Thuận Thiên Di Sử (từ hồi 6)
CDDLT 07.01.2005 17:42:08 (permalink)
Hồi thứ ba mươi sáu


Tam-công Đại-lý



Bảo-Hòa thấy bản lĩnh hai người thì kinh hãi:
- Mình những tưởng học được thần công thời Lĩnh-nam cùng Phục-ngưu thần chưởng thành vô địch. Không ngờ còn thua xa Thiên-trường ngũ kiệt. Thiên-trường ngũ kiệt bản lĩnh nổi tiếng ngang với Đại-Việt ngũ long thực không sai. Còn người bịt mặt là ai, mà ta thấy võ công không giống môn phái nào của Việt của Hoa cả? Tại sao y lại tấn công Đỗ Lệ-Thanh? Nhìn lưng người này, ta thấy hơi quen. Không biết gốc tích y ra sao?
Chợt người đó lui lại, phóng chiêu chưởng cực kỳ hùng mạnh vào người Phạm Hào. Phạm Hào nhảy vọt lên cao, trả bằng chiêu Đông-hải lưu phong. Chiêu này là một trong ba mươi sáu chiêu trấn môn của phái Đông-a. Bình một tiếng, người kia lui liền ba bước, mặt y nhăn nhó, tỏ vẻ đau đớn.
Mấy trăm năm trước, tổ sư phái Đông-a là Trầm Tự-Viễn nhân học Thiền-công phái Tiêu-sơn, rồi chế ra bộ Tiêu-sơn Tượng-đầu chưởng. Sau khi từ biệt sư phụ Pháp-Hiền, ông về quê ở Thiên-trường, lập phái. Ông thấy Tiêu-sơn Tượng-đầu chưởng quá hiền từ. Ông có ý sửa lại. Một hôm ra bãi biển luyện võ, ông nhân đó chế ra ba mươi sáu chiêu Đông-a chưởng, có sức sát thủ khủng khiếp.
Trên mái nhà, hai người vẫn đấu với nhau. Mỹ-Linh hỏi Tự-An:
- Sư bá! Người kia thuộc môn phái nào vậy, mà cháu thấy chưởng pháp cực kỳ tinh diệu, cương nhu hợp nhất, lại hơi giống Thiền-công.
- Cháu nhận xét đúng. Y cũng là người Việt đấy. Võ công của y là võ công Đại-lý, hơi giống võ công Đại-Việt. Y lại luyện Vô-thọ giả tướng của Thiền-công, nên mới thành kỳ ảo. Nhân tài như y thực hiếm có trên đời. Ta phải cứu y.
Chợt Trần Tự-An quát lớn:
- Hai bên ngừng tay!
Phạm Hào, người bịt mặt cùng nhảy lui lại phía sau, chắp tay vái nhau:
- Bái phục. Bái phục.
Tự-An chắp tay hành lễ với người bịt mặt:
- Chu đại-tư-không nước Đại-lý gía lâm trang Thiên-trường mà anh em tại hạ không biết để nghênh đón, thực có tội.
Ông chỉ người bịt mặt nói với các sư đệ:
- Vị này là một Thái-sơn Bắc-đẩu võ lâm nước Đại-lý, hiện giữ chức đại-tư-không họ Chu tên Minh. Chu tiên sinh tới Thiên-trường đã lâu, mà anh em chúng ta không biết lấy lễ tiếp đón, thực có lỗi.
Ông chỉ xuống dưới nhà:
- Mời Chu đại nhân xuống dùng trà.
Người bịt mặt ngượng quá, y vội mở khăn bịt mặt ra. Y chính thị lão Mốc ở đền thờ Thánh-Thiên. Y hướng vào Mỹ-Linh:
- Đa tạ Công-chúa điện-hạ dành cho tiểu nhân những ân huệ hôm mới gặp.
Mỹ-Linh mỉm cười đáp lễ:
- Chu tiên sinh chẳng nên đa lễ. Đại-lý, Đại-Việt đều gốc từ Văn-lang, con cháu vua Hùng cả mà. Huống hồ Chu tiên sinh nghìn dặm vì chúa mà phải ăn bờ, ngủ bụi. Thực xứng đáng anh hùng của tộc Việt.
Mọi người vào Thủy-các. Thanh-Mai bưng trà mời khách. Chu Minh đứng lên chắp tay hướng Thiên-trường ngũ kiệt:
- Tại hạ tới vùng Thiên-trường, ẩn danh, nào ngờ bị các vị khám phá ra từ lâu, lại mở lượng bao dung không trách phạt, thực đáng tội.
Y quay sang nói với Bảo-Hòa:
- Quận chúa! Trời cho Quận chúa tự nhiên có hương thơm. Tiểu nhân ở Đại-lý cũng nghe biết. Vì vậy hôm Quận chúa đến đền thờ Thánh-Thiên, tiểu nhân nhận ra ngay. Mừng cho Quận chúa luyện thành Phục-ngưu thần chưởng.
Y nói với Thân Thiệu-Thái:
- Thế tử. Tiểu nhân trót mạo phạm, bị Đỗ phu nhân trừng phạt như vậy cũng đủ. Mấy ngày qua tiểu nhân đau đớn, khổ sở vô cùng. Mong Thế-tử tha tội.
Nói rồi y đưa bàn tay ra. Bàn tay y tím đen, rõ ràng bị trúng độc. Thiệu-Thái đưa mắt hỏi ý kiến Thanh-Mai.
Thiệu-Thái là Thế-tử, con trai vua Bà của 207 khê động Bắc-biên. Từ năm mười hai tuổi, chàng với Bảo-Hòa được bố mẹ huấn luyện thuật lãnh đạo chỉ huy rất cẩn thận. Chàng thường quyết định nhiều việc trọng đại. Nhưng từ hôm biết cậu hai Khai-quốc vương coi Thanh-Mai như vợ chính thức. Nhiều người trong phủ Khai-quốc vương gọi nàng bằng vương phi. Thanh-Mai từng quyết định nhiều việc thay Khai-quốc vương. Vì vậy chàng coi Thanh-Mai như mợ. Chàng thấy việc tha hay không tha viên tư-không nước Đại-lý có tính cách quan trọng đến vận mệnh Đại-Việt, nên chàng đưa mắt hỏi ý kiến.
Thanh-Mai hiểu ý Thiệu-Thái mặt nàng hơi đỏ lên vì e thẹn. Nàng hỏi Chu Minh:
- Chu tiên sinh. Tiên sinh muốn được thuốc giải cũng dễ thôi. Chỉ cần tiên sinh trả lời cho tiểu nữ mấy câu.
Chu Minh chắp tay:
- Xin cô nương cứ hỏi.
- Tiên sinh sang Đại-Việt chắc chắn vì bộ Dụng binh yếu chỉ và bộ Lĩnh-Nam vũ kinh hẳn đúng rồi. Nhưng, tại sao tiên sinh không tìm chỗ khác, mà lại ẩn trong đền thờ Thánh-Thiên?
Chu Minh đáp:
- Đại-lý không có nhiều tiền, nhiều người như Tống. Hơn nữa tại hạ không biết tung tích di thư. Vì vậy anh em tại hạ rình quanh sáu ngôi đền thờ bà. Hy vọng sẽ lần ra.
- Thế tiên sinh đã tìm ra được những gì?
Chu Minh cười khổ sở:
- Thì các bộ sách đó đã tìm ra rồi. Tiếc thay nó nằm trong tay Bình-nam vương Triệu Thành. Không hiểu sao khi họ tìm ra các bộ di thư, bí mật đến thần không hay, quỉ không biết, mà chỉ mười ngày sau khắp Lĩnh-Nam ai cũng rõ từng chi tiết. Vì vậy, khó lòng bọn Tống mang lọt về Trung-nguyên. Mà có mang về được, dễ gì họ đọc nổi chữ Khoa-đẩu.
Vũ Anh xen vào:
- Điều này Chu huynh không biết cũng phải. Khi y tìm ra di thư, Khu-mật-viện đã biết. Khu-mật viện có hàng vạn người làm việc dưới quyền. Họ tung tin đi khắp nơi, chỉ một ngày, thiên hạ đều hay.
Thân Thiệu-Thái hỏi:
- Khoa-đẩu là chữ của người Việt. Sao tiên sinh cũng biết đọc?
Chu Minh cười nhìn Mỹ-Linh, không trả lời. Mỹ-Linh liếc nhìn Thiệu-Thái đáp:
- Tiên sinh cười, không trả lời, vì muốn giữ bí mật hẳn? Chu tiên sinh ơi, tôi biết rồi.
Chu Minh kính cẩn:
- Xin công chúa dạy rõ hơn.
Mỹ-Linh thản nhiên nói:
- Lãnh thổ Đại-lý nguyên là đất Tượng-quận của Lĩnh-nam. Chữ Khoa-đẩu của Lĩnh-nam thì đương nhiên người Đại-lý biết chứ có gì lạ đâu? Người Đại-lý hiện phần đông đều nói tiếng Việt cả mà!
Thanh-Mai hỏi:
- Như tiên sinh nói, Đại-lý cử người rình quanh sáu ngôi đền Thánh-Thiên. Tiên sinh là một. Còn những người kia đâu?
- Hiện tất cả đang bám sát phái đoàn Triệu Thành.
Thanh-Mai nói với Thiệu-Thái:
- Đúng ra Chu tiên sinh đột nhập Đại-Việt dò thám, tội đáng bêu đầu. Nhưng nghĩ lại, tiên sinh cũng người Việt, nên có chỗ châm chế. Xin Thế-tử cứu tiên sinh một lần.
Thiệu-Thái dạ một tiếng, tiến tới để bàn tay lên bàn tay Chu Minh. Chàng vận khí, bàn tay Chu Linh từ từ hiện ra mầu hồng. Sau khi hóa giải hết chất độc trên người Chu Minh, Thiệu-Thái đưa mắt nhìn Thanh-Mai. Thanh-Mai ôn tồn nói:
- Chu tiên sinh. Đại-lý, Đại-việt vốn cùng nguồn gốc. Chúng ta cùng bị áp lực của người Tống. Tôi mong sau này về quí quốc, tiên sinh nên vận động đồng liêu, kết thân với Đại-việt, để cùng chống Tống.
Chu Minh cười ha hả:
- Đó là điều chúng tôi cầu mà không được. Tôi cũng xin cô nương vận động với Khai-quốc vương để mối giao hảo Việt, Lý thêm chặt chẽ.
- Tôi xin hứa điều đó.
Thiên-trường ngũ kiệt thấy Thanh-Mai rời nhà ra ngoài mới hơn sáu tháng, mà lúc trở về, nàng chín chắn hẳn ra. Kiến thức, võ công của nàng tiến tới chỗ không ai ngờ nổi đã kỳ lạ. Điều kỳ lạ hơn họ thấy nào Công chúa Mỹ-Linh, Thế-tử Thiệu-Thái, Quận chúa Bảo-Hòa, uy quyền biết mấy, mà mỗi hành động đều nghe theo nàng răm rắp. Nàng phát lệnh, thẩm vấn Chu Minh đâu ra đó, lời lời uy nghiêm như một vị Tể tướng, Thượng thư. Không ai hiểu nổi.
Thiệu-Thái hỏi Chu Minh:
- Chu đại-tư-không. Đỗ phu nhân phóng chất độc vào tiên sinh, tại hạ ngồi cạnh cũng không biết. Tại sao tiên sinh lại biết?
Chu Minh đáp:
- Hôm tiểu nhân gặp các vị, vốn đã biết thân thế các vị rồi. Trần cô nương xuất thân phái Đông-a, phái này cấm dùng chất độc. Đến ám khí, mà chỉ cho dùng thuốc tê mà thôi. Thì đời nào cô nương biết dùng ngũ độc? Còn Công-chúa, Quận-chúa, Thế-tử dù gì chăng nữa cũng ngồi ở ngôi vị cha mẹ dân. Nếu tại hạ có tội, cứ truyền bắt chặt đầu, việc gì phải phóng độc? Thế thì người phóng độc chỉ có thể do Đỗ phu nhân.
Mỹ-Linh hỏi Thanh-Mai:
- Sư tỷ, còn việc bọn Tống với di thư?
Thanh-Mai gật đầu:
- Em thực tinh tế. Này Chu tiên sinh. Tiên sinh hãy mau đi tìm bọn Tống mà đoạt di thư. Dù đoạt trong lãnh thổ Đại-Việt hay Trung-nguyên cũng được. Tôi cam đoan quan binh Đại-Việt không làm khó dễ Chu tiên sinh đâu.
Chu Minh kinh ngạc:
- Ơn nghĩa này lớn qúa. Tiểu nhân đâu dám!
Thanh-Mai bưng đến trước mặt Chu Minh bát nước chè tươi:
- Mời tiên sinh dùng chè. Chè tươi Thiên-trường có tiếng thơm ngon. À để tôi trả lời câu hỏi của Chu tiên sinh. Bọn Tống trộm di thư để làm gì? Chắc chắn chuẩn bị đánh chiếm các nước xung quanh. Đánh lên phía bắc gặp Kim, Liêu, Tây-hạ muôn vàn khó khăn. Vì vậy họ đánh xuống Nam trước. Đánh xuống Nam chắc chắn họ nghĩ đến qúi quốc với Đại-việt. Vì vậy nều quí quốc được di thư Lĩnh-nam, Đại-việt có thêm một đạo quân cùng chống kẻ thù.
Chu Minh chắp tay:
- Đa tạ tiểu thư dạy dỗ.
Thanh-Mai tiếp:
- Tôi nghĩ tiên sinh sang đây vì bộ Dụng binh yếu chỉ chứ không phải vì bộ Lĩnh-nam vũ kinh. Bởi vừa rồi tiên sinh đấu ngang tay với sư thúc của tôi, vậy võ công Đại-lý đã tới trình độ cao thâm khôn cùng, đâu cần tìm học võ công khác nữa?
Thực ra Hoàng-đế Đại-lý cử sáu đoàn sang dò tìm bộ Lĩnh-nam vũ kinh nhiều hơn tìm bộ Dụng binh yếu chỉ. Thanh-Mai cũng biết thế. Nàng đang muốn liên kết Đại-việt, Đại-lý nên nói một câu, để mua lòng Chu Minh, cũng như gỡ thẹn cho y. Chu Minh làm đại thần Đại-lý, trí lự tuyệt cao. Y hiểu ý Thanh-Mai gỡ thẹn cho mình trước mặt mọi người. Y cung kính chắp tay:
- Đa tạ tiểu thư rộng dung.
Thanh-Mai lấy ngón chân đưa sang phía Phạm Hào, nàng sẽ đụng vào chân ông như ngụ ý Những lời cháu sắp nói đây, sực thực không phải thế rồi tiếp:
- Sư thúc của tôi, một trong Thái-sơn ,Bắc-đẩu Đại-việt. Vừa rồi tiên sinh bị thương, thế mà đấu ngang tay với người. Như vậy bản lĩnh tiên sinh thực khó kiếm người thứ nhì. Tôi nghĩ, tiên sinh thừa sức thắng Minh-Thiên đại sư của phái Thiếu-lâm cùng Đông-Sơn lão nhân của phái Hoa-sơn. Tiên sinh mau đuổi theo họ đoạt lại di thư.
Chu Minh vội đứng dậy:
- Đa tạ tiểu thư dạy dỗ.
Nói rồi y chắp tay từ tạ mọi người, lên đường.
Chu Minh đi rồi, Thiệu-Thái hỏi Mỹ-Linh:
- Đại-Việt ta Tây-Bắc giáp Đại-lý. Hai nước khác nhau. Tại sao Mỹ-Linh lại bảo Đại-lý, Đại-Việt đều gốc từ Văn-lang?
Mỹ-Linh biết người yêu ít đọc sách. Nàng giảng giải:
- Thời vua Hùng, nước Việt chia làm mười lăm lộ. Lãnh thổ phía Bắc gồm ba vùng nay là Quảng-đông, Quảng-tây bên Trung-quốc và Đại-lý. Thời vua An-Dương, Quảng-đông thuộc Nam-hải. Quảng-tây thuộc Quế-lâm. Đại-lý thuộc Tượng-quận. Thời Lĩnh-nam, công chúa Nguyệt-Đức Phùng Vĩnh-Hoa tổng trấn Tượng-quận. Bấy giờ đất Tượng-quận cứ ba người Hán, mới có một người Việt. Người Việt ở Tượng-quận thuộc sắc dân Thái. Toàn Tượng-quận chia làm mười lăm huyện, mỗi huyện do một lạc công cai trị. Trong mười lăm lạc công ấy, có sáu lạc công người Việt, cai trị như sáu ông vua con. Tiếng Tượng-quận gọi lạc công là Chiếu. Khi Vương Bá, Mã Viện, Ngô Hán đem quân đánh. Các lạc công Hán mở cửa thành đầu hàng. Các Chiếu theo công chúa Phùng Vĩnh-Hoa kháng chiến, lui về Bắc Giao-chỉ, Lão-qua. Mã Viện để Vương Bá trực diện đánh từ Tượng-quận qua. Y đem quân đánh Mê-linh. Mê-linh thất thủ, công chúa Phùng Vĩnh-Hoa mất đường về. Tiến lên vướng Vương Bá. Lui lại bị Mã Viện. Công chúa đem quân tiến vào Lão-qua. Mã Viện đuổi theo. Vương Bá từ Bắc tràn vào Lão-qua mong diệt công-chúa. Bị hai đạo quân vây ép, ngài đem tượng binh nhiều vô kể đánh lui Mã Viện, rồi dùng hoả công đốt Vương Bá. Nơi xẩy ra trận đánh kinh thiên động địa đó, Mã Viện không biết tên. Y đặt là Vạn-tượng. Tên Vạn-tượng có từ đó.
Tôn Đản hỏi:
- Em nghe, sau khi đốt Vương Bá, công chúa Nguyệt-Đức dẫn quân vượt qua sông Cửu-long. Đạo quân còn sót lại ấy lập ấp, sinh sống với dân địa phương, thành lập nước Xiêm-la. Hoá cho nên ngày nay dân Lão-qua, Đại-lý, Xiêm-la vẫn nói tiếng Thái, lẫn tiếng Việt. Như vậy người Việt mình xâm chiếm dân địa phương thành lập nước mới. Có phải thế không?
Mỹ-Linh vuốt tóc Tôn Đản. Cử chỉ của nàng cực kỳ nhu nhã giống như bà mẹ vuốt tóc con trai. Ai nhìn cũng phải động lòng:
- Đản nói gần đúng. Tộc Thái gồm sáu Chiếu chạy sang Lão-qua, Xiêm-la lập nghiệp. Điều ấy đúng. Nhưng mình đâu có xâm chiếm nước người? Lão-qua, với Xiêm-la cùng thuộc nước Văn-lang cả. Sáu chiếu dẫn tộc Thái chạy qua hai vùng đó cũng như chúng ta từ huyện này chạy sang huyện khác. Giống Đản từ Thanh-hoá về Thăng-long mà thôi.
Tôn Đản lắc đầu không hiểu. Mỹ-Linh tát yêu cậu sư đệ một cái:
- Lỗi ở chị. Chị nói vắn tắt quá. Em đã biết Quốc-tổ, Quốc-mẫu đẻ ra trăm con. Phong cho mỗi con cai trị một vùng. Ai cai trị vùng nào, sau lấy tên vùng đó làm họ cho con cháu. Nên ta có Bách-Việt. Hoàng tử thứ mười một đến hai mươi được phong vùng Tượng-quận. Hoàng tử thứ bốn mươi mốt đến năm mươi vượt núi về phương Tây, lập ra Lão-qua, Xiêm-la. Vậy Xiêm-la, Lão-qua, Giao-chỉ... đều thuộc lãnh địa Việt tộc. Hồi ấy họ qui phục vua Trưng cả.
Bấy giờ Tôn Đản mới hiểu:
- Tức là người Việt ở Tượng-quận thuộc tộc Thái, chạy sang Lão-qua, Xiêm-la, sống cùng với người Việt ở đó. Nhưng vì họ có văn hoá hơn, nên tiếng nói của họ được thông dụng.
- Đúng thế. Sau này sáu Chiếu lưu vong di ngôn cho con cháu phải phục hồi cố thổ. Con cháu họ lần mò về lập lại ấp. Họ đồng hoá lại người Hán. Thành ra đến đời Đường Ý-tông, sáu Chiếu mạnh quá. Họ kết hợp với đám di thần của Thục thuộc phái Thiên-sơn thời Lĩnh-nam, nổi lên đánh đuổi người Hán lập ra nước Đại-lý. Vua Đường sai Cao Biền đem quân dẹp, bị bại phải bỏ về. Đến đời Ngũ-đại, vua Tấn là Thạch Kính-Đường sai mang hai mươi vạn quân sang đánh, cũng bị bại. Vì vậy ngày nay Đại-lý, Lão-qua, Xiêm-la cùng dùng chữ Khoa-đẩu, cùng nói tiếng Thái, tiếng Việt. Dù nói tiếng gì, dù ở nơi nào trong ba vùng Xiêm-la, Lão-qua, Đại-lý, họ cũng thuộc giòng giống Việt cả.
Tự-Mai nhăn mặt, chau mày:
- Em nghe nói nước Đại-lý còn có tên Nam-chiếu. Hẳn do tiếng Chiếu ở trên mà ra. Nam-chiếu tức Đại-lý. Tại sao sử Trung-quốc chép Nam-chiếu gốc con cháu Triệu Đà tản đi khắp nơi cướp bóc ở Thần-phù, Hoành-sơn, Thiên-cầm thuộc đất Đại-việt. Họ còn đánh phá Trường-sa, gần hồ Động-đình, Trường-an mãi Tây-Bắc Trung-quốc. Sự thực ra sao?
- Nếu cứ đọc sử Trung-quốc, chẳng ai hiểu gì cả. Phải biết rằng anh hùng Tượng-quận do sáu Chiếu lãnh đạo, khởi nghiã khắp nơi trên đất Văn-lang xưa. Mà đất Văn-lang gồm phần phía Nam sông Trường-giang. Lúc ấy có hào kiệt Trường-sa ứng nghiã nổi lên. Hào kiệt phía Cửu-chân đánh ở Thần-phù, Hoành-sơn, Thiên-cầm cũng vùng dậy. Còn Trường-an, thuộc địa phận phái Thiên-sơn. Hào kiệt Thiên-sơn ứng nghiã với các Chiếu, đánh phá chiếm lại đất cũ của họ.
Tự-Mai liếc nhìn Thanh-Mai:
- Thì ra thế, cho nên chị Thanh-Mai mới định nhờ Chu Minh kết hợp anh hùng Đại-lý với Đại-việt, bởi chúng ta cùng thuộc tộc Việt cả. Chị Thanh-Mai ghê thực. Chí của chị giống hệt anh cả.
Tự-An đưa mắt nhìn con gái. Ông biết rõ mối tình của con mình với Khai-quốc vương. Ông cứ nghĩ Khai-quốc vương sẽ giống như các hoàng tử khác, cưới năm thê bẩy thiếp, chẳng bao giờ lọt mắt Thanh-Mai, vì vậy ông không cản con gái. Bây giờ thấy Thanh-Mai xử dụng quyền hành như một vị Hoàng-hậu, Vương-phi. Ông biết con mình với Khai-quốc vương đã yêu thương nhau sâu đậm, chắc chắn Khai-quốc vương rất tin tưởng Thanh-Mai nên trao quyền cho nàng. Ông đưa mắt nhìn các sư đệ như hỏi ý kiến.
Vũ Anh thở dài:
- Những liên hệ của cháu Thanh-Mai với triều đình là việc của cháu. Chúng ta thương yêu Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, Thiệu-Thái do tình riêng. Còn tình cảm đã hai đời giữa phái Đông-a với nhà Lê, không thể vì thế mà cắt bỏ. Chúng ta phải cử người đi Vạn-thảo sơn trang điều tra xem Hồng-Sơn đại phu có phải Lê Long-Mang không. Sau đó mới có quyết định.
Người nhà dọn cơm lên. Mọi người ngồi vào bàn ăn. Thời bấy giờ vùng Nam-định, Thái-bình ngày nay vẫn còn đồng lầy, cho nên dân trong vùng nhiều cá, tôm. Bữa ăn toàn sản phẩm biển, sông. Trong khi Thiệu-Thái, Bảo-Hòa sống trên rừng, lại chỉ ăn thịt. Được ăn thức lạ, anh em nhìn nhau cùng mỉm cười.
Bảo-Hòa tìm thấy ở Thiên-trường ngũ kiệt tính tình hào sảng, nhưng không thiếu vẻ ngang tàng. Các ông bàn truyện giúp Hồng-Sơn đại phu, tức phạm tội phản nghịch, có thể đưa đến tru di tam tộc. Vậy mà các ông công khai nói trước mặt Mỹ-Linh, dù biết rằng nàng, có đầy đủ uy quyền trưng dụng quan quân bao vây trang Thiên-trường, làm cỏ cả trang. Nàng tự nghĩ:
- Mấy ông này võ công đã cao, kiến thức rộng. Mình cần khích động tự ái dân tộc, để các ông chống Tống, quốc gia thêm được một trợ lực vĩ đại.
Nghĩ vậy nàng nói:
- Thưa các vị sư bá. Theo các vị nghĩ, tại sao từ khi ông ngoại cháu lên ngôi đến giờ, người Tống nhiều lần cử sứ sang phong cho đủ mọi chức tước. Thế mà nay bỗng dưng họ lại tỏ ý đe dọa, nhất tâm nhất trí đòi ông ngọai cháu thoái vị, trả ngôi vua cho họ Lê. Nếu bảo họ muốn hưng diệt, kế tuyệt, tại sao khi việc mới xẩy ra, họ không làm liền?
Vũ Anh được coi như người nhiều mưu trí nhất, ông nói:
- Tự bấy giờ họ chưa tìm ra Lê Long-Mang.
Bảo-Hòa lắc đầu:
- Đó là lý của họ. Nếu họ thực tâm vì nhà Lê, tại sao họ lại còn chứa chấp Đinh Tòan? Hứa cho Đinh Toàn về làm vua? Để rồi khi tìm ra Hồng-Sơn đại phu, họ trở mặt với Đinh liền?
Thiên-trường ngũ kiệt nhìn nhau, tìm câu trả lời. Bỗng Tự-An vỗ bàn:
- Phải rồi. Họ thấy Hồng-Sơn có danh, có thực lực. Nếu Hồng-Sơn khởi binh, lực lượng có sẵn, dân chúng theo đông. Như vậy mới có khả năng chống triều đình. Hai bên đánh nhau, đất nước tan nát. Bấy giờ họ mới đem quân sang đánh chiếm.
Thanh-Mai biết ý bố, nàng nhắc đến dã tâm trước đây của Tống:
- Trước đây họ gặp cái vạ Chi-lăng, Bạch-đằng, nay vẫn còn sợ. Vì vậy họ kiếm lấy đạo quân từ trong đánh ra, họ ngồi nhìn. Sau khi một bên bại, một bên ngất ngư. Bấy giờ họ mới nhảy vào.
Bảo-Hòa phân tích tỉ mỉ:
- Sự thực người Việt, người Hoa không hề thù ghét nhau. Cháu đã ở Bắc-biên từ nhỏ, hằng ngày thấy người Hoa, người Việt giao tiếp, buôn bán, trao đổi. Họ còn kết thông gia với nhau. Hai bên yêu thương nhau vô cùng. Xét về nguồn gốc, chúng ta với người Hoa gốc từ Phục-Hy, Thần-Nông. Cho đến đời thử tư mới phân ra Bắc có vua Đế-Nghi, nam có vua Kinh-Dương. Hai nước trải qua mấy nghìn năm thuận hòa. Đến mãi thời Tần Thủy-Hòang, mới nảy ra dã tâm thôn tính Âu-lạc. Sau thời Tây-hán đánh Triệu Đà, thời Đông-Hán đánh vua Trưng. Dã tâm là dã tâm của bọn vua chúa, cùng bọn quan liêu ác độc.
Thanh-Mai thấy bố với các sư thúc mềm lòng, nàng xuyên thẳng vào kiến thức của người trên:
- Khi một người nào, dù xuất thân hèn hạ như Lưu Bang, dù xuất thân quyền quý như Thủy-Hoàng, lên ngôi vua ở Trung-nguyên lập tức nghĩ đến đánh chiếm các lân bang. Xét về nguồn gốc, bởi các văn gia nêu ra. Con không nhớ văn gia nào đã tạo ông vua Trung-nguyên thành con trời.
Quả nhiên Trần Kiệt bị mắc vào điều Thanh-Mai dự trù:
- Cháu nói đúng. Từ khi Triệu Khuông-Dẫn lập ra nhà Tống đến giờ. Các Nho-sĩ được trọng dụng hơn bao giờ hết. Họ qui định học chế, thi chế căn cứ vào Tứ-thư, Ngũ-kinh. Tứ-thư gồm Đại-học, Trung-dung, Luận-ngữ, và Mạnh-tử. Ngũ kinh gồm Thi, Thư, Lễ, Nhạc và Xuân-tu. Kinh là những định luật do trời đất đặt ra, không thể và không có quyền bàn về sự đúng hay sai.
Thiệu-Thái hỏi:
- Thưa sư bá, thế cái tư tưởng con trời xuất phát từ kinh nào?
Trần Kiệt đáp:
- Từ kinh Thư, thiên Vũ-cống. Kinh Thư gọi thế giới chúng ta ở là thiên hạ. Văn gia cổ chưa đi ra ngoài. Họ tưởng đâu thế giới chỉ có Trung-quốc. Vì vậy họ lầm lẫn tưởng Trung-quốc là thiên hạ. Thiên hạ là Trung-quốc. Thiên-hạ theo kinh Thư chia làm chín châu. Từ giữa ra bốn bên chia làm năm cõi theo thứ tự mang tên Điện-phục, Hầu-phục, Tuy-phục, Yêu-phục, và Hoang-phục. Mỗi cõi rộng năm trăm dặm. Cái tên Trung-quốc tức nước ở giữa xuất phát từ đấy. Còn bên đông, tây, nam, bắc đều cõi Điện-phục ở ngoài kinh thành nhà vua năm trăm dặm. Ngoài Điện tới Hầu, ngoài Hầu tới Tuy, ngoài Tuy tới Yêu, ngoài Yêu tới Hoang. Vì vậy những tộc ở xa họ từ một ngàn dặm trở đi đều thành man di cả. Chúng ta bị họ miệt thị bằng tên Nam-man. Dân tộc ở phía bắc họ gọi bằng Di, Địch, chữ viết thường có bộ thú, bộ trùng ở bên cạnh.
Ngừng một lát ông nói:
- Hóa cho nên một đứa trẻ chín mười tuổi, học kinh Thư, trong đầu óc nó đã có sẵn cái tư tưởng coi những dân tộc khác ngoài người Hoa bằng danh xưng man di, mọi rợ, cần phải giáo hóa, chinh phục. Đứa trẻ đó lớn lên, thành Nho-gia, làm quan ở triều đình, hay biên cương, cũng nghĩ như nhau. Một ông vua Trung-nguyên, dù không có đầu óc xâm lược, các quần thần cũng đưa ông ta tới cái ý tưởng mình do trời. Chúng ta phải làm sao tẩy gột được cái ông con trời trong đầu quần thần triều Tống mới mong sống yên ổn.
Mọi người đều im lặng suy nghĩ. Từ lúc đến trang Thiên-trường, Ngô Thường-Kiệt được cưng chiều cực kỳ. Truyền thống phái Đông-a định rõ: Dùng tình thương yêu cảm hóa đệ tử. Vì bố mẹ Thường-Kiệt đang bận quốc sự, gửi nó theo Thanh-Mai về Thiên-trường, có nghiã xin cho nó được hưởng sự giáo dục như các đệ tử. Nó được ở chung với Thanh-Mai. Thanh-Mai để nó gọi bằng cô cho thêm thân mật, chứ không bắt gọi bằng sư thúc. Nó lại được Mỹ-Linh, Bảo-Hòa săn sóc. Nó đeo theo Bảo-Hòa như theo mẹ. Thành ra Bảo-Hòa đâu, nó ngồi bên cạnh. Nó đã nghe cuộc luận bàn của phái Đông-a. Bây giờ thình lình nó hỏi Trần Tự-An:
- Thái sư phụ. Con xin thái sư phụ cho con được nói.
Tự-An mỉm cười:
- Cháu ngoan. Cháu cứ nói đi.
Thường-Kiệt dõng dạc:
- Đối với vua hay quan nhà Tống, làm sao thái sư phụ có thể tẩy gột được đầu óc họ. Con nghĩ...võ công ông nội cao, ông nội đánh vỡ đầu chúng ra thì xong.
Mọi người cười ồ lên. Lời nói của Thường-Kiệt tuy ngây thơ, nhưng không phải không có lý. Bảo-Hòa xoa đầu nó:
- Con bàn đúng. Thái sư phụ, cùng các thái sư thúc là Thái-sơn, Bắc-đẩu võ lâm Lĩnh-nam, thừa bản lĩnh đánh vỡ đầu chúng. Chỉ lo các vị nhân từ không muốn đánh mà thôi.
Thường-Kiệt không chịu:
- Hôm rồi bố con bảo, trước đây thái sư phụ dạy bố con như thế này: Đối với bọn trộm, vì chúng nghèo đói mới làm truyện đó. Đối với tụi cướp, vì chúng ác độc, muốn làm giầu. Còn đối với bọn cướp nước, chúng vừa tham, vừa ác độc lại vừa có dã tâm, không thể tha thứ cho chúng nó trong bất cứ trường hợp nào. Cô đừng lo, nhất định Thái sư phụ sẽ giết chúng.
Phạm Hào gật đầu:
- Thằng bé này bàn đúng. Biện pháp tốt nhất phải sao cho nước mình mạnh, mới mong Tống để mình yên. Tự cổ, Trung-nguyên kéo quân sang đánh mình mà thành công, đều nhờ có người Việt ở trong làm nội ứng. Bây giờ Tống cũng đang mưu dùng mâu thuẫn giữa Lê Long-Mang, chúng ta với triều đình. Vậy chúng ta cần giải quyết vấn đề này trước thì mới yên.
Tự-An quyết định:
- Bây giờ chúng ta chia làm hai. Ta với chú Vũ Anh đi Vạn-thảo sơn trang xem Hồng-sơn đại phu có phải Lê Long-Mang không. Sau đó ta sẽ lên Tiêu-sơn gặp chưởng môn phái này. Chú Phạm Hào và Trần Kiệt đi với Thanh-Mai, Tự-Mai, lên Tản-viên bàn với vị chưởng môn nhân xem ý họ thế nào. Còn chú Hoàng Hùng ở nhà coi nhà.
Cơm xong, tỳ nữ nước. Bảo-Hòa bưng bát nước trà đưa lên miệng thổi cho nguội, thình lình Đỗ Lệ-Thanh nắm lấy tay nàng:
- Quận chúa. Muôn ngàn lần quận chúa không thể uống bát nước này.
Bảo-Hòa đặt bát nước xuống bàn hỏi:
- Sao vậy?
Đỗ Lệ-Thanh chỉ bát nước nói:
- Nước có độc.
Mọi người đều để bát nước xuống. Cũng may chưa ai uống. Đỗ Lệ-Thanh chỉ vào từng bát nước:
- Kỳ lạ không? Bát nước của các vị trưởng thượng cùng đại đệ tử không có độc. Chỉ bát nước của Công-chúa, Quận-chúa, Thế-tử, Thanh tiểu thư có độc nhẹ. Còn bát nước của công tử Tự-Mai với Tôn Đản có độc cực kỳ mãnh liệt.
Mọi người cùng nhìn theo tay Đỗ Lệ-Thanh. Quả nhiên mầu sắc những bát nước không có độc mầu xanh tươi. Còn bát nước Đỗ Lệ-Thanh nói rằng trúng độc nhẹ thì hơi vàng. Những bát nước bà bảo trúng độc nặng có mầu vàng sẫm.
Đỗ Lệ-Thanh tiếp :
- Xin các vị ngửi thử thì biết ngay. Bát nước không có độc, hương trà thơm ngát. Bát nước có độc nhẹ, mùi thơm giảm đi. Bát nước có độc nặng, gần như không có mùi thơm gì cả.
Trần Kiệt ngửi thử rồi hỏi:
- Đỗ phu nhân. Phu nhân có biết chất độc trong nước trà thuộc chất độc gì không?
Đỗ Lệ-Thanh đáp:
- Cả ba đều rút từ nước cốt hoa Trúc-đào. Người bị trúng độc sẽ cảm thấy say say, rồi sau đó ôm ngực đau đớn quằn quại mấy ngày mới chết. Sau khi chết, mặt tím bầm.
Thanh-Mai đưa mắt nhìn bố. Hai bố con cùng gật đầu, như tìm ra một điều gì quan trọng.
Ký ức Thanh-Mai trở về với năm trước. Người tỳ nữ tên Nhài, trước đây hầu hạ mẹ nàng, bỗng đưng trúng gió, đau đớn suốt nửa ngày, thuốc thang gì cũng không khỏi. Cuối cùng chết. Khi chết rồi, mặt tím bầm, tóc vàng hoe như râu ngô. Tiếp theo Nhài, con chó thân tín của Thanh-Mai cũng đau đớn oằn oại rồi lăn ra chết. Lúc chết, mũi, mồm mửa ra máu đen.
Tự-An nói:
- Trong trang này có gian tế. Không hiểu sao gian tế lại giết con Nhài với con chó của Thanh. Bây giờ gian tế muốn giết Tự-Mai với Tôn Đản? Còn Thanh với các cháu này, tại sao lại chỉ bị đánh thuốc nhẹ thôi

