Anh hùng Tiêu Sơn (từ hồi 21)
CDDLT 06.01.2005 18:05:45 (permalink)
Hồi thứ hai mươi mốt


Long Biên Kiếm Pháp



Lê Văn chỉ lên bàn:
- Vạn-thảo sơn-trang hân hạnh kính mời quí khách dùng chút ít thổ sản lấy thảo. Món đầu tiên là canh rau đay, mướp hương nấu với cua đồng. Chắc các vị cười rằng mướp hương, rau đay, cua đồng, đâu mà chẳng có, tại sao tại hạ lai đại ngôn rằng thổ sản bản trang?
Nó lấy trong chạn ra một quả mướp lớn bằng cổ tay. Khác với mướp thường, quả mướp này có năm múi như trái khế, da xanh ngắt, chư không xanh lợt như mướp thường:
- Đây là mướp hương, nấu với rau đay mới thơm. Còn nấu với mùng tơi thì hương giảm đi. Đay thường có hai lọai, đay đắng, trồng lấy vỏ làm dây, đan túi. Đay ngọt dùng nấu canh ăn. Đay Vạn-thảo của chúng tôi khác với đay khác là không có nhớt.
Bảo-Hòa thấy cảm tình với Lê Văn, nàng hỏi:
- Còn cua đồng, chắc cua đồng Vạn-thảo cũng khác với cua đồng nơi khác?
- Chị nói đúng. Xã Vạn-thảo nằm dưới chân núi, nước đồng Vạn-thảo do suối chảy xuống. Nước suối trong, sạch, mang theo mầu đất núi. Cua ăn mầu nước suối vừa béo, vừa không tanh. Các các vị nhìn đây, gạch cua đỏ tươi, riêu nổi lên nhiều hơn .
Từ lúc vào trang, Lê Phụng-Hiểu không nói một câu. Bây giờ chàng mới lên tiếng:
- Cậu Văn này, cậu nên nói về cách nấu canh cua đồng của mình khác với nơi khác cho quý khách nghe một thể.
Lê Văn nhìn Phụng-Hiểu:
- Dường như anh là trương-tuần của xã Vạn-thảo thì phải? Thực là quít làm, cam chịu. Vì mấy chị này cứng đầu mà anh bị giam. Thôi, đừng buồn nghe.
Quay lại phía Mỹ-Linh, Lê Văn nói:
- Cách nấu canh rau đay, cua đồng như thế này. Rau thái thực nhỏ, nhỏ như sợi tóc càng tốt. Nếu là đay Vạn-thảo, thì nấu luôn. Còn đay các nơi khác phải vò trong rá vo gạo, rồi rửa sạch nhớt đi. Mướp thì gọt vỏ, thái thành từng miếng nhỏ bằng đầu ngón tay. Cua đồng đem lột mai để riêng. Còn lại thân cua, cho vào cối dã thực nhuyễn, sau đó cho vào rá đồ với nước. Đồ xong, phải gạn nước mầu cẩn thận, vì khi dã cua, vỏ cua tan ra thành sạn. Sạn nặng, chìm xuống dưới. Nếu không gạn, nấu cả sạn, ăn vào, ê răng chết.
Nó chỉ vào cái nồi đất trên bàn:
- Bây giờ, nấu canh. Cho nước mầu, rau đay, mướp vào nồi nấu. Nhớ thêm một muỗm mắm tôm. Trong khi đó mai cua, ta dùng tăm ngoáy gạch vào cái bát. Đợi khi canh sôi, cho gạch vào. Rau đay, mướp hương mau chín, chỉ cần sôi hai đợt là phải bắt ra.
Miệng nói tay nó cầm muôi múc canh vào, bắt đặt trước mặt mọi người:
- Mời các vị húp thử.
Mỹ-Linh bưng bát húp một hơi, hương vị xông lên ngạt ngào.
Lê Văn chỉ vào một đĩa cà pháo:
- Cà pháo Vạn-thảo muối chua, chấm mắm tôm, ăn với canh rau đay, mới hợp cách.
Miệng nói Lê Văn xới cơm mời khách. Nó tiếp:
- Trang Vạn-thảo chúng tôi có 9 ngọn suối chảy xuống khe đá. Nước từ khe đá đổ ra cánh đồng. Trên cánh đồng sinh sản ra loại cá bống mít. Cá bống mít kho với hạt tiêu mới thực là ngon.
Mỹ-Linh thấy Lê Văn quả thực cởi mở, vui vẻ, hiếu khách, khác với ông bố, vui, buồn thất thường. Bảo-Hòa bị bệnh nặng, người nàng mề mệt, tuy vậy thấy thái độ của Lê Văn, nàng giảm bớt phần nào ác cảm với Hồng-Sơn đại phu. Nàng hỏi:
- Cá bống là cá bống, chứ tại sao là cá bống mít?
- Cá bống có hai lọai. Cá bống thường, da hơi vàng, dài bằng hai ngón tay. Ăn cũng ngon. Còn một loại cá bống nữa, thân hình tròn như hạt mít, da mầu tím, khi bụng chửa, buồng trứng căng lên, càng chắc nịch. Cá bống mít kho khô như thến này, ăn mới có mùi thơm.
Một là lạ miệng, hai là đói, Mỹ-Linh, Bảo-Hòa ăn nhiều gấp đôi ngày thường. Bảo-Hòa hỏi:
- Này cậu Văn, không hiểu tại sao đại phu lại thù oán ông ngọai tôi, mà cậu lại tử tế với bọn tôi?
- Có gì mà không hiểu. Bố tôi thù họ Lý vì họ Lý cướp ngôi vua của họ Lê. Mà bố tôi thuộc giòng giống vua Lê. Còn tôi, tôi không thích bố tôi làm vua, nên tôi không thù họ Lý.
Vì Lê Văn chỉ nhỏ hơn Bảo-Hòa, Mỹ-Linh ba bốn tuổi, vì vậy họ dễ thân thiện với nhau. Bảo-Hòa hỏi:
- Cứ như nội công, ngoại công của cậu, cao hơn Mỹ-Linh nhiều. Thế mà thình lình Mỹ-Linh thắng cậu, cậu có buồn không?
Lê Văn cười:
- Buồn gì mà buồn, đấu võ phải có khi thắng khi bại, chứ có đâu thắng mãi thì chán chết. Chị Mỹ-Linh, tôi biết Mê-linh kiếm pháp của chị, chị mới xử dụng lần đầu. Song có điều chị biến hóa đi, tôi giả vờ thua. Tôi biết làm vậy bố tôi buồn. Nhưng tôi không nỡ thẳng tay với người bệnh, nhất là người bệnh lại xinh đẹp như tiên nữ. Ước gì tôi có bà chị đẹp như hai chị. Trong khi chị chiết chiêu với chị tôi, chị bị tấn công quá không kịp suy nghĩ, tôi phân biệt được kiếm pháp của chị chỉ có 72 thức, mỗi thức biến hóa ra 36 chiêu.
Mỹ-Linh muốn thăm dò căn bản võ công của Lê-Văn, nàng nói:
- Bây giờ chúng ta đấu lại. Tôi chỉ dùng những chiêu thức căn bản xem cậu có thắng được tôi không?
Lê-Văn gật đầu:
- Tôi chỉ muốn thua chị. Chị đẹp như thế này, tôi có bổn phận phải thua. Nhưng chị muốn mượn tôi để luyện kiếm, thì tôi ráng làm vui lòng chị. Bây giờ thế này, nếu tôi thắng thì tất cả người bên chị phải ăn một bát ớt hiểm. Ngược lại tôi thua, thì phải gọi các chị bằng chị cả đời.
Nó nói sẽ:
- Tôi sẽ ăn cắp thuốc giải của bố tôi cho các chị uống.
Bảo-Hòa, Mỹ-Linh tìm thấy ở Lê Văn một con người mẫn tiệp, rộng rãi, tự nhiên họ nhớ tới Tự-Mai, không biết bây giờ ở đâu, làm gì?
Lê Văn lấy một thanh kiếm, bái tổ, nhường Mỹ-Linh ra chiêu trước. Mỹ-Linh cứ theo thứ tự từ thức thứ nhất, đến thức thứ 72, cùng biến chiêu diễn ra. Quả nhiên nàng không thể thắng được Lê Văn. Khi nàng đánh đến thức cuối cùng, lại trở về thức thứ nhất. Lê Văn đưa ngang kiếm, vận sức gạt mạnh. Choang một tiếng, kiếm Mỹ-Linh rơi xuống đất.
Lê Văn la lên:
- Chị thua rồi. Phải ăn ớt ngay.
Nói rồi Lê Văn lấy hai cái bát nhỏ, múc đầy ba bát ớt đỏ chói để trước mặt Bảo-Hòa, Mỹ-Linh, Lê Phụng-Hiểu:
- Quân tử nhất ngôn. Mời các vị xơi ớt.
Mỹ-Linh, Phụng-Hiểu kinh hoàng, vì làm sao nuốt nổi bát ơt hiểm? Còn Bảo-Hòa, vì tự ái, nàng bốc ớt bỏ vào miệng ăn. Không ngờ ớt không cay, mà lại ngọt, thơm tho vô cùng. Nàng định lên tiếng hỏi, thì Lê Văn nháy mắt lia lịa.
Biết có điều gì bí mật, nàng tiếp tục ăn hết bát ớt ngọt, đến quả cuối cùng mới thấy cay muốn cắt họng. Lê Văn ra hiệu bảo nuốt, nàng nuốt luôn. Mỹ-Linh, Phụng-Hiểu không hiểu gì, cũng bốc ớt ăn. Lạ một điều, sau khi ăn xong, bao nhiêu cái mệt mỏi của phấn Nhuyễn-cân biến đâu mất.
Lê Văn nói lớn:
- Nào bây giờ chị Mỹ-Linh luyện kiếm với tôi nữa đi chứ?
Mỹ-Linh là người thông minh tuyệt đỉnh. Nàng biết Lê Văn cho mình ăn thứ trái cây gì đó giống trái ớt, vừa thơm vừa ngọt. Trong bát ớt chỉ có một trái ớt cực kỳ cay. Nàng cảm động, cầm kiếm tà tà đánh ra. Bây giờ nàng áp dụng phép biến hóa phân âm-dương. Kiếm chiêu bay lượn đẹp vô cùng. Tay phải xử dụng kiếm. Tay trái bắt kiếm quyết. Thời gian ứơc hơn giờ, nàng đã đánh hết tất cả các thức, cùng biến hóa âm dương.
Lê Văn cười:
_ Bây giờ mỗi chiêu chị lại biến hóa đi, kiếm pháp trở thành phức tạp vô cùng. Thôi chúng ta tạm nghỉ, mai tiếp tục.
Lê Văn dẫn Bảo-Hòa, Mỹ-Linh đến một căn sàn nhà tre, bắc ngang qua suối. Nó thoăn thoắt leo thang lên trước, lấy đá đánh lửa, đốt đèn:
- Căn nhà này, Sơn-trang dùng cho bệnh nhân nghỉ lại. Trong có bốn cái dường. Chị Bảo-Hòa với Mỹ-Linh nghỉ tại đây. Còn anh Phụng-Hiểu sẽ có chỗ ngủ riêng. Tôi xin nói trước, trong trang có rất nhiều cây cỏ độc. Các chị đừng có dại mà trốn đi, nguy hiểm lắm. Ngày mai, tôi sẽ xin bố tôi tha cho các chị.
Nói dứt, nó dẫn Phụng-Hiểu rời nhà sàn đi về hướng chân núi.
Mỹ-Linh bàn:
- Chị Bảo-Hòa này. Từ lúc rời đền thờ Tương-liệt đại-vương, em thấy chị luôn luôn viết thư, nhận thư từ đôi chim ưng. Chị liên lạc với ai vậy?
Bảo-Hòa mỉm cười:
- Em thử đoán xem? Em mà đoán được, chị mới phục.
- Cũng dễ thôi. Thứ nhất chim ưng không phải của chị. Dễ gì chị sai khiến mãi được. Chắc chị liên lạc với chủ nhân của chim ưng phải không?
Bảo-Hòa lắc đầu:
- Sai. Chị liên lạc với anh Thiệu-Thái.
Nghe nói đến Thiệu-Thái, mặt Mỹ-Linh nóng bừng lên. Nàng muốn hỏi thăm, mà tự nhiên khựng lại. Bảo-Hòa trêu:
- Mạ mạ gọi anh Thiệu-Thái về Lạng-châu gấp, vì tháng bẩy này phải làm lễ cưới rồi.
Mỹ-Linh muốn nghẹn thở. Không tự chủ được, nước mắt chảy quanh. Bảo-Hòa tuyệt không ngờ cô em họ mình lại dễ tin, dễ súc cảm như vậy. Ngay từ hôm gặp nhau, nàng đã biết giữa Mỹ-Linh với Thiệu-Thái nảy sinh mối nhu tình. Muốn thử Mỹ-Linh, nàng nói đùa một câu, nào ngờ Mỹ-Linh khóc.
Bảo-Hòa nghĩ thầm:
- Mạ mạ ta đã hỏi vợ cho anh Thiệu-Thái, không ngờ trong chuyến đi này anh Thái gặp Mỹ-Linh. Rồi đây sẽ ra sao?
Nàng tát yêu Mỹ-Linh:
- Chị nói đùa đấy. Anh Thiệu-Thái đã liên lạc được với cậu hai. Cậu hai sai anh Thiệu-Thái dùng chim ưng theo dõi hành trình của chúng ta.
Nghe đến chú hai, lòng Mỹ-Linh ấm lại. Từ khi mẹ nàng qua đời, Khai-quốc vương trở thành người thân nhất của nàng. Ông chú này vừa đóng vai ông thầy, vừa đóng vai bà mẹ, vừa đóng vai ông bố. Nàng nghĩ thầm: tại sao phụ vương ta lại không đầm ấm như chú hai? Tuy hỏi vậy, nàng tự trả lời được ngay chú hai không vợ, không con, cho nên ông có nhiều thời giờ săn sóc nàng. Còn phụ vương nàng, nhiều vợ đông con, thời giờ đâu săn sóc nàng nữa.
Chợt bảo-Hòa để tay lên miệng, ra hiệu cho Mỹ-Linh im lặng, vì có tiếng chân người đang đi về phía mình. Hai người lắng tai nghe. Có hai tiếng bước chân rõ rệt, một trầm-trọng, một nhẹ nhàng. Mỹ-Linh thua Bảo-Hòa về kinh nghiệm, lịch lãm. Chứ về nội công nàng cao hơn nhiều. Nàng lắng tai nghe, nói sẽ:
- Có hai người tất cả. Một người bước chân trầm trọng, chắc là một cao thủ, bản lãnh cỡ anh Tạ Sơn. Một người nhẹ nhàng, dường như là đàn bà hay trẻ con. Võ công bình thường thôi.
Bảo-Hòa bàn:
- Hai đứa mình leo lên cây nhãn trước căn nhà này, xem bọn họ tới đây có việc gì. Nằm trong nhà, lỡ ra, khó xoay sở.
Nhanh như vượn, hai nàng bám cây nhãn leo lên cành lớn nấp, nhìn xuống. Hai bóng người tiến tới bên bờ suối, ngừng lại nghe ngóng động tĩnh, rồi nhẹ nhàng lội qua. Họ lắng tai một lát, rồi nhảy lên trước cửa căn nhà sàn. Một người đánh lửa lên, đốt vào mấy nén hương. Trong ánh lửa, Bảo-Hòa nhận ra là Quách Quỳ với Triệu Huy.
Nàng kinh hãi nghĩ:
- Rõ ràng Triệu-Huy bị bắt trói ở xã Vạn-thảo. Còn Quách Quỳ trốn cùng với Đinh Tòan, sao bây gìơ cả hai lại có mặt nơi đây? Dường như chúng xông thuốc mê để bắt nàng thì phải?
Sau khi xông thuốc mê, hai người đẩy cửa bước vào. Chúng đánh lửa lên soi khắp hai gian nhà. Triệu Huy kinh hãi:
- Hai con nhỏ trốn mất rồi. Dường như chúng chạy chơi đâu, vì hành lý còn để đây mà?
Quách Quỳ nói:
- Chúng ta tắt lửa, chờ chúng trở về hãy ra tay.
Triệu Huy tắt lửa liền. Hai người núp vào sau cánh cửa.
Đêm về khuya, tiếng dế rên rỉ khắp sơn trang. Thỉnh thoảng có tiếng cú rúc vang trên nền trời. Tiếng quốc kêu đêm hè não nuột. Triệu Huy chờ lâu không thấy chị em Bỏ-Hòa, y nói:
- Lạ quá, hay là có biến cố gì rồi. Hành lý chúng nó ở đây, mà chúng nó đi đâu?
Tính Bảo-Hòa tinh nghịch, nàng hái trái nhãn non, vận sức vào ngón tay búng một cái. Trái nhãn trúng trán Quách Quỳ. Nó giật mình kêu ái một tiếng:
- Sư thúc. Cháu bị trúng ám khí.
Triệu Huy lên tiếng:
- Cao nhân nào xin xuất hiện.
Mỹ-Linh bật lên tiếng cười. Biết đã bị lộ, nàng từ cành nhãn đáp xuống. Trong khi còn lơ lửng trên không, tay phải rút kiếm đưa vào cổ Triệu Huy. Triệu Huy khinh thường, đưa tay bắt.
Mỹ-Linh biến chiêu, mũi kiếm hướng ngực y. Y hỏang hốt nhảy lùi lại hai bước. Mỹ-Linh di chuyển theo. Y vội vọt mình lên cao tránh kiếm. Mỹ-Linh biến chiêu thần tốc hướng mũi kiếm lên trời. Ở trên cao, Triệu Huy không tránh được. Y rút kiếm khoa dưới chân, gạt kiếm Mỹ-Linh. Mỹ-Linh điểm một cái. Hai mũi kiếm chạm nhau trên không toé lửa. Nàng lùi lại hai bước, khoanh một vòng, kiếm quang bao phủ khắp người Triệu Huy. Triệu Huy uốn cong người lui lại tránh khỏi.
Đúng ra với chiêu kiếm đó, sau khi đắc thế, Mỹ-Linh đánh tiếp một chiêu nữa, thì Triệu Huy đã bỏ mạng. Một là nàng thiếu kinh nghiệm chiến đấu, hai là võ công nàng vốn thua xa Huy, thành ra nàng vẫn còn úy kị y, không giám truy sát.
Trong bóng tối, Triệu Huy chưa nhận ra Mỹ-Linh. Y thấy những chiêu kiếm hiểm độc, thì cho rằng người tấn công mình là một cao nhân. Hơn nữa, y nhận ra rằng đáng lẽ đối thủ có thể giết mình, mà lại ngừng tay. Y tưởng đối thử chỉ muốn cảnh cáo y mà không nỡ giết. Y lễ phép:
- Đa tạ tiền bối nhẹ tay.
Mỹ-Linh vung kiếm tấn công tiếp. Nàng đã có kinh nghiệm, cho nên chiêu nọ nối tiếp chiêu kia liên miên bất tuyệt. Lúc đầu Triệu Huy còn trả đòn được mấy chiêu. Sang đến chiêu thứ hai trăm trở đi, y chỉ lo chống đỡ. Y thấy những chiêu đối thủ đánh ra hung hiểm lạ thừơng, chiêu nào cũng bao hàm từ nội công cho đến ngoại công khắc chế với kiếm pháp của y. Thế nhưng những chiêu đó có thể giết y trong chớp mắt, thì lại biến đổi sang chiêu khác. Trong lòng y nghĩ rằng người đối địch với y là một kiếm khách, võ công cao thâm không biết đâu mà lường. Người này chỉ muốn biểu diễn cho y thấy rằng võ công y còn thấp kém lắm mà thôi. Nghĩ vậy, y an tâm, thủng thẳng chiết chiêu.
Còn phần Mỹ-Linh, kiếm chiêu phát ra liên miên bất tuyệt. Lúc đầu nàng còn phải chú ý vận sức phát chiêu nào âm, chiêu nào dương. Về sau, nàng đã có ý niệm, thuận tay muốn phát âm, dương tòng tâm tuôn ra. Mỗi khi thấy Triệu Huy bị nguy khốn, nàng lại đổi chiêu.
Là công chúa, cháu nội vị hoàng đế xuất thân cư sĩ Phật-giáo, được thấm nhuần triết lý từ bi hỷ xả. Hàng ngày dù chỉ có ý tưởng giết con sâu, cái kiến nàng cũng không nỡ, huống hồ làm con người đau khổ. Bọn Triệu Huy tuy có manh tâm sang Đại-Việt ăn cắp di thư, chẳng qua y tuân chỉ của vua Tống. Hàng ngày, thầy dạy văn Lý Đạo-Thành đã giảng triết lý trung-quân, ái quốc cho nàng nghe. Nàng cũng từng đọc sử Trung-quốc, Lĩnh-nam, các sử gia không ngớt ca tụng những người chết cho đất nứơc. Vì vậy nàng càng không nỡ giết y.
Hơn tháng qua, y tuy có giam giữ chị em nàng thực, song nói năng vẫn lịch sự, nuôi ăn rất chu đáo. Nếu y ác độc, đã cho chị em nàng mỗi người một kiếm, rồi vứt xác vào rừng thực là giản dị. Do đó, nàng chỉ phóng chiêu, sao cho sắp tới người y, thì ngừng lại.
Chiết được hơn trăm chiêu nữa, nàng chợt nhớ đến lý thuyết tam hư, thất thực. Lý thuyết này là phần cuối của tuyệt kỹ kiếm pháp Long-biên, nàng đem ra áp dụng.
Triệu Huy đang lo chống trả vã mồ hôi ra, thì đột nhiên thấy kiếm pháp của đối thủ biến ảo, nhanh không thể tưởng tượng nổi. Y lùi dần, lùi dần, mồ hôi ra nhễ nhãi. Y muốn bỏ chạy, nhưng làn kiếm bao phủ khắp người.
Biết chắc phải chết. Y ngửa mặt lên trời than:
- Bệ hạ ơi. Bình-nam vương gia ơi. Hôm nay Triệu Huy đành bỏ thân ở đất Giao-chỉ để tỏ lòng trung với Đại-Tống. Chỉ mong triều đình lao tưởng đến mẹ già, con thơ của thần.
Than rồi, y thu kiếm lại không đỡ, cũng chẳng trả đòn, vung lên hướng cố tự vẫn.
Thình lình một bóng người từ dưới nhà sàn vọt lên, gạt kiếm của Triệu Huy, rồi tấn công Mỹ-Linh. Người đó lên tiếng:
- Sư đệ, có ta tiếp chiến đây.
Triệu Huy nhận ra tiếng nói của Ngô Tích. Y mừng qúa, vòng kiếm tấn công Mỹ-Linh. Thế là hai anh em y đấu với nàng.
Bảo-Hòa quan sát trận đấu, nàng kinh ngạc:
- Thật kỳ lạ. Mới mấy hôm trước đây mình không hề nghe nói Mỹ-Linh học kiếm bao giờ. Mà sao nay nàng lại biết xử dụng? Ban ngày nàng ra mấy chiêu tuy tinh diệu, nhưng rõ ràng lần đầu tiên xử dụng. Thế rồi nàng biến chiêu thắng Lê Văn. Sau chị của Lê Văn chiết chiêu với nàng, thì nàng xử dụng cả một pho kiếm rất kỳ ảo, nhưng vẫn chưa quen tay. Đến khi nàng luyện một mình, ta thấy đã tinh thục. Tiếp đến nàng đấu với Lê Văn, thì những chiêu kiếm trở thành biến ảo không thể tưởng tượng. Từ nãy đấu với Triệu Huy, lúc đầu còn chưa đủ chế thắng y. Bây giờ thì nàng làm chủ tình hình hoàn toàn. Ta thực không hiểu nổi. Ta cứ ngồi đây xem nàng có thắng nổi hai anh em Triệu Huy không?
Được Ngô Tích tiếp chiến, tinh thần Triệu Huy lên cao. Bao nhiêu cái mệt mỏi biến mất. Y múa kiếm như mây trôi, như nước chảy phản công.
Thấy Ngô Tích nhập cuộc, Mỹ Linh vẫn không luống cuống, nàng tiếp tục ra chiêu. Bây giờ nàng áp dụng hư, hư, thực, thực. Anh em Ngô Tích không biết chiêu nào hư, chiêu nào thực mà trả đòn. Thành ra bọn y cứ phải nhảy nhót, la hét để trợ oai. Nhảy nhót được một lúc, cả hai anh em đều mệt nhoài, kiếm chiêu rối loạn. Chợt Ngô Tích lên tiếng:
- Vệ-vương. Nếu vương gia không tiếp tay với bọn tôi, thì coi như anh em chúng tôi tuẫn quốc hôm nay ở đây. Chúng tôi tuẫn quốc không có gì đáng tiếc. Song có điều cái mộng trở về làm vua Giao-chỉ của vương gia e không thực hiện được.
Đinh Toàn nghe Ngô Tích lên tiếng, y vội rút kiếm tấn công Mỹ-Linh. Kiếm pháp của anh em Ngô Tích là Thiếu-lâm kiếm pháp. Còn kiếm pháp của Đinh Tòan là Hoa-lư kiếm pháp. Thành ra Mỹ-Linh phải chống với ba người, hai lọai kiếm pháp. Nàng mới tập võ không lâu, công lực còn non kém, chỉ dựa vào những tuyệt chiêu mà thắng đối thủ. Từ đầu đến giờ trải trên ba trăm chiêu, công lực cạn dần, chiêu thức của nàng kém linh họat. Nàng không còn nhảy, đuổi theo đối phương được nữa, mà chỉ đứng im một chỗ xuất chiêu. Bọn Ngô Tích, Đinh Tòan cũng nhận thấy thế. Chúng ra sức tấn công xung quanh nàng.
Trong lúc quá mệt mỏi, Mỹ-Linh nghĩ:
- Thôi rồi, hôm nay mình khó tránh khỏi cái chết. Khi chết ta sẽ được về thế giới cực lạc của đức Phật A-di-đà.

