Thuận Thiên Di Sử
CDDLT 06.01.2005 18:23:10 (permalink)
Hồi thứ ba mươi mốt


Trên đỉnh núi Dục-thúy.



Quân sĩ đem đuốc lại gần soi. Đó là một người đàn ông tuổi trung niên. Miệng y ứa máu. Đỗ Lệ-Thanh cầm mạch gật đầu:
- Còn hy vọng.
Mụ lấy một viên thuốc nhét vào miệng người kia. Thiệu-Thái sờ tay lên ngực y. Xương ngực vỡ làm nhiều mảnh vụn. Chàng không ngờ mình chỉ phất tay nhẹ nhàng, mà khiến cho người kia ra nông nỗi ấy.
Một lát người kia tỉnh dậy. Y rên lên một tiếng. Thanh-Mai hỏi:
- Người là ai ? Tại sao lại đột nhập vào đây dò thám ?
Người kia rên rỉ:
- Tôi làm theo lệnh lão gia. Lão gia bắt, tôi phải làm. Bằng không...cả nhà tôi sẽ bị giết chết.
Đỗ Lệ-Thanh nắn bóp cho y mấy cái. Mặt y tươi lên một chút. Thanh-Mai hỏi tiếp:
- Lão gia là ai ?
- Là trưởng lão Hòng-thiết giáo.
Đỗ Lệ-Thanh kinh hoảng la lên:
- Úi chà.
Mụ hỏi:
- Lão ở đâu ?
- Lão gia nay đây, mai đó, rất khó được gặp. Thường tôi chỉ được tiếp xúc với sứ gỉa của lão gia mà thôi.
- Lần này người đến đây làm gì ?
- Tôi đến trao thuốc giải cho một người. Ối...
Y mửa ra một búng máu, rồi ngẹo đầu sang một bên, hết thở.
Mỹ-Linh truyền giao thi thể người đó chu Khu-mật-viện Trường-yên khám xét.
Thanh-Mai hỏi Mỹ-Linh:
- Khi Vương gia vắng mặt tại đây, thì ai là người thay thế ?
- Trước kia do sư huynh Tạ Sơn. Sau này sư huynh về kinh lĩnh chức Điện-tiền chỉ huy sứ thì An-phủ-sứ Trường-yên thay thế.
Lát sau, Tôn Trung-Luận vào cùng với một viên thư lại. Viên thư lại bưng cái khay, trên khay để một số vật dụng. Y trình bày:
- Trên trán của gian nhân có xâm chữ Thiên-tử binh như vậy y ở trong quân ngũ. Thẻ bài trong người y khắc tên Phùng-Hiên, Ngự-long vậy y thuộc đạo Ngự-long. Đạo Ngự-long mới đi Cửu-chân về Thăng-long tháng qua. Trên người y còn một bình hai viên thuốc. Không hiểu thuốc gì ?
Đỗ Lệ-Thanh cầm viên thuốc đưa lên mũi ngửi, rồi nói:
- Đây là thuốc giải Chu-sa độc chưởng. Nhưng thuốc này đã cải đi nhiều, không giống thuốc giải nguyên thủy.
Từ khi nghe nói về Chu-sa độc chưởng, Mỹ-Linh, Thanh-Mai đều cảm thấy đau nhói trong lòng. Hồi đầu Mỹ-Linh nghi Vương mẫu của nàng bị chết về chưởng này của Nguyên-Hạnh. Sau nghe Đỗ Lệ-Thanh biện luận, nàng bỏ ý tưởng ấy ra ngoài.
Trên đường từ Cửu-chân ra Trường-yên, Mỹ-Linh đem truyện Vương mẫu cùng Hồng-sơn phu nhân chết vì cùng nguyên do cho Thanh-Mai nghe. Thanh-Mai lại choáng váng mặt mày. Vì chính mẫu thân của nàng cũng chết trong cùng một chứng bệnh. Có điều võ công bà cao. Hôm ác nhân đánh bà là lúc chồng bà vắng nhà cùng với các đại cao thủ trong phái. Bà với ác nhân đấu trên trăm chiêu. Cuối cùng ác nhân bị trúng chưởng của bà phun máu miệng. Trong khi bà cũng bị trúng một chưởng vào lưng. Ác nhân chờ cho hôm sau bà lên cơn đau. Y mới xuất hiện, nói cho biết bà bị trúng độc chưởng, nếu không có thuốc giải, sẽ đau đớn trong bốn mươi chín ngày rồi chết.
Ác nhân bắt bà tuân theo ba điều kiện. Một phải tuyên thệ nhập bang Nhật-hồ Đại-Việt. Hai phải cung cấp mọi tin tức trong phái Đông-a cho y. Ba phải phải tuyệt đối tuân lệnh bang Nhật-hồ Đại-Việt.
Bà từ chối, vì không thể phản chồng. Khi đại hiệp Trần Tự-An trở về, thì bà sắp chết. Bà thuật mọi chi tiết cho ông nghe. Ông như điên như khùng, tung đệ tử đi khắp nơi tìm tung tích bọn Nhật-hồ, mà không thấy. Câu truyện tưởng như trôi qua. Bây giờ nghe gian nhân khai, Thanh-Mai lại thấy ánh sáng ló dạng. Có thể tìm ra Nhật-hồ tung tích thủ phạm.
Nàng hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
- Chu-sa chưởng của bang Nhật-hồ Trung-quốc gồm có Chu-sa chưởng và Ngũ-độc chưởng. Vậy có thể nào khi sau khi luyện Chu-sa chưởng. Người ta phát chiêu Chu-sa riêng, Ngũ-độc riêng hay phải phát Chu-sa Ngu-độc một lúc không?
Đỗ Lệ-Thanh nhảy phắt lên:
- Cô nương thực thông minh. Có thể như thế. Ác nhân tấn công Vương-phi, Hồng-Sơn phu nhân cũng như Tự-An phu nhân bằng Ngũ-độc chưởng mà thôi. Tôi chưa thử phát chiêu Ngũ-độc đánh người, nên không biết họ có đau đớn như các nạn nhân đã bị hay không ?
.....
An-phủ sứ Tôn Trung-Luận chỉ lên tấm bản đồ vẽ trên lụa:
- Bọn Hồng-hương giải ba người họ Chu vượt sông, hiện đang ở trên núi Dục-thúy. Hôm qua bọn thiếu niên Hồng-hương do Phan Thi chỉ huy bị đám Chu An-Bình đánh bị thương đã cùng Nguyên-Hạnh đến Dục-thúy. Bọn này tạm dùng thuốc giải độc của họ Chu. Nên bớt đau nhức.
Thanh-Mai hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
- Đỗ phu nhân, thuốc giải của họ Chu có hiệu lực trong bao lâu ?
- Chỉ được một ngày. Thuốc này trấn thống, nhưng sau bốn mươi chín ngày bệnh nhân cũng chết. Chứ không giống thuốc giải của tiểu tỳ, có hiệu lực một năm, và không bị chết.
Thanh-Mai quyết định:
- Bây giờ thế này. Chúng ta âm thầm cứu bọn thiếu niên Hồng-hương, bắt chúng tuyên thệ trung thành với ta. Sau đó cho chúng thuốc giải. Khi bọn họ Chu thấy đám đệ tử Hồng-hương có thuốc giải. Tất y tưởng Nguyên-Hạnh biết chế thuốc. Chúng sẽ theo quấy rối y hòai.
Mỹ-Linh cười:
- Như vậy ta kiếm cho Nguyên-Hạnh những kẻ thù ghê gớm của bang Nhật-hồ Trung-nguyên. Y sẽ ăn không ngon, ngủ không yên với người của bang này.
Thanh-Mai gật đầu:
- Trong khi đó ta cứu bọn họ Chu ra, để chúng báo về Trung-quốc rằng đã tìm ra tông tích Dương-Bá. Nào bây giờ An phủ sứ cho chúng tôi biết tình hình, địa thế núi Dục-thúy.
Tôn Trung-Luận chỉ một viên Đô-thống:
- Xin Đô-thống trình bày:
Viên đô-thống lấy ra một cái trục lụa. Trên trục vẽ bản đồ thành phố Trường-yên (nay là thị xã Ninh-bình). Y chỉ vào bản đồ:
- Núi Dục-thúy còn có tên là núi Non-nước, gồm ba ngọn dính liền nhau. Ba quả núi dựng đứng bên sông cái. Mặt nhìn ra sông thẳng đứng, chơi vơi. Mặt trong thoai thỏai hướng vào thị trấn. Trên đỉnh núi có khu bằng phẳng rộng ước hơn hai mẫu. Thời vua An-dương, Cao-cảnh hầu Cao Nỗ dựng một tháp đá rất to, dùng làm cột cờ. Nay trên đó vẫn kéo cờ.
Y lấy trục lụa khác mở ra:
- Trước kia trên núi có quân đóng. Từ bốn năm nay, giao cho thiếu niên Hồng-hương trông coi. Từ trấn muốn lên, có một con đường chính và một con đường mật. Con đường này từ sông lên thẳng đỉnh núi.
Thanh-Mai hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
- Đỗ phu nhân. Nếu Nhật-hồ lão nhân còn sống, năm nay ông bao nhiêu tuổi ? Hình dạnh ông như thế nào ?
Đỗ Lệ-Thanh đáp:
- Không ai nhớ hình dạng lão ra sao. Chỉ biết lão có mười đệ tử, đều là người Việt. Còn về tuổi tác, nếu lão còn sống năm nay ít ra cũng hơn trăm tuổi. Tiểu tỳ nghĩ lão đã chết rồi. Tên gian nhân hôm qua nói rằng tuân lệnh lão...tiểu tỳ chắc chữ lão để chỉ đệ tử Nhật-Hồ. Khu-mật viện ắt biết rõ tung tích lão.
Thanh-Mai đưa mắt nhìn viên đô thống.
Viên Đô-thống kính cẩn:
- Thưa Vương-phi, Nhật-Hồ lão nhân nguyên gốc người vùng Cửu-chân, xuất thân trong gia đình văn học. Thân phụ làm quan thời vua Ngô. Lớn lên lão ngao du sang Trung-nguyên, vô sở bất chí. Sau lưu lạc sang vùng Tây-vực, được giáo chủ Hồng-thiết giáo Tây-dương đời thứ nhì tên Xích Trà-Luyện thu làm đệ tử. Nhờ vậy lão học được trọn bộ Hồng-thiết kinh. Võ công lão rất cao cường. Độc công càng thâm hậu. Lão về Trung-quốc lập bang Nhật-Hồ. Người thừa kế lão tên Lưu Trí-Viễn lập ra nhà Hán. Nhật-Hồ lão nhân về Đại-Việt thu mười đệ tử, rồi lập Hồng-thiết giáo. Thời kỳ Thập-nhị sứ quân có bốn sứ quân theo giáo phái này. Sau khi vua Đinh dẹp sứ quân, đệ tử Hồng-thiết bị truy lùng rất gắt. Mãi tới khi đức Hoàng-đế bản triều lên ngôi ban chiếu chỉ ân xá, giáo chúng mới tụ lại dần dần.
Mỹ-Linh rất chú tâm đến vụ này, nàng hỏi thêm:
- Hồi ở Thăng-long, tôi nghe chú hai nói lão chết gần hai mươi năm rồi. Đệ tử thứ ba của lão têmn Lê Ba xây lăng cho lão rất lớn. Lão linh thiêng, nên dân chúng cúng quải ngày sóc, ngày vọng tấp nập. Còn mười đệ tử của lão hiện nay ra sao?
- Không ai biết rõ mặt mũi họ, nhưng việc làm của họ thì ai cũng biết. Họ được phong trưởng lão trong hội đồng giáo vụ trung ương. Đại đệ tử tên Vũ Nhất-Trụ, võ công cùng binh pháp vô địch. Nhị đệ tử tên Đặng Trường ẩn hiện không chừng. Tên này giết người không gớm tay. Tam đệ tử tên Lê Ba, hành tung cực kỳ bí mật. Kế tiếp Nguyễn Chí, Phạm Trạch, Phạm Hổ, Đỗ Xích-Thập, Lê Đức, Hoàng Liên, Hoàng Văn. Tất cả hiện ẩn danh. Có tin nói rằng đám trưởng lão Hồng-thiết giáo không phải ai đâu xa lạ, mà chính là những đại tôn sư võ học.
Thanh-Mai thấy viên Đô-thống không biết gì thêm, nàng xua tay:
- Bây giờ chúng ta trở lại vụ núi Dục-thúy.
Bảo-Hòa chỉ vào con đường mật trên bản đồ:
- Bây giờ chúng ta lên đỉnh núi Dục-thúy cứu bọn họ Chu và cấp thuốc cho bọn Hồng-hương. Không biết ai nên đi ?
Thanh-Mai đưa mắt nhìn Bảo-Hòa:
- Ở đây chưởng lực của Thiệu-Thái dư sức thắng Nguyên-Hạnh. Tuy nhiên đối với Nguyên-Hạnh thì Mỹ-Linh, Thiệu-Thái chết rồi. Hai người không đi được. Chỉ còn tôi với Bảo-Hòa mà thôi. Ngặt vì chúng tôi khó thắng được độc chưởng của Nguyên-Hạnh. Làm thế nào bây giờ ?
Mỹ-Linh mỉm cười:
- Thế thì ta đem Nguyên-Hạnh đi chỗ khác. Bây giờ An-phủ sứ cho người lên núi Dục-thúy thỉnh Nguyên-Hạnh tới đây thuyết pháp, rồi dâng cơm chay. Trong khi đó Bảo-Hòa với Thanh-Mai ra tay.
Tôn Trung-Luận gật đầu:
- Nguyên-Hạnh là tên thầy chùa ăn thịt chó, nhưng mặt nạ còn nguyên. Chúng ta cứ để cho y đội lốt tăng sĩ, rồi tính sau. Ty chức xin thảo thư mời y.
Đỗ Lệ-Thanh trao cho Bảo-Hòa một bình thuốc, dặn dò cách xử dụng. Thanh-Mai với Bảo-Hòa chờ trời tối lên đường. Hai người hướng bờ sông mà đi.
Tới bờ sông, đã thấy con đò chờ sẵn. Thanh-Mai mừng thầm, vì Khu-mật-viện Trường-yên bố trí phương tiện cho mình. Trên con đò nhỏ, mui cong, một cô gái xinh xinh đang ngồi bên tay lái. Cô thấy hai người, đon đả chào:
- Xin mời hai cô nương xuống đò dọc sông ngắm cảnh ?
Muốn ăn chắc. Bảo-Hòa hỏi lại mật khẩu Khu-mật-viện Trường-yên đã dặn nàng:
- Giá bao nhiêu một buổi ?
- Mười đồng hai người. Một người hai mươi đồng.
- Tại sao hai người thì rẻ mà một người lại đắt ?
- Tại vì tôi là người Việt.
Thấy đúng như mật hiệu, hai người bước xuống đò. Cô gái nhoẻn miệng cười rất tươi. Cô cất tiếng hát. Giọng của cô trong, dài vang vang hắt vào vách núi rồi đội lại như nhiều giọng cùng hát. Sóng sông li ti vỗ bào mạn thuyền thành những tiếng rì rào nho nhỏ.
Thuyền ra khỏi bờ một quãng, cô lái kéo lên mảnh buồm, rồi gác mái chèo. Cô đưa mắt nhìn trời, dùng chân điều khiển bánh lái.
Bảo-Hòa phóng mắt nhìn sang bên kia sông, vách núi Dục-thúy thẳng như bức tường. Ánh trăng chiếu vào núi đá, có nhiều chỗ óng ánh coi như bạc. Trời xanh, không gợn chút mây tơ. Cô lái đò hỏi:
- Hai chị có muốn nghe thổi sáo không ? Em thổi cho hai chị nghe một bài, nhất định hai chị sẽ thích thú lắm.
Không đợi trả lời, cô lái đò rút ống tiêu bên mình ra để lên miệng thổi. Trái với tính tình nhanh nhẹn, vui vẻ. Bản nhạc của cô trầm buồn, thê lương vô cùng. Bảo-Hòa nghe mà não cả lòng. Nàng hỏi:
- Cô lái ơi! Bản nhạc đó tên gì mà buồn vậy ?
Cô gái đưa mắt liếc Thanh-Mai:
- Bản nhạc này không có tên, vì tôi theo hoàn cảnh mà điều khiển âm thanh. Hôm qua tôi nằm mơ thấy tình quân đến, mờ mờ, ảo ảo. Chàng yêu tôi sâu hơn biển, cao hơn núi, dào dạt như sóng sông này. Có điều tôi chỉ thấy chàng trong mơ mà thôi. Buồn thực là buồn, một ngày không gặp nhau, đài bằng ba thu.
Thanh-Mai có cảm tưởng như cô gái biết tâm sự mình, nên cô nói mấy câu trêu chọc. Nàng nhìn cô mỉm cười tỏ vẻ khoan thứ. Cô cất tiếng ngâm thơ:

Phương thảo như bích ty,
Tần tang đê lục chi.
Đương quân hoài qui nhật,
Thị thiếp đọan trường thì.
Xuân phong bất tương thức,
Hà sự nhập la vi?


Bảo-Hòa không giỏi về thơ văn, nàng hỏi cô lái:
- Chị ơi ! Thơ gì mà buồn vậy ?
Cô lái đò nhìn Thanh-Mai:
- Bài thơ trên vốn của Lý Bạch đời Đường. Lý Bạch diễn tả tâm sự một thiếu phụ trẻ nhìn cỏ xuân xanh mượt như tơ, nhìn cồn dâu xanh ngắt. Nàng nghĩ rằng đang lúc này, tình quân nhớ mong, muốn về gặp nàng, thì đúng lúc nàng nhớ chàng muốn đứt ruột ra được. Gío xuân kia, vốn không quen biết. Tại sao lại nhập vào phòng, lay động cả màn cửa lên.
Bảo-Hòa hỏi cô lái:
- Thơ Hán hay thì hay thực. Bộ người Việt mình không có những câu hát tình tứ đó sao ?
Cô gái cười:
- Có chứ. Để em hát hai chị nghe cho vơi tâm sự.
Cô cất tiếng ngâm sa mạc:

Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai.
Nhớ ai giọng những bồi hồi.
Như đứng đống lửa như ngồi đống rơm.


Thuyền đã đến gần vách đá. Cô gái chỉ vào cái hang nhỏ, ẩn sau lùm cây:
- Hai chị lên đó, lần vết chân người, sẽ tới đỉnh.
Hai người vọt khỏi con đò, tà tà đáp vào vách núi. Quả đúng như cô gái nói, sau lùm cây có một hang đá. Bảo-Hòa leo núi đã quen, nàng tung mình theo vết chân đường mòn trên núi mà đi. Vách núi tuy cheo leo, nhưng hai người khinh công đều vào hàng thượng thừa, nên thoáng một cái đã tới đỉnh.
Trên đỉnh, tháp thờ vua An-dương đứng sừng sững, trên nóc tháp ngọn cờ Đại-Việt bay phất phới. Một khu đất bằng phẳng. Trên có dãy nhà, tường bằng đá, ước khoảng mười gian. Trước dãy nhà có hàng chữ:
Hồng-hương thiếu niên, thiền đường Trường-yên.
Trong sân có mấy thiếu niên Hồng-hương đang luyện võ. Xung quanh sân, trồng toàn một thứ cúc vàng, hương thơm ngát. Thanh-Mai đưa mắt cho Bảo-Hòa. Hai người nhún chân vọt lên mái nhà phía sau, ghé tai xuống nghe ngóng. Có nhiều tiếng rên rỉ vọng lên, cùng tiếng quát tháo. Có tiếng Trí-Nhật:
- Bần tăng không muốn làm ác với cô nương. Nhưng cô nương ơi. Cô nương mau khai rõ phương thuốc trị Chu-sa độc chưởng ra, để bần tăng cứu mấy chục người bị chú cháu cô nương đánh trọng thương. Nếu cô nương không khai, bần tăng đễ mặc các thiếu niên này họ hành tội cô nương.
Tiếng An-Việt khóc:
- Tôi không biết phương thuốc đó. Chú tôi cũng chẳng hơn biết. Tôi nói cho đại sư hay. Đại sư mà hành tội tôi, khi chúng tôi chết đi, sẽ không có người chế thuốc trấn thống cho các vị nữa. Các vị sẽ cùng chết với chúng tôi.
Có tiếng Trí-Nguyệt hỏi:
- Sư phụ đi xuống trấn, bao giờ trở về ?
- Không biết nữa, An-phủ sứ vốn người vùng mình. Ông ta viết thư thỉnh sư phụ xuống thuyết pháp, cùng dùng cơm chay. Chắc tối người mới về.
Thanh-Mai biết Nguyên-Hạnh đi vắng. Nàng không còn úy kị gì nữa. Hai chị em truyền trên mái nhà sang phòng bên cạnh ghé mắt nhìn xuống. Trong nhà gần ba chục thiếu niên Hồng-hương đang đau đớn rên siết. Có người nói:
- Như vậy không hy vọng gì chúng mình sống được. Hôm nay đã là ngày thứ tư. Chỉ còn bốn mươi lăm ngày nữa ắt phải chết. Thôi đằng nào cũng chết. Chi bằng tự tử quách đi cho rồi.
- Đám anh em bị đốt cháy hôm trước, lại hóa ra may mắn. Họ được chết sớm đỡ khổ sở.
Một thiếu niên khác nói:
- Hay chúng mình bỏ trốn xuống Vạn-thảo sơn trang tìm Hồng-Sơn đại phu cứu, biết đâu chẳng thoát nạn.
Một thiếu niên khác nói:
- Tôi vốn người xã Vạn-thảo đây chứ ai. Bốn năm trước phu nhân của Hồng-Sơn đại phu cũng chết về chưởng độc này. Ông có chữa được đâu ?
Một thiều nữ lên tiếng:
- Hôm rồi, người ta nói có tiên nữ giáng trần ở Vạn-thảo. Không biết bây giờ tiên nữ đó đâu. Chúng ta tìm được người, ắt người cứu được chúng ta.
Có tiếng chuông ngân vang. Một thiếu niên nói:
- Chúng ta mau sang thiền-đường. Tới giờ thiền rồi.
Có nhiều tiếng chân người đi. Thanh-Mai núp trên mái nhà nhìn đám thiếu niên đang lũ lượt đến phòng thiền.
Bảo-Hòa bàn:
- Em xuống cứu chú cháu Chu An-Bình. Chị ở trên này canh chừng.
Bảo-Hòa đáp xuống sân nhẹ như chiếc lá. Nàng đẩy cửa phòng giam chú cháu họ Chu bước vào. Ba người bị trói ngồi dưới đất. Họ thấy Bảo-Hòa, thì đưa mắt lãnh đạm nhìn. Bảo-Hòa lên tiếng:
- Chu tiền bối. Tôi cứu người đây.
Nàng rút kiếm đưa một nhát, dây đứt hết. Nàng đưa hai nhát nữa, dây trói An-Khôi, An-Việt cũng đứ hết. Chu An-Bình kinh ngạc hỏi:
- Cô nương là ai? Tại sao lại cứu bọn tại hạ ?
Bảo-Hòa xua tay:
- Khoan hỏi tôi là ai. Các vị mau trốn đi. Bằng không họ trở lại bây giờ e không chạy kịp đâu.
Miệng nói, tay nàng chỉ vào khu rừng:
- Xuống khỏi khu rừng này có ngọn suối. Đi theo ngọn suối mà xuống đưới trấn. Mau lên.
Chu An-Bình đưa mắt cho hai cháu. Ba người quỳ mọp xuống đất lạy Bảo-Hòa ba lạy. Y nói:
- Nguyện sẽ có ngày báo đáp tiên cô.
Ba người biến vào rừng mất dạng. Bảo-Hòa thung dung sang các phòng bên cạnh. Thanh-Mai đã đáp xuống cạnh nàng. Hai người tới gian nhà cô lập, đóng kín cửa. Nàng đẩy cửa bước vào. Trong phòng có mùi hôi nồng nặc xông ra, với nhiều tiếng gầm gừ. Bảo-Hòa bật cười với Thanh-Mai:
- Thì ra họ giam bốn ông kễnh ở đây.
Nàng cũng gầm gừ, dùng tiếng của loài cọp nói truyện với chúng. Bốn con cọp nghe tiếng nàng, chúng vẫy đuôi mừng như chó. Bảo-Hòa sống với cọp từ nhỏ, coi chúng như chó thành quen. Vì vậy mỗi khi thấy ai giam giữ cọp, nàng nổi giận liền.
Bảo-Hòa vận âm kình vao tay phát ra một chiêu Phục-ngưu thần chưởng. Mấy thanh gỗ chuồng cọp bị tiện gãy như nhát búa chặt ngọt. Bốn con cọp mừng rỡ, chạy đến liếm tay nàng. Nàng dẫn bốn con cọp ra ngòai, chỉ mấy bụi cây, bảo chúng ẩn thân vào đấy.
Thanh-Mai dặn Bảo-Hòa:
- Em hãy dùng mấy con cọp này, để thu phục nhân tâm như hồi trước đã làm tại xã Vạn-thảo.
Bảo-Hòa cười:
- Đúng thế. Chị đọc được suy nghĩ của em chắc !
Hai chị em tiếp tục dò thám. Thấy một căn phòng có tiếng rên rỉ. Nàng đẩy cửa bước vào. Trong phòng có một thiếu niên Hồng-hương bị trói vào cột. Mặt, tay y đỏ tươi như máu. Bảo-Hòa nhận ra y là một hoàng nam của xã Vạn-thảo nàng đã gặp trước đây. Nàng hỏi:
—Thiếu niên này. Người vốn ở xã Vạn-thảo, tại sao người bị trói ở đây?
Thiếu niên trông thấy Bảo-Hòa, mặt y biến đỗi thực đột ngột. Y run run nói:
- Tấu lạy tiên cô. Tiên cô lại giáng trần. Xin tiên cô cứu đệ tử với.
Bảo-Hòa búng ngón tay một cái, dây trói đứt hết. Thiếu niên qùi xuống đất lạy liền bốn lạy:
- Đệ tử bị trúng Chu-sa chưởng đau đớn tưởng chết được. Vì đệ tử muốn tự tử, nên anh em trói lại.
Bảo-Hòa móc trong bọc ra viên thuốc:
- Người mau xưng tên đi.
- Lạy tiên cô. Đệ tử họ Trần tên Minh.
Bảo-Hòa nói:
- Cô cho thuốc cứu người. Thuốc của cô chỉ có thể giúp người một năm không bệnh. Hằng năm đến ngày Đông-chí, người phải tìm cô mà xin thuốc. Nếu không bệnh sẽ tái phát. Người mau qùi xuống thề như thế này: Đệ tử Trần-Minh xin thề ba điều trước cô. Một là trọn đời đệ tử nguyện trung thành với Đại-Việt. Hai là đệ tử dùng hết tâm trí, tài năng phục vụ cho Đại-Việt. Ba là thấy kẻ gian mưu hại dân, hại nước, đệ tử phải cáo giác với quan quân.
Trần Minh thề theo. Bảo-Hòa vận kình lực vào tay búng mạnh. Viên thuốc quay tròn kêu lên những tiếng vo vo. Khi sắp tới người Trần Minh thì vỡ tan thành bụi, chụp xuống người y.
Trần Minh thấy Bảo-Hòa bắn thuốc. Y nhắm mắt lại. Khi thuốc chụp vào người, y rùng mình một cái. Người y như bị nhảy vào hồ nước lạnh. Y mở mắt ra, bàn tay y trở lại bình thường. Y cử động mấy cái, không thấy đau nhức nữa. Mừng quá, y lại cúi xuống lạy Bảo-Hòa bốn lạy nữa. Bảo-Hòa dặn y:
—Trong anh em Hồng-hương, còn nhiều người bị trúng Chu-sa chưởng. Cô sẽ lần lượt chữa cho. Song phải kín đáo, bằng không Nguyên-Hạnh nó biết e nó giết chết đấy.
Trần Minh kinh ngạc:
- Tấu lạy tiên cô. Con tưởng đại-sư Nguyên-Hạnh thành Thông-huyền Bố-tát, đời nào người hại con.
Thanh-Mai biết thiếu niên này còn u mê. Nàng phải dùng cái u mê mới chữa được. Nàng chỉ vào Bảo-Hòa:
- Tiên cô đây vốn người nhà trời. Tiên cô biết hết. Nguyên-Hạnh không phải Bồ-tát, cũng chẳng phải hòa thượng. Y là tên giặc Tống sang ẩn ở đất Việt. Ta cho ngươi biết mà đề phòng. Bằng không y giết chết lúc nào không hay.
Thanh-Mai nháy Bảo-Hòa. Hai người dùng khinh công thượng thừa, thoáng một cái, biến vào trong rừng. Đến bên bờ suối, Bảo-Hòa hỏi Thanh-Mai:
- Bây giờ chúng ta phải làm gì để cứu hết đám thiếu niên vô tội này?
- Chúng ta hãy đợi sau khi hết giờ thiền, bọn chúng thấy Trần Minh khỏi bệnh, phản ứng ra sao, rồi hãy tiếp tục.
Hai người lại lên mái nhà ẩn thân. Trăng thượng tuần chiếu ánh sáng mờ ảo xuống rừng núi cô quạnh.
Sau giờ thiền, bọn thiếu niên Hồng-hương từ thiền-đường đi ra. Một thiếu niên từ căn phòng giam bọn Chu An-Bình chạy tới hớt hải nói với nhà sư Trí-Nhật:
- Sư phụ. Bọn họ Chu trốn hết rồi.
Nhà sư Trí-Nguyệt cùng các thiếu niên chạy vào xem. Một thiếu niên cầm dây trói dơ lên:
- Có người cứu chúng ra rồi. Đây, dây trói chúng do dao cắt ra.
Trí-Nguyệt hỏi Trí-Nhật:
- Sư huynh, như vậy trong chúng ta có gian tế.
Một thiếu niên khác chạy lại báo:
- Chuồng cọp bị phá vỡ. Cọp đi đâu mất rồi, không còn con nào trong chuồng.
Các thiếu niên Hồng-hương bị trúng độc kinh hoàng la lên:
- Bọn Tống thoát ra được, làm sao có thuốc giải. Thôi, chúng ta đành chịu chết rồi.
Vừa lúc đó Cao Thạch-Phụng từ dưới chân núi cùng bẩy trung niên nam tử đi lên. Thị hỏi han tình hình một lúc, rồi cười nhạt:
- Không sao cả. Sư phụ có thuốc giải cho các người đây rồi. Các người hãy vào trong thiền-đường ngồi kiết gìa. Ta đi pha thuốc cho các người uống.
Thị bảo Trí-Nguyệt:
- Người không bị bệnh, hãy dẫn các thiếu niên không bệnh xuống núi, trở về Sơn-tĩnh ngay. Ta sẽ về sau cùng với những người bị bệnh này.
Trí-Nguyệt vâng dạ lên đường ngay. Bẩy người đi cùng Thạch-Phụng xuống nhà bếp, lấy thùng nấu nước. Nước sôi rồi, Thạch-Phụng mở bọc đem ra bốn gói thuốc. Thị bỏ vào thùng. Hơi thuốc bốc lên thơm ngát. Bẩy người đi theo bưng những bát thuốc đến để trước mặt mười chín thiếu niên. Cao Thạch-Phụng nói:
- Các thiếu niên nghe đây. Sư phụ ban thuốc trị bệnh cho các người. Uống thuốc này xong, thân thể trở thành cường tráng. Không bao giờ cần đến thuốc nữa. Các người hãy quỳ xuống đọc kinh đi.
Các thiếu niên cùng quỳ gối đọc bài kinh. Bài kinh nội dung ca tụng công đức Thông-huyền Bồ-tát cùng Túc-không Quan-âm, cầu hai Bồ-tát ban phúc, che chở cho bản thân và gia đình.
Sau khi các thiếu niên đọc xong bài kinh. Cao Thạch-Phụng hô:
- Tất cả cùng bưng thuốc uống.
Đám thiếu niên bưng thuốc uống cùng một lúc. Thuốc vào, chúng cùng từ từ nằm xuống tại chỗ, chân tay bất động. Cao Thạch-Phụng mỉm cười:
- Các người nghe đây. Vì nghiệp chướng muôn vàn kiếp trước đến đòi nghiệp. Cho nên các người trúng độc Chu-sa chưởng. Sư phụ ban thuốc cho các người uống vào, chân tay tê dại. Sau đó ta sẽ châm lửa thiêu nhục thể các người. Các người sẽ được về Tây-phương cực lạc.
Các thiếu niên tuy chân tay tê liệt, nhưng tai còn nghe được. Họ biết bị đánh lừa nhưng đã trễ. Bẩy người theo Thạch-Phụng khuân củi, rơm chất đầy vào phòng thiền.
Thạch-Phụng cười nói với bẩy người đi theo:
- Chúng ta châm một mồi lửa rồi phải chạy cho mau. Bằng chậm trễ quân dưới trấn lên đây e mưu cơ bại lộ. Sau khi căn nhà này cháy. Chúng ta cứ đổ diệt cho bọn Tống là xong hết.
Thị đánh lửa châm vào đống rơm trong phòng thiền. Ngọn lửa bùng lên tức thời. Thị cười khanh khách, rồi cùng bẩy người lên ngựa phi xuống núi.
Bảo-Hòa, Thanh-Mai theo dõi từ đầu đến cuối. Đợi cho ngọn lửa bốc cao Thanh-Mai nhảy vào phòng thiền. Nàng xuất cầm nã thủ chụp từng người một liệng ra sân. Bảo-Hòa đứng ngoài, mỗi người bay ra, nàng phẩy nhẹ tay một cái, người đó rơi nhẹ nhàng xuống sân.
Sau khi cứu đến người cuối cùng, ngọn lửa bốc lên mịt mờ, tỏa khói lên trên trời. Bảo-Hòa hú một tiếng, Trần Minh từ trong rừng cùng bốn con cọp chạy ra. Bốn con cọp đứng xung quanh nàng vẫy đuôi như...chó. Nàng chỉ đám thiếu niên Hồng-hương nói:
- Con mau lấy nước lạnh dội vào mặt các bạn, cứu họ.
Trần Minh vội vàng làm theo. Các thiếu niên uống phải ma dược, chân tay tê liệt, chứ đầu óc vẫn tỉnh. Tai vẫn nghe rõ, mắt vẫn nhìn tận tường. Sau khi chân tay cử động được, họ nghiến răng, cắn môi nguyền rủa Nguyên-Hạnh, Thạch-Phụng. Trong đám thiếu niên bị nạn, có đến bốn người quê ở xã Vạn-thảo. Họ đã từng nghe, từng thấy Bảo-Hòa sai bảo thú rừng, trăn bắt giặc. Dân trong xã coi Bảo-Hòa như một tiên cô giáng trần cứu khốn phò nguy. Từ ngày Bảo-Hòa rời Vạn-thảo, họ truyền tụng nhau ngày càng nhiều. Trong khi truyện trò với bạn đồng đội, các thiếu niên Hồng-hương gốc Vạn-thảo không tiếc lời xưng tụng Bảo-Hòa.
Hôm nay họ sắp tới cửa quỷ môn quan, lại được Bảo-Hòa cứu viện. Bọn cùng nhau đến trước Bảo-Hòa lậy thụp xuống đất:
- Tấu lạy tiên cô. Cô là người nhà trời. Cô lại đến cứu bọn đệ tử.
Trần Minh nói lớn:
- Anh em nghe đây. Chúng tôi vẫn thường đem công đức của tiên cô Bảo-Hòa hiện xuống xã Vạn-thảo nói cho các bạn nghe. Các bạn ao ước được gặp tiên cô, thì hôm nay tiên cô hiện đến cứu các bạn giữa lúc các bạn sắp chết cháy.
Đám thiếu niên Hồng-hương thấy Thanh-Mai túm họ liệng ra sân, Bảo-Hòa chỉ phẩy tay một cái, họ rơi xuống êm đềm. Trong lòng họ đã kính phục. Bảo-Hòa mặc quần áo miền thượng, khác với quần áo miền xuôi, càng làm cho họ thấy vẻ huyền bí. Bây giờ nghe Trần Minh nói, họ tin ngay. Họ đưa mắt nhìn nhau ra hiệu rồi lạy thụp dưới đất tạ ơn Bảo-Hòa cứu mạng.
Trần Minh đưa tay lên cho các bạn nhìn:
- Tôi may mắn được tiên cô chữa độc chưởng Chu-sa cho. Hiện nay hoàn toàn không còn đau nhức nữa.
Đám thiếu niên Hồng-hương tuy được Bảo-Hòa, Thanh-Mai cứu cho thoát nạn chết cháy. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bị ám ảnh bởi cái chết gần kề do nọc độc Chu-sa chưởng trong người. Bây giờ nghe Trần Minh nói, họ lại quì gối xuống lạy:
- Tấu lạy tiên cô. Xin tiên cô tế độ ra tay cứu cho đệ tử.
Bảo-Hòa phất tay cho họ ngừng lạy. Nàng cầm bình thuốc đưa ra trước mặt mọi người:
- Thuốc của cô chỉ có thể hiệu nghiệm trong vòng một năm. Vì vậy, mỗi năm cứ đến ngày Đông-chí, cô sẽ gửi thuốc đến cho các người. Nếu cô quên, các người phải tìm đến cô mà xin thuốc.
Ngừng lại cho mọi người đủ thời giờ thu nhận, nàng tiếp:
- Vậy các người phải quì gối xuống thề. Nếu trong năm, các người trái lời thề, cô sẽ không cho thuốc nữa. Bấy giờ các người chỉ có...chết.
Trần Minh hô mọi người qùi xuống thề như chàng đã thề.
Bảo-Hòa cùng Thanh-Mai dùng ngón tay búng thuốc vào các thiếu niên Hồng-hương. Sau khi thuốc chụp vào người. Họ cảm thấy trong cư thể khoan khoái dị thường.
Thanh-Mai nói:
- Việc tiên cô cứu các người. Các người không được tiết lộ ra. Bây giờ các người phải tuân lệnh tiên cô đây.
Các thiếu niên Hồng-hương im lặng chờ đợi. Bảo-Hòa nói:
- Cô muốn các người trở về xã Sơn-tĩnh.
Mọi người kinh hoàng hỏi:
- Thưa cô, bọn đệ tử chúng con phải về Sơn-tĩnh ư ?
- Đúng. Nhưng các người phải chúng khẩu đồng từ khai với Nguyên-Hạnh, Thạch-Phụng rằng, sau khi Thạch-Phụng rời núi Dục-thúy, chân tay các người không cử động được. Các người tụng kinh Thông-huyền Bồ-tát và Túc-không Quan-âm tự nhiên chân tay cử động được, rồi vượt ngọn lửa ra ngoài.
Đến đó có nhiều tiếng người ồn ào. Thanh-Mai quay lại, một toán Thiên-tử-binh dưới trấn đã tới. Người dẫn đầu là Sùng-ban lang tướng Ngô An-Ngữ. Thanh-Mai mừng quá hỏi:
- Sư huynh. Sư huynh về đây từ bao giờ ?
An-Ngữ đáp:
- Khai-quốc vương mới truyền lệnh cho sư huynh đem đạo quân Quảng-khánh về đây gấp. Người thăng sư huynh lên làm Chiêu-thảo-sứ coi Khu-mật-viện Trường-yên. Sư huynh mới tới đây, đã được Tôn Trung-Luận trình bầy tất cả mọi việc. Thấy trên này có lửa bốc cháy. Sư huynh vội đem quân lên, phòng sư muội có gì sơ xẩy chăng ?
Muốn bảo toàn bí mật, Thanh-Mai chỉ đống than bốc khói nghi ngút:
- Vì bất cẩn, có người hút thuốc, ném đóm ra cỏ. Cỏ khô bốc cháy sinh hỏa hoạn, chứ không có gì lạ.
Ngô An-Ngữ ra lệnh cho tóan binh dọn dẹp tro tàn. Thanh-Mai vẫy chàng đến chỗ vắng. Nàng tường thuật cho sư huynh nghe mọi diễn biến xẩy ra, rồi nói:
- Em định cho đám này trở về Sơn-tĩnh, để làm tai mắt cho triều đình. Trăm hay không bằng tay quen. Vì vậy em giao họ cho sư-huynh. Sư-huynh thiết trí sao cho họ trở về, mà Nguyên-Hạnh không nghi ngờ. Em sẽ giới thiệu sư huynh là sứ giả của quận chúa Bảo-Hòa. Hàng năm phát thuốc giải cho họ. Như thế, bất cứ sư-huynh ra lệnh gì, họ cũng phải răm rắp tuân theo.
Trong khi đám Thiên-tử-binh dọn dẹp đống than. Bảo-Hòa chỉ Ngô An-Ngữ nói với đám thiếu niên Hồng-hương:
- Các đệ tử nghe cô nói.
Đám thiếu niên dạ ran. Bảo-Hòa tiếp:
- Cô giới thiệu cho các đệ tử biết, đây là Chiêu-thảo-sứ Ngô An-Ngữ. Ngô tướng quân chính là sứ giả của cô. Các đệ tử muốn liên lạc với cô thì hỏi người. Ngược lại, cô truyền lệnh gì, cũng do Ngô tướng quân nói lại. Các đệ tử phải tuân lệnh tướng quân cũng như tuân lệnh cô. Ai trái lệnh tướng quân là trái lệnh cô. Nghe không ?
Đám thiếu niên dạ ran.
Bảo-Hòa nói:
- Thôi cô đi.
Nàng hú lên một tiếng cùng Thanh-Mai và bốn con cọp chạy vào rừng. Bọn thiếu niên Hồng-hương còn hướng theo vái mỗi người ba vái.
Về tới phủ Khai-Quốc vương, trời gần sáng. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái vẫn còn thắp đèn ngồi chờ. Nhìn gương mặt lo âu của Mỹ-Linh, Thanh-Mai ngạc nhiên:
- Tại sao sư muội lại lo âu quá như vậy ? Có gì không ?
Mỹ-Linh nói nhỏ:
- Khu-mật-viện cho biết bọn Triệu Thành đang trên đường đi Thiên-trường dường như để gặp phụ thân sư-tỷ. Em lo qúa.
Thanh-Mai thông cảm với Mỹ-Linh. Vì hơn ai hết Mỹ-Linh biết tình yêu giữa chú mình với Thanh-Mai đã đến chỗ sâu đậm. Thanh-Mai lại nhất tâm, nhất trí cùng với chú nàng, mưu phục hồi cố thổ Lĩnh-Nam. Nhưng giữa đại hiệp Trần Tự-An với triều Lý có chỗ không thuận. Bây giờ Triệu Thành lại đi Thiên-trường. Chắc chắn y sẽ thuyết phục Trần Tự-An theo Tống hay ít ra chống triều đình nhà Lý. Một trong hai việc xẩy ra, không biết Thanh-Mai sẽ phản ứng ra sao ? Theo bố thì chống lại người yêu, chống lại tất cả chí hướng cửa Thuận-thiên cửu-hùng. Còn chống bố, thành con bất hiếu. Một lý do khác, trong câu truyện mà Thanh-Mai thuật về đời sống gia đình nàng, Mỹ-Linh biết Thanh-Mai được đại hiệp Trần Tự-An cưng chiều rất mực. Nhất đán xẩy ra một trong hai điều, Thanh-Mai sẽ đau khổ lắm.
Thiệu-Thái tiếp:
- Bọn Chu An-Bình còn lẩn quẩn quanh đây. Chúng được Thanh-Mai với Bảo-Hòa cứu ra. Chúng kinh ngạc vô cùng. Vì trên đường từ Thanh-hóa ra đây, chúng hoàn toàn không ngờ hai người biết võ. Chúng chưa biết Bảo-Hòa, Thanh-Mai là ai.
Bảo-Hòa cười:
- Chỉ nội đêm nay, đám thiếu-niên Hồng-hương đi chơi trong trấn đều nói rằng chúng được uống thuốc của Nguyên-Hạnh, rồi đọc kinh Thông-huyền Bồ-tát và Túc-không Quan-âm mà khỏi độc Chu-sa chưởng. Bọn An-Bình tin rằng Nguyên-Hạnh là Dương-Bá. Từ đó chúng sẽ sục sạo khắp Hồng-hương cốc tìm Đỗ phu nhân. Đương nhiên chúng không địch nổi Nguyên-Hạnh, chúng sẽ báo về Trung-nguyên. Bang Nhật-hồ Trung-nguyên ắt gửi nhiều cao thủ sang đối phó với Nguyên-Hạnh.
Mỹ-Linh cố quên đi mối lo nghĩ, nàng nói sang truyện khác:
- Bọn Triệu Thành thế nào cũng bị bọn Chu An-Bình dùng độc chưởng tấn công. Trong trường hợp này chúng ta giúp bên nào ?
Thanh-Mai cười:
- Ta giúp cả hai bên. Nếu bọn Chu lâm nguy, ta trợ giúp chúng, để chúng tiếp tục gieo độc vào người bọn Triệu Thành. Còn ngược lại bọn Triệu Thành bị trúng độc. Ta giả làm người của Nguyên-Hạnh cho thuốc giải, khống chế bọn chúng theo mình.
Bảo-Hòa đề nghị:
- Chúng ta nên đi Thiên-trường trước, báo cho sư bá Tự-An biết rõ âm mưu của bọn Triệu Thành, hầu sư bà đề phòng. Như vậy hay hơn.
Thanh-Mai đồng ý:
- Vậy sáng mai chúng ta lên đường sớm.
Đỗ Lệ-Thanh nói với Thiệu-Thái:
- Thế-tử nghĩ xem, trong chúng ta, những ai nên đi Thiên-trường. Liệu sự hiện diện của Công-chúa có làm cho Trần đại hiệp bực mình không ?
Thanh-Mai phất tay:
- Đỗ phu nhân đừng lo. Bố tôi là người khoáng đạt, chứ không cố chấp như Hồng-Sơn lão nhân đâu. Ai làm người ấy chịu, chứ không đến nỗi ghét ông rồi ghét cả cháu.
Mỹ-Linh thăm dò Thanh-Mai:
- Trường hơp sư bá hỏi han những việc xẩy ra. Chúng ta có nên nói hết không ? Nếu nói hết, sợ chú hai không bằng lòng. Mà không nói hết, sư bá biết được, ông nghĩ rằng chúng ta thiếu tin cẩn ông.
Bảo-Hòa bẹo má Mỹ-Linh:
- Em nghĩ sai rồi. Việc của cậu hai là việc quốc sự. Từ xưa đến giờ, các đại tôn sư tuy kình chống nhau, đó cá nhân. Nhưng khi cùng mưu quốc sự, lập tức họ ngồi lại với nhau. Cái gương võ lâm thù Lê Hòan biết bao. Thế mà khi quân Tống sang. Các ngài cùng tuốt gươm đánh giặc. Đánh giặc xong, lại hiềm khích nhau như trước. Cho nên những điều cơ mật càng phải kể cho Trần sư bá biết hết. Có như vậy, người mới coi cái thế khó của triều Lý thành cái thế khó chung của Đại-Việt, sĩ dân Đại-Việt đều phải gánh vác.
Thanh-Mai nắm tay Bảo-Hòa:
- Bảo-Hòa hay thực. Em có cái nhìn quá rộng. Chị nói thực, may chị biết em rồi, chứ không chị cững quì gối lạy em, gọi em là tiên cô.
Thằng bé Ngô Tuấn ngồi nghe từ đầu đến cuối, nó không giám xen vào truyện người lớn, bây giờ thình lình nó lên tiếng:
- Thì cô Bảo-Hòa là tiên thực chứ đâu phải đùa. Cô sai được thú. Người cô có hương thơm tiết ra. Chỉ Bố Đại hòa thượng thành Bồ-tát Di-lặc mới sánh được với cô mà thôi.
Mỹ-Linh kéo Ngô Tuấn lại bên canh. Nàng cắn vào má nó một cái:
- Cháu tôi kiến giải hay thực. Thôi đi ngủ.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.01.2005 03:55:45 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 06.01.2005 18:24:24 (permalink)
    Hồi thứ ba mươi hai