Tự-An biết Bảo-Hòa từng thay bố mẹ cầm quân ở Bắc-biên, rất quen với phương pháp điều tra. Ông nói:
- Cháu Bảo-Hòa. Ta giao cho cháu điều tra vụ này.
Bảo-Hòa vâng dạ. Nàng nói:
- Trong vụ này, chỉ những người bị đánh thuốc độc, mới không bị nghi ngờ. Ngoài ra ai cũng có thể là thủ phạm hết. Đầu tiên các vị sư bá, sư thúc, tất cả đều ngồi đây, không ai có thời giờ ra tay phóng độc.
Một tỳ nữ lặng lẽ rời thủy các. Bảo-Hoà vẫy tay gọi:
- Chị tỳ nữ bưng nước hãy ở lại đây.
Con tỳ nữ tên Huệ khóc:
- Thưa quận chúa, con không biết gì cả. Oan con lắm.
Bảo-Hòa an ủi:
- Dĩ nhiên không phải chị. Song kẻ đánh thuốc độc này chưa biết là ai. Chị phải ở đây để được bảo vệ tính mạng. Có thể thủ phạm giết chị để đổ tội cho chị.
Con Huệ run lập cập. Nó đứng sau lưng Thanh-Mai để tìm sự che chở. Bảo-Hòa tiếp:
- Bây giờ cho mời đầu bếp nấu nước để thẩm vấn.
Thanh-Mai bảo Tự-Mai:
- Em xuống bếp gọi lão Việt cùng bà Tuyền lên đây.
Bảo-Hòa ra hiệu cản Tự-Mai:
- Người ta đang muốn giết Tự-Mai, em không thể đi.
Tự-An gật đầu công nhận Bảo-Hòa kinh nghiệm điều tra. Ông chỉ đại đệ tử của Hoàng Hùng tên Hoàng Minh:
- Cháu xuống bếp gọi họ cho ta.
Bảo-Hòa nói với Thiệu-Thái:
- Thiền-công của anh hiện đã đến bậc tối cao rồi, không một độc chất nào nhập vào cơ thể được. Anh hãy đi cùng sư huynh Hoàng Minh, để phòng biến cố.
Hai người băng mình vào đêm tối. Lát sau cả hai đi lên, nách mỗi người ôm một người. Thanh-Mai kinh hãi hỏi:
- Cái gì vậy?
Hoàng Minh, Thiệu-Thái để hai người đó xuống. Thì ra lão Việt với bà Tuyền. Cả hai mắt lờ đờ, hơi thở còn rất yếu. Hoàng-Minh nói:
- Hai người này nằm dài dưới bếp. Đệ tử mang họ lên đây để sư phụ định liệu.
Đỗ Lệ-Thanh vội cậy miệng lão Việt với bà Tuyền, cho vào miệng mỗi người một viên thuốc. Bà dùng nội lực vỗ mạnh lên đầu họ một cái. Hai người rùng mình mở mắt ra. Bà Tuyền run run nói:
- Chủ nhân. Chủ nhân cứu tiểu tỳ với. Tiểu tỳ bị ma hớp hồn.
Tự-An hỏi:
- Cái gì đã xẩy ra?
Bà Tuyền vẫn còn run rẩy kể:
- Tiểu tỳ với lão Việt đang ngồi ăn dưới bếp. Thình lình có con ma áo trắng, nanh dài, mắt xanh, bàn tay đen như nhọ chảo bước vào. Nó khà một cái, bụi bay mù mịt. Tiểu tỳ với lão Việt choáng váng đầu óc, rồi không biết gì nữa.
Đỗ Lệ-Thanh nói với Tự-An:
- Đại hiệp. Không phải ma đâu, mà là người giả ma. Thủ phạm dùng chất độc rất nhẹ phun vào mặt hai người. Dường như thủ phạm không muốn giết lão Việt với bà Tuyền.
Tự-An chau mày suy nghĩ:
- Không ngờ trong trang Thiên-trường của phái Đông-a mà cũng có gian nhân mai phục. Cháu Bảo-Hòa, cháu thử giải đoán xem thủ phạm từ ngoài đột nhập hay bên trong trang?
Bảo-Hòa đáp:
- Thứ nhất, người này muốn giết Tự-Mai với Tôn Đản. Thứ nhì muốn làm cho chúng cháu với sư tỷ Thanh-Mai ngộ độc. Thứ ba y không muốn hại năm vị đại hiệp với quí cao đồ. Y muốn gây khủng hoảng tinh thần hai người đầu bếp.
Trần Kiệt nói với các cao đồ:
- Các con cùng Thanh-Mai mau tra xét trong nhà xem còn ai bị trúng độc không?
Mười hai đại đệ tử băng mình đi liền. Trần Kiệt đặt vấn đề:
- Liệu gian tế có thể do bọn Tống không?
Lệ-Thanh lắc đầu:
- Không. Bọn Tống tuy có nhiều gian tế. Gian tế của chúng đều đặt dưới quyền Triệu-Thành. Mà Triệu Thành coi Thanh tiểu thư như một thiên tiên. Mỗi lần thấy Thanh tiểu thư hồn phách bay phơi phới. Thì đời nào thủ hạ của y giám đánh thuốc độc nàng.
Bảo-Hòa lắc đầu:
- Đỗ phu nhân quả nhiều tình cảm, nên kiến giải theo tình cảm. Triệu Thành say mê Thanh sư tỷ đến điên đảo thần hồn, nhưng có một điều y say mê hơn, đó là quyền uy. Y đọc sách nhiều, chịu ảnh hưởng của Nho-giáo. Hơn nữa y ngồi ngôi vị hoàng tử từ bé, mỗi ngày không thể thiếu đàn bà. Đàn bà đối với y như một thứ đồ chơi. Xong việc, vứt bỏ. Cho nên dù Thanh sư tỷ, dù tiên nga. Y say mê, cứ say mê. Trên đường dọc ngang, được thì tốt. Không được cũng chẳng sao. Nếu y thực sự yêu thương Thanh sư tỷ như phu nhân nghĩ, bọn thủ hạ của y đâu dám đụng đến vạt áo nàng, chứ đừng nói vô lễ. Thế mà bọn Tung-sơn tam kiệt bắt giam nàng, hành hạ đủ điều hơn tháng, mà Triệu Thành cũng chẳng nói gì.
Có nhiều tiếng người nói lào xào. Hoàng Minh trở lại nói với Tự-An:
- Thưa sư bá. Bá mẫu cũng bị trúng độc mê man.
Tự-An ra lệnh:
- Tất cả mọi người đều ở lại đây. Bảo-Hòa, Thanh-Mai, Đỗ phu nhân theo tôi đi mà thôi.
Ông đi trước, dẫn đường. Tới nội thất, mấy con tỳ nữ đang đứng trong phòng bà Phương run run. Bà Phương nằm mê man trên dường. Đỗ Lệ-Thanh tiến tới cầm tay chẩn mạch. Bà cười nhạt:
- Trình đại hiệp, không hề gì. Còn cứu kịp.
Đỗ Lệ-Thanh lấy trong bọc ra cái hộp, đổ lấy ba viên thuốc. Bà đưa viên mầu đỏ đưa cho Thanh-Mai:
- Xin tiểu thư phóng vào huyệt Đản-trung phu nhân.
Thanh-Mai kéo áo bà Phương, rồi để hai viên thuốc lên đầu ngón tay cái và trỏ, rồi búng mạnh. Viên thuốc quay tròn với tốc độ cực mau, kêu lên tiềng vo vo như sáo diều, nhưng bay đến ngực bà Phương rất chậm. Khi viên thuốc sắp chạm vào ngực bà thì vỡ thành bụi, chụp xuống huyệt Đản-trung.
Đỗ Lệ-Thanh nói:
- Đa tạ tiểu thư. Đản-trung là mộ huyệt của tâm bào. Như vậy tính mệnh chủ mẫu được bảo vệ rồi.
Đỗ Lệ-Thanh kéo miệng mụ Phương bỏ vào hai viên thuốc, rồi dùng nội lực vỗ vào huyệt Bách-hội mụ hai cái. Hai viên thuốc chạy thẳng vào bụng mụ.
Thanh-Mai hỏi con tiểu tỳ tên Hồng:
- Hồng. Em thấy cô Phương bị trúng độc từ lúc nào?
Con Hồng đáp:
- Sau khi ăn cơm chiều, bà cho bọn em đi nghỉ sớm, rồi đóng cửa nằm ngủ. Cho nên bà bị trúng độc lúc nào em không biết.
Đỗ Lệ-Thanh thấy trên bàn cạnh giường bà Thanh có cái bát uống nước. Bát đã hết nước. Bà đưa lên mũi ngửi, rồi gật đầu:
- Chất độc này khác với chất độc định hại công tử Tự-Mai. Như vậy thủ phạm rất thạo việc hạ độc. Chúng dùng tới ba thứ thuốc khác nhau. Thứ thuốc hại phu nhân cực mạnh. Nhưng trong người phu nhân có sức chống bệnh rất mãnh liệt. Dù tôi không ra tay, sáng mai phu nhân cũng khỏi.
Tự-An bảo con Hồng:
- Con ở đây coi bà. Nếu có gì lạ, lên Thủy-các gọi ta.
Ông vẫy tay cho mọi người đi theo. Tới Thủy-các, ông hỏi Bảo-Hòa:
- Cháu cho ta biết ý kiến.
Bảo-Hòa nhìn Thanh-Mai, rồi lắc đầu:
- Thưa sư bá. Anh em cháu cùng Mỹ-Linh tới đây, với chủ ý làm sáng tỏ chính nghiã Đại-Việt, cùng giải đi những hiểu lầm giữa ông ngoại cháu với phái Đông-a. Việc đã coi như được một nửa. Bây giờ gặp nạn này, muôn ngàn lần cháu không muốn xen vào truyện nhà của sư bá.
Thanh-Mai nắm tay Bảo-Hòa:
- Bảo-Hòa này. Từ lúc tới đây đến giờ, lúc nào bố mình cũng coi Bảo-Hòa như con cháu. Vậy, việc này mình xin Bảo-Hòa coi như việc của Bảo-Hòa. Mong Bảo-Hòa cứ nói ra sự thực đi.
Bảo-Hòa cảm động, nghĩ thầm:
- Cậu hai dặn rằng trong chuyến đi này, mọi việc nhất nhất phải theo sự điều động của Thanh-Mai. Tuy chưa có mai mối, nhưng Thanh-Mai được coi như mợ của mình. Mình đâu dám trái lời?
Nghĩ vậy nàng nói:
- Việc tỳ nữ tên Nhài với con chó của Thanh-Mai bị đánh thuốc độc chết đã ba năm nay. Như vậy coi như thủ phạm hiện diện trong trang hơn ba năm rồi. Tỳ nữ Nhài với con chó là trở ngại lớn cho thủ phạm, nên thủ phạm phải giết đi. Việc Nhài bị giết, hiện chưa có lý nào để giải cả. Còn con chó bị giết, do đâu? Vì thủ phạm muốn rình rập Thanh sư tỷ, nên cần giết chó, để dễ hành sự.
Trần Kiệt gật đầu:
- Đúng. Cháu kiến giải hay thực.
- Từ hơn ba năm, trong trang không ai bị hại cả. Chứng tỏ thủ phạm đã ẩn thân rất kỹ, không gặp trở ngại. Bây giờ thủ phạm mới ra tay. Không những ra tay tàn bạo, mà ra tay khẩn cấp. Chủ yếu giết Tự-Mai, Tôn Đản. Còn bọn cháu, thủ phạm muốn kiềm chế bằng thuốc độc. Chúng cháu trúng độc rồi, thủ phạm cho người xuất hiện ra điều kiện. Chúng cháu tuân theo, chúng cho thuốc giải, bằng không thì chết.
Tự-An hỏi:
- Thế còn việc dọa ma lão Việt với bà Tuyền, cùng mụ vợ của bác?
Bảo-Hòa thở dài:
- Thủ phạm hành sự rồi, sợ bị lộ. Y mới giả ma dọa hai người đầu bếp, hầu tâm thần họ hỗn loạn, quên hết mọi sự, khiến chúng ta không điều tra được. Thôi Đỗ phu nhân hãy nói ra sự thực đi.
Đỗ Lệ-Thanh đến trước Thiên-trường ngũ kiệt quì xuống rập đầu binh binh:
- Ngũ vị đại hiệp đã hứa giúp tiểu tỳ, đứng ra chủ trì công đạo vụ Nguyên-Hạnh. Bây giờ lại thêm lệnh của quận chúa, tiểu tỳ muôn thác cũng không dám dấu diếm.
Tự-An phất tay, một kình lực nhu hòa đỡ Đỗ Lệ-Thanh dậy. Ông nói:
- Đỗ phu nhân cứ cho ta biết sự thực. Dù hung thủ là ai, ta cũng quyết không tha thứ.
Đỗ Lệ-Thanh nói:
- Chủ nhân có thấy tóc chủ mẫu khác thường không? Các sợi tóc đều giống nhau: Nửa dưới thì đen. Nửa trên thì vàng. Hàng ngày tóc thường gẫy. Chân tay chủ mẫu lạnh như băng không?
Tự-An gật đầu:
- Khi mới về làm vợ, ta thấy tình trạng nàng như vậy, ta cứ cho rằng tỳ thận dương của nàng hư. Ta gọi thầy lang chữa trị, mà vô phương.
Đỗ Lệ-Thanh tiếp:
- Chủ nhân có thấy gần đây, tự nhiên chân tay chủ mẫu ấm áp ra. Nhưng tóc càng vàng úa hơn không?
- Đúng. Nhưng tôi không học y khoa, nên không rõ.
Đỗ Lệ-Thanh mỉm cười:
- Tóc chủ mẫu vàng úa vì độc chất. Độc chất dần dà nhập cơ thể. Bây giờ cơ thể chủ mẫu quen với thuốc rồi, đến độ chủ mẫu có thể uống liều độc dược mà không sao. Trong khi người khác chỉ cần uống một phần ba đã chết. Mặt khác, khi các vị đại hiệp hiện diện cũng như công tử Tự-Mai tiếp xúc với chủ mẫu một lát, tự nhiên cảm thấy mệt mỏi, hay cáu bực mình.
Mọi người nhìn nhau, cùng gật đầu. Lệ-Thanh tiếp:
- Đúng ra giữa dì ghẻ với con gái chồng thường hay xung đột. Còn đối với con trai chồng rất thân nhau. Đây chủ mẫu trái lại, bà xung đột kịch liệt với công tử Tự-Mai.
Tự-Mai gật đầu:
- Đúng thế. Mỗi khi thấy cô Phương, tôi bực mình, đến nỗi không muốn thấy mặt mụ ta.
Đỗ Lệ-Thanh càng nói, mọi người càng hoang mang, không hiểu thủ phạm là ai, ẩn trong trang Thiên-trường làm gì?
Đỗ Lệ-Thanh tiếp:
- Từ khi cưới chủ mẫu về. Đại hiệp cảm thấy công lực ngày càng giảm. Cứ mỗi buổi sáng thức dậy, người gần như mất hết công lực. Tuy nhiên từ hơn sáu tháng nay, đại hiệp ngủ riêng phòng với chủ mẫu, thành ra công lực trở lại như xưa.
Tự-An gật đầu:
- Không lẽ mụ vợ ta lại là hung thủ?
Mụ Phương từ ngoài xồng xộc bước vào, chỉ mặt Đỗ Lệ-Thanh:
- Con mụ hèn hạ kia. Mi đừng đặt điều, ngậm máu phun người. Ta vả vào mặt mi, cho mi biết thân.
Mụ tiến tới tát thực mạnh vào mặt Đỗ Lệ-Thanh. Ai cũng tưởng bà né tránh hay đỡ. Không ngờ bà thản nhiên như không. Bà chuyển tay, đưa cuốn sách nhỏ trên tay để vào má. Hai tiếng bốp, bốp vang lên. Mụ Phương tuy tát vào mặt Đỗ Lệ-Thanh, mà tát phải cuốn sách. Chưa thôi, mụ Phương chỉ mặt Thanh-Mai, Tự-Mai:
- Hai đứa mất dạy, đi rước ở đâu về những phường mèo mả gà đồng này?
Bà tiến tới tát vào mặt Tự-Mai.
Lễ giáo thời bấy giờ định rằng: Con cái dù có lỗi hay không, bố mẹ muốn đánh, muốn chửi, không được cãi, cũng không được tránh né. Tự-Mai ngồi im chịu đòn. Nhưng bàn tay bà Phương sắp tới mặt Tự-Mai, thì nhanh như chớp, Mỹ-Linh xuyên tay ra kẹp cứng bàn tay mụ lại. Mụ quát lên giật về, nhưng không nhúc nhích. Mụ văng tục:
- Con đĩ ngựa này. Ta dạy con, dạy cháu việc gì đến mi mà mi can thiệp vào?
Mỹ-Linh thản nhiên:
- Bà đánh con bà dĩ nhiên tôi không có quyền can thiệp. Song luật Đại-Việt định rằng bố mẹ không có quyền giết con cái. Huống hồ bà định giết sư đệ của tôi bằng chất độc?
Nàng lật ngửa tay bà Phương lên, chỉ vào cái nhẫn:
- Đây các vị coi. Cái nhẫn này mặt trên cũng như những cái nhẫn khác. Mặt dưới lại có cái gai. Đầu cái gai này tẩm thuốc kịch độc.
Đỗ Lệ-Thanh kính cẩn nói với Mỹ-Linh:
- Khải tấu công chúa, cái thứ độc dược hạng bét này không hại được Trần công tử đâu, vì Trần công tử đã tập Vô ngã tướng thiền công. Cho nên khi bà ta tát tiểu tỳ. Tiểu tỳ đưa sách lên che mặt. Còn khi bà tát Trần công tử, tiểu tỳ không can thiệp, ý tiểu tỳ muốn cho Nhật-Hồ lão nhân biết rằng những thứ ma quái Tây-dương Hồng-thiết giáo không qua được phép Phật.
Mỹ-Linh nhớ lại truyện xưa. Trong trận đánh đồi Vương-sơn, vợ chồng Xích-Anh, Trần Nghi-Gia dùng độc chưởng lợi hại biết chừng nào, mà công chúa Yên-Lãng Trần Năng được Tăng-giả Nan-đà dạy Vô-ngã tướng thiền công cho, bà hóa giải như không.
Thình lình lão Việt lạng người đi, chụp mụ Phương, vọt mình khỏi phòng họp. Thân pháp của y cực kỳ thần tốc. Thoáng một cái, y đã ra khỏi Thủy-các. Y vừa đặt chân xuống đất, thì chạm phải một người. Bình một tiếng, y bay trở vào rơi đúng chỗ đứng mà y vừa vọt ra. Người kia chặn ở cửa. Người đó là Trần Kiệt.
Trần Kiệt ngồi bên cửa sổ Thủy-các. Ông thấy lão Việt chụp mụ Phương chạy đi. Ông vọt khỏi cửa sổ lên bờ, di chuyển thân mình đến đầu cầu, tay xử dụng chiêu Đông phong như thủy hất lão trở vào Thủy-các.
Trần Kiệt chuyển tay chụp lão Việt. Lão vung tay gạt. Bộp một cái, người lão văng vào tường Thủy-các đến rầm một cái. Lão bỏ mụ Phương xuống, xuát chiêu tấn công Đỗ Lệ-Thanh, chưởng lực quái dị vô cùng. Mọi người kinh ngạc đến đờ ra. Vì lão Việt ở trang Thiên-trường đã lâu, lão không hề học võ, mà sao nay lại biết xử dụng. Không những lão biết xử dụng, mà dường như võ công lão cao cường là khác. Trần Kiệt vung tay đỡ chưởng cho Đỗ Lệ-Thanh. Bình một tiếng cả hai cùng bật lui lại. Mùi tanh hôi bay nồng nặc khắp Thủy-các.
Thanh-Mai quát lên:
- Nhật-hồ độc chưởng. Lão Việt, thì ra mi là người của Nhật-Hồ lão nhân đấy. Mi ẩn thân ở trong trang, tưởng không ai biết, nhưng bố ta biết từ lâu rồi.
Lão-Việt cười nhạt:
- Con nha đầu kia, nói láo vừa thôi. Nếu tên Trần Tự-An biết được, đời nào y để lão phu sống yên ổn mấy chục năm nay?

