáng váng, ngồi xuống đất dựa lưng vào một con hổ dưỡng thần. Một con khác đến nằm cạnh. Hai con báo liếm tay nàng tỏ vẻ thân ái. Bảo-Hòa ôm lấy cổ chúng như ôm những con chó.
        Mỹ-Linh đến bên hỏi:
        - Chị Bảo-Hòa, có sao không?
        - Không sao cả. Em yên tâm.
        Nói xong nàng gượng gạo vẫy tay gọi bố con ông thợ săn. Hai bố con ông cùng hơn mười người thợ săn khác không dám lại gần. Họ quỳ gối ở xa, lạy thụp xuống đất. Đối với thợ săn, thú rừng là những con vật linh thiêng, phải có thần tiên mới sai khiến được chúng. Họ thấy Bảo-Hòa sai thú của họ như họ sai chó. Nàng lại trang phục như người Thái, hơi khác lạ với người Kinh. Bảo-Hòa mỉm cười nói với ông thợ săn:
        - Cụ giữ lời, hứa cho tôi mấy con thú này nghe.
        Hai bố con ông thợ săn quỳ gối chắp tay lạy Bảo-Hòa liên tiếp:
        - Tấu lạy tiên cô. Cô là người nhà trời, cô sai khiến đươc hổ báo. Con xin kính dâng cô hết.
        Bảo-Hòa là con một lạc-hầu vùng bắc-biên Việt-Tống. Mẫu thân nàng hiện làm vua bà 207 khê động. Khi sinh ra đời được mười ngày, mẫu thân nàng bị cảm, rồi mất sữa. Với địa vị một vua bà, thì kiếm cho con một bà vú thực không khó. Nhưng mẹ nàng là người sùng đạo Phật, không muốn con mình bú người, mà con người không được bú mẹ, như vậy sinh ra nghiệp quả. Sẵn trong châu nuôi nhiều hổ, báo, thân phụ nàng nặn sữa hổ, báo nuôi nàng.
        Khi đã lên bốn, lên năm, nàng vẫn còn ăn sữa. Một lần theo anh vào rừng chơi, chẳng may đi lạc. Bố mẹ nàng kinh hãi, xuất lĩnh trên trăm người đi tìm suốt hai ngày không thấy đâu. Mọi người cho rằng nàng bị thú dữ ăn thịt rồi. Bốn hôm sau một tóan thợ săn tìm thấy Bảo-Hòa đang ở trong hang cọp. Suốt mấy ngày nàng bú cọp, sống với bầy cọp con. Không ai hiểu tại sao cọp mẹ không ăn thịt nàng. Cuối cùng một người thợ săn cho biết rằng khi trẻ con uống sữa thú rừng lâu ngày tự nhiên trong người tiết ra mùi hương đặc biệt thoang thỏang như hoa lan rừng. Phàm thú dữ ngửi thấy mùi hương đó, thì không ăn thịt. Ngược lại còn phục tùng, trung thành như chó đối với chủ. Từ đấy dân chúng Bắc- biên coi nàng như công chúa con Ngọc-Hòang thượng đế giáng sinh, gọi nàng bằng cô. Nàng cũng xưng cô với họ, riết rồi thành quen.
        Bảo-Hòa cũng như các đệ tử Tây-vu khác, được dạy tiếng nói của thú rừng, hầu sai khiến, chỉ huy như chỉ huy binh đội. Hôm nay, giữa lúc chị em lo sợ rằng sau khi chữa khỏi bệnh cho Triệu Anh, chắc chắn bọn chúng sẽ giết chết chị em nàng để phi tang... thì gặp bọn thợ săn bán thú rừng. Nàng dùng bản lĩnh Tây-vu, sai thú tấn công bọn chúng, mà thành công.
        Bảo-Hòa mỉm cười:
        - Không, cô không nhận của ông đâu. Đây cô trả tiền cho.
        Nàng trả cho ông số bạc gấp đôi lần ông ra giá. Nàng nói:
        - Ông mua cho mỗi con trăn một con gà. Mỗi cặp hổ, báo một đùi thịt trâu, bỏ vào cũi cho chúng ăn.
        Khi bọn Triệu Anh đi rồi, trong lòng ông lý khả nghi. Ông sai một hoàng nam theo dõi hành tung của bọn chúng. Hoàng nam vừa đi, đã chạy về báo cho ông hay về cuộc giao chiến của chị em Thanh-Mai với bọn Triệu Huy. Ông ra lệnh đánh trống Ngũ-liên báo động, rồi dẫn đội hoàng nam đến đấu trường. Dân chúng có mặt kể cho ông nghe từ đầu đến cuối diễn tiến trận đấu. Ông đến nơi đúng lúc Thanh-Mai, Mỹ-Linh bắt Đàm An-Hòa, Triệu Anh. Trong lòng ông kinh hoàng, tự hỏi:
        - Mấy cô gái này là ai, đang đi cùng Đàm hiệu úy, với Thiên-sứ, rồi lại sai hổ, báo, trăn bắt sống họ?
        Bảo-Hòa vẫy tay gọi ông lý:
        - Cụ lý. Mời cụ lại đây, tôi có truyện muốn nói với cụ.
        Tiếng nói của nàng thanh tao, mà oai lạ lùng. Ông lý chắp tay:
        - Tấu lạy tiên cô. Con muốn lại, nhưng... những ông kễnh này ghê quá. Con không dám.
        Bảo-Hòa mỉm cười:
        - Ông đừng sợ, những con chó, con mèo này hiền lắm. Nó không nhá thịt ông đâu. Thôi, ông sợ thì thôi. Phụng-Hiểu, anh lại đây.
        Lê Phụng-Hiểu rất can đảm. Chàng hiên ngang tiến tới. Bảo-Hòa nói sẽ:
        - Anh có biết cô là ai không?
        - Tấu lạy cô không.
        - Cô là con vua bà coi 207 châu động vùng biên giới bắc Đại-Việt. Bọn người Tầu này mưu hại cô. Cô ra lệnh cho hổ, báo bắt chúng. Vậy anh hãy sai hoàng-nam đóng kín cổng làng tìm cho được hai tên đồng bọn đang trốn đâu đó.
        Một con báo liếm tay Phụng-Hiểu. Tuy chàng biết nó không cắn mình, mà chân tay cũng run run, người phát lạnh. Tiếng nói uy nghiêm của Bảo-Hòa khiến chàng không tự chủ được. Chàng lui lại gọi bốn đội trưởng hoàng-nam ra lệnh, tìm bắt Đinh Toàn, Quách Quỳ.
        Thấy Lê Phụng-Hiểu dám lại bên Bảo-Hòa, ông lý làm gan, ông đến gần chắp tay lạy:
        - Tấu lạy cô, xin cô ban lệnh.
        Bảo-Hòa rút lệnh bài của mẹ, trao cho ông lý:
        - Ông cho người phi ngựa về đinh tiết-độ-sứ Đinh Ngô-Thương, nói rằng cô đã bắt được bọn gian nhân. Đinh phải cho đạo binh Quảng-thánh tới giải tù nhân về.
        Một người cụt tay, tuổi khỏang ba mươi rẽ đám đông đi ra. Ông lý chỉ người đó giới thiệu:
        - Đây ông tiên chỉ làng Vạn-thảo.
        Bảo-Hòa kinh ngạc không ít, vì xưa nay tiên chỉ phải là người già, đạo cao, đức trọng. Không ngờ tiên chỉ Vạn-thảo lại còn quá trẻ. Nhìn dáng điệu, khuôn mặt của ông tiên chỉ rất quen, mà nàng không nhớ đã gặp ở đâu. Người cụt tay cúi đầu chào Bảo-Hòa:
        - Hoàng-triều thiên tướng Quách Thịnh xin kính cẩn ra mắt cô nương. Chẳng hay cô nương từ đâu gía lâm tệ xã?
        Bảo-Hòa nghe đến tên Quách Thịnh, nàng á lên một tiếng, mừng rỡ:
        - Quách tướng quân quên cô rồi sao? Cách đây năm năm, tướng quân theo cậu hai của cô là Dực-thánh vương, đem quân giúp mạ mạ đánh bọn Tầu-ô Đại Quang-Lịch, đốt trại Như-hồng trên đất Tống. Sau đó tướng quân bị thương ở tay. Mạ mạ đem về nhà dưỡng thương hơn tháng mới khỏi. Lúc ấy cô thường gọi hùm, gọi báo đến chơi đùa với tướng quân. Sau trận đó, ông ngọai thương xót, phong cho tướng quân tước Trung-thành hầu, ăn lộc một nghìn hộ.
        Người cụt tay đã nhận ra Bảo-Hòa:
        - Thì ra quận chúa. Tiểu tướng thực vô tâm. Cũng tại quận chúa mau lớn qúa, tiểu-tướng nhận không ra. Thấm thoát đã trên năm năm. Bây giờ quận chúa xinh đẹp như thế này rồi. Tiểu tướng xin ra mắt quận chúa.
        Bảo-Hòa chỉ Mỹ-Linh:
        - Bình-Dương là con gái lớn cậu cả đấy.
        Quách Thịnh chắp tay:
        - Thần Trung-thành hầu xin tham kiến công chúa điện hạ.
        Quách Thịnh gọi ông lý:
        - Mau đánh trống rước công chúa, quận chúa về đình.
        Quách Thịnh đến bên Bảo-Hòa:
        - Từ sau khi được hoàng thượng phong cho tước hầu. Tiểu nhân trở về làng cũ lấy vợ, được dân chúng tôn làm tiên chỉ. Tuy ở thôn dã, tiểu nhân cũng vẫn lấy việc dạy dỗ lớp sau, hầu khi quốc gia hữu sự, cho chúng ra giúp nước.