    Côi-Sơn đại hiệp


    Từ Trường-yên đến Thiên-trường không xa. Con đường này Thanh-Mai đã đi nhiều lần. Nàng thuộc làu tên từng thôn, rừng xóm sắp đi qua. Mỗi thôn, mỗi xóm đều có di tích, nàng thuật truyện cho mọi người nghe. Khi thấy xa xa một xóm làng, với nhiều ngôi nhà ngói đỏ, nổi bật lên trên những tùm cây xanh ngắt, nàng chỉ tay hỏi Mỹ-Linh:
    - Chúng ta sắp qua địa phận xã Thanh-liêm. Trong xã có một di tích thời Lĩnh-nam. Đố Mỹ-Linh biết di tích đó là di tích gì ?
    Mỹ-Linh lắc đầu:
    - Sư tỷ nói tổng quát quá, làm sao em đóan ra. Xin sư tỷ “hé” cho chút ánh sáng nữa, họa may.
    - Trong xã có đền thờ một danh tướng thời vua Bà.
    Thường-Kiệt cỡi một con ngựa chiến lớn, nó luôn đi cạnh Thanh-Mai. Nó hỏi:
    - Cô cho con đoán được không ?
    Trước đây Thường-Kiệt gọi Thanh-Mai bằng sư thúc. Từ hôm đi cùng với nó từ Thanh-hóa ra, Thanh-Mai cho phép nó gọi bằng cô hầu thêm thân mật. Thanh-Mai gât đầu:
    - Con thử đoán xem có đúng không ?
    - Con nghe mẹ nói, vùng Thiên-trường sinh ra ba nữ tướng thời vua Bà. Một là công chúa Gia-hưng Trần Quốc. Hai là công chúa Tử-Vân. Ba là bà Chu Tái-Kênh. Chắc trong xã Thanh-liêm có đền thờ một trong ba vị đó.
    Thanh-Mai thấy Thường-Kiệt lý luận, nàng gật đầu vui mừng:
    - Con đoán gần đúng. Trong xã có đền thờ bà Thánh-Thiên.
    Thiệu-Thái hỏi:
    - Thánh-Thiên giữ chức gì trong triều đình Lĩnh-Nam ?
    Thanh-Mai thuật:
    - Bà là người bác học đa năng vào bậc nhất thời bấy giờ. Công đức đối với đất nước chỉ thua có vua Trưng mà thôi. Hồi còn niên thiếu bà theo cậu là Nam-thành vương Trần Minh-Công khởi binh ở Ký-hợp. Trong gần mười năm làm cho Tích Quang, Tô Định ăn không ngon, ngủ không yên.
    Thường-Kiệt hỏi:
    - Thế võ công bà hẳn cao thâm không biết đâu mà lường.
    Thanh-Mai lắc đầu:
    - Trái lại, võ công bà rất bình thường, gần như chỉ đủ để tự vệ mà thôi. Tính tình bà cẩn trọng điềm đạm. Gặp việc gấp, nguy biến, bà vẫn thản nhiên. Khi bà tuẫn quốc, vua Trưng phán: "Thánh-Thiên sống thản nhiên, hành sự cẩn mẫn, nói ít làm nhiều, nhưng mưu trí trùm hoàn vũ". Ngay đối với giặc, bà cũng nói năng ôn tồn. Bà được phong làm Bình-ngô đại tướng quân, giữ nhiệm vụ tổng trấn vùng Nam-hải.
    Bảo-Hòa gật đầu:
    - Nhiệm vụ bà quan trọng thực, như vậy bà tổng trấn vùng biên giới Hán, Việt, giống như mạ mạ bây giờ.
    Thanh-Mai tiếp:
    - Bà đánh nhiều trận khét tiếng như Thường-sơn, Nam-hải, Phụng-hoàng. Bà để lại bộ Dụng binh yếu chỉ mà bọn Tống cử hàng chục đòan sang tìm kiếm.
    Chợt nghĩ ra điều gì, Mỹ-Linh hỏi Thanh-Mai:
    - Nhập gia vấn húy! Chị Thanh-Mai cho bọn này biết tên húy trong nhà chị, để còn kiêng chứ?
    Thanh-Mai lắc đầu:
    - Các vị yên tâm. Bố tôi vốn tính ngang quá ghẹ. Thành ra ông xoá bỏ tất cả những gì ông coi là rởm. Vì vậy các vị tới trang tôi, đừng ngạc nhiên, khi người không cấm con cháu kiêng húy. Cho đến tên Hoàng-đế người cũng không kiêng.
    Đỗ Lệ-Thanh hỏi nhỏ Thanh-Mai:
    - Trần cô nương. Tiểu tỳ tuyệt không nghe cô nương nhắc đến chủ mẫu là tại sao vậy?
    Thanh-Mai cau mày, tỏ vẻ suy nghĩ, rồi thở dài:
    - Đỗ phu nhân hỏi thực phải. Tôi phải tường thuật chi tiết những gì không hay trong gia đình tôi cho quý vị hiểu rõ mới được. Thân mẫu tôi bị trúng Chu-sa độc chưởng chết đã hơn năm năm. Sau khi mẫu thân tôi qua đời ba năm, phụ thân tôi tục huyền với một người con gái lớn tuổi. Vì bố tôi nghĩ rằng với người lớn tuổi như vậy, dễ dàng cho chúng tôi xưng hô.
    - Bấy giờ bà ấy bao nhiêu tuổi rồi?
    - Ba mươi bẩy. Mọi người cùng bật lên tiếng ồ. Vì thời bấy giờ, gái mười ba, trai mười sáu, cha mẹ bắt đầu dựng vợ gả chồng cho. Thảng hoặc như trường hợp Thanh-Mai, Mỹ-Linh, Bảo-Hoà, tuổi mười tám chưa gả chồng, đã thuộc ngoại lệ rồi. Đây nghe nói tới người con gái ba mươi bẩy tuổi, khiến ai cũng phải giật mình.
    Thiệu-Thái lắc đầu:
    - Chắc bà ấy chắc phải thuộc loại võ công cao cường, văn chương quán thế. Hoặc giả nhan sắc khuynh quốc?
    - Bà ta cùng họ với tôi. Nhũ danh Phương...
    Thanh-Mai thuật đến đó, thì đoàn người ngựa cũng vừa tới ngôi đền thờ Thánh-Thiên. Đền không lớn lắm, rộng, dài khoảng ba chục bước. Trước đền có tượng hai con ngựa bằng đất đắp. Góc sân phía trước, dựng đứng lên hai cây đề cao như muốn chọc mây. Gió thổi vào lá đề thành những tiếng reo như một bản nhạc liên miên bất tận.
    Bảo-Hòa gò ngựa lại nói:
    - Chúng ta vào đền lễ bà đi!
    Đoàn người ngựa dừng lại. Trong sân đền có đám trẻ con đang chơi đùa. Chúng thấy người lạ cỡi ngựa, lưng đeo kiếm, biết rằng khách phương xa vãng cảnh. Chúng tránh sang một bên, nhường lối cho khách. Ông từ giữ đền thấy có khách đến vội chạy ra chào. Ông lễ phép hỏi:
    - Chẳng hay quý khách từ đâu đến lễ bà ?
    Thanh-Mai đáp:
    - Chúng tôi ở bên Thiên-trường qua. Ông từ ơi, có nhiều người đến lễ bà không ?
    - Thưa cô nương ngày thường thì vắng lắm. Nhưng mồng một, ngày rằm đông vô cùng. Những ngày đó, hội đền cử thêm nhiều người giúp, chứ mình tôi, lo không xuể.
    Trước đền, có đôi câu đối khắc trên cột gỗ. Thanh-Mai ngơ ngác hỏi Mỹ-Linh:
    - Sư muội, chữ gì chị đọc không được.
    Mỹ-Linh lẩm nhẩm một lát rồi bật cười:
    - Chữ Khoa-đẩu. Để em đọc đôi câu đối cho chị nghe. Thực hào kiệt, thực anh hùng, những khi giúp đỡ vua Trưng, mặt nước sông Thương gươm báu trăng lồng còn lấp lánh. Còn bâng khuâng, còn phảng phất, sau lúc đuổi tan giặc Hán cành hoa bến Ngọc, vòng tay thơm nức vẫn còn đây.
    Mỹ-Linh nhìn lên thấy mặt trời gần đứng bóng. Nàng móc trong bọc ra một xâu tiền đưa cho ông từ:
    - Phiền ông mua dùm chúng tôi hoa quả, cùng gà, gạo làm cơm cúng bà.
    Ông từ vui vẻ:
    - Mời quý khách vào trong ngồi chơi uống trà. Tôi sai mẹ nó đi liền. Chợ gần đây thôi.
    Phía sau đền có cái hồ sen. Sen vào thu, hoa đã tàn, chỉ còn những bọng với lá. Bảo-Hòa nói:
    - Chúng ta ra ao rửa mặt rồi vào lễ. Bằng không bà mắng là bọn con cháu ở dơ, mặt mũi ghớm nhờn.
    Ông từ đi trước dẫn đường. Ông mở cửa đền, đánh lửa đốt lên nến. Ánh nến lung linh chiếu vào những đỉnh hương, bát hương bằng đồng lóng lánh. Ông kéo màn trước bàn thờ. Phía sau màn, một ngôi tượng bằng đồng theo tư thức đứng, hông đeo bảo kiếm, tay trái giữ đốc kiếm. Tay phải chỉ về trước. Gương mặt đầy vẻ cương quyết.
    Mỹ-Linh hỏi Thanh-Mai:
    - Sư tỷ này. Em nghe nói dáng người bà ẻo lả, tính tình hiền hậu, nhưng khi ra lệnh lại quyết liệt vô cùng. Tượng này chắc đúc theo truyền thuyết ấy.
    - Đúng. Bà vốn người ôn nhu văn nhã, thông kim bác cổ, chỉ thua có công chúa Phùng Vĩnh-Hoa mà thôi.
    Bảo-Hòa đứng ngắm pho tượng, lòng nàng đầy xao xuyến nói với Thiệu-Thái:
    - Người xưa anh hùng như thế. Tuy bà sống cách đây nghìn năm, mà anh khí vẫn còn phảng phất. Mình là con cháu phải làm thế nào nối tiếp sự nghiệp đó, đừng để mất đi cái hào khí dân tộc.
    Ông từ gióng chuông. Thanh-Mai nói:
    - Bây giờ ai lễ trước, ai lễ sau?
    Ông từ nói:
    - Theo Khâm định điển lệ của đức Hòang-đế ban hành thì nam lễ trước, nữ lễ sau. Lớn tuỗi lễ trước, nhỏ tuổi lễ sau. Nhưng phép vua thua lệ làng. Trong đền này thuộc lãnh địa thời vua Trưng. Nếu áp dụng luật Lĩnh-Nam, trai, gái như nhau. Lớn tuổi lễ trước, nhỏ tuổi lễ sau.
    Ngô Tuấn nói với Thanh-Mai:
    - Vậy ở đây Đỗ phu nhân lễ trước, rồi tới chú Thái, cô Thanh, cô Hòa, cô Linh. Cuối cùng đến con.
    Lễ xong, ông từ mời khách uống trà. Ngô Tuấn tính hiếu động, nó chạy chơi trong sân. Bỗng nó kêu lớn:
    - Cô ơi, ra mà xem này.
    Mỹ-Linh, Thanh-Mai chạy ra, nhìn theo tay Tuấn chỉ, đôi câu đối đã bị ai vạc mất chữ vua Trưng và chữ Hán. Vết vạc còn mới nguyên. Thanh-Mai nói:
    - Chúng ta gần chục người hiện diện, mà người này đến vạc chữ, rồi đi, mà không ai khám phá ra được cũng thực kỳ lạ. Mau tìm kiếm. Chúng chưa rời khỏi đâu, vì chữ Hán mới vạc được một nửa.
    Thiệu-Thái vọt mình lên nóc đền. Thanh-Mai nhảy lên nóc nhà ngang. Bảo-Hòa vào trong, Mỹ-Linh chạy vòng quanh. Sau khi lục sóat một lúc, vẫn không có dấu vết gì khác lạ. Thanh-Mai hỏi Tuấn:
    - Con có thấy ai đi qua, hoặc vào sân đền không?
    - Không. Con chỉ thấy đám trẻ kia mà thôi.
    Chợt Bảo-Hòa đến trước đống rơm góc sân, hướng vào trong nói:
    - Cho đến giờ phút này mà người không chịu xuất hiện ư? Ra ngay!
    Những đống rơm thời bấy giờ thường chất theo hình nón, cao ngang mái. Hàng ngày người ta rút rơm ở dưới thấp ra nấu ăn. Thành ra, trong ruột đống rơm rỗng như cái tổ chim. Một người nào đó nằm cuộn tròn trong hố rơm ngáy khò khò.
    Người này nghe Bảo-Hòa quát, càng gáy to hơn như trêu ghẹo. Bảo-Hòa ôn tồn nói:
    - Người có ra ngay không? Nếu còn chần chờ, bản cô nương sẽ có biện pháp.
    Người ấy vẫn gáy lớn, thình lình trở mình, ngáp dài một cái, rồi lại ngủ tiếp. Ông từ thấy ồn ào chạy ra. Mỹ-Linh chỉ đống rơm hỏi:
    - Ông từ! Ông có biết người này là ai không?
    Ông từ nhìn vào trong, rồi phất tay:
    - À, ông Mốc. Không biết ông ta từ đâu đến vùng này từ hơn năm nay. Bạ đâu ngủ đấy. Da ông ta bị bệnh giống như người mốc, vì vậy trẻ con gọi ông là lão Mốc.
    Đám trẻ con đang chơi ngoài xa cùng chạy lại. Chúng gọi:
    - Lão Mốc, ra đây mau. Có khách đến, đông lắm tha hồ mà xin tiền.
    Lão Mốc trong đống rơm từ từ bò dậy, miệng nói lảm nhảm:
    - Bọn ranh con chưa ráo máu đầu, thấy ông nội ngủ, mà không biết giữ im lặng, đến phá rối. Ông lại đánh bỏ bu bây giờ.
    Lão nói bâng quơ, nhưng ngụ ý chửi Bảo-Hòa. Từ trong đống rơm lão chui ra. Người lão thực tàn tạ kinh khủng. Áo cánh nâu rách hai ba chỗ. Quần ống còn, ống mất. Đầu tóc bù xù. Lão đưa con mắt sáng loáng nhìn mọi người, rồi ngửa bàn tay hướng vào Mỹ-Linh :
    - Xin cô nương bố thí cho đồng tiền bát gạo, làm phúc cũng như làm giầu. Về sau con rể con dâu đầy nhà.
    Mỹ-Linh đã theo chú ra ngoài gần năm qua, kinh nghiệm có thừa. Ngặt vì bản chất một Phật tử thuận thành trong người, nàng thấy lão Mốc sống không nhà, không cửa, ngủ bụi, ngủ bờ, thì động lòng trắc ẩn. Nàng móc túi lấy ra một bốc tiền, hai tay đưa cho lão:
    - Ông đang ngủ ngon, bọn tôi đến quấy rối thực có lỗi. Đây chút ít tiền, ông cầm lấy mà tiêu.
    Lão cầm tiền, bỏ vào túi, miệng nói:
    - Đa tạ cô nương. Người có hằng tâm như cô nương hỏi được mấy? Lão kính chúc bẩy kiếp phụ mẫu của cô thường được an lạc. Hiện kiếp ông bà nội ngọai, cha mẹ, chú bác, anh chị em của cô hưởng quả phúc như núi Côi.
    Thanh-Mai nghe lời chúc, nàng biết lão này không phải người đi ăn mày. Lời chúc của lão rút trong kinh Phật, ngụ ý rằng Mỹ-Linh làm phúc, cha mẹ của bẩy kiếp trước, dù nay ở đâu cũng được hưởng hạnh bố thí. Rồi lão chúc phúc thân thuộc kiếp này. Thông thường người ta chúc hưởng phúc như Đông-hải hay như núi Thái-sơn. Đây lão chúc như núi Côi, là ngọn núi trong vùng Trường-yên.
    Thanh-Mai đưa mắt nhìn lão. Nàng biết lão không thể là tên ăn mày vô danh. Dường như lão ở xa mới đến đây mưu đồ gì. Muốn dò tông tích lão, nàng cần lờ đi như không biết lão đóng kịch. Nàng làm bộ thương hại:
    - Chúng tôi đang chuẩn bị lễ Bà. Mời ông vào trước lễ bà, sau ăn cơm với chúng tôi.
    Lão thản nhiên:
    - Như vậy lão quấy rầy các vị quá.
    Ông bà từ giết gà, làm cỗ cúng thực mau. Mâm cơm thịnh soạn gồm mấy món ăn tầm thường, nhưng tinh khiết: lòng gà xào với mướp hương, cá chép rán, gà luộc, chim sẻ quay. Đặc biệt có món cá rô kho keo với canh rau đay nấu cua đồng.
    Ông bầy các món ăn lên bàn thờ. Lão Mốc cùng mọi người vào lễ. Ông từ chỉ lên bàn thờ:
    - Hàng ngày cúng bà chúng tôi không thể thiếu hai món canh rau đay hoặc canh mồng tơi nấu cua đồng với cá rô kho keo. Vì sinh thời, tuy làm đại tướng, mà bao giờ bữa ăn của bà cũng có hai món này.
    Đợi hết tuần nhang, ông từ dọn các thức cúng xuống bàn, bầy ra mời khách. Ông lấy một đĩa xôi với miếng thịt gà đưa cho lão Mốc. Thanh-Mai cản lại:
    - Nghìn dặm gặp nhau là đại duyên, xin ông từ cho lão đây ăn chung với chúng tôi cho vui, không biết có được không ?
    Ông từ bỡ ngỡ không ít. Khách thập phương tới lễ đền thờ Thánh-Thiên có đủ loại người. Nhưng đa số đều vào ngày hội hoặc ngày rằm. Hôm nay đám khách này tới vào ngày thường, đã làm ông bỡ ngỡ. Thứ nhì mọi khi khách cúng nhiều lắm một hai trăm đồng. Đây Mỹ-Linh trao cho ông một quan, tức sáu trăm đồng để làm cỗ cúng, còn đưa cho ông một nén bạc hầu tu bổ đền. Rồi bây giờ họ lại mời lão Mốc ngồi ăn cùng.
    Mỹ-Linh dành ngồi bên lão Mốc. Nàng luôn gắp thịt bỏ cho lão ăn. Trong mâm cơm có bốn cái đùi gà, nàng gắp cho lão tới ...ba cái. Lão nhai cả xương. Ăn cơm xong, lão ăn thêm một đĩa xôi. Mỹ-Linh mở to mắt ra xem lão ăn. Trên đời chưa bao giờ nàng thấy ai ăn khỏe như vậy.
    Vì có lão Mốc với ông từ, cho nên Mỹ-Linh, Bảo-Hòa chỉ nói truyện trời mưa, trời nắng, cùng hỏi bà từ về cách thức làm món ăn.
    Ăn xong, Thanh-Mai dục mọi người chuẩn bị lên đường. Mỹ-Linh nói với lão Mốc:
    - Bây giờ tôi phải lên đường. Duyên may chưa hẳn đã hết. Không biết sau này chúng ta có gặp nhau nữa không ?
    Lão Mốc đáp:
    - Gặp chứ, nhất định sẽ gặp lại nhau mà.
    Ông từ đứng lên tiễn khách. Khi mọi người ra sân, nhìn lên đôi câu đối thực lạ chưa, chữ Hán đã có bàn tay bí mật nào đó lấy than tô thành chữ Tống. Còn chữ vua Trưng được tô thành chữ anh quân. Bây giờ đôi câu đối trở thành:
    "Thực hào kiệt, thực anh hùng, những khi giúp đỡ anh quân, mặt nước ông Thương gươm báu trăng lồng còn lấp lánh.
    Còn bâng khuâng, còn phảng phất, sau lúc đuổi tan giặc Tống cành hoa bến Ngọc, vòng tay thơm nức vẫn còn đây."
    Bảo-Hòa chợt nhớ ra, trong lúc ăn cơm, lão Mốc đứng lên xin phép ra sau. Không lẽ lão ra cửa sau, rồi vòng về trước, tô lại mấy chữ này ư ? Nàng nhìn bàn tay lão, tuy lão đã chùi, nhưng vẫn còn vết than ở ngón cái.
    Bảo-Hòa xá lão Mốc:
    - Tiền bối, khinh công của người thực vô địch. Mà bản lĩnh hí lộng quỉ thần lại còn hơn ai hết. Mấy chữ này người sửa mau thực. Nhưng e chữ anh quân đối với chữ giặc Tống thực không chỉnh.
    Lão Mốc ngơ ngẩn:
    - Cô nương nói sao ? Lão thực không hiểu.
    Biết lão là một dị nhân, Bảo-Hòa không muốn bắt lão xuất hiện, nàng cười:
    - Sẽ có ngày tái ngộ.
    Nàng ra roi cho ngựa chạy trước. Thanh-Mai cùng mọi người vọt theo. Mỹ-Linh hỏi Thanh-Mai:
    - Sư tỷ. Sư tỷ cho lão Mốc là người thế nào ?
    Thanh-Mai lắc đầu:
    - Khó biết lắm. Cứ như bản lĩnh của lão, e không kém gì Nguyên-Hạnh. Có điều lão ẩn thân ở đền này bấy lâu nay không biết để làm gì ?
    Bảo-Hòa chợt á lên một tiếng:
    - Lão này muốn tìm hiểu tông tích bọn mình.
    Mỹ-Linh kinh ngạc:
    - Thế nghĩa là ?
    Bảo-Hòa phân tích:
    - Lúc đầu lão xóa đi mấy chữ vua Trưng, rồi giặc Hán để xem phản ứng của chúng ta, hầu biết chúng ta có biết chữ Khoa-đẩu không. Mỹ-Linh vô tình chỉ lên nói mất chữ này, còn chữ kia chị cũng gật đầu công nhận. Thế là lão biết Mỹ-Linh với chị biềt chữ Khoa-đẩu.
    Mỹ-Linh giật mình:
    - Chúng mình sơ hở quá.
    Bảo-Hòa tiếp:
    - Sau đó lão tô lên mấy chữ kia, biến câu đối ca tụng Bà thành ca tụng chúng mình. Chúng mình hỉ hả trong lòng. Như vậy lão biết đích xác căn cước bọn mình.
    Đỗ Lệ-Thanh xen vào:
    - Lão dùng một thức thuốc đặc biệt thoa vào người, thành ra giống như mốc. Nhưng lão quên mất rằng phàm khi người ta bị bệnh mốc, thế nào cũng bị bệnh phổi. Trong khi đó lão nói năng lớn tiếng, hơi thở điều hòa, chứng tỏ lão không hề bị bệnh phổi. Lão tưởng qua mặt chúng ta được. Tôi lờ đi cho lão sướng. Nội ngày nay lão phải tìm thế tử xin lỗi.
    Thiệu-Thái kinh ngạc:
    - Tại sao vậy ?
    - Tại vì tiểu tỳ đã phóng vào bát của lão một ít chất độc. Chỉ chiều nay chất độc phát tác. Lão có gan bằng trời cũng không chịu được cơn đau.
    Đoàn người tới con sông nhỏ. Thanh-Mai chỉ vào những lũy tre bên kia sông:
    - Kia là Thiên-trường trang của bố tôi.
    Nhìn lũy tre cao vút bên sông, cùng cổng trang bằng đá bên gốc đa cao tới mây xanh, lòng Thanh-Mai rộn lên không biết bao nhiêu tình cảm. Trong lũy tre kia, nơi bố mẹ nàng đã cho nàng biết bao thương yêu. Những kỷ niệm thời thơ ấu bên cạnh mẹ hiện về. Bây giờ mẹ nàng đã cách biệt ngàn trùng.
    Một cái bè lớn từ bên sông do bốn người cầm sào đang đẩy qua. Đó là bốn thanh niên lực lưỡng. Họ thấy Thanh-Mai thì reo lên:
    - Tiểu thư đã về đó sao ? Cậu út đâu rồi ?
    Thanh-Mai cảm động:
    - Em tôi cũng sắp về. Có lẽ sau tôi ít ngày.
    Nàng vẫy tay cho mọi người xuống bè. Bốn thanh niên dắt ngựa dùm khách. Cái bè to lớn dư sức chở sáu ngựa. Tới bờ Thanh-Mai chỉ vào cổng trang:
    - Trang này do tổ phụ tôi là Tự-Viễn công tới đây khai sáng ra. Trải hơn mười lăm đời mới tới bố tôi. Lúc đầu trong trang chỉ có người họ Trần. Đến đời thứ sáu mới cho thêm một tên mã phu họ Trịnh vào ở. Đến đời thứ tám thêm họ Hoàng, Phạm, Vũ. Như vậy trong trang có tới năm họ. Hiện nay số tráng đinh lên tới gần vạn.
    Mỹ-Linh nhìn lên: cổng trang xây bằng đá, to lớn không kém gì cổng thành Thăng-long. Trên cổng có tráng đinh canh gác. Đường trong trang lát bằng những viên đá lớn. Hai bên lối đi trồng toàn một thứ bàng với phượng vĩ thẳng tắp. Đường xá trong trang như bàn cờ. Sau những cây bàng cây phượng có hàng dậu trúc cắt tỉa rất công phu. Trong hàng dậu trúc, những ngôi nhà gạch lợp ngói đỏ tươi nổi bật bên những cây xanh. Xe, ngựa dân chúng đi lại tấp nập như thị trấn.
    Đi sâu vào trong trang khỏang ba ngàn bước, tới cái hồ nước trong xanh. Xung quanh hồ trồng toàn hoa cúc vàng tươi. Dưới hồ một đàn thiên nga đang bơi lội. Phía sau hồ nỗi bật lên một căn nhà rất cao, tường bằng đá, mái lợp cỏ. Bên ngoài ngôi nhà bao phủ bằng hàng dậu dâm bụt. Thanh-Mai chỉ ngôi nhà đá:
    - Đấy, nhà tôi đấy.
    Tới cổng, nàng rung chuông, một đàn chó to lớn xồ ra xủa. Thanh-Mai chưa kịp lên tiếng. Bảo-Hòa đã cho hai ngón tay vào miệng tru lên mấy tiếng. Lập tức đàn chó nhảy xô ra vẫy đuôi mừng nàng. Một thị nữ mặc áo hồng nhạt, chạy lại reo lên:
    - A cô về. Ông đang mong cô đấy.
    Thanh-Mai bước vào nhà gọi:
    - Bố ơi ! Con về đây.
    Một trung niên nam tử, dáng người bệ vệ, khuôn mặt cực kỳ uy nghiêm bước ra. Ông quàng tay qua cổ con gái, kéo sát Thanh-Mai vào ngực, rồi cắn lên má nàng:
    - Con chó này. Bỏ bố đi gần một năm rồi, bây giờ mới về. Bố phải đánh què mới được. Mấy tháng trước bố được tin Thanh-Nguyên theo bản sư về Mê-linh. Còn con vẫn ở lại Thanh-hóa. Hôm nay mới về thăm bố. Hư quá.
    Thời bấy giờ lễ giáo Khổng-Mạnh đã có căn bản tại Đại-Việt. Cái lý thuyết nam nữ thụ thụ bất tương thân trở thành khuôn mẫu trong xã hội. Bố với con gái. Mẹ với con trai có một hàng rào ngăn cách. Khi con gái mười bốn, mười lăm mà bố còn ôm ấp là điều cấm kị. Nhưng đại hiệp Trần Tự-An không phục, ông cho rằng kỷ cương xã hội do Khổng-tử đặt ra, ông cũng có thể sửa chữa. Tại sao con cái, vốn từ trong cơ thể mình mà có, mình không thể thân mật được? Vì vậy tuy Thanh-Mai đã mười tám, mà ông vẫn đối xử như nàng còn nhỏ. Một lý do khác khiến ông gần Thanh-Mai, vì vợ chết sớm, ông càng cưng chiều con gái hơn để đền bù lại nàng mất tình thương của mẹ.
    Ông thấy theo sau con gái còn một số người nữa, cùng lứa tuổi với nhau. Thương con, ông thương luôn cả bạn của con. Ông buông Thanh-Mai ra, hỏi:
    - Bạn con đây hả ?
    Mỹ-Linh, Bảo-Hòa từng nghe danh đại hiệp Trần Tự-An võ công vô địch thiên hạ, bác học đa năng. Nàng cứ tưởng ông sẽ bang bạnh lắm, hay ít ra cũng như Hồng-Sơn đại phu. Không ngờ, khi gặp, họ chỉ thấy ở ông, một ông bố thương con vô hạn. Trong lòng họ nảy ra những tủi thân, phải chi họ cũng có ông bố như vậy!
    Ngô Tuấn quỳ gối xuống rập đầu binh binh:
    - Đệ tử Ngô Tuấn xin ra mắt Thái sư-phụ.
    Trần Tự-An cầm tay nó đỡ dậy:
    - Khá lắm, mới có mấy tuổi mà nội công vững thế này đây. Bố cháu đâu, có về đây không ?
    Ngô Tuấn đáp:
    — Thưa ông, bố cháu mới được thăng Chiêu-thảo-sứ, lĩnh Khu-mật-viện phủ Khai-quốc vương, nên không về vấn an ông được.
    Tự-An lắc đầu:
    - Bố cháu thích công danh, rồi mang ách vào thân. Làm quan chi cho mệt, tiêu dao tự tại có thích hơn không ? Thôi kệ, mỗi người một chí.
    Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, Thiệu-Thái vừa định quỳ gối hành lễ. Ông phất tay một cái, kình lực nhu hòa đỡ họ dậy. Ông cười:
    - Các cháu đừng có lễ nghi quá phiền phức. Bác không thích.
    Bỗng ông ngừng lại, chau mày hỏi Mỹ-Linh:
    - Con bé này xinh đẹp đáo để. Nội công của nó tại sao lại tạp nhạp như vậy ? Nào Thiếu-lâm, nào Hoa-lư, nào Sài-sơn, nào Mê-linh và cả Tiêu-sơn nữa ?
    Không đợi Mỹ-Linh trả lời, ông vung tay đánh dứ một chưởng vào mặt nàng. Mỹ-Linh biết ông giảo nghiệm võ công mình. Nàng vội xuống tấn, vận sức đẩy ra chiêu Tượng-đầu chưởng của Tiêu-sơn. Binh một tiếng, người nàng choáng váng lui lại. Trong khi Tự-An gật đầu:
    - Thì ra cháu là đệ tử của đại ca ta. Lão thầy chùa Huệ-Sinh giỏi thực, một con bé xinh đẹp thế này, mà anh ta dạy cho nó thành đại cao thủ hiếm có. Thế nào, sư phụ vẫn mạnh chứ ?
    Mỹ-Linh chắp tay:
    - Sư phụ cháu vẫn nhắc đến sư bá luôn. Người vẫn mạnh khoẻ.
    Tự-An cười:
    - Sư phụ cháu dại dột quá. Y đang là một Bồ-tát đắc đạo, ngồi trên núi ăn trái cây, ngửi hoa thơm, nghe chim hót, lại đi giúp thằng bé con Lý Long-Bồ lăn mình vào bụi trần cho khổ.
    Thanh-Mai chỉ Bảo-Hòa:
    - Con đố bố biết Bảo-Hòa là đệ tử ai đấy ?
    Đối với bất cứ một ông thầy dạy võ nào, mà đệ tử đặt câu hỏi như vậy, ắt bị đòn, nhẹ ra cũng bị mắng vô phép. Ngược lại, Thanh-Mai được bố cho nói năng tư do thành quen. Nàng đặt câu hỏi đó với ông, ông cho rằng đó là việc thường. Ông lại đánh Bảo-Hòa một chưởng nhẹ nhàng.
    Bảo-Hòa kinh hãi, phát chiêu Ác ngưu nan độ đỡ. Binh một tiếng, người nàng như muốn vỡ tung lồng ngực ra. Tự-An nhăn mặt suy nghĩ một lúc, rồi vỗ vai Bảo-Hòa:
    - Tưởng ai, hóa ra cháu nội ông bạn già Thân Thiệu-Anh của ta. Khi cháu bước vào đây ta đã nghi rồi. Vì người cháu tiết ra mùi hương thơm nhẹ nhàng. Trên đời này, ta e chỉ hai người có hương thơm. Một là lão hòa thượng béo tròn, béo trục Bố Đại. Hai là cháu nội lão Thiệu-Anh. Mùi hương của Bố Đại hòa thượng giống mùi trầm. Còn của cháu cũng giống trầm, nhưng ngát hơn.
    Ông vỗ đầu Bảo-Hòa:
    - Ông nội cháu hồi này ra sao ? Năm ngoái người gửi cho ta ba cái mật gấu. Ta chưa cho người lên cảm ơn đấy.
    Bảo-Hòa kính cẩn:
    - Ông nội cháu vẫn khỏe. Vừa rồi người sang Trung-nguyên, không biết đã về chưa ?
    Tự-An chau mày:
    - Lạ ! Cháu học ở đâu được chiêu Phục-ngưu thần chưởng tinh diệu như vậy. Ta e hơn cả Đặng Đại-Khê nữa.
    Ông quay lại nhìn Thân Thiệu-Thái:
    - Thằng cháu này, là anh Bảo-Hòa hẳn. Em gái đẹp thế, mà anh trông như lợn vậy. Võ công học tới đâu rồi?
    Ông vung chưởng đánh Thiệu-Thái. Chàng vội lùi lại đỡ. Ông mở to mắt ra rồi thở dài:
    - Than ôi ! Sùng-Phạm còn đâu ! Cháu phúc đức thực, cháu gặp Bồ-tát Sùng-Phạm trong trường hợp nào ?
    Thiệu-Thái kính cẩn hỏi:
    - Thưa sư bá. Sư bá có thân quen với sư phụ cháu à ?
    - Có. Chúng ta vốn nhiều duyên với nhau. Ông có nguyện rằng khi nào xác ông mục, ông sẽ tìm một thiếu niên phúc đức, truyền hết công lực cho, rồi mới xuất. Thấy cháu mới hai mươi tuổi là cùng, mà công lực đến độ này, ta biết cháu đã được người ban cho cái hạnh vô biên đó.
    Ông quay lại nhìn Đỗ Lệ-Thanh, rồi lắc đầu:
    - Này bà ! Tuổi bà lớn hơn ta. Ta khuyên một lời, mong bà để lọt vào tai.
    Đỗ Lệ-Thanh chắp tay:
    - Xin đại hiệp cứ dạy.
    - Khi vợ chồng đã hết duyên thì thôi. Mỗi người đi một ngả. Tại sao trong người bà còn đầy uất khí như vậy ?
    Đỗ Lệ-Thanh quì mọp xuống đất:
    - Tiểu tỳ có mối uất hận, xin đại hiệp vì công đạo đứng ra chủ trì cho.
    Tự-An gật đầu:
    - Khoan rồi hãy kể. Nghỉ đã. Thanh-Mai, bảo tụi nó dọn phòng cho các vị này ở. Hôm nay chúng ta xuống thuyền, ăn cơm trên sông.
    Khi đi đường Mỹ-Linh, Bảo-Hòa cứ lo sợ sẽ gặp phải một người nghiên khắc, khó khăn. Bây giờ gặp Tự-An, họ thấy ở ông một người dễ tính, vui vẻ, bình-dị, đầm ấm.
    Mỹ-Linh nói với Tự-An:
    - Xin sư bá cho cháu vào ra mắt liệt tổ phái Đông-a, cùng chào bác gái.
    Trần Tự-An gật đầu:
    - Thanh, con dẫn các bạn vào nhà từ lễ tổ, lễ mẹ, còn con mụ kia không cấn lễ nghi gì cả.
    Mặt Nam trang Thiên-trường tiếp giáp với con sông Hồng-hà, quanh năm nước phù sa chảy siết. Từ sông Hồng-hà có hai con sông nhỏ hơn, như hai tay ngai ôm lấy trang Thiên-trường. Nước lên xuống hàng tháng theo mặt trăng. Những ngày con nước từ một tới bốn là những ngày êm dịu. Khi con nước lên từ năm đến tám là lớn nhất. Sông nhỏ, nước chỉ lên cao, chứ không chảy siết. Sông đầy nước phù sa, nên rất nhiều cá. Mà cá lại béo, ăn không độc.
    Chiều đến, Thanh-Mai chuẩn bị con thuyền khá lớn trên nhánh sông, rồi cho thả giữa giòng. Thân phụ nàng thường tiếp khách trên con thuyền này. Hôm nay ông mặc Thanh-Mai, muốn đã khách bằng món gì thì đãi.
    Từ khi gặp Mỹ-Linh, Thanh-Mai luôn nói về cái thú ăn gỏi tươi của quê nàng. Hôm nay nàng được làm gỏi đãi khách. Thanh-Mai nói:
    - Một con thuyền thả trên sông. Trong thuyền thực khách ngồi bên lò than hồng. Trên lò than, một cái nồi đất lớn. Trong nồi chứa nửa mỡ. Nửa còn lại là nước mắm, hồ tiêu, ớt. Phải đun cho mỡ sôi sục. Bấy giờ mới buông lưới. Lưới phải là loại mắt nhỏ, để có thể bắt được cá, tôm con. Tôm cá kéo lên, thả vào trong chậu còn sống. Thực khách gắp thả vào nồi mỡ nhúng cho tái đi, rồi gắp ra bát. Trong bát phải đủ tám thứ rau thơm: húng, hành, tỏi, ngổ, răm, mơ, xương xông, lá lốt. Sau đó dùng muỗm múc một muỗm nước chấm.
    Nàng nhấn mạnh:
    - Cái món nước chấm mới thực cầu kỳ. Trước hết dùng tương, nghiền cho nhỏ, pha vào ít vừng rang, để nguyên hạt. Dùng gạo nứt rang cháy vàng đi, làm thính. Thính dã thực nhỏ, dùng rây lấy bột thính cho mịn. Sau đó trộn lẫn với tương. Phải tính sao cho đặc sền sệt mới được. Nếu ăn gỏi cá phải dã thêm củ riềng cho vào. Còn ăn gỏi tôm thì thêm củ gừng.
    Trong bữa cơm, chỉ tội nghiệp Thiệu-Thái, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh chưa được hưởng cái thú thanh nhàn ăn uống trên sông, với tôm cá tươi như vậy. Ba người ăn hết miếng này tới miếng khác, muốn nuốt cả lưỡi vào. Mỹ-Linh vừa ăn vừa nói với Tự-An:
    - Sư-bá. Cháu thấy sư bá sướng thực, sống tự do tự tại, tiêu dao với sông nước. Như vậy thành tiên rồi. Đâu có như ông nội cháu, suốt ngày lo lắng , hao tổn tâm thần.
    Từ lúc Mỹ-Linh đến trang, đại hiệp Trần Tự-An chưa hề hỏi tông tích nàng. Ông thấy Mỹ-Linh nói năng nhỏ nhẹ, nhu mì, xinh dẹp, dáng người cực kỳ cao sang. Ông đoán nàng ắt phải xuất thân trong gia đình danh tiếng. Bây giờ nghe nàng nói, ông lại cho rằng, nàng con quan. Song ông không muốn hỏi. Ông chỉ cần biết bạn của con, ông coi như con. Ông thương yêu tất cả những gì liên quan đến con. Chợt ông vỗ đầu Mỹ-Linh:
    - À, ta hiểu rồi. Cháu mới được phong cái gì công chúa Bình-dương phải không ?
    Thanh-Mai không ngờ bố đoán ra nguồn gốc Mỹ-Linh. Nàng tự biết bố mình không ưa triều Lý, mà nàng dẫn Công-chúa về trang chơi thực không phải đạo lý. Thanh-Mai sợ bố nổi giận, nàng vội nói:
    - Bố ! Con với Mỹ-Linh kết thành sư tỷ sư muội rồi.
    Tự-An cốc khẽ vào đầu con gái:
    - Gớm lắm. Qua mặt cả bố già.
    Thế rồi ông cười xòa tỏ ý tha thứ. Tính ông dễ thực dễ, mà khó thì cũng thực khó. Ông không uống rượu, cũng chẳng hút thuốc lào. Cái thú của ông là ngồi ăn với con, với cháu, với bạn của con. Ông thu nhận khá nhiều đệ tử. Người nào cũng thành tay kiệt hiệt. Ông thương học trò như con. Vì vậy giữa họ với ông có nhiều mối dây tình cảm hơn các đại tôn sư khác.
    Nhưng tại sao, trên giang hồ nghe danh ông đều kinh sợ ? Điều đó có lý do. Ông dễ là dễ với con, với học trò, với bạn của con. Học trò vô lễ, ông dạy dỗ. Con lầm lỗi, ông giảng giải. Người ngoài tưởng ông thuộc loại nhu nhược, bắt chước con, cháu, học trò... để rồi phạm vào điều cấm kị của ông thực khốn khổ vô cùng. Kẻ nào vô tình hãm hại đệ tử họăc con ông, ông giết cả nhà, bố mẹ, anh em, con cái, cho tới con chó con mèo ông cũng không tha.
    Ông lấy vợ năm hai mươi tuổi. Vợ ông nhan sắc có một không hai. Võ công bà rất cao siêu. Tuy không bằng ông, nhưng so trong giới nữ lưu, bà đứng hạng nhất. Cách đây bốn năm, trong khi ông đi vắng, ở nhà kẻ gian đột nhập trang. Bà đấu với y trên ba trăm chiêu bất phân thắng bại. Cuối cùng y đánh bà một độc chưởng. Sau đó bà lên cơn đau đớn khủng khiếp. Gian nhân xuất hiện ra điều kiện, bà phải tuyên thệ nhập Hồng-thiết giáo, cùng tuyệt đối tuân theo lệnh của họ. Như vậy bà sẽ nhận được thuốc giải. Bà đành chịu chết, chứ không phản chồng.
    Ông bà có bốn con. Con trưởng tên Thông-Mai, thứ đến Thanh-Mai, Tự-Mai, Thanh-Nguyên. Sau khi bà chết được hơn năm, ông tục huyền. Một lần người vợ kế của ông nói đụng đến mẹ, Thông-Mai nổi cơn giận, tát bà vợ kế ba cái, rồi viết thư cáo từ phụ thân, bỏ đi mất. Từ sau thảm cảnh đó, trong gia đình không ai giám nhắc đến Thông-Mai nữa.
    Ăn uống xong, ông bảo Thanh-Mai:
    - Bố được tin con theo bản sư Tịnh-Huyền cùng Tự-Mai, Thanh-Nguyên đi Cửu-chân chơi. Bố không tin. Bản sư của con không bao giờ làm cái gì thừa cả. Chắc bà lại dẫn ba đứa con đi lễ Lệ-hải bà vương chứ gì. Trong bằng này người, con gặp ai trước, ai sau ?
    Thanh-Mai chỉ Mỹ-Linh:
    - Con gặp Mỹ-Linh trước, rồi Thiệu-Thái, Bảo-Hòa. Cuối cùng tới Đỗ phu nhân.
    Ông chỉ Mỹ-Linh:
    - Bây giờ cháu thuật truyện từ lúc gặp Thanh-Mai lần đầu cho đến khi Bảo-Hòa xuất hiện.
    Mỹ-Linh học văn rất sâu. Nàng thuật truyện tỷ mỷ rành rẽ. Tiếng nàng trong, nhẹ, người nghe như rót vào tai. Nàng thuật từ lúc gặp Thanh-Mai ở gốc đa gần đền thờ Tương-liệt đại vương cho đến khi tế lăng Lệ-hải bà vương, rồi Bảo-Hòa xuất hiện.
    Tự-An gật đầu:
    - Ta thực không ngờ công chúa Hồng-Châu lại đi tu thành Tịnh-Huyền. Trước kia ta khâm phục đại ca Huệ-Sinh một bây giờ ta khâm phục mười. Lão hay thực. Muôn ngàn lần ta không bằng lão. Thân làm quốc-sư, võ công tuyệt đỉnh, lão chỉ búng tay một cái, cũng đủ giết hết bọn ruồi nhặng. Thế mà lão thản nhiên chịu để bọn lưu manh bắt trói đem vào ngục như tên ăn cắp, không phản ứng. Ôi lão quả đã thành Bồ-tát vậy. Ta không bằng.
    Ông lẩm nhẩm:
    - Còn cái bọn Tống đáng chết thực. Tại sao Tịnh-Huyền, Huệ-Sinh không giết phắt chúng đi cho rồi. Đối với quân cướp nước chỉ có đánh bỏ mẹ đi chúng nó mới sợ.
    Mỹ-Linh thấy ông đang nhu nhã, bỗng nổi cộc, văng tục chỉ vì nghe bọn Tống khinh khi Đại-Việt. Nàng nhủ thầm:
    - Ông này thế lực mạnh. Võ công kiến thức cao. Tiếc rằng ông chống họ Lý nhà mình. Đã vậy mình phải khích ông, đem cái tự hào dân tộc ra để ông đập tụi Tống mới được.
    Nàng thỏ thẻ:
    - Sư bá hiểu cho. Chưa chắc sư phụ cháu với thái-cô đã địch nổi bọn Minh-Thiên với Vương Duy-Chính. Cháu nghĩ giá có sư bá hay ít ra một trong Đại-Việt ngũ long giết bọn chúng mới được.
    Ông gật đầu:
    - Có thể như thế. À còn cái người đang đêm đánh úp bọn Triệu Anh ở đền thờ Tương-liệt đại vương. Rồi hôm sau cướp di thư giả trên tay Triệu Thành, cùng bắt sống y đem đi, cũng bọn Tống chứ không sai.
    Mỹ-Linh kinh hoảng:
    - Không lẽ bọn chúng tranh dành lẫn nhau.
    Tự-An lắc đầu:
    - Cháu ngây thơ lắm. Huệ-Sinh, Nùng-Sơn, Tịnh-Huyền cũng chẳng hơn, để bọn Tống qua mặt, thôi chắc chúng cười cho thối mũi ra.
    Ông quay lại kéo tai Thanh-Mai:
    - Con chó này. Bố dạy biết bao nhiêu sách vở, mà cũng để bọn chúng lừa cho. Đáng đánh đòn.
    Thanh-Mai ngẩn người ra một lúc, rồi ngồi nhỏm dậy:
    - Đúng rồi. Con chỉ hơi nghi thôi. Bây giờ mới hiểu ra.
    Mỹ-Linh ngơ ngác:
    - Sư tỷ nghi chỗ nào ?
    Thanh-Mai đỏ mặt lên vì xấu hổ:
    - Thế này nhé. Bọn Tống từ Thăng-long mới đến Thanh-hóa ban ngày. Đêm đã biết đường vào đền thờ Tương-liệt đại vương ăn trộm ngay, không lẽ chúng là thánh ? Như vậy tất chúng phải có người ẩn ở đây lâu rồi. Người ẩn đó báo cáo cho chúng biết. Chúng tới lục lọi. Nếu như thấy di thư, liệu chúng có thoát khỏi sự truy lùng của võ lâm Đại-Việt không ? Cho nên hễ thấy rồi, chúng diễn vở kịch bị người khác cướp đi. Như vậy mới an tòan.
    Tự-An tiếp lời con gái:
    - Rồi khi Tôn Trung-Luận đánh lừa Triệu Thành, tên bịt mặt bắt y đi. Triệu Thành võ công không tầm thường, đời nào y để người ta bắt đi dễ dàng như vậy. Vả thích khách bắt y đi, đời nào thả ra dễ dàng như thế. Thôi, đó là bài học.
    Ông chỉ Bảo-Hòa:
    - Trong bằng này người, ta thích nhất cháu. Con bé hoa huệ hiếm có trên thế gian này. Nào bây giờ cháu thuật tiếp ta nghe nào ?
    Bảo-Hòa thuật tỷ mỷ truyện trên lăng Lệ-hải bà vương, cho đến lúc lên chùa Sơn-tĩnh, rồi ba chị em đi đò thám đền thờ Tích Quang, Nhâm Diên. Tiếp đến Mỹ-Linh học thuộc di thư trong những tấm bia.
    Tự-An cười lớn:
    - Thế thì khi sang Đại-Việt, bọn Triệu Thành đã nắm chắc có di thư. Sợ rằng khi tìm ra di thư, chúng sẽ bị võ lâm Đại-Việt tranh dành. Chúng mới diễn ra vở kịch xông thuoc mê, diễn ra màn cho người cướp di thư từ tay Triệu Anh. Nhưng sau đó, Trung-Luận nói trắng ra rằng cuốn di thư trong bụng tượng Tương-Liệt đại vương không chỉ là cuốn phổ. Bọn Triệu Thành diễn màn baa bằng cách cho tên bịt mặt bắt y. Như vậy say này võ lâm sẽ tìm Trung-Luận truy lùng võ kinh, hơn là tìm bọn y. Khôn đấy chứ.
    Tự-An gật đầu:
    - Về việc bọn Triệu Thành hành sự. Tất cả đều bị bọn Tống lừa. Có hai người không bị lừa là mạ mạ cháu với Khai-quốc vương.
    Mỹ-Linh nghe ông nói, nàng mừng thầm. Vì từ lúc mới đến đây, nàng thấy ngôn từ ông tỏ ra không ưa triều đình. Nói đến chú nàng, ông gọi sách mé bằng danh tự thằng bé con Long-Bồ. Bây giờ ông đổi, gọi bằng Khai-quốc vương, tức đã có phần coi trọng.
    Ông cười:
    - Cháu phải biết, nếu đông người quá khó giữ bí mật. Cho nên Khai-quốc vương đang đêm lén trốn đi cùng Tự-Mai, Tôn Đản. Tất cả đám còn lại tha hồ cho bọn Tống theo dõi. Khai-quốc vương sai chim ưng mang lệnh về Khu-mật-viện. Ở đây phát lệnh cho Tiết-độ-sứ phái Đàm Toái-Trạng, Nguyễn Khánh đi hộ tống. Bọn Tống nói dối rằng bị trộm. Khai-quốc vương giả làm như tin thực, sai lính đi hộ vệ. Thế là bọn Tống tự nhiên bị bó chân bó cẳng.
    Bảo-Hòa lắc đầu:
    - Cháu không tin như vậy. Bọn Đàm Toái-Trạng với Nguyễn Khánh manh tâm hướng ngoại làm phản. Việc lớn như thế không lẽ cậu hai không biết ? Cậu hai biết, sao còn sai chúng đi hộ tống bọn Triệu Thành.
    Tự-An cười:
    - Này nhé, phép lừa địch cao nhất phải làm sao cho địch tưởng mình ngu. Bọn Triệu Thành thấy cậu hai cháu sai bọn gian hộ vệ. Y cho rằng cậu cháu cóc biết gì cả. Kỳ thực cậu hai cháu giả như thế. Bọn y yên tâm, dọc dường tha hồ làm ma làm quỉ, cậu hai cháu cho người theo dõi, khắc biết hết. Cái ưu điểm ở chổ cậu hai với mạ mạ cháu phối hợp rất nhịp nhàng. Bọn Tống giả đi Thiên-trường để liên lạc với ta, sự thực chúng chưa có đến. Điều này mạ mạ cháu biết rồi.
    Bảo-Hòa tiếp:
    - Khi cháu lên chùa Sơn-tĩnh, trong lòng tưởng Nguyên-Hạnh là cao tăng đắc đạo. Nên khi thấy chim ưng của Khu-mật-viện Trường-yên theo dõi y. Cháu không biết thần ưng của ai. Khi họ theo dõi, hẳn Nguyên-Hạnh không ra gì, vì vậy cháu nói tréo đi rằng thần ưng thấy y có đức, nên chầu y. Y tin thực. Đêm đó một thần ưng mang lệnh cậu hai cho cháu. Cậu truyền rằng cứ yên tâm, cậu dùng thần ưng liên lạc với cháu.
    Bảo-Hòa lại tường thuật tới chỗ vào Vạn-hoa sơn-trang. Tự-An cười lớn:
    - Bọn Tống bị cậu cháu coi như trẻ con. Cậu cháu viết thư cho dì An-quốc trước. Công chúa mới sai Nàng Thanh gửi thư tống tình Ngô Tích. Ngô Tích vô tình bị lọt lưới. Điều này cháu đâu ngờ. Còn cậu cháu bố trí cọp, trăn, để cháu bắt bọn Tống với mục đích gì cháu biết không?
    - Cháu không biết.
    - Này nhé, hiện cậu hai không có tên nào tín cẩn của Triệu Thành, để nhờ y thông báo tin tức bịa đặt cho y. Vì vậy phải bầy ra vụ ấy cho chúng bị bắt rồi cô hàng bún riêu Thanh-Trúc cứu y. Y cứu đồng bọn. Mưu này không qua mắt được bọn Triệu Thành với Vương Duy-Chính. Y tương kế tựu kế, làm như Ngô Tích bị trúng đòn ái tình. Đang đêm đến Vạn-hoa sơn-trang họp rồi được Nàng Thanh hẹn ra suối. Y hứa về Thăng-long tâu thiên tử cưới nàng...Nghĩa là y làm như trúng kế thực. Như vậy cũng chưa đủ. Khi bọn y biết Ngô Tích bị theo dõi, cùng việc các cháu lên đồi luyện võ. Chúng, gỉa vờ kéo nhau tới kết tội Ngô. Tất nhiên người của cậu hai cháu phải xuất hiện cứu Ngô. Thế là y yên tâm cấy được người vào Khu-mật-viện Đại-Việt. Y có ngờ đâu cậu hai cháu cũng giả vờ trúng kế y. Bây giờ cậu hai chỉ việc bàn kế họach ma, để tên Ngô Tích báo về cho Triệu Thành.
    Thanh-Mai hỏi bố:
    - Liệu những bí mật của Nguyên-Hạnh, Khai-quốc vương có biết trước không ? Hay phải đợi đến khi vào Thanh-hóa mới biết ?
    Tự-An suy nghĩ một lúc rồi nói:
    - Có lẽ trước khi chưa vào Thanh-hóa, Khai-quốc vương chỉ đóan già rằng Nguyên-Hạnh không phải thiện nhân thôi. Phải đợi đến khi bọn cháu khám phá ra Hồng-hương cốc mới vỡ lẽ. Các cháu cũng khôn đấy, giả chết cháy, để giờ này Nguyên-Hạnh vẫn tưởng bí mật của y được bảo toàn.
    Thanh-Mai ngồi ngay ngắn lại:
    - Lúc đầu con tưởng người ám toán mẹ với Hồng-sơn phu nhân cũng như vương phi Khai-thiên vương là Nguyên-Hạnh, nhưng bây giờ lại không chắc. Tuy nhiên chúng ta cũng có chút ánh sáng. Ta cần tìm ra tung tích bọn trưởng lão Hòng-thiết, mới mong trả thù cho mẹ.
    Thanh-Mai chơt nhớ ra một điều:
    - Bố ơi. Khi qua đền thờ Thánh-Thiên, con gặp một người tên Mốc. Y có hành động rất kỳ lạ.
    Tự-An mỉm cười:
    - Trong vòng một trăm dậm của trang Thiên-trường, dù con chồn con cáo đột nhập bố cũng phải biết. Thằng Mốc vốn người nước Đại-lý. Đâu phải một mình Tống cử người sang đây tìm di thư ? Bọn Đại-lý cũng sai nhiều toán sang. Chúng theo sát bọn Triệu Thành. Chúng biết bọn Triệu Thành lấy được di thư, ngặt không biết đọc chữ Khoa-đẩu. Trong khi người Đại-lý biết chữ Khoa-đẩu. Chúng theo dõi bọn con với Triệu Thành, thấy bọn con đột nhiên biết xử dụng võ công thời Lĩnh-Nam. Như vậy chúng muốn thử xem bọn con có đọc được chữ Khoa-đẩu không. Chúng mới cho tên Mốc hành sự. Bọn con vô tình để y biết rõ sự thực. Như vậy bọn Đại-lý tin tưởng rằng di thư trong tay Triệu Thành quả đúng chứ không phải giả.
    Ông nhìn trời cười:
    - Bọn Tống với Đại-Lý sẽ đánh nhau mù trời về di thư. Mà chắc chúng sẽ đánh nhau trong địa phận Thiên-trường này. Ta cứ ngồi chơi xem cho vui.
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.01.2005 03:59:37 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 06.01.2005 18:26:01 (permalink)
      Hồi thứ ba mươi ba


