Anh hùng Tiêu Sơn (từ hồi 26)
CDDLT 06.01.2005 18:15:46 (permalink)
Hồi thứ hai mươi sáu


Bố Đại Hoà Thượng



Chợt mùi trầm hương nhè nhẹ từ trong phòng lão hòa thượng mập đưa ra, Thiệu-Thái hít một hơi, cảm thấy trong người dễ chịu, khoan khoái. Chàng ngạc nhiên rằng tại sao lão bị giam, mà trong phòng còn có trầm hương. Mùi này hơi giống mùi từ người Bảo-Hòa. Chàng tự nghĩ:
- Không lẽ người lão sinh ra đã có mùi hương như em Bảo-Hòa của mình?
Nhà sư mập cười:
- Này con lợn. Con lợn mau ra đem cô em họ vào đây, lão chỉ cho cách cứu cô ta. Chậm trễ e khó qua khỏi.
Nghe nhà sư gọi mình là con lợn, Thiệu-Thái trợn trừng mắt nhìn lão. Chàng nghi nhà sư này đồng đảng với Nguyên-Hạnh, hỏi:
- Sao đại sư biết tại hạ có cô em họ bị thương?
- Lão biết vì lão là hòa-thượng.
Thiệu-Thái không chịu:
- Dĩ nhiên đại sư là hòa thượng rồi. Nhưng tại sao đại sư lại biết rõ ràng cô em tai hạ bị nạn?
Nhà sư lộn ngược trở lại, ngồi xuống:
- Người là một con lợn không hiểu Phật-pháp, lại chưa qui y Tam-bảo, ta không giải nghĩa cho người được. Vì có giải nghĩa thì cũng giống đàn gảy tai trâu.
Thiệu-Thái hỏi:
- Tại sao đại sư biết tại hạ chưa qui y?
Nhà sư cười khành khạch:
- Ta biết vì ta biết. Ta còn biết rõ người có vợ chưa cưới ở Bắc biên. Thế mà người lại mê cô em họ. Thôi mau đưa cô em vào đây.
Thiệu-Thái thấy nhà sư huyền bí quá, nhưng vấn đề trước mắt, Mỹ-Linh trúng chưởng của Nguyên-Hạnh, bị thương nặng đang mê man. Chàng bỏ nhà sư chạy ra ngoài. Mỹ-Linh hơi tỉnh. Nàng bảo Thiệu-Thái:
- Anh ơi, anh đưa em vào gặp vị hòa thượng bụng bự mau. Nếu chậm trễ e nguy mất.
Thiệu-Thái lại ngạc nhiên nữa:
- Mỹ-Linh, sao em biết trong kia có vị hòa thượng bụng bự? Anh thấy ông này có vẻ tà môn quá. Lỡ ông làm gì em thì sao?
Mỹ-Linh nhăn mặt:
- Trong lúc em mê man, thấy rõ ông đứng bên cạnh. Ông bảo em với ông có duyên từ vô vàn kiếp trước, rồi ông vẫy em đi theo. Anh ơi dù gì thì cũng chẳng sao. Đằng nào em cũng chết. Nếu ông cứu được em càng hay. Còn như ông giết em, em chết sớm càng đỡ đau đớn.
Thiệu-Thái tăng thêm kinh ngạc. Rõ ràng từ lúc vào đây, Mỹ-Linh nằm im một chỗ. Còn lão hòa thượng bụng bự vẫn bị giam trong phòng, làm sao lão đứng cạnh nàng được?
Tới đó Mỹ-Linh mửa ra một búng máu. Thiệu-Thái không dám đem Mỹ-Linh vào, chàng ngồi thoa bóp cho nàng. Mỹ-Linh chập chờn tỉnh dậy, nàng nói:
- Mau, đem em vào mau, nếu trễ e không kịp.
Thiệu-Thái vốn chậm chạp, chàng còn ngần ngừ. Có tiếng nhà sư từ trong vọng ra:
- Con bé không được động đậy. Thằng con lợn nó không hiểu được ta thì thôi. Ngu hơn lợn! Con bé xinh đẹp nghe đây. Người hãy dùng bàn tay phải chà lên huyệt Đản-trung, rồi hấp khí cho đầy ngực, mửa máu bầm ra. Như vậy độc chất mới không nhập tâm.
Mỹ-Linh để tay lên huyệt Đản-trung chà mạnh, rồi hít một hơi. Khí tức tràn ngập, nàng ọe một tiếng, mửa ra hai ngụm máu đen.
Nhà sư bụng phệ lại nói tiếp:
- Hấp khí, dẫn khí vào trung đơn điền, rồi thổ khí, trong khi thổ phân tán khí ra chân tay. Làm liền ba mươi sáu thức.
Thiệu-Thái kinh ngạc, vì từ phòng nhà sư bụng phệ bị giam đến chỗ Mỹ-Linh nằm có đến ba khúc quẹo, làm sao nhà sư nhìn thấy nàng, mà ra lệnh như vậy?
Chàng nhìn Mỹ-Linh thổ nạp, sau đúng ba mươi sáu thức. Nàng cảm thấy chân tay bớt tê dại. Nhà sư tiếp:
- Con lợn. Bây giờ người có đưa cô em vào đây không?
Thiệu-Thái đã tin nhà sư bụng phệ phần nào. Chàng bế bổng Mỹ-Linh đem đến chỗ ông bị giam. Nhà sư bảo Mỹ-Linh:
- Con nhí ngồi gần vào đây, ta xem mạch cho.
Mỹ-Linh ngồi sát vào cửa sổ. Nhà sư cầm lấy bàn tay nàng bắt mạch, rồi nói:
- Con nhí này bị trúng Kim-cương chưởng của phái Thiếu-lâm. Nội công Thiếu-lâm phát xuất từ Thiền-công nhà Phật. Trong khi con nhí luyện Vô ngã tướng thần công cũng đặt trên căn bản kinh Kim-cương. Đáng lẽ khi bị trúng Kim-cương chưởng, người có thể hút nội lực của đối thủ làm nội lực mình. Ngặt vì Vô-ngã tướng thần công của người lại pha trộn với nội công Long-biên .Trong khi nội lực đối thủ qúa thâm hậu. Tuy vậy có trúng chưởng cũng không hề gì. Sau đó con nhí lại đấu chưởng với Nguyên-Hạnh, bị trúng Chu-sa độc chưởng của bang Nhật-Hồ. Vô-ngã-tướng thần công hút độc chất vào người, mới nên nỗi.
Bốn tiếng Chu-sa độc chưởng làm Mỹ-Linh nhớ lại thảm kịch cách đây mấy năm. Hồi ấy vương-mẫu của nàng bị một người nào đó trong bóng tối dùng độc chưởng này đánh bà. Người đó ép bà phải làm một việc gì đó cho y. Nhưng bà không chịu, vì vậy bà đau đớn đến điên dại trong bốn mươi chín ngày, rồi chết. Bấy giờ trong triều không ai biết bệnh gì. Mãi cho đến khi viếng Vạn-thảo sơn trang, nghe Lê Văn thuật chính Hồng-Sơn phu nhân cũng bị đau đớn như vậy. Cho đến ngày sắp chết, bà mới thổ lộ ra bị người ta dùng Chu-sa độc chưởng đánh bà, bắt bà tuân theo mạng lệnh mới được thuốc giải. Bằng không sẽ đau đớn trong bốn mươi chín ngày rồi chết. Bà đành chịu chết, chứ không chịu phản chồng. Bấy giờ Mỹ-Linh mới biết mẹ mình cũng bị chết về chưởng này. Song bà cắn răng hy sinh cho chồng, mà không chịu thố lộ nguyên do.
Hôm ấy nàng với Lê Văn thảo luận, rồi cùng tin rằng cả hai bà cùng bị một ác nhân hại, mà chưa tìm ra ác nhân đó là ai. Bây giờ nghe nhà sư nói nàng bị Chu-sa độc chưởng của Nguyên-Hạnh đánh trúng, tâm tư nàng rung động mạnh. Người nàng run run, vì đã tìm ra được ánh sáng soi vào mặt ác nhân.
Lão hòa thượng bắt mạch lần nữa, rồi tiếp:
- Người còn tham lam, luyện cả nội công phái Tản-viên, thời Lĩnh-Nam, rồi nội công phái Cửu-chân nữa. Thế là thế nào?
Mỹ-Linh tường thuật từ đầu đến cuối việc luyện võ của nàng khởi đầu bằng phái Tiêu-sơn của chú với Huệ-Sinh. Sau có cơ duyên luyện Vô ngã tướng thần công của Trần Năng thời Lĩnh-Nam. Mà Vô-ngã-tướng thần công của Trần Năng đã bị pha lẫn nội công Tản-Viên. Còn nội công Long-biên, thì hoàn toàn đo Tịnh-Huyền dạy, và nàng bổ khuyết bằng nội công trong bộ Lĩnh-Nam vũ kinh.
Lão hòa thượng bảo Mỹ-Linh:
- Con nhí có muốn thoát khỏi đau đớn chăng?
Mỹ-Linh quỳ xuống hành lễ:
- Đệ tử kính xin đại sư làm phúc, cứu khổ cứu nạn cho đệ tử.
Nói hết câu đó, nàng cảm thấy chóng mặt, vội ngồi đựa vào cửa sổ hồn phách bay phơi phới, tam tiêu đảo lộn.
Nhà sư cười toe tóet:
- Dễ lắm. Ta nói gì con lợn kia nó cũng không nghe. Nếu con bé có thể nói cho nó nghe thì mới mong chữa bệnh.
Thiệu-Thái đến trước nhà sư quỳ gối:
- Bạch đại-sư, không phải tiểu bối vô phép với đại sư, mà chỉ vì tiểu bối ngu đần, chậm chạp mà thôi. Mong đại sư cứu em cháu. Bất cứ đại-sư dạy gì cháu cũng tuân theo.
Nhà sư cười khềnh khệch:
- Dễ lắm. Ta có thể lệ khi cứu một người cần có người chết thay. Vậy sau khi ta cứu con bé này, người phải đi giết một người thế mạng.
Thiệu-Thái vốn tính nhân từ, giết con chuột, con dán, chàng còn không dám, huống hồ giết người. Chàng lắc đầu:
- Đại sư ơi, có cách nào khác không? Chứ giết người thực cháu không giám đâu. Đức thượng đế hiếu sinh, cho mỗi sinh vật một cuộc sống, nay giết người ta, như vậy không nên.
Nhà sư cười:
- À, mi không nghe ta, ta không chữa cho cô em họ của người.
Thiệu-Thái đứng dậy:
- Nếu đại sư cứu được em cháu. Cháu xin tự tử để thế mạng.
- Ừ, nhớ lấy lời nhé!
- Cháu cam đoan giữ lời hứa. Sau khi em cháu khỏi bệnh, cháu tự tử lập tức.
Mỹ-Linh đang nằm thiêm thiếp. Nhà sư chìa ngón tay ra điểm vào huyệt Bách-hội của nàng. Người Mỹ-Linh rung động lên một cái, rồi nằm im. Khỏang nhai dập miếng trầu, người nàng vã mồ hôi ra như tắm. Nhà sư truyền lệnh:
- Ngồi dậy, theo tư thức Kiết-già. Hấp khí. Trong khi dẫn khí từ sáu kinh dương về đơn điền. Rồi, thổ khí ra. Bây giờ dẫn khí vòng quanh rốn theo hình trôn ốc. Từ vòng nhỏ dần dần thành vòng lớn. Đúng 36 vòng, lại dẫn khí theo vòng tròn từ lớn vào nhỏ 36 vòng nữa.
Ông nói đến đâu, Mỹ-Linh làm theo đến đó. Khi dẫn khí vào tới vòng nhỏ nhất, nàng mở mắt ra. Bao nhiêu cái đau đớn bứt rứt biến mất. Biết tai nạn đã qua, Mỹ-Linh quỳ xuống hành đại lễ:
- Đa tạ đại-sư cứu mạng.
Nhà sư cười khềnh khệch:
- Con nhí ơi, chưa thoát khỏi đâu. Phải luyện trong ba mươi sáu ngày mới khỏi hẳn.
Nhà sư vẫy tay gọi Thiệu-Thái:
- Con lợn. Ta cứu em người rồi. Người phải thực hiện lời hứa tự tử đi chứ?
Thiệu-Thái rút kiếm sau lưng, đưa lên cổ tự tử.
Khi Thiệu-Thái ước hẹn với nhà sư, thì Mỹ-Linh đang chập chờn, nửa mê, nửa tỉnh, không nghe rõ. Bây giờ thấy Thiệu-Thái đưa kiếm lên cổ tự tử, nàng kinh ngạc vô cùng. Với võ công của nàng, nàng thừa bản lĩnh đọat kiếm cứu Thiệu-Thái. Nhưng nàng vốn thiếu kinh nghiệm ứng phó. Hơn nữa diễn biến xẩy ra đột ngột. Nàng kêu lên:
- Anh Thiệu-Thái, đừng.
Nhà sư nhặt viên sỏi nhỏ búng đến véo một cái. Thanh kiếm của Thiệu-Thái vuột khỏi tay rơi xuống đất. Mỹ-Linh hoàn hồn, nàng nắm lấy tay anh, nước mắt đầm đìa:
- Cái gì vậy? Tại sao anh lại tự tử?
Nhà sư cười khềnh khệch, miệng toe toét:
- Con lợn tự tử thực à? Đúng là con lợn. Người phải biết nếu người tự tử ắt con bé này nó sống làm sao được. Thôi ta không bắt mi giết người nữa, đổi lại từ nay ta sai gì người cũng phải tuân.
Mỹ-Linh cảm thấy nhà sư thực vui vẻ, dễ thương. Trên đời nàng đã gặp không biết bao nhiêu tăng ni. Đa số họ đều lễ phép, kính cẩn với nàng. Chỉ duy có sư phụ Huệ-Sinh tỏ ra thương yêu nàng vô hạn. Bây giờ gặp nhà sư này, chỉ thấy ông cười. Nàng chắp tay:
- Bạch đại hòa thượng, xin hòa thượng cho đệ tử biết pháp danh?
Nhà sư ngửa mặt lên trời cười:
- Pháp danh à, ta quên mất rồi. Biết làm quái gì cái pháp đanh với tục danh. Này con bé, người đang vui vẻ tự nhiên, tại sao lại lễ nghi rắc rối như thế này. Nếu ta cũng quỳ gối gọi người bằng công chúa e thối hoắc, ngửi sao được. Ta gọi người là con nhí, gọi thằng anh người là con lợn người gọi ta là thầy chùa bụng bự nghe hay hơn.
Mỹ-Linh ngẩn người ra, không hiểu sao nhà sư biết nàng là công-chúa. Nàng nhìn căn phòng bằng đá của ông: không giừơng, không chiếu, không chăn, không có chỗ đi cầu, không có nước tắm. Thế mà tại sao trong phòng ông có mùi trầm hương xông ra. Mỹ-Linh thắc mắc:
- Sư phụ, người sống trong hang đá này từ mấy năm rồi?
- Quên sạch. Nhớ thế chó nào được.
Thiệu-Thái nhìn nhà sư:
- Đại-sư, tiểu bối nghe người đi tu, cấm không nói tục. Đây, đại sư một điều gọi tiểu bối bằng lợn, hai điều bằng lợn, rồi văng tục chó e phạm giới chăng?
- Giới à? Tam quy, ngũ giới, thất bát giới ta vất mẹ nó vào thùng rác từ lâu rồi. Tại sao cứ phải buộc chặt mình vào giới này, giới nọ cho nó khổ.
- Đại sư nói lạ. Đi tu phải trì giới chứ!
Nhà sư vẫn cười toe toét, tay vỗ bụng lộp bộp:
- Người chưa qui y Tam-bảo, cũng chưa có sư phụ, thì hiểu đạo Phật thế đếch nào được. Ta hỏi người, người tự thị vào cái gì mà bảo rằng sạch sẽ hơn con lợn, con chó? Đầu óc người có bao giờ không nghĩ bậy chăng? Miệng người có bao giờ không nói bậy chăng? Con lợn, con chó chẳng bao giờ nói bây, nghĩ bậy cả. Huống hồ sau đây mấy năm, người cũng như chó, lợn, hóa ra tro bụi cả.
Mỹ-Linh hỏi:
- Đại sư thử nghĩ xem, có cách nào thoát khỏi nơi đây không?
Nhà sư chưa kịp trả lời, có tiếng nói đâu đó vọng lại, giọng the thé, rõ ra của đàn bà:
- Ốc chưa mang nổi vỏ ốc thì còn mong gì. Y cũng bị giam biết bao nhiêu năm, không thoát ra được. Hỏi y cũng vô ích mà thôi. Vừa rồi y cứu cô bé kia, mà hóa ra hại cô. Nếu cô trúng độc thông thường tất lão cứu được. Còn đây con bé trúng Chu-sa độc-chưởng của bang Nhật-Hồ, thì phương pháp trên chỉ ngừng đau trong bẩy ngày rồi tái phát.
Mỹ-Linh kinh hãi hỏi:
- Tại sao tiền bối biết?
Người đàn bà đó cười the thé:
- Mi không tin ư? Mi thử sờ vào huyệt Thái-uyên xem, có phải mi thấy hơi ngứa không? Thái-uyên là nguyên huyệt của Thủ thái âm phế-kinh, như thế là phế bị thương rồi. Mi thử sờ vào huyệt Nội-quan xem, có phải trong lồng ngực thấy đau ngâm ngẩm không? Nội quan là Lạc-huyệt của Thủ khuyết âm tâm bào kinh. Như vậy tâm bị trúng độc rồi.
Thiệu-Thái tới trước người đàn bà lạy phục xuống đất:
- Xin tiền bối cứu em cháu với.
Lần theo giọng nói của đàn bà. Mỹ-Linh quay về phía có tiếng nói, chỗ đó lại một căm phòng giam nữa. Nàng chạy lại trước cửa phòng. Trong cửa sổ có một người đàn bà, thân hình thon đẹp, đầu bù tóc rối. Mỹ-Linh dương mắt nhìn kỹ, người đàn bà tuổi khoảng bốn mươi, nhan sắc tươi tỉnh. Có điều bị giam lâu, nên da xanh mướt.
Người đàn bà hỏi:
- Cô cậu kia làm sao mà bị giam vào đây? Ta nói cho mà biết khi đã vào chốn này, dù có bản lĩnh nghiêng trời lệch đất cũng vô ích. Cái lão Bố Đại hòa thượng kia mà còn chịu bó tay ngồi tù nữa là. Ta biết rồi, chắc cô cậu là vợ chồng phải không? Nguyên-Hạnh sẽ chỉ giết cậu mà thôi. Còn cô nó giữ làm Hồng-hương mỹ nhân để thưởng hoa. Ta nói cho mà biết. Tuy vậy y muốn người, y phải cầu ta. Vì chỉ có ta mới cứu được người. Còn lão Bố Đại hòa thượng kia không làm lên trò gì đâu.
Mỹ-Linh hỏi nhà sư:
- Sư phụ, người là Bố Đại hòa thượng đấy à?
- Ừ. Chính là ta. Mà chẳng phải là ta.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cùng bật lên tiếng úi chà. Vì Bố Đại hòa thượng nức danh cao tăng thuộc phái Tiêu-sơn đắc đạo. Lão ở vai sư thúc của quốc-sư Vạn-Hạnh, và Lý Khánh-Vân. Mà Lý Khánh-Vân là nghĩa phụ của Thuận-thiên hoàng đế (Lý-Thái-Tổ). Lão đắc đạo rất sớm, võ công cao thâm không biết đâu mà lường. Song lão chẳng bao giờ đánh ai. Ai đánh, lão chỉ đỡ, rồi bỏ chạy.
Lão có đặc tính, chỉ đóng cái khố, choàng ngoài bằng tấm áo cà-sa. Nơi nào lão cũng ăn được. Chỗ nào lão cũng ngủ được. Lão không bao giờ tắm, mà trên người lão luôn thoang thoảng mùi hương trầm. Lão đi đến đâu, con nít bu xung quanh lão, đứa thì vỗ bụng, đứa thì bẹo tai, đứa thì ngoáy tay vào rốn lão.
Lão thuyết pháp rất giản dị, chỉ vài câu thôi, người ta đã hiểu tinh hoa đạo Phật. Lão đi khắp các sứ Chân-lạp, Chiêm-thành, sang đến Trung-quốc. Người Trung-quốc vẽ hình nặn tượng thờ lão. Có hai tượng khác nhau. Tượng thứ nhất lão đeo tràng hạt, có năm đứa trẻ ngồi trên bụng, trên vai, trên tay lão. Đứa bẹo tai, đứa bẹo mắt, đứa nắm tay, đứa ngoáy rốn, đứa bụm miệng. Còn một tượng nữa trong tư thế ngồi cầm tràng hạt cười.
Sự thực lão cũng có tục danh. Tục danh của lão được lưu truyền là Khiết-Thử. Không rõ họ. Người ta tặng cho lão tên Trường-đinh-tử. Sử Trung-quốc ghi lão xuất hiện thuyết pháp đầu tiên vào đời nhà Lương (909-923). Niên hiệu Trinh-Minh thứ ba đời Lương (917) lão dùng ngón tay viết lên đá ở chùa Nhạc-lâm bài kệ như sau:

Di-lặc chân Di-Lặc,
Phân thân thiên bá ức.
Thời thời thị thế nhân,
Thế nhân tự bất thức.


Dịch:

Di-Lặc đúng Di-Lặc,
Phân thân thành triệu người.
Đời đời dạy nhân thế,
Nhân thế nào có hay.


Sau đó lão gọi đệ tử đến, dạy rằng:
- Ta có nguyện, đầu thai nhiều lần xuống vùng đất thiêng Nam Ngũ-lĩnh, giúp tộc Việt dựng lại thành quốc gia kỷ cương. Đây mới là kiếp thứ nhất. Nay xác ta mục. Ta tìm về phương Nam, nhập vào hài nhi sơ sinh, bắt đầu kiếp thứ nhì. Sau này ta cũng có hình dạng cùng hành trạng như hiện nay.
Nói dứt, viên tịch. Tin đó truyền ra ngoài, dân chúng làm tượng thờ. Rồi ít lâu sau, vùng Cửu-chân lại xuất hiện một chú tiểu về tu ở chùa Tiêu-sơn. Chú nói tiền kiếp chính là Bố-Đại hoà thượng. Không ai tin, có người cho chú điên khùng. Năm hai mươi lăm tuổi chú béo tròn, trán bóng, lúc nào cũng cười toe toét, giống hệt Bố-Đại hoà thượng ngày xưa. Bấy giờ người ta mới tin Bố-Đại tái sinh.
Bố-Đại lại du hành thuyết pháp ở Trung-quốc. Lưng đeo túi vải. Nhân bố là vải, đại là túi. Nên người ta gọi lão là Bố-Đại hoà thượng. Ai cúng dàng cái gì, lão bỏ vào túi, đem phát cho trẻ con. Lão đi đến đâu, trẻ con bu quanh lão đến đấy.
Thiệu-Thái nhìn lão, quả giống hệt tượng mà người ta nặn để thờ. Chàng thắc mắc:
- Đại sư. Tại sao người ta lại nặn hai loại tượng của đại sư để thờ?
Bố Đại hòa thượng lắc đầu:
- Con lợn đã có bao giờ nghe nói đến lục tặc không?
Thiệu-Thái chưa từng nghe thuyết pháp lấy một lần, cũng chẳng đi chùa lễ Phật bao gìơ. Vì vùng Lạng-châu chỉ có một tôn giáo, là thờ 162 anh hùng thời Lĩnh-nam. Chàng lắc đầu.
Bố Đại hòa thượng rung đùi:
- Tượng có năm đứa trẻ ngồi trên bụng ta, biểu tượng thời kỳ ta chưa giác ngộ, bị Lục-tặc quấy phá. Còn tượng ta ngồi cười, biểu tượng thời kỳ ngộ đạo rồi, Lục-tặc không còn nữa.
Ông nói đến đâu, Mỹ-Linh gật đầu, tỏ ý hiểu đến đó. Còn Thiệu-Thái ngơ ngơ ngác ngác hỏi:
- Tiểu bối nghe võ công đại sư cao thâm khôn lường. Sao đại sư không đánh đuổi Lục-tặc là sáu tên giặc đi đi? Chúng bé xíu mà?
Bố Đại lắc đầu:
- Lợn. Lợn. Ngu như lợn. Đánh đuổi thế chó nào được. Nó có hình, có xương, có thịt đâu mà đánh? Nó không hình, không bóng. Nó chính là ta. Trong mi cũng có Lục-tặc. Trong bà cụ kia cũng có Lục-tặc. Trong con nhí cũng có Lục-tặc. Mi hiểu chưa?
Mỹ-Linh gật đầu mỉm cười. Còn Thiệu-Thái càng ngơ ngác. Mỹ-Linh giải thích:
- Để em nói cho anh nghe. Khi đại-sư đây chưa đắc đạo thì sáu thứ giặc nó quấy nhiễu. Sáu thứ giặc đó là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Mắt còn thích nhìn hoa thơm cỏ lạ là một tặc. Tai còn nghe lời thị phi, bị âm thanh lôi kéo là hai tặc. Mũi còn ngửi mùi hương thơm, mùi hôi thối là ba tặc. Miệng còn muốn ăn ngon, còn phân biệt ngũ vị là bốn tặc. Lưỡi còn nói không, nói có cho người là năm tặc.
Thiệu-Thái tính đốt ngón tay:
- Như vậy mới có ngũ tặc. Ừ, đúng ngũ tặc, vì tượng chỉ có năm đứa trẻ, chứ đâu phải sáu.
Mỹ-Linh cũng bật cười về ông anh chân thật của mình:
- Khi bị ngũ tặc quấy phá, trong tâm người không định được, còn giận hờn, còn cáu kỉnh, còn tức tối...thì chính người là một tặc nữa.
Bố Đại giảng:
- Con nhí nghe đây. Trong kinh Bát-nhã cũng như Kim-cương, Lăng-gìa đều không ngớt nói về nhân ngã tứ tướng. Khi luyện Thiền-công, dù Vô-ngã hay Vô nhân hay Vô chúng sinh hay Vô thọ tuy có khác nhau, nhưng đều thu về một mối, làm sao bỏ sáu căn của con người nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý bấy giờ trong người như một nơi chân không, hỏi rằng Lục-tặc làm sao nhập vào được. Đã đến trình độ này, sẽ thành Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ gỉa tướng. Người học loại thần công nào cũng thế thôi.
Mỹ-Linh học đủ mọi kinh điển nhà Phật tới chỗ sâu sa nhất. Nàng đã tụng hàng vạn lần kinh Bát-nhã, kinh Kim-cương, cũng như kinh Lăng-gìa. Thế nhưng chưa một lần nghe nói làm thế nào áp dụng vào việc luyện Thiền-công. Hôm ở dưới hầm đá, vô tình luyện được thần công tổng hợp của nội công Lĩnh-nam với Thiền-công nhà Phật do Trần-Năng để lại. Tuy luyện thành, nhưng nàng thấy uy lực không mạnh làm bao, nàng thắc mắc mãi mà không hiểu.
Hôm nay nhà sư bụng phệ phân biệt ra, nàng mới tỉnh ngộ. Nàng nhắm mắt thử bỏ ra ngoài mắt, tai, mũi, thân, và buông lỏng mọi tư duy trong lòng, rồi phát lực ra bàn tay. Nàng thấy chân khí mạnh không thể tưởng được. Bàn tay nàng tiết ra mùi hôi tanh khủng khiếp.
Mụ già gầy kinh ngạc:
- Lão hòa thượng bụng phệ kia giỏi thực. Người nói ba láp, mà con nhí nó đẩy hết được chất độc ra ngoài rồi. Giỏi.
Hồi còn nhỏ, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đã nghe nới về Bố Đại hòa thượng, không ngờ hôm nay lại gặp lão trong tù. Mỹ-Linh nhìn kỹ lão:
- Cứ theo như mẹ ta kể, lão là sư thúc của sư tổ Vạn-Hạnh. Như vậy ít ra lão cũng trăm tuổi rồi. Thế mà sao khuôn mặt lão còn trẻ thế? Chết thực, so vai vế lão ở trên mình đến bốn bậc, mà từ nãy đến giờ mình chưa ra mắt.
Mỹ-Linh quì xuống:
- Đệ tử Mỹ-Linh xin tham kiến thái-sư thúc tổ.
Bố Đại hòa thượng vẫy tay:
- Phái Tiêu-sơn nhà ta không nhận nữ đệ tử. Thế mà gã Huệ-Sinh thu nạp người, thực lạ lùng, thực ngoài sự tưởng tượng. Hay thực, thằng cu Huệ-Sinh hay hơn ta nhiều.
Bà lão bị giam nói vọng sang:
- Nhất định Huệ-Sinh hay hơn rồi. Vì người dở nên mới bị Nguyên-Hạnh bắt giam.
Bố Đại nghe bà già châm biếm mình, lão cười toe toét:
- Bà còn hay hơn tiểu tăng nữa.
Mỹ-Linh hỏi bà lão:
- Tiền bối, thân thế người ra sao? Vì cớ gì lại bị giam vào đây?
Lão bà nghiến răng:
- Ta chính là vợ của Nguyên-Hạnh. Ta bị y giam vào đây gần chục năm nay rồi.
Mỹ-Linh kinh khiếp:
- Đại sư Nguyên-Hạnh thuộc phải Tiêu-sơn, từ võ công đến thiền học đều uyên thâm, sao lại tàn ác như vậy?
Lão bà nghiến răng nói:
- Ta với Nguyên-Hạnh nguyên đều là sư huynh sư đệ đồng môn thuộc bang Nhật-hồ.
Bố Đại gật đầu:
- Bang Nhật-Hồ chuyên dùng chất độc luyện Chu-sa chưởng. Võ lâm Trung-nguyên nghe đến tên là kinh tâm động phách.
Lão bà gật đầu tỏ vẻ tự cao:
__ Phụ thân ta làm đại tướng quân cho triều Bắc-Chu. Khi Triệu Khuông-Dẫn cướp ngôi nhà Chu, phụ thân ta cầm binh chống lại. Sau khi phụ thân ta gìa yếu qua đời, lực lựơng bị tan rã. Năm đó ta mười tám, sư huynh Nguyên-Hạnh hai mươi lăm tuổi. Chúng ta bị bắt. Triều Tống định đem mẹ cùng các anh ta đem chém. Chúng ta dâng biểu xin ân xá, hứa làm bất cứ điều gì mà triều đình muốn. Bấy giờ nhà Tống mới bị nhà Lê ở Giao-chỉ đánh bại. Khu-mật-viện triều Tống tính kế lâu dài. Họ bàn tha cho mẹ, các anh ta. Điều kiện ta với sư huynh phải sang Giao-chỉ lập nghiệp, đợi khi nào quân Tống sang, nổi lên làm nội ứng.
Bà lão thở dài:
- Khu-mật-viện dặn chúng ta khi tới Giao-chỉ, lỡ bị bại lộ phải khai như sau : Ta tên thực là Đỗ Lệ-Thanh, vốn ngừơi Hoa, chứ không phải người Việt. Ta sinh ra trong một gia đình giầu có, lại thông minh. Thủa nhỏ ta học văn, học võ đều thành công. Năm mười sáu tuổi kết hôn với một danh sĩ trong làng. Một lần lên chùa lễ Phật, ta gặp tăng sĩ nghèo khó, không có tiền mua vải may áo cà sa. Động lòng trắc ẩn, về nhà ta mua vải may bốn chiếc áo tặng người. Người mừng lắm, cảm ơn ta rối rít. Việc làm của chúng ta sáng như trăng rằm, nhưng người trong làng trông thấy, họ bắt lỗi nhà sư, đuổi khỏi chùa. Nhà sư tìm đến nhà ta xin ta giúp cho ít tiền độ nhật về quê. Ta không có tiền, bèn lấy cái nhẫn cưới cúng dàng. Giữa lùc đó chồng ta về, trông thấy. Người nổi giận đuổi ta đi.
Bà ngơ ngẩn xuất thần:
- Ta ra đi cùng với tăng sĩ. Ta bán hết tư trang, cùng người theo bọn lái buôn bỏ xứ ra đi. Chúng ta đến Đại-Việt. Bấy giờ vào lúc triều Lê kiểm soát người Hoa rất kỹ. Ta phải mở cửa hàng bán thuốc. Chàng mang lớp áo tăng sĩ xin vào chùa Tiêu-sơn ở. Chàng được Bố Đại hòa thượng thu làm đệ tử, ở luôn trong chùa, đêm đêm trốn ra gặp ta.
Mỹ-Linh ngắt lời bà:
- Tăng sĩ đó tức là Nguyên-Hạnh đại sư?
- Chứ còn ai nữa. Sau Bố Đại hòa thượng được cử vào coi chùa Sơn-tĩnh. Nguyên-Hạnh cũng vào theo. Ta âm thầm đến mở cửa hàng ở dưới trấn. Chúng ta ăn ở với nhau, đẻ được hai đứa con trai. Lúc chúng lớn lên, Nguyên-Hạnh đem chúng vào chùa Sơn-tĩnh tu, dối là con bá tính.
Thiệu-Thái a lên một tiếng:
- Tôi biết hai đứa trẻ này rồi. Trong chùa hiện có hai tiểu hòa thượng, dung mạo giống đại-sư Nguyên-Hạnh như đúc. Một người pháp danh Hạnh-Chân, một người pháp danh Hạnh-Như.
- Đúng đó. Võ công, Phật học Nguyên-Hạnh ngày càng sáng chói. Y lập ra đoàn Phật-tử Hồng-hương. Cứ mỗi năm vào tháng 6-7-8 mở hội, cho tất cả nam phụ, lão ấu các nơi tụ về tập Thiền. Những việc như thế, không qua mắt được lão hòa thượng Bố Đại. Lão khuyên chúng ta buông dao mổ heo, sẽ thành Phật. Chúng ta bề ngoài vâng dạ cho qua. Nguyên-Hạnh xui ta chế thuốc kịch độc bỏ vào thức ăn cúng dàng. Y khuyên ta chỉ chế thuốc cho lão mê đi, chứ đừng giết lão. Vì Nguyên-Hạnh còn muốn lão dạy cho tâm pháp của Vô nhân tướng thần công. Lão hòa thượng Bố Đại bị trúng độc, Nguyên-Hạnh đem vào đây giam lại.
Mỹ-Linh thấy câu truyện mỗi ngày một huyền bí. Nàng hỏi:
- Thế rồi tại sao lão bà lại bị giam?
- Ta khám phá Nguyên-Hạnh mở Hồng-hương không phải để dạy Thiền, tu đạo gì cả, mà chỉ để dụ dỗ đàn bà con gái đến chùa. Y để ý, người nào đẹp, y bắt giam ở Vọng-nguyệt-đài phía sau núi này, để tối tối bọn y ra hành lạc.
Mỹ-Linh nhớ lại những cô gái hầu đêm trước, người nào chân cũng bị xiềng. Nàng gật đầu tỏ vẻ hiểu biết. Lão bà tiếp:
- Ta được tin ấy, âm thầm theo dõi đến chỗ này, thì bị con Cao Thạch-Phụng phát hiện tông tích. Y thị bắt Nguyên-Hạnh giam ta vào đây, để hành tội.
Thiệu-Thái tỏ vẻ thương hại lão bà Đỗ Lệ-Thanh:
- Họ hành hạ tiền bối bằng cách nào?
Đỗ Lệ-Thanh nghiến răng kèn kẹt:
__ Thông thường khi hai tiện nhân hành lạc, chúng sai tỳ nữ bắt ta đem đến Vọng-nguyệt-đài, bịt miệng, trói vào cái cột. Sau đó hai đứa vào phòng hành lạc với nhau cho ta nhìn, để uất ức mà chết. Nhưng ta vẫn không chết được. Hành lạc chán, chúng ngồi ăn uống cùng nhau, bắt ta nhịn đói. Mỗi khi uất ức quá, ta nghiến răng rên rỉ, chúng tỏ vẻ sung sướng vô cùng.
Đỗ Lệ-Thanh nhìn Mỹ-Linh thương hại:
- Tiểu cô nương. Tiểu cô nương liệu mà tự tử đi thôi, bằng không con tiện nhân Cao Thạch-Phụng sẽ đem tiểu cô nương cho hàng chục người hành lạc. Nó thích ngồi nhìn cảnh con gái lương gia bị hiếp dâm lắm.
Mỹ-Linh nói với Bố Đại hòa thượng:
- Thái sư thúc tổ. Bằng vào luật nhân quả, phái Tiêu-sơn nhà ta thành lập đã mấy trăm năm nay, chỉ chuyên làm phúc. Không hiểu sao nay lại nảy ra vụ Nguyên-Hạnh?
Bố Đại hòa thượng cười:
- Con bé này chỉ nhìn một mặt. Người không nhìn thấy nhiều mặt khác. Ta hỏi người nhé. Khi vua Đinh thống nhất sơn hà. Phái Tiêu-sơn gửi hàng ngàn cao thủ giúp người. Trong hàng trăm trận đánh đó, biết bao nhiêu người bị giết dưới kiếm đệ tử Tiêu-sơn. Nghiệp báo từ đó sinh ra chứ đâu.
Ông toét miệng cười, hai mắt nhắm lại:
- Lại khi Vạn-Hạnh giúp Lê Hoàn đánh Tống, hai mươi vạn quân, ba mươi vạn dân phu chết ở Chi-lăng, chìm ở Bạch-đằng...Oan khí biết bao nhiêu mà kể. Vả lại cái tâm nguyện của chúng ta là dựng lại nước Việt. Khi có tâm nguyện, ắt phải theo. Mà đã theo ắt có nghiệp quả. Vì thế mới có câu Thầy tăng mở nước.
Mỹ-Linh hỏi:
- Thái sư thúc tổ. Đệ tử thường nghe người đời nói Thầy tăng mở nước. Không biết từ đâu mà có câu này?
Bố Đại không cười nữa, ông ngồi ngay ngắn lại:
- Khi nhập môn, Huệ-Sinh đã nói cho con nghe về cuộc truyền tâm ấn của đức Thích-ca mâu-ni cho ngài Ma-ha ca-diếp rồi phải không?
- Vâng. Từ ngài Ma-ha ca-diếp đến ngài Tăng-giả Nan-đà là chín đời, thầy truyền cho trò, theo lối tâm truyền tâm:

1. Ca-Diếp (Kacyapa).
2. A-Nan (Ananda).
3. Thương-na-hòa-tu .(Canavasa).
4. Ưu-ba-cúc-đa (Upaguta)
5. Đề-ca-đa (Dhritaka).
6. Di-già-ca (Micchaka).
7. Bà-tu-mật (Vasusmitra).
8. Phật-đà-nan-đề ( Bouddhanandi).
9. Tăng-giả-nan-đà (Samghananda) và Phật-đà-mật-đa (Bouddhamitra).


Ngài Tăng-giả Nan-đà đến Lĩnh-Nam đúng vào lúc vua Trưng khởi nghĩa, hoằng dương đạo pháp. Sử sách còn ghi ngài qui y cho Trưng Nhị, Hồ Đề. Ngài truyền giới cho Hoàng Thiều-Hoa, Tiên-Yên nữ hiệp, Phật-Nguyệt, và Nghiêm Tử-Lăng. Ngài dạy Thiền-công cho Trần Năng. Nhưng sử không ghi ngài truyền tâm ấn cho ai. Giòng tâm ấn coi như tuyệt. Nhưng Thiền-công thì vẫn còn.
Bố Đại nghe Mỹ-Linh nói, ông hỏi Thiệu-Thái:
- Con lợn, hiểu không?
- Thưa, đệ tử hiểu.
- Khá đấy. Tại Thiên-Trúc, truyền tâm ấn đến đời thứ 28.
Thiệu-Thái tỏ vẻ hiểu biết, chàng gật gật đầu. Bố Đại hòa thượng hỏi:
- Con lợn, người hiểu gì, nói ta nghe.
- Giai đoạn này tiểu bối biết rồi. Tổ thứ 28 là Bồ-đề Đạt-ma cỡi thuyền qua Trung-nguyên, lập ra chùa Thiếu-lâm. Đạt-Ma truyền cho Huệ-Khả. Huệ-Khả truyền cho Tăng-Sán. Tăng-Sán truyền cho ngài Tỳ-ni Đa-lưu chi. Ngài Tỳ-ni Đà-lưu-chi đến Đại-Việt vào năm Canh-Tý (580). Khi ngài đến chùa Pháp-vân gặp tổ Pháp-Hiền, bèn thu làm đệ tử cùng truyền tâm ấn cho. Đó là nguồn gốc phái Tiêu-sơn.
- Rồi sao nữa?
- Tiểu bối nghe nói ngài Tỳ-ni đà-lưu-chi chỉ truyền Thiền-công cho ngài Pháp-Hiền. Võ công vốn có hai phần. Một phần là sức lực tức nội công. Một phần là chiêu thức. Ngài Tỳ-ni đa-lưu-chi chỉ truyền Thiền-công tức nội công. Vậy các chiêu thức của phái Tiêu-sơn ở đâu mà ra?
Bố Đại hòa thượng hỏi Mỹ-Linh:
- Con có biết không?
- Không. Con nghe nói ngoại công phải Tiêu-sơn xuất từ phái Đông-a. Sự thực ra sao?
- Tổ Pháp-Hiền thu nhận đến 300 đệ tử, ngài dạy Thiền-công, giảng kinh cho tăng, chứ không dạy tục gia đệ tử.
Ông ngưng lại:
- Thế nhưng tổ có duyên với chú bé thợ săn. Thành ra tổ không dạy, rồi cũng phải dạy. Chú bé thợ tên Trần Tự-Viễn mồ côi, nhà gần chùa. Chú thường lên chùa lễ Phật nghe kinh. Chú thấy các tăng ngồi ngoài vườn thở hít, thì muốn vào xem. Chú bị đuổi ra. Tức qúa, đêm đêm chú núp trong vườn trộm nghe tổ giảng Thiền-công. Về nhà chú tự luyện. Chẳng bao lâu Thiền-công chú tăng tiến lạ thường. Một ngày vào rừng săn, chú thấy con ưng bắt con rắn. Con rắn chống lại. Chú kiên nhẫn theo dõi, rồi chế ra Ưng-Xà quyền.
Thiệu-Thái gật đầu:
- À phải rồi, cháu đã được coi người ta biểu diễn Ưng-Xà quyền một lần. Cứ tay phải giống như ưng vồ mồi. Tay trái giống như xà tấn công. Thì ra gốc từ đấy.
- Trần Tự-Viễn thường núp coi hổ đánh nhau. Từ đó ông chế ra Hổ-quyền. Ông trở thành thợ săn thiện nghệ. Ông có thể bắt sổng hổ, báo, voi, trăn đem về dạy dỗ hàng đàn trong vườn. Một ngày kia ông vào rừng thấy con nai con, bèn dương cung bắn trúng chân nó, định bắt. Thì một nhà sư nhảy ra vồ con nai, nhảy sang bên kia suối, nhổ tên, thả cho nó đi. Trần Tự-Viễn nổi giận đuổi theo nhà sư, định bắt để trị tội. Nhưng nội công ông thấp hơn nhà sư, nên đuổi không kịp. Ông nhìn xa xa thấy nhà sư chạy vào chùa Tiêu-sơn. Biết trong chùa đông người. Ông trở về nhà dẫn đội binh hổ, báo, voi, chó sói bao vây chùa. Đệ tử trong chùa náo loạn lên, mang gậy chống cự, nhưng không lại. Tổ Pháp-Hiền ra lệnh không được đánh nhau với thú, lên bảo điện nhập thiền hết.



<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.01.2005 02:37:54 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 06.01.2005 18:16:48 (permalink)
    Hồi thứ hai mươi bẩy


    Thầy Tăng Mở Nước



    Câu truyện đến chỗ gay cấn nhất, Bố-Đại hòa thượng móc tay vào vách đá, một viên đá bật ra. Ông chĩa tay vào hốc, nước từ trong vọt ra có vòi. Ông há miệng cho nước bắn vào. Ông uống rất ngon lành. Ông hỏi Mỹ-Linh:
    - Con bé có uống không?
    Không đợi nàng trả lời, ông chĩa ngón tay vào hốc. Nước vọt ra trúng vào miệng nàng. Nàng uống no rồi, ông lại cho vòi nước bắn vào người Thiệu-Thái. Đợi Thiệu-Thái uống xong, ông cầm viên đá lấp cái lỗ lại. Ông cười:
    - Ta biết sau viên đá có suối ngầm, bèn tìm cách cậy đá ra, lấy nước uống. Thôi để ta thuật tiếp. Tự-Viễn dẫn hổ, báo đi khắp bảo điện tìm nhà sư cướp con nai của mình, mà không thấy. Khi ông đến chỗ tổ Pháp-Hiền, thấy tổ đang gõ mõ tụng kinh. Ông đẩy tổ một cái. Tổ không nhúc nhích. Ông vận sức đẩy cái nữa tổ cũng không nhúc nhích. Ông kinh ngạc, vì hàng ngày, ông đẩy một cái, đến voi cũng phải ngã. Cớ sao tổ không ngã. Ông hít hơi, đánh một hỗ quyền vào vai tổ. Ông cảm thấy trời long đất lở, mắt nảy đom đóm, trong tai những vo vo không ngừng. Ông kinh hòang, vận sức đánh một chiêu Hổ-quyền nữa. Lần này tay ông dính vào lưng tổ, gỡ không ra. Tổ chợt ngừng tụng kinh, nhìn ông mỉm cười : Con ngồi xuống đây. Chúng ta có duyên với nhau. Thế là Trần Tự-Viễn được tổ thu làm đệ tử. Ngược lại ông dạy ngoại công cho đồng môn Tiêu-sơn.
    Mỹ-Linh như từ trong tối ra sáng:
    - Thì ra thế. Con nghe người đời nói Ngọai công Tiêu-sơn phát xuất từ phái Đông-a là thế.
    - Đúng. Sau, về già, Trần Tự-Viễn dẫn con cháu đến vùng Thiên-trường, lập ra phái Đông-a. Từ đó đến giờ trải 427 năm. Phái Đông-a nghiên cứu thêm về nội công. Phái Tiêu-sơn nghiên cứu thêm về ngọai công. Cho nên võ công hai phái khác biệt nhau, nhưng đại thể lại giống nhau là thế.
    Thiệu-Thái ngẫm nghĩ một lúc, rồi hỏi:
    - Đại sư đã chỉ cho biết rõ nguồn gốc phái Tiêu-sơn, Đông-a. Nhưng đại-sư vẫn chưa chỉ rõ cho biết nguồn gốc thầy tăng mở nước do đâu mà có.
    Bố Đại cười:
    - Khoan, khoan đã nào. Phái Tiêu-sơn chỉ dạy đệ tử thuộc tăng giới mà không dạy đệ tử tục gia. Truyền qua đời thứ tám, chưởng môn phái Tiêu-sơn là tổ Định-Không. Ngài thấy dân Việt bị cai trị trải gần tám trăm năm, điêu linh vô hạn. Cái họa bị đồng hóa sắp đến. Trong khi quan lại Trung-quốc sang cai trị, đều thuộc loại tàn ác. Ngài muốn lập lại nước Việt. Nhưng bấy giờ người Việt bị cai trị đã trên tám trăm năm, ý thức quốc gia không mấy người chú ý nữa. Ngài phải làm một cái gì cho ý thức ấy sống lại. Ngài đi khắp đất nước, tìm lấy một thế đất phát đế vương, rồi chờ thời cơ, ai có duyên trời cho sẽ được táng mả tổ tiên vào đó.
    Mỹ-Linh hỏi:
    - Thưa sư thúc tổ, ngài có phải chờ lâu không?
    - Ngài không mất công lâu, đã thấy ngôi đất ấy tại làng Dịch-bảng. Ngài mới làm ngôi chùa gần ngôi đất, chùa đó tên Quỳnh-lâm (785) .Trong khi đào đất xây chùa, ngài tìm thấy mười cái khánh và một chiếc lư hương. Khi đem xuống sông rửa, một chiến khánh chìm mất. Ngài nói Mười chiếc là thập khẩu .Chữ thập với chữ khẩu thành chữ Cổ .Một chiếc rơi xuống tức thủy khứ viết chung lại thành chữ pháp. Ngài đặt tên cho thế đất đó tên Cổ-pháp. Ngài nói thế đất này sau sẽ nảy sinh ra một vị đế vương. Ngài làm bài thơ ghi lại sự kiện ấy:

    Địa trình pháp khí,
    Nhất phẩm tinh đồng.
    Tri Phật pháp chi hưng long,
    Lập hương danh chi Cổ-pháp.
    Pháp khí xuất hiện,
    Thập khẩu đồng chung,
    Lý hưng vương, tam khấu thành công.


    Thiệu-Thái không thông Hán-văn, chàng đưa mắt nhìn Mỹ-Linh cầu cứu. Mỹ-Linh giải thích :
    - Bài thơ trên tạm dịch như sau:

    Đất trình ra pháp khí,
    Phẩm chất lại tinh đồng.
    Phật pháp sắp hưng long,
    Làng mang tên Cổ-pháp.
    Pháp khí lại cùng hiện,
    Gồm mười chiếc khánh đồng,
    Họ Lý làm vua, ba phẩm thành công.


    Bố Đại tiếp:
    - Khi tổ Định-Không viên tịch, ngài trối trăn lại cho đệ tử là tổ Thông-Biện rằng Thế đất linh này phải coi sóc cẩn thận. Đừng để người ta phá đi. Cũng đừng để người ta đem xương chôn trộm vào. Tổ Định-Không gìn gĩư trọn vẹn. Khi tổ viên tịch, trối lại cho tổ La Qúi-An (852-936). Trong thời tổ La Qúi-An, thế đất này vượng qúa, chiếu sáng rực lên không. Bên Trung-quốc, các quan Thiên-văn nhìn rõ, tâu lên vua Đường Ý-tông (860-873). Vua Đường nghĩ lại thời vua Trưng, Lĩnh-Nam hùng mạnh làm nghiêng ngả giang sơn nhà Hán. Vua sai quan Thái-sử Cao-Biền sang làm An-nam đô hộ. Trước khi Biền đi, vua ban chỉ dụ An-Nam hiện có nhiều thế đất vượng đế vương. Khanh sang ếm hết đi. Sau đó vẽ bản đồ đem về cho trẫm xem. Biền đến đất Việt, qua núi sông nào có vượng khí y ếm hết. Biền tâu về rằng các thế đất ếm được cả. Duy núi Tản-viên không ếm được. Tổ La Qúi-An biết Biền đào lỗ 19 chỗ, ếm thế đất Cổ-pháp. Tổ bèn lấp lại cả. Trong khi lấp, tổ trồng mười chín cây lê. Đêm đó tổ nhập thiền, rồi làm một bài kệ tiên đoán tương lai đất nước như sau:

    Đại sơn long đầu khởi,
    Cù vĩ ẩn chu minh.
    Thập bát tử định thành,
    Đào thụ hiện long hình.
    Thố kê thử nguyệt nội,
    Định kiến nhật xuất thanh.


    Bố-Đại ngừng lại hỏi Mỹ-Linh:
    - Con nhí. Hiểu không?
    Mỹ-Linh đáp:
    - Đệ tử thấy nghĩa tối quá. Đệ tử hiểu như thề này: đầu rồng nổi lên ở núi lớn. Đuôi rồng dấu sự thịnh vương. Mười tám người sẽ thành công.
    Cây đào hiện ra hình rồng. Trong tháng thỏ, gà, chuột, sẽ thấy mặt trời mọc lên trong trẻo.
    Bố-Đại võ tay vào bụng kêu bồm bộp:
    - Đại sơn long đầu khởi, chỉ vào việc Lê Hòan lên ngôi vua vào năm Canh-thìn (980). Suốt thời gian hai mươi bốn năm thịnh vượng. Cho đến cuối năm Giáp-thìn (1004) linh khí hết. Đó là năm vua Lê lâm bệnh, rồi năm sau băng. Thập bát tử thành để chỉ họ Lý. Chữ Lý gồm chữ thập, chữ bát , chừ tử . Đào thụ hiện long hình, chỉ vào việc Tín-nghiã hầu Đào Cam-Mộc, người khuyên Lý Công-Uẩn lên ngôi vua. Thố, kê, thử nguyệt nội. Thố là con thỏ, kê là con gà, thử là con chuột. Câu này ý nói trong tháng thỏ tức tháng hai, tháng gà tức tháng tám, tháng chuột tức tháng mười một. Trong ba tháng đó, nhà Lý dựng nghiệp, như mặt trời mọc lên trên bầu trời trong sáng.
    Mỹ-Linh được nghe về nguồn gốc sự dựng nghiệp của ông nội mình, nàng không ngờ ngài La-qúi-An sống trước ông nội trên trăm năm mà đã biệt việc mai sau. Nàng hỏi:
    - Bấy giờ có ai giải được ẩn nghĩa này không?
    - Không. Ngài La Quí-An còn quyên góp vàng bạc, đem chôn, dặn đệ tử khi nào có cuộc khởi binh, hãy mang ra dùng.
    Thiệu-Thái hỏi:
    - Đại sư nói rằng thế đất đó do phái Tiêu-sơn trông coi. Trong chùa lúc nào cũng có hàng trăm đệ tử, thế thì ai đến thế đất đó mà táng được?
    Bố Đại cười:
    - Thế mà tổ tiên họ Lý táng được mới kỳ. Nguyên ông thân sinh ra Lý Công-Uẩn không biết họ gì. Ông là người làm ruộng cho chùa. Một ngày ông làm ruộng xong, mệt quá, lại nhân trời lạnh, ông thấy một hàng rào, rào xung quanh một cái hố. Ông vào đó nằm ngủ, rồi chết luôn. Mối đùn đất lên che phủ người ông. Chiều người nhà không thấy ông về, đi tìm, mới hay ông chết. Các tổ Tiêu-sơn thấy vậy, cho rằng ông có phúc được hưởng. Lệnh lấy đất đắp quanh mộ để bảo vệ. Vì vậy con cháu mới phát lên được. Bấy giờ Công-Uẩn mồ côi cha, được sư điệt ta là Lý Khánh-Vân nhận làm con nuôi, cho y mang họ Lý. Do ngôi mộ của bố phát phúc Uẩn mới phát lên được. Sau này Công-Uẩn lên ngôi vua truy phong cho bố làm Hiển-khánh đại vương. Y là người hiếu thuận, nên không trở lại họ mình, vẫn giữ họ Lý của nghĩa phụ.
    Thiệu-Thái hỏi:
    - Khi ngoại tổ của đệ tử được trời táng vào thế đất đó, hào quang ắt chiếu lên mây. Người Hoa họ không biết sao? Họ biết chắc sẽ tìm mà phá chứ?
    Bố-Đại lắc đầu:
    - Phá sao được, vì đệ tử Tiêu-sơn có hàng nghìn, võ công cao cường. Sau khi ngôi mộ kết phát, đem đêm thần linh tụ hội, chầu vào đó. Vạn-Hạnh nhập thiền xuất hồn, được thần linh ban cho bốn bài thơ. Để ta đọc cho mà nghe.
    Ngài đọc lớn:

    Chính Nam Phù-ninh hộ trạch thần,
    Vinh thế nam nữ xuất đa nhân.
    Thiên-đức phú quí mãn ốc thịnh,
    Bát phương, hội nữ thường xuất quân.