        Dân làng đã đem đến ba cái kiệu để rước chị em Thanh-Mai. Bảo-Hòa xua tay:
        - Cô không đi kiệu đâu. Chị Thanh-Mai cỡi ngựa. Mỹ-Linh đi kiệu. Cô cỡi hùm được rồi.
        Bảo-Hòa nói với đám thợ săn:
        - Các ông chở mấy cái cũi trăn này theo cô. Còn mấy con chó, con mèo của cô thì không cần.
        Nàng nhảy lên lưng cọp, hô một tiếng, nó rảo bước theo sau kiệu Mỹ-Linh. Con hùm còn lại, cùng hai con báo đi cạnh nàng.
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.01.2005 05:42:59 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 06.01.2005 18:03:39 (permalink)
          Hồi thứ hai mươi


          Hồng Sơn Đại Phu



          Đình làng Vạn-thảo tọa lạc trên khu đất rộng rãi, xung quanh có tường gạch. Muốn vào đình phải qua cái cổng bằng đá xanh. Sân đình lát bằng những phiến đá lớn. Giữa sân có hai tấm bia. Quách Thịnh chỉ bia:
          - Thưa quận chúa, hai tấm bia kia để khắc tên tuổi những người có chức, tước, văn học trong làng. Một tấm khắc tên quan văn, một tấm khắc tên quan võ.
          Vượt qua sân, vào đình. Đình là một ngôi nhà lớn, dài ước khỏang ba mươi bước, tường gạch, mái ngói. Giữa đình có bệ. Trên bệ thờ thần thành hoàng. Khi Bảo-Hòa bước vào đình, thì mõ làng đã trải chiếu hoa từ bao giờ. Sát chân bệ thờ là một chiếu cạp điều. Thường chiếu này dành cho tiên chỉ, rồi tới bốn chiếu nhì. Một chiếu dành cho lý trưởng, phó lý, trương-tuần lại-dịch, thủ qũi. Một chiếu dành cho năm ông giáp trưởng. Ba chiếu còn lại dành cho các hào mục, các vị bô lão tuổi từ sáu mươi trở đi. Sau đó hơn ba mươi chiếu dành cho tất cả mọi người dân trong làng, tuổi từ mười sáu trở lên.
          Về triều Lý, mỗi xã như một nước nhỏ tự trị. Hàng tháng xã họp một lần để bàn việc như một tiểu quốc hội ngày nay. Hội đồng hàng xã làm lệ làng. Thường lệ làng phải tuân theo luật nước. Nhưng khi luật nước quá khác biệt với đời sống dân chúng, lệ làng vẫn cứ được thi hành. Câu tục ngữ phép vua thua lệ làng phát xuất từ đấy.
          Quách Thịnh mời chị em Thanh-Mai ngồi vào chiếu nhất của mình, rồi đứng dậy chắp tay hướng vào cử tọa:
          - Trình quan viên hàng xã. Sở dĩ tôi cho đánh trống triệu tập các quan viên bất thường. Vì làng ta gặp đại phúc, được công-chúa điện-hạ, cùng tiên cô giá lâm.
          Chàng kể sơ lựơc về 207 khê động Bắc biên, cùng gốc tích họ Thân, cho tới trận đánh Như-hồng mà chàng tham dự. Khi chàng kể đến việc Bảo-Hòa được cọp nuôi dưỡng, dân chúng súyt xoa, hướng nàng lạy liên tiếp. Quách Thịnh thuật đến việc bọn Triệu Anh sang Đại-Việt ăn trộm, rồi bị Bảo-Hòa sai thú vật bắt. Cuối cùng chàng chỉ vào Mỹ-linh giới thiệu là công chúa. Còn Thanh-Mai chàng giới thiệu giản dị là chị em kết nghĩa của Mỹ-linh. Dân chúng thấy Mỹ-Linh, Thanh-Mai mảnh khảnh, mặt đẹp huyền ảo. Họ nghĩ thầm:
          - Tiên với công chúa có khác. Đẹp thực.
          Mỹ-Linh hỏi:
          - Khoan rồi hãy họp. Xin Quách hầu cho chị em chúng tôi lễ thần thành hoàng đã. Thần thành hoàng ở đây đã có sắc phong chưa?
          Quách Thịnh đứng dậy đốt hương trao cho chị em Thanh-Mai:
          - Thưa điện-hạ thần thành hoàng làng chúng tôi họ Trần húy Đại-Sinh. Về thời vua Trưng được phong làm tiên ông. Ngài rất giỏi nghề thuốc. Đương thời ngài có đến đây ẩn cư ba năm, trồng cây thuốc, dạy dân y đạo. Từ đó đến nay dân làng không dám sao lãng, tiếp tục nghề xưa. Vì vậy làng có tên Vạn-thảo. Làng tôi là nơi sản xất nhiều thầy thuốc danh tiếng trong nước.
          Chị em Mỹ-Linh lễ thần xong, nàng hỏi han chi tiết về đời sống dân chúng rất cặn kẽ. Lý trưởng hướng vào Bảo-Hòa:
          - Khải tấu tiên cô. Lệ làng có khoản nói rằng: khi một vị thần, một vị có huân công với xã tắc viếng làng, được quyền thêm hay sửa đổi lệ. Không biết tiên cô với công chúa có muốn thay đổi khoản nào trong hương-ước không?
          Mỹ-Linh đưa mắt nhìn Bảo-Hòa. Bảo-Hòa nói sẽ vào tai nàng mấy câu. Mỹ-Linh mừng lắm, gật đầu liên tiếp. Bảo-Hòa đứng dậy:
          - Làng này sở dĩ giầu có, nảy sinh nhiều người tài, một là vì dân làng quyết tâm, chịu khó làm việc. Hai là nhờ địa linh. Hôm nay cô đến đây, thấy đàn bà con gái xinh đẹp, nết na, tài như trựơng phu. Cô xin đề nghị đổi hương ước như thế này: đàn bà, con gái được hưởng mọi quyền như đàn ông con trai. Ngược lại họ cũng phải luyện tập võ nghệ, giữ làng như hoàng nam.
          Trong đình chỉ có đàn ông, con trai ngồi họp. Đàn bà con gái phải đứng ngòai. Tuy đứng ngòai, nhưng họ nghe rất rõ lời Bảo-Hòa nói. Họ vỗ tay đồng lọat. Đợi tiếng vỗ tay dứt, Mỹ-Linh hỏi:
          - Này Quách hầu, này cụ lý, mỗi vị có mấy vợ?
          Quách Thịnh chắp tay:
          - Tiểu nhân đã từng ở Lạng-châu về, lẽ nào giám quên chỉ dụ của vua Bà. Tiểu nhân chỉ có một vợ thôi. Cụ lý cũng vậy.
          Mỹ-Linh cười:
          - Phần tôi. Tôi xin đổi hương ước như thế này: trong làng này trai chỉ được lấy một vợ mà thôi. Nhược bằng sau khi lấy nhau ba năm, mà vợ không sinh con nối dòng, thì phải xin phép tiên-chỉ, lý trưởng và trưởng-tộc cho được quyền lấy vợ lẽ. Tuy nhiên không được bỏ vợ cả.
          Đúng ra Thanh-Mai không có quyền thay đổi hương ước. Nhưng Quách Thịnh thấy nàng là em kết nghĩa của Khai-quốc vương, thì khác chi công chúa? Vì vậy chàng cũng mời Thanh-Mai phát biểu ý kiến. Thanh-Mai nói::
          - Thời Lĩnh-nam, vua Trưng là nữ, tể tướng Nguyễn Phương-Dung, tư-đồ Phùng Vĩnh-Hoa, cùng không biết bao nhiêu nữ tướng... Thế thì trong xã bầu tiên chỉ, lý trưởng, phó-lý. Các bà, các cô cũng có quyền ứng cử.. Sau này xã Vạn-thảo có nữ lý-trưởng, nữ tiên chỉ thì thực là tuyệt. Nào xin các vị cho ý kiến!
          Lại dịch đứng dậy chắp tay vái chị em Thanh-Mai, rồi thưa:
          - Tấu lạy tiên-cô cùng nhị vị công chúa. Tiên-cô cùng công chúa dạy, chúng con xin tuân. Có điều luật của bản triều định rõ: khi đàn bà phạm vào một trong thất xuất tức tội nặng, cho quyền chồng bỏ. Nay đổi lại chỉ cho lấy vợ lẽ, mà không cho bỏ, e trái luật của đức hoàng-đế.
          Bảo-Hòa hỏi Mỹ-Linh:
          - Thất xuất là gì vậy?
          Mỹ-Linh nói lớn như muốn cho dân chúng cùng nghe:
          - Luật của bản triều qui định rằng khi người đàn bà phạm tội thất xuất thì chồng có quyền bỏ. Thất xuất là:

          1.Vô tử tức là không con.
          2.Dâm dật, là ngoại tình.
          3.Bất sự cậu cô, là thiếu bổn phận phụng dưỡng bố mẹ chồng.
          4.Khẩu thiệt, tức lắm điều, nhiều lời.
          5.Đạo thiết, tức trộm cắp.
          6.Đố kỵ, là ghen tuông.
          7.Ác tật, bị phong cùi.


          Bảo-Hòa suy nghĩ một lúc, rồi đáp:
          - Chúng ta có câu phép vua, thua lệ làng. Đây là lệ làng mà. Không con chẳng qua do cơ thể bẩm sinh không được bình thường, hoặc bệnh họan, chứ đâu phải là tội? Phàm người đàn bà phạm tội khác trong thất xuất thì chồng được bỏ. Còn không con, thì chồng không được bỏ.