Thình lình một bóng người từ dưới nhà sàn vọt lên. Người này tung một chưởng, đẩy lui Đinh Toàn. Y đánh một quyền vào trước mặt Ngô Tích. Ngô cảm thấy ngộp thở, lộn ra sau hai vòng. Người đó lại búng tay một cái, thanh kiếm Triệu Huy đang hướng Mỹ-Linh bật trở lại. Sau khi đánh lui ba cao thủ, người đó vọt mình lên cao, biến vào đêm tối.
Nhờ người lạ mặt đẩy lui ba đối thủ, Mỹ-Linh định tâm lại: Mình đáng chết thực, phàm khi đối đầu với cường địch, mà mình kinh hãi, sao Thiền-công phát huy được.
Nghĩ vậy nàng buông lỏng chân khí. Vô tình hình thức đó đúng vào lối luyện công của phái Tiêu-sơn, mà Huệ-Sinh đã dạy nàng. Một chiêu đánh ra, không lực, chạm vào mũi kiếm của Đinh Tòan. Hai mũi kiếm đính liền vào nhau. Vừa lúc đó Mỹ-Linh chuyển kiếm đỡ chiêu của Ngô Tích. Kiếm của Ngô lại bị dính vào kiếm nàng. Triệu Huy thấy lạ, y định giết nàng. Song nghĩ lại vừa rồi nàng tha chết cho y bao phen. Y đẩy một chiêu vào cườm tay nàng, định đánh rơi kiếm đối thủ. Không ngờ khi thấy kiếm sắp tới cườm tay Mỹ-Linh. Nàng nghiêng người đi một cái, kiếm Triệu Huy lại chạm vào kiếm của nàng. Thế là bốn thanh kiếm dính thành một chùm.
Mỹ-Linh thấy hiện tượng kỳ lạ, đầu óc căng thẳng, nàng cứ cho rằng mình bị giết rồi, nên buông lỏng kình lực. Bốn người đứng im trong tư thế bất động. Trong khi đó bọn Ngô Tích, Đinh Toàn tưởng Mỹ-Linh muốn đấu nội lực với mình. Chúng dồn chân khí ra kiếm mong cả ba kết thúc tính mạng đối thủ. Không ngờ chân khí ra bao nhiêu, bị mất hút bấy nhiêu. Trong khỏang nhai dập miếng trầu, chân khí cả ba người bị kiệt. Cả ba lảo đảo ngã xuống. Bấy giờ Mỹ-Linh mới bừng tỉnh, thu kiếm về. Nàng cảm thấy chân khí trong người đầy ắp như sắp nổ tung ra. Bao nhiêu mệt nỏi biến mất.
Trong khi Mỹ-Linh đấu với bọn Triệu Huy, Bảo-Hoà nhìn rất rõ, người xuất hiện đánh lui bọn cường địch cứu Mỹ-Linh, chính là nhà sư trẻ, mà nàng đã quen ở Bắc-biên.
Nghĩ lại, hồi ấy, nàng đùa, đòi cưới nhà sư làm chồng. Những tưởng nhà sư xấu hổ, bỏ chạy. Không ngờ nhà sư cảm động, đỏ mặt lên tỏ ra bị xúc động. Từ đấy, mỗi khi nghĩ đến nhà sư trẻ, tim Bảo-Hoà lại đập mạnh.
Hôm đại hội Lệ-Hải bà vương, muốn cứu nàng, nhà sư nhảy vào vòng chiến, tay cặp nàng, thối lui. Người nàng áp vàp nhà sư. Từ đấy trong lòng nàng nảy sinh một tình cảm khó diễn tả.
Hôm nay, nhà sư lại xuất hiện. Nàng nghĩ thầm:
- Hay là chàng... thương yêu mình?
Bảo-Hòa từ trên cây nhảy xuống, hỏi Mỹ-Linh:
- Biểu muội. Có sao không?
Mỹ-Linh đáp:
- Không, dường như bọn này bị trúng gió thì phải.
Bảo-Hòa nhặt kiếm định kết liễu tính mệnh bọn Triệu Huy.
Huy kinh hãi nói:
- Cao nhân đã thắng tại hạ thì muốn mổ, muốn giết cứ giết. Triệu Huy này có chết cũng vì chữ trung, đâu có tiếc than. Tuy nhiên tại hạ muốn biết cao nhân là ai, thì chết mới nhắm được mắt.
Mỹ-Linh cười:
- Ngô chiêu-thảo-sứ, Triệu an-phủ-sứ thực đáng bậc trung quân ái quốc. Hãy nhặt kiếm lên. Ta tha chết cho đấy.
Bảo-Hòa thắp đèn lên. Bọn Triệu Huy kêu lên tiếng ái chà, chúng không ngờ người tha chết cho chúng là Mỹ-Linh.
Mỹ-Linh khoan thai hỏi:
- Ngô chiêu-thảo-sứ. Người hãy trả lời cho ta mấy câu hỏi. Thứ nhất, tại sao người đang bị giam tại xã Vạn-thảo, mà lại có mặt tại đây?
Ngô Tích kính cẩn nói:
- Thưa công chúa, tiểu-nhân cùng sư đệ được một cô gái cắt dây trói cho chạy thoát. Anh em tiểu nhân vượt hàng rào xã trốn trong rừng, rồi lần mò đến đây theo dõi công chúa.
Bảo-Hòa ngắt lời:
- Cô gái nào mà lại cắt dây trói cho các vị?
Triệu-Huy nhìn sư huynh, rồi mỉm cười:
- Hôm trước, trong chợ, khi trả tiền cho cô hàng bún riêu, vô tình sư huynh nói một câu gì đó, làm cô cảm động. Trong lúc anh em tiểu nhân bị giam, vị tướng quân Ngô An-Ngữ xin lý trưởng cung cấp thức ăn chiều cho anh em tiểu nhân. Ông lý sai cô hàng bún riêu nấu cơm, đem đến cho tù nhân ăn. Cô hàng cảm động vì sư huynh tại hạ trả cho nhiều tiền qúa, âm thầm cắt nhớm dây trói cho sư huynh. Đêm, sư huynh vận sức giật mạnh tay, dây trói đứt hết, rồi cởi trói cho anh em tiểu nhân.
Ngô Tích gốc là văn nhân, vốn lãng mạn. Y quỳ gối xuống hành đại lễ với Mỹ-Linh, rập đầu binh binh mấy cái:
- Công chúa điện hạ. Vì công chúa tha chết, nên tiểu nhân không giám dấu diếm, đã khai thực. Mong công chúa tha cho cô gái bán bún riêu. Tiểu nhân xin chịu tội chết thay cho cô.
Nói rồi y cầm kiếm đưa lên cổ, chiêu thức nhanh vô cùng. Mỹ-Linh vội rút kiếm, khẽ gạt. Choang một cái, kiếm của y văng lên cao, cắm vào cột nhà. Mỹ-Linh sững sờ tự hỏi:
- Tại sao công lực ta lại cao thế này?
Nàng ngẩn ngơ giây lát rồi nói với Ngô Tích:
- Ngày xưa trong lúc gia đình ly tán, Ngũ Tử-Tư đi trốn, đói khát ẩn thân trong bụi lau, được người con gái thương xót cho cơm ăn. Người đời khen là kỳ nữ. Nay Ngô chiêu-thảo-sứ cũng gặp kỳ duyên, thực đáng mừng. Tôi hứa tha cho cô hàng bún riêu đó. Dường như cô tên là Thanh-Trúc thì phải.
Mỹ-Linh đã hứa tha cho bọn y. Bảo-Hòa vẫy tay:
- Thôi các vị hãy đi đi.
Bọn Ngô Tích, Đinh Toàn nhặt kiếm uể oải lê bước đi.
Thình lình có tiếng nói lạnh lùng:
- Khoan. Đây là Vạn-thảo sơn trang. Cô gái này tha cho người là quyền của cô. Còn Vạn-thảo sơn-trang, thì dễ gì bọn Tầu các ngươi muốn vào lúc nào thì vào, muốn ra lúc nào thì ra đâu?
Có nhiều tiếng bước chân người đi, rồi đèn đuốc sáng choang. Một toán người xuất hiện. Trong đó có Thiếu-Mai, Lê Văn, Lâm Huệ-Phương. Huệ-Phương trông thấy Triệu-Huy, mắt phượng quắc lên:
- Tên Triệu Huy kia, người có nhớ ta không?
Triệu Huy gặp đường cùng, tuy nhiên y vẫn không mất phong độ. Y thản nhiên nói:
- Nhớ chứ sao không nhớ. Người là bọn ăn gian nói dối, buôn lậu tại bạc dịch trường Giang-đông thuộc Khâm-châu. Ta là biên cương trọng thần, bắt cha con người bỏ tù, tịch thu hàng hóa. Đó là điều đương nhiên. Sau cha con người vượt ngục về Giao-chỉ. Ta lờ đi, không yêu sách đòi Giao-chỉ bắt nộp là may rồi.
Thiếu-Mai hất hàm:
- Ta không cần biết người là ai. Đã lén lút vào Vạn-thảo sơn trang, ta bắt được, phải đi theo ta.
Triệu-Huy còn lưỡng lự. Thiếu-Mai vẫy tay, một thiếu niên trên hai chục tuổi nhảy vèo đến chụp y. Y lạng người đi tránh. Không ngờ thiếu niên chuyển động thân mình, túm gáy y, nhấc bổng lên như nhấc con gà. Tay kia chụp Đinh Toàn. Trong khi đó Lê Văn chụp Ngô Tích. Huệ-Phương chụp Quách Quỳ.
Mỹ-Linh nghĩ thầm:
- Trước ta cứ tưởng võ công Tiêu-sơn vô địch. Không ngờ ngoài bầu trời này còn bầu trời khác. Thiếu niên kia võ công có lẽ ngang với anh Tạ Sơn chứ không ít.
Lê Thiếu-Mai vẫy chị em Bảo-Hòa:
- Xin hai vị cô nương theo chúng tôi, để xử trí bọn này.
Nàng móc trong túi ra bốn viên thuốc, vung tay một cái. Bốn viên thuốc nhỏ bay ra kêu rít lên, trúng đầu gối bọn Ngô Tích. Cả bọn cảm thấy đầu gối lạnh toát.
Lê Thiếu-Mai ra lệnh:
- Hãy bỏ bọn chúng xuống. Ta cho mỗi đứa nếm một viên Hàn ngọc đơn, chúng không trốn được đâu.
Nàng đi trước, dẫn mọi người theo con đường lát đá rất đẹp. Tới bờ một cái hồ, nàng nói với Mỹ-Linh:
- Đây là hồ nhân tạo. Nhân nước suối chảy ngầm thấm qua núi, rồi vọt lên chỗ này. Thân phụ tôi xây đá xung quanh thành hồ.
Mỹ-Linh để ý, thấy hồ khá rộng, xung quanh bờ xây bằng đá. Hồ có cây cầu bắc từ bờ ra ngôi nhà thủy tạ xây theo hình bát giác. Trong nhà ánh sáng chiếu xuống hồ lung linh đẹp vô cùng. Lê Văn đi trước dẫn đường. Nó đẩy cửa vào nhà. Trong nhà, Hồng-Sơn đại-phu đang ngồi trước án thư. Cạnh ông, một cái bàn dài, Lâm Tín đang nằm dài trên đó, người đầy kim. Bà vợ Lâm Tín ngồi sau bàn. Thanh-Mai ngồi cạnh lão.
Lê Thiếu-Mai nói với cha:
- Thưa bố, con đã mời các quý khách tới ra mắt bố.
Hồng-Sơn đại-phu nhìn thấy Ngô Tích, Triệu Huy, mặt ông hiện ra nét sát khí:
- Bọn mi là người Tống phải không? Thiên đường có nẻo mi không tới. Địa ngục không đường dẫn xác vào. Đêm khuya thanh vắng, bọn mi tới sơn-trang của ta làm gì?
Ngô Tích đứng dậy chắp tay hành lễ:
- Thưa tiên-sinh, bọn chúng tôi nguyên xuất thân tiến sĩ Đại-Tống, phụng chỉ thiên-tử sung vào sứ đoàn sang Chiêm. Chẳng may dọc đường đại sư huynh chúng tôi trúng phải Nhuyễn-cân-hương. Nghe danh tiên sinh là Hoa-Đà tái thế, nên mạn phép tới cầu tiên sinh trị cho. Đó là điều thứ nhất. Điều thứ nhì, ngày rằm tháng tám sang năm, Thiên-tử mở Thiên-hạ anh hùng đại hội ở Biện-kinh. Nghe tiên sinh là Thái-sơn Bắc-đẩu võ lâm Lĩnh-Nam, nên anh em tại hạ tới mời tiên sinh tham dự.
Rồi y nói rõ mục đích đại hội. Trong khi đó Triệu Huy mở bọc lấy ra một tờ thiếp mời với năm nén vàng, bỏ lên đĩa, hai tay cung cung kính kính bưng đến để trước mặt Hồng-Sơn đại-phu. Ông cầm thiếp mời lên xem, mỉm cười:
- Trong thiếp này ghi rõ người đứng ra tổ chức là Bình-nam vương, lĩnh chức Phụ quốc thái úy. Tổng quản Khu-mật-viện Triệu-Thành. Vậy Bình-nam vương đâu?
Triệu Huy đáp:
- Vương gia hiện đang trên đường sang Chiêm-quốc. Lúc trở về thế nào cũng đến thăm tiên-sinh.
Thanh-Mai cười nhạt:
- Sư phụ! Sư phụ đừng nghe mấy người này nói láo. Bọn họ có ba người, với thằng bé Quách Quỳ là bốn. Quách Quỳ là con cháu đại tướng Quách Quân-Biện, xưa bị đức Thái-tổ nhà ta (tức vua Lê Đại-Hành) bắt giam ở Hoa-lư. Hồi đó y học được chử Khoa-đẩu, cùng nói tiếng Việt. Y mưu phục thù, đem chữ Khoa-đẩu dạy con cháu. Bây giờ triều Tống cho thằng bé này theo sứ đoàn với mục đích ăn cắp di thư, hầu học võ công Lĩnh-Nam.
Nàng nhìn Bảo-Hòa:
- Ba người này tuy văn đỗ tiến-sĩ, nhưng võ họ cung có bản lĩnh. Họ nổi danh là Tung-sơn tam kiệt. Người lớn nhất trong bọn họ là Triệu Anh lĩnh chức lang-trung trong Khu-mật-viện nhà Tống. Trong khi đấu võ với chị Bảo-Hòa, bị chị ấy tung phấn Nhuyễn-cân. Cho nên anh em y đến đây xin chữa bệnh. Trên đường đi họ bắt trói con với Bảo-Hòa, Mỹ-Linh mang theo. Khi đến làng Vạn-thảo, bị Bảo-Hòa dùng thú rừng tấn công bắt giam. Không hiểu bằng cách nào họ vượt ngục, rồi tới đây mưu bắt Bảo-Hòa, Mỹ- Linh một lần nữa.
Hồng-Sơn đại-phu hỏi con gái:
- Tên Triệu Anh đâu?
Thiếu-Mai hất hàm cho Lê-Văn:
- Thằng cà chớn, giải tên Triệu Anh lên đây.
Nàng nói với Ngô Tích:
- Trong khi các người đi vào địa phận làng Vạn-thảo, chúng ta đã theo dõi. Các người được cô hàng bún riêu cứu thóat, rồi trốn vào khe suối ẩn thân. Ta biết thế nào các người cũng đến sơn-trang, vì vậy để cho các người vào, hầu trúng cỏ độc mà chết. Không ngờ các người định bắt Mỹ- Linh, Bảo-Hòa, bị Mỹ-Linh đánh bại. Ta theo dõi, liền cho người ra khe núi bắt tên Triệu Anh về giam trong sơn trang.
Lê Văn giải Triệu Anh tới. Phấn độc Nhuyễn-cân-tán ngấm vào trong người lâu ngày, khiến sắc mặt y xanh mứơt.
Khi mới vào nhà thủy tạ, Đinh, Toàn nhìn thấy Hồng-Sơn đại-phu, tự nhiên trong lòng ông rộn lên một mối cảm khái buồn rầu, lẫn hận thù. Ông cố moi óc xem, đã gặp ở đâu, mà chưa tìm ra. Hồng-Sơn đại-phu chợt quay lại nhìn Đinh Toàn. Ông cũng ngờ ngợ, dường như quen với Đinh, mà không nhớ đã gặp nhau hồi nào?
Thanh-Mai chỉ Đinh Tòan giới thiệu với Hồng-sơn đại-phu:
- Thưa sư phụ, vị này nguyên trước đây là Vệ-vương Đinh Toàn, con út của vua Tiên-Hòang nhà Đinh.
Đại-Phu kinh ngạc:
- Ta không tin. Vệ-vương đã chết trong trận đánh Cẩm-thủy trấn Thanh-hóa, xác rơi xuống sông, mất tích, đã mấy chục năm rồi, chứ đâu còn tới ngày nay?
Mỹ-Linh đã từng nghe Hồng-Sơn đại-phu nói cá nhân lão không thù hằn gì ông nội nàng. Nhưng ông nội nàng cướp ngôi nhà Lê, vì vậy lão không đội trời chung với họ Lý. Võ lâm không ai biết xuất thân của lão. Lê Văn họ Lê, mà y là con trai đại-phu, vậy chắc ông họ Lê. Như vậy không chừng ông là con cháu của Lê Hòan cũng nên. Nếu ông là con cháu Lê Hòan, thì ông có mối thù không đội trời chung với Đinh Toàn. Đinh đang theo bọn Tống mưu phục hồi ngai vàng. Ta cũng nên nhân dịp này nói toẹt âm mưu bọn Tống ra, hầu chia rẽ bọn chúng với ông.
Mỹ-Linh mỉm miệng cười:
- Hồng-Sơn tiên sinh. Tiên sinh không tin ư? Chính Vệ-vương gia đây đã thuật cho chị em tiểu nữ nghe. Hồi vương còn nhỏ, sau khi vua Tiên-hoàng cùng Nam-Việt vương Đinh Liễn bị Đỗ Thích giết chết, triều thần tôn người lên làm vua. Bấy giờ người còn nhỏ, Thái-hậu Dương Vân-Nga tư thông với Lê Hoàn cướp ngôi của người. Người phải cắn răng nhẫn nhục, nhờ thân mẫu che chở cho. Khi Lê Hoàn mang người theo, rồi cho cận vệ bắn lén phía sau. Người giả vờ ngã xuống sông, lặn trốn đi.
Hồng-sơn đại-phu cau mặt:
- Nói láo.
Mỹ-Linh nhìn sắc mặt ông biến đổi, nàng đóan chắc ông là con cháu họ Lê. Nàng tiếp:
- Người trốn sang Trung-quốc, cầu vua Tống cho mượn quân đem về chiếm lại ngôi. Nhưng vua Tống còn ghê sợ trận Chi-lăng, Bạch-đằng, nên không giám. Bây giờ nhà Tống đã giầu mạnh. Vua Tống sai Bình-nam vương dẫn tới bốn năm sứ đòan sang Đại-Việt thăm dò đường xá, mua chuộc nhân tình, rồi sai tướng đem quân hộ vệ vương gia làm vua Đại-Việt.
Thấp thoáng một cái, đại-phu đã vọt tới trước, rồi lui trở về chỗ cũ. Áo Đinh Toàn bị xé tung, lưng lão bị hở, phía sau lưng có vết thẹo lớn.
Hồng-Sơn đại-phu gật đầu:
- Quả nhiên người là Đinh Toàn.
Đinh Toàn bật lên tiếng kêu kinh ngạc, tay lão run run chỉ Hồng-Sơn đại-phu:
- Lê Long-Mang. Người đích thị Lê Long-Mang, con thứ sáu của Lê Hoàn. Người được phong là Nam-quốc vương trấn thủ vùng Vũ-long. Khi Lê Long-Đĩnh, cùng Long-Việt tranh ngôi vua, người án binh bất động. Vì vậy sau này Long-Đĩnh lên ngôi vua, vẫn cho người giữ chức cũ. Lúc Lý Công-Uẩn cướp ngôi nhà Lê, người bỏ quan chức, treo ấn, trốn đi. Ta tưởng người đi đâu, hóa ra ẩn thân ở đây làm thầy lang.
Đinh Toàn nhìn Hồng-Sơn đại-phu như muốn ăn tươi nuốt sống:
- Hồi ta còn bé, sống trong cung với anh em người. Anh em người đánh, chửi ta nhục nhã vô cùng. Bây giờ võ công người đến trình độ vô địch thiên hạ. Ta lại bị trúng độc của con gái người, chân tay cử động khó khăn. Vậy người giết ta đi cho tuyệt hậu hoạn, bằng không sẽ có ngày ta giết hết tông tộc nhà ngươi để trả thù.
Hồng-Sơn đại-phu nhìn bọn Triệu Huy:
- Từ trước đến nay, ta chữa bệnh, có biệt lệ. Một là không chữa cho tông tộc nhà Lý. Hai là không chữa cho người Tống. Ba là chỉ chữa những bệnh mà không ai chữa được.
Ông nhìn Thiếu-Mai tiếp:
- Vạn-thảo sơn trang vẫn có biệt lệ. Nếu ai tự ý xâm nhập, sẽ bị bỏ tù. Ta chỉ tha ra khi nào chính tù nhân hoặc người nhà y có khả năng thắng một trong hai con của ta.
Lão chỉ vào Thiếu-Mai:
- Đây là một trong hai con ta. Các người có khả năng thắng thì ta tha cho.
Đinh Toàn thở dài:
- Nhưng chân bọn ta trúng Hàn ngọc hoàn tê liệt, làm sao xử dụng được võ công?
Hồng-Sơn đại-phu cười nhạt:
- Dễ lắm.
Nói rồi ông vung tay, bốn viên thuốc bay ra hướng vào Đinh Toàn và bọn Ngô Tích. Chân tay bọn này cử động được liền.
Đinh Toàn chỉ Mỹ-Linh:
- Ta đấu kiếm với đứa cháu Lý Công-Uẩn, bị nó dùng tà đạo làm tiêu hao hết công lực của ta. Ít ra phải hơn mười ngày, ta mới phục hồi được. Nếu mi anh hùng cứ để bọn ta ra đi, mười ngày sau bọn ta trở lại tái đấu.
Hồng-Sơn đại phu cùng Thiếu-Mai ôm bụng cười. Đinh Toàn bực mình:
- Các người cười cái gì?
Thiếu-Mai chỉ Mỹ-Linh:
- Này Vệ-vương gia. Đầu óc người có còn minh mẫn không đấy. Cô công chúa cành vàng lá ngọc của họ Lý này, mới học được ba cái múa của tên Lý Long-Bồ. Sau tuy được lão thầy chùa Huệ-Sinh thu làm đệ tử, nhưng bản lĩnh còn thua xa thằng cà chớn Văn nhà này. Hôm qua, con bé chiết chiêu với Lê Văn, nó xử dụng mấy chiêu kiếm Long-biên xiêu vẹo, thì bản lĩnh đâu mà làm tiêu hao công lực các người. Nếu sự thực như vậy, thì bản lĩnh các người không đáng để sơn trang ta ngó tới.
Thiếu-Mai chợt nhớ mới hai hôm trước, nàng đã đấu với anh em Ngô Tích một chiêu trên đường đến làng Vạn-thảo. Sau mỗi chiêu, nàng thấy tay ê ẩm đến nửa gìơ mới hết. Bản lĩnh như vậy đâu có tầm thường. Nàng đến bên Ngô Tích bắt mạch, quả thấy trầm, mà trì, rõ ràng là mạch của người suy kiệt đến chỗ cùng cực.
Nàng suy nghĩ:
- Phàm người học võ, thì mạch bao giờ cũng hồng, đại. Chứ có đâu trầm trì.
Nàng tiếp tục bắt mạch Triệu Huy, Đinh Toàn, cũng cùng tình trạng.
Hồng-sơn đại phu hỏi:
- Cái gì vậy?
- Bố, họ nói thực. Cả ba người mạch đều trầm, trì.
Hồng-Sơn đại-phu liếc nhìn Mỹ-Linh, rồi quay lại hỏi Lê Văn:
- Mi lớn mật thực, giám ăn cắp thuốc giải Nhuyễn-cân phấn của bố cho bọn này uống.
Lê Văn quỳ gối trước bố:
- Bố ơi! Con nghĩ việc thù oán giữa bố với ông của chị Mỹ-Linh, Bảo-Hòa là việc người lớn. Bố là đại tôn sư võ học, sao lại thù tới bậc hậu bối? Vì vậy con ăn cắp thuốc của bố trộn vào với Kỷ-tử cho họ ăn.
Mỹ-Linh cảm động:
- Cậu Văn, thì ra cậu bầy ra đấu võ với bọn tôi, làm bọn tôi thua, rồi cậu trộn thuốc giải với Kỷ-tử cho bọn tôi uống. Cậu... cậu... tốt với bọn tôi quá.
Lê Văn cười:
- Tôi vốn cảm tình với các chị, thì dù các chị có thua, tôi đâu nỡ lòng nào bắt các chị ăn một bát ớt? Chẳng qua quả Kỷ-tử mầu đỏ giống qủa ớt, tôi cho các chị ăn hầu phục lại sức khỏe sau gần tháng bị giam dưới hầm. Trong bát Kỷ-tử, tôi trộn vào một viên thuốc giải. Các chị ăn vào cay khè lửa ra, các chị tưởng là ớt thực.
Tính khí Hồng-Sơn đại phu kỳ cục thực, song lại rất thương con cháu. Tuy biết con làm trái với ý mình, nhưng ông chỉ cười xòa:
- Thằng bất trị. Bố phải đành què mới được.
Thình lình ông đứng dậy vung chưởng đánh xuống đỉnh đầu Mỹ-Linh. Chưởng phong chưa xuất ra hết, mà nàng đã ngộp thở. Nàng kinh hãy, vội vận khí xuất một chiêu Tiêu-sơn Lăng-gìa chưởng đỡ. Bình một tiếng, nàng lảo đảo ngã ngồi xuống. Tai nàng phát ra những tiếng vo vo không ngớt. Nàng vội hít một hơi chân khí, lấy lại bình tĩnh, đứng nhìn ông. Nàng biết ông mới vận có ba thành công lực.
Sau khi phát chiêu thử công lực Mỹ-Linh, đại-phu lặng im một lúc rồi nghĩ thầm:
- Hồi chiều ta thấy con nhỏ này nội lực coi như không có gì, còn thua cả Lê Văn. Không hiểu sao bây giờ lại hùng hậu như thế này? Nội lực này tuy không bằng ta, nhưng e Thiếu-Mai cũng thua.
Ông khoan thai nói với Đinh-Toàn:
- Đúng. Các vị nói đúng. Nội lực con nhỏ này không tầm thường.
Ông hỏi Mỹ-Linh:
- Này công chúa. Trong nội lực của công chúa, dường như bao gồm nội lực Tiêu-sơn, Mê-linh, còn pha lẫn nội lực Thiếu-lâm, Hoa-lư nữa.



<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.01.2005 05:48:20 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 06.01.2005 18:07:03 (permalink)

    Hồi thứ hai mươi hai


    Vạn Thảo Sơn Trang



    Ông cật vấn Lê Văn về những diễn biến xẩy ra. Từ lúc nó đãi cơm Mỹ-Linh cho đến khi luyện kiếm cùng nàng. Sau đó nó cùng Thiếu-Mai phục phía trước nhà sàn theo dõi bọn Triệu Huy.
    Nghe Lê Văn kể, mặt Hồng-Sơn đại-phu đờ ra.
    Ông bảo Lê Thiếu-Mai:
    - Con hãy chiết mấy chiêu với công chúa cho bố xem.
    Thiếu-Mai biết bố mình muốn tìm hiểu võ công Mỹ-Linh. Nàng chắp hai chưởng vào nhau:
    - Công chúa, tôi xin công chúa chỉ điểm cho mấy chiêu.
    Nói rồi nàng từ từ đẩy ra một chưởng. Mỹ-Linh vốn đã úy kị bọn Triệu Huy, thế mà hôm trước trên đường đến đây, nàng thấy Thiếu-Mai đánh một chiêu làm Ngô Tích, Triệu Huy lạc bại. Bây giờ Thiếu-Mai thách đấu, nàng tự biết muôn ngàn lần mình không thể đối chiêu với bậc tiền bối này. Tuy vậy nghĩ đến nét mặt Hồng-Sơn đại-phu coi khinh ông nội mình, Mỹ-Linh bỏ ra ngòai sống chết, vận khí xuất một chiêu trong Tiêu-sơn Tượng-đầu chưởng đỡ. Bộp một tiếng, Thiếu-Mai rung động toàn người, bật lui hai bước. Trong khi Mỹ-Linh cũng lùi liền ba bước.
    Khi thấy Mỹ-Linh vận khí phát chiêu, Thanh-Mai lo lắng cho nàng, không chết cũng bị thương. Nào ngờ kết qủa chính Thanh-Mai cũng không ngờ tới. Nàng nhủ thầm:
    - Kỳ lạ không. Công lực Mỹ-Linh vốn thua xa cả Tự-Mai, Bảo-Hòa. Không hiểu sao, ta mới xa nàng có mấy giờ, mà công lực nàng bỏ xa bọn Triệu Huy đã đành, mà còn muốn hơn Thiếu-Mai nữa. Chiêu vừa rối rõ ràng nàng không biết phát lực, bằng không, mình e Thiếu-Mai cũng thua.
    Thiếu-Mai hít một hơi, vận khí tiến lên phát chưởng nữa. Chưởng phong ào ào phát ra. Mỹ-Linh cũng hít một hơi, phát chiêu Tiêu-sơn Tượng đầu chưởng tên là Nhu huyễn hư không. Đây là chiêu âm-nhu, đặt cơ sở trên chữ không nhà Phật. Chưởng phong không có gió. Bộp một tiếng, chưởng của Thiếu-Mai mất tăm mất tích. Nàng lảo đảo lùi lại. Trong khi đó mặt Mỹ-Linh đỏ tươi lên như uống rượu. Nàng đứng im bất động. Rõ ràng thắng bại đã phân.
    Hồng-Sơn đại-phu hỏi con gái:
    - Cái gì vậy?
    - Con không biết nữa. Chưởng phong của con bị hút mất. Tay trở thành vô lực.
    Thiếu-Mai lại tấn công bằng một kỳ chiêu. Vốn liếng võ học Mỹ-Linh chỉ có mấy bài quyền nhập môn của phái Tiêu-sơn, và pho Tiêu-sơn Tượng-đầu chưởng. Nàng thấy chiêu số Thiếu-Mai tinh diệu, kỳ ảo, thì bỏ ra ngoài sống chết, cứ tùy chiêu chống đỡ.
    Những người ngoại cuộc, từ Hồng-sơn đại phu cho tới bọn Ngô Tích, Thanh-Mai đều kinh ngạc không ít. Vì Thiếu-Mai thì chiêu số kỳ diệu, kinh nghiệm dư thừa, công lực hùng mạnh. Còn Mỹ-Linh chỉ có mấy chiêu quyền thô sơ, chống đỡ ngượng ngập. Nhưng cứ mỗi chiêu nàng đánh ra, nội lực như thác đổ, như băng tan, khiến Thiếu-Mai không thắng được nàng.
    Bọn Ngô Tích nhìn nhau nghĩ thầm:
    - Bọn mình đáng chết thực. Bấy lâu giam giữ con nhỏ này mà không hề biết công lực nó cao thâm như vậy. Thôi rồi, chắc nó giả tảng để dò xét hành tung bọn mình đây. Bây giờ mình khám phá ra thì đã muộn.
    Ngay chính Mỹ-Linh, nàng cũng không biết công lưc ở đâu sinh ra hùng mạnh như thế. Bình bình, bình nàng đỡ liền ba chiêu của Thiếu-Mai. Trong khi mải suy nghĩ, tòng tâm xử dụng, vô tình đúng vào lý thuyết vô nhân tướng, vô ngã tướng, vô chúng sinh tướng trong kinh Kim-cương, nội tức ào ào tuôn ra. Thiếu-Mai bật lui đến bốn năm bước mới đứng vững. Chân khí trong người gần như bị tuyệt.
    Hồng-Sơn đại-phu cũng như Mỹ-Linh không hiểu là phải. Hơn nghìn năm trước, công chúa Trần Năng được Khất-đại-phu thu làm đệ tử. Ông truyền nội công dương cương của phái Tản-viên cho đệ tử. Trong lần viếng thăm núi Tam-sơn trên hồ Động-đình, Trần Năng được Bồ-tát Tăng-giả nan-đà giảng kinh Lăng-gìa, rồi kinh Bát-nhã cho. Bà hiểu, mà không biết áp dụng vào việc luyện nội lực. Phải đợi đến trận đánh đồi Vương-sơn, giữa lúc bà đấu với Trần Nghi-Gia đến chỗ nguy kịch. Tăng-giả Nan-đà bèn đọc đoạn đầu kinh Lăng-già lên. Trần Năng ngộ được, chuyển vào nội lực, mà thắng Trần Nghi-Gia, rồi thắng luôn chồng y là Phan Anh.
    Sau đó trong trận đánh Trường-sa, Trần Năng giao chiến với đám đệ tử của Lê Đạo-Sinh là Đức-Hiệp, Hoàng Đức, Võ Hỷ, Ngô Tiến-Hy. Bốn người đấu nội lực với bà. Bà áp dụng phép không tâm, lập tức trong người như chiếc hồ rỗng. Bao nhiêu chân khí của đối thủ bị thu vào hết.
    Sau này Bắc-bình vương Đào Kỳ cùng công-chúa Phùng Vĩnh-Hoa chép bộ Lĩnh-Nam võ kinh cũng chép phương pháp tổng hợp Thiền-công của Trần Năng vào. Nhưng vì sợ võ kinh lọt vào tay quân thù, công chúa Nguyệt-Đức xen vào bằng bẩy mươi hai thuật ngữ đặc biệt. Trần Năng đặt ra bài ca khuyết giải thích các thuật ngữ đó. Bà truyền miệng cho đệ tử. Khi bà tuẫn quốc, võ công của bà tuy thất truyền, nhưng khẩu quyết vẫn còn lưu lại. Hồi thành lập phái Mê-linh, một trong hậu duệ của Trần Năng đem bài ca khuyết đó dạy cho sư thái Tịnh-Huyền. Tịnh-Huyền truyền cho Mỹ-Linh. Do vậy Mỹ-Linh luyện thành.
    Luyện Vô-ngã tướng thiền công cực khó, mà cực dễ. Thứ nhất phải hiểu đến cùng kỳ cực kinh Kim-cương. Thứ nhì, tâm tính phải đơn thuần. Như trong trận đồi Vương-sơn, Trưng Nhị, Sa-Giang cực kỳ thông minh, lại không giác ngộ, hiểu được. Trong khi tâm tính Trần Năng đơn sơ, chỉ nghe qua, đã vào tới cõi Vô-thượng Bồ-đề.
    Mỹ-Linh quả có cơ duyên kỳ lạ. Nàng được học chữ Khoa-đẩu. Được một cao tăng đắc đạo giảng dạy thực kỹ kinh Lăng-gia, Kim-cương, Bát-Nhã. Rồi vô tình theo chú ra ngoài, bị bọn Đàm An-Hoà giam trong nhà tù, được Tịnh-Huyền truyền cho bài ca khuyết Long-biên kiếm pháp cùng Vô-ngã tướng Thiền-công. Tâm tính nàng lại đơn giản. Do vậy nàng luyện thành một thần công vô thượng của thế gian.
    Hôm ở trong hầm đá, Mỹ-Linh đọc đến đọan này trên bia, nàng âm thầm luyện thử, song chỉ thấy trong lòng trống rỗng. Nàng có cảm tưởng bao nhiêu nội lực Tiêu-sơn luyện từ nhỏ mất hết. Nhưng trong người khỏe mạnh vô cùng. Nàng không biết, cho rằng nội lực bị tiêu hao, chứ đâu có biết nội lực chuyển vào đơn điền, và trở thành sức hút. Nàng hoảng sợ, vội bỏ không luyện nữa. Song từ nhỏ, mỗi tối đi ngủ, nàng đọc kinh Bát-nhã đã quen, vì vậy trong giấc ngủ, tiềm thức làm việc, nàng lại vận công theo trong Lĩnh-Nam vũ-kinh. Sau gần tháng, nội lực Tiêu-sơn trong người nàng đã qui liễm xong. Người nàng như một cái bình trống không. Khi đấu với anh em Ngô Tích, họ định dùng nội lực hại nàng. Không ngờ bao nhiêu nội lực bị nàng thu mất. Đinh Toàn nhập cuộc, cũng không tránh khỏi tai kiếp. Vì vậy trong người nàng hiện chứa nội lực của ba cao thủ. Cho nên khi Hồng-Sơn đại phu phát chiêu thăm dò, mới thấy trong người nàng có nội công Tiêu-sơn, Hoa-lư và Thiếu-lâm.
    Hồng-Sơn đại-phu phất tay:
    - Công chúa, người đã thắng con gái ta. Vậy người có thể rời sơn-trang được rồi. Nhưng ta có một thắc mắc, người học võ với thằng bé con Lý Long-Bồ, được phong cái gì Khai-quốc vương. Tên này tuy võ công cao thực, nhưng ta e cũng không hơn công-chúa. Vậy ai mới đích thực là sư phụ của công-chúa?
    Tính Mỹ-Linh chân thực, nàng đáp:
    - Thưa tiên sinh, từ nhỏ cháu học võ khai tâm với vương-mẫu. Vương-mẫu là đệ tử phải Mê-linh. Sau lớn lên cháu học với thúc-phụ và cuối cùng được đại-sư Huệ-Sinh thu làm đệ tử.
    Hồng-Sơn đại-phu nghĩ thầm:
    - Tất cả những người dạy con bé này đều không có gì xuất sắc. Lão thầy chùa Huệ-Sinh dường như đắc đạo thành Bồ-tát rồi, song khó có thể luyện cho đệ tử có công lực cao thâm ở tuổi nhỏ như vậy? Không chừng nó có cơ duyên ăn được thức ăn gì đặc biệt, nên công lực mới đầy ắp mau chóng đến thế.
    Mỹ-Linh chỉ Bảo-Hòa, hỏi đại-phu:
    - Tiểu bối đa tạ tiên-sinh quá khen. Chẳng hay tiên sinh có thể cho chị Bảo-Hòa cùng đi chăng?
    Hồng-Sơn đại-phu lắc đầu:
    - Có hai điều kiện. Một là Bảo-Hòa không được nhận lão Lý Công-Uẩn làm ông ngoại. Hai là thị có thể đỡ được của Thiếu-Mai mười chiêu.
    Mỹ-Linh xịu mặt xuống:
    - Chị em tiểu nữ đi cùng đi. Về cùng về. Tiểu nữ xin ở lại đây cùng chị Bảo-Hòa.
    - Được, công chúa cứ tự tiện.
    Mỹ-Linh dẫn Bảo-Hòa trở về căn nhà sàn. Trải qua cuộc đấu võ, hai người đặt mình xuống là ngủ liền.
    Bảo-Hoà tỉnh giấc vào giữa đêm, vì chỗ Hồng-Sơn đại phu phóng thuốc vào đau đớn vô cùng. Nàng mở cửa ra sân, nhìn trăng, ngắm hoa. Nàng nhớ lại hồi theo dõi bọn Địch Thanh, có một đêm trăng, nàng đã cùng nhà sư trẻ ngồi bên bờ suối nói truyện suốt đêm. Từ đó trong tâm nàng thường nghĩ đến nhà sư luôn. Nàng thở dài:
    - Dù ta có thương nhớ chàng. Chung cuộc vẫn như hoa trong gương mà thôi. Chàng... chàng là một nhà sư.
    Chợt nàng để ý thấy có bóng một người, ánh trăng chiếu nghiêng xuống sân. Thình lình nàng quay trở lại. Bóng đó chính là nhà sư, mà nàng thương nhớ bấy lâu. Cho rằng đây là một giấc mơ, nàng hỏi:
    - Có phải anh đấy không?
    Nhà sư rời chỗ nấp, tiến tới. Bảo-Hòa ngả vào lòng chàng. Nhà sư ôm chặt lấy Bảo-Hoà. Hai người lặng đi giờ lâu.
    Trên không, một đám mây trắng che lấp mặt trăng. Có tiếng vạc ăn đêm kêu não nùng, pha lẫn với tiếng dế.
    Nhà sư hỏi:
    - Bảo-Hoà! Em bị trúng độc đấy ư?
    - Đúng thế. Độc chất đã được Lê Văn cho uống thuốc giải hết rồi. Nhưng em bị đại phu phóng Hàn-ngọc đơn vào đầu gối, không đi xa được.
    Nhà sư nói:
    - Để anh dùng nội công trục bớt chất độc Hàn-ngọc băng ra cho em bớt đau. Sau đó, phải dùng châm cứu trị mới được.
    Nhà như đỡ Bảo-Hoà ngồi xuống ghế, đối diện với mình, rồi áp hai tay ông vào hai bàn tay Bảo-Hòa. Bảo-Hòa rùng mình, cảm thấy như người bị ném vào lò lửa. Lát sau, mồ hôi nàng xuất ra như tắm.
    Khoảng ăn xong bữa cơm, Bảo-Hoà cảm thấy buồn ngủ đến không mở mắt ra được. Nhà sư thu tay về, rồi nói với Bảo-Hòa:
    - Thôi em vào nhà ngủ đi.
    Nói rồi ông hôn phớt lên má nàng một cái, vọt mình biến vào màn đêm.
    Hôm sau hai chị em tỉnh giấc, thì mặt trời lên cao. Mỹ-Linh xuống suối rửa mặt, dùng tay vốc nước uống. Nước suối thực trong, mát vô cùng. Muì hương, mùi hoa đưa lại ngào ngạt.
    Hai chị em rảo bước, hướng chân núi dạo chơi. Mỹ-Linh kinh ngạc vô cùng, vì rõ ràng mới hôm qua, Bảo-Hoà bị trúng Hàn-ngọc đơn, đi đứng cực kỳ khó khăn, mặt tái xanh, mà bây giờ, nàng bước đi thoăn thoắt, da mặt tươi hồng như không hề trúng độc.
    Bảo-Hòa nhìn đường lối trong trang chằng chịt, than:
    - Cách đây mấy ngày chúng mình thăm Vạn-hoa sơn-trang đã cho là rộng, không ngờ Vạn-thảo sơn-trang còn rộng hơn. Hôm qua Lê Văn chỉ cho chúng mình cách phân biệt đường lối, chứ không, lỡ lạc đường vào vùng trồng cây-cỏ độc thì e mất mạng.
    Mỹ-Linh nhìn những luống hoa thơm bạt ngàn, đỏ, vàng đủ mầu, mà nàng không biết tên. Nhiều lúc nàng định hái hoa chơi. Nhưng nghe lời Lê Văn dặn rằng phàm những hoa trong trang mà không biết tên thì tuyệt đối không nên đụng chạm vào. Ngay những hoa có biết tên, cũng không nên hái. Hoa này không độc, nhưng mang theo bên mình, tới vùng có thứ hoa khác ,mà hai thứ hợp với nhau, sẽ thành độc tố rất nguy hại.
    Qua hơn trăm luống trồng cây thuốc, tới chân ngọn đồi. Trên đồi trồng toàn thông. Gió thổi, lá thông reo vi vu như những tiếng than thở của cặp tình nhân không trọn vẹn.
    Bảo-Hòa hỏi Mỹ-Linh:
    - Em làm sao mà nội công cùng kiếm pháp tiến mau như vậy?
    Mỹ-Linh tường thuật việc Tịnh-Huyền dạy kiếm pháp Long-biên cùng những thuật ngữ như thế nào. Rồi trong hầm đá, nàng học dược 72 thức trấn môn với bài quyết biến hóa. Sau đó đem ra đấu cùng Lê Văn, cùng bọn Triệu Huy. Còn nội công, nàng luyện theo lối không tâm trong Thiền-công.
    Mỹ-Linh bàn:
    - Chị Bảo-Hòa này. Hồng-sơn đại-phu bắt chị phải đỡ được của Thiếu-Mai mười chiêu, mới cho chị rời sơn-trang. Em nghĩ, từ nhỏ chị luyện võ công dương cương quen rồi. Chị cũng được luyện 12 chiêu Phục-ngưu thần chưởng. Hay bây giờ, em đọc khẩu quyết toàn bộ pho Phục-ngưu thần chưởng, chị thử luyện xem. Biết đâu không thành công?
    Bảo-Hòa gật đầu:
    - Ừ, em bàn đúng đấy, gặp lúc đói đầu gối phải bò. Không lẽ suốt đời bị giam ở đây sao? Có điều Phục-ngưu thần chưởng chị học do truyền khẩu, có lẽ sai lạc khá nhiều. Bây giờ em thử đọc phần tổng quyết xem có giống nhau không!
    Mỹ-Linh đọc lại từ đầu đến cuối bẩy mươi hai câu tổng quyết. Bảo-Hòa gật đầu:
    - Một vài từ ngữ không giống nhau. Nhưng đại ý đều không khác biệt. Bây giờ em đọc cách luyện chiêu Ác ngưu nan độ cho chị nghe.
    Mỹ-Linh lại đọc một hơi. Bảo-Hòa gật đầu:
    - Cách luyện, cách phát chiêu, cách biến hóa thì đúng. Nhưng cách vận-khí thì không hoàn toàn giống nhau.
    Bảo-Hòa hít hơi vận khí đánh thẳng vào một gốc thông lớn bằng cổ tay. Cây thông rung lên như bị bão.
    Mỹ-Linh nhắc:
    - Phần tổng quyết nói rằng Phàm phát chiêu phải có ý niệm mình sẽ đánh vào một bức tường đá. Ý thủ rằng tường đá sẽ bị đánh vỡ ra từng miếng. Như vậy mới đạt được cái uy lực. Em thấy chị phát chiêu, mạnh thì có mạnh, nhưng không làm gẫy cây thông, thì chưa phải là Phục-ngưu thần chưởng.
    Bảo-Hòa tỉnh ngộ, nàng tập trung tinh thần, hít một hơi không khí, vận lực đẩy về phía trước. Bình một tiếng, cát, bụi bay mịt mù. Mỹ-Linh reo:
    - Gần được rồi đấy.
    Bảo-Hòa đứng im vận khí một lúc, đưa nội tức từ đơn điền lên đầu vai. Một lực đạo hùng hậu làm tay nàng muốn rung lên. Nàng lại phát chiêu Ác ngưu nan độ hướng vào cây thông ban nãy. Bình một tiếng, cây thông bị tiện đứt ngang ở giữa như dao chặt một nhát ngon.
    Mỹ-Linh reo lên. Nàng cầm cây thông lên coi, chỗ đứt bằng phẳng. Hai chị em ôm lấy nhau, lặng đi một lát vì mừng.
    Mỹ-Linh nói:
    - Bây giờ chúng ta bắt đầu luyện từng chiêu một. Trước hết phải chỉnh đốn lại những chiêu chị đã biết cho đúng, rồi mới luyện những chiêu mới.
    Hai chị em luyện đến trưa thì chỉnh xong mười hai chiêu. Mỹ-Linh thắc mắc:
    __ Chị Bảo-Hòa này. Em nghe nói Phục-ngưu thần-chưởng là võ công trấn môn của phái Tản-viên. Pho chưởng này không truyền cho nười ngoài môn phái. Vậy ai đã dạy chị?
    Bảo-Hòa mỉm cười:
    - Chị được học Phục-ngưu thần-chưởng trong một lần theo ông nội viếng thăm tổng-đường phái Tản-viên. Sư bá Đặng-đại-Khê, chưởng môn phái Tản-viên sủng ái chị cùng cực. Ông là người giỏi về khoa tướng-số. Mới nhìn thấy chị, ông đã yêu thương như con cháu. Ông vuốt tóc chị khen là tóc mây. Ông dặn chị : « Cháu đã được ông nội là đệ nhất cao nhân đương thời luyện võ cho. Ta không dám xen vào. Nhưng nhìn tướng cháu, ta biết sau này sự nghiệp của cháu không tầm thường. Phái Tản-viên nhà ta, từ xua có một tuyệt kỹ trấn môn là Phục-ngưu thần chưởng do tổ-sư Sơn-Tinh chế ra gồm 36 chiêu, đặt trên cơ sở dương cương. Sau Vạn-tín hầu nhân dó chế ra 36 chiêu âm-nhu khắc chế với các chiêu dương cương. Đến thời vua An-Dương thì bị thất truyền chỉ còn mười tám chiêu. Sau Bắc-bình vương Đào Kỳ có cơ duyên tìm lại luyện trọn vẹn cả âm lẫn nhu, mà thành anh hùng vô địch. Nay pho chưởng này bị thất truyền, chỉ còn mười hai chiêu dương cương. Ta dạy cháu. Biết đâu sau này, cháu lại có cơ duyên tìm được ».
    Bảo-Hòa ngước mắt nhìn mây trôi, tay nàng nhặt quả thông ném xuống suối:
    - Sau khi học chị đã đem ra xử dụng nhiều lần, nhưng thấy uy lực không mạnh thì cho rằng pho chưởng này bị người đời huyền thọai hóa đi, chứ thực sự không hơn gì những pho chưởng khác làm bao. Bây giờ chị được Mỹ-Linh đọc khẩu quyết cho nghe, mới vỡ lẽ ra rằng trong pho chưởng này có ba phần độc lập. Một là cách vận-khí, hai là cách phát-chiêu, ba là cách biến hóa. Người học chỉ luyện một phần thì cũng có kết qủa, luyện hai phần thì kết qủa mạnh hơn. Nếu luyện cả ba phần thì kết quả mới thực sự phát huy được hết sức mạnh.
    Mỹ-Linh đọc khẩu quyết chiêu Tứ ngưu phân thi cho Bảo-Hòa:
    - Tứ ngưu phân thi là chiêu thửc chỉ khó ở phần biến hóa, chứ không khó ở phần luyện. Trước hết khí trầm đơn điền, rồi chuyển phân ra hai chân, hai tay, sau đó buông lỏng chân khí mà phát chiêu.
    Bảo-Hòa vừa vận khí thì cảm thấy chân đau nhói lên, mặt mày tái mét. Cho rằng mình vận khí sai, nàng làm lại lần nữa, chân lại đau nhói. Nàng bật lên tiếng Ái.
    Mỹ-Linh hỏi:
    - Cái gì vậy?
    Bảo-Hòa chỉ vào chân:
    - Chị vận khí đến đây thì bị đau nhói lên.
    Mỹ-Linh thở dài:
    - Đúng rồi. Hôm qua Hồng-sơn đại-phu phóng vào người chị viên Ngọc-hàn đơn, để chị không thể đi đâu xa được. Lê Văn nói : Trúng phải Hàn-ngọc đơn thì không thể di chuyển quá hai dậm. Khi di chuyển quá hai dậm, chân bị đau nhói. Chị vận khí xuống chân cũng như di chuyển, chân đau là phải. Thôi, hôm nay mình tạm nghỉ đã.
    Hai người hướng căn nhà thủy tạ đi xuống. Vừa sắp bước qua mỏm đá, Bảo-Hòa kéo Mỹ-Linh ngừng lại núp vào bụi cây, tay để lên miệng ra hiệu im lặng. Bên kia giòng suối, Hồng-Sơn đại-phu đang sóng đôi rảo bước cùng Lâm Huệ-Phương. Huệ-Phương chỉ vào tảng đá cạnh suối:
    - Anh ơi. Chúng ta ngồi đây nghỉ một tý đã. Cảnh trí u tịch quá. Ước gì em được sống ở trong sơn trang này mãi mãi.
    Hồng-Sơn đại-phu mỉm cười:
    - Sơn-trang của anh là nơi hủ lâu, trong chốn rừng sâu thế này, mà được một tiên nữ như em ở lại thì còn gì hân hạnh bằng. Anh chỉ sợ em ở chẳng được bao lâu, lại bỏ đi.
    Huệ-Phương ngứơc mắt nhìn mây trôi, con mắt nàng đẹp không thể tưởng tượng được. Tay nàng ngắt một bông hoa trà, cài lên túi áo đại-phu. Nàng thở dài:
    - Anh ơi! Em không biết phải nói thế nào anh mới tin cho. Song thân em chỉ có một mình em lại là gái. Hai người suốt đời buôn bán dọc ngang. Tiền của tuy giầu có thực, nhưng vẫn buồn vì không có con trai. Người khuyên em phải chọn lấy một tấm chồng đủ bằng này điều kiện. Một là phải có đức, biết thương dân, thương nước. Hai là có võ công cao. Ba là biết hưởng cái thú thanh nhàn của thiên nhiên.
    Mỹ-Linh nói thầm vào tai Bảo-Hòa:
    - Chị này yêu ông đại-phu rồi đây. Không biết em gặp chị ấy ở đâu trông quen quá. Đúng rồi, em có gặp nàng một lần ở Thăng-long.
    Huệ-Phương ngước mắt nhìn đại-phu:
    - Thân phụ em còn nói: khi tìm được người như vậy, thì dù tuổi nào, dù làm lẽ, làm nàng hầu cũng cam. Khi mới gặp anh, em thấy anh là mẫu người em đi tìm. Thế rồi sóng gió đến, chúng mình xa nhau. Em lặn lội hàng vạn dặm đi tìm anh, chỉ mong dâng hiến cuộc đời cho anh.
    Tay nàng ngắt bông hoa, đứng tựa bên cây Ngọc-lan đưa mắt nhìn trời xanh. Hồng-Sơn đại-phu quì xuống ôm lấy hai đầu gối nàng:
    - Em thực là tiên nữ của đời anh.
    Hồng-Sơn đại-phu nắm lấy tay Huệ-Phương. Nàng run lên bần bật. Ông bế bổng nàng lên, đặt ngồi vào trong lòng mình. Huệ-Phương gục đầu vào người ông. Một tay ông quàng vai, một tay ông vuốt ve cánh tay nàng. Bàn tay ông đẹp vô cùng, mịn màng, nhỏ như bàn tay thiếu nữ.
    Bảo-Hòa, Mỹ-Linh là hoàng hoa khuê nữ, tuy có nghe nói đến yêu đương, song rất ít. Mỹ-Linh chỉ gọi là biết chút ít yêu khi gặp Thân Thiệu-Thái. Còn Bảo-Hòa thì gần như chưa bao giờ nghĩ tới. Bây giờ hai người chứng kiến cảnh yêu đương, tuy không muốn nhìn, mà không thể nào tránh được. Hai người biết nội công Hồng-Sơn rất cao, chỉ cần hai người thở mạnh một tiếng, thì lập tức ông ta phát giác ra, e khó toàn mạng.
    Một lúc sau, Hồng-Sơn buông Huệ-Phương ra. Huệ-Phương nói như trong giấc mơ:
    - Năm nay em đúng mười chín. Anh mới 51 tuổi. Em muốn anh cho em một đứa con. Đứa con sẽ đẹp như mẹ nó, và thông minh như bố nó. Anh góa vợ từ lâu, chẳng may tục huyền với một người đàn bà vừa đần độn, vừa đanh ác, làm anh phiền muộn không ít. Bây giờ người ấy đã ra đi rồi, em đến với anh.
    Huệ-Phương chưa nói dứt lời thì có ba tiếng trống từ xa vọng lại. Hồng-Sơn đứng dậy nói:
    - Có quí khách từ xa tới thăm. Sơn-trang đánh trống mời anh về. Huệ-Phương, kể từ giờ này, em cứ coi như em là vợ chính thức của anh. Bây giờ có khách. Em là chủ mẫu sơn trang, tiếp với anh.
    Hai người hướng căn nhà Bát-giác, dùng khinh công chạy tới. Mỹ-Linh, Bảo-Hòa rời chỗ nấp. Bảo-Hòa cười:
    - Không ngờ Hồng-Sơn tiên sinh tuổi đã cao, mà còn gặp duyên tình kỳ lạ. Ông ta cũng nhiều tình cảm đấy chứ ? Chỉ duy có điều ông ta thù hận ông ngoại, thành ra có nhiều điều quá đáng. Thôi chúng ta đi về, không Lê Văn đợi cơm.
    Còn cách nhà sàn mấy trăm bước, hai người nhận ra Lê Văn đang đứng trước nhà chờ đợi. Thấy Bảo-Hòa, Mỹ-Linh từ xa đi lại, Lê Văn cười toe toét:
    - Hai chị lên đồi thông hả? May mà không gặp bố em. Bố em cũng đi về phía đó với giai nhân. Hôm nay coi bộ ông cao hứng lắm. Em sẽ ăn cắp thuốc giải chữa Hàn-ngọc đơn cho các chị.
    Mỹ-Linh thấy Lê Văn dễ thương lạ lùng, trái hẳn với ông bố. Nàng hỏi:
    - Cậu Văn này. Hôm qua chị đâu ngờ cậu giả đấu võ với chị, rồi cho chị uống thuốc giải. Cậu làm trái lại với lệnh của bố, không sợ bố đánh đòn sao?
    Lê Văn chù mõm ra làm xấu:
    - Chị đừng nhìn bề ngòai mà xét đoán con người. Bố em là người dễ tính nhất thiên hạ. Đặc biệt là đối với con, cháu. Bọn em muốn gì ông cũng chiều hết, miễn là học cho giỏi, và tập võ cho chuyên. Hôm qua, ông biết em giả vờ thua chị, ông cũng cười xòa. Khi biết em ăn cắp thuốc chữa cho các chị, ông chỉ mắng em là thằng cà-chớn rồi thôi. Hôm nay em đã ăn cắp thuốc giải chữa cho Lê Phụng-Hiểu, thả anh ta về làng Vạn-thảo rồi.
    Bảo-Hòa hỏi:
    - Thế thân mẫu cậu đâu?
    Lê Văn xịu mặt xuống, nó trả lời bằng giọng trầm trầm:
    - Mẹ em chết từ năm em mười tuổi. Tính ra năm nay đã bốn năm rồi.
    Mỹ-Linh cũng bị mất mẹ. Nàng nghe Lê Văn nói, thì thông cảm mối buồn mất mẹ. Nàng tiến lên nắm tay nó:
    - Bố em là y sĩ đại tài, mà không cứu được mẹ em ư? Mẹ em bị bệnh gì vậy?
    Lê Văn thở dài:
    - Bố em cũng không biết đó là bệnh gì nữa. Ông chỉ biết mẹ em bị người ta dùng võ công đẩy chất độc ngấm vào tạng phụ. Mỗi ngày vào giờ Thân, lại lên cơn đau đớn không biết đâu mà kể.
    Mỹ-Linh nắm lấy tay Lê Văn:
    - Có phải khi lên cơn, mẹ em gập người lại, mặt đỏ tươi không?
    - Đúng. Sao chị biết?
    - Chính vương mẫu của chị cũng bị bệnh tương tự. Sau đúng bẩy lần bẩy là bốn mươi chín ngày thì chết.
    - Thế trước khi chết, vương mẫu chị có dặn gì không?
    - Không. Bà chỉ xin phụ vương dạy chị học võ, và xin giao chị cho thúc phụ trông coi.
    Lê Văn nghiến răng:
    - Mẹ em lúc sắp lâm chung nói rằng bà bị người ta dùng Nhật-hồ Chu-sa chưởng đánh trúng. Người ám toán ra lệnh cho mẹ em phải làm việc cho Nhật-hồ lão nhân, thì sẽ được trao thuốc giải. Mẹ em không muốn phản bố em, đành chịu chết.
    Mỹ-Linh đã tìm ra cái chết của mẹ nàng: mẹ nàng bị trúng Nhật-hồ Chu-sa độc chưởng. Chắc người đánh muốn bà phải tuân theo điều kiện phản bội triều đình, mà bà không làm, đành chịu chết. Người chủ trương là Nhật-hồ lão nhân. Một người chỉ nghe tên, mà không ai biết gốc tích, hình dạng lão ra sao. Lão muốn khốâng chế mẫu thân nàng, rồi mẫu thân Lê Văn, không biết để âm mưu gì?
    Mỹ-Linh hỏi:
    - Cậu có mấy anh chị em? Bố có bao nhiêu vợ?
    - Hai đứa. Chị Mai lớn nhất, rồi đến em. Bố em chỉ có một mẹ em thôi. Khi mẹ em chết đoạn tang, bố em tục huyền với một người đàn bà nhỏ hơn ông mười hai tuổi, vừa xấu, vừa đần, vừa ngu.
    Mỹ-Linh kinh ngạc:
    - Với địa vị của ông, thì thiếu gì những con gái lương gia, sắc nước hương trời. Mà ông lại đi lấy người vợ như vậy?
    Lê Văn thở dài:
    - Chỉ vì thương bọn em mà ông lầm lẫn như vậy. Ông tưởng lấy vợ con nhà hèn hạ, vừa xấu, vừa ngu, để mụ không dám tàn ác với bọn em. Nào ngờ...

