THI PHÁP HSN

Tác giả Bài
HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
THI PHÁP HSN - 21.07.2008 01:00:28
======================
THI PHÁP
HÀN SĨ NGUYÊN

======================

LÀM THƠ

Lúc túng mưu mô quỵt cả ... Trời
Trời cười truyền chỉ bác Thiên Lôi (1)
Mau mau tóm gã ngông cuồng đó
Bắt hắn làm thơ ... trả nợ đời

Tấp tểnh làm thơ, tập tễnh mơ
Từ năm mười sáu đến bây giờ
Một câu một chữ không nên trọn
Rõ ngọng làm thơ, rõ ngốc mơ

Rượu nốc tì tì dăm bảy hũ
Thơ nặn không ra lấy nửa vần
May mà Thi Thánh đem lòng giúp
Phong trần lãng tử hóa thi nhân

HSN (Tự trào-1999)
_________________
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần

(1) Hai câu đầu nhái thơ Tú Xương : Lúc túng mưu mô bán cả Trời // Trời cười thằng bé nó hay chơi....


==========
THI PHÁP
Nội Dung
==========

Thi Pháp là một tập tư liệu biên khảo bao gồm chín nội dung như sau :

1-Thơ Lục Bát Chính Thể
2-Các Biến Thể của Thơ Lục Bát
3-Thất Ngôn Bát Cú Xưa và Nay
4-Xướng Họa và Liên Ngâm với TNBC
5-Thơ Mới 7 chữ
6-Thơ Mới 3,4,5,6 chữ
7-Thơ Mới 8 chữ
8-Thơ Lập Thể
9-Thơ Tự Do


***Đôi lời phi lộ

1-Mục đích của loạt bài này là nhằm giúp các bạn trẻ yêu thơ, nhưng chưa biết cách làm thơ, có cơ hội trang bị một số công cụ quan trọng cần thiết khi sáng tác.
Thử tưởng tượng một người thợ mộc nếu không có cưa, giũa, đục, bào, kìm, búa v.v... thì biết xoay sở làm sao với thanh gỗ, làm sao mà tạo ra được những tác phẩm bình thường, còn nói gì đến những tuyệt tác tinh xảo ?
Làm thơ cũng là một hoạt động sáng tạo, cũng đòi hỏi phải có những công cụ, những thủ thuật, những kỹ xảo, những yếu quyết riêng của nó vậy.

2-Đối tượng của loạt bài này là các bạn trẻ yêu thơ, muốn khởi đầu nghiệp thi ca tài tử của mình, mà hành trang chưa có chút vốn liếng nào, thậm chí cũng không biết khởi đầu từ đâu; Một đối tượng khác nữa là một số các bạn thơ đã biết , đã ít nhiều lăn lóc với thơ và còn muốn trang bị thêm những kiến thức về nó
Xin các bạn thơ đã có bản lãnh rồi miễn trách tôi nói dông nói dài nhé. Những bất đồng quan điểm nếu có, xin cũng mạn phép Miễn Tranh Luận. Vì thật ra, để đến La Mã có rất nhiều đường. Những khái niệm mà tôi nêu ra ở đây chỉ là một trong vô số các đường ấy mà thôi. Nếu những con đường này có khác biệt nhau, cũng không có gì là lạ cả.

3-Các thí dụ minh hoạ trích dẫn ở đây xuất xứ từ 2 nguồn :

-Một là : từ các thi hào danh tiếng như Nguyễn Du, v.v....Học tập, bắt chước các danh sĩ đã có tiếng tăm là chuyện đương nhiên, không có gì phải bàn cãi.
-Hai là : từ chính những bài viết của Hàn Sĩ Nguyên. Mục đích của việc này không phải để đề cao mình, mà là nhằm chứng minh cho các bạn trẻ thấy HSN (cũng tầm thường, bình thường như các bạn) bắt chước các danh sĩ được, thì các bạn trẻ cũng làm được; theo kiểu “Yan can cook, you can, too !” vậy. Việc học tập , bắt chước Nguyễn Du v.v... không hề nằm ngoài khả năng của các bạn đâu. Chẳng có gì phải tự ti mặc cảm cả, các bạn ạ.

4-Những bài viết này trước đây chính tôi đã đăng 2 chương một và hai trên website Trí Tuệ Việt Nam Online, và sau này là website Trinh Nữ. Sau đó, những nội dung ấy được nhiều bạn, quen hoặc chưa quen có nhã ý chuyển tải đi nhiều websites khác nữa... Và nội dung đôi khi bị thêm bớt, hoặc rơi vãi, không tránh khỏi TAM SAO THẤT BẢN. Gần đây, nhiều bạn thơ có gửi e-mail cho tôi đề nghị đăng lại các nội dung của tập sách 9 chương này, chứ chờ sách in thì lâu quá. Hàn Sĩ vốn... túi thủng, biết đến thuở nào mới có đủ kinh phí mà in (!) 

5-Như tên gọi của tập sách : THI PHÁP HSN, đây là một bộ tư liệu nói về những PHƯƠNG PHÁP làm thơ, way to make verse, chữ PHÁP này không phải là LUẬT PHÁP (law), mà là PHƯƠNG PHÁP... Vì theo thiển ý, làm thơ là một nghệ thuật của trí tuệ, ta chỉ cần học biết CÁCH làm thôi (như học nấu ăn, học cắm hoa, học gảy đàn vậy)... chứ chả cần học LUẬT LỆ quái quỷ chi hết cho nhọc lòng. Có ai cần học Luật nấu ăn, Luật cắm hoa, Luật gảy đàn  bao giờ đâu nhỉ? Nhưng Cách nấu thì cần thật đấy, cần lắm các bạn thân mến ạ.

Chúc các bạn tìm thấy đôi điều bổ ích nơi đây

HSN
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.07.2008 01:03:31 bởi HanSiNguyen >
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 21.07.2008 01:13:41
============
THI PHÁP 
Chương I
Thơ Lục Bát

============

Bài 1-Làm sao làm thơ Lục Bát ?
Bài 2- Những lỗi thường gặp trong thơ Lục Bát
Bài 3-Những thủ thuật Mỹ từ pháp trong thơ Lục bát

oOo

Bài 1-Làm sao làm thơ Lục Bát ?

1-Thơ Lục Bát là gì ?

Là một thể thơ thuần túy Việt Nam, gồm một câu 6 chữ, nối theo một câu 8 chữ, rồi lại một câu 6 chữ, một câu 8 chữ ... liên tiếp vô cùng vô tận

2-Độ dài của một bài thơ Lục Bát :

a- Lục bát ngắn :

+Bài ngắn nhất gồm 2 câu : một câu lục (6 chữ), một câu bát (8 chữ) thường gặp trong ca dao, thí dụ như :

Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn

+Các bài ngắn khác gồm 4, 6, 8, 10 câu, thí dụ như :

Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn , trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai
Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ

b-Lục bát trung bình :

Thường có độ dài từ 12 đến 24 câu, tối đa là 36 câu mà thôi. Nếu dài quá bài thơ sẽ bị nhàm chán, mất hay.

Chẳng thương ...

Chẳng thương cũng gọi rằng chồng
Chẳng tình cũng nghĩa, chẳng mong cũng chờ
Ai làm cho rối duyên tơ
Gió xuân hiu hắt, nhạt nhòa mưa xuân
Hỏi người tham bã phù vân
Nhớ chăng bể ái nguồn ân thuở nào
Lưng dưa dĩa muối bên nhau
Gừng cay khế ngọt biết bao nhiêu tình
Ngỡ rằng phu quý phụ vinh
Ngờ đâu rũ áo dứt tình theo ai
Một mai phấn nhạt hương phai
Bình rơi, trâm gãy, bèo trôi, hoa tàn
Trách mình số kiếp gian nan
Trách trời ghen ghét hồng nhan muộn rồi !
Mộng mơ chi lắm người ơi
Nồi nào vung nấy suốt đời thong dong

Mộ Trung Nhân

c-Trường thiên lục bát :

Thường gặp trong các bộ truyện thơ , thí dụ như :
-Thạch Sanh Lý Thông (1790 câu)
-Truyện Kiều tức Đoạn Trường Tân Thanh (3254 câu)
-Thừa Tướng Ứng Hầu Phạm Thư (3380 câu)
Truyện thơ dài nhất tính đến nay được biết là bộ truyện thơ Cuộc đời Chúa Cứu Thế (hơn 9 ngàn câu) của nhà thơ Linh mục Xuân Văn

3-Cách gieo vần trong thơ Lục Bát :

Lục Bát chính thể là thể loại nối tiếp một câu 6, một câu 8 rồi lại đến một câu 6, một câu 8 khác , cứ thế nối tiếp nhau, trong đó cách gieo vần như sau :

-Chữ thứ 6 câu 1 ăn vần với chữ thứ 6 câu 2
-Chữ thứ 8 câu 2 ăn vần với chữ thứ 6 câu 3
-Chữ thứ 6 câu 3 ăn vần với chữ thứ 6 câu 4
-Chữ thứ 8 câu 4 ăn vần với chữ thứ 6 câu 5
..... cứ như thế nối tiếp nhau mãi

Thí dụ 1: Ca dao

Anh về rẫy vợ anh RA
Công nợ em trả, mẹ GIÀ em NUÔI
Anh đã rẫy vợ anh RỒI
Công nợ anh trả, anh NUÔI mẹ già .

Thí dụ 2 : Cây thông ( Nguyễn Công Trứ )

Ngồi buồn mà trách ông XANH
Khi vui muốn khóc, buồn TÊNH lại CƯỜI
Kiếp sau xin chớ làm NGƯỜI
Làm cây thông đứng giữa TRỜIREO
Giữa trời vách đá cheo LEO
Ai mà chịu rét thì TRÈO với thông .

4-Luật Nhị Tứ Lục trong thơ Lục bát : (Luật B-T-B)

Điều này không quy định thành luật bắt buộc chính thức, nhưng thường thì muốn cho một câu thơ hay, phải tuân thủ luật nhị tứ lục (chữ thứ 2,4,6 trong câu phải mang thanh Bằng, Trắc, Bằng theo thứ tự).

+Riêng chữ thứ 2 được phép linh dộng tự do, muốn Bằng Trắc gì cũng được
+Mấu chốt ở nơi chữ thứ 4 bắt buộc phải là thanh Trắc ( có dấu sắc, hỏi, ngã, nặng ) và chữ thứ 6 bắt buộc phải là thanh Bằng ( không dấu, hoặc dấu huyền ) .

Tóm tắt : Phải tuân theo luật \'Tứ Trắc Lục Bằng\'

5-Luật Phù Trầm trong thơ Lục bát :

Phù : nổi
Trầm : chìm
Bình thanh : thanh bằng
Phù bình thanh : thanh bằng nổi, không dấu
Trầm bình thanh : thanh bằng chìm, có dấu huyền
Trong câu bát (câu 8 chữ) của bài Lục bát, đã hình thành một quy luật, một giao ước như sau :

-Nếu chữ thứ 6 của câu bát là Trầm Bình Thanh (dấu huyền) thì chữ thứ 8 của câu ấy phải là Phù Bình Thanh (không dấu).

Thí dụ :
Người đi, người đã đi rồi
Sao còn đứng đó ngậm NGÙICHI
(HSN-Thừa Tướng Ứng Hầu Phạm Thư)

-Ngược lại, nếu chữ thứ 6 là Phù Bình Thanh (không dấu) thì chữ thứ 8 phải là Trầm Bình Thanh (dấu huyền).

Thí dụ :

Hỡi ơi người đó ta đây
Trăm năm trăm tuổi bèo MÂY hững HỜ
(HSN-Mộ Sầu)

Tóm lại :

Chỉ cần bấy nhiêu vốn liếng thôi, các bạn cũng đã đủ để viết được thơ lục bát rồi vậy.
Tuy nhiên, muốn viết được một bài Lục bát cho hay, nhất thiết phải tránh không để vấp phải lỗi Lục bát trôi xuôi, lỗi lạc vận và lỗi vần trùng lặp
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 21.07.2008 01:21:49
Bài 2- Những lỗi thường gặp trong thơ Lục Bát

1-Lỗi vần trùng lặp
2-Lỗi lạc vận
3-Lỗi Lục bát trôi xuôi


1-Lỗi vần trùng lặp

Như đã nói trong phần “Cách gieo vần trong thơ Lục Bát chính thể” ở trên :
-Chữ thứ 6 câu 1 ăn vần với chữ thứ 6 câu 2 : Yêu vận
-Chữ thứ 8 câu 2 ăn vần với chữ thứ 6 câu 3 : Cước vận
-Chữ thứ 6 câu 3 ăn vần với chữ thứ 6 câu 4 : Yêu vận
-Chữ thứ 8 câu 4 ăn vần với chữ thứ 6 câu 5 : Cước vận

Trong đó :
-Yêu vận là vần lưng, gieo ở giữa câu (Yêu = lưng), mục đích nối kết câu 6 với câu 8
-Cước vận là vần chân, gieo ở cuối câu (Cước = bàn chân), mục đích để chuyển sang một vần mới

Thí dụ :
Tình Cờ

Tình cờ gặp lại nhau đây
Tóc vương màu cỏ, áo phai bụi ĐƯỜNG
Gợn buồn xen lẫn yêu thương
Chút tình thơ dại vấn vương bao NGÀY
Ngượng ngùng tay lại cầm tay
Rưng rưng mắt biếc, ngây ngây má HỒNG
Nhìn nhau lòng những thẹn thùng
Vì đâu ai bỗng lạnh lùng với AI ?
Người song cửa, kẻ chân mây
Gặp nhau may chỉ phút giây tình CỜ !

Hàn Sĩ Nguyên

Tóm lại :

Chữ thứ 8 trong câu bát có nhiệm vụ chuyển đoạn thơ kế tiếp sang một vần mới. Vần của nó phải khác với vần của chữ thứ 6 trước đó

Như trong bài Tình cờ nói trên, những chữ thứ 8 trong các câu bát cụ thể là ĐƯỜNG (trong câu 2), NGÀY (trong câu 4), HỒNG (trong câu 6), AI (trong câu 8) và CỜ (trong câu 10) có nhiệm vụ chuyển đoạn thơ kế tiếp sang một vần mới, giúp cho bài thơ không bị trùng lặp về vần, tránh sự nhàm chán

***Nếu vì sơ xuất mà viết chữ thứ 6 và chữ thứ 8 cùng một vần, ta sẽ mắc phải lỗi vần trùng lặp.
Thí dụ :

Thôi đừng mơ tưởng bên nhau
Thế nhân lắm kẻ chung ĐẦU phụ SAU

Hoặc :

Tàn rồi một cánh hoa mơ
Trên sông khuya nhớ bến BỜ lửng

Trong những câu bát này, chữ thứ 6 (ĐẦU, BỜ), và chữ thứ 8 (SAU, LƠ) cùng một vần, hậu quả là đoạn thơ kế tiếp cũng sẽ cùng một vần với đoạn trước đó ... Đó là lỗi vần trùng lặp, làm cho bài thơ bị nhàm
Thật lạ là có nhiều tay cao thủ về thơ, nhưng khi viết thơ Lục bát vẫn dính lỗi này (!)

Để tránh lỗi này, khi viết câu bát ta chỉ cần lưu ý cho chữ thứ 6 và chữ thứ 8 khác vần là xong .

2-Lỗi lạc vận :

-Tu từ ( các thủ pháp mỹ từ hoá )
-Tiết tấu bổng trầm ( do luật phù trầm , tứ trắc lục bằng quyết định )
-Sự hoà hợp về vần
Là những yếu tố quan trọng nhất, góp phần hình thành nên một bài thơ hay. Sự hoà vận này bao gồm bốn mức độ khác nhau :

a-Chính vận :
-A với A
-I với I
-AI với AI
-ONG với ONG v.v....
gọi là chính vận ( vần nào ăn khớp chặt chẽ với vần nấy )

b-Thông vận :
-A với OA
-I với Ê, IA
-AI với AY, ÂY
-EM với ÊM, IM, IÊM
-ANH với INH, ÊNH
-ONG với ÔNG - UNG v.v...
gọi là thông vận ( vần hơi khác loại nhưng ăn thông với nhau được )

c-Cưỡng vận :
-AN với ANG
-ON với OM, ÔN với ÔM
-IN với INH, IM
-ÊN với ÊM, ÊNH v.v.....
gọi là cưỡng vận ( vần ép, vần cưỡng bách )

d-Lạc vận :
-Ơ với ƠI
-A với AI, IA
-ÔI với ÔN, ÔM, ÔNG
-ƠI với ƠN
-AI với AN , ANG v.v....
gọi là lạc vận ( vần ăn ... trét; không hoà vận )

Trong 4 cách hoà vận nói trên
-Chính vận thường chặt chẽ, nhưng cũng gò bó, kém phần linh động.
-Thông vận là cách hòa vận thoải mái nhất, làm cho bài thơ trở nên đặc sắc, biến ảo vô cùng
-Cưỡng vận là vần ép, miễn cưỡng cũng có thể dùng được, nhưng nếu sử dụng cưỡng vận nhiều quá, sẽ làm giảm giá trị câu thơ

Tóm lại :
Cả ba cách hoà vận nói trên đều dùng được
Chỉ riêng Lạc vận là phải tuyệt đối tránh, gieo vần lạc vận kể như bài thơ hỏng
Những tác phẩm kinh điển như Truyện Kiều của Nguyễn Du sẽ giúp ích cho chúng ta rất nhiều về cách thức gieo vần vậy. Nói chung là cái gì Nguyễn Du làm được, ta cũng có thể noi theo được.