          Cuộc hội họp đến chiều mới ngừng. Làng làm cỗ đãi khách. Trong khi cả làng đang ăn cỗ, thì có tiếng trống từ cổng vọng về, rồi tiếng tù và thổi. Lý trưởng đứng dậy, gọi Lê Phụng-Hiểu :
          - Chú trương tuần theo tôi ra cổng, xem có truyện gì?
          Vừa lúc đó, một hoàng nam đến trước Mỹ-Linh hành lễ:
          - Khải tấu công chúa, có một đại-tướng dẫn hơn nghìn quân kị đến trước cổng, xin vào yết kiến công chúa.
          Mỹ-Linh truyền lệnh:
          - Quân đóng ở ngoài làng. Còn tướng cho vào.
          Hoàng nam ra được một lát, rồi trở lại với Ngô An-Ngữ, Tạ Diệu-Chi. Hai đứa trẻ Thường-Kiệt, Thường-Hiến cũng theo vào. Ngô An-Ngữ hành lễ với Mỹ-Linh:
          - Tiểu-tướng được lệnh bài, vội đem quân đến đón công-chúa. Công chúa vắng mặt hơn tháng qua, làm tiết-độ-sứ cùng anh em tiểu nhân tìm khắp nơi.
          Chàng nhìn Thanh-Mai:
          - Ta tìm không thấy sư muội, vội sai người về Thiên-trường báo cho sư phụ biết. Chắc sư phụ cũng sai người đi tìm.
          Chàng nói với Bảo-Hòa:
          - Chỉ riêng đại-sư Huệ-Sinh, cùng thế tử Thân Thiệu-Thái vẫn ở trên chùa Sơn-tĩnh. Đại-sư nói Công chúa, quận chúa với sư muội tuy bị nạn, song qua ba bẩy hai mươi mốt ngày thì hết. Nay quả nhiên đúng như vậy.
          Đôi chim ưng bay lượn trên trời kêu réo như có truyện gì khẩn cấp. Bảo-Hòa ra sân gọi chúng xuống. Nàng lấy thư dưới chân chúng ra coi, rồi xé nhỏ bỏ vào vũng nước. Nàng cầm bút viết đầy một trang giấy, gấp lại bỏ vào ống đựng thư dưới chân chim, rồi hú lên một tiếng, chúng bay bổng lên trời, biến vào đám mây mù.
          Quách Thịnh truyền dân làng giải tán, chỉ còn lại chức sắc. Mỹ-Linh tường thuật sơ lược mọi biến chuyển cho Ngô An-Ngữ nghe, rồi nàng truyền lệnh:
          - Tướng quân hợp cùng dân trong làng bắt cho được Đinh Toàn cùng Quách Quỳ. Tôi đưa Bảo-Hòa đến Vạn-thảo sơn trang chữa bệnh. Còn ba tên Tống này, tướng quân giải thẳng về kinh, để triều đình định đoạt.
          Thanh-Mai nghe Mỹ-Linh truyền lệnh, phán xử đâu ra đấy, nàng mừng thầm trong lòng:
          - Mới có mấy tháng qua mà Mỹ-Linh như thay đổi thành một người khác. Hồi mình gặp nàng, cái gì cũng hỏi, cái gì cũng ngơ ngác. Bây giờ thì phát lệnh, hành sự không khác gì một quân sư. Cứ đà này, thì chỉ vài năm nàng có kém gì thân mẫu Bảo-Hòa?
          Sự thực thì Mỹ-Linh được ông nội là vua Lý Thái-tổ giao cho Nho thần Lý Đạo-Thành dạy dỗ. Đạo-Thành là một nhà Nho chân chính, ông muốn tạo nàng thành một người phụ nữ khuôn mẫu của Nho gia, một người vợ hiền thục, nết na, hết lòng hiếu với cha mẹ, thuận với chồng. Những gương phụ nữ trong sách vở Nho-gia như vợ vua Văn-vương, như thân mẫu Khổng-tử được coi là khuôn vàng thước ngọc. Phu xướng phụ tùy, chứ trong nhà, vợ không quyết định việc gì cả. Vì vậy nàng chẳng biết gì về xã hội Đại-Việt. Khi gặp biến cố xẩy ra, nàng không có phản ứng.
          Từ hôm xẩy ra vụ thân mẫu qua đời, đưa đến nàng xin đi Trường-yên ở với chú là Khai-quốc vương, cuộc đời nàng hòan tòan đổi mới. Khai-quốc vương muốn cháu mình phải như những anh thư thời Lĩnh-nam. Ngày ngày vương đem sử thời Lĩnh-nam dạy nàng. Rồi đi đâu vương cũng mang nàng theo. Vốn có căn bản học thức sâu sa, nay được đi vào thực tế, nàng tiến rất nhanh. Lúc gặp Thanh-Mai, nàng mới thấy Côi-sơn đại hiệp Trần Tự-An dạy con thực tế hơn thầy nàng nhiều. Nếu nói về Tứ-thư, Ngũ-kinh thì nàng bỏ xa Thanh-Mai. Nhưng nói về lịch sử anh hùng dân tộc, cùng ứng phó ngoài đời nàng chỉ là đứa trẻ ngờ ngệch.
          Trong chuyến đi nàng gặp bà cô là sư thái Tịnh-Huyền, với vóc dáng một vị ni sư đắc đạo, võ công tuyệt đỉnh, kinh lịch có thừa. Lại được gặp cô đang làm vua bà vùng Bắc-biên, rồi Bảo-Hòa. Hai người quyết đoán sự kiện, đối phó với biến cố thực tinh tế, mau chóng. Nàng đã thay đổi hẳn quan niệm của Nho gia.
          Hàn Diệu-Chi lắc đầu:
          - Công chúa đi như vậy, chúng thần không yên tâm. Thần xin dẫn hai cháu Tuấn, Hiến theo hầu công chúa một thể.
          Biết không đừng được, Mỹ-Linh nhìn Bảo-Hòa như phân trần điều gì. Nhưng Bảo-Hòa trúng độc đã hơn tháng, người mệt nhừ, nàng đang thiêm thiếp ngủ. Nàng than thầm:
          - Đi đâu mà đem quân lính theo thì còn thú vị gì nữa. Ta phải dùng quyền mới được.
          Mỹ-Linh nghiêm mặt nói với Ngô An-Ngữ:
          - Tướng quân với phu nhân án binh tại đây chờ tôi được rồi. Từ làng đến sơn trang không xa mà. Huống chi chú hai muốn tôi kinh lịch ngoài đời. Kinh lịch ngoài đời, mà đi đâu cũng phải có người theo giữ thì bao giờ bằng cô tôi cho được.
          Bảo-Hòa nói với Hàn Diệu-Chi:
          - Đa tạ sư thúc lo cho Mỹ-Linh. Nhưng sư thúc ơi, ra khỏi sơn trang giáp địa phận của núi Băng-sơn, nơi Hồng-sơn lão nhân ở. Lão nhân là một trong Đại-Việt ngũ-long, trong địa giới của người, không ai giám đánh đập con chó con mèo, chứ đừng nói đánh người? Còn sư thúc đi theo vì sợ lão hại Mỹ-Linh ư? Nếu lão hại, thì liệu sư thúc có cản nổi không?
          Diệu-Chi nhận Bảo-Hòa có lý. Nàng gật đầu:
          - Chúc công chúa lên đường may mắn.
          Thanh-Mai đốc thúc mọi người lên xe, trực chỉ cổng nam, hướng Vạn-thảo sơn-trang. Xe ra khỏi cổng nam làng, theo hương lộ mà đi. Lê Phụng-Hiểu chỉ ngọn núi trước mặt:
          - Kia là núi Băng-sơn, nơi Hồng-Sơn lão nhân ở.
          Xa xa, hai ngọn núi cao vòi vọi tiếp giáp với nhau theo hình thước thợ. Chỗ tiếp giáp tạo thành khe núi. Dưới khe, nước chảy. Đến lưng chừng sườn núi, vách thẳng đứng, tạo ra thác nứơc. Thác ở trên cao đổ vào ngọn đồi dưới chân múi tạo thành chín ngọn suối nhỏ. Trông như chín con rồng đang ngoai từ núi xuống cánh đồng.
          Càng đến gần, tiếng thác đổ càng lớn hơn. Xe qua mấy cây cầu bắc ngang suối, tiến đến cổng sơn trang. Trước cổng có bẩy tám người đang đứng chờ. Người nào lưng cũng mang vũ khí. Thanh-Mai ngạc nhiên, tự hỏi tại sao họ không vào trang. Lê Phụng-Hiểu đến trước một trung niên thiếu phụ, lưng đeo bảo kiếm thi lễ:
          - Tỷ tỷ. Tại sao các vị tới đây lại không vào?
          Trung niên thiếu phụ không trả lời, tay chỉ tấm bảng treo trên cổng. Lê Phụng-Hiểu nhìn lên, chàng đọc:
          Kính cáo.
          Đây là tư thất của Hồng-Sơn đại phu. Nơi này chỉ dành cho bạn hữu, thân nhân của người. Những ai bị bệnh, xin đến trước cổng chính của y viện.
          Còn quý khách tới sơn trang, xin đứng chờ. Sơn trang sẽ có người ra hướng dẫn vào. Trong trang trồng rất nhiều hoa cỏ độc. Bằng bước qua cổng, lỡ trúng độc chết, trang chủ không trách nhiệm.