    Bảo-Hòa đã từng thay bố mẹ qua lại 207 động bắc biên, nhiều kinh nghiệm sống. Nàng ngắt lời Lê Văn:
    - Như vậy là hỏng rồi. Mụ quá ngu, thì không thể nào hiểu được cuộc sống của ông chồng có địa vị cao cả đến tột đỉnh. Mụ đần, dốt hơn em, mà lại là mẹ kế thì sao dạy dỗ em được. Thành ra suốt ngày mụ gây gổ với em. Thế là hai vợ chồng bất hoà vì em xung đột với mụ. Ngoài ra ông bà không thể trao đổi với nhau những khó khăn, những tâm sự.
    - Đúng thế. Mới cưới về, ngày nào mụ cũng gây với bọn em. Hồi đầu bọn em còn nể nang. Về sau, bọn em cũng gây lại. Mỗi lần gây nhau, bố em buồn lắm. Mụ gây cả với bố em. Bố em tức mình không thèm nói với mụ câu nào nữa. Hơn nửa năm, mụ bỏ đi.
    Nó chỉ về phía nhà bát giác:
    - Từ lúc gặp cô Huệ-Phương, bố em như đổi mới. Hôm qua Huệ-Phương nói tryện với bố em cả đêm. Sáng nay hai người dẫn nhau lên đồi thông.
    Mỹ-Linh dò la phản ứng của Lê Văn:
    - Em có nghĩ rằng bố em say Huệ-Phương không?
    - Càng tốt. Huệ-Phương xinh đẹp, lại là người kinh lịch. Chắc chắn sẽ làm cho bố em vui vẻ. Em đã nói truyện với cô ấy. Cô ấy thích em lắm...À thôi, hai chị đi ăn cơm chứ.
    Lê Văn dẫn chị em Bảo-Hòa đi về hướng đông, nơi có nhiều dẫy nhà nằm san sát .Ở giữa, một căn nhà rộng, theo hình vuông, cao ba tầng, mái uốn cong, lợp ngói đỏ tươi. Tầng dưới cùng bốn mặt vuông vức. Ngoài hàng hiên có năm cây cột gỗ lim, chạm trổ rất tinh vi. Tiếp nối hàng hiên, từơng xây bằng những tảng đá xanh. Cửa bằng gỗ trắc sơn đỏ chói.
    Bảo-Hòa hỏi:
    - Nhà cửa trong sơn-trang cao đẹp không kém gì cung điện ở Thăng-long của đức vua. Ai ở đây vậy ?
    - Không có ai ở hết. Ngôi nhà này có ba tầng. Tầng trên cùng làm nơi thờ Quốc-tổ, Quốc-mẫu, thờ tổ sư. Tầng thứ nhì làm Tàng-kinh các, để đệ tử trong trang đến đọc sách. Tầng dưới cùng làm Đại-sảnh-đường, nơi hội họp. Căn nhà này mang tên Điện Kinh-dương. Trước bốn mặt của điện Kinh-dương, mỗi mặt đều có chín dẫy nhà nằm song song nhau. Tổng cộng 36 dẫy. Mỗi dẫy cách nhau bằng một cái vườn hoa. Đây là nơi cho những bệnh nhân ở xa đau nặng, cần ở lại điều trị. Cả khu mang tên Văn-lang.
    Bảo-Hòa đã từng thấy viện dưỡng thương của bố mẹ nàng, dùng trị bệnh cho tướng sĩ vùng biên giới. Tuy to lớn, nhưng so với khu trị bệnh này, thì thua xa. Nàng thắc mằc:
    - Tôi xem mỗi dãy có chín phòng. Vậy mỗi phòng chứa được bao nhiêu người ?
    - Mỗi phòng mười tám giường. Mỗi dãy 162 giường. Tổng cộng 5832 giường.
    Mỹ-Linh ái một tiếng:
    - Như vậy có bao gìơ trang nhận bệnh nhân đầy hết số dường không?
    - Có chứ. Hiện nay chỉ còn khỏang hơn trăm giường trống mà thôi. Để em chỉ cho các chị biết. Vạn-thảo sơn trang do chính tay bố em dựng lên mới mấy chục năm. Trang chia lam ba khu vực rõ rệt. Khu Văn-lang là khu các chị vừa đi qua. Trong khu có điện Kinh-dương, nhà Thủy-tạ xây trên hồ nước, là nơi bố em ngồi thưởng hoa, ngắm cảnh, cũng như tiếp khách riêng. Hôm trước nếu các chị đến bằng cổng chính, tất sẽ do đệ tử của bố em tiếp nhận, phân loại rồi chữa. Mà các chị đến bằng cửa riêng chỉ dành cho người nhà, nên đụng nhằm bố em. Xui thực xui. Nhưng mà lại hên. Khu thứ nhì là khu Âu-lạc.
    Lê Văn dẫn chị em Bảo-Hòa qua một khu nữa. Khu thứ nhì kiến trúc giống như khu Kinh-dương, Lê Văn giới thiệu:
    - Khu này tên là Âu-lạc. Ngôi nhà lầu ba tầng tên là điện Âu-cơ. Tầng thứ nhất là Giảng-y-đường. Nơi bố em dạy học. Tầng thứ nhì là Vạn-thảo-đường, nơi chứa thuốc. Tầng dưới cùng là Luyện-đan-đường, nơi chế thuốc. Còn 36 dẫy nhà, dùng làm nơi ăn, ở của đệ tử, cùng những người giúp việc.
    Một lát đi qua ngôi nhà kiến trúc rất đặc biệt, từ cột, cho tới tường đều bằng gỗ. Mái không lợp ngói như những ngôi nhà khác, mà lợp bằng rạ. Ngôi nhà hình tròn, có bốn cửa thông ra bốn phía.
    Lê Văn giới thiệu:
    - Ngôi nhà này có tên Nghinh-tân-các là nơi tiếp khách quí. Đúng ra các chị là tù nhân của sơn trang, thì ở ngôi nhà hôm qua. Sau vì chị Mỹ-Linh thắng chị Mai, nên bố coi trọng hơn, cho các chị ra ở nhà của thượng khách.
    Nó chỉ tay lên đồi:
    - Khu thứ ba là khu Lĩnh-nam, tức khu trồng hoa, cỏ, cây thuốc, mà các chị đã đi dạo chơi nhiều lần. Khu thứ ba chia làm sáu phần, mỗi phần mang tên vùng đất thời Lĩnh-nam như Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận, Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam.
    Đúng như Lê Văn nói, khi Mỹ-Linh bước chân vào căn nhà tròn, thì có hai thiếu nữ áo lụa vàng nhạt, quần lụa đen bước ra lễ phép mời vào. Lê Văn nói:
    - Hoàng Mai, Hoàng Cúc, đây là công chúa Bình-Dương và quận chúa Bảo-Hòa. Hai người phải lo phục thị chu đáo. Nếu có gì sơ xuất, bố tôi đánh đòn đó. Thế nào cơm đã dọn chưa?
    Hoàng Cúc đáp:
    - Thưa công-tử, tất cả đã sẵn sàng chờ quí khách.
    Lê Văn nhìn bàn ăn, nó mỉm cười:
    - Hôm nay hai chị được ăn thêm mấy món đặc biệt. À đây là món canh cải bẹ nấu ca rô. Đây là món cá rô kho keo. Ờ, lại còn món nem nữa.
    Lê Văn mời Bảo-Hòa, Mỹ-Linh ngồi. Bảo-Hòa thấy trên bàn có bốn đôi đũa. Nàng hỏi:
    - Này cậu em, còn ai nữa đây?
    Có tiếng đáp thanh thóat:
    - Còn Thanh-Mai chứ ai nữa
    Thanh-Mai từ ngoài bước vào. Mỹ-Linh mừng quá đứng dậy hỏi:
    - Chị Thanh, chị ở đâu?
    Thanh-Mai chỉ lên đầu:
    - Chị ở trên lầu. Các em cũng sẽ ở đó với chị. Mấy món này chị thân làm để đãi Bảo-Hòa đấy. Canh cải bẹ xanh nấu với cá rô là món ăn hơi cầu kỳ, mà ngon. Cách nấu như thế này. Cá rô đánh sạch vảy, rồi cho vào nồi luộc chín. Sau đó gỡ thịt riêng ra. Còn xương thì cho vào cối dã nhỏ thành bột. Đổ nước vào lọc riêng nước mầu với bã xương. Nước mầu cho vào nồi, thêm một muỗng mắm tôm nấu lên. Cải bẹ xanh thái thực nhỏ như sợi tóc. Đợi khi nước sôi, thì cho rau vào. Chờ khoảng nhai dập miếng trầu, thì bắt ra. Trước khi bắt, giã nhỏ một củ gừng bằng ngón chân cái cho vào.
    Mỹ-Linh hỏi:
    - Tại sao canh cải bẹ xanh lại phải cho gừng, mà không cho hồ-tiêu?
    Thanh-Mai lắc đầu:
    - Chị chỉ biết nấu mà không hiểu tại sao.
    Lê Văn cười:
    - À cái này dễ thôi. Cải bẹ xanh tính vốn co rút, lại mát. Nếu mát qúa thì ăn vào dễ đau bụng. Gừng tính chất phát tán lại nóng, có thể hòa giải tính co rút và mát của cải bẹ xanh.
    Mỹ-Linh gắp một con cá rô kho bỏ vào bát. Thanh-Mai cản lại:
    - Hôm trước anh Tạ Sơn nói :Mỹ-Linh chưa được ăn cá rô. Vì cá rô xương cứng. Ăn vào dễ bị hóc. Nên ngự trù không giám nấu dâng lên đức vua cùng hoàng-tử, công-chúa. Để chị vẽ cho Linh ăn, nếu không sẽ bị hóc.
    Thanh-Mai vẽ xong, Mỹ-Linh gắp ăn. Cá rô ít tanh, lại kho keo, thịt cá dai, cứng như thịt gà, thơm tho, có vị bùi đưa lên mũi.
    Mỹ-Linh than:
    - Cá rô kho keo ăn ngon như thế này, mà năm nay mười bẩy tuổi em mới được ăn. Chị Thanh, dạy em kho cá đi. Kỳ này về hoàng cung, em sẽ làm cho bố ăn.
    Thanh-Mai giảng:
    - Cá rô phải chọn con lớn. Nếu có trứng càng tốt. Đánh vảy, cắt gai thực kỹ, nhớ cắt mang, lấy go ra. Sau đó rửa với chanh họăc dấm cho hết nhớt. Không cần mổ ruột, ăn cả ruột lẫn mật. Mật cá rô không đắng, trái lại giúp cho bớt mùi tanh. Đem cá ướp muối, kẹo đắng khỏang nửa ngày, rồi đổ nước xấp xỉ bằng cá, đun lửa thực nhỏ. Khi nước sắp khô, phải trở cá luôn. Lúc cá thật keo lại, thì ngừng.
    Mỹ-Linh hỏi Lê Văn:
    - Tại sao khi ăn cá trê, phải lấy ruột ra. Còn ăn cá quả với cá rô lại ăn cả ruột? Trong y-học có nói về vấn đề này không?
    Lê Văn vui vẻ đáp:
    - Khoa ăn uống của tổ tiên mình, tất cả đều được đặt trên cơ-sở y học cả. Chị nên biết cá trê thuộc loại ở dưới bùn, không có vảy, nhiều nhớt, thuộc âm tính nhất trong các lọai cá. Thịt nó đã tanh, thì ruột nó còn tanh hơn. Hiện không có loại rau thơm nào hòa giải được cả, nên không thể ăn.
    Lê Văn cầm đũa vẽ con cá rô, moi ruột ra bỏ vào bát Mỹ-Linh:
    - Còn cá quả cũng như cá rô, chúng là lọai cá dương sống trong âm, bởi chúng nó rất mạnh. Cá quả cũng như cá rô là lọai dương, mà sống trong bùn, trong nước đất thuộc âm, ăn vào thường hay bị sưng chân, nổi mụn ngứa. Cho nên khi làm thịt hai lọai cá này, không nên vứt bộ đồ lòng đi. Cần ăn lòng của chúng, để chống độc chất nhiễm trong thịt chúng. Phải biết rằng hai loại cá sống trong bùn lầy đầy chất độc, thế mà nó chịu đựng được, thì trong thân phải có sức chống âm hàn, chống mùi tanh của bùn. Cơ quan chống lại được bùn lầy của chúng là bộ đồ lòng.
    Trong bốn người, thì Thanh-Mai lớn tuổi nhất. Thứ đến Bảo-Hòa, rồi Mỹ-Linh. Nhỏ nhất là Lê Văn. Lê Văn nói truyện rất có duyên. Vì vậy bữa ăn trôi qua thực mau lẹ.
    Có một hồi trống vọng về. Lê Văn đứng lên nói:
    - Trống tập họp các đệ tử ở đại sảnh đường. Chắc có việc gì quan trọng. Em mời các chị cùng đi cho vui.
    Bảo-Hòa trầm ngâm:
    - Chúng tôi không phải đệ tử trong trang .Không biết có nên tham dự chăng?
    Lê Văn nắm tay Bảo-Hòa kéo dậy:
    - Theo tục lệ trang, thì đại hội có nghĩa là cần thông báo một tin tức gì cho tất cả những người hiện diện, ngoại trừ bệnh nhân. Các chị cũng là người cư trú trong trang, các chị cũng có quyền tham dự.
    Lê Văn dẫn chị em Thanh-Mai đến đại sảnh đường khu Văn-lang. Mọi người đang lục tục kéo tới.
    Lê Văn giảng:
    - Các chị phải trông y phục mà phân biệt loại người. Những người mặc quần trắng, áo trắng là đệ tử của sơn-trang. Họ học cả y lẫn võ. Những người mặc quần đen, áo xanh, thì họ là người giúp việc bếp nước, lau chùi, giặt quần áo cho bệnh nhân. Những người mặc quần áo nâu thì là người trồng thuốc, làm vườn. Còn những người không mặc quần áo đồng phục, là gia nhân, họ hàng nhà em. Khi đại hội như thế này, người đệ tử cao niên nhất của bố em đứng triệu tập.
    Trong đại sảnh đông nghẹt, mà không một tiếng động. Mọi người như quen với lối sinh hoạt này rồi. Họ âm thầm tìm chỗ ngồi. Thanh-Mai liếc nhìn: họ chia nhau ra ngồi từng khu riêng biệt. Khu áo trắng, khu áo xanh, khu áo nâu và khu... không đồng phục.
    Thanh-Mai được Lê Văn mời ngồi vào khu sát bục sân khấu. Nàng thấy bọn Triệu Anh, Đinh Toàn cũng được dẫn tới ngồi vào khu dành cho quan khách, nhưng họ ngồi cách xa nàng. Không thấy Lê Phụng-Hiểu, Thanh-Mai ngạc nhiên hỏi Lê Văn.
    Nó nói nhỏ:
    - Anh ta là người trong làng Vạn-thảo, bố em không có lý do gì bỏ tù anh ta. Em đã ăn cắp thuốc giải Hàn-ngọc đơn cho anh ta uống, đưa anh ta về rồi.
    Một trung niên nam tử mặc quần áo trắng lên bục, dơ tay cho mọi người im lặng, rồi anh ta nói lớn:
    - Thưa các vị đồng trang. Hôm nay trang chúng ta có quý khách tới thăm. Qúi khách muốn chúng ta tham dự một việc quan trong thiên hạ. Tôi nhắc lại một việc quan trọng của thiên hạ, chứ không phải việc quan trọng Đại-Việt. Sư-phụ tôi không giám tự quyết, mời các vị cùng nghe, rồi cho ý kiến chung.
    Thanh-Mai hỏi nhỏ Lê Văn:
    - Đại sư huynh của em tên gì vậy?
    - Anh tên Dương Bình. Trước đây anh có người cô ruột làm hoàng-hậu của vua Đinh tên Dương Vân-Nga. Khi vua Đinh chết, bà lại được vua Lê phong làm Đại-thắng hoàng-hậu. Võ công anh rất cao, mà tài phục dược cũng thần sầu.
    Thanh-Mai nói nhỏ:
    __ Như vậy Dương Bình với Đinh Toàn là con cô con cậu à?
    - Đúng thế.
    Dương Bình đợi cho tiếng ồn ào giảm bớt, chàng lại nói lớn:
    - Nhân tiện đây tôi cũng xin báo cho các vị biềt, sư phụ tôi mới kén được sư mẩu.
    Cả sảnh đường im lặng. Mọi người chờ Dương Bình loan tin tiếp xem người ấy là ai. Bởi Hồng-Sơn đại-phu là người võ công đệ nhất đương thời, ngoài ra ông lại là đại-phu nức danh, một tay cứu không biết bao nhiêu người, ân huệ trải khắp thiên hạ, Gần đây hàng trăm người đến mối lái, ông không nhận. Thình lình ông cưới một người đàn bà vừa xấu, vừa đần, vừa ngu, vừa không có đức. Y thị về trang đã gây ra không biết bao nhiêu điều buồn cho mọi người. Thế rồi hơn năm sau mụ bỏ đi. Ai cũng mừng rỡ. Bây giờ lại thấy loan báo trang chủ cưới vợ, thành ra ai ai đều hiện ra nét lo âu.
    Dương Bình tiếp:
    - Sư mẫu là người trong võ lâm, nhưng không thuộc đại môn phái nào. Tuy tuổi trẻ, nhưng người đã từng hành hiệp suốt một giải biên giới phía bắc Đại-Việt, sang tới vùng Mân-Quảng bên Trung-quốc.
    Chiêng trống đánh liên tiếp ba hồi liền. Lê Văn nói nho nhỏ để chị em Thanh-Mai nghe:
    - Bố em với khách tới đấy!
    Dương Bình hô mọi người đứng dậy. Hồng-Sơn đại phu mặc quốc phục thời vua Hùng. Bên cạnh ông, Huệ-Phương mặc quần lụa đen, áo mầu đỏ chói, cổ choàng chiếc khăn mầu xanh, dây lưng cũng xanh .Lưng nàng đeo bảo kiếm. Đám đệ tử thấy nàng phơi phới như tiên nữ, thì bật liên tiếng súyt xoa. Cạnh đó là ba người khách. Thoáng trông thấy bọn khách, chị em Thanh-Mai suýt bật lên tiếng kêu. Vì họ chính là Triệu Thành, Vương Duy-Chính, và Minh-Thiên
    Nàng nói sẽ vào tai Lê Văn:
    - Này cậu. Bọn này chính là bọn Tống chị đã nói cho cậu nghe đó.
    Hồng-Sơn đại-phu mời khách an tọa. Hai nữ đệ tử mặc áo xanh, bưng nước, trái cây mời khách. Triệu Thành thấy bọn thuộc hạ cùng Đinh Toàn ngồi trong đại sảnh, mà y lờ đi như không biết.
    Dương Bình hướng xuống dưới, chàng vận nội lực nói lớn:
    - Thưa các vị đồng trang. Hôm nay sơn trang chúng ta hân hạnh được đón mấy vị qúi khách đến viếng thăm. Vị thứ nhất là hoàng đệ đức hoàng đế nhà đại Tống. Ngài hiện lĩnh chức Phu-quốc thái-úy, quản Khu-mật-viện tước phong Bình-nam vương. Vương gia cùng sứ đoàn sang Chiêm-quốc, nhân tiện ghé sơn trang thăm sư phụ chúng ta.
    Triệu Thành đứng dậy cho mọi người hoan hô.
    Dương Bình lại tiếp:
    - Tùy tòng vương gia, còn có Minh-Thiên đại-sư, thủ tọa Đạt-ma đường chùa Thiếu-lâm, và đại-nhân Vương Duy-Chính, xuất thân tiến sĩ, cũng là cao thủ phái Võ-đang, hiện đang giữa chức chuyển-vận-sứ vùng Quảng-tây.
    Triệu Thành đứng lên vận nội lực nói lớn:
    - Thưa Hồng-Sơn tiền bối. Thưa các vị huynh, đệ, tỷ, muội. Bản nhân được chỉ dụ của hoàng huynh kinh lý vùng phía nam hoàng-triều cương thổ. Khi còn ở Trung-nguyên, tại hạ đã nghe danh đại-phu như sét nổ bên tai. Nào võ công đệ nhất Nam-thiên, nào y tài không thua Hoa-Đà, Biển-Thước. Cho nên bản nhân qua đây, xin có chút lễ mọn kính tặng tiên sinh, trước tỏ lòng biết trọng hiền của thiên tử. Sau là trọng thưởng đức cứu nhân độ thế của tiên sinh.
    Y vẫy tay một cái, Vương Duy-Chính cởi túi trên lưng ra, mở nút, đổ xuống cái mâm để trước mặt, hai tay đưa cho Hồng-Sơn đại-phu. Đại-phu tiếp lấy bỏ xuống bàn.
    Vương Duy-Chính cầm danh thiếp đọc:
    - Vàng khối một ngàn lạng. Bạc khối năm ngàn lạng. Ngọc bích mười viên, kim cương mười hạt, hồng ngọc năm hạt.
    Vương Duy-Chính tiếp:
    - Gấm Thục một trăm tấm, hãy còn để ngoài xe.
    Vương Duy-Chính về chỗ ngồi. Hồng-Sơn lão nhân hỏi Triệu Thành:
    - Xin vương gia tâu lên đức Hoàng-đế rằng, tên thôn phu Lê Long-Mang này xin có lời đa tạ hoàng đế bệ hạ ban thưởng. Chẳng hay vương gia chỉ ghé thăm ban thưởng, hay còn có chỉ dụ gì khác?
    Triệu Thành đứng lên nói:
    - Từ khi nhà Đại-tống thuận mệnh trời cai trị thiên hạ đến giờ. Các vị tiên hoàng không ngớt hướng về phương Nam này, là nơi rồng nằm hổ phục, nhân tài như sao sa. Năm trước đây đức hoàng đế mở khoa thi võ. Ngài tuyển một trạng nguyên, hai bảng-nhãn, bốn thám-hoa, và mười lăm tiến sĩ. Cộng chung ba mươi hai người. Ba mươi hai người đang từ một võ-sĩ, phút chốc lên cầm quyền đại tướng quân, hiển hách uy danh.
    Y ngừng lại một lát rồi tiếp:
    - Tuy nhiên trong ba mươi hai vị đó, không có vị nào người Việt cả. Mà đất Việt vốn là nơi xuất phát nhiều nhân tài. Thời Âu-lạc, Lý Thân được phong Vạn-tín-hầu. Thời Đông-Hán, Đào Kỳ được phong Hán-trung vương. Nghiêm Sơn được phong Lĩnh-nam vương. Đô Dương được phong Đô-đình hầu...đó chẳng là những người vang danh thủa nào ư? Năm tới đây, hoàng thượng lại mở khoa thi võ nữa. Vì vậy bản nhân tới đây mời tất cả các vị thuộc sơn-trang, vào ngày rằm tháng tám sang năm, nhớ đến Biện-kinh ứng thí.
    Thanh-Mai ghé tai Lê Văn hỏi nhỏ:
    - Tại sao đại-phu không có phản ứng gì vậy?
    Lê Văn cười:
    - Bố em có cái ưu điểm là bất cứ việc gì ông cũng không phản ứng ngay. Ông suy nghĩ cẩn thận rồi quyết định. Khi ông đã quyết định thì trời gầm ông cũng không đổi. Đối với việc này, lát nữa chị sẽ thấy.
    Dương Bình đứng lên hướng vào cử tọa hỏi:
    - Các vị đồng trang, các vị có ý kiến gì không?
    Một vị mặc quần áo nâu, râu dài, vóc người mảnh mai đứng lên nói:
    - Thưa trang chủ, thưa qúi khách. Lão là Lê Anh, chưởng-quản viện Âu-Cơ xin có đôi lời thắc mắc với Bình-nam vương gia. Theo như tiểu nhân được biết, thì niên hiệu Thuận-thiên thứ tám của đức hoàng-đế Đại-Việt, sứ thần Đại-tống phong cho hoàng đế Đại-Việt tước Nam-bình vương. Không hiểu tại sao vương gia đang là Bình-tây vương, cầm quyền chinh phạt Tây-hạ, Thổ- phồn, Tây-liêu, lại được cải phong là Bình-nam vương. Dường như Tống thiên-tử muốn ủy cho vương gia đánh chiếm Đại-Việt thì phải!
    Vương Duy-Chính đứng lên:
    - Không phải thế đâu. Tước Bình-nam vương của vương gia chỉ với mục đích chỉnh đốn lại cương vực phía Nam mà thôi. Chứ không có ý nghĩa nào khác.
    Dương Bình hướng về Triệu Thành lễ hai lễ:
    - Như vậy thì coi như nhà Đại-Tống không muốn gây chiến ở phương Nam. Thực là phúc đức.
    Huệ-Phương đứng lên. Chiếc áo màu đỏ, phất phới bên chiếc khăn choàng cổ cùng dây lưng vàng, khiến nàng phiêu hốt như tiên nữ. Nàng hướng vào Triệu Thành vái một vái:
    - Tiểu nữ có vài thắc mắc xin vương-gia giải đáp cho.
    Triệu Thành thấy nàng đẹp như thiên tiên thì ngây người ra:
    - Cô nương đây là...
    Dương Bình đáp:
    - Vị này là sư mẫu của chúng tôi.
    Triệu Thành ngây ngất, lắp bắp nói:
    - Thì ra Vạn-thảo sơn-trang chủ mẫu, tôi không biết lại tưởng là vị tiên nào giáng hạ. Không biết phu-nhân có điều chi thắc mắc?
    Huệ-Phương vẫy tay một cái. Hai nữ đệ tử khiêng ra cái khung dựng đứng. Trên khung có cái trục lớn. Huệ-Phương cởi dây, trục mở ra một tấm lụa lớn bằng bốn cái chiếu, trên vẽ bản đồ. Triệu-Thành nhận ra đó là bản đồ biên giới vùng Hoa-Việt.
    Bảo-Hòa, Mỹ-Linh kinh ngạc vô cùng, vì tấm bản đồ này hai người đã thấy ở bản doanh của biên-phòng Bắc-biên và tại Khu-mật-viện Thăng-long.
    Mỹ-Linh hỏi Thanh-Mai:
    - Chị Thanh, chị thử đóan xem tại sao Huệ-Phương lại có tấm bản đồ giống hệt như tấm ở bản doanh cô hai cũng như ở Khu-mật-viện?
    Thanh-Mai lắc đầu:
    - Chị không rõ. Chúng ta cứ chờ xem.
    Huệ-Phương chỉ lên bản đồ:
    - Thưa vương-gia, hồi vua Hùng, vua Thục, vua Trưng, ranh giới Đại-Việt tôi Bắc tới tới hồ Động-đình. Tây giáp với Thục. Bây giờ chỉ còn lại một phần năm. Hiện giữa Trung-quốc với Đại-Việt tiếp giáp với nhau bằng 207 khê-động. Những khê-động này, nguyên gốc từ Tây-vu. Sau khi vua Bà tuẫn quốc, các động-chủ, trang chủ vùng đồng bằng bị Mã Viện truất quyền, thành lập làng-xã, quận huyện. Nhưng vùng Bắc biên tòan rừng núi, các trang chủ động chủ cương quyết kháng chiến, thành ra trải hơn nghìn năm Bắc thuộc, nay vẫn tồn tại. Vấn đề được đặt ra là: Hiện những trang, động chủ qui phục hoàng-đế Đại-Việt. Tại sao các quan nam biên của Tống lại cứ tìm cách mua chuộc, đe dọa, bắt họ bỏ Đại-việt theo Tống?
    Triệu Thành ngơ ngác:
    - Tôi không hề biết truyện này.
    Lúc nghe Dương Bình tuyên bố Hồng-Sơn đại-phu mới tuyển được vợ. Mọi người trong trang đều lo sợ sẽ gặp người đàn bà ngu dốt, ương ngạnh như đời vợ trước của đại-phu. Bây giờ thấy Huệ-Phương đã xinh đẹp, sắc sảo, lại tỏ ra hiểu biết đại cuộc. Nàng mới đặt một câu hỏi, đã làm cho Bình-nam vương nhà Tống luống cuống.
    Huệ-Phương mỉm cười rất tươi chỉ lên bản đồ:
    - Vương gia lịch sự không muốn nói ta chẳng thèm trả lời con nha đầu Nam-man. Chứ sự thực vương gia nào phải không biết. Này vương gia ơi, Khu-mật-viện nhà Tống gồm những đại-thần có tài kinh thiên động địa. Hoàng-đế lại không tiếc tiền, sai hàng chục đoàn do thám sang Đại-Việt. Tể-thần Khấu Chuẩn cũng là danh sĩ Trung-quốc đã từng nói các nước Giao-chỉ, Tây-hạ, Đại-lý... mỗi ngày bò, lợn đẻ thêm bao nhiêu con, Khu-mật-viện đều biết hết. Vương gia trực tiếp chưởng-quản Khu-mật-viện lại không biết thì hơi lạ.
    Triệu Thành hỏi Vương Duy-Chính:
    - Lạ thực, những việc lớn như thế mà tại sao biên thần không tâu về triều? Có lẽ họ không theo dõi chăng?
    Huệ-Phương mỉm cười:
    - Vương gia cứ giả tảng hoài. Ngoài Khu-mật-viện ra. Nhà Đại-Tống còn ba cơ quan lớn nữa theo dõi, chỉ huy những đoàn do thám sang Đại-Việt, đó là Quảng-nam lộ, Quảng-tây lộ và Quảng-đông lộ. Mỗi lộ này dân đông hơn dân nước tôi, đất rộng hơn Đại-việt.
    Nàng chỉ vào Vương Duy-Chính:
    - Vương chuyển-vận-sứ! Có đúng không?
    Vương Duy-Chính giả vờ ngơ ngác:
    - Ty chức không hiểu. Xin phu nhân nói rõ hơn.
    Huệ-Phương cười:
    - Vương đại-nhân không muốn nói, thì tiểu-nữ nói vậy.