3-Lỗi Lục bát trôi xuôi :

Một bài lục bát dẫu thật chuẩn về âm vận (vần) và tiết tấu (theo đúng luật tứ trắc lục bằng, và luật phù trầm), nhưng nếu vấp phải lỗi lục bát trôi xuôi, thì cũng chỉ là một bài thơ tầm thường mà thôi.
Như thế nào gọi là lục bát trôi xuôi ?
Lục bát trôi xuôi là một bài lục bát ý thơ trải đều một nhịp, miên man trôi chảy đều đều từ đầu đến cuối như một dòng sông lặng lẽ, không có đột biến, không cả mỹ từ pháp. Nói cách khác, đó là bài thơ phạm phải lỗi MONOTONE (đều đều một nhịp) vậy
Thí dụ về một bài Lục bát trôi xuôi :

Đoá hồng

Anh cho em một đóa hồng
Khơi lên hy vọng trong lòng của em
Anh ơi em khóc bao đêm
Lòng em chết rũ trong niềm yêu thương
Em thức trắng một canh trường
Vừa yêu nhau đấy người thương xa rồi
Tay em nắn nót tên người
Đóa hồng trên giá trêu ngươi cợt đùa...

( Tác giả vô danh )

Trong bài thơ này, vần gieo khá chặt chẽ, chính xác, luật tứ lục, phù trầm phân minh, nhưng phạm lỗi lục bát trôi xuôi nên ý thơ dẫu hay đến mấy thì cách thể hiện cũng thật là tầm thường vậy

***Làm thế nào tránh được lỗi “Lục bát trôi xuôi” ?

Câu trả lời duy nhất là phải áp dụng các thủ pháp tu từ, hoặc mỹ từ pháp mới có thể tránh được lỗi này. Và đó cũng chính là nội dung của bài sau : bài 3.

Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 21.07.2008 01:28:50
Bài 3 –Thuật sử dụng Mỹ Từ Pháp trong thơ Lục Bát

I-Thủ pháp Ngắt mạch
II-Thủ pháp Tiểu đối
III-Thủ pháp Đồng dạng
IV-Thủ pháp Đảo ngữ & Ẩn ngữ
V-Thủ pháp Điệp ngữ
..v.v..
===============================

Để tránh lỗi Lục bát trôi xuôi (một lỗi nặng), và cũng để nâng cao giá trị một bài thơ lục bát, cách duy nhất là phải sử dụng Mỹ Từ Pháp, bao gồm những thủ thuật như sau :

I-Thủ pháp Ngắt mạch :

Một cặp thơ lục bát bao gồm 2 câu 14 chữ, nếu để nó trôi xuôi hết cặp này nối theo cặp khác, tất nhiên không thể tránh khỏi bị nhàm chán.
Thủ pháp ngắt mạch không những giúp tạo đột biến cho dòng chảy, mà còn gia tăng hình ảnh, màu sắc, âm thanh, hương vị cho câu thơ nữa

1-Ngắt mạch 2/2/2 trong câu lục và 2/2/2/2 trong câu bát:

Thay vì một câu lục 6 chữ diễn tả một ý SVO ( chủ từ - động từ - đối từ ) kiểu như :
- Anh (S) cho (V) em (IO) một đoá hồng (DO)
(IO: indirect object, đối từ gián tiếp chỉ người.
DO: direct object, đối từ trực tiếp chỉ vật)

Câu lục có thể phân làm 3 đoạn, mỗi đoạn 2 chữ mang một ý, một hình tượng nào đấy, lập tức câu lục này sẽ mang 3 hình tượng vừa làm giàu cho câu thơ, vừa phá thế đơn điệu .

*Thí dụ : Từ 2 câu đầu bài “Đoá hồng”:

Anh cho em một đoá hồng
Khơi lên hy vọng trong lòng của em

Có thể sử dụng thuật “Ngắt mạch 2/2/2” viết lại thành :

Nụ cười, ánh mắt, hoa hồng
Cho em, cho cả tấm lòng thương yêu

*Các thí dụ khác :

Này chồng / này mẹ / này cha
Này là em ruột / này là em dâu
..................................(Nguyễn Du-Kiều)

Râu hùm / hàm én / mày ngài
Vai năm tấc rộng / thân mười thước cao
........................................(ND-Kiều)

Sấm vang / chớp giật / gió đưa
Mây mù se mối / hạt mưa kết tình
........................(HSN-Người trong mưa)

Một mai phấn nhạt hương phai
Bình rơi / trâm gãy / bèo trôi / hoa tàn
............................(MTN-Chẳng thương)

2-Thủ pháp ngắt mạch 3/3 (Câu 6) V 4/4 (Câu 8) :

Ngắt câu lục thành 2 đoạn, mỗi đoạn 3 chữ, ngắt câu bát thành 2 đoạn mỗi đoạn 4 chữ
Thí dụ :

Khi chén rượu / khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở / khi chờ trăng lên
............................................(ND-Kiều)

Khi gió mát / khi trăng thanh
Ai người nhắc kẻ lữ hành đường xa
..............................................(HSN-Ngàn dâu)

Người song cửa / kẻ chân mây
Gặp nhau may chỉ phút giây tình cờ
.........................................(HSN-Tình cờ)

3-Các thủ pháp Ngắt mạch khác :

-1/5 trong câu lục, thí dụ :

Rằng /: Tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thời cũng người ta thường tình
.............................................(ND-Kiều)

-2/4 trong câu lục, thí dụ :

Vầng trăng / ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc / nửa soi dặm trường
..............................................(ND-Kiều)

Mảng nghe : / Tần chẳng có vua
Thái hậu nhiếp chính ầu ơ điện tiền
.......(HSN-Thừa Tướng Ứng Hầu Phạm Thư)

-3/5 hoặc 3/3/2 trong câu bát, thí dụ :

Hoàng thiên bất phụ hảo tâm
Chẳng bao lâu / tất sắt cầm hợp hoan
.......................(HSN-Hoa Cúc Vàng)

-2/6 hoặc 2/4/2 trong câu bát, thí dụ :

Ôi Kim lang / hỡi Kim lang
Thôi thôi / thiếp đã phụ chàng từ đây
...............................................(ND-Kiều)

Tóm lại :

Trên đây là các thủ pháp ngắt mạch chính nhằm tạo ra đột biến và làm giàu cho câu thơ. Lưu ý rằng ở vị trí ngắt mạch muốn đặt dấu phẩy cũng được, mà không đặt cũng được, để người đọc tự ngắt mạch lấy càng hay !

HSN
-----------------
-Còn tiêp
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 23.07.2008 06:11:31
II-THỦ PHÁP TIỂU ĐỐI

Khi thực hiện thủ pháp ngắt mạch, đặc biệt là với thủ pháp ngắt mạch 3/3 trong câu lục và 4/4 trong câu bát, thường thì các thủ pháp Tiểu đối và Tiểu đồng dạng cũng hay được sử dụng lồng vào, làm gia tăng hẳn giá trị của câu thơ.

1-Tiểu đối 3/3 và 4/4 :

Tiểu đối là một hình thức đối ngẫu thực hiện trên cùng một câu thơ bằng cách ngắt mạch câu thơ ấy thành ra 2 nửa , nửa nọ đối chặt chẽ với nửa kia. Trong câu lục ta sẽ có tiểu đối 3/3, trong câu bát sẽ có tiểu đối 4/4.
Hai vế trong câu thực hiện tiểu đối phải vừa đối ý, đối thanh, vừa đối cả từ loại .Thí dụ :

Làn thu thuỷ / nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm / liễu hờn kém xanh
.........................................(ND-Kiều)

Mai cốt cách / tuyết tinh thần
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười
........................................(ND-Kiều)

Người song cửa / kẻ chân mây
Gặp nhau may chỉ phút giây tình cờ
.....................................(HSN-Tình cờ)

Khi sương sớm / lúc nắng tà
Rừng mai đất Ứng vang xa tiếng đàn
...............................................(HSN-TTUHPT)

Đoạn trường thay lúc phân kỳ
Vó câu khấp khểnh / bánh xe gập ghềnh
..................................................(ND-Kiều)

Xa quê từ ấy đến giờ
Lối xưa quên lối / đường xưa lạc đường
..........................................(HSN-Ngàn dâu)

Người này đáng mặt thần nhân
Tài kiêm văn võ, quỷ thần cũng thua
Hiền tài bậc nhất bây giờ
Pháp binh thông tỏ / thi thư am tường
.............................................(HSN-TTUHPT)

Có thể nói Tiểu đối là một thủ pháp quan trọng bậc nhất của thơ lục bát vậy

***Qua những thí dụ về Tiểu đối nêu trên , dễ dàng nhận thấy rằng :

-Trong câu lục : Mai cốt cách / tuyết tinh thần

Chữ thứ nhất đối với chữ thứ tư ( Mai /Tuyết)
Chứ thứ hai, thứ ba đối với chữ thứ năm , thứ sáu (Cốt cách / Tinh thần)

-Trong câu bát : Vó câu khấp khểnh / bánh xe gập ghềnh

Chữ thứ nhất, thứ nhì đối với chữ thứ năm, thứ sáu (Vó câu / Bánh xe)
Chữ thứ ba, thứ tư đối với chữ thứ bảy, thứ tám (Khấp khểnh / Gập ghềnh)

***Bây giờ giả sử rằng trong câu bát, nếu chữ thứ nhất, thứ nhì đối với chữ thứ bảy, thứ tám. Chữ thứ ba, thứ tư đối với chữ thứ năm, thứ sáu ... thì sao ??? thì có được không ??? Lúc ấy có còn là Tiểu đối nữa hay không ???

Câu trả lời là được, đó vẫn là Tiểu Đối, mà hơn thế nữa, nó còn là một loại tiểu đối đặc biệt có tên là ....Tiểu đối qua gương.



2-Tiểu đối qua gương :

Là loại đối ngẫu cũng thực hiện trên cùng một câu thơ ; trong đó câu thơ được ngắt thành hai nửa, nửa nọ đối chặt chẽ với nửa kia, giống như Tiểu đối thường 3/3 hoặc 4/4 kể trên.

Điểm khác biệt duy nhất là
-Chữ thứ nhất, thứ nhì đối với chữ thứ bảy, thứ tám
-Chữ thứ ba, thứ tư đối với chữ thứ năm, thứ sáu
( tưởng tượng giống như một vật đối xứng, phản chiếu qua một tấm gương vậy)

*Một số thí dụ về Tiểu đối qua gương :

Ai làm cho rối duyên tơ
Gió xuân hiu hắt / nhạt nhòa mưa xuân
.............................(MTN-Chẳng thương)

Gió xuân / Mưa xuân - Hiu hắt / Nhạt nhòa

Gợn buồn thoảng chút bâng khuâng
Xưa sao nhung gấm / phong trần bấy nay ?
...................................(HSN -Tình cờ)

Nhung gấm / Phong trần ; Xưa / Nay

Long Hồ dinh / tỉnh Vĩnh Long
Có sông Mang Thít xuôi dòng Quới An
Có thầy giáo Ngữ nghệ nhân
Lão thông cung bậc / ngũ âm tinh tường
..........................(HSN - Hoa Cúc Vàng)

Trong đoạn thơ ngắn 4 câu này, ta thấy thủ pháp Tiểu đối qua gương đã 2 lần được vận dụng :
Long Hồ / Vĩnh Long ; Dinh / Tỉnh
Lão thông / Tinh tường ; Cung bậc / Ngũ âm

Bấy giờ mất biến thành còn
Tái hồi nhân thế / quỷ môn giã từ
...............(HSN-Thừa tướng Ứng hầu Phạm Thư)
nhân thế / quỷ môn; Giã từ / Quy hồi


Tóm lại :

Cùng là Tiểu đối cả , nhưng :
-Tiểu đối thường : nửa nọ trượt trên nửa kia
-Tiểu đối qua gương : nửa sau là mảnh lật ngược của nửa trước vậy.

3-Tiểu đối mini 2/2 :

Trong thơ lục bát, bất luận là câu lục hay câu bát, ta thường thấy xuất hiện những cụm từ 4 từ , bao gồm 2 nửa, mỗi nửa có 2 từ đối nhau chan chát : Đó chính là tiểu đối mini 2/2
Tiểu đối loại này rất gần với phong cách nói đặc sắc của người Việt ( đặc biệt là người miền Bắc ) : Bay bướm, đối ngẫu, có ca có kệ, như hát như ru ...

Thí dụ :

Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu
Áo xiêm trói buộc lấy nhau
[Vào luồn / ra cúi] công hầu mà chi
Sao bằng riêng một biên thùy
[Tài này / sức ấy] làm gì được nhau
…………………..Nguyễn Du - Kiều

Người này [tuổi trẻ / tài cao]
[Con dòng / cháu giống],[vương hầu / danh gia]
Cha là Mã Phục Triệu Xa
[Đánh thành / xung trận] kể đà mấy mươi
Ngày nay đang lúc cần người
Phong cho làm tướng, thải hồi Liêm Pha
……… HSN-Thừa tướng Ứng hầu Phạm Thư

Hỏi rằng con suối đi đâu ?
Trăm năm ghềnh đá bạc đầu chờ mong
[Hoa rơi / nước cuốn] theo dòng
Cho ta nhắn gửi nỗi lòng hoa ơi
Suối đi [cuối đất / cùng trời]
Trùng phùng biển cả, đơn côi núi rừng
Nước trôi róc rách mông lung
Miên man sương lạnh, mênh mông câu thề
Suối đi, suối có trở về ?
Đầu ghềnh trơ đá, đáy khe sũng buồn
Đêm qua [chớp giật / mưa tuôn]
Dạt dào con suối xa nguồn về xuôi
Bạc lòng chi lắm suối ơi
An Tây ghềnh đá suốt đời trông theo
………………………. Hàn Sĩ Nguyên

Chẳng thương ...

Chẳng thương cũng gọi rằng chồng
Chẳng tình cũng nghĩa, chẳng mong cũng chờ
Ai làm cho rối duyên tơ
Gió xuân hiu hắt, nhạt nhòa mưa xuân
Hỏi người tham bã phù vân
Nhớ chăng [bể ái / nguồn ân] thuở nào
[Lưng dưa / dĩa muối] bên nhau
[Gừng cay / khế ngọt] biết bao nhiêu tình
Ngỡ rằng [phu quý / phụ vinh]
Ngờ đâu [rũ áo / dứt tình] theo ai
Một mai [phấn nhạt / hương phai]
[Bình rơi / trâm gãy], [bèo trôi / hoa tàn]

Trách mình số kiếp gian nan
Trách trời ghen ghét hồng nhan muộn rồi !
Mộng mơ chi lắm người ơi
[Nồi nào / vung nấy] suốt đời thong dong
…………………..Mộ Trung Nhân

Hãy xem Bạch Khởi làm gương
[Công thành / danh toại] sớm phương quy hồi
[Rừng xanh / núi đỏ] rong chơi
[Trăng thanh / gió mát] bên người rừng mai
[Mây ngàn / hạc nội] chơi vơi
Vẫn hơn quyến luyến mãi mùi đỉnh chung
[Trù mưu / tính kế] bận lòng
Cuối cùng không lại hoàn không , ích gì ???
......................………..(HSN-TTUHPT)

-Còn tiếp-

HSN
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 23.07.2008 06:28:09
III-THỦ PHÁP TIỂU ĐỒNG DẠNG và CÂU ĐỒNG DẠNG

Khi thực hiện thủ pháp ngắt mạch, đặc biệt là ngắt mạch 3/3 và 4/4, ngoài các thủ thuật về Tiểu đối nêu trên, thường thì thủ thuật tiểu đồng dạng cũng hay được vận dụng. Vậy thì Tiểu đồng dạng là gì?

Tiểu đồng dạng là thủ pháp thực hiện trong cùng một câu thơ, ngắt làm 2 nửa, 2 nửa này có cấu trúc giống nhau, tương tự với nhau, song song với nhau
Thí dụ :
Khi chén rượu/ khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở/ khi chờ trăng lên [Kiều-Nguyễn Du]

***Giá trị của tiểu đồng dạng so với tiểu đối hơn kém nhau như thế nào ?

Thật khó nói chắc là mèo nào sẽ cắn miu nào vậy. Đặc biệt là khi tiểu đồng dạng lại đi kèm cùng Điệp ngữ thì giá trị của nó không những không thua, mà đôi khi còn hơn hẳn tiểu đối nữa !!!

***Vậy tiểu đồng dạng khác tiểu đối ra sao ?

-Trong thủ pháp tiểu đối : Tất cả các thành phần của chúng đối nhau chặt chẽ
-Trong thủ pháp tiểu đồng dạng : ít nhất là có một thành phần giống nhau, đồng dạng với nhau. Các thành phần còn lại có thể hoặc đối nhau, hoặc đồng dạng với nhau đều được cả

Tóm lại, tiểu đồng dạng và tiểu đối có thể xem như một cặp anh chị em song sinh ... Chúng giống và gần gũi với nhau đến nỗi có nhiều sách giáo khoa cũng tưởng lầm là một ... Thật ra đó là 2 thủ thuật khác nhau.

1-Phân biệt Tiểu đồng dạng và Tiểu đối :

Khi sương sớm / lúc nắng tà
Rừng mai đất Ứng vang xa tiếng đàn (HSN-UHPT)
.........( tiểu đối 3/3 khi đối thanh với lúc, sương sớm đối với nắng tà )

Khi gió mát / khi trăng thanh
Ai người nhắc kẻ lữ hành đường xa (HSN-Ngàn dâu)
.........(tiểu đồng dạng + điệp ngữ khi ; gió mát đối với trăng thanh)

2-Tiểu đồng dạng phối hợp cùng thủ pháp Ngắt mạch :

Khi chén rượu, khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên (ND-Kiều)
.........(Tiểu đồng dạng + điệp ngữ 4 chữ khi)

Ung dung đọc sách ngâm thơ
Vàng cho chẳng cất, bạc cho chẳng màng (HSN-UHPT)
........(Tiểu đồng dạng Vàng cho, bạc cho...)

Trời trong xanh / nước trong xanh
Êm êm tiếng hát, bập bềnh thuyền con
Đàn tơ sáo trúc nỉ non
Hỏi người có nhớ cô thôn nghĩa tình ? ( HSN-Vọng cô thôn)
……(Tiểu đồng dạng + điệp ngữ trong xanh; trời đối với nước)


3-Câu đồng dạng trong một trường đoạn, kết hợp cùng Điệp ngữ :

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ dàu dàu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
............................(Nguyễn Du - Kiều)
Trong đoạn này có đến 4 lần vận dụng thủ pháp câu đồng dạng kiêm điệp ngữ Buồn trông ...