          Mỹ-Linh nhìn đám người tới trước. Họ chia làm hai nhóm. Một nhóm ba người, đi trên chiếc xe bò. Người đánh xe là một cô gái da trắng mịn, đôi mắt sắc như dao cau, lạnh như nước suối mùa đông, loang lóang như tia nắng mặt trời ban mai. Trên xe, một người đàn ông cuốn chăn nằm dài, đang rên rỉ, dường như ốm nặng. Cạnh ông, có người đàn bà ngồi bưng mặt khóc thút thít, trên lưng đeo một cây bảo kiếm.
          Mỹ-Linh nhìn cô gái, nàng nghĩ thầm:
          - Ta tưởng trên đời, người đẹp nhất là mẫu thân ta, sau đến quý phi Đàm Thụy-Châu của ông nội. Không ngờ cô gái này còn có vẻ sắc sảo hơn cả mẹ ta, nhu nhã hơn Đàm quý phi. Chắc cô biết võ, nên mới đeo bảo kiếm bên cạnh.
          Nhóm thứ nhì gồm bốn người. Họ cỡi ngựa. Trong bọn họ, có thiếu phụ đeo kiếm trả lời Lê Phụng-Hiểu. Ngoài ra còn một trung niên nam tử và hai thiếu niên một cao, một lùn.
          Cả hai nhóm chỉ đưa mắt liếc qua bọn Thanh-Mai rồi lơ đãng nhìn trời. Thiếu niên lùn nói với thiếu phụ:
          - U ơi, hay là u để con vào trong trang xem sao. Con sợ họ đi vắng cả . Chứ nếu có nhà, không lẽ chúng ta chờ từ sáng đến gìơ mà không biết? Thằng Mẫn mệt lắm rồi.
          Thiếu phụ xoa đầu con:
          - Minh, đừng nóng nảy. Hồi trưa u thấy phía bếp nhà họ có khói bốc lên. Hẳn họ nấu ăn, mới có lửa.
          Thanh-Mai đưa mắt nhìn đứa trẻ tên Mẫn. Người nó gầy như cái que, hơi thở hổn hển, đôi mắt lờ đờ. Cạnh đó, một người đàn ông tướng mạo đường bệ, thản nhiên đứng nhìn nước suối chảy.
          Bỗng trên trời có tiếng chim kêu. Bảo-Hòa ngước mắt nhìn lên, đôi chim ưng đang bay như tìm kiếm nàng. Nàng rút trong túi ra chiếc tù và, thổi liên tiếp một hồi dài. Đôi chim ưng ré lên gọi nhau, rồi đáp xuống.
          Trung niên thiếu phụ kêu lên tiếng ủa kinh ngạc, rồi đưa nắt nhìn chồng. Bảo-Hòa gỡ ống tre ở chân chim mở nắp đổ ra. Trong có mảnh giấy nhỏ. Nàng đọc qua, lấy đá đánh lửa châm đốt đi. Đợi cho tờ giấy cháy hết. Bảo-Hòa hú lên một tiếng dài, đôi chim cất cánh bay bổng lên trời, từ từ khuất trong đám mây.
          Bảo-Hòa chắp tay hướng hai toán người tới trước:
          - Trời về chiều, mà chúng ta đợi mãi không thấy người ra đón. Tiểu nữ mạn phép gọi người trong trang. Nếu qúi vị thấy khó chịu, thì bịt tai lại.
          Nói xong, nàng cho hai ngón tay vào miệng, hú lên một tiếng lảnh lót, dài liên miên bất tuyệt. Lúc đầu hai thiếu niên còn chịu được. Chỉ khắc sau, họ phải bịt tai nghiến răng như đau đớn lắm.
          Quả nhiên, sau tiếng hú của Bảo-Hòa, trong trang xuất hiện một thiếu niên bước ra. Bọn Thanh-Mai bật lên tiếng ủa, vì y chính là cậu bé cỡi ngựa đánh nhau với bọn Quách Quỳ hôm trước.
          Thiếu niên thấy bọn Thanh-Mai, thì cười tủm tỉm:
          - Người xưa nói: tam sinh, hữu hạnh. Tiểu đệ lại được gặp các vị tỷ tỷ tại Van-thảo sơn-trang. Tiểu đệ họ Lê tên Văn, con út trang chủ. Thế nào bọn chệt đâu rồi?
          Thanh-Mai đáp:
          - Bọn chúng bị chúng tôi bắt trói lại, giải lên quan rồi.
          Lê Văn hỏi:
          - Vị đệ tử Tây-vu nào vừa giá lâm?
          Thanh-Mai chỉ Bảo-Hòa.
          Lê Văn mời:
          - Xin thỉnh quý vị vào trang.
          Lê Văn đi trước dẫn dường, mời mọi người ngồi vào trong căn nhà khách. Căn nhà khá rộng. Mọi vật dụng đều bằng tre hun khói rất thanh nhã. Lê Văn rót nước mời khách rồi nói:
          - Mời quý khách xơi nước. Hồng-Sơn tiên sinh sắp ra.
          Tiếng dép lẹp kẹp từ trong nhà đi ra. Thanh-Mai, Mỹ-Linh, Bảo-Hòa cùng đưa mắt nhìn nhau, vì bước chân trầm, tiếng động vang đi rất xa. Chứng tỏ người này có nội công rất thâm hậu, ít ra cũng bằng Huệ-Sinh, Tịnh-Huyền. Một người đàn ông tuổi khoảng năm mươi, mặc quần áo nâu, mắt sáng như sao. Mật mũi hồng hào. Trán rộng, cằm vuông. Người hơi mập một chút.
          Lê Văn giới thiệu:
          - Vị này là Hồng-Sơn đại phu, bố tôi.
          Thanh-Mai kinh ngạc, đứng lên chào. Khi mới nghe tên Hồng-sơn đại phu, nàng tưởng ông phải già lắm, nào ngờ không lớn tuổi hơn thân phụ nàng. Mắt ông sáng lóang. Trên mặt có những vết dăn, làm cho ông có tứơng hổ. Ông lớn người, song có đôi bàn tay thực đẹp mịn màng, tươi hồng. Mỹ-Linh tự nhủ:
          - Không ngờ mặt ông không đẹp, mà tay ông đẹp thế. Trong hòang cung, nào thiếu cung tần, mỹ nữ xinh đẹp, mà mình chưa thấy ai có bàn tay đẹp như thế này.
          Hồng-Sơn đại-phu lên tiếng:
          - Tại hạ đang mải mê chế thuốc, nghe tiếng hú lảnh lót của một cao đồ phái Tây-vu, vội vàng ra nghênh đón.
          Mỹ-Linh hỏi:
          - Chắc tiên-sinh có mối giao hảo với phái Tây-vu?
          Hồng-Sơn đại-phu gật đầu:
          - Không những giao hảo, mà còn có nhiều liên hệ nữa. Tại hạ với lạc hầu Thân Thiệu-Anh quen biết nhau từ lâu. Cũng vì quen biết, mà tại hạ phải ẩn cư ở đây.
          Chợt ông đưa mắt nhìn Bảo-Hòa:
          - Cô nương là ai? Tại sao bị trúng độc của phái Tây-vu?
          Ông tiến lại bên Bảo-Hòa cầm tay bắt mạch. Bắt tay trái xong lại bắt tay phải. Cuối cùng ông bảo nàng há miệng, nhìn lưỡi, rồi nói:
          - Cô nương bị trúng phải phấn Nhuyễn-cân của phải Tây-vu. Phấn này chính tại-hạ là người chế ra, tặng lạc hầu Thiệu-Anh, dùng làm bảo vật bảo vệ biên cương. Người trúng phấn này, mỗi ngày lên cơn sốt một lần. Khi cơn sốt hết, mồ hôi vã ra. Chân tay bải hoải vô lực. Sau bẩy lần bẩy là bốn mươi chín ngày thì chết. Ngoài thuốc giải của tại hạ chế ra, thì không thuốc nào chữa được. Tuy nhiên, dùng châm cứu cũng chữa được, nhưng chỉ thoát chết. Còn công lực hoàn toàn mất.
          Ông chau mày:
          - Cô là đệ tử Tây-vu, mà sao lại bị trúng độc của phái này? À phải rồi, chắc cô lầm lỗi gì, mới bị người trên phạt phải không? Cô ơi, phàm làm đệ tử, lầm lỗi, bị sư phụ phạt là truyện thường. Sao cô không năn nỉ xin tha, mà lại tới đây xin chữa bệnh? Ta không chữa cho cô đâu.
          Bảo-Hòa kinh ngạc:
          - Đại-phu! Từ ngày sinh ra đời đến giờ, cháu chưa từng nghe ai nói đến phấn Nhuyễn-cân có thuốc giải, mà chỉ nghe nói phải dùng châm cứu chữa trị mà thôi.
          Đại-phu chau mày lại:
          - Lạ thực, khi ta dạy Thân Thiệu-Anh chế phấn độc, cũng dạy y chế thuốc giải tại sao cô nương lại chưa từng nghe qua?
          Ông cầm tay, bắt mạch Bảo-Hòa lần nữa, rồi nhăn mặt:
          - Phàm người bị trúng phấn Nhuyễn-cân, phải ở nơi thoáng khí, không được xử dụng võ công. Đây, ngược lại, sau khi trúng độc, cô nương đã giao chiến với người, rồi ở trong phòng tối thiếu khí thở.
          Mỹ-Linh kinh ngạc:
          - Đúng như đại phu dạy. Sau chị cháu bị người ta đánh thuốc độc, rồi giam vào hầm đá gần tháng. Nhưng có điều chị cháu không hề xử dụng võ công.