      Xuân-Đài Di Sự




      Thuyền đã ghé bờ. Tự-An đứng dậy nói với Đỗ Lệ-Thanh:
      - Đỗ phu nhân. Tôi hứa sẽ chủ trì công đạo vụ tên Nguyên-Hạnh hại phu nhân. Tuy nhiên tôi sợ mình chưa ra tay, phái Tiêu-sơn đã thanh lý môn hộ. Y giam cầm hai vị Bố-Đại và Sùng-Phạm, cùng làm ô uế cửa Phật, tội đâu có nhỏ? Vả lại y không còn là tội nhân của phu nhân và của phái Tiêu-sơn. Mà còn của triều đình. Vịệc trừ khử y thực không khó. Chúng ta đây có Thiệu-Thái dư sức thắng y. Dù sao tôi cũng đã hứa với phu nhân. Tôi sẽ chủ trì công đạo vụ này.
      Đỗ Lệ-Thanh quì mọp xuống:
      - Đa ta đại hiệp.
      Tự-An nhìn bước đi của con gái, ông chau mày:
      - Con Thanh này lại được sư bá Huệ-Sinh dạy Thiền-công rồi phải không ? Gớm thực ! Chắc lại ỏn thót lèo nhèo nịnh hót sư bá chứ không sai đâu. Con gái gì mà xấu thế !
      Thanh-Mai chù mỏ ra:
      - Bố. Sao bố biết?
      - Hừ. Con gái do bố “ị” ra, nào bế, nào tắm, nào cho ăn, nào dạy văn, dạy võ, mà làm gì bố không biết, họa chăng bố mù. Tiếc thay hồi mẹ bị nạn, sư bá Huệ-Sinh chưa đắc đạo.
      Đỗ Lệ-Thanh cũng bùi ngùi:
      - Thức thiền công đại-sư Huệ-Sinh dạy Thanh cô nương do ông mới phát minh ra gần đây phải không ?
      Mỹ-Linh nhìn Thanh-Mai:
      - Sư tỷ. Em có thấy sư phụ dạy chị hồi nào đâu ?
      Thanh-Mai thuật lại vụ trên đường đi Sơn-tĩnh, Huệ-Sinh với nàng ngừng lại trong rừng. Chính lúc đó ông dạy Thiền-công cho nàng.
      Mỹ-Linh hỏi Trần Tự-An:
      - Thưa sư bá, thức Thiền-công sư phụ dạy chị Thanh, do người tìm ra sao ?
      - Đúng thế. Cháu nên nhớ rằng nội công phái Đông-a nhà ta phát xuất từ Thiền-công phái Tiêu-sơn. Mà Thiền-công Tiêu-sơn đo ngài Tỳ-ni Đa-lưu-chi đem từ Tây-Trúc sang vốn thuộc Vô nhân tướng công cùng nguồn gốc với Thiền-công Thiếu-lâm do Đạt-ma tổ-sư truyền lại. Tổ của phái Đông-a nhà ta là Tự-Viễn công học thiền công Vô-nhân tướng công. Nhân thấy Vô nhân tướng công dùng công lực làm mất đi cái sức ác độc của đối thủ. Người nghĩ như vậy khí hiền quá, nên biến đổi đi thành nội công mới. Khi phát chiêu chống đối thủ, một phần hóa giải kình lực. Một phần dùng nội lực mình đánh đối thủ.
      Đỗ Lệ-Thanh tỏ vẻ hiểu biết hơn:
      - Vô nhân tướng công nhà Phật do Đạt-Ma tổ sư truyền cho Thiếu-lâm lấy yếu chỉ từ kinh Kim-cương. Trong khi Thiền-công do ngài Tỳ-ni Đa-lưu-chi truyền lại cho phái Tiêu-sơn lấy yếu chỉ trong kinh Lăng-gìa và Tượng-đầu. Vì vậy chưởng phong phái Thiếu-lâm hiền hòa hơn. Ngược lại chưởng phong phái Tiêu-sơn bao hàm sát thủ cực mạnh. Rồi tổ sư phái Đông-a lại biến đổi đi lần nữa. Cho nên trong các chiêu thức bao hàm phong, lôi, thủy, hỏa khủng khiếp. Nhưng còn thức Thiền-công của đại sư Huệ-Sinh tìm ra có gì khác biệt, mà chỉ nhìn tướng đi,đại hiệp biết Thanh đã học thức đó ?
      Tự-An gật đầu:
      - Nội công phái Đông-a có phần khó luyện tập nhất. Người tập phải làm sao thăng bằng được thủy và hỏa, phong và lôi, vân và vũ, nhật và nguyệt, mộc và thổ. Những điều ấy đệ tử cần vượt qua. Thanh nhi dung hòa được hết. Cho nên võ công cũng vào loại khá. Chỉ còn có thủy và hỏa. Thường muốn dung hoà thủy hoả phải đợi đến tuổi bốn mươi mới đủ công lực. Hoặc nếu như người đắc đạo, thoát khỏi cái vòng sắc tướng, bấy giờ cơ thể trở thành cái chân không lớn. Thủy hay hỏa hết xung đột nhau. Tự nhiên đơn điền như cái hồ trống, các luồng nội tức thi nhau đổ vào. Công lực sẽ cao vô cùng. Ngay độc chưởng Chu-sa có nhập cơ thể, cũng tự động bị hóa giải.
      Thiệu-Thái nhảy phắt lên:
      - À thì ra thế. Vì vậy khi Mỹ-Linh bị Nguyên-Hạnh đánh trúng Chu-sa chưởng, sư thúc Bố Đại hòa thượng dạy thở hít mấy thức mà hóa giải được. Sư phụ cũng nói Chu-sa độc chưởng không hại được người. Bây giờ cháu mới biết nguyên ủy như vậy.
      Tự-An gật đầu:
      - Cho nên ta mới tiếc. Nếu như Huệ-Sinh đắc đạo trước khi mẹ Thanh-Mai bị nạn, ta đã cầu ông dạy cho thuật điều hòa thủy hỏa mà khỏi chết.
      Đỗ Lệ-Thanh hỏi:
      - Khi bị trúng độc. Phu nhân chưa dung hòa được thủy hoả ư ?
      Tự-An lắc đầu:
      - Phu nhân ta xuất thân phái Tản-viên. Chưa từng luyện tập nội công phái Đông-a. Vả lại hiện trong phái Đông-a chỉ có Thiên-trường ngũ kiệt là dung hoà được thủy hoả, đơn điền trống rỗng. Nếu trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng ắt vô sự. Bây giờ thêm Thanh nhi. Nào Đỗ phu nhân. Phu nhân thử phát một chiêu Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng vào Thanh-Mai xem nào.
      Đỗ Lệ-Thanh hít hơi phát một chưởng. Trong chưởng có mùi tanh hôi khủng khiếp. Thanh-Mai vận công đỡ. Bộp một tiếng, Đỗ-lệ-Thanh lảo đảo lui lại.
      Tự-An hỏi:
      - Phu nhân thấy sao?
      - Tiểu tỳ thấy trong lực đạo của Thanh cô nương trải ra rất rộng. Độc chất bị hoá giải mất. Một phần chân lực phản công vào người tiểu tỳ cực kỳ mãnh liệt. Tiểu tỳ nghĩ, đại hiệp là đại tôn sư võ nghệ. Đại hiệp nghiên cứu, chế ra một thức võ công khắc chế Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng thực hay biết mấy?
      Bảo-Hòa cũng góp ý:
      - Hiện Nhật-Hồ lão nhân đã qua đời. Nhưng dư đảng Hồng-thiết giáo còn ẩn tàng khắp nơi. Sư bá chế ra được thứ võ công này, hầu tru diệt bọn ma vương Hồng-thiết tuyệt chủng, đất Việt mới yên.
      Lời nói của Đỗ Lệ-Thanh, Bảo-Hòa làm Tự-An tỉnh ngộ. Ông nghĩ thầm:
      - Ừ nhỉ, nội công phái Đông-a chia làm hai. Một phần hoá giải kình lực đối phương. Một phần tấn công ngược lại. Nếu như ta làm sao để phần hoá giải kình lực, không cho chất độc nhập vào người mình. Phần tấn công ngược lại đẩy chất độc về cơ thể đối phương, như vậy khi đứa nào hại người bản phái, cũng như tự chui đầu vào thòng lọng thắt cổ.
      Ông tính toán thầm:
      - Tay có sáu kinh. Gồm ba kinh âm hoá giải chất độc. Ba kinh dương đẩy chất độc về người chúng. Phải rồi ba kinh để chống lại ba kinh dương của chúng. Còn ba kinh dương, đẩy chất độc vào ba kinh dương chúng.
      Nghĩ đến đâu ông bảo Lệ-Thanh:
      - Phu nhân nhè nhẹ đẩy ra một chưởng vào tay ta xem nào.
      Lệ-Thanh vâng lời đưa bàn tay đẩy ra. Tự-An cũng đưa bàn tay đỡ. Ông vận khí ra Thủ thái âm phế kinh chống lại lực đạo của Thủ dương minh đại trường kinh Lệ-Thanh, rất dễ dàng. Ông vận khí ra thủ thiếu âm tâm kinh, chống lại Thủ thái dương tiểu trường kinh của Lệ-Thanh. Không khó khăn. Ông vận khí ra Thủ khuyết âm tâm bào kinh, chống lại Thủ thiếu đương tam tiêu kinh của Lê-Thanh, cũng không có gì trở ngại.
      Ông nói lớn:
      - Phu nhân đẩy độc chưởng vào người ta đi.
      Lệ-Thanh hít hơi dồn chân khí, đẩy độc chất ra cả sáu kinh tay. Tự-An cho ba kinh âm chống. Ông vận khí vào kinh Thủ thái dương tiểu trường, rồi đẩy mạnh. Lập tức Lệ-Thanh kêu lên tiếng ái, mụ nhăn nhó tỏ vẻ đau đớn.
      Thiệu-Thái hỏi:
      - Cái gì vậy?
      - Kinh tâm của tiểu tỳ như bị mũi kim đâm vào, rồi chạy thẳng tới tim.
      Nói đến đây mụ run run cực kỳ khó chịu. Mụ nói với Thiệu-Thái:
      - Thế tử để ngón tay cái vào huyệt Thần-môn của tiểu tỳ, hoá giải chất độc cho tiểu tỳ.
      Thiệu-Thái làm theo. Chỉ một lát, bao nhiêu đau đớn biến mất.
      Tự-An chắp tay:
      - Xin lỗi Đỗ phu nhân. Ta hơi quá tay.
      Đỗ-lệ-Thanh reo lên:
      - Mừng đại hiệp đã thành công. Nếu vừa rồi đại hiệp thẳng tay, e tiểu tỳ mất mạng rồi. Dù tiểu tỳ không chết ngay, thì độc chất chạy vào tim cũng nguy vô cùng.
      Tự-An cùng Đỗ Lệ-Thanh tiếp tục bàn luận, nghiên cứu, chiết chiêu. Ông vận khí ra Thủ đương minh đại trường kinh, đẩy chất độc trên Thủ thái âm phế kinh về người mụ. Tiếp theo ông vận khí ra Thủ thiếu dương tam tiêu kinh, đẩy chất độc về Thủ khuyết âm tâm bào kinh của mụ. Công việc hoàn tất dễ dàng.
      Tự-An với Đỗ Lệ-Thanh luyện suốt một buổi mới thông thạo. Ông nói:
      - Bây giờ nếu phu nhân gặp Nguyện-Hạnh, đấu với y. Phu nhân có thể đẩy chất độc vào người y được. Ta khỏi cần chủ trì công đạo nữa.
      Bảo-Hòa quan sát Tự-An, Đỗ Lệ-Thanh, ngẫm nghĩ một lát rồi thở dài:
      - Đại sư Huệ-Sinh đúng là đại Bồ-tát đắc đạo. Ngài biết rõ hành trạng Nguyên-Hạnh. Biết Nguyên-Hạnh học Chu-sa chưởng, mà ngài lờ đi. Ngài chỉ dạy sư tỷ Thanh-Mai thức thần công đó, hầu lỡ khi trúng độc sẽ vô sự mà thôi. Chứ ngài không có ý dậy chị Thanh-Mai đánh ngược lại y.
      Tự-An tiếp:
      - Sau này Bảo-Hòa luyện công theo học thuyết âm, dương. Mỹ-Linh luyện tập Vô-ngã tướng công nhà Phật. Căn bản nội công Mỹ-Linh thuộc nội công âm nhu của Long-biên, vì vậy Thiền-công Vô-ngã tướng hợp với nội công Long-biên, làm cho nội công Long-biên mạnh vô song. Căn bản nội công Bảo-Hòa thuộc Tây-vu, Tản-viên, vốn thuộc dương cương. Khi luyện công theo âm dương của ngài Đào Kỳ, thì nội công dương cương thành mạnh vô song, nhưng trong người có nhiều luồng chân khí hỗn tạp, trong khi tâm lại chưa hoàn toàn gác bỏ Lục-căn.
      Ông ngừng lại một lát, rồi tiếp:
      - Vô ngã tướng thần công thuộc loại thần công tối cao nhà Phật. Nó tổng hợp của Vô nhân tướng của Thiếu-lâm, Tiêu-sơn. Vô chúng sinh tướng của Tây-tạng, Vô thọ giả tướng của Tây-hạ và Đại-lý. Cái lão Mốc ở đền thờ bà Thánh-Thiên đó, luyện Vô thọ giả tướng của nhà Phật đó. Thần công Vô-nhân tướng khác với các thần công kia ở điểm nó không hóa giải kình lực đối thủ, mà thu hết kình lực đối thủ vào làm kình lực mình. Cho nên Mỹ-Linh đấu với Trung-sơn tam kiệt, Đinh Toàn một lúc sau, bao nhiêu công lực của chúng bị hút hết. Vì vậy công lực Mỹ-Linh mới mạnh đến chỗ không tưởng được.
      Cái thắc mắc tự nhiên sau trận đấu trong đêm với Đinh Tòan, Tung-sơn tam kiệt, công lực Mỹ-Linh trở thành mạnh vô cùng trước đây đã được Bố Đại hòa thượng giảng qua. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái hiểu một cách mơ hồ. Hôm nay hai người mới hiểu tường tận.
      Mỹ-Linh vốn lòng dạ hiền hậu. Nàng hỏi:
      - Thưa sư bá, mình hút hết công lực của người, như vậy có ác quá không ? Từ nay cháu không dám xử dụng nữa.
      Tự-An quàng tay lên vai Mỹ-Linh:
      - Con gái nhân từ qúa. Thực xứng đáng làm mẫu nghi thiên hạ. Nếu trong nước có một ông vua, một bà hòang nhân từ như con thực phúc đức mấy cho Đại-Việt. Bác mà là ông nội cháu, bác nhường ngôi cho cháu, chứ không nhường ngôi cho bố cháu. Như vậy trong nước ta lại có một vua bà nữa...Con đừng sợ xử dụng Vô-ngã tướng thần công hút công lực người là ác độc. Con nhớ thần công này vốn xuất phát từ đức Thích-ca Mâu-ni, sau truyền cho Bồ-tát Ma-ha Ca-Diếp thì làm gì có truyện ác độc? Đây ta thử phát chiêu như Thiền-công nhà Phật cho cháu xem. Nói rồi ông phát nhẹ một chiêu đánh vào vai Mỹ-Linh.
      Mỹ-Linh chợt hiểu ra:
      - Con hiểu rồi. Để con nói xem có đúng không nghe. Lỡ có sai, xin sư bá đạy dỗ cho. Các loại Thiền-công đều phát xuất từ nhà Phật. Cho nên căn bản nhân từ, chỉ hóa giải những gì người ta đánh mình.
      - Đúng, không sai.
      - Thiền-công Vô nhân tướng truyền cho Thiếu-lâm ở trong trường hợp này. Nghĩa là người ta đánh mình, mình đỡ.
      - Đúng nữa. Để ta xuất chiêu theo Tiêu-sơn chưởng cho cháu biết.
      Ông lại phát một chiêu nữa đánh vào Mỹ-Linh. Nàng chuyển tay đỡ. Tần ngần một lúc rồi nói:
      - Thiền công Vô nhân tướng truyền cho Tiêu-sơn không hoàn toàn theo Kinh Kim-cương mà theo Lăng-già, Tịnh-đầu, nên trong cái hóa giải có phần sát thủ. Người ta đánh, mình đỡ. Trong cái đỡ có phần phản kích.
      - Đúng hoàn toàn. Cháu thử đánh ta một chiêu xem.
      Mỹ-Linh phát nhẹ một chiêu đánh vào thượng tiêu Tự-An. Ông bật tay đỡ. Nàng à một tiếng:
      - Thiền-công Tiêu-sơn truyền sang phái Đông-a, tổ Trần Tự-Viễn biến đổi đi, dùng cái sức người đánh mình, quay trở lại đánh người, lại thêm vào lực giải ma chướng của kinh Thủ-lăng-nghiêm bao gồm phong lôi, thủy hỏa, vân vũ, nhật nguyệt, thổ mộc. Cho nên sát thủ kinh người, rất khó hóa giải.
      - Giỏi. Cháu thông minh thực. Thiền công Vô chúng sinh tướng hơi giống Thiền công Vô nhân tướng. Có điều nó phức tạp hơn. Vô nhân tướng thì lực phát ra đơn thuần. Tòan thân chỉ có một lực đạo. Còn Vô chúng sinh tướng có thể chia người ra làm nhiều khu khác nhau. Như bị đối phương đánh, vận khí ra vai, chịu đòn, hóa giải lực đối phương. Trong khi tay phải, tay trái cũng có thể phát ra lực đạo khác nhau tấn công, phản kích và hóa giải ngoại lực.
      Tự-An ngừng lại hỏi:
      - Khi cháu hiểu biết được như vậy là đi vào hạnh đại giác rồi đó. Vậy còn Vô-thọ giả tướng ?
      - Thiền công vô thọ giả tướng lại khác. Đối thủ đánh mình, cơ thể mình thu nhận chân khí vào người, rồi truyền xuống đất, làm biến đi. Hoặc giả người này đánh mình. Mình chuyển lực đó sang giúp người khác, hoặc đánh người khác.
      - Đúng như thế. Thiền-công Vô ngã tướng bao gồm uy lực của cả ba lọai trên. Nó có thể hóa giải lực đạo đối phương đánh. Nó cũng có thể chia người thành nhiều lực khác nhau. Chỗ hóa giải, chỗ phản công, chỗ nghinh lực, chân tay chia thành nhiều lực đạo khác nhau. Mình cũng có thể thu nhậân chân khí đối thủ vào cơ thể chuyển ngược lại đánh đối thủ. Chuyển sang giúp người khác và chuyển xuống đất.
      Trần Tự-An lắc đầu cười:
      - Như vậy Thiền công vô ngã tướng đâu có đáng kể là vô địch? Cái vô địch là khi đối thủ đánh mình. Bao nhiêu lực đánh ra mình thu vào người hết làm của mình. Nó nhân từ ở chỗ đối thủ đánh mình mới bị mất. Còn không đánh mình lại không sao. Lực đối thủ đánh mình, mình thu mất, người đối thủ trở thành trống rỗng, tê liệt, phải tập luyện ít nhất nửa tháng mới phục hồi được.
      Đỗ Lệ-Thanh thở dài:
      - Như vậy từ Thanh tiểu thư cho đến Công-chúa, Quận-chúa trong người đều có Vô ngã tướng thần công. Thế mà không biết xử dụng, cũng giống như người có kho tàng mà không biết. Kính xin đại hiệp dạy cho các vị thiếu niên này cách vận chân khí, từ nay không còn sợ Nguyên-Hạnh nữa.
      Tự-An gật đầu:
      - Đương nhiên như vậy. Đại thể ba người giống nhau. Nhưng Mỹ-Linh luyện tập thần công âm-nhu của phái Long-biên, thiên về nhu nhiều hơn. Còn Bảo-Hòa luyện thần công dương cương do Trần Năng để lại hợp với nội công Cửu-chân, Tản-viên thiên về dương cương. Nếu Bảo-Hòa luyện được cả nội công âm nhu của Long-biên sẽ trở thành Đào Kỳ thứ nhì. Còn Thanh-Mai lại khác. Đầu tiên nó luyện nội công của phái Đông-a vốn có sát thủ. Bây giờ vượt ra ngòai tất cả bốn tướng, chưởng pháp có sức phản công kinh khủng.
      Đại hiệp Trần Tự-An vốn tự hào kiến thức võ học của mình mênh mông. Ông không câu nệ giữ cho con cháu, đệ tử. Ai thắc mắc ông cũng sẵn sàng chỉ dẫn. Trong hơn tháng qua ở Thiên-trường mà anh em Thiệu-Thái, Mỹ-Linh được ông chỉ bảo cho, nội lực họ gia tăng đến chỗ không tưởng tượng nổi.
      Phái Đông-a hiện do ông làm chưởng môn. Dưới ông có bốn tôn sư Vũ Anh, Hoàng Hùng, Phạm Hào, và Trần Kiệt. Họ đều là sư đệ của ông. Võ công, tuổi tác suýt sóat ông. Mỗi người ở một trang riêng. Họ cũng thu nhận và dạy nhiều đệ tử.
      Một hôm, ông đang đàm đạo võ công với các sư đệ cùng luyện võ cho con cháu, đệ tử, thì tráng đinh giữ cổng phi ngựa vào trình ông một danh thiếp kính cẩn thưa:
      - Trình trang chủ, có một đoàn người ngựa xưng là Thiên-sứ Tống triều, Bình-nam vương, quản Khu-mật-viện, Thái-úy phụ quốc đến xin gặp.
      Thanh-Mai nói lớn:
      - Bố! Bọn Triệu Thành đến đấy. Bố có tiếp không?
      Vũ Anh cầm danh thiếp lên coi. Ông gật đầu:
      - Phải tiếp .Y dùng lễ võ lâm. Ta không thể chối được.
      Ông quay lại truyền cho đệ tử:
      - Mau đánh trống họp đệ tử ở võ đường, cùng chuẩn bị trà, nước đãi khách.
      Thanh-Mai tuy là con của chưởng môn phái Đông-a, nhưng địa vị trong phái của nàng rất nhỏ. Nàng thuộc loại đệ tử trẻ tuổi đời thứ nhì. Trong khi phụ thân nàng có bẩy đại đệ tử, võ công, tuổi tác, kiến thức bỏ xa nàng. Đệ tử thứ bẩy Ngô An-Ngữ, xuất chính, được bổ nhiệm quản Khu-mật-viện Trường-Yên, tức cơ quan đầu não của an ninh, quốc phòng từ Thiên-trường tới biên giới Chiêm-thành.
      Nàng biết trong cuộc tiếp khách này có liên hệ đến vận mệnh Đại-Việt. Từ xưa đến giờ, Thiên-trường ngũ kiệt vốn không ưa triều đình. Chỉ vì xưa sáng tổ Trần Tự-Viễn học nội công với phái Tiêu-sơn, và chính ngài dạy là tổ ngoại công phái này, nên bố nàng phải nghe lời chưởng môn phái Tiêu-sơn, tha cho Lý Công-Uẩn tội cướp ngôi vua họ Lê. Thiên-trường ngũ kiệt lại thân thiết với Hồng-Sơn đại phu. Nếu nay họ biết ông là Lê Long-Mang, con trai Lê Hòan đã được Tống hứa giúp đỡ đòi lại ngôi vua, sẽ đại bất lợi cho triều Lý. Mà người bất lợi nhất lại không ai khác Khai-quốc vương, đang cầm vận mệnh đất nước. Người mà nàng yêu thương vô bờ bến.
      Nàng đưa mắt nhìn Mỹ-Linh, Bảo-Hòa. Cả ba như cùng thông cảm với nhau. Vạn nhất, Thiên-trường ngũ kiệt lại hứa giúp Hồng-sơn đại phu, thực hỏng bét. Nàng phải làm gì bây giờ? Trong buổi tiếp khách này, nếu nàng đưa Thiệu-Thái, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh ra, không chừng Thiên-trường ngũ kiệt lại nghi ngờ bố nàng tư vị con gái. Vì vậy nàng bàn:
      - Bây giờ thế này. Tôi lấy y phục, để Thiệu-Thái, Bảo-Hòa cùng Mỹ-Linh giả làm đệ tử phái Đông-a. Nếu tôi không gọi đừng nên xuất hiện. Chỉ để mình tôi đối phó là được rồi. Còn Đỗ phu nhân, xin hóa trang thành một phụ nữ trồng hoa, quét dọn phòng họp.
      Năm người thay quần áo, vào đại sảnh đường. Võ sinh trưởng tràng đứng điều khiển. Hội trường đông có hơn ngàn người, mà không một tiếng động.
      Một lát, có tiếng ngựa lốc cốc. Bọn Triệu-Thành tới. Hai bên giới thiệu, chào hỏi khách sáo, rồi Vũ Anh mời khách tới phòng hội. Ông hướng vào đám đệ tử nói:
      - Hôm nay phái Đông-a hân hạnh được tiếp Bình-nam vương của nhà Đại-Tống cùng các tôn sư võ nghệ Trung-quốc.
      Rồi ông giới thiệu từng người một. Cuối cùng ông hướng vào Minh-Thiên:
      - Không biết đại sư giá lâm có chi dạy bảo?
      Nghe Vũ Anh hỏi, Triệu Thành chửi thầm:
      - Bọn Thiên-trường ngũ kiệt thực ngang ngược cùng tận. Rõ ràng ta làm trưởng đoàn, chức tước, quyền lực nghiêng Trung-nguyên. Mà nó không đếm xỉa tới. Nó hỏi Minh-Thiên, ra cái điều dùng lễ võ lâm, không coi ta vào đâu. Bọn này cũng không coi Lý Công-Uẩn ra gì. Ta không thể dùng quyền lực với chúng. Thảng hoặc làm mất lòng chúng, chúng giết ta, triều đình có hỏi tội bọn họ Lý, cũng vô ích.
      Nghĩ vậy, y đưa mắt nhìn Minh-Thiên, ngụ ý:
      - Sư phụ cứ trả lời chúng đi.
      Minh-Thiên chỉ Triệu Thành:
      - Bần tăng theo Vương-gia sang sứ Giao-chỉ cùng Chiêm-thành. Vốn mộ danh qúi phái, nên trên đường đi qua Thiên-trường vào bái yết Thiên-trường ngũ hùng.
      Triệu Thành hướng Vương Duy-Chính gật đầu. Vương Duy-Chính vẫy tay. Năm người từ ngoài đội năm cái mâm phủ lụa hồng đem vào, trịnh trọng để trước bàn Thiên-trường ngũ kiệt. Triệu Thành chắp tay hướng Trần Tự-An:
      - Cô gia được thánh Thiên-tử ủy nhiệm cho đi khắp nơi, mời các anh hùng, hào kiệt ra giúp nước. Năm trước đây, đã mở Anh-hùng đại hội ở Biện-kinh. Cô gia tuyển được một võ trạng cùng bảng nhãn, thám, hoa, tiến sĩ tổng cộng ba mươi hai người. Thiên tử đã trao trọng quyền cho các vị đó. Cô gia thấy quận Giao-chỉ là nơi rồng nằm, hổ phục, nhân tài thực nhiều, thế mà trong ba mươi hai vị, không vị nào người Giao-chỉ cả. Cho nên cô gia tâu lên Thiên tử, cho mở Thiên-hạ anh hùng đại hội vào ngày rằm tháng tám năm tới, để võ lâm Giao-chỉ có thể tham dự.
      Vương Duy-Chính trịnh trọng cầm thiếp mời đưa cho Trần Tự-An. Y nói:
      - Với tài của đệ tử qúi phái. Tôi e rằng cái chức trạng nguyên khó phái nào tranh nổi.
      Vương Duy-Chính mở những tấm lụa che năm cái mâm ra. Trong mâm đầy vàng, bạc, châu báu cùng lụa, gấm:
      - Đây, chút lộc của Thiên-tử ban cho quí phái.
      Hoàng Hùng đứng dậy:
      - Vương gia nói như vậy có ba điều không đúng. Điầu thứ nhất Vương gia miệt thị Đại-Việt chúng tôi là một quận huyện của qúi quốc. Nước tôi với quí quốc cương vực đã phân từ mấy ngàn năm, tiếng nói có khác, phong tục dị biệt. Thế mà vương gia miệt thị một điều quận Giao-chỉ, hai điều quận Giao-chỉ, chẳng hóa ra khinh người lắm ư?
      Ông ngừng lại, nói lớn:
      - Điều sai thứ nhì là phái Đông-a chúng tôi không dính dáng gì với triều đình Đại-Việt. Anh em chúng tôi, buông tay vui với cỏ cây. Ngay thời Lê còn. Sau trận Bạch-đằng vua Lê phong tước vương cho sư phụ chúng tôi. Người không nhận. Há nay chúng tôi lại đi tranh cái chức trạng nguyên của người Trung-nguyên sao? Điều thứ ba, chúng tôi là con dân Đại-Việt, không công trạng gì, mà Tống thiên tử lại ban thưởng. Chúng tôi không giám nhận.
      Vương-duy-Chính cười lớn:
      - Tôi nghe Thiên-trường ngũ kiệt kiến thức hơn đời, mà sao không biết nhìn sự thực? Hồi trước, Lê Hòan tiến cống xưng thần, được thiên triều dung cho coi quận Giao-chỉ. Từ đấy lễ cống không thiếu. Vừa rồi đây nhân Lê Long-Đĩnh ác độc, chết đi không con. Đáng lẽ phải lập em Đĩnh là Lê Long- Mang tước phong Nam-quốc vương mới phải, chứ có đâu Lý Công-Uẩn dùng sức mạnh cướp ngôi? Thánh thiên tử muốn hưng diệt, kế tuyệt, nên tạm thời phong cho Lý Công-Uẩn quyền nhiếp chính. Nay Bình-nam vương đã tìm được Nam-quốc vương, thiên triều sẽ phong chức tước vương cho y, bấy giờ Đại-Việt mới có thể thành một nước.
      Thiên-trường ngũ kiệt trước đây có giao hảo với Lê Long-Mang rất hậu. Nay nghe ông còn tại thế thì mừng lắm, Vũ Anh hỏi:
      - Nam-quốc vương hiện ở đâu?
      Vương Duy-Chính đáp:
      - Vương gia hiện danh vọng, võ công cao bậc nhất Giao-chỉ, mà ân đức trùm Lĩnh-nam, Hoa-hạ. Đó là... Hồng-Sơn đại phu.
      Vũ Anh không tin:
      - Có thực không?
      Vương Duy-Chính cười ha hả:
      - Thiên-trường ngũ kiệt đều biết mặt Nam-quốc vương cả. Vì vậy từ khi nhà Lê mất, Vương gia tránh không muốn giáp mặt các vị là tại sao? Vì muốn mưu phục hưng. Các vị không tin, cứ đến Vạn-thảo sơn trang gặp Hồng-Sơn đại phu sẽ biết thực hư ngay, chứ có khó gì đâu?
      Triệu Thành tiếp:
      - Võ đạo phái Đông-a có hai điều quan trọng. Một là diệt kẻ ác, bảo vệ người cô .Hai là trọng tình bạn. Trước đây Lê Hoàn từng kết bạn thân của cố chưởng môn Đông-a. Cố chưởng môn Đông-a từng suất lĩnh thiên hạ cứu Lê Hòan trong trận Bạch-đằng, khiến ai cũng kính phục. Đến đời Thiên-trường ngũ kiệt lại kết bạn với Lê Long-Mang. Thế mà Mang bị kẻ mạnh Lý Công-Uẩn cướp ngôi, trong khi Thiên-trường ngũ kiệt không vì tình bạn mà báo thù, cũng chẳng ra tay nghĩa hiệp cứu người yếu thế. Tôi nghĩ có lẽ các vị không biết Mang còn sống. Chứ không phải các vị sợ Lý Công-Uẩn mạnh.
      Vương Duy-Chính thấy Thiên-trường ngũ kiệt có vẻ chuyển tâm. Y thêm:
      - Người ta đồn năm vị anh hùng phái Đông-a nể vì chưởng môn phái Tiêu-sơn, Vạn-hạnh thiền-sư, mà lờ đi cho Lý Công-Uẩn, đệ tử của ông ta diệt họ Lê. Như vậy phải Đông-a vì sợ Vạn-Hạnh, mà quên tình cố cựu.
      Y cười nhạt:
      - Đông-a đường đường một phái lớn, thế mà lại phải tuân lệnh mấy ông sư ăn thịt chó thì chán thực.
      Phạm Hào hỏi:
      - Vậy tôn ý Vương-gia thế nào?
      - Còn thế nào nữa? Cô trở về chuyến này thượng biểu lên Thiên-tử, phong chức tước cho Lê long-Mang. Bắt Lý Công-Uẩn trở về vị thế võ quan. Nếu Uẩn không chịu, Hồng-Sơn đại phu sẽ suất lĩnh mấy ngàn đệ tử kéo về Thăng-long. Đại binh thiên tử theo hai lộ Quảng-đông, Quảng-tây ép vào. Nhất định Uẩn phải chịu thoái vị. Nếu phái Đông-a giúp Mang, ắt Uẩn phải khuất phục, Thiên-binh khỏi kéo sang nữa.
      Ngồi dưới hàng đệ tử, Bảo-Hòa chửi thầm bọn Triệu Thành sảo quyệt:
      - Bọn này đáng chết thực. Một là chúng bảo tại vua Lý cướp ngôi nên Đại-Việt bị coi như một quận. Muốn Đại-Việt thành một nước, phải do vua Lê. Thứ nhì chúng biết phái Đông-a thương dân, nên dọa nếu không giúp Lê-long-Mang, quân Tống mới không kéo sang. Lời lẽ đầy uy hiếp. Được ta thử xem phái Đông-a phản ứng ra sao?
      Trần Kiệt gật đầu:
      - Vấn đề trọng đại này, chúng tôi chưa dám quyết định. Xin để anh em chúng tôi có thời giờ đi Vạn-thảo gặp Lê Long-Mang. Thứ nhì chúng tôi cần bàn tính kỹ đã. Hôm nay các vị tới đây, xin mời dùng chút ít thổ sản lấy thảo. Bây giờ chúng ta tạm tam ngưng.
      Bỗng có tiếng lộp cộp rất nhanh. Hai con ngựa đến trước đại sảnh đường thì ngừng lại. Thanh-Mai nhìn ra, suýt nữa nàng bật lên tiếng kêu. Vì hai người đó là Tự-Mai và Tôn Đản. Tự-Mai xuống ngựa chạy lại hành lễ với bốn vị sư thúc, rồi nó ôm lấy Trần Tự-An:
      - Bố! Con đã về này. Bố có khỏe không?
      Chị em Thanh-Mai được phép bố cho theo bản sư Tịnh-Huyền du lịch. Ông tưởng mươi ngày hay nửa tháng sẽ về. Nào ngờ hai người đi liền năm trời. Tuy vậy ông cũng nhận được thư Tịnh-Huyền viết về rằng các con ông theo hòa thượng Huệ-Sinh. Ông vốn nể vì vị sư huynh kết nghĩa này về đạo đức. Nay nghe hai con ông du lịch với người, điều ông cầu mà không được. Khi Thanh-Mai bị bọn Triệu Huy bắt đi, đệ tử của ông là Ngô An-Ngữ có cho người đưa thư báo cho ông biết. Nhận được thư, ông cười đệ tử mình ngây thơ. Bởi tuy ngồi ở nhà, ông cũng biết đó chẳng qua mưu của Khai-quốc vương, ông chẳng lo nghĩ gì. Lúc Thanh-Mai trở về tường thuật mọi sự, ông càng cười, vì đã nhìn rõ mọi sự.
      Ông nghe Thanh-Mai nói Tự-Mai biến mất cùng Khai-quốc vương. Ông không rõ Khai-quốc vương mang Tự-Mai theo làm gì? Bây giờ thình lình thấy Tự-Mai cùng trở về với một thiếu niên ngang tuổi. Ông biết nó tên Tôn Đản. Ông bẹo tại con:
      - Thằng này hư qúa. Đi chơi quên cả bố rồi.
      Tôn-Đản cũng hành lễ với Thiên-trường ngũ kiệt.
      Tự-Mai chỉ vào Triệu-Thành:
      - Bố! Bố giết chết thằng mặt lưỡi vầy này đi. Nó khinh khi con với chị Thanh đấy bố. Nó bảo võ công nhà ta học lóm võ công Thiếu-lâm đó bố.
      Tự-Mai chỉ vào mặt bọn Triệu Anh, Triệu Huy:
      - Bố ơi, hai thằng này là quân trộm cắp. Nó sang Đại-Việt lục lọi, khoét tượng Tương-liệt đại vương ra. Chúng nó còn giam chị Thanh với Nguyên vào nhà tù, vu cho tội ăn trộm vàng của chúng. Chúng nó giam chị Thanh dưới hầm đá một tháng, rồi trói lại bỏ trên xe đem đi khắp nơi.
      Trần-Kiệt vốn tính nóng như lửa, ông lại thương yêu Thanh-Mai rất mực. Ông hỏi Tự-Mai:
      - Cháu nói thực hay đùa?
      Thanh-Mai kính cẩn nói:
      - Thưa sư thúc, em cháu đâu dám nói đùa. Các vị đây ỷ vào sứ đoàn Thiên-sứ đập phá đền thờ Tương-liệt đại vương tìm di thư thời Lĩnh-Nam. Tìm không thấy, họ vu cho bọn cháu ăn trộm, để có cớ lục lọi khắp nơi trong đền.
      Hoàng Hùng hỏi Triệu Thành:
      - Xin vương gia dạy cho một lời. Đệ tử phái Đông-a nhà tôi không dễ gì để cho người ta lăng nhục như thế đâu.
      Triệu Thành nghe Hoàng Hùng hỏi, y ớn da gà nghĩ thầm:
      - Bọn Đông-a này nghe nói võ công cao không biết đâu mà lường. Thế lực chúng cực lớn. Chúng lại sống ngoài vòng cương toả của luật pháp triều Lý, thành ra chúng đâu cần biết thiên triều ? Ta mà không khéo, e bỏ xác tại đây chứ không chơi đâu.
      Nghĩ vậy, y chối biến:
      - Tự lúc đầu chúng tôi không biết Thanh cô nương với em Tự-Mai là đệ tử phái Đông-a nên có chỗ hiểu lầm. Mong đại hiệp đừng chấp.
      Tự-Mai trợn mắt lên:
      - Nói láo. Ông nói láo. Khi bọn Tung-sơn tam kiệt đánh thằng Đản này, định giết chết nó, gọi nó bằng tiếng thằng cẩu Nam-man. Chị Thanh can thiệp. Các người thấy võ công chị Thanh đã hỏi chị có phải đệ tử phái Đông-a không? Chị Thanh nhận là con của bố đàng hoàng. Thế mà các người còn vô phép. Như vậy các người còn chối sao?
      Phạm-Hào gật đầu:
      - Phái Đông-a nhà ta vốn không ưa triều Lý. Không ưa triều Lý nhưng chúng ta vẫn gốc là con Rồng cháu Tiên. Chúng ta quyết không để cho bất cứ ai gọi chúng ta bằng danh tự Nam-man, Cẩu-Việt.
      Ông hất hàm hỏi Triệu Anh:
      - Tung-sơn tam kiệt! Các vị nhục mạ phái Đông-a, còn có chỗ châm chước. Các vị nhục mạ giòng giống Việt, thực không thể tha thứ. Còn các vị đục tượng Tương-Liệt đại vương, qủa tình coi anh hùng võ lâm Đại-Việt không ra gì nữa.
      Nói rồi ông hít hơi, vận sức phóng một chỉ lên trời. Chỉ đó trúng cành cây khô to bằng cổ tay. Rắc một tiếng, cành cây gẫy đôi, rơi xuống đất.
      Triệu Thanh đưa mắt nhìn bọn tùy tùng, tự nghĩ:
      - Vạn nhất xẩy ra động thủ, ta e bên mình khó toàn mạng về Trung-thổ.
      Vũ Anh tiếp:
      - Đền thờ anh hùng nước ta tượng trưng khí thiêng sông núi. Kẻ nào đụng đến, chúng ta quyết không tha. Tung-sơn tam kiệt đã là cái gì mà đến Đại-Việt coi như chỗ không người?
      Vương Duy-Chính thấy Thiên-trường ngũ kiệt sát khí đằng đằng. Y kinh hoảng nghĩ:
      - Tung-sơn tam kiệt hành sự bất cẩn. Giá lúc trước giết tươi mấy đứa nhỏ này đi có phải yên không? Làm thế nào bây giờ?
      Triệu Thành kính cẩn chắp tay tạ lỗi:
      - Cô gia quản thúc bầy tôi không nghiêm, để chúng phạm tới tiểu thư cùng công tử. Cô gia thành thực xin tạ lỗi. Đợi trở về Trung-nguyên, cô gia sẽ nghiêm trị. Theo luật triều Lý, chúng đáng bêu đầu. Tuy niên luật triều Lý có chỗ châm trước, cho chuộc tội. Vậy cô gia xin chuộc gấp mười lần.
      Mục đích của Tự-Mai sao tỏ cho bố với các sư thúc biết sự bang bạnh, vô phép của bọn Tống, cùng làm cho chúng tởn mặt phái Đông-a. Nay hai điều đó đã đạt được. Nó nghĩ:
      - Mình có nói gì chăng nữa cũng không khiến bố với các sư thúc giết bọn này. Hay hơn hết lấy vàng của chúng, cho dân nghèo. Mình phải nói nhanh. Bằng không bố bắt tụi nó chịu nhục rồi cho đi thực rất uổng.
      Nghĩ vậy nó nói:
      - Được. Tôi muốn các vị tạ lỗi theo luật Trung-quốc, chứ không theo luật Việt.
      Triệu Thành tưởng Tự-Mai còn trẻ con. Y khinh thường:
      - Vậy chú em bảo phải chuộc như thế nào?
      Tự-Mai chỉ vào chị:
      - Chị tôi có phải thiên kim tiểu thư không?
      Triệu Thành vốn say Thanh-Mai ngay từ lúc mới gặp. Y nói:
      - Không phải thiên kim mà đáng vạn kim.
      Tự-Mai gật đầu:
      - Chị tôi đáng vạn kim. Thanh-Nguyên còn nhỏ tuổi hơn đáng giá năm nghìn kim. Như vậy cộng chung vạn rưởi. Các vị phải bồi thường danh dự một vạn rưởi lạng vàng đúng.
      - Được, cô gia sẽ bồi thường như chú em đòi. Còn chú em, không lẽ chú em cũng muốn thành con gái, để được bồi thường ngàn vàng? Chú làm gì có cái ngàn vàng mà đòi bồi thường?
      Tự-Mai cười:
      - Sao lại không. Tôi ư... đáng giá mười vạn vàng.
      Tất cả mọi người cười ồ lên. Triệu Thành lắc đầu:
      - Có luật nào mà giá cậu lại đắt như vậy?
      - Luật do Khổng-tử đặt ra.
      Triệu Thành cười:
      - Nếu cậu nêu được bằng chứng nào, giá cậu gấp mười Thanh tiểu thư tôi xin bồi hoàn như cậu nói.
      Tự-Mai vỗ tay:
      - Nhất ngôn ký xuất, Tứ mã nan truy. Xin Vương-gia cho biết câu này có phải Khổng-tử nói không nào "Nhất nam viết hữu. Thập nữ viết vô."
      Triệu Thành gật đầu:
      - Đúng.
      Tự-Mai thấy Triệu Thành trúng kế, nó cười lớn:
      - Tôi là nam. Một tôi coi như có. Chị tôi là gái, dù mười người cũng coi như không có. Tôi nói giá tôi gấp mười chị tôi là nói rẻ đó. Vì tôi có hơn hẳn mười không. Chị tôi đáng giá vạn kim, tôi đáng giá mười vạn lượng vàng. Tổng cộng mười một vạn, năm ngàn lượng. Mau đem vàng nộp. Bằng không nộp đầu Tung-sơn tam kiệt.
      Bọn Triệu Thành không cười được nữa. Chúng đưa mắt nhìn nhau. Vương Duy-Chính nói:
      - Hiện tại đây chúng tôi không đủ vàng. Tôi tạm đưa năm nghìn lượng, rồi sẽ cho người đem sang sau.
      Tất cả những gì Tự-Mai nói, Trần Tự-An biết có người đứng sau nó xui dục. Tuy vậy sự xui dục đó không quá đáng. Ông đoán người xui đó không ai khác hơn Khai-quốc vương Lý Long-Bồ. Ông cũng muốn để cho tụi Tống bớt hống hách. Ông lờ đi cho con kiếm chuyện với chúng.
      Tự-Mai gật đầu:
      - Cũng được, nhưng Vương-gia phải viết văn tự khất nợ.
      Nó quay lại hô:
      - Đem bút mực ra đây.
      Nữ tỳ mang bút mực ra. Cùng chẳng đã, Triệu Thành cầm bút viết:
      Bình-nam vương, quản Khu-mật-viện. Thái-úy phụ quốc Đại-Tống thiếu Trần gia mười một vạn lượng vàng. Triệu Thành ký.
      Tự-Mai đưa văn tự cho Vương Duy-Chính:
      - Phiền Vương đại nhân làm chứng dùm.
      Vương Duy-Chính cầm bút viết:
      Đại-Tống Tiến-sĩ, Kinh-lược-sứ Quảng-Tây lộ. Tước Văn-tín-hầu Vương Duy-Chính làm chứng.
      Tự-Mai lại đưa cho Dư Tĩnh:
      - Phiền đại nhân cũng làm chứng cho.
      Dư Tĩnh cầm bút viết:
      Đại Tống Tiến-sĩ, Kinh-lược-sứ Quảng-Đông lộ. Tước Uy-đình-hầu Dư-Tĩnh làm chứng.
      Bọn Triệu Thành, Vương Duy-Chính, Dư Tĩnh chửi thầm:
      - Thằng lỏi con láu cá. Một mai quân Đại Tống chỉ ngọn cờ xuống Nam. Ta sẽ bắt mi băm vằm ra làm nghìn mảnh, đem đầu bố con mày làm cái bầu đái vào cho hả giận.
      Điều mà Triệu Thành lo lắng lớn nhất từ khi đến Thiên-trường là phái Đông-a bắt y phải trả lại tập giấy Quách Quỳ sao bộ Lĩnh-Nam vũ kinh cùng bộ Dụng binh yếu chỉ. Còn tiền bạc, hay gì gì chăng nữa, y cũng không cần. Y hơi ngạc nhiên rằng bộ Lĩnh-nam vũ kinh thực quý báu vô cùng. Mà sao phái Đông-a không đòi lại? Y đâu biết rằng phái Đông-a tự hào võ công vô địch thiên hạ, nên không cần phải luyện tập võ công khác.
      Hơn nữa Trần Tự-An biết rằng tin bọn Triệu Thành lấy được bộ Lĩnh-nam vũ kinh khắp giang hồ đều biết. Cứ để cho bọn chúng đem về. Võ lâm Đại-lý, Mông-cổ, Tây-hạ, Kim, Liêu và cả Đại Tống sẽ tìm bọn y mà tranh dành. Để cho bọn y đi. Có nghiã là y đi dần đến qủi môn quan. Ví dù y có giữ được, mà kiếm đâu ra người đọc được chữ Khoa-đẩu? Ví dù có tìm ra người đọc được chữ Khoa-đẩu mà không có bản đối chiếu thuật ngữ khi luyện cũng bị tẩu hỏa nhập ma mà chết.
      Ăn uống xong, bọn Triệu Thành từ tạ lên đường. Dư Tĩnh nói với Trần Tự-An:
      - Trần đại hiệp. Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Đại hiệp nên vì tình bằng hữu mà giúp Lê Long-Mang. Tại hạ nghĩ nếu Đại Việt được cai trị bởi một trong Ngũ-long, y đạo trùm hòan vũ thì hay biết bao. Còn như để cho Lý Công-Uẩn cai trị, Đại-Việt vĩnh viễn là quận Giao-chỉ, mà Thiên-triều chắc sẽ đem quân sang hỏi tội. Chiến tranh xẩy ra, khó biết những gì bất lợi cho dân Việt. Chỉ cần một hành động của qúi phái mà trung hưng được triều Lê, làm sáng võ đạo Đại-Việt, lại tránh được chiến tranh. Mong qúi phái quyết định càng sớm càng tốt.
      Thanh-Mai nhìn bọn Triệu Thành vượt sông ra đi. Chợt nàng để ý thấy đôi chim ưng bay trên trời, thì mỉm cười:
      - Mi chạy đâu cho khỏi bàn tay Khu-mật-viện Đại Việt.
      Thanh-Mai hỏi Tự-Mai:
      - Đêm hôm ấy em với anh hai cùng Đản đi đâu? Từ hồi đó đến giờ chị không được tin gì cả.
      Tự-Mai khoan thai kể.