<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2005 10:18:54 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 07.01.2005 17:43:58 (permalink)
    Hồi thứ ba mươi bẩy


    Tiếng hát họ Đào



    Thanh-Mai cười nhạt:
    - Ta biết tên thực của mi là Đặng Trường. Mi vốn người họ Trần nhà ta, gốc gác sinh trong trang Thiên-trường này. Lúc mi ra đời đúng lúc loạn Thập-nhị sứ quân. Mi vốn có nhiệt tâm với Đại-việt, lớn lên mi lập chí cứu nước, theo Nhật-Hồ lão nhân, đem Hồng-thiết giáo truyền vào Đại-việt.
    Lão Việt nghe Thanh-Mai nói, y kinh hoảng:
    - Có lẽ con nha đầu nói thực, chứ không sai. Nhưng tại sao bố nó biết ta ẩn thân ở đây, mà không đề phòng gì cả?
    Nguyên hôm ở tòa tổng trấn Trường-yên, Thanh-Mai được trình bầy đầy đủ lý lịch mười trưởng lão Hồng-thiết giáo. Trong đó ghi rõ, Đặng Trường hiện ẩn náu ở vùng Thiên-trường. Y học được võ công Đông-a. Vừa rồi nàng thấy lão Việt xử dụng võ công Đông-a, nên đoán già. Không ngờ lại đúng.
    Đặng Trường đánh ra liền ba chưởng, gió lộng ào ào, hơi tanh bốc nồng nặc, nhiều người muốn buồn nôn. Trần Kiệt võ công cực cao, chưởng lực hùng hậu. Mỗi chiêu ông đánh, khiến cho Đặng Trường gần nghẹt thở. Đúng ra với bản lĩnh của y, chỉ cần mấy chiêu, ông khống chế y dễ dàng. Ngặt vì y dùng độc chưởng. Ông không dám cho hai chưởng chạm nhau.
    Tự-An kinh ngạc vô cùng, vì những chiêu thức lão Việt đánh ra, đều thuộc võ công Đông-a, nhưng pha lẫn độc chưởng.
    Đấu được hơn hai mươi chiêu nữa, Đặng Trường bị đẩy lui tới sát chân tường. Hơi thở y dồn dập. Mỗi chiêu Trần Kiệt tấn công, y phải nghiến răng mới đỡ nổi. Trần Kiệt đẩy liền ba chưởng như sóng vỗ vào người y. Y đỡ chưởng thứ nhất, người lảo đảo, lưng y chạm vào tường. Đến chiêu thứ hai, thứ ba. Y nghiến răng đưa hai tay lên trời đỡ. Binh, binh. Y ngã ngửa xuống. Trần Kiệt chụp ngực y liệng ra giữa nhà. Y nằm bất động, miệng ri rỉ chảy máu.
    Trần Kiệt nhìn mụ Phương hỏi Tự-An:
    - Đại ca. Việc này để anh giải quyết.
    Tự-An thở dài:
    - Chúng ta thuộc giới hào kiệt, học võ để bảo vệ đất nước. Tuy vậy mụ này đã làm vợ ta. Luật lệ không cho ta giết vợ. Vậy hãy đưa mụ lên quan nha, để nơi này xét xử. Cả tên Đặng Trường cũng vậy.
    Đúng ra với địa vị của Trần Tự-An, ngay cả hoàng đế đương thời cũng phải nể vì. Một tay ông đã giết chết không biết bao nhiêu cường hào, ác bá cùng trộm cướp. Tuy vậy, ông cũng như tất cả danh sĩ thời bấy giờ, có cùng một quan điểm: Phải thượng tôn luật pháp.
    Nguyên, người Việt bị đô hộ từ sau thời vua Trưng cho tới thời Ngô Quyền, gần một ngàn năm, mới dựng lại được nền tự trị. Tiếp theo bị cái nạn mười hai sứ quân. Vua Đinh dẹp sứ quân chưa được bao lâu thì băng hà. Ngôi vua về Lê Hòan. Võ lâm không phục Lê, nhưng trước hoàn cảnh đất nước lại sắp bị người Tống cai trị. Vạn-Hạnh thiền sư đứng ra triệu tập Anh hùng đại hội tại chùa Tiêu-Sơn, nêu cao chính nghĩa, cứ tạm thời giúp Lê đánh Tống, rồi bắt Lê phải thi hành một chính sách thương yêu dân. Các đại tôn sư võ học cùng thề với nhau rằng, dù triều đình nào của người Việt cai trị, mọi người cũng phải tuân theo luật nước. Chính vì vậy mà Tịnh-Huyền, Huệ-Sinh bị một viên quan nhỏ bé bắt giam, hai người cũng để cho họ giam, chờ đem xử.
    Bây giờ, rõ ràng mụ vợ gian manh, đanh ác, thêm người đầy tớ phản bội. Đúng ra Tự-An cho mỗi người một kiếm, như vậy thực giản dị. Nhưng ông muốn chứng tỏ rằng mình thuộc người thượng tôn luật pháp, nên giao vợ cũng như tên nô bộc cho quan huyện địa phương.
    Ông quay lại bảo Thanh-Mai:
    - Việc dơ bẩn này, bố không thể dính dáng vào. Chú Kiệt của con, thân phận cao qúi biết dường nào, càng không nên động đến. Vậy con hãy thẩm vấn chúng xem, chúng mưu đồ gì khi ẩn thân trong trang của ta.
    Nói rồi ông hướng vào các sư đệ, đệ tử:
    - Chúng ta tạm giải tán.
    Đợi cho bố với các sư thúc ra rồi, Thanh-Mai nói với Mỹ-Linh:
    - Sư muội. Chị tuy lớn vai hơn em, nhưng chưa chính thức. Em là công chúa, em có thể truyền lệnh cho quan nha. Em lo dùm chị.
    Mỹ-Linh biết Thanh-Mai khó có thể thẩm vấn mụ Phương. Trong trường hợp này, nàng phải ra tay. Nàng cầm bút viết mấy chữ, rồi trao cho một tráng đinh:
    - Sư huynh. Tôi nhờ sư huynh mang đùm thư này cho quan huyện Thiên-trường. Xin sư huynh lên đường ngay.
    Tráng đinh vâng dạ, lấy ngựa lên đường.
    Từ trang Thiên-trường, tới huyện nha không xa. Tráng đinh đi một lát, trở về cùng với một trung niên nam tử, trong sắc phục huyện lệnh. Viên huyện lệnh từng về phủ Khai-quốc vương họp nhiều lần. Y đã biết công chúa Bình-dương con Khai-thiên vương, được chú là Khai-quốc vương nuôi, yêu thương, sủng ái cực kỳ. Y quỳ gối hành lễ:
    - Tiểu nhân Trần Thông, huyện lệnh Thiên-trường xin tham kiến công chúa điện hạ.
    Mỹ-Linh để cho Trần Thông hành lễ xong, nàng truyền lệnh:
    - Đêm khuya, tôi có việc trao cho huyện lệnh. Vì đây thuộc nhiệm sở của người.
    Nàng tóm lược sơ sài vụ Đặng Trường với mụ Trần-thị Phương cho Trần Thông nghe, rồi nói:
    - Tôi xin được ngồi dự thính huyện lệnh xử vụ này.
    Trần Thông vâng dạ. Y nói với Thanh-Mai:
    - Nhân danh Đại-Việt hoàng đế. Nhân danh Khai-quốc vương, bản chức tuyên mượn Thủy-các này làm công đường. Tất cả những người có mặt đều là nhân chứng.
    Trần Thông khoan thai thẩm vấn Đặng Trường, cùng Trần-thị-Phương. Bằng một phương pháp tỷ mỷ, ông phanh ra tất cả những bí mật bao trùm trong trang Thiên-trường bấy lâu.
    Đặng Trường nguyên xuất thân con nhà danh gia trong phủ. Bố mẹ họ Trần. So gia phả, y ngang vai với Trần Tự-An. Thủa nhỏ y học rất giỏi, lại có chút lòng son với đất nước. Y vốn nghe tiếng Nhật-Hồ lão nhân là đệ tử của giáo-chủ Hồng-thiết bên Tây-dương Xích Trà-Luyện. Vì vậy y hằng ước ao bái kiến lão làm sư phụ. Duyên may dun dủi, y được gặp lão. Lão thu nạp y làm đệ tử. Y bỏ nhà, trốn theo lão phiêu bạt sang Trung-nguyên. Trong thời gian ở Trung-nguyên, y được gần Đông-Nhật lão nhân. Giữa sư thúc, sư điệt rất tương đắc.
    Nhật-Hồ lão nhân rời Trung-nguyên về Đại-Việt, mong bành trướng thế lực. Đặng Trường được sư phụ mang theo cùng với Vũ Nhất-Trụ, Phạm Trạch. Lúc bốn thầy trò về đến nơi, gặp đúng lúc thịnh thời Ngô vương. Ngô vương qua đời, loạn Thập-nhị sứ quân nổi lên. Trong nước cực kỳ hỗn loạn. Vì vậy thầy trò Nhật-Hồ lão nhân gặp thời.
    Lão mang lý thuyết Hồng-thiết kinh ra giảng cho dân chúng: Không vua, chẳng chúa. Thần, thánh, tiên Phật đều láo hết. Trên đời chỉ có thánh Mã Mặc, Lệ Anh. Của cải trong thiên hạ thuộc mọi người.
    Dân chúng theo Hồng-thiết giáo rất đông. Bốn trong mười hai sứ quân, theo Hồng-thiết giáo. Nhật-Hồ lão nhân được tôn như bậc thánh. Sau vua Đinh diệt các sứ quân. Hồng-thiết giáo bị truy lùng rất gắt.
    Hơn hai mươi năm trước, Nhật-Hồ lão nhân qua đời. Đệ tử của lão là bọn Vũ Nhất-Trụ, Lê Ba truyền xây lăng cho lão. Chúng phao rằng lão rất linh thiêng, song ai cũng coi lão như ma như quỷ. Từ đấy không ai biết mười đệ tử của lão ra sao.
    Khi Thuận-thiên hoàng đế lên ngôi (1010) ban chỉ ân xá. Hồng-thiết giáo lại tái hoạt động, song các trưởng lão vẫn khi ẩn khi hiện.
    Vì trước kia, Hồng-thiết giáo chủ trương tiêu diệt tất cản các tôn giáo khác. Chỉ Hồng-thiết giáo mới được coi là chính thống. Phật-giáo chủ trương tự giải thoát, giúp người giải thoát. Thì Hồng-thiết giáo chủ trương cần phải đoạt lấy ngôi vua, cai trị thiên hạ. Giáo chúng chỉ tôn thờ hai thánh Mã Mặc, Lệ Anh, tôn trọng chức sắc trong giáo, mà không biết đến trời, Phật, bố mẹ, họ hàng. Cho nên giáo chúng bị Phật, Nho, Lão coi như tà ma ngoại đạo. Tuy vậy Hồng-thiết giáo nêu cao ngọn cờ yêu nước, nên cũng có nhiều người theo.
    Từ ngày ấy, Hồng thiết giáo bí mật bành trướng. Còn các trưởng lão, ngay Khu-mật viện cũng mờ mịt về hành tung của họ. Võ lâm bí mật quật mồ Nhật-Hồ lão nhân lên, thì trong quan tài chỉ thấy khúc gỗ. Vì vậy có người bảo lão còn sống, ẩn thân đâu đó. Có người nói lão ta hiện ẩn thân trên rừng tu tiên. Có người bảo lão ta chết rồi. Không ngờ hôm nay, một trong mười đại đệ tử của lão ta tên Đặng Trường ẩn thân trong lớp áo gia nhân của đại hiệp Trần Tự-An, bị lộ tung tích.
    Đặng Trường khai, sư phụ y qui tiên. Hồng-thiết giáo giao cho y ẩn thân trong phái Đông-a trước hết để biết rõ hành tung của phái này. Sau đó dùng độc dược khống chế những người có nhiều thế lực trong phái, rồi một ngày kia, chiếm lấy chức chưởng môn. Trước đây y bịt mặt, giả làm thích khách, xử dụng Chu-sa độc chưởng khống chế thân mẫu Thanh-Mai. Không ngờ bà một lòng, một dạ với chồng với con, thà chịu chết, chứ không chịu nghe lệnh y. Vì vậy bà chết trong đau thương cực kỳ thảm khốc.
    Khi mụ Trần-thị-Phương vừa về nhà chồng, bị y kiềm chế. Mụ líu ríu tuân theo. Không những mụ không chống đối, mà còn lấy làm khoan khoái, khi gây ra những vụ xáo trộn trong gia đình Tự-An. Mấy hôm trước đây, y nhận được lệnh khẩn cấp của hội đồng giáo vụ trung ương, bằng mọi cách phải giết chết Tự-Mai với Tôn Đản, vì hai người đã luyện Vô-nhân tướng thần công, có thể giải Nhật-hồ độc chưởng. Còn đối với bọn Thanh-Mai, Mỹ-Linh, cần khống chế bằng độc dược. Y vội bỏ thuốc độc thi hành. Không ngờ bị Đỗ Lệ-Thanh khám phá ra. Thấy vậy, y truyền cho mụ Phương giết Tự-Mai với Tôn Đản bằng phương pháp tẩm thuốc độc vào nhẫn, rồi tát nó. Một lần nữa, bị bại lộ.
    Theo lời y khai, trong phái Đông-a có đến hơn mười đệ tử bị khống chế bằng độc chưởng. Tuy vậy những đệ tử đó địa vị không cao cho lắm.
    Trần Thông truyền bắt tất cả đem về huyện đường. Y kính cẩn nói với Thanh-Mai:
    - Khải tấu vương phi. Tên Đặng Trường này rất quan trọng đến vận mệnh xã tắc, tiểu nhân phải khẩn cấp giải y về Thăng-long, giao cho Khu-mật viện. Còn mụ Trần-thị-Phương, chẳng qua bị khống chế, tội cũng không đến nỗi nặng. Y thị chỉ phạm tội lỗi đạo vợ chồng, cần đưa về xã cho hành hình.
    Thanh-Mai gật đầu:
    - Điều cần nhất, phải tra xét xem ai đã hại vương phi Khai-thiên vương với phu nhân của Hồng-Sơn đại phu.
    Trần Thông lại thẩm vấn Đặng Trường. Y nói:
    - Người hãm hại vương phi Khai-thiên vương không phải tôi. Tôi được lệnh khống chế phái Đông-a. Còn người phụ trách ở Thăng-Long tên Vũ Nhất-Trụ. Còn phu nhân của Hồng-Sơn đại phu tôi không rõ.
    Mỹ-Linh truyền lệnh:
    - Ngày mai tôi lên đường về Thăng-long. Tên Đặng Trường võ công rất cao, lại biết xử dụng độc dược, đích thân tôi sẽ giải y về theo.
    Bảo-Hòa suy nghĩ một lúc rồi nói:
    - Điều quan trọng nhất chúng ta phải tìm ra tông tích Vũ Nhất-Trụ, cùng hội đồng giáo vụ trung ương. Chúng mới sai người truyền lệnh cho Đặng Trường giết Tự-Mai, Tôn Đản vì hai tiểu sư đệ này đã học được Vô-ngã tướng thần công. Như vậy y chỉ biết Khai-quốc vương, Đản, Mai học được thần công này mà không biết Thiệu-Thái, Mỹ-Linh với Bảo-Hòa cũng học được. Căn cứ vào điều này, chúng ta tìm ra y không khó.
    Mỹ-Linh lắc đầu:
    - Em không tin như vậy. Việc chú hai với Tôn Đản, Tự-Mai học Vô-ngã tướng thần công cho đến giờ này chỉ người trong trang Thiên-trường biết mà thôi. Em nghi tên Đặng Trường khai láo, để đánh lạc hướng chúng ta.
    Bảo-Hòa vụt tỉnh ngộ:
    - Chị hiểu rồi. Nhất định Hồng-thiết giáo có liên hệ với bọn Tống. Chúng ra lệnh giết Tự-An, Tôn Đản để dằn mặt cậu hai. Hơn ai hết chúng biết hai người này đi với cậu hai mấy tháng liền. Bây giờ xuất hiện phá kế hoạch của chúng. Chúng giết hai người, để cậu hai kinh sợ, chồn bớt ý chí. Còn đối với sư tỷ Thanh-Mai, dĩ nhiên chúng muốn kiềm chế. Chúng cũng muốn kiềm chế em vì biết địa vị em ở Bắc-biên sau này tối quan trọng. Chúng còn muốn kiềm chế anh Thiệu-Thái với Mỹ-Linh vì biết sau này hai người ắt kế nghiệp bố với mạ mạ.
    Sáng hôm sau, Trần Thông tới trang Thiên-trường rất sớm, xin tấu trình công chúa một việc cực kỳ hệ trọng. Mỹ-Linh truyền mời ông ta vào. Viên huyện lệnh quỳ gối hành lễ:
    - Khải tấu công chúa điện hạ. Đêm qua, trong thiểm huyện có nhiều biến động khủng khiếp. Thần xin tấu để công chúa tường.
    - Huyện quan cứ nói.
    - Khải tấu công chúa, trong xã Yến-vĩ sương sen có án mạng, rất kinh khủng.
    Bấy giờ đang thịnh thời Thuận-Thiên hoàng đế. Đến đánh chửi nhau cũng hiếm có, chứ đừng nói án mạng. Mỹ-Linh vốn là Phật-tử, nghe vậy nàng ngồi nhỏm dậy:
    - Ai bị giết? Ai giết người?
    - Tấu, cả một gia đình gồm vợ, chồng, ba đứa con. Đến súc vật cũng bị giết gồm, một con trâu, một con nghé, một con gà mái, hai mươi con gà chiếp, ba con chó, hai con mèo, tám con vịt. Kẻ giết không biết ai. Nhưng hung thủ vô tình đánh rơi chiếc mũ tu lờ lại. Như vậy có thể y là nhà sư.
    Huyện quan trình ra cái mũ tu lờ. Thấy chiếc mũ, Tự-Mai, Tôn Đản nhìn nhau. Cả hai ngơ ngẩn cả người ra. Mỹ-Linh không thấy cái khác lạ trên mặt hai sư đệ. Nàng hỏi:
    - Nạn nhân tên gì?
    - Y tên Đặng Đức-Cần.
    Nghe nói đến tên Đặng Đức-Cần, Tôn Đản, Tự-Mai đưa mắt nhìn nhau. Vì hai đứa đã thấy y trong nhà mụ Anh-Trần. Bởi y có cái đầu bò liếm, trán dô, mắt cá chuối, răng hô, tiếng nói như vịt đực.
    Tự-Mai hỏi:
    - Thưa huyện quan, họ bị giết bằng kiếm, hay bằng chưởng?
    - Mỗi người, mỗi thú bị giết không giống nhau. Tên Cần bị cắt lưỡi. Cái... cái... bị cắt, nhưng lại nhét vào miệng y.
    Tự-Mai hiểu rằng Trần Thông định nói dương vật tên Cần bị cắt, rồi nhét vào chính miệng y. Nhưng vì tâu như thế e bất nhã trước công chúa. Nên Thông ấp úng. Tính tò mò, Tự-Mai hỏi:
    - Vợ y bị giết như thế nào?
    - Y thị bị một cây tre lớn hơn cổ tay, vót nhọn, đâm vào âm hộ, xuyên lên đến cổ.
    Nói đến đây, viên huyện quan rùng mình, rồi tiếp:
    - Một đứa con trai bị chặt làm hai khúc. Một đứa bị chẻ dọc làm đôi. Đứa con gái bị treo cổ.
    Mỹ-Linh thấy truyện ly kỳ. Nàng hỏi:
    - Còn thú vật, bị giết ra sao?
    - Trâu, nghé bị chặt hết bốn chân. Lúc tiểu nhân đến khám nghiệm, chúng vẫn còn thở. Chó bị cắt đầu. Mèo bị xé làm đôi. Gà bị cột cổ thành xâu, treo trên ngọn tre. Vịt bị chặt hết chân, cánh.
    Nghe huyện quan nói, Mỹ-Linh đưa mắt nhìn Thanh-Mai. Vì trước đây người ta nói rằng, bất cứ kẻ nào gây hấn với phái Đông-a. Đại-hiệp Trần Tự-An sẽ giết cả nhà, luôn cả chó, mèo, gà, vịt cũng không tha.
    Biết ý Mỹ-Linh, Thanh-Mai lắc đầu:
    - Mỹ-Linh đừng hiểu lầm. Phụ thân chị định trừng phạt kẻ nào, ông sẽ để tên lại phạm trường, cho người khác kinh sợ, chứ không bao giờ làm truyện dấu diếm như vậy.
    Mỹ-Linh cũng nhận thấy thế. Nếu Tự-An thù tên Đặng Trường, với mụ Phương. Hôm qua ông đã giết chết tại chỗ, việc gì phải trao cho quan nha.
    Mỹ-Linh bảo huyện quan:
    - Huyện quan truyền cho xã chôn cất, tiếp tục điều tra, rồi trình về phủ Khai-quốc.
    Trần Thông đi rồi, Tự-Mai đưa chiếc mũ tu lờ ra nói:
    - Chiếc mũ này của nhà sư ấy.
    Tất cả mọi người đều đưa mắt nhìn Bảo-Hoà. Bảo-Hoà cầm lấy mũ coi lại, thì đúng chiếc mũ của nhà sư trẻ theo sát, giúp đỡ bên nàng lâu nay. Tự-Mai vốn có cảm tình với nhà sư, nó nói:
    - Anh ấy hành sự kỳ bí. Võ công tuyêt cao. Nhất định tên Đặng Đức-Kềnh phải phạm tội nặng lắm, mới bị xử như vậy. Chúng ta chẳng nên thắc mắc làm gì.