    <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.01.2005 09:54:26 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 06.01.2005 18:08:33 (permalink)
      Hồi thứ hai mươi ba


      Phục Ngưu Thần Chưởng




      - Nước Đại-tống có nhiều châu quận. Song không nơi nào triều đình lại cắt cử trọng thần văn mô vũ lược đến bằng ba lộ Quảng. Các lộ Quảng là vùng tiếp giáp với Đại-Việt. Thưa vương gia, Thiên-triều cho trọng binh trấn đóng ở đó. Về các quan thì mỗi lộ có một vị Kinh-lược an-phủ-sứ tổng trấn, coi cả văn lẫn võ. Còn về cai trị, lương thực, thuế khóa thì có một vị Chuyển-vận-sứ. Hai vị không ai dưới quyền ai.
      Nàng chỉ vào Vương Duy-Chính:
      - Vương đại-nhân đây, văn đậu tiến-sĩ, võ là đại cao thủ Võ-đang, lại thuộc hàng cháu Lưu thái hậu. Thiên-thánh hoàng đế nhà Đại-tống lên ngôi đã được năm năm. Nhưng người còn thơ ấu, mọi quyết định đều nằm trong tay Lưu-hậu. Việc Lưu hậu cử cháu mình, làm trọng thần ra biên cương, hẳn phải có thâm ý. Tiên sinh được phong Chuyển-vận-sứ Quảng-tây lộ. Vương tiên sinh hàng ngày đích thân chỉ huy hàng chục đoàn do thám sang Đại-việt. Mỗi việc, mỗi sự xẩy ra bên Đại-việt, tiên sinh đều phúc trình về Khu-mật-viện, thế mà vương gia bảo không biết thì cũng lạ.
      Bị Huệ-Phương nói toẹt âm mưu ra, Triệu Thành cười giã lả:
      - Phu nhân đúng là tiên-nữ, không gì qua mắt được phu-nhân. Việc biên sự, phải đề phòng là lẽ đương nhiên của bản triều. Đâu có gì lạ?
      Huệ-Phương gật đầu:
      - Như vậy vương gia nhận rằng Thiên-triều quả định sang đánh Đại-việt. Thưa vương gia, nước tôi nhỏ, phải tiến cống xưng thần. Tuy nhiên Thiên-triều định chiếm thì chưa chắc đã làm nổi.
      Triệu Thành lắc đầu:
      - Tôi xin minh xác, Thiên-triều không hề có ý định đánh Đại-việt. Những việc dò thám chẳng qua là biên thần hiếu sự bầy ra mà thôi. Nếu phu nhân nêu rõ ra người nào gây hấn với Giao-chỉ, cô-gia sẽ trừng-trị liền.
      Huệ-Phương gật đầu:
      - Vương gia quả xứng đáng là anh hùng. Vương gia là Bình-nam vương. Đại-việt là đất của Thiên-triều, không lẽ Thiên-triều lại đi quấy phá phiên thần của minh. Như vương gia phán những việc quan quân đại Tống quấy rối Bắc biên là do cá nhân. Vương gia sẽ trừng phạt. Vậy thì được, tôi xin nêu những rắc rối ấy ra.
      - Xin phu nhân cứ nói.
      Huệ-Phương chỉ lên bản đồ:
      - Đây là bản đồ biên giới Tống-Việt. Việc biên phòng phía Bắc, giao cho Lạng-châu phụ trách. Lạng-châu trực tiếp thống lĩnh 207 khê-động. Hồi mới lên cầm quyền, Thuận-thiên hoàng đế ( vua Lý Thái-tổ) sai nghĩa đệ là lạc-hầu Thân Thiệu-Anh trấn nhậm.
      Triệu Thành đưa mắt hỏi Vương Duy-Chính hỏi ý kiến.
      Vương Duy-Chính đáp:
      - Khải tấu vương gia, việc này sự thực như sau. Khi Lý Công-Uẩn định cướp ngôi nhà Lê. Y liên kết với Thân Thiệu-Anh. Lúc vua Lê Ngọa-triều sắp chết, Thiệu-Anh kéo trọng binh tuyên bố sẽ về diệt nhà Lê. Trong triều Lý Công-Uẩn, Đào Cam-Mộc cầm binh quyền. Triều đình Giao-chỉ sợ nội chiến, đành tôn Lý lên làm vua. Uẩn lên ngôi vua, phong cho Đào Cam-Mộc làm Trung-nghĩa- hầu, gả con gái cho. Uẩn cho Thân Thiệu-Anh làm vua vùng Bắc biên, và gả em gái là công chúa Hồng-Châu cho. Tiếp theo, Uẩn phong cho con gái thứ nhì làm Lĩnh-Nam bảo quốc hòa dân công chúa, gả cho con Thân Thiệu-Anh là Thân Thừa-Qúy. Quý hiện thống lĩnh 207 khê động gồm tòan tụi mọi, man giáp giới với Trung-nguyên.
      Triệu Thành nhăn mặt:
      - Thế tại sao người ta lại nói chính con gái Lý Công-Uẩn làm vua Lạng-châu?
      Vương Duy-Chính gật đầu:
      - Quả như thế. Nguyên 207 khê-động thường họp nhau lại, tìm người tài đức tôn lên làm vua. Con gái Lý Công-Uẩn được tôn là vua Bà.
      Chuyến đi này của Triệu Thành có mục đích liên kết mua chuộc võ lâm Lĩnh-nam, khích động họ đầu quân, cầm binh Tống trấn vùng biên giới Tây-hạ, Kim, Liêu. Nhân tài trong đất Việt không còn. Sau đó cất quân đánh. Khi đi đường, y biết Hồng-Sơn đại-phu là một trong năm đại tôn sư võ học, thế lực, uy tín trùm Đại-Việt. Bằng mọi giá y phải mua chuộc bằng được. Bây giờ nghe đại-phu có vợ mới. Nhìn Huệ-Phương đẹp như thiên tiên. Y biết muốn mua chuộc Hồng-Sơn, phải được lòng Huệ-Phương. Y nhắc lại:
      - Xin phu nhân cho biết phu nhân có điều gì không vừa ý?
      Huệ-Phương mỉm cười. Môi nàng hồng tươi, mắt sáng như gương, da trắng mịn, thêm má lún đồng tiền. Nàng cười, làm tất cả đàn ông trong đại sảnh đều xao xuyến. Nàng chỉ lên bản đồ:
      - Điều thứ nhất là việc giao thương giữa dân chúng hai nước. Từ khi triều Ngô, Đinh bên Đại-việt lên cai trị, dân Hoa-Việt vẫn buôn bán với nhau bằng bốn thị trấn, thường gọi là bạc-dịch-trường. Bạc dịch trường thứ nhất ở trại Vĩnh-bình, nằm ở phía Nam sông Nghi-hòa. Người Việt bán sang Trung-quốc các thứ hàng như : sừng tê, hương, ngà, vàng, bạc, muối. Mua của Trung-quốc các thứ vải, lụa, gấm vóc. Thế mà gần đây, không biết lý do gì biên thần Đại-tống đem binh đến trấn đóng, rồi cho người vào thu thuế. Vị lạc-hầu Vĩnh-bình là Vi Đại-An phản đối. Quan quân vẫn không chịu lui binh.
      Nàng lại chỉ lên một khu khác:
      - Bạc-dịch-trường thứ nhì nằm trên đất Tô-mậu, Cổ-vạn. Nơi này thương nhân hai nước buôn bán gia súc với nhau. Đại-việt bán cho Trung-quốc thú hoang như hổ, báo, gấu, hươu, nai, lợn rừng. Trung-quốc bán cho Đại-việt trâu, bò, ngựa. Thương nhân hai nước đi lại là thường. Gần đây thương nhân Việt sang vùng đất Trung-quốc, quan quân truyền bắt giam. Lạc-hầu Vi Thủ-Đan sai sứ sang biện luận. Biên thần Đại-tống truyền thả người, mà không chịu trả lại vàng, bạc, thú rừng. Thành ra giữa hai bên rất căng thẳng. Tôi e khó tránh khỏi giao tranh.
      Nàng lại chỉ lên một khu khác:
      - Bạc-dịch-trường Hoành-sơn vốn thuộc vùng tổng-quản của lạc hầu họ Lưu, trải đã mấy chục đời. Nơi đây là chổ giao thương ba nước Tống, Việt, Đại-lý. Luật lệ đặt ra rằng khi có những chuyến hàng lớn, thì quan trấn thủ Ung-châu phải có thư báo cho quan trấn thủ bên Đại-việt là Lưu lạc hầu biết trước. Gần đây quan quân Tống không tuân lệ đó, cứ cho quân hộ tống thương gia vào đất Hoành-sơn. Nếu vua Bà không ngăn kịp thì đã có chiến tranh. Đến truyện xẩy ra ở bạc-dịch-trường Giang-đông thuộc Khâm-châu mới đáng trách. Từ trước đến nay, thuyền buôn Chiêm-thành, Đại-việt cùng Trung-quốc giao thương đủ mọi mặt hàng. Cách nay bốn tháng, biên thần Đại-tống tự ý đem chiến thuyền đến khám xét thuyền buôn Việt-Chiêm, bắt giam nhiều người.
      Nàng thở đài:
      - Vương gia là tể thần, xin vương gia giải quyết ngay, nếu trễ e vua Bà là công chúa Đại-Việt khó ngăn cản nổi các trang-trưởng, động-trưởng. Chiến tranh sẽ xẩy ra. Khi chiến tranh đã xẩy ra, dù to, dù nhỏ võ lâm Việt sẽ nhập cuộc. Thì việc vương gia mời mọi người sang Biện-kinh thí võ e không thành.
      Vương Duy-Chính cười :
      - Thưa phu nhân. Dường như phu-nhân mới tới sơn-trang gần đây. Không biết lời nói của phu nhân là đại diện cho triều đình họ Lý, hoặc Vạn-thảo sơn-trang hay do cá nhân phu nhân?
      - Tôi nhân danh cả ba. Thứ nhất, tôi là con dân Đại-việt, thì mọi việc xẩy ra bất lợi cho Đại-việt tôi đều có bổn phận bảo vệ. Thứ nhì, tôi mới được trang chủ nhận làm vị hôn thê. Theo luật lệ nứơc tôi, hai bên hứa với nhau một lời, thì coi như thành vợ chồng. Tôi là vợ trang chủ, đương nhiên có thẩm quyền của một người dân sơn-trang, mà đặt vấn đề với các vị. Thứ ba phu quân của tôi không hợp tính với Thuận-thiên hoàng đế, là giữa cá nhân Lý Công-Uẩn với cá nhân Lê Long-Mang. Còn vấn đề tôi đặt ra, là vấn đề lãnh thổ, chủ quyền của hai nước.
      Triệu Thành dơ tay vẫy ba cái liền, cử chỉ ấy tỏ rằng cương quyết giữ lời hứa:
      - Được! Khi cô gia về tới Đại-tống lập tức giải quyết vụ này.
      Triệu Thành quay lại nói với Hồng-Sơn đại-phu:
      - Hồng-Sơn tiên-sinh. Tôi nghe tiên sinh là một vị thân vương của triều Lê. Khi Lê Chí-Trung (Ngọa-triều) chết, dù y tàn ác, dù y bất đạo, thì con y không được quyền nối ngôi. Ngôi vua phải về các thân vương như tiên sinh. Thế mà Lý Công-Uẩn, cùng Đào Cam-Mộc, Thân Thiệu-Anh cướp ngôi. Bây giờ võ-công tiên-sinh trùm Lĩnh-nam, y-đạo vang hoàn-vũ, tại sao tiên sinh không phất ngọn cờ, bắt Lý Công-Uẩn giết đi, lấy lại chính-thống, có phải đúng đạo lý không?
      Lời nói của Triệu Thành làm cả hội trừơng im lặng, không một tiếng động nhỏ. Hồng-Sơn đại-phu đưa mắt nhìn 9 đại đệ tử như hỏi ý kiến. Mọi người suy nghĩ, không ai biết trả lời ra sao. Khi họ mới nhập môn, Hồng-Sơn đại phu đều cho họ biết, ông là con vua Lê, em Lê Ngọa-triều. Ông nuôi chí trung hưng triều Lê. Các đệ tử đều nhất lọat tuyên thệ với chí hướng đó. Nhưng gần hai mươi năm qua, từ khi Lý Công-Uẩn lên trị vì, trong tổ chức nền nội trị thực hoàn hảo. Ngoài tổ chức biên phòng khiến Tống, Chiêm, Đại-lý nể vì. Lúc mới lên ngôi vua, họ Lý vẫn áp dụng chính sách thuế khóa cũ của triều Lê. Gần đây, công khố, kho lẫm, quốc dụng sung túc, vua Lý ban bố miễn thuế liền ba năm, rồi mấy năm sau, thấy công khố còn giầu, lại miễn thuế hai năm. Dân chúng trải qua thời kỳ thái bình, no ấm không kém gì đời vua Hùng, vua An-dương, vua Trưng. Vì vậy chính Hồng-Sơn đại-phu đã bỏ ý định khởi binh lập lại triều Lê.
      Lê Văn đứng dậy. Nó tới trước Triệu Thành xá ba xá, rồi nói:
      - Thưa vương-gia, tiểu-sinh là đệ tử thấp nhất của sơn-trang. Xin có đôi lời thô thiển. Mong vương gia cho phép.
      Triệu Thành đứng dậy vỗ vai Lê Văn:
      - Tiểu công-tử. Tôi nghe tiểu công tử tuổi mới mười ba, mà văn võ kiêm toàn, không thua Đào Kỳ khi xưa. Không biết công tử có ý kiến gì?
      Lê Văn hắng rặng, lấy giọng, rồi hỏi:
      - Nếu như họ Lê chúng tôi khởi binh, thì Thiên-triều có giúp không? Nếu giúp thì giúp những gì? Tại sao Thiên-triều lại giúp chúng tôi?
      Triệu Thành đến Vạn-thảo sơn-trang với mục đích khích động cho Lê Long-Mang khởi binh đánh triều đình nhà Lý. Dù Lê thắng, dù Lý thắng, sau trận chiến, tinh lực Đại-việt cũng kiệt quệ. Bấy giờ Tống đem quân sang đánh một trận, chiếm nước, đặt thành quận huyện. Cho rằng Lê Văn là trẻ con bồng bột, đặt câu hỏi đúng vào điều Triệu Thành muốn nói.
      Y vui vẻ lớn tiếng:
      - Khi Thiên-phúc hoàng-đế (Lê Đại-hành) lên ngôi. Vua Thái-tông bản triều không chú ý đến biên sự. Vì vậy bọn Tôn Toàn-Hưng, Hầu Nhân-Bảo là những bọn biên thần đa sự, đem quân sang đánh. Lúc triều đình biết, lập tức ra lệnh gọi về chém đầu. Sau đó phong chức tước cho Thiên-phúc hoàng đế. Niên hiệu Thái-bình hưng-quốc năm thứ sau (981) vua Thái-tông bản triều sai sứ sang phong cho ông nội của chú em làm Giao-chỉ quận-vương, Tĩnh hải tiết độ sứ. Khi ông nội chú em băng hà, được truy phong Nam-Việt vương, kiểm-hiệu thái-sư, trung nghĩa thủ hiếu công thần. Như vậy đủ rõ bản triều ưu đãi họ Lê. Sau chẳng may, họ Lý cướp ngôi nhà Lê. Triều đình đều thương xót vô cùng. Cho nên mới gửi tôi sang đây tìm con cháu nhà Lê lập lại chính thống.
      Thành ngừng lại cho cử tọa theo dõi, rồi tiếp:
      - Nếu như họ Lê khởi binh, thì Thiên-triều sẽ điều động quân mã các lộ Quảng-đông, Quảng-tây đánh sang. Sau khi diệt họ Lý, quân Thiên-triều sẽ rút về.
      Lê Văn vừa cười, vừa lắc đầu:
      - Vương gia coi tôi là trẻ con thì được. Chứ coi tất cả những người ngồi đây là trẻ con thì không được đâu. Truyện mơí đây, mà vương gia đã bẻ quẹo đi như vậy thì còn trời đất nào nữa? Khi ông nội tôi mới lên ngôi vua. Vua Thái-tông bên quý quốc nhân lúc trong nước có sự tranh chấp, sai Hầu Nhân-Bảo đem hai mươi vạn binh, ba mươi vạn dân phu, với hàng trăm chiến thuyền sang đánh nước tôi. Nhờ các anh hùng võ lâm bỏ hết tỵ hiềm, giết chết các tướng Tống, đánh tan chủ lực ở Chi-lăng, diệt hạm đội ở Bạch-đằng. Vì vậy Tống triều bắt buộc phải phong vương cho ông tôi.
      Hội trường nghe Lê Văn nói, vỗ tay vang dội liên tiếp mấy tràng. Lê Văn được khuyến khích, nó tiếp:
      - Nếu bảo triều Tống ưu ái họ Lê chúng tôi, tại sao khi họ Lý lên ngôi vua thì vào niên hiệu Đại-trung tường-phù năm thứ ba (1010) đời vua Chân- tông, sai Lý Văn-Nhậm, Lê Tái-Nghiêm sang kết hiếu. Triều thần nhà Tống không một lời hỏi han họ Lê, sai sứ sang phong cho Lý Công-Uẩn chức tước như sau Kiểm-hiệu thái-phó, Tĩnh-hải tiết-độ-sứ, quan-sát-sứ, xử-trí-xứ, An-nam đô-hộ, Ngự-sử đại-phu, Thượng-trụ quốc Giao-chỉ quận-vương, suy-thành thuận-hóa công-thần, Đồng-bình-chương-sự. Tiếp theo từ hồi đó đến giờ Thiên-triều sai đến năm sứ đòan sang phong thêm chức tước cho vua Lý. Như vậy là hậu đãi họ Lê đấy?
      Vương Duy-Chính đáp thay Triệu Thành:
      - Lê tiểu công tử. Công tử nên biết rằng lực lượng Vạn-thảo sơn-trang không quá hai ngàn đệ tử. Lương thực không đủ ăn cho năm ngàn người trong ba tháng. Vạn nhất khỏi binh, thì tôi e chỉ mấy đạo quân trấn Thanh-hóa cũng đủ dẹp trong một ngày. Nếu không có quân Thiên-triều thì sao khởi binh có thể thành công? Chúng tôi sang đây là vì sự nghiệp nhà Lê, chứ không phải vì sự nghiệp nhà Lý. Trước kia Thiên-triều không tìm được con cháu nhà Lê, phải tòng quyền phong cho Lý Công-Uẩn. Bây giờ đã tìm được, ắt phải nghĩ tình cố cựu mà lập lại chính thống.
      Lê Thiếu-Mai đứng dậy chỉ vào Đinh Toàn:
      - Thưa vương gia, tiểu nữ Lê Thiếu-Mai, đệ tử bậc trung của sơn-trang. Tiểu nữ dám hỏi vương gia một câu. Nếu nói rằng chuyến đi này của vương gia là tìm con cháu họ Lê, lập lại triều Lê. Thế sao vương gia lại đem theo Vệ-vương Đinh Toàn của triều Đinh, trong mưu toan tái lập nhà Đinh?
      Triệu Thành ngơ ngác:
      - Cô gia không biết Đinh Toàn là ai cả.
      Thiếu-Mai vẫy Đinh Toàn:
      - Vệ-vương gia. Xin vương gia xuất hiện cho.
      Suốt mấy chục năm qua Đinh Toàn chịu không biết bao nhiêu cay đắng, nằm gai, nếm mật, lặn lội bao phen từ Việt sang Tống, rồi từ Tống sang Việt, với hy vọng Tống cho mượn binh về đánh họ Lý, tái lập Đinh triều. Bây giờ nghe Triệu Thành, Vương Duy-Chính đối đáp cùng các đệ tử Vạn-thảo sơn-trang. Ông tức muốn nổ lồng ngực ra. Từ ghế phía sau, ông hùng dũng bước ra:
      - Bình-nam vương gia, Vương chuyển-vận sứ, quốc sư. Đinh Toàn này ở trong sơn-trang đã mấy ngày. Hơn nữa ngồi đây từ nãy đến giờ, nghe hết mọi truyện. Không ngờ các vị lại xảo quyệt đến thế. Tống thiên tử cùng Lưu hậu đã hứa cho tôi mượn mười vạn tinh binh từ Quảng-tây lộ, kéo về tái lập triều Đinh. Vì vậy tôi mới cùng quý vị chịu đựng không biết bao nhiêu cay đắng, mới tìm ra bộ Lĩnh-nam vũ-kinh. Nay bộ sách này vừa tìm thấy, thì các vị lại trở mặt.
      Triệu Thành hỏi Thiếu-Mai:
      - Lê nhị tiểu thư. Lão già nhà quê này là ai vậy? Dường như y vừa xưng là Đinh Toàn thì phải. Cô gia chưa từng nghe, chưa từng biết Đinh hay búa gì cả. Có lẽ nó là một tên nhà quê điên khùng đấy thôi.
      Triệu Thành là người mưu trí, ứng đối cực kỳ mau chóng. Khi thấy nói đến Đinh Toàn, y biết rằng sự không ổn. Bây giờ y phải chọn một trong hai người: Đinh Toàn họăc Lê Long-Mang. Đinh thân cô, thế cô, võ công bình thường, kiến thức hủ lậu. Vả lại triều Đinh không để lại làm bao công lao với người Việt. Trong khi đó, Lê Long-Mang văn mô, vũ lược, võ công trùm thiên hạ. Ông lại có tài phục-dược, ơn nghĩa trải khắp thiên hạ, lực lượng Vạn-thảo sơn-trang hùng hậu vô cùng. Y quyết định ném Đinh Toàn vào thùng rác.
      Vương Duy-Chính hiểu ý chủ. Y cũng tiếp:
      - Lê tiểu thư ơi. Ty chức biết rồi. Chắc lão nhà quê này là tên điên đang được điều trị tại qúi trang. Y bị mắc chứng bệnh ảo tưởng, rồi cứ sống trong ảo tưởng đó. Cô nương dư biết lão điên, nhưng muốn đem ra làm trò cười cho mọi người thì phải.
      Đinh Toàn tức quá, chân tay run rẩy, miệng nói lắp bắp không ra hơi. Y chỉ bọn Triệu Anh:
      - Tung-sơn tam kiệt. Các vị là nhân chứng cho tiểu-vương.
      Triệu Thành gỉa tảng hỏi :
      - Ủa, Tung-sơn tam kiệt. Các vị cũng đến đây ư?
      Bọn Tung-sơn tam kiệt đã từng làm việc dưới trướng Triệu Thành. Gì mà chúng không hiểu ý chủ. Triệu Huy đứng lên nói:
      - Khải tấu vương gia. Trên đường từ biên giới Tống, Việt về Chiêm, bọn tiểu nhân gặp vị lão nhân đây. Thấy người nghèo túng, đói khát. Bọn tiểu nhân giúp đỡ cho chút ít tiền bạc, nhờ lão nhân làm thông ngôn, cùng dẫn đường. Thế rồi lão nhân xưng là Vệ-vương Đinh Tòan. Bọn tiểu nhân cũng không cần biết sự thực như thế nào. Bây giờ lão lại thêm vào cái mục rằng Thiên-triều hứa giúp đoạt lại ngôi vua thì thực là nực cười chết được.
      Từ đầu đến cuối, Hồng-Sơn đại-phu không nói một tiếng nào. Bây giờ ông mới dõng dạc nói:
      - Vị này đúng là Vệ-vương Đinh Toàn. Chúng tôi đã từng sống chung với nhau bao nhiêu năm ở Hoa-lư, thì không lầm được đâu. Đinh huynh, mời Đinh huynh ngồi xuống đây.
      Ông chỉ ghế cạnh mình cho Đinh Toàn ngồi. Đinh Toàn cảm động, tự nghĩ:
      - Mình là kẻ thù đối đầu của y. Y chỉ dí tay một cái cũng đủ giết mình. Thế mà y không làm. Bây giờ mình bị bọn Tống làm nhục. Y lại thung dung gỡ cho mình. Y thực xứng đáng là đại tôn sư võ học Lĩnh-nam. Mình không thể bằng y. Bọn Tống trở mặt với mình, đã vậy mình phải phá hủy bộ Lĩnh-nam vũ-kinh, bằng không lọt vào tay chúng thì nguy cho đại cuộc.
      Nghĩ vậy, ông phóng một chiêu chưởng đánh vào mặt Quách Quỳ. Quỳ kinh hoảng bật ngửa người ra sau. Ông biến chưởng thành trảo chụp cái túi trên lưng y. Biết Ngô Tích ắt đọat lại. Ông nhảy tới cạnh Hồng-Sơn. Quả nhiên Triệu Huy, Ngô Tích đều xuất chưởng tấn công Đinh Toàn.
      Hồng-Sơn đại-phu mỉm cười, lách tay một cái, ông đã chụp hai tay Ngô, Triệu nhẹ nhàng. Bao nhiêu kình lực trên tay Triệu, Ngô biến mất. Ông nghiêm sắc mặt:
      - Các người là phường trộm cắp, đột nhập sơn trang, ta chưa xử tội, mà còn dám dụng võ ư?
      Đinh Toàn cầm cuốn sách mà Quách-Quỳ chép tất cả những gì trên bia đá dơ cho cử tọa coi, rồi ông tóm tắt nguồn gốc sách, cùng nguyên do nào Đinh Bộ-Lĩnh đã có cơ duyên gặp được. Khi sắp băng hà, ngài đã chỉ chỗ cất dấu cho ông. Việc ông sang cầu viện nhà Tống. Triều Tống hứa với ông sẽ cho mượn mười vạn quân đánh nhà Lý, nếu tìm được bộ sách này. Nhưng ông lờ đi không nói đến Thanh-Mai, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh bị bắt làm tù suốt mấy tháng qua.
      Quách Quỳ cười khúc khích:
      - Đinh vương gia. Vương gia kết tội anh em chúng tôi là phường trộm cướp. Thế mà giữa thanh thiên, bạch nhật, đô hội như thế này. Vương gia cướp sách của tôi thì còn trời đất nào nữa?
      Nó ngửa bàn tay lên trời:
      - Vương gia bảo cuốn sách đó là kinh thư võ học ư? Xin vương gia mở ra mà coi! Cuốn sách trong tay vương gia là bản sao bộ Luận-ngữ. Khi rời Trung-nguyên đi, tiểu bối mang theo, để dạy dân man di lễ nghĩa của đức thánh Khổng đó mà.
      Đinh Toàn mở sách, lật xem, quả nhiên trong chép bộ Luận-ngữ. Ông mở thêm mấy trang nữa cũng vẫn là bộ Luận-ngữ. Mặt ông xám như tro. Tay ông run bần bật. Ông ném trả Quách Quỳ.
      Quách Quỳ cười:
      - Đinh vương gia. Nếu vương gia muốn, tiểu bối xin biếu vương gia, hầu vương gia học lễ nghĩa Trung-quốc.
      Quách Quỳ cầm sách mở ra, y ê a đọc:
      - Tử viết: Học chi thời tập chi. Hữu bằng tự viễn phương lại bất duyệt lạc hồ? Nghĩa là đức thánh Khổng dạy: Học thì phải tập. Có người bạn từ phương xa đến, không vui sao? Chính vì lẽ đó, sư phụ tại hạ gặp vương gia dọc đường, đói không có gì ăn. Khát không có gì uống. Người cưu mang tiền bạc cho vương gia đấy.
      Đinh Toàn biết bọn Triệu Huy đã dấu bộ di thư đi, rồi lấy bìa bộ Đại-Việt giản sử đóng ra ngoài bộ Luận-ngữ, để đề phòng bị đoạt lại. Giận quá chân tay ông run lật bật.
      Dương Bình chỉ bọn Triệu Anh hỏi Triệu Thành:
      - Vương gia, chẳng hay những vị này với vương gia là chỗ thế nào?
      Từ khi chia tay ở đền thờ Lệ-hải bà vương, Triệu Thành ra lệnh cho bọn Tung-sơn tam kiệt đi tìm di thư. Trong khi y tiếp tục lên đường vào Chiêm. Suốt gần hai tháng, y không biết tin tức bọn chân tay mình ra sao. Nay thấy chúng ngồi trong hàng ghế quan khách Vạn-thảo sơn-trang, thì y cho rằng bọn này đến thuyết phục trang chủ, nhưng chưa thành công. Y trả lời:
      - Họ là thuộc hạ của cô-gia, được sung vào sứ đoàn sang Đại-Việt.
      Dương Bình cười nhạt:
      - Thưa vương gia, đang đêm, các vị huynh đệ này đột nhập sơn trang chúng tôi, mưu bắt cóc lương gia thiếu nữ. Vì vậy trang chúng tôi phải giữ lại để giải lên quan.
      Nói rồi chàng tường thuật chi tiết vụ Ngô Tích, Triệu Huy, Quách Quỳ cùng Đinh Toàn toan bắt cóc Mỹ-Linh, Bảo-Hòa. Kể dứt chàng hỏi:
      - Thưa vương gia, việc này không nhỏ đâu. Vì hai cô gái bị bắt cóc có lai lịch rất lớn. Một cô là công-chúa Bình-dương. Một cô là quận chúa, ái nữ của vua Bà Bắc biên.
      Nghe Dương Bình thuật, Triệu Thành chửi thầm bọn Triệu-Anh ngu như lợn. Ta đã ban chỉ dụ rằng phàm hành sự gì, cũng nên tìm cách xóa bỏ vết tích, đừng để võ lâm Đại-việt biết được. Nhất là không được gây hấn với võ lâm. Đây chúng làm việc lộ liễu, đổ bể hết, lại còn gây hấn với phái Đông-a và Tây-vu nữa, thực đần độn hết chỗ nói. Bây giờ đã trót thì trét, ta phải cứu chúng.
      Triệu Thành chỉ mặt anh em Tung-sơn tam kiệt:
      - Các ngươi phạm trọng tội như vậy. Cô gia phải đem về triều chặt đầu làm gương. Sự thực ra thế nào, hãy khai cho cô gia biết.
      Ngô Tích đến trước Triệu Thành phủ phục xuống:
      __ Khải tấu vương gia. Oan uổng cho bọn tiểu nhân. Bọn tiểu nhân bị quận chúa Thân Bảo-Hòa tung phấn độc, làm đại ca bị bệnh nặng. Đứng trước cái chết đó, bọn tiểu nhân đành tìm quận chúa ăn cắp thuốc giải. Chứ tiểu nhân gan to bằng trời cũng không giám vào Vạn-thảo sơn-trang là chỗ rồng nằm hổ phục mà bắt cóc con gái.
      Thanh-Mai nghe Ngô-Tích nói láo quá, nàng chịu không được, đứng dậy hướng vào Triệu Thành:
      - Vương gia. Thanh-Mai xin tham kiến vương gia.
      Từ khi gặp gỡ Trần Thanh-Mai, Triệu Thành đã bị nhan sắc của nàng làm cho hồn phách bay phơi phới. Sau ngày chia tay đến giờ, y những tưởng không bao giờ gặp nhau nữa. Duyên may, hôm nay lại tao ngộ ở đây. Y đứng dậy chắp tay đáp lễ:
      - Trần cô nương! Cô nương cũng có ở đây sao?
      Thanh-Mai chỉ vào anh em Tung-sơn tam kiệt kể hết tất cả mọi việc làm của họ hơn tháng nay. Nào là ăn cắp di thư, nào là phá hủy hết bia chép võ kinh. Cho đến việc bị Bảo-Hòa dùng thú rừng bắt. Nhưng nàng dấu việc Mỹ-Linh biết chữ Khoa-đẩu, học thuộc lòng di thư.
      Vương Duy-Chính nghe Thanh-Mai kể tội anh em Tung-sơn tam kiệt thì nản vô cùng. Tuy nhiên y phải đỡ đòn cho chúng:
      - Theo như Trần cô nương nói, thì Tung-sơn tam kiệt có tội với Đại-việt, chứ đối với Vạn-thảo sơn-trang quả họ không phạm tội thất kính. Việc họ nhập trang trong đêm không phải để bắt lương gia phụ nữ, mà để tìm thuốc giải. Mong trang chủ thứ tội.
      Triệu Thành hỏi Lê Thiếu-Mai:
      - Lê tiểu thư. Theo luật lệ Đại-việt, những người phạm tội trôm cắp, có thể dùng tiền chuộc ra. Vậy bốn người của sứ đòan tuy không phạm tội trộm cắp thực sự, mà can tội mưu trộm cắp thuốc giải. Vậy cứ coi như họ phạm tội trộm. Đây là lãnh địa sơn-trang, thuộc Lê triều, chứ không thuộc Lý triều. Xin tiểu thư cho chúng tôi chuộc ra.
      Lê Thiếu-Mai nhìn Dương Bình:
      - Dương đại ca. Xin đại-ca phát lạc vụ này.
      Dương Bình gật đầu:
      - Như vậy cũng được.
      Vương Duy-Chính móc trong bọc ra bốn nén vàng trao cho Dương Bình:
      - Dương thiếu hiệp. Xin thiếu hiệp nhận lấy số tiền chuộc này.
      Đúng ra luật thời Lý, tội trộm nhẹ như thế, chỉ phải nộp phạt mỗi người một lượng vàng. Thế mà Vương Duy-Chính nộp số vàng gấp mười.
      Huệ-Phương nói với Triệu Thành:
      - Vạn dặm gặp nhau, đều do duyên trời. Sơn trang chúng tôi xin kính mời vương gia cùng các vị đại nhân ở lại dùng bữa cơm lạt.
      Hồng-Sơn đại-phu mời bọn Triệu Thành ra ngôi nhà bát giác dự tiệc. Dương Bình đợi sư phụ với quan khách rời khỏi đại sảnh đường, rồi tuyên bố giải tán. Người người trở lại với công việc của mình.
      Lê Văn dẫn chị em Thanh-Mai trở lại Nghinh-tân các. Trước khi đi khỏi, nó dặn:
      - Chiều nay em phải luyện võ, không thể thù tiếp các chị được. Hồng-Mai, Thanh-Mai sẽ dọn cơm cho các chị ăn. Mai em trở lại.
      Lê Văn đi rồi, Bảo-Hòa hỏi Thanh-Mai:
      - Hồng-sơn đại phu thu chị làm đồ đệ. Vậy ông đã dạy chị những gì?