          Hồng-Sơn đại-phu chau mày lại bắt mạch lần nữa:
          - Rõ ràng tiểu cô nương đây giao chiến với người của phái Thiếu-lâm, bị trúng Kim-cương chưởng của họ. Dường như là chiêu Vô tướng vô sắc. Người này là tục gia đệ tử chứ không phải là tăng.
          Thanh-Mai phục quá. Nàng gật đầu:
          - Đúng rồi. Hôm ấy sư muội cháu bị người ta đùng chiêu Vô tướng vô sắc đánh cho nghẹt thở, rồi phóng chất độc vào người.
          Đại-phu trầm ngâm:
          - Khi thoát khỏi nhà tù, tiểu cô nương viếng Vạn-hoa sơn-trang, hít hương thơm Thập đại danh hoa, thành ra phế tạng bị thương. Sau đó lại xử dụng thần công Tây-vu, điều khiển hổ, báo, vì vậy độc chất chạy vào tới tâm tạng. Cô nương thử hít mạnh một hơi mà xem, có phải sau khi thở ra, trong phế dường như bị kim châm không? Trong lòng cô nương bồi hồi không yên. Vì đó là độc chất chạy vào tâm. Y thư nói tâm chủ thần chí khi tâm bị chất độc xâm nhập, thì thần chí hỗn lọan, trong lòng hồi hộp không yên.
          Ông ngồi ngay ngắn dậy hỏi Bảo-Hòa:
          - Cô nương thuộc động nào, châu nào ở bắc biên?
          Bảo-Hòa thụp xuống đất hành đại lễ:
          - Thưa tiên sinh. Ông nội cháu chính là Thân Thiệu-Anh. Cháu là con của...
          Mặt đại-phu hiện lên một luồng hắc khí:
          - Vậy cô nương là con Thân Thừa-Quý với con gái Lý Công-Uẩn?
          Mỹ-Linh thấy nét mặt của ông biến đổi, cùng cách gọi ông nội mình là Lý Công-Uẩn chứ không gọi là Thuận-thiên hòang đế thì biết ông có thù hận với họ Lý nhà nàng. Bảo-Hòa gật đầu:
          - Vâng, mẹ cháu là Lĩnh-Nam bảo quốc, hòa dân công chúa.
          Hồng-Sơn đại-phu đứng dậy:
          - Không chữa. Ta không chữa cho cô nương. Điều thứ nhất, cô là cháu Thân Thiệu-Anh. Điều thứ nhì cô là cháu Lý Công-Uẩn. Mời cô nương rời khỏi đây.
          Mỹ-Linh hỏi:
          - Tai sao vậy tiên sinh?
          __ Tại vì ta với Lý Công-Uẩn có mối thù bất cộng đái thiên. Ta giữ ba lời nguyền. Một là không chữa cho tụi Tầu, hai là không chữa cho những ai trong tộc thuộc họ Lý. Ba là chỉ nhận chữa những bệnh không ai chữa được.
          Lão hỏi Mỹ-Linh:
          - Còn cô, cô là ai?
          - Tiểu nữ là cháu nội của Thuận-thiên hòang đế họ Lý tên Mỹ-Linh được phong công chúa Bình-Dương. Không biết tiên sinh có thù oán gì với họ Lý mà lại nguyền như vậy?
          - Giữa ta với Lý Công-Uẩn không thù không oán. Nhưng y cướp ngôi của nhà Lê, là điều sĩ dân trong thiên hạ không ai khâm phục cả.
          Trong đời Mỹ-Linh, nàng kính trọng ông nội như một vị thần. Nay nghe đại phu mạ lỵ ngài, nàng không chịu được:
          - Tiên sinh liệu lời mà nói. Tiểu nữ là con cháu người. Tiên sinh nhục mạ người như vậy thì tiểu nữ không để yên đâu.
          Đại-phu đổ quạu:
          - Văn, con bắt đứa con gái này ngậm miệng cho bố xem.
          Lê Văn hơi ngập ngừng một chút, rồi nó vung tay túm sau cổ Mỹ-Linh. Mỹ-Linh lạng người tránh, nhưng không kịp, Lê Văn đã túm được cổ nàng. Nàng há miệng định chửi, thì nhanh như chớp, Lê Văn nhét vào miệng nàng trái chuối cau. Nó mỉm cười:
          - Trời ơi chị xinh đẹp thế này, mà sao già mồm thế? Mời chị xơi trái chuối cau. Chuối cau Vạn-thảo sơn trang có tiếng thơm, và ngọt.
          Mỹ-Linh nhai trái chuối, nuốt cả vỏ. Nàng rút kiếm của Thanh-Mai đưa vào cổ Lê Văn bằng một chiêu thần tốc. Mọi người kêu thét lên, tưởng nó khó tránh khỏi cái chết. Không ngờ nó lộn đi một vòng, rồi bật người dậy. Nó tưởng như vậy là thoát khỏi lưỡi kiếm của nàng. Không ngờ khi nó bật người dậy thì mũi kiếm Mỹ-Linh đã di chuyển theo dí vào cổ nó. Biết gặp kình địch, nó né đầu tránh, rồi rút trong bọc ra một ống tiêu bằng trúc gạt kiếm Mỹ-Linh. Choang một tiếng, kiếm Mỹ-Linh vuột khỏi tay, bay lên cắm vào cột nhà.
          Cánh tay Mỹ-Linh gần như tê liệt.
          Nguyên Mỹ-Linh là đệ tử của phái Tiêu-sơn. Nàng mới học kiếm pháp Mê-linh do Tịnh-Huyền dạy. Mà kiếm pháp này lấy mau thắng chậm, lấy động chế tĩnh. Vì khinh thường nàng dùng kiếm dí vào cổ người, hóa ra lấy tĩnh chế động. Khi Lê Văn dùng ống tiêu gạt, đáng lẽ nàng phải biến chiêu để tránh sở đoản. Nàng lại giữ nguyên. Vì vậy kiếm bị bay mất.
          Mỹ-Linh chạy lại nhổ kiếm. Trong đầu óc nàng vang lên tiếng Tịnh-Huyền giảng:
          - Kiếm pháp lấy mau thắng chậm. Nếu học được 72 thức trấn môn, thì chiêu nọ nối với chiêu kia liên miên bất tuyệt, dù đối phương mạnh đến đâu cũng không sợ.
          72 thức trấn môn trong tấm bia đá hiện ra. Nàng nhẩm đi nhẩm lại, rồi vung kiếm tấn công nữa. Hồng-sơn đại-phu cười nhạt:
          - Được, cho cháu Lý Công-Uẩn, đấu với con ta, xem ai thắng, ai bại.
          Mỹ-Linh đánh bốn chiêu. Bốn chiêu nối liền thành một dây, khiến Lê Văn phải lui lại ba bước mới tránh khỏi.
          Hồng-Sơn đại-phu thấy chiêu kiếm của Mỹ-Linh hung hiểm lạ thường, lão hỏi:
          - Này cô nương. Cô nương ra bốn chiêu kiếm liền, đúng là Mê-linh kiếm pháp. Đến chiêu thứ tư chiêu thức không đổi. Thế nhưng biến hoá khác thường. Phải chăng cô nương tự chế ra?
          Thực ra bốn chiêu đều là Mê-linh kiếm pháp, song chiêu thứ tư Mỹ-Linh áp dụng phép kết hợp của 72 thức trấn môn, nên linh diệu khác thường.
          Mỹ-Linh đã có một ý niệm về việc xử dụng kiếm pháp Long-biên. Nàng lại xuất liền một dây mười chiêu. Chiêu nọ nối với chiêu kia, khiến Lê Văn chỉ còn lo chống đỡ. Đến chiêu thứ mười bốn, thì ống tiêu bị văng lên không. Mỹ-Linh chưa có kinh nghiệm chiến đấu. Nàng tần ngần đứng nhìn đối thủ.
          Từ Hồng-sơn đại-phu cho đến Thanh-Mai đều kinh ngạc, rõ ràng Mỹ-Linh ra chiêu ngượng ngập như người mới học. Kiếm pháp của nàng là kiếm pháp Long-biên, thế mà dường như các chiêu biến hóa lạ lùng, không ai ngờ tới. Hồng-sơn đại phu bảo con:
          - Thằng vô dụng, mi thua rồi, lui lại đi.
          Tất cả những người hiện diện đều biết rằng võ công, công lực Mỹ-Linh thua Lê Văn xa. Khi nàng xử dụng kiếm lần đầu rõ ràng còn bỡ ngỡ. Sau khi thất bại, nàng đổi đi một chút khiến Lê Văn bị thua.
          Thiếu phụ đeo kiếm hỏi Mỹ-Linh:
          - Này công chúa. Tại hạ nghe nói công chúa học võ với Khai-quốc vương. Mà Khai-quốc vương là đệ tử phái Tiêu-sơn, tại sao công chúa biết xử dụng kiếm pháp Long-biên của phái Mê-linh?
          Mỹ-Linh vốn tính chân thật, nàng đáp:
          - Tôi học kiếm với thái cô.
          Hồng-sơn đại-phu lên tiếng gọi:
          - Thiếu-Mai đâu.
          Một thiếu nữ trong nhà chạy ra. Thanh-Mai nhận ra, nàng là thiếu nữ đi cùng Lê Văn hôm trước. Võ công nàng cực cao, chỉ cần đánh một chiêu, hai anh em Triệu Huy đều lạc bại.