    Xã Hải-lộ có hai chợ. Một chợ họp hàng ngày, vào buổi sáng sớm. Ban mai, ánh sáng lờ mờ, người ta đã tới chợ đông đảo. Khi mặt trời lên cao, chợ thưa dần. Còn chợ chính, nằm ngay trước đình làng. Chợ họp hàng ngày, từ sau Ngọ, nhưng lưa thưa, rất ít người, gọi là chợ hôm. Phiên chợ của xã có hai ngày, ngày một và tám.
    Hôm nay, ngày mười bẩy, còn một ngày nữa mới tới phiên chợ. Thế mà sáng sớm, dân chúng đã tụ hội đông đảo. Già , trẻ, lớn bé lũ lượt kéo nhau đến chợ. Người ta cho biết, hôm qua cụ tiên chỉ cùng chức sắc đã họp để xử tội con gái trong xã làm bại hoại luân thường. Người bị bị xử tên Trần-thị Phương, được gả làm phu nhân trang chủ Thiên-trường. Nhưng mới đây mụ phạm ba trong bẩy tội của Thất xuất. Quan huyện truyền đem mụ về xã, để trong xã xử tội, làm gương cho con gái.
    Đúng giờ Thìn, ba hồi trống chấm dứt, ông trương-tuần đi trước, lưng đeo bảo đao. Phía sau bốn tráng đinh, giải mụ Trần-thị-Phương, tay bị trói giật cánh khỉ ra giữa chợ. Họ trói mụ vào cây cột đã đóng sẵn từ bao giờ.
    Tuy là công chúa, thuộc lầu luật lệ Đại-Việt, nhưng Mỹ-Linh chưa từng được xem xã xử tội nhân vi phạm thuần phong mỹ tục bao giờ. Nàng đề nghị Thanh-Mai, Bảo-Hòa giả trang làm người nông dân, trà trộn vào dân làng để xem cuộc hành hình.
    Một thiếu nữ thở dài:
    - Con mụ Phương này, nhan sắc đã không ra gì. Tài năng nội trợ càng tồi tệ. Thế mà không hiểu tại sao một người như ông Trần Tự-An lại cưới mụ về làm chi?
    Một thiếu nữ khác xì một tiếng:
    - Chị mà biết gì. Tự ông tới tuổi ngũ tuần, không muốn lấy vợ quá trẻ. Ông tìm người có tuổi mà cưới. Xét ra chỉ có mụ ta, trên ba mươi tuổi chưa lấy chồng mà thôi.
    Một thanh niên lớn tuổi nói:
    - Đúng ra ông sẽ cưới con nhà danh giá. Nhưng ông cho rằng lấy một người dốt nát, rồi về ông dạy dỗ mấy hồi. Có ngờ đâu, ông lấy phải cái thứ quá ngu dốt, không biết thế nào là phải, thế nào là trái. Vì vậy ông nói gì mụ cũng không nghe.
    Một ông già tiếp:
    - Lỗi lầm của ông, khi đệ tử, con, cháu đều nhiều kiến thức. Ông đem mụ về đặt lên trên. Mụ vừa ngu vừa dốt, ương ngạnh, bởi vậy mới xẩy ra truyện hôm nay.
    Đến đó mọi người ngừng bàn tán. Ông lý trưởng đứng giữa chợ, tay cầm tờ giấy, ghé miệng vào loa nói:
    - Trình quan viên hàng xã. Hôm qua xã đã họp để xử Trần-thị Phương. Hôm nay tôi xin đem thi hành hương quyết.
    Ông ngừng lại kể tội thứ nhất của mụ là điêu ngoa, ác độc với con chồng. Thứ nhì lắm lời, cãi chồng. Thứ ba hiệp đảng với gian nhân. Đúng ra tội này, mụ bị tùng xẻo, nhưng vì xã không được quyền xử tử, nên chỉ có thể phạt tối đa ba tội một lúc. Một, nọc xuống đánh ba mươi roi. Hai, gọt đầu sơn vôi. Ba, thả bè trôi sông.
    Dân chúng vỗ tay hoan hô vang dội.
    Trương tuần cho tráng đinh nọc mụ ra, dánh đủ ba mươi roi. Roi đánh bằng mây, chỉ đau mà không sợ chết. Mụ Phương quằn quại dẫy dụa, chịu đủ ba mươi roi.
    Tiếp đến, người ta mang dao kéo ra cạo hết tóc mụ. Đầu mụ trọc lóc. Một tráng đinh mang ra bình vôi, lấy vôi trát lên đầu. Vì khi cạo tóc, lưỡi dao làm cho da đầu bị rách nhiều chỗ. Vì vậy khi bôi vôi lên, mụ đau xót rên la.
    Tiếp đến, ba bà già bước ra. Một bà bưng bát gạo, một bà bưng bát muối. Một bà lấy lá lót tay, rồi cầm tay mụ Phương dắt đi. Miệng bà lẩm nhẩm đọc một những gì Mỹ-Linh không nghe rõ.
    Thanh-Mai giải thích:
    - Dân chúng trong làng tin rằng mụ Phương là con ma, con quái đầu thai làm hại làng. Vì vậy dùng muối với gạo rắc lên bước chân mụ đã đi qua, như vậy ma quái không trở lại nữa. Còn một bà cụ nắm tay thị dắt đi ra bờ sông. Vì coi mụ như một thứ dơ bẩn, cần lót lá mà nắm tay, nếu không cái dơ từ tay mụ truyền qua.
    Tới bờ sông đã có cái bè chuối để đó từ bao giờ. Mụ Phương bị dắt xuống bè. Trên bờ trống đánh liền ba hồi, người ta xô cái bè ra xa. Nước sông đang chảy xiết, cái bè trôi đi liền.
    Thanh-Mai giải thích:
    - Bè chở mụ ấy, dạt vào xã nào, xã ấy phải đem mụ lên, dùng làm tôi tớ, chuyên quét chợ, hoặc gả cho thằng mõ làng.
    Thanh-Mai trở về trang Thiên-trường, trời đã quá Ngọ. Đại hiệp Trần Tự-An dặn con:
    - Con sinh ra làm gái. Nhưng bố tạo cho con cái chí khí nam nhi. Với tái trí của con, e khó có người vựơt qua. Con cùng với hai chú đi lên vùng Mê-linh tiếp xúc với phái Tản-viên, mục đích lo bảo vệ đất nước. Con đừng nên vì tình cảm riêng tư, mà làm trái với lời bố dạy. Bố nói ít. Con hiểu nhiều.
    Thanh-Mai biết bố nhắc mình không nên vì Khai-Quốc vương, làm trái quyết định của môn phái. Nàng kính cẩn nghe lời, mà trong lòng chua xót.
    Có tráng đinh phi ngựa khẩn cấp từ cổng trang vào. Y xuống ngựa hành lễ với Trần Tự-An:
    - Trình chủ nhân, ngoài cổng trang có một cô gái, mặt che bằng một vuông lụa xin được gặp chủ nhân. Tiểu nhân hỏi tên họ, cô ta nhất định không chịu khai. Sau cùng cô ta đưa cái hộp này cho tiểu nhân, rồi dặn rằng trình chủ nhân.
    Tự-An mở nắp hộp ra, bên trong hộp có một cái vòng bằng ngọc mầu xanh biếc. Thanh-Mai bật lên tiếng kêu kinh ngạc. Vì cái vòng đó trước đây thân mẫu nàng thường đeo. Lúc sắp qua đời, bà tháo đưa cho bố nàng, dặn rằng:
    " Đây là chiếc vòng anh dẫn lễ hồi cưới em. Không thể chôn theo em được. Vì chôn theo, hồn em không siêu thoát được. Anh hãy cất đi. Khi em chết rồi, hồn em sẽ theo bên cạnh anh, phù hộ cho anh gặp được một giai nhân tài sắc vẹn toàn. Khi anh gặp người như anh ước mơ, anh đem vòng ngọc này tặng nàng. Như vậy em biết anh yêu thương người ấy. Em sẽ giữ gìn nàng, phù hộ nàng thành kế thất của anh."
    Sau này đại hiệp Tự-An cưới mụ Trần-thị Phương. Thanh-Mai không thấy mụ đeo chiếc vòng này. Nàng hỏi bố, đại hiệp Tự-An im lặng không trả lời. Bây giờ thấy lại chiếc vòng cũ, nàng kinh ngạc đưa mắt nhìn bố như dò hỏi nguyên do.
    Đại hiệp Tự-An thấy chiếc vòng, tay ông cầm lên mà hơi run run. Thiên-trường tứ kiệt cũng như Thanh-Mai thấy ông có cử chỉ tỏ ra cực kỳ súc động, điều mà chưa từng ai thấy ở ông bao giờ. Vì vậy không ai dám lên tiếng hỏi. Tự-An vẫy tay ra hiệu cho tráng đinh loan tin, rồi ông vọt lên mình ngựa của y phi ra cổng trang. Tới cổng, ông nhảy xuống ngựa, hỏi tráng đinh canh cổng:
    - Vị cô nương đó đâu?
    Tráng đinh chưa kịp trả lời, có tiếng nói trong như sương mai, ngọt dịu như cam thảo:
    - Em đây!
    Một thiếu nữ thân hình mảnh mai đứng núp sau bụi hoa nhài chạy lại ôm chầm lấy Tự-An. Tự-An quên mất thân phận mình là một đại tôn sư võ học vang danh thiên hạ, trước mặt còn tráng đinh, đệ tử. Ông cũng ôm lấy thiếu nữ. Nàng khóc trong cơn nghẹn ngào:
    - Em...em tưởng kiếp này không gặp lại anh nữa.
    Rồi nàng nấc lên, trong khị vẫn gục đầu vào vai Tự-An. Tự-An khẽ gỡ khăn lụa che mặt nàng ra, tất cả tráng đinh, đệ tử đều bật lên tiếng ồ đầy vẻ kinh ngạc. Họ kinh ngạc là phải, vì lần đầu tiên họ thấy vị đại tôn sư bộc lộ tình cảm một cách mãnh liệt, lộ liễu trước mặt mọi người. Vì thời bấy giờ, ngay vợ chồng cũng không thể nắm tay nhau trước mặt mọi người, chứ đừng nói ôm nhau. Lý do thứ hai họ kinh ngạc, vì thấy thiếu nữ ôm lấy Tự-An gọi bằng anh, ít ra cũng trên ba mươi tuổi. Nào ngờ khuôn mặt nàng quá trẻ, lại đẹp như tiên nữ.
    Cách đây hơn năm, nhân có việc qua Thăng-long, đại hiệp Trần Tự-An cùng một người bạn vốn là danh sĩ đế đô tên Chu Anh, thả con thuyền trên sông, uống rượu thưởng trăng. Khoảng gần giờ Tý, thuyền đi vào vùng Từ-ninh, ánh trăng chiếu xuống sáng vằng vặc. Sông Hồng nước chảy mầu đỏ tươi như máu. Chu Anh cho thả neo, rồi hai người đem rượu, hoa quả ra, vừa uống vừa nói truyện thế tục.
    Giữa lúc hai người đang vui truyện, thì đâu đó vẳng lại tiếng đàn, âm điệu thanh tao nhẹ nhàng. Chu Anh sẽ ra hiệu cho bạn im lặng để thưởng thức âm thanh kỳ diệu. Tiếng đàn đang êm đềm như sóng nước hồ thu, như thiếu nữ đang đu xuân. Bỗng dồn dập, rồi chuyển sang buồn bã, nức nở như thiếu phụ phòng không, than khóc cho duyên phận.
    Tự-An là người bác học, đa năng không học thuật nào ông bỏ qua. Duy có một điều ông không thông, không hiểu gì về âm nhạc. Thế nhưng khi nghe tiếng đàn, giọng hát, ông dễ bị cảm xúc theo âm điệu nhất. Bản đàn đứt, ông hỏi bạn:
    - Bản nhạc vừa rồi tên gì nhỉ, mà tôi chưa từng nghe qua?
    Chu Anh đáp:
    —Bản này tên Xuân dạ Việt-nữ chiến Trường-an. Tác giả tên Nguyễn Giao-Chi, một nữ anh hùng thời Lĩnh-nam.
    Tự-An gật đầu:
    - À bản này có lai lịch rất hùng tráng. Nguyên vào thời Lĩnh-nam, lúc Trần Tự-Sơn bị Quang-Vũ bắt giam ở Trường-an. Bắc-bình vương Đào Kỳ, cùng vương phi Nguyễn Phương-Dung đem anh hùng đi giải cứu. Trên đường từ Phù-phong đi Trường-an, Nguyễn Giao-Chi đã sáng tác bản này. Cho nên âm điệu hùng tráng thì có hùng tráng, buồn thì cũng có vẻ buồn. Người đánh bản đàn này, ắt phải có kiến thức đây.
    Bỗng có tiếng phách, tiếng đàn đáy cùng tiếng hát vọng qua. Hai người lắng tai nghe:

    Lĩnh-Nam là đất anh hùng,
    Vua Bà ngự trị, một lòng thương dân.
    Mê-linh khởi nghĩa,
    Ánh trăng soi, lửa chiếu đến ngang trời.
    Vua Bà cầm bảo kiếm, quyết một lời:
    Thề đem sức, giúp đời dành tự chủ.
    Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
    Lưu thủ đan tâm chiếm hãn thanh.
    Khi đuổi giặc, rồi thì đất tổ thái bình,
    Đem tất cả hùng tài dựng lại nước.
    Tài không thiếu, đức cũng đủ, dư thừa phương lược,
    Chỉ hiềm vì, thế nước đã suy vi,
    Cẩm-khê sóng cả bốn bề,
    Anh hùng gieo xuống, hồn về cỏi tiên.
    Nghìn năm lịch sử ghi tên.


    Tự-An ngơ ngác hỏi Chu Anh:
    - Chu huynh, điệu hát này là điệu gì, tôi chưa từng nghe qua? Tôi chỉ phân biệt được hai câu đầu ngâm theo lối Sa-mạc. Còn lại thì mù tịt.
    Chu Anh trả lời bằng cái lắc đầu.
    Hai người hướng mắt nhìn theo nơi phát ra tiếng hát, nơi đó có một con thuyền nhỏ, đang để trôi theo giòng. Bỗng trên thuyền lại vang lên tiếng hát vọng buồn não nuột. Tiếng hát vừa cất cao, lập tức bị cắt đứt, thay vào đó bằng tiếng hét lanh lảnh, đầy vẻ khủng khiếp, rồi có tiếng la:
    - Cứu tôi với!
    Tiếng la bị gián đọan bằng tiếng ú ớ, rõ ra tiếng đàn bà bị bịt miệng. Tự-An bảo phu đò:
    - Mau chèo thuyền lại phía con đò nhỏ cho ta.
    Thuyền lao tới con đò nhỏ. Có tiếng nói lớn:
    - Thuyền ai kia, mau ngừng lại. Đừng dại can thiệp vào truyện của bang Hồng-hà mà mất mạng.
    Tự-An nhún mình một cái, ông đã nhảy sang con đò nhỏ. Một người tầm thước trên đò vung đao chém ông. Còn ở trên không, ông phóng một chưởng hướng người ấy. Người ấy bay bổng lên không rơi tòm xuống nước. Tự-An đã đáp nhẹ nhàng trên con đò nhỏ. Hai người khác từ trong lòng đò chui ra, vung đao tấn công ông. Ông dơ tay phẩy nhẹ một cái, đao người nọ chém vào đao người kia. Cả hai ngơ ngác ngẩn người ra. Một tên hỏi:
    - Người là ai? Phải chăng người thuộc phái Đông-a?
    Tự-An chụp cổ hai tên liệng xuống sàn thuyền, ông dẫm chân lên ngực chúng, rồi hướng vào trong đò hỏi:
    - Dám hỏi vị nào là chủ đò? Tại hạ Trần Tự-An phái Đông-a cứu viện trễ, làm các vị kinh hoàng, thực có lỗi.
    Ánh đèn trong đò cùng ánh trăng chiếu sáng, hiện ra một trung niên nam tử, mặt đẹp như ngọc tuổi khoảng bốn mươi lăm, bốn mươi sáu. Cạnh ông một thiếu phụ tuổi khoảng bốn mươi, dáng người thanh nhã, khuôn mặt thanh tú, cử chỉ mềm mại. Phía sau, một thiếu nữ tuổi khoảng mười bẩy, mười tám. Nàng cúi đầu trong thuyền, vì vậy ông không nhìn rõ mặt.
    Trung niên nam tử chắp tay hướng Tự-An:
    - Đa tạ đại hiệp cứu viện. Nếu không chúng tôi đã bị giết chết trên sông này rồi. Tôi họ Đào, tên Phúc. Vợ tôi tên Bích-Lân. Chúng tôi đều làm nghề ca hát trong thành Thăng-long.
    Tự-An à lên một tiếng:
    - Thì ra hai vị nổi danh Phúc-Lân song phụng đấy. Tại hạ ở Thiên-trường từng nghe danh hai vị nức tiếng Long-thành vì có giọng hát không thua gì Trương Chi. Tại hạ thầm ước ao có ngày được diện kiến, không ngờ duyên may dun dủi, lại gặp hai vị trên sông Hồng.
    Đào Phúc hướng vào trong khoang thuyền gọi:
    - Hà-Thanh, con mau ra tạ ơn đại hiệp cứu mạng đi.
    Thiếu nữ từ trong thuyền bước ra, nàng cúi đầu hành lễ:
    - Đa tạ Trần đại hiệp cứu mạng. Ơn này nguyện khắc cốt ghi tâm.
    Chu Anh cho hai con thuyền kè sát vào nhau. Ông chắp tay:
    - Anh em chúng tôi ngồi trên thuyền uống trăng, hãm rượu, nói truyện cổ kim. Bỗng đâu tiếng hát Song Phụng vọng qua, làm cho hồn phách như lên tiên. Nào mời hai vị cùng cô nương Hà-Thanh sang bên này, chúng ta đàm đạo.
    Tự-An hỏi hai tên đạo tặc:
    - Chúng bay tên gì, mau khai ra.
    Vừa hỏi, ông vừa vận sức vào chân. Hai tên đạo tặc đau quá, rên rỉ. Một tên nói:
    - Tiểu nhân tên Công. Còn người này tên Du. Bọn tiểu nhân thuộc bang Hồng-hà.
    - Các người lên con đò này, với mục đích gì? Do lệnh của ai?
    - Thưa, bọn tiểu nhân được lệnh bang chủ theo dõi cô nương Hà-Thanh từ hơn tháng nay. Bang chủ ra lệnh cho bọn tiểu nhân phải bắt cóc, đem về tổng đường. Hôm nay bọn tiểu nhân mới ra tay.
    Trần Tự-An đã nghe nói nhiều về bang Hồng-hà. Chúng làm ăn trên suốt giải sông Hồng, sang sông Cầu, sông Đuống. Dân thuyền chài đánh cá, dân buôn gỗ từ mạn ngược về, dân buôn trên sông đều phải phục tùng, nộp thuế cho chúng. Bằng không khó mà yên ổn làm ăn. Bang chủ là ai, ông chưa từng nghe qua. Chỉ biết y gốc người Hoa, võ công rất cao cường. Ông cùng các sư đệ có ý tiễu trừ bọn chúng. Nhưng bang chúng rất khôn khéo, không bao giờ họ đụng chạm với người của sáu đại môn phái Lĩnh-nam. Chúng lại càng tránh không đụng tới quan binh. Vì vậy bang chúng ngày càng đông, thế lực càng mạnh.
    Trần Tự-An suy nghĩ rất nhanh:
    - Muốn diệt trừ một đảng cướp lớn như bang Hồng-hà, một mình ta không thể làm nổi. Ta cần bàn với các sư đệ, cùng chưởng môn nhân đại môn phái xem sao đã.
    Vì vậy ông ôn tồn bảo hai tên lâu la:
    - Hai người về nói với bang chủ rằng Trần Tự-An phái Đông-a cấm chỉ bang chúng không được làm khó dễ Song-Phụng đất Thăng-long. Dù các người chỉ đụng đến sợi tóc cô Hà-Thanh, ta sẽ giết toàn bang không sót một người, dù con gà con chó cũng không tha.
    Nói rồi ông vẫy tay một cái, hai tên cướp rơi tòm xuống sông. Chúng lặn đi mất tăm.
    Thời bấy giờ, trên toàn đất Đại-Việt có hàng trăm bang hội, hàng chục môn phái nhỏ. Bang nào, môn phái nào cũng có đệ tử, gây ảnh hưởng trong vùng. Tự nhiên họ tạo ra luật lệ không thành văn riêng biệt gọi là luật Võ-lâm. Dù bang nào lớn, mạnh đến đâu, dù phái to đến mấy cũng không được vi phạm luật lệ đó. Chủ trương của mỗi bang, mỗi phái có nhiều điều khác biệt. Trong các phái, sáu phái lớn nhất, đã thành lập từ lâu, đào tạo nhiều đệ tử làm lên sự nghiệp hển hách, đó là phái Tiêu-sơn, Mê-linh, Đông-a, Tản-viên, Sài-sơn, và Tây-vu.
    Cổ nhất phải kể phái Sài-sơn, do Phù-Đổng thiên vương sáng lập. Ngài được toàn quốc tôn làm bậc thánh. Khi còn sinh thời, ngài đã làm lên công nhiệp kinh thiên động địa. Một người, một ngựa, dùng gậy sắt phá giặc Ân. Sau đó ngài ẩn trên núi Sài-sơn dạy đệ tử, lưu truyền đến nay. Ngài được tôn làm thánh, vì sau khi qua đời, ngài rất linh thiêng. Dân Việt thường gọi ngài bằng nhiều từ ngữ khác nhau như Thánh Dóng, Thiên-vương hay Phù-Đổng Thiên-vương. Phái Sài-sơn không chỉ học võ, mà còn học cỡi ngựa, trồng cấy, Thiên-văn, Lịch-số, kể cả nấu ăn. Tôn chỉ của phái này, lấy việc phù trợ quốc gia làm chính. Tổng đàn đặt trên núi Sài-sơn. Hồng-Sơn đại phu hiện làm chưởng môn phái này. Nhưng ông lại không ở trên tổng đàn.
    Tiếp theo, đến gần cuối đời Hồng-bàng, vua Hùng gả công chúa cho phò mã Sơn-Tinh. Sơn-Tinh đem công chúa lên núi Tản-viên hưởng thanh phúc. Ngài cũng được tôn làm thánh, dân chúng thường gọi ngài là thánh Tản-viên. Ngài tuy được tôn kính, song chỉ về phương diện tôn giáo, vì ngài rất linh thiêng. Thế kỷ thứ bẩy, linh khí đất Việt bốc lên chín từng mây. Quan thái sử lệnh tâu lên vua Đường. Nhà vua sai một người giỏi bậc nhất về phong thủy sang làm An-nam đô hộ phủ với lời dặn rằng phải ếm tất cả những linh khí đất Việt, cùng phá các thế đất phát đế vương đi. Cao Biền hoàn thành sứ mệnh khắp nơi. Chỉ duy có núi Tản-viên, y ếm mà không thành công. Y bị thánh vật, súyt mất mạng dưới chân núi.
    Đương thời thánh Tản-Viên thu dụng, cùng đào tạo đệ tử rất đông. Vì vậy các đời sau lấy tên núi Tản-viên gọi môn phái này. Phái Tản-viên lấy tôn chỉ khuông phù chính nghĩa, diệt trừ kẻ ác, cứu khốn phò nguy. Thời Lĩnh-nam, vua Trưng xuất thân phái Tản-viên, mà thành đại nghiệp. Chưởng môn phái Tản-viên hiện là Đặng Đại-Khê. Tổng đàn đặt trên núi Tản-viên.
    Phái Tây-vu được thành lập vào thời Lĩnh-nam ( 39 sau Tây-lịch). Sự thực lúc đầu, 72 động vùng Tây-vu, Thiên-sớ của các bộ lạc ít người như Thái, Mán, Mường, Nùng, Tày, Mèo, đại hội, bầu Hồ Đề làm thống-lĩnh đặt tên chung 72 động là Tây-vu. Trong cuộc khởi binh của vua Trưng, đệ tử Tây-vu đóng một vai trò cực kỳ trọng yếu. Sau khi vua Trưng tuẫn quốc, họ còn kháng chiến, tự lập thành những tiểu quốc gia riêng biệt, không chịu thống thuộc chính quyền Hán. Trải qua nghìn năm Bắc thuộc, cho đến đầu đời Lý (1010) tổng cộng còn 207 tiểu quốc, sử gọi là Khê-động. Phái Tây-vu hiện do Thân Thừa-Qúi, phò mã của Thuận-thiên hoàng đế làm chưởng môn. Nhưng người làm vua Bắc-biên của 207 khê động là Lĩnh-nam bảo quốc, hòa dân công chúa, con gái thứ nhì của Thuận-thiên hoàng đế, tức vợ của Thân Thừa-Qúi. Tổng đàn của phái này đặt ở núi Hoàng-liên-sơn.
    Phái Mê-Linh, mới được thành lập vào thời vua Đinh Tiên-Hoàng. Nguyên sau khi vua Trưng tuẫn quốc, các tướng sĩ ẩn thân vào dân chúng tiếp tục luyện võ dạy đệ tử, đợi một mai khôi phục đất nước. Phải đợi cho đến thời vua Đinh, Hoa-Minh thần ni, mới viết thư mời tất cả các chi phái nguồn gốc từ thời vua Bà lại họp, lập ra phái Mê-linh. Họ bao gồm đệ tử phái Long-biên, Hoa-lư, Cửu-chân, Khúc-giang, Quế-lâm thời Lĩnh-Nam. Tôn chỉ của phái này thu gọn lại sáu chữ bảo quốc, trấn bắc, bình nam. Tổng đàn hiện đặt ở núi vua Bà hay Mê-linh. Chưởng môn là sư thái Tịnh-Tuệ.
    Phái Tiêu-sơn được thành lập từ khi Tỳ-ni Đa-lưu-chi sang Lĩnh-nam. Ngài dạy Thiền-công cho tổ sư Pháp-Hiền. Thiền công gốc ở cửa Phật. Còn ngoại công lại do một tục gia đệ tử tên Trần Tự-Viễn sáng chế ra. Phái Tiêu-sơn coi như được lập vào thế kỷ thứ sáu. Trải qua bao thế hệ, sản xuất nhiều cao tăng đắc đạo. Đến đời Bồ-tát La Quý-An, ngài mới chủ trương can thiệp vào việc đời, lập lại nước Việt. Cho nên lịch sử Việt dùng danh từ Thầy tăng mở nước để nói về các ngài. Tổ thứ mười hai là Vạn-Hạnh thiền sư, chủ trương đó mới thành công. Vua Lê Đại-Hành, đại đệ tử của ngài có chiến công đánh Tống, bảo vệ đất nước. Đệ tử khác của ngài là Lý Công-Uẩn lập ra triều Lý, tức Thuận-thiên hoàng đế. Tổng đàn của phái Tiêu-sơn đặt tại chùa Tiêu-sơn. Chưởng môn hiện là Minh-Không thiền sư. Ngài giữ nhiệm vu Quốc-sư tức thầy của nhà vua.
    Mới nhất, phái Đông-a. Tổ của phái Đông-a là Trần Tự-Viễn, nhân học Thiền-công nhà Phật của phái Tiêu-sơn, rồi chế ra ngoại công. Ông chính là tổ sư ngoại công của phái Tiêu-sơn. Ông rời chùa Tiêu-sơn về Thiên-trường lập ra phái mới. Trong chữ Hán, chữ Đông với chữ A hợp lại thành chữ Trần. Vì vậy phái này mang tên Đông-a. Chủ trương của phái Đông-a bao gồm Bảo vệ đất nước, duy trì công đạo, cứu khốn phò nguy. Chưởng môn hiện là Trần Tự-An.
    Trong sáu phái, có năm vị nổi tiếng Đại-Việt ngũ long là Minh-Không, Đặng Đại-Khê, Hồng-Sơn đại phu, sư thái Tịnh-Tuệ, và Trần Tự-An. Năm người như ông vua không ngai. Võ công, kiến thức cao không biết đâu mà lừơng. Võ lâm Hoa-Việt nghe đến tên vừa kính, vừa sợ. So về thực lực, phái Tiêu-sơn mạnh nhất rồi đến phái Đông-a. Khi chưởng môn phái Tiêu-Sơn phán một câu, không ai mà không cúi đầu tuân phục. Thứ đến phái Đông-a, có đến năm đại cao thủ ngang nhau. Họ rất đạo đức, song không ai dám đụng vào phái này. Chỉ cần gây oán với họ, thì coi như cuộc đời không bao giờ yên ổn.
    Hôm nay, Trần Tự-An đưa ra lời cấm đụng vào Long-thành Song-Phụng cùng Đào Hà-Thanh. Hai tên cướp nghe tên ông mà kinh tâm động phách.
    Tuy nghe Trần Tự-An đưa ra lời đe dọa bọn Hồng-hà, nhưng Đào Hà-Thanh cũng run lật bật. Nàng hỏi:
    - Trần đại hiệp. Không biết...không biết chúng định bắt... bắt tiểu nữ làm gì?
    Tự-An an ủi Đào Hà-Thanh:
    - Cô nương đừng sợ. Tuy chúng không nói ra, tôi cũng đã hiểu mục đích của chúng rồi. Cô nương không biết võ, chắc không thù oán gì với chúng. Tuổi cô nương còn trẻ, không giầu có ức vạn, chúng bắt cô nương chẳng phải vì của. Thế thì chúng bắt cô nương vì nhan sắc diễm lệ mà thôi. Cô nương cứ yên tâm, chúng không dám đụng đến cô nương đâu.
    Hà-Thanh theo bố mẹ sang thuyền của Chu Anh. Chu Anh thân rót nước, đem hoa quả mời khách, rồi ông nói:
    - Chúng tôi ngồi trên thuyền, trộm nghe giọng ca khi thì như sương mờ ban mai, khi thì như mây chiều trên đồi, khi thì lảnh lót như tiếng sáo diều. Lòng cứ tự hỏi, ai mà có giọng ca này. Thì ra giọng ca Bích-Lân của Long-thành.
    Ông quay lại giới thiệu với Trần Tự-An:
    - Trần huynh ở xa, lại không mấy chú ý đến ca hát, nên không biết danh Long-thành Song-Phụng cũng phải. Đệ xin vì huynh mà trình bầy.
    Khi vua Lý Thái-tổ thiên đô từ Hoa-lư ra Thăng-long, dân chúng bốn phương kéo về lập nghiệp, không đầy một năm, đế đô trở thành một thị tứ đông người. Tửu lầu, khách điếm mọc lên nhan nhản khắp trong cũng như ngoài thành. Vì vậy, bấy giờ viên tri phủ Long-thành chia kinh đô làm hai khu vực. Khu nội thành có năm phường. Khu ngoại thành có bốn phường. Tổng cộng chín phường. Thương nhân các phường thi nhau làm sao cho phường mình đẹp đẽ, để có thể thu hút người đến mua bán.
    Trong các tửu lầu, có bốn ngôi danh tiếng nhất. Ngôi thứ nhất ở cửa Bắc tên Lạc-viên lầu, quay ra bãi sông. Lạc-viên có hai tầng lầu, hình vuộng vức. Bốn phía đều có thang gỗ lớn đi lên.
    Ngôi thứ nhì ở giữa thành, tên Nguyệt-cung lầu, quay ra hồ Tây. Nguyệt-cung lầu có ba căn lầu, ngôi nào cũng có hai tầng. Ba ngôi cách nhau hai trượng. Từ ngôi mọ sang ngôi kia nối với nhau bằng một, hành lang bằng gỗ. Dân bấy giờ gọi Nguyệt-cung là Tam-nguyệt lầu.
    Ngôi thứ ba đặt ở ngoài thành, về phía bãi Ngọc-thụy. Tửu lầu là một con thuyền cực lớn, chia làm hai tầng, đặt tên Động-đình lầu. Lầu Động-đình thường đậu ở bãi Ngọc-thụy, đôi khi di chuyển dọc theo sông Hồng.
    Tửu lầu thứ tư mang tên Long-biên anh hùng quán xây trên bãi sông Hồng về phía Đông.
    Tất cả các tửu lâu đều dùng hết khả năng nấu nướng, cung phụng cho thực khách những miếng ngon vật lạ. Từ hơn mười năm về gần đây, các tửu lâu tìm cách mời những danh kỹ bậc nhất đến hát, để lôi kéo danh sĩ. Trong các danh kỹ, cặp vợ chồng Đào Phúc, Bích-Lân nổi tiếng bậc nhất.
    Đào Phúc xuất thân trong một gia đình ca nhạc. Vì vậy chàng được thụ lĩnh giòng máu văn nghệ, cùng nghệ thuật cha truyền con nối. Còn Bích-Lân, dáng người nhỏ nhắn, được sắc đẹp trời cho, thêm gịong ca thiên phú. Hai người gặp nhau trong những buổi hát trên tửu lầu, rồi họ nên đôi vợ chồng. Cặp tài tử đi hát ở cả bốn tửu lầu. Danh sĩ Thăng-long đặt cho họ tên Long-thành Song-Phụng hoặc ghép tên hai người thành Phúc-Lân.
    Danh tiếng hai người vang khắp nơi. Ngày hai người hát ở tửu lâu nào, thì tửu lâu ấy đông nghẹt khách.
    Cặp tài tử này có một điểm đặc biệt, họ không chịu đến các đại gia ca hát, dù người mời là vương tôn, đại thần, dù chủ nhân trả bao nhiêu tiền, họ cũng từ chối. Nhưng khi gặp tri kỷ, dù ở xa nghìn dặm họ cũng tìm đến. Điều dễ thương nhất, trong những ngày giỗ Quốc-tổ, ngày giỗ Thánh-gióng, ngày giỗ vua Trưng hay ngày giỗ các anh hùng dân tộc, không ngày nào thiếu mặt họ. Họ tự đặt lời, ngụ ý ca tụng công đức người xưa.
    Trần Tự-An hỏi:
    - Hai vị nổi danh đại tài tử đất đế đô, mà tôi không biết, thực đúng là tên nhà quê. Tôi muốn thỉnh hai vị ít điều, vừa rồi Bích-Lân hát một bài ca tụng vua Trưng, nhưng tôi không biết đó thuộc điệu hát gì?
    Bích-Lân hơi bẽn lẽn:
    - Điệu hát đó do chúng tôi cùng Hà-Thanh mới sáng chế ra.
    Đào Phúc tiếp lời vợ:
    - Tự cổ, đất Việt có nhiều điệu ca. Đến đời vua An-Dương còn tới tám. Nhưng kể từ sau vua Trưng tuẫn quốc, cho tới nay không còn nguyên thủy nữa, mà bị hòa lẫn với nhạc Trung-nguyên. Vì vậy chúng tôi mạo muội chế ra điệu ca mới.
    Tự-An mừng quá, ông hỏi:
    - Hai vị định đặt điệu ca này ra sao?
    - Chúng tôi chưa đặt tên. Song, danh sĩ Thăng-long nghe Bích-Lân, Hà-Thanh hát, họ tặng cho tên Hát ả Đào vì chúng tôi họ Đào. Trong một lần chúng tôi hát chầu Phù-Đổng Thiên-vương, được các vị cao nhân phái Sài-sơn đặt cho tên Ca-trù .