      Thanh-Mai lấy ra cuốn sách để lên bàn:
      - Ông bảo y-học rộng như rừng như biển. Đầu tiên ông dạy chị học khoa Châm-cứu. Không cần chị hiểu hay không, ông giảng cho chị nghe học thuyết âm dương, ngũ hành.
      Mỹ-Linh cười:
      - Tưởng gì chứ học thuyết đó, đệ tử võ phái nào mà chẳng học qua. Cần gì ông phải dạy.
      Thanh-Mai lấy sách ra, chỉ vào trang đầu:
      - Không hẳn như vậy đâu. Học thuyết âm dương áp dụng vào y học với võ học khác nhau rất nhiều. Nếu chúng ta học cả hai, thì võ học sẽ tiến rất xa. Tiếp theo ông dạy chị về học thuyết tạng phủ, học thuyết kinh lạc, nguyên do mắc bệnh. Rồi ông trao cho cuốn Châm-cứu đại-toàn này, bảo chị đem về học.
      Thanh-Mai đem tất cả những gì mình học, giảng cho Bảo-Hòa, Mỹ-Linh nghe. Mỹ-Linh đề nghị:
      - Bây giờ chúng mình đem cuốn Châm-cứu này ra cùng học với nhau cho vui. Biết đâu chúng ta không tìm được một chút gì áp dụng vào võ học.
      Ba chị em khởi đầu bằng Thủ thái âm phế kinh. Chỉ lát sau, đã hiểu hết. Tiếp theo sang Thủ dương minh đại trường kinh, cũng không có gì khó. Khi học đến Túc khuyết âm can kinh Bảo-Hòa than:
      - Như vậy Hồng-sơn đại phu phóng Hàn-ngọc hoàn vào đúng huyệt Trung-đô của em. Can chủ cân. Khi can kinh bị phong bế, thành ra cân mạch đều liệt cả. Hèn chi ông ta bảo, em không thể rời khỏi sơn trang.
      Trời về chiều, mặt trời chiếu ánh sáng xuyên qua rừng núi thành mầu vàng úa. Thanh-Mai chỉ đồi thông:
      - Chúng mình lên đồi thông cho Bảo-Hòa luyện võ nữa đi.
      Bảo-Hòa than:
      __ Khó lắm. Chân em bị Hàn-ngọc đan phong bế, thì làm sao luyện những chiêu cần phải vận khí xuống chân?
      Thanh-Mai ngẫm nghĩ một lúc, nàng bàn:
      - Chị nghe Lê Văn nói, muốn hòa giải Hàn- ngọc đan, phải dùng Châm-cứu. Chúng ta cứ lên đồi, thử xem, biết đâu?
      Lên tới đồi, Bảo-Hòa lại tiếp tục luyện chiêu Tứ ngưu phân thi. Khi nàng dẫn khí xuống tới chân, thì chân lại cảm thấy đau nhói một cái, rồi kình lực biến mất, chỗ huyệt Trung-đô sưng lớn lên. Mặt Bảo-Hòa tái mét, nàng ngồi xuống gốc cây nghiến răng điều tức.
      Thanh-Mai lại bên Bảo-Hòa, dùng ngón tay cái chà xát nhẹ lên chỗ sưng cho nàng. Lạ thay, Thanh-Mai vừa để tay lên chỗ sưng, Bảo-Hòa cảm thấy cái lạnh chạy ngược trở lên tới đùi, rồi qua sườn, phân tán vào vùng dưới nách. Chỗ sưng đỏ từ từ biến mất.
      Bảo-Hòa kinh ngạc:
      - Chị Thanh, vết sưng biến mất rồi.
      Mỹ-Linh hỏi Bảo-Hòa:
      - Chị thử vận công lại xem sao?
      Bảo-Hoà hít hơi vận khí luyện chiêu Tứ ngưu phân thi, chân khí xuống chân một cách dễ dàng. Không tin vào mình, nàng hít hơi vận thử một lần nữa, rồi xuất chiêu. Bình một tiếng, cây thông to bằng cổ chân rung lên như gặp bão. Ba chị em ngây người ra suy nghĩ.
      Bảo-Hòa lại phát chiêu Tứ ngưu phân thi một lần nữa. Bình một tiếng, tiếp theo tiếng rắc. Cây thông gẫy làm đôi, từ từ đổ xuống.
      Thanh-Mai đang đọc sách, chợt nàng kêu lên:
      - Tìm ra rồi.
      Mỹ-Linh ngạc nhiên:
      - Chị tìm ra cái gì vậy?
      - Chị tìm ra tại sao khi chị sờ tay vào huyệt Trung-đô, thì chỗ sưng của Bảo-Hòa biến đi. Đây trong sách nói kim khắc mộc. Huyệt Trung-đô thuộc Túc-khuyết âm can kinh. Chị dùng huyệt Thiếu-thương của Thủ thái-âm phế kinh nắn bóp. Can thuộc mộc. Phế thuộc kim. Kim khắc mộc. Vì vậy tay chị sờ vào chỗ sưng bị phá tan, Hàn-ngọc phân tán khắp cơ thể.
      Mỹ-Linh tiếp tục đọc khẩu quyết cho Bảo-Hòa luyện. Tới khuya thì nàng luyện xong ba mươi sáu chiêu Phục-ngưu thần chưởng.
      Thanh-Mai đề nghị:
      —Bây giờ Bảo-Hòa thử dùng Phục-ngưu thần chưởng đấu với chị xem sao nghe.
      Bảo-Hòa hít hơi vận khí phát chiêu. Thanh-Mai dùng Đông-a chưởng pháp chống lại. Vì lần đầu tiên Bảo-Hòa xử dụng Phục-ngưu thần chưởng, nên Thanh-Mai phải xuất chiêu rất chậm chạp. Sau khi phát đủ ba mươi sáu chiêu, Bảo-Hòa trở lại từ chiêu đầu. Lần này nàng đã quen tay, chưởng phong phát ra khá mạnh. Thanh-Mai không phải nhân nhượng nữa. Đến lần thứ ba, nàng không đánh theo thứ tự, mà tòng tâm phát chiêu. Chiêu nọ nối chiêu kia liên miên bất tuyệt.
      Thanh-Mai đánh xéo một chiêu rồi nhảy lùi lại:
      - Phục ngưu thần chưởng quả thực danh bất hư truyền. Nếu em tiếp tục luyện mấy lần nữa, thì chị không còn là đối thủ của em nữa.
      Ba chị em luyện đến khuya, mới ngừng lại trở về trang. Khi đi qua ngôi nhà thủy tạ, thấy đèn vẫn còn sáng. Bảo-Hòa chỉ ngôi nhà nói:
      - Hồng-sơn đại-phu bàn gì với bọn Triệu Thành mà gìơ này chưa dứt. Chúng ta thử dò thám xem sao?
      Nhưng ba người vừa tới gần, thì thấy bọn Triệu Thành từ trong nhà thủy tạ đi ra. Hồng-Sơn đại phu nói:
      - Triệu vương gia. Chúng ta cứ thế mà làm. Trong Lĩnh-Nam ngũ long, tôi cam kết ít ra Trần Tự-An không theo tôi cũng không giúp Lý. Phái Tiêu-sơn, đã có Nguyên-Hạnh rồi. Tịnh-Tuệ của phái Mê-linh chỉ có danh, mà không có thực lực. Rút cục chỉ còn mình Đặng Đại-Khê, một cây làm chẳng nên non.
      Ông tiễn khách ra, rồi trở lại nhà thủy tạ. Trong nhà chỉ còn Huệ-Phương, Thiếu-Mai, Dương Bình cùng với Lê Văn. Thiếu-Mai hỏi ngay:
      - Bố! Bố nhận lời Triệu Thành khởi binh thực sao?
      Hồng-Sơn đại-phu thở dài:
      - Khi hoàng huynh qua đời, để di chiếu cho ta nối ngôi. Không ngờ Lý Công-Uẩn cướp mất sự nghiệp. Bao năm qua, nằm gai nếm mật, dùng hết tâm huyết mới xây dựng được trang này. Ta nghĩ trăm phương ngàn kế khởi binh, mà không có kế nào khả dĩ hoàn hảo. Bây giờ tuy bọn Triệu Thành không thực tâm. Nhưng ta vẫn cứ tòng quyền, mượn người Tống giúp sức. Đầu tiên quân Chiêm theo đường bộ, chiếm vùng Thanh-Hóa này trước. Thủy đội của Chiêm đổ vào vùng Thiên-trường tiến về Thăng-long. Trong khi đó một đạo quân Tống theo đường Ung, Liêm tràn vào. Bấy giờ Lý Công-Uẩn đem hết binh ra ngoài, Thăng-long bỏ trống. Ta suất lĩnh đạo kỳ binh bất thần đánh về. Chiếm được Thăng-long rồi, ta làm lễ khao quân Tống, lén bỏ thuốc độc, chúng sẽ chết hết. Đạo quân Chiêm ta chỉ đánh một trận thì đuổi chúng khỏi đất nước.
      Thiếu-Mai lắc đầu:
      - Bố ơi! Việc trả thù nhà đương nhiên phải làm. Phục hưng sự nghiệp tổ tiên là điều con cháu không được lãng quên. Nhưng bố ơi, quân Tống kéo vào đất nước mình, đánh người mình, võ lâm thiên hạ sẽ cùng sát cánh với triều Lý chống ngoại xâm như xưa kia ông nội đã được trợ giúp. Con sợ bấy giờ mình khởi binh, không ai hưởng ứng. Vả lại vua Ngọa-triều nhà mình quá tàn ác, sĩ dân đều oán triều Lê. Hiện không còn ai tưởng nhớ Lê triều nữa.
      Huệ-Phương ngồi dựa lưng vào vai Hồng-sơn:
      - Anh ạ. Vấn đề này phải cân nhắc kỹ lưỡng đã. Thủng thẳng mà làm. Hiện Lưu thái hậu bên Tống đang cầm quyền bính. Bà cương quyết chiếm nước mình trước, rồi thanh thế nổi dậy sẽ đánh Tây-hạ, Liêu, Kim sau. Em nghĩ mình cứ án binh, ắt bà cho đánh các nước kia trước. Sau khi đánh xong, tinh lực kiệt quệ. Bấy giờ mình khởi binh. Như vậy khi mình được nước, bà muốn đem binh sang đánh, thì kho tàng trống rỗng. Ta có thời giờ chỉnh bị binh mã. Vạn nhất sau bà thấy ta mạnh, bỏ ý định chiếm nước càng tốt. Bằng bà xua quân qua, ta dùng du kích, kéo dài chiến tranh, rồi cầu hòa, thì mới giữ được nước.
      Dương Bình tiếp:
      - Bây giờ sư phụ cho bọn đệ tử về Thăng-long đầu quân. Với võ công, tài trí của bọn con, chắc sẽ được trao binh quyền. Khi sư phụ khởi binh, chúng con làm nội ứng, đại cuộc tất thành.
      Huệ-Phương nói với Hồng-sơn:
      - Em xin góp một ý kiến thô thiển, mong anh không cho là ngu tối.
      Hồng-sơn đại-phu, nhìn Huệ-Phương với đôi mắt nhu hòa:
      - Em cứ nói. Ý kiến nào của em mà không hay, không đúng.
      Huệ-Phương ngước mắt nhìn đại-phu. Đôi mắt của nàng óng ánh, tình tứ vô cùng. Nàng nói:
      - Tự cổ, anh hùng tranh bá, đồ vương để lên làm vua. Làm vua được gì? Thứ nhất vàng bạc đầy nhà, thứ nhì uy quyền hiển hách. Thứ ba chúng nhân tôn phục, danh lưu thiên cổ. Thứ tư nhiều gái đẹp người hầu. Thế nhưng làm vua thì phải lo lắng, nay sợ người này phản. Mai sợ người khác bỏ. Trăm lo nghìn nghĩ, lao tâm khổ tứ.
      Nàng nắm tay đại-phu:
      - Còn anh bây giờ vàng ngọc e nhiều hơn vua. Võ công của anh vô địch thiên hạ. Uy quyền kém gì vua? Còn lưu danh thiên cổ ư? Chỉ nguyên tài phục dược của anh, khắp gầm trời này ai cũng cung kính như một thiên tiên. Cuối cùng để có gái đẹp ư? Anh là người trượng phu hào hùng, chỉ thích một vợ một chồng, thì cần gì nhiều? Như em, nhan sắc không thua ai, nhưng vì cái đức của anh, vạn dặm tìm đến. Anh chẳng phải lo nghĩ gì. Chả ai phản anh, mà chỉ lo giúp anh. Vì vậy, anh khởi binh chi cho mệt.
      Lê Văn chạy đến nắm tay Huệ-Phương, nó ôm cổ nàng, hôn liền mấy cái:
      - Dì này. Hồi mới gặp dì, cháu tưởng dì chỉ đẹp như tiên thôi, không ngờ kiến thức dì cao thực. Cao hơn mẹ cháu hồi xưa nữa.
      Huệ-Phương ôm lấy đầu Lê Văn:
      - Dì ước gì đẻ cho bố một đứa con thông minh như cháu.
      Lê Văn cầm tay Huệ-Phương giật giật hai cái, nói với Hồng-Sơn:
      - Bố, hay bố cho con gọi dì Huệ-Phương bằng mẹ đi.
      Hồng-Sơn đại-phu đẩy Lê Văn:
      - Báu gì cái thằng cà chớn này, mà em thích? Thôi anh cho em đấy.
      Ngày xưa, một câu nói của cha mẹ hứa như vậy, tự nó đã thành mệnh lệnh. Lê Văn đứng dậy, sửa sang y phục ngay ngắn, rồi quỳ trước Huệ-Phương lạy đủ 8 lạy, rồi kêu::
      - Mẹ.
      Huệ-Phương nắm tay nó nâng dậy:
      - Mẹ có ông chồng chỉ biết cứu người, không biết đánh người, lại có thêm đứa con như vầy thì dù cho mẹ làm hoàng hậu, mẹ cũng không nhận.
      Hồng-Sơn lão nhân nghe vợ, con nói, ông nghĩ một lúc rồi thở dài:
      - Lời của em nói, anh sẽ ghi nhớ. Ngày kia là ngày tốt, chúng ta phải làm lễ cưới cho danh chính ngôn thuận, em là mẫu nghi của sơn trang. Thôi chúng ta đi ngủ.
      Chị em Thanh-Mai trở về Nghinh-tân-các. Ngửa mặt lên trời, thấy đôi chim ưng bay lượn. Bảo-Hòa vào nhà dùng giấy, bút viết liên tiếp ba tờ , rồi ra ngòai gọi chim ưng xuống. Nàng lấy thư bỏ vào ống dưới chân rồi huýt sáo ra lệnh cho chúng bay đi.
      Ba chị em, mỗi người một góc, ngồi vận công. Trong khi vận công, vì mỏi mệt, Thanh-Mai mơ mơ màng màng nghĩ đến những bài học trong sách Châm-cứu. Vô tình chân khí chay theo các kinh mạch một cách dễ dàng. Nàng không cần kiềm chế chân khí, cứ để cho nó luân lưu. Chợt nàng nhớ lại một lần bố nàng giảng rằng:
      - Lĩnh-Nam có học thuyết âm-dương, ngũ-hành cùng học thuyết kinh lạc. Xưa kia Bắc-bình vương Đào Kỳ cùng Khất-đại-phu đã áp dụng vào võ học, chế ra lối vận khí theo kinh mạch. Sau khi vua Bà tuẫn quốc, thì võ học chỉ còn lưu truyền việc áp dụng học thuyết âm-dương, ngũ hành thôi. Còn vấn đề vận công theo kinh mạch thì thất truyền. Hiện võ công Lĩnh-nam có năm người, được đời truyền tụng là năm con thần long. Không ai hơn được ai. Nếu bây giờ người nào tìm cách áp dụng vận khí bằng kinh mạch, người đó sẽ là anh hùng vô địch.
      Hồi chiều Mỹ-Linh đã đọc cả một chương chép về cách vận khí của Bắc-bình vương cùng Khất-đại-phu, cùng phương pháp luyện Lĩnh-Nam chỉ cho nàng. Nàng chú ý học thuộc. Nàng nghĩ:
      - Người xưa chế ra được tại sao ta không học được?
      Nghĩ vậy nàng định tâm hít hơi vận khí qua vòng Tiểu-chu-thiên. Nàng thấy dễ dàng qúa. Nàng lại tiếp tục vận khí vào đơn điền, rồi truyền ra Đốc-mạch, cuối cùng chuyển về huyệt Đại-trùy rồi đưa ra Thủ tam dương kinh. Kinh khí cuồn cuộn phát ra không ngừng. Các ngón tay nàng căng thẳng như muốn nổ tung ra. Nàng cứ thế luyện đi, luyện lại, rồi ngủ đi lúc nào không hay. Trong giấc ngủ, tâm thức nàng vẫn tiếp tục làm việc.
      Sáng hôm sau, nàng vừa thức giấc thì Lê Văn hớn hở chạy vào:
      - Chị Thanh-Mai ơi. Hôm nay nghỉ học. Vì cả trang đang lo làm lễ cưới cho bố em với dì Huệ-Phương. Các chị tha hồ dạo chơi trong trang. Nhớ nhé, tuyệt đối không được đi vào khu cấm địa cỏ độc.
      Ba chị em lại nhắm hướng đồi thông, nơi có thác nước chảy đi tới. Lên đồi, Mỹ-Linh tiếp tục luyện kiếm. Bảo-Hòa luyện chưởng, Thanh-Mai luyện nội công. Ba người đang say xưa luyện võ, thì Thanh-Mai khám phá ra đang có người đi lại phía mình. Nàng ra hiệu cho Bảo-Hòa, Mỹ-Linh cùng núp vào một bụi cây. Bọn người đi tới chính là Triệu Thành, Vương Duy-Chính và Tung-sơn tam kiệt.
      Năm người kéo tới, ngồi đưới tảng đá, cạnh suối. Triệu Thành hỏi:
      - Cô gia muốn các người tường thuật chi tiết về việc tìm di thư. Ngô Tích người nói trước đi.
      Ngô Tích tường thuật tỷ mỷ từ lúc đi cùng Đinh Toàn, cho đến lúc đào được hầm, bị chị em Thanh-Mai hun cỏ suýt chết ngộp... cho đến lúc bị bắt. Triệu Thành quắc mắt nhìn Triệu Anh:
      - Các người có biết rằng các người bị lọt vào lưới Khu-mật-viện Giao-chỉ rồi không?
      Triệu Anh ngơ ngác:
      - Xin vương gia dạy rõ hơn.
      - Thứ nhất, các người cùng ta rời Thăng-long vào Thanh-hóa, thì bọn chúng không nghi ngờ gì cả. Chúng chỉ nghi ngờ khi các người đột nhập đền thờ Tương-liệt đại-vương làm bại lộ. Khi ở trên núi Chung-chinh chúng ta đã gặp một tên mưu trí trùm Lĩnh-Nam là Lý Long-Bồ, tước phong Khai-quốc vương, lĩnh chức thái úy, quản Khu-mật-viện. Ngay đêm đó y âm thầm bỏ đi với hai tên ranh con Trần Tự-Mai cùng Tôn Đản.
      - Ai đã cho vương gia biết truyện đó?
      - Đàm-toái-Trạng và Nguyễn Khánh.
      —Y dùng chim ưng đưa thư về Thăng-long. Khu-mật-viện bèn ra lệnh cho tiết-độ-sứ Đinh Ngô-Thương. Vì vậy hôm sau chúng ta lên dự lễ Triệu Ẩu, nới có văn thư Khu-mật-viện bắt tiết-độ-sứ cho người hộ tống chúng ta tới biên giới Chiêm-thành. Một hình thức canh coi chúng ta. Thành ra khi vào đất Chiêm, ta mới cho các người tách rời ra, lộn trở về Thanh-hóa.
      Anh em Triệu Anh gật đầu, tỏ vẻ hiểu biết.
      Triệu Thành tiếp:
      - Khi các người về tới biên giới Giao-chỉ, chúng cho chim ưng theo dõi bọn người. Lý Long-Bồ dùng chim ưng truyền lệnh cho Thân Bảo-Hòa, cùng Thanh-Mai, Mỹ-Linh phục kích ở đền thờ Tương-liệt đại vương. Các người hút bị đốt chết.
      Triệu Huy hỏi:
      - Thưa vương gia, Lý Long-Bồ thiếu gì cao thủ võ lâm, tại sao y không sai, mà lại sai mấy đứa con gái ngây thơ, võ công non kém?
      - Y biết chúng ta khinh thường con gái. Y cho ba đứa con gái hành sự, ta mới không ngờ có bàn tay y nhúng vào. Khi các người chui xuống hầm, chép di thư, Long-Bồ đều biết hết. Lúc rời hầm lên đường đi Vạn-thảo sơn-trang, người có nhớ không? Bảo-Hòa xin vào bụi cây đi tiểu. Lúc đó là lúc y thị nhận mệnh lệnh của Lý Long-Bồ dặn phải làm gì. Lại khi trên đường từ Vạn-hoa sơn-trang đi Vạn-thảo, Bảo-Hòa cũng xin vào bụi cây đi tiểu, rồi gửi báo cáo bằng chim ưng về cho Long-Bồ.
      - Thưa vương gia. Nếu vụ này do Lý Long-Bồ chủ xướng, sao y không cho Mỹ-Linh với Thanh-Mai biết?
      - Người ngu quá. Phàm mật kế quốc sự, thì càng bí mật bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Một mình Bảo-Hòa đủ rồi, Nếu cho hai con kia biết, dễ bị lộ. Vì vậy Long-Bồ bố trí cho chở khẩn cấp đến Vạn-thảo sơn trang mấy con thú rừng đã được huấn luyện. Con nhỏ Bảo-Hòa nhân đó dùng thoát thân, cùng bắt các người, mà các người không biết.
      Triệu Thành cười gằn:
      - Chính Lý Long-Bồ bố trí cho cô gái bán bún riêu tống tình Ngô Tích. Các ngươi phải biết đời nào có con gái thôn quê xinh đẹp như vậy? Y lại bố trí một cặp nghệ sĩ từ Thăng-long vào chợ, vờ hát xướng, hầu đưa tin cho Bảo-Hòa.
      Tất cả mọi điều Triệu Thành nói, bọn Triệu Anh đều tin hết. Duy việc cô hàng bún riêu tống tình Ngô Tích bọn y không tin, nhưng không dám cãi.
      Triệu Thành hỏi Ngô Tích:
      - Người hãy đưa bức thư cô gái trong Vạn-hoa sơn-trang viết cho người ra đây ngay.
      Ngô Tích tím mặt lại:
      - Cái đó... cái đó...
      Triệu Thành vung tay chụp vào ngực Ngô Tích. Rọac một tiếng, y đã xé rách túi áo Ngô, tay y dở ra một tờ giấy. Y đưa cho Vương-duy-Chính đọc:
      Ngô đại nhân nhã giám.
      Được biết tiên sinh là đấng tài hoa văn nhã. Tiểu nữ mong tiên sinh có thời gìơ trở lại sơn-trang cùng uống rượu đánh cờ ngâm thơ .
      Đào Thụy-Vi.
      Ngô Tích thản nhiên:
      - Tiểu nhân hành sự cũng như đi đâu đều cùng với đại-ca và tam đệ, thêm Quách Quỳ. Khi rời Vạn-hoa-trang, cô gái đánh đàn tặng tiểu nhân chậu hoa, trong khi đó nhét thư này vào túi. Vương gia đã ban chỉ thị chuyến này sang Giao-chỉ kiết thân với người Việt càng nhiều càng tốt. Việc kết thân với Vạn-hoa-trang đâu có làm nên tội?
      Triệu Thành cười nhạt:
      - Ngay cái đêm bị giam ở xã Vạn-thảo, mi được cô gái bán bún riêu tên Thanh-Trúc cởi trói, lấy ngựa dẫn mi đi trốn. Thay vì mi cởi trói cho anh em cùng trốn, mi lẳng lặng lên đường tới Vạn-hoa-trang. Vừa tới nơi Đào Thụy-Vi đã đón chờ mi. Sao mi ngu thế? Không lẽ y thị có phép tiên nhìn xa vạn dặm hay sao, mà mi vừa đào thóat, thị đã ra cổng sơn-trang chờ? Thế rồi thị dẫn người vào trang nghe đàn, đướng họa thơ, uống trà. Cuối cùng mi được Đào phu nhân hứa gả y thị cho mi. Mi có biết Đào phu nhân là ai không? Trang chủ Vạn-hoa là ai không?
      - Thần không biết.
      - Mi không biết cũng không sao. Y tên thực là Đào Cam-Mộc, tước phong Trung-nghĩa hầu. Vợ y là công chúa An-quốc, con đầu lòng Lý Công-Uẩn. Chị ruột Lý Long-Bồ đấy.
      Khi Đào Cam-Mộc giúp vua Lý Thái-tổ dựng nghiệp, được ngài gả con gái đầu lòng là công chúa An-Quốc và phong tước Trung-nghĩa hầu cho. Đào Cam-Mộc làm quan có năm năm rồi xin cáo quan về điền viên. Ông cùng vợ lập ra Vạn-hoa trang hưởng thú thanh nhàn.
      Mỹ-Linh nghe đến đây nàng mới giật mình:
      - Ta ngu thực. Ngu thực. Khi thấy dáng người cùng tiếng nói Đào phu nhân rất quen thuộc mà ta đóan không ra. Thì ra cô ta. Cũng tại ta xa cô ta vào lúc còn nhỏ quá, trí nhớ chưa đủ. Thì ra cô ta, chú ta đứng trong bóng tối theo dõi bọn Tống. Chú ta quả thực giỏi, xếp đặt mọi việc, coi bọn Tống như con kiến trên bàn tay.
      Vương Duy-Chính tiếp lời Triệu Thành:
      - Vương gia dặn chúng ta kết thân với người Việt, nhất là con gái Việt, là muốn chúng ta theo gương Trọng-Thủy với Mỵ-Châu, hay như hồi Đông-Hán lợi dụng Cù-Thị chiếm nước Nam-Việt. Chứ không phải để chúng ta biến thành Nghiêm Tử-Lăng, hay Đô Dương vì gái Việt, bỏ cố quốc.
      Triệu Thành tiếp:
      - Người có biết tại sao Đào phu nhân lại bảo người về cởi trói cho anh em người không? Ta nói cho ngươi biết: nếu người bỏ ta, bỏ anh em theo mụ, thì người trở thành vô dụng với Giao-chỉ. Giao-chỉ thiếu gì người võ công, văn học hơn mi? Chẳng qua họ muốn mi vẫn ở Tống, mà làm con chó săn cho họ mà thôi. Sau đó mi lật đật trở về cởi trói cho anh em. Mi thử nghĩ xem, nếu không có bàn tay của Khu-mật-viện Giao-chỉ thì sao mi đi, đến xã Vạn-thảo dễ dàng vậy? Anh em mi thoát thân dễ dàng trong khi họ có mấy nghìn quân canh gác?
      Triệu Thành nghiến răng:
      - Người hãy xuất chiêu đi.
      Ngô Tích biết rằng Triệu Thành không tha mạng y. Y chỉ còn một đường duy nhất để tự tồn là thắng được Thành. Y nhẩy vọt lên xuất chưởng tấn công liền. Vì liều mạng, y đánh toàn những chiêu hiểm độc. Triệu Thành như mèo vờn chuột, y đánh cầm chừng. Chờ cho Ngô Tích mệt nhoài rồi mới phản công. Y cười nhạt:
      - Ta chỉ đánh có ba chiêu. Hễ mi chịu được thì ta tha mạng cho.
      Y đánh ra chưởng thứ nhất, Ngô Tích loạng choạng ngã ngồi xuống, miệng phun máu. Tuy vậy y cũng cố vọt mình dậy đứng thủ. Thành xuất chiêu thứ nhì. Bình một tiếng, Ngô Tích bay vọt về sau. Triệu Thành cười:
      - Ta kết liễu tính mệnh mi đây.
      Tay y vung chưởng lên.
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.01.2005 09:56:53 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 06.01.2005 18:10:08 (permalink)
        Hồi thứ hai mươi bốn


        Công Chúa An Quốc



        Chưởng phong chụp xuống. Bọn Triệu Anh, Ngô Tích nhắm mắt lại, không dám nhìn người anh em kết nghĩa chết thảm.
        Thấp thoáng bóng nâu, một người từ bụi cây nhảy ra vung chưởng đánh thẳng vào người Triệu Thành. Chưởng phong cực kỳ hùng hậu. Triệu Thành phải thu chưởng về tự cứu mình. Người kia chuyển chưởng tấn công Vương Duy-Chính. Vương vội xuất chưởng đỡ. Không ngờ người kia thu chưởng về thực mau, tay phát chiêu Cầm-long-công, thân hình Ngô Tích bật lên. Người đó ôm Ngô Tích chạy lên núi.
        Triệu Thành hô:
        - Mau đuổi theo.
        Nhưng khi y hô tiếng đó, người ấy với Ngô Tích đã biến vào rừng hoang vu, không còn thấy bóng dáng đâu nữa. Biết có đuổi theo cũng vô ích. Vương Duy-Chính than:
        - Chiêu thức người mặc áo nâu vừa rồi rất quái dị, không giống bất cứ phái nào của Giao-chỉ.
        Triệu Thành ngơ ngẩn xuất thần:
        - Chúng ta lên đây họp, quỷ không biết, thần không hay. Tại sao người này biết mà phục sẵn? Các ngươi phải cẩn thận. Chúng ta đang ở trong cạm bẫy Khu-mật-viện Giao-chỉ.
        Triệu Thành vẫy bọn thủ hạ xuống núi.
        Bọn Triệu Thành đi rồi, chị em Thanh-Mai mới dám rời chỗ ẩn thân.
        Thanh-Mai bẹo tai Bảo-Hòa:
        - Em nhận lệnh của cậu hai, thế mà bí mật không cho chị biết.
        Bảo-Hòa cười:
        - Không phải cậu hai không tin chị với Mỹ-Linh. Em có thể nói, trên đời này, cậu hai tin chị nhất. Sở dĩ cậu không muốn cho chị biết, vì qui luật hành quân, bảo mật nước mình định như vậy. Nếu cho người thứ nhì biết thì nguy hiểm cho người đó.
        Nghe Bảo-Hòa nói, Thanh-Mai đỏ mặt lên. Nàng nghĩ thầm:
        - Thì ra chàng cùng Tự-An, Tôn-Đản vẫn theo sát bên mình, mà mình nào hay?
        Thanh-Mai hỏi Bảo-Hòa :
        - Thế người cứu Ngô Tích ban nãy là ai vậy?
        - Em cũng không biết nữa. Chiêu thức võ công của người đó thuộc phái Cửu-chân thời Lĩnh-Nam.
        Ba chị em thủng thẳng xuống chân núi. Khi Thanh-Mai, Mỹ-Linh biết Bảo-Hòa nhận lệnh từ Khai-quốc vương, thì mọi việc đề xướng của Bảo-Hòa, hai người nhất nhất tuân theo. Trong khi sơn-trang tưng bừng với lễ cưới trang chủ. Chị em Thanh-Mai ngày ngày lên núi luyện võ công. Bọn Triệu Thành chỉ lưu lại sơn-trang hơn mười ngày thì ra đi.