      oOo

      Đoạn dưới đây thuật việc đang đêm Lý Long-Bồ, Tôn Đản, Trần Tự-Mai tự nhiên biến mất.

      Đêm hôm ấy, chờ cho mọi người ngủ say, Tôn Đản bò đến bên Tự-Mai:
      - Này chú mày dậy đi. Chúng ta rủ anh cả thăm “âm phủ”.
      Tự-Mai sẽ bò dậy. Hai đứa đến bên Lý Long lay chàng:
      - Chúng mình thăm âm phủ đi. Em chuẩn bị đồ sẵn rồi. Chúng ta cần mang đá lửa với bổi theo, để còn soi, xem cho rõ. Bổi cần bọc giấy dầu để không bị ướt.
      Lý Long không ngờ hai đứa trẻ lại có đởm lược như vậy. Ai lại giữa đem khuya dám lặn xuống sông, chui vào hang đá ngầm, thực gan lớn hơn trời. Chàng sẽ bò dậy, lấy than viết mấy chữ để lại cho sư phụ, rồi đeo kiếm, mang hành lý theo hai người em kết nghĩa.
      Tôn Đản nói:
      - Ban nãy chỗ đông người, lại giữa rừng hoang, em phải nói dối rằng không biết động Xuân-Đài ở đâu. Chứ thực sự em tìm ra từ lâu rồi. Em vào đó chơi hòai.
      Nó tiếp:
      - Nhà em nghèo thực. Bố em phải giữ đền, kiếm cơm sống, bữa no bữa đói, nhưng em không vì miếng ăn mà bán rẻ tổ tiên. Em đã dẫn bố em vào động nhiều lần. Võ công bố em dạy em chính là võ công bố em học ở trong động đấy. Năm trước có bọn người Đại-lý qua, nói rằng nếu em chỉ cho họ động Xuân-đài ở đâu họ sẽ cho một trăm lượng vàng. Chỉ cần một lượng vàng thôi, nhà em sẽ thoát khỏi cảnh đói khát, khổ sở. Nhưng bố em vẫn chối không biết.
      Lý Long hỏi:
      - Sao đêm nay em dẫn anh đi. Như vậy bố có buồn không?
      - Không. Sáng hôm qua, bố nói sẽ vào tai em rằng, động Xuân-đài chứa biết bao cơ mật, tâm huyết của tổ tiên. Em nên theo sư bà đi lễ, rồi hé cho bà biết. Bây giờ em cho anh biết cũng thế. Hồi nãy giữa chỗ đông người, em giả bộ không biết gì về bóng núi in thành người bắn tên. Sợ tụi Tống nghe trộm.
      Lý Long phục người em kết nghĩa minh mẫn, biết đề phòng gian nhân. Chàng nắm tay Tôn Đản kéo lại gần hỏi:
      - Có phải em theo dấu của bóng người dương cung dưới trăng mà tìm ra không?
      - Đúng thế. Đầu tiên bóng hiện ra ngay bờ sông. Bọn em tìm không ra. Cuối cùng em mạo hiểm lặn xuống dưới nước. Lặn thực sâu, thấy có hang lớn. Bọn em theo hang vào trong, thì ra đầu hang ở dưới sâu, rồi dần dần lên cao. Em lần theo hang đi. Đi ước khoảng hơn năm trăm bước thấy có ánh sáng mặt trời. Em tìm ra ánh sáng do cái lỗ giữa vách núi thẳng đứng chiếu vào. Mà lỗ đó đúng là chỗ mũi tên của bóng người cầm cung bắn.
      Tới bờ sông, Tôn Đản trườn người xuống trước. Lý Long với Tự-Mai trườn theo. Tôn Đản nói:
      - Em lặn trước. Anh hai với Mai lặn theo, nhớ bám sát, e không bị lạc.
      Tôn Đản đã lặn nhiều lần, nó thuộc lòng đường đi. Lặn khỏang mấy chục bước nó trồi lên. Trong hang tối xòe bàn tay ra không nhìn thấy gì, thế mà Tôn Đản vẫn đi như trên đường cái quan.
      Lý Long nói:
      - Em đánh lửa lên. Anh muốn nhìn hang một chút.
      Tôn Đản lấy bổi, đánh lửa lên. Ánh sáng ngọn bổi tuy nhỏ, nhưng trong hang đầy thạch nhũ, phản chiếu long lanh như muôn ngàn vì sao lấp lánh. Tôn Đản đi trước dẫn đường. Trên đường đi có nhiều bộ xương người. Có bộ trong tư thế ngồi. Có bộ trong tư thế nằm. Bên cạnh mỗi bộ xương đều có vũ khí. Lý Long cầm lấy vũ khí coi. Trên vũ khí đều có khắc tên người.
      Chàng nói:
      - Đúng rồi. Khi sức cùng lực kiệt. Bà Triệu cùng một số nghĩa binh rút vào đây, rồi cùng tử tiết. Vì vậy giặc Ngô tìm không thấy vết tích.
      Đi một quãng nữa, có ánh sáng trên đỉnh cao chiếu xuống. Lý-Long nói:
      - Đúng như nhận xét của Đản. Chỗ ánh sáng chiếu kia là lỗ thủng, nơi mũi tên của hình dương cung chĩa vào.
      Trong hang bây giờ rộng dài ước hơn trăm bước. Tôn-Đản chỉ vào vách núi nói:
      - Nơi đây có bia khắc nhiều chữ. Em không hiểu chữ gì?
      Lý Long soi bổi lại nhìn. Chàng gật đầu:
      - Chữ Khoa-đẩu. Em không hiểu cũng phải. Để anh đọc cho mà nghe.
      Chàng cất cao giọng đọc:
      Ta sinh ra vốn là con một Lạc-hầu vùng rừng núi Mê-linh. Lúc còn thơ ấu, đêm đêm thường thấy song thân than khóc không nguôi vì cái hận vong quốc. Người luôn dạy ta tuy phận gái, nhưng cũng phải nghĩ đến phục quốc.
      Năm ta mười lăm tuổi, thì gặp ân sư. Lúc đầu người dạy cho ta nội công phái Tản-viên. Sau lại dạy y thuật. Ta nằn nỉ mãi, người mới dạy võ công, nhưng không thu nhận ta làm đệ tử.
      Năm mừơi tám tuổi, vu qui làm dâu họ Hùng. Chồng ta giòng dõi vua Hùng. Thân phụ chàng cũng làm lạc hầu. Chàng theo học võ với Lĩnh-Nam thuần chính hoàng thái hậu.
      Lý Long hỏi:
      - Các em có biết người tạc bia này là ai chưa?
      Tôn Đản lắc đầu. Tự-Mai nói:
      - Em biết rồi. Bà họ Trần tên Năng. Chồng bà tên Hùng Bảo, đệ tử của ngài Hoàng Thiều-Hoa.
      Lý Long gật đầu:
      - Đúng. Để anh đọc tiếp.
      Chàng lại đọc:
      Ta được sư thúc của trượng phu tức Bắc-bình vương Đào Kỳ hết lòng chỉ dạy. Võ công ta do đấy tiến đến chỗ không ngờ. Sư thúc giúp ta thống nhất các trang động Nam Mê-linh.
      Tại đại hội anh hùng ở hồ Tây ta được sư phụ nhận làm đệ tử. Người dốc túi truyền võ công cho ta.
      Trong lần tùng chinh Trung-nguyên, ta gặp Bồ-tát Tăng-gỉa Nan-đà. Ngài truyền cho ta Vô-ngã tướng Thiền công nhà Phật. Ta đem hợp Thiền-công với nội công dương cương của Tản-viên, thành một thứ võ công mới. Trước đây sư phụ dạy ta Phục-ngưu thần chưởng đương cương. Sư thúc Đào-Kỳ dạy ta Phục-ngưu thần chưởng âm nhu. Ta chỉ luyện thành phần dương cương của sư phụ. Còn phần âm nhu dù ta cố luyện cũng không kết qủa. Ta trộn lẫn Thiền-công với nội công dương cương Tản-viên, vô tình thành một lọai Phục-ngưu thần chưởng mới.
      Sư phụ với sư thúc Đào Kỳ chế ra Lĩnh-nam chỉ cùng cách vận công bằng kinh mạch. Người dạy cho ta. Ta học cũng thành. Ta dùng Phục-ngưu thần chưởng với Lĩnh-nam chỉ đánh thắng các anh hùng Trung-nguyên, giúp vua Trưng bảo vệ Lĩnh-Nam.
      Nhưng than ôi, trời không chiều người. Đất Lĩnh-Nam còn sinh ra sư thúc Lê Đạo-Sinh. Người tham danh lợi cá nhân bỏ đại nghĩa. Vua Trưng bị người dùng vạn tên bắn tại Cẩm-khê.
      Giữa lúc đó ta cùng trượng phu trấn vùng Yên-lãng. Mã Viện đem đại binh đến đánh. Ta đành rút vào rừng tiếp tục chiến đấu.
      Tháng tám, nghe tin sư thúc Đào Kỳ cùng phu nhân tuẫn quốc ở Long-biên. Ta với trượng phu đi đường thượng đạo vào cùng Cửu-chân vương Đô Dương tiếp tục cuộc chiến. Tháng tư năm sau, Cửu-chân vương cùng vương phi tuẫn quốc. Ta với trượng phu đem tráng đinh ẩn vào đây.
      Biết rằng ngày một ngày hai, chúng ta cũng tuẫn quốc, cho nên ta khắc bia này, để lại học thuật cho đời sau khỏi bị mai một.
      Yên-Lãng công chúa.
      Trần Năng.
      Lý Long, cùng Tự-Mai, Tôn Đản qùi xuống hướng vào bia lậy tám lạy.
      Lý Long khấn:
      - Đệ tử Lý Long-Bồ, Tôn Đản, Trần Tự-Mai thành kính khấu đầu trước Công-chúa điện hạ. Anh em đệ tử nguyện đem hết sức mình nối chí vua Trưng cùng công chúa.
      Lý Long đọc tiếp bia. Chàng nói:
      - Phía dưới ghi chú khẩu quyết luyện Phục-ngưu thần chưởng, nội công dương cương của phái Tản-viên. Thiết-kình phi chưởng cùng nội công của phái Cửu-chân. Bên cạnh đó một tấm bia khác khắc khẩu quyết luyện nội công bằng kinh mạch, cùng Lĩnh-Nam chỉ. Cuối cùng một tấm bia nhỏ dạy luyện Vô-ngã tướng thiền công phối hợp với nội công dương cương Tản-viên và phương pháp vận hành bằng kinh mạch.
      Đến đó bổi tắt hết. Lý Long-Bồ vốn không có nhiều tham vọng thành anh hùng vô địch. Chàng bảo hai sư đệ ngừng bàn truyện. Ba anh em ôm nhau nằm ngủ.
      Hôm sau, trời vừa sáng. Ánh sáng chiếu qua lỗ hổng trên núi, làm Tự-Mai giật mình thức dậy. Nó thấy Lý Long đang dùng một thứ bút đặc biệt viết trên miếng giấy. Nó không hiểu, hôm qua bằng cách nào sư huynh của nó mang giấy theo trong khi lặn dưới nước mà không ứơt. Chàng viết đầy trang giấy, rồi hú lên một hồi lanh lảnh. Phút chốc có hai con chim ưng theo lỗ hổng trên vách núi bay vào. Chàng bỏ thư vào ống tre cột dưới chân chim, lại hú lên một tiếng. Chim theo lỗ hổng bay ra ngòai.
      Tự-Mai hỏi:
      - Sư huynh, có phải sư huynh viết lệnh sai chim ưng đem đi cho quân vây bắt bọn Triệu Thành không?
      Lý Long gật đầu:
      - Đúng, anh gửi lệnh về cho Khu-mật-viện. Ở đây sẽ ban lệnh cho tiết độ sứ Đinh Ngô-Thương. Thương cử người theo hộ tống bọn Triệu Thành.
      Tôn Đản vỗ tay reo:
      - Như vậy anh bỏ tù lỏng bọn chúng rồi. Thế là từ đây đến biên giới Chiêm-thành, chúng không dẫy được. Ai bảo chúng bang bạnh nói láo rằng bị trộm làm chi. Em nghĩ, anh không cần cho người canh chúng. Để cho chúng tự do hành động, mình sai người theo dõi, biết hết âm mưu chúng.
      Lý Long cười:
      - Như vậy vẫn chưa hay. Bọn chúng thuộc những người mưu trí tuyệt vời. Cho nên muốn lừa chúng, ta phải giả làm ngu hay tạo cho chúng tưởng mình ngu. Anh cho người hộ tống chúng. Chúng tưởng anh đã đề phòng. Anh lại cử bọn gian tế của chúng là Đàm Toái-Trạng, Nguyễn Khánh theo hộ tống chúng. Chúng sẽ cười anh ngu, tự do hành động. Trong khi đó anh theo dõi chúng, như vậy bao nhiêu mưu gian đều lộ ra hết.
      Lý Long bảo Tôn Đản:
      - Thân phụ hiền đệ không biết chữ Khoa-đẩu. Ông chỉ theo đồ hình trong này mà luyện võ công Cửu-chân. Bây giờ sư huynh đọc khẩu quyết, hướng dẫn cho em luyện, chắc chắn sẽ thành công. Tự-Mai cũng luyện thử xem sao.
      Chàng đọc kỹ khẩu quyết rồi giảng giải cho hai sư đệ. Tôn Đản luyện rất dễ dàng. Còn Tự-Mai luyện được một lúc, nó thấy trong người nội tức chạy ngược kinh mạch. Nghĩ rằng dẫn khí sai. Nó luyện một lần nữa. Hiện tượng trên vẫn tái diễn. Nó ngừng lại suy nghĩ:
      - Bố ta thường nói, nội công, ngoại công phái Cửu-chân do Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung chế ra, khắc chế võ công Trung-nguyên, tức khi phát chiêu phải lấy hữu lấy sắc làm trọng. Trong khi nội công của phái Đông-a của ta lấy không lấy vô làm căn bản. Vì vậy ta luyện nội công Cửu-chân, thành giữa sắc với không, giữa hữu với vô hỗn loạn, chân khí chạy ngược cũng phải.
      Nó ngừng lại, nhìn Lý-Long, thấy sư huynh cũng đang ngỡ ngàng. Nó đem ý kiến trên trình bày. Lý Long gật đầu:
      - Sư đệ nói đúng.
      Trong lòng chàng nảy ra sự cảm phục đại hiệp Trần Tự-An. Ông quả xứng đáng đại nhân tài võ học, dạy con đến như thế e hơn hẳn sư phụ chàng. Chàng đọc khẩu quyết luyện nội công dẫn khí bằng kinh mạch, cùng Tự-Mai luyện. Quả nhiên chàng luyện thực dễ dàng. Thoáng một cái, chàng đã luyện thành công vòng Tiểu-chu-thiên, rồi Đại-chu-thiên.
      Tự-Mai kinh ngạc, đặt câu hỏi:
      - Người xưa chép võ công, thường ghi bằng thuật ngữ đặc biệt. Sau đó lại đặt ra một bài quyết giải thích những mật ngữ đó. Bài quyết chỉ dạy cho đệ tử, con cháu. Như vậy người ngoài có đọc được cuốn phổ cũng vô ích. Thế sao Công-chúa Yên-Lãng không dấu diếm như thường lệ, mà chép đầy đủ, để anh em mình luyện thành?
      Tôn Đản cười khúc khích:
      - Tự-Mai thông minh thì thực thông minh, nhưng tinh tế thì lại thiếu.
      - Em thiếu tinh tế ở chỗ nào?
      - Công chúa Yên-Lãng chẳng chép bằng thuật ngữ đặc biệt đấy sao? Những đoạn anh cả đọc lên, Đản không hiểu gì. Anh cả phải giảng. Trong khi đó Tự-Mai hiểu hết. Thuật ngữ công chúa dùng đều nằm trong kinh Phật.
      Lý Long công nhận Tôn Đản có lý. Chàng gật đầu:
      - Thâm ý của Công-chúa khi chép võ công, muốn rằng sau này con cháu trong nhà, hoặc đệ tử nhà Phật có duyên luyện sẽ thành. Anh với Mai cùng thông kinh Phật, mà hiểu. Trong khi Tản chưa thuộc kinh, anh phải giảng, mới luyện được.
      Tự-Mai nhẩm lại một đoạn khẩu quyết:
      - Khí tụ về đơn điền. Bỏ ra ngoài Ngũ-uẩn. Vận khí phân tán khắp người. Từ từ xua đuổi Lục-tặc. Sau đó dung hoà thủy hoả.
      Nó mỉm cười:
      - Ừ nhỉ! Người thường làm sao biết Ngũ-uẩn là gì? Lại càng không hiểu Lục-tặc cùng phương pháp xua đuổi chúng. Cuối cùng phải biết cái “thủy hỏa” trong kinh Thủ-lăng-nghiêm khác với thủy hoả của ngũ hành. Cũng may mình với anh cả đều có cao tăng chỉ dậy. Thâm ý của công chúa Yên-Lãng hiện rõ ràng: Chỉ đệ tử Phật-gia mới hiểu được Vô-ngã-tướng thiền công.
      Ba anh em luyện võ đến trưa, Tôn_Đản ngừng lại nói:
      - Đói quá rồi. Kiếm gì ăn đã chứ?
      Tự-Mai bàn:
      - Anh em mình phải rời khỏi đây, mới kiếm ra thực phẩm.
      Tôn Đản vỗ vai Tự-Mai:
      - Anh cả ở đây. Còn chúng mình ra sông bắt cá. Ta sẽ dạy sư đệ võ công bắt cá bằng hai tay.
      Tôn Đản cùng các bạn nô đùa, lặn dưới nước riết rồi thành một môn võ công. Nó có thể lặn đuổi bắt cá bằng tay như bắt cóc trên cạn. Nó chỉ cho Tự-Mai những chiêu thức đặc biệt bắt cá, rồi hai đứa trở xuống bờ sông.
      Hơn giờ sau, hai đứa trẻ bắt được một con cá hồng, hai con cá ngừ khá lớn. Khi chúng nó mang cá lên, đã thấy mùi thơm bốc vào mũi. Chúng thấy Lý Long đang đốt lửa nướng hai con gà rừng. Tôn Đản đùa:
      - Anh cả có phép tiên hay sao mà bay ra ngoài bắt gà rừng đem nướng ?
      Lý Long cười:
      - Có gì lạ đâu. Các em đi bắt cá, thì anh gọi hai con chim ưng của anh vào, sai chúng bắt gà. Rừng Chung-chinh đầy gà, chúng chỉ nhào xuống một cái, là chụp được hai con đem vào đây. Anh vặt lông, đốt củi lên nướng. Bây giờ nướng cá của các em nữa, anh em chúng mình có bữa tiệc gồm sơn hào, hải vị.


      <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.01.2005 06:39:45 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 06.01.2005 18:27:53 (permalink)
        Hồi thứ ba mươi tư


        Bố Cái Đại Vương



        Ăn xong Lý Long đọc tiếp khẩu quyết luyện Vô-ngã-tướng thiền-công cho Tự-Mai, rồi hai anh em ngồi luyện. Chàng nói:
        - Sư phụ anh thường nói, nhà Phật có bốn loại Thiền-công. Bốn loại này thu góp trong kinh Kim-cương, Lăng-già, Tượng-đầu. Bốn loại mang tên như sau:

        Vô-ngã-tướng.
        Vô-nhân-tướng.
        Vô-chúng-sinh-tướng.
        Vô-thọ-giả-tướng.