    Ghi chú,
    Đoạn này thuật hành trạng, nguồn gốc của tổ sư một điệu hát cổ Việt mang tên Ca-trù, Hát-nói, hay Hát Ả-đào. Ca-trù đến thời Nguyễn (1802-1945) trở thành cực thịnh. Nhờ Hát-nói, mà văn học Việt lưu lại nhiều áng văn chương tuyệt tác. Các thi nhân nổi tiếng của Hát Ả-Đào là Cao Bá-Quát, Nguyễn Công-Trứ, Dương Khuê, Chu Mạnh-Trinh, Tản Đà. Hiện nay (1995) Ca-trù được coi như một bộ môn nghệ thuật, được giảng dạy tại các trường âm nhạc trong nước. Những danh ca nổi tiếng là Hà Vy, Diệu Linh, Thúy-Hòa... Hồi thơ ấu, thuật giả được tiền nhân giảng dạy hết sức chu đáo về thú tiêu khiển này.

    Bích-Lân chỉ Hà-Thanh:
    - Hồi đầu tôi đặt lời, không có nguyên tắc nào cả. Sau Hà-Thanh sửa đổi dần, thành lề lối, nguyên tắc. Hiện các danh kỹ Thăng-long đều sáng tác theo nguyên tắc chúng tôi đặt ra.
    Bích-Lân chỉ vào cái đàn đáy trước mặt:
    - Khi hát, cần có nhạc công dùng đàn đáy đệm. Ca kỹ phải dùng cặp phách đánh nhịp. Trong lúc hát, cần có một danh sĩ ngồi bên cái trống nhỏ với dùi. Danh sĩ tùy theo giọng ca kỹ mà khen hay chê. Khi khen, đánh một tiếng trống, khi đến chỗ tuyệt hay đánh ba tiếng. Còn khi ca kỹ hát dở, đánh vào thành trống.
    Chu Anh gật đầu:
    - Hiện nay, người ta thường gọi tiếng trống là tom tiếng gõ vào thành trống là chát. Trong bốn đại tửu lầu đều có danh kỹ hát Ả Đào. Nhưng không ai hơn được Long-thành Song-Phụng cùng cô nương Hà-Thanh.
    Đào Phúc kính cẩn nói với Tự-An:
    - Hôm nay bèo mây gặp gỡ anh hùng. Chúng tôi xin hát lại khúc chầu vua Trưng hồi nãy, mong đại hiệp chỉ cho chỗ khiếm khuyết.
    Đào Phúc đưa trống và dùi cho Chu Anh cầm chầu. Chàng ôm cây đàn đáy dạo lên mấy tiếng. Hà-Thanh cầm cặp phách gõ vào nhau. Nàng ngâm Sa-mạc hai cầu đầu, tay gõ nhịp bằng phách. Tiếp theo các câu khác nàng cất cao giọng hát. Cho đến câu lục bát cuối, nàng lại ngâm Sa-mạc, sau đó buông thõng câu cuối cùng.
    Tự-An bị giọng ca êm đềm, nhẹ nhàng như gió thoảng của Hà-Thanh đưa vào giấc mộng huyền ảo. Mặt nàng vốn đẹp như người đi trong sương như có như không, thêm giọng hát hòa lẫn với đàn, tiếng phách, khiến ông như ngây như dại.
    Bài ca vừa dứt, Tự-An chưa kịp khen ngợi, nàng đã bắt sang bài khác, mở đầu bằng câu lục bát ngâm Sa-mạc:
    Cái tình là cái chi chi,
    Anh hùng, danh sĩ mấy khi thoát vòng.
    Khi hạ xuống câu bát, nàng liếc nghiêng, khóe mắt lướt trên người Tự-An, miệng nở nụ cười, rồi ngừng lại:
    - Trần đại hiệp, em chế ra lối hát này đấy. Ca-trù có đôi chút ảnh hưởng của người Hoa mà thôi. Một bài hát thông thường có ba khổ. Khổ đầu gồm ba câu, câu đầu là lá đầu, hai câu kế là xuyên thưa. Khổ giữa có bốn câu, hai câu đầu là hai câu thơ, có thể là ngũ ngôn, có thể là thất ngôn, cũng có thể thực dài. Miễn hai câu phải đối nhau. Hai câu kế là xuyên mau. Khổ cuối cùng là khổ xếp, gồm có ba câu. Câu đầu là dồn câu kế là xếp, câu cuối cùng là keo. Tổng cộng mười một câu.
    Trần Tự-An nghe nàng nói, gật đầu:
    - Từ cổ mình vốn có văn tự Khoa-đẩu, với một nền văn chương giầu có. Khi Mã Viện sang chiếm Lĩnh-nam, y cấm lưu truyền văn tự Khoa-đẩu, cấm học. Thành ra cho đến nay không còn tác phẩm nào cả. Hơn nghìn năm bị người Tàu cai trị, mình không còn gốc, đành lấy cái của người làm của mình. Cho nên hiện trong triều, ngoài dân dùng chữ Hán. Các thể thơ văn dùng Phú, Sở-từ, thơ Đường. Dần dà không còn gì của mình cả. Nay cô nương đưa ra thể Ca-trù, hoàn toàn do cảm hứng sáng tạo, thực hợp lý.
    Chu Anh hỏi:
    - Trong bài ca ban nãy, cô nương có ngâm theo điệu Sa-mạc một cặp lục bát ở đầu và một cặp ở cuối. Ý nghĩa như thế nào?
    Hà-Thanh nghiêng đầu bẽn lẽn:
    - Em chế thêm biệt lệ. Đúng ra một bài Ca-trù phải có đủ những câu trên. Nhưng cũng có ngọai lệ. Một bài có thể thêm một cặp lục bát ở đầu gọi là mưỡu đơn hoặc hai cặp lục bát gọi là mưỡu kép. Có mưỡu đầu, thì cũng có mưỡu cuối. Mưỡu cuối phải đặt lên trên câu keo. Mưỡu cuối cũng có thể là mưỡu đơn hay mưỡu kép. Khi hát, câu mưỡu ngâm theo giọng Sa-mạc.
    Hà-Thanh lại cất tiếng ca bài Mùa xuân Động-đình thuật lại truyện Quốc-tổ Lạc Long-Quân cùng Quốc-mẫu Âu-Cơ gặp nhau. Nàng vừa hạ xuống câu keo, thì phu đò vào nói với Chu Anh:
    - Thưa chủ nhân, có mười con thuyền, trên thắp đèn, đang hướng đến thuyền chúng ta.


    <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2005 10:21:36 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 07.01.2005 17:45:50 (permalink)
      Hồi thứ ba mươi tám


      Linh Khí Long Thành



      Chu Anh, Tự-An ra ngoài quan sát, thì thấy mười con thuyền chia làm hai hàng song song, như vây thuyền mình vào giữa. Hà-Thanh run run đứng nép vào vai Tự-An:
      - Chắc tụi Hồng-hà lại đến.
      Quả như nàng nói, trên các thuyền đều kéo lá cờ mầu xanh, ở giữa có ngọn lửa đỏ, bên cạnh thêu hàng chữ Hồng-hà bang.
      Tự-An quên cả tỵ hiềm nam nữ, ông quàng tay ôm lấy vai Hà-Thanh:
      - Thanh đừng sợ. Tôi quyết không để chúng đụng vào vạt áo, sợi tóc của Thanh đâu.
      Hai mươi con thuyền dàn ra hai bên đò nhỏ của Chu Anh, rồi một người đứng trên đầu thuyền nói vọng sang:
      - Bang chủ bang Hồng-hà được tin Trần đại hiệp giá lâm lãnh địa. Toàn bang lấy làm hãnh diện đón mừng đại hiệp.
      Y vẫy tay, lập tức phường Bát-âm trên hai con thuyền bang Hồng-hà đồng tấu nhạc. Bản chúng tấu là bản Động-đình ca của Trương Chi.
      Bản nhạc hết, hai con thuyền ghé sát thuyền Chu Anh. Trên mỗi con thuyền có hai thiếu nữ đội hai mâm lễ vật đậy bằng lồng bàn đỏ. Họ sang thuyền Chu Anh cùng với người lớn tuổi mặc áo hồng. Người lớn tuổi chắp tay vái Trần Tự-An:
      - Tại hạ Thái Quang hộ pháp của bang Hồng-hà, tuân lệnh bang chủ, kính dâng lễ vật lên Trần đại hiệp.
      Y mở lồng bàn ra. Mâm thứ nhất, có năm tấm lụa, năm tấm gấm và một hộp lớn, không rõ bên trong đựng gì. Mâm thứ nhì là một cây đàn tranh, một cây đàn đáy, một cái trống đồng, cùng hai cặp rượu.
      Y cúi đầu nói:
      - Vì không biết đại hiệp giá lâm, nên anh em trong bang vô lễ với Đào cô nương. Kể từ hôm nay, Long-thành Song-phụng cùng Đào cô nương đi đến đâu, bang chúng phải kính cẩn.
      Đại hiệp Trần Tự-An đã từng nhận lễ vật như thế này nhiều lần. Vì vậy ông thản nhiên tiếp lấy:
      - Tôi gửi Thái hộ pháp lời cảm ơn đến quý bang chủ. Mong rằng sẽ có ngày hội kiến với người.
      Thái Quang cúi đầu, để lễ vật lại, rồi cùng hai thiếu nữ về thuyền. Mười con thuyền vừa đánh trống, vừa chèo đi. Khúc sông lại trở về yên tĩnh.
      Trong những ngày đi hát, Đào Hà-Thanh biết về luật lệ võ lâm Đại-Việt. Nàng đã từng nghe nói về Trần Tự-An. Nhưng nàng không ngờ ông chỉ lên tiếng một lần với ba tên lâu la, mà bang chủ một bang cướp khét tiếng phải sai người tạ tội bằng một lễ vật lớn, nàng chưa từng thấy.
      Tự-An bưng cây đàn đáy trao cho Đào Phúc:
      - Đào tài tử, tôi xin tặng Long-thành Song-phụng cây đàn này, gọi là duyên may gặp gỡ.
      Đào Phúc đỡ cây đàn để lên đùi, chàng lên dây, bật mấy tiếng. Chàng chú ý, thấy mặt trống vẽ hình một chùm hoa trà, nét vẽ sống động, trông như hoa tươi. Thành trống làm bằng gỗ thông, sơn đen, khảm xà-cừ sự tích Trương Chi ngồi trên thuyền, tay cầm tiêu thổi. Xa xa là ngôi lầu đài, trên đó Mỵ-Nương đang ngồi lắng tai nghe. Chàng than:
      - Cây đàn này khá cổ, song không biết làm từ hồi nào. Bang Hồng-hà đem quý vật dâng Trần đại hiệp, hẳn có ý nghĩa chứ không đơn giản như vậy đâu.
      Tự-An bưng cây đàn tranh trao cho Hà-Thanh:
      - Cây đàn này xin tặng Đào cô nương. Mong cô nương không chê.
      Hà-Thanh để hai tay nâng cây đàn. Nhưng nàng không nhấc lên. Mắt nàng chiếu ra tia sáng long lanh, mỉm cười:
      - Đa tạ đại hiệp.
      Tự-An nâng cái trống đồng lên ngắm ngía một lúc, chợt mắt ông sáng ngời:
      - Bảo vật. Bảo vật đây rồi.
      Ông đưa trống ra, chỉ vào tang của nó:
      - Trống này đúc vào niên hiệu thứ nhất vua Trưng (39 sau Tây-lịch). Khi vua Trưng thành đại nghiệp, ngài sai Tây-vu Thiên-ưng lục tướng đúc trống đồng. Lục-tướng đúc sáu cái lớn cho sáu tướng chỉ huy sáu đạo quân theo một khổ giống nhau. Sau đó lại đúc năm cái theo một khổ nhỏ hơn dành cho đô-đốc thống lĩnh thủy quân, đại tướng thống lĩnh kị-binh, đại tướng thống lĩnh ngự lâm quân, đại tướng thống lĩnh nỏ thần và đại tướng tổng trấn khu hồ Động-đình. Ngoài ra còn đúc trống cho các vị vương. Cái trống này là của Cửu-chân vương Đô Dương.
      Ông chỉ vào mấy chữ khắc khắc ở tang trống:
      - Đây là hàng chữ Cửu-chân vương, trống lệnh.
      Chu Anh suýt xoa:
      - Bang Hồng-hà gớm thực, làm sao họ có báu vật này.
      - Họ cũng khôn ngoan đấy chứ. Họ biết tặng gì Trần huynh cũng không thích bằng cái trống này. Không biết bang chủ là người thế nào? Y tặng đàn cho huynh, kỳ thực nhờ huynh tặng Đào cô nương. Ngụ ý đó để tạ lỗi với cô nương đấy.
      Bích-Lân uốn cong lưng ong, chắp tay:
      - Tệ xá không xa nơi này làm bao. Chúng tôi mạo muội mời Trần đại hiệp cùng Chu tiên sinh ghé chơi, trước nghe hát, sau uống trà. Mong các vị đừng chối.
      Tự-An gật đầu:
      - Như vậy phiền nhị vị quá.
      Hai con thuyền xuôi dòng nước, đến bến Long-biên, họ lên bờ. Nơi ở của Long-thành Song-phụng không xa bờ sông. Ngôi nhà nhỏ, nhưng xin xắn. Trước nhà có dàn hoa Dạ-hương, gió thoảng đưa thơm ngát. Một lão bà mình hạc xương mai, răng đen nhánh mở cửa mời khách. Bích-Lân giới thiệu:
      - Đây là mẫu thân tôi.
      Rồi nàng thuật cho mẹ nghe những gì đã xẩy ra. Lão bà nghe xong mỉm cười:
      - Cách đây nửa giờ, có hai người tới, họ trao cho mẹ một bộ ấm tích, sáu chén pha trà với một bình trà sen. Họ bảo của Trần đại hiệp gửi tặng Đào cô nương. Thế thì...
      Tự-An nhìn Hà-Thanh cười:
      - Lại bang Hồng-hà rồi. Họ biết bà cụ thích uống trà ướp sen. Họ đem biếu bà cụ, để tạ tội với cô nương.
      Hà-Thanh liếc sóng mắt nhìn Tự-An:
      - Em thì họ có coi ra gì đâu? Họ biếu bà em, chẳng qua để nhờ em xin anh tha mạng cho họ. Anh chả từng đe giết hết bang chúng không từ con chó, con mèo đó ư?
      Lão bà cũng như Long-thành Song-phụng thấy Hà-Thanh gọi Tự-An bằng anh xưng em, mà vẫn im lặng, không một lời cấm cản. Lão bà pha trà mời khách.
      Tự-An cầm một tấm gấm, một tấm lụa trao cho lão bà:
      - Duyên ca nhạc, chúng tôi được quen với Long-thành Song-phụng cùng Đào cô nương. Gọi là chút quà làm lễ diện kiến với lão bà.
      Bà cụ không khách sáo, tay tiếp lụa, gấm, nói lời cảm ơn. Tự-An mở cái hộp nhỏ ra. Trong hộp có đôi vòng ngọc đỏ chói như mầu máu, một bông hoa đào, dính với hai lá và một quả. Hai quả với cành bằng vàng, còn lá thì bằng ngọc xanh mướt. Tự-An cầm lấy cài lên mái tóc Đào Hà-Thanh:
      - Bọn Hồng-hà coi vậy mà được đáo để. Chúng tặng tôi, chứ sự thực để biếu cô nương.
      Tự-An chợt nhớ ngày vợ ông qua đời trao cho ông chiếc vòng dặn rằng khi gặp người mà anh yêu thương, hãy đem vòng này tặng nàng. Tự nhiên hồn em biết anh định chọn người con gái ấy làm vợ kế. Em sẽ phù hộ cho hai người thành vợ chồng. Bây giờ gặp Đào Hà-Thanh, lòng ông rung động mãnh liệt. Ông cho tay vào ngực, móc ra cái hộp bọc nhung. Trong hộp đựng đôi vòng ngọc xanh biếc. Ông đeo vào tay Đào Hà-Thanh. Dặn:
      - Cô nương đeo vòng này, thì luôn luôn được một người rất thiêng phù hộ cô nương.
      Hà-Thanh cảm động:
      - Đa tạ Trần đại hiệp. Để em hát cho anh nghe mấy bản nữa nhé. Anh có thích bản nào không?
      Nếu hỏi về lịch sử cổ kim, hỏi về võ công, có lẽ thiên hạ không ai hơn Tự-An. Nhưng về âm nhạc thì ông mù tịt. Ông lắc đầu:
      - Tùy Hà-Thanh. Hà-Thanh hát bản nào cũng được.
      Hà-Thanh dạo đàn tranh, trong khi Bích-Lân cầm phách, Đào Phúc bưng trống bật lên. Nàng cất tiếng ngâm theo điệu Sa-mạc:

      Thân em như tấm lụa đào,
      Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
      Ngồi cành trúc, dựa cành mai.
      Phận em liễu yếu biết ai thương cùng.
      Người kiếm khách qua chơi cùng khách,
      Trên con thuyền, với bạn tri âm.
      Gió trên sông, trăng sáng đêm rằm,
      Vừa uống rượu vừa luận bàn kim cổ.
      Thanh phong tiếu ngạo, anh hùng lộ,
      Hồng thủy bi ai, mạt nữ thanh.
      Một tiếng quát, một vung tay, đạo tặc khiếp kinh,
      Phận nội cỏ hoa hèn được dựa bóng.
      Vạn dặm gian nan, xin chàng bảo trọng,
      Căn nhà tranh thiếp dựa bóng trông chờ.
      Lòng này ngày nhớ đêm mơ.
      Đại bàng tung cánh, phận thơ khóc thầm.
      Bao giờ gặp lại tri âm?