        Đúng ra, khi Bảo-Hòa, Mỹ-Linh đã tự giải được độc tố Hàn-ngọc đan, thì có thể ra đi, không cần thắng Thiếu-Mai như luật lệ của Hồng-Sơn. Nhưng Bảo-Hòa nhận được lệnh lần nữa ở lại sơn trang, để Thanh-Mai học châm-cứu.
        Một buổi tối Lê Văn đến Nghinh-tân-các tìm Thanh-Mai:
        - Hôm nay bố em đi vắng. Mẹ muốn mời các chị tới thăm nhà Bát-giác, không biết các chị có thuận không.
        Thanh-Mai cười:
        - Mẹ của em thực quá cẩn thận. Bà là sư mẫu của chị, thì bà muốn gọi chị đến hầu lúc nào chẳng được. Tại sao bà khách sáo thế?
        Lê Văn nói nho nhỏ:
        - Em có cảm tưởng mẹ có liên hệ gì với các chị thì phải. Người luôn luôn theo dõi chăm sóc các chị. Bất cứ bố em nghĩ xấu gì về các chị, bà đều khéo léo bênh vực. Như việc các chị luyện võ tự giải được Hàn-ngọc đan ông biết hết. Ông đòi đuổi các chị đi. Mẹ bảo tại sao lại đuổi? Ai chả có bố mẹ anh em. Ai chả muốn sống gần người thân. Khi các chị thích sống ở đây hơn là về nhà thì hẳn sơn trang phải lấy làm hãnh diện chứ?
        Thông-thường, Thanh-Mai quyết định mọi việc. Nhưng từ khi nàng biết Bảo-Hòa giữ nhiệm vụ liên lạc cũng như nhận lệnh từ Lý Long, việc gì nàng cũng hỏi ý kiến Bảo-Hòa. Thấy Thanh-Mai đưa mắt nhìn mình, hỏi ý kiến. Bảo-Hòa nhanh nhẩu:
        - Nào chị em chúng mình mau quần áo chỉnh tề lên gặp chủ-mẫu sơn-trang. Nhưng vấn đề xưng hô thì khó đây. Đúng ra,trang chủ ngang vai với Thuận-Thiên hoàng đế, thì Mỹ-Linh với chị phải gọi bằng thái sư bá. Ngặt vì bà xinh đẹp, lại quá trẻ, gọi vậy thực không ổn. Còn chị Thanh-Mai thì, ngôi thứ đã định, chị phải gọi bà bằng sư-mẫu rồi.
        Ba chị em theo Lê Văn lên ngôi nhà Bát-giác. Vừa tới đầu cầu, đã thấy Huệ-Phương đứng đón từ trước. Cạnh nàng là Thiếu-Mai. Hôm nay Huệ-Phương trang phục giản dị, quần lụa đen, áo cánh mầu hòang yến, cổ chòang khăn hồng. Nàng cười rất tươi lên tiếng trước:
        - Ở không buồn quá, mời ba cô nương lên đây nói truyện cho vui. Nào mời ba vị vào.
        Ba chị em hành lễ. Mỹ-Linh lên tiếng:
        - Chị em bọn tiểu nữ được phu-nhân gọi, vội lên ngay.
        Thị nữ pha trà. Huệ-Phương ngắm nghía ba người, rồi nói:
        - Tôi vốn là đệ tử phái Tản-viên, vì vậy học được một ít thuật tướng mệnh. Hôm nay muốn đem ra coi cho ba vị cô nương. Nếu có sai, xin đừng trách phạt.
        Lịch sử cổ kim, Đông Tây, bất cứ thời nào, dân tộc nào, phụ nữ cũng thích bói toán, tướng số. Mỹ-Linh chìa tay ra:
        __ Xin phu nhân coi cho tiểu nữ một quẻ.
        Huệ-Phương lắc đầu:
        - Tôi không coi tướng tay, mà coi tướng tướng toàn thân. Từ mắt, da, đi, đứng, ăn, ngồi, nói. Phụ nữ cần coi mắt hơn các bộ phận khác, mắt tối quan hệ. Mặt trời mặt trăng bao trùm vạn vật, thì mắt là mặt trời mặt trăng của thân thể. Mắt trái là mặt trời tượng trưng cho cha. Mắt phải là mặt trăng tượng trưng cho mẹ. Khi ngủ thì thần tập trung tại tâm. Khi thức thì thần hiện ra ở mắt. Coi mắt thì biết thần của con người.
        Thiếu-Mai vỗ vai Huệ-Phương:
        - Dì Phương này. Tướng-mệnh với y khoa giống nhau quá. Theo sách Lĩnh-nam y-kinh của Khất đại-phu thì « Mắt là quan của gan. Gan tàng chứa huyết dịch. Khi thức, huyết dịch chạy khắp cơ thể. Khi ngủ huyết dịch chuyển về gan. Gan tàng chứa hồn. Khi giận hờn, làm gan bị hỗn loạn. Ngược lại gan hỗn lọan thì hồn bị động. Cho nên mọi giận hờn đều do gan mà ra. Thế nhưng tim tàng thần. Khi ngủ, thần về tim. Khi thức thần hiện lên ở mắt. Phàm xem bệnh thì coi mắt để biết hồn và thần ».
        Thiếu-Mai nheo mắt cười:
        - Dì giỏi tướng, bố giỏi về y. Hai khoa gần nhau. Hèn gì cách đây mấy năm bố gặp dì, thì đêm nhớ ngày mong, hồn phách như phiêu bạt phương nào. Từ hôm gặp lại dì đến giờ, bố mới vui vẻ trở lại.
        Huệ-Phương cười rất tươi, nàng bẹo má Mỹ-Linh:
        - Mắt của công chúa đen như điểm sơn ắt là người thông minh, văn chương bút mặc khó ai sánh kịp. Thông thường thì ít thấy thần thái hiện ra, đôi mắt công chúa như mắt phượng ngủ biểu hiện tâm tính khoan hòa, dễ dung thứ người, đó là thực thần biểu hiện hoàn toàn tâm tính của công-chúa. Còn đôi khi cần quyết định thì ánh sáng chiếu ra loang loáng như mặt trời trông cực kỳ uy nghiêm, khiến ai nhìn cũng kính phục, đó là sắc thần do luyện võ, do học văn, kết hợp thành. Gồm cả khoan hòa, với uy nghiêm, công chúa sẽ có sự nghiệp lừng lẫy. Tiếc rằng Thiên-tử trọng nam hơn nữ, chứ nếu tôi là hoàng-đế, tôi truyền ngôi cho công chúa, thì dân Việt sẽ hạnh phúc kém gì thời vua Trưng?
        Huệ-Phương tiếp:
        - Đó là nói về thần. Bây giờ nói về bản thần tức gốc con người. Bản thần của công-chúa biểu hiện lúc mắt họat động. Khi công chúa nhìn ưa ngước lên, như nhìn về cõi trời xa xôi nào đó, biểu lộ bản tính đa sầu, đa cảm. Thoáng cái, buồn, thoáng cái vui. Dưới mắt phải có mụn nốt ruồi, ắt phải khuất thân mẫu vào thời thơ ấu. Tuy vậy cuộc đời công chúa không tầm thường đâu. Trong tất cả chúng ta ngồi đây, sau này võ công, văn học công chúa hơn tất cả. Năm nay công chúa gặp vận xấu, nhưng trong cái xấu, có cái tốt.
        Mỹ-Linh thấy Huệ-Phương đoán trúng hết, nàng thắc mắc:
        - Xin phu nhân cho biết cuộc đời duyên tình sau này sẽ ra sao?
        - Duyên tình à. Công chúa đã gặp ý trung nhân rồi đó. Ngặt vì thời cơ chưa đến, thành ra vẫn có trắc trở đôi chút. Công chúa ơi! Khi ông Tơ, bà Nguyệt đã kết dây tình, thì dù hai người ở góc biển chân trời nào rồi cũng gặp nhau, rồi thành duyên trăm năm. Công chúa đang gặp khó...
        Bảo-Hòa nhìn Mỹ-Linh, nàng thương hại cô em họ, hỏi:
        - Có cách nào thóat ra cái trắc trở đó không?
        - Có chứ. Tỷ như người bị bệnh, thì tướng mệnh bắt như vậy rồi. Khi đi tìm thầy trị, tức là mượn tướng ông thầy, phá cái tướng bệnh ấy đi. Duyên tình công chúa trắc trở thực, nhưng nếu công chúa nhờ một người trên, ngang vai với sư phụ, với bố mà công chúa kính yêu nhất, thì gỡ ra được. Tôi nhắc lại phải là người mà công chúa kính yêu nhất.
        Mỹ-Linh nhĩ thầm:
        - Người mà mình kính yêu nhất thì chỉ có chú hai. Ừ nếu mình thú thực với chú hai thì hẳn người giúp được. Nhưng không biết hiện giờ chú ở đâu?
        Huệ-Phương nheo mắt cười. Nụ cười của nàng duyên dáng vô cùng:
        - Công chúa đang nhớ phụ-vương, thúc-phụ, hay cô-mẫu?
        Mỹ-Linh trở về thực tại, mắt nàng chiếu ra những tia sáng uy nghiêm:
        - Phu nhân lợi hại thực. Tiểu nữ phải về nói với chú hai mời phu-nhân làm quân-sư mới được. Phu nhân chỉ nhìn tướng mà biết tôi nhớ ai, thực hiếm có.
        Nghe Mỹ-Linh nói, Huệ-Phương thoáng một vẻ buồn hiện trên nét mặt. Trong cái buồn có nét nhu mì, ẩn hiện những tình cảm nồng nàn. Nàng tiếp:
        - Dễ thôi. Này nhé khi công chúa nhớ người yêu thì thường hiện ra nét e thẹn, mặt hơi cúi xuống, hai má ửng hồng. Vương mẫu qua đời, nếu công chúa nhớ đến, ắt mắt nhìn vào xa xôi để tưởng nhớ hình dạng của người. Còn đây công chúa suy nghĩ, nét mặt hiện ra vẻ kính, nét yêu, thì chỉ có nhớ phụ-vương, thúc-phụ hay cô-mẫu. Xét kỹ ra, công chúa gần Khai-quốc vương nhất, chắc công chúa nhớ người, chứ không sai.
        Huệ-Phương ngồi nghiêm trang lại:
        - Nói chung, sự nghiệp công chúa sau này vẻ vang vô cùng...Ít ra cũng bằng Thánh-Thiên hay Phùng Vĩnh-Hoa thời Lĩnh-Nam.
        Huệ-Phương quay lại Bảo-Hòa:
        - Còn quận chúa. Quận chúa không phải là người trần như chúng tôi mà nói đến duyên tình, sự nghiệp được. Quận chúa là người nhà trời...
        Bảo-Hòa ngơ ngác:
        - Mai này sự nghiệp tiểu nữ ra sao? Liệu có được như Mỹ-Linh không?
        Huệ-Phương quả quyết:
        - Hơn nhiều. Đại-Việt sau này nhờ quận chúa mà trở thành một nước hùng mạnh. Sự nghiệp quận chúa sau này chỉ thua có vua Trưng mà thôi. Muôn nghìn năm sau, người đời còn thờ cúng. Quận chúa sống thì cầm gươm cứu dân. Chết lại chẳng chịu về trời, lẩn quẩn với dân Viết ít ra vài ba nghìn năm.
        Thanh-Mai, cùng Mỹ-Linh cùng bật lên tiếng ái chà.
        - Quận chúa sinh ra chỉ để giúp dân! Khi thác cũng vẫn giúp dân! Hỡi ơi sự nghiệp của quận chúa thực lẫy lừng khắp Hoa-Việt.
        Huệ-Phương, nhìn Thanh-Mai, bất giác bà thở dài như tiếc than một cái gì:
        - Tự cổ, đa tài vốn đa lụy. Con người có tài, có sắc thì ông trời hay đánh ghen, làm cho gian truân. Cô nương đã đa tài, lại còn đa tình nữa. Cuộc đời cô nương nếu bảo rằng tốt thì cực tốt. Bảo rằng xấu thì cực xấu. Số trời đã định, thì chạy đâu cho khỏi? Trong ba vị cô nương đây, nói về tài thì không ai sánh kịp Thanh-Mai. Nhan sắc thì cô nương sắc sảo hơn Mỹ-Linh, Bảo-Hòa. Về võ công thì tôi e phu quân tôi sau này cũng thua xa. Thế nhưng...
        Mỹ-Linh lo lắng:
        - Thế nhưng xấu lắm sao?
        - Không hẳn rằng xấu. Trần cô nương xinh đẹp ít ai bằng. Vì vậy có đến hai nhân vật công danh lên tột đỉnh, tài trí trùm hoàn vũ cùng để ý, cùng cầu thân. Thế rồi người được thì công danh mất. Người không được thì công danh còn. Cuối cùng nát đời hoa. Tiếc quá, tiếc quá.
        Lê Văn ngắt lời Huệ-Phương:
        - Mẹ, mẹ có cách nào cứu chị Thanh-Mai không?
        - Cứu ư? Khi vận hạn xấu thì cứu được. Chứ bản mệnh đã như vậy thì cứu sao cho nổi? Nếu nói về hạnh phúc thì không ai hạnh phúc bằng Trần cô nương. Bố thương yêu rất mực. Em kính yêu như mẹ. Gặp tới hai người tài trí, công danh trùm hoàn vũ, cùng say mê đến nghiêng ngả sự nghiệp, chịu chết chịu mất nghiệp để được nàng. Mỵ-Nương, Mỵ-Châu còn thua xa. Tây-Thi, Dương-phi cũng không bằng. Khi cô nương chết rồi, hai người này đều bỏ đi tu, để ngày ngày quên hình bóng. Tự cổ, khó ai được sủng ái đến như thế.
        Huệ-Phương nhìn mây trôi:
        - Tuy nhiên, đức năng thắng số. Nếu trong nhà cô nương có ai đi tu, thì có thể giải hết nghiệp cho cô nương. Một người đi tu, cả họ được hưởng phúc. Dưới mắt cô nương có quầng đen, ắt khoảng tháng tám này cô nương sẽ gặp một tai nạn, tưởng đó thể tới Quỷ-môn-quan. Thế nhưng lại thoát được trong đường tơ kẽ tóc.
        Nghe đến đây mặt Thanh-Mai tươi hẳn lên.
        Lê Văn thấy để mọi người nói về tướng xấu của Thanh-Mai mãi, e không dứt được. Nó cắt ngang:
        - Mẹ ơi! Thế sự nghiệp con sau này ra sao?
        Huệ-Phương tát yêu Lê Văn:
        - Con còn nhỏ, tướng chưa định, thành ra coi không được. Song nhất định không cà chớn như bố mắng đâu. Ít ra cũng làm lên sự nghiệp vẻ vang, danh lưu muôn thuả. Con sẽ kết hôn với một thiếu nữ xinh đẹp hiếm có, lại con nhà danh gia vọng tộc.
        Thanh-Mai nháy Huệ-Phương, rồi lấy tay chấm nước viết:
        - Có người nghe trộm trên mái nhà, phu nhân muốn lôi cổ nó xuống không?
        Huệ-Phương chấm tay vào nước viết:
        - Nhờ em làm dùm.
        Thanh-Mai nói lớn:
        - Chị em chúng tôi đang xem tướng cho nhau. Quý khách đến, sao không xuống uống nước, mà lại nghe trộm?
        Nói rồi nàng cầm chung trà liệng lên mái nhà. Từ trên mái nhà, một tràng cười vọng xuống, rồi có tiếng bình, bình. Mọi người chạy ra ngoài xem, đã thấy Thiếu-Mai đang đấu chưởng với một người đàn ông bịt mặt.
        Chưởng lực của Thiếu-Mai cực kỳ tinh diệu. Còn chưởng lực người bịt mặt ngược lại rất thô kệch, nhưng hùng hậu vô tả.
        Huệ-Phương hỏi Thanh-Mai:
        - Trần cô nương là đệ tử danh gia, bác học uyên thâm. Cô nương có nhận ra chiêu số võ công của người kia không?
        Thanh-Mai quan sát một lúc, rồi lắc đầu:
        - Chịu. Tiểu nữ chưa từng thấy qua võ công người này bao giờ. Lối xuất chiêu này hơi giống võ công Cửu-chân thời Lĩnh-nam.
        Đấu được một lúc, Thiếu-Mai yếu thế dần. Cứ mỗi lần người kia xuất chiêu, Thiếu-Mai phải lui lại hai bước liền.
        Thanh-Mai ghé tai Bảo-Hòa:
        - Em thử lên đấu với người kia xem.
        Lê Văn kinh ngạc:
        - Cứ như bản lĩnh Bảo-Hòa cách đây ít lâu, nàng không thể là đối thủ của một bọn Tung-sơn tam-kiệt. Trong khi bản lĩnh Thiếu-Mai có thể đấu ngang tay với hai người trong bọn họ, mà nay chị ta còn thua người bịt mặt, sao Thanh-Mai lại bảo nàng lên đấu với người kia?
        Bảo-Hòa nghe Thanh-Mai nói, nàng hú một tiếng dài, rồi vọt mình lên mái nhà. Vừa đúng lúc đó Thiếu-Mai lảo đảo suýt ngã. Bảo-Hòa hít một hơi xuất chiêu Ác ngưu nan độ tấn công. Người kia thấy cô gái trẻ, xinh đẹp nhảy lên mái nhà thì khinh thường. Khi nàng xuất chiêu quái ác, tinh diệu. Y kinh hoàng vội xuất chưởng đỡ. Binh một tiếng, cả hai người đều bật lui lại ba bước.
        Hai người gườm gườm đứng thủ thế nhìn nhau. Người kia lên tiếng:
        - Cô nương là ai? Dường như không phải người trong trang. Vì võ công của cô hơi giống võ công Tản-viên.
        Bảo-Hòa phục người đó bác học. Nàng trả lời:
        - Tôi là Thân Bảo-Hòa, đệ tử phái Tây-vu.
        - Nói láo, phái Tây-vu làm sao biết Phuc-ngưu thần chưởng.
        Người đó lại xuất chiêu, chưởng phong ào ào tuôn ra. Bảo-Hòa lùi một nước, phát chiêu Thanh-ngưu ư hà. Bình một tiếng hai người cùng choáng váng lui lại. Thanh-Mai đứng dưới lược trận than:
        - Bảo-Hòa nguy mất. Công lực nàng không làm bao, mà lại đấu chưởng kiểu này chỉ mấy chiêu, nội lực cạn ắt bị thua.
        Trên nóc nhà hai người cuốn lấy nhau. Người kia chưởng lực hùng hậu, còn Bảo-Hòa thì tinh vi, ảo diệu. Phục ngưu thần chưởng có một sở trường là người học, dù nội lực thấp hay cao đều xử dụng được. Người luyện Phục-ngưu thần chưởng, học đủ ba mươi sáu chưởng, thì có gặp đối thủ võ công cao đến đâu cứ nhắm mắt phát chiêu. Chiêu nọ nối với chiêu kia liên miên bất tuyệt, địch thủ cũng không xâm phạm vào mình được.
        Đấu được trên trăm chiêu, Bảo-Hòa đã xử dụng thuần thục Phục-ngưu thần chưởng, chiêu số tòng tâm phát ra như thành đồng vách sắt bao phủ.
        Người bịt mặt chợt lui lại, quát lên một tiếng, tay phải xuất chiêu, tay trái quay tròn. Chưởng phong ào ào tuôn ra. Bảo-Hòa thấy chưởng quái ác, nàng không giám khinh thường, hít một hơi chân khí đánh ngang vào chưởng đó bằng chiêu Thanh ngưu qui gia. Bình một tiếng, nàng bật lui ba bốn bước liền. Trong khi người kia chuyển tay trái thành tay phải, đẩy tới.
        Mỹ-Linh chợt nhớ đến một truyện, nàng nói vào tai Thanh-Mai:
        - Nguy tai. Người kia xử dụng chiêu Hải triều lãng lãng của vua An-Dương. Bảo-Hòa nguy mất. Chiêu này có năm lớp. Lớp sau mạnh gấp đôi lớp trước. Đến lớp thứ năm mạnh gấp ba mươi hai lớp đầu.
        Trên mái nhà người kia phát ra lớp thứ nhì. Bình một tiếng. Bảo-Hòa bật lui liền ba bước để hóa giải kình lực, mắt nàng nảy đom đóm.
        Thanh-Mai chợt nghĩ đến lối vận khí bằng kinh mạch. Nàng nói lớn:

        Khí nhập đơn điền,
        Sau lên thượng tiêu.
        Tụ vào Đại-trùy,
        Phát ra Thủ tam
        .

        Bảo-Hòa đang không biết làm sao thắng người kia, nghe Thanh-Mai nhắc, nàng tỉnh ngộ, dẫn khí về đơn điền, chuyển lên huyệt Đại-trùy, rồi truyền ra Thủ-tam-dương kinh phát chiêu Ngưu thực ư dã Binh, một tiếng. Nàng cũng như người kia đều bật lui lại. Người kia kêu lên tiếng Ái chà tỏ vẻ đau đớn lắm.
        Người kia phát lớp thứ tư. Bảo-Hòa lại vận công ra Thủ-tam dưng kinh, rồi đánh chiêu Ngưu tẩu như phi. Bình một tiếng lớn, gạch ngói trên nóc nhà bay lên, rơi xống loảng xoảng. Cả hai người đứng gườm gườm nhìn nhau. Người kia phát lớp thứ năm. Áp lực cực kỳ trầm trọng, đến nỗi gia nhân cầm đuốc đứng dưới sân nghẹt thở, phải lui lại. Bảo-Hòa hít một hơi dài, nàng đưa khí xuống đơn điền, chuyển tất cả dương khí từ Túc-tam dương kinh cùng về huyệt Đại-trùy với Thủ-tam dương, phát chiêu Tứ ngưu phân thi Bình một tiếng, hai người đều bật lui, ngói bay lên cao loảng xoảng. Lợi dụng người kia chưa kịp vận khí, Bảo-Hòa phát chiêu Lưỡng ngưu tranh phong đẩy ngói vào người kia. Người kia bật lui lại ba bước liền, lảo đảo không vững. Bảo-Hòa chợt nhận ra đối thủ với mình, chính là người bịt mặt đã cứu Ngô Tích, ắt không phải kẻ thù. Nàng ngừng lại không phát chiêu nữa.
        Người bịt mặt hít một hơi chân khí hỏi:
        - Cô nương, cô nương xử dụng Phục-ngưu thần chưởng đến chỗ tinh vi. Ta chịu thua cô nương. Song ta có một thắc mắc: Hiện pho chưởng này đã thất truyền. Phái Tản-viên chỉ còn có mười hai chiêu. Vậy tại sao cô nương lại biết xử dụng hết?
        Bảo-Hòa lắc đầu:
        - Tôi không thể tiết lộ được.
        Người kia hú lên một tiếng, rồi biến mình vào đêm tối. Bảo-Hòa nhảy xuống đất. Thiếu-Mai đến bên Bảo-Hòa:
        - Chị Bảo-Hòa giả bộ hay thực. Võ công chị cao đến độ có thể tự giải được Hàn-ngọc đơn thì không phải tầm thường. Thế mà bố tôi bảo chị thắng tôi mới được ra khỏi sơn trang. Chị dư sức thắng mà không chịu đấu. Sức nhẫn nại của chị khó ai bằng.
        Bảo-Hòa nói thực:
        - Tôi học Phục-ngưu thần chưởng từ lâu rồi, nhưng lười biếng không luyện tập. Trong thời gian bị giam ở đây, tôi mới ôn lại đấy chứ. Chị nhớ không? Lúc đầu tôi bị Văn bóp cổ nhét chuối vào miệng kia mà!
        Thiếu-Mai không tin, nhưng cũng ậm ờ cho qua. Huệ-Phương nắm tay Bảo-Hòa:
        - Không phải ta đuổi các em đâu. Những gì vừa xẩy ra, nếu phu quân ta về ông sẽ không tin. Không chừng ông cho rằng võ công các em tuyệt cao, giả bộ vào sơn trang dò thám. Các em nên đi sớm tốt hơn.
        Thanh-Mai đồng ý. Ba người chuẩn bị hành lý ra đi. Lê Văn bịn rịn không muốn rời ba bà chị. Song nó phải đóng xe cho ba người lên đường. Nó lại bên Huệ-Phương, kéo cổ nàng hôn vào má, vào vai, vào tay. Huệ-Phương tát yêu:
        - Mẹ biết rồi. Hễ con sắp vòi là hôn mẹ. Vậy con muốn gì đây?
        Lê Văn cười:
        - Con thương ba chị này quá. Vậy mẹ cho con đi chơi với các chị ít ngày. Khi bố về, mẹ cứ bảo mẹ cho phép. Mẹ mà cười một cái, thì bảo bố nhảy vào lửa bố cũng nhảy.
        Huệ-Phương gật đầu:
        - Được. Bố con thù hận ông nội của Bảo-Hòa, Mỹ-Linh. Ngược lại rất kính yêu thân phụ chị Thanh. Mẹ bảo con theo chị Thanh, bố sẽ không thắc mắc gì. Ừ hễ bố không cười thì... mẹ sẽ cười như con nói.
        Thiếu-Mai lấy trong tủ ra một hộp bằng bạc rất đẹp, nàng đưa cho Thanh-Mai:
        - Bố em chế hộp thuốc này bằng sâm, nhung, hà thủ ô, cực kỳ bổ dưỡng. Phàm khi luyện tập bị mệt hay bị nội thương, dùng vào rất công hiệu. Em tặng chị. Biết đâu trong khi đi đường không dùng tới?
        Mỹ-Linh cầm tay Huệ-Phương:
        - Phu nhân, tôi muốn tặng phu nhân món quà. Mong phu nhân nhận cho.
        Nàng không đợi Huệ-Phương nhận hay không, đã tháo chiếc vòng trên cổ tay đeo vào cho Huệ-Phương:
        - Vòng này nguyên là của vua Trưng ban cho vương phi Cửu-chân vương Đào Thế-Kiệt, để ngợi khen cái đức của bà trong việc giúp vương gia dạy con và đệ tử. Tôi thấy phu nhân, đức không thua bà Đinh Xuân-Hoa khi xưa, nên xin dâng.
        Huệ-Phương nhìn trên chiếc vòng, có mấy chữ, nàng đọc không được. Bảo-Hòa nói:
        - Chữ Khoa-đẩu của mình đấy. Để tiểu nữ đọc dùm phu nhân. Mấy chữ này như sau: Bàn tay tiên. Nuôi dạy con thành anh hùng, liệt nữ.
        Huệ-Phương kinh hãi, quỳ xuống hướng về phía nhà thờ Quốc-tổ khấn:
        - Đệ tử Lâm Huệ-Phương kính cẩn nhận di vật của vua Bà. Nguyện xin xứng đáng với Đào vương phi.