    Mỹ-Linh nghe xong, mắt nàng sáng ngời:
    - Như vậy thần linh báo trước việc ông nội đệ tử được thần nhân phù trợ.
    Thiệu-Thái ngơ ngác hỏi:
    - Mấy câu thơ trên nghĩa là gì vậy?
    Mỹ-Linh giảng:
    - Hướng chính Nam của đất Thiên-đức là Phù-ninh, có thần bảo hộ. Thiên-đức tức là châu Cổ-pháp, lộ Bắc-giang, quê của ông nội. Bốn câu này ý nói: ở hướng chính Nam là đất Phù-ninh có thần bảo hộ. Trai gái đều có tài làm vẻ vang cho đời. Trai ý chỉ vào ông nội cùng Vũ-Uy vương, Dực-Thánh vương. Còn nữ ý chỉ thái cô Tịnh-Huyền. Đất Thiên-đức khắp mọi nhà đều giầu sang thịnh vượng. Khi ngôi sao nữ xuất hiện giữa tám phương trời ắt thánh quân xuất hiện. Câu này em không hiểu.
    Bố-Đại gật đầu:
    - Con nhí không hiểu à? Tám phương là gì? Chính là Càn, Khảm, Cấn, Trấn, Tốn, Ly, Khôn, Đòai. Sao nữ ứng với cung Khôn là phương Nam, tức năm Bính-ngọ (1006) năm mà Lý Công-Uẩn được phong chức tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ.
    Mỹ-Linh nghe Bố Đại nói về nguồn gốc tổ tiên mình, nàng mới rõ nguyên nhân tại sao ông nội nàng lại tôn trọng đạo Phật như thế. Nàng hỏi:
    - Thái sư thúc tổ.Như vậy người là đệ tử của tổ La Quý-An sao?
    - Đúng. Sư phụ ta có bốn đệ tử. Đứng đầu là Thiền-Ông thứ đến Sùng-Phạm, Pháp-Bảo. Ta nhỏ nhất. Ngay từ khi sư phụ ta còn tại thế. Người thấy nếu cứ thu đệ tử tăng-lữ, làm sao có nhân tài cứu nước. Từ đấy người ra lệnh cho các đệ tử thu thực nhiều tục gia đệ tử. Do vậy mới có nhiều anh tài cho cuộc khởi binh của Dương Diên-Nghệ, Ngô Quyền, Đinh Tiên-Hoàng. Nhất là đủ nhân tài giúp Lê Hoàn đánh Tống cùng giúp Lý Công-Uẩn lập thành triều đại lâu dài. Từ những việc ấy, người đời dùng danh xưng thầy tăng mở nước để nói về cuộc mưu phục hồi đất Việt lâu dài của phái Tiêu-sơn.
    Mỹ-Linh tìm thấy ở Bố Đại hòa thượng tính hồn nhiên như trẻ con. Tên sư tổ, sư phụ, ông gọi thẳng ra, chẳng kiêng cữ gì cả. Ông nội nàng đường đường đương kim thiên tử, mà ông cũng gọi tên tục, không úy kị.
    Nhà sư nhìn qua cửa sổ:
    - Có lẽ sắp Ngọ rồi đấy. Các người mau ra cửa hang đi. Sẽ có người đem cơm cho các người ăn. Ăn xong rồi vào đây nói truyện với ta.
    Mỹ-Linh cùng Thiệu-Thái trở ra. Cửa hang không rộng cho lắm. Cánh cửa bằng những song sắt lớn hơn ngón tay cái. Ngoài song cửa, ánh nắng hè chiếu xuống rằng cây xanh biếc. Gió núi thổi vào đem theo hương thơm hoa rừng ngào ngạt. Thiệu-Thái hỏi Mỹ-Linh:
    - Em thử đóan xem Nguyên-Hạnh có giết bọn mình không?
    - Giết. Nhất định y phải giết. Bằng không chúng mình thoát ra được, y sẽ bị tru di tam tộc. Hoặc nhẹ ra cũng bị xẻo từng miếng thịt một. Luật bản triều đối với tội phản quốc nặng lắm.
    Mỹ-Linh nói sẽ:
    - Bây giờ em cứ giả tảng như còn bệnh nàm dài ra đây. Anh cũng phải giả vờ lo lắng, để đánh lừa tụi nó. Theo như bà Đỗ Lệ-Thanh, tối thế nào bọn chúng cũng phải đến đem bà đi coi Nguyên-Hạnh với Cao Thạch-Phụng hành lạc. Bấy giờ chúng phải qua chỗ chúng mình. Anh em mình nhân đó đào thóat.
    Mỹ-Linh giả bộ nằm dài ra, thiêm thiếp ngủ. Còn Thân Thiệu-Thái ngồi ôm gối, ủ rũ.
    Không cần chờ lâu, đúng như lời Bố Đại đoán, có một toán thiếu-nữ Hồng-hương đi cùng Cao Thạch-Phụng gánh cơm, nước đến cho tù nhân. Bọn thiếu nữ đem để những bát cơm, bình nước trước cửa các nhà tù. Khi chúng tới cửa phòng giam Mỹ-Linh, thì Cao Thạch-Phụng dòm vào hỏi:
    - Thằng đần kia. Con nha đầu ra sao?
    Thiệu-Thái thở dài:
    - Còn ra sao nữa! Mửa ra máu, hơi thở yếu ớt không biết có qua khỏi đêm nay không?
    Cao Thạch-Phụng nhìn vào, thấy quần áo Mỹ-Linh bê bết những máu. Y thị tin liền, sai thiếu nữ Hồng-hương để cơm trước cửa cho hai người rồi đi. Hai người lấy cơm ra ăn. Đợi trời tối lại vào trong nói truyện với Bố-Đại hòa thượng. Thiệu-Thái chỉ sang phòng bên cạnh hỏi Bố Đại:
    - Đại sư. Còn ai bị giam bên này vậy?
    - Sư huynh của ta đó. Người có pháp danh Sùng-Phạm.
    Mỹ-Linh hỏi lại:
    - Là thái sư thúc tổ Sùng-Phạm. Tại sao Nguyên-Hạnh lại giam người?
    - Vì y điên. Sư huynh cũng như ta luyện được thuật xuất hồn. Nguyên-Hạnh muốn chúng ta truyền cho y. Nhưng y ngu qúa. Thuật này chỉ có người giác ngộ đắc đạo mới học được. Chứ còn người như y tham, sân, si đầy rẫy làm sao xuất được? Vì vậy y giam chúng ta hòai.
    Mỹ-Linh nắm lấy tay Bố Đại giật mạnh:
    - Thái sư thúc tổ. Vì người xuất hồn được, nên biết hết mọi việc của đệ tử phải không?
    - Đúng. Cách đây mấy tháng, ta xuất hồn đi chơi, thấy con bé đến chùa, ta sợ con bé bị Nguyên-Hạnh hại. Ta xuất hồn theo sát. Tất cả những việc con bé làm ta đều biết hết.
    Bây giờ Thiệu-Thái mới hiểu tại sao lúc chàng vừa vào ông đã biết
    hết truyện của mình. Ông ở trong phòng, xuất hồn, thấy rõ tình trạng Mỹ-Linh. Chàng thấy hối hận đã nghĩ oan cho ông.
    Bố Đại vỗ bụng bồm bộp:
    - Con bé có biết không? Lần trước ba đứa vào rừng săn gà, nai nướng ăn. Các người ngồi sờ sờ ra đó, bị người ta cắt mất nửa con nai mà không biết. Con bé có biết ai làm truyện đó không?
    Mỹ-Linh nhớ ra truyện cũ, nàng hỏi:
    - Đúng rồi, hôm ấy đệ tử cùng Thanh-Mai, Bảo-Hòa, ăn gà xong rồi, quay lại mất nửa con nai nướng. Không biết ai ăn vụng. Thái sư thúc tổ có biết quái nhân nào không?
    - Ta biết người cắt nửa con nai nướng. Người đó chỉ cắt, mà không ăn vụng. Vì y ăn chay.
    - À, một hoà thượng? Không biết pháp danh thế nào?
    - Còn ai vào đấy nữa. Thằng cu con Lý-long-Bồ nhờ Huệ-Sinh theo dõi, rồi trong khi bọn ba đứa không để ý, y cắt nửa con nai.
    Nghe Bố-Đại nói Mỹ-Linh cảm động trong lòng:
    - Chú ta thực chu đáo. Chú ẩn thân, làm bọn Tống không biết đâu mà lường. Chú nhờ thân mẫu Bảo-Hòa ra lệnh cho bọn ta dò thám. Dù bọn ta có làm lộ ra, thì bọn Tống vẫn tưởng rằng lệnh của cô ta. Rồi sợ chúng ta không an tâm, người bầy ra trò ú tim trộm thịt nai, như vậy chúng ta biết có cao nhân người nhà bên cạnh, an lòng hành sự.
    Thiệu-Thái ngơ ngẩn xuất thần:
    - Xuất hồn như vậy có khác với chết không nhỉ?
    Bố Đại cười khúc khích:
    - Con lợn ơi. Xuất hồn là khi những người tu Thiền đắc quả. Hồn rời khỏi xác bay đi khắp bốn phương. Khi muốn, lại trở về nhập vào xác. Còn chết là khi cơ thể mục, một trong các bộ phận bất tòan. Bấy gìơ hồn mới lìa khỏi xác, phiêu phiêu tưởng tưởng rồi đi đầu thai.
    Mỹ-Linh chợt nhớ lại một lần nàng thảo luận với sư-phụ, và thái-cô về các thiền sư Tiêu-sơn đắc đạo. Hôm nay gặp Bố Đại hòa thượng, nàng phải hỏi cho rõ ràng hơn:
    - Thái sư thức tổ. Kiếp trước thái sư thúc tổ là ai vậy?
    - Ta là ta. Mà ta cũng chẳng là ai hết. Hết thảy đều là không. Ta định khi nào cái xác này mục, ta sẽ đầu thai trở lại, làm người Việt nữa, quyết xây dựng đất nước này cho chắc, rồi mới đi luôn. Cũng như gã Minh-Không, chưởng môn phái Tiêu-sơn. Gã nguyên sinh tại Tây-trúc, là một Bồ-tát đại đệ tử của Như-Lai tên Tu-bồ-Đề.
    Nghe đến tên Tu-bồ-Đề, Mỹ-Linh bật lên tiếng kinh ngạc:
    - Tu-bồ-Đề à? Không ngờ ngài cũng giáng sinh vào Đại-Việt. Hạnh nguyện của ngài ra sao?
    - Con nhí ngạc nhiên lắm sao? Ta cho mi biết tất cả mười đệ tử của Như-Lai đều thay nhau đầu thai vào Đại-Việt. Minh-Không này mới là Minh-Không thứ nhất. Y sẽ còn đầu thai hai kiếp liên tiếp nữa, cũng giữ nguyên pháp danh.
    Ông chỉ vào phòng giam Sùng-Phạm:
    - Sư huynh ta hồi này thần rất tốt, mà thể không khá. Người định xuất hồn đi luôn. Ngặt vì một đời luyện Thiền-công, khi không bỏ đi thì tiếc. Vì vậy người định tìm lấy một xác nào khỏe mạnh, cho hết công lực. Người có duyên ấy phiêu bạt lên Bắc-biên, bây giờ mới tới.
    —Mỹ-Linh nghĩ đến một truyện:
    - Thái sư thúc tổ. Ví thử bây giờ người chờ lúc Nguyên-Hạnh ngủ, người đuổi hồn hắn ra, nhập vào xác hắn có được không?
    - Không được. Hồn chúng ta xuất ra chỉ có thể tìm những trẻ vừa sinh ra, có xác mà không hồn, nhập vào.
    Có tiếng trầm trầm trong phòng Sùng-Phạm vọng ra:
    - Con nhí không hiểu gì cả. Để ta nói cho mà nghe.
    Ông vẫy tay gọi Thân Thiệu-Thái:
    - Người lại đây.
    Cái vẫy của ông làm Thiệu-Thái không tự chủ được, người chàng bị kéo về phía ông. Ông cầm tay chàng. Tay bóp vào huyệt Nội-quan. Người chàng bủn rủn không còn lực. Ông gật đầu:
    - Thực là đại duyên, ta mới gặp con. Thời gian của ta chẳng còn được bao lâu nữa, để ta nói cho con nghe về việc xuất hồn đầu thai. Phàm khi người ta chết đi. Hồn phách phơi phới, u u mê mê, rồi đi đầu thai. Đầu thai vào cơ thể mới, ít người nhớ lại được tiền kiếp. Chỉ những người tu thiền lâu, hoặc linh mẫn, kiếp sau còn nhớ được một phần những gì kiếp này biết. Còn nếu tu đắc qủa, xuất hồn, khi nhập xác trẻ sơ sinh, mình vẫn còn nhớ hầu hết những gì kiếp trước. Nhưng ở trong xác trẻ, phải chịu cái thơ ấu của xác, nói không được. Rồi lúc lớn lên mới xử dụng kiến thức kiếp trước cộng với kiến thức thu thập kiếp này. Tuổi để hồi tưởng hòan toàn kiếp trước thường từ 12 tới 16. Tuổi đó mình nhớ hết bố, mẹ, anh, em, thầy, học trò, cũng như kẻ thù.
    Ông vỗ tay lên vai Thiệu-Thái:
    - Ta bị Nguyên-Hạnh giam, bởi kiếp trước ta đã bắt giam con chồn hôi trong hang đá. Kiếp này nó đòi nợ. Ta phải trả. Nếu ta chống lại, các kiếp kế tục nó sẽ đòi ta nữa.
    Ông vỗ vai Thiệu-Thái:
    - Hôm nay, ta tìm được con, thu con làm đệ tử, ta mừng lắm. Xác ta mục quá rồi, ta phải xuất hồn đi luôn. Tuy nhiên ta tiếc công lực tu luyện từ sáu tuổi. Bây giờ bỏ xác ra đi, uổng phí quá. Vậy ta cho con hết. Con hãy quì xuống làm lễ bái sư đi.
    Thiệu-Thái quì xuống lạy tám lạy, gọi:
    - Đại sư, cháu không thể bái đại sư làm sư phụ được. Vì cháu đã có sư phụ rồi. Sư phụ của cháu là ông nội cháu. Nếu cháu bái đại sư làm sư phụ, e ông nội cháu đánh chết.
    Sùng-Phạm mỉm cười:
    - Đành vậy. Tiểu thí chủ. Bàn tăng thấy tiểu thí chủ có nhiều phúc trạch quá, nên đem một trăm năm công lực truyền cho thí chủ. Vậy thí chủ hãy quì xuống thề rằng sẽ dùng công lực này khuông phò Đại-Việt, cùng cứu khốn phò nguy.
    Thiệu-Thái định từ chối, nhưng chàng thấy Mỹ-Linh nháy mắt ra hiệu, chàng đành nói:
    - Không cần đại sư truyền công lực, suốt đời cháu cũng chỉ lo bảo vệ Đại-Việt.
    - Tốt quá! Tốt quá. Thí chủ ngồi lại đây, bần tăng nói cho nghe.
    Thiệu-Thái ngồi gần lại bên cửa của Sùng-Phạm. Ông cầm tay chàng bắt mạch, rồi nói:
    - Thí chủ đã luyện tập võ công Tây-vu. Võ công Tây-vu khởi từ thời vua Bà, lấy leo trèo, bay nhảy, bắt chước thú rừng làm khởi điểm. Sau này kiêm thêm một ít võ công Tản-viên. Trải trên ngàn năm qua, các đời sau nghiên cứu rộng thêm ra, mà thành hệ thống. Hà khó quá.
    Bố-Đại hòa thượng cười toe toét:
    - Khó mà thành được, mới đúng hạnh ngộ.
    Mỹ-Linh hỏi:
    - Thái sư thúc tổ, tại sao lại khó?
    - Sư huynh ta muốn đem trăm năm công lực rót vào người con lợn. Con lợn không cần luyện tập, có công lực mạnh ngang với bọn ta. Nhưng có nhiều cái khó khăn. Một là Thiền-công Tiêu-sơn từ trước đến giờ chia thành hai phần. Một phần dạy cho bất cứ người nào luyện cũng thành. Thằng cu Lý Công-Uẩn, Lý Long-Bồ luyện loại này. Đó là Thiền-lực. Còn một loại nữa chỉ truyền cho đệ tử xuất gia, bao gồm Thiền-lực lẫn Thiền-tuệ. Công lực của sư huynh ta thuộc loại này. Khi luyện Thiền-tuệ cần phải ăn chay.
    Mỹ-Linh à lên một tiếng:
    - Đệ tử hiểu rồi. Thiền-công trong người sư thúc tổ là Thiền-công của người ăn chay. Bây giờ truyền vào cơ thể anh Thiệu-Thái, e có chỗ không ổn.
    Đỗ Lệ-Thanh nói vọng sang:
    - Nếu bây giờ lão hòa thượng kia truyền hết Thiền-công cho anh cô. Thiền-công đó sẽ giống như vàng ma đem chôn cất, như người mặc áo gấm đi đêm, không phát huy được.
    Bố-Đại tiếp:
    - Lẽ không ổn thứ nhì là con lợn chưa qui y Tam-bảo, cũng chưa luyện Thiền-công, thành ra không biết phát lực, ví như đứa trẻ ngồi bên kho gạo, mà chịu chết đói vậy.
    Ông nói với sư huynh:
    - Ta cần người có tâm đạo. Con lợn có tâm đạo là đủ. Nó lại phúc trạch không chừng. Biết đâu sau này không gặp cơ duyên nào đó, giải được hai điều khó khăn kia?
    Sùng-Phạm hít một hơi chân khí, hai tay nắm song sắt kéo mạnh. Song sắt dãn ra. Ông chuồn sang hang đá cả Thiệu-Thái. Đỗ-Lệ-Thanh nói vọng sang:
    - Đại sư. Đại sư kéo song sắt cứu đệ tử với!
    Sùng-Phạm vẫy tay:
    - Thí chủ đừng vội. Vận hạn thí chủ còn ba ngày nữa mới hết. Sau ba ngày đó, tự nhiên có người đến cứu thí chủ.
    Ông bảo Thiệu-Thái:
    - Con ngồi yên. Nếu thấy trong người ngứa ngáy cũng không được chống lại, không được lên tiếng.
    Nói dứt lời ông bảo Thiệu-Thái xòe bàn tay ra. Ông ấp hai bàn tay vào bàn tay chàng:
    - Con buông lỏng chân khí, nhắm mắt lại.
    Thiệu-Thái vừa nhắm mắt, chàng cảm thấy người như đi trên mây, khi nóng, khi lạnh. Cứ như thế kéo dài cho đến khi chàng mê đi không biết gì nữa. Rồi chàng mơ mơ tỉnh tỉnh thức dậy.
    Trước mặt chàng, Mỹ-Linh đang quỳ gối đọc kinh. Bên kia Bố Đại hòa thượng cũng đang đọc kinh vãng sinh. Chàng hỏi Mỹ-Linh:
    - Cái gì đã xẩy ra?
    Mỹ-Linh khóc:
    - Thái sư thúc tổ Sùng-Phạm muốn thoát hồn đi lâu rồi. Ngặt vì người tiếc gần một trăm năm luyện Thiền-công, bỏ đi thì tiếc. Người có ý tìm một thân thể khỏe mạnh truyền cho, rồi nhập diệt. Người tìm thấy anh, truyền cho anh hết công lực. Người sắp đi rồi.
    Thiệu-Thái nhìn lại quả thấy xác Sùng-Phạm vẫn ngồi trong tư thế Kiết-già. Miệng nở nụ cười từ ái. Chàng qùi gối xuống lễ tám lễ, rồi khấn:
    - Sư phụ dạy rằng sư phụ sẽ trở lại làm người Đại-Việt để xây dựng đất nước. Con xin nguyện sẽ đem tất cả tâm trí ra giữ gìn non sông này.
    Sùng-Phạm nói rất nhỏ:
    - Thân thí chủ, ta đọc cho người nghe một bài sấm ký, khi ta xuất hồn lần đầu, đã khải ngộ, làm ra. Người theo đó, mà biết lẽ biến động của trời đất.
    Ngài đọc, thanh âm rất nhỏ:

    Thụ mộc diểu diểu,
    Mộc biểu thanh thanh,
    Hòa đao mộc lạc,
    Thập bát tử thành.
    Đông-a nhập địa,
    Dị mộc tái sinh.
    Chấn cung hiện nhật.
    Đoài cung ẩn tinh.
    Lục thất niên gian,
    Thiên hạ thái bình.


    Thiệu-Thái ngơ ngác, hỏi:
    - Đại sư, đệ tử không hiểu ý nghĩa mấy câu kệ này.
    Sùng-Phạm đọc sang tiếng Việt:

    Gốc cây thăm thẳm,
    Cành cây xanh xanh,
    Cây lê ngã xuống,
    Mười tám người thành.


    Điều này ứng rồi đó. Thụ là cây. Căn là gốc. Thọ căn là gốc cây. Trong một nước cũng giồng như cây. Vua là gốc cây. Diểu đồng âm với yểu. Yểu là chết non. Mộc biểu thanh thanh là cành cây tươi tốt. Cành cây là quan, là bầy tôi. Thanh còn đọc là thinh, đồng âm với chữ thịnh. Như vậy một trong các bầy tôi sẽ lên làm vua. Hòa đạo mộc lạc nghĩa là chữ hòa hợp với chữ đao chữ mộc thành chữ Lê . Như vậy là nhà Lê xuống. Thập bát tử là chữ Lý . Vậy mấy câu này ứng với việc nhà Lê mất ngôi về nhà Lý.
    Đến đó tiếng ngài nhỏ dần, trên môi ngài nở nụ cười, mắt nhắm lại. Một tia sáng chói từ đỉnh đầu Sùng-Phạm vọt ra cửa, có tiếng kêu o o vang dội.
    Mỹ-Linh hỏi:
    - Thái sư thúc tổ, rồi sao nữa?
    Không thấy ngài trả lời. Bố-Đại hoà thượng lâm râm đọc kinh vãng sinh, ngài bảo Mỹ-Linh:
    - Sư huynh ta đi rồi. Ta thấy điểm sáng bay về phương Bắc. Giờ này người đã nhập vào một hài nhi mới sinh. Một kiếp luân hồi bắt đầu. Người cũng sẽ gặp các con sau mười sáu năm.
    Mỹ-Linh bắt mạch Sùng-Phạm, quả nhiên đã hết nhảy. Nàng cùng Thiệu-Thái quì xuống lễ tám lễ. Thiệu-Thái khấn:
    - Đệ tử nay mắn được Bồ-tát ban cho một trăm năm công lực. Đệ tử nguyện dùng công lực này vào việc bảo vệ Đại-Việt như tâm nguyện của Bồ-tát.
    Mỹ-Linh chỉ song sắt nói:
    - Thái sư thúc tổ quả thực có tâm bồ đề. Nếu người không muốn giải nghiệp, Nguyên-Hạnh làm sao có thể giam người.
    Thiệu-Thái hỏi Mỹ-Linh:
    - Bài ký của Bồ-tát, ý nghĩa ra sao?
    Mỹ-Linh suy nghĩ, rồi lắc đầu:
    - Khó hiễu quá. Thái sư thúc tổ chỉ giải nghiã bốn câu đầu. Còn bốn câu sau nghĩa như thế này: Đông a nhập địa, nghĩa là cành Đông rơi xuống. Nhưng chữ đông với chữ a hợp lại thành chữ Trần. Như phái Đông-a, có nghĩa là phái võ họ Trần. Đông-a nhập địa là gì? Thì khó mà đoán được. Đến câu dị mộc tái sinh có nghĩa một cây mới sẽ tái sinh, vậy đó là cây mận, cây lê, em đóan bấy giờ họ Lý hoặc họ Lê lại nắm quyền. Còn mấy câu sau, em chịu.
    Bố-Đại cười:
    - Có thế mà cũng không hiểu. Cung chấn là phương Đông. Chấn cung kiến nhật, là Đông phương lại thấy chính vị thiên tử xuất hiện. Đoài cung ẩn tinh, có nghĩa phương Tây một giòng họ nào đó lùi vào bóng tối. Lục, thất niên gian, là trong khỏang sáu, bẩy năm nữa. Thiên hạ thái bình, đất nước sẽ thanh bình.
    Mỹ-Linh xịu mặt xuống, nàng cầm tay Bố-Đại hoà thượng:
    - Thái sư thúc tổ. Nghĩa như thế, nhưng thực tế, thời cuộc ra sao?
    - Ra sao, thì cũng an bài rồi. Biết trước để làm gì. Sau khi rời đây, con nhí, con lợn sẽ gặp nhiều vấn đề nan giải. Ta nhắc lại, dù sao cũng không sợ. Họ Lý cường thịnh đến trên hai trăm năm mà.
    Bố-Đại bảo Thiệu-Thái:
    - Thời cơ đã đến rồi, người bẻ song sắt đi.
    Thiệu-Thái hít hơi, vận sức bẻ thử. Song sắt chỉ hơi chuyển động. Bố Đại cười:
    - Con lợn ơi là con lợn. Thiền công của sư huynh ta thuộc vô nhân tướng công Vậy người phải tập trung tinh thần, bỏ ra ngoài nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt thân, ý, công lực mới phát ra được.
    Thiệu-Thái cố gắng nhắm mắt bỏ hết Lục-tặc ra ngoài rồi vận lực sức kéo mạnh. Hai cái song từ từ trở lại vị trí cũ.
    Bố Đại lắc đầu:
    - Nếu con lợn hiểu được hết lẽ nhân, ngã tứ tướng người chỉ sẽ kéo một cái, các song sắt bị gẫy liền.
    Thiệu-Thái quỳ gối:
    - Xin Đại-sư từ bi hỷ xả thương xót đệ tử chỉ cho thấy rõ cái lý về tính không.
    Bố Đại vỗ tay vào vai Thiệu-Thái:
    - Con lợn nói câu đó là hết lợn tính rồi. Người giác ngộ mau thực.
    Mỹ-Linh nghe anh nói câu đó, nàng cũng mừng, vì chàng thoát khỏi cái u mê của chúng sinh.
    Bố Đại giảng:
    - Ta đã giảng trong kinh Bát-nhã, Kim-cương, Lăng-gìa đều nói về tính không. Ta cũng nói đạo đức Thế-tôn tuy có hàng vạn pháp môn, nhưng thu về chỉ một mối. Cũng như đức Thế-tôn dạy đạo của ta không có chỗ khởi đầu, cũng không có chỗ tận cùng là thế.
    Thiệu-Thái tỉnh ngộ, gật đầu liên tiếp, tỏ vẻ hiểu biết. Ngược lại Mỹ-Linh ngơ ngác không hiểu gì.
    Bố Đại tiếp:
    - Từ khi đức Thích-ca mâu-ni đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác rồi đi thuyết pháp trong mấy chục năm. Thường người nào có nhân duyên, chỉ nghe qua, là vào cửa Bồ-đề liền. Trong khi người thông minh, nghe lại không giác ngộâ được. Như khi ngài Tăng-gỉa Nan-đà thuyết pháp tại hồ Động-đình, thông minh tuyệt thế như Trưng Nhị lại không giác ngộ được. Trong khi Phật-Nguyệt, Trần Năng ngộ ngay. Lại như trong trận đánh đồi Vương-sơn. Hiện diện có hàng trăm người. Thế mà ngài tụng kinh Lăng-gìa, Bát-nhã lên, duy Trần Năng giác ngộ, áp dụng vào việc xử dụng thần công tại chỗ. Còn lại đều không thấu được. Cũng như việc tổ Pháp-Hiền đắc pháp vậy... con nhí hiểu chưa? Con nhí học nhiều, cực kỳ thông minh, nhưng vô duyên, nên không hiểu. Còn con lợn, tuy ngu tối, nhưng có duyên, độp một cái hiểu liền.
    Thiệu-Thái hỏi:
    - Bạch đại-sư, truyện tổ Pháp-Hiền đắc pháp ra sao?
    Bố Đại bảo Mỹ-Linh:
    - Con nhí nói cho con lợn nghe đi.
    Mỹ-Linh đã nghe nói hàng trăm lần giai thoại này, nàng thuật:
    - Ngày nọ, Bồ-tát Tỳ-ni Đa-lưu-chi đến Đại-Việt. Sau khi vân du khắp nơi, ngài nghe nói chùa Pháp-vân nơi hòa thượng Pháp-Duyên làm phương trượng, có hơn ba trăm tăng chúng tu học. Ngài chống gậy tới tìm người thừa kế tâm ấn. Tới nơi, ngài rung chuông. Chú tiểu Pháp-Hiền chạy ra mở cổng. Chú thấy một hòa thượng da đen, biết ngài từ Tây-Trúc qua. Chú thụp xuống lạy. Bồ-tát hỏi:
    - Chú tiểu tên gì?
    Pháp-Hiền hỏi lại:
    - Thầy tên gì?
    Bồ-tát lại hỏi:
    - Chú tiểu có tên không?
    Pháp-Hiền đáp:
    - Tên thì ai mà chẳng có. Đố thầy biết tôi tên gì?
    Ngài quát lên:
    - Biết để làm gì?
    Pháp-Hiền tỉnh ngộ, quỳ xuống lạy, và được truyền tâm ấn.
    Bố Đại hỏi Thiệu-Thái:
    - Lợn hiểu không.
    Thiệu-Thái cung kính thưa:
    - Bạch đại-sư. Bồ-tát muốn biết tổ Pháp-Hiền đã thoát ra khỏi cái vòng nhân ngã tứ tướng đầu tiên là ngã tướng chưa, mới hỏi Chú tiểu tên gì.Quả nhiên ngài Pháp-Hiền còn trong vòng u mê, còn nguyên sắc tướng. Ngài coi cái tên quan trọng vô cùng, nên hỏi Hòa thượng tên gì. Bồ-tát muốn thử lại một lần nữa Chú tiểu có tên không?. Không những tổ Pháp-Hiền chưa thoát khỏi u mê, coi cái tên quá quan trọng, hỏi Đố thầy biết tôi tên gì?. Bồ-tát mới quát lên Biết để làm gì?. Bấy giờ tổ mới tỉnh ngộ, quỳ xuống lạy.
    Bố Đại giảng tiếp:
    - Cái tính không là thế. Trong nhân ngã tứ tướng thì Ngã tướng tức tướng của mình quan trọng hơn hết. Nếu có bỏ ra được cái ta, xóa cái ta đi, mới không có cái người tức Nhân tướng. Khi không có nhân tướng, đương nhiên không có nhiều nhân tướng. Nhiều nhân tướng tức thành Chúng sinh tướng. Cho nên Thiền-công nhà Phật có ba lọai. Một là Vô ngã tướng tưởng bị thất truyền. May đâu còn chép trong di thư Lĩnh-Nam, mà con nhí học được. Hai là Vô nhân tướng truyền vào Trung-nguyên qua ngài Bồ-đề Đạt-ma, và truyền vào Đại-Việt qua ngài Tỳ-ni Đa-lưu-chi. Còn Vô chúng sinh tướng thần công là tổng hợp của Vô ngã tướng và Vô nhân tướng. Trước kia tưởng thất truyền vì Vô ngã tướng không còn. Nay tìm lại được, hợp với Vô nhân tướng thì coi như không mất.
    Mỹ-Linh hỏi:
    - Thái sư thúc tổ. Xin người chỉ cho đệ tử phương pháp hợp hai thức nhân, ngã lại.
    Bố Đại cười:
    - U mê. U mê. Giác ngộ phải tự mình chứ ai dạy được? Phàm phép tu Phật, đắc pháp là đắc pháp, chứ làm gì có sắp đắc pháp, họăc đắc pháp một nửa họăc đắc pháp chút chút.
    Thiệu-Thái đến trước cửa sổ của Bố-Đại, chàng nói vọng vào:
    - Đai-sư. Đệ tử bẻ song cho đại-sư ra. Chúng ta cùng đi tìm Nguyên-Hạnh tính tội y.
    Bố Đại cười:
    - Con lợn. Nếu ta muốn ra, ta bẻ lấy không được sao? Ta cứ ngồi đây cho đến khi nào hết nghiệp quả thì thôi.
    Mỹ-Linh bảo Thiệu-Thái:
    - Trước khi sư phụ xuất hồn, người dặn rằng anh phải nhắc tảng đá bên kia, bỏ nhục thể người vào đó.
    Thiệu-Thái đến bên tảng đá lớn. Chàng hít một hơi chân khí, không tâm đẩy mạnh. Viên đá từ từ lui sang một bên, để hở ra một hang động vuông vức mỗi chiều khoảng mười thước. Chàng kính cẩn mang nhục thể sư phụ bỏ vào đó, rồi đẩy tảng đá che lại.
    Vừa lúc đó có nhiều tiếng chân người đi lại. Tiếng Nguyên-Hạnh hỏi:
    - Thằng cha Sùng-Phạm đâu rồi?