      Hết khúc hát, Đào Hà-Thanh tuôn hai giòng nước mắt. Tự-An nhìn lại thì Chu Anh, Long-thành Song-phụng cùng bà ngoại Hà-Thanh đã biến đi đâu. Đưới ánh đèn chỉ còn hai người. Thình lình Hà-Thanh gục đầu vào vai Tự-An:
      - Ngày mai anh lên đường. Biết bao giờ trở lại. Anh ơi, gian nan vạn dậm, anh đừng bao giờ quên đêm nay nghe.
      Tự-An dù có là thánh nhân, quân tử cũng không cầm lòng được. Ông ôm lấy Hà-Thanh. Trong khoảng rung động mãnh liệt, ông ghì sát người nàng vào ngực ông. Cứ như vậy, hai người lặng đi trong không biết bao nhiêu lâu. Tự-An vỗ lưng nàng:
      - Em là đệ nhất danh kỹ đế đô. Còn anh chỉ là tên võ phu thôn dã. Anh không thể đem lại những gì em ước mơ được.
      Đào Hà-Thanh nghiêng má đào, nhìn vào mặt Tự-An:
      - Anh cũng dư biết rằng làm gái, luôn ước ao có tấm chồng cho xứng đáng. Người chồng xứng đáng trong cổ kim Đại-Việt mình không giống người quân tử của Khổng-Mạnh. Cụ Khổng bắt phải tam cương rồi ngũ thường. Còn tự cổ, đấng nam nhi Đại-Việt phải là người có đạo đức, chí khí, tài năng. Còn ngoại giả, xấu, đẹp, già, trẻ không quan hệ.
      Tự-An thấy kiến thức Hà-Thanh rất rộng, mỗi lời nói của nàng, ông đều thấy hợp với mình. Ông ôm chặt Hà-Thanh hơn. Hơi thở của nàng thơm thơm. Không cầm lòng được, ông đặt lên môi nàng cái hôn. Hà-Thanh rung động mãnh liệt. Nàng như ngất đi trong tay ông.
      Có tiếng chân người đi. ông vội buông nàng ra. Đào Phúc trở lại với Chu Anh. Trời về khuya, Tự-An nói với Đào Phúc:
      - Tôi đồ chừng bọn Hồng-hà không dám làm khó dễ các vị nữa đâu. Mai tôi có việc đi xa, lúc trở về, sẽ ghé thăm các vị.
      Long-thành Song-phụng tiễn đưa Tự-An, Chu Anh ra bến sông. Thình lình Đào Hà-Thanh cầm lấy tay Tự-An, nàng nắm thực mạnh, rồi bỏ chạy vào nhà.
      Sau đêm đó, Tự-An lên đường đi Mê-linh. Suốt dọc đường, ông suy nghĩ:
      - Thực khó mà hiểu những cử chỉ ôn nhu của Đào Hà-Thanh. Mình đang góa vợ, nếu muốn tục huyền thì cần người ở thôn dã, may mới có thể giúp mình một tay trong việc tề gia nội trợ. Đào Hà-Thanh là ca kỹ. Nàng với mình chẳng qua chỉ là hoa trong gương mà thôi. Khó có thể bắt nàng khép mình trong song cửa làm phu nhân được.
      Thế nhưng trong suốt cuộc hành trình, hình ảnh Đào Hà-Thanh trang nhã, nhu mì luôn hiện lên trong tâm trí ông. Lúc trở về Thăng-long, việc đầu tiên ông tìm đến ngôi nhà bên sông thăm nàng. Khi ông vào, thì Long-thành Song-phụng đi vắng, chỉ có bà ngoại nàng ở nhà. Bà vừa trông thấy ông đã òa lên khóc, khóc thảm thiết, khóc không ngừng.
      Ông kinh ngạc hỏi:
      - Trong nhà có sự gì không hay xẩy ra rồi ư?
      Bà lão vẫn khóc, trả lời ông bằng cái gật đầu. Ông hỏi tiếp:
      - Bọn Hồng-hà đến gây truyện với Đào cô nương phải không?
      Bà lão tiếp tục khóc. Bà nghiến răng rùng mình:
      - Ông ơi, không phải bọn Hồng-hà. Khi ông đi rồi, bọn Hồng-hà vẫn thường cho người tới thăm gia đình chúng tôi. Nay họ biếu gà, mai họ biếu cá. Còn vợ chồng Phúc cùng con Hà-Thanh bỗng nhiên được các chủ tửu lầu trọng đãi cực kỳ. Họ trả lương gấp bốn lần. Trước đây, mỗi khi đi hát, Bích-Lân cùng Hà-Thanh thường hay bị thực khách trêu chọc. Chả hiểu bang Hồng-hà đã làm gì, mà tuyệt nhiên không ai giám trêu ghẹo nữa. Họ đồn rằng con Hà-Thanh sắp làm phu nhân Côi-sơn đại hiệp. Ai ai cũng kính trọng nó. Mà... mà ... nó tương tư đại hiệp ngày đêm. Chúng tôi những tưởng thôi thì nó có nhan sắc, lại có chút ít hoa tay. Đợi đại hiệp về qua, sẽ cho đại hiệp. Lấy chồng như vậy mới xứng tấm chồng. Nào ngờ...
      Bà lão lại khóc thảm thiết hơn:
      - Mấy hôm trước đây có chiếu chỉ vua ban ra tuyển mỹ nữ vào Hoàng-cung. Tổng số một trăm người, trong một trăm người sẽ tuyển lấy mười người nhan sắc, hoa tay, làm tỳ thiếp cho các vị thái tử. Thăng-long nộp mười mỹ mữ. Tên con Thanh đứng đầu sổ. Nó kêu gào, khóc lóc thảm thiết. Trong khi chín cô khác thì sung sướng vô cùng. Vì đang là con nhà dân, bỗng nhiên thành thiếp của các hoàng tử.
      Bà vào nhà, lấy ra một gói bọc lụa đưa cho Tự-An:
      - Trước khi nhập cung, nó khóc suốt đêm, rồi trao cho tôi gói này, dặn rằng thế nào đại hiệp cũng tìm nó. Khi đại hiệp đến thì đưa cho đại hiệp.
      Tự-An cầm gói lụa trong tay, mà lòng cay đắng. Phút chốc ông nổi dậy mối phẫn uất:
      - Mình có nên nhập cung cướp Đào cô nương ra không? Võ công mình cao, dễ gì vệ sĩ Hoàng-cung địch nổi?
      Ông từ biệt bà lão ra về, lòng như chết đi một nửa. Ông mở gói ra, bên trong chỉ vỏn vẹn có cái khăn, bộ quần áo nàng mặc, hôm gặp ông lần đầu. Ngoài ra không có gì khác. Ông đưa bộ quần áo lên mặt, hít lấy hơi của nàng, tự than:
      - Nàng được tuyển vào cung, thì với nhan sắc ấy, với tài đàn hát, chắc chắn sẽ được một trong các hoàng tử tuyển làm phi tần. Các hoàng tử đều còn trẻ, cuộc đời nàng mấy chốc thành vương phi? Như vậy rồi ngày một ngày hai nàng cũng sẽ quên mình. Bây giờ mình đột nhập vào cung cứu nàng, chưa chắc đã thành công. Mà dù có thành công, cũng mang tiếng cướp vợ người, võ đạo Lĩnh-Nam không thể tha thứ cho mình. Lại nữa, triều đình ắt cử binh về tàn phá Thiên-trường. Thôi đành chịu vậy.
      Thế rồi ông ôm mối hận, mang bộ quần áo của Đào Hà-Thanh về Thiên-trường. Thời gian thấm thoắt đã hơn năm rồi, không ngờ, thình lình nàng lại xuất hiện.
      Từ Thiên-trường tứ kiệt cho tới Thanh-Mai, Bảo-Hòa, Thiệu-Thái, không ai hiểu gì cả. Tự-An đoán rằng Đào Hà-Thanh từ trong cung trốn về đây. Mà tại đây, Mỹ-Linh hiện diện là công chúa. Nàng có kính trọng ông đến đâu cũng không thể bỏ qua việc một tỳ thiếp của cha nàng, hoặc chú nàng trốn đi. Vì vậy ông vẫy tay nói với các sư đệ:
      - Các sư đệ với Thanh-Mai tiếp khách. Sư huynh có truyện riêng.
      Ông dìu Đào Hà-Thanh trở về Thủy-các.
      Nàng kể:
      - Khi quan phủ Long-thành đưa em với chín con gái khác nhập cung. Chúng em được Hoàng-cung tổng quản tuyển chọn một lần. Sau lần đó đến quan Hoàng-môn chỉ hậu tuyển chọn, khám xét một lần nữa, cùng chín toán khác.
      Nói đến đây mặt nàng đỏ lên, đầy bẽn lẽn. Tự-An gặng hỏi:
      - Họ khám bệnh ư?
      - Không. Nói ra xấu hổ chết đi được. Hai ông quan này làm thái giám. Ông Hoàng-cung tổng quản khám trước. Đầu tiên ông ta xem tóc, xem mắt, xem da, xem bàn chân bàn tay. Ông ta khen tóc em là tóc mây, ít có trên đời. Mắt em là mắt phụng, da mịn như sữa, bàn chân bàn tay thon nhỏ, xứng đáng làm mẫu nghi thiên hạ. Ông ta còn ngửi tóc, ngửi chân, ngửi nách. Sau khi khám đợt đầu thì tám mươi đứa bị loại. Chúng nó được chia cho các bà hoàng hậu, phi tần làm cung nữ. Vì chúng tuy đẹp, nhưng đứa thì bị loại vì nách, vì chân có mùi hôi. Có đứa bị loại vì răng. Cùng có đứa bị loại vì dáng đi thô kệch, vì tiếng nói thiếu thanh tao.
      Nàng ngừng lại thở, rồi tiếp:
      - Em cùng hai mươi đứa được tuyển trúng cách. Chúng em bị quan Hoàng-môn chỉ hậu khám lần nữa. Sau cùng, được ba bà hoàng hậu tuyển nhan sắc. Em cùng ba đứa nữa được coi là đủ mọi điều kiện. Khi tuyển về ca hát, thì một quan Hoàng-cung chỉ em nói: Cô nương đây là một ca kỹ bậc nhất Long-thành, không ai sánh kịp. Đức vua cùng Hoàng hậu quyết định chọn em gả cho Khai-quốc vương.
      Nghe đến Khai-quốc vương, mặt Tự-An cau lại. Nhưng Hà-Thanh không chú ý đến thái độ của ông.
      Đức vua nói với hoàng hậu:
      - Bồ nhi tuổi gần ba mươi, mà chưa một mỹ nữ nào được lọt vào làm tỳ thiếp, chứ đừng nói làm vương phi. Ta hy vọng giai nhân này sẽ được Bồ nhi thu dụng. Đợi ít lâu sau, ta sẽ phong làm Khai-quốc vương phi.
      Dù sao Thanh-Mai cũng là một thiếu nữ, khi đã là thiếu nữ thì thích tò mò vào chuyện yêu đương của người khác, huống hồ đây là bố mình. Thấy tỳ nữ bưng nước vào Thủy-các, nàng bảo nó :
      - Để chị mang dùm em.
      Rồi nàng rón rén vào Thủy-các, giữa lúc Tự-An vuốt vai Hà-Thanh:
      - Khai-quốc vương là đấng anh hùng đời nay, lại nhã lượng cao trí, một mai ắt sẽ nối ngôi vua. Em được làm vương phi của người, hẳn sau này làm hoàng hậu, mẫu nghi thiên hạ. Em có mừng không?
      Hà-Thanh dựa đầu vào vai ông, liếc mắt mỉm cười. Cái liếc mắt của một ca kỹ bậc nhất đế đô làm Tự-An sao xuyến đã đành. Đến Thanh-Mai mà cũng muốn say say. Thanh-Mai nghĩ thầm:
      - Nàng này ngang tuổi với mình. Thử xem nàng đối đáp ra sao. Nàng bảo mừng chứ thì hóa ra nàng chẳng có tình nghiã gì với bố, chỉ lóa mắt vì ngôi vương phi. Còn nàng bảo không, thì thực là giả dối, khó mà qua được mắt bố mình.
      Hà-Thanh nói sẽ:
      - Em không có quyền mừng hay không mừng. Định mệnh đưa đẩy đến đâu hay đến đó. Một đứa khác gả cho Khai-Thiên vương, một đứa cho Vũ-đức vương. Hai đứa kia mừng lắm, vì phút chốc trở thành vương phi. Còn em thì lòng nguội lạnh, vì em chỉ biết có anh. Trong khi ai cũng bảo em có phúc.
      Tự-An nghe nói càng nóng lòng:
      - Thế rồi các ngài làm lễ cưới cho em với Khai-quốc vương?
      Đào Hà-Thanh lắc đầu:
      - Không. Luật lệ nội cung nhà Lý như sau: Mỗi khi đức vua tuyển mỹ nữ, thì những người đủ điều kiện, đều phải đưa đến Thái-miếu làm lễ tế, coi như được thu dụng làm tỳ thiếp trong Hoàng-cung hoặc trong các phủ thân vương. Đức vua giữ một vài người lại cho ngài. Còn lại, phân phát cho các thái tử. Bọn em cũng thế, sau khi lễ Thái-miếu, coi như là dâu con nhà vua. Đúng ra Khai-quốc vương đem kiệu rước em về. Nhưng vì người đi vắng, vì vậy hoàng hậu sai đưa em về phủ của vương. Trong các vương phủ khác, ông nào cũng có chính phi, năm sáu bà thứ phi và hàng chục mỹ nữ. Ấy là không kể tỳ nữ hàng trăm. Phủ Khai-quốc chỉ có tỳ nữ. Họ đều thuộc lứa tuổi già trên năm mươi. Người trẻ nhất bốn mươi bẩy tuổi, chính là vú Hậu, người đã nuôi vương hồi xưa. Vú được coi là người có địa vị lớn sau vương. Vương gọi vú bằng u gìa.
      Đào Hà-Thanh nhìn Thanh-Mai như định hỏi gì, rồi lại thôi. Nàng tiếp:
      - Vú tiếp đón em, gọi em là vương phi. Theo vú kể, em khó lòng được vương thu nhận. Vì trước em, có hàng trăm giai nhân do vua ban cho, vương chối từ đem trả. Chỉ năm trước, một tuyệt sắc giai nhân được tuyển cho vương. Vương ưng ý lắm. Nhưng đang khi động phòng hoa chúc, nghe giai nhân kể, nàng đã có một người yêu thương nàng hết tâm hết dạ. Nàng cũng cảm tình với người đó. Giữa lúc ấy thì nàng bị tiến cung. Vương nghe vậy ngồi dậy sửa sang y phục vái nàng tạ lỗi... rồi cho nàng về với người yêu.
      Cả Tự-An lẫn Thanh-Mai đều bật lên tiếng kinh ngạc. Tự-An nghĩ:
      - Mình nghe Khai-quốc vương là đấng anh hùng. Nhưng mình vẫn tự hào rộng lượng hơn y. Nay suy truyện này ra, mình muôn ngàn lần không bằng y.
      Đào Hà-Thanh kể:
      - Khai-quốc vương công du Thanh-hóa, rồi hết việc này, tới việc kia, không về phủ. Mãi hơn tháng trước người về tới. Nghe vú nói đến em, người mừng lắm. Người sai làm tiệc đãi em. Trong tiệc người cho biết, người đã từng nghe em hát, đã từng say bóng dáng em. Nhưng trong chuyến công du Thanh-hóa, vương gặp một nữ hiệp, tài trí vô song. Vương cùng nàng ước hẹn trăm năm. Kỳ này vương sẽ tâu với đức vua phong nàng làm vương phi. Vương nói rằng, tài sắc em khó kiếm. Song vương không thể sủng ái ai, ngoài vị nữ hiệp kia. Nhân dịp này, em cũng thố lộ về truyện anh với em.
      - Thế em có nói rõ anh là ai cho vương nghe không?
      - Không! Em không nói rõ anh là ai. Vương trầm tư một lúc rồi nói: Nếu ta cho nàng vế với tình quân thì phạm tội lớn với phụ hoàng, vì nàng đã làm lễ ở Thái-miếu, coi như con dâu trong nhà, không thể cho về dân dã. Nhưng thôi, thà ta bị tội, chứ không muốn để nàng với tình quân đau khổ. Sau đó vương cho em vàng lụa, rồi sai người đưa em về nhà. Bố mẹ em nhờ bang Hồng-hà hộ tống em về đây.
      Tự-An ngẩn người ra suy nghĩ. Tình cảm che mất linh mẫn, ông không biết giải quyết sao. Ông hỏi ý kiến Thanh-Mai. Thanh-Mai im lặng suy nghĩ:
      - Tại sao lại có sự trùng hợp kỳ lạ như vậy? Phu nhân Hồng-sơn đại phu cũng như mẫu thân ta đều qua đời vì Nhật-Hồ độc chưởng. Rồi hai người cưới vợ xấu, đanh ác. Cuối cùng cả hai cùng bị đuổi về. Hồng-Sơn đại phu gặp lại người yêu là Huệ-Phương. Bố ta gặp lại Hà-Thanh, cả hai cùng bị tiến cung. Huệ-Phương trốn đi tìm người. Hà-Thanh được chàng cho về. Cuộc gặp gỡ giữa Huệ-Phương với Hồng-Sơn đại phu thì còn bình thường. Cuộc gặp gỡ giữa bố ta với Hà-Thanh dường như có sự xếp đặt. Nhưng thôi, nếu là sự xếp đặt của triều đình, thì chẳng qua họ muốn lấy lòng bố ta mà thôi. Ta cũng chẳng nên nói ra làm gì.
      Nàng nói với bố:
      - Con mừng cho bố đã gặp được người như trong ước mơ. Bố nên làm lễ cưới Đào cô nương càng sớm càng tốt. Tuy vậy, bố để cho Mỹ-Linh, Bảo-Hòa đi, rồi hãy cưới thì hơn.
      Tự-An gât đầu nghe lời con gái. Ông sai con, với sư đệ trẩy Thăng-long.
      Thanh-Mai cho chuẩn bị một con thuyền lớn, để về Thăng-long. Sau đó từ Thăng-long sẽ đi Mê-linh bằng đường bộ. Trong đoàn tùy tùng, kể về quyền thế thì Mỹ-Linh lớn nhất. Kể về vai vế trong võ lâm thì Phạm Hào lớn hơn cả.
      Thuyền nhổ neo, kéo buồm, theo sông Vị-hoàng, sang sông Hồng, rồi ngược giòng về Thăng-long. Mỹ-Linh sống ở Thăng-long từ nhỏ, nàng không lấy gì làm nôn nao cho lắm. Thiệu-Thái, Bảo-Hòa đã từng về Thăng-long thăm ông ngoại, nên thành quen. Chỉ riêng chị em Thanh-Mai, Tự-Mai, Tôn Đản, lần đầu tiên được về đế-đô, lòng nao nao lên những niềm vui khó tả.
      Nước sông Hồng đỏ tươi như mầu máu, chảy xiết về miền xuôi. Trên sông củi mục, cây khô trôi lềnh bềnh. Dân chúng hai bên sông dùng đò nhỏ ra vớt củi đem về phơi khô bán, làm kế sinh nhai. Họ thấy con thuyền đinh lớn, kéo buồm, còn thêm hàng chục tráng đinh chèo, thì ngơ ngác nhìn.
      Thanh-Mai cùng Mỹ-Linh, Bảo-Hòa đứng trên mặt sàn thuyền xem cảnh. Chợt Bảo-Hòa chỉ lên nền trời. Thanh-Mai ngước mắt nhìn: Giữa đám mây trắng trôi, hai con chim ưng dang bay lượn trên thuyền. Nàng nhủ thầm:
      - Chắc chàng đã tỏ hết những gì xẩy ra ở trang Thiên-trường. Việc ta đi thế này, hẳn chàng cũng biết, cho nên mới sai chim ưng theo dõi.
      Mỹ-Linh sinh trưởng ở Thăng-long. Hồi còn sinh tiền, thân mẫu nàng là một kiếm khách phái Mê-linh, bà hay thăm chùa này, viếng di tích đền nọ. Đi đâu bà cũng mang nàng theo. Vì vậy cảnh trí quanh Thăng-long trong vòng một trăm dặm, nàng thuộc làu hết. Khi thuyền còn cách Thăng-long hơn tám mươi dặm, nàng đã nhận ra cảnh trí rồi. Nàng chỉ chòm cây này, hương thôn nọ giảng giải từng chi tiết một. Đến nỗi bác học như Phạm Hào, Trần Kiệt mà cũng phải chịu rằng cô công chúa này kiến thức không tầm thường.
      Bảo-Hòa là người rất tinh tế. Nàng thấy từ lúc rời Thiên-trường lên đường đi Thăng-long đến giờ gần như Tự-Mai với Tôn Đản ngồi im lìm không nói gì. Hai người ngồi bên cái tráp, cầm bút viết viết vẽ vẽ bàn luận về võ công hoặc đùa với Thường-Kiệt. Nàng kinh ngạc không ít, vì thường ngày hai cậu em này thường tía lia luôn miệng nói truyện với Mỹ-Linh, Thanh-Mai. Thế mà hôm nay hai người ngồi riêng, lại ít tiếng.
      Bảo-Hòa đến bên Tự-Mai hỏi:
      - Sư đệ. Em có truyện gì buồn không? Tại sao mặt lại buồn như con mèo ngái ngủ thế kia?
      Tự-Mai nghe Bảo-Hòa ví mình với con mèo ngái ngủ thì bật cười:
      - Thế sao hôm nay chị lại tươi như con nai cười thế này?
      Tuy Tự-Mai tươi cười, đùa với Bảo-Hòa, nhưng nàng vẫn thấy có vẻ gượng gạo. Nàng tự nhủ:
      - Phải tìm ra lý do nào cậu em này lại có thái độ như vậy?
      Bảo-Hòa tìm không ra nguyên do củng phải. Trước đây Tự-Mai, Tôn Đản chỉ là hai cậu thiếu niên bình thường. Nhưng trong thời gian ở động đá, chúng luyện Thiền-công. Chính Thiền-công làm cho tâm tư con người trầm lắng lại, vì vậy tình tinh nghịch mất đi rất nhiều.
      Nàng cầm tay Tự-Mai, Tôn Đản nói:
      - Hai em lên sàn thuyền ngắm cảnh với chị Thanh-Mai, Mỹ-Linh đi chứ? Định ngồi Thiền sao đây?
      Lên sàn thuyền, Tự-Mai hỏi Mỹ-Linh:
      - Chị Mỹ-Linh này, chị có thuộc hết mọi nơi trong thành Thăng-long không? Đến nơi em muốn đi thăm đền thờ các vị anh hùng thời Lĩnh-nam đã tuẫn quốc. Trước em chỉ nghe nói, mà chưa có dịp đến chiêm ngưỡng.
      Mỹ-Linh tính đốt ngón tay:
      - Về thời Lĩnh-nam, Thăng-long có tên là Long-biên, nơi Bắc-bình vương Đào Kỳ đóng quân. Còn kinh đô lại ở Mê-Linh. Thời Hán thuộc, lỵ sở của thái thú Tô Định đóng tại Luy-lâu, còn đô-úy Lê Đạo-Sinh cũng đồn trú tại Long-biên. Vì vậy thành Thăng-long là nơi diễn ra biết bao trận đánh lịch sử. Hiện còn nhiều đền thờ các vị anh hùng Lĩnh-nam. Chị kể sơ cho em nghe.
      Nói rồi nàng đưa tay ra tính. Bàn tay Mỹ-Linh vốn trắng hồng, da mịn. Các ngón dài như búp măng. Gần đây nàng luyện nội công phái Long-biên, nên bàn tay càng tươi đẹp như cánh hoa sen. Nàng kể:
      - Đầu tiên đền thờ vua Trưng cùng các đại công thần ở bờ sông Hồng gần bến Tiềm-long, rồi phải kể đến đền thờ các vị họ Đào là Hiển-Hiệu, Quý-Minh, Phương-Dung ở Thổ-quan. Đền thờ Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương, Quách Lãng ở Đông-ba. Đền thờ Nguyễn Tam-Trinh ở Mai-động. Đền thờ công chúa Tử-Vân ở Vĩnh-hưng...Nhiều lắm, kể không sao hết được.
      Tôn Đản hỏi:
      - Nước Việt mình từ hồi lập quốc đến giờ trải qua biết bao đời. Không biết những triều đại trước đóng đô ở đâu?
      Mỹ-Linh đáp:
      - Vua Hùng đóng đô ở Phong-châu. Đến đời vua An-Dương đóng đô ở Cổ-loa, sát Thăng-long ngày nay. Vua Trưng đóng đô ở Mê-linh. Thời tiền Lý, vua Lý Nam-Đế đóng đô ở Ô-diên, cũng gần Thăng-long. Đến thời vua Ngô Quyền, lại đóng đô ở Cổ-loa. Trải tới vua Đinh, ngài đóng đô ở Hoa-lư tức Trường-yên bây giờ. Qua đời Lê, vẫn giữ kinh đô Hoa-lư. Kịp đến khi ông nội chị lên ngôi vua
      mới dời đô ra thành Đại-la.
      Tôn Đản reo lên:
      - Việc này em có nghe bố kể. Khi mới lên ngôi vua, Thuận-Thiên hòang đế thấy đất Hoa-lư chật hẹp, lại ở vào khu đất nghèo, không xứng đáng là nơi đế vương ngự trị. Ngài mới hỏi sư phụ là Vạn-Hành xem nên dời đô đến chỗ nào có nhiều linh khí. Thiền-sư Vạn-Hạnh vân du khắp đất nước, ngài thấy thành Đại-la có thế đất chín rồng chầu vào, khí thiêng sông núi tụ lại. Ngài lại xem thiên văn, thấy trên Thiên-hà, đế khí, phú khí, linh khí chiếu cả xuống nơi đây. Ngài mới khuyên vua dời đô ra. Khi thuyền gần tới nơi, thì thấy một con rồng bay lên, lượn trên không. Vì vậy mới đổi tên là Thăng-long.
      Thanh-Mai hỏi Mỹ-Linh:
      - Thiền sư Vạn-Hạnh nói Thăng-long có chín con rồng chầu vào. Thế liệu những con rồng đó có ở yên, hay theo thời gian sẽ di chuyển đi nơi khác?
      Mỹ-Linh đáp:
      - Khi ông nội hỏi câu đó, Vạn-Hạnh tổ sư nói Đất linh, do khí thiêng sông núi, do thần linh kết thành. Vì vậy trải qua nhiều đời, thì khí thiêng cũng không đổi. Theo đạo Phật, dù tiên, dù thần, cũng có ngày nhập diệt. Do vậy khí thiêng cũng biến theo. Vạn-Hạnh tổ sư còn nói, Khí thiêng Long-thành chỉ được có nghìn năm mà thôi. Sau này, khó mà biết được.
      Thiệu-Thái hỏi:
      - Anh nghe nói thành Thăng-long trước đây do Cao Biền đắp, có đúng không?
      Câu hỏi của Thiệu-Thái làm mọi người cười ồ lên. Thiệu-Thái không hiểu tại sao mọi người lại cười mình. Chàng ngơ ngác:
      - Suốt bao năm qua, người Trung-quốc đều kể rằng thành Thăng-long do Cao Biền đắp từ hồi nhà Đường.
      Mọi người lại cười nữa. Tôn Đản nói:
      - Anh Thái à. Anh là người bộc trực, tâm tính hiền hậu dễ tin người thành ra mới bị người ta đánh lừa.
      Thiệu-Thái càng ngơ ngác. Mỹ-Linh thương hại người yêu, nàng vỗ nhẹ tay lên vai chàng:
      - Không phải vậy đâu. Người Hoa thường khoa trương công đức của các quan người Hán sang cai trị đất Việt. Họ phao vu rằng thành Thăng-long do Cao Biền đắp. Sự thực vào đời Đường, Cao Biền sang làm An-nam đô hộ sứ, y có đắp thành Đại-la, nhưng nhỏ xíu. Khi ông nội lên ngôi vua, sai phá cái thành nhỏ ấy đi, xây thành mới năm cửa ngày nay. Công trình xây dựng trải mấy năm mới xong. Thành có hai lớp. Lớp trong gọi là Hoàng-thành, lớp ngòai gọi là Kinh-thành. Hoàng-thành nằm trong lòng Kinh-thành.
      Trần Kiệt gật đầu:
      - Đó là kiến trúc cổ của người Việt. Thành Phong-châu thời vua Hùng cũng như thành Mê-linh thời vua Trưng đều xây dựng theo mô thức đó. Trong Hoàng-thành, khu Cấm-thành có tường cao, là nơi hoàng đế cùng hoàng hậu, phi tần, thái tử, công chúa ở. Còn Hoàng-thành có nhiều cung điện. Vua cùng tể tướng, quần thần làm việc. Kinh-thành là nơi dân chúng ở. Đại để là thế. Tôi không biết thực sự có những cung nào, điện nào đã được xây và xây từ bao giờ. Công chúa! Công chúa có biết không?
      Mỹ-Linh kính cẩn đáp:
      - Thưa đại hiệp, tiểu nữ xin trình đại hiệp rõ. Thăng-long chỉ có Hoàng-thành, mà không có Cấm-thành. Trong Hoàng-thành xây rất nhiều cung điện. Tuy so với cung điện thời vua Hùng vua An-Dương không đi đến đâu, nhưng cũng không kém phần tráng lệ. Tại trung ương, lớn nhất là điện Càn-nguyên, cao bốn tầng, có chín nóc chồng lên nhau. Ngói đều mầu xanh. Tường bằng những tảng đá lớn. Kèo cột, cầu thang, gác đều bằng gỗ lim, gỗ trắc hay gỗ gụ.
      Thanh-Mai hỏi:
      - Bốn tầng đó dùng để làm gì?
      - Tầng trên cùng là nơi thờ quốc tổ, quốc mẫu.
      Tôn Đản vốn ít học, nó hỏi Bảo-Hòa:
      - Có phải quốc tổ là Lạc-Long quân, quốc mẫu là Âu-Cơ không?
      Bảo-Hòa mỉm cười:
      - Đúng mà sai.
      Tôn Đản xịu mặt xuống:
      - Sao vậy?
      Bảo-Hòa giảng giải:
      - Từ thời cổ người Việt mình thờ quốc tổ gồm: Phục-Hy, Thần-Nông, Hùng-vương, An-Dương vương. Còn người Hoa thờ Phục-Hy, Thần-Nông, Hoàng-đế làm quốc tổ. Em còn nhớ sử mình ghi không: Vua Đế-Minh là cháu ba đời vua Thần-nông đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ-lĩnh kết hôn với một nàng tiên đẻ ra thái tử Lộc-Tục. Ngài lập đàn tế cáo trời đất, phong cho con trưởng là vua Đế-Lai làm vua phương bắc tức Trung-nguyên. Phong cho con thứ làm vua phương nam tức vua Kinh-Dương. Vua Kinh-Dương kết hôn với con gái vua Động-Đình đẻ ra thái tử Sùng-Lãm. Sùng-Lãm làm vua tức Lạc-Long quân. Lạc-Long quân lấy bà Âu-Cơ là con vua Đế-Lai đẻ ra một trăm con.
      Tôn Đản hiểu ra:
      - Vậy mình với Trung-nguyên cùng ông tổ Phục-Hy, Thần-Nông. Còn từ sau thì phân ra Nam, Bắc.
      Trần Kiệt lại hỏi Mỹ-Linh:
      - Tầng trên cùng thờ quốc tổ. Tầng thứ nhì để làm gì?
      - Thưa cũng để thờ. Cả tầng thứ nhì thờ từ vua Bà cùng anh hùng thời Lĩnh-nam cho đến vua vua Đinh. Tầng thứ ba thờ liệt tổ họ Lý. Còn tầng cuối cùng là nơi hoàng đế ngồi làm việc.
      Ngừng lại một lúc, Mỹ-Linh tiếp:
      - Trước điện Càn-nguyên là điện Cao-minh. Điện Cao-minh có một thềm lớn, là nơi thiết đại triều. Bên trái điện Càn-nguyên là điện Tập-hiền, nơi các quan văn làm việc. Bên phải là điện Giảng-võ nơi các quan võ làm việc.
      Phạm Hào thắc mắc:
      - Tôi nghe nói lầu Thúy-hoa có muôn ngàn hoa thơm cỏ lạ, do công chúa An-Quốc dâng cho vua cha. Vậy lầu đó ở đâu?
      Mỹ-Linh đáp:
      - Phía sau điện Càn-nguyên là điện Long-an, sau điện Long-an là điện Long-thụy, nơi hoàng đế an nghỉ. Điện Long-an do chính cung hoàng hậu Lập-quốc ở. Sau điện Long-an là điện Long-thụy do hoàng hậu Lập-nguyên ở. Bên phải điện Long-an là điện Nguyệt-minh cho các công chúa ở. Bên trái là điện Nhật-quang cho các thái tử ở. Lầu Thúy-hoa ở sau cùng, có ba tầng là nơi thưởng hoa của hoàng cung.
      Trần Kiệt gật đầu:
      - Thế từ Hoàng-thành thông với Kinh-thành bằng mấy cửa?
      - Thưa có sáu cửa. Bốn cửa chính. Hai cửa phụ. Bốn cửa chính theo đúng Đông, Tây, Nam, Bắc là Tường-phù, Đại-hưng, Quảng-phúc và Diệu-Đức. Ngoài ra còn hai cửa nữa là cửa Phi-long thông thẳng ra cung Nghinh-xuân, cửa Đan-phượng thông ra cung Uy-viễn.
      Càng về chiều, nước chảy càng chậm, thuyền đi thực mau. Phạm Hào chợt nhớ ra điều gì. Ông hô lớn:
      - Tất cả xuống dưới khoang thuyền. Chúng ta có việc cần bàn.
      An toạ xong, Phạm Hào hỏi Mỹ-Linh:
      - Công chúa. Cứ như cung khai của tên Đặng Trường cùng Trần-thị Phương thì rõ ràng có sự liên kết giữa Nhật-Hồ lão nhân với bọn sứ đoàn nhà Tống. Điều chúng ta cần phải tìm cho ra Nhật-Hồ lão nhân hiện còn sống hay đã chết rồi. Giang hồ võ lâm nói rằng lão có mười đệ tử. Đệ tử của lão đều vào hàng kiệt hiệt vô song. Chúng ta chỉ biết được tên của năm người. Còn bốn người thì không biết rõ là ai.
      Mỹ-Linh hỏi Bảo-Hòa:
      - Chị có nghe biết gì về bọn Nhật-Hồ không?
      Bảo-Hòa gật đầu:
      - Lúc từ Trung-nguyên về Đại-Việt, Nhật-Hồ lão nhân cùng các đệ tử ẩn thân ở vùng Bắc-biên. Họ chiêu dụ các khê động. Có khá nhiều khê động theo họ. Nay dù Nhật-Hò chết, vẫn có nhiều khê đông chủ trương chống lại mạ mạ. Vì vậy mạ mạ theo dõi họ rất kỹ. Chị nghe nói đệ tử đắc ý nhất của lão là Vũ-nhất-Trụ. Nhất-Trụ nguyên là thầy đồ trẻ ở Thăng-long, thường ngồi ở các quán, kể truyện lịch sử Đại-Việt làm kế sinh nhai. Sau Nhất-Trụ bỏ Thăng-long lên Bắc-biên theo lão, được lão thu làm đồ đệ. Tên Đặng-Trường là đệ tử thứ nhì. Đệ tử thứ ba tên Phạm-văn-Trạch. Trạch là con nhà danh gia, có học thức. Đệ tử thứ tư là Hoàng-Văn. Nghe đâu y gốc là người Hoa. Người thứ năm là Nguyễn-Chí. Chí với Vũ-Nhất-Trụ thường hay tranh dành quyền uy với nhau.
      Đến đó khoang thuyền mở rộng, thuyền trưởng vào thưa với Trần-Kiệt:
      - Trình trang chủ, phía trước có hai con thuyền lớn, đậu ép vào nhau. Người trên thuyền giao chíến kịch liệt. Xin trang chủ quyết định, chúng ta nên tránh ra hay lại gần?
      Trần-Kiệt vẫy tay cho mọi người lên mui cùng quan sát. Phía trước, hai con thuyền lớn vô cùng, đậu sát vào nhau. Trên thuyền quả đang có cuộc giao chiến. Tiếng vũ khí chạm vào nhau kêu loảng xoảng. Trần-Kiệt bảo thuyền trưởng:
      - Người cứ cho thuyền thẳng tới.
      Con thuyền hướng phía trước mà đi. Có tiếng từ trên thuyền vọng lại:
      - Chúng ta đang có truyện riêng tư cần giải quyết với nhau. Những người vô can nên tránh xa. Gươm đao vô tình, nếu cứ lướt tới thì đừng trách.
      Thuyền càng tới gần, trông càng rõ. Bảo-Hòa tinh mắt nhất. Nàng nói:
      - Trong hai bọn đánh nhau, một bọn là sứ đoàn nhà Tống. Còn bọn kia không rõ là ai.
      Thanh-Mai đề nghị:
      - Sư thúc. Bọn Tống biết mặt chúng ta hết rồi. Xin sư thúc cho giả trang, để quan sát trận đánh, tùy nghi ra tay.
      Trần-Kiệt gật đầu. Tất cả mọi người đều vào trong khoang. Thanh-Mai, Bảo-Hòa cùng hoá trang cho mọi người. Phạm-Hào, Trần-Kiệt, Thiệu-Thái giả làm ba người nhà quê. Còn Thanh-Mai, Mỹ-Linh, Bảo-Hòa giả làm ba cô gái thôn dã, đáp thuyền về Thăng-long.
      Tất cả mọi người lên thuyền đứng nhìn sang hai con thuyền phía trước. Trên một con thuyền lớn, bọn Triệu-Thành đứng đối diện với một đám người lạ. Trong đám người lạ có Chu-Minh. Trần-Kiệt dùng lăng-không truyền ngữ nói vào tai mọi người:
      - Thì ra bọn Tống đang giao chiến với bọn Đại-lý. Chúng ta cứ đứng ngoài cuộc. Không nên ra mặt vội.
      Thuyền càng tới gần, nhìn càng rõ. Một người trên thuyền bọn Tống nói vọng sang:
      - Thuyền nào kia. Mau tránh ra chỗ khác. Nếu cứ tiếp tục lại gần đây thì đừng trách chúng ta ác độc.
      Nghe tiếng quát đó, tâm tư Mỹ-Linh trấn động mạnh. Vì người nói đó chính Dực-Thánh vương, em ruột ông nội nàng. Nàng nói nhỏ vào tai Thiệu-Thái, Bảo-Hòa:
      - Dực-Thánh vương đấy. Không hiểu sao người cũng có mặt ở trên thuyền bọn Tống.
      Thanh-Mai ngơ ngác hỏi:
      - Dực-Thánh vương là ai vậy?
      Mỹ-Linh giải thích:
      - Ông nội em có bốn anh em. Trên cao nhất là ông bác, được phong Vũ-Uy vương. Ông nội thứ nhì. Dưới người là Dực-Thánh vương. Út nhất là sư thái Tịnh-Huyền. Dực-Thánh vương hiện giữ chức đô đốc thống lĩnh thủy quân. Cháu nội của người là Lý Long-Hưng đã đính hôn với Bảo-Hoà đấy.
      Lần đầu tiên Trần Kiệt biết truyện duyên tình của Bảo-Hòa. Ông tò mò:
      - Lý Long-Hưng là người thế nào?
      - Học văn rất uyên bác. Về võ công, thì học với Dực-Thánh vương. Nghe đâu bản lĩnh không kém gì những cao thủ bậc nhất. Hưng đã đấu với anh Tạ Sơn, ngang tay.
      Mọi người kêu lên tiếng ái chà. Vì bản lĩnh Tạ Sơn đâu phải tầm thường. Mà Long-Hưng mới có mười chín, hai mươi tuổi, võ công đã bằng Tạ Sơn thực hiếm có.
      Trần Kiệt càng thắc mắc:
      - Võ công của Dực-Thánh vương có cao không? Người là đệ tử Tiêu-sơn chăng? Dường như Bảo-Hòa không mấy thích Long-Hưng thì phải.
      Mặt Bảo-Hòa nhăn lại:
      - Không hiểu sao, mỗi lần thấy Long-Hưng là cháu lại nổi giận. Y chỉ có cái vẻ bề ngoài mặt trắng, hay làm điệu, làm bộ. Trong khi cháu ưa thực tế.
      - Võ công của Dực-Thánh vương với Vũ-Uy vương thuộc phái nào?
      - Cháu không rõ. Ông Vũ-Uy vương với Dực-Thánh vương không biết học nghiệp với ai. Song võ công không thua gì ông nội. Còn võ công thái cô Tịnh-Huyền, thuộc phái Mê-linh.
      Mọi người nhìn sang thuyền phía trước. Trên sàn chia ra làm ba cặp đấu với nhau. Cặp thứ nhất, Minh-Thiên đại sư đấu với một lão già tuổi khoảng sáu chục. Võ công hai người ngang tay. Mỗi lần chưởng lực chạm nhau, một tiếng bùng vang dội, các ngọn cờ trên thuyền lại bay phần phật.
      Thanh-Mai kinh hãi nghĩ:
      - Không biết lão già là ai, mà võ công đến trình độ ngang tay với Minh-Thiên thì ắt không thua bố mình với Hồng-Sơn đại phu. Nước Đại-lý có những cao thủ như vậy, hèn gì họ dám chống lại nhà Tống.
      Cặp thứ nhì, một trung niên nam tử đấu với Địch Thanh. Cả hai cũng ngang tay nhau. Cặp thứ ba Đông-Sơn lão nhân đấu kiếm với một thiếu phụ rất xinh đẹp.
      Trần Kiệt nói với Mỹ-Linh:
      - Thiếu phụ kia là ai mà đấu kiếm được với Đông-Sơn lão nhân, một trong bốn tay kiếm thuật lừng danh Hoa-hạ. Dường như kiếm pháp của nàng giống kiếm pháp phái Thiên-sơn bên Trung-nguyên.
      Mỹ-Linh chỉ vào ngọn cờ bay trên thuyền bọn Tống:
      - Lá cờ có con kỳ lân là biểu hiệu của Dực-Thánh vương đấy.
      Nàng chỉ vào một người tuổi khoảng năm mươi, đang đứng cạnh Triệu Thành trên đài chỉ huy của chiếc thuyền lớn lược trận:
      - Người đó là Dực-Thánh vương.
      Thình lình có tiếng xé gió. Một mũi tên từ thuyền Dực-Thánh vương bay lại, hướng vào cổ Trần Kiệt. Trần Kiệt lờ đi như không biết. Chờ cho mũi tên tới trước mặt ông. Ông phẩy tay một cái. Mũi tên đang bay với tốc độ kinh hồn, bị gẫy làm bẩy tám đoạn, rơi xuống sàn thuyền.
      Người trên thuyền Dực-Thánh vương quát lớn:
      - Thuyền kia, mau ngừng lại.
      Ba mũi tên lại xé gió bay tới trước mặt Trần Kiệt. Ông phẩy tay một cái. Ba mũi tên đổi chiều bay ngược trở lại. Ông chĩa ngón tay phóng theo ba chỉ. Kình lực đẩy mũi tên trở thành cực mạnh. Ba mũi tên xé gió kêu lên tiếng vo vo inh tai nhức óc trúng vào cột cờ theo một hàng thẳng từ trên xuống dưới.