        Chiếc xe ngựa chở bốn người hướng xã Vạn-thảo. Mỹ-Linh than:
        - Mau thực, mới hôm nào chúng mình đến làng này, nay đã trải qua bốn tháng rồi. Không biết dân làng có còn nhớ chúng mình không? Hay là chúng mình đừng vào làng nữa. Chúng mình trở về trấn Thanh-hóa tìm sư phụ với anh Thiệu-Thái, rồi trẩy Thăng-long.
        Thanh-Mai đồng ý:
        - Phải đấy.
        Xe đi được một quãng, thì phía trước, có hai con ngựa đi ngược chiều trở lại. Thanh-Mai nhận ra là Quách Thịnh với Lê Phụng-Hiểu. Hai người thấy Bảo-Hòa với Mỹ-Linh, vội xuống ngựa hành lễ:
        - Bọn tiểu nhân kính cẩn vấn an công chúa điện hạ và tiên-cô.
        Mỹ-Linh hỏi:
        - Hai vị đi đâu đây?
        Quách Thịnh chỉ Lê Phụng-Hiểu:
        - Có chiếu chỉ của hoàng đế ban ra, ngài cho mở khoa thi võ, tuyển nhân tài. Tiểu tướng dẫn Phụng-Hiểu về Thăng-long dự thí.
        Mỹ-Linh vẫy tay:
        - Thế thì hay quá. Các vị theo tôi về trấn Thanh-hóa rồi trẩy kinh một thể. Lê huynh được Quách tướng quân dạy võ mấy năm qua, thì hẳn sẽ là tướng tài.
        Quách Thịnh, Lê Phụng-Hiểu phi ngựa chạy theo xẹ Hai người nhận ra Lê Văn, Hiểu hỏi:
        - Lê công tử, người cũng đi thi ư?
        Lê Văn lắc đầu:
        - Không, tôi theo các chị đây đi chơi mà thôị Chứ tuổi tôi, ai cho dự thị Dường như tuổi mười tám mới được ứng thí phải không?
        Quách Thịnh gật đầu:
        - Điều kiện dự thi giản dị thôi. Có ba điều bắt buộc và ba điều cấm. Còn ngoại giả ai cũng có quyền dự thị Ai cũng bảo như vậy đức hoàng đế khoan dung hơn bên nhà Tống nhiều. Ngặt tôi không biết thể lệ dự thi bên Tống ra sao.
        Bảo-Hòa đã ở biên giới Tống-Việt lâu năm, nàng biết rất rõ về thể lệ dự thi bên Tống, nàng đáp:
        - Lệ dự thi bên Tống như sau: phải cung khai lý lịch tam đạị Lý lịch do hương lý kiềm thự rằng đúng. Ai khai gian, sau bị cáo, sẽ bị chém. Đời ông, đời cha đã từng khuông phò giặc chống lại triều đình. Từng là trộm, cướp, từng làm mõ trong làng, từng làm nghề con hát, ăn mày, từng bị cố tật và từng bị bệnh lao, bệnh cùị Bản thân sĩ tử phải cao ráo, trông được, nói ngọng, nói lắp, mặt rỗ đều bị loại.
        Quách Thịnh cười:
        - Điều kiện như vậy thực vô lý. Còn thể lệ trong chiếu chỉ của đức hoàng đế mình rõ ràng lắm: tuổi phải đủ mười tám, không tàn tật, và là con dân Đại-Việt ít nhất hai đờị Ba điều cấm là: đã từng trộm cắp, đã từng lường gạt, đã từng làm giặc.
        Lê Văn vỗ tay:
        - Như vậy mới có nhiều nhân tài dự thí. Kỳ này lấy bao nhiêu người trúng cách?
        Quách Thịnh cầm tờ giấy ra đọc, rồi nói:
        - Nhiều đấỵ Đầu tiên thi ở trấn. Mỗi trấn lấy trúng cách 50 ngườị Nước ta có 15 trấn, như vậy là 750 ngườị Ai trúng cách gọi là Hương-võ. Các Hương-võ sẽ được cử làm tướng trong các đạo quân của trấn hoặc quận, huyện. Sau Hương-võ sẽ về kinh thi, lấy một Trang-nguyên, hai Bảng-nhãn, ba Thám-hoa, chín Long-tướng, mười tám Hổ-tướng, va ba mươi sáu Hùng-tướng .Những vị này sẽ được bổ cầm các đạo quân quốc gia, trấn thủ biên cương.
        Xe đang đổ dốc, Mỹ-Linh chỉ về phía trước:
        - Kia là Vạn-hoa trang. Chúng ta lại đến đó chơi nữa. Lần này tôi phải gặp cô hai mới được.
        Đoàn người vừa tới trước cổng sơn-trang, đã thấy hai thiếu nữ, ba thiếu niên khăn áo chỉnh tề đứng đó từ trước, dừơng như chờ đợi ai. Một thiếu niên kính cẩn đến trước xe hành lễ:
        - Anh em chúng tôi là Đào-thị ngũ nhân, xin bái kiến công chúa điện hạ.
        Mỹ-Linh nhìn lại, thì ra hai cô gái là Nàng Hồng và Nàng Tía. Còn ba thiếu niên nàng chưa gặp bao giờ. Nàng hỏi:
        - Cô-mẫu có nhà không?
        Nàng Hồng đáp:
        - Chủ mẫu đang chờ công chúa.
        Năm người đánh xe theo xe Mỹ-Linh vào trang. Lần này họ không đưa nàng đến lầu vọng hoa, mà đưa thẳng đến căn nhà làm bằng gỗ giữa hồ đầy sen, hương đưa ngạt ngàọ Xe vừa dừng lại, có tiếng đàn tranh từ trong vọng rạ Nàng Hồng nói:
        - Thưa mẹ, có công chúa cầu kiến.
        Đào phu nhân từ trong nhà bước rạ Lần này bà không đeo vải che mặt. Mỹ-Linh thoáng thấy, tưởng bà là thân mẫu Bảo-Hòạ Nàng nghĩ thầm:
        - Các cô mình giống nhau thực.
        Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, Thanh-Mai cùng mọi người phủ phục xuống đất hành đại lễ:
        - Hài nhi kính cẩn ra mắt cô mẫụ Kính chúc cô mẫu vạn an.
        Đào phu nhân để mọi người hành lễ xong, bà nói:
        - Nào, mời các vị vào đây ăn cơm trưa, uống trà.
        Bà ôm lấy Mỹ-Linh, để nàng ngồi lên lòng, rồi ghé môi trái đào cắn lên má :
        - Con gái cưng của cô đây. Hôm trước thấy con vào trang, cô nhận ra ngay, vì con giống bố như đúc. Đẹp thế này, mà không chịu lấy chồng, hèn gì bố con không nổi giận.
        Bà lại tát sẽ Mỹ-Linh hai cái:
        - Con hư lắm nhé. Ỷ được ông nội thương, ỷ được chú hai yêu, không chịu lấy chồng. Ta phải đánh què mới được. Ừ cô lấy làm lạ ông nội không thích cháu gái, chả hiểu sao lại sủng ái Bảo-Hòa với Mỹ-Linh.
        Bà vẫy Bảo-Hòa lại gần, hai tay búp măng ấp vào má nàng. Bà nhìn vào đôi mắt đen nhánh, sáng rực của cháu:
        - Con bé này nữa. Khôn ngoan, mưu trí có thừa. Cậu hai nức nở khen hoài, khen không tiếc lời. Con biết không, cậu hai tài trí là thế, mà bảo sau này con sẽ hơn cậu. Chà, hàm răng con đẹp quá.
        Bà nhìn Thanh-Mai, nói:
        - Hôm trước Trần cô nương với các con bị bọn Tống bắt đem qua đâỵ Nếu cô không nhận được thư cậu hai, ắt đã giết chúng rồị Cậu hai hay thực. Dù cách nào chúng cũng nằm trong vòng kiềm chế của cậụ Bọn Tống phen này kinh tâm động phách, ta e khi về nước vẫn còn hoảng sợ.
        Bỗng bà phóng chưởng tấn công Bảo-Hòạ Bảo-Hòa tuyệt không ngờ bà đang nói truyện rất ôn nhu, lại phóng chưởng đánh mình. Nàng trầm người tránh, nhảy vọt ra sân. Đào phu nhân nhảy theo tấn công chưởng nữạ Chưởng này cực kỳ hùng hậụ Mỹ-Linh nhận ra là Thiết-kình phi chưởng của phái Cửu-chân.
        Biết dì khảo nghiệm võ công, nàng không dám chần chờ, vội xuống tấn, phát chiêu chống lạị Bình một tiếng. Cả hai dì cháu đều bật lui một bước. Đào thị huynh đệ cùng kêu lên tiếng ủa kinh ngạc.
        Bảo-Hòa thấy chiêu số võ công của dì mình hơi giống người cứu Ngô Tích, nhưng hùng mạnh hơn. Nàng không dám coi thường, vội dùng Phục-ngưu thần chưởng chống lạị Hai người đấu với nhau được ba mươi sáu chiêụ Đào phu nhân chợt lùi lại ba bước, quát lên một tiếng thanh thoát đẩy ra chiêu chưởng quái ác. Thanh-Mai kêu lên:
        - Hải triều lãng lãng.
        Bảo-Hòa kinh khiếp, vội dùng lối vận công ra kinh mạch đỡ. Bình một tiếng, nàng bật lui đến ba bước. Trong khi tay Đào phu nhân tê dại. Bà gật đầu tỏ ý khen ngợị Đợi cho Bảo-Hòa lấy lại hơi thở, bà đẩy lớp thứ nhì. Bảo-Hòa hít hơi phát chiêu Ác ngưu nan độ. Bình một tiếng nữa, cát bụi bay tung. Đám thị nữ bị áp lực chưởng phong, nghẹt thở, phải lui lạị Lần này Bảo-Hòa ung dung không bị đẩy luị Nàng vội hít một hơi khí, rồi vận tất cả âm, dương kinh khí về đơn điền, phát chiêu Tứ ngưu phân thi đỡ lớp thứ bạ Bình một tiếng lớn, mấy chậu hoa ở sân bị sức ép chưởng phong bay khỏi vị trí vỡ tan tành. Những cánh hoa bị vỡ bay lên phơi phới.
        Đến lớp thứ tư, Bảo-Hòa biết lớp này cuồn cuộn như con rồng phóng thẳng về trước. Nàng vọt người lên caọ Từ trên cao nàng chờ chưởng phong qua dưới chân rồi phát chiêu đánh vào giữạ Bình một tiếng, người nàng lại bay bổng lên cao. Ở trên không nàng lộn đi bốn vòng liền. Quần áo bay phất phới đẹp vô cùng. Đào phu nhân hướng chưởng lên trời phát lớp thứ năm.
        Biết lớp này nặng khủng khiếp. Lê Văn đứng ngoài thấy vậy, nó móc túi lấy cây kim hướng Bảo-Hòa phóng. Ở trên không, Bảo-Hòa chơi vơi như thuyền giữa giòng, không tập trung được chân khí, bỗng nàng cảm thấy môi trên chỗ huyệt Nhân-trung đau nhói, chân khí tự nhiên tụ về được. Tay phải phát chưởng, tay trái phóng chỉ. Hai chiêu đồng phát rạ Bình một tiếng nữạ Bảo-Hòa bay vọt lên cao, từ từ đáp xuống. Người lảo đảo muốn ngã.
        Nàng vẫy tay:
        - Con không chịu nổi nữa đâu dì.
        Lê Văn nhảy lại đỡ Bảo-Hòa ngồi xuống. Tay nó cầm kim búng ba cáị Một cây kim trúng giữa huyệt Đản-trung, hai cây trúng huyệt Huyết-hải.
        Bảo-Hòa ngồi nhắm mắt dưỡng thần.
        Đào phu-nhân cười với Lê Văn:
        - Cha nào con ấỵ Cháu là con của Hồng-Sơn đại-phu có khác. Thông minh, và giỏi thực. Tại sao cháu lại phóng kim vào những huyệt đó của Bảo-Hòa?
        Lê Văn ung dung đáp:
        - Khi thấy chị Bảo-Hòa không tập trung được chân khí, cháu phóng kim vào huyệt Nhân-trung. Vì Nhân-trung thuộc Đốc-mạch, nơi tụ hội sáu dương kinh. Huyệt Nhân-trung có khả năng đóng chặt ngọai biểu, hầu chân khí không thoát ra ngoàị Còn sau khi chị ấy ngừng đấu, khí huyết đảo lôn, muốn phục hồi mau, cháu phóng kim vào huyệt Đản-trung. Sách y học nói rằng « Đản-trung nơi khí tụ hội », phóng kim vào đó, khí mau phục hồị Còn huyệt Huyết-hải là bể của huyết, phóng kim vào đó lao huyết được điềụ Chị Bảo-Hòa vừa cố hết sức đỡ mấy chiêu của phu nhân, lao huyết hỗn lọan. Làm cho lao huyết hết hỗn lọan, phải dùng huyệt Huyết-hải.
        Thanh-Mai đứng lên nhổ kim trên người Bảo-Hòa. Đào phu nhân vẫy tay gọi Bảo-Hòa:
        - Phụ hoàng ta sinh được mười ba con gái. Kể về võ công, ta đứng đầu. Còn kể về tài trí, mẹ con đứng đầu. Ta thích trồng hoa, nhàn tản. Mẹ con thương dân, chịu đứng ra gánh vác việc lớn. Ta thực không bằng mẹ con. Ừ này, con mới ngần tý tuổi, mà võ công không thua gì ta, thì chỉ mấy năm nữa con sẽ thành vô địch.
        Bà nắm tay Bảo-Hòa:
        - Phục ngưu thần chưởng có 36 chiêu dương, 36 chiêu âm. Con chỉ biết có 36 chiêu dương, nguyên do tại sao?
        Bảo-Hòa kính cẩn đáp:
        - Con biết khẩu quyết luyện 36 chiêu âm, mà không thành, ngặt vì thiếu phần bí quyết giải thích thuật ngữ.
        Đào phu nhân gật đầu:
        - Đúng đấy, trong lịch sử võ-lâm, chỉ có người chế ra là Vạn-tín hầu biết xử dụng 36 chiêu âm. Sau này tổ phụ của phu quân ta, tức Bắc-bình vương mới có cơ duyên luyện thành. Một người nữa tự luyện thành tên Chu Tái-Kênh, vợ Khất đại-phu thời Lĩnh-Nam. Khẩu quyết con tuy biết, nhưng không biết thuật ngữ, luyện khó thành. Nếu con cứ cưỡng luyện sẽ bị tẩu hỏa nhập ma mà chết.
        Thị nữ vào báo:
        - Thưa công chúa, phò mã về.
        Ai cũng biết phò mã đây tức Trung-nghiã hầu Đào Cam-Mộc. Nhân vật khét tiếng, võ công vô địch thiên hạ. Ông là đệ nhất công thần đã từng giúp Thuận-thiên hoàng đế dựng nghiệp, dược gả công chúa An-quốc chọ Tất cả đứng dậy đón. Đào phò mã bước vào nhà, ông cười lớn:
        - Công-chúạ Mừng công chúa gặp các cháụ Ái chà, con bé Mỹ-Linh lớn đẹp thế này rồi đâỵ Kìa Bảo-Hòa, làm gì mà mặt tái xanh thế kia? Chắc lại bị dì thử nghiệm võ công hẳn?
        Ông chìa ngón tay chỏ hướng đỉnh đầu Bảo-Hòa điểm đến véo một tiếng. Bảo-Hòa cảm thấy như người bị ném vào thùng nước nóng. Bao nhiêu cái mệt mỏi biến mất.
        Ông nói tiếp:
        - Từ hôm các cháu rời Vạn-hoa trang, ta không được tin tức gì, vội sai thất đệ dò lạ Không ngờ thất đệ của ta bị Bảo-Hòa dùng Phục-ngưu thần chưởng đánh bạị Y trở về thuật lạị Công chúa không tin. Bây giờ công chúa tin rồi chứ?
        Công chúa An-Quốc (Đào phu nhân) nói với Đào hầu:
        - Tôi chờ ông về xin cho cháu món qùa đây?
        Đào hầu xua tay:
        - Xin gì? Tất cả trang trại này có gì cháu thích, ta cho hết, chỉ trừ có công chúa là ta giữ lại mà thôi. Chết ta cũng không cho.
        Công chúa An-Quốc ghé tai Đào hầu nói nhỏ. Hầu gật đầu:
        - Quý quá. Quý quá.
        Ông cầm tay Bảo-Hòa:
        - Con đi theo bác vào đây.
        Bảo-Hòa không biết ông bà cho nàng vật gì, nhưng cũng dứng lên theo vào trong. Bên trong có bàn thờ, ứơc trên 70 bài vị. Ông chỉ bài vị:
        - Đây là bài vị tổ tiên nhà tạ Ta vốn giòng dõi Bắc-bình vương thời Lĩnh-nam .Trước khi ngài tuẫn quốc, giao cho vợ chồng sư đệ nuôi hai người con tên Tử-Khâm và Tường-Qui.
        Bảo-Hòa nhớ ra:
        - Hai vị đó tên Đào Nhị-Gia và Vương Sa-Giang.
        - Đúng. Vì vậy giòng họ Đào mới truyền đến nay. Về khẩu quyết những thuật ngữ luyện Lĩnh-Nam chỉ cùng Phục ngưu thần chưởng âm nhu ta còn lưu giữ. Nhưng chiêu thức lại không biết. Công chúa muốn ta tặng cháu. Vậy cháu hãy quỳ xuống lễ tổ đi.
        Bảo-Hòa quỳ xuống lễ. Đào-hầu ghé tai nàng đọc khẩu quyết. Ông bắt nhắc đi, nhắc lại nhiều lần. Khi biết chắc nàng thuộc lầu, ông mới ngừng.
        Bảo-Hòa lễ tạ, rồi theo Đào-hầu ra ngòaị Không ai hiểu nàng đã được tặng quà gì.
        Công chúa An-quốc chỉ mọi người giới thiệu với Đào-hầu. Hầu hỏi Lê Phụng-Hiểu :
        - Lê tướng quân xuất thân từ phái võ nào vậy? Ai là sư phụ của tướng quân?
        Lê Phụng-Hiểu chỉ vào Quách Thịnh:
        - Thưa phò-mã, tiểu nhân được học võ với sư phụ đâỵ Nhưng bản lĩnh còn kém lắm.
        Đào-hầu cười:
        - Con người ta cần có bản chất đạo đức. Còn võ công kém thì luyện tập sẽ thành, đâu khó gì. Kỳ này tướng quân lập được công lớn. Khai-quốc vương ắt trọng thưởng. Tướng quân thử đứng dậy đi mấy bài quyền ta xem nào.
        Phụng-Hiểu kính cẩn bái tổi, rồi đi một bài quyền căn bản. Đào-hầu gật đầu khen:
        - Căn bản thì vững lắm, nhưng như vậy khi xung phong hãm trận e chưa đủ. Cần học thêm. Ở đây ai cũng có thể dạy tướng quân được. Ta cho tướng quân chọn thầy.
        Phụng-Hiểu không suy nghĩ, đến trước Bảo-Hòa qùi xuống lạy bốn lạy:
        - Trăm lạy tiên cô. Ngàn lạy tiên cô. Xin tiên cô nhận con làm đệ tử.
        Bảo-Hòa thấy Phụng-Hiểu chân tình, nàng phất tay, một kình lực nhu hòa nâng Phụng-Hiểu dậy. Nàng nói:
        - Được rồị Cô nhận người làm đệ tử.
        Một thiếu niên đứng hầu hạ gần đó cũng đến trước Bảo-Hòa:
        - Đệ tử Lý Nhân-Nghĩa. Hôm trước đã được hầu tiên cô. Mong tiên cô nhận tiểu nhân làm đệ tử.
        Bảo-Hòa nhận ra thiếu niên cho ngựa ăn hôm trước tại Vạn-hoa trang. Nàng để cho Nhân-Nghĩa lạy đủ bốn lạy, rồi nói:
        - Được hôm nay cô thu thêm người làm đệ tử.
        Trong tâm tư hai người cứ nghĩ Bảo-Hòa là tiên nữ giáng phàm. Bây giờ họ được là đệ tử tiên, thì mừng lắm, đứng hai bên Bảo-Hòa khoanh tay hầu.
        Bảo-Hòa thắc mắc hỏi Đào-hầu:
        - Thưa bác. Phụng-Hiểu làm trương tuần của xã Vạn-thảo, mà sao bác lại gọi là tướng quân?
        Công chúa An-Quốc bẹo tai Bảo-Hòa:
        - Để cô dạy khôn cho. Tất cả những gì cô bầy ra đón bọn Triệu Huy đều do cậu hai thiết kế. Những gì diễn ra trong xã Vạn-thảo cũng thế. Con nhìn lại xem Quách tướng quân đâu có cụt taỵ Người dấu tay vào trong áo đấy chứ?
        Bảo-Hòa á lên một tiếng:
        - Thì ra cậu hai bố trí cho Quách, Lê tướng quân đến xã Vạn-thảo chờ bọn cháu!
        - Đúng thế. Quách hiện giữ chức đại tướng quân. Còn Lê giữ chức chiêu thảo sứ. Hai vợ chồng con hát thì vợ là đệ nhất danh kỹ Thăng-long. Chồng làm bác sĩ hoành-văn quan ở bộ Lễ. Cô hàng bún riêu là người nhà ta.
        Công chúa lên tiếng gọi:
        - Tường-Vi đâu!
        Một thiếu nữ từ trong nhà bước ra. Bảo-Hòa nhận ra nàng chính là cô hàng bún riêu Thanh-Trúc. Tường-Vi hành lễ với Mỹ-Linh, Bảo-Hòa:
        - Công chúa, quận chúa xơi bún riêu có ngon không?
        Mỹ-Linh hỏi:
        - Thế đám thợ săn?
        - Đều là người trong Vạn-hoa sơn trang cả. Thú cũng do trang ta nuôi. Chú hai cháu sai ta làm đó.

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.01.2005 02:32:31 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 06.01.2005 18:12:49 (permalink)
          Hồi thứ hai mươi lăm