    <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.01.2005 02:41:08 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 06.01.2005 18:18:14 (permalink)
      Hồi thứ hai mươi tám


      Nga Sơn Khoái Lạc



      Mỹ-Linh nhanh nhẹn, giả vờ bị bệnh nằm dài trên tảng đá.Thân Thiệu-Thái lại ôm gối ủ rũ nhìn trời. Nguyên-Hạnh không thấy Sùng Phạm đâu y hỏi Bố Đại hòa thượng:
      - Sư phụ. Sư bá đâu rồi.
      Bố Đại cười hềnh hệch:
      - Vẫn còn đâu đó.
      Cao Thạch-Phụng nghe nói bực mình:
      - Thôi đi anh. Em không muốn nhìn cái thằng bụng bự này chút nào cả.
      Nguyên-Hạnh lấy chìa khóa mở cửa sắt. Y vào trong hang đá tìm kiếm vết tích Sùng-Phạm. Tìm một lúc y hỏi Thạch-Phụng:
      - Các song sắt vẫn y nguyên. Không lẽ y có phép tàng hình.
      Nói rồi y kiểm sóat lại các phòng giam. Không thấy mất người nào, y yên tâm hỏi lại Thạch-Phụng:
      - Em có thả y ra không?
      Thạch-Phụng nhăn mặt:
      - Em cũng đang định hỏi anh câu đó.
      Nguyên-Hạnh chạy sang cửa giam Thiệu-Thái:
      - Thân thế tử. Người có thấy nhà sư gầy ở bên cạnh không?
      Thiệu-Thái gật đầu:
      - Có. Tôi thấy ông ngồi Kiết-gìa, rồi người cứ nhỏ dần lại. Cuối cùng ông chui qua song cửa, đi mất.
      Thạch-Phụng hơi tin:
      - Có thể y luyện thành phép co xương cũng nên.
      Nguyên-Hạnh liếc nhìn vào trong hang hỏi:
      - Thế nào Thân thế tử, người vẫn bình thường chứ? Trong mấy tháng qua người là khách qúi của bản tự. Thế mà đêm ngày người cứ tưởng nhớ cô công chúa thiên kim Bình-dương. Bây giờ bần tăng cho người sống chung với công chúa, chắc người vui lòng lắm?
      Cao Thạch-Phụng nhìn Thiệu-Thái, lòng đầy thù hận:
      - Mi sướng nhé. Hãy cùng con nha đầu hưởng thú Vu-sơn đi, rồi ta sẽ cho tụi bay về bên kia thế giới. Đúng ra mi là cháu nội của một đệ nhất cao thủ võ lâm Thân Thiệu-Anh, con của vua Bà 207 khê động Bắc-biên. Chúng ta không dại gì mà gây hấn với họ. Nhưng mi biết hết bí mật của chúng ta. Chúng ta phải giết mi để phi tang.
      Y thị chỉ Mỹ-Linh:
      - Huống hồ con nha đầu kia là cháu yêu của Lý Công-Uẩn. Hai đứa bọn mi đẹp thế này mà giết đi thực uổng.
      Hai người bàn truyện một lúc rồi sóng vai ra đi. Đỗ Lệ-Thanh bảo Thiệu-Thái:
      - Thế tử. Xin thế tử cứu tôi ra khỏi đây. Tôi nguyện sẽ đem hết tất cả những bí mật của cách trị cùng xử dụng Nhật-hồ độc chưởng truyền cho thế tử.
      Thiệu-Thái lắc đầu:
      - Tại hạ không thích học độc chưởng, mà chỉ muốn học cách chữa mà thôi. Đỗ phu nhân, tại hạ hứa cứu phu nhân ra khỏi đây.
      Đỗ Lệ-Thanh mừng rú:
      - Thế tử. Bây giờ chúng ta phải hành động như thế này. Nếu thế tử bẻ song sắt, chúng ta thoát ra. Nguyên-Hạnh biết đại sự bị lộ, ắt y trốn biệt. Vậy ngay đêm nay thế tử ra ngoài kiếm lấy bốn người đem vào đây. Chúng ta giam họ vào các hang động, rồi chất củi đốt. Khi Nguyên-Hạnh hay tự sự, tới nơi quan sát. Y cho rằng Thạch-Phụng thiêu chúng ta. Y yên tâm. Trong khi đó chúng ta trốn ra ngoài, công chúa đem đại binh đến bắt hết đồ đảng của chúng.
      Thiệu-Thái định lắc đầu từ chối mưu kế này, vì chàng không muốn giết người. Nhưng Mỹ-Linh đã gật đầu:
      - Mưu kế của phu nhân hay thực. Bây giờ chúng tôi cần dò thám tình hình của Nguyên-Hạnh đã.
      Trời đã tối hẳn. Thiệu-Thái vận khí bẻ cong song sắt. Chàng với Mỹ-Linh chuồn ra ngòai. Hai người hướng chỗ có ánh sáng lần tới. Thiệu-Thái vừa nhảy một cái, người chàng vọt lên cao, súyt nữa chạm vào cành cây, rồi từ từ rơi xuống như chiếc lá. Chàng kinh ngạc, dừng lại tự hỏi:
      - Tự nhiên sao ta lại nhảy cao thế này? Ta chết rồi thành ma chăng?
      Chàng hít hơi nhảy cái nữa. Lần này người chàng vút lên trên không. Chàng đáp vào cành cây nhẹ như con chim. Chàng hỏi Mỹ-Linh:
      - Mỹ-Linh, cái gì vậy?
      Mỹ-Linh vẫy chàng nhảy xuống rồi nói:
      - Anh quên mất rằng trong người anh có 100 năm công lực của sư tổ Sùng Phạm à?
      Thiệu-Thái chợt hiểu. Hai anh em dắt nhau hướng dãy nhà có ánh sáng lần tới. Đây là ngôi nhà lợp ngói, tường gạch rất đẹp. Trong có nhiều tiếng nhã nhạc vang lừng. Hai người khẽ nhún chân một cái, đáp nhẹ nhàng trên mái ngói. Thiệu-Thái vận sức vào ngón tay, từ từ chọc thủng hai lỗ cho chàng với Mỹ-Linh nhìn xuống.
      Trong phòng, hơn mười cái bàn. Cái nào cũng đầy các món ăn trân qúi. Sau mỗi bàn một cắp trai gái ôm nhau. Liếc qua,Thiệu-Thái thấy có Nguyên-Hạnh với bọn Triệu Thành. Còn bọn Chiêm-thành, Lão-qua không có mặt. Chàng đưa mắt tìm, không thấy Minh-Thiên đâu.
      Ngoài trừ Nguyên-Hạnh ôm Cao Thạch-Phụng. Còn bọn Triệu Thành, đều ôm gái trong lòng. Mỗi người còn có một thiếu nữ đứng cạnh rót rượu hầu. Đối diện với dãy bàn, có khoảng hai mươi thiếu nữ đang tấu đủ các thứ nhạc khí. Mỹ-Linh nhìn cảnh đó, nàng chửi thầm:
      - Bọn Tống đáng chết thực. Chúng mưu tính kế họach lâu dài, gửi vợ chồng Nguyên-Hạnh sang đây lập nghiệp trước. Chúng đội lốt cao tăng, còn ai dám đụng đến chúng nữa. Thế lực Hồng-hương, Sơn-tĩnh của chúng thực không nhỏ. Nếu ta có tố cáo, chưa chác ông nội đã tin. Mà dù có tin, khó mà người dám thẳng tay với chúng.
      Tay cầm chung rượu uống, tay ôm thiếu nữ Hồng-hương trong lòng, Triệu Thành hỏi Nguyên-Hạnh:
      - Này Long-biên quốc công. Người thử nghĩ coi, lúc ra đi ta đâu có ngờ thành công đến độ này. Ta mang theo hơn trăm nén vàng, tiêu vung vãi, chỉ hết có mười nén. Trong khi bọn Chiêm, bọn Lão dâng ta không biết bao nhiêu ngọc ngà. Chỉ nguyên mặt này ta lời gấp ngàn lần. Nhà Đại-Tống ta mất có mấy tờ giấy, lập tức khiến cho bọn Lào đánh bọn Lào. Bọn Chiêm đánh bọn Chiêm. Bọn Việt đánh bọn Việt. Đợi cho chúng chém giết nhau chán, ta tung mẻ lưới, ba nước trở thành quận huyện Đại-Tống.
      Nguyên-Hạnh cười nhe hàm răng cải mả ra:
      - Hôm rồi vương gia gỉa phong cho tiểu nhân làm Thông-huyền bồ-tát và phong cho Thạch-Phụng làm Túc không quan-âm bọn chúng tưởng tiểu nhân thành Bồ-tát, Túc-không thành Quan-âm thực.
      Đông-Sơn lão nhân gật đầu:
      - Trong khi chức tước thực của đại nhân là Long-biên quốc công, Đô nguyên soái. Giao-chỉ kinh lược sứ.
      Địch Thanh hướng vào Nguyên-Hạnh:
      - Đô nguyên-soái. Khi mới sang, tiểu tướng nghe nói đô nguyên-sóai học được thuật Liên-thành kỵ mã và Nga môn khoái lạc. Xin Nguyên-soái đừng tiếc công chỉ dạy.
      Triệu Thành phụ họa:
      - Phải đấy hôm nay ghi ngày thành công, Nguyên-soái bầy cho chúng ta chơi một bữa thực thỏa thích.
      Nguyên-Hạnh cười nhe hàm răng vổ ra trông thực khả ố:
      - Được, được, tiểu tướng đã chuẩn bị sẵn rồi.
      Y ngừng lại uống một chung rượu rồi tiếp:
      - Trước hết xin nói về Nga-môn khoái lạc. Nga tức là con vịt hay con ngỗng. Nga môn là dùng hậu môn con vịt, hay con ngỗng làm chỗ giao-hoan.
      Vương Duy-Chính ngẩn người ra:
      - Giao hoan với ngỗng?
      - Đúng. Khi một người đàn ông, một vì cao niên, hai vì sức kiệt, truyện phòng sự ngày một yếu, phải dùng pháp này mà trị. Ngoài ra người khỏe mạnh dùng pháp này ắt khoái lạc không thể tưởng được. Trước hết mua con vịt hoặc ngan, họăc ngỗng thực lớn, về tắm rửa sạch sẽ. Sau đó để cho thực đói. Lúc sắp giao hoan đem ra đổ rượu thực đầy bụng vịt. Cuối cùng, cần hai người. Mỗi người đứng một bên bàn giữ một chân, một cánh cho vịt không dãy được. Người muốn giao hoan đem đương vật nhét vào đít vịt. Một người cầm dao nhắm đầu vịt chặt một nhát sao cho đầu vịt đứt thực ngọt. Con vịt bị đứt đầu, nhưng vẫn chưa chết. Nó dãy dụa một lúc lâu sau mới ngừng. Khi nó dãy dụa, con người giao hoan sướng không thể nào tả siết.
      Triệu Anh hỏi:
      - Thế những người đàn ông lệ chảy chứa chan ngoài quan ải thì làm sao hưởng được thú này?
      Nguyên-Hạnh ngơ ngác:
      - Cái gì mà Lệ chảy chứa chan ngoài quan ải?
      Cả bọn Triệu Thành cười ồ lên. Triệu Huy giảng:
      - Tức bọn chưa đến chùa đã đọc kinh.
      Nguyên-Hạnh vẫn lắc đầu không hiểu:
      - Chưa đến chùa đã đọc kinh à? Thiếu gì người đọc kinh ngoài đường.
      Triệu Huy nói nhỏ:
      - Ý tôi muốn nói những người bị bệnh gà?
      Nguyên-Hạnh cau mày:
      - Ho gà à?
      Biết Nguyên-Hạnh dốt nát, Triệu Huy giảng:
      - Khi người đàn ông nhậy cảm, chưa chui đầu vào hang đã xuất tinh, được gọi là khóc ngoài quan ải, hoặc chưa đến chùa đã đọc kinh. Hoặc như con gà trống đạp mái, nhảy lên lưng con mái, rồi xuống ngay. Vì vậy tôi mới hỏi: lỡ ra khi con vịt vừa dẫy mấy cái, tinh xuất ra, còn ích lợi gì nữa?
      Nguyên-Hạnh cười:
      - Dĩ nhiên, nó dẫy mấy cái tinh xuất. Sau khi tinh xuất dương vật chúng ta bị teo lại. Thế nhưng đít vịt cũng khép chặt. Dương vật vẫn bị giữ chặt. Con vịt dãy dụa, chỉ mấy cái dương vật lại cử lên. Lần này mới thú tuyệt, phải lâu lắm tinh mới xuất ra. Trong khi đó, con vịt rung rung, cảm giác đến tuyệt vời.
      Nguyên-Hạnh hỏi:
      - Có vị nào muốn thưởng thức Nga môn khoái lạc trước?
      Dư Tĩnh đứng lên:
      - Xin nguyên soái cho tiểu tướng thưởng thức trước.
      Nguyên-Hạnh vẫy tay một cái, từ trong nhà, bốn thiếu nữ Hồng-hương thướt tha bước ra. Hai người mặc quần áo đỏ chói. Một người xách con ngỗng, một người xách con dao với cái thớt. Hai người nữa mặc quần áo xanh. Dường như quen thuộc với lối hành lạc này. Các thiếu nữ hầu rượu cũng như các thiếu nữ nằm trong tay đàn ông...đều dửng dưng đưa con mắt nhìn. Một thiếu nữ áo xanh kéo ra cái bàn với cái ghế thấp. Nàng kính cẩn tới trước Dư Tĩnh cúi rạp người xuống:
      - Kính thỉnh đại nhân lên đỉnh Vu-sơn.
      Nàng hướng dẫn Dư Tĩnh đến ngồi trên chiếc ghế, khoan thai cởi quần, áo y ra, rồi hất hàm ra lệnh. Lập tức hai thiếu nữ áo hồng nhanh nhẹn để con ngỗng nằm sấp. Hai nàng chia nhau, mỗi người cầm cánh và chân con ngỗng, giữ chắc. Con ngỗng kêu lên mấy tiếng lớn. Nó nào có hiểu số phận đen tối của nó!
      Một thiếu nữ áo xanh hai tay căng miệng con ngỗng ra. Một nàng khác cầm chung rượu đổ vào miệng nó. Sau khi đổ hết một bình rượu rồi, lui lại. Một thiếu nữ áo đỏ hướng vào Dư Tĩnh:
      - Kính thỉnh đại nhân.
      Dư Tĩnh cầm qui đầu nhét vào đít con ngỗng. Một thiếu nữ áo xanh nhanh nhẹn đè cỗ con ngỗng xuống, rồi vung dao. Bộp một tiếng đầu con ngỗng đứt rời. Thân nó dẫy lên đành đạch. Nhưng hai thiếu nữ áo đỏ gĩư chặt quá nó vẫn không bị văng khỏi vị trí.
      Dư Tĩnh ngả người trên ghế. Y nghiến răng thực chặt. Hai mắt lim dim như đưa hồn vào giấc mộng. Khoảng ăn xong bữa cơm, con ngỗng không còn dãy dụa nữa. Dư Tĩnh đứng dậy. Bọn Tống nhao nhao hỏi:
      - Thế nào? Cứ nhìn đôi mắt lim dim, chúng ta cũng biết khoái lạc đến cực điểm.
      Dư Tĩnh mỉm cười:
      - Tuyệt! Tuyệt! Không thể tưởng tượng nổi.
      Y lết chân trở về chỗ ngồi.
      Nguyên-Hạnh đứng lên, cầm hũ rượu mầu nâu rót đầy vào một chung lớn. Y bưng đến trước mặt Dư Tĩnh:
      - Nào mời kinh lược sứ cạn chung này.
      Dư Tĩnh bưng chung rượu uống cạn. Y thở ra thực mạnh:
      - Chà rượu ngon quá.
      Nguyên-Hạnh cười:
      - Sau khi hưởng Nga môn khoái lạc xong, phải uống rượu tắc-kè, sức lực mới mau bình phục. Bình rượu này tôi ngâm bằng 36 con tắc kè vùng núi Nga-sơn đấy. Các vị nên biết tắc kè bổ dương cực kỳ mạnh. Phàm lão ông bẩy tám chục tuổi, chỉ cần ăn ba con tắc kè vẫn có thể nghênh chiến với mấy cô thanh nữ liền. Trong con tắc kè quan trọng nhất là cái đuôi, để mất cái đuôi, coi như...mất phân nửa hiệu qủa. Trong bình rượu này tôi còn ngâm thêm Sà sàng tử nữa. Sà-sàng-tử vừa bổ thận vừa thanh não, khiến tinh thần minh mẫn.
      Triệu Thành gật đầu:
      - Hay tuyệt. Thế còn thuật Liên-thành kỵ mã thế nào?
      Nguyên-Hạnh kính cẩn đứng lên:
      - Thuật này còn có tên là Thất tinh liên thành kỵ mã. Trên thượng giới có bẩy ngôi sao, kết thành chòm Bắc-đẩu. Dưới đất chúng ta có núi, sông, hồ, cây, thú, nước, lửa. Hợp trên với dưới là ứng với thiên tượng. Phép hành lạc này cần tới bẩy cô trinh nữ. Nếu không đủ bẩy trinh nữ thay bằng bẩy thiếu nữ cũng được. Các thiếu nữ phải không bệnh tật. Trước khi hành lạc cho ăn uống toàn những thứ bổ âm như yến-sào, thục-địa, kỷ-tử nấu với lươn, hay cá trê. Sau khi ăn trong bẩy ngày, bắt đầu hành lạc.
      Đông-Sơn lão-nhân hỏi:
      - Trường hợp không có đủ bẩy thiếu nữ, cũng không có đủ các vị thuốc nuôi thiếu nữ thì sao?
      - Cũng được. Song chỉ khoái lạc, mà sức khỏe cũng như trường sinh bất lão không đạt được.
      Nguyên-Hạnh vẫy tay. Từ bên trong, bẩy thiếu nữ tuổi còn rất trẻ, mặc quần lụa đen, áo mầu vàng lợt, cúi đầu bước ra, đứng giữa nhà. Y chỉ bẩy thiếu nữ:
      - Bẩy tiểu cô nương này, tôi đã đem về đây từ hơn tháng nay, nuôi toàn bằng các vị bổ, để đợi vương gia cùng các vị từ Chiêm-quốc cùng nhau ...hưởng. Ngày nào tôi cũng cho tắm nước suối, đi dạo trong vườn đầy hoa, để hấp mùi hương. Bây giờ bắt đầu. Chúng ta cũng phải bẩy người. Ở đây có tới tám người. Tôi đã hưởng nhiều rồi, xin để lúc khác. Mỗi vị chọn lấy một cô nương. Sau đó chúng ta làm thành vòng tròn. Cứ một vị cô nương, một vị xen vào. Nào mời.
      Triệu Thành chọn trước, rồi tới Đông-Sơn lão nhân. Người cuối cùng không được chọn, phải nhận thiếu nữ còn lại là Triệu Huy. Nguyên-Hạnh cho cô gái của Triệu Thành đứng đầu. Triệu Thành đứng sau cô. Kế tiếp cô của Đông-sơn lão nhân, rồi tới lão. Cứ như thế cuối cùng Triệu Huy đứng trước cô gái của Triệu Thành. Vòng tròn Thiên-cương đã thành.
      Nguyên-Hạnh vẫy tay. Các cô gái hầu rượu bưng rượu, rót ra chung đưa tận miệng cho bẩy gã đàn ông uống. Rượu cạn, Nguyên-Hạnh vỗ tay:
      - Tất cả ngồi xuống.
      Vòng tròn Bắc-đẩu đang từ vị thế đứng, hóa ra vị thế ngồi. Nguyên-Hạnh hô:
      - Thoát y.
      Bẩy thiếu nữ áo xanh chạy ra cởi quần áo cho bẩy gã đàn ông.
      Nguyên-Hạnh nói:
      - Mỗi vị hãy cho miệng vào âm-khẩu thiếu nữ của mình. Hai tay vòng ra ôm lấy đùi họ.
      Trong khi bọn đàn ông làm theo lệnh Nguyên-Hạnh, bẩy thiếu nữ hé miệng trái đào ngậm vào qui đầu của người ngồi trước mình.
      Thế là 14 người, cứ một nam, lại một nữ hút khí của nhau. Trong khi đó, cuối phòng gần hai chục thiếu nữ tấu nhạc. Nguyên-Hạnh đắc chí đưa mắt nhìn Cao Thạch-Phụng. Mặt y thị trông thực khó coi, mắt lườm lừơm nhìn Nguyên-Hạnh.
      Thời gian trôi qua, khoảng gần nửa giờ (giờ cổ bằng hai giờ ngày nay). Cái vòng Bắc-đẩu đứt ra làm bẩy khúc. Các cô gái đã buông bẩy gã đàn ông ra. Chỉ còn bẩy gã bám các nàng mà hút.
      Nguyên-Hạnh hô:
      - Ngừng.
      Y bưng rượu mời bẩy gã đàn ông uống:
      - Chắc các vị đã được đàn bà mút qui đầu. Sau khi họ mút xong, các vị mệt nhừ. Nhưng hôm nay, ngược lại các vị cảm thấy khoẻ mạnh, tinh thần sảng khoái phải không. Đó là sự khác biệt giữa hành lạc thông thường với Thất tinh liên thành kỵ mã. Tối nay, mỗi vị ôm cô gái của mình mà giao hoan.
      Thiệu-Thái định rủ Mỹ-Linh dò thám chỗ khác, thì không thấy nàng đâu. Nguyên Mỹ-Linh là công chúa, cành vàng lá ngọc, từ bé nàng sống đạo đức trong cung cấm, không được gặp đàn ông. Những người đàn ông nàng gặp toàn thái-giám hoặc anh em ruột. Từ khi theo Khai-quốc vương đi ra ngoài, tuy có gặp đàn ông nhưng cũng chưa từng nghe người nào nói tục. Nay phải chứng kiến cảnh dâm đãng cùng cực. Nàng bỏ ra đầu mái nhà ngồi.
      Thiệu-Thái vẫy Mỹ-Linh, bỏ dãy nhà này, hướng dẫy nhà phía sau lần tới. Bên trong có nhiều tiếng nói vọng ra. Hai người núp sau cửa sổ dòm vào. Có tiếng người nói rì rầm. Trong phòng, có hơn mười cái giừơng, trên giừơng đều có người nằm, trùm mền kín mít rên rỉ. Thiệu-Thái tự hỏi:
      - Không biết đây là chỗ Nguyên-Hạnh diễn trò ma trò qủi gì mà lại có những người bị thương tích thế này.
      Một người đàn ông mở cửa bước vào. Y đi khắp các giường bắt mạch từng người một, rồi đến cái bàn, mở bình lấy thuốc, cậy miệng từng người một bỏ vào. Thiệu-Thái đoán đó là thầy lang trị bệnh. Lát sau Cao Thạch-Phụng vào. Y thị hỏi:
      - Thế nào. Bao nhiêu người chết rồi?
      - Chín người chết. Còn lại mười một người này e cũng khó qua khỏi.
      Cao Thạch-Phụng hừ một tiếng, rồi nói:
      - Hôm qua, ta sai hai mươi thiếu niên Hồng-hương theo dõi bọn khách bán thuốc rong suốt một ngày. Chiều họ trở về còn khỏe mạnh. Không hiểu sao sáng nay, khám phá ra chín người chết, mười một người bị thương đang trong tình trạng hấp hối.
      Thầy lang chỉ vào những người bệnh:
      - Thưa Quan-âm, những người này người đều đỏ như son, mũi, mồm, mắt ứa máu ra không ngừng. Tiểu nhân không biết họ đã trúng phải chưởng lực gì kỳ lạ. Chưởng này chưa từng xuất hiện ở Đại-Việt, nên tiểu nhân đành bó tay.
      Có tiếng chân người đi tới. Nguyên-Hạnh bước vào. Y hỏi:
      - Sự thể ra sao?
      Cao Thạch-Phụng lắc đầu:
      - Hai đội Hồng-hương thiếu niên được lệnh theo dõi bọn khách bán thuốc dạo. Chiều về còn khỏe mạnh. Đến sang nay khám phá ra chín người chết, mười một người trong tình trạnh nửa sống nửa chết.
      Nguyên-Hạnh lật mấy người bị thương lên coi. Mặt hắn tái đi, lùi lại:
      - Nhật-hồ chu-sa độc chưởng.
      Cao Thạch-Phụng cau mày:
      - Chưởng này ra sao, em chưa từng nghe qua.
      Nguyên-Hạnh ra lệnh cho thầy lang ra khỏi phòng, rồi nói:
      - Chưởng này nguyên của bang Nhật-hồ do họ Đỗ ở Trường-bạch độc bá biết luyện. Năm xưa bang trưởng Đỗ Ngạn-Tiêu danh trấn Trung-nguyên với 18 chưởng độc. Đỗ Ngạn-Tiêu là cha của mụ đó.
      Thạch-Phụng run run:
      - Không lẽ bang-trưởng Nhật-hồ biết truyện sai người sang đây trả thù cho mụ?
      - Khó mà đoán được nguyên ủy vụ này. Người của bang Nhật-hồ thường sống bằng nghề bán thuốc dạo, nay đây, mai đó. Ta đoán chừng hôm qua đám trẻ theo dõi họ, đã xẩy ra đụng chạm gì đó. Họ là khách đến Đại-Việt, không dám đối đầu ban ngày, nên nhẫn nại, đến đêm tìm vào trả thù.
      Thạch-Phụng hơi có vẻ tin tưởng:
      - Trước đây anh với mụ cùng là sư huynh, sư đệ đồng môn. Anh biết xử dụng chưởng này, hẳn biết cách chữa trị chứ?
      - Không. Chưởng luyện rất khó. Khi đánh trúng người ta, mặt mũi đỏ như gấc. Sốt ly bì. Sau ba ngày hết sốt. Từ đấy cứ mỗi ngày lên cơn một lần. Khi lên cơn người đau nhức như muôn nghìn mũi kim đâm vào, muốn chết không được, muốn sống không xong. Phải có thuốc giải của bang Nhật-hồ mới trị được. Ta chỉ biết xử dụng. Còn mụ biết chế thuốc giải. Vì vậy ta mới giam mụ, để tra hỏi phép chế thuốc giải độc.
      Mỹ-Linh ôn lại kỷ niệm cũ, nàng thấy Nguyên-Hạnh nói sai .Vì vương mẫu của nàng bị trúng Chu-sa độc chưởng, mà sao mặt bà không đỏ gay như y nói. Vậy có thể bà bị trúng chưởng độc, hoặc độc chất khác cũng nên.
      Nguyên-Hạnh vung tay, vỗ vào đầu mười một người bệnh, mỗi người một chướng. Những người này rung động một cái, đầu bẹp đi, mắt lồi ra. Máu me tràn ra miệng. Thạch-Phụng kinh ngạc:
      - Tai sao anh lại giết những người này?
      Nguyên-Hạnh thở dài:
      - Đằng nào họ cũng chết. Chi bằng để họ chết sớm như vậy còn hơn họ sống trong đau đớn. Thôi chúng ta đi.
      Hai người sóng vai ra ngòai.
      Mỹ-Linh ghé vào tai Thiệu-Thái:
      - Chúng ta đem năm cái xác này, bỏ vào thạch động, chất củi đốt đi, rồi thả Bố Đại hòa thượng với Đỗ Lệ-Thanh ra. Như vậy, Nguyên-Hạnh tưởng tất cả mọi người chết cháy. Không chừng y còn tưởng đó là thủ đọan của bang Nhật-hồ cũng nên.
      Thiệu-Thái gật đầu đồng ý. Hai người vọt vào nhà, lấy chăn cuộn năm xác chết lại đem về hang. Bố Đại thấy hai người về, ông bẹo tai Mỹ-Linh:
      - Mưu với mẹo. Mi mang đi năm xác chết, ắt Nguyên-Hạnh phải điều tra, như vậy mưu này cũng như không.
      Thiệu-Thái sợ sệt:
      - Sư thúc, người lại xuất hồn theo đệ tử rồi.
      Bố Đại hít hơi, vận sức, ông bẻ cong cửa sắt, nhảy ra ngoài. Đỗ Lệ-Thanh kinh ngạc:
      - Bồ-tát, người thừa sức thoát khỏi nơi đây mà người không muốn.
      Bố Đại vỗ bụng:
      - Vì ta mắc nghiệp với Nguyên-Hạnh, nên phải chịu cho đủ thời gian. Bởi vậy ta mới nói: Ta tự đến chứ Nguyên-Hạnh đâu có giam ta.
      Ông quay lại bảo Thiệu-Thái:
      - Mi có tiền duyên với Đỗ phu nhân, mau cứu người, gây nhân tốt.
      Thiệu-Thái vâng dạ, tiến lên đứng trước song nói vọng vào:
      - Đỗ phu nhân. Vâng lệnh đại sư, tại hạ cứu phu nhân đây.
      Nói rồi chàng hít hơi, vận sức, bẻ cong song sắt. Đỗ Lệ-Thanh nhảy ra ngoài. Bà xụp xuống đất lạy Bố Đại:
      - Nam-mô Di-lặc tôn phật.
      Bà quay lạy Thiệu-Thái. Thiệu-Thái phẩy tay một cái, kình lực nhu hòa đỡ bà dậy, chàng nhũn nhặn nói:
      - Đỗ phu nhân, đại sư Bố-Đại nói, phu-nhân với tại hạ có tiền duyên mà. Đã có tiền duyên thì đâu cần lễ nghi, ơn nghĩa?
      Đỗ Lệ-Thanh ứa nước mắt nói:
      - Thế tử. Suốt bao năm bị giam trong hầm đá, nhục nhằn, khốn khổ vô cùng. Trong khi bị giam, tiểu nữ đã nguyện rằng sau này ai cứu tiểu nữ thóat khỏi cảnh giam cầm này, trọn đời xin làm nô bộc hầu hạ. Vì vậy tiểu nữ mong thế tử thu nạp cho.
      Thiệu-Thái lắc đầu:
      - Tại hạ... tại hạ làm sao mà dám thu nhận phu nhân làm nô bộc?
      Bố Đại kéo tai Thiệu-Thái:
      - Con lợn ơi. Vua cũng thế, quan cũng vậy. Chủ với tớ chẳng qua là cái tiếng gọi. Chứ mi với Đỗ phu nhân có duyên từ bao kiếp. Đã là duyên mà chối e mất hết cái may mắn sau này.
      Thiệu-Thái tỉnh ngộ, chàng nắm tay Đỗ Lệ-Thanh:
      - Anh em tại hạ được Đỗ phu nhân theo giúp còn gì hay bằng.
      Mỹ-Linh hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
      - Đỗ phu nhân. Có thể nào người trúng Chu-sa độc chưởng mặt không đỏ, mà vẫn lên cơn đau đớn rồi chết chăng?
      - Không. Thưa công chúa, Chu-sa chưởng mà. Chu là đỏ. Trúng chưởng người phải đỏ lên chứ! Công chúa đã từng nghe nói về chưởng này rồi ư?
      Mỹ-Linh tường thuật về cái chết của vương mẫu nàng với cái chết của Hồng-Sơn phu nhân cùng tương tự, rồi hỏi:
      - Có thể nào vương mẫu của tại hạ cũng như Hồng-Sơn phu nhân bị Nguyên-Hạnh đả thương không?
      Đỗ Lệ-Thanh nói:
      - Tiểu tỳ bị giam trong này chín năm rồi. Biến chuyển bên ngoài hòan toàn mù tịt. Vương-mẫu cũng như Hồng-Sơn phu nhân bị nạn cùng trong một năm, có thể do cùng một người hại. Còn người đó có phải Nguyên-Hạnh hay không tiểu tỳ không biết. Có một điều tiểu tỳ cam kết đúng là y không biết chế thuốc giải. Vì vậy không có việc y khống chế hai vị. Vì muốn khống chế phải có thuốc giải.
      Ám ảnh vương mẫu bị Nguyên-Hạnh hại, lại biến mất trong đầu óc Mỹ-Linh.
      Đỗ Lệ-Thanh chỉ năm cái thây:
      - Nào chúng ta cho thây vào từng phòng một.
      Miệng nói, bà đem thây bỏ vào phòng mình, phòng Sùng Phạm, phòng Bố Đại, còn hai cái bỏ ở ngoài. Bà bảo Thiệu-Thái:
      - Ân công. Chúng ta ra ngoài lấy củi chất vào phòng.
      Bốn người ra ngoài. Trước hang có hai đống củi lớn. Mỹ-Linh vui vẻ:
      - Đúng là duyên. Chứ không tại sao họ chặt củi để sẵn đây?
      Sau khi chất củi xong. Đỗ Lệ-Thanh nói với Thiệu-Thái:
      - Xin ân công vận sức bẻ song sắt lại như cũ. Như vậy Nguyên-Hạnh mới không nghi ngờ.
      Thiệu-Thái đánh lửa, chất cỏ châm vào củi. Trong khi Mỹ-Linh đọc kinh vãng sinh. Phút chốc ngọn lửa cháy bùng lên. Đỗ Lệ-Thanh vận khí hướng vào ngọn lửa. Chưởng phong nhè nhẹ phát ra gió. Ngọn lửa bốc cháy xanh lè, hơi nóng mạnh vô cùng. Năm tử thi cháy khét lẹt. Mỹ-Linh thấy ngọn lửa nóng khác thường, nàng biết trong chưởng của Đổ-lệ-Thanh có gì khác lạ:
      - Đỗ phu nhân. Phải chăng chưởng của phu nhân là Nhật-hồ chu-sa độc-chưởng?
      - Đúng đó. Trong chưởng có độc tố. Vì vậy ngọn lửa nóng gấp một trăm lần ngọn lửa thường. Công chúa! Bây giờ chúng ta phải đi đốt mấy căn nhà để xác bọn thiếu-niên Hồng-hương. Bằng không chúng thấy thiếu năm xác chết sinh nghi ngờ, mưu cơ mất linh diệu.
      Thiệu-Thái phục Đỗ-lệ-Thanh kinh lịch hơn chàng nhiều. Chàng hướng phía căn nhà chứa xác chết phóng hỏa, rồi dùng chưởng phát nhè nhẹ cho cháy thực mau.
      Ngọn lửa bốc cao làm bọn thiếu-niên hồng hương thức giấc, chúng đánh trống báo động, kéo nhau đi cứu hỏa.
      Đỗ Lệ-Thanh chỉ con đường mòn lên đỉnh núi:
      - Đây là con đường mật. Chúng ta phải theo lối này thoát ra phía trước chùa, rồi về trấn Thanh-hóa.
      Đỗ Lệ-Thanh đi trước, Thiệu-Thái, Mỹ-Linh theo sau. Bố Đại hòa thượng cười khềnh khệch thủng thẳng bước đi. Tới đỉnh cao nhất, Đỗ Lệ-Thanh ngừng lại chỉ xuống dưới sườn núi:
      - Kia là chùa Sơn-tĩnh. Dường như trong chùa có sự, nên đánh chuông họp tăng chúng. Thân thế-tử, chúng ta trở về trấn hay trở về chùa?
      Mỹ-Linh chợt nhớ đến Thanh-Mai, Bảo-Hòa chờ ở bên bờ hồ, không biết sự thể ra sao. Bất giác nàng ngửa mặt lên trời tìm tông tích chim ưng, nhưng không thấy. Đỗ Lệ-Thanh bàn:
      - Bây giờ trong đầu óc Nguyên-Hạnh tưởng chúng ta chết cháy cả rồi. Chi bằng trở về trấn Thanh-hóa. Công-chúa đem đại binh đến vây chùa Sơn-tĩnh bắt hết dư đảng Hồng-hương thực hay hơn hết. Nhưng thôi, chúng ta tạm nghỉ dưỡng thần đã. Mệt lắm rồi.
      Mỗi người kiếm một hốc đá, nhắm mắt dưỡng thần.
      Tiếng chim rừng hót líu lo, làm Thiệu-Thái tỉnh giấc trước. Không thấy Bố Đại đâu, chàng lên tiếng gọi:
      - Đại sư! Đại sư!
      Không có tiếng đáp lại. Chàng đến chỗ ông nằm, chỉ thấy chiếc lá cây lớn, trên viết mấy chữ :
      Con lợn, con nhí. Hãy cố gắng lo cho Đỗ phu nhân. Mau trở về Thăng-long. Có nhiều người mong. Ta đi.
      Cạnh đó vẽ một ông già bụng phệ, miệng cười toe toét.
      Đỗ Lệ-Thanh đã thức giấc từ bao giờ. Bà tiếp chiếc lá cây trên tay Thiệu-Thái, ngơ ngẩn xuất thần:
      - Di-lặc bồ-tát lại ra đi rồi. Không biết bao giờ mới gặp người.
      Thiệu-Thái ngơ ngác hỏi:
      - Phu nhân. Tại sao phu nhân lại gọi người là Di-lặc bồ-tát?
      Đỗ Lệ-Thanh ngậm ngùi đáp:
      - Thế tử không đọc kinh Phật nên không biết đấy thôi. Bất cứ vị Bồ-tát nào cũng phân thân ra muôn vàn vị khác nhau độ cho chúng sinh. Bố Đại hòa thượng nguyện kiếp này và những kiếp sau đầu thai làm người Việt, giúp cho nước thoát khỏi cảnh bị Bắc-phương cai trị, đó là Phật tính. Phật tính thuộc về đức Di-Lặc. Thế thì ngài hiện thân của Di-Lặc bồ-tát rồi còn gì nữa?
      Thiệu-Thái ngơ ngác nhìn Mỹ-Linh cầu cứu. Vì hơn ai hết Mỹ-Linh quy y từ thửa thơ ấu, lại là đệ tử của Huệ-Sinh, nổi tiếng bác học đương thời. Mỹ-Linh gật đầu:
      —Đỗ phu nhân kiến giải như vậy tỏ ra ngộ đạo rồi đó. Để em nói cho anh nghe về Di-Lặc bồ-tát. Anh có biết đương thời đức Thích-ca Mâu-ni có bao nhiêu đệ tử không? Những đệ tử đó là ai?
      Thiệu-Thái tỉnh ngộ:
      - Anh nhớ rồi, đức Thích-ca có tám đại đệ tử đều thành Bồ-tát là:

      1. Văn-thù-sư-lỵ.
      2. Quán-thế âm.
      3. Đắc-đại-thế.
      4. Vô-tận-ý.
      5. Bảo-đàn-hoa.
      6. Dược-bương.
      7. Dược-thượng.
      8. Di-Lặc.