      <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2005 10:26:45 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 07.01.2005 17:47:55 (permalink)
        Hồi thứ ba mươi chín


        Anh Hùng Đại Lý



        Dực-thánh vương quát:
        - Ngừng tay.
        Người trên thuyền đang đánh nhau hỗn loạn, bỗng ngừng lại, rồi cùng nhảy lui. Bọn Tống trở về thuyền của Dực-thánh vương. Dực-thánh vương hướng sang thuyền Trần Kiệt hỏi:
        - Cao nhân nào, xin cho biết cao danh quí tính.
        Thanh-Mai giả tiếng đàn ông nói:
        - Chúng tôi là thuyền buôn qua đây. Không biết phạm tội gì mà các vị dùng tên định giết chết? Các vị là ai? Mà không coi luật pháp đức Đại-việt hoàng đế ra gì vậy?
        Câu hỏi của Thanh-Mai tuy đơn sơ, song đối với Dực-thánh vương thực là nhục nhã. Dực-thánh vương là em ruột đương kim hoàng đế, thân lĩnh chức đại đô đốc, mà lại làm trái luật, thì còn ra thể thống gì nữa?
        Dư Tĩnh nói vọng sang:
        - Chúng tôi cũng là thuyền buôn, đang có truyện cần tính toán với nhau. Nếu các vị vô can xin đi chỗ khác.
        Trần Kiệt cười lớn:
        - Vậy các vị cứ việc thanh toán với nhau. Chúng tôi ngồi bên này xem giải khuây. Xin các vị tiếp tục giết nhau cho vui. Nước sông Hồng vốn đỏ, nay nhuộm thêm máu nữa, mầu càng thêm đẹp.
        Bọn Tống nghe Trần Kiệt nói giọng châm biếm thì tức cành hông, nhưng vì đang phải đối phó với đại địch, chúng không muốn có thêm kẻ thù. Nhất là kẻ thù đó chỉ phẩy tay một cái khiến ba mũi tên bay ngược trở lại với kình phong kinh người. Trừ Minh-Thiên ra, bọn y thực không ai bằng. Vương Duy-Chính chắp tay hướng sang Trần Kiệt:
        - Bọn tại hạ xin lỗi về bốn mũi tên.
        Thời bấy giờ vùng Thiên-trường là đất do sông Hồng mới bồi ra, nên toàn sình lầy, sông lạch. Vì vậy đệ tử phái Đông-a cực kỳ giỏi thủy tính. Viên thuyền trưởng cho thuyền đậu song song với thuyền của Dực-thánh vương. Hai thuyền chỉ cách nhau có hơn trượng.
        Triệu Thành hướng sang lão già Đại-lý:
        - Các người có mau đem trả kinh thư cho ta không? Bằng không, thì tính mệnh các người khó bảo toàn.
        Lão già Đại-lý cười nhạt:
        - Ta đã bảo rằng chúng ta không biết kinh thư gì hết ráo. Các người đòi hoài cũng vô ích mà thôi.
        Triệu Thành cười nhạt chỉ vào trung niên nam tử đấu với Dư Tĩnh và thiếu phụ đấu kiếm:
        - Rõ ràng đêm hôm qua gã kia cùng vợ đột nhập lên thuyền của chúng ta, ăn cắp kinh thư. Chúng ta phát giác, cả hai nhảy xuống sông mất dạng. Cho nên hôm nay chúng ta mới đón hết các ngả đường, ngả sông tìm bắt, quả nhiên gặp lại kẻ gian trên sông này. Nếu các người ngay thẳng, phải để bọn ta xét thuyền bên đó.
        Thiếu phụ cười nhạt:
        - Người là ai mà dám nói lớn lối như vậy? Người là quan quân chăng? Nếu người là quan quân thì cũng phải hỏi thanh kiếm này xem, nó có bằng lòng không đã chứ?
        Bảo-Hòa phân vân khó xử cùng cực. Vì một bên là những người mới gặp thuộc phái Đông-a. Họ có hành vi đường đường chính chính, thân thiện với anh em nàng. Nhưng bản chất vẫn là lực lượng đối lập với triều đình, bên trong ẩn tàng một dự tính giúp Hồng-Sơn đại phu chiếm ngôi vua. Một bên là sứ đoàn nhà Tống, đang muốn khuynh loát Đại-việt, nhưng đi cùng với Dực-thánh vương, đại diện cho triều đình. Vạn nhất hai bên xẩy ra động thủ, anh em nàng phải có thái độ nào cho thích hợp? Nàng đưa mắt nhìn Mỹ-Linh như muốn hỏi ý kiến. Mỹ-Linh hiểu ý Bảo-Hòa nàng nói sẽ vào tai:
        - Chúng ta cứ quan sát xem sao đã. Không nên có thái độ gì vội. Chị thấy đó, đúng ra, không cần phải đấu võ. Dực-thánh vương là đô đốc thống lĩnh thủy binh Đại-việt. Bọn Đại-lý sang đây làm gian tế. Người cứ việc truyền lệnh cho thủy quân bao vây, bắt chúng đem ra chặt đầu. Không hiểu sao người lại cho áp dụng luật võ lâm. Một thắc mắc nữa, là bọn Đại-lý dấu lý lịch của mình. Dường như bọn Triệu Thành không biết, cứ tưởng bọn Đại-lý là người Việt. Bọn Đại-lý biết bọn Triệu Thành là sứ đoàn nhà Tống, mà cứ lờ đi như không biết. Bọn Triệu Thành cũng muốn dấu tung tích.
        Minh-Thiên chỉ vào lão già Đại-Lý:
        - Này tiên sinh. Võ công tiên sinh thực cao thâm khôn lường. Dường như võ công tiên sinh pha lẫn võ công Đại-việt với võ công Thiên-sơn thì phải. Người như tiên sinh cần gì phải dấu lý lịch. Vừa rồi chúng ta qua lại với nhau trên trăm chiêu bất phân thắng bại. Như vậy coi như hoà. Bần tăng không muốn đấu với tiên sinh nữa. Vì bất cứ tiên sinh hay bần tăng bị thương, thực đáng tiếc.
        Lão già cười:
        - Đại sư nói như vậy thực là cao kiến. Tại hạ cũng xin đại sư ngừng đấu.
        Minh-Thiên chỉ vào trung niên hán tử Đại-lý:
        - Hôm qua, vị đại hiệp này lên thuyền của bần tăng, lấy mất bộ kinh thư đi. Xin tiên sinh bảo vị đại hiệp trả cho bần tăng. Bần tăng muôn vàn cảm tạ.
        Lão già Đại-lý hỏi trung niên hán tử:
        - Có thực người ăn trộm kinh thư của đại sư không? Nếu đúng, người mau đem trả đại sư đi.
        Trung niên nam tử lắc đầu:
        - Đại sư ơi. Võ công đại sư vừa xử dụng là võ công Thiếu-lâm. Như vậy phải chăng đại sư là người Trung-nguyên? Hôm trước tại hạ bị mất trộm một bộ sách của Lĩnh-nam.
        Y chỉ vào mặt Quách Quỳ:
        - Có người chỉ cho tại hạ biết, chính cậu bé này ăn trộm. Hôm qua, tại hạ lên thuyền của đại sư, thấy y đang đọc bộ sách đó. Tại hạ đoạt lại. Như vậy là vật hoàn cố chủ. Chứ tại hạ đâu có ăn trộm? Đại sư cũng như cậu bé là người Trung-nguyên thì làm gì có sách của Đại-việt?
        Trần Kiệt dùng Lăng-không truyền ngữ nói với Thanh-Mai:
        - Sư thúc hiểu rồi. Hai bên kẻ cắp bà già gặp nhau. Bọn Tống lấy trộm di thư thời Lĩnh-nam, đang trên đường về nước, bị võ lâm anh hùng đuổi theo đoạt lại. Chúng kinh hoảng nhờ Dực-thánh vương hộ tống. Bọn Đại-lý theo dõi, leo lên thuyền giữa lúc bọn Tống đang đem sách ra nghiên cứu. Tên trung niên nam tử kia đoạt sách, rồi phóng xuống sông mất dạng. Bọn Tống nhờ Dực-thánh vương đón các ngả đường, ngả sông tìm bọn Đại-lý đoạt lại. Có điều bọn Đại-lý biết chân tướng bọn Tống. Còn bọn Tống lại tưởng bọn Đại-lý là người Việt. Về Dực-thánh vương, cháu nghĩ thế nào.
        Thanh-Mai thở dài:
        - Dực-thánh vương giúp bọn Tống mà không dám xuất hiện công khai với thân phận mình. Có hai vấn đề đặt ra. Một là bọn Tống cầu cứu với triều đình. Triều đình sai ông hộ tống sứ đoàn. Hai là ông ta làm gian tế, theo giúp bọn Tống hầu kiếm chức tước phù ảo.
        Mỹ-Linh nghe đối đáp giữa Trần Kiệt với Thanh-Mai, nàng kinh hòang không ít. Vì biết chắc Dực-thánh vương làm gian tế cho bọn Tống. Nếu bọn Tống cầu cứu với triều đình, thì Khai-quốc vương sẽ sai người hộ tống bọn chúng công khai, dương cờ, dóng trống, chứ có đâu âm thầm như thế này?
        Nàng tự nghĩ:
        - Kể từ khi ông nội ta lên cầm quyền, nhân tâm khắp nơi qui phục. Sĩ dân thiên hạ có những người không hợp tác với triều đình như phái Đông-a, hay Hồng-Sơn đại phu, song vẫn tuân theo luật pháp. Khi nói đến chống ngoại xâm, đều hết sức rút kiếm trợ thủ với triều đình. Hôm trước biết được bọn họ Đàm, ta đã lo sợ. Không ngờ bây giờ đến em ruột ông nội, tước phong tới vương, mà cũng làm gian tế cho bọn Tống.
        Nàng nghe tiếng Bảo-Hòa nói sẽ vào tai:
        - Dực-thánh vương theo bọn Tống ắt muốn địa vị cao hơn. Điạ vị cao hơn tước vương, hẳn ông muốn làm vua. Như vậy, ngày một ngày hai, ông cũng phản triều đình. Bọn Tống ghê thực, chúng mua chuộc được cả Dực-thánh vương.
        Thiệu-Thái vốn ít nói. Trong trường hợp này, chàng mới lên tiếng:
        - Xét cho cùng, trải hơn nghìn năm bị người Hán cai trị. Cái tinh thần tự chủ do vua Ngô, vua Đinh, vua Lê mới đốt lên, chưa mạnh, khả dĩ đủ để đốt cháy cái đầu óc nô lệ của người mình chỉ biết cúi đầu tuân phục ngoại nhân. Mình đang làm vương, em vua, lại cúi đầu theo Tống để được phong chức tước của chúng. Muốn gột bỏ tinh thần đó, chỉ có cách làm sống dậy tinh thần võ đạo thời Lĩnh-nam mà thôi.
        Trên thuyền bên kia, bọn Tống, Đại-lý còn đang tranh luận. Bảo-Hòa thấy trên trời có cặp chim ưng đang bay lượn. Nàng húyt sáo gọi nó. Đôi chim ưng nghe tiếng Bảo-Hòa gọi, nó chao cánh, rồi đáp xuống cột buồm cạnh nàng. Nàng vội chạy lại gỡ ống đựng thư ở chân chim ra. Bên trong có tờ giấy, vẽ hình bông sen. Biết là lệnh của Khai-quốc vương, nàng trao cho Thanh-Mai.
        Thanh-Mai cầm tờ giấy, liếc qua, rồi bỏ vào túi. Nàng ghé tai hai tráng đinh đệ tử nói nhỏ mấy câu. Hai thủy thủ chạy đến cuối thuyền, rồi trườn xuống dưới sông lặn mất tích. Nàng nói với Trần Kiệt:
        - Sư thúc. Đệ tử bạo gan, muốn nhờ sư thúc một việc. Tin của Khu-mật viện cho biết lão già Đại-lý có tên Đoàn Huy là hoàng thúc Đại-lý, tước phong Trấn-nam vương. Y quản lĩnh toàn bộ binh mã nước này. Còn gã trung niên nam tử tên Phạm Văn, giữ chức tư đồ. Người đàn bà đeo kiếm là vợ y tên Hàn Ngọc-Quế, có biệt hiệu Nam thiên đệ nhất kiếm
        Trần Kiệt vốn cưng chiều Thanh-Mai từ nhỏ. Kiến thức cũng như võ công của nàng, hầu hết do ông truyền thụ hơn là do anh. Ông bẹo má Thanh-Mai:
        - Con gái nhờ chú đánh nhau dùm chồng cháu phải không?
        Bị nói trúng tâm tư, Thanh-Mai sượng sùng:
        - Cháu nhờ cho cháu một phần, mà cũng cho đại cuộc võ lâm một phần. Lát nữa đây bọn Tống với Đại-lý ắt lại đánh nhau. Kể về lực lượng thì bọn Tống mạnh hơn bọn Đại-lý. Nhưng bọn Đại-lý lại được bang Nhật-hồ Trung-nguyên hỗ trợ, khó biết bên nào thắng bên nào bại. Lỡ ra bọn Tống thua xin sư thúc giúp chúng một tay.
        Mỹ-Linh kinh ngạc:
        - Sư tỷ, sao sư tỷ biết bọn Đại-lý được Nhật-hồ trợ thủ.
        Thanh-Mai chỉ sang phía Đại-lý:
        - Sư muội không thấy ba người ăn mặc theo lối tôi tớ kia sao? Gã để râu dài chính là Chu An-Bình. Hai gã đeo kiếm mặc áo xanh chính là Chu An-Khôi, Chu An-Việt. Họ tuy hoá trang, song chúng mình vẫn nhận ra.
        Kiến thức Thanh-Mai nhiều, mưu trí cao thâm khôn lường, nhưng dù sao những thứ đó nàng học ở Trần Kiệt, cho nên nghe cháu nói, ông khẽ vỗ vào vai cháu:
        - Con bé này bây giờ mưu trí muốn hơn chú rồi đây.
        Thiệu-Thái không hiểu hỏi:
        - Thế nghĩa là?
        Bảo-Hòa ghé miệng vài tai anh:
        - Cậu hai muốn cho bọn Tống thắng, chúng sẽ đoạt lại di thư. Như vậy trên đường về nước, chúng khó yên với anh hùng võ lâm Đại-việt. Võ lâm Đại-Việt ắt đón đường chúng đòi di thư. Mà nhiệm vụ này, đúng ra là của triều đình. Cậu hai áp dụng theo binh pháp của công chúa Thánh-Thiên :
        Khi tạo ra một đạo quân thiện chiến, mà tốn phí ít nhất, xứng tài làm tướng. Không cần tài vật mà khiến trăm họ cùng ba quân cầm vũ khí đánh giặc, xứng tài đại tướng. Khi không cần một đạo quân nào, mà khiến cho trăm họ đều cầm vũ khí đánh giặc thì xứng tài bá vương.
        Bên thuyền Đại-lý, Triệu Thành hỏi Đoàn Huy:
        - Này lão kia. Người không trả kinh thư cho ta, thì e bằng giờ sang năm sẽ là ngày giỗ của người đấy.
        Đoàn Huy nói với Minh-Thiên:
        - Đại sư! Võ công đại sư hoàn toàn thuộc Thiếu-lâm, như vậy đại sư là người Hán. Đã là người Hán, thì làm gì có sách Việt? Cuốn kinh thư của bọn tại hạ ghi chép bằng chữ Khoa-đẩu, một thứ chữ của người Việt. Chính tại hạ và một số người trên thuyền này cũng đọc được. Không biết bên đại sư có ai đọc được không?
        Quách Quỳ chỉ mặt Đoàn Huy:
        - Các người là quân trộm cướp rõ ràng mà còn dám nói láo ư? Các người có dám đưa kinh thư ra không? Chính ta chép kinh thư đó. Các người muốn, thì cứ giảo nghiệm bút tích. Ta sẵn sàng.
        Minh-Thiên đưa mắt cho Quách Quỳ, ngụ ý bảo nó im lặng, rồi ông nói với Đoàn Huy:
        - Xin tiên sinh dạy cho một lời.
        Đoàn Huy quay lại nói với Chu Minh:
        - Vị đại sư này muốn nghiên cứu văn hiến của người Việt, chúng ta cũng chẳng nên tiếc. Chu sư đệ. Người mau đem sách tặng đại sư, để mua chút cảm tình mai hậu.
        Chu Minh vẫy tay, Chu An-Bình xuống khoang thuyền bưng lên một cái tráp để trên mặt thuyền. Chu Minh chỉ tráp nói:
        - Đây là tráp đựng sách của tại hạ. Đại sư muốn loại sách nào, thì xin sang lựa lấy.
        Triệu Thành hất hàm ra lệnh. Đông-Sơn lão nhân, Địch Thanh, Vương Duy-Chính, Dư Tĩnh, Quách Quỳ cùng nhảy sang thuyền Đại-lý. Chu An-Bình mở tráp, bầy ra gần ba mươi cuốn sách. Chu Minh chỉ sách:
        - Đây là những sách quí, trước tác từ thời vua Bà. Các vị muốn đọc, xin cứ tự tiện lựa đem về mà đọc. Điều kiện, các vị phải đọc được ít nhất một trang.
        Quách Quỳ liếc thấy cuốn sách do chính tay mình chép bộ Lĩnh-Nam vũ kinh bằng son, sen kẽ vào những chữ Khoa-đẩu của bộ Đại-Việt giản sử lấy của Thanh-Mai. Quyển này nằm trong số sách Chu An-Bình bầy ra. Mắt y sáng lên:
        - Đây rồi!
        Tay y chộp lấy đưa cho Đông-Sơn lão nhân. Đông-Sơn lão nhân tiếp sách. Trước đây Triệu Thành giao cho lão giữ sách, vì sợ bị người ta đoạt mất. Lão tò mò mở ra xem nhiều lần, nhưng lão không biết chữ Khoa-đẩu, thành ra lại cất đi. Bây giờ thấy khuôn khổ, hình dạng giống hệt, nhưng lão không chắc. Lão đưa cho Dư Tĩnh:
        - Tiên sinh coi lại xem có đúng cuốn sách ấy không?
        Dư Tĩnh cầm cuốn sách. Hắn đọc phần chép lịch sử Đại-việt của Thanh-Mai thấy quả đúng như đã thấy. Nhưng hắn sợ trách nhiệm, hắn đưa cho Vương Duy-Chính. Duy-Chính cầm lên coi một lượt. Y biết đúng là cuốn sách đó rồi, nhưng cũng đưa cho Địch Thanh và nói nước đôi:
        - Xin thiếu hiệp coi lại một lần cho ăn chắc.
        Địch Thanh mở ra xem xét cẩn thận. Y gật đầu:
        - Quả đúng cuốn sách đó.
        Triệu Thành nhảy đến cầm cuốn sách coi đi coi lại, gã đưa cho Minh-Thiên:
        - Xin sư phụ cất dùm.
        Minh-Thiên tiếp cuốn sách bỏ vào bọc.
        Bên thuyền phái Đông-a, Thanh-Mai dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai mọi người:
        - Bọn Tống chết hết đến nơi rồi. Chúng bị Chu An-Bình đánh thuốc độc. Khai-quốc vương muốn chúng ta giúp bọn Tống, làm sao bây giờ?
        Bảo-Hòa đã từng xử dụng độc dược, làm cho Địch Thanh khốn khổ tại Thanh-hoá trong ngày tế Lệ-hải bà vương. Hôm nay, nghe Thanh-Mai nói, nàng cười khúc khích:
        - Bọn Triệu Thành, cũng như Đông-Sơn lão nhân, Dư Tĩnh đều là đại tôn sư võ học, mưu trí, kinh lịch nhiều. Chỉ vì chúng thấy bọn Đại-lý chống trả, cãi cọ, rồi thình lình lại đưa sách ra, thì chúng cho rằng bọn Đại-lý thực tình. Cho nên mới mắc bẫy.
        Nàng hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
        - Đỗ phu nhân, liệu chất độc bọn Chu An-Bình ướp vào sách, hại bọn Tống, trong bao lâu sẽ phát tác.
        Đỗ Lệ-Thanh lắc đầu:
        - Tấu lạy cô, đệ tử không liệu trước được. Vì Chu An-Bình đánh bọn Tống bằng hai đường. Một là đường ngoài da. Y tẩm thuốc trên trang sách. Thông thường người nội công thấp lập tức bị sưng vù lên ngay. Người nội công cao khỏang hai giờ sau mới biết. Hai là trong khi bọn Tống tiếp sách, y âm thầm phóng thuốc trên không, khiến họ hít vào. Với hai đường nội, ngoại một lúc, chắc chắn không lâu đâu.
        Trong khi đó bọn Tống đã trở về thuyền. Minh-Thiên hướng Đoàn Huy chắp tay hành lễ:
        - Bần tăng mắt kém, không biết lão tiên sinh thuộc phái võ nào bên Đại-việt. Không biết tiên sinh có thể cho bần tăng biết cao danh, quý tính không?
        Đoàn Huy đáp lễ, chỉ vào Quách Quỳ:
        - Bọn tại hạ bị vị tiểu công tử chửi là đồ ăn trộm. Đã là trộm thì đâu dám đưa cái tên ra cho mang nhục?
        Nói rồi Đoàn Huy ra lệnh cho thuyền của y chạy xuôi giòng về phía Đông. Trong khi thuyền của bọn Tống chạy ngược về hướng Thăng-long.
        Bảo-Hòa nói với thuyền trưởng:
        - Xin sư huynh cho chạy theo sau thuyền bọn Tống, để xem chúng bị trúng độc.
        Nàng nói với Thanh-Mai:
        - Này mợ hai. Theo như Bảo-Hòa nghĩ, bọn Đại-lý chạy ngược về hướng Đông là giả vờ. Chắc chỉ ít dặm chúng sẽ chạy theo bọn Tống hầu thực hành ý đồ gì khác, chứ không giản dị như vậy đâu.
        Thuyền của phái Đông-a chạy sau thuyền bọn Tống khỏang trăm trượng. Chạy được một lát, Triệu Anh cầm loa gọi:
        - Này, thuyền kia. Các người là ai, mà hết tò mò vào truyện của chúng ta, rồi lại chạy theo là ngụ ý gì vậy?
        Thanh-Mai vận nội lực, trả lời:
        - Chúng ta là con buôn, ngày đêm đi trên sông, trên biển, buồn tẻ, vắng lặng, nên thấy các người đánh nhau, ngừng lại coi chơi cho vui. Bây giờ thấy có bẩy người sắp diễn trò con khỉ ăn gừng, nên theo để xem cho vui, chứ không có ý gì khác.