        Người nhấn mạnh:
        - Trong bốn loại, thì Vô-ngã-tướng đứng đầu, tối cao, tối lợi hại của Thiền-công nhà Phật, nhưng đã thất truyền. Theo truyền thuyết khi Bồ-tát Tăng-gỉa Nan-đà đến Lĩnh-nam truyền cho ba bà Trần Năng, Phật-Nguyệt và Trần-thị Phương-Chi. Từ khi ba vị tuẫn quốc, chúng nhân ai cũng cho rằng loại Thiền-công này thực sự không có, chỉ là huyền hoặc. Không ngờ anh em ta có duyên gặp được. Nào chúng ta thử luyện xem sao !
        Chàng nhẩm những câu quyết, thấy gần giống với Thiền-công Tiêu-sơn của chàng. Còn Tự-Mai, nó nghe Lý Long đọc khẩu quyết, đến phân nửa giống nội công Đông-a. Hai anh em yên lặng luyện. Lạ lùng thay, không có gì khó khăn cả. Nó nghiệm thấy rằng sau mỗi lần luyện, chân khí trong người không chạy nhộn nhạo khắp cơ thể như trước đây nữa. Tất cả tự động quy liễm về đơn điền.
        Cứ như thế ba anh em bắt cá, bắt gà nướng ăn, rồi luyện võ. Thỉnh thoảng Lý Long nhận được thư do chim ưng đem vào. Chàng lại cầm bút viết lệnh cho nó đem ra. Ngồi ở trong động Xuân-Đài mà chàng biết hết những biến chuyển bên ngòai. Những mưu kế chàng thiết lập đều đem giảng giải cho hai người em kết nghĩa nghe.
        Cho đến một hôm Lý Long, Tự-Mai đã luyện xong hết Vô-ngã tướng thiền-công. Chàng nói:
        - Xưa công chúa Yên-lãng luyện nội công dương cương phái Tản-Viên, sau đó luyện vận khí bằng kinh mạch, cuối cùng luyện Vô-ngã-tướng thiền công. Bây giờ anh em mình đi ngược lại con đường ngài đã đi. Anh với Mai đã luyện Vô-nhân tướng công. Lúc vào hang, chúng ta luyện vận khí bằng kinh mạch, rồi mới luyện Vô-ngã tướng thiền công. Bây giờ luyện sang nội công dương cương phái Tản-viên.
        Chàng đọc tâm pháp nội công Tản-viên. Ba anh em cùng luyện. Luyện suốt một buổi, ngừng lại bắt cá ăn. Lý Long muốn ba anh em cùng trao đổi kinh nghiệm. Chàng hỏi Tự-Mai:
        - Em thấy thế nào?
        - Trước đây, em luyện nội công phái Đông-a, thấy nội tức sinh ra khắp người, căng phồng lên. Khi ngừng phải thu công. Chân khí về đơn điền tụ lại. Lúc luyện phương pháp dẫn khí bằng kinh mạch. Chân khí theo kinh mạch vận hành trơn tuột, rõ ràng, thông thương. Sau luyện Vô-ngã-tướng thiền công, chân khí biến đi hoàn toàn. Khắp người giống như một cái hồ trống rỗng, nhưng khi phát chiêu, chân khí bùng dậy mãnh liệt. Bây giờ luyện nội công dương cương Tản-Viên, em thấy chân khí nảy sinh cực mạnh. Nhưng chân khí vừa sinh ra, lại bị chân khí Vô-ngã tướng chuyển theo kinh mạch, tự động về đơn điền, không phải thu công.
        Tôn Đản phát biểu:
        - Em luyện nội công dương cương Cửu-chân, nội lực sinh ra rất mạnh. Em phải thu liễm chân khí về đơn điền. Lúc luyện vận khí bằng kinh mạch, khí tự động luân lưu, cuối cùng lại về đơn điền. Bây giờ em luyện nội công Tản-Viên, nội tức sinh ra mau hơn. Giữa dương cương của Cửu-chân, Tản-viên dường như không hoà hợp được làm một.
        Lý Long thấy hai sư đệ có nhận xét tinh vi, chàng phát biểu:
        - Anh thấy diễn tiến giống như Tự-Mai. Bây giờ chúng ta cùng luyện Phục-ngưu thần chưởng xem sao. Nào, hãy bắt đầu bằng phần tổng quyết.
        Ba anh em luyện. Khoảng nhai dập miếng trầu, Lý Long thấy chân khí chạy nhộn nhạo rất khó chịu. Chàng kiên nhẫn vận kinh khí một lần nữa, hiện tượng cũ lại xuất hiện.
        Chàng ngừng luyện, quay lại nhìn hai sư đệ. Cả hai cũng ngơ ngơ ngác ngác không hơn. Tự-Mai nhăn mặt:
        - Em thấy dường như có chỗ không ổn. Trong phần chép Phục-ngưu với Lĩnh-Nam chỉ, có nhiều thuật ngữ hơi trái với nguyên tắc vận hành kinh mạch. Vậy có thể công chúa Yên-Lãng cố tình chép như thế. Chúng ta không có thuật ngữ, luyện nữa chỉ thêm nguy hại mà thôi.
        Lý Long gật đầu đồng ý. Chàng là người biết tự chế, không dám cưỡng bách luyện. Điểm lại, ba anh em ở trong động Xuân-đài trải sáu tháng. Chàng bảo hai em cùng học thuộc lòng khẩu quyết Phục-ngưu thần chưởng, Lĩnh-nam chỉ rồi chuẩn bị ra ngoài động.
        Tự-Mai đề nghị:
        - Hang này rộng quá, chúng ta mới chỉ xem xét chỗ có ánh sáng chiếu vào, rồi cùng nhau luyện võ. Bây giờ chúng ta phải xem xét kỹ, biết đâu còn tìm ra được di tích gì nữa chăng ?
        Lý Long tự chửi thầm mình tuy kinh nghiệm mà vẫn còn thiếu tinh tế hơn đứa trẻ này.
        Chàng bảo Tự-Mai:
        - Em với Đản ra ngoài chặt mấy cây nứa khô, đem vào đây làm đuốc. Chúng ta cần lật từng viên đá, từng hốc nhỏ, trước khi rời khỏi hang.
        Đản với Tự-Mai đã mang vào mười bó nứa khô. Nhưng khi lặn xuống nước vào hang, nứa bị ướt. Phải chờ một ngày, nứa mới khô. Tự-Mai đốt đuốc lên, ba anh em bắt đầu từ bậc thứ nhất của hang, kể từ biển đi lên.
        Lý Long bàn:
        - Anh em chúng ta vào đây, thấy bia đá của công chúa Yên-lãng Trần Năng, bị những bí quyết võ công làm say mê, cặm cụi luyện tập, không còn chú ý gì đến xung quanh nữa. Điều căn bản, chúng ta phải tìm xem, trước công chúa Yên-lãng có ai vào đây chưa? Sau khi khắc bí quyết võ công vào vách đá, công chúa Yên-lãng cùng phò mã Hùng Bảo chết ở trong này hay chết ở chỗ khác? Sau công chúa Yên-lãng những ai đã vào đây? Lệ-Hải bà vương có thực học võ ở trong này hay học ở chỗ khác ?
        Ba người soi đuốc từ ngưỡng cửa hang đi lên. Không thấy gì. Tiếp tục lục lọi, họ tìm ra một ngách nhỏ, chặn bởi viên đá lớn. Lý Long vận sức đẩy, tảng đá chỉ hơi nhúc nhích. Tự-Mai, Tôn Đản cùng hết sức đẩy với chàng, viên đá xê dịch đi, lộ ra một ngách khác, có ánh sáng rọi vào.
        Ba anh em hoan hô một tiếng, rồi chuồn sang. Bên kia chỉ là một hang nhỏ, có lỗ thông từ đỉnh núi xuống. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt họ là bốn bộ xương. Hai bộ trong tư thế ngồi. Một bộ trong tư thế nằm ngửa và một bộ trong tư thế nằm sấp. Cạnh bốn bộ đều có thanh đoản đao.
        Tôn Đản cúi xuống quan sát. Nó nói:
        - Cứ như quần áo của bốn người này, chắc họ là người Hoa. Hai người ngồi, xương ngực bị trấn động gẫy, hẳn họ bị chưởng lực đánh chết. Người nằm sấp xương sống bị tiện đứt, hẳn chết vì đao, kiếm. Còn người nằm ngửa xương đầu vỡ đôi, chắc cũng chết vì chưởng. Em nghi bốn người này đuổi theo một cao thủ người Việt. Khi vào đến đây, họ bị cao thủ đó giết chết.
        Tự-Mai thấy xác chết nằm sấp có cái túi da. Nó mở ra. Bên trong chứa khá nhiều vàng, bạc, và một cái ấn. Nó đưa nén vàng cho Lý Long:
        - Anh coi này. Vàng có khắc chữ Trinh-quán thiên bảo. Trinh-quán là niên hiệu của vua Đường Thái-tông (634-650). Thế thì ít ra bốn người này sang đây vào đời Đường.
        Tôn Đản cầm cái ấn bằng ngọc, tuy đã cũ, song chưa bị mờ. Trên ấn có mấy chữ rất nhỏ. Tự-Mai đưa đuốc sát vào. Nó đọc: An-nam đô hộ phủ. Hưng-quốc công Triệu Xương.
        Lý Long hỏi:
        - Tên Triệu Xương này là người thế nào?
        Tự-Mai à lên một tiếng, nó nói:
        - Triệu Xương được vua Đường Đức-Tông cử sang nứơc ta làm An-nam đô hộ phủ năm Tân-mùi, tức Trinh-nguyên thứ bẩy (791), nhằm đối phó với cuộc khởi binh của Bố-Cái đại vương.
        Tôn Đản ngơ ngác hỏi:
        - Bố-Cái đại vương à? Anh chưa nghe nói đến bao giờ ?
        Tự-Mai kể:
        - Từ sau bà Triệu, dân Việt mình chịu ách đô hộ năm trăm bốn mươi ba năm (543) dài đằng đẵng. Trung gian có nhiều cuộc quật khởi, nhưng chỉ như ngọn lửa lóe lên rồi tắt đi. Phải đợi đến năm Tân-mùi (791), một đại hào kiệt thuộc phái Cửu-chân, quê ở Đường-lâm thuộc Phong-châu, họ Phùng húy Hưng mới nổi lên chiếm lại được đất nước. Vì ngài nhân cái nhục của dân mà khởi binh, vì vậy dân chúng tôn ngài làm Bố-Cái đại vương.
        Lý Long kinh ngạc:
        - Anh nghe nói cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Phong-châu quê của ngài, cũng là quê hương vua Trưng. Mà sao Bố-Cái đại vương lại thuộc phái Cửu-chân ?
        Tự-Mai đáp:
        - Điều bí mật này võ lâm ít ai hiểu. Chỉ biết thủa thơ ấu Bố-Cái đại vương được một di nhân nhận làm đệ tử, dạy võ công cho. Khi dị nhân chết, ông dặn ngài phải đem hài cốt về Cửu-chân an táng. Sau khi đưa linh cữu sư phụ về quê cũ chôn cất, xây mộ. Ngài tuyệt tích ba năm. Sau đó xuất hiện, võ công trấn áp quần hùng. Ngài đứng lên xuất lĩnh hào kiệt khởi binh. Võ công ngài cực cao. Bao nhiêu binh tướng, cao thủ của nhà Đường đều bị đánh bại. Lúc thành đại nghiệp, ngài qua đời. Sự thực không phải thế. Ngài chỉ bị bệnh nặng, nên ẩn thân điều trị.
        Lý Long hỏi:
        - Thế tại sao ngài không xuất hiện nữa?
        - Có đấy chứ, nhưng sử không ghi chép đó thôi. Nguyên sau khi bệnh ngài khỏi, Triệu Xương đã diệt nghĩa quân của con ngài là Phùng An. Ngài chán nản, ẩn thân hành hiệp. Năm Tân-tỵ, niên hiệu Trinh-nguyên thứ 17 đời vua Đường Đức-tông (801) ngài đột nhập thành Đại-la giết Triệu Xương. Việc không thành, nhưng cũng khiến cho Xương bị thương nặng ở chân phải bỏ về nước. Nhà Đường sai Bùi Thái sang thay thế.
        Tôn Đản hỏi:
        - Triệu Xương, Bùi Thái có biết võ công không?
        - Có. Triệu Xương thuộc giòng dõi Triệu Đà. Vì vậy y thông thạo hầu hết võ công Lĩnh-nam. Trong trận đấu, ngài với y chiết ba trăm chiêu. Cuối cùng đấu nội lực, đưa đến y bị kiệt quệ, rồi bị thương. Các võ sĩ phủ đô hộ xúm vào tử chiến, mới cứu được Xương. Tương truyền đêm đó ngài giết trên ba trăm võ sĩ phủ đô hộ.
        Lý Long vỗ vai Tự-Mai:
        - Đúng vậy. Ngài đã từng vào hang này, ắt luyện được Vô ngã tướng thần công. Tên Triệu Xương kia đấu nội lực với ngài, có khác gì tự tử? Bao nhiêu công lực của y bị bút hết. Y không bị giết chết cũng may lắm rồi đó.
        Tự-Mai tiếp:
        - Bùi Thái sang thay Triệu Xương được một năm, bị ngài giết chết. Bùi Thái võ công tầm thường. Nên ngài giết thực dễ dàng. Vua Đường lại sai Triệu Xương sang cai trị đất Việt một lần nữa. Nguyên Xương bị ngài hóa giải hết công lực, y về Trung-nguyên chữa trị, cùng luyện lại thần công. Hơn năm mới phục hồi. Niên hiệu Nguyên-hòa thứ ba (809) đời vua Hiến-tông, tự nhiên Triệu Xương mất tích. Thì ra y bị giết chết ở đây.
        Lý Long cầm cái ấn bỏ vào túi. Còn vàng bạc, chàng trao cho Tôn Đản giữ. Ba anh em lại soi tiếp lên trên, thấy một bộ xương trong tư thế ngồi. Xương ngực bị một vết kiếm đâm thủng. Tử thi mặc quần áo Việt, gần như đã mục nát. Cạnh đó có thanh kiếm .Lý Long cầm kiếm lên coi, chuôi có khắc chữ Cửu-chân Phùng Hưng. Chàng reo lên:
        - Đây rồi, thì ra bọn Triệu Xương bị Bố-Cái đại vương giết ở đây. Vì vậy người đời sau không biết tại sao y mất tích, cũng không biết Bố-Cái đại vương mất năm nào, ở đâu.
        Chàng tiếp:
        - Ta giải đoán như thế này. Dị nhân dạy Bố-Cái đại vương vốn người thuộc phái Cửu-chân. Sau khi ông mất, đại vương đưa di thể sư phụ về cố thổ an táng. Rồi một cơ duyên nào đó, ngài tìm ra hang này, tự luyện võ công, thành anh hùng vô địch, khởi nghĩa. Sau khi ngài giết Bùi Thái, Triệu Xương lại sang. Y cho điều tra, theo dõi tung tích ngài. Cuối cùng y với ba cao thủ cùng đột nhập vào đây, bị ngài giết chết cả bốn. Tuy nhiên ngài cũng bị trúng một nhát kiếm vào ngực, mà qua đời.
        Lý Long cùng hai em, nhặt hài cốt Bố-Cái đại vương, sắp xếp lại. Ba anh em quỳ xuống lạy tám lạy. Lý Long khấn:
        - Đại vương xưa vì cái nhục của dân, nổi dậy, oai danh một thời. Bởi có đức, dân chúng mới tôn kính dâng cho danh hiệu Bố cái. Xin đại vương phù hộ cho anh em đệ tử, trước đòi lại đất tổ. Sau mưu hạnh phúc cho dân.
        Ba anh em cầm đuốc soi khắp hang, không thấy còn vết tích gì nữa. Lý Long nói:
        - Ta nghĩ Lệ-hải bà vương không vào hang này. Vì nếu bà vào đây, ắt luyện võ công Cửu-chân, chứ có đâu luyện kiếm pháp Long-biên? Vậy có thể từ khi Yên-lãng công chúa qua đời, sau mới chỉ có Bố-Cái đại vương có cơ duyên tìm ra. Sau Bố-Cái đại vương, đến lượt anh em mình.
        Chàng cởi áo, bọc hài cốt Bố-Cái đại vương lại, đeo lên lưng nói:
        - Anh đem hài cốt ngài về táng tại đền thờ, để dân chúng ngày đêm được kính lạy anh linh một vị cha gìa của đất Việt.
        Chàng gọi chim ưng xuống, gửi lệnh về trấn Thanh-hóa, bảo đem đến chân núi cho chàng ba con ngựa chiến. Thành ra khi ba anh em ra khỏi động, đã thấy ba con ngựa thắng yên cương để sẵn đó từ hồi nào. Ba anh em lên ngựa về trấn Thanh-hóa.
        Sau sáu tháng xa Huệ-Sinh, bây giờ chàng gặp lại sư phụ.
        Huệ-Sinh hỏi:
        - Chủ nhân, mừng chủ nhân luyện được Thiền-công tối cao nhà Phật.
        Lý Long biết sư phụ mình đã đắc đạo. Ông thường xuất hồn đi khắp nơi. Vì vậy ông xuất hồn theo bên cạnh mình, không việc gì ông không biết. Chàng nói:
        - Sư phụ. Tin mới nhất cho biết bọn Triệu Thành đi Thiên-trường rồi mới về Thăng-long. Vậy chúng ta về Thăng-long trước.
        Huệ-Sinh lên ngựa cùng anh em Lý Long về Thăng-long.
        Trên đường đi, chàng thuật cho Huệ-Sinh biết, trong khi ở động Xuân-đài, chàng vẫn nhận được đầy đủ tin tức về bọn Triệu Thành, và chàng ứng phó kịp thời. Từ truyện Thanh-Mai, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh dò thám đền thờ Nhâm Diên, Tích Quang rồi bị bắt theo. Chàng ra lệnh cho Bảo-Hòa cứ để chúng bắt. Chàng lại thư cho chị gái là công chúa An-quốc với phò mã Đào Cam-Mộc bố trí Vạn-hoa sơn trang, cùng cho người giả bán thú ở xã Vạn-thảo. Những truyện xẩy ra trong Vạn-thảo sơn trang, Bảo-Hòa báo cho chàng biết hết. Chàng gài bẫy, để cho Ngô Tích mắc tròng. Những việc xẩy ra trong Hồng-hương cốc, chàng thuật lại một lượt.
        Tới Trường-yên, anh em vào phủ Khai-quốc, tức dinh tổng trấn toàn bộ phía Nam Đại-Việt. Tôn Đản thấy bố giữ chức quản Khu-mật viện phủ Khai-quốc, nó mừng lắm. Khai-quốc vương dành ra mười ngày, để hội họp với tướng sĩ, văn võ bá quan, cùng ban chỉ dụ cần thiết. Bất cứ làm gì, dù khi ăn, lúc ngủ, lúc làm việc, vương cũng để hai người em bên cạnh, giảng giải chi tiết công việc tại sao phải làm thế này, tại sao phải làm thế kia.
        Tự-Mai, Tôn Đản được đọc các báo cáo, phúc trình. Vì vậy nó biết hết những gì xẩy ra cho Thanh-Mai, Mỹ-Linh, Bảo-Hòa. Tự-Mai rất chú ý tới việc mụ Anh-Trần, cùng đệ tử của mụ tên Nguyễn Quý-Toàn. Vì hiện mụ ở làng Yến-vĩ sương sen, khá gần trang Thiên-trường của phái Đông-a. Nó hỏi Khai-Quốc vương:
        - Anh cả! Cứ như phúc trình, thì mụ Anh-Trần thuộc Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Mụ vốn họ Đặng, cháu tên Đặng Trường. Mà tên Đặng Trường là đệ tử Nhật-Hồ lão nhân. Y giữ chức trưởng lão. Anh thử đoán xem, hiện y ở đâu?
        - Nhật-Hồ lão nhân có mười đệ tử, đều giữ chức trưởng lão Hồng-thiết giáo. Người ta chỉ nghe tên, mà không mặt mũi chúng ra sao. Theo anh nghĩ, mụ Anh-Trần làm hương trưởng Hồng-thiết ở làng Yến-vĩ, có lẽ Đặng Trường cũng ẩn hiện trong vùng này.
        Tôn Đản à lên:
        - Thiên-trường thuộc quản hạt Trường-yên. Mụ Anh-Trần bầy trò dơ bẩn Vu-sơn đại hội, cực kỳ đồi phong bại tục. Đúng ra anh cho bắt bọn chúng chặt đầu. Song anh lờ đi, để có thể lần ra manh mối thủ lĩnh Hồng-thiết giáo. Có phải thế không?
        - Em chỉ đoán đúng có một nửa.
        - Còn nửa kia?
        Tự-Mai vỗ lưng Tôn Đản:
        - Em biết rồi. Vì quanh đây, các làng đều có bọn du thủ du thực, trốn chúa lộn chồng. Trong khi triều đình dùng nhân đức trị dân, vì vậy anh không thể bắt giam, giết hết chúng đi. Anh nhắm mắt để mụ Anh-Trần tập trung chúng lại, sống với nhau như bầy thú, cho tiện kiểm soát.
        Lý Long mỉm cười đầy niềm vui:
        - Hai chú này tiến mau quá. Đoán được hết ý anh.
        Đang trên đường về Thăng-long, chàng được chim ưng đưa thư khẩn cấp của Bảo-Hòa cho biết ý đồ bọn Triệu Thành tại Thiên-trường. Khai-quốc vương đem truyện ấy bàn với Tự-Mai. Tự-Mai cười lớn:
        - Anh cứ để em về thăm bố. Cam đoan em sẽ làm cho bọn Triệu Thành thất điên bát đảo một bữa. Anh đừng lo.
        Huệ-Sinh mỉm cười, ghé miệng vào tai Tự-Mai, Tôn Đản dặn dò. Hai đứa trẻ từ biệt Huệ-Sinh, Lý Long lấy ngựa lên đường đi Thiên-trường. Xa nhà đã gần năm, bây giờ trở về quê, lòng Tự-Mai rộn lên không biết bao nhiêu cảm giác kỳ lạ.
        Trong gần năm, nó từ thiếu niên chỉ biết những gì trong sách vở, do bố, chú, cô dạy dỗ. Về quốc gia đại sự, nó thấy ra xôi quá, coi như truyện thời xưa. Từ khi gặp Lý Long, nó được dịp áp dụng những gì đã học. Trong thời gian ở động Xuân-đài, một mặt Lý Long luyện võ với hai em. Một mặt chàng tiếp nhận thư tín, ban lệnh bằng chim ưng. Bất cứ vấn đề gì, chàng cũng giảng giải chi tiết cho hai cậu em kết nghiã hiểu. Hoá cho nên, chưa đầy một năm, mà Tôn Đản, Tự-Mai có kiến thức của một quan đại thần.
        Đường Trường-yên đi Thiên-trường mất khoảng hai giờ sức ngựa. Con đường này, Tự-Mai đã đi nhiều lần. Khi thì với bố, khi thì với chị. Những lần đó, nó chỉ biết hỏi, biết nghe. Lần này đi với Tôn Đản, nó được đóng vai hướng dẫn.
        Buổi trưa, ngựa qua một khu đầm lầy. Tự-Mai chỉ vào ngôi làng cách đường hơn trăm trượng:
        - Kia là thôn Yến-vĩ. Quanh năm, khu đầm sen bốc khói lên, trông mờ mờ, vì vậy gọi sương này là sương sen. Đại-Việt mình có hai làng Yến-vĩ. Một ở gần Thăng-long, một ở Thiên-trường. Nhân thôn này đầy sương sen, người ta ghép lại thành Yến-vĩ sương sen để phân biệt.
        Hai anh em đang nói truyện, bỗng có tiếng lộp cộp phía sau, rồi một kị mã vượt qua mặt hai người như mũi tên. Tôn Đản bật lên tiếng kêu:
        - Tiểu hoà thượng!
        Tự-Mai nhìn theo, quả kị mã là nhà sư, mình mặc áo nâu, đầu đội mũ tu lờ. Lạ một điều, nhà sư đeo trên lưng thanh kiếm. Nó nhìn phía sau nhà sư rất quen thuộc, thân ái, mà không biết ông là ai, nó đã gặp ở đâu. Nó hỏi Tôn Đản:
        - Anh biết nhà sư này ư?
        - Biết! Khắp trấn Thanh-hoá, ai cũng biết ông. Ông tu ở chùa Sơn-tĩnh. Không biết ông có phải đệ tử của Nguyên-Hạnh không?
        Nhà sư tới chỗ rẽ vào Yến-vĩ sương sen, ông gò cương lại quan sát, tần ngần, rồi cho ngựa chạy vào làng. Tôn Đản đề nghị:
        - Chúng ta theo nhà sư này. Không chừng có tin tức gì của Nguyên-Hạnh cũng nên.
        Từ lúc thấy lưng nhà sư, trong lòng Tự-Mai dâng lên niềm tình cảm kỳ lạ, nhớ nhung bâng khuâng. Nghe Tôn Đản nói, nó đồng ý liền:
        - Ừ phải đấy.
        Hai đứa cho ngựa rẽ vào làng. Thấy trước cổng làng có một bầy ngựa bốn con. Trong đó có ngựa của nhà sư. Tôn Đản, Tự-Mai tháo yên cương treo lên cành cây, rồi thả ngựa cho ăn cỏ. Tự-Mai giảng:
        - Trong vùng này, mỗi cổng làng đều có bãi cỏ, dành cho ngựa của khách viếng thăm, ăn cỏ. Chỉ ngựa của dân làng mới được vào trong.
        Năm hoàng nam gác cổng làng thấy hai thiếu niên lạ, hỏi:
        - Này, hai cậu từ đâu đến, vào làng có việc gì?
        Tự-Mai nói dối:
        - Tôi thuộc hội Vu-sơn. Tôi cần vào trong làng thăm bà Anh-Trần.
        Một hoàng nam nhổ nước bọt đánh toẹt, rồi vẫy tay:
        - Vào đó mà tự tử!
        Tự-Mai, Tôn Đản đi rồi còn nghe phìa sau có tiếng cười chế diễu của đám hoàng nam:
        - Tổ bà con mụ Anh-Trần, làm đĩ trọn đời, mà cũng có người gọi bằng bà. Hai thằng ôn vật này mới tý tuổi đầu, đã chui vào cái lỗ già đó, rồi cũng đến toi mạng vì dương mai mà thôi.
        Mặc đám hoàng nam chửi rủa. Hai người đi vòng quanh làng quan sát. Hôm nay ngày phiên chợ Yến-vĩ, dân chúng các làng xung quanh kéo tới họp. Kẻ đi, người lại tấp nập. Tôn Đản nói sẽ vào tai Tự-Mai:
        - Đói không?
        - Đói lè lưỡi ra rồi đây.
        - Ăn quà chăng?
        - Ăn là cái chắc. Ăn gì bây giờ?
        - Bún ốc, bún riêu, chả cá, bánh đậu, bánh tôm. Thiếu gì! Anh có mang tiền theo không?
        - Lúc rời vương phủ, anh cả đưa cho ta mấy lượng vàng cùng ba quan tiền. Tiêu bằng thích.
        Hai trẻ vào ngôi đình bán quà. Tiếng người ồn ào. Khói bay nghi ngút. Cô hàng bán bánh tôm đon đả chào:
        - Mời hai cậu xơi bánh tôm. Bánh tôm ăn với rau muống chẻ ngon tuyệt vời, vừa dòn, vừa thơm.
        Hai đứa ngồi xuống hai cái ghế thấp. Cô hàng gắp từ trong xanh đầy mỡ tám cái bánh tôm. Cô dùng kéo cắt thực nhanh, thực dòn. Cô múc một muôi nước chấm, đổ vào hai cái bát. Tay kia bưng ra chiếc rá nhỏ, trên đựng đầy rau muống chẻ, với kinh giới, tía tô, lá mùi:
        - Mời hai cậu xơi. Xơi nóng mới ngon.
        Thời bấy giờ, tuy hơn nghìn năm Bắc thuộc, mà tôn ty, lễ nghiã vẫn còn. Tôn Đản, Tự-Mai kết làm anh em. Đản lớn tuổi hơn làm anh. Vì vậy Tự-Mai đợi anh cầm đũa rồi nó mới dám cầm theo. Hai trẻ đang tuổi ăn không bao giờ biết no. Thoáng một cái, chúng ngốn hết tám cái bánh tôm.
        Tôn Đản hất hàm hỏi Tự-Mai:
        - Được nửa bụng chưa?
        - Gần. Ăn gì nữa giờ?
        Tôn Đản hít hà chỉ hàng bún chả:
        - Mình ăn bún chả chăng?
        Cô hàng bún chả không đợi Tự-Mai trả lời. Cô chỉ vào mấy xâu thịt nướng than đỏ tươi:
        - Hai cậu xơi mấy xâu?
        Cô hàng nháy Tự-Mai một cái. Nó kinh ngạc chưa hiểu tại sao, đưa mắt quan sát cô thực kỹ. Nó chợt thấy nút áo cổ của cô có sợi chỉ đỏ. Biết đó là ký hiệu của Khu-mật viện Đại-Việt. Nó tự nghĩ:
        - Anh cả tổ chức ghê thực. Chỗ nào cũng có tai mắt Khu-mật viện. Không hiểu sao cô này biết mình là người nhà, mà nháy mắt?
        Tôn Đản chìa ra hai ngón tay:
        - Chị cho mỗi đứa hai xâu.
        Cô hàng vừa quạt lửa, vừa nói nhát ngừng:
        - Bún chả của tôi ngon nhất vùng này.
        Cô hạ giọng:
        - Hãy nhìn bên trái.
        Rồi cô nói lớn:
        - Hai cậu ăn thấy ngon, ăn thêm mấy xâu nữa!
        Tôn Đản nhìn trái. Hàng bên cạnh có một thiếu phụ, mặc quần áo theo lối quê. Nhưng vẫn không dấu được nét đài các. Nó nghĩ thầm:
        - Chắc bà này ở vùng khác đến. Ờ sao có người đẹp đến thế nhỉ?
        Thiếu phụ ngoáy tay xuống đất như vẽ cái gì. Tôn Đản thấy bà viết chữ:
        Ăn xong, ra gốc đa, bên bờ sông. Có lệnh.
        Nó thấy nút áo trên cổ bà có sợi chỉ đỏ, biết bà làm việc cho Khu-mật viện. Thiếu phụ ăn xong đứng lên ra đi. Hai trẻ ăn bún thịt nướng, rồi mỗi đứa ăn ba bát bún riêu nữa. Mấy bà, cô bán quà trố mắt nhìn hai thiếu niên ăn không biết no.
        Tôn Đản trả tiền, rồi hai đứa đi một vòng chợ, sau cùng rẽ ra bờ sông, chỗ gốc đa. Thiếu phụ đã chờ ở đó từ bao giờ. Nhìn trước, nhìn sau không có ai, thiếu phụ chỉ con đò:
        - Hai cậu xuống đó.
        Ba người xuống thuyền. Thuyền rời bến. Tới giữa sông, thiếu phụ nói:
        - Có lệnh cho hai cậu.
        Bà đưa ra cái ống nhỏ. Tôn Đản biết ống này Khai-Quốc vương thường đựng thư, sai chim ưng mang đi. Nó tiếp lấy mở ra. Trong có tờ thư, bút tích Khai-quốc vương:
        Vị sư trẻ không phải đệ tử Nguyên-Hạnh đâu. Ông làm gì, phải giúp, không được cản trở. Cho tự do phá phách, cấm giết người dù đó là kẻ ác, kẻ thù. Tôn Đản kiểm soát Tự-Mai gắt gao. Anh cả.
        Tôn Đản trao cho Tự-Mai đọc, rồi nó nhúng thư vào nước, xé nát ra. Bấy giờ hai đứa mới nhìn thiếu phụ. Bà tuổi khoảng bốn lăm, bốn sáu. Khuôn mặt, dáng người đẹp không thể tưởng tượng nổi. Nhất là cái lưng tròn, đôi mắt ánh ra đa tình, mà lại sáng chói. Thiếu phụ cười tươi lạ lùng. Tự-Mai nhìn nụ cười quen thuộc, mà nó không nhớ tên bà là gì.
        Bà nói nhỏ:
        - Hai cậu muốn thám thính nhà mụ Anh-Trần hả? Phải cẩn thận đấy nhá. Chớ có dùng võ mà gây tai vạ. Nhà mụ phần đông chứa bọn lưu manh, trốn chúa, lộn chồng. Tuy vậy, mụ làm hương trưởng Hồng-thiết giáo, có liên hệ với trưởng lão Đặng Trường. Vì thế người của Khu-mật viện lẫn lộn vào, tìm tông tích Đặng cũng không ít. Nếu hai cậu dụng võ, những người này phải bênh che mụ, e hai bên hao tổn nguyên khí.
        Chợt Tự-Mai kêu lớn lên, tay vào người thiếu phụ:
        - Bích-Hòa! Đúng rồi, chị là Bích-Hoà. Thảo nào lúc mới gặp, em thấy quen quen.
        Bích-Hòa cười:
        - Trần nhị công tử lớn mau quá. Thanh tiểu thư đâu rồi?
        - Chị của em đã về Thiên-trường từ mấy hôm nay.
        Tự-Mai chỉ Bích-Hoà, giới thiệu với Tôn Đản:
        - Anh Đản! Chị đây có tên Bích-Hòa. Từ năm mười sáu, nức danh đế đô Đại-Việt về tài cầm ca. Mỗi khi đức Thuận-thiên hoàng-đế tế Quốc-tổ, Quốc-mẫu cùng các bậc tiên hiền đều mời chị vào hát hầu. Chị nổi danh Giầu sang mấy cũng không mời được. Nghèo hèn mấy cũng mời được.
        - Thế nghĩa là thế nào?
        - Khi chị thích, không mời chị cũng tới. Khi chị không ưa, dù vương tôn, đại thần cũng không thỉnh được. Hồi trước, qua Thiên-trường hát, bố em mời chị ở lại làm thượng khách trong mấy ngày. Chị dạy chị Thanh-Mai hát.
        Bích-Hoà cảm động:
        - Từ sau khi gặp đại hiệp, tôi không hát nữa, mà dùng hết tâm huyết dạy lớp trẻ đi sau. Tôi quên thế nào được lời đại hiệp rằng Đại-Việt có hơn mười triệu người, mà chỉ có một đệ nhất tài danh Bích-Hoà. Bích-Hoà được quyền chết, mà danh kỹ Bích-Hoà không được quyền chết. Từ ngày ấy đến giờ, tôi dạy không biết bao nhiêu đệ tử mà kể.
        Tự-Mai trở lại thực tại;
        - Em muốn biết tình trạng bọn trốn chúa lộn chồng trong hương Yến-vĩ sương sen này.
        Bích-Hoà khoan thai kể:
        - Làng này có hơn nghìn nóc gia. Dân chúng cực kỳ phức tạp. Đa số họ thuộc thành phần trộn cắp, đĩ điếm, bị hương đảng khinh khi. Hồng-thiết giáo tập trung họ, lập ra làng trong thời thập nhị sứ quân. Vì vậy kỷ cương coi như không có.
        - Mụ Anh-Trần xuất thân thế nào?
        - Hồi hoa niên mụ có chút nhan sắc, lấy thầy lang tên Trần Tấn-Khang.
        Tự-Mai nhớ ra:
        - Em biết thấy lang Khang rồi. Thầy đẹp trai đáo để. Dáng người nho phong, điềm đạm. Hồi trước em bệnh. Bố mời thầy đến trị. Thầy cho em uống mỗi một thang thuốc, bệnh hết liền. À, em nghe nói thầy Khang theo đạo Phật, dường như thầy gặp bất hạnh trong tình trường, nên bỏ việc đời, tu tại gia.
        - Đúng thế. Thầy Khang lấy mụ Anh-Trần. Thầy trị bệnh mát tay, nên gia tư cũng có bát ăn bát để. Tính thầy điềm đạm, chiều vợ rất mực. Còn mụ Anh-Trần thuộc loại đành hanh đỏ mỏ, điêu ngoa. Tuy vậy thầy Khang vẫn nhỏ nhẹ khuyên bảo. Mụ càng làm già, đi đâu cũng bịa truyện nói xấu chồng. Cuối cùng mụ nhập Hồng-thiết giáo, đem thân cho bọn trưởng lão làm cây thuốc luyện công. Vì vậy hai người bỏ nhau. Thầy Khang giác ngộ bỏ đi tu.
        Tôn Đản kể truyện mụ Anh-Trần tới trấn Thanh-hoá mở hội Vu-sơn; vào Hồng-hương mật cốc biểu diễn ngậm củ sâm cùng thổi ống đu đủ như thế nào, rồi nó đặt vấn đề:
        - Em thấy có sự nghịch lý. Bởi mụ Anh-Trần thuộc Hồng-thiềt giáo, chống Trung-quốc rất cực đoan. Tại sao mụ lại tiếp phái đoàn Triệu Thành? Vì lý do đó, em mới đến đây tìm cho ra lẽ.
        - Em không biết đâu. Sau khi bị thầy lang Trần Tấn-Khang bỏ. Mụ ấy phiêu bạt khắp nơi, làm đĩ không tiền. Gần đây lấy một người rất có tư cách tên Nguyễn Đắc-Vạng. Ông này thuộc con nhà danh gia, văn hay, chữ tốt.
        - Ủa tại sao ông Đắc-Vạng không lấy con nhà tử tế, mà lấy mụ?
        - Cũng tại ông tự tin. Ông muốn lấy mụ, rồi dùng đức cảm hoá, đưa mụ về đường ngay. Nào ngờ chỉ được ít lâu, ngựa quen đường cũ, đi đâu mụ cũng bịa truyện nói xấu chồng. Bây giờ mụ coi như không có ông. Mụ công khai đi mở hội Vu-sơn khắp nơi.
        - Tại sao mụ làm thế?
        - Dễ hiểu thôi. Đó là chủ trương của Hồng-thiết giáo. Có mở hội Vu-sơn mới phá được thuần phong mỹ tục, mới làm tan nát nền tảng gia đình hầu theo Hồng-thiết giáo.
        - Chị đến làng này có việc gì?
        - Khai-quốc vương nhờ chị mượn cớ dạy mụ Anh-Trần ngâm thơ, rồi nhân đó khuyên mụ về đường ngay.
        - Mụ có nghe lời chị không?
        - Chưa chắc. Phải từ từ mới được. Em phải biết mụ đã sáu mươi lăm tuổi rồi, dễ gì chị nói, mụ nghe?
        - Đêm nay đường như mụ mở hội Vu-sơn phải không?
        - Đúng đấy. Hai cậu muốn dự à?
        Tôn Đản dơ tay làm hiệu như chém đầu:
        - Bọn em mà dự, bố chém đầu. Nhà mụ ở đâu?
        - Cậu đi theo bờ sông, quẹo trái, thấy căn nhà phía trước có nhiều tượng thú vật, chính là nhà mụ, cũng là nơi mụ mở hội Vu-sơn đó. Thôi, chúc hai cậu thành công.
        Tôn Đản, Tự-Mai men theo bờ sông, rồi quẹo trái, quả nhiên thấy căn nhà, phía trước có nhiều tượng đá, đất, hình dạng kỳ dị. Nhìn trước, nhìn sau không có ai, hai đứa lẻn ngay vào khu vườn bên cạnh. Nhún chân một cái, hai đứa vọt lên mái nhà. Đứng trên cao nhìn, căn nhà tọa lạc giữa một thửa vườn lớn. Phía sau vườn, một cái ao. Bờ ao xây gạch, có nhiều bậc đi xuống. Bên kia bờ ao, lại một căn nhà nữa.
        Tôn Đản gỡ viên ngói, ghé mắt nhìn xuống. Nó thấy một mụ đàn bà ăn mặc diêm dúa ngồi trên cái ghế. Dưới chân mụ, một gã đàn ông, trông mặt đần độn, đang quỳ gối, khoanh tay, đầu cúi xuống. Mụ đàn bà hất hàm hỏi:
        - Tên Nguyễn Qúi-Toàn kia! Ta đã bảo mi rằng, mi phải bỏ con Phượng-Ánh. Mi hứa đoạn tuyệt với nó. Tại sao hôm qua mi còn về thăm nó?
        Tự-Mai nghe đến tên Nguyễn Qúi-Toàn, nó cười thầm:
        - À, quái nhân đã từng theo mụ Anh-Trần đến Hồng-hương mật cốc đây. Không biết mụ kia là ai?
        Gã Quí-Toàn rập đầu xuống đất kêu lộp cộp:
        - Thưa sư mẫu, đệ tử đã đoạn tuyệt với con Phượng-Ánh từ lâu rồi. Bởi nó ỷ học giỏi, không coi đệ tử ra gì. Nó lại có tài buôn bán, tiền của vào tay như nước. Trong khi đó đệ tử vừa đần, vừa ngu. Chỉ có sư mẫu với Hồng-thiết giáo cưu mang. Nhưng...
        - Nhưng sao?
        - Đệ tử nhớ con quá, lén về thăm con, chứ nào có phải thăm mụ Phượng-Ánh đâu?
        Tự-Mai nhủ thầm:
        - Con mụ này đúng thực Anh-Trần rồi đây.
        Mụ Anh-Trần sưng mặt lên:
        - Được! Ta tha cho mi lần này. Lần sau đừng trách ta. Bây giờ có năm bà bạn ta bên cạnh. Mi phải dĩ dương dưỡng âm cho năm bà.
        - Dạ. Đệ tử tuân lệnh sư mẫu.
        Mụ Anh-Trần cất tiếng gọi:
        - Các chị đâu, sang đây đi thôi.
        Năm mụ đàn bà, tuổi từ sáu mươi tới bẩy mươi, từ phòng bên cạnh đẩy cửa bước sang. Không đợi mời ngồi, cả năm ngồi xuống chiếc phản bên cạnh. Tự-Mai nói nhỏ vào tai Tôn Đản:
        - Coi mặt năm con mụ này cực kỳ dâm dãng. Không biết dĩ dương dưỡng âm ra sao?
        Mụ Anh-Trần khoan thai ra giọng kẻ cả:
        - Hôm nay, nhân danh hội trưởng Vu-sơn, tôi mời năm chị tới đây thưởng thức thuật dĩ dương dưỡng âm. Dương là gì? Là liền ông. Âm là gì? Là liền bà. Trong con người cũng có âm dương. Nửa người trên là dương. Nửa người dưới là âm.
        Mụ chỉ tên Nguyễn Qúi-Toàn:
        - Tên quái này theo học với tôi đã lâu. Các chị nhìn xem, gã là liền ông, thuộc dương. Nửa người phía trên gã thuộc dương. Thế có phải miệng, lưỡi của hắn thành hai lần dương không? Còn các chị, là liền bà, thuộc âm. Con cá diếc của các chị ở nửa người phía dưới, thuộc âm. Thế là hai lần âm. Khi tuổi chúng ta trên năm mươi, kinh huyết không còn, thận khí cũng tuyệt, da trở thành nhăn, tóc bạc. Nếu như có dương khí truyền vào con cá diếc. Âm, dương hoà hợp, cơ thể bình hoà, tâm hồn thư thái. Chúng ta trở thành trẻ mãi không?
        Một mụ da nhăn, tóc bạc, mặc quần nái đen rộng thùng thình, người béo nục, béo nạc hỏi:
        - Có phải chị bảo tên quái này dùng lưỡi mớm con cá diếc của bọn em, để truyền dương khí vào người không?
        - Đúng thế. Chị thưởng thức đi.
        Mụ già đến ngồi vào chiếc ghế cao, hai bên có chỗ dựa tay. Mụ nằm ngửa trên ghế, miệng cười khích khích:
        - Thưởng thức mục này một lần, rồi chui xuống lỗ cũng cam lòng.
        Mụ Anh-Trần hất hàm cho tên Nguyễn Qúi-Toàn:
        - Tên đệ tử kia. Mi hãy phục vụ đi.
        Tên Qúi-Toàn lê đến đưới chân mụ già. Y quỳ hai gối xuống, rồi kéo giải rút quần mụ. Y từ từ lôi quần khỏi người mụ, rồi ghế mũi vào con cá diếc của mụ khịt khịt mấy cái. Mụ già lên tiếng:
        - Mi yên tâm. Chị Anh-Trần bảo ta rằng, mi thích ăn mắm cá diếc. Nên đã ba ngày, ta không tắm, cũng không rửa ráy người, để con cá diếc có mùi mắm. Thôi mi làm đi.
        Tên Qúi-Toàn thè lưỡi ra đẩy vào con cá diếc mụ già, rồi y lắc đầu liên tiếp. Mụ già bật lên tiếng rên nho nhỏ.
        Tự-Mai, Tôn Đản tuy được huấn luyện chu đáo về đạo lý dân tộc. Song đối với vấn đề tình ái, hai đứa tuyệt chưa có ý niệm gì. Bây giờ phải chứng kiến cảnh cực kỳ dâm đãng. Chúng trố mắt ra nhìn. Tự-Mai bẹo Tôn Đản, sẽ đậy viên ngói lại, rồi cả hai cùng nhảy khỏi mái nhà.
        Hai đứa vừa đi vừa lắc đầu. Tới cuối thôn, thấy có miếu thổ thần. Hai đứa ngồi trước miếu. Tự-Mai bàn:
        - Tối nay chúng mở hội Vu-sơn. Anh em mình có nên phá chơi cho bõ ghét không?
        - Phá. Nhưng phá cách nào?
        Tự-Mai cười:
        - Khắp vùng này chỗ nào cũng có cà độc dược, móc mèo với han. Một trong ba thứ chạm vào da, ngứa đến chết chịu không được. Bọn mình kiếm ít quả cà độc dược nghiền lẫn với lá han, quả móc mèo. Đợi khi chúng nó trần truồng, tung phấn vào cho chúng gãi chơi.
        - Bây giờ chúng ta đến dò thám lần nữa xem sao?
        - Ừ, thì đi.
        Hai đứa ra chợ ăn mỗi đứa ba bát bún riêu, rồi trở lại nhà mụ Anh-Trần. Mụ đang đứng trước nhà ngắm nhìn những tượng lớn nhỏ đủ loại. Thấy hai thiếu niên, mụ đon đả chào:
        - Hai cậu vào chơi? Hai cậu xem tượng tôi nặn có đẹp không?
        Tự-Mai giả tảng:
        - Tôi chưa xem kỹ.
        Liếc qua, nó biết mụ nặn tượng mười hai con giáp. Nó chỉ vào tượng con chuột nói với Tôn Đản:
        - Anh coi, tượng này chắc là con cáo.
        Nó nghẹo đầu nghẹo cổ:
        - Không phải cáo. Dường như con chồn núi.
        Tôn Đản biết ý Tự-Mai. Nó chỉ vào hình con trâu:
        - Đố Mai biết tượng con gì đây?
        - À tượng con nai? Ồ không phải, chắc tượng con lừa. Ừ mà con lừa có sừng.
        Mặt mụ Anh-Trần tái như gà cắt tiết. Mụ chỉ tượng con cọp:
        - Tượng con cọp của tôi trông có hùng dũng không?
        Tự-Mai lắc đầu:
        - Không giống cọp tẹo nào cả. Hơi giống con nghé tơ ; mà có râu.
        Nó chỉ vào tượng con mèo:
        - Tượng này sao trông giống sóc hay con chuột chù quá. Đúng rồi con chuột chù!
        Tôn Đản chỉ tượng con rồng:
        - Tượng này chắc khắc con lươn. Con lươn gì mà có vảy thế này? À, con cá quả.
        Tự-Mai thấy mặt nụ Anh-Trần cực kỳ khó coi. Nó được thể, chỉ vài tượng con dê:
        - Em đố anh biết tượng con gì đây?
        Tôn Đản làm bộ nghẹo đầu, nghẹo cổ ngắm nghía một lúc, rồi nhăn mặt:
        - Không biết con gì! Nhìn không ra.
        Tự-Mai cười ha hả:
        - Con rái cá. Đúng rồi, con rái cá.
        Nó biết mụ Anh-Trần đang nổi đoá. Nó chỉ vào con gà:
        - Em đoán chắc đây là con quạ. Đúng rồi quạ khoang.
        Nó lại chỉ vào con chó:
        - Con này trông giống hệt mèo! Mèo lớn quá há! Chắc giống mèo rừng ở Bắc-biên.
        Tự-Mai reo lên:
        - Để em tính thập nhị chi nghe. Tý là cáo. Sửu là lừa. Dần là nghé. Mão là chuột chù. Thìn là lươn. Tỵ là cá bống kèo. Ngọ là bò không sừng. Thân là con sóc. Dậu là quạ. Tuất là mèo rừng. Hợi là voi. Nào, ta tính mười hai con giáp: Cáo, lừa, nghé, chù, lươn, kèo, bò, sóc, quạ, mèo rừng, voi.
        Mụ Anh-Trần nổi cơn tam bành lên:
        - Hai thằng ôn con, trời đánh, thánh đâm. Cút ngay!
        Tự-Mai làm bộ không nghe rõ lời mụ:
        - Cái gì? Mụ nói gì? Tôi điếc nghe không rõ. Mụ gọi tôi bằng ông, xưng con ư? Con chim cút bay ư?
        Mụ Anh-Trần càng đổ lôi đình:
        - Hai thằng chưa ráo máu đầu. Đi ngay!
        Tự-Mai càng đùa hơn:
        - Mụ nói sao? Bay à? Những con thú này biết bay à?
        Mụ Anh-Trần dơ tay tát Tự-Mai một cái. Nó trầm mình tránh khỏi. Mụ quay mặt vào nhà lên tiếng:
        - Tên Quí-Toàn đâu?
        Tên Nguyễn Qúi-Toàn từ trong chạy ra:
        - Sư mẫu gọi con?
        Mụ Anh-Trần chỉ Tự-Mai, Tôn Đản:
        - Mi tống cổ hai tên ôn con kia đi cho ta.
        Tên Qúi-Toàn chạy lại vung tay tát Tự-Mai. Nhìn cái tát, Tự-Mai biết y chưa tập võ. Phái Đông-a cấm ngặt dùng võ với người không biết võ công. Nó lùi lại một bước. Tên Quí-Toàn tát hụt.
        Hai đứa làm bộ chạy, rồi quay đầu lại thè lưỡi ra trêu. Tên Qúi-Toàn đuổi theo. Đuổi tới cuối thôn, y mệt, thở dốc. Tự-Mai lại để tay lên mũi trêu. Y hăm hở đuổi theo. Tự-Mai chạy tới phía trước mấy bụi ré. Biết phía sau là chuồng hôi công cộng. Nó chạy vào. Tên Quí-Toàn đuổi theo vào trong.
        Hai đứa lại cười, để tay lên mũi cười. Tên Qúi-Toàn dơ tay tát Tôn Đản một cái. Nó né đầu tránh khỏi, rồi thuận tay đẩy vào vai y. Y ngã lộn xuống dưới chuồng hôi.
        Vào thời Lý, Trần, Lê, thường mỗi xóm, mỗi làng có một cầu tiêu công cộng, gọi là chuồng hôi. Chuồng hôi sâu đến hai, ba mét ngày nay. Xung quanh trồng cây ré, để che cho người xử dụng. Lá ré có mùi thơm. Người xử dụng thấy mùi phẩn hôi thối, chỉ ngắt chút lá ré để lên mũi, có thể chống được cái khó chịu. Thường cứ hai ngày, phẩn nhiều, người ta đem tro đổ lên trên. Khi phẩn đầy, mới múc lên, pha nước, tưới cây.
        Cạnh chuồng hôi còn có cái ao, để sau khi đi cầu, người ta rửa trôn.
        Tên Qúi-Toàn ngã xuống chuồng hôi. Phẩn ngập tới ngang lưng. Y dẫy dụa, làm phẩn bắn tung toé lên hôi thối kinh khiếp. Tự-Mai, Tôn Đản định bỏ đi. Thình lình nhà sư trẻ xuất hiện. Nhà sư nhìn Tự-Mai chăm chú, mắt đầy thương cảm.
        Nhà sư tiến tới ôm lấy vai nó. Tự-Mai không chống lại. Nó để cho ông ôm. Trong võ lâm Đại-Việt, bất cứ trường hợp nào cũng không thể để người lạ ôm lấy mình. Bởi nếu họ ôm, rồi ra tay ám hại, chỉ có nước chịu chết. Vì đã nhận được thư Khai-quốc vương cho biết nhà sư là người thân. Nên Tự-Mai để ông ôm nó. Tay ông sẽ tát lên má nó hai cái như cha mẹ nựng con. Hơi nhà sư bốc ra, nó thấy hơi quen, mà tuyệt không nhận được.
        Tên Nguyễn Quí-Toàn đã lên khỏi chuồng hôi. Nhà sư móc trong túi ra cuộn dây. Ông vung tay một cái. Cuộn dây cuốn lấy người y, bó chân tay y lại như mớ rau. Tên Quí-Toàn run run:
        - Đại sư! Xin đại sư mở lượng từ bi, tha cho con lần này.
        Nhà sư lắc đầu:
        - Lần trước mi đã thề rằng: Từ nay, vĩnh viễn không bao giờ tới nhà con đĩ già Anh-Trần. Nếu sai lời, sẽ bị giết chết ném vào chuồng hôi cho dòi ăn. Thế sao vừa rồi mi tới liếm cá diếc năm con mụ già?
        Tên Quí-Toàn run run:
        - Đại sư xét cho. Con bị bệnh, mỗi tháng hai lần, phải mút kinh nguyệt ba người, bằng không sẽ lên cơn mà chết. Vả lại, con trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Nếu không tới nhà mụ Anh-Trần, mụ sẽ không cho thuốc giải.
        Nhà sư lắc đầu:
        - Mi thề sao ta cho mi được vậy.
        Như đã chuẩn bị trước. Nhà sư móc trong bọc ra một cái ống sậy, to bằng ngón chân cái. Ông nói:
        - Bây giờ ta ném mi xuống chuồng hôi. Vì sợ mi bị phân ngập mũi, miệng mà chết. Ta cho mi ngậm cái ống này mà thở.
        Nhà sư nhét cái ống vào miệng tên Quí-Toàn, rồi vung tay một cái. Tên Quí-Toàn rơi xuống chuồng hôi. Cả người y chìm dưới lớp phẩn lỏng đầy dòi bọ nhung nhúc. Chỉ có cái ống thò lên, cho y thở.
        Tự-Mai chắp tay hướng nhà sư:
        - Đại sư! Xin đại sư cho biết pháp danh?
        Nhà sư nhìn Tự-Mai bằng con mắt đầy yêu thương. Thình lình ông xoa đầu nó một cái, rồi vọt mình, dùng khinh công biến mất.
        Tôn Đản hỏi Tự-Mai:
        - Mai này! Dường như nhà sư với Mai có liên hệ gì sâu sa lắm. Cho nên ông mới thương yêu Tự-Mai như vậy? Không chừng ông là sư huynh của Tự-Mai cũng nên!
        Tự-Mai lắc đầu:
        - Em cũng nghĩ như vậy. Nhưng võ công ông xử dụng, không phải của phái Đông-a, mà của phái Sài-sơn. Chiêu vung dây có tên Thiên-vương hồi thể. Chiêu hất tên Qúi-Toàn có tên Thiên-vương kị mã. Cho đến khinh công, ông cũng dùng khinh công phái Sài-sơn. Tuổi ông dường như trên hai mươi, mà công lực e không thua gì bố em. Người như vậy, mà sao chúng mình chưa nghe qua nhỉ?
        Tự-Mai chỉ cái ống thở của tên Nguyễn Quí-Toàn:
        - Mình phải cứu y lên. Bằng không y chết mất.
        Tên Quí-Toàn ngụp trong hố phẩn, nhờ miệng ngậm ống sậy, vẫn thở được, nên chưa chết. Y dẫy dụa một lúc, đầu thò lên trên vũng phẩn, mặt mũi kinh tởm. Tự-Mai, Tôn Đản cắt mấy bẹ chuối khô nối với nhau thành dây.
        Tôn Đản vung tay hai cái, dây cuốn lấy đầu tên Quí-Toàn. Nó giật mạnh, y bay bổng lên mặt đất. Tự-Mai rút kiếm đưa ba nhát, dây cuộn quanh người Quí-Toàn đứt hết. Y loạng choạng đứng dậy. Tôn Đản phát nhẹ một chưởng, y bay xuống dưới ao. Ngụp lặn một lúc, phẩn sạch sẽ. Y lóp ngóp lên bờ. Tự-Mai hất hàm:
        - Mi đã biết tội chưa?
        - Tôi nào có tội tình chi. Không hiểu sao, đây là lần thứ năm, nhà sư vô danh đó hành hạ tôi khốn khổ như thế này. Hai cậu có biết nhà sư đó là ai không?
        - Ta cũng đang muốn hỏi ngươi câu đó.
        Tự-Mai rút kiếm, đưa vào cổ y, khiến y rú lên kinh hãi. Nó hỏi:
        - Nhà mụ Anh-Trần thường tổ chức hội Vu-sơn. Vậy hội Vu-sơn ra sao?
        Tên Qúi-Toàn sáng mắt ra:
        - Hội Vu-sơn được tổ chức mỗi tháng hai kỳ. Một bên hai mươi người nam. Một bên hai mươi người nữ. Hai mươi người nam vào một buồng tối. Hai mươi người nữ vào một buồng khác. Ai cũng phải cởi hết quần áo. Khi trống điểm ba tiếng, cửa hai phòng kéo lên. Trong bóng tối người nam chụp được người nữ nào, lập tức hành dâm. Hành dâm xong, lại trở về phòng cũ. Như vậy, không biết mình đã hành dâm với ai.
        - Mi có biết tên Đặng Trường, trưởng lão Hồng-thiết giáo hiện ở đâu không?
        - Tôi không biết.
        Tự-Mai định hỏi nữa, thình lình có tiếng phụ nữ thanh thoát:
        - Các cậu thuộc thiếu niên danh môn. Tại sao lại hành hạ kẻ không biết võ như vậy?
        Tôn Đản nhìn lại, một thiếu phụ tuổi khoảng trên bốn mươi, da trắng, môi hồng, lưng thon. Mái tóc của bà óng mượt, rõ ra vẻ phụ nữ trâm anh. Cạnh bà, danh kỹ Bích-Hoà thản nhiên nhìn tên Qúi-Toàn. Lời thống trách của thiếu phụ, làm hai đứa trẻ vội tra kiếm vào vỏ.
        Tôn Đản chống chế:
        - Chính chúng tôi cứu tên này thoát khỏi ngộp phẩn mà chết. Vì vậy chúng tôi muốn y cung cấp cho một số tin tức.
        Bích-Hoà vẫy tay:
        - Hai công tử khỏi biện luận. Chúng tôi núp ở đây từ nãy đến giờ, biết hết rồi. Chị xin hai cậu tha cho tên này.
        Bà chỉ vào thiếu phụ:
        - Bà này tên Phượng-Ánh, theo học cầm ca với chị đã lâu.
        Tự-Mai nghe đến tên Phượng-Ánh, nó kinh hãi:
        - Bà... bà là vợ tên quái ư? Khắp vùng này ai cũng biết bà. Tôi nghe danh bà đã lâu. Người ta đồn rằng: Bà thuộc con nhà danh gia. Tuy phận gái, mà văn hay, chữ tốt. Lại nổi tiếng kinh doanh, trở thành giầu có. Bà hay làm phúc, giúp đỡ người khó. Hừ... hừ... không ngờ chồng bà.
        Thiếu phụ thở dài:
        - Vâng! Tôi xin hai công tử tha cho ông chồng tôi.
        - Xin bà cứ tự tiện.
        Phượng-Ánh vẫy tay gọi chồng:
        - Thôi, đi về thôi.
        Tên Quí-Toàn đứng dậy, mắt lườm lừơm nhìn vợ, rồi uể oải đi về phía nhà mụ Anh-Trần, chứ không đi theo vợ.