          Hồng Hương Mật Cốc


          Đoàn người ngựa đi phải mất mấy ngày mới đến thủ phủ trấn Thanh-hóa. Tạ Sơn thấy Thanh Mai, Mỹ Linh trở về, thì mừng không bút nào tả xiết. Chàng nói với Mỹ Linh:
          - Công chúa, Quận chúa cùng Thanh muội tự nhiên mất tích làm sư huynh lo quá. Nhưng vì phận sự phải trấn ở đây không dám đi đâu. Sau thấy Công-chúa truyền lệnh gọi đạo quân Quảng-thánh đến Vạn-thảo mới biết Công-chúa bình an.
          Mỹ-Linh cảm động vì sự tận tâm của sư huynh. Nàng hỏi:
          - Sư phụ với anh Thiệu-Thái đâu rồi?
          - Sư phụ cùng Thế-tử vẫn ở trên chùa Sơn-tĩnh. Sư phụ dặn khi nào Công-chúa về, phải lên gặp người ngay.
          Vừa lúc đó có tiếng nói vọng vào:
          - Sư phụ giá lâm rồi, không cần lên chùa nữa.
          Câu nói làm Mỹ-Linh ấm lòng, nàng chạy ra gọi lớn:
          - Anh Thiệu-Thái, sư phụ đâu?
          Nàng ngừng lại, đứng lặng đi nhìn Thiệu-Thái. Hai người qua cái nhìn như ngây, như dại. Tạ Sơn liếc nhìn, đã biết cái gì xảy ra giữa cô Công-chúa sư muội cùng Thân Thiệu-Thái. Chàng lờ đi như không biết, nhắc:
          - Chúng ta mau đón sư phụ.
          Mỹ-Linh theo Tạ Sơn ra cửa. Từ ngoài sân bước vào một người mà nàng kính phục tuyệt đối, đại sư Huệ-Sinh. Mỹ-Linh chấp tay:
          - Sư-phụ, Sư-phụ vẫn thường an lạc chứ?
          Huệ-Sinh mỉm cười;
          - Mấy thàng nay sư phụ an thì có nhưng lạc thì không. Vì sư phụ có đứa đệ tử yêu nhất bị mất tích làm sao mà lạc được?
          Mỹ-Linh nắm tay sư phụ, nàng đi cạnh ông:
          - Nhất định sư phụ an lạc. Con biết. Trong thời gian xa sư phụ, con học được thuật coi tướng. Nếu sư phụ không "lạc" sao mặt lão nhân gia lại hồng hào thế này?
          Nàng nói sẽ vào tai ông:
          - Sư phụ, chú hai con đâu rồi?
          Huệ-Sinh dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai nàng:
          - Không xa chúng ta đâu. Người ẩn thân làm việc, nếu có mặt thì hỏng hết. Những việc con với Thanh-Mai, Bảo-Hòa làm, sư phụ với chú hai biết hết. Con không cần phải nhắc đến làm gì. Con nhớ nhé, Đàm Toái Trạng, Nguyễn Khánh, Đàm An-Hòa theo giặc, nhất thiết phải coi như không biết. Còn thấy An-Hòa, phải giả tảng như quên rồi. Theo ước đoán của sư phụ, nó làm bậy sợ anh nó phạt, nên dù bại lộ, cũng không dám nói ra.
          Tiết-độ sứ Đinh Ngô-Thương không biết gì về hành trạng của Khai-quốc vương, công-chúa Bình-Dương, quận-chúa Bảo-Hòa. Hôm trước ông thấy mấy người lên chùa Sơn-tĩnh rồi biệt tăm. Hôm nay lại thấy trở về. Hơn ai hết y biết Khu-mật viện giao cho Khai-quốc vương, việc phòng thủ quốc gia an như bàn thạch. Những sứ đoàn Tống qua trấn Thanh-hóa, có vẻ như khoa trương, gây hấn, phạm nhiều tội. Thế mà Khu-mật viện vẫn lờ đi. Y tuy không hiểu gì, nhưng cũng biết rằng giữa Tống với Việt đang có chiến tranh lạnh.
          Đinh Ngô-Thương cúi đầu hành lễ:
          - A-di-đà phật, Quốc sư với Công-chúa giá lâm thật vạn hạnh cho tiểu tướng.
          Mỹ-Linh biết sư phụ mình không muốn phiền phức người khác. Nàng nói:
          - Đinh tiết-độ sứ làm ơn kiếm cho sư phụ tôi một căn phòng yên tĩnh. Hôm nay chúng tôi xin ăn chay với sư phụ.
          Đinh Ngô-Thương vâng dạ, đưa Huệ-Sinh tới căn gác bằng gỗ thông thơm ngát, nói:
          - Bạch Quốc sư, đệ tử làm căn gác này bên trong có bàn thờ Phật để tối tối tụng kinh, hành thiền. Kính mời Quốc-sư an nghỉ.
          Đinh Ngô-Thương mở cửa căn gác, ông chỉ vào cái chuông nhỏ:
          - Khi Quốc-sư cần gì cứ rung chuông, sẽ có tiểu đồng lên hầu.
          Nói xong ông xuống lầu.
          Mỹ-Linh nhớ lại một lần nàng thuật lại cho Hồng-Sơn đại phu nghe rằng, Huệ-Sinh hiện ở chùa Sơn-tĩnh. Ông tỏ ý lo lắng: Coi chừng thằng sư ăn thịt chó Nguyên-Hạnh, hại thì đi đời.
          Nàng hỏi:
          - Trong thời gian qua sư phụ với anh Thiệu-Thái ở Sơn-tĩnh có thấy gì lạ không?
          - Vẫn thế, không thay đổi gì cả. Có điều sau hôm con đi được mấy ngày, thì không thấy cặp chim ưng đến đậu ở trên cây đa trước chùa nữa. Một điều sư phụ không được vui lòng, bởi Thái-sư thúc hết hạn tọa thiền, mà người cũng không chịu tiếp ta. Ta cũng không dám nài ép.
          Nói rồi ông nhắm mắt lại, nhập thiền. Mỹ-Linh vẫy Thiệu-Thái xuống lầu. Nàng đem lời Hồng-Sơn đại phu nói về Nguyên-Hạnh ra hỏi. Thiệu-Thái gật đầu:
          - Theo Quốc-sư, thì Nguyên-Hạnh đại sư võ công cùng thiền học cao thâm không lường. Một điều anh không hiểu, tại sao đại sư tu luyện lâu năm như vậy mà sắc diện giống như người dâm đãng, trác táng vậy. Anh đem ý kiến hỏi Quốc-sư, người chỉ cười mà thôi.
          Hai người vừa đi, vừa nói chuyện, nhìn trước, nhìn sau thấy không có ai, Mỹ-Linh nói nhỏ:
          - Chúng mình phải lên chùa Sơn-tĩnh dò thám xem sao mới được. Em thấy trong chùa có nhiều bí mật lắm mà không thể đóan ra. Nếu trong khi dọ thám bị phát giác, anh cứ nói em với Bảo-Hòa có tính ngỗ nghịch, thấy qui luật chùa không cho con gái ở lại, sinh bực mình đột nhập vào, chứng tỏ không tuân quy luật. Như vậy bất quá họ mách chú Hai là cùng. Chú Hai có phạt, em chịu hết cho.
          Thiệu-Thái vầy Thanh-Mai, Bảo-Hòa lại gần, rồi nói:
          - Trước sân chùa có cái hồ thiên nhiên, nước từ trên núi chui theo mạch đổ vào, rồi lại thấm xuống đáy hồ, tạo thành nguồn ngấm xuyên xuống núi. Khi khám phá ra đôi chim của ai đó dò thám chùa, đêm đêm anh thường nhìn động tĩnh của chúng. Một lần thấy chúng bay lượn khác thường, anh ra sân xem, bỗng thấy đại sư Nguyên-Hạnh xuống hồ, rồi lặn mất. Anh tò mò ngồi rình xem ông ta làm gì. Song chờ đến sáng, không thấy ông lên. Anh những tưởng ông chết ngộp, định nói với Quốc-sư. Không ngờ khi vào phòng Quốc-sư, anh thấy ông đang nói chuyện với người.
          Nghe Thiệu-Thái thuật, Mỹ-Linh nghi ngờ:
          - Như vậy dưới đáy hồ có ngách thông với mặt đất. Nguyên-Hạnh đại sư theo lối này mà lên.
          Thiệu-Thái thấy cách nhau mới có mấy tháng mà Mỹ-Linh khôn ngoan hơn trước nhiều. Chàng đáp:
          - Ừ, chúng ta rủ thêm Thanh-Mai, Bảo-Hòa cùng đi cho vui.
          Đợi đêm xuống bốn người lén lấy ngựa, âm thầm hướng núi Sơn-tĩnh. Theo kế hoạch đã định, họ dấu ngựa, rồi theo đường rừng vào chùa, chứ không đi lối cổng. Bảo-Hòa phân công:
          - Bây giờ em với Thanh-Mai đột nhập vào chùa theo ngả vườn hoa tới bờ hồ. Quan sát một lúc không có gì lạ, em sẽ giả tiếng dế kêu. Anh với Mỹ-Linh theo ngả vườn rau đến hồ. Nội trong chúng ta đây Mỹ-Linh học được nội công Long-biên, thành công bậc nhất. Anh với Mỹ-Linh lặn xuống đáy hồ do thám. Nếu có ngách thì theo đó mà đi. Còn không có nghách sẽ trồi lên.
          Bảo-Hòa, Thanh-Mai vọt mình qua tường dễ dàng. Họ men theo các luống tới bờ hồ nấp vào bụi Thủy-tiên.
          Trăng mồng mười không lấy gì sáng cho lắm. Tuy vậy họ cũng nhìn rõ cảnh vật chung quanh. Chợt Bảo-Hòa chỉ lên trời. Thanh-Mai nhìn theo đôi chim ưng đang bay lượn, thỉnh thoảng lại đâm bổ xuống nhà bếp. Bảo-Hòa dùng Lăng-không truyền ngữ nói với Thanh-Mai:
          - Hai con ưng này của Khu mật viện sai đi theo chúng mình đấy. Cậu hai ghê thật. Chúng mình trốn đi âm thầm, mà cậu cũng biết, sai chim ưng theo tuần phòng. Mình có thể dùng chúng liên lạc với nhau.
          Hai người mặc quần áo đen, từ khu nhà bếp men theo các bụi hoa đi tới. Họ nhìn trước, nhìn sau không có ai, rồi tụt xuống hồ lặn mất.
          Thanh-Mai kinh ngạc:
          - Hai người này dường như quen biết nơi đây lắm rồi thì phải. Họ đến nơi lập tức nhào xuống liền.
          Thanh-Mai lấy cọng cỏ, cầm trên tay, rồi dùng môi hấp khí, có tiếng kêu hơi giống tiếng dế. Lập tức Mỹ-Linh, Thiệu-Thái từ bụi cây chạy tới. Bảo-Hòa nói sẽ:
          - Có hai người vừa xuống trước. Anh với Mỹ-Linh, cứ ngồi chờ đã.
          Khoảng nhai dập miếng trầu, hai người kia trồi lên mặt nước, rồi chạy vào khu nhà bếp. Bảo-Hòa, Thanh-Mai ra hiệu cho Mỹ-Linh, Thiệu-Thái. Hai người xuống hồ rồi lặn xuống đáy.
          Mỹ-Linh lặn xuống sâu. Không khó nhọc, nàng thấy nguồn nước chảy vào không mạnh lắm. Nàng kéo Thiệu-Thái theo nguồn suối lặn vào trong theo giòng. Lặn được khoảng hơn hai chục bước, nguồn suối nhỏ dần lại, cuối cùng chỉ còn vừa một người qua. Nàng trồi lên thở, đưa tay khua tìm kiếm, không thấy có vật gì. Nàng nói với Thiệu-Thái:
          - Thì ra trong này là động trống.
          Sờ một lúc thấy có nhiều bậc đi trở lên, Mỹ-Linh nói sẽ:
          - Mình theo bậc đá lên xem là cái gì?
          Thiệu-Thái đã chuẩn bị từ trước. Chàng móc bọc vải dầu ra lấy đá lửa đánh lên, châm vào bổi. Ánh lửa sáng lòa. Mỹ-Linh suýt bật lên tiếng kêu. Thì ra hai người đang ở trong động thạch nhũ. Ánh đuốc chiếu vào thạch nhũ tỏa ra những tia sáng lóng lánh đủ màu, đẹp không bút nào tả xiết.. Những thạch nhũ có hình giống người, có hình giống cây nến đốt cháy một nữa, có cái giống cây măng, cũng có cái giống hoa, lá...thực muôn vàn hình ảnh mầu sắc.
          Thiệu-Thái đã ở Bắc-biên lâu, chàng từng được xem không biết bao nhiêu hang động đẹp hơn thế nhiều. Còn Mỹ-Linh đây là lần đầu tiên nàng được thấy thạch nhũ đẹp như vậy.
          Hang khá rộng. Hai anh em cứ men theo bậc đá mà đi. Được khoảng ba chục bước, có khúc quẹo sang trái, đường càng đi ngược lên cao hơn nữa. Chợt Thiệu-Thái thấy tay buốt, rát vô cùng. chàng nhìn tay, cây bổi đã cháy hết. Chàng liệng phần còn lại. Lửa tắt. Chàng định lấy bổi khác ra đốt. Chợt Mỹ-Linh chỉ về phía trước có ánh sáng lờ mờ. thiệu-Thái nói nhỏ::
          - Chúng ta tới cửa hang rồi. Phía trước kia là rừng núi, ánh trăng chiếu vào đấy. Tuy vậy, phải lấy khăn bịt mặt lại, để ai trông thấy không nhận ra được anh em mình.
          Chàng lần mò đi trước, Mỹ-Linh theo sau. Hai người ra khỏi hang, gió núi thổi mát rượi. Ánh trăng mông lung chiếu xuống. Mỹ-Linh nhận ra nàng vời Thiệu-Thái đang đứng trước một sườn núi. Thiệu-Thái nhìn phương hướng nói nhỏ:
          - Như vậy chúng ta xuyên qua lòng hòn núi đá phía Tây chùa. Đã sang bên kia ngọn núi. Thì ra dưới đáy hồ có nguồn suối trên núi ngầm, chảy vào hồ. Lên phía trên có hang động thạch nhũ thiên nhiên thông qua đỉnh. Không biết bên này có những gì?
          Nhìn lên trời thấy đôi chim ưng đang bay lượn. Chàng hú một tiếng, gọi nó xuống. Hai con chim ưng nghe tiếng hú, đáp xuống cạnh Mỹ-Linh. Thiệu-Thái nhặt viên đá đỏ, viết lên chiếc khăn mấy chữ khoa-đẩu.
          Đáy hồ là suối ngầm. Có thạch động xuyên qua núi. Chúng ta đã sang bên Tây núi an toàn. Đừng lo lắng gì.
          Chàng buộc khăn vào chân chim, rồi ra lệnh cho chúng bay đi.. Mỹ-Linh chỉ xuống phía sườn núi không cách xa hai người bao nhiêu. Thiệu-Thái nhìn theo ở đó có ánh đèn leo lét cháy ra. Thiệu-Thái vẫy Mỹ-Linh, hai anh em lầm lũi đi lần mò dần đến chỗ phát ra ánh sáng. Tới gần, Thiệu-Thái nhận ra đó là một ngôi nhà khá lớn. Xung quanh nhà trồng nhiều hoa Móng-rồng, Thiên-lý, Dạ-hương. Dây hoa leo chằng chịt lên tường, lên mái bốc hương thơm ngào ngạt.
          Một con chó nghe tiếng chân người, nó đứng dậy định sủa. Thiệu-Thái cho tay vào miệng, phát ra những tiếng gầm gừ giống hệt chó.
          Mỹ-Linh nhớ một lần Bảo-Hòa cho nàng biết, các đệ tử Tây-vu đều học tiếng nói của thú vật. Đây chắc Thiệu-Thái đang nói tiếng "chó". Quả nhiên con chó chạy ra vẫy đuôi. Thiệu-Thái để tay lên đầu nó vỗ mấy cái. Nó trở về chỗ cũ, ngồi xuống. Chàng cùng Mỹ-Linh vượt qua hàng rào, vào trong sân. Ngôi nhà bằng gỗ khá lớn. Trong nhà đèn chiếu sáng rực. Nhưng sở dĩ ở xa không thấy, vì các cửa đều có màn dầy che kín. trong nhà có nhiều tiếng người nói vọng ra. Hai người ẩn thân vào bụi hoa Dạ-hương ghé mắt nhìn. Bất giác Mỹ-Linh nổi gai ốc khắp mình.
          Trong căn phòng rộng, đèn nến như sao sa. Ở giữa kê một cái bàn dài. Trên bàn chưng bốn bình hoa. Cử tọa gồm hai mươi mốt người. Nàng nhận ra được bọn Triệu Thành tám người. Còn lại nàng biết mặt Nguyên-Hạnh, Đàm Toái-Trạng, Đàm An-Hòa, Nguyễn Khánh. Triệu Thành ngồi ở vị thế cao nhất, kế đó tới Nguyên-Hạnh, Đông-Sơn lão nhân. Đầu phòng có có chiếc bàn cao nhỏ, trên bày hương án, khói bốc nghi ngút.
          Đông-Sơn lão nhân hướng về Nguyên-Hạnh:
          - Đại sư, cuộc họp này do đại sư đảm trách phần canh phòng. Không biết biện pháp an ninh thế nào. Vì Khu mật viện Giao-chỉ bây giờ nằm trong tay Lý Long-Bồ, chỗ nào y cũng có tai mắt cả.
          Nguyên-Hạnh cười nhe hàm răng gồ ghề ra:
          - Tiền bối cứ an tâm từ dưới núi lên đây chỉ có một đường. Đường đó có đạo quân Ngự-long của tướng quân Nguyễn Khánh đây trấn đóng rồi. Đường lên đây là đường độc đạo, bần tăng đã đặt tới 8 vọng canh của Hồng-hương thiếu niên, dù cho con chim cũng không bay lọt vào được. Huống hồ xung quanh ngôi nhà còn có đàn chó mười con.
          Vương Duy-Chính đướng lên hướng vào cử tọa:
          - Ty chức Vương Duy-Chính, hiện giữ chức Chuyển vận sứ lộ Quảng-tây nhà Đại-Tống. Các vị hội nhau ở đây mà nhiều vị chưa biết nhau. Ty chức xin giới thiệu từng phái đoàn một.
          Y vẫy tay, một thiếu nữ nhan sắc xinh đẹp từ trong bước ra, tay bưng một cái khay. Trên sáng chói ngọc ngà vàng bạc và có cuộn giấy. Mỹ-Linh kinh ngạc vô cùng vì chân cô gái đeo xích. Mỗi bước chân cô đi, có tiếng kêu loảng xoảng. Nàng đến trước Triệu Thành quỳ xuống. Triệu Thành để mâm châu báu trước mặt. Một người da ngăm đen, tuổi khoảng bốn mươi, đứng lên hướng Triệu Thành vái bốn vái.
          - Biên thần Nam-man kính dâng Thiên-sứ chút ít châu ngọc để làm lộ phí.
          Vương Duy-Chính chỉ người ấy:
          - Vị này là Chế Ma Thanh hoàng đệ Chiêm-quốc. Vị ngồi phía trái Chế vương gia là Đại tướng Chiêm-quốc tên là Ngô Đà. Người ngồi bên phải Chế vương gia là Vương-phi My-Thu. Hôm nay Chế vương cùng Vương-phi tới đây nhận sắc phong của thiên-triều.
          Chế Ma Thanh cùng vợ, Ngô Đà bước ra khỏi chỗ ngồi, quỳ xuống hướng mặt về phương Bắc, rập đầu xuống đất.
          - Thần Chế Ma Thanh kính cẩn tiếp chỉ:
          Vương Duy-Chính mở trục giấy đọc:
          - Thừa thiên hưng vận, Thiên-Thánh hoàng đế sắc phong cho biên thần Nam phương Chế Ma Thanh chức tước như sau :
          "Kiểm hiệu thái-sư, Tĩnh-hải tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, suy thành thuận hóa công thần. Chiêm thành quận vương, thực ấp vạn hộ, thực phong ngũ thiên hộ."
          Phong vợ là My-Thu làm Khâm-linh vương phi. Phong cho Ngô Đà làm Nội điện chỉ huy sứ, tước Ma-linh hầu, thực ấp nhị thiên hộ. Thực phong nhất thiên hộ.
          Ba người dập đầu lạy tạ rồi về chỗ ngồi.
          Vương Duy-Chính chỉ vào người ngồi kế bọn Chế Ma Thanh.
          - Vị này là hoàng thúc Phủ Vạn, cùng Vương phi Nang Chay của Lão-qua, cũng sang đây nhận sắc phong.
          Vợ chồng Phủ Vạn đến trước long án quỳ xuống rập đầu xuống đất:
          - Thần Phủ Vạn kính cẩn tiếp chỉ.
          Vương Duy-Chính cầm trục giấy đọc:
          Thừa thiên hưng vận, Thiên-Thánh hoàng đế, sắc phong cho biên thần Nam phươnglà Phủ Vạn chức tước như sau: Thái tử thái bảo, phó đô nguyên soái, nam phương trung thành, tĩnh lự công thần, Lão-qua quận vương. Phong vợ là Nang Chay làm An-tĩnh quận chúa.
          Phủ Vạn cùng vợ lạy tạ rồi về chỗ ngồi.
          Vương Duy-Chính chỉ vào Đàm Toái-Trạng:
          - Vị này là Đàm Toái-Trạng, hiện lĩnh chức Tuyên-vũ sứ trấn Thanh-hóa của Lý Công-Uẩn. Đã được thiên triều phong cho chức Tiết độ sứ, tước Cửu-chân hầu. Người ngồi kế bên là Nguyễn Khánh giữ chức Thiên tướng tổng quản đạo quân Ngự-long đã được Thiên-triều phong làm Tuyên-vũ sứ tước Nga-sơn bá. Còn vị này là Đàm An-Hòa hiện giữ chức hiệu-úy đã có nhiều công lao với thiên triều, được phong chức Chiêu-thào sứ.
          Vương đưa mắt nhìn Nguyên-Hạnh rồi tiếp:
          - Vị này là Nguyên-Hạnh đại sư hiện là trị sự trưởng chùa Sơn-tĩnh, đã được phong làm Thông-huyền bồ tát lĩnh ấn Quốc sư Giao-chỉ kiêm phương trượng chùa Tiêu-sơn. Người ngồi kế bên quốc sư là quốc sư phu nhân nhũ danh Cao Thạch Phụng tước phong Túc-không Quan-âm. Người ngồi kế bên Quan-âm là Mễ Sĩ được phong là Thái-câu sứ giả.
          Minh-Thiên hướng Nguyên-Hạnh chắp tay:
          - Đại sư, tiểu tăng muốn hỏi thăm tin tức một người trong quý tự. Mong đại sư giúp cho.
          - A-di-đà-phật, Quốc sư muốn biết tin tức ai?
          - Một vị cao tăng thướng được gọi là Bố-Đại hòa thượng. Trước đây người đã sang Trung-quốc hoằng dương đạo pháp. Tiểu tăng có cơ duyên được người chỉ bảo cho rất nhiều.
          Mặt Nguyên-Hạnh hơi cau lại rồi lắc đầu:
          - Vị đó là sư phụ của tiểu tăng. Người bỏ đi biệt tăm đã hơn mười năm. Không chừng người viên tịch rồi cũng nên.
          Cuối cùng Vương Duy-Chính giới thiệu bọn y Từ Triệu Thành cho đến Địch Thanh là người nhò tuổi nhất. Triệu Thành đưa mắt nhìn mọi người một lượt rồi nói:
          - Cô gia được Thiên-Thánh thiên tử giao cho trọng quyền, với chỉ dụ làm sao cho nước giàu dân mạnh. Thời tiên hoàng phong cho cô-gia làm Yên-vương, ý người muốn ủy thác việc Bắc-phương. Bắc phương co Liêu, Kim, Tây-hạ cô-gia an bày coi như tạm xong. Đến Thiên-thánh hoàng đế, người muốn chỉnh đốn lại các nước phương Nam. Vì vậy cải phong cô-gia làm Bình-nam vương thống lĩnh Khu-mật viện.
          Triệu Thành chỉ lên tấm bản đồ:
          - Đầu tiên cô-gia cử những trọng thần văn võ toàn tài trấn nhậm các lộ Quàng-đông, Quảng-tây. Bây giờ hai lộ đó giàu có súc tích, binh khí hùng tráng. Cô-gia phải chỉnh đốn lại Giao-chỉ, Chiêm-thành, Lão-qua, Đại-lý. Về Giao-chỉ, trước đây Lý Công-Uẩn nhân lúc vua Lê Ngọa-triều gây nhiều tội ác băng hà. Y liên kết cùng Thân Thiệu Anh, Đào Cam-Mộc cướp ngôi. Các thân vương nhà Lê phiêu bạt khắp nơi. Thiên-triều vốn trọng Nho học, thương bầy tôi nhà Lê cũ vốn trung thành bao năm, muốn tìm con cháu lập lại chính thống. Nhưng hơn mười năm qua tìm không thấy. Mới đây....
          Y ngừng lại tỏ vẻ vui mừng, tiếp:
          - Trời không phụ nhà Lê. Cô-gia tìm thấy Nam-quốc vương Lê Long-Mang hiện ẩn cư tại trấn này. Tự quân thiên-triều hiện là một nhân vật lẫy lừng, phúc trạch trải khắp thiên hạ, võ công vô địch Lĩnh-nam.
          Y ngừng lại đưa mắt nhìn cử tọa để theo dõi, cũng để cho cử tọa thắc mắc về Lê Long-Mang, rồi mới tiếp:
          - Người đó là Hồng-Sơn đại phu.
          Tất cả mọi người đều bật lên tiếng "Ái chà", "Ấy...a".
          Triệu Thành tiếp:
          - Cô-gia tìm đến Vạn-thảo sơn trang thì được biết Nam-quốc vương ẩn cư, nuốt hận, nếm sương, nằm gai nếm mật, chiêu mộ dạy hơn ba ngàn đệ tử văn võ kiêm toàn. Đoàn đệ tử ấy đi khắp nơi cứu nhân độ thế, gây cảm tình suốt cả Hoa-Việt. Nam quốc vương chỉ còn chờ ngày khởi binh. Cô-gia gặp Nam quốc vương bèn tỏ ý tái lập chính thống. Quốc vương mừng lắm.
          Triệu Thành liếc nhìn Chế Ma Thanh:
          - Cô-gia sang Chiêm-thành, đi đến đâu cũng thấy dân chúng ca tụng công đức hoàng đệ Chế Ma Thanh. Họ ước ao nếu hoàng đệ lên làm vua thì họ sung sướng biết bao. Họ chê quốc vương Chế Ma Huy ngu như lợn, không có ân đức gì cả.
          Sự thực thì khi Chế Ma Báo (Rudravarman) thân phụ Chế Ma Thanh còn tại vị. Ông cùng hoàng hậu sinh ra người con trưởng tên Chế Ma Huy. Ông cực kỳ sủng ái người thiếp tên Mỹ- Hương. Mỹ-Hương sinh ra Chế Ma Thanh. Khi ông băng hắ triều đình định lập Chế Ma Thanh kế vị. Nhưng Mỹ-Hương không chịu lên dàn hỏa cùng quốc vương. Vì vậy triều đình truất phế mẹ con y. Lập Chế Ma Huy lên thay tức 'Rutdravarman II). Võ công Ma Huy bình thường, song là ông vua nhân đức. Trong khi đó Chế Ma Thanh võ công cao cường, thường đi lại liên kết với Đại-việt, Chân-lạp định cướp ngôi anh.
          Vừa lúc đó Triệu thành tới Chiêm. Y dò ra manh mối, bèn khích Chế Ma Thanh cướp ngôi anh. Chế Ma Thanh mừng như bắt được vàng. Nhưng khi nghe Triệu Thành nói dối dân chúng ca tụng công đức y, thì y đỏ mặt lên. Vì ngoài bản lãnh ăn chơi bắt gái nhà lành về hiếp, y chẳng còn đức gì.
          Triệu Thành cười:
          - Chế vương gia! Tôi sang Chiêm, được nghe con gái Chiêm thường hát khúc hát, mà người ta nói rằng trong đó có nội dung ca tụng công đức vương gia. Tôi không hiểu tiếng Chiêm, mong vương gia dịch cho.
          Y vẫy tay. trong nhà có ba thiếu nữ, trang phục theo lối Chiêm-thành bước ra cúi đầu chào rồi vừa múa, vừa hát. bài hát âm thanh nhẹ nhàng, dìu dặt, thê thảm. Bài hát ngụ ý ca tụng hoàng đệ Chế Ma Thanh là người nhân đức, võ công cao cường. Khắp nước Chiêm, thiếu nữ nào nghe đến tên cũng dành cho mối nhu tình.
          Sự thực làm gì có bài ca đó? Chẳng qua Triệu Thành sai Vương Duy-Chính làm bài ca bằng tiếng Hán, rồi sai người Chiêm dịch ra, tập cho ba thiếu nữ này múa hát, hầu gây quyết tâm cho Chế Ma Thanh.
          Nghe xong bài ca, đang từ một tên tham dâm ác độc, bỗng thấy mình thành ông thần giáng thế, nhân đức trải khắp non sông.
          Triệu Thành tiếp:
          - Cô-gia quyết định lập Chế Ma Thanh lên làm Chiêm quốc quận vương. Còn bên Lão-qua, ấu quân là một đứa trẻ tàn tật thì còn gì là thể thống nữa? Phụ chính đại thần lại thông dâm với Thái-hậu. Vì vậy cô-gia quyết định lập hoàng thúc Lão-qua lên làm Lão-qua quận vương.
          Triệu Thành hỏi Dư Tĩnh:
          - Dư kinh lược sứ, bây giờ chúng ta phải làm gì?
          Dư Tĩnh đứng dậy, kính cẩn vái chào cử tọa:
          - Khải tấu vương gia, chuyện ba nước không thể làm một lúc. Phải chia làm ba đoạn. Quốc-vương Chiêm-thành, Lão-qua hiện giờ đều quy phục Lý Công-Uẩn. Binh lực của Uẩn cực kỳ hùng mạnh, lương thực, quốc dụng giàu có vô cùng. Chúng ta phải tính việc Lão-qua trước. Đầu tiên Đàm tiết-độ sứ phúc trình về triều Lý rằng có nhiều trộm cướp ở biên giới Lào-Việt, rồi đem quân tuần du biên cương. Thái-hậu Lão-qua thấy binh Việt ở biên giới tất sai tướng đem hùng binh tuần phòng. Lực lượng tại Vạn-tượng không còn. Quốc sư Nguyên-Hạnh gửi sang giúp Lão-qua mấy cao thủ cùng vài đội Hồng-hương thiếu niên, đặt dưới quyền điều khiển của Phủ vương gia. Phủ vương gia bất thần đột nhập hoàng thành giết chết Thái-hậu cùng tiểu quốc vương, rồi đổ cho thích khách. bấy giờ triều đình bắt buộc phải tôn Phủ vương gia lên kế vị. Khi lên kế vị, Vương-gia sai sứ sang cống Thiên-triều. Thế là xong.
          Phủ-Vạn hỏi:
          - Thưa Vương-gia nếu tiểu vương bỏ Việt, sang quy phục Tống, ất Lý Công-Uẩn đem quân sang đánh. Sợ thần không chống nổi.
          Dư Tĩnh vẫy tay cho Phủ Vạn ngồi xuống:
          - Vương-gia đừng sợ, khi chính biến bên Lão-qua diễn ra, thì hai lộ Quảng chúng tôi đem quân tới biên giới Hoa-Việt. Lý Công-Uẩn sợ té đái, vãi phân ra, đâu còn giám đánh Vương-gia nữa. Khi sứ sang Biện-kinh tiến cống, thì triều đình ban sắc phong cho Vương-gia, tức nhận Vương-gia là con của Thiên-tử. Tổ bảo Công-Uẩn cũng không giám đánh Vương-gia.
          Mọi người nghe Dư Tĩnh hiến kế đều gật đầu tán thành. Dư Tĩnh nhìn Chế Ma Thanh:
          - Chế vương gia hiện đang cầm một phần binh lực trấn đóng phía Nam Chiêm quốc phải không? Xin Nguyên-Hạnh quốc sư gửi sang cho Vương gia mấy cao thủ làm tướng. Sau khi việc Lão-qua yên. Đàm tiết-độ sứ đem quân tuần du biên giới. Chế Ma Huy ắt đem quân lên phía Bắc đề phòng, trong khi quân qua kinh đô, thình lình Vương-gia đem quân chiếm Chà-bàn, chỉ cần đánh một tiếng trống chiếm được kinh thành. Khi chiếm được Chà-bàn rồi, Vương-gia sai sứ vượt biển sang cống Thiên-triều nhận sắc phong. thế là Lý Công-Uẩn mất chân tay phía Nam.
          Dư Tĩnh cầm chung trà uống một hớp rồi tiếp:
          - Khó nhất là 207 khê động phía Bắc Giao-chỉ. tất cả trang chủ, động chủ đều con gái Lý Công-Uẩn lên làm vua Bà. Thiên-triều dùng trăm phương ngàn kế để phân tán mà không thành. Mãi gần đây mới tìm ra hai động muốn chống Lý. Người thứ nhất là họ Lưu ở châu Quảng-nguyên.Người thứ hai ở châu Thái-nguyên họ Nùng. Chúng tôi đã có kế hoạch xui cho họ Nùng tạo phản. Khi họ Nùng khởi binh. Bấy giờ chúng ta tính tới Giao-chỉ.
          Dư Tĩnh tiếp:
          - Đợi khi họ Nùng phản, Lý Công-Uẩn tất đem quân lên đánh. Hai hổ tranh nhau tất một hổ chết, một hổ bị thương. Hổ chết tất họ Nùng. Bấy giờ Thiên-triều cho binh từ hai lộ Quảng đến biên giới phía Bắc. Cho thủy quân Mân-Triết đổ vào bờ biển. Phía Tây binh Lão-qua kéo sang. Phía Nam binh Chiêm thành đánh về. Tứ diện thụ địch. Bấy giờ trong nước Hồng-Sơn đại phu cùng quốc sư Nguyên-Hạnh cho hai đạo đệ tử Hồng hương và Vạn-thảo kéo cờ trung hưng nhà Lê, diệt kẻ thoán đạtø Lý Công-Uẩn.
          Ngoài này Mỹ-Linh nghe Dư Tĩnh hoạch đinh kế sách, nàng than thầm:
          - Hỏng bét, bọn Tống âm mưu ghê thật. Không biết ông nội với chú hai sẽ đối phó ra sao?
          Nguyên-Hạnh truyền bày tiệc rượu. Y vẫy tay một cái, có mười thiếu nữ quần áo màu hồng từ trong nhà, hai tay bưng những khay đựng thức ăn bày ra. Y cầm bình rượu rót vào từng chung :
          - Thưa quý vị. Chẳng mấy khi Sơn-tĩnh được đón tiếp các đại quý khách, mai đây đều lên ngôi vua. Bản Sơn kính mời quý vị dùng chút ít thổ sản lấy thảo. Đây là rượu nếp cẩm. Nếp cẩm nấu thành rượu chứa vào hũ, đem bỏ xuống đáy hồ. Nếp cẩm bổ huyết cực kỳ mạnh, vốn thuộc "âm". Khi làm rượu có men vào. Men là dương. Hóa ra âm dương hòa hợp. Rượu lại ngâm dưới đáy hồ mười năm qua, thấm khí âm, dương, trời, đất, sơn, tuyền uống vào sẽ tăng tiến sức khỏe, trường sinh bất lão.
          Dư Tĩnh tiếp chung rượu từ tay Nguyên-Hạnh, y nói lớn:
          - Chúng tôi đang hợp nhau uống rượu, quý khách đến xin mời cùng uống chung này lấy thảo.
          Nói rồi y liệng chung rượu về phía Mỹ-Linh. Kình lực mạnh không thể tưởng được. Mỹ-Linh rút kiếm quay một vòng để giải kình lực, rồi nàng đánh xéo một chưởng. Chung rượu đổi chiều bay về phía Nguyên-Hạnh. Nguyên-Hạnh phất tay một cái chung rượu hướng về phía Địch Thanh. Địch Thanh quay tay một vòng đẩy nhẹ một chưởng. Chung rượu lại bay về phía Mỹ-Linh. Nhưng chung rượu chưa đổi chiều, Mỹ-Linh đã phóng một Lĩnh-nam chỉ. Bốp, chung rượu vỡ tan tành.
          Nàng vừa thu tay về, thì bốn bên đã bị hơn hai chục người bao vây. Hồng-hương thiếu niên đốt đuốc sáng rực. Nguyên-Hạnh thấy một cặp nam nữ thiếu niên bịt mặt, quần áo ướt nhèm, ung dung đối diện với các cao thủ. Y không tin một trong hai người này có thể đủ sức làm đổi hướng lực đạo chung rượu của Dư Tĩnh. Sau đó còn phát ra chỉ lực đánh bể chung. Y đưa mắt nhìn trước, nhìn sau muốn tìm ra kẻ phát lực. Y hỏi:
          - Các người là ai?
          Mỹ-Linh cười nhạt:
          - Ta là con dân Đại-Việt đi bắt gian.
          Mỹ-Linh lên tiếng, Triệu Anh, Triệu Huy thấy rất quen. Nhưng nàng bịt mặt, quần áo bị ướt, bọn y chưa đoán ra. Nguyên-Hạnh tự thị là đệ nhất cao nhân đương thời, không muốn bắt nạt trẻ con. Y bảo Đàm An-Hòa:
          - Xin Chiêu-thảo sứ bắt hai đứa này bỏ khăn che mặt ra. Đàm An-Hòa tiến tới gần Mỹ-Linh, y đưa tay chụp vai nàng. Mỹ-Linh rút kiếm ra, mọi người lóe mắt ánh thép thoáng qua. Đám An-Hòa thấy đầu mát rượi. Y vội lui về đưa tay lên sờ. Tóc y rơi xuống lả tả. Những người hiện diện chỉ có Nguyên-Hạnh, Đông-Sơn, Minh-Thiên, Dư Tĩnh, Địch Thanh, Vương Duy-Chính là nhìn rõ nàng rút kiếm, đưa một nát cạo trọc đầu Đàm An-Hòa rồi cho kiếm vào vỏ. Có điều nàng xuất chiêu nhanh quá, khiến Đàm phản ứng không kịp.
          Ai cũng kinh hoàng, tự hỏi:
          - Nếu mình là Đàm An-Hòa liệu có tránh được chiêu kiếm kia không? Người con gái này ra chiêu mình nhìn rõ ràng, nhưng chưa kịp suy nghĩ, chưa kịp phản ừng, nàng đã xuất xong, làm sao tránh cho được?
          Nguyên-Hạnh đã từng trải qua bao nhiêu năm kinh lịch, y nhận ra chiêu kiếm của Mỹ-Linh mang tên Phong quá sơn đầu của phái Mê-linh. Y nghĩ:
          - Chiêu kiếm này không có gì là lạ lùng, huyền ảo cả, nhưng kỳ diệu ở chỗ xuất thủ thôi. Ta thấy chưởng môn phái Mê-linh Tịnh-Tuệ xuất chiêu này nhiều lần, nhưng đâu có mau như vậy.
          Nguyên-Hạnh quay lại gọi vợ:
          - Túc-không hãy lĩnh giáo mấy chiêu kiếm của cô nương đây xem nào?
          Từ bao năm nay Nguyên-Hạnh vẫn trong lớp áo của một đại hòa thượng đắc đạo. Một đại tôn sư võ học, nhưng trong bóng tối, y lấy nữ đệ tử tên Cao Thach-Phụng làm vợ. Thạch-Phụng cũng có văn học. bản lĩnh võ học của mụ cũng vào loại cao thủ hiếm có. Khi tắt lửa tối đèn, y thị làm vợ của Nguyên-Hạnh, trước mặt mọi người, thị vẫn phải đóng vai đệ tử. Trong thâm tâm mụ, mụ uất ức vô cùng. Rõ ràng mình có chồng, chồng có địa vị cao, mà không được hưởng cái danh dự gái có chồng.
          Triệu Thành biết được việc đó. Y dùng vàng bạc mua chuộc Thạch Phụng. Y thuyết Thạch-Phụng nên theo chồng mà bỏ Lý theo Tống, vợ chồng đều được hưởng sắc phong. Khi triều Lê tái lập, tân hoàng đế phong cho Nguyên-Hạnh làm quốc sư, phong cho Thạch-Phụng làm phu nhân, lập ra một kỷ nguyên mới cho phép tăng ni được lấy vợ, lấy chồng. Đức Thích-ca Mâu-ni xưa chẳng đã có vợ, có con rồi mới đi tu đó sao?
          Quả nhiên Thạch-Phụng nghe theo. Y thị không cần chồng đồng ý hay không, cứ quyết định bướng. Quả nhiên Nguyên-Hạnh phải nghe vợ. Triệu Thành cao tay hơn, trong chiếu chỉ phong chức tước cho Nguyên-Hạnh, y phong cho Thạch-Phụng làm Túc-không quan âm. Tức coi Thạch-Phụng như vợ chính thức của Nguyên-Hạnh. Sắc chỉ ban ra, Thạch-Phụng mở cờ trong lòng, từ nay đệ tử của Nguyên-Hạnh phải gọi y thị bằng sư mẫu, chứ không được cá mè một lứa.
          Nguyên-Hạnh không biết điều đó, y vô tình vẫn coi Thạch-Phụng là đệ tử, sai y thị đấu với Mỹ-Linh. Thạch-Phụng bực mình lắm, y thị hứ một tiếng tỏ vẻ bất mãn, nhưng thị cũng rút kiếm ra đối diện với Mỹ-Linh. Thị nói:
          - Tiểu cô nương, người ra chiêu trước đi.
          Mỹ-Linh biết Thạch-Phụng học kiếm với Nguyên-Hạnh chắc y thị xử dụng kiếm pháp Tiêu-sơn. Mà kiếm pháp Tiêu-sơn do Trần Tự-Viễn chế ra, rất hiểm độc, dùng kiếm khí hơn kiếm chiêu. Nếu nàng đấu nội lực với y thị, hóa ra lấy sở đoản đấu nhau với sở trường. Vì vậy nàng cần lấy mau thắng chậm.
          Chỉ thấy tháp thoáng một cái, có tiếng kêu ái chà rồi tiếng choang lớn vang lên. Thạch-Phụng ôm tay nhảy lui lại, máu ra đầm đìa. Trong khi đó, Mỹ-Linh tra kiếm vào vỏ đến cạch một tiếng.
          Nguyên-Hạnh nhìn rõ Mỹ-Linh lao tới, tay rút kiếm xỉa một nhát. Nhưng nàng xử dụng thần tốc quá, Thạch-Phụng không phản ứng kịp. Thạch-Phụng đưa tay để một thiếu niên Hồng-hương băng cho. Y thị nhặt kiếm, nói:
          - Cô nương, chiêu vừa rồi ta không chuẩn bị kịp. Ta xin lãnh giáo cô nương mấy chiêu nữa.
          Nói rồi y thị phóng kiếm tấn công, Mỹ-Linh nghĩ:
          - Y thị dùng kiếm khí. Ta nhân có nội lực của mấy đại cao thủ. Ta thử xử dụng Tiêu-sơn kiếm pháp xem sao.
          Nàng cũng tà tà đâm ra một chiêu kiếm pháp Tiêu-sơn. Nguyên-Hạnh kêu lên:
          - Ủa chiêu Sơn trung ẩn hoa đây mà.
          Cứ thế mỗi chiêu Thạch-Phụng đánh ra, Mỹ-Linh lại trả bằng đúng chiêu đó. Nhưng nàng đánh ra chiêu sau mà tới trước. Đấu được hơn trăm chiêu. Thạch-Phụng ỷ mình có công lực cao. Y thị muốn hai kiếm chạm nhau, hầu đánh văng kiếm của Mỹ-Linh đi. Lúc đầu Mỹ-Linh còn tránh. Sau nàng cũng muốn thử xem sao. Đúng lúc đó Thạch-Phụng đánh ra một kiếm, Mỹ-Linh đưa mũi kiếm ra. Hai mũi kiếm chạm nhau. thạch-Phụng đắc ý dồn chân khí ra. Mỹ-Linh nhớ lại yếu quyết nội công nói rằng: Phải không tâm mới thắng hữu tâm. Nàng buông lỏng chân khí thạch-Phụng thấy vậy cả mừng, y thị càng dồn chân khí ra, Mỹ-Linh dùng phương pháp quy liễm thu lại.
          Người ngoài thấy Mỹ-Linh còn trẻ, mà kiếm chiêu đã đến trình độ xuất thần nhập hóa thực hiếm cố. Nay thấy nàng đấu nội lực với Thạch-Phụng, lo cho nàng.
          Minh-Thiên đại sư lên tiếng:
          - Túc-không Quan-âm, xin nhẹ tay.
          Địch Thanh cầm sẵn kiếm trong tay, hễ thấy nguy hiểm cho Mỹ-Linh, y nhảy vào gạt kiếm Thạch-Phụng. Sau khoảng thời gian nhai dập miếng trầu, Mỹ-Linh vẫn ung dung như thường. Trong khi đó mồ hôi trê trán Thạch-Phụng xuất ra, nhỏ từng giọt.
          Về phần Thạch-Phụng y thị thấy chân khí tuôn ra ào ào thì kinh hãi vô cùng. Nếu cứ tiếp tục một lúc sau sẽ kiệt quệ mà chết. Y thị muốn lên tiếng kêu cứu van xin mà không giám, vì biết mở miệng sẽ hộc máu mồm ra mà chết.
          Khoảng một thời gian nữa qua đi, chân khí Thạch-Phụng đã kiệt. Mỹ-Linh thu kiếm về, nhảy lùi lại sau mỉm cười. Thạch-Phụng lảo đảo ngã xuống. Một thiếu nữ Hồng-hương chạy ra đỡ thị dậy.
          Nguyên-Hạnh hỏi:
          - Cái gì vậy?
          Thạch-Phụng thều thào đáp:
          - Nó biết xử dụng Không tâm, vô ngã tướng thần công.
          Câu nói đó của Thạch-Phụng làm Minh-Thiên, Nguyên-Hạnh kinh khiếp đến đờ người ra.
          Nguyên phép Không tâm vô ngã tướng thần công của nhà Phật, nằm trong yếu chỉ Thiền-na. Trước đây tổ thứ nhất của Thiền-tông là Ma-ha-ca-diếp trong khi nghiên cứu kinh Kim-cương, Lăng-già, Bát-nhã đã tìm ra ba loại thần công. Một là Không tâm vô ngã tướng, khi xử dụng, dù đối thủ công lực cao đến đâu đánh ra, cũng bị thu mất. Hai là Không tâm vô nhân tướng, khi xử dụng có thể hóa giải lọi thứ công lực của đối thủ. Thứ ba là Không tâm vô chúng sinh tướng, khi xử dụng, có thể đẩy mọi thứ chân khí của đối thủ về đánh đối thủ. Thần công Không tâm vô ngã tướng truyền thụ đến đời thứ mười thì bị tuyệt tích. Các đời sau chỉ nghe nói, mà không biết xử dụng. Chính Huệ-Sinh khi dạy nàng cũng không ngớt ca tụng thần công này. Ông cứ than tiếc thần công đó bị mai một. Mỹ-Linh cứ nghe nói nhiều mà chưa thấy.
          Thần công Vô ngã truyền vào Lĩnh-nam do tổ thứ tám là Tăng-giả Nan-đà. Tổ đến Lĩnh-nam đúng vào lúc vua Trưng khởi nghĩa. Ngài truyền cho Tiên-yên nữ hiệp, Trần Năng, Phật-Nguyệt. Sau khi vua Trưng tuẫn quốc, thần công này bị thất truyền. Mỹ-Linh có cơ duyên học được trong di thư chép ở bia đá. Nàng đem ra xử dụng lần đầu thắng Tung-sơn tam kiệt và Đinh Toàn. bây giờ xử dụng lần nữa thắng Thạch-Phụng. Khi Mỹ-Linh tập, nàng cũng không biết tên thần công đó là gì. Hôm nay nghe Thạch-Phụng nói, nàng mới biết tên thực của nó.
          Minh-Thiên tiến lên chấp tay hướng Mỹ-Linh:
          - A-di-đà-phật. Có phải thần công thí chủ xử dụng mang tên Vô ngã tướng thần công không? Cô nương là đệ tử của cao tăng nào vậy?
          Mỹ-Linh rất trọng sư đạo. Tuy nàng không học thần công này của Huệ-Sinh với chú. Nhưng nàng muốn đề cao sư môn, nàng đáp:
          - Sư phụ tôi họ Lý tên Long-Bồ.
          Tất cả mọi người nghe nói đều bật lên tiếng "ồ". Minh-Thiên càng ngạc nhiên không ít. Vì trước đây mấy tháng ông đã thử công lực với Khai-quốc vương. Ông thấy công lực chàng cao thật nhưng không thể hơn Thạch-Phụng. Nay Thạch-Phụng bị Mỹ-Linh đánh bại dễ dàng, mà Mỹ-Linh lại là đệ tử của Lý Long-Bồ, ông tin thế nào được?
          Minh-Thiên chấp tay:
          - Bần tăng muốn tiếp cô nương mấy chiêu.
          Mỹ-Linh biết cao nhân này võ công bậc nhất Trung-nguyên. Nàng vội hít hơi không tâm, vận Vô ngã tướng thần công đứng chờ. Minh-Thiên từ từ đẩy ra một chiêu Thiếu lâm kim cương chưởng. Mỹ-Linh cũng đẩy ra một chiêu Thiên sơn tượng đầu chưởng. Bình một tiếng Mỹ-Linh bay bỗng lên cao. ở trên không nàng lộn đi mấy vòng rồi đáp xuống. Cái khăn che mặt của nàng, bị gió cuốn bay mất. Ngực nàng căng tức, khí huyết chạy nhộn nhạo trong người.
          Minh-Thiên đứng im tần ngần suy nghĩ. Chiêu vừa rồi ông đánh ra, bao nhiêu chân khí bị biến mất. Ông là cao tăng đắc đạo, không muốn nói dối. Ông gật đầu:
          - Cô nương. Chiêu Tiêu-sơn tượng đầu chưởng của cô nương vừa rồi có pha nội công của nhiều phái. Thứ nhất nội công của Tản-viên lẫn với Vô ngã tướng thiền công, rồi lại pha với nội công phái Mê-linh nữa. Có đúng không?
          Triệu Anh đến trước sư phụ chỉ Mỹ-Linh:
          - Sư phụ. Cô nương này là cháu nội Lý Công-Uẩn được phong làm công chúa Bình-dương.
          Y chỉ Thân Thiệu-Thái:
          - Người này là cháu ngoại Lý Công-Uẩn, con trai Thân Thừa-Quý ở Lạng-châu.
          Triệu Anh tiếp:
          - Phải bắt giữ hai người này. Vì bao nhiêu kế hoạch của chúng ta, họ đã nghe hết.
          Nguyên-Hạnh kinh ngạc vô cùng. Y cho rằng có điều bí ẩn. Vì hôm giỗ Lệ-hải bà vương, rõ ràng y trông thấy Mỹ-Linh không đỡ nổi mũi phi tiễn của thích khách, mà sao nay có công lực mạnh đến thế?
          Y đến trước Mỹ-Linh:
          - Bần tăng xin công chúa chỉ dạy cho.
          Nói rồi buông tay chờ. Mỹ-Linh nghe Huệ-Sinh nói rằng Nguyên-Hạnh đã biết võ công rồi mới xin gia nhập phái Tiêu-sơn. Y được một cao tăng là Bố-Đại hòa thượng thu làm đệ tử. Võ công y cao thâm không kém gì Lĩnh-nam ngũ long. Nàng vội vận chân khí, không tâm đẩy ra một chiêu Tiêu-sơn Tượng-đầu chưởng. Nguyên-Hạnh cũng đẩy ra một chưởng rất quái dị. Bình một tiếng. Cả hai đều bật lui lại. Mọi người đều buồn nôn vì trong chưởng của Nguyên-Hạnh có mùi hôi tanh khủng khiếp.
          Đông-Sơn lão nhân kinh ngạc hỏi Nguyên-Hạnh:
          - Đại sư. Vừa rồi chưởng của đại sư có phải là Nhật-hồ độc chưởng?
          Nguyên-Hạnh mỉm cười trả lời bằng cái gật đầu.
          Chợt Mỹ-Linh thấy ngực đau ngâm ngẩm, rồi mùi tanh hôi đưa lên. Nàng chịu không được, ọe một tiếng, phun ra bụm máu. Thân Thiệu-Thái chạy lại đỡ nàng. Chàng chỉ vào mặt Nguyên-Hạnh:
          - Uổng cho mi đường đường là một cao nhân mà lại xử dụng chưởng độc hại người.
          Minh-Thiên thấy Mỹ-Linh là đệ tử nhà Phật. Ông không muốn hại nàng. Ông nói với Nguyên-Hạnh:
          - Đại sư, tôi xin đại sư giam hai người này lại. Đợi khi đại sự xong sẽ thả ra.
          Minh-Thiên là sư phụ Triệu Thành. Nguyên-Hạnh đâu giám trái lệnh. Y líu ríu nói:
          - Xin tuân lệnh đại sư.
          Y vung tay một cái đã chụp được Thân Thiệu-Thái. Mỹ-Linh muốn rút kiếm ra mà tay không còn lực. Nàng cũng bị Nguyên-Hạnh bắt.
          Nguyên-Hạnh xách hai anh em nàng, dùng khinh công chạy lên sườn núi dựng đứng. Tới gần đỉnh có cái hang. Ngoài hang có cửa sắt. Y dùng chìa khóa mở ra, đẩy hai anh em vào rồi khóa lại.
          Mỹ-Linh với Thiệu-Thái thức gần trọn đêm, lại lặn dưới nước sâu. Sau đó nàng đấu với Thạch-Phụng, tuy thu hết công lực của thị, nhưng người nàng đã mệt nhoài. Sau đó nàng đấu nội lực với Minh-Thiên, nội lực của đối thủ bỏ xa nàng. Vì vậy nàng bị hất đi xa. Kinh khí bị bế tắc, muốn không thở được. Tiếp đó nàng đấu với Nguyên-Hạnh, hút phải độc chưởng của y.
          Thiệu-Thái bồng nàng, nhìn vào trong hang. Không biết hang này sâu đến đâu. Trong này Nguyên-Hạnh còn giam bao nhiêu người nữa? Chàng ngồi yên không dám động đậy, sợ Mỹ-Linh đau. Mỹ-Linh vẫn thiêm thiếp ngủ, thỉnh thoảng nàng rên lên mấy tiếng nho nhỏ. Mệt quá chàng ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
          Khi chàng tỉnh giấc mặt trời đã lên cao. chàng thấy Mỹ-Linh vẫn còn thiêm thiếp, vội bồng nàng lên, đặt trên chỗ bằng phẳng, rồi dò dẫm đi sâu vào trong hang. Vào khoảng ba chục bước, có chỗ quẹo sang trái, hang đi trở xuống. Chàng tiếp tục đi mãi, càng xuống sâu, càng thấy ẩm ướt, không có ánh sáng. Chợt nhớ ra đá lửa, với bổi còn mang bên mình. Chàng đánh lửa đốt lên, tiếp tục đi xuống. thấy đằng trước có ánh sáng. Chàng lần mò đi tới chàng suýt bật thành tiếng kêu, vì phía trước có nhiều cửa sổ bằng sắt, ăn thông vào sườn núi, gió lùa từ cửa sổ vào, bốc ra mùi xú uế không thể tưởng tượng được.
          Tò mò, lại gần cửa sổ nhìn, chàng suýt bật thành tiếng la hoảng, vì sau cửa sổ có một quái nhân ngồi. Quái nhân này, đầu trọc nhẵn bóng, râu ria xồm xoàm dài quá rốn, trắng như cước, trong tư thế ngồi thiền. Chàng tỉnh ngộ:
          - Thì ra sau cửa sổ này, có phòng giam người. Sau phòng giam còn cửa sổ nữa thông với sườn núi, chắc là nơi cho tù ăn.
          Chàng lay cửa gọi:
          - Tiền bối. Tiền bối.
          Quái nhân vẫn bất động. Chàng cầm viên đá ném vào quái nhân. Bộp một tiếng. Viên đá trúng bụng quái nhân, tự nhiên phát lên tiếng kêu vo vo, inh tai nhức óc, từ từ bay lại phía chàng.. chàng kinh hãi tránh sang bên cạnh. Lập tức viên đá đổi chiều đánh véo, rồi lại quay tròn theo chàng.
          Biết gặp kình địch, chàng chạy sang phải, rồi sang trái. viên đá đi không theo kịp chàng, trúng vào vách hang, kêu lên tiếng chát, rồi vỡ tan tành thành bụi.
          Thiệu-Thái kinh hoàng nghĩ:
          - Quái nhân này là ai, mà công lực đến dường này?
          Ta đã từng thấy ông nội, đại sư Huệ-Sinh dùng Đàn chỉ thần công bắn đá. Kình lực làm viên đá vừa quay vừa đi, phát ra tiếng kêu. Đó là lẽ hiển nhiên. Nhưng quái nhân không chuyển động, chỉ dùng sức phản kích, mà kình lực còn mạnh hơn ông nội ta nữa, thực trên thế gian này có một không h ai.
          Quái nhân vẫn ngồi yên bất động.
          Tính tinh nghịch nổi dậy, chàng cầm viên đá nữa ném vào quái nhân. Trong khi đó chàng chuẩn bị bỏ chạy. Nhưng viên đá không chạy theo chàng, trái lại nó dính trên bụng quái nhân, không rơi xuống. Chàng lại nhặt viên đá nữa ném vào ngực quái nhân, nó lại dính chặt không rơi. Cứ thế chàng lại nhặt đá ném. phút chốc người quái nhân dính đầy đá.
          Chán nản, cháng sang cửa bên cạnh, lại một quái nhân nữa, nằm dài, dường như ngủ.Quái nhân này mặt lớn như cái trống, mặt đẹp vô cùng. Chàng gọi:
          - Tiền bối, tiền bối.
          Người đó vẫn nằm yên, trả lời:
          - Ta không phải tiền bối.
          - Thế thì là hậu bối vậy.
          Người đó đáp:
          - Ta không phải là hậu bối.
          Thiệu-Thái có cảm tưởng người đó điên. Chàng hỏi:
          - Thế người là ai?
          Người đó đáp:
          - Ta là ta mà cũng không phải là ta.
          - Thế người tên là gì?
          - Lâu ngày ta quên mất cả tên rồi.
          Thấy đã tìm ra đầu mối, chàng hỏi:
          - Tiền bối người đã bị giam ở đâu bao lâu rồi?
          - Ta nhắc lại, ta không phải là tiền bối nhé. Ta đâu có bị giam. Ta tự đến đây đấy chứ.
          - Người ngồi dậy cho ta coi mặt được không?
          - Ta không ngồi dậy đâu. Nhưng ta có thể cho người xem mặt.
          Người đó quát một tiếng, thân hình bật dậy như con cá, rồi hai tay chống xuống đất, chân chổng lên trời. Hai tay di chuyển đến gần cửa sổ. Thiệu-Thái nhìn kỹ, thì ra một nhà sư, đầu trọc bóng hai má phính ra, mặt bầu, da dẻ hồng hào. Trên người ông chỉ cuốn tý vải che hạ bộ. Bụng ông phệ, da trắng nõn.
          Thiệu-Thái hỏi:
          - Người có biết ai bị giam bên kia không?
          - Biết chứ, người đó không hề bị giam.



          <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.01.2005 02:35:03 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9