          Hồng-Sơn đại phu chỉ Mỹ-Linh:
          - Cô nương đây là công chúa Bình-dương, cháu Lý Công-Uẩn. Ba chiêu đầu cô bị thua Lê Văn, đến chiêu thứ tư, thì cô biến đổi kiếm pháp, khiến y bị thua. Con hãy lĩnh giáo mấy chiêu kiếm của cô cho bố xem.
          Thiếu nữ mỉm cười nói với Mỹ-Linh:
          - Mời công chúa.
          Mỹ-Linh biết muôn ngàn lần mình không phải đối thủ của Thiếu-Mai. Nàng ước đoán bản lĩnh Thiếu-Mai còn cao hơn Tạ Sơn với chú nàng một bậc. Tuy vậy nàng nghĩ:
          - Nàng này tuổi tác, võ công hơn mình xa. Chắc nàng không đả thương mình đâu. Đã vậy mình cứ tấn công, không cần thủ.
          Nàng vung kiếm đánh xéo từ dưới lên trên. Thiếu-Mai né tránh dễ dàng. Mỹ-Linh thuận tay đánh chiêu khác, thiếu nữ cũng né tránh. Cứ thế Mỹ-Linh đánh hết 72 chiêu Long-biên kiếm pháp.
          Thiếu nữ bảo Mỹ-Linh:
          - Cô nương mơí xử dụng Long-biên kiếm pháp lần đầu, còn thô sơ lắm. Thôi mời cô nương ra sân ôn lại đi. Khi nào thành thạo, ta sẽ đùa với cô nương.
          Nói rồi nàng đẩy một chưởng. Mỹ-Linh bay bổng ra giữa sân. Nàng đáp xuống cạnh bụi hoa trà. Nhìn nụ cười khinh khi của Thiếu-Mai, Mỹ-Linh tức ứa máu lên cổ. Nàng nhủ thầm:
          - Ta học nghệ không tinh, để người khinh khiến ông nội. Tại sao ta không luyện kiếm tại đây được?
          Nàng luyện lại 72 thức Long-biên kiếm pháp, rồi chuyển ra biến hóa. Mỗi thức có 36 chiêu thành 2592 chiêu.
          Hồng-Sơn đại-phu không thèm đếm xỉa đến Mỹ-Linh, quay lại hỏi Thanh-Mai:
          - Còn cô nương. Cô nương có phải là công chúa nữa chăng?
          Thanh-Mai thản nhiên:
          - Thưa tiên sinh, tiểu nữ họ Trần, tên Thanh-Mai thuộc phái Đông-a.
          Mặt ông trầm tĩnh trở lại:
          - Cô với Côi-sơn đại hiệp là chỗ thế nào?
          - Tiểu nữ là con gái của người.
          Đại-phu phóng chưởng tấn công Thanh-Mai liền. Chưởng chưa ra, mà nàng đã cảm thấy ngộp thở. Biết nguy hiểm, nàng vận đủ mười thành công lực xuất chiêu Đông-hải lưu phong, chân bước lui một bước để hóa giải bớt kình lực đối phương. Bình một tiếng. Nàng lảo đảo lui lại. Cánh tay như tê liệt. Nàng kinh hãi nghĩ:
          - Quái nhân này nổi tiếng là thần-y đương thời, tính tình cổ quái đã đành, mà võ công cực kỳ cao thâm. Chiêu vừa rồi ông ta chỉ vận có ba thành cộng lực, chứ nếu ông ta mạnh tay thì mình còn sống thế nào được?
          Đại-phu cười khành khạch, vỗ đầu Thanh-Mai:
          - Đúng, cháu đúng là con người bạn ta. Thế nào bố vẫn mạnh khỏe chứ?
          - Thưa tiên sinh, thì ra tiên sinh là bạn của bố cháu?
          - Chúng ta chơi với nhau từ hồi còn để chỏm. Đã lâu lắm rồi ta không gặp bố cháu.
          Bỗng mặt ông nhăn lại:
          - Chiêu Đông-hải lưu phong vừa rồi của cháu quả đúng là võ công phải Đông-a, nhưng dường như nội công thì không hoàn toàn đúng.
          - Thưa sư bá, quả như sư bá dạy.
          Rồi nàng kể truyện Huệ-Sinh dạy Thiền-công cho nàng như thế nào. Đại-phu cười:
          - À thì ra thế. Lão thầy chùa Huệ-Sinh đâu rồi?
          - Đại sư hiện đang ở chùa Sơn-tĩnh.
          Đại-phu nhảy phắt lên:
          - Sơn-tĩnh à? Tại sao lão lại ở Sơn-tĩnh. Đến đó coi chừng thằng thầy chùa ăn thịt chó Nguyên-Hạnh nó hại ngầm thì đi đời.
          Ông ngồi vuốt tóc Thanh-Mai:
          - Hà hà, bạn ta có đứa con gái vừa xinh đẹp, vừa giỏi võ. Cháu phải ở đây với ta, ta dạy cháu tất cả bản lĩnh chữa bệnh của ta. Ừ, cháu mà học được nghề thuốc, rồi đi khắp nơi trị bệnh cho dân chúng, thì tuyệt.
          Thanh-Mai thấy tính tình ông thất thường. Yêu ai thì yêu hết lòng, ghét ai thì ghét cả họ hàng nhà người ta. Ông muốn dạy nàng, mà không hỏi ý kiến bố nàng đã đành, đến nàng ông cũng không cho phát biểu ý kiến. Chợt ông chỉ Bảo-Hòa, hỏi Thanh-Mai:
          - Cháu ngoan, tại sao cháu lại đi chung với mấy đứa cháu Lý Công-Uẩn?
          Thanh-Mai kể sơ lược truyện nàng gặp Mỹ-Linh với Bảo-Hòa cho ông nghe, rồi tiếp:
          - Nếu sư bá có hiềm khích với triều Lý, thì cũng nên nghĩ tới lạc hầu Thân Thiệu-Anh mà trị cho cháu gái người.
          Đại-phu gọi Bảo-Hòa:
          - Để ta nói cho cô biết tại sao ta lại cũng có thù với ông nội cô. Thủa thiếu thời, ta thường cầm quân chinh phạt vùng núi rừng Bắc biên. Ta gặp một người võ công cực cao, đang thống lĩnh 207 khê-động miền Bắc. Y với ta kết làm huynh đệ. Chính ta dạy y chế thuốc Nhuyễn-cân. Không ngờ khi vua Lê Ngọa-triều tại vị. Y chỉnh đốn binh mã định đem quân về đánh. Vừa lúc đó Lê Ngọa-triều băng hà. Y làm áp lực bắt triều thần phải tôn Lý Công-Uẩn lên ngôi vua, bằng không y kéo quân về. Quần hào sợ nội chiến, phải tôn Lý lên làm vua. Do vậy nhà Lê mất nghiệp.
          Ông thở dài buồn bã:
          - Vì vậy ta bẻ đũa thề, tuyệt tình với Thân Thiệu-Anh. Ta là kẻ thù của Lý Công-Uẩn và Thân Thiệu-Anh.
          Mắt phượng quắc lên, Bảo-Hòa đứng dậy:
          - Ta thà chết chứ không để người thù của ông ngoại chữa cho ta. Mỹ-Linh, chúng ta đi thôi.
          Hồng-Sơn đại-phu búng tay một cái, bốn viên thuốc bay ra với tốc độ quay cực nhanh, nhưng đi rất chậm, bật lên những tiếng vo vo, inh tai nhức óc hướng ba người, Thân Bảo-Hòa, Lê Phụng-Hiểu, Trần Thanh-Mai. Ba người vung tay bắt. Khi thuốc sắp tới tay, thì tan ra thành bụi. Một mùi hương thơm nồng nực bốc lên. Ba người lảo đảo ngã ngồi xuống. Lão vẫy tay một cái một thiếu nữ sau màn bước. Lão chỉ Thanh-Mai:
          - Con bé này là con gái yêu của bạn ta. Nó đang bị mệt. Các người đem vào phòng Vạn-hương nằm nghỉ. Ta vừa cho nó hấp một viên thuốc định thần, khi nó thức, các người nấu cháo cá quả cho nó ăn.
          Lão chỉ vào bọn Bảo-Hòa:
          - Ta bắn ra ba viên thuốc, nhưng con bạn ta thì được hấp thuốc định thần. Còn các người thì ta cho thưởng thức Hàn-ngọc đan. Các người tưởng Vạn thảo sơn-trang là chỗ ai muốn đến thì đến, muốn đi thì đi hẳn. Các người đã hỗn hào với ta, thì ta làm cho muốn sống không xong, muốn chết không được. Các người chịu khó nằm đó, cho đến khi nào con bé Mỹ-Linh kia thắng được Thiếu-Mai, ta sẽ chữa cho, và tha về.
          Từ đầu đến cuối, hai nhóm người đến xin chữa bệnh ngồi im không lên tiếng. Bây gìơ đại-phu mới chú ý đến. Ông hỏi:
          - Các vị là ai?
          Trung niên thiếu phụ chỉ vào đứa con tên Mẫn:
          - Thưa tiên sinh, chúng tôi cầu tiên sinh chữa cho đứa con của chúng tôi.
          Đại-phu nắm tay, cầm mạch đứa nhỏ, trầm ngâm một lúc rồi nói:
          - À bệnh này thì những cái thứ lang băm chữa không được đâu. Có phải tư hồi sáu bẩy tháng, nó bị lên cơn sốt, rồi bị ho, bị đau cổ họng. Bà tìm thày thuốc. Thày cho uống Ma-hòang, Quế-chi, Sinh-khương, Cam-thảo. Bệnh khỏi. Nhưng chỉ ít lâu lại tái phát. Và cứ thế kéo dài năm này qua năm khác. Đến năm thứ ba, nó biến thành suyễn, thầy lang lại cho uống Ma-hòang, Cam- thảo, Hạnh-nhân, Thạch-cao. Bệnh suyễn hết, nhưng từ đấy chân tay nó bị lạnh, ăn không được, chứng suyễn cứ phát đi, phát lại hòai.