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.01.2005 06:42:25 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 06.01.2005 18:29:38 (permalink)
          Hồi thứ ba mươi lăm


          Môn phái Đông-A




          Nghe Tự-Mai kể truyện, Thanh-Mai bàn:
          - Khắp vùng này ai cũng than thở cho bà Phượng-Ánh, hồng nhan, bạc phận.
          Tự-Mai muốn thử mấy bà chị. Nó hỏi:
          - Nếu các chị là bà Phượng-Ánh, các chị sẽ xử sự ra sao?
          Mỹ-Linh đáp ngay:
          - Vợ chồng có hai vấn đề. Một là duyên, hai là nợ. Duyên-nợ không phải kiếp này, mà do muôn vàn kiếp trước đưa đến. Khi nghiệp diễn ra, mình tránh né, chống đỡ, khó mà thành. Mà tránh kiếp này, kiếp sau nó lại đến. Chi bằng chịu vậy.
          Tự-Mai biết bà chị mình thâm nhiễm Phật pháp. Nó hỏi thêm:
          - Không lẽ bà Phượng-Ánh xinh đẹp, đoan trang, mà suốt đời cứ phải chịu cái ách của tên khùng khùng, điên điên, ngu ngu, dại dại mãi sao? Sống bên cạnh một tên kinh tởm như vậy không thành điên, cũng thành khùng!
          - Bởi vậy chị mới cho rằng đó là nghiệp quả.
          Bảo-Hoà sống ở Bắc-biên, nơi cho phụ nữ nhiều quyền, lại không bị ràng buộc về Nho-giáo. Nghe Tự-Mai hỏi, mắt phượng chiếu ra sáng long lanh. Nàng nói:
          - Truyện vợ chồng, hay truyện đời cũng thế. Con dun đạp mãi, cái đầu phải quằn. Mình càng nín nhịn, họ càng làm tới. Vì vậy mình phải tỏ ra mình không ngu. Dường như Nho-giáo có nói « Hiền quá thành ngu ». Xét cho cùng, bà Phượng-Ánh có nhan sắc, có học. Lại có tài kinh bang tế thế. Ngay trượng phu cũng hiếm người sánh bằng. Vì sinh ra trong gia đình giầu có, danh tiếng, bà phải cắn răng giữ gìn nề nếp. Tên Toàn có kim cương trong tay, tưởng đâu là cứt, ném đi.
          Nàng đập tay xuống bàn:
          - Thà nó vợ lớn, vợ nhỏ còn tha được. Đây nó đi tôn con dâm nữ, con ma đầu Anh-Trần làm sư mẫu. Mà cái con Anh-Trần giỏi giang cho cam. Nó chẳng có bản lĩnh gì. So với bà Phượng-Ánh, kém xa một trời một vực. Như vậy tên Qúi-Toàn điên khùng. Tại sao phải đem cuộc đời như ngọc, như ngà cho tên điên ấy? Ném nó vào chuồng hôi cho rồi. Chị như bà Phượng-Ánh, trình làng, xin bỏ tên Toàn. Thiếu gì đấng tài hoa đến cầu hôn. Ta lập lại cuộc đời.
          Tự-Mai, Tôn Đản nghe Bảo-Hoà nói, hai đứa cười khoan khoái. Tôn Đản hỏi Thanh-Mai:
          - Chị Mai! Còn chị?
          Thanh-Mai đưa tay làm hiệu như thanh kiếm:
          - Chị cho con mụ Anh-Trần một kiếm, vứt xác ra đồng cho quạ rỉa, diều tha. Còn tên Qúi-Toàn ư? Dù sao nó cũng từng làm chồng mình. Mình không thể, không nên giết nó. Chị trình làng, rồi đuổi nó khỏi nhà. Như vậy là yên thân.
          Cả bọn bàn đến nhà sư trẻ.
          Nghe nói đến nhà sư trẻ, Thanh-Mai tần ngần, thử điểm lại xem, trong môn phái Đông-a có thiếu niên nào giống nhà sư không. Nhưng trí óc nàng không sao tìm ra được. Nàng đoán mò:
          - Em nghĩ xem có thể nhà sư đó chính là Lê Thiếu-Mai, con gái của Hồng-Sơn đại phu không?
          Tự-Mai lắc đầu:
          - Không phải! Phàm thiếu nữ phải có hương thơm bốc ra. Đây nhà sư có mùi khét khét của đàn ông. Vả nếu chị Thiếu-Mai, đời nào chị ấy dám ôm em như thế?
          Mỹ-Linh hỏi:
          - Thế hai em có xem trộm cuộc hội Vu-sơn đêm đó không?
          Tự-Mai cười:
          - Đố chị biết, bọn em có dự không đấy?
          - Đố với hỏi! Chắc chắn có. Đản kể cho chị nghe đi. Hai em phá chúng ra sao?
          Tôn Đản thuật:
          - Vào lúc trăng lên, chúng em lần lại nhà mụ Anh-Trần. Hai đứa leo lên mái nhà dòm xuống. Căn nhà chia làm ba gian. Gian bên Đông do tên Qúi-Toàn tiếp khách. Gian bên Tây do mụ Anh-Trần tiếp khách. Gian giữa làm nơi hành lạc nên tối om. Mụ Anh-Trần son phấn khắp người, cười nói toe toét, chạy ra, chạy vô mồi chài tiếp khách. Khách của mụ toàn đàn ông. Già có, trẻ có. Còn khách của tên Qúi-Toàn lại toàn đàn bà. Mụ nào cũng trên sáu mươi cả. Mặt mũi trông gớm ghiếc. Lễ nghi tiếp khách của bọn Hồng-thiết giáo thực kỳ lạ.
          Thuật đến đây, nó nhìn Tự-Mai. Hai đứa ôm nhau lắc đầu cười lăn, cười lộn. Cười hết, Tự-Mai thuật:
          - Ngay cửa mỗi phòng ra vào, có ba tượng, do mụ Anh-Trần đắp. Đó là tượng Mã Mặc, Lệ Anh và Nhật-Hồ lão nhân. Mấy mụ già khú đế đại vương tới, đồng cúi đầu lạy ba tượng năm lạy. Rồi tên Qúi-Toàn hướng dẫn vào ghế ngồi. Trước khi một mụ ngồi, tên Qúi-Toàn quỳ gối, tay tốc váy mụ lên, rồi chui đầu vào trong. Không biết y làm gì, chỉ thấy đầu lắc lư hoài, mà mặt mấy mụ đưỡn ra. Lát sau mụ mới ngồi xuống.
          Tôn Đản tiếp:
          - Phía gian bên Tây. Mụ Anh-Trần kiểm điểm, thấy đủ ba mươi người. Mụ chạy sang gian bên Đông hỏi tên Qúi-Toàn: Đủ chưa. Thưa sư mẫu đủ rồi. Mụ trở về gian bên Tây. Vừa lúc đó bà Phượng-Ánh đẩy cửa bước vào.
          Thanh-Mai kinh ngạc:
          - Chắc bà đi tìm chồng. Anh-Trần thấy bà, mụ có run sợ không?
          - Chị thử đoán xem.
          - Ôi! Phường mèo mả gà đồng, thấy người chính chuyên như bà ắt sợ run người lên.
          - Chị lầm rồi! Khi bọn Anh-Trần theo Hồng-thiết giáo, mụ coi truyện hành dâm tập thể thuộc hành vi đạo lý, giống như chúng ta ăn chay niệm Phật vậy. Mụ thấy bà Phượng-Ánh, vội le te chạy ra, miệng nói: Phượng-Ánh đấy à! Trời ơi em trẻ quá, em đẹp quá. Em vào đây. Rồi mụ nắm tay dìu bà ngồi xuống ghế. Bà nhìn thấy trong phòng đầy đàn ông, toàn loại du thủ, du thực, đầu trộm đuôi cướp, phát rùng mình. Bà hỏi Tôi muốn tìm chồng tôi. Mụ Anh-Trần léo nhéo :Trời ơi! Em trẻ quá. Thằng chồng em nó già quá rồi. Để chị kiếm cho em người tình. Mụ chỉ vào lão già đầu gáo không chút tóc nào, tuổi có lẽ trên bẩy mươi : Đây! Ông này khéo lắm cơ! Em mà làm tình nhân của ông, thì sướng vô cùng. Bà Phượng-Ánh vung tay tát vào mặt mụ Anh-Trần một cái, mắt phượng dựng ngược, mà mắng: Phường mèo mả gà đồng, mửa ra toàn lời dơ bẩn. Ta nhỏ hơn chồng tám tuổi. Đó là lẽ thường, có gì đáng so trẻ với già? Mi bảo chồng ta già, rồi dẫn dụ ta vào đường bất nghĩa với tên gần bẩy mươi ư? Dứt lời bà ôm mặt khóc, rảo bước đi ra.
          Mỹ-Linh tò mò:
          - Bà Phượng-Ánh đi ra rồi, mụ Anh-Trần nói gì với đám đàn ông?
          - Tên Qúi-Toàn từ phòng bên kia chạy
          sang hỏi tại sao có tiếng ồn ào như vậy? Đám đàn ông thi nhau nói :Mụ ác phụ vợ của mi mới đến. Thế rồi bọn đầu trộm đuôi cướp xúm vào nói xấu bà. Chúng bịa ra đủ truyện nào là bà ta ngủ với trai, nào là bà ta ăn cướp, chứ buôn bán gì mà mau giầu thế. Vậy mà tên Qúi-Toàn lắng nghe có vẻ khoan khoái lắm.
          Tôn Đản tiếp lời Tự-Mai:
          - Đến đó, có ba tiếng trống, đèn tắt hết. Trong mỗi phòng chỉ còn những nén nhang trên bàn thờ Mã Mặc, Lệ Anh, Nhật-Hồ chiếu ra. Bọn đàn ông, đàn bà quờ quạng sang căn buồng giữa. Mỗi tên đàn ông, túm một mụ đàn bà. Trong bóng tối không biết chúng làm những gì. Còn mụ Anh-Trần, mụ ra khỏi nhà cùng với một tên du thủ du thực đuổi theo bà Phượng-Ánh.
          Thanh-Mai, Bảo-Hoà, Mỹ-Linh cùng bật kêu kêu:
          - Ủa! Mụ đuổi theo, chắc chắn có truyện không hay cho bà.
          Tôn Đản gật đầu:
          - Đúng thế. Bọn em theo sát nút. Đến cuối thôn, chúng đuổi kịp. Tên du thủ du thực chặn trước mặt bà. Miệng nói :Con mụ kia, đứng lại. Bà Phượng-Ánh tỏ ra không sợ hãi. Bà hất hàm hỏi : Tên Đặng Đức-Cường kia! Vợ mi bị mụ Anh-Trần mối lái, bỏ mi, bỏ con mi theo tên Quang. Mi còn theo liếm gót mụ ư? Mi định làm gì ta đây?. Tên Đặng Đức-Cần trợn mắt cá quả lên : Mi đánh sư mẫu của tao. Tao muốn mi phải quỳ xuống tạ lỗi. Bà Phượng-Ánh nhổ bãi nước miếng vào mặt mụ Anh-Trần đến bộp một tiếng, gạt tên Đặng Đức-Cần ra bên cạnh, rồi đi.
          Tên Đức-Cần nhảy tới túm tóc, còn mụ Anh-Trần dơ tay tát bà Phượng-Ánh. Song mụ vừa vung tay lên, chỉ thấy hoa mắt một cái, cả mụ lẫn tên Đức-Cần, mỗi người bị hai cái tát, ngã lăn ra đường.
          Thanh-Mai bẹo tai Tôn Đản:
          - Bịa! Bà Phượng-Ánh đâu biết võ công, mà đánh bọn chúng?
          Tôn Đản nheo mắt trêu Thanh-Mai:
          - Chị nóng tính quá. Chưa chi đã bẹo tai người ta. Ỷ làm chị, rồi bắt nạt trẻ con. Em không kể nữa.
          Thanh-Mai xoa tai cho Tôn Đản:
          - Thôi, Đản ngoan ngoãn hiền lành như khỉ đột. Đản dịu dàng như con hùm xám. Đản thơm tho như con quạ đen. Đản kể tiếp cho chị nghe đi.
          Tôn Đản phì cười:
          - Người ra tay đánh mụ Anh-Trần, cùng tên Đức-Cần là nhà sư trẻ ở trấn Thanh-hoá. Hai đứa thấy nhà sư, hồn vía lên mây. Chúng quỳ gối lạy ông như tế sao :Nam-mô đại Bồ-tát. Xin Đại Bồ-tát tha cho hai cái mạng kiến ruồi này. Nhà sư chỉ bà Phượng-Ánh nói :Ta muốn từ nay, mỗi lần hai đứa bay gặp bà này, phải cúi đầu hành lễ, cùng tránh đường cho bà đi. Nếu trái lệnh, ta sẽ khoét mắt, cắt lưỡi bọn mi. Hai đưa run lập cập, quỳ gối thề. Nhà sư bắt hai đứa lạy bà Phượng-Ánh đủ một trăm lậy, rồi mới tha cho đi. Bà Phượng-Ánh hành lễ với nhà sư : Sư phụ! Đây là lần thứ chín sư phụ giúp đỡ đệ tử. Đệ tử muôn vàn thọ ơn. Nói rồi bà xá nhà sư ba lần, nước mắt chảy dài, âm thầm đi về cuối thôn.
          Tôn Đản tiếp:
          - Bọn em nhảy ra hành lễ với nhà sư. Anh Đản thỉnh pháp danh. Nhà sư im lặng. Thình lình ông ôm lấy Tự-Mai. Ôm một lúc, ông cất tiếng khàn khàn nói : Ta yêu cầu hai chú một việc. Không đợi bọn em đồng ý hay không; ông tiếp : Hai chú sắp về Thiên-trường. Hai chú sẽ gặp Bảo-Hoà. Hai chú nhắn với nàng dùm ta rằng...
          Đến đó Tôn Đản im bặt. Thanh-Mai, Bảo-Hoà bật lên tiếng kêu lớn:
          - Thì ra nhà sư ấy.
          Thanh-Mai trầm tư suy nghĩ. Còn Bảo-Hoà thì gương mặt hiện ra nét nhu mì, khi đỏ khi trắng. Hình ảnh nhà sư trẻ lên Bắc-biên giúp anh em nàng trị Địch Thanh. Ông bầy tỏ cảm tình với nàng. Rồi tại trấn Thanh-hoá, khi nàng bị Dư Tĩnh tấn công. Ông cứu nàng. Trong khi nàng với Thanh-Mai, Mỹ-Linh bị giam trong hầm đá. ông xông thuốc mê bọn Triệu Thành, rồi chép hết di thư. Sau đó ông dùng châm cứu trị bênh cho nàng. Rồi cũng chính ông hiện đến với nàng khi nàng bị Hồng-Sơn đại phu giam ở Vạn-thảo sơn trang. Nàng biết đây chỉ là thiếu niên danh gia đệ tử, võ công cực cao đeo đuổi nàng. Có điều ông ẩn trong lớp áo Như-Lai mà thôi.
          Tôn Đản tiếp:
          - Vị tiểu sư phụ nói : Dù ở phương trời nào, ta cũng theo nàng như bóng trăng. Rồi nhà sư tung mình biến vào đêm tối.
          Bảo-Hoà bỏ ra khỏi phòng. Biết nàng đang rung động mãnh liệt vì tình yêu. Thanh-Mai để cho Bảo-Hoà tự do. Nàng hỏi:
          - Rồi sao nữa?
          Tôn Đản tiếp:
          - Bọn em trở lại nhà mụ Anh-Trần. Bây giờ đèn nến bật lên sáng trưng. Cả bọn đàn ông, đàn bà đều ngồi im lặng nghe mụ Anh-Trần thuyết pháp. Mụ nói về đàn ông giao hoan với lợn, với dê cái. Đàn bà giao hoan với chó.
          Thanh-Mai nhăn mặt:
          - Bịa nào.
          Thiệu-Thái ngồi im từ đầu đến cuối. Bây giờ chàng mới thêm vào:
          - Có! Trong Hồng-thiết giáo thường diễn trò này. Tôi đã nghe Đỗ phu nhân kể. Chúng giao hoan cả với trâu, ngựa nữa.
          Sau khi nghe kể truyện, Thanh-Mai vẫy Tự-Mai ra góc vườn hỏi:
          - Bây giờ em có cách nào để bố cho chị em mình đi Thăng-long không?
          Tự-Mai biết rõ mối nhu tình của chị với Lý Long. Suốt mấy tháng ở trong động Xuân-đài, Lý Long luôn mơ màng tưởng nhớ đến Thanh-Mai. Nó đoán Thanh-Mai muốn về Thăng-long gặp chàng. Tính tình trẻ con nổi dậy, nó giả tảng:
          - Xa bố lâu ngày quá. Em phải ở cạnh bố để Thần hôn định tỉnh. Chị cũng vậy. Mẹ mất rồi, bố chỉ có mấy đứa chúng mình, mà chúng mình xa bố, làm bố buồn. Em không đi. Em không muốn xa bố nữa. Mình đi Thăng-long làm gì ?
          Thanh-Mai thấy em đem đạo lý ra cản, nàng thở dài, trong lòng tự cân nhắc:
          - Ừ, bố thương yêu chị em nàng không bút nào tả xiết. Nào nuôi nấng, nào dạy dỗ cực khổ trăm chiều. Nàng xa bố bấy lâu, bây giờ đâu dám mở miệng xin đi xa ? Nàng thử so sánh tình yêu giữa bố với chàng. Với bố, nàng vừa kính, vừa yêu, tình nghĩa thực thâm sâu. Với Lý Long, tình yêu thực mãnh liệt, như sóng vỗ, như lửa dậy.
          Tuy vậy nàng tự biện luận:
          - Anh cả bảo em về Thiên-trường rồi đi Thăng-long. Bây giờ em lại không muốn đi, bỏ mặc anh cả đối phó với bọn Tống sao ?
          Tự-Mai méo miệng:
          - Ừa! Được, thế em với Đản đi, còn chị ở nhà phụng dưỡng bố.
          Thanh-Mai thấy từ xưa đến giờ, cậu em không một lần trái ý chị. Nay đột nhiên dở quẻ, nàng gắt lên:
          - Cái thằng này. Liệu hồn !
          - A! Đừng có làm tàng. Em phải năn nỉ chị, hay chị phải năn nỉ em nào? Đã vậy em nói hết mọi truyện với bố, chị đừng hòng ra khỏi nhà một bước.
          Thanh-Mai biết thằng em đã đọc được ruột gan mình. Nàng nói sẽ:
          - Thôi chị năn nỉ em.
          - Không đủ. Năn nỉ nữa đi. Phải năn nỉ nhiều nhiều mới đã.
          Thanh-Mai muốn nổi lôi đình. Song nàng tự biết mình đang ở thế yếu. Nếu cứ dùng quyền làm chị, không chừng thằng em lý lắc này còn bắt nàng phải chiều nó theo nhiều điều kiện khó khăn cũng nên. Nàng xuống giọng:
          - Thôi chị năn nỉ Tự đấy! Mau ngoan. Từ nay muốn gì chị cũng chiều. Không bao giờ trái ý.
          - Bây giờ em hỏi câu nào chị phải nói thực. Bằng không, em mách bố hết. Anh cả với chị đã có gì chưa?
          - Có gì, nghĩa là?
          - Ước hẹn với nhau chẳng hạn.
          Thanh-Mai gật đầu. Tự-Mai đưa lưng ra:
          - Đấm lưng cho em đi. Em sẽ bầy mưu cho.
          Thanh-Mai đành nắm tay đấm lưng cho thằng em hay phá.
          Tự-Mai nói sẽ vào tai Thanh-Mai:
          - Nói với chị Bảo-Hòa, cho chim ưng gửi thư đến sư phụ. Sư phụ gửi thư cho bố nói rằng phải cho bọn mình đi đón Thanh-Nguyên. Khi thư tới, chúng mình xin đi có phải hợp tình, hợp lý không? Có vậy mà chị nghĩ không ra.
          Nó ngâm Sa-mạc se sẽ:

          Yêu nhau cởi áo cho nhau.
          Về nhà bố hỏi, qua cầu gió bay.