      Anh biết tên ngài Di-Lặc. Nhưng sao ngài Di-Lặc lại là sư thúc?
      Mỹ-Linh nhìn người yêu, lòng thương xót:
      —Danh hiệu Di-Lặc dịch sang tiếng Hán-Việt thành Từ hay Từ thị. Ngài còn có tên A-dật-đa dịch sang Hán-Việt thành Vô-năng-thắng. Bồ-tát Ma-ha-tát sẽ đắc đạo thành Phật sau đức Thích-ca Mâu-ni. Đương thời đức Thích-Ca thuyết pháp, ngài Di-Lặc dự thính theo hàng đệ tử .Khi đức Thích-Ca thuyết giảng về kinh Diệu-pháp liên hoa chỉ cho chúng đệ tử biết đường tu luyện thành Phật, ngài Di-Lặc có tham dự. Đức Thích-ca không ngớt lời ca tụng công đức, hạnh từ muôn vàn kiếp trước của ngài Di-Lặc. Đức Thích-Ca cũng cho hay về sau ngài Di-Lặc sẽ đắc đạo thành Phật hiệu Di-Lặc từ-tôn. Tuy ngài là Bồ-Tát, nhưng Phật tử thường gọi ngài bằng danh xưng Di-Lặc Tôn-Phật.
      Đỗ Lệ-Thanh nghe Mỹ-Linh giảng, bà gật đầu khoan khoái. Bởi chính bà gọi Bố Đại bằng Di-Lặc Tôn-Phật, mà không rõ tại sao.
      Mỹ-Linh tiếp:
      - Cách đây năm trăm năm, hai anh em ngài Vô-Trứ, Thiên-Thân, ngồi tham thiền, xuất hồn tới cung đức Di-Lặc, được ngài đem lẽ huyền vi của kinh Đại-thừa giảng cho. Lại cách đây ba trăm năm, ngài Trần Huyền-Trang đời Đường trong khi du hành qua Thiên-trúc, thường niệm danh hiệu Di-Lặc, được ngài độ cho khỏi tai nạn.
      Thiệu-Thái cũng như một số đông Phật-tử, tin Phật, lên chùa lễ Phật, song không hiểu được huyền vi của Phật pháp. Chàng ngắt lời Mỹ-Linh:
      - Mạ mạ thường nói rằng khi người ta sắp chết, muốn qua thế giới Tây-phương Cực-lạc thì niệm Phật A-Di-Đà. Tại sao vậy?
      Mỹ-Linh vỗ tay vào vai Thiệu-Thái:
      - Bây giờ anh là đệ tử của ngài Sùng-Phạm, địa vị không nhỏ. Phải học kinh điển đi nghe. Điều cô dạy anh đó, có nói đến trong kinh Dược sư. Kinh Dược-sư dạy rằng người theo Phật, nghe chính pháp mà chẳng định được trí, lúc chết muốn thác sinh cõi Tây-phương Cực-lạc thì niệm danh hiệu ngài Di-Lặc. Ngài sẽ hiện đến hướng dẫn đường về. Đức Di-Lặc luôn phân thân độ chúng sinh, cho đến khi ngài thành Phật.
      - Bao giờ ngài thành Phật?
      - Kể từ đức Thích-Ca cho đến khi đức Di-Lặc thành Phật là tám triệu, mười vạn, tám ngàn (8.108.000) năm. Đức Phật Di-Lặc đắc đạo rồi sẽ thuyết pháp ba kỳ dưới gốc cây Long-hoa. Cây này hình như con rồng, mà trổ hoa. Còn thái sư thúc tổ Bố-Đại, có hành trạng đâu khác gì Bồ-tát Di-Lặc.
      Đỗ Lệ-Thanh quay lại nói với Thiệu-Thái:
      - Thân thế tử. Tôi bị giam trong hang đá, nhưng được gần hai vị Bồ-tát mà mình không biết. Khi biết, duyên may qua rồi. Phật Di-Lặc đã dạy thế-tử phải về Thăng-long, ắt người xuất hồn, biết việc ở đấy, thôi mình về Thăng-long đi.
      Ba người dùng khinh công hướng trấn Thanh-Hóa. Lúc sắp tới nơi, Đỗ Lệ-Thanh dặn Mỹ-Linh:
      - Công chúa. Khi về trấn công chúa làm như không có gì xẩy ra. Chúng ta chờ gặp Khai-Quốc vương rồi hãy hành sự. Người ắt có cao kiến hơn.
      Khi trấn Thanh-Hóa đã hiện ra trước mắt, Mỹ-Linh vẫy Thiệu-Thái, Đỗ Lệ-Thanh đi chậm lại. Nàng nói:
      - Phải kiếm chỗ nào cho em rửa mặt, chỉnh đốn lại y phục. Chứ người em thế này, vào trấn sao được?
      Vừa tới gần đầu một thôn trang, Thiệu-Thái thấy phía trước có một quán ăn. Chàng nói:
      - Chúng ta vào đó kiếm cái gì ăn đi.
      Chủ quán là một cô gái tuổi khoảng mười bẩy, mười tám. Cô thấy một bà gìa đầu tóc bù xù như dã nhân, một thiếu niên hùng tráng, một thiếu nữ đẹp tuyệt thế. Cả ba quần áo dơ bẩn, cô mở to mắt ra nhìn. Sợ khách không có tiền trả, cô định lên tiếng hỏi, chợt cô nhìn thấy Mỹ-Linh đeo vàng ngọc đầy người. Cô đổi thái độ lễ phép hơn:
      - Mời bà với cậu mợ vào ăn sáng.
      Thấy cô hàng đang chụm củi đun một nồi bún ốc. Thiệu-Thái nói:
      - Cô cho chúng tôi ăn bún ốc được rồi.
      Mỹ-Linh, Thiệu-Thái trải qua một đêm hoạt động, bụng đói meo. Hai người ăn thực ngon lành. Còn Đỗ Lệ-Thanh bị giam trên mười năm, bây giờ mới được ăn miếng ngon. Bà ta ăn hết bát này đến bát khác.
      Một toán ba người, lưng đeo tay nải bước vào quán. Mỹ-Linh để ý, thấy họ mặc quần áo theo lối khách trú. Trong ba người, một người đàn ông đã già, tướng mạo phương phi. Còn lại là đôi thiếu niên tuổi khoảng hai mươi. Một người to lớn, một người nhỏ bé. Trông thấy anh em Thiệu-Thái, thiếu niên nhỏ người mỉm cười gật đầu chào. Cả bọn ngồi xuống. Họ không ăn bún riêu, mà xin ăn bánh lá khúc. Trong khi ăn họ nói truyện với nhau bằng tiếng Quảng. Mỹ-Linh đưa mắt cho Thiệu-Thái, Đỗ Lệ-Thanh, ngụ ý bảo cứ lờ đi như không biết, không hiểu. Trong câu truyện họ toàn nói về ăn uống, thuốc men, tuyệt không có truyện gì khác. Mỹ-Linh để ý thấy hai lần họ nhắc đến việc đi Thiên-trường.
      Trông người đàn ông, cũng như nghe tiếng nói, Mỹ-Linh thấy quen thuộc vô cùng, dường như nàng đã gặp ở đâu rồi. Nàng cố moi óc, xem đã thấy ông ở đâu, mà nghĩ không ra. Cô gái bán hàng dường như quen với ba người khách bán thuốc. Cô hỏi:
      - Ông Xồi, mấy hôm nay phát tài không?
      Người đàn ông to lớn lắc đầu.
      Thiếu niên nhỏ người đáp:
      - Mấy hôm nay ế hàng quá. Chú tôi muốn rời Thanh-hóa đi Thiên-trường ngay ngày mai.
      Cô gái chỉ thanh niên to lớn:
      - Chú Khôi này, sao hôm nay như người buồn ngủ vậy? Mọi ngày chú tía lia lắm kia mà.
      Thanh niên to lớn tên Khôi bưng bát nước chè xanh uống cạn:
      - Mấy hôm nay chẳng bán được đồng nào, không buồn sao được. Này cô hàng, cô có thể mua dùm tôi chiếc xe ngựa không. Từ đây đi Thiên-trường, đường xa diệu vợi, mà đi bộ thì cậu em tôi đi không nổi đâu.
      Cô hàng nhìn thiếu niên nhỏ người:
      - Ừ, chú Việt nhỏ người như con gái, đi bộ sao được. Phải có xe chứ. Cô hàng chỉ về hướng Tây:
      —Hôm nay có phiên chợ Sơn-tĩnh. Chú đến đấy mà mua xe ngựa, thiếu gì. Ngựa Cửu-chân có tiếng leo núi giỏi nhất Đại-Việt đấy.
      Ba người trả tiền, rồi lên đường. Đỗ Lệ-Thanh hỏi cô hàng:
      - Này cháu. Cháu quen biết ba người bán thuốc dạo đó lâu chưa?
      - Thưa bà cháu mới quen họ trong khỏang ba tháng nay. Họ từ bên Tầu sang đây buôn thuốc dạo. Họ chỉ bán có ba thứ thuốc. Một là thuốc bong gân, cầm máu trị thương. Hai là thuốc trị trúng độc. Bất cứ ong đốt, rắn cắn, nhọt độc nào, chỉ uống thuốc của họ ba ngày thì hết. Thứ ba là thuốc thương phong cảm mạo.
      Mỹ-Linh nhìn theo, quan sát dáng di của chú Xồi, nàng chợt á lên một tiếng. Nàng đã tìm ra chú Xồi.
      Trong lần bị Đàm An-Hòa bắt đến đền thờ Tương-Liệt đại vương. Giữa lúc Tung-sơn tam-kiệt tìm di thư thời Lĩnh-Nam. Tôn Trung-Từ đưa cuốn sách giả cho Triệu Thành, trên mái nhà có người nhảy xuống đọat sách. Võ công người này rất cao. Một mình thắng Tung-sơn tam-kiệt. Sau người đó bắt Triệu Thành đem đi. Từ ngày ấy Mỹ-Linh không biết người ấy là ai. Hôm nay nàng đã tìm ra manh mối. Thì ra tên Xồi cũng là người Hán sang Đại-Việt mưu truyện gì đây. Có điều người y không cùng bọn với bọn Triệu Thành, tức không phải triều đình nhà Tống.
      Mỹ-Linh thúc Thiệu-Thái trả tiền rồi lên đường. Ra khỏi quán, nàng tường thuật mọi sự. Thiệu-Thái chỉ biết nghe, mà không có ý kiến gì. Đỗ Lệ-Thanh nói:
      - Không chừng bọn này người Đại-lý hoặc Tây-hạ, Liêu, Kim. Cũng có thể người của bang hội nào bên Trung-quốc. Thôi chúng ta về trấn Thanh-hóa đã.
      Còn khoảng mười dặm, tới trấn Thanh-hóa, Mỹ-Linh cảm thấy mỏi chân, mồ hôi vã ra, chợt thấy bên đường có chiếc xe ngựa. Người đánh xe chính đứa trẻ tên Ngô Tuấn. Mỹ-Linh vẫy tay:
      - Tuấn. Con có nhận ra cô không?
      Ngô Tuấn xuống ngựa cúi đầu hành lễ:
      - Khải tấu công chúa, con đón công chúa ở đây từ sáng hôm nay.
      Nói rồi nó đưa cho nàng phong thư. Mỹ-Linh cầm lấy xem. Thấy nét bút của chú hai, nàng vội vàng chỉnh đốn y phục lại, mở ra đọc. Trong thư Khai-quốc vương dặn nàng phải lên đường về Thăng-long khẩn cấp, nhất thiết không về qua trấn Thanh-hóa.
      Đỗ Lệ-Thanh hỏi:
      - Thế nào? Sắc chỉ của hoàng đế hay lệnh của Khai-quốc vương? Chắc của Khai-quốc vương.
      Mỹ-Linh kinh ngạc:
      - Sao phu nhân biết?
      - Công chúa ơi. Công chúa chưa kinh lịch, mà đi ra ngoài, e dễ bị lộ. Có gì đâu mà không hiểu. Hiện trên thế gian chỉ có hoàng-thượng, Khai-quốc vương họăc đại-sư Huệ-Sinh mới khiến cho công chúa chỉnh đốn y phục, rồi đọc thư. Hoàng-thượng đâu có biết công chúa ở đây? Đại-sư Huệ-Sinh chẳng có gì khẩn cấp cần truyền lệnh cho công chúa cả. Vậy thư đó chắc của Khai-quốc vương.
      Mỹ-Linh nói:
      - Chú hai tôi biết hết mọi truyện ở Sơn-tĩnh. Chú khen ngợi chúng ta hành động khôn khéo. Chú ra lệnh chúng ta phải về Thăng-long ngay. Chú dặn tôi phải giả trai. Mọi người lên đường trước rồi.
      Ngô Tuấn đưa ra ba gói hành lý:
      - Công chúa, đây là hành lý của công-chúa với thế-tử. Còn đây là quần áo của Đỗ phu nhân.
      Đỗ Lệ-Thanh mở bọc quần áo ra.Bất giác gai ốc bà nổi lên.Vì quần áo trong bọc đúng là quần áo của bà mười năm về trước, khi chưa bị Nguyên-Hạnh giam. Nhất là trong đó có bẩy bình thuốc khác nhău mà bà thường dùng. Bà kinh ngạc:
      - Ta nghe Thiệu-Thái, Mỹ-Linh ca tụng Khai-quốc vương mưu kế trùm thiên hạ, thần-sầu qủi khốc, không biết đâu mà lường, ta không tin. Nay cứ thấy việc này thì đủ rõ. Quần áo cũ của ta, để trong một căn nhà trong khe núi Hồng-hương, cùng với những bình thuốc này. Đến Nguyên-Hạnh cũng không biết. Thế mà ta vừa mới ra tù, ông biết đã đành. Ông còn cho người lấy quần áo với thuốc cho ta, mới thực là thần sầu.
      Ba người kiếm bụi cây thay quần áo. Lần này Mỹ-Linh biến thành một cô gái quê, mặt mũi lem luốc. Thiệu-Thái cũng giả trang thành một thanh niên quê mùa, da mặt vàng vọt. Đỗ Lệ-Thanh vẫn giữ nguyên thân hình một bà gìa, nhưng mụ hóa trang gần như thành một người khác.
      Ngô Tuấn nhìn mọi người gỉa trang, nó cười:
      - Cháu cũng giả làm đứa trẻ nhà quê.
      Nói rồi nó thay quần áo. Đỗ Lệ-Thanh bàn:
      - Bây giờ thế này, Thân thế tử với công chúa là anh em cô cậu. Tôi vẫn giữ vị thế theo hầu. Còn cháu bé là cháu gọi công chúa bằng cô. Có như vậy mới qua mặt tai mắt bọn Tống được.
      Xe đi trên con đường cái quan, hướng Bắc thẳng tiến. Khi qua núi Thầøn-đầu, chợt một chiếc xe ngựa từ phía sau vượt qua, lên trước. Mỹ-Linh đưa mắt cho Đỗ phu nhân. Vì trên xe chở lão Xồi và anh em Khôi, Việt. Đợi cho xe bọn khách bán thuốc qua rồi, Đỗ Lệ-Thanh nói:
      - Lão Xồi là một võ lâm cao thủ. Không biết thằng Khôi có biết võ hay không. Còn đứa con gái tên Việt.
      Thiệu-Thái ngạc nhiên:
      - Thằng Việt là con gái sao?
      - Đúng, gái giả trai. Thế tử không thấy sao, lưng nó tròn, ngực nở, vai tròn. Nó thoa nước hồ cho mặt đen, trong khi đánh xe, nó dơ tay quất ngựa, cổ tay lộ ra trắng ngần. Khi xe gặp chỗ gồ ghề, nếu người thường, thế nào cũng nhảy lên. Thế mà nó vẫn ngồi bất động. Con nhỏ đó võ công không tầm thường đâu. Chúng ta mau đuổi theo. Cẩn thận e không lộ tung tích, phiền lắm.
      Ngô Tuấn cho xe chạy thực mau. Phút chốc đã theo kịp xe trước. Nó nói vọng sang với Việt:
      - Này anh. Anh đi đâu đây. Không biết có cùng đường với bọn tôi không?
      Cô gái giả trai tên Việt mỉm cười:
      - Chúng tôi đi Thiên-trường. Nhưng đường lại không biết. Còn chú, chú đi đâu?
      Ngô Tuấn chỉ người trên xe mình giới thiệu:
      - Đây cô tôi. Còn đây chú hai tôi. Bà này vú nuôi của cô tôi. Chúng tôi đi Thiên-trường, rồi về Thăng-long ăn cưới. Thế thì chúng ta đi cùng đường rồi.
      Đến đó, hai cái xe đi chậm lại. Phía trước có mười người, áo nâu quần đen, cổ choàng khăn đỏ, đứng chặn ngang qua đường.
      Hai chiếc xe ngừng lai. Một thiếu niên choàng khăn đỏ nói với Thiệu-Thái:
      - Mi có phải đồng bọn với tụi Nhật-hồ không?
      Mỹ-Linh lắc đầu:
      __ Tôi không biết Nhật-hồ với Nguyệt-hồ gì cả.
      Một thiếu niên khác phất tay:
      —Bất kể chúng nó khai gì. Hễ đi cùng nhau, chúng ta cần bắt giải về chùa cho phương-trượng phát lạc.
      Đỗ Lệ-Thanh nói nhỏ:
      - Chúng ta là người qua đường, các vị này muốn bắt, cứ để cho họ bắt.
      Mụ quay lại nói với đám thiếu niên Hồng-hương:
      - Được, chúng tôi theo các vị.
      Người cầm đầu đám thiếu niên Hồng-hương nói với lão Xồi:
      - Ta muốn biết vì cớ gì người hạ độc thủ giết 20 anh em ta, rồi đốt Hồng-hương-cốc. Bọn người phải nói thực.



      <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.01.2005 02:47:39 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 06.01.2005 18:19:36 (permalink)
        Hồi thứ hai mươi chín