          Trung niên nam tử chắp tay:
          - Đúng như tiên sinh dạy. Chẳng dấu gì tiên sinh, chính tôi là thầy lang chữa cho con tôi. Tiên sinh đã biết tường tận, hẳn có thể cứu được cháu.
          - Cứu thì cứu được. Trước khi điều trị, tôi cần biết căn cước các vị.
          Thiếu phụ khai:
          - Chồng tôi họ Trịnh tên Thư, hiện làm nghề buôn bán, cũng biết chút ít y lý, nên thường hay tự chữa bệnh cho vợ con. Chúng tôi quê ở Đồn-sơn. Nhà chỉ có hai đứa con trai.
          Đại-phu gật đầu:
          - Như vậy con ông bà đủ điều kiện được điều trị. Để tôi nói về chứng bệnh thằng bé cho ông bà nghe. Con người ta chia làm hai phần là Tiên thiên khí và Hậu thiên khí. Khởi đầu, con người chỉ là hạt tinh khí của cha, bắn vào bà mẹ. Tinh khí đó được bào cung của mẹ nuôi dưỡng bằng nguyên-khí cho đến lúc sinh ra. Tinh-khí của cha, Nguyên-khí của mẹ hợp lại thành Tiên thiên khí. Sau khi người ta sinh ra, thở hít khí trời tức Thiên-khí, ăn uống thực vật là Địa-khí. Thiên-khí, Địa-khí thành Hậu-thiên khí. Bệnh của con người chia làm hai loại. Một là do Tiên-thiên-khí hai là do Hậu-thiên-khí. Bệnh của cháu thuộc Tiên-thiên-khí. Trong khi ông bà giao-hợp ,nhằm giữa lúc người ông đang bị bệnh phổi, họăc bị đau bao tử, vì vậy cháu mới bị loại bệnh này. Hoặc gỉa trong khi bị bệnh, bà ăn nhiều thức ăn khó tiêu, thành ra Tiên-thiên-khí của cháu yếu đuối. Khi Tiên-thiên-khí yếu đuối, thì sự hấp thụ hậu thiên kém đi, sinh ra khí huyết đều hư.
          Ông sờ tay lên bụng thằng bé, rồi tiếp:
          - Khí huyết hư nhựơc, bị ngoại tà xâm nhập qua đường da, đường hô hấp. Thầy lang cho uống Ma-hòang, có vị cay, tính lại nóng. Cay thì làm hàn tan, nóng để trị hàn. Ma-hòang có tính chất làm ra mồ hôi. Quế-chi tính cũng cay, nhiệt, lại làm thông dương khí, trị phong hàn rất tốt. Sinh-khương tính ấm, giải biểu phụ với Ma-hòang, Quế-chi. Bệnh cảm của cháu khỏi. Nhưng khỏi rồi, mấy hôm sau phong hàn lại tái nhập. Cứ như thế trong nhiều năm, tà nhập vào tới phế. Phế tạng bị hư, thành suyễn.
          Ông ấn tay vào lưng đứa trẻ:
          - Thầy lang cho uống Ma-hoàng, đúng, Hạnh-nhân để khỏi ngứa cổ, trị ho đúng. Thạch-cao tính hàn, hạ nhiệt. Đúng. Nhưng trong khi gốc của bệnh là khí huyết hư nhược vẫn còn. Nếu cứ dùng công phạt như thế mãi, thì tà tuy trục ra, mà bệnh nhân khô kiệt rồi chết. Đối với đứa trẻ này, phải dùng phép phù chính. Tức phải bổ Tiên-thiên khi, cùng bổ Hậu-thiên khí.
          Ông cầm bút viết:

          Phục-linh một tiền,
          Nhân-sâm nửa tiền,
          Bạch-truật một tiền,
          Quế-chi nửa tiền,
          Cam thảo ba miếng.


          Ông gọi tiểu đồng:
          - Con đem thuốc đổ vào siêu, cho ba bát nước, khi còn nửa bát đem cho thằng bé này uống.
          Trịnh Thư hỏi:
          - Thưa tiên-sinh, tại hạ không hiểu nguyên lý của thang thuốc này. Xin tiên sinh giải cho.
          - Gốc bệnh của cháu là tỳ vị hư nhược. Phục-linh bổ tỳ. Tỳ là gốc của sự vận khí. Khi tỳ mạnh, cháu ăn uống ngon. Bạch-thuật cùng tính năng như Phục-linh. Phụ với Phục-linh. Nhân-sâm để bổ Tiên-thiên khí, cùng bổ thận khí. Quế-chi dương tính mạnh, thông dương, trợ tâm khí. Còn Cam-thảo là dược vị hòa Trung-tiêu mà thôi.
          Thình lình đứa trẻ ho mấy tiếng, rồi lên cơn suyễn, khò khè trong cổ. Ông mỉm cười:
          - Không hề gì. Ta trị suyễn bằng châm cứu.
          Ông cầm kin châm vào huyệt Đại-trữ, Phong-môn, Phế-du, Khuyết-âm-du dùng tay xoay kim. Trong cổ thằng bé hết khò khè liền. Ông lật thằng bé dậy, châm vào huyệt Thiên-đột, Hiệp-cốc, rồi xoay kim. Chỉ trong vòng hai mươi tiếng đập tim, thằng bé thở như thường.
          Đến đó tiểu đồng mang thuốc ra cho thằng bé uống. Ông dặn:
          - Ông bà dẫn cháu về làng Vạn-thảo nghỉ ngơi. Mai lại đem cháu tới, tôi trị tiếp.
          Vợ chồng Trịnh Thư chắp tay:
          - Còn tiền tạ thầy thế nào, mong tiên sinh dậy cho.
          - Không vội, hãy lo cứu đứa bé này đã. Tạ với biếu làm gì vội. Đợi khỏi bệnh rồi ta mới nhận tạ.
          Vợ chồng Trịnh Thư dắt con, tạ từ lão rồi ra cửa. Bây giờ ông mới hỏi Lê Văn:
          - Còn ai không?
          - Thưa bố còn một người bệnh nữa. Để con mời vào.
          Lê Văn dẫn thiếu phụ đi với cô gái có đôi mắt đẹp vào. Đại phu hỏi thiếu phụ:
          - Thưa bà. Bà cần ta điều trị cho ai?
          Thiếu phụ cùng người đàn ông đang nằm bất động thấy vị đại phu rất quen mặt, mà không nhận ra là ai. Bà chỉ người đàn ông đang nằm bất động, nói:
          - Thưa tiên-sinh, cháu không có bệnh gì. Người bị bệnh là bố cháu. Bố cháu họ Lâm tên Tín làm nghề đánh cá.
          - Bà có phải là tộc thuộc họ Lý họăc người Tầu không?
          - Thưa không. Có điều...
          - Không có điều gì cả. Bà không ở trong hai điều đó là được rồi.
          Người đàn bà lạy thụp xuống đất:
          - Thưa tiên sinh, mong tiên sinh cứu chồng tôi. Nguyên cách đây mười năm, một đêm bị lên cơn sốt mê mệt. Hôm sau cổ tay phải sưng lớn. Thầy lang cho uống thuốc trấn thống, bẩy ngày sau thì khỏi. Thế rồi sau đó khi thì nửa tháng, khi thì một tháng bệnh tái phát. Dần dần hai đầu gối sưng lớn, xương méo đi. Hiện nay cổ, hai cùi chỏ, cườm tay, đầu gối sưng, xương méo hết. Chân tay phù thủng, đi, đứng không được.
          Ông bắt mạch, xem lưỡi bệnh nhân, rồi nói:
          - Bệnh của ông không có gì đáng ngại cả. Ông ta bị phong thấp lâu ngày, trị không khỏi, rồi nó chạy vào xương. Y học cổ gọi là tý chứng. Bà đi một mình với ông, hay còn có ai đi theo?
          Thiếu phụ chỉ ra ngoài:
          - Tôi còn cháu gái đi theo. Vì không có lệnh của tiên sinh, cháu không dám vào.
          Bà gọi vọng ra ngòai:
          - Huệ-Phương. Đại phu truyền con vào.
          Cô gái có đôi mắt đẹp bước vào. Cô trông thấy Hồng-Sơn đại phu thì đứng dừng lại, bật lên tiếng kêu:
          - Là... là... tiên sinh đấy sao?
          Hồng-Sơn đại phu quên mất xung quanh ông còn nhiều học trò, bệnh nhân. Ông ngỡ ngàng:
          - Huệ-Phương. Huệ-Phương. Ta tưởng kiếp này không gặp lại cô nương nữa.
          Huệ-Phương cũng không tự chủ được, nàng ngã vào lòng ông. Đám đệ tử cùng con cháu ông vội giải tán. Trong phòng chỉ còn lại bố mẹ Huệ-Phương.
          Hai người ôm nhau một lúc, rồi ông buông nàng ra. Nước mắt như mưa, nàng nói:
          - Em đi tìm anh khắp đất nước Đại-Việt, sang cả Trung-quốc hai năm qua mà không gặp. Nào ngờ... nào ngờ ông trời có mắt.