Cử bôi những muốn tiêu sầu
Nâng ly rượu đắng xót đau can trường
Nhớ khi xưa, ở Đại Lương
Ngô khoai cơm độn vẫn thường sẻ đôi
Lâm Tri đi sứ mà vui
Đánh xe dắt ngựa mấy người như ta
Nhớ khi lệ đổ máu sa (3161)
Đường quanh lối tắt tránh xa Ngụy Tề
Ba hồn lạc, bảy phách mê
Ai gom lá thuốc đem về cứu ai
Nhớ khi ở cánh rừng mai
Cầm kỳ thi họa tháng ngày rong chơi
Xa quê sang nước non người
Bát cơm tân khách một thời long đong
Nhớ khi chờ đợi mông lung
Nỗi lòng thao thức tỏ cùng trời cao
Mưu hay đánh đổ Nhương hầu
Thu gom chức trọng quyền cao đến giờ
Chạnh lòng nhớ những ngày xưa
Cử bôi uống mãi chưa vừa xót xa
..........................(HSN-Thừa tướng Ứng hầu Phạm Thư)
Trong đoạn thơ này đã có 4 lần thủ pháp câu đồng dạng kiêm Điệp ngữ Nhớ khi được vận dụng .

=======================

Khi nói chuyện về cái hay của truyện Kiều trong 2 câu thơ sau :

Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng

..............................................................(ND-Kiều)

Cử tọa thường nhất trí với tôi rằng quả thật là hay ! Hay quá đỗi hay !!!

Thế nhưng khi tôi đặt câu hỏi rằng :
-Đồng ý là hay thật ! Nhưng chủ từ (Subject) của chúng đâu ?, Động từ (Verb) là chữ nào ? Mấy câu ấy được hình thành theo cấu trúc , theo cú pháp (Structure) nào ???
Thì thường là không có mấy người chỉ ra được đâu là S đâu là V
Lại càng có ít người hiểu thấu cấu trúc của những câu ấy !!!
-Còn các bạn thì sao ? How about you ???

Câu hỏi này xin được giải đáp trong bài tới ......

HSN
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.07.2008 08:31:14 bởi HanSiNguyen >
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 25.07.2008 08:08:14
Trong tiếng Anh, chúng ta thường gặp những câu như :
-So do I !
-Here's my bus
....
Hẳn là chúng ta cũng dễ dàng nhận ra những câu đó chẳng qua chỉ là :
-I do, too
-My bus is here

Các câu ấy đã được viết dưới dạng thức Đảo ngữ nhấn mạnh một điều gì đó mà thôi . Thật là bất ngờ khi nhận ra rằng trong 2 câu thơ lừng danh :

Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng

Nguyễn Du đã thực hiện cấu trúc đảo ngữ đến ba lần.
Ý ông muốn nói rằng :

-Trời (Chủ từ S) in (Động từ V) cái bóng của nó (Đối từ O : hiểu ngầm) xuống đáy nước (Trạng từ chỉ địa điểm) một cách long lanh (Trạng từ chỉ cách thức)
-Khói biếc (S) xây (V) thành bức tường thành (Trạng từ so sánh)
-Bóng vàng (= ánh trăng) (S) phơi ra (V) nơi đầu non, đầu núi(Trạng từ địa điểm)

Thật là những hình ảnh đẹp tuyệt vời, nhờ cấu trúc Đảo ngữ đã trở thành cô đọng đến mức cùng cực vậy

IV-Thủ pháp Đảo ngữ và ẩn ngữ

***Cấu trúc của một câu xuôi:

Câu phát biểu (Statement) của tiếng Việt cũng như của tiếng Anh thường có cấu trúc xuôi theo dạng :

S - V - IO - DO
I give you a rose
Anh cho em một đoá hồng

Nếu có trạng từ ( adverb ), các trạng từ này thường tuân theo trật tự ( HOW - WHERE -WHEN ), trong đó :
HOW : adverb of manner , trạng từ chỉ cách thức
WHERE : adverb of place, trạng từ chỉ địa điểm
WHEN : adverb of time, trạng từ chỉ thời gian

Trong những câu tắt , hoặc những câu có động từ intransitive ( động từ không cần đối từ O ), cấu trúc câu thường đơn giản là

S - V - Adv (How-Where-When)

Tóm lại, cấu trúc xuôi của một câu phát biểu (hay tường thuật) có thể tóm gọn dưới dạng

S - V - (O) - Adv
Chủ từ - Động từ - (Đối từ) - Trạng từ

*** Ẩn ngữ :

Là thủ pháp bỏ qua (omitted) một từ nào đấy. Từ thường được bỏ qua nhất trong thơ chính là Chủ từ S, đôi khi các Động từ V cũng hay được bỏ rơi. Một bài thơ có nhiều chủ từ quá thường là rất “nặng nề”, mất hết cả “tính thơ” vậy

Chính các Tính từ (Adjective) và Trạng từ (Adverb) là thành phần làm linh động, làm giàu cho câu thơ nên ít khi bị bỏ rơi, mà thường hiện diện nhiều hơn cả

*** Đảo ngữ :

Là thủ pháp lật ngược các thành phần trong một câu xuôi, thường dùng để nhấn mạnh (emphatic form)

Có 2 hình thức đảo ngữ chính, đó là :
-Đảo ngữ cấp 1 (hay đảo ngữ cục bộ)
-Đảo ngữ cấp 2 (hay đảo ngữ toàn phần)

Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 25.07.2008 08:18:11
IV-THỦ PHÁP ĐẢO NGỮ và ẨN NGỮ
................................................

1-Đảo ngữ cấp một (Đảo ngữ cục bộ) :

Chỉ đảo trạng từ lên đứng trước động từ , các thành phần khác giữ nguyên.
Câu [ S - V - O - Adv ] trở thành [ Adv - S - V – O ]

Một số thí dụ :

*** Tần ngần dạo gót lầu trang
Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về
.................................................(ND-Kiều)

Trong câu này cả ẩn ngữ lẫn đảo ngữ cấp một đều được vận dụng :
-Ẩn ngữ : giấu đi chủ từ Kiều
-Ý của câu xuôi là : [Kiều] dạo gót (bước, tản bộ) một cách tần ngần qua chốn lầu trang
-Đảo ngữ cấp một : đảo trạng từ tần ngần lên đầu câu

*** Đồ tế nhuyễn, của riêng tây
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham
...........................................(ND-Kiều)

-Ẩn ngữ : Lũ sai nha
-Ý câu xuôi : Lũ sai nha vét sạch sành sanh những đồ tế nhuyễn, của riêng tây cho đầy túi tham [của chúng]
-Đảo ngữ cấp một : đảo trạng từ sạch sành sanh lên trước động từ vét

*** Nghênh ngang một cõi biên thùy
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương
Trước cờ ai dám tranh cường
Năm năm hùng cứ một phương hải tần
...............................................(ND-Kiều)

-Ẩn ngữ : (S) Từ Hải, (V) trấn giữ, chiếm giữ
-Ý câu xuôi : [Từ HảI] [chiếm giữ] nghênh ngang [khắp] một cõi biên thùy
-Đảo ngữ cấp một : đảo trạng từ nghênh ngang ra trước SV Từ Hải chiếm giữ (ẩn)
-Đảo ngữ Năm năm trong câu cuối : [Từ Hải] hùng cứ một phương hải tần (duyên hải) [suốt trong] năm năm

*** Ngượng ngùng tay lại cầm tay
Rưng rưng mắt biếc, ngây ngây má hồng
........................................(HSN-Tình cờ)

-Ẩn ngữ : người này, người kia
-Ý câu xuôi : Tay [người này] lại cầm lấy tay [người kia] một cách ngượng ngùng
-Đảo ngữ : đảo trạng từ ngượng ngùng lên đầu câu

*** Tướng quân lão nhược họ Liêm
Nhát như thỏ đế, chỉ chuyên bố phòng
Bốn năm chẳng một chút công
Sợ Tần như cọp, một lòng cầu an 
........................................(HSN-UHPT)

-Ẩn ngữ : động từ Lập , chủ từ Liêm Pha
-Ý câu xuôi : [Liêm Pha] chẳng [lập] được một chút công lao nào trong suốt bốn năm . 
-Đảo ngữ : đảo trạng từ Bốn năm lên đầu câu

*** Trải qua mấy dặm rừng hoang
Âm u khói tỏa, điêu tàn miếu thiêng
Bốn bề không một ánh đèn
Trời vừa sập tối, điện tiền nghỉ chân
........(HSN-Thạch Sanh Lý Thông Tân Biên)

-Ẩn ngữ : (S) Thạch Sanh
-Ý câu xuôi : [Thạch Sanh] nghỉ chân ở tại điện tiền (trạng từ địa điểm), lúc trời vừa sập tối (trạng từ thời gian)
-Đảo ngữ : đảo cả 2 trạng từ Điện tiền, và Trời vừa sập tối lên đầu câu


Nhắc lại, cấu trúc câu xuôi thông thường là : S-V-[O]-Adv

***Nếu đảo trạng từ lên trước SV ta sẽ có Đảo ngữ cấp một (cấu trúc Adv-S-V) cũng còn được gọi là Đảo ngữ cục bộ (Partially inverted structure)

***Bây giờ nếu đảo ngược toàn bộ S-V-Adv thành cấu trúc Adv-V-S thì sao ? Lúc ấy ta sẽ được một cấu trúc đặc sắc hơn nữa, có tên là Đảo ngữ cấp hai, cũng còn được gọi là Đảo ngữ toàn phần (Entirely inverted structure).
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.07.2008 08:20:15 bởi HanSiNguyen >
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 25.07.2008 08:28:23
2-Đảo ngữ cấp hai (Đảo ngữ toàn phần) :

Đảo ngữ cấp hai (hay đảo ngữ toàn phần) là một thủ pháp cao cấp của Mỹ Từ Pháp. Cấu trúc câu xuôi thông thường [ S-V-Adv ] được nghịch đảo toàn bộ thành [Adv-V-S] Trong cấu trúc này chủ từ S là chữ đi sau cùng (!)

Nhận ra được cấu trúc này trong một bài thơ nào đó đã khó... Thực hành viết đảo ngữ toàn phần trong thơ của mình, khi chưa quen, còn khó hơn gấp bội vậy .

Dưới đây là một số thí dụ về cấu trúc đảo ngữ toàn phần [Adv-V-S] này > Chủ từ S đuợc in đậm màu xanh

Tuyết / in / sắc ngựa câu giòn
Cỏ / pha / màu áo nhuộm non da trời
........................(Nguyễn Du-Kiều)

Long lanh / đáy nước / in / trời
Thành / xây / khói biếc, non / phơi / bóng vàng
........................(Nguyễn Du-Kiều)

Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng
Phòng văn hơi giá như đồng
Trúc / se / ngọn thỏ , tơ / chùng / phím loan
........................(Nguyễn Du-Kiều)

Nhà tranh vách đất tả tơi
Lau / treo / rèm nát, trúc / cài / phên thưa
........................(Nguyễn Du-Kiều)

Rì rào / thoảng / tiếng mưa rơi
Bên tai / vang vọng / những lời yêu thương
.............................(HSN-Người trong mưa)

Từ đây muôn dặm quan san
Câu thơ, chung rượu, cung đàn lãng du
Này ân, này oán, này thù
Mộ sâu / chôn chặt / giấc mơ nửa đời
..........................(HSN-Ngày xưa)

Nửa vầng trăng sáng lung linh
Hoa khuya mới nở rung rinh giọt sầu
Trời đêm / lấp lánh / ánh sao
Ven sông lá rụng , bên cầu hoa rơi
................(HSN-Nửa vầng trăng 03)

Một lần chợt thấy em cười
Bâng khuâng tự hỏi phải người ngày xưa ?
Cũng là suối tóc đong đưa
Long lanh ánh mắt, đợi chờ khoé môi
Từ lâu / đã khuất / bóng người
Dư âm còn chút tiếng cười thơ ngây
...................(HSN-Bâng khuâng)

Kề vai, tựa gối, ấp đầu
Trọn đời bên khách má đào tri âm
Đó đây / văng vẳng / hồ cầm
Ứng Thành nào khác Mai Lâm quê nhà
Khi sương sớm, lúc nắng tà
Rừng mai đất Ứng / vang xa / tiếng đàn
...............(HSN-Thừa Tướng Ứng hầu Phạm Thư)

Hy vọng rằng các thí dụ này có thể giúp làm sáng tỏ vấn đề. Thật ra , cấu trúc đảo ngữ này là cấu trúc khó , nhưng nếu vận dụng quen rồi thì khó cũng trở thành dễ mà thôi, các bạn ạ ...

Hàn Sĩ Nguyên

-Còn tiếp-
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 06.08.2008 07:53:58
V-THỦ PHÁP ĐIỆP NGỮ :

Điệp ngữ là thủ thuật lặp đi lặp lại có chủ ý một từ nào đó , mục đích để thi vị hoá câu thơ, đồng thời nhấn mạnh hoặc giảm nhẹ một điểm đặc trưng trong câu. Điệp ngữ cũng có nhiều hình thức khác nhau và cũng thường được sử dụng xen lẫn vào trong các thủ pháp khác, đặc biệt là hay đi kèm cùng câu đồng dạng


1-Điệp ngữ qua hình thức sử dụng “từ láy” :

Trong tiếng Anh, khi một tính từ (Adjective) nhận thêm một hậu tố (Suffix) ISH, ta sẽ có được một tính từ mới có nghĩa nhẹ nhàng hơn . Ex :

Brown --------- Brownish
Yellow -------- Yellowish

Trong tiếng Việt, cách dùng Điệp ngữ dưới hình thức “từ láy” cũng có giá trị tương tự, trong đó, chữ thêm vào đặt trước chữ chính . Thí dụ :

Xa xa --------- hơi hơi xa
Xanh xanh ----- hơi hơi xanh, xanh nhạt
Nho nhỏ ------- hơi hơi nhỏ
Tim tím ------- hơi hơi tím, tím nhạt

Để ý rằng :
-Nếu chữ chính thanh bằng (Xa, Xanh, Buồn...): Lặp lại y nguyên chữ đó (Xa xa, xanh xanh, Buồn buồn...)
-Nếu chữ chính thanh trắc (Nhỏ, Tím, Đỏ...) : Lặp lại bằng từ thanh bằng tiệm cận với từ ấy (Nho nhỏ, Tim tím, Đo đỏ, Biền biệt, Văng vẳng, Đằng đẵng ...)

***Các thí dụ về Điệp ngữ dùng “Từ láy” trong thơ lục bát :

Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước lần theo ngọn tiểu khê
Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Sè sè nấm đất bên đàng
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
.................……………..(Nguyễn Du-Kiều)

Đau lòng kẻ ở người đi
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm
Trời hôm mây kéo tối rầm
Dàu dàu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương
.................……………..(Nguyễn Du-Kiều)

Nàng thì chiếc bóng song mai
Đêm thâu đằng đẵng nhặt cài then mây
Sân rêu chẳng vẽ dấu giày
Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân
Đoái trông muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa
................………….(Nguyễn Du-Kiều)

Hỏi han hết mực kính nhường
Cớ sao cố ý chặn đường xe qua
Ba lần hỏi, chẳng thèm thưa
Trước sau vờ vĩnh pho pho ngáy đều
Gió đưa râu bạc phiêu phiêu
Phơ phơ tóc trắng, ra chiều tiên nhân
...............……………….(HSN-ƯHPT)

Gióng cương trực chỉ Tây Hà
Tần kề một bước, Nguỵ xa ngàn trùng
Rừng mai khuất đám bụi hồng
Lửa hương se thắt chạnh lòng mà đau
Băng băng xe lướt ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt khơi sầu chinh nhân
Xa xa thấp thoáng non Tần
Biết bao gian khổ khó khăn sẵn chờ
...............………………..(HSN-ƯHPT)

Trời chiều, bóng ngả cô liêu
Hai quân im tiếng, đìu hiu chiến trường
Xa xa hạc lẻ kêu sương
Đó đây văng vẳng tiếng hờn âm u
Oan hồn tử sĩ phiêu du
Khói hương chẳng có, mịt mù sầu dâng
............………………....(HSN-ƯHPT)

Nhanh chân núp dưới tường hoa
Em không có nón, trời mưa tầm tầm
Đường xa, trời tối, mưa dầm
Người không quen biết xăm xăm ngỏ lời
........………..(HSN-Lời người trong mưa)

Từ khi trao gửi trâm vàng
Chia tay rời khỏi miệng hang trở về
Đường xa muôn dặm sơn khê
Nước đi biền biệt không về cùng non
Nghẹn ngào đá lấp, người chôn
Chẳng hay quân tử mất còn nơi nao
Rưng rưng ruột xót gan bào
Bời bời hoa lá, dàu dàu cỏ cây
.......(HSN-Thạch Sanh Lý Thông Tân Biên)


2-Điệp ngữ đi cùng câu đồng dạng trong một trường đoạn:
(Xin xem lại ở phần Câu đồng dạng)

***Thêm một số các thí dụ :

Rút trâm giắt sẵn mái đầu
Vạch da cây, vịnh bốn câu ba vần
Lại càng mê mẩn tâm thần
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra
Lại càng ủ dột nét hoa
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài
......................(Nguyễn Du-Kiều)... 3 lần “Lại càng”

Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Khiến người ngồi đó mà ngơ ngẩn sầu
Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày
......................(Nguyễn Du-Kiều)... 4 chữ “Khi”

Đã nguyền hai chữ đồng tâm
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai
Còn non còn nước còn dài
Còn về còn nhớ đến người hôm nay
......................(Nguyễn Du-Kiều) ... 5 chữ “Còn”