        Cao Tăng Bảo Quốc



        Lão Xồi ngơ ngác hỏi:
        - Cái nị nói sao? Ngộ không piết gì hết. Ngộ đi pán thuốc mà. Cái nị đau gì đó, ngộ pán rẻ cho. Thuốc của ngộ tốt lắm đó.
        Thiếu niên trưởng toán quát lên:
        - Mi đừng giả bộ nữa. Mi phóng độc làm cho hai mươi anh em bọn ta sống dở, chết dở. Đêm hôm qua người vào Hồng-hương cốc đốt hang đá làm năm người cháy thành than, lại đốt chết những anh em ta bị thương.
        Trong khi lão Xồi phân trần với bọn thiếu niên Hồng-hương, một thiếu niên khác nhảy lên xe Mỹ-Linh. Gã giằng lấy dây cương ngựa từ tay Ngô Tuấn, rồi giong xe di. Chiếc xe quay ngược trở lại, hướng chùa Sơn-tĩnh. Mỹ-Linh nhìn Thiệu-Thái như cùng ước hẹn:
        - Mình thử trở về nhìn cái mặt tên Nguyên-Hạnh xem y có còn đóng kịch được nữa không?
        Trong khi đó An-Việt dơ tay phân trần với bọn thiếu niên Hồng-hương:
        - Trời cao đất dầy ơi. Chúng tôi chân ráo chân ướt tới vùng này bán thuốc kiếm sống. Một đồng cũng không dám tham. Con chó, con mèo cũng không đụng đến. Bây gìơ các ông vu cho chúng tôi tội giết người, đốt nhà, còn trời đất nào nữa.
        Một thiếu niên phất tay:
        - Ta không có thời giờ đùa với bọn người. Mau đi theo chúng ta.
        Miệng nói, tay y cầm dây cương kéo mạnh. Nhưng dây cương bị An-Việt giữ cứng không nhúc nhích. Y nghiến răng giật, cũng không chuyển động. Y nổi giận:
        - Thì ra bọn mi là những cao thủ.
        Ngay lúc đó, một thiếu niên khác dùng gậy tấn công An-Việt. An-Việt tung người lên cao. Từ trên cao, nàng phóng xuống một chưởng. Chưởng chưa xuất hết, mà mùi tanh hôi nồng nặc bốc ra muốn buồn nôn. Mỹ-Linh nhận ra mùi hôi này giống mùi hôi Nguyên-Hạnh phát chưởng đấu với nàng.
        Binh một tiếng, thiếu niên cầm gậy ngã lộn đi hai vòng, miệng ứa máu . Bọn thiếu niên la lên một tiếng, bao vây xe của lão Xồi. Lão Xồi ngồi im, không nói, không rằng, mặc anh em An-Khôi, An-Việt đấu với bọn thiếu niên Hồng-hương. Chỉ trong khoảng thời gian nhai dập miếng trầu, hơn năm thiếu niên nữa ngã nằm dài trên đất. Bọn chúng hô lên một tiếng, rồi bỏ chạy.
        Lão Xồi cười nhạt, chiếc xe chở lão lại lọc cọc đi về hướng Bằc.
        Đám thiếu niên bị đánh bại chạy theo, bắt kịp xe chở Mỹ-Linh. Nàng nhẩm đếm được tám tên bị thương. Tên nào tay cũng sưng lớn, đỏ chói như máu. Chúng nghiến răng chịu đau, để khỏi bật lên tiếng rên rỉ.
        Mỹ-Linh nghĩ thầm:
        - Đám thiếu niên này vì say đạo pháp, vì ý hướng tuổi trẻ, muốn tham dự vào việc xây dựng quốc gia, mà bị Nguyên-Hạnh lừa dối, đưa chúng vào vòng chết thảm. Chứ thực sự ra chúng là những người tốt.
        Nàng nói với thiếu niên trưởng toán:
        - Này anh. Nếu các anh có mệt cứ lên xe mà đi. Tôi xin đi bộ.
        Thiếu niên trưởng toán lắc đầu:
        - Cảm ơn cô. Tôi còn đi được.
        Thiếu niên trưởng toán tự giới thiệu:
        - Tôi họ Phan tên Thi, trưởng đoàn Hồng-hương xã Sơn-tĩnh Đông. Chúng tôi đươc lệnh Túc-không Quan-âm phải bao vây, chặn bắt tất cả những người lạ mặt trên đường cái quan ra bắc. Tôi biết bà đây với anh chị, cùng cháu bé không liên quan gì tới việc gian nhân đột nhập Hồng-hương cốc đốt nhà giết người. Nhưng vẫn phải mời về cho Quan-âm khám xét.
        Mỹ-Linh giả như không biết gì:
        - Túc-không Quan-âm là ai vậy?
        - Chị là đệ tử của Nguyên-Hạnh đại sư.
        Võ công chị rất cao thâm. Mà văn học, không nhường ai. Chị được Nguyên-Hạnh đại sư giao cho coi tòan bộ bốn xã Sơn-tĩnh cùng tất cả lực lượng thanh niên Hồng-hương.
        Thiệu-Thái thở dài:
        - Tiếc quá, chúng tôi ở ngoài Bắc, chứ ở trong này đã nhập Hồng-hương với các anh.
        Xe không lên núi mà hướng vào xã Sơn-tĩnh Đông. Liếc qua, Mỹ-Linh thấy xã này tổ chức giống như xã Vạn-thảo, không khác làm bao. Xe ngừng lại ở trước đình. Trong sân đình có hàng trăm người khác bị bắt về như Mỹ-Linh. Họ ngơ ngơ ngác không hiểu cái gì đã xẩy ra.
        Phan Thi nói với Mỹ-Linh:
        - Cô chờ đây một lát. Để tôi vào thưa với Túc-không Quan-âm.
        Phan-Thi vào trong. Một lát, y đi ra cùng với Cao Thạch-Phụng. Thạch-Phụng đứng ở thềm đình nhìn xuống. Phan Thi nói:
        - Bọn em đuổi kịp bọn lão Xồi, rồi xẩy ra cuộc giao tranh. Bên chúng em chín người bị thương.
        Thạch-Phụng hỏi:
        - Còn bà già, với cặp nam nữ kia cùng đi với bọn lão Xồi à?
        - Không, họ đi cùng một chiều, thế thôi. Chẳng ai quen ai cả. Cặp thiếu niên này tử tế với chúng ta. Họ than rằng, nếu họ ở trong này, cũng sẽ xin gia nhập Hồng-hương thiếu niên.
        Thạch-Phụng vẫy tay:
        - Bây giờ chiều rồi. Hãy xin lỗi người ta, mời ăn cơm chay, rồi mai cho lên đường.
        Phan Thi lại bên xe nói:
        - Túc-không Quan-âm có lệnh mời bà, anh chị với cháu bé ở lại dùng cơm chay chiều nay, rồi nghỉ qua đêm. Ngày mai hãy lên đường.
        Mỹ-Linh không muốn ở lại xã Sơn-tĩnh, vì sợ lộ hình tích. Nàng từ tạ:
        - Cảm ơn anh. Chúng tôi cần đi khẩn.
        Đỗ Lệ-Thanh gọi Phan-Thi:
        - Này cậu, vết thương trên tay cậu thế nào?
        Phan Thi đưa tay ra:
        - Đau nhức. Không biết ngày mai tôi có còn nhìn thấy mặt trời nữa không. Tôi không hiểu đã bị trúng độc gì. Theo Nguyên-Hạnh đại sư tôi bị trúng Chu-sa độc-chưởng của bang Nhật-hồ bên Trung-nguyên. Nếu không tìm ra thuốc giải, cứ mỗi ngày lên cơn đau nhức một lần. Sau bẩy lần bẩy bốn mươi chín ngày, người kiệt lực mà chết như ngọn đèn hết dầu.
        Đỗ Lệ-Thanh an ủi:
        - Tôi tin rằng cậu sẽ thoát chết. Tỷ như có người cứu được cậu, cậu sẽ đền ơn người đó như thế nào?
        - Còn như thế nào nữa. Thân tôi coi như thuộc người đó. Ngọai trừ phản quốc, làm hại đạo-pháp, việc gì người đó sai, tôi cũng làm.
        Mỹ-Linh vẫy tay chào, rồi đánh xe ra khỏi xã Sơn-tĩnh. Ngô Tuấn vừa đánh ngựa, vừa hỏi Mỹ-Linh:
        - Cô ơi. Con thấy cái anh Phan Thi tội nghiệp quá, cô có cách nào cứu anh ấy không?
        Mỹ-Linh mỉm cười:
        - Có chứ, nhưng chưa đến lúc, đấy thôi. Con yên tâm, thế nào cô cũng cứu được anh ấy.
        Trời bắt đầu ngả mầu tím. Đỗ Lệ-Thanh chỉ vào ngôi nhà đằng trước:
        - Kia là quán trọ Vạn-an lớn nhất vùng này. Chúng ta vào đó nghỉ. Đêm nay chúng ta đi thám thính chùa Sơn-tĩnh, xem Nguyên-Hạnh với con tiện nhân Cao Thạch-Phụng còn âm mưu gì khác không. Có điều khi vào khách điếm phải cẩn thận lắm mới được. Khắp vùng này, chỗ nào Nguyên-Hạnh cũng đặt tai mắt hết.
        Mỹ-Linh biết mụ đã làm vợ Nguyên-Hạnh trong mấy chục năm, không hoạt động nào của y qua được mắt mụ. Nàng đề nghị:
        - Khi Đỗ phu nhân luyện công, tôi với anh Thái canh gác. Ngược lại khi chúng tôi luyện công, phu nhân canh gác. Sau khi luyện xong, chúng ta đi ngủ. Đợi đúng nửa đêm hãy đi dò thám.
        Đỗ Lệ-Thanh dặn thêm:
        - Trường hợp phải xử dụng võ công, xin mình thế tử ra tay mà thôi. Tôi với công chúa xuất chiêu, e bọn Nguyên-Hạnh tìm ra tông tích liền.
        Xe chạy vào khách điếm. Chủ nhân khách điếm còn trẻ, có lẽ chưa qúa ba mươi. Y thấy một bà gìa cùng với một cặp thiếu niên quê mùa và đứa con nít đi trên chiếc xe ngựa vào sân. Y gọi lớn:
        - Có khách, ra tiếp mau.
        Một thanh niên dạ lên một tiếng. Y hỏi Mỹ-Linh:
        - Cô muốn dùng cơm hay trọ qua đêm?
        - Tôi cần cả hai. Cho tôi ba phòng khác nhau. Hôm nay ngày rằm, xin cho chúng tôi ăn chay.
        Tiểu nhị dẫn ba người ra phía sau. Ba phòng tuy nhỏ, nhưng sạch sẽ. Mỹ-Linh chọn một phòng ở chung với Ngô Tuấn. Thằng bé nhanh nhẹn mang hành lý cho nàng, rồi nó thả ngựa ra bãi cỏ phía sau khách điếm.
        Tiểu nhị hỏi:
        - Quí khách định dùng món gì, xin cho biết.
        Đỗ Lệ-Thanh sợ để Mỹ-Linh gọi những món trân quí, sẽ lộ hình tích. Mụ nói:
        - Cho chúng tôi ăn rau muống luộc, chấm với tương. Ngoài ra cho thêm một bát đậu phụ rán, một bát măng kho với cà muối.
        Cơm vừa dọn lên, thì có tiếng chuông từ xa vọng lại âm điệu dồn dập. Đỗ Lệ-Thanh đưa mắt cho Mỹ-Linh. Tiểu nhị cũng nhận ra tiếng chuông khác thường. Thiệu-Thái tò mò hỏi:
        - Này anh, giờ này đâu phải giờ thỉnh chuông. Tại sao trên chùa lại cho đánh vào giờ này?
        Tiểu-nhị nhanh nhẩu đáp:
        - Dường như trên chúa Sơn-tĩnh có sự. Tiếng chuông vừa rồi để tập hợp tăng chúng. Mấy ngày hôm nay thực nhiều truyện. Mới hôm trước đây, bọn bán thuốc bắn độc dược làm hai mươi thiếu niên Hồng-hương bị thương. Đêm chúng còn cả gan đột nhập chùa, đốt cháy mấy dẫy nhà, làm hai mươi người bị thương bị cháy thành than luôn. Túc-không Quan-âm nổi giận truyền cho thiếu niên Hồng-hương đi khắp nơi tìm bắt bọn khách trú. Nghe đâu tìm thấy rồi, mà võ công chúng cao siêu vô cùng, lại hơn tám thiếu niên bị thương nữa. Khiếp thực!
        Đỗ Lệ-Thanh giả vờ như khách phương xa mới đến:
        - Túc-không Quan-âm là ai vậy?
        Tiểu-nhị làm ra vẻ ta đây hiểu biết nhiều:
        - Nguyên đại-sư Nguyên-Hạnh đắc quả thành Bồ-tát, tên Thông-huyền Bồ-tát. Đệ tử người họ Cao tên Thạch-Phụng cũng đắc quả thành Túc-không Quan-âm. Khắp vùng này ai cũng phải thờ hai ngài. Hễ có việc gì khó, đọc kinh cầu nguyện, xin hai ngài giúp cho là thành công ngay.
        Y chỉ lên bàn thờ ngay giữa phòng ăn. Trên có hình vẽ Nguyên-Hạnh ngồi trong tòa sen với tư thế nhập định. Còn Thạch-Phụng mặc quần áo trắng đang đứng trên mình con rồng giữa biển, tay cầm tịnh bình rót nước xuống giống như hình Quan-thế-âm Bồ-tát.
        Mỹ-Linh chửi thầm:
        - Bọn Nguyên-Hạnh qủa thực có tài, song thiếu hạnh. Chúng dám xưng Bồ-tát, thực cổ kim chưa từng có.
        Mỹ-Linh nháy Thiệu-Thái không nên hỏi han điều gì thêm. Ăn xong,vào phòng nghỉ. Ngô Tuấn nằm cái giường nhỏ cạnh Mỹ-Linh. Nó hỏi:
        - Cô ơi, lát nữa cô đi thám thính, mình con ở nhà hay sao?
        - Ừ, con lớn rồi mà.
        - Lỡ người ta hỏi cô đi đâu, con trả lời thế nào?
        - Con cứ đóng cửa ở trong phòng, không ra ngoài, thì ai mà vào đây hỏi con?
        Mỹ-Linh khêu ngọn đèn thực nhỏ lửa, rồi đi ngủ. Nàng vừa chợp mắt thiu thiu ngủ, khám phá ra có tiếng chân người đi nhè nhẹ trên mái nhà. Tiếng chân đó ngừng lại ngay chỗ phòng nàng. Ngô Tuấn cũng khám phá ra. Nó khẽ cào cào xuống chiếu báo hiệu cho nàng biết. Nàng ghé tai nó nói nhỏ:
        - Kìa, phòng có lỗ chó chui. Con ra ngoài ẩn thân. Còn mọi việc trong này mặc cô.
        Ngô Tuấn nhanh nhẹn bò dậy, nó chui ra khỏi phòng. Nội công Mỹ-Linh hiện đã đến chỗ thượng thừa. Nàng nghe rõ trên nóc nhà có hai người. Nàng nghĩ thầm:
        - Trấn Thanh-hóa có tiếng là an ninh. Suốt mấy năm qua không có đạo tặc, hơn nữa bọn Nguyên-Hạnh tuy giả nhân, giả nghĩa, nhưng lực lượng Hồng-hương thiếu niên góp không ít công lao vào việc giữ an ninh. Chẳng lẽ ta mới vào đây, mà bọn đạo tặc đã biết, định đến ăn trộm?
        Nghĩ được một kế, nàng ngồi dậy, nghiêm chỉnh trong tư thế Kiết-gìa, khoan thai thổ nạp như trong lúc luyện công. Tuy nhiên nàng vẫn vẫn lắng tai nghe ngóng.
        Hai người đáp xuống trước cửa sổ nhẹ nhàng như hai chiếc lá rụng. Im lặng một lúc, rồi chúng đẩy cửa sổ, nhảy vào. Vào phòng, chúng thấy đèn sáng lung linh, có hơi ngạc nhiên. Mỹ-Linh mở mắt ra, nàng thấy hai tên. Một tên bịt mặt và một tên không bịt mặt. Nàng thản nhiên hỏi:
        - Đêm khuya thanh vắng, các vị là ai? Vào đây có việc gì?
        Tên không bịt mặt rút kiếm dí vào lưng Mỹ-Linh:
        - Im miệng, nếu kêu lên một tiếng, mất mạng liền.
        Mỹ-Linh không trả lời, nàng đưa hai ngón tay kẹp cứng thanh kiếm. Tên không bịt mặt cố giằng thanh kiếm ra, nhưng không nhúc nhích. Tên bịt mặt thấy vậy hỏi:
        - Sao thế?
        Y phụ với tên bịt mặt , giật mạnh thanh kiếm, nhưng vô ích.
        Mỹ-Linh vận sức, thanh kiếm gẫy làm mấy mảnh kêu lên tiếng lách cách. Nàng xuất một chiêu cầm nã thủ chụp vai cả hai tên ấn mạnh. Một sức nặng kinh khủng úp lên người chúng. Chúng nghiến răng chống lại nhưng vô hiệu. Mỹ-Linh thấy nếu nàng cứ tiếp tục nhả kình lực, hai tên lạ mặt sẽ gẫy xương sống mà chết. Nàng nới tay dần.
        Thiệu-Thái, Ngô Tuấn đã vào phòng từ lúc nào. Mỹ-Linh bảo Ngô Tuấn:
        - Con hỏi cung chúng đi.
        Ngô Tuấn dạ một tiếng. Nó giật miếng vải bịt mặt ra. Tên bịt mặt, Thiếu-Thái đã từng thấy trong nhà bếp chùa Sơn-tĩnh. Người ta thường gọi y là bác Củng. Nó cầm con dao nhỏ để vào ngực trái của tên Củng rồi hỏi Mỹ-Linh:
        - Cô ơi, có phải chỗ này là tim người ta không?
        Mỹ-Linh không biết Tuấn sẽ làm gì. Nàng gật đầu. Nó lại hỏi:
        - Con đâm sâu vào đây ba tấc mổ lấy con tim ra nhé cô?
        Mỹ-Linh biết Tuấn dọa tên Củng, nàng gật đầu:
        - Ừ, con mổ tim y làm gì?
        - Con mổ ra, để hỏi cung. Hễ khi người ta không nói dối thì tim không động đậy. Còn khi người ta nói dối thì tim động đậy. Con muốn mổ tim tên này ra, rồi hỏi cung ắt biết y nói thực hay nói dối.
        Mỹ-Linh gật đầu:
        - Con mổ ra đi.
        Ngô Tuấn cầm dao làm bộ đâm vào ngực. Tên Củng bở vía:
        - Cô nương! Xin cô nương đừng mổ tim. Tiểu nhân khai thực hết. Nếu nói dối cô nương hãy mổ tim.
        Ngô Tuấn hỏi:
        - Mi tên gì? Ai sai mi tới đây?
        - Tiểu nhân tên Trịnh Củng. Tiểu nhân tuân lệnh của Túc-không Quan-âm tới bắt cóc cô nương, mang về Hồng-hương cốc.
        - Mi đã bắt bao nhiêu con gái lương gia như vậy rồi?
        - Tiểu nhân đã bắt tất cả hai mươi người. Đến cô nương là người thứ hai mươi mốt.
        - Các tăng lữ trong chùa có biết hành vi ám muội của Nguyên-Hạnh không?
        - Không ai biết gì hết.
        - Bọn mi đến đây bao nhiêu người?
        - Tất cả chỉ có hai người mà thôi. Tiểu nhân với Cao Anh. Y là trưởng đòan thiếu niên Hồng-hương tại xã Sơn-tĩnh Tây.
        Đỗ Lệ-Thanh bàn:
        - Xin công chúa giải hai tên này về triều. Chúng là nhân chứng quan trọng.
        Tên Củng kinh hoảng:
        - Cô nương là công chúa?
        Mỹ-Linh không trả lời. Thiệu-Thái dùng dây trói Vũ Củng với Cao Anh lại. Đỗ-lệ-Thanh khẽ vỗ lên vai hai tên, mỗi tên một cái. Người chúng rung động thực mạnh, rồi mê man không biết gì. Mỹ-Linh kinh ngạc hỏi:
        - Võ công vừa rồi là võ công gì vậy?
        Đỗ Lệ-Thanh cười:
        - Nó là Chu-sa Ngũ-độc chưởng. Tiểu nhân dồn chất độc vào kinh mạch, khiến chúng ngủ đi mấy giờ. Trong khi đó ta có thời giờ thám thính Sơn-tĩnh.
        Mỹ-Linh bảo Ngô Tuấn:
        - Con ở nhà giữ tù. Nếu có người đến gây rắc rối với con. Con ra sân ném cây pháo thăng thiên này, đạo binh Ngự-long sẽ tới liền.
        Đỗ Lệ-Thanh nói nhỏ:
        - Chúng ta dùng xe ngựa đến chân núi Sơn-tĩnh, rồi theo đường tắt lên núi.
        Ba người lấy xe ngựa hướng chân núi Sơn-tĩnh mà đi. Tới chân núi, Đỗ Lệ-Thanh cho xe vào khu rừng, cột ngựa lại. Bà nói:
        - Xin công chúa, với thế tử theo tiểu nhân.
        Mụ đi trước dẫn đường. Tuy trời tối, nhưng dường như mụ nhìn rõ vạn vật. Phút chốc lên gần tới chùa. Mụ chỉ phía sau chùa:
        - Dường như có truyện gì thì phải. Viện Vạn-Hạnh thắp đèn sáng choang thế kia ắt đang có cuộc họp đấy.
        Vừa leo lên sườn đồi, có tiếng quát:
        - Ai?
        Mỹ-Linh nhìn lên, thì ra ba thiếu niên Hồng-hương, hai nữ một nam có nhiệm vụ canh gác.
        Đỗ Lệ-Thanh vọt mình tới nhanh như chớp, mụ phóng ra ba chưởng nhẹ nhàng. Ba thiếu niên Hồng-hương bị ngất xỉu liền. Mụ nói:
        - Chúng ta giả làm thiếu niên Hồng-hương, dự buổi họp.
        Ba người lột quần áo của thiếu niên Hồng-hương mặc vào, rồi tiếp tục leo núi.
        Đỗ Lệ-Thanh đã thuộc làu đường. Mụ đi trước, vòng ra sau viện Vạn-Hạnh. Nơi đây có cửa nhỏ, mụ khẽ đẩy cửa , vẫy Mỹ-Linh, Thiệu-Thái vào rồi đóng lại. Ba người lọt vào phía cuối phòng họp.
        Mỹ-Linh liếc mắt nhìn qua. Bất giác nàng rùng mình. Trong đại giảng đường, có mặt đủ hết các tăng chúng trong chùa. Hàng ghế đầu còn thêm bọn Triệu Thành. Không khí trong phòng họp cực kỳ căng thẳng, không một tiếng động. Vương Duy-Chính nói:
        - Cho nên thánh thiên tử quyết định mở khoa thi cho tất cả anh hùng thiên hạ đều tham dự. Ai có tài đều được trọng dụng.
        Mỹ-Linh chửi thầm:
        - Thằng cha Nguyên-Hạnh gớm thực. Y sống với hai bộ mặt khác nhau. Một bộ mặt là người Tống, nhận chức đô nguyên sóai, Long-biên quốc công, Giao-chỉ kinh lược sứ mở đại tiệc, dâng gái cho bọn Triệu Thành y đã tiếp bọn Thành rồi. Hôm nay y lại dùng bộ mặt của một đại thiền-sư Việt tiếp Thiên-sứ.
        Vương Duy-Chính tiếp tục giải thích ý nghĩa việc mở đại hội anh hùng võ lâm ở Biện-Kinh năm tới. Sau cùng y đọc danh sách 32 người trúng cách khoa thi trước, hiện đã được phong chức tước ra sao. Cuối cùng y cầm một tấm thiếp đưa đến trước mặt Nguyên-Hạnh:
        - Vì vậy, hôm nay Thiên-sứ qua đây, trước vãng cảnh chùa. Sau gửi thiếp mời chư vị anh hùng Sơn-tĩnh tham dự. Mong đại sư nhận cho.
        Nguyên-Hạnh bệ vệ nói:
        - Đa tạ Thiên-sứ để mắt xanh tới bản tự. Nhưng Sơn-tĩnh là chốn thanh tịnh, xa lánh bụi trần, không màng danh lợi, thành ra phụ lòng Thiên-sứ.
        Minh-Thiên đứng lên nói:
        - Nếu theo tôn chỉ của Thiền-tông thì chúng ta xa lánh vòng danh lợi. Còn theo Tịnh-độ tông, chúng ta đâu có thể bỏ việc cứu độ chúng sinh? Từ xưa đến giờ có không biết bao nhiêu các vị tăng người Việt nổi danh, vì chịu lăn vào chốn bụi trần cứu dân, làm lợi cho nước. Không lẽ nay thiên hạ có mầm đại loạn đến nơi, mà quý tự buông tay sao?
        Triệu Huy tiếp lời:
        - Huống hồ từ hôm sang Giao-chỉ đến giờ, Thiên-sứ đã mời hầu hết các gia, các phái tham dự. Ai cũng đều hớn hở sẽ được dịp phô tài, cùng đem sức phò thiên tử. Thế mà qúi tự lại từ chối.
        Viện-trưởng viện Thiện-duyên, Sùng-Anh đại sư đứng dậy, hướng vào Triệu Huy:
        - Xin an phủ sứ giữ lời một chút. Quí quốc quốc hiệu là Đại-Tống, chúng tôi tôn trọng gọi là Đại-Tống. Nước tôi quốc hiệu là Đại-Việt, thế mà an phủ sứ cứ một điều Giao-chỉ hai điều Giao-chỉ như vậy còn gì đức của kẻ trí ư ?
        Dư Tĩnh hiện giữ chức kinh lược an phủ sứ lộ Quảng-tây, bao trùm gần hết biên giới Tống-Việt. Y theo đúng chủ trương của Tống triều thực thi ba điều căn bản: một là bắt Đại-Việt phải giữ nguyên vị phiên thần. Hai là mua chuộc võ lâm Lĩnh-Nam. Ba là lấn chiếm, bằng dụ dỗ, bằng mua chuộc 207 khê động Bắc-biên. Bây giờ thấy Sùng-Anh muốn giữ danh xưng Đại-Việt tức vượt ra khỏi phiên hiệu triều Tống phong cho vua Lý. Y thấy cần phải kéo mọi người trong Vạn-Hạnh đường này nhớ rằng họ là Nam-man. Y đứng dậy:
        - Thưa đại sư. Đại sư dạy có điều lầm lẫn. Từ khi Lý Công-Uẩn lên ngôi vua, cử sứ sang thần phục. Bản triều đã cho sứ giả sang phong cho làm Giao-chỉ quận vương. Đất Giao-chỉ vẫn là một quận của Đại-Tống. Còn cái quốc hiệu Đại-Việt chẳng qua y tiếm xưng mà thôi.
        Viện-trưởng Thiền-công viện, đại-sư Sùng-Không lên tiếng:
        - Này Dư kinh lược sứ. Từ cổ, Lĩnh-Nam với Trung-nguyên cương vực đã phân, tiếng nói, văn tự có khác. Trung-nguyên lấn chiếm các nước xung quanh, mà trở thành nước lớn. Chúng tôi muốn giao hảo bền vững, chịu thần phục chẳng qua là hình thức. Chứ các vị lên mặt ta đây người Hán, coi chúng tôi như phường man di, thì không được đâu.
        Dư Tĩnh đưa mắt nhìn Triệu Thành, thấy chủ gật đầu. Y hiểu ý, cười nhạt:
        - Như vậy đại sư muốn dùng số đông người đàn áp sứ đoàn ư? Chúng tôi tuy chỉ có mấy người, nhưng chí khí không hèn đâu. Tôi nhắc lại Đại-Tống là Đại-Tống. Vua Đại-Tống là thiên tử. Giao-chỉ là một quận của Đại-Tống, Lý Công-Uẩn là phiên thần. Không có cái gì là Đại-Việt với tiểu Việt cả. Thế gian không hai mặt trời, không thể có cái gì là thiên tử Đại-Việt.
        Một trung niên tăng từ phía sau nhảy ra. Y chỉ mặt Dư Tĩnh:
        - Người phải câm họng lại ngay.
        Nói rồi y phóng chưởng tấn công. Chưởng của y là Lăng-già Tượng-đầu chưởng của Tiêu-sơn. Dư Tĩnh mỉm cười. Triệu Anh xuất chưởng đỡ cho Dư Tĩnh. Bình một tiếng. Cả hai đều bật lui lại. Minh-Thiên kinh ngạc, nghĩ thầm:
        - Từ hôm sang Giao-chỉ đến giờ, mình chưa hề đấu với bọn chúng trận nào chính thức. Hôm nay cũng nên đấu một trận, để rõ hư thực. Tên tiểu hòa thượng vừa rồi thuộc hàng đệ tử đời thứ hai trong chùa Sơn-tĩnh, mà công lực ngang với Triệu Anh, hẳn bọn Nguyên-Hạnh e không thua mình làm bao.

        Đại sảnh đường náo loạn cả lên. Trong khi đó nhà sư trẻ với Triệu Anh đã đấu được trên mười chiêu. Anh dùng võ công Thiếu-lâm, còn nhà sư trẻ dùng võ công Tiêu-sơn.
        Nguyên-Hạnh tuy nhận chức tước của triều Tống, tha hương mưu đồ đại sự. Tuy vậy, y vẫn có cái tự hào về những gì y đang có. Y học được tinh hoa của bang Nhật-hồ, lại học được võ công tuyệt thế của Tiêu-sơn. Y cũng muốn hiển lộ tài năng võ công của mình, để khoe với Triệu Thành mà chưa có dịp. Bây giờ đệ tử tầm thường của y xuất thủ tấn công một chức lang-trung Khu-mật-viện, chức võ quan cao cấp của triều Tống, khiến y hài lòng. Y nhìn Triệu Thành như muốn nói Tôi là thần tử nhà Tống phải dưới tay vương gia. Chứ võ công của tôi chưa chắc đã thua cái ông quốc sư kia. Chỉ một đệ tử vô danh của tôi, mà một võ quan cao cấp không thắng nổi. Như vậy đủ biết tôi như thế nào.
        Nguyên-Hạnh đưa mắt một cái. Đại sư Sùng-Văn bước ra. Ông xuyên tay vao giữa chưởng lực của hai đối thủ, rồi quay một vòng. Hai người bị một kình lực như thành đồng vách sắt ngăn lại. Ông nói:
        - Khoan. Hai vị không nên vô lễ trước Bình-nam vương gia và phương-trượng.
        Miệng nói, tay ông đẩy mạnh. Triệu Anh bắn về phía hàng ghế quan khách. Ai cũng tưởng y sẽ bị ngã chổng vó lên trời, không ngờ y rơi đúng ghế ngồi của y, như tự ngồi xuống. Còn nhà sư trẻ bị bắn rơi đúng chỗ y đứng.
        Minh-Thiên kinh ngạc:
        - Nhà sư này hôm trước Nguyên-Hạnh giới thiệu là viện trưởng viện Hoằng-pháp, tên Sùng-Văn, một trong tứ vị hộ pháp của Sơn-tĩnh. Tuổi y chưa cao, mà võ công đã đến trình độ chỉ đẩy hai cái, khiến cho hai cao thủ bay vọt lên cao, e mình bằng thế nằo được?
        Triệu Thành quay lại nhìn Nguyên-Hạnh:
        - Bây giờ chúng tôi với đại-sư đánh cuộc. Đại sư nghĩ sao?
        Nguyên-Hạnh không hiểu ý Triệu Thành. Y hỏi lại:
        - Xin vương gia dạy rõ hơn.
        Triệu-Thành chỉ vào đám tùy tùng:
        - Đây là đám tùy tùng của tôi. Tôi cử ra ba người. Bên đại sư cũng cử ra ba người. Hai bên cùng đấu. Bên nào thắng hai cuộc, coi như bên đó thắng . Nếu bên Giao-chỉ thắng, kể từ này chúng tôi phải gọi là Đại-Việt, gọi Giao-chỉ quận vương Lý Công-Uẩn là hoàng đế. Ngược lại bên chúng tôi thắng, các vị không được dùng danh xưng Đại-Việt cũng không được gọi Lý Công-Uẩn là hòang đế nữa.
        Nguyên-Hạnh hiểu ý Triệu Thành muốn dùng tay y để làm giảm bớt lòng kiêu hãnh của võ lâm Đại-Việt. Dĩ nhiên trong cuộc đấu này, Thành muốn y phải sắp xếp sao cho bên Tống thắng. Như vậy chính thống về Tống. Còn nếu y để bên Tống bại, chính thống không còn nữa. Y chưa kịp trả lời Sùng-Văn đã nói:
        - Xin vương gia chỉ định người ra đấu.
        Triệu Thành cười nhạt:
        - Bên sứ đoàn xin cử Đông-Sơn lão nhân, với hai đệ tử người là Dư Tĩnh với Địch Thanh.
        Sùng-Văn nói với Nguyên-Hạnh:
        - Bên Tống có Minh-Thiên đại sư thân phận cao cả, không ra tay. Vậy bên Sơn-tĩnh chúng ta, sư huynh cũng nên đứng ngòai. Bên mình, xin cử sư đệ Sùng-Tín, Sùng-Không với tiểu đệ. Không biết ý sư huynh thế nào?
        Nguyên-Hạnh đang bị Triệu Thành đặt trong thế bí, hông biết làm cách nào thoát ra, được Sùng-Văn hứng lấy. Nếu bên Sơn-tĩnh bại, dĩ nhên y chẳng thiệt hại gì, mà lại còn thêm công lao với triều Tống. Còn như nếu bên Tống bại, thế lực của y lên cao, mà Triệu Thành không trách y vào đâu được. Y mừng rỡ trong lòng, nhưng bề ngoài làm như bị động. Y nhìn Triệu Thành như tỏ ý phân trần Đây không phải chủ ý của tôi. Rồi nói với Sùng-Văn:
        - Sư đệ nên cẩn thận !
        Sùng-Văn đứng ra trước cửa tọa:
        - Xin vương gia chỉ định người đấu trận đầu.
        Triệu Thành chỉ Địch Thanh:
        - Địch trạng nguyên, người ra lĩnh giáo mấy cao chiêu của Giao-chỉ đi.
        Địch Thanh dạ một tiếng. Y bước ra đứng thủ thế. Y hít hơi vận công. Có tiếng kêu lách cách, mọi người đưa mắt nhìn, mỗi bước đi của y, gạch nền nhà bị vỡ vụn ra, lún sâu xuống chừng nửa tấc. Cả đại sảnh đường đều bật lên tiếng hoan hô.
        Đứng phía sau, Mỹ-Linh không hiểu được ý Triệu Thành với Nguyên-Hạnh. Nàng cứ cho rằng hai bên toa rập với nhau, để hạ danh dự ông nội nàng cùng như quốc thể Đại-Việt. Nàng ghé tai Đỗ Lệ-Thanh với Thiệu-Thái bàn luận. Đỗ Lệ-Thanh nói:
        - Nếu bên Sơn-tĩnh thua hai trận, công chúa với thế tử hãy xuất hiện dưới danh vị thiếu niên Hồng-hương, đánh thắng hai người bên Tống là xong.
        Sùng-Văn chắp tay:
        - Tôi là chủ, Địch trạng nguyên là khách. Xin mời trạng nguyên ra tay trước.
        Địch-Thanh hít hơi phóng chưởng tấn công. Chưởng chưa ra, mà mọi người như muốn ngộp thở. Sùng-Văn lui lại một bước. Ông xuất chiêu Vô nhân giả tướng trong Tượng-đầu chưởng đánh xéo vào giữ chưởng của Địch Thanh. Bình một tiếng lớn, hai chưởng giao nhau, gió lốc quay tròn, kêu lên những tiếng vo vo không ngớt. Địch Thanh đứng im, mặt y tái nhợt. Còn Sùng-Văn bật lui hai bước, mặt đỏ gay.
        Như vậy thắng bại đã phân.
        Bỗng có tiếng quát thanh thóat:
        - Khoan !
        Một thiếu niên Hồng-hương từ sau bước ra chắp tay vái Sùng-Văn:
        - Thái sư thúc. Địa vị người cao biết mấy, mà lại đi hạ thể đấu với một tên trẻ, chẳng hóa ra ỷ lớn bắt nạt nhỏ ư. Xin cho đệ tử qua lại mấy chiêu với Địch trạng nguyên đã. Nếu như đệ tử không thắng được người, bấy giờ thái sư thúc ra tay cũng vừa.
        Mỹ-Linh nhìn đáng đi, nàng biết ngay thiếu niên Hồng-hương đó là Bảo-Hòa giả trang. Tuy Bảo-Hòa bôi mặt, cố nói cho tiếng thành ồ ồ, nhưng Mỹ-Linh cũng nhận ra.
        Địch Thanh quay lại nói với Dư Tĩnh:
        - Sư huynh. Sư huynh thử coi trên đời sao lại có đứa trẻ ngông cuồng đến như thế này ư?
        Sùng-Văn thấy một thiếu niên Hồng-Hương dám ra mặt đòi đấu với Địch Thanh. Ông định đuổi vào. Nhưng Bảo-Hòa đã vận khí vào tay, truyền sang ông. Ông cảm thấy nội lực từ tay thiếu niên cuồn cuộn tuôn vào người ông mạnh như thác đổ. Ông mở to mắt nhìn xem thiếu niên đó là ai, mà ông không nhận ra.
        Dư Tĩnh kinh nghiệm hơn Địch Thanh. Y nhắc sư đệ:
        - Phải cẩn thận đấy.
        Địch Thanh nhìn Bảo-Hòa:
        - Tiểu huynh đệ. Ta chỉ đánh có ba chiêu. Nếu tiểu huynh đệ đỡ được coi như ta thua.
        Nói rồi y hít hơi, phát chưởng đánh xuống. Chưởng phong của y bao gồm phong, lôi, thủy, hỏa mạnh vô cùng. Cả hội trường nín thở. Bảo-Hòa hít một hơi, nàng vận khí về trung đơn điền, truyền vào Đốc-mạch, xuất chiêu Ngưu-tẩu như phi. Vì nàng vận âm kình, nên không có gió. Cử tọa thấy vậy kinh hòang kêu lên:
        - Chết.
        Nhưng bịch một tiếng. Chưởng của Địch Thanh mất tăm mất tích. Y lui liền ba bước, mặt tái nhợt. Y cảm thấy trong chưởng của Bảo-Hòa có đôi phần giống Kim-cương chưởng của phái Thiếu-lâm. Nhưng trong cái hóa giải của Thiền-công, còn bao hàm sát thủ khủng khiếp. Y nhìn kỹ mặt đối thủ, thấy hơi quen quen, mà y không nhận được đó là Bảo-Hòa.
        Vì nhân nhượng, Địch Thanh vận có ba thành công lực, nên chiêu đầu y bị lạc bại rõ ràng. Y cười nhạt nhìn Minh-Thiên:
        - Đại-sư, tại sao thiếu niên này lại xử dụng Phục-ngưu thần chưởng của phái Tản-viên.
        Minh-Thiên đã từng lầm lẫn Lăng-gìa chưởng của phái Tiêu-sơn với Kim-cương chưởng của phái Thiếu-lâm, trong lần thử sức với Lý Long trên núi Chung-chinh. Vì cả hai đều do Thiền-công Vô nhân tướng thần công của nhà Phật mà ra. Còn hôm nay thiếu niên này lại xử dụng Phục-ngưu thần chưởng âm nhu, thứ võ công đã tuyệt tích từ lâu. Ông lắc đầu:
        - Phải cẩn thận.
        Địch Thanh không nhân nhượng nữa. Y hít hơi, nghiến răng phát chiêu thứ nhì trong Hoa-sơn chưởng pháp. Bảo-Hòa phát chiêu Ác ngưu nan độ lần này nàng vận dương kình, gió lộng ào ào. Bình một tiếng. Cả hai người cùng bật lui ba bước. Địch Thanh không để cho Bảo-Hòa vận khí. Y phát chiêu thứ ba. Bảo-Hòa chuyển từ chiêu Ác ngưu nan độ sang chiêu Ngưu tẩu như phi. Bình một tiếng nữa, người nàng bật lui liền ba bước. Chiếc khăn buộc tóc của Bảo-Hòa bị bật tung, tỏa ra làn tóc mai óng mượt của cô gái.
        Địch-Thanh nhận ra Bảo-Hòa. Y cười nhạt:
        - Không ngờ chùa Sơn-tĩnh uy danh là thế mà phải nhờ đến phái Tây-vu trợ thủ. Thân quận chúa. Cách biệt nhau mấy tháng mà võ công quận chúa tiến mau qúa. Tại hạ thực không ngờ.
        Bảo-Hòa cười như nắc nẻ:
        - Địch trạng nguyên. Chắc hồi này đã ăn cắp được bao nhiêu vàng bạc rồi. Phát tài chứ? Người bảo ta đỡ được ba chiêu của người, coi như người thua. Vậy người chịu thua chưa?
        Địch Thanh có chí khí anh hùng. Y kính cẩn nói:
        - Tôi thua là thua quận chúa, chứ không thua chùa Sơn-tĩnh?
        Bảo-Hòa cãi:
        - Ban nãy Bình-nam vương gia ra lệnh Địch trạng nguyên, người mau ra lãnh giáo võ công Giao-chỉ đi. Tôi là người Giao-chỉ đã thắng Địch trạng nguyên tức võ công Giao-chỉ thắng võ công Trung-nguyên rồi.
        Nguyên-Hạnh thấy Bảo-Hòa xuất hiện ắt mưu kế của y bại lộ hết. Hôm trước thấy hang giam Thiệu-Thái, Mỹ-Linh bị đốt. Y sai người bới ra, chỉ thấy còn năm bộ xương. Y cho rằng Sùng-Phạm, Bố Đại, Thiệu-Thái, Mỹ-Linh cũng như vợ y đều cháy thành than. Y mừng rỡ không bút nào tả siết. Hôm nay y thấy Bảo-Hòa xuất hiện. Trong đầu óc, y cho rằng nàng có mặt ở đây ắt do bàn tay Khu-mật-viện xếp đặt. Y nghĩ chỉ còn cách thủ tiêu nàng mới êm chuyện.
        Y dò dẫm hỏi Bảo-Hòa:
        - Thân quận chúa. Khai-quốc vương hiện ở đâu?
        Bảo-Hòa cười:
        - Cậu hai tôi ấy à? Tôi không biết nữa.
        Y đứng dậy chỉ ghế :
        - Mời quận chúa an tọa.
        Bảo-Hòa vô tình đến ngồi bên cạnh y. Lợi dụng, y phất tay áo, phóng ra một chiêu Chu-sa chưởng nhẹ nhàng. Bảo-Hòa sắp xuống quỷ môn quan mà tuyệt nhiên không biết. Bỗng có tiếng quát:
        - Ngừng tay !
        Một thiếu niên Hồng-hương khác nhảy ra chĩa tay phóng chỉ vào đầu Nguyên-Hạnh. Nếu y tiếp tục phất chưởng vào Mỹ-Linh thì y bị trúng chỉ. Y vội thu chưởng về, đỡ chỉ của thiếu niên kia. Nhưng thiếu niên đã thu chỉ về, biến thành chưởng đẩy nhẹ vào vai Bảo-Hòa. Bấy giờ Bảo-Hoà mới tỉnh ngộ.
        Mỹ-Linh nhìn thóang cũng biết thiếu niên đó là Thanh-Mai. Thanh-Mai chỉ vào mặt Nguyên-Hạnh:
        - Mi mi...là đại tôn sư võ học, mà hèn hạ đánh trộm người ư ?
        Nguyên-Hạnh bị lộ mặt nạ đánh trộm người. Đã trót thì trét. Y vung tay chụp Thanh-Mai với Bảo-Hòa. Chưởng phong của y hùng hậu vô cùng. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái thấy nếu để Thanh-Mai, Bảo-Hòa đỡ hai chưởng đó, ắt trúng độc nặng. Hai người quát lên:
        - Ngừng tay !
        Thiệu-Thái phóng chưởng tấn công Nguyên-Hạnh. Còn Mỹ-Linh thì rút kiếm đẩy lui Địch Thanh bằng một chiêu thần tốc. Địch Thanh lui lại bốn bước liền. Trong khi đó chưởng của Thiệu-Thái đánh ra êm đềm, chạm vào chưởng Nguyên-Hạnh đến bịch một tiếng. Nguyên-Hạnh bật lui liền ba bốn bước. Khí huyết trong người ảo lộn. Y kinh hoàng không ít:
        - Thiếu niên này là ai, mà chưởng lực mạnh đến nhường này? Ta tưởng trên đời chỉ có Sùng-Phạm, Bố Đại với Vạn-Hạnh mới có công lực này mà thôi.
        Từ ngày gặp Nguyên-Hạnh, Địch Thanh vẫn không phục. Y cho võ công Nguyên-Hạnh không cao hơn y. Y muốn hiển lộ bản lĩnh, bèn hít hơi vận đủ mười thành công lực phát một chưởng hướng Thiệu-Thái. Thiệu-Thái bình tĩnh không tâm, đẩy ra một chưởng. Lạ thay chưởng của Địch Thanh mạnh là thế, mà gặp chưởng Thiệu-Thái, bị mất tích. Y lảo đảo lui liền ba bốn bước, mới đứng vững.
        Thanh-Mai, Bảo-Hòa thấy hai thiếu niên Hồng-hương cứu mình, lúc đầu hơi ngỡ ngàng một chút. Nhưng chỉ thóang qua, hai người đã nhận ra Thiệu-Thái với Mỹ-Linh. Thanh-Mai dùng Lăng không truyền ngữ nói vào tai Bảo-Hòa, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái , rồi hú lên một tiếng. Tất cả bốn người cùng phát chưởng hướng vào những chỗ để đèn. Đèn trong phòng tắt hết. Bốn người lại đẩy ra liên tiếp mấy chưởng, rồi ẩn thân vào đám đệ tử Hồng-hương.
        Lập tức trong phòng náo loạn lên, chưởng, đao, kiếm đánh ra lọan xạ, cùng với tiếng la hét, tiếng kêu.
        Trong khi đó bốn người đã xuống núi. Tới chỗ dấu xe ngựa, họ đã thấy Đỗ Lệ-Thanh ngồi chờ từ bao giờ. Đỗ Lệ-Thanh thúc mọi người lên xe trở về khách điếm. Đi đường họ tường thuật cho nhau tất cả những gì đã xẩy ra. Thanh-Mai bàn:
        - Trong lệnh, Khai-quốc vương bảo chúng mình về Thăng-long. Như vậy chắc ở nhà có truyện gì. Vậy chúng ta lên đường ngay. Bây giờ tôi với Bảo-Hòa giả làm hai cô gái quê. Sáng mai ta lên đường cho sớm.
        Về tới khách điếm, việc đầu tiên Mỹ-Linh tìm Ngô-Tuấn. Thằng bé đang ngồi luyện công. Mỹ-Linh hỏi:
        - Hai thằng kẻ trộm đâu rồi?
        Ngô Tuấn đáp:
        - Khi Công chúa với thế tử đi khỏi một lúc thì bố cháu tới. Bố cháu bảo có lệnh Khai-quốc vương giải hai tên trộm về Thăng-long.
        Mỹ-Linh cười:
        - Chẳng việc gì chú hai không biết.
        Thanh-Mai nghĩ đến người yêu, lòng nàng rộn lên:
        - Thì ra chàng vẫn theo dõi mọi việc quanh mình.
        Mọi người đi ngủ, để hôm sau lên đường sớm.
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.01.2005 02:49:18 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 06.01.2005 18:21:14 (permalink)
          Hồi thứ ba mươi