          Hình ảnh hai năm cũ trở về. Bấy giờ Huệ-Phương là cô gái 17 tuổi, nổi tiếng văn hay chữ tốt, thi thư đều thông. Nàng lại là đệ tử của phái Sài-Sơn, nên từ may mặc đến bếp núc đều hay. Nhan sắc nàng có một không hai. Không biết bao nhiêu người đến đánh tiếng hỏi, mà bố mẹ nàng không nhận lời.
          Vào một ngày mùa đông, mưa phùn gió lạnh. Bố nàng bị đau nặng. Nàng phải đội mưa đi tìm thầy lang. Không ngờ tìm hết thầy này đến thầy khác, không thầy nào nhận lời. Quá mệt mỏi, nàng bị xỉu trên đường đi.
          Giữa lúc đó, một trung niên nam tử cỡi ngựa đi qua. Ông thấy một thiếu nữ nằm bên đường, vội nhảy xuống cứu. Nhưng ông là đàn ông, nàng là gái, làm sao bây giờ? Ông phải tùng quyền ôm nàng lên ngựa, rồi dùng ngón tay chỏ điếm huyệt Nhân-trung cho nàng. Nàng từ từ mở mắt ra, nhưng người run lên vì lạnh. Ông đành ôm chặt nàng vào lòng, rồi phi ngựa đi tìm quán trọ. Vào quán, ông nhờ đốt lò sưởi cho nàng sưởi, tuy nhiên tay vẫn để vào huyệt Đản-trung của nàng mà truyền chân khí cứu cấp. Huyệt Đản-trung nằm trên ngực, giao điểm của trung tuyến ngực với đường nối hai đỉnh vú. Sáng hôm sau nàng tỉnh hẳn. Ông đưa nàng về nhà, rồi từ biệt lên đường. Trung niên nam tử đó là Hồng-Sơn đại-phu.
          Sau cuộc cấp cứu đó, tình cảm nảy sinh. Ông tương tư Huệ-Phương. Ngược lại Huệ-Phương cũng tương tư ông. Mấy tháng sau, không chịu được thương nhớ, ông trở lại tìm Huệ-Phương, thì bố mẹ cho biết tại triều có chiếu chỉ thiên tử tìm một trăm con gái đẹp tiến cung. Huệ-Phương có tên trong danh sách. Trong một trăm cô gái, Huệ-Phương được một hoàng tử lọt mắt xanh, tuyển làm phi tần. Trước khi lên đường, nàng khóc lóc thảm thiết, thú thực mối tình với bố mẹ. Nàng lấy bộ quần áo, cùng chiếc khăn mà nàng mang hôm gặp Hồng-Sơn đưa gửi bố mẹ, nói rằng thế nào ông cũng trở lại. Vậy xin trao khăn, quần áo cho ông. Hẹn kiếp sau tái ngộ.
          Ông nhận cái áo cánh mầu nâu, cái quần lụa đen và cái khăn hồng quàng cổ trở về sơn trang. Cứ đêm đêm. Ông đem áo, quần, khăn của nàng ra hít lấy hơi, tìm lại hương hoa ngày cũ. Nhiều khi ông muốn mạo hiểm vào cung, tìm nàng, giải thoát mang về đây, nhưng rồi lại chần chờ. Hôm nay, sau mấy năm thương nhớ, nàng lại hiện đến.
          Huệ-Phương ngồi ngay ngắn, sửa lại y phục, rồi hỏi đại-phu:
          - Anh ơi! Bệnh này do đâu mà có?
          - Bệnh này thuộc vào loại hỗn hợp, một nửa do ngoại tà ở ngoài xâm nhập. Một nửa do cơ thể suy nhược sinh ra. Đầu tiên do huyết hư, tỳ dương hư, thận dương hư, rồi phong, thấp, hàn xâm nhập mà thành.
          Huệ-Phương ngơ ngác không hiểu. Khi ngơ ngác, đôi mắt nàng đẹp lạ lùng. Hồng-sơn đại-phu giảng:
          - Cơ thể con người cũng như vũ trụ, phân làm âm, dương. Khí là dương, huyết là âm. Ngũ tạng là tâm, can, tỳ, phế, thận là âm. Lục phủ đại-trường, tiểu trường, tam-tiêu, bàng-quang, vị, đởm là dương. Nhưng trời đất sinh ra trong âm có dương, trong dương có âm. Vì vậy thận cũng phân ra thận âm, thận dương. Tâm phân ra tâm âm, tâm dương... Cơ thể con người cần điều hòa âm dương. Nếu âm dương bất điệu sinh ra bệnh. Mỗi tạng, mỗi phủ đều có khí âm dương chống bệnh. Dương chống âm, âm chống dương.
          Huệ-Phương bật lên tiếng « a »:
          - Em hiểu rồi. Để em nói xem có đúng không nghe. Cứ như anh nói, cơ thể của bố em bị huyết hư. Huyết là âm. Khi âm huyết không đủ thì phong tà xâm nhập. Như vậy phong là dương tà.
          Đại-phu giật mình:
          - Em thông minh thực, chỉ thoáng một cái đã đoán ra. Cơ thể thân phụ em bị huyết hư, nên phong tà nhập. Thận dương hư bị hàn nhập. Bởi thận dương chủ chống với ngoại hàn. Khi thận dương hư, thì hàn tà nhập. Cuối cùng tỳ chủ vận hóa thủy thấp. Khi tỳ dương hư, thì thủy thấp nhập cơ thể. Kết lại vì huyết, thận, tỳ hư, nên phong, hàn, thấp nhập cơ thể.
          Mỹ-Linh đang luyện kiếm ngoài sân, lời đối đáp của đại phu cùng Huệ-Phương lọt vào tai nàng. Nàng nhớ lại, thầy dạy văn của nàng là Lý Đạo-Thành đã giảng Kinh-dịch cho nàng rất tường tận. Thái-cực sinh Lữơng nghi là âm dương. Lưỡng nghi sinh Tứ-tượng. Tức là trong âm cũng sinh ra âm dương. Trong dương cũng sinh âm dương nữa là Bát-quái. Trong 72 thức Long-biên kiếm pháp, mỗi thức biến ra 36 chiêu thành 2592 chiêu, nàng đã hiểu, cho nên khi biến từ 72 sang 2592 nàng thắng Lê-Văn. Bây giờ 2592 chiêu nàng biến ra âm, dương thành 5184 chiêu. Nhưng một chiêu đâm ra, thì thế nào là âm, thế nào là dương?
          Trong khi đó, đại-phu đang giảng cho Huệ-Phương:
          - Trong cơ thể con người thì trên là dương, dưới là âm. Phải là dương, trái là âm. Lưng là dương, bụng là âm. Cơ thể sao phải thăng bằng giữa khí và huyết, giữa phải và trái, giữa trên và dưới, giữa trước và sau. Như vậy thì trong người khỏe mạnh. Em đeo kiếm thì hẳn biết võ công. Khi xử dụng võ công em cũng phải phân ra công là đương, thủ là âm. Thở ra là âm, hít vào là dương. Như vậy sẽ không bị mệt mỏi.
          Huệ-Phương ngơ ngác:
          - Xin anh nói rõ hơn rõ hơn.
          Hồng-sơn đại-phu đối với Huệ-Phương cực kỳ nhu nhã. Ông cầm ống tiêu tà tà đưa ra một chiêu, rồi từ từ chuyển sang phải. Từ phải chuyển lên trên, rồi cười:
          - Như chiêu vừa rồi, anh đâm về trước. Từ trước anh có thể biến sang phải là dương hoặc sang trái là âm. Nhưng anh chuyển sang phải. Tại vị trí phải anh chuyển lên trên là dương, xuống dưới là âm. Mà này em ơi. Khi anh chuyển như vậy, em đâu có biết rằng anh vận sức hay không? Nếu vận sức là dương, không vận là âm. Trong khi ra chiêu, vận sức hay không chỉ mình mình biết. Khi vận sức là dương, là thực chiêu. Khi không vận sức là âm, là hư chiêu.
          Hôm ở dưới hầm đá, Mỹ-Linh thấy kiếm quyết thì học, chứ thực sự nàng không hiểu. Bây giờ nghe quái nhân kể, nàng mới bừng tỉnh ngộ:
          - Thì ra thế. Từ 72 thức. Mỗi thức có 36 chiêu thành 2592, cộng âm dương thành 5184. Nếu biến hóa tam hư thất thực thì có ba mươi sáu ngàn, ba trăm lẻ chín chiêu thực, và mười lăm ngàn năm trăm năm mươi hai chiêu hư. Tổng cộng 51.851 chiêu. Trong những chiêu đó, có 72 thức mối nối, nối liền các chiêu với nhau.
          Nghĩ vậy tay nàng múa kiếm như mây trôi, như nước chảy, liên miên bất tuyệt. Múa một lúc, nàng ngừng lại, vì trời đã tối.
          Lê Văn ra sân nói:
          - Công chúa, mời công chúa vào xơi cơm. Tôi nói nhỏ cho công chúa biết, bố tôi là người rất tốt. Tuy vậy đôi khi cố chấp. Công chúa yên tâm. Tôi có cách khuyên bố tôi. Công chúa đừng buồn.
          Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, Lê Phụng-Hiểu được đưa vào căn nhà bằng tre, trang trí toàn bằng tre. Lê Văn chỉ bàn:
          - Bố tôi giao cho tôi tiếp các vị. Mời các vị dùng chút ít thổ sản Vạn-thảo sơn trang.
          Mỹ-Linh nhìn lên bàn: có hai món ăn chính, mà nàng chưa từng biết.
          Lê Văn tủm tỉm cười:
          - Chắc công chúa chưa từng ăn qua các món này phải không?



          <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.01.2005 05:46:07 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9