Xem gương trong bấy nhiêu ngày
Thân con chẳng khỏi mắc tay bợm già
Khi về bỏ vắng trong nhà
Khi vào dúng dắng, khi ra vội vàng
Khi ăn khi nói lỡ làng
Khi thầy khi tớ xem thường xem khinh
......................(Nguyễn Du-Kiều) ... 7 chữ “Khi”

Lo gì việc ấy mà lo
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu
Làm cho nhìn chẳng được nhau
Làm cho đày đoạ cất đầu chẳng lên
Làm cho trông thấy nhãn tiền
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay !
......................(Nguyễn Du-Kiều) ... 3 lần “Làm cho”

Vợ chồng chén tạc chén thù
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi
Bắt khoan bắt nhặt đến lời
Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay
......................(Nguyễn Du-Kiều) ... 5 chữ “Bắt”

Sẵn Quan âm các vườn ta
cây trăm thước, hoa bốn mùa
cổ thụ, sơn hồ
Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh
......................(Nguyễn Du-Kiều) ... 4 chữ “Có”

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ dàu dàu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
......................(Nguyễn Du-Kiều) ... 4 lần “Buồn trông”


Nguỵ Tề càng đánh càng điên
Men say càng bốc, ghét ghen càng nồng :
Đánh cho chết đứa cuồng ngông
Đánh cho hết kẻ ám thông nước ngoài
Đánh cho tuyệt nọc tay sai
Đánh cho trắng mắt những loài gièm pha !
.......(HSN-Ứng Hầu Phạm Thư) ... 4 “Càng”, và 4 lần “Đánh cho”

Nhớ chăng gương Bá Lý Hề
Bảy mươi chăn ngựa nuôi dê xứ người
Nhớ chăng Câu Tiễn nằm gai
Phơi sương nếm mật có ngày nên công
...............(HSN-Ứng Hầu Phạm Thư) ... 2 lần “Nhớ chăng”

Chợt quen em, phút giây này
Long lanh mắt biếc, bay bay tóc huyền
Mỉm cười, duyên lại thêm duyên
Càng nghe càng mến, càng nhìn càng ưa
..................(HSN-Mưa tình cờ) ... 4 chữ “Càng”

Đường đời càng ngẫm càng đau
Càng buồn càng tủi càng sầu càng thương
Tơ không ai vấn mà vương
Chiêm bao chưa tỉnh hồn nương xứ nào ?
...................(HSN-Một thuở đưa đò) ... 6 chữ “Càng”

LƯU Ý :
 
Có lẽ cũng cần thiết phải phân biệt “Cách nói trùng lặp”“Điệp ngữ”

-Cách nói trùng lặp, nhai đi nhai lại, cà lăm là cách diễn đạt rất tầm thường vì cho thấy người viết túng ý, nghèo từ, thiếu lời nên cứ phải nói đi nói lại mãi một từ hoặc một câu

-Trong khi đó, Điệp ngữ là sự lặp đi lặp lại một từ nào đó có chủ ý để làm tăng tính thi vị của câu thơ. Thủ pháp này rất đặc sắc, vì thường được “lồng vào”, “nhúng vào” , “kèm theo” vô số những “quái chiêu”.

Nếu Điệp Ngữ ví như ánh sao sáng lấp lánh trên bầu trời đêm, thì cách nói trùng lặp chỉ là... chân vịt trên mặt bùn. Cả 2 đều... có cùng... 5 cánh , nhưng khác nhau xa, khác nhau nhiều lắm vậy...
Thật lạ lùng khi có nhiều thức giả lại nhầm lẫn, cho rằng 2 thứ này... là một, không những vậy, còn đưa ra lời khuyến cáo sai lầm : "càng ít dùng điệp ngữ... càng tốt" (!)

Hàn Sĩ Nguyên

Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 09.08.2008 09:08:42
3-Các thủ pháp Điệp ngữ đặc biệt

Có lẽ cũng cần thiết phải phân biệt “Cách nói trùng lặp”“Điệp ngữ”

-Cách nói trùng lặp, nói lắp, cà lăm là cách diễn đạt rất tầm thường vì cho thấy người viết túng ý, nghèo từ, thiếu lời nên cứ phải nhai đi nhai lại mãi một từ hoặc một câu

-Trong khi đó, Điệp ngữ là sự lặp đi lặp lại một từ nào đó có chủ ý để làm tăng tính thi vị của câu thơ. Thủ pháp này rất đặc sắc, vì thường được “lồng vào”, “nhúng vào” , “kèm theo” vô số những “quái chiêu”.

Dưới đây là một số “quái chiêu” hay đi kèm cùng Điệp ngữ

3.1- Điệp ngữ & từ bất định :

Đừng điều nguyệt nọ hoa kia
Ngoài ra AI lại tiếc gì với AI
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)

Khóc rằng :-“Oan khốc vì ta
Có nghe lời trước, chẳng đà luỵ sau
Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu
Để AI trăng tủi hoa sầu vì AI”
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)

Vườn xưa khuất bóng AI rồi
AI thành tượng đá ngậm ngùi thiên thu
...................(HSN-Thiên thu ngậm ngùi)

Nhìn nhau lòng những ngượng ngùng
Vì đâu AI bỗng lạnh lùng với AI
...................(HSN-Tình cờ)

+++Trong các thí dụ trên , cùng một đại từ bất định AI (indefinite pronoun) nhưng đều chỉ 2 đối tượng khác nhau


3.2- Điệp ngữ kiêm chơi chữ :

ĐÀO tiên đã bén tay phàm
Thà vin cành QUÝT cho CAM sự đời
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)

+Chơi chữ cùng một chủng loại : (Họ “trái cây” : Đào, cam, quýt).
+Chơi chữ một chữ 2 nghĩa : “cam” ngoài nghĩa là “quả cam” còn có nghĩa là “cam lòng, cam đành. cam chịu” nữa !

Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật MÌNH, MÌNH lại thương MÌNH, xót xa
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)

Chơi chữ khác từ loại : “giật mình” (trạng từ cách thức-Adverb of manner), “mình” (chủ từ-Subject) , và “mình” (đại từ phản thân-Reflexive pronoun)

Mượn người thuê kiệu rước nàng
BẠC đem mặt BẠC kiếm đàng cho xa
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)

Chơi chữ một chữ 2 nghĩa : Chữ “Bạc” thứ nhất là danh từ riêng chỉ tên người (Bạc Hạnh), chữ “bạc” thứ hai là tính từ “bạc bẽo”

Lòng RIÊNG, RIÊNG những kính yêu
Chồng CHUNG chưa dễ ai chiều cho ai
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)

+Chơi chữ khác từ loại : “riêng” trong “lòng riêng” là tính từ , chữ “riêng” thứ nhì là trạng từ (=especially)
+Chơi chữ từ đối lập : “chung” và “riêng”

Hiên tà gác bóng nghiêng nghiêng
Nỗi RIÊNG, RIÊNG chạnh tấc RIÊNG một mình
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)

Chơi chữ chữ riêng khác từ loại

CỔ chưa đứt CỔ là may
Phún nhân hàm huyết từ nay xin chừa !
...................(HSN-Ứng hầu Phạm Thư)

Chơi chữ khác từ loại : Chữ “Cổ” thứ nhất là danh từ riêng chỉ tên người (Tu Cổ), chữ “cổ” thứ hai là danh từ chung (cái cổ, đầu cổ)


3.3- Điệp ngữ điên đảo càn khôn :

Nguyệt hoa / hoa nguyệt não nùng
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng ?
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)

Lửng lơ / lơ lửng cánh diều
Lênh đênh theo sóng bọt bèo lênh đênh
...................(HSN-Bọt bèo lênh đênh)

3.4- Điệp ngữ tiền hậu song trùng

Sá chi liễu ngõ hoa tường
Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)

Xót thay đào lý một cành
Một phen mưa gió, tan tành một phen
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)

Phận bèo bao quản nước sa
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)

Anh hùng mới biết anh hùng
Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa ?
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)

Giá đành trong nguyệt trên mây
Hoa sao hoa khéo đoạ đày bấy hoa ?
Tức gan riêng giận trời già
Lòng này ai hiểu cho ta hỡi lòng ?
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)

Dẫu rằng vật đổi sao dời
Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)

Thân tàn gạn đục khơi trong
Là nhờ quân tử khác lòng người ta
Mấy lời tâm phúc ruột rà
Tương tri dường ấy, mới là tương tri
.....................................(Nguyễn Du-Kiều)

Lá dâu thưa lá vườn dâu
Giàn hoa thiên lý phai màu giàn hoa
Bèo ken đặc kín ao nhà
Vườn mênh mông cỏ, xót xa không vườn ?
...................(HSN-Áo anh sứt chỉ đường tà)

Lửng lơ lơ lửng cánh diều
Lênh đênh theo sóng bọt bèo lênh đênh
...................(HSN-Bọt bèo lênh đênh)
 
3.5- Điệp ngữ Lưỡng Đầu Xà

Là một loại Điệp ngữ Tiền hậu song trùng đặc biệt, 2 chữ cuối là hoán vị, là nghich đảo của 2 chữ đầu. Trong toàn bộ truyện Kiều chỉ tìm thấy một câu có sử dụng Lưỡng Đầu Xà như sau :

Nay hoàng hôn đã, lại mai hôn hoàng

Nhưng câu này không phải là Lưỡng Đầu xà chính tông, vì 2 chữ "hoàng hôn" ấy không nằm ở đầu câu
Các thí dụ về Lưỡng Đầu Xà khác có thể đọc thêm ở THI PHÁP chương 3,4 (phần nói về Thất Ngôn Bát Cú ).
 
3.6- Điệp ngữ... Lã Đầu Xường
 
Lã Đầu Xường là thủ pháp Điệp ngữ Lưỡng Đầu Xà Nghich Thiệt (nói lái). Hai chữ cuối là nghich đảo , nói lái của 2 chữ đầu. Hình thức này khó hơn Lưỡng Đầu Xà một bậc nữa , nhưng cũng tinh vi hơn, cao chiêu hơn , khó... nhằn hơn
 
Hoàng hôn thấm lạnh hồn hoang
...........................................
 
Các bài tham khảo về Lã Đầu Xường (Xem chương 3,4)
 

Kết luận về Mỹ Từ Pháp :

Các thủ thuật Mỹ từ pháp, ngoài những điều đã nêu (Ngắt mạch, Tiểu đối, Đồng dạng, Ẩn ngữ, Đảo ngữ, Điệp ngữ...) vẫn còn nhiều hình thức quái chiêu khác, cụ thể như : Nhân cách hoá, Ẩn dụ, Hoán dụ, Nghịch đảo, Thậm xưng, Khoa đại , Tỷ giảo v.v...
Tuy vậy, không thể một lúc mà có thể tiếp thu hết ngay được. Biết nhiều quá, nhiều khi lại chỉ ... có hại !!!
Các thủ pháp trên đây chỉ nên coi chúng như các công cụ “cưa, giũa, đục, bào, kìm, búa, ê-ke, vạch mực” mà thôi. Một điều quan trọng hơn là phải biết “lúc nào dùng công cụ nào” cho thích hợp nhất (Tất nhiên, không thể lấy búa ra cưa được, cũng không thể lấy kìm ra đục !).

Trong thực tế, chỉ có thể chọn lựa đúng công cụ cần thiết khi đã từng trải, lăn lóc với thơ, thu góp kinh nghiệm sử dụng dần dần theo kiểu “tích tiểu thành đại”. Điều này thật sự là không ai có thể giúp được cho ai vậy.
Nói chung, cứ đi tất sẽ đến, cứ làm tất sẽ biết mà thôi, các bạn ạ.

Hàn Sĩ Nguyên


Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 11.08.2008 07:09:43
THƠ LỤC BÁT
3 PHỤ LỤC
 
-------------------------------------------------
PHỤ LỤC 1
Bài biên khảo của NHẤT LANG
để giúp hiểu rõ thêm về Vần, và Thông vận
Trích từ "Tập làm thơ – Quy tắc căn bản”
by Nhất Lang.
---------------------------------------------------

NHỮNG ĐIỀU CƠ BẢN

1) TIẾNG BẰNG:

Tiếng BẰNG là những tiếng KHÔNG DẤU, và những tiếng có DẤU HUYỀN, thí dụ như hai chữ "THƠ" và "TÌNH", cả hai chữ này đều là tiếng BẰNG ! Tiếng BẰNG là những tiếng có giọng ÊM dịu, có thể đọc kéo dài ra được.
*Phân loại : Tiếng BẰNG có HAI LOẠI: THƯỢNG BÌNH THANH, và HẠ BÌNH THANH.
Nói cách khác, Thượng Bình Thanh là tiếng BỔNG, Hạ Bình Thanh là những tiếng CHÌM hay TRẦM.
Nhất Lang dùng hai chữ thí dụ trên để nói tiếp:
-"THƠ" là tiếng KHÔNG CÓ DẤU, ta gọi là tiếng BỔNG!
-TÌNH là tiếng CÓ DẤU HUYỀN, ta gọi là tiếng CHÌM hay TRẦM!
Tiếng Bổng và tiếng Trầm chan hòa với nhau tạo ra âm điệu du dương, làm bài thơ hay hơn. Nếu ta chỉ dùng 1 loại tiếng trong một câu thơ thì âm điệu sẽ rất ngang và trúc trắc.

2) TIẾNG TRẮC :

Bên cạnh những tiếng BẰNG, chúng ta còn cần phải làm quen với những tiếng TRẮC. Tiếng TRẮC là những tiếng có giọng đọc ngắn, không kéo dài ra như tiếng BẶNG . Những tiếng có chữ C, CH, P, T đứng ở cuối tiếng và những tiếng có dấu SẮC, HỎI, NGÃ, NẶNG đều là những tiếng TRẮC.
Cũng như tiếng BẰNG, TRẮC có tiếng TRẦM và BỔNG - tiếng TRẦM của tiếng TRẮC là những tiếng có dấu HỎI và NẶNG, tiếng BỔNG của tiếng TRẮC là những tiếng có dấu SẮC và NGÃ.
Hai chữ "Lãng" và "Mạn" đều là tiếng TRẮC, "Lãng" là tiếng BỔNG, "Mạn" là tiếng Trầm hay Chìm.

3) KẾT HỢP BẰNG TRẮC :

Mỗi câu thơ đều nên có tiếng BẰNG và tiếng TRẮC, và vì hai loại tiếng khác nhau, nên ta phải xếp sao cho tiếng nọ chế tiếng kia, thì khi đọc sẽ tìm thấy một âm điệu du dương. Nói tóm lại, mỗi câu thơ nên được xếp sao cho mỗi loại tiếng chan hòa với nhau, có nghĩa là cố giữ sao cho câu thơ 8 chữ phải có ít nhất 3 tiếng BẰNG, 5 tiếng TRẮC hoặc ngược lại... nếu được 4 tiếng này, 4 tiếng kia thì càng tốt; câu thơ 8 chữ mà chỉ có 1 tiếng BẰNG và 7 tiếng TRẮC, thì câu thơ ấy thiệt là chướng tai ghê lắm.
Cho dù câu thơ có mấy chữ đi nữa, BẰNG và TRẮC nên được cân đối với nhau, tuy nhiên không đòi hỏi phải bằng số !
*Điều quan trọng :
Văn thơ khác hơn âm nhạc ở chỗ chữ BẰNG không thể nào hợp VẬN cùng chữ TRẮC. Nghĩa là chữ TÌNH có thể vần cùng chữ MÌNH, nhưng không thể vần cùng chữ TÍNH.
Luật định : BẰNG vần với BẰNG, TRẮC vần với TRẮC.

4) KẾT HỢP TRẦM BỔNG :

Tiếng Bổng và Trầm được xếp ra sao thì là do biệt tài của mỗi người, ta không có luật định rõ...
Tuy nhiên, TRẦM và BỔNG được xem là nhất định ở chữ thứ 6 và thứ 8 trong câu BÁT của thơ Lục Bát. Nếu tiếng BỔNG được dùng ở vị trí chữ thứ 6 thì tiếng TRẦM nhất định phải được dùng ở vị trí chữ thứ 8. Và ngược lại, nếu chữ thứ 6 đã là tiếng TRẦM, thì chữ thứ 8 nhất định phải là tiếng BỔNG. Nếu 1 loại tiếng được dùng ở cả hai vị trí nói trên, thì câu thơ ấy sẽ bị mất đi âm điệu của thơ.
Các bạn đọc thử hai câu thơ này:

Đêm nay trăng tỏ sao mờ,
Đò ngang vĩ tuyến còn CHỜ em VỀ.

Các bạn đọc lại hai câu này:

Đêm nay trăng tỏ sao mờ,
Đò ngang vĩ tuyến còn CHỜ em TÔI.

Hai câu trên đọc nghe chướng tai lắm, vì cả hai tiếng TRẦM đều được dùng ở vị trí thứ 6 và 8 trong câu Bát (câu có 8 chữ).
Hai câu dưới đọc nghe êm tai, vì hai loại tiếng khác nhau (Trầm và Bổng) đã được dùng vào vị trí chữ thứ 6 và 8 trong câu Bát.

5) VẦN :

VẦN - Nghĩa là những tiếng có cùng một ÂM HƯỞNG; hai tiếng có cùng giọng phát âm thì VẦN với nhau được... hai tiếng không VẦN với nhau thành ra LẠC VẬN, trái luật thơ !
Tuy hồn thơ, lời và ý đều quan trọng, nhưng nếu bài thơ không có VẦN thì không gọi là thơ. Cho dù là thơ MỚI (không chú trọng đến luật) cũng cần phải có VẦN thì bài thơ mới hạy

*Tiếng BẰNG vần với tiếng BẰNG, tiếng TRẮC vần với tiếng TRẮC... không có điều ngoại lệ!

a-Vần chính của vần BẰNG :

A vần với A hoặc À, E vần với E hoặc È, AN vần với AN hoặc ÀN, INH vần với INH hoặc ÌNH.
Một thí dụ cho vần chính của vần BẰNG:

Pháo nổ dồn, pháo nổ DỒN,
Pháo đang xâu xé tâm HỒN lẻ loi. ...