          Nhật Hồ Độc Chưởng




          Sáng hôm sau, Thanh-Mai mua thêm chiếc xe ngựa nữa, rồi nàng với Bảo-Hòa ngồi chung cùng lên đường. Hai chiếc xe chạy như bay. Chỉ hơn một ngày, họ đã theo kịp chiếc xe lão Xồi. Lão Xồi hỏi Mỹ-Linh:
          - Tiểu cô nương. Cô nương bị tụi nó bắt đi có sao không?
          Mỹ-Linh lắc đầu:
          - Chúng thấy bọn tôi vô can, nên thả cho đi. Không hiểu sao, chúng gặp ai cũng bắt, cũng khám.
          Mỹ-Linh chỉ xe Bảo-Hòa:
          - Hai chị này cũng bị bắt trước bọn tôi một ngày. Được chúng thả ra cùng một lượt với bọn tôi. Hai chị cùng muốn ra Thăng-long, sợ thân gái dặm trường, nên xin theo chúng tôi cùng đi cho có bạn.
          Nói rồi nàng vẫy tay cho ngựa lên đường. Ngô Tuấn giả bộ ngây ngô hỏi gã béo:
          - Này anh, bọn đó định ăn cướp phải không? Anh có tu tiên không mà biết bay? Tôi thấy anh bay lộn trên không coi đẹp qúa.
          Gã béo lắc đầu:
          - Bọn này ác lắm, chúng định giết bọn tôi. Tôi đánh chúng bằng võ, chứ không phải biết bay đâu.
          Hai chiếc xe lại tiếp tục lên đường. Chiều hôm ấy tới Trường-yên. Trường-yên hiện là thủ phủ của Khai-quốc vương tổng trấn từ biên giới Chiêm-thành tới Thăng-long. Trước đây Trường-yên là kinh đô thời Đinh, thời Lê. Từ khi vua Lý Thái-tổ lên ngôi (1009) mới dời ra Thăng-long. Cho nên dân chúng trong trấn đông đúc, buôn bán phồn thịnh, nhà cửa san sát.
          Lão Xồi ngồi trên xe, ngắm cảnh phồn thịnh, nói với gã béo:
          - Đây thuộc Trường-yên mà đã đông đúc như thế này, e Thăng-long vui vẻ đến đâu. Sau khi việc Thiên-trường xong, chúng ta đi Thăng-long, tha hồ ngắm cảnh.
          Mỹ-Linh thấy lão Xồi có rất nhiều bí ẩn, nàng muốn theo dõi tung tích. Nhưng ngặt vì nàng phải về Thăng-long ngay, nên không muốn dây dưa đến việc của bang Nhật-hồ. Nàng cho xe đi trước dẫn đường, xe lão Xồi theo sau. Đến một khách điếm sang trọng, Mỹ-Linh chỉ vào trong:
          - Đây thuộc thủ phủ của các châu quận phía nam Đại-Việt, dưới quyền tổng trấn của Khai-quốc vương. Nếu bọn cướp có theo tới. Ông chỉ kêu một tiếng, giáp binh sẽ có mặt liền.
          Nói rồi nàng cho đánh xe về phủ Khai-quốc vương. Tới cổng phủ, hai người lính không nhận ra nàng. Chúng cầm đao ngăn lại:
          - Các người đi đâu? Có thẻ bài không?
          Mỹ-Linh mỉm cười, móc thẻ bài đưa ra. Nàng nói sẽ:
          - Đừng có hành lễ. Tôi giả gái quê. Có nhiều người theo dõi.
          Hai người thân binh nghe tiếng Mỹ-Linh, họ nhận ra liền. Nếu nàng không nói trước, họ đã hành lễ. Mỹ-Linh cho xe chạy vào trong phủ. Đến đây nàng không cần dấu tung tích nữa. Thấy nàng về, vú nuôi nàng ra đón vào. Bà nhìn Mỹ-Linh giả gái quê, phì cười:
          - Công chúa giả trang hay thực. Đến tiểu tỳ cũng không nhận ra, huống hồ người ngòai.
          Mỹ-Linh nắm lấy tay người vú:
          - Vú ơi. Xa vú mấy tháng nhớ quá. Vú có nhớ con không? Vú chuẩn bị chỗ ở cho mấy người khách quí.
          Rồi nàng giới thiệu từng người một. Nàng nói với Thiệu-Thái:
          - Vú Hậu đấy. Vú nuôi em từ nhỏ. Khi em lớn rồi, vương mẫu cho tiền để vú về quê ở. Vú thương em lắm, vú không nỡ đi. Vì vậy khi rời Thăng-long về đây em mang vú theo.
          Thiệu-Thái vốn tính chu đáo hỏi:
          - Thế gia đình vú thì sao?
          Mỹ-Linh ép đầu vào vai vú Hậu:
          - Chồng vú qua đời rồi. Vú có một con gái bằng tuổi em. Em đem theo luôn.
          Mỹ-Linh giới thiệu mọi người với vú Hậu. Nghe giới thiệu đến Thanh-Mai, vú Hậu kinh hãi, vội qùi xuống rập đầu binh, binh:
          - Tiểu tỳ Trịnh Thị-Hậu kính cẩn ra mắt vương phi.
          Thanh-Mai vội đỡ bà dậy, kinh ngạc hỏi:
          - Ủa, tôi sư tỷ của Mỹ-Linh, chứ đâu có phải vương phi, mà vú lại hành đại lễ như thế này?
          Vú Hậu cười:
          - Truyện vương gia với vương phi, quan, quân khắp trấn này ai mà không biết. Vương phi ơi, người ta bảo lòng dạ vương gia sắt đá, không ai lọt mắt xanh của người. Nhưng tiểu tỳ biết dù người bằng gỗ, gặp vương phi lòng cũng mềm ra như bún.
          Thanh-Mai biết chàng đã giới thiệu truyện tình hai người với vú Hậu. Vì vậy nàng không chối nữa. Nàng cầm tay vú Hậu, tỏ ý thân thiện.
          Mỹ-Linh nói với Bảo-Hòa:
          - Để em gọi con gái vú ra cho chị coi nghe. Chúng em bằng tuổi nhau, chơi với nhau từ nhỏ. Có điều nó không chịu học võ công.
          Nàng hướng vào trong gọi:
          - Ninh ơi. Chị về này.
          Một cô gái tuổi khoảng mười sáu, mười bẩy trong nhà chạy ra. Cô không đẹp, nhưng dáng người xinh xinh. Ninh trông thấy Mỹ-Linh thì chạy ra ôm lấy nàng:
          - Chị đi vắng, hai con chó nó nhớ chị qúa, nó khóc hoài. Hai con mèo cũng làm biếng ăn cơm.
          Ninh hướng vào trong hú lên một tiếng. Hai con chó trắng như tuyết chạy ra chồm lên mừng Mỹ-Linh.
          Mỹ-Linh hỏi vú Hậu:
          - Chú tôi về qua đây lâu chưa?
          - Có. Quốc-vương về đây mười ngày rồi lại đi Thăng-long ngay. Quốc vương dặn thế nào vương phi cũng về qua cùng với công chúa ,quận chúa , thế tử.
          Dù võ công cao. Dù kiến thức uyên bác. Thanh-Mai vẫn là cô gái. Nghe vú Hậu thuật chàng dặn bà đón mình như vợ chính thức. Nàng đỏ mặt lên.
          Mỹ-Linh biết vú Hậu dùng tiếng vương phi để gọi Thanh-Mai. Vì trong con mắt vú Hậu, khi trai gái nhìn nhau trao đổi khóe mắt, coi như vợ chồng. Huống hồ Thanh-Mai với Khai-quốc vương tâm đầu ý hiệp. Truyện vương gửi hoa cho Thanh-Mai, bà biết hết.
          Vú Hậu nói:
          - Tôi cầu trời, cầu Phật cho Quốc-vương cưới cô Thanh-Mai thì hay biết mấy. Đức vua với hoàng hậu phiền lòng về việc này không ít. Thông thường các hoàng tử tuổi mười ba đã có vợ .Đây Quốc-vương tuổi hai mươi mấy rồi, vẫn cứ lo làm việc hòai. Bây giờ gặp vương phi, vừa được người, được nết, tài hoa như vậy, thực hiếm có trên đời.
          Mỹ-Linh bảo Ninh:
          - Em cho mời viên an phủ sứ Trường-ỵên đến cho chị ngay.
          Ninh nói:
          - Viên an phủ sứ cũ đổi đi rồi.Viên an phủ sứ mới được vương gia bổ nhiệm thay thế tuổi đã lớn. Để em đi gọi.
          Một lát an phủ sứ tới. Mỹ-Linh bật lên tiếng kinh ngạc, bởi ông là Tôn Trung-Luận. Tôn Trung-Luận hành lễ. Mỹ-Linh mời ngồi, rồi hỏi:
          - Tình hình trong phủ có gì lạ không?
          - Khải tấu công chúa không. Mấy hôm nay Khu-mật-viện có lệnh theo dõi bọn Nùng với bọn Tây-hạ từ Chiêm đi ra Bắc. Khác với tụi Tống từ Bắc vào Nam.
          Mỹ-Linh đưa mắt nhìn Thiệu-Thái. Nàng tường thuật sơ lược những gì liên quan đến bang Nhật-hồ, cùng Chu-sa độc chưởng cho ông nghe, rồi dặn:
          - Đám này đến Đại-Việt không biết có mục đích gì. Dường như họ không có ác ý với mình. Vì vậy chỉ theo dõi thôi.
          Tôn Trung-Luận đi rồi. Vú Hậu dọn cơm đãi khách. Mỹ-Linh kể cho vú Hậu nghe, trong chuyến du hành vừa rồi nàng được ăn không biết bao nhiêu miếng ngon dân tộc. Vú Hậu bật cười:
          - Những món đó là món ăn dân dã, ai cũng biết nấu. Vì công chúa chưa ăn bao giờ nên lạ miệng mà thôi, vú cũng biết làm. Công chúa muốn ăn lúc nào mà chẳng có.
          Ninh ghé tai Mỹ-Linh:
          - Chị muốn ăn, hôm nào em dẫn chị trốn ra chợ. Ăn ngoài chợ, ngồi xổm xuống đất mới ngon. Chứ nấu trong phủ này, trịnh trọng, ăn hết thú. Em nói cho chị biết, còn nhiều món ăn ngon hơn nhiều.
          Tuy Ninh nói nhỏ, nhưng Thanh-Mai, Bảo-Hòa nghe rõ hết.
          Trời dần tối.
          Từ lúc gặp bọn lão Xồi, Đỗ Lệ-Thanh không nói một tiếng. Bây giờ bà mới hỏi Thiệu-Thái:
          - Thế tử. Thế tử không thắc mắc gì ư?
          Thiệu-Thái nhìn Mỹ-Linh:
          - Mỹ-Linh bảo tôi không nên thắc mắc gì. Phu nhân đã thành người nhà mình. Nếu có gì lợi hay bất lợi ắt phu nhân tự nói.
          Đỗ Lệ-Thanh ứa nước mắt ra. Bà quì xuống lạy Mỹ-Linh:
          - Công chúa quả rộng lượng. Hôm ở trong hang công chúa biết mình bị trúng Chu-sa độc chưởng, hạ thể xin tiểu nhân chữa. Nhưng Bố Đại hòa thợng đã dùng thượng thừa Vô nhân tướng công giải cho công chúa. Sau công chúa biết tôi chế được thuốc giải Chu-sa độc chưởng, cũng như biết xử dụng chưởng này. Thế mà công chúa không hỏi một câu.
          Bà ngừng lại một lúc rồi tiếp:
          - Công chúa gặp bọn lão Xồi xử dụng Chu-sa độc dược cùng Chu-sa chưởng. Công chúa không nghi ngờ tiểu nhân, cũng không tra hỏi... thực lượng công chúa rộng như biển.
          Khi còn ở Thăng-long, Mỹ-Linh không được học võ công. Nhưng nàng được thầy dạy văn là Lý Đạo-Nghĩa giảng thực kỹ, thuật lãnh đạo của người xưa, cùng phép xử thế của Nho-gia. Khi thấy Đỗ Lệ-Thanh nhận làm nô tỳ cho Thân Thiệu-Thái nàng không đặt bà vao hàng nô tỳ bình thường, mà coi bà như một viên cận thần thân tín.
          Khi gặp bọn lão Xồi, biết y thuộc bang Nhật-hồ. Mà bang Nhật-hồ là nơi xuất thân của Đỗ Lệ-Thanh. Bà rời bang đã bốn chục năm, có biết bao thay đổi. Trong thời gian đó bà có liên lạc với bang hay chỉ liên lạc với Khu-mật-viện nhà Tống? Họăc cả hai. Cũng có thể bà nhận một công tàc bí mật cho bang. Bây giờ bà mới theo mình, mà mình cật vấn, có thể ba phải nói dối. Khi đã nói dối, sau này bà phải nói dối mãi. Thành ra được bà cũng như không. Thái độ tốt hơn hết, không hỏi gì cả. Cứ để bà tự nói là hơn hết.
          Đỗ Lệ-Thanh than:
          - Từ ngày nô tỳ cùng Nguyên-Hạnh được giao cho Khu-mật-viện nhà Tống đến giờ, nô tỳ đi đâu, làm gì, bang Nhật-hồ không hay. Trong thời gian 40 năm qua, liệu huynh trưởng tiểu tỳ có còn làm bang trưởng nữa hay đã sang tay người khác, tiểu tỳ đều mù tịt. Không biết bọn lão Xồi sang đây với mục đích gì?
          Bảo-Hòa gật đầu:
          - Chắc chắn lão Xồi biết gốc tích Nguyên-Hạnh xuất thân từ bang Nhật-hồ cho nên khi đánh bọn thiếu niên Hồng-hương, lão nói Bọn mi về nhờ Nguyên-Hạnh chữa cho.
          Đỗ Lệ-Thanh thở dài:
          - Không hẳn thế. Dường như lão Xồi cố ý đánh bọn thiếu-niên Hồng-hương, để xem ai chữa được. Như vậy họ đang muốn tìm tiểu-tỳ. Tốt hơn hết, tối nay chúng ta theo dõi bọn lão Xồi xem sao? Lão sang đây vì Tống? Vì Tây-hạ hay vì bang Nhật-hồ.
          Mỹ-Linh đồng ý:
          - Đây thuộc địa phận Trường-yên của chú tôi, có nhiều cao thủ trong quân đội. Chúng ta không cần phải giả trang. Cứ để nguyên trạng mà do thám hay hơn.
          Thanh-Mai gọi một nữ tỳ vào, ghé tai nó nói nhỏ mấy câu. Nó đi ra ngoài. Một lát sau trở lại, tay cầm mảnh giấy. Thanh-Mai mở ra đọc:
          - Đây rồi, bọn họ ở phòng số 9 và 10. Phòng số chín cho cô gái. Phòng số 10 cho hai người đàn ông. Như vậy cô gái đó không phải vợ của tên Khôi. Đây, tên họ khai đây. Lão Xồi có tên Chu An-Bình, thiếu niên tên Chu An-Khôi, thiếu nữ có tên Chu An-Việt. Tất cả đều có giấy của quan trấn thủ biên giới Chiêm, Việt, cho vào Đại-Việt bán thuốc trong ba năm.
          Mỹ-Linh mở tấm bản đồ ra:
          - Đây, phòng số 9 và 10. Phòng số 11 và 8 trống, tôi đã cho người thuê rồi. Bây giờ chúng ta cũng giả làm khách qua đường. Đỗ phu nhân với tôi vào phòng số tám. Còn anh Thiệu-Thái vào phòng số mười một. Nhất thiết tránh dụng võ. Còn thím hai với Bảo-Hòa ở nhà coi nhà.
          Nghe Mỹ-Linh gọi mình là thím hai, Thanh-Mai đánh sẽ vào lưng nàng hai cái. Mỹ-Linh càng đùa:
          - Ối đau. Cháu xin chừa. Thím tha tội cho cháu.
          Ba người đeo hành lý, hướng khách sạn đi tới. Thiếu nữ phụ trách tiếp khách, thấy ba người lạ mặt tới, vội vàng ra chào:
          - Quý khách ở xa đến, cần bao nhiêu phòng?
          Thiệu-Thái chìa hai tấm thẻ ra:
          - Chúng tôi có người nhà thuê sẵn cho phòng số 8 và 11 rồi.
          Thiếu nữ hỏi:
          - Quý khách định ở mấy ngày, có ăn uống không?
          Thiệu-Thái đáp:
          - Chúng tôi chỉ nghỉ một đêm rồi đi. Chúng tôi không ăn uống gì cả.
          Thiếu nữ dẫn ba người lên nhận phòng. Mỹ-Linh đưa mắt nhìn Thiệu-Thái, ý nói cẩn thận đấy. Nàng với Đỗ Lệ-Thanh vào phòng số tám. Hai người biết bọn họ Chu thế nào cũng ghé mắt nhòm sang, vì vậy cố làm như mệt mỏi, leo lên giường nằm, rồi ngủ liền.
          Trời về khuya, trống điểm sang canh ba, vạn vật chìm đắm trong màn đêm yên tĩnh. Phòng bên cạch có tiếng chân người đi ra cửa. Mỹ-Linh ghé mắt dòm qua, thấy Chu An-Bình cùng Khôi, Việt vượt tường ra ngoài vườn. Nàng với Đỗ Lệ-Thanh theo bén gót.
          Ba người họ Chu dùng khinh công chạy về phía chân đồi, leo lên lưng chừng, rồi ngừng lại. Chu An-Bình nói:
          - Thôi, ngừng ở đây được rồi, không cần đi đâu nữa. Chỗ này có ma nào đến nghe mà sợ.
          Chu An-Việt ngồi lên tảng đá, ngơ ngẩn nhìn trời:
          - Chú ba. Truyện hồi chiều chú nghĩ sao?
          - Ta đánh bọn thiếu niên Hồng-hương bằng Chu-sa độc hoàn và Chu-sa độc chưởng. Nếu Đỗ Lệ-Thanh là vợ Nguyên-Hạnh, tất bà phải xuất hiện cứu cho bọn nó.
          An-Việt ngơ ngác:
          - Cháu không hiểu. Nếu chú muốn biết bà Lệ-Thanh còn sống hay chết, mình phải ở lại, chứ có đâu lại đi Thiên-trường?
          An-Bình cười:
          - Con nhỏ này mà cũng không hiểu được mưu kế của chú, còn sợ gì ai hiểu được nữa. Chúng ta không biết Nguyên-Hạnh có phải Dương-Bá hay người khác. Vì vậy hai lần chúng ta đánh bọn Hồng-hương. Nếu như Nguyên-Hạnh là Dương-Bá, tất Lệ-Thanh là vợ y phải xuất hiện cứu chúng. Như thế ta còn ở lại, tất mụ tìm chúng ta. E rằng tung túch chúng ta bại lộ. Còn trường hợp Nguyên-Hạnh không phải Dương-Bá, đương nhiên bọn thiếu niên phải chết. Chúng ta ở lại, quan quân truy lùng thì chạy đâu cho thoát?
          An-Khôi hỏi:
          - Chúng ta đi Thiên-trường làm gì ?
          An-Bình nói nho nhỏ:
          - Ta nghe Bình-nam vương Triệu Thành dẫn nhiều đại cao thủ sang Đại-Việt để tìm di thư thời Lĩnh-nam. Dường như di thư này đã thấy. Như vậy tất y sẽ đi Thiên-trường mưu thuyết phục Côi-sơn đại hiệp. Ta cần đón đường ăn cắp lại di thư đó.
          An-Việt tỏ ý hoài nghi:
          - Tin Bình-nam vương tìm được di thư đồn ra. Tất cả các đại môn phái Đại-Việt đều đuổi theo đoạt lại. Mình sao đủ sức. Cháu sợ vô ích mà thôi.
          An-Bình vỗ đầu An-Việt:
          - Con này ngu quá. Mình ở trong bóng tối. Họ ở ngoài ánh sáng. Sợ gì? Vả mình có Chu-sa độc chưởng, không dễ gì ai địch nổi. À, cháu muốn biết tại sao bang chưởng lại cử chú cháu mình sang tìm Đỗ Lệ-Thanh?
          An-Bình thở dài:
          - Như cháu biết Chu-sa độc chưởng là thuật luyện công bằng nọc độc côn trùng, trên thế gian này không ai có thể giải được. Do giáo chủ Hồng-thiết Mã-Lệ chế ra.
          An-Việt ngơ ngác:
          - Cháu chỉ nghe nói đến giáo-chủ Đông-Nhật lão nhân chứ chưa từng nghe nói đến giáo chủ Mã-Lệ bao giờ.
          An-Bình gật đầu:
          - Vì vậy chú mới phải nói cho cháu nghe. Hồng-thiết giáo phát xuất từ Tây-vực. Đầu tiên hai người Tây-dương, một tên Mã Mặc. Một tên Lệ Anh. Hai người nhân dân chúng đói khổ, hô hào mọi người nổi dậy chống triều đình. Bị triều đình truy lùng. Hai người trốn vào rừng sống với thú vật, côn trùng. Nhân đó viết ra cuốn Hồng-thiết-kinh, qui tụ đủ tất cả độc chất trong thiên hạ, cùng cách luyện độc công. Hai người chế ra Chu-sa ngũ độc chưởng. Chu-sa độc chưởng lưu truyền khá sâu rộng.
          Chu An-Bình là đệ tử Hồng-hương giáo, nên y chỉ thuật những gì ghi chép trong kinh điển giáo phái này. Sự thực Mã Mặc, Lệ Anh là hai người không hề quen biết nhau. Họ học hai môn phái khác nhau. Vì luyện võ công sai lạc, cộng thêm với việc bắt côn trùng lấy nọc độc luyện, nên họ trở thành điên khùng. Khi viết Hồng-thiết kinh, chỉ phần đầu là đúng. Từ phần thứ nhì trở đi, hai người tưởng tượng ra, rồi viết.
          Đương thời, võ lâm Tây-vực khinh khi, coi họ là hai người, nhưng hồn thú vật, mất hết nhân tính. Khi hai người chết rồi, bộ Hồng-thiết kinh lan truyền khá rộng. Những bọn du thủ, du thực, trộm cướp thi nhau luyện. Khi chúng định đánh cướp đâu, chúng kéo cao ngọn cờ Thế thiên hành đạo. Của cướp được, đem chia cho người nghèo một ít, còn lại chúng giữ, hưởng thụ.
          Hơn trăm năm sau, một người thợ tên Lệ Vinh ở vùng băng giá Tây-vực nhân trộm cắp bị vua chúa truy lùng. Y chạy xuống Tây-dương, theo một đảng cướp, được truyền bộ Hồng-thiết kinh. Y luyện thành. Thấy các đời trước toàn quân trộm cướp, y có ý muốn cải tổ. Y viết lại bộ Hồng-thiết-kinh thành Lệ Vinh hồng thiết kinh. Trong đó chia làm ba phần. Phần thứ nhất chép độc tố khắp thiên hạ, cách hạ độc, cách trị. Phần thứ nhì chép nội công tâm pháp, cùng Chu-sa độc chưởng. Phần thứ ba chép triết lý về phương thức tổ chức bang Hồng-thiết, để tiến tới làm chủ thiên hạ. Sau đó Lệ Vinh trở về quê, âm thầm tổ chức đội ngũ Hồng-thiết giáo trong đám bần dân. Khi bang chúng mạnh, y khởi binh, tiến về kinh đô. Nhờ thủ đoạn đi đến đâu, giết chết quan lại, cùng phú gia, lấy của chia cho giáo chúng. Bọn du thủ du thực, bọn vô lại ào lên theo. Chiếm được kinh đô, giết chết vua cùng triều đình, Lệ Vinh lên làm giáo chủ. Việc cai trị trong nước hoàn toàn do giáo chúng độc quyền.
          Khi Lệ Vinh chết, y để di chúc truyền ngôi giáo-chủ cho Xích Trà-Luyện. Xích Trà-Luyện lên làm giáo chủ, y tuyển bọn vô lại các nước xung quanh đem về huấn luyện, rồi giúp binh lương cho trở về nước chống vua quan.
          Chu An-Bình nói:
          - Nhật-Hồ lão nhân nguyên là người Việt. Lão nhân sinh ra đúng lúc loạn Thập-nhị sứ quân. Người lưu lạc sang Tây-vực, được kết nạp vào Hồng-thiết giáo, được chính giáo chủ Xích Trà-Luyện thu làm đệ tử. Sau khi học được bản lĩnh nghiêng trời lệch đất rồi, người xin trở về phương Đông, đến vùng lưu vực Hoàng-hà tổ chức bang Hồng-thiết giáo. Nhưng Hồng-thiết giáo không tin có trời, có Phật, nên lão nhân gia không dám dùng tên Hồng-thiết, mà tổ chức thành bang Nhật-hồ.
          An-Khôi kinh ngạc:
          - Thế mà từ trước đến giờ cháu chỉ nghe danh có Đông-nhật lão nhân mà thôi. Sự thực ra sao?
          - Nhật-hồ lão nhân không phải người Trung-quốc, nên bản bang chỉ thu hẹp ở miền Tây.
          An-Việt hỏi:
          - Thế tổ người vùng nào?
          - Ngài người Việt, gốc ở vùng Cửu-chân.
          - Nhật-Hồ lão nhân bản lĩnh ra sao?
          - Võ công cao thâm không biết đâu mà lường. Người tu bổ lại võ công. Cho nên bên Tây-dương, giáo chúng chỉ biết Chu-sa độc chưởng. Người chế ra thành Chu-sa ngũ-độc chưởng, khốc liệt gấp trăm lần Chu-sa độc chưởng.
          An-Bình trầm trầm tiếp:
          - Nhật-Hồ lão nhân mới giới thiệu Đông-Nhật lão nhân với tổ Xích Trà-Luyện. Do đó Đông-Nhật lão-nhân được thu nhận. Khi Đông-Nhật lão nhân trở về Trung-thổ thì bản bang đã được thành lập rồi, có đệ tử khắp nơi. Nhưng đa số đệ tử người Hán. Đông-Nhật lão nhân vận động với các vị hộ pháp, chưởng-quản trong bang tổ chức buổi họp. Trong buổi họp người đặt vấn đề với Nhật-hồ lão nhân rằng: Bản bang được thành lập với mục đích chiếm Trung-quốc. Thế mà bang trưởng lại gốc người man di, sao có thể thu phục nhân tâm?. Tổ Nhật-Hồ thấy các vị chưởng-quản, hộ-pháp dường như đều đồng ý với Đông-Nhật lão nhân, người bèn từ chức bang trưởng, truyền chức cho Đông-Nhật lão nhân.
          An-Việt hỏi:
          - Thế Nhật-Hồ lão nhân sau đó đi đâu?
          - Người tuy từ chức, song vẫn là một hộ pháp cố vấn tối cao của bản bang. Người đi về phương Nam lập các bang Nhật-Hồ ở Giao-chỉ, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua. Song rất bí mật, không ai biết thực lực ra sao. Còn bản bang đổi thành Trung-quốc Nhật-hồ. Đông-Nhật lão nhân nguyên họ Vũ, cải danh thành họ Lưu lấy tên là Trí-Viễn. Khi thấy thực lực bang đã mạnh, người khởi nghĩa ở Thái-nguyên, lập lên nhà hậu Hán, lấy hiệu Thiên-phúc hòang đế.
          An-Khôi tỏ vẻ hiểu biết:
          - Cháu hiểu rồi. Như vậy trong lịch sử Trung-Quốc có tới hai nhà Hán.