          Thanh-Mai lo lắng:
          - Lỡ bố sai người khác đi thì sao?
          Tự-Mai cười:
          - Bố có bao giờ làm trái ý sư phụ đâu? Sao hồi này chị lẩn thẩn quá vậy! Nếu bố sai người khác, chị thú thực với chú Kiệt. Chú Kiệt nói một tiếng, gì mà chẳng được? Hoặc chị sợ chú Kiệt cười, thì em năn nỉ một lúc bố cho ngay. Chị yên tâm.
          Thanh-Mai chợt nhớ ra, mỗi khi gặp điều gì bố nàng không đồng ý thì nàng với Thanh-Nguyên thường sai Tự-Mai năn nỉ. Dù bố nàng có khó khăn đến mấy, nó cứ lèo nhèo mãi, rồi ông cũng mềm lòng mà cho.
          Thư Bảo-Hòa gửi đi đã hai ngày mà không thấy tin tức của Tịnh-Huyền viết cho Trần Tự-An. Thanh-Mai bồn chồn trong lòng, đứng ngồi không yên. Một hôm nàng đang cùng Thiệu-Thái, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh luyện võ, kế mẫu cho người tìm nàng.
          Thanh-Mai vốn không ưa bà kế mẫu. Nghe bà tìm mình, nàng đổ quạu:
          - Có việc gì mà tìm đây? Sao lại kiểu cách thế này. Đến đây gặp mình mà cũng không dẫn xác được ư?
          Nàng thay quần áo, đến phòng của bà.
          Khi mẫu thân Thanh-Mai qua đời, thân phụ nàng tục huyền với một người con gái vùng Lịnh-yên. Mụ có nhũ danh là Phương. Khi Phương về nhà ngày đầu đã đụng chạm với Tự-Mai. Câu truyện thực giản dị. Thanh-Mai với em được bố dạy dỗ cực kỳ cẩn thận. Kiến thức cũng như võ công, không thể có người nào đồng tuổi so sánh kịp. Mụ Phương thì trái lại. Tuy xuất thân trong gia đình khá giả, nhưng mụ không được học nhiều, kiến thức quá hẹp. Đã vậy, mụ lại không tự biết mình, cũng chẳng biết người. Cứ luôn luôn lên mặt dạy khôn chị em Thanh-Mai. Vô tình để lộ cái dốt ra. Thanh-Mai lớn tuổi, nàng biết tự chế, nhỏ nhẹ cho Phương biết. Còn Tự-Mai, tính bồng bột, mỗi dịp như vậy nó bưng miệng cười. Thế là trong nhà có truyện. Mụ ta lăng nhục Tự-Mai. Nó định phản ứng. Thanh-Mai khuyên em:
          - Tự không nên gây ồn ào trong nhà. Dù gì bà ấy cũng là vợ bố. Tự gây ồn ào, chỉ làm mất hạnh phúc của bố mà thôi.
          - Hạnh phúc? Hừ! Bố bưng mụ về, cho có vợ. Mụ không biết tề gia nội trợ, cũng chẳng có nhan sắc. Bố hạnh phúc ở chỗ nào?
          Người con lớn nhất trong nhà tên Thông-Mai, lớn hơn Thanh-Mai hai tuổi. Thông-Mai cực kỳ thông minh, võ công cao nhất trong đám đệ tử đời thứ nhì. Từ khi thân mẫu qua đời, ngoài thời giờ luyện võ, học văn, Thông-Mai đóng cửa tụng kinh, mong cầu cho mẹ siêu thoát.
          Một hôm luyện võ trở về, chàng thấy mụ Phương từ trong phòng mình bước ra. Chàng ngăn lại hỏi:
          - Cô vào đây làm gì?
          - Nhà này, tao muốn đi đâu mặc tao. Mày không có quyền hỏi.
          Thoáng một cái, Thông-Mai thấy tượng thờ mẹ mình bị hai cái kim đâm vào giữa trán với tim. Không tự chủ được, chàng tát mụ một cái, gẫy bốn cái răng hàm.
          Sau cơn nóng giận, biết việc chẳng lành, chàng viết thư để lại cho bố, rồi lẳng lặng ra đi. Khi Tự-An trở về, ông nổi giận, định đuổi mụ Phương khỏi trang, các sư đệ can gián mãi, ông mới bỏ qua. Từ đấy trong nhà không ai dám nhắc đến tên Thông-Mai nữa.
          Một lần sắp đến tết Nguyên-đán, Tự-Mai xin bố mấy món quà đem biếu thầy đồ dạy chữ của nó. Đại hiệp Tự-An bảo:
          - Tết thầy mà chỉ có món quà nhỏ vậy thôi ư? Phải dâng một lễ sao coi cho được. Con định tết gì nào ?
          Tự-Mai xấu hổ mói:
          - Con tết thầy cặp gà trống thiến, cặp bánh chưng, cặp rượu tăm.
          Tự-An lắc đầu:
          - Không đủ. Đối với học trò khác tết như vậy coi được rồi. Con là con bố. Nhà mình khá giả, phải tết lớn hơn.
          Ông sai Thanh-Mai chuẩn bị, một gánh gạo thơm, cặp gà trống thiến, rượu tăm hai cặp, bánh chưng ba cặp, trà sen ba cân. Thân phận ông cao biết chừng nào, thế mà ông đích thân cùng người nhà đến tết thầy đồ.
          Khi trở về, mụ Phương không dám nói gì với chồng. Mụ cằn nhằn Tự-Mai:
          - Thầy đồ ăn lương vua, dạy học là bổn phận của thày. Việc gì phải bầy ra tết với nhất. Rõ lắm truyện.
          Tự-Mai nổi cơn điên lên:
          - Con học thầy suốt mấy năm qua, năm nào cũng tết thầy, đó là lễ nghi Đại-Việt. Đành rằng thấy ăn lương của vua, nhưng lương đó dù gấp vạn lần cũng không xứng đáng công ơn của thầy. Quà con tết thầy, chẳng qua để làm cho thầy vui lòng, chứ không thể nói rằng báo đáp công ơn. Cô đã không biết đạo lý, thì đừng đem cái không biết bắt người khác theo.
          Mụ Phương như không nghe lời Tự-Mai nói. Mụ tiếp tục:
          - Thì ra mày muốn làm thầy vui lòng, như vậy mày nịnh thầy rồi. Đẹp mặt chưa ?
          Tự-Mai lại lý luận:
          - Nịnh như con dao. Biết xử dụng rất tốt. Không biết xử dụng cực xấu. Làm người dưới, nịnh người trên, để hưởng ân huệ vô ích thì xấu. Còn học trò nịnh cho thầy vui lòng là phát xuất tấm lòng hiếu thảo, cần phải nên nịnh. Hè...hè . Con chỉ sợ không có dịp làm cho thầy vui thôi. Ngày xưa ông lão Lai tám mươi tuổi, giả bộ múa hát, rồi ngã lăn ra, ôm mặt khóc, khiến bố mẹ vui cười. Đức hiếu đó nay sử sách còn ghi. Thầy còn nhớn hơn bố. Phải làm cho thầy vui chứ. He... he!
          Đại để, bất cứ truyện gì mụ Phương cũng kiếm truyện với Tự-Mai, khiến nó như ngồi trên gai, không bao giờ yên ổn cả. Trong nhà lúc nào cũng căng thẳng. Sau mỗi lần cãi nhau, Tự-Mai lại phải nhịn nhục cho êm nhà, khiến bố khỏi buồn.
          Nhưng mụ Phương cứ tìm đủ cách nói xấu nó với bố, với các đệ tử trong trang. Khổ một điều khắp trang ai cũng biết tính Tự-Mai từ lâu. Nó vốn hiền, hay giúp đỡ người, không gây gổ với ai. Ai gây, nó cũng chỉ cười xòa. Nay nghe mụ Phương bịa đặt, họ cười rồi bỏ qua.
          Mụ ta xoay ra nói xấu nó với chồng. Đại hiệp Tự-An là người cực kỳ minh mẫn. Lúc đầu ông nghe vợ nói, cứ ậm ừ cho qua. Sau bà nói nhiều quá, ông bực mình:
          - Trong nhà này, bà muốn làm gì thì làm, còn thằng Tự-Mai, bà để mặc tôi. Con tôi đẻ ra, nuôi bấy nhiêu năm tôi lại không hiểu nó bằng bà ư?
          Từ đấy ông thương Tự-Mai hơn thế thường. Ông cho rằng vì mình tục huyền, khiến cho con gặp phải cái gai bên mình. Một lần giữa ngày tết Nguyên-đán, ông cùng cả nhà đi lễ chùa. Lúc ra về, Tự-Mai lẻo mép nói:
          - Bố, con được hòa thượng mừng tuổi cho một đồng với quả quýt. Hòa thượng bảo lộc Phật, ăn vào tâm tình thư thái, tránh ma quỉ ám hại. Bố có được mừng tuổi không ?
          Mụ Phương cắt lời nó:
          - Bố mày không ám hại ma quỷ thì thôi, chứ ma quỷ nào hại được bố mày?
          Thấy đầu năm vợ đã nói ra điều khinh bạc, Tự-An chỉ đưa con mắt nghiêm khắc nhìn vợ, không nói gì. Tự-Mai biết bà dì ghẻ thiếu giáo dục về cách ăn nói, ngu tối về Phật giáo. Nó cười xòa, nói với mụ, muốn nhân dịp mở mắt cho bà dì ghẻ:
          - Không phải vậy đâu cô ơi. Trong kinh Phật nói đến ma quỷ, tức nói đến cái tâm. Khi tâm trong sáng thì pháp nảy sinh. Khi tâm u tối thì ma quỷ hiện. Kinh Phật chả từng nói «Hết thảy pháp đều không có. Hết thảy chúng sinh đều vô hình» đó sao? Hòa thượng mừng tuổi quả quýt, ngụ ý mang cái hạnh của nhà Phật giúp tâm mình trong sáng, chứ có phải bùa phép đâu?
          Nói rồi nó bóc quả quýt, một nửa đưa cho bố:
          - Bố ăn lộc Phật đi.
          Tự-An cảm động về lòng dạ của con, ông cầm nửa quả quýt ăn ngon lành. Nửa còn lại, Tự-Mai đếm được bốn múi. Nó cầm một múi đưa cho mụ Phương, một múi đưa cho Thanh-Mai, một múi cho Thanh-Nguyên. Còn một múi nó cầm trên tay. Nó nói:
          - Múi dành cho chị Thanh để xua đuổi quỉ A-tu-la. Loại quỉ này thường làm cho người ta hay nổi giận. Mà chị Thanh năm vừa qua A-tu-la nó phá quá, nên gắt với em hoài.
          Thành-Mai vui vẻ cầm múi quýt bỏ vào miệng ăn, nàng tát yêu em:
          - Cảm ơn thằng xạo.
          Tự-Mai lại nói với Thanh-Nguyên:
          - Múi dành cho Nguyên để trừ Ngạ-qủi. Kinh Hoa-nghiêm nói: Ăn năm thứ rau cay, sẽ bị Ngạ-quỉ liếm môi. Con bé này chuyên ăn tiêu, chắc chắn Ngạ-quỉ liếm môi nhiều lần. Ăn múi quýt này để trừ Ngạ-quỉ.
          Thanh-Nguyên đấm sẽ vào lưng anh:
          - Anh ăn ớt còn nhiều hơn em, không biết quỷ nó có cắn môi anh không?
          Nói rồi nó bỏ múi quýt vào miệng ăn. Thanh-Nguyên tiếp:
          - Múi quýt của anh để hóa ra giòng nước trong, có thể rửa hết hôi hám. Võ công ở dơ e anh vô địch.
          Tự-Mai nói với bà Phương:
          - Múi quýt con biếu cô, chúc cô đẻ ra một đứa như con, cho bố vui lòng.
          Bà Phương cầm múi quýt liệng đi, nói:
          - Ăn múi quýt rồi đẻ ra thứ mất dạy, thà không ăn.
          Múi quýt chưa rơi xuống đất, Tự-Mai đã vung tay một cái, múi quýt lại bay ngược trở lên. Nó cười xòa:
          - Cô không ăn thì con ăn.
          Đại hiệp Tự-An là loại anh hùng. Thấy rõ ràng con mình chúc may cho vợ. Tuy chưa chắc có may thực hay không, nhưng cũng phát xuất từ lòng dạ chân thật, mà vợ không những không nhận, còn liệng đi, với lời chửi bới. Ông đưa mắt nghiêm khắc nhìn vợ. Đến đó xe đỗ trước nhà em gái ông.
          Em gái ông cùng các cháu chạy ra đón mừng, chúc tết. Vào nhà, ông ngồi uống nước, anh em, cô cháu hàn huyên vui vẻ. Ông nói:
          - Cô Phương-Châu này. Ban nãy Tự-Mai nó được hòa thượng cho lộc Phật, mà nó quên không để phần cô đấy.
          Bà Phương-Châu là em út trong gia đình Tự-An. Võ công tuy cao, nhưng tính tình bà cực kỳ ôn nhu, vì vậy Tự-Mai tuy nhỏ hơn bà không làm bao, nhưng từ khi mẹ chết, nó gọi cô bằng mẹ. Bà Phương-Châu thương yêu cháu hơn con đẻ. Bà bẹo má nó:
          - Thằng con hư, quên cô rồi hẳn?
          Tự-Mai móc trong túi ra một quả quýt khác:
          - Quên thế nào được. Con là xương, là thịt, mà máu của cô, làm sao quên được cô. Con xin hòa thượng riêng một trái cho cô.
          Nói rồi nó bóc quýt đút vào miệng bà. Nó nói:
          - Lộc Phật, cô ăn vào, thân thể khẻ mạnh, tâm tính thư thái. Năm nay sinh em trai, giống...
          Nó vỗ ngực:
          - Giống con này này.
          Mụ Phương xen vào:
          - Giống cái đồ mất dạy thì đẻ làm gì cho đau l..
          Tự-Mai vẫn không giận. Nó tiếp:
          - Đẻ được thằng con như Tự-Mai này, ắt vui nhà vui cửa, nhưng nhất định có hiếu. Đi chùa có quýt đem về chúc cô.
          Từ lúc vào nhà, thấy bà chị dâu mặt hằm hằm, bà Phương-Châu không hiểu cái gì đã xẩy ra. Bây giờ thấy bà ta nói lời thô tục, ác độc, bà kéo Thanh-Nguyên vào nhà hỏi thăm tự sự. Thanh-Nguyên cứ thực trình bày. Bà Phương-Châu trở ra nói nhỏ nhẹ với chị dâu:
          - Dù cháu nó có lầm lỗi gì chăng nữa, bố nó cũng là một người nức tiếng thiên hạ, sẽ uốn nắn nó. Bố nó không có thời giờ dạy, cô nó dạy nó, chú nó dạy nó. Chị chửi nó mất dạy như vậy, có khác gì chị chửi cả nhà này không?
          - Nó mất dạy, tôi bảo nó mất dạy, không liên quan gì đến cô.
          - Chị nói lạ! Tôi là cô của cháu, thay anh, thay chị dạy cháu, mà chị bảo không liên quan gì sao? Chị nói như vậy còn đâu đạo lý nữa?
          - Nó mất dạy, tôi muốn chửi bới mặc tôi. Cô không có quyền xía vào. Tôi chửi nó mà cô cũng không cho sao?
          Tự-Mai chạy lại phía sau lưng, ôm lấy cổ cô, nó nói:
          - Cô ơi để con kể cho cô nghe một câu truyện. Chứ cô tranh luận với cô Phương nào có ích gì?
          Không đợi cô có đồng ý hay không, nó kể:
          Ngày xửa ngày xưa, vào đời vua Hùng mới lập quốc, thú vật đều biết nói tiếng người. Bấy giờ loài chồn hôi hám hơn bây giờ nhiều. Một ngày kia có bầy chồn chui ra khỏi hang đi dạo trong rừng đầy hoa. Mấy con nai trông thấy bảo nhau : Chạy mau chồn hôi kìa.. Họ nhà chồn kinh ngạc hỏi nai : Chúng ta đâu có hôi, mà mi bảo hôi?. Thế rồi cãi qua cãi lại. Lúc bấy giờ có công chúa Mỵ-Nương đi qua thấy vậy mới can thiệp : Chồn không hôi với chồn, nhưng hôi với nai.
          Thanh-Mai, Thanh-Nguyên biết Tự-Mai nói bóng bà dì ghẻ, cả hai cười ồ lên. Nhưng mụ Phương thì không hiểu gì cả. Thấy chân tướng bà chị dâu với các cháu, Phương-Châu rõ phần nào những gì đã diễn ra trong gia đình anh mình. Bà nghĩ :Thì ra chị dâu mình là một khối đất bùn.
          Bắt đầu từ đấy, mọi người trong gia đình nhìn mụ với con mắt khinh khiến. Tự-An coi như không có vợ. Ông ngủ riêng một phòng. Bất đắc dĩ lắm, ông mới nói với vợ một câu. Ông không cho mụ quyền gì nữa. Ngoài ngày ăn uống ba bữa. Vì vậy người trong trang cũng coi như không có chủ mẫu.
          Khi vợ chết, đại hiệp Tự-An tục huyền với mụ Phương, khiến trong nhà cũng như ngoài trang, người người đều kinh ngạc. Vì với danh tiếng địa vị của ông, ông có thể cưới được cả công chúa, quận chúa. Biết bao nhiêu thiếu nữ nghe đến tên ông đều ước mơ. Thế mà ông cưới mụ Phương, một người con gái quá lứa, vừa xấu, vừa dốt vừa điêu ngoa. Không ai hiểu ra sao nữa.
          Đúng theo phong tục từ thời vua Hùng để lại, anh em Thiệu-Thái, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh đến trang, ông sẽ truyền cho họ vào hậu đường chào chủ mẫu, rồi bà Phương điều khiển gia nhân thù tạc, lo chỗ ăn, chỗ ở cho khách. Nhưng biết vợ vốn điêu ngoa, lại đần độn, Tự-An trao cho con gái cáng đáng hết.
          Thanh-Mai đến hậu đường. Mụ Phương đang ngồi chải tóc, chờ nàng. Mụ hỏi:
          - Nghe Thanh-Mai mới đi xa về phải không? Về cả nửa tháng mà cô không biết gì cả. Nghe nói trong chuyến đi này Thanh-Mai gặp con trai Lý Công-Uẩn. Truyện ra sao?
          Nghe giọng nói sách mé của dì ghẻ, Thanh-Mai cau mày bực mình. Nàng nín thinh không trả lời. Song bản chất ngu tối, mụ Phương tiếp:
          - Cô lại nghe nói Bình-nam vương Triệu Thành thấy Thanh-Mai, ngài chết mê chết mệt. Ngài muốn tuyển Thanh-Mai làm vương phi phải không?
          Thanh-Mai vẫn im lặng. Mụ Phương tiếp:
          - Cô sẽ nói với bố nhận lời cầu hôn của Bình-nam vương. Nhà mình bỗng nhiên có ông rể uy quyền nhất thiên hạ, chỉ thua hoàng đế có một bậc.
          Thanh-Mai hỏi ngược lại:
          - Tin đó ai nói cho cô biết?
          Mụ Phương cười:
          - Truyện lớn như vậy, tất nhiên phải có nhiều người biết chứ! Thanh-Mai cứ yên tâm, Bình-nam vương sẽ về Thăng-long yêu cầu Lý Công-Uẩn đứng ra mai mối đấy.
          Thanh-Mai cười nhạt:
          - Họ Trần nhà này đời đời thù ghét bọn Tống. Đời nào cháu lại đem thân đi làm một thứ Mỵ-Châu?
          Mu Phương cười, hai lưỡng quyền của mụ dô ra, da mặt sần sùi xếp lại thành từng lớp giống da cam sành:
          - Cô sẽ nói với bố gả Thanh cho Bình-nam vương chứ quyết không cho Thanh gần tên Lý Long-Bồ.
          Thanh-Mai lườm bà dì ghẻ, nghĩ thầm:
          - Tại sao mụ không tự biết mình? Trong nhà này từ đệ tử cho đến tôi tớ, mụ chẳng có quyền chi hết. Hễ mụ nói điều gì đều bị bố gạt đi. Bây giờ mụ lại muốn xen vào truyện mình?
          Nàng bực mình, im lặng rồi bỏ đi, quên cả chào bà dì ghẻ ngu tối. Thấy trời đã ngả bóng, sắp đến giờ cơm tối, nàng trở về Thủy-các. Chiều nay, có sự hiện diện của Thiên-trường ngũ kiệt, nên ăn cơm ở Thủy-các.
          Theo tục lệ của phái Đông-a, mỗi tháng, các vị tôn sư, đại đệ tử họp nhau một lần tại Thủy-các. Sau đó ăn cơm chung. Thủy-các của trang Thiên-trường là một căn nhà gỗ hai tầng làm trên gò đất giữa cái hồ sen lớn. Từ bờ muốn vào Thủy-các phải leo qua cây cầu đá bắc từ bờ tới đảo. Đúng ra cuộc họp môn phái, người ngoài không được dự. Nhưng đám anh em Thiệu-Thái, Mỹ-Linh là bạn của Thanh-Mai, Tự-Mai, đã được đại hiệp Tự-An chỉ điểm cho hơn nửa tháng qua, vì vậy, ông xin với các sư đệ cho bọn trẻ tham dự.
          Đúng giờ họp, ba hồi trốnh đánh. Các đệ tự theo thứ tự vượt qua cầu vào Thủy-các. Mỹ-Linh hỏi Tự-Mai:
          - Này sư đệ! Thông thường những buổi họp như thế này khác với buổi họp hồi trưa như thế nào?
          - Khác nhiều lắm. Khi khách tới viếng trang thì họp ở đại sảnh đường, để mọi người chào đón khách. Còn họp môn phái, chỉ các đại tôn sư, cùng đệ tử thành danh mới được dự. Họp môn phái để bàn định các vấn quan trọng. Hồi cách đây sáu tháng, khoảng trên mười người được mời, không hiểu trong thời gian tiểu đệ vắng mặt, có gì thay đổi không?
          Các đại đệ tử của Thiên-trường ngũ kiệt tất cả mười người. Mỗi người đều có ghế ngồi, ghi tên sẵn. Chị em Thanh-Mai không được thành đại đệ tử, nhưng được dự để bưng trà, rót rượu, cùng sai vặt. Thiệu-Thái, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh, Tôn Đản cùng Đỗ Lệ-Thanh được mời vào ghế dành cho quan khách.
          Ba tiếng trống báo hiệu. Thiên-trường ngũ kiệt vào phòng hội. Mọi người dứng dậy hành lễ. Trần Tự-An lên tiếng:
          - Các vị sư đệ. Phiên họp tháng này, có nhiều vấn đề quan trọng cần bàn. Một, nghe Thanh-Mai trình bày về diễn biến tại Cửu-chân trong sáu tháng qua. Hai, chúng ta phải có hành động thế nào cho phù hợp với tình thế hiện tại. Vì những diễn biến tại Cửu-chân còn có mấy thiếu niên, bạn kết nghiã của Thanh-Mai, Tự-Mai, nên tôi mời họ cùng tham dự.
          Ông vẫy tay gọi Thanh-Mai:
          - Con hãy đem tất cả những gì đã xẩy ra trong chuyến đi vừa rồi thuật lại, không thiếu một chi tiết nào.
          Thanh-Mai kính cẩn hành lễ, rồi kể lại những gì xẩy ra từ lúc nàng cùng sư phụ gặp bọn Tôn Đản. Khi nàng kể đến lúc khởi diễn lễ tế Lệ-hải bà vương. Vũ-Anh ngắt:
          - Con ngừng lại chỗ này. Để chúng ta bàn truyện xem sao đã.
          Ông đặt vấn đề:
          - Bọn gian làm tế tác cho Tống ở Cửu-chân hiện chỉ mới biết có ĐàmToái-Trạng, Đàm An-Hòa, Nguyễn Khánh và Nguyên-Hạnh. Bọn thiếu niên Hồng-hương một lòng với đất nước, mà bị Nguyên-Hạnh đưa vào đường phản quốc không hay. Tên Tống bịt mặt, giả tấn công Tung-sơn tam kiệt không biết là người Hán hay người Việt?
          Tự-Mai đáp:
          - Thưa sư thúc theo cháu nghĩ nó là người Hán, vì chiêu số cũng như võ công rất lạ. Cháu chưa từng thấy qua.
          Phạm Hào bảo Tự-Mai:
          - Cháu thử diễn lại những chiêu y đã xử dụng cho bố với các chú xem nào?
          Tự-Mai kình cẩn bái tổ rồi đánh liền ba mươi chiêu. Khi nó đánh chiêu thứ nhất Đỗ Lệ-Thanh đã bật lên tiếng kêu kinh ngạc. Đến chiêu thứ ba mươi bẩy, Trần Kiệt ngoắc tay:
          - Được rồi.
          Tự-Mai ngừng lại. Nó bái tổ rồi về chỗ. Phạm Hào quay lại hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
          - Đỗ phu nhân, phải chăng những chiêu thức vừa rồi thuộc võ công của bang Nhật-hồ?
          Đỗ Lệ-Thanh kính cẩn đáp:
          - Vâng, những chiêu thức ấy không sai chút nào cả. Trong đó có mấy chiêu đã thất truyền, chính Nguyên-Hạnh với tiểu tỳ cũng không biết. Vậy trong đám người làm gian tế cho Triệu Thành ắt có người của bang Nhật-hồ Trung-quốc. Thảng hoặc thuộc Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Võ công của y rất cao cường. Hiện chưa thấy y xuất hiện.
          Vũ Anh gật đầu:
          - Theo cung từ của Quách Quỳ, bọn Triệu Thành bắt liên lạc được với hai người thuộc bang Nhật-Hồ Trung-Quốc, ba trưởng lão Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Hai người Trung-quốc, Ý muốn nói Nguyên-Hạnh với phu nhân. Còn ba trưởng lão Hồng-thiết giáo. Có thể tên bịt mặt nằm trong số ba người đó.
          Trần Kiệt nhìn Thanh-Mai mỉm cười:
          - Cháu cũng như Tự-Mai đều bị mắc mưu bọn Triệu Thành rồi. Cái tên bịt mặt đó, vốn nghười phái Thiếu-Lâm. Y giả dùng võ công Hồng-thiết giáo, hầu gieo tai vạ cho giáo phái này. Điạ vị tên bịt mặt rất lớn. Mưu trí của y thực siêu phàm. Trong lúc y diễn kịch, chú theo dõi, biết hành tung của y. Chú đã lấy trộm cả tập thơ của y. Sau này chú cho cháu thi tập ấy. Để khi cháu gặp y, đưa ra, làm cho y chết khiếp chơi. Đúng ra chú giết y ngay hôm ấy. Song y vốn có chút tiếng tăm về văn học, xử sự chính nhân quân tử. Vì vậy chú để y sống, ắt có lợi cho Đại-Việt ta.
          Thanh-Mai lại tường thuật những gì xẩy ra trong lễ tế Lệ-hải bà vương cho đến khi nàng cùng Bảo-Hòa, Mỹ-Linh lên chùa Sơn-tĩnh, rồi thám thính đền thờ Nhâm Diên, Tích Quang, bị Tung-sơn tam kiệt bắt giam trong hầm đá.
          Trần Kiệt hỏi Tôn Đản:
          - Cháu Đản. Bố cháu khám phá ra hầm đá chép bí quyết võ công thời Lĩnh-nam hay những đời trước khám phá ra, rồi lưu truyền lại cho bố cháu?
          Tôn Đản thẹn thùng đáp:
          - Chính cháu khám phá ra rồi dẫn bố cháu vào.
          Hoàng Hùng gật đầu:
          - Bố cháu hành sự như vậy là phải. Có điều chúng ta cần phải tìm hiểu xem tại sao Triệu Thành đã biết nơi cất di thư, mà y còn tốn công phái nhiều cao thủ, rồi chính y đi tìm làm gì?
          Bảo-Hòa hướng vào Tự-An:
          - Cháu thử giải đoán, nếu có sai, xin sư bá miễn tội.
          Tự-An cười khoan thứ:
          - Đây là việc quốc gia, bất cứ ai có ý kiến, cũng nên phát biểu.
          Bảo-Hòa đứng lên nói:
          - Tống triều muốn được bộ Dụng binh yếu chỉ nên đã phái nhiều đoàn sang dò thám. Họ đã mua chuộc được bọn Đàm Toái-Trạng, Nguyễn Khánh làm gian tế cho họ. Gần đây thêm đòan thứ nhì là bọn Tung-sơn tam kiệt. Bọn Tung-sơn tam kiệt lên đường rồi, Đinh Tòan mới xuất hiện. Đinh trình tấm áo có ghi chép bản đồ cho Triệu Thành xem. Ông ta hứa dâng di thư, đổi lấy ngôi Giao-chỉ quận vương. Triều Tống đã hứa với ông. Vì vậy ông mới dẫn đường cho bọn Triệu Thành. Thành biết chắc chắn có di thư vì vậy y mới đích thân lên đường cùng với Minh-Thiên, Vương Duy-Chính.
          Mọi người cùng gật đầu, công nhận lý luận của Bảo-Hòa đúng. Nàng tiếp:
          - Bọn Triệu Thành sang đến nơi, chúng liên lạc được với bọn Tung-sơn tam kiệt. Nhân xẩy ra vụ Tôn Đản ném bùn Quách Qùi, chúng bàn nhau gây ra vụ ăn cướp tại đền Tương-Liệt đại vương, làm như chúng không biết gì về di thư. Như vậy chúng vẫn chưa yên tâm. Chúng còn cố xuất hiện trong cuộc tế Lệ-hải bà vương, rồi lên đường đi Chiêm. Chúng biết dù đã có Đàm Toái-Trạng, Nguyễn Khánh làm gian tế, chúng cũng khó che mắt Khu-mật viện Đại-Việt. Vì vậy một mặt chúng lên đường đi Chiêm-thành, để lỡ có bị theo dõi, cũng không sao. Trong khi đó chúng bí mật cho Tung-sơn tam kiệt cùng Đinh Toàn đi đào di thư.
          Mọi người vỗ tay hoan hô. Tự-An gật đầu:
          - Cháu giải đóan chính xác qúa. Như vậy ông Tôn Trung-Luận không biết nơi cất di thư. Vì ông không có căn bản võ thuật, hơn nữa không biết đọc chữ Khoa-đẩu, thành ra ông luyện mà không thành.
          Trần Kiệt nghe kể về hành tung nhà sư trợ giúp Bảo-Hoà, rồi đêm lẻn vào hầm đá, xông thuốc mê, chép hết di thư mang đi. Ông hỏi Bảo-Hòa:
          - Cháu có chằc nhà sư đó là người Việt không?
          - Chắc một trăm phần trăm.
          - Như vậy bộ Võ-kinh lại lưu truyền qua nhà sư trẻ đó.
          Ông quay lại Thanh-Mai:
          - Con thuật tiếp đi.
          Thanh-Mai thuật đến những việc xẩy ra tại Vạn-thảo sơn trang, cùng việc trở lại chùa Sơn-tĩnh dò thám Nguyên-Hạnh. Khi nàng thuật đến Ngũ-độc chưởng, mặt Tự-An nhăn lại.
          Ông hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
          - Hai mươi năm trước giáo chúng Hồng-thiết giáo công bố tin Nhật-Hồ lão nhân qua đời, có để lại một di chúc. Khi Nhật-Hồ lão nhân tạ thế, chỉ ba trong mười đại đệ tử của ông có mặt mà thôi. Ba người đó tên Vũ Nhất-Trụ, Lê Ba, và Hoàng Văn. Chúng xây lăng rất lớn thờ lão, bắt dân chúng giáo đồ cúng hàng ngày. Nhưng bẩy để tử khác lại không tin sư phụ qua đời. Có người định đào mồ ông lên xem có đúng không. Nhưng Lê Ba đưa di chúc ra, trong đó có đoạn nói khi lão chết, chỉ Nhất-Trụ, Lê Ba, Hoàng Văn được khâm niệm lão. Cho đến nay, một số đông giáo chúng không tin lão chết. Theo phu nhân, liệu Nhật-hồ lão nhân có còn sống hay không?
          - Tiểu tỳ nghĩ, ông không thể sống đến ngày nay. Tuy vậy việc quý phu nhân cũng như phu nhân của Hồng-Sơn đại phu cùng Vương-phi Khai-thiên vương chết về độc chưởng này. Có thể ông ta chết rồi, đệ tử ông ta gây ra tội lỗi mà thôi. Dường như họ mưu đồ gì lớn lắm, nên mới ra tay kiềm chế toàn những phu nhân có địa vị tối cao. Biết đâu các vị phu nhân của các phái khác cùng vương phi, hoàng hậu chẳng bị kiềm chế hết rồi. Nhưng họ bí mật tuân lệnh của Hồng-thiết giáo.
          Bà tiếp:
          - Như đại hiệp nói, lão có mười đại đệ tử, vậy chúng là những ai?
          - Hành tung của bọn Hồng-thiết giáo kỳ bí vô cùng. Sở dĩ người ta biết tên ba trưởnglão Vũ Nhất-Trụ, Hoàng Văn, Lê Ba, vì căn cứ vào di chúc. Còn mặt mũi chúng ra sao nào ai biết? Chỉ nghe phong thanh, chúng ẩn thân dưới nhiều tên khác.
          Hoàng Hùng hỏi:
          - Cứ như phu nhân, hiện thời với công lực của Bố-Đại hòa thượng, cũng như Thiệu-Thái, thừa sức phá giải Nhật-hồ độc chưởng. Còn phu nhân có thuốc giải chưởng này!
          - Vâng.
          Trần Kiệt hỏi Bảo-Hòa, Mỹ-Linh:
          - Này hai cháu. Hai cháu thuộc chỗ thâm tình với Khai-quốc vương. Hai cháu có thể cho ta biết tại sao Khai-quốc vương biết bọn Tống ăn cắp di thư Lĩnh-nam, người không cho quân bao vây, bắt chúng phải trả lại. Di thư đó, dù thực, dù giả, dù có còn hữu dụng hay không, vẫn là công trình tâm huyết của tổ tiên. Mặt khác, chúng ăn cắp di thư, với mục đích dùng để xâm chiếm Đại-Việt, thế mà người cầm vận mệnh Đại-Việt lại lờ đi thì thực cũng lắm điều lạ.
          Bảo-Hòa mỉm cười. Trong cái cười của nàng ẩn tàng biết bao bí mật:
          - Hiện cháu chưa thấy cậu hai có hành động gì tương ứng với vụ này. Tuy vậy, cháu biết cậu hai không bao giờ bỏ qua đâu. Cậu cháu vốn mưu trí thâm cơ vô cùng, khó ai đoán biết trước cậu cháu sẽ làm gì, nghĩ gì. Mãi tới gần đây, cháu mới thấy hai người đoán trước được ý nghĩ của cậu cháu.
          Vũ Anh hỏi:
          - Là ai vậy?
          - Sư bá Tự-An, và chị Thanh-Mai.
          Thiên-trường ngũ kiệt cùng đưa mắt nhìn Thanh-Mai. Thanh-Mai cúi mặt xuống không dám nhìn lên. Thời bấy giờ phụ quyền rất mạnh. Trai, gái không có quyền quyết định về hôn nhân của mình. Mọi việc do cha mẹ hết. Đối với đại hiệp Trần Tự-An, ông không quá câu nệ lễ giáo, cho nên ông để Thanh-Mai được ra ngòai. Việc nàng với Tự-Mai du lịch Trường-yên thăm hoa, gặp Khai-quốc vương, rồi vương sai người đem hoa đến tặng nàng. Nhất nhất không qua được mắt ông. Trong khi đó chính Thanh-Mai không biết người thanh niên hào phóng đó là một vị thái tử, một vương tước, cầm quyền nghiêng nước.
          Cho đến khi gặp lại chàng tại Cửu-chân, nàng mới biết người tình của mình có thân thế to lớn. Bây giờ ngồi trước mặt bố, chú, sư thúc, Bảo-Hòa vô tình nói ra sự thực, làm Thanh-Mai lo lắng không ít. Nhất là giữa môn phái Đông-a lại có nhiều bất hoà với triều đình. Nàng nghĩ thầm : Truyện mình với chàng chỉ có mấy chị em nàng biết. Mà tại sao bố với các sư thúc cũng biết. Nhất định phải có người tiết lộ. Nhưng nàng chợt nhớ ra, khi nàng bị bọn Tung-sơn tam kiệt bắt đi. Sư huynh của nàng là Ngô An-Ngữ đã sai người về báo tin cho bố nàng biết. Chắc bố nàng cho người âm thầm điều tra chứ không sai.
          Tự-An gật đầu:
          - Việc này coi như xong. Bây giờ tới việc Triệu Thành hăm, nếu họ Lý không trả ngôi vua cho Lê Long-Mang, triều Tống sẽ cất quân sang đánh. Các sư đệ nghĩ sao?
          Vũ Anh thở dài:
          - Anh em chúng ta không muốn dính dáng gì đến việc vua chúa. Tuy nhiên có mấy việc không đừng được. Lẽ thứ nhất, thủa thơ ấu chúng ta với Mang thuộc chỗ thâm giao. Sau khi thất thế, Mang đóng cửa luyện võ, trở thành Hồng-Sơn đại phu. Đại phu với chúng ta chưa từng gặp nhau, nhưng lại có nhiều qua lại thâm tình. Nếu như bây giờ Hồng-Sơn đại phu khởi binh, nhân danh võ đạo diệt kẻ tiếm ngôi, yêu cầu chúng ta trợ thủ. Chúng ta làm sao chối được? Võ đạo của bản phái lấy tình bạn làm trọng. Nay bạn hưng binh đòi lại cái đã bị người cưỡng chiếm rất hợp lý.
          Hoàng Hùng cũng tiếp:
          - Dù Lý, dù Lê làm vua, chúng ta cũng không cần biết đến. Nhưng nếu để Lý làm vua, ắt quân Tống kéo qua, chiến tranh sẽ rất tàn khốc. Dù Lý có thắng, đất nước cũng điêu linh. Chi bằng chúng ta nên giúp Hồng-Sơn, áp lực bắt Lý trả ngôi vua, hầu tránh chiến tranh.
          Tự-An suy nghĩ một lúc, rồi ông nói:
          - Bất cứ trường hợp nào, dù Lý làm vua, dù Lê làm vua, đường lối hành động của chúng ta phải ở trong bằng này điều: Một là làm sao cho nội bộ triều đình, các gia, các phái người người đồng tâm. Chính sự phải tốt đẹp, khiến nước giầu dân mạnh. Bấy giờ Tống mới có thể để mình yên. Hai là phải liên kết các nước, vốn thuộc tộc Việt cũ như Đại-lý, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la làm thế ỷ dốc. Ba là hoà hiếu với Tống. Về phương diện này, cần gửi một số cao thủ sang Biện-kinh cùng Lưỡng-Quảng. Hễ bọn quan liêu nào manh nha lòng tham chiếm Đại-việt, ta âm thầm giết chết. Hay cũng giết thân nhân chúng, để chúng không lòng dạ nào nghĩ đến xâm lăng mình nữa.
          Thình lình có tiếng quát:
          - Người là ai, mà dám lớn mật đến trang Thiên-trường dò thám?
          Trên nóc Thủy-các có tiếng chưởng lực chạm nhau. Mọi người vội rời phòng họp cùng nhảy lên mái nhà.
          Trên mái nhà, một người bịt mặt đang giao đấu với đại đệ tử của Vũ Anh tên Đào Hiển. Võ công Đào Hiển khá cao, nhưng bản lĩnh người bịt mặt cũng không tầm thường. Hai bên giao nhau đến chiêu thứ mười, Đào Hiển kém thế rõ rệt. Sau mỗi chiêu chàng phải lùi đến hai bước.
          Đào Hiển đánh liền mười chiêu Đông-a chưởng pháp. Người kia thản nhiên đỡ. Cứ hai chiêu chạm nhau, Đào Hiển lại lùi liền một bước. Thấy Đào Hiển sắp bại, Phạm Hào quát lớn:
          - Ngừng tay!
          Hai người ngừng lại. Phạm Hào chắp tay:
          - Phái Đông-a hôm nay hân hạnh được tiếp một cao thủ Đại-lý giá lâm. Xin quí nhân cho chúng tôi được thấy kim diện cùng biết cao danh quí tính?
          Người bịt mặt tần ngần một lát, rồi phát chiêu hướng Đỗ Lệ-Thanh tấn công. Chưởng cửa y mãnh liệt vô cùng. Biết Đỗ Lệ-Thanh khó đỡ nổi chưởng đó, Phạm Hào vung tay đỡ. Binh một tiếng. Cả hai bật lùi lại ba bước. Mọi người đều la hoảng. Vì bản lĩnh Phạm Hào không thua sư huynh Trần Tự-An bao nhiều, mà dường như công lực xấp xỉ với người này.
          Người bịt mặt cười nhạt:
          - Thiên-trường ngũ kiệt danh vang Hoa-Việt, mà bản lĩnh chỉ có thế thôi ư? Xin tiếp chiêu nữa của tại hạ.
          Y vung chưởng đánh tới. Chưởng chưa phát ra mà mọi người như muốn ngộp thở. Phạm Hào quát lên một tiếng xuất chiêu Đông-a chưởng pháp đỡ. Binh một tiếng, bọn đệ tử Đông-a công lực chưa đủ, phải nhảy xuống nóc Thủy-các để tránh áp lực.
          Người bịt mặt với Phạm Hào đã giao nhau đến chiêu thứ mười. Công lực hai bên ngang nhau.



          <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.01.2005 06:44:55 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9