Trong hai câu LỤC BÁT trên Nhất Lang đã dùng vần chính của âm ÔN ...

Mắt em hãy nghiền nhắm,
Anh tặng một nụ HÔN,
Cho em ấm cả HỒN,
Mộng liêu trai chìm đắm.

Bốn câu trên được viết theo thể loại thơ MỚI (5 chữ), hai chữ cuối của câu 2 và 3 phải vần nhau, và Nhất Lang cũng đã dùng vần chính của âm ÔN. NHẮM và ĐẮM chỉ là trùng hợp, hai chữ này không cần phải VẦN nhau.
b-Vần chính của vần TRẮC

-Á với Á, Ả, Ã, hoặc Ạ vần với nhau.
-É với É, Ẻ, Ẽ, hoặc Ẹ vần với nhau.
Một thí dụ cho vần chính của vần TRẮC :

Cứ mỗi độ chiều về bên SUỐI,
Anh trộm nhìn đắm ĐUỐI dáng hoa.

Vần chính của vần TRẮC đã được dùng trong hai câu SONG THẤT trên.

c-Vần thông của vần BẰNG :

Vần thông là những tiếng không có cùng một ÂM như các vần CHÍNH, nhưng có cùng một giọng PHÁT ÂM, có thể ăn vận với nhau được.
Nếu không am hiểu vần THÔNG chúng ta rất dễ bị LẠC VẬN khi làm thơ. Vì thế khi muốm dùng vần thông, chúng ta cần phải hiểu rõ luật vần thông.
Theo kinh nghiệm và cách nhìn của Nhất Lang thì người miền Nam thường hay bị lầm lẫn về vần THÔNG hơn ( Nhất Lang chỉ nói là thường - riêng Nhất Lang cũng là người miền Nam.
VẦN THÔNG là những tiếng có sự vận động của môi và lưỡi rất giống nhau khi ta phát âm.
Nhất Lang cố gắng đem vào đây hầu hết những VẦN THÔNG mà chúng ta thường gặp ... Các bạn và các em cố gắng chú ý : CẦN NHẤT LÀ NÊN THUỘC LÒNG những vần Thông này, nếu không thì nên dùng chỉ vần chính mà thôi !

TÓM TẮT các VẦN THÔNG của vần BẰNG

-A và Ơ thông với nhau. Ơ và Ư thông với nhau
(Nhưng A và Ư KHÔNG thông với nhau được !)
-E, Ê và I thông với nhau
-O, Ô và U thông với nhau
-AI thông với AY. AI thông với tất cả các ÂM sau đây: OI, ÔI, ƠI, ƯƠI, UI, Nhưng, AY, tuy thông với AI nhưng không thông với các ÂM trên ! Tất cả những ÂM trên THÔNG với nhau.
-AO thông với AU. AU thông với ÂU, Nhưng AO không thông với ÂU.
-AO thông với tất cả các âm sau: EO, ÊU, IÊU, IU, ƯU Nhưng AU và ÂU không thể thông.
-AM thông với ƠM
-ĂM thông với ÂM
-ÊM thông với IM và EM
-AN thông với ƠN
-ĂN thông với ÂN và UÂN
-EN, IN, IÊN, và UYÊN thông nhau
-ON, ÔN và UÔN hoặc UN thông nhau
-ANG và ƯƠNG thông nhau. ƯƠNG và UÔNG thông nhau. Nhưng ANG không thông với UÔNG.
-ĂNG, ÂNG, và ƯNG thông nhau
-ONG, ÔNG, và UNG thông nhau
-ANH, ÊNH và INH thông nhau

*LƯU Ý :

***ĂN và ĂNG, ÂN và ÂNG, hay UN và UNG, ON và ONG, ÔN và ÔNG vv... không thông nhau.
Những chữ có "G" theo sau nhất định chỉ thông với những chữ có G theo sau ! Đây là điểm mà Nhất Lang nhìn thấy người có giọng phát âm của miền Nam hay bị lầm vì sơ ý hay theo thói quen. (Nhất Lang lắm khi cũng không ngoại lệ)

***NHẮC LẠI : Khi Nhất Lang bảo là THÔNG thì có nghĩa là những ÂM ấy VẦN với nhau được !

d-Vần thông của vần TRẮC

Vần thông của vần TRẮC cũng dựa theo nguyên tắc như những vần thông của vần BẰNG.
Vần thông có nguyên âm đứng cuối :
-É, Í, Ẻ, Ỉ, Ẽ, Ĩ, Ẹ, Ị thông với nhau.
Cũng như vần BẰNG tất cả những âm I có dấu SẮC, HỎI, NGÃ, NẶNG đều có thể thông với những âm Y có dấu SẮC, HỎI, NGÃ, NẶNG, nhưng Y không thông được với E.
-Ổ, Ũ, Ó, hay Ộ, Ú, Ọ thông nhau
-Ọ và ỦA thông nhau (tất cả các âm O và UA có dấu SẮC, HỎI, NGÃ, NẶNG đều thông)
-ĨA và UỆ thông nhau
-ÁO, IỄU, ẢO, YẾU, ÉO, ỈU, ỮU và tất cả các đồng âm có dấu SẮC, HỎI, NGÃ, NẶNG đều vần được.
-ÓI, ẢI, Ội, ỠI, ƯỢI, ÚI và các đồng âm có các dấu SẮC, HỎI, NGÃ, NẶNG đều vần nhau được.
-ẤC và ỰC thông nhau
-ẠM, ỢM, ÁM, ỞM thông nhau
-ẶN và ẨN hay UẨN thông nhau
-ÓNG và ÚNG
-ẬT và ẮT
-ẬT và ỨT
-ÚT và UỐT vv...

Tóm lại : vần thông của vần TRẮC không khác chi vần thông của vần BẰNG về ÂM, tuy nhiên ta cần hiểu rõ khác biệt giữa TRẮC và BẰNG.

6) GIEO VẦN

Sau đây là các điều đáng nhớ trong sự GIEO VẦN:

* A, Ă, Â rất thường được GHÉP với một phụ âm khác như C, M, N, P, T để tạo thành âm GHÉP như: AC, ĂC, ÂC... AM, ĂM, ÂM... AN, ĂN, ÂN... AP, ĂP, ÂP... AT, ẮT, ẤT vv... Những vần GHÉP nói trên CHỈ thông được với nhau khi có cùng một phụ âm đứng trước!
Thí dụ: BÁT thông được với BẮT hay BẤT, mà KHÔNG thông được với CẮT hay CẤT hoặc MẮT hay MẤT... tuy nhiên BÁT thông được CÁT hay MÁT vì chúng đều có âm GHÉP "AT" theo sau.
*TAM thông với TĂM hay TÂM, mà KHÔNG thông với CĂM hay CÂM, cũng không thông được với TRĂM hay TRÂM... tuy nhiên TAM thông được với CAM, TRAM, vì chúng có cùng âm GHÉP "AM" theo sau.
*TAN thông với TĂN hay TÂN, mà không thông với VĂN hay VÂN vv...

a-Khi có vần GHÉP bằng 2 hoặc 3 chữ nguyên âm với một phụ âm đứng cuối: IÊN, UYÊN, UÂN, UÔN, ta nên lấy 2 chữ cuối cùng làm VẬN CĂN, Có nghĩa là dựa theo hai chữ cuối cùng mà gieo vần...

Thí dụ:
-EN, IN, vần với YÊN hay UYÊN
-ÂN vần với UÂN
-ƠN vần với OAN
-ON vần với UÔN

b-Vần GHÉP bằng 2 hay 3 nguyên âm với 2 phụ âm
Thí dụ như chữ ƯƠNG... thì ta nên lấy 3 chữ cuối mà làm VẬN CĂN để GIEO VẦN.
Cho nên : ƯƠNG vần với ANG,
Cũng nên nhớ : ƯƠNG vần với UÔNG vì Ơ vần với Ô, nhưng UÔNG không vần với ANG vì Ô không vần với A.

c-Vần GHÉP bằng 2 hay 3 nguyên âm :

Khi có loại âm này thì ta nên theo âm điệu mà lấy 1 hay 2 chữ ấy mà làm VẬN CĂN.
Thí dụ:
-OA, OE, UÊ, UY... thì vận căn là A, E, Ê, Y; nên OA vần với A, OE vần với E, UÊ vần với Ê, UY vần với I hay Y.
-UÂY vần với ÂY
-IA, UYA ... vận căn là I, Y mà chữ A đứng cuối không ảnh hưởng chi cả.
-UA, ƯA vận căn là U , Ư chữ A cuối không ảnnh hưởng chi cả
-I vần với IA
-A vần với IA trong chỉ một chữ GIA, không vần với IA bắt đầu bằng phụ âm khác, như TIA, KIA...
-Ư vần với ƯA
-Ô vần với UA vv...

d-Lưu ý :
-Hai tiếng đồng âm và đồng nghĩa thì không vần được với nhau !
-Hai tiếng đồng âm mà khác nghĩa thì vần được !

Các bạn và các em đọc lại tất cả các bài trên đây để làm quen và có gì thắc mắc, cứ hỏi... Nhất Lang sẽ cố gắng trả lời theo khả năng của mình.
Sau khi mọi người thông qua từ BẰNG & TRẮC, BỔNG & TRẦM, VẦN CHÍNH & VẦN THÔNG thì mình sẽ bắt đầu nói đến THƠ LỤC BÁT !
Những bước trên là những điều căn bản mà các anh chị, các bạn, và các em cần phải hiểu khi bắt đầu tập làm thơ.
Nhất Lang mong rằng những điều ghi trên giúp ích được cho các anh chị, các bạn, và em muốn làm quen cùng nguyên tắc làm thơ. Bài kế tiếp Nhất Lang sẽ bắt đầu nói đến những loại thơ.
Chúc tất cả vui vẻ và thành công!

-Nhất Lang-

=====================================
(HSN giới thiệu)
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 11.08.2008 07:18:07
THƠ LỤC BÁT
3 PHỤ LỤC
 
------------------------------------------------------------------
PHỤ LỤC 2
NHỮNG VẦN NÀY “CƯỠNG” HAY “THÔNG” ?
-Hàn Sĩ Nguyên-
-------------------------------------------------------------------

1-Nhắc lại đôi điều về cách hoà vận

Có 4 cách hoà vận :

a-Chính vận : là những vần ăn khớp chặt chẽ với nhau (ví như anh em ruột vậy)
Thí dụ :
A với A
I với I
AI với AI
ONG với ONG v.v....
gọi là chính vận ( vần nào ăn khớp chặt chẽ với vần nấy )

b-Thông vận : là những vần cùng nhóm, hơi khác nhau một chút nhưng có thể tương thông với nhau. Nói nôm na là “hơi khác nhau, nhưng nghe ... lọt tai” (ví như anh em chú bác ruột vậy).
Thí dụ :
A với oa
I với e, ê, ia, uy
AI với ay, ây
EM với êm, im, iêm
ANH với inh, ênh, uynh
ANG với oang, ương
ONG với ông, ung v.v...
gọi là thông vận ( vần hơi khác loại nhưng ăn thông với nhau được )

c-Cưỡng vận : là vần ép, vần cưỡng bách, bản thân chúng không liên quan với nhau mấy ( bà con quá xa, xa 5,7 đời) thực chất thì không thông nhau được, nhưng miễn cưỡng dùng ép cũng ... tạm được. Tất nhiên cưỡng vận chỉ được dùng khi ... bí vận mà thôi. Miễn cưỡng thì cũng được, nhưng nếu dùng nhiều quá thì sẽ làm giảm hoặc mất giá trị bài thơ
Thí dụ :
AN với ang
ON với om
ƠN với ơm
ÔN với ôm
UÔN với ƯƠNG
IN với inh, im, êm, iêm ...
v.v.....
gọi là cưỡng vận ( vần ép, vần cưỡng bách )

d-Lạc vận :
Ơ với ơi
A với ai, ia
Ô với ôi, ôn, ông
ƠI với ơn
AI với an, ang v.v....
gọi là lạc vận ( vần ăn ... trét; không hoà vận )

Trong 4 cách hoà vận nói trên
-Chính vận thường chặt chẽ, nhưng cũng gò bó, kém phần linh động.
-Thông vận là cách hòa vận thoải mái nhất, làm cho bài thơ trở nên đặc sắc, biến ảo vô cùng
-Cưỡng vận là vần ép, miễn cưỡng cũng có thể dùng được, nhưng nếu sử dụng cưỡng vận nhiều quá, sẽ làm giảm giá trị câu thơ

Tóm lại :
Cả ba cách hoà vận nói trên đều dùng được
Chỉ riêng Lạc vận là phải tuyệt đối tránh, gieo vần lạc vận kể như bài thơ hỏng

2-Cưỡng hay thông ?

Một vấn đề thường hay gây ra tranh cãi là bản thân 2 vần nào đó là “Cưỡng vận” hay “Thông vận” của nhau ?. Một tiêu chuẩn là xét theo truyện Kiều, những vần nào Nguyễn Du có sử dụng, được coi như thông vận.
Một số thí dụ như sau :

***Ong, ông, ung là thông vận
Thí dụ :
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán LÒNG
Phòng văn hơi giá như ĐỒNG
Trúc se ngọn thỏ, tơ CHÙNG phím loan
........................................Nguyễn Du-Kiều [251-254]

***Ang, oang, ương là thông vận
Thí dụ :
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một TRƯƠNG
Khúc nhà tay lựa nên XOANG
Một thiên “Bạc mệnh” lại CÀNG não nhân
........................................Nguyễn Du-Kiều [31-34]

***Nhưng ong, ông và ương là cưỡng vận. (Trong toàn bộ truyện Kiều, không có câu nào ông đi đôi với ương cả)
Cưỡng vận tuy miễn cưỡng cũng dùng được, nhưng nếu có thể thì nên tránh .

3-Nguyên tắc chung của các quan điểm liên quan đến Thông vận và Cưỡng vận là :
-Vần nào Nguyễn Du có sử dụng được kể như thông vận
-Vần nào Nguyễn Du không sử dụng là cưỡng vận

4-Thật ra, quan niệm cưỡng hay thông cũng là do con người định đoạt. Một vần nào đó bản chất là cưỡng, nhưng nếu được dùng nhiều lần quen đi trong những bài thơ hay thì dần dần cưỡng ấy sẽ được coi như thông mà thôi :

a-Trong truyện Kiều :

Rất ít khi thấy xuất hiện Cưỡng vận. Cả bộ truyện, chỉ có thể nhặt ra được 4 lần Nguyễn Du sử dụng cưỡng vận mà thôi :

Lời con dặn lại một hai
Dẫu mòn bia đá, dám phai tấc VÀNG
Lạy thôi nàng lại rén CHIỀNG :
-“Nhờ cha trả được nghĩa CHÀNG cho xuôi” [771-774]

Tin nhà ngày một vắng TIN
Mặn tình cát luỹ, nhạt TÌNH tào khang [1480]

Bao nhiêu đoạn khổ tình thương
Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở THAN
Dặn tôi đứng lại một BÊN
Chán tai rồi mới bước lên trên lầu [2002]

Lệnh quan ai dám cãi lời
Ép tình mới gán cho người thổ quan
Ông tơ thật nhẽ đa ĐOAN
Xe tơ sao khéo vơ QUÀNG vơ xiên [2600]

b-Trong phong trào thơ mới 1932 :

Kiểu hoà vận này lại rất thường thấy

Thí dụ :
Viết vội mấy dòng để ý TAN
Đang khi hồn ở chốn mơ MÀNG
Chỉ mong ân ái vài giây phút
Giữa lúc say say tưởng cạnh NÀNG
.................................Say- Đỗ Huy Nhiệm......

Nàng về thôn nảo thôn nao ấy
Sau núi nghiêng nghiêng đá chập CHÙNG
Những buổi chiều vàng sau nắng nhạt
Theo chiều lại đến với yêu THƯƠNG
.................................Say- Đỗ Huy Nhiệm....

Đừng mong ước cả thiên ĐƯỜNG
Hãy xin lấy nửa mảnh VƯỜN trắng hoa
-----------------------Giản dị-Hồ Dzếnh........

Khăn nhung quần lĩnh rộn RÀNG
Áo cài khuy bấm em LÀM khổ tôi
............................Chân Quê-Nguyễn Bính....

Nào đâu cái áo tứ thân
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái ĐEN ?
Nói ra sợ mất lòng EM
Van em em hãy giữ NGUYÊN quê mùa
............................Chân Quê-Nguyễn Bính....

Lòng tôi như chiếc thuyền NAN
Tình cô như khách sang NGANG một chiều
..............................Sang ngang-Nguyễn Đình Thư

Ta nhớ chiều khi dưới ánh TRĂNG
Cúi nâng tà áo nhẹ tay CẦM
Mơ màng ngỡ nắm tơ trăng biếc
Áo lụa ngời trăng đẹp mỹ NHÂN
.....................Áo lụa-Bàng Bá Lân.......

Lớn lên em đã biết làm DUYÊN
Mỗi lúc gặp tôi che nón NGHIÊNG
Nghe nói ba em chưa chịu nhận
Cau trầu của khách láng giềng BÊN
.................Gái Quê- Hàn Mặc Tử .......

Hôm nay sáng tỏ cung HẰNG
Khiến lòng em nhớ hôm RẰM bên anh
...........................Ghen Trăng- Mai Đình ......

Một mùa thu trước mỗi hoàng HÔN
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy BUỒN
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu ĐƯƠNG
..................Hai sắc hoa Ti-gôn – TTKH .......

Tóm lại :

Qua những thí dụ ấy, ta thấy rằng nếu biết dùng cưỡng vận một cách hạn chế, có chừng mực thì bài thơ vẫn hay như thường. Còn nếu lạm dụng, hoặc dùng không khéo thì ... khó nghe lắm.
Và cuối cùng thì câu hỏi “Vần này Cưỡng hay Thông” vẫn còn bỏ ngỏ, chưa có câu đáp vậy.