          - Đúng. Một nhà Hán đo Cao-tổ Lưu Bang dựng nghiệp, truyền hơn hai trăm năm bị Vương Mãng thoán vị. Quang-Vũ trung hưng, truyền hơn hai trăm năm nữa, đến đời Hiến-Đế bị Tào Phi cướp ngôi. Con cháu Trung-sơn Tĩnh-vương là Lưu Bị lại xưng hậu Hán ở Thục. Hậu Hán truyền đến năm Quý-Mùi bị Tần diệt (263 sau Tây-lịch). Nay, cách 684 năm sau, Đông-Nhật lão nhân muốn thừa hưởng danh tiếng nhà Hán, mới xưng hậu Hán. Chứ sự thực người vốn họ Vũ, xuất thân trong bộ lạc Sa-đà vào năm Đinh-Mùi (947).
          An-Việt gật đầu:
          - Cháu hiểu rồi. Thế sao sau này ngôi vua truyền sang họ Quách?
          - Khi bang chủ lên ngôi lập ra nhà Hán. Người thấy Trung-quốc là gốc văn minh thiên hạ, lại phải cúi đầu tuân phục nhận sắc phong của vua sứ Tây-dương, nhục nhã qúa. Người bèn tách ra, không liên hệ gì với Tây-dương Hồng-thiềt nữa. Vì vậy điều sĩ dân thiên hạ ai cũng kính phục. Khi đắc thế rồi, Đông-Nhật lão nhân quên mất rằng anh em trong bang đổ máu dựng nghiệp cho người. Người giết khá nhiều hộ pháp trong bang. Đáng lẽ lúc sắp từ trần, người phải truyền ngôi cho người thừa kế trong bang, lại truyền ngôi cho con. Con người lên ngôi, lấy hiệu Càn-hựu, sau này sử gọi là Ẩn đế. Ẩn-đế tuổi còn nhỏ, mọi quyền hành trong tay thái hậu. Thái hậu giết chết các đại thần như Dương Bân, Sử Hoằng và Triệu-vương Chương.
          An-Khôi, An-Việt nghiến răng, thở dài. An-Bình tiếp:
          - Bấy giờ trong bang, do bang trưởng Đỗ-Ngạn-Uy cầm đầu. Nhưng người đổi ra họ Quách. Quách bang trưởng giết chết thái hậu và Hán Ẩn-đế (950). Bang trưởng được tôn lên làm vua, xưng là nhà Chu. Sau này sử tôn làm Chu Thái-tổ. Chu Thái-tổ lên làm vua, có nhiều cải cách khiến cho nước giầu dân mạnh. Khi người băng hà, đại đệ tử của người họ Sài tên Vinh lên kế vị (954) sau sử gọi là Chu Thế-tông. Khi Chu Thế-tông sắp băng, người lại đi vào con đường cũ, truyền ngôi cho con (959). Nhưng con người không có đức, chỉ làm vua được có hai năm, bị Triệu Khuông-Dẫn cướp ngôi lập ra nhà Tống (960). Sau này y chết được tôn làm Tống Thái-tổ.
          An-Bình thở dài:
          - Triệu Khuông-Dẫn bố cáo thiên hạ về nguồn gốc bổn bang xuất thân từ Tây-dương. Vì vậy sĩ dân xúm vào tìm cách diệt đệ tử Nhật-hồ. Tống Thái-tổ cho quân đến núi Trường-bạch diệt bổn bang.Y đem tông tộc họ Đỗ ra giết. Bấy giờ đại đệ tử của Quách Ngạn-Uy tên Dương-Bá,với con gái tên Đỗ Lệ-Thanh xin đem hết người bổn bang qui phục. Khu-mật-viện nhà Tống muốn dùng hai người này vào việc chiếm Giao-chỉ, mới đem tất cả tông tộc họ Đỗ về an trí ở Biện-kinh. Sau đó sai hai người sang Lĩnh-nam, tìm cách nào đó, chui vào làm đệ tử phái Tiêu-sơn.
          An-Việt gật đầu:
          - Mưu thực sâu!
          An-Bình vỗ tay vào vai cháu:
          - Cháu thử nói ý nghĩ của cháu xem có đúng không nào?
          - Này nhé, hai người sang Giao-chỉ, mở tiệm bán thuốc, đương nhiên sẽ có nhiêu quen biết. Giao-chỉ đang cai trị bởi Lý Công-Uẩn. Mà Uẩn xuất thân từ cửa Phật. Vơ chồng Dương-Bá chỉ cần khéo léo chui vào làm đệ tử một vị tăng nào, hỏi ai mà dám đụng đến ?
          - Giỏi. Thế nhưng họ Đỗ đầu hàng Tống, chứ bang chúng ta đâu có đầu hàng? Vì vậy, trong bóng tối bổn bang vẫn bành trướng. Ngặt một điều thuốc cấy độc Chu-sa độc hoàn bổn bang còn lưu truyền được. Mà thần công Hồng-thiết giải vĩnh viễn độc chưởng lại thất truyền. Người cuối cùng biết xử dụng chỉ có hai người. Một là Nhật-Hồ lão nhân, hai là Đỗ Lệ-Thanh. Vì vậy bang trưởng mới sai chúng ta đi tìm tung tích người thừa kế Nhật-Hồ hoặc Đỗ Lệ-Thanh, hỏi mật quyết luyện Hồng-thiết tâm pháp.
          An-Khôi cầm viên đá nhỏ búng đến véo một cái, rồi nói:
          - Hiện giờ chúng ta khống chế anh hùng thiên hạ bằng độc chưởng, rồi cấp thuốc giải hằng năm, chứ không biết xử dụng thần công giải hoàn toàn. Nếu chúng ta tìm được thần công đó, mới có thể khống chế võ lâm Trung-nguyên, dần dần lên làm vua.
          - Đúng thế. Chúng ta sẽ cho người dùng Chu-sa độc hoàn, hoặc Chu-sa độc chưởng gieo độc khắp triều Tống. Sau đó ai nghe lệnh, ta giải cho. Ai không nghe lệnh ta để cho chết. Chẳng mấy lúc cả triều thần tuân lệnh, thiên hạ lại trở về bản bang.
          Chu An-Bình thở dài:
          - Ta sợ Đỗ Lệ-Thanh chết rồi, e không biết đâu mà tìm. Khi tới Giao-chỉ, ta thấy lối tổ chức Hồng-hương thiếu niên của Nguyên-Hạnh, hơi giống lối tổ chức đệ tử của bản bang. Ta mới nghi y chính là Dương-Bá. Vì vậy ta hạ độc thủ hai mươi đứa hôm trước và mười một đứa hôm qua. Sau khi đi Thiên-trường trở về , ta dò xem những đứa bị trúng độc còn sống hay chết. Hễ chúng còn sống, ắt Đỗ Lệ-Thanh còn. Hay ít ra mụ cũng truyền cách chế lại cho đệ tử.
          An-Khôi lắc đầu:
          - Cháu, thì cháu nghĩ khác. Có thể Nguyên-Hạnh thừa kế Nhật-Hồ lão nhân thì sao?
          An-Bình cười:
          - Cháu biết một mà không biết hai. Nhật-Hồ lão nhân là người nhất tâm với Hồng-hương giáo. Có đời nào y theo Phật mà thành hòa thượng?
          An-Việt lắc đầu:
          - Cháu lại cho rằng Nguyên-Hạnh chính là người thừa kế Nhật-Hồ lão nhân. Vì võ lâm Đại-Việt nghe đến Hồng-thiết giáo đều xúm lại chém giết. Vì vậy y phải chui vào ẩn trong lớp áo cà sa. Hiện Nguyên-Hạnh là đệ tử của Di-Lặc bồ-tát, bản lĩnh y cao thâm không biết đâu mà lường. Sợ rằng chú cháu ta không địch nổi y.
          Chu An-Bình vỗ tay vào bụng:
          - Bang trưởng đã trù liệu việc đó. Cháu đâu biết rằng Lưu thái hậu triều Tống hiện thời là đệ tử bản bang. Khi ta đi, bang trưởng ép Lưu hậu ban một chỉ dụ cho Lý Công-Uẩn rằng Đỗ Lệ-Thanh là tử tội bản triều. Nếu ta biết y thị còn sống. Ta sẽ xuất hiện, yêu cầu mụ trao Hồng-thiết tâm pháp. Mụ trao thì tốt. Còn trường hợp mụ không trao, ta dọa sẽ tố cáo mụ và Nguyên-Hạnh làm gian tế cho triều Tống. Như vậy ắt mụ phải líu ríu tuân hành.
          - Lỡ mụ vẫn cứng đầu?
          - Ta dùng chiếu chỉ của Tống, xuất hiện truyền Lý Công-Uẩn bắt tử tội Đỗ Lệ-Thanh trao trả bản triều. Khi Đỗ Lệ-Thanh vào tay chúng ta. Chúng ta bảo sao mụ cũng phải nghe. Ta chỉ lo Lý Công-Uẩn thấy thế lực Nguyên-Hạnh lớn quá, không dám bắt thị mà thôi. Hiện giờ gần vạn thiếu niên Hồng-hương chứ ít đâu ?
          Có tiếng trầm trầm vọng lại:
          - Thiếu niên Hồng-hương đã đến từ lâu rồi.
          Thấp thoáng một cái, hai bóng người đã khoanh tay đứng trước mắt ba chú cháu họ Chu. Mỹ-Linh nhận ra hai nhà sư Trí-Nhật, Trí-Nguyệt, đệ tử của Nguyên-Hạnh.
          Xung quanh, hơn trăm thiếu niên Hồng-hương, vũ khí sáng ngời bao vây ba chú cháu họ Chu vào giữa. Trí-Nhật nói:
          - A-di-đà Phật. Ba thí chủ hãy đi yết kiến sư phụ bần tăng.
          Chu An-Bình cười nhạt:
          - Xin đại sư cho biết pháp danh ? Pháp danh quý tôn sư là gì?
          Trí-Nhật chỉ vào Trí-Nguyệt:
          - Đây là sư đệ của bần tăng pháp danh Trí-Nguyệt. Còn bần tăng pháp đanh Trí-Nhật. Bản sư tại hạ chính thị Nguyên-Hạnh lão sư.
          Chu An-Bình cười nhạt:
          - Nguyên-Hạnh đại sư là một cao tăng, chứ đâu phải hòang đế ? Hồng-hương thiếu niên đâu phải quân binh ? Chúng tôi không đi.
          Trí-Nhật vẫy tay. Hai thiếu niên Hồng-hương nhảy vào bắt An-Bình, An-Khôi . Một thiếu nữ bắt An-Việt. Trí-Nhật không ngờ bắt ba người dễ dàng quá. Y ra lệnh:
          - Trói chúng lại.
          Các thiếu niên Hồng-hương dạ ran, đem dây ra định trói. Thình lình ba người bắt chú cháu An-Bình bỗng kêu thét lên, buông họ ra, nhảy lùi lại ôm tay, mặt mũi tái mét.
          Trí-Nhật kinh hãi hỏi:
          - Cái gì đã xẩy ra.
          Ba thiếu niên chưa trả lời, y cũng đoán được cái gì đã xẩy ra. Hai bàn tay ba thiếu niên sưng vù, đỏ như máu.
          Nhanh như chớp, ba chú cháu An-Bình phóng chưởng tấn công. Binh, binh, ba thiếu niên Hồng-hương trúng chưởng, ngã xuống. Biến cố xẩy ra đột ngột, Trí-Nhật xuất chưởng tấn công An-Bình. Trí-Nguyệt tấn công An-Khôi, An-Việt.
          Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cùng Đỗ Lệ-Thanh núp sau bụi cây theo dõi mọi biến chuyển. Nàng thấy anh em Trí-Nhật, Trí-Nguyệt xử dụng võ công Tiêu-sơn. Chưởng lực hai người cực kỳ hùng hậu.
          Nàng nhủ thầm:
          - Tuy Nguyên-Hạnh làm gian tế của Tống, nhưng y quả thực có tài. Anh em Trí-Nhật tuổi bất quá trên ba mươi, mà bản lãnh bỏ xa anh Tạ Sơn. Có lẽ chúng chỉ thua sư-phụ ta với Hồng-sơn đại phu một bực, ngang với bọn Vương Duy-Chính chứ không ít.
          Trí-Nguyệt dồn anh em An-Khôi, An-Việt muốn ngộp thở. Y đánh liền ba chưởng, An-Việt đã bay vọt ra xa, nằm dài dưới đất. Một thiếu niên Hồng-hương cầm kiếm dí vào cổ nàng.
          Bình một tiếng, An-Khôi bay bổng lên cao, rơi xuống đất. Một đệ tử Hồng-hương khác lại dí kiếm vào cổ y.
          Trí-Nhật võ công cao hơn An-Bình nhiều. Nhưng y cứ phải đánh cầm chừng, vì tránh chạm vào độc chưởng của An-Bình. Trí-Nguyệt sợ sư huynh thất thố điều gì. Y cầm kiếm trong tư thế sẵn sàng can thiệp.
          Đấu được trên trăm hiệp, An-Bình thở hổn hển, chiêu thức rời rạc. Y cố gắng đỡ được một chưởng nữa, rồi loạng choạng muốn ngã. Trí-Nhật chụp lấy tay y bẻ quặt ra sau. Song vừa định bẻ tay đối thủ, y cảm thấy bàn tay nóng bỏng. Y tỉnh ngộ, phóng một chưởng cực kỳ hùng hậu vào ngực đối thủ, rồi lui lại. Chu An-Bình lãnh một chưởng như trời giáng, y bay bổng ra xa, rơi xuống đất, miệng phun máu.
          Trí-Nguyệt rất quan tâm đến sư huynh:
          - Sư huynh, có sao không ?
          Mặt Trí-Nhật tái xanh, nhưng bàn tay thì đỏ chói như máu. Trí-Nguyệt nhìn sáu thiếu niên Hồng-hương với sư huynh bị trúng Chu-sa chưởng, đang đau đớn rên rỉ. Y chư biết giải quyết sao, thì một thiếu niên Hồng-hương cầm kiếm đến dí vào cổ ba chú cháu An-Bình:
          - Mau đưa thuốc giải độc Chu-sa ra ngay. Bằng không chúng ta giết mi.
          An-Bình cũng không vừa:
          - Mi đừng hy vọng. Bọn mi cũng như chúng ta, đều là người được đào tạo trong tinh thần Hồng-thiết kinh, khi gặp việc chẳng như ý, chỉ có chết, chứ không chịu khuất phục.
          Một thiếu niên Hồng-hương chỉ vào An-Việt:
          - Nếu mi không đưa thuốc giải ra, nhất định ta rạch nhát kiếm này vào mặt mi. Mặt mi sẽ xấu xa khủng khiếp, mi biết không ?
          An-Việt lặc đầu:
          - Chu-sa độc chưởng không có thuốc giải. Chỉ có thuốc tạm thời cho bớt đau mà thôi. Ta để ở trong bọc trên lưng ta. Mi mở ra mà cứu đồng bọn.
          Trí-Nguyệt tỵ hiềm nam nữ, y không dám đụng vào người An-Việt. Y dùng kiếm khều cái túi trên lưng nàng, mở ra. Trong túi có hàng chục bình thuốc. Y hỏi:
          - Bình nào là thuốc giải ?
          - Bình đen. Mỗi người uống ba viên.
          Trí-Nhật lấy thuốc phát cho đồng bọn. Chúng bỏ thuốc vào miệng, rồi vận khí nuốt đi. Lát sau, bao nhiêu cái đau đớn từ từ biến mất.
          Trí-Nhật truyền giải ba chú cháu An-Bình đi theo.
          Đợi bọn Trí-Nhật đi xa, Đỗ Lệ-Thanh nói:
          - Công-chúa, thế-tử. Chúng ta mau đuổi theo.
          Mỹ-Linh phất tay ra hiệu:
          - Không cần thiết. Đây là phủ thủ của cơ quan trấn thủ nam Đại-Việt. Đến con chó, con mèo chạy đâu mình cũng kiểm soát được, huống hồ bọn này.
          Về đến dinh Khai-quốc vương, Mỹ-Linh thuật mọi truyện cho Thanh-Mai nghe, rồi xin quyết định. Thanh-Mai biết Mỹ-Linh đã coi mình là vợ Khai-quốc vương, làm vai trên, nên hỏi ý kiến nàng. Nàng hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
          - Đỗ phu nhân. Bây giờ phu nhân định hành động như thế nào ?
          Đỗ Lệ-Thanh suy nghĩ một lúc rồi nói:
          - Theo ý tiểu nhân, bên Trung-quốc bang Nhật-hồ đã phát triển lớn. Hồi tiểu tỳ ra đi, chưa chế ra Chu-sa hòan. Muốn thắng ai, phải dùng chưởng. Bây giờ không cần thiết luyện chưởng, mà chỉ cần phóng thuốc vào người cũng đủ. Dường như bang Nhật-hồ đã khống chế được nhiều quan chức triều Tống, trong đó có thái hậu. Tuy vậy bang chỉ có thuốc trị giảm đau trong một thời gian ngắn, mà không có thuốc giải. Đơn chế thuốc giải không phải mình tiểu tỳ biết, mà trong họ Đỗ có nhiều người biết. Chắc trong khi tranh dành chức chưởng môn, nhóm họ Đỗ đã bị diệt họăc giả tách ra không còn ở trong bang. Vì vậy, họ phái người đi tìm tiểu tỳ.
          Mỹ-Linh gật đầu:
          - Đúng thế. Vậy trước đây phu nhân có dạy Nguyên-Hạnh chế thuốc này không ? Y có biết Hồng-thiết tâm pháp không?
          - Không. Từ ngày sang Đại-Việt, vì dấu tung tích, nên Nguyên-Hạnh bắt tiểu tỳ không được luyện chưởng này nữa. Vì luyện để làm gì ? Nếu đem ra xử dụng đánh ai, tông tích bị lộ ngay. Vì vậy thuốc giải không cần đến. Cho nên y không đòi học chế. Nào ngờ...nào ngờ y vẫn bí mật luyện tập. Vì vậy hôm trước y dùng để hại công chúa.
          Mụ ngừng lại cầm chung trà uống một hơi cạn, rồi tiếp:
          - Công chúa thử đoán xem, tại sao y không giết tiểu-tỳ, mà lại giam cầm làm chi ?
          Mỹ-Linh đáp ngay:
          - Chắc y muốn phu nhân dạy cách chế thuốc giải Chu-sa độc chưởng.
          - Gần như thế . Y thường tra vấn tiểu nhân hai vấn đề. Một là phương thuốc luyện Hồng-thiết thần công và phương thuốc giải. Tiểu tỳ nhất định không khai. Vì nếu khai ra, y sẽ giết tiểu tỳ ngay.
          Bản tính Thiệu-Thái nhân từ. Chàng nói với Đỗ Lệ-Thanh:
          - Phu nhân còn nhớ phương thuốc giải, nên chế ra ít ngàn viên, để cứu đời. Cứu một mạng người bằng xây bẩy ngôi chùa.
          Đỗ Lệ-Thanh lạy thụp xuống đất:
          - Thế tử thực là người nhân đức. Theo tiểu tỳ, chúng ta nên chế thuốc giải, vì thuốc giải chỉ có hiệu lực một năm. Hàng năm đến tiết Đông-chí mà không có thuốc giải, sẽ lên cơn đau đớn sống không nổi, chết không xong. Nào bây giờ chúng ta bí mật cứu ba người họ Chu ra...
          Thanh-Mai vỗ tay:
          - Mưu kế tuyệt diệu.
          Thiệu-Thái ngơ ngác:
          - Thế nghĩa là...
          Mỹ-Linh cười:
          - Chúng ta cứu ba người họ Chu. Tất nhiên giữa ba người này với bọn Nguyên-Hạnh còn xẩy ra nhiều trận đấu. Còn nhiều người bị trúng độc. Trong khi đó chúng ta ở giữa, làm ngư ông hưởng lợi, cứ tìm đám thiếu niên Hồng-hương cho họ thuốc giải, bắt tuyên thệ phải báo cáo mọi họat động của Nguyên-Hạnh cho Khu-mật-viện. Nếu người nào không trung thành, cuối năm ta không cho thuốc giải.
          Thiệu-Thái mừng rỡ:
          - Chúng ta cứ thế mà làm.
          Đỗ Lệ-Thanh lắc đầu:
          - Khi phóng thuốc giải vào người bệnh, cần nhất người đó phải dùng Chu-sa thần công. Mà tiểu tỳ bị giam bao năm, công lực cạn. Bây giờ thế tử luyện thần công Chu-sa, mới cứu họ được.
          Thiệu-Thái ngơ ngác:
          - Tôi làm sao mà luyện được thần công này ?
          Đỗ Lệ-Thanh cầm con dao nhỏ để trên bàn, mụ cởi cái áo da trên người ra, rồi cầm dao rạch lằn chỉ. Phút chốc lớp lụa bên trong với lớp da tách đôi. Mụ để cái áo da lên bàn. Chỉ vào cái áo:
          - Bí quyết chế thuốc giải, cũng như thần công Chu-sa, tiểu tỳ chép vào đây lâu rồi. Nguyên-Hạnh đã vạch từng ly, từng tý ra xét, mà không tìm thấy.
          Mỹ-Linh nhìn tấm áo da, không có chữ, cũng chẳng có hình vẽ. Nàng hỏi:
          - Bí quyết ở trong này ?
          Đỗ Lệ-Thanh cầm con dao cắt đôi quả chanh, rồi vắt nước lên lớp da trong áo. Mụ dùng tay chà cho nước chanh ướt hết vạt trước. Lập tức trên lớp da hiện ra những hàng chữ li ty. Mụ nói:
          - Muốn luyện thành công Chu-sa chưởng, ít nhất phải mất 10 năm. Nhưng trong người thế tử hiện có một trăm năm Thiền-công, thì luyện rất mau.
          Thiệu-Thái, ghé mắt đọc:
          Thần công Chu-sa chưởng, bí lục.
          Phần dưới chép:
          Chu-sa thần công thuộc loại âm nhu. Nó còn có tên khác như Mai-hoa công hoặc Hồng-sa công. Phương pháp luyện có hai phần. Phần thứ nhất luyện công khi nào nội lực thực mạnh, dùng thuốc tẩm vào bàn tay
          .
          Chàng đọc xuống dưới:
          Võ-lâm cứ nghĩ Chu-sa thần công chỉ để đánh người thực sai lầm. Chu-sa thần-công có hai thực nghiệm. Một là dùng chưởng lực đẩy chất độc đánh đối thủ. Hai là dùng thần công hút bất cứ loại độc nào để cứu người.
          Thiệu-Thái mừng thầm:
          - Như vậy thực tốt quá. Ta học thần công này, để cứu người chẳng tốt sao ?
          Chàng đọc xuống dưới:
          Cho cát khô vào trong một thùng. Hàng ngày dùng tay đâm. Không cần biết bao nhiêu lần, khi nào mệt thì nghỉ. Cứ như vậy luyện hàng ngày. Trong vòng 5 tới 10 năm, tay cách xa thùng cát hơn thước xỉa mạnh khiến cho cát bay lên. Như vậy là được một thành.
          Bên dưới ghi:
          Trong khi luyện, khí trầm đơn điền , rồi vận khí ra Thủ tam âm kinh đâm xuống. Khi rút tay ra, dẫn khí ngược trở lên.Thiệu-Thái vận khí thử, thấy không khó gì cho lắm, chàng tiếp tục đọc xuống dưới, luyện thử, cũng chỉ mấy khắc là xong. Chàng dọc tiếp:
          Đến đây công lực đã được ba thành. Bắt đầu luyện với thuốc. Người nào bẩm tính thông minh luyện trong 10 năm sẽ thành.
          Đỗ Lệ-Thanh chắp tay:
          - Mừng cho thế tử đã luyện xong hai phần khó nhất. Bây giờ phải luyện với thuốc.
          Mụ cầm bút viết phương thuốc:

          Hoa thủy trùng 1 lượng.
          Hắc chi ma 2 tiền.
          Qui vĩ 2 tiền.
          Xuyên liên 8 phân.
          Hòang bách 1 tiền.
          Kinh giới 3 tền.
          Trắc bách 1 lượng.
          Dương khởi thạch 2 tiền.
          Thiết sa 4 tiền.
          Phòng phong 3 tiền.
          Ban thích trùng 5 lượng.
          Ngân hoa 2 tiền.
          Bạch tật lê 3 tiền.
          Thạch ??? 8 lượng.
          Bạch truật 2 tiền.
          Bạch tín 1 tiền.
          Hồng nương tử 5 tiền.
          Ngô công 2 con.
          Can khương 1 lượng.
          Não sa 5 tiền.
          Hồng hoa 1 tiền.
          Nguyên sâm 5 phân.
          Bắc tế tân 3 tiền.
          Bạch tân bì 3 tiền.
          Đinh thí trùng. 5 tiền.
          Tiểu nha qui 2 tiền.
          Chỉ thiên tiêu. 8 lượng.
          Tổng cộng 28 vị.


          Mụ nói với Mỹ-Linh:
          - Xin công chúa ban chỉ truyền y sĩ soạn cho hai lần phương thuốc này.
          Trong dinh Khai-quốc vương có nhiều y sĩ dùng trong quân. Mỹ-Linh sai tỳ nữ đi lấy thuốc. Phút chốc đã mang về. Mụ kiễm điểm lại, bỏ vào nồi, cho vào ba chục bát nước đun. Mụ dặn dầu bếp:
          - Để chính tôi đun mới được. Vì độc chất này ghê gớm lắm. Người ngửi phải e nguy lắm thay.
          Mụ thân vào bếp đun thuốc. Một lát mang thuốc ra. Hơi thuốc bốc lên ngào ngạt. Mụ nói:
          - Xin thế tử ngâm hai tay vào thuốc rồi tiếp tục vận khí luyện như trước.
          Thiệu-Thái ngâm hai tay vào thuốc, vận khí. Chàng cảm thấy chất thuốc ngấm vào trong người thực mau. Bỗng mấy con thạch-sùng trên trần nhà rơi xuống đất lộp bộp. Chúng dãy mấy cái rồi nằm im.
          Mỹ-Linh kinh hãi:
          - Cái gì vậy ?
          Đỗ Lệ-Thanh đáp:
          - Thưa công chúa, những con rắn mối này ngửi phải hơi độc, tạng phủ chúng nát ra mà chết.
          Thiệu-Thái luyện một lúc, chậu nước thuốc trở thành trong veo. Đỗ Lệ-Thanh giải thích:
          - Bao nhiêu chất độc, thế tử hút vào hai ban tay cả rồi.





          (Xin đọc tiếp bộ Thuận Thiên Di Sử)
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.01.2005 02:53:00 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            NuHiepDeThuong 13.01.2005 03:34:08 (permalink)
            Bộ Truyện Anh Hùng Tiêu Sơn - Q4 - YTCSTDS đã được đem vào thư viện.

            Xin chân thành cảm ơn bạn CDDLT đã đóng góp cho thư quán những tác phẩm hay.

            Chúc vui.
            #6
              Chuyển nhanh đến:

              Thống kê hiện tại

              Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
              Kiểu:
              2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9