HÀN SĨ NGUYÊN

Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 11.08.2008 07:26:30
THƠ LỤC BÁT
3 PHỤ LỤC
 
-----------------------------------
PHỤ LỤC 3
Một số bài Lục bát tiêu biểu
-----------------------------------

1-Chân quê
-Nguyễn Bính-

Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung quần lĩnh (1) rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi !
Nào đâu cái áo lụa sồi
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân ?
Nào đâu (2) cái áo tứ thân
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen ? (3)
Nói ra sợ mất lòng em
Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa (4)
Như hôm em đi lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh
Hoa chanh nở giữa vườn chanh (5)
Thày u mình với chúng mình chân quê (6)
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội (7) bay đi ít nhiều.

Nguyễn Bính

-7 lần dùng Mỹ từ pháp :

(1)-Tiểu đối mini 2/2 : “Khăn nhung / quần lĩnh”
(2)-Điệp ngữ và câu đồng dạng : “Nào đâu ...”
(3)-Tiểu đồng dạng 4/4 : “Cái khăn ... / cái quần ...”
(4)-Ngắt mạch 2/6
(5)-Điệp ngữ 2 chữ “chanh”
(6)-Điệp ngữ 2 chữ “mình” và ngắt mạch 3/5
(7)-Tiểu đối mini 2/2 : “Hương đồng / gió nội”

-2 lần sử dụng cưỡng vận :

*“ràng” (câu 3) và “làm” (câu 4)
*“đen” (câu 8) với “em” (câu 9), và “em” (câu 9) với “nguyên” (câu 10)

***Ý kiến của HSN :

Trong 16 câu thơ ngắn ngủi, tác giả đã thực hiện 7 lần thủ pháp Mỹ từ hoá, và bài thơ có đủ cả 3 phần nhập đề, thân bài, kết luận !!! Vì vậy, dẫu rằng có 2 lần sử dụng cưỡng vận, bài thơ vẫn không mất hoặc giảm đi giá trị thực sự của nó. Trước sau đây vẫn là một bài thơ hay của Nguyễn Bính nói riêng, và văn học VN nói chung vậy.

-------------------------------------------

2-Giản dị
-Hồ Dzếnh-

Em ăn, em nói, em cười [1]
Đời này không có hai người như em
Kinh thành quần nhiễu, hàng len [2]
Em tôi áo trắng quần đen [3] sơ sài
Ai mà để ý đến ai [4]
Quần đen lẩn bóng, áo gai lẩn màu [5]
Trót đời hai đứa yêu nhau
Quần đen hoá đẹp, áo sầu hoá vui [6]
Tình là hạnh phúc chia đôi
Hương lan kẽ lá, trăng soi dặm đường [7]
Đừng mong ước cả thiên đường
Hãy xin lấy nửa mảnh vườn trắng hoa.

Hồ Dzếnh

-7 lần dùng Mỹ từ pháp :

[1]-Ngắt mạch 2/2/2
[2]-[3]-Tiểu đối mini 2/2
[4]-Điệp ngữ bất định từ AI
[5]-[6]-Tiểu đồng dạng
[7]-Tiểu đối 4/4 : đối song song

-2 lần bị cưỡng vận :

*“em” (câu 2) và “len” (câu 3)
*“đường” (câu 12) và “vườn” (câu 13)

***Ý kiến của HSN:

Trong bài Lục bát 12 câu này, tác giả đã sử dụng 7 lần thủ pháp Mỹ từ hoá thuộc 5 hình thức khác nhau !!! Vì vậy, dẫu có đến 2 lần bị cưỡng vận, đây vẫn là một bài thơ hay.


---------------------------------------

3-Sang ngang
-Nguyễn Đình Thư-

Lòng tôi như chiếc thuyền nan
Tình cô như khách sang ngang một chiều [1]
Thu nào quá đỗi cô liêu
Bờ hun hút lạnh nắng hiu hiu buồn [2]
Bến tình vương vất khói sương [3]
Phất phơ vạt áo dọc đường hư không
Sóng đưa bọt nước mênh mông
Ai người xa bến còn trông nhớ đò ?

Nguyễn Đình Thư

-3 lần dùng Mỹ từ pháp :

[1]-Thủ pháp Nhập đề Tỷ giảo
[2]-Tiểu đối 4/4
[3]-Đảo ngữ toàn phần : Ý câu xuôi là “Khói sương vương vất ở nơi bến tình”.

-2 lần bị cưỡng vận :

*“nan” (câu 1) và “ngang” (câu 2)
*“buồn” (câu 4) và “sương” (câu 5)

***Ý kiến của HSN :

Trong bài thơ 8 câu này, tác giả đã 3 lần vận dụng thủ pháp Mỹ từ hoá. Chỉ 3 lần thôi, nhưng hiệu quả thật là lớn lao. Hai lần cưỡng vận vẫn không làm giảm được giá trị bài thơ.

----------------------------------------------

4-Tương Tư
-Trần Huyền Trân-

Phải đây mùa nhớ thương nhau
Chim ngoài ngọn giá, hoa đầu cành mưa (1)
Biết yêu thì khổ có thừa
Hình dung một thoáng tương tư chín chiều (2)
Xa nhau gió ít lạnh nhiều (3)
Lửa khuya tàn chậm, mưa chiều đổ nhanh (4)
Bóng đơn đi giữa kinh thành
Nhìn duyên thiên hạ nghe tình người ta (5)
Đêm về hương ngát bên hoa
Tỉnh ra thì lại vẫn là chiêm bao.

Trần Huyền Trân

(1),(2),(4),(5)-Tiểu đối 4/4
(3)-Tiểu đối mini 2/2

***Ý kiến của HSN :

Trong 10 câu ngắn ngủi, tác giả đã sử dụng 5 lần thủ pháp Mỹ từ hoá, và không có chỗ nào bị cưỡng vận cả. Tuy vậy, bài thơ này hơi “phô” (mắc lỗi nhẹ) vì 2 lẽ :

-Một là, dùng quá nhiều tiểu đối (5 lần), không có thủ pháp khác chen vào, nên có vẻ hơi gượng ép, thiếu nét tự nhiên
-Hai là, 2 lần dùng chữ “thì” trong câu 3 và câu 10. “Phô” nhất là 4 “dư từ” đi liên tiếp với nhau trong câu cuối : “thì lại vẫn là” (!). Tiếc thay !

Trong thi ca, việc sử dụng những “dư từ” như : thì , và, là, mà, [cho] nên, bởi, tại, vì, do, lại, cũng, vẫn, cứ, dù, dẫu [rằng], nhưng, v.v... là điều nên tránh. Càng ít sử dụng những “dư từ” này càng tốt vậy

Hàn Sĩ Nguyên

Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 20.08.2008 08:40:20
=====================
THI PHÁP
- Chương II-
LỤC BÁT BIẾN THỂ
=====================

Nội dung phần II
Các biến thể của thơ Lục Bát bao gồm :

1-Lục bát Đoạn cú 
2-Lục bát “Tứ Bằng Lục Trắc”
3-Lục Bát thêm vào (Lục bát More)
4-Lục bát biến thể âm vận (Lục bát Bút Tre)
5-Lục Bát Trắc vận
6-Lục bát xen kẽ, và Lục bát kết bài
7-Song Thất Lục Bát
8-Lục Bát Lập thể
=================
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 20.08.2008 08:47:56
I-LỤC BÁT BIẾN THỂ NGẮT CÂU
(Lục bát đoạn cú)

1-Tiết tấu nhanh chậm, hối thúc trong một câu thơ :

-Một câu thơ nếu để trôi xuôi, sẽ có dạng như một dòng nước lững lờ, đều đều lặng lẽ.
Thí dụ :
Anh cho em một đoá hồng
Khơi lên hy vọng trong lòng của em

-Với thủ pháp ngắt mạch [Xin xem lại ở phần I, Thơ Lục Bát, Mỹ Từ Pháp, thủ pháp ngắt mạch], ta có thể dễ dàng thay đổi nhịp điệu của dòng chảy ấy, khiến cho nhịp thơ nhanh hơn, cuồn cuộn hơn, hối thúc hơn
Thí dụ :
Nụ cười, ánh mắt, hoa hồng
Cho em, cho cả tấc lòng yêu thương

Thí dụ khác :
Em là hạt cải gió đưa
Anh quen em lúc trời mưa bất ngờ

Viết lại bằng thủ pháp ngắt mạch :
Sấm vang, chớp giật, gió đưa
Mây mù xe mối, hạt mưa kết tình

-Khi muốn có một tiết tấu chậm hơn, thậm chí ngập ngừng, e dè, thủ pháp ngắt mạch cũng thường được sử dụng, kèm theo những dấu 3 chấm
Thí dụ :
Anh bây giờ ... còn lại ... một mình thôi

Tóm lại :
Chính thủ pháp “Ngắt mạch” đã có hiệu ứng thúc đẩy tiết tấu nhanh chậm, mạnh mẽ, hối thúc, hoặc chậm rãi, ngập ngừng ... của một bài thơ vậy

2-Lục bát biến thể ngắt câu :

Hai câu lục bát được ngắt mạch ra thành những câu ngắn hơn, phân biệt hoàn toàn bằng cách xuống dòng. Các thí dụ :

Biến thể [6/8] thành [3,3/8] hoặc [3,3/4,4]

Trời trong xanh, nước trong xanh
Êm êm tiếng hát, bập bềnh thuyền con
Đàn tơ sáo trúc nỉ non
Thuyền ai xa bến, cô thôn mong chờ

Viết lại thành [3,3/8] :

Trời trong xanh,
Nước trong xanh
Êm êm tiếng hát, bập bềnh thuyền con
Đàn tơ sáo trúc nỉ non
Thuyền ai xa bến, cô thôn mong chờ

hoặc [3,3/4,4]

Trời trong xanh,
Nước trong xanh
Êm êm tiếng hát,
Bập bềnh thuyền con
Đàn tơ sáo trúc nỉ non
Thuyền ai xa bến, cô thôn mong chờ

Biến thể [6/8] thành dạng [2,2,2/8], [2,2,2/4,4] hoặc [2,2,2/3,5], [6/2,2,2,2] v.v...

Một mai phấn nhạt hương phai
Bình rơi, trâm gãy, bèo trôi, hoa tàn

Viết lại thành dạng [2,2 ....]

Một mai
....... phấn nhạt
................hương phai
Bình rơi
....... trâm gãy
...............bèo trôi
.......................hoa tàn

Tóm lại :

Lục bát biến thể ngắt câu là một dạng lục bát mới xuất hiện khoảng 30 năm gần đây, và thường được coi như một trong các dạng Thơ tự do. Thể loại này khá hay, đặc biệt là diễn tả được tiết tấu nhanh chậm, hối thúc, hoặc ngập ngừng, chậm rãi của mạch thơ.

Một hậu quả xấu :

Khi ngắt mạch bừa bãi, tuỳ hứng, không vì một mục đích gì rõ rệt, hoặc vì không hiểu thủ thuật ngắt mạch, thì hậu quả là ta sẽ có được những bài ... “Lục bát ... tốn giấy” (!) , cũng hay được gọi đùa là ... “Lục nồi ... lung tung” (!)

Thí dụ :
Con mèo
.............mà
..................trèo cây cau
Hỏi thăm
..........chú
.............chuột
.................đi đâu vắng ...
................................. nhà !
[... Thật là dị hợm phải không các bạn ? .....]

Thêm một thí dụ về Lục bát biến thể ngắt câu (của tác giả Promise) :

BẤT NGỜ

Bất ngờ nắng
Bất ngờ mưa
Bất ngờ anh đến
Lòng chưa hỏi lòng

Bất ngờ gió
Bất ngờ giông
Bất ngờ em nhớ
Anh không lại tìm

Kẻ quay đi
Người trách mình
Bất ngờ gặp gỡ
Vô tình chia xa.

Promise
(Trên thi đàn TTVNOnline.com năm 2001)

Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 20.08.2008 08:52:51
II-LỤC BÁT BIẾN THỂ
TỨ BẰNG LỤC TRẮC

1-Nhắc lại đôi điều về Lục bát chính thể :

Trong phần mở đầu của Thơ Lục bát (ở phần I) ta đã biết là Lục bát chính thể luôn luôn tuân thủ luật “Tứ Trắc Lục Bằng” trong câu 8. (Câu 6 được tự do, linh động hơn, có thể không theo luật này)
Vài thí dụ :

Mai sau dù CÓ bao giờ
Đốt lò hương CŨ, so tơ phím này
Trông ra ngọn CỎ lá cây
Thấy hiu hiu GIÓ thì hay chị về
Hồn còn nặng MỘT lời thề
Nát thân bồ LIỄU đền nghì trúc mai
............................(Nguyễn Du-Kiều).......

Nước non nặng MỘT lời thề
Nước đi đi MÃI không về cùng non
Nhớ lời nguyện NƯỚC thề non
Nước đi chưa LẠI, non còn đứng không
Non cao những NGÓNG cùng trông
Suối khô dòng LỆ chờ mong tháng ngày
.......................(Tản Đà NKH-Thề non nước)......

Tâu rằng :-“Cha QUÁT ngày xưa,
Trước khi lâm TỬ dặn dò đinh ninh
Chớ nên cho QUÁT cầm binh
E rằng hại NƯỚC, thân mình cũng vong
Trước làm bại HOẠI gia phong
Sau làm xương TRẮNG máu hồng tuôn rơi
Việc quân há PHẢI việc chơi
Xin vua xét LẠI, chớ vời trẻ ranh”
.........(HSN-Thừa tướng Ứng hầu Phạm Thư).....

Vài thí dụ về sự linh động trong câu 6 : Chữ thứ tư có thể là thanh bằng, đặc biệt khi sử dụng thủ pháp Ngắt mạch kèm theo Tiểu đối hoặc Tiểu đồng dạng

Nước trong xanh, TRỜI trong xanh
Êm êm tiếng hát , bập bềnh thuyền con

Yêu nhau đi, YÊU nhau đi
Ngày mai hai đứa biệt ly ngàn đời

Khi tựa gối, KHI cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày

Tuy vậy hình thức này không nên lạm dụng, chỉ nên lâu lâu điểm xuyết như dùng Mỹ từ pháp mà thôi. Nếu lạm dụng, sẽ đánh mất sự hài hoà, thanh thoát của bài lục bát.

2-Lục bát biến thể “Tứ Bằng Lục Trắc”

Thay vì “Tứ Trắc Lục Bằng” như truyền thống lâu đời của Thơ lục bát chính thể, nếu bây giờ ta đảo ngược luật đó thành “Tứ Bằng Lục Trắc”, thì ta sẽ có được một thể Lục bát mới, đó là Lục bát biến thể “Tứ Bằng Lục Trắc”.
Chữ cuối câu 6 sẽ phải ăn vần với chữ thứ 4 của câu 8
Lục bát biến thể loại này cũng ít khi thấy toàn bài, mà chỉ thấy thỉnh thoảng đan xen trong Lục bát chính thể mà thôi

Vài thí dụ về Lục bát biến thể “Tứ Bằng Lục Trắc”:

Mẹ già ở với nàng DÂU
Đoạn thảm vơi SẦU, con một cậy cha
Mười phần thương mẹ ở nhà
Chín phần thương vợ còn là thơ ngây
....(Khuyết Danh-Thoại Khanh Châu Tuấn)......

Thoắt thôi vợ nói cùng CHỒNG
Đặng bốn mươi ĐỒNG gặp buổi đúc chuông
..........................
Âu là một thái tử ĐÂY
Ban cho nhà NÀY chẳng tiếc làm chi
............(Khuyết Danh-Phạm Công Cúc Hoa)

Em ta bé bỏng thơ ngây
Ngày xưa hay đứng nhìn mây trông trời
Môi hồng má đỏ thắm TƯƠI
Ít nói ít CƯỜI, hay mộng hay mơ
Ông tơ làm rối mối tơ
Một lần lỡ bước bơ vơ xứ người
........................(HSN-Ngàn dâu)......

Bảy năm giao kết Đào viên
Trong nhà chăm chỉ, ngoài thềm siêng năng
Thạch Sanh hay lũ hay LAM
Ít ngủ hay LÀM, dậy sớm thức khuya
Lý gia hưng thịnh mọi bề
Tiền muôn bạc ức đề huề hơn xưa
........(HSN-Thạch Sanh Lý Thông tân biên).....
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 20.08.2008 08:55:30
III-LỤC BÁT THÊM VÀO
(Lục bát MORE)

Lục bát thêm vào (còn được gọi đùa vắn tắt là Lục bát More; chữ More nghĩa là thêm vào...) là một thể loại “thật tưởng như đùa, đùa y như thật”, xuất phát từ Lục bát chính thể, hình thành bằng cách “thêm vào” mỗi câu một, hai, ba chữ nữa. Thể loại này thường thấy trong ca dao hơn cả .

Thí dụ 1: Thử so sánh hai câu sau đây

+Lục bát chính thể :

Yêu nhau MẤY núi cũng trèo
MẤY sông cũng lội, MẤY đèo cũng qua

+Lục bát biến thể “thêm vào” : Thơ 6/8 thành thơ 7/10 !

Yêu nhau TAM TỨ núi cũng trèo
NGŨ LỤC sông cũng lội, THẤT BÁT đèo cũng qua

Hoặc :

Yêu nhau BA BỐN núi cũng trèo
NĂM SÁU sông cũng lội, BẢY TÁM đèo cũng qua

Thí dụ 2 :

+Lục bát chính thể :

Em nhỏ thó, có duyên NGẦM
Khiến anh thương trộm nhớ THẦM bấy nay

+Lục bát biến thể “Tứ bằng lục trắc”

Em nhỏ thó, có duyên NGẦM
Anh phải lòng THẦM đã bấy lâu nay

+Lục bát More “Tứ bằng lục trắc” :

(Thấy) em nhỏ thó (lại) có duyên NGẦM
Anh phải lòng THẦM đã bấy lâu nay

+Lục bát More ngắt câu :

Thấy em nhỏ thó,
Lại có duyên NGẦM
Anh phải lòng THẦM đã bấy lâu nay

Thí dụ 3 :

+Lục bát chính thể :

Bước ngang nhà má tôi QUỲ
Vì thương con má sá GÌ thân tôi

+Lục bát More :

Bước ngang nhà má, tay tôi xá, cẳng tôi QUỲ
Vì thương con má sá GÌ thân tôi

+Lục bát More biến thể ngắt câu :

Bước ngang nhà má
Tay tôi xá
Cẳng tôi QUỲ
Vì thương con má sá GÌ thân tôi

Rõ ràng là nhờ “thêm mắm dặm muối” mà Lục bát thêm vào nghe đã tai, hay hơn hẳn Lục bát chính thống vậy

:):):)
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 21.08.2008 07:45:11
IV-LỤC BÁT BIẾN THỂ ÂM VẬN
(Lục bát Bút Tre)

1-Nhắc lại về luật Phù Trầm :

+Trong câu 8, nếu chữ thứ 6 là Phù bình thanh (không dấu), thì chữ thứ 8 phải là Trầm bình thanh (dấu huyền)
Thí dụ :

Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà ĐAU đớn LÒNG

+Ngược lại nếu chữ thứ 6 là Trầm bình thanh (dấu huyền), thì chữ thứ 8 bắt buộc phải là Phù bình thanh (không dấu)
Thí dụ

Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu HỜN kém XANH

2-Lục bát biến thể âm vận

Còn được gọi ngắn gọn là Lục bát Bút Tre, do nhà thơ Bút Tre đi tiên phong. Thể loại này có được bằng hình thức “phá cách” về âm vận, trong khi vẫn tuân thủ chặt chẽ luật “Phù Trầm”.
Cụ thể là :
-Vẫn tuân thủ chặt chẽ luật phù trầm
-Các âm trắc có thể linh động thay thế bằng âm bằng tiệm cận với nó

Hiệu quả : Đạt được tính trào phúng, khôi hài cao độ nếu sử dụng một cách tinh tế, thâm thuý, hài hoà.
Thí dụ : Trích từ thơ dân gian-Tác giả Khuyết danh

Đứng xa cứ tưởng ta già
Lại gần mới biết vẫn là ... trẻ ... khô
Mắt HI, môi sứt, mặt RÔ (hí / rỗ)
Cô ơi tui chỉ hơn cô mấy TUỒI (tuổi)

Thuyền đi ngược, nước chảy xuôi
Trăm năm nhớ mãi cái BUÔI ban đầu (buổi)

Chồng bà mới chết hôm qua
Vừa NĂN, vừa khóc, vừa XÒA, vừa rên (nắn / xoa)

Ý câu này bề ngoài là “vừa lăn, vừa khóc, vừa xõa tóc, vừa rên la” vì ... thương chồng, nhưng lại bao hàm một ý ngầm “nắn / xoa” vừa tinh tế, vừa thâm thúy, cười người phụ nữ bị mất ... một món ... đồ chơi !!!


V-LỤC BÁT TRẮC VẬN

Từ lâu, thơ Lục bát hầu như tất cả đều là vần bằng.
Tuy vậy, vẫn có thể tìm thấy những thí dụ về Lục bát trắc vận trong kho tàng ca dao Việt Nam, đặc biệt là ca dao phương Nam. Mới nghe qua thấy có vẻ kỳ quặc, nhưng quả thật là có thứ Lục bát vần Trắc thật :

*Thí dụ 1 : Ca dao

Tò vò mà nuôi con NHỆN
Ngày sau nó lớn nó QUẾN nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi nhận hỡi nhện đi đàng nào ?

*Thí dụ 2: Thơ dân gian
+Lục bát Trắc vận :

Môi xẻ, mũi lân, mắt LỘ
Khắp xứ này không ai NGỘ bằng em

+Lục bát More Trắc vận :

Môi chù ụ, lỗ mũi lân, con mắt LỘ
Khắp xứ này không ai NGỘ bằng em

+Lục bát More, Ngắt câu, Trắc vận :

Môi chù ụ 
Lỗ mũi lân
Con mắt LỘ
Khắp xứ này, không ai NGỘ bằng em

*Thí dụ 3 : Thơ dân gian
+Lục bát chính thể :

Mũi xúc xích, miệng chèm BÈM
Làng trên xóm dưới ai THÈM cưới cô !

+Lục bát Trắc vận :

Miệng chèm bèm, mũi xúc XÍCH
Có thằng khùng nó rục RỊCH cưới cô !!!

*Tóm lại : Lục bát trắc vận tuy chỉ là ... của hiếm, và thường dùng để đùa bỡn thôi, nhưng dù sao vẫn tồn tại thể loại này trong thi ca, đặc biệt là thi ca truyền khẩu Nam bộ.

*Ý kiến khác : Có người cho rằng không có cái gọi là “Lục bát trắc vận”, mà những trường hợp thí dụ nêu trên chỉ là một biến thái thêm bớt chữ của thể “Song thất” mà thôi.
Thí dụ :

Miệng chèm bèm, mũi (như) xúc XÍCH
Có thằng khùng (nó) rục RỊCH cưới cô !

Nghĩ như vậy cũng có thể là đúng. HSN chỉ nêu ra, và không dám có ý kiến riêng.

(Còn tiếp)

HSN
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 23.08.2008 08:25:15
VI-LỤC BÁT ĐAN XEN và LỤC BÁT KẾT


Trong một bài thơ bất kỳ thể loại nào, ngũ ngôn, thất ngôn, bát ngôn, hoặc thơ tự do , người viết khéo tay đều có thể chêm vào một hoặc hai cặp câu thơ Lục bát , đó là hình thức Lục bát đan xen, hoặc lục bát xen kẽ , tạo nên một hiệu ứng mênh mang buồn, do cái âm hưởng ca dao, dân ca mà thơ lục bát đem lại .
Ở bất cứ chỗ nào đều có thể đan xen lục bát, chỉ có một vấn đề là lúc nào thì chêm vào, và chêm vào như thế nào để đạt được hiệu ứng mênh mang buồn ấy mà thôi . Điều này chỉ có “quá trình lăn lóc với thơ của người viết” mới giúp xác định được có nên không mà thôi
Nếu cặp lục bát thêm vào nằm ở cuối bài thì đó là hình thức “Lục bát kết bài” , hoặc “Lục bát kết” . Mượn một hoặc hai cặp thơ lục bát để kết thúc một bài thơ thuộc các thể loại khác
Dưới đây là các thí dụ :

Thí dụ 1 : KHÚC CA PHẠM THÁI (Vũ Hoàng Chương)

Ta, tráng sĩ hề, lòng không mềm bằng kiếm
Ta, anh hùng hề, sự nghiệp có đầy đôi mắt Trương Quỳnh Như ?
Chí nhỏ lòng kiêu đổ thừa vận rủi
Tài sơ sức mỏi trách bấy thời cơ



Lòng miên man uống mãi rượu giang hồ
Nâng chén lửa đốt tàn dần năm tháng
Hồn chua cay những đêm trường bốc cháy
Ngựa ngông cuồng khua gót nhớ quan san

Trời mưa buồn hay lệ nhỏ nhân gian
Men ứa lạnh trên đầu tay giá buốt
Chợp năm canh gà hề, tóc hồ điểm bạc
Thù nhà chưa trả hề, nợ nước vai mang

Thẹn mặt làm ngơ hề, tủi thân hồ hải
Gục đầu lên gươm hề, máu đổ chứa chan
Ta là sao tinh đẩu
Cao vút trời cô đơn

Sáng không đủ soi đường cho người hề, đêm chưa đành tắt
Một mình ta với lòng ta hề, bão táp không nguôi
Biển động bốn phương hề, sóng đau gào thét
Giấc mơ thù hận hề, máu đổ tay người

Cơn say dở khóc dở cười
Thành nghiêng núi lở đất trời là đâu ?
Chuông run đã giục tinh cầu
Em ơi thức dậy nghe sầu vào thơ

Ta yêu nàng ư ?
Ta giết nàng ư ?
Ta thương nàng ư ?
Ta khóc rồi ư ?



Quỳnh Như ơi
Quỳnh Như ơi

Tóc nàng thơm làm hồn ta ngây ngất
Mắt nàng là đèn hoa soi sáng lòng ta
Gót hương trầm dáng kiêu thơm dịu ngọt
Xiêm y nồng nàn gót nhỏ búp tiên nga

Nàng là thơ, ta là rượu mê hoa
Trời nâng giấc ban ân đầy xuân mới
Ta nhớ nàng điên cuồng lên tiếng gọi
Quỳnh Như ơi
Quỳnh Như ơi
Ai đội mồ nàng lên
Thơ nàng buồn thành những chiếc gai êm
Mọc lên giữa linh hồn ta sầu tủi

Mây ngũ sắc kết nên lầu ngóng đợi
Sao Ngân Hà mở hội đón em đi
Thuyền trăng đây ta xin chở em về
Trong lưng chén long lanh chừ đau lạnh môi tê

Quỳnh Như ơi
Quỳnh Như ơi

Môi nàng là mật đắng
Tóc nàng là bão đau
Mắt nàng là mộ tối
Hồn ta là đêm sâu

..... (quên mất một đoạn).......

Rát mặt anh hùng hề, nàng là gió mát
Chuông kinh cầu nguyện hề, lời đầy tên nàng
Heo may đã nổi đá vàng
Buồn xưa chừng cũng động ngàn bay xa



Mộ nàng bao cỏ úa
Lòng ta bấy xót xa
Rưng rưng chén nhỏ trào tâm sự
Ta thương nàng, hay ta thương ta ???

Vũ Hoàng Chương

---------------------------

Thí dụ 2 : TÌNH NGHÈO (Hồ Hán Sơn)

Nhớ thuở
Anh cày thuê
Em chăn trâu
Gánh nước dưới cầu
Gặp nhau
Một cỗ trầu cau
Nên đôi chồng vợ
Túp lều tre nứa
Dựng cuối vườn làng
Hai mùa lúa chín ngô vàng
Chày tre cối đất rộn ràng thâu canh
Thế rồi
Giặc tràn mấy xứ
Lúa khoai màu mỡ
Ai không tiếc ruộng, tiếc đồng ?
Đường quê thiên hạ tiễn chồng
Em đưa anh ra lính
Giặc vào anh đánh
Giặc tan anh về
Làm sao đuổi hết giặc đi
Để cho cối đất chày tre nhịp nhàng
Thế rồi,
Giặc chết trên ngàn
Giặc tan ngoài bể
Nhớ lời em nhé
Về chốn làng quê
Dù không may
Anh cứ về
Ai cười người đuổi giặc
Ai ghét kẻ thương binh ?
Còn làng , còn nước, còn anh
Còn đồng, còn ruộng, còn tình lứa đôi
Em vui,
Nước nhà độc lập
Đường quê tấp nập
Trai tráng về làng
Hai mùa lúa chín ngô vàng
Chày xe cối máy rộn ràng hơn xưa

-Hồ Hán Sơn-


Ghi chú :
1-Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát nổi tiếng cùng tên TÌNH NGHÈO . Trong bài thơ này có đủ cả hai hình thức “Lục bát đan xen” và “Lục bát kết”
2-Về tác giả, có một số tư liệu ghi tên tác giả là Hồng Nam, nhưng các tư liệu có uy tín trong nước đều ghi là của Hồ Hán Sơn . Không rõ đây có phải là 2 bút hiệu của cùng một người hay không, hoặc là đã có sự nhầm lẫn nào đó chăng ?

 
Lưu ý :
Cặp lục bát đan xen cũng như Lục bát kết khi thêm vào bài thơ, nhất thiết phải ăn vần với câu thơ trước. Nếu không hòa vận, hiệu quả thêm vào sẽ không đạt được và bài thơ sẽ... lạc quẻ ngay (!)

Thí dụ :
 
Trai tráng về LÀNG
Hai mùa lúa chín ngô VÀNG
Chày xe cối máy rộn RÀNG hơn xưa
 
HSN
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 24.08.2008 08:18:11
VII-LỤC BÁT LẬP THỂ
(Xem chương 8 THƠ LẬP THỂ)
 
 
VIII-LỤC BÁT BIẾN THỂ : SONG THẤT LỤC BÁT
 
1-Tổng quát :

Trong tất cả các dạng biến thể của thơ Lục bát, có thể nói rằng chính Song Thất Lục Bát (STLB/7768) là thể loại biến thể quan trọng nhất, đã tách rời khỏi thể loại gốc, hình thành một thể thơ riêng biệt, đậm đà bản sắc dân tộc, với các đặc trưng chủ yếu như hào hùng, bi thiết, trữ tình, lãng mạn, không thua kém gì thơ Lục bát, thậm chí tính hào hùng có thể nói là hơn hẳn thơ Lục bát nữa.
Biến thể STLB này đã có tự lâu đời trong thi ca Việt Nam, mà đỉnh cao vòi vọi của nó chính là bản dịch Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm, dịch từ nguyên tác Hán văn của Đặng Trần Côn. (Bản dịch này gần đây có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng là của Phan Huy I’ch)
Kể từ sau tác phẩm ấy, STLB vẫn còn xuất hiện thường xuyên trong thơ ca, đặc biệt là thường thấy trong những bài Kệ ( Kinh Phật diễn giải thành thơ), và cũng chính vì yếu tố này, mà STLB ít hiện diện trong thi ca đời thường
Đã một thời gian dài, lâu lắm, STLB không còn được sử dụng để viết thơ trữ tình nữa. Kể ra như thế thật là đáng tiếc cho một thể loại thơ hết sức đặc sắc của thi ca VN

2-Bố cục một bài STLB :

-STLB được viết thành từng khổ, mỗi khổ 4 câu, bao gồm 2 câu 7 chữ, một câu 6 chữ và một câu 8 chữ
-Hai câu 7 hầu như tất cả đều được ngắt mạch 3 / 4, có thể đối nhau hoặc không đối. Tất nhiên những câu có đối nghe sẽ hay hơn. Và 3 chữ đầu trong câu 7 thường gợi nên một hình ảnh, hoặc một âm thanh để câu thơ đột nhiên trở nên sắc sảo như một nét khắc hoạ, một ấn tượng mạnh mẽ đi thẳng vào tâm hồn người đọc vậy
-Một bài thơ STLB hay, luôn luôn có đi kèm cùng các hình thức Mỹ Từ Pháp (đã trình bày trong Phần I, Thơ Lục bát) như ngắt mạch, tiểu đối, đồng dạng, đảo ngữ, điệp ngữ v.v...

3-Cách gieo vần trong STLB

Xin được tóm tắt gọn như sau, để giúp các bạn trẻ nhanh chóng nắm bắt được các bí quyết của thể loại này :
-Chữ thứ 5 câu 7 đầu tiên vần Bằng (B).
-Chữ cuối câu 7 đầu tiên ở vần Trắc(T), ăn vần với chữ thứ 5 của câu 7 thứ nhì (cũng vần Trắc)
-Chữ cuối câu 7 thứ nhì vần Bằng, ăn vần với chữ cuối câu 6 (vần Bằng)
-Chữ cuối câu 6 vần Bằng , ăn vần với chữ thứ 6 câu 8 (vần Bằng)
-Chữ cuối câu 8 vần Bằng , lại ăn vần với chữ thứ 3 hoặc chữ thứ 5 của câu 7 đầu tiên trong khổ thơ tiếp theo. Chữ thứ 5 này vần Bằng.
Chữ thứ 3 linh động hơn, khi ăn vần với câu trước thì phải là vần Bằng, nếu không ăn vần với câu trước thì Trắc, Bằng gì cũng được.

Các thí dụ :
1-
Thuở trời đất // nổi cơn (B) gió BỤI (T)
Khách má hồng // nhiều NỖI (T) truân CHUYÊN
Xanh kia thăm thẳm từng TRÊN
Vì ai gây dựng cho NÊN nỗi NÀY

Trống Trường Thành // lung LAY (B) bóng NGUYỆT (T)
Khói Cam Tuyền // mờ MỊT (T) thức MÂY
Chín tầng gươm báu trao TAY
Nửa đêm truyền hịch, định NGÀY xuất CHINH

Nước thanh BÌNH (B) // ba TRĂM (B) năm cũ (T)
........................ĐTĐ-Chinh Phụ Ngâm......

2-
Cùng trông lại // mà cùng (B) chẳng THẤY (T)
Thấy xanh xanh // những MẤY (T) ngàn DÂU
Ngàn dâu xanh ngắt một MÀU
Tình chàng ý thiếp ai SẦU hơn ai ?
........................ĐTĐ-Chinh Phụ Ngâm......

3-
Đàn ai gảy // tình tang (B) đêm VẮNG (T)
Vỡ can tràng // giọt ĐẮNG (T) mềm MÔI
Bóng ai đã ngả nghiêng RỒI
Ta còn ngồi lại ngậm NGÙI thế nhân
.......................HSN-Phá Thành Sầu......

4-Thơ STLB trữ tình khác với một bài Kệ ở chỗ nào ?

a-Khác ở 3 chữ đầu trong 2 câu 7 :
-STLB trữ tình : thường thì 3 chữ này khơi gợi nên một hình ảnh trữ tình ( Mưa vần vũ // Sóng thu ba // Đò một chiếc // Đàn ai gảy // Sương giăng giăng //.....)
-Bài kệ : Thiếu những hình ảnh trữ tình như trên.

b-Khác ở các hình thức tu từ :
-STLB trữ tình : dùng rất nhiều Mỹ từ pháp
-Bài kệ : thường nôm na, đơn giản, thiếu hẳn các thủ pháp này. Chỉ vậy thôi.
Xin chúc các bạn trẻ thành công với thể loại đầy bản sắc dân tộc này
HSN trân trọng


PHỤ LỤC 1 : Một số bài STLB trữ tình :
1-
Chút tình vấn vương

Áo trinh nguyên vờn bay trong gió
Gót sen hồng lối nhỏ tung tăng
Chùm hoa tím thoáng rưng rưng
Bâng khuâng lãng tử ngập ngừng theo em

Vạt nắng đổ bên thềm thưa nắng
Giọt chiều rơi thấp thoáng đường chiều
Mộng du theo gót bé yêu
Lung linh mộng ảo chắt chiu tình hờ

Nón nghiêng nghiêng bài thơ dang dở
Tóc bay bay thương quá người ơi
Long lanh ánh mắt môi cười
Theo em, theo cả một đời phiêu du

Hàn Sĩ Nguyên

2-
Chim Sáo Ngày Xưa

Nhẹ bàn chân lần về lối cũ
Lũy tre xanh liễu rũ đong đưa
Chập chùng bát ngát bóng dừa
Có con sáo đậu trộm đưa mắt nhìn

Chiếc cầu tre gập ghềnh khó bước
Con nước đùa xuôi ngược đợi trông
Cau nhà anh đã trổ bông
Vườn trầu bên ấy còn mong những gì ?

Trầu nhà em thầm thì gọi nắng
Hoa nhà anh rụng trắng sân em
Đón đưa gót ngọc chân mềm
Hương cau tỏa ngát những đêm hẹn hò

Sáo nhớ người thờ ơ biếng hót
Lời yêu thương dịu ngọt vành môi
Dáng hồng xưa đã đi rồi
Sáo buồn câm lặng bồi hồi xót xa

Lá trầu xanh mượt mà niềm nhớ
Hương cau nồng tim vỡ từ nay
Ai đem con sáo sang đây ?
Để cho con sáo lạc bầy quạnh hiu

Gió Bụi

Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 25.08.2008 08:19:35
PHỤ LỤC 2
 
==================
PHÁ THÀNH SẦU
Song Thất Lục Bát
Liên Ngâm
==================

Từ một bài thơ của Chu Hà :

Phá Thành Sầu 01

Phá thành sầu nghiêng bầu ta rót
Cạn đôi ly ruột xót xa thêm
Men cay chưa thấm môi mềm
Bão giông đã phủ bên thềm mắt xanh

Ðò một chiếc mong manh trên sóng
Bến bờ đâu mãi ngóng thêm đau
Thôi đừng mơ tưởng bên nhau
Thế nhân lắm kẻ bạc đầu hoài mơ

Chiếc lá xanh bơ vơ uá đỏ
Trách ai đây mưa gió đổi màu
Chợ đời mặc kẻ bán nhau
Ôm bình ta cạn thơ đau mấy dòng

Lãng Tử - Chu Hà (ANQ)
--------------------------------

Phá Thành Sầu 02

Miệng chưa nhắp mà lòng thấy đắng
Ngước trông lên mây trắng ngàn dâu
Chiều chiều vẳng tiếng tiêu sầu
Gẫm câu nhân thế xót đau mấy từng

Non nước cũ nghìn trùng cách trở
Xóm làng xưa rạn vỡ tim côi
Tình đây nghĩa đấy không nguôi
Nâng ly rượu đắng lệ rơi mấy hàng

Đàn ai gảy tình tang đêm vắng
Vỡ can tràng, giọt đắng mềm môi
Bóng ai đã ngả nghiêng rồi
Ta còn ngồi lại ngậm ngùi thế nhân

Hàn Sĩ Nguyên
------------------------------------------

Phá Thành Sầu 03

Mặc thế cuộc xoay vần mấy nổi
Cuộc đời vui vẹn lối trăng về
Rượu chiều rót giữa đồng quê
Giọt rơi hiu hắt tứ bề miên miên

Phá thành sầu tạo miền hoang vắng
Cuộc vui tàn rượu đắng men cay
Bóng trăng chếnh choáng đêm nay
Cung đàn trầm bổng lạc dây mất rồi

Ngẫm thời thế mấy hồi xa khuất
Chẳng còn buồn nghẹn uất làm chi
Phù du sanh biệt tử ly
Chuốc sầu mua oán còn gì là xuân?

Hoàng Vũ Luân (ALT)

------------------------------------------

Phá Thành Sầu 04 : Riêng ta ngậm ngùi...

Thơ một túi gió trăng là bạn
Rượu đầy vò năm tháng ngao du
Vùi chôn yêu ghét hận thù
Đời người bao nã vật vờ bóng câu

Bóng đã xế bên lầu Hoàng Hạc
Lãng quên đời khúc nhạc Tầm Dương
Cố nhân cách biệt hà phương ?
Tiêu sầu rủ bóng, đêm trường cử bôi

Rượu chưa cạn bồi hồi lệ nhỏ
Hồn chưa say còn đó xót xa
Trông lên hỏi ánh trăng già
Vì đâu nên nỗi, riêng ta ngậm ngùi ?

Hàn Sĩ Nguyên
------------------------------------------

Phá Thành Sầu 05

Mảnh trăng non chơi vơi chiều xế
Vườn xuân tình ngọc quế sương giăng
Biển buồn leo lét hải đăng
Thuyền xa thả lái muộn mằn thâu đêm

Tình cô lữ chuốc mềm môi đắng
Rượu tiễn đưa quạnh vắng tim côi
Thành sầu đả phá mấy hồi
Nhìn lên nấc nghẹn lệ trôi hai hàng

Mây xuống thấp che ngang bóng nguyệt
Gió vờn cao phủ tuyệt lối về
Sấm xa ngân vọng lê thê
Bồi hồi nhớ bạn tái tê ngậm ngùi.

Hoàng Vũ Luân (ALT)

-------------------------------------------------

Phá Thành Sầu 06 : Sương Giăng Giăng

Chiều nghiêng nắng ráng trời nhoà nhạt
Sương giăng giăng bát ngát đầu non
Giật mình chạnh nhớ cô thôn
Em thơ còm cõi, héo hon mẹ già

Lòng lữ khách xót xa tê tái
Cánh chim trời mê mải về đâu ?
Bạt ngàn mây nước một màu
Ngàn trùng cố lý xót đau can trường

Tóc mẹ đã tuyết sương điểm bạc
Thân héo mòn mình hạc xương mai
Con đi cuối đất cùng trời
Tay nâng chén đắng, ngậm ngùi tình quê

Hàn Sĩ Nguyên
----------------------------------------------

Phá Thành Sầu 07

Đêm tĩnh mịch tư bề vắng ngắt
Thạch sùng kêu héo hắt đâu đây
Cung đàn đã lỗi đôi dây
Tình tang ai khảy cho đây thêm rầu

Thơ đôi lá xây lầu mộng tưởng
Tình ba câu để vướng sầu đau
Trách chi con tạo cơ cầu
Gieo tơ, tơ rối ai hầu gỡ lơi

Dõi trời cao buông lời than thở
Nhìn nước trôi nức nở đoạn trường
Người đâu gieo mối sầu tương
Để ta vương vấn vấn vương cung sầu

Chu Hà
---------------------------------------

Phá Thành Sầu 08

Trỗi mộ khúc nao nao vạn dặm
Lắng trúc tiêu suy ngẫm mà đau
Trời kia vàng vọt xanh xao
Yến oanh đôi ngả xiết bao ngậm ngùi

Rượu dẫu ngon lẻ đôi vẫn chán
Vắng bạn hiền ngao ngán lắm thay
Người về tay lại cầm tay
Một chung uống cạn cho say men tình

Dẫu chẳng phải trâm anh thế phiệt
Thử một lần cho biết tửu lâu
Thăng trầm một kiếp bể dâu
Chỉ mong giữ được trên đầu chữ Nhân

Người đi đã bao lần lỗi hẹn
Lối ta về nghèn nghẹn đáy tim
Sao ai cứ mãi đi tìm
Vấn vương vương vấn nỗi niềm hoài mong...!

Hoa Đất (wildcat)
---------------------------------------------------

Phá Thành sầu 09

Mưa vần vũ tạo vòng cương tỏa
Sóng thu ba rắc hoạ nhân duyên
Trời xa thiên lý cửu tuyền
Vọng phu ngóng mãi con thuyền năm xưa

Chia với cắt cho vừa đôi ngã
Hợp bất thành cũng hoá đơn côi
Ngẫm đời nghĩ chuyện lứa đôi
Tình sầu duyên mỏng chuốc bồi men say

Vận số mỏng trời đày lận đận
Xót lòng đau mấy bận còn đau
Trông xa thấy nhạn hồi đầu
Một thân đơn lẻ xiết bao ngậm ngùi.

Hoàng Vũ Luân (ALT)

---------------------------------------

Phá Thành Sầu 10

Cuộc phù sinh có vui là mấy
Đường nhân gian cạm bẫy đắng cay
Soi gương ta hỏi là ai ?
Đôi dòng lệ đổ ... mới hay mình buồn

Mưa nhớ gió mưa tuôn mấy nẻo
Lá xa cành lá héo cành khô
Một lần rong ruổi sông hồ
Lời yêu đã cạn ... vẩn vơ dỗi hờn

Thơ với thẩn chẳng khuôn mà giống..
Chợt bâng khuâng lệ nóng tràn mi
Đường đời muôn nẻo biệt ly..
Cánh buồm đã khuất ... người đi phương nào ?

Hoa Đất (Wildcat )
----------------------------------------

Phá Thành sầu 11 : Cánh Chim Hồng

Cánh chim hồng vút cao trong gió
Sải cánh bay chim nhỏ về đâu ?
Bạt ngàn mây trắng vương sầu
Lệ nhoà khoé mắt, hát câu tạ từ

Hoàng hôn xuống bến bờ xa lạ
Dốc nghiêng bầu nỗi nhớ chưa nguôi
Hỡi ơi cá nước chim trời
Bao giờ hội ngộ với người ngày xưa ?

Thân viễn xứ bơ vơ tơi tả
Nửa mảnh tình sóng cả vùi chôn
Bạc đầu lớp lớp sóng dồn
Tơ vò trăm mối, sầu vương mối nào ?

Hàn Sĩ Nguyên
---------------------------------------------

Phá Thành Sầu 12

Hận mấy nỗi tình trao lệ đắng
Bạc mái đầu trống vắng năm canh
Người về đả phá sầu thành
Rượu say luý tuý tròng trành trăng côi

Trống đã điểm sương bồi nguyệt lạnh
Thuyền vẫn neo cô quạnh bờ xa
Trông lên tĩnh mịch chiều tà
Vườn hoang cỏ úa mắt nhoà lệ đau

Duyên đã dứt tình đầu còn luyến
Mấy thu rồi ước nguyện hợp tan
Hoàng cầm hoà tiếng ngân vang
Giọt sầu chan chứa ngỡ ngàng chưa nguôi.

Hoàng Vũ Luân (ALT)

------------------------------------------

Phá Thành Sầu 13 : Thuyền lướt sóng

Thơ một túi hoa cười bướm hát
Rượu lưng vò họp mặt khách thơ
Mơ hoa, kết trái, ươm tơ
Mặc đời khôn dại, nghiêng vò mà vui

Nhà tranh dựng lưng đồi hứng gió
Trống bốn bề mở cửa đón trăng
Giãi lòng ra với chị Hằng
Câu thơ, tiếng nhạc dịu dàng chơi vơi

Thuyền lướt sóng bồi hồi giỡn sóng
Nước triều lên, mơ mộng cũng lên
Thanh nhàn vui thú điền viên
Thảnh thơi sóng vỗ mạn thuyền thảnh thơi

Hàn Sĩ Nguyên
-----------------------------------------

Phá Thành Sầu 14

Gió đã thổi thuyền hồi bến cũ
Chốn thanh nhàn liễu rủ chờ trăng
Biển xa sóng lướt băng băng
Vén vầng mây thắm cung Hằng chơi vơi

Nâng chén ngọc vẫy mời thi hữu
Hoạ thơ tình mỹ tửu ngất ngây
Vườn xuân đông đủ sum vầy
Thành sầu đã dứt dựng xây duyên nồng

Thuyền cập bến, hừng đông ló dạng
Chim về cành, muôn vạn tiếng vui
Nhắc nhau chuyện cũ ngậm ngùi
Người đi kẻ ở bồi hồi luyến thương.

Hoàng Vũ Luân (ALT)

----------------------------------------

Phá Thành Sầu 15

Ai gảy khúc Nghê Thường năm cũ
Đất trời xoay phong vũ cuồng quay..
Hỏi lòng có phải ta say ?
Lung linh bóng nguyệt ngất ngây lòng thuyền

Rượu hoà thơ hàn huyên tâm sự
Liễu vờn trăng liễu rũ cô dơn
Hoa xinh e ấp dỗi hờn..
Cung đàn lỗi nhịp, giọt sương nhạt nhoà

Đây với đó có xa là mấy
Cách tấc gang sao thấy nghìn khơi
Rượu vào lòng bỗng chơi vơi
Thành sầu cao ngất : buông rơi sầu thành

Hoa Đất (WildCat)
------------------------------------------------

Phá Thành Sầu 16

Phá thành sầu tửu binh chẳng mượn
Tống niềm đau cố gượng quên đau
Đầu xanh, đầu bạc - bao lâu ?
Sầu vương chi để cho nhau vương sầu

Mong với nhớ chốn đâu tìm đến
Yêu thương đầy chống chếnh ta say
Ngày dài mơ bóng dáng ai
Đêm thâu lạc cõi thiên thai cùng nàng

Rượu sóng sánh đầy tràn trăng tỏ
Ta với người ôn cố tri tân
Hảo bằng hữu, ý trung nhân
Xin mời ngồi lại một lần vui say

NgauTuan
----------------------------------------

Phá Thành Sầu 17 : Nước vẫn chảy

Trăng ai xẻ làm hai, trăng vỡ
Người xa người, hai nửa biệt ly
Nâng niu chút mảnh tàn y
Hương thừa quanh quất, vương mi giọt sầu

Nước vẫn chảy bên cầu lặng lẽ
Thuyền cứ trôi quạnh quẽ bến mơ
Thuỷ chung một chút tình hờ
Ai cho mà nhận, ai chờ mà trông ?

Gương đập vỡ, chẳng mong thấy bóng
Rượu cử bôi hoài vọng thêm đau
Cố nhân giờ ở nơi đâu ?
Biết chăng ta đã chìm sâu đáy mồ

Hàn Sĩ Nguyên
---------------------------------------

Phá Thành Sầu 18 : Tiếng đàn ma

Men nhắp mãi, tình hờ vạn cổ
Sầu tương tư muôn thuở khó nguôi
Bắc Nam muôn dặm xa xôi
Nhớ thương gửi cánh chim trời nhớ thương

Thân cô lữ hồn nương chốn cũ
Luyến lưu hoài thành phố mưa bay
Lưu ly hoa ấy còn đây
Người xưa đã khuất chân mây cuối trời

Nâng chén đắng bùi ngùi lệ nhỏ
Tiếng đàn ma nức nở thâu đêm
Gương nga chênh chếch ngoài hiên
Trước sân lá rụng, bên thềm hoa rơi

Hàn Sĩ Nguyên
------------------------------------------

Phá Thành Sầu 19 : Đàn thánh thót

Đàn thánh thót gượng cười mà hát
Rượu nồng nàn se thắt cạn ly
Rưng rưng cố nén sầu bi
Bạn hiền không biết biến đi đàng nào ?

Thơ cứ viết, thành sầu cứ phá
Phá không xong, hoá đá tim côi
Men say dở khóc dở cười
Hồ trường dốc ngược đất trời đảo điên

Đàn xếp xó triền miên phủ bụi
Dây tơ đồng muôn nỗi quạnh hiu
Trời chiều hoang tím cô liêu
Nghiêng nghiêng bóng xế, xiêu xiêu nắng tà ...

Hàn Sĩ Nguyên
-----------------------------------------

Phá Thành Sầu 20 : Mưa rả rích

Đàn u uất lệ sa năm ngón
Tiếng tơ chùng thỏn mỏn lòng đau
Về đâu, ai biết về đâu ?
Thiềm cung xơ xác, hạc lầu chơ vơ

Mưa rả rích hững hờ hiên vắng
Lòng nhủ lòng mai nắng người ơi
Bình minh chim hót hoa cười
Qua đi đêm tối, hết rồi buồn đau

Bầu đã cạn, thành sầu vơi nhẹ
Đêm dần tàn, lặng lẽ đêm trôi
Trăng khuya chênh chếch lưng trời
Bâng khuâng cũng đã cạn lời bâng khuâng

Hàn Sĩ Nguyên

Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 07.09.2008 08:54:22

Chim Sáo Ngày Xưa

Nhẹ bàn chân lần về lối cũ
Lũy tre xanh liễu rũ đong đưa
Chập chùng bát ngát bóng dừa
Có con sáo đậu trộm đưa mắt nhìn

Chiếc cầu tre gập ghềnh khó bước
Con nước đùa xuôi ngược đợi trông
Cau nhà anh đã trổ bông
Vườn trầu bên ấy còn mong những gì ?

Trầu nhà em thầm thì gọi nắng
Hoa nhà anh rụng trắng sân em
Đón đưa gót ngọc chân mềm
Hương cau tỏa ngát những đêm hẹn hò

Sáo nhớ người thờ ơ biếng hót
Lời yêu thương dịu ngọt vành môi
Dáng hồng xưa đã đi rồi
Sáo buồn câm lặng bồi hồi xót xa

Lá trầu xanh mượt mà niềm nhớ
Hương cau nồng tim vỡ từ nay
Ai đem con sáo sang đây ?
Để cho con sáo lạc bầy quạnh hiu

Gió Bụi

 
Một bài nhạc phổ từ thơ Song Thất Lục Bát
 
CHIM SÁO QUẠNH HIU
 
Thơ Gió Bụi
Nhạc Hàn Sĩ Nguyên
Hòa âm Lâm Đình Thuận
Audio Quang Đạt
 
Ca sĩ MAI HẬU (Mai Thiên Vân)
 
  

Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: THI PHÁP HSN - 14.11.2008 05:03:44
THI PHÁP HSN
 
CHƯƠNG III
 
THẤT NGÔN BÁT CÚ XƯA và NAY
 
Nội Dung
 
I-CỔ THỂ
II-ĐƯỜNG THI
III-THẤT NGÔN BÁT CÚ BIẾN CÁCH
 
oOo
 
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3