        Thanh-Mai ra hiệu cho thuyền phái Đông-a chạy song song với thuyền bọn Tống. Bọn Tống chú ý đề phòng. Các cao thủ lên cả trên khoang thuyền. Thuyền đang chạy, bỗng Quách Quỳ ái một tiếng. Y ôm tay nhảy choi choi.
        Triệu Anh hỏi:
        - Đồ nhi. Cái gì vậy.
        Quách Quỳ uốn cong người lại. Hai tay ôm lấy nhau. Bàn tay y sưng lớn, mầu da biến thành đỏ lòm.
        Triệu Anh hướng sang thuyền phái Đông-a quan sát một lượt. Y kinh hãi nghĩ thầm:
        - Bọn này là ai, mà chúng biết bọn ta bị đánh thuốc độc? Không chừng chúng đồng bọn với tụi ăn trộm ban nãy cũng nên.
        Triệu Thành kinh ngạc, hỏi:
        - Tại sao Quỳ lại bị trúng Chu-sa độc chưởng?
        Y vừa hỏi dứt lời, chính y cảm thấy bàn tay rát như lửa đốt, đau như kim châm thấu đến tim. Không tự chủ được, y cũng bật lên tiếng ái rồi tay nọ ôm lấy tay kia. Hai tay y từ từ sưng lớn, đỏ lòm.
        Dư Tĩnh kêu lên:
        - Chúng ta cùng bị trúng độc của bọn ăn cắp ban nãy rồi. Mau cho thuyền chạy ngược lại bắt chúng trao thuốc giải. Lạ lùng thực. Hôm trước Đàm Toái-Trạng cho biết người của bang Nhật-hồ vừa xuất hiện, gồm có một trung niên hán tử, một thiếu niên, một thiếu nữ. Lần đầu chúng đùng Chu-sa độc chưởng đánh mười mấy thiếu niên Hồng-hương bị thương, rồi đột nhập Hồng-hương cốc đốt nhà, làm cháy xác các thiếu niên đó. Hôm sau lại một số thiếu niên bị trúng Chu-sa độc phấn, tưởng chết, rồi không hiểu sao bỗng nhiên khỏi. Nguyên-Hạnh cho hai đệ tử là Trí-Nhật, Trí-Nguyệt đem thiếu niên Hồng-hương đuổi theo bắt được chúng đem về. Nhưng bị chúng phóng độc làm bị thương, rồi không biết bàn tay bí mật nào cứu chúng ra, các thiếu niên cũng tự nhiên khỏi bệnh.
        Vương Duy-Chính cắt ngang:
        - Tôi nghĩ Nguyên-Hạnh có thuốc giải, mà y dấu bọn mình.
        Đến đó, tất cả bẩy người từng mó vào cuốn sách chép vũ kinh đều bị sưng tay đau đớn đến phải rên siết. Quách Quỳ bị nặng nhất. Người bị nhẹ nhất là Minh-Thiên đại sư.
        Minh-Thiên nghiến răng nói với Triệu Huy:
        - Sư điệt. Người mau cùng Triệu Anh cầm kiếm bảo vệ vương gia. Chúng ta đều bị trúng độc. Bọn trộm sách ắt trở lại.
        Bên này Thanh-Mai hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
        - Đỗ phu nhân. Bọn Tống bị trúng độc có nguy hiểm lắm không? Liệu chúng có chết ngay không?
        Đỗ Lệ-Thanh lắc đầu:
        - Độc chất này không chết ngay. Mỗi ngày lên cơn trong một giờ, sau đó cơ thể lại như thường. Công lực không mất. Phải bốn mươi chín ngày, mới chết.
        Thanh-Mai vào khoang cầm bút viết thư rồi đưa cho Bảo-Hòa:
        - Phiền Bảo-Hòa sai chim đem về Khu-mật viện.
        Bảo-Hòa ngửa mặt lên trời hú một tiếng. Đôi chim ưng đậu trên cột buồm hạ cánh xuống. Nàng mở ống tre dưới chân, bỏ thư vào rồi líu lo với chúng mấy tiếng. Chúng bay bổng lên trời, hướng Thăng-long bay đi.
        Trái với sự ước tính của mọi người, bọn Đoàn Huy không thấy trở lại. Thuyền đi đến chiều, thì chim ưng đem thư từ Thăng-long về. Thanh-Mai lấy thư ra xem. Nàng tươi nét mặt nói với mọi người:
        - Thôi chúng ta mặc bọn Tống. Hãy cho thuyền về Thăng-long.
        Mọi người ngơ ngác không hiểu. Thanh-Mai cầm thư đưa ra:
        - Nào, các vị thử đoán xem trong thư nói gì nào?
        Bảo-Hòa nói trước:
        - Thư của cậu hai. Cậu cho biết bọn Đoàn Huy không trở lại, vì chính chúng lại bị bọn Chu An-Bình đánh thuốc độc, để chiếm kinh thư.
        Mỹ-Linh đã quen với hành sự của Khai-quốc vương, nàng nói:
        - Theo Mỹ-Linh thì không phải thế. Bọn Đại-lý ăn cướp kinh thư, rồi mang về sao lại, cất đi. Sau đó chúng thêm bớt một số chữ, làm sai lạc ý nghiã kinh thư, rồi trả lại bọn Tống. Như vậy bọn Tống tuy có đòi được kinh thư cũng thành vô dụng. Còn bọn Đại-lý chắc bị Chu An-Bình đánh thuốc độc. Cho nên chúng không trở lại hại bọn Tống.
        Thanh-Mai cười:
        - Hai sư muội đoán gần đúng. Bọn Đại-lý không định trở lại, vì chúng biết bọn Tống bị trúng độc. Trong khi đó kinh thư chúng có rồi, thì chúng trở lại làm gì? Khai-quốc vương bảo chúng ta kệ bọn Tống. Chúng chưa chết ngay đâu. Chúng ta hãy về Thăng-long đã. Còn kinh thư ư? Bọn Đại-lý tuy có sao được, nhưng chúng bị chúng ta đoạt lại rồi.
        Thiệu-Thái kinh ngạc:
        - Chúng ta đọat lại hồi nào?
        Thanh-Mai chỉ vào hai đệ tử Đông-a:
        - Trong khi bọn chúng mải tranh dành. Sư thúc tôi cho hai vị sư huynh này lặn xuống sông, theo đằng lái đột nhập vào khoang thuyền ăn cắp kinh thư của bọn Đại-lý, cùng bọn Tống.
        Nói rồi nàng mời mọi người vào khoang thuyền. Trong khoang thuyền , trên một cái bục, bầy ra đầy thư tín, sách vở. Thanh-Mai chỉ vào một cuốn sách nhỏ:
        - Bộ Lĩnh-nam vũ kinh do Đoàn Huy sao lại đây.
        Mỹ-Linh cầm lấy đọc thử đoạn nói về Long-biên kiếm pháp, quả không sai một chữ nào.
        Thanh-Mai chỉ đống thư:
        - Đống thư của bọn Đại-lý liên lạc với triều đình họ. Còn đây là thư tín của Triệu Thành báo cáo về nước cùng công văn của bọn gian tế Việt liên lạc với Triệu Thành. Cháy nhà ra mặt cuột. Chứng cớ rành rành thế này, triều đình có đủ bằng cớ đem tụi phản dân hại nước ra chặt đầu. Chúng không còn chối vào đâu được nữa.
        Nàng chỉ vào cái bọc:
        - Đây là vàng, ngọc, thư tín Chế Ma-Thanh dâng về triều Tống. Chỉ cần một người đem cái thư này cho vua Chiêm, thì cả nhà Chế Ma-Thanh sẽ bị tru lục. Âm mưu bọn Tống ở bên Chiêm không đáng lo nữa.
        Nàng chỉ vào cái bọc khác:
        - Đây là vàng, ngọc, thư tín của Phủ-Vạn dâng cho vua Tống, cùng với thư từ y báo cáo cho Triệu Thành. Những thứ này đem về cho Khu-mật viện để trị bọn chúng.
        Trần Kiệt hỏi Mỹ-Linh, Bảo-Hòa:
        - Hai cháu thử đoán xem, với những thứ này triều đình sẽ phản ứng ra sao?
        Bảo-Hoà đáp:
        - Nếu là mạ mạ cháu, thì người bắt toàn gia Nguyễn Khánh, Đàm Toái-Trạng ra chặt đầu, rồi sai sứ đem thư tín này cho vua Chiêm, Lào, để họ giết chết bọn gian thần. Như vậy hai nước thêm thân thiện. Còn cậu hai sẽ hành động như thế nào, cháu không đoán được. Vì cháu mới gần cậu hai đây thôi.
        Mỹ-Linh cười:
        - Nếu là chú hai, chú hai không làm thế. Làm thế thì diệt được mầm mống đánh vào phía Nam Đại-việt của Chiêm, Lào. Phải làm sao biến bọn Phủ-Vạn, Chế Ma-Thanh đang là người của Tống thành người của mình. Chú hai tìm cách gặp hai người, chìa những thư tín này cho chúng, rồi bắt chúng làm tế tác cho triều đình. Mặt khác, để an ủi chúng, triều đình cũng phong chức tước cho chúng.
        Thuyền vẫn tiếp tục đi về hướng Thăng-long.
        Mỹ-Linh nói sẽ với Thiệu-Thái:
        - Thuyền sắp tới Thăng-long rồi.Một vấn đề tế nhị đặt ra,là chúng ta có nên mời hai vị sư thúc vào phủ Khai-thiên vương chơi không?
        Thiệu-Thái nói ngay:
        - Phải mời chứ. Mời để triều đình có dịp kết thân với hai vị võ lâm cao thủ.
        Thanh-Mai tần ngần, nói:
        - Khó thực. Nếu không mời, thì hai ông cho rằng Mỹ-Linh là công chúa, khinh thường bọn võ phu, giữa triều đình với phái Đông-a lại thêm một hố chia rẽ. Nếu mời, chưa chắc hai ông chịu đến, vì sợ vướng víu vào cái vòng phú quý. Dọc đường sư tỷ thấy hai sư thúc sủng ái Mỹ-Linh cùng cực. Vậy Mỹ-Linh thành khẩn mời đương nhiên hai vị chấp thuận.
        Mỹ-Linh lắc đầu:
        - Sư tỷ chưa hiểu câu hỏi của em. Ý em muốn nói là em mời, hai ông sẽ đáp ứng. Nhưng phụ vương của em không giống chú hai. Chú hai gặp các vị võ lâm cao thủ, đương nhiên dùng đạo lý võ-lâm đối xử với nhau. Còn phụ vương em, không thế. Người sẽ coi hai vị sư thúc như một số võ sư trong phủ. Nghĩa là hai vị phải quỳ gối khấu đầu, một điều vương gia, xưng tiểu nhân. Hai điều đại vương, xưng thần. Bằng không người sẽ đuổi ra khỏi phủ.
        Thanh-Mai thở dài:
        - Như vậy thà đừng mời. Hai bên cùng tự ái cao, cùng có cái kiêu hãnh riêng. Tốt hơn hết để sư tỷ đưa hai ông đi Tản-viên ngay.
        Bảo-Hòa nhìn anh nói nhỏ:
        - Vấn đề đó không khó. Khó hơn hết là truyện anh với Mỹ-Linh. Hai người thương yêu nhau, khắp trấn Thanh-hóa ai cũng biết. Bọn mặt dơi tai chuột thế nào chẳng nói đến tai cậu cả. Liệu cậu có chấp thuận cho hai người thành vợ chồng không? Xưa nay cậu vẫn ưa những thư sinh mặt đẹp, văn hay, chữ tốt. Còn anh thì văn không thông. Dáng người giống con lợn. Lần đầu tiên Bố-Đại hòa thượng thấy anh mà cũng gọi là con lợn. Hơn nữa anh lại đã đính hôn rồi.
        Thanh-Mai an ủi:
        - Tuy vậy, có hai hy vọng. Hy vọng thứ nhất, Khai-quốc vương đã xin Mỹ-Linh làm con nuôi. Khai-quốc vương nói một tiếng, Khai-thiên vương ắt nghe lời. Còn hy vọng thứ nhì nữa, Thiệu-Thái được bồ tát Sùng-Phạm nhận làm đệ tử, dù sắc diện không đẹp, với võ công ấy, ai bì nổi?
        Thuyền trưởng đến trước Thanh-Mai kính cẩn:
        - Thưa tiểu thư, phía trước kia là Thăng-long. Xin tiểu thư cho biết đỗ thuyền ở bến nào?
        Thanh-Mai chưa từng về Thăng-long lần nào. Không biết Thăng-long có mấy bến, nàng hỏi thuyền trưởng:
        - Thăng-long có bao nhiêu bến đò?
        Thuyền trưởng đáp:
        - Thưa tiểu thư, thành Thăng-long có năm cửa. Bến cũng có năm. Thứ nhất bến Tiềm-long dành cho thuyền của thiên tử, cùng thân vương. Thứ nhì bến Ngọa-long dành cho thuyền của các vương, hầu, đại tướng quân. Thứ ba bến Giao-long dành cho thủy quân. Thứ tư bến Ngạc-ngư dành cho thuyền buôn lớn. Thứ năm bến Kình-ngư dành cho thuyền dân.
        Mỹ-Linh bảo thuyền trưởng:
        - Người cứ cho thuyền vào bến Tiềm-long.
        Thuyền trưởng không biết Mỹ-Linh là công chúa, y kinh ngạc:
        - Cô nương nói sao? Cô nương muốn thuyền này cập bến Tiềm-long ư? Tôi sợ thuyền chưa vào bến, đã bị thủy quân vây bắt rồi. Chiều nay, không biết tôi có còn đầu để ăn cơm không?
        Phạm Hào từ dưới đi lên, ông ôn tồn bảo Mỹ-Linh:
        - Công chúa hãy tạm theo thuyền của chúng tôi về bến Kình-ngư rồi hãy vào Hoàng-
        thành cũng không muộn.
        Thuyền vẫn rẽ sóng tiến lên. Trên sông, thuyền lớn, nhỏ ngược xuôi tấp nập. Mỹ-Linh chỉ vào nơi có nhiều thuyền lớn đậu phía trước nói:
        - Kia là bến Tiềm-long.
        Nàng vừa dứt lời, có hai con thuyền lớn, rời bến Tiềm-long. Trên thuyền, binh lính xếp hàng, gươm đao sáng ngời. Hai con thuyền dàn ngang ra giữa sông. Một hồi chiêng trống vang dội. Viên tướng đứng trên nóc thuyền cầm loa hướng vào thuyền Đông-a, nói lớn:
        - Tuân chỉ dụ Khai-quốc vương, phụ quốc thái-úy, quản Khu-mật viện, thống lĩnh binh mã Đại-việt. Tôi, đô đốc hạm đội Thăng-long cung nghinh các anh hùng phái Đông-a. Không biết vị đại hiệp nào bên đó?
        Phạm Hào cảm động, vận nội lực nói lớn:
        - Phạm Hào, Trần Kiệt thôn phu trang Thiên-trường ở đây.
        Hai con thuyền lớn đi kèm hai bên thuyền Đông-a. Viên đô đốc hướng sang phía Phạm Hào chắp tay hành lễ:
        - Tiểu tướng hằng nghe Đông-a đệ tam kiệt Phạm tiền bối anh hùng cái thế, nổi danh với bẩy mươi hai chiêu Thiết-kình chưởng. Không ngờ hôm nay được hân hạnh bái kiến. Còn vị đứng cạnh, hẳn là Đông-a ngũ kiệt Trần đại hiệp, năm trước đây tay không đập chết ba mươi sáu tên gian tế nhà Tống sang Đại-Việt mưu dò thám. Uy danh đến nay con rung động vùng Bắc-biên.
        Trần Kiệt nói:
        - Một vài việc nhỏ mọn, đâu đáng để đô đốc nhắc tới?
        Viên đô đốc nói lớn:
        - Chủ nhân tiểu tướng cực kỳ hâm mộ Đông-a ngũ kiệt. Người lệnh cho tiểu tướng chờ đón ở đây từ sáng sớm hôm nay. Người hiện đang chuẩn bị những loại cá ngon nhất, để tiếp đãi hai vị anh hùng.
        Nguyên phái Đông-a, đa số xuất thân làm nghề đánh cá. Cho nên Đông-a ngũ kiệt chỉ ăn cá. Anh em Phạm Hào không ngờ Khai-quốc vương lại tinh tế đến thế. Thuyền từ từ tới bến Tiềm-long. Trên bờ, hai hàng quân sĩ gươm dáo sáng ngời. Một viên tướng mặc giáp trụ, ngồi trên mình ngựa khom lưng làm lễ:
        - Đệ tử Ngô An-Ngữ kính cẩn tham kiến nhị vị sư thúc.
        Phạm Hào nhận ra viên tướng đó chính là đệ tử của sư huynh chưởng môn. Hai người vui vẻ:
        - An-Ngữ. Nghe nói hồi này sư điệt đắc thế, làm quan lớn rồi phải không?
        Ngô An-Ngữ kính cẩn:
        - Sở dĩ đệ tử có địa vị ngày nay, đều do công ơn giáo huấn của sư phụ cùng các vị sư thúc.
        Ngô An-Ngữ hành lễ với Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, Thiệu-Thái. Thanh-Mai gặp sư huynh thì mừng lắm:
        - Sư huynh. Cháu Thường-Kiệt đang ngủ dưới khoang thuyền.
        Thường-Kiệt từ khoang thuyền bước lên. Nó nói với bố:
        - Bố ơi, con được sư thúc cho gọi bằng cô. Được thái sư phụ dạy võ cho mấy tháng nay.
        Ngô An-Ngữ mời mọi người lên ngựa, hướng về phủ Khai-quốc vương. Tới cổng phủ, từ xa đã thấy Huệ-Sinh, Nùng-Sơn-Tử cùng với Lý Long đứng chờ đón. Anh em Phạm Hào vội xuống ngựa. Lý Long chắp tay hướng vào anh em Phạm Hào:
        - Tại hạ Lý Long-Bồ, đệ tử phái Tiêu-sơn, xin kính cẩn ra mắt nhị vị đại hiệp.
        Phạm Hào nghe Khai-quốc vương nói vậy. Ông biết vương muốn dùng lễ võ lâm tiếp anh em mình. Ông cảm động nói:
        - Người ta đồn, ai chưa gặp Khai-Quốc vương, thì đừng khoe mình anh hùng. Nay thấy tư thái vương gia, thực còn hơn lời đồn.
        Lý Long nói:
        - Mấy tháng nay, nghĩa nữ của tại hạ là Mỹ-Linh cùng hai cháu Thiệu-Thái, Bảo-Hòa được các vị đại hiệp Đông-a hết lòng dạy dỗ. Tại hạ thực cảm tạ ơn nghiã này vô cùng tận.
        Mỹ-Linh thấy chú và sư phụ, thì mừng muốn khóc được. Nàng nắm tay sư phụ:
        - Sư phụ. Lão nhân gia tâm thường an lạc chứ?
        Huệ-Sinh mỉm cười rất tươi:
        - Ừ, sư phụ với chú hai vẫn mạnh.
        Lý Long liếc nhìn Thanh-Mai. Bốn mắt gặp nhau. Thời gian xa cách mấy tháng, thương nhớ chồng chất. Những lúc nhớ Thanh-Mai, chàng chỉ mong có cánh bay đi gặp nàng, rồi ôm lấy thân thể thon đẹp, để thoả nỗi nhớ nhung. Nay gặp nhau, vì trước mặt họ là hai vị sư thúc, rồi còn Huệ-Sinh, Nùng-Sơn tử, vì vậy hai người im lặng, nhưng trong cái liếc mắt ấy chứa chan tình yêu.
        Kị binh dẫn ngựa tới. Mọi người leo lên. Dọc đường, thiết kị đi hai bên hộ tống, khí thế cực kỳ uy nghi. Ngựa đi vào cửa Bắc. Nhìn cổng thành cao vòi vọi. Trên lầu vọng địch, binh sĩ gươm dáo sáng ngời. Ngựa, xe đi lại trên thành hàng lối ngay thẳng. Cổng thành có hai cánh lớn bằng gỗ bọc đồng. Từ ngoài vào thành phải qua cây cầu bằng gỗ lớn, bắc ngang qua hào sâu. Trần Kiệt thường tự hào rằng chỉ anh em trong phái Đông-a mới có đủ tài thao lược. Hôm nay ông thấy quân khí của triều đình, thì bao nhiêu kiêu căng biến mất. Ông tự nhủ:
        - Người ta nói Khai-quốc vương có tài kinh thiên động địa, mà trong lịch sử chỉ tể tướng Phương-Dung thời Lĩnh-nam mới hơn được, quả không ngoa. Xem cách trị binh thế này, hèn gì y không nảy hùng tâm muốn đòi lại đất tổ bị người Hoa chiếm mất?
        Ngựa đi vào trong thành. Đường trong thành đều lót đá. Hai bên đường, nhà cửa san sát, ngựa xe tấp nập. Đoàn người ngựa đến cung Uy-viễn thì ngừng lại. Nùng-Sơn tử chỉ vào cửa nói:
        - Cung Uy-viễn là nơi làm việc của Khu-mật viện. Vượt qua cửa Đan-phượng vào trong là điện Giảng-vũ, phủ đệ của thái-úy phụ quốc.
        Anh em Phạm Hào theo Lý Long đi vào. Binh sĩ cắp gươm đứng uy nghiêm như cây gỗ. Trần Kiệt khen:
        - Vương gia trị quân nghiêm như thế này, thực chỉ có quân binh thời Lĩnh-nam là bì kịp.
        Lý Long khiêm tốn:
        - Tạo được uy thế này, là do công lao của biết bao nhiêu hào kiệt giúp đỡ. Chứ mình tại hạ không thể nào làm nổi.
        Trần Kiệt liếc nhìn cung Uy-viễn nghĩ thầm:
        - Bọn Tống nghe đến Khu-mật viện Đại-Việt ắt kinh tâm động phách. Khu-mật viện là đây, trông bên ngoài thực hiền hậu. Nhưng có ai ngờ trong cung này chứa bao nhiêu con người mưu trí trùm hoàn vũ.
        Đến điện Giảng-vũ, Lý Long mời khách lên lầu. Phân ngôi chủ khách xong, chàng nói:
        - Chẳng mấy khi tại hạ được gặp gỡ nhị vị đại hiệp. Mong nhị vị ở lại Thăng-long mấy ngày, để tại hạ được học hỏi ít điều.
        Phạm Hào tự thị là túi khôn của phái Đông-a, ngoài võ công vô địch ra, ông đọc không biết bao nhiêu sách của Việt của Hoa. Ông những tưởng, mưu trí mình trùm thiên hạ. Không ngờ lúc sắp đến Thăng-long, anh em ông được Khai-quốc vương tiếp đón cực kỳ chu đáo. Nếu xét về lễ nghi vẫn có đầy đủ lễ nghi. Nhưng trong cái lễ nghi, lại không khách sáo. Cuộc tiếp đón cực kỳ chu đáo, không có một chút sơ hở. Hơn thế nữa, Khai-quốc vương còn tỏ cho anh em ông thấy phong thái ôn nhu văn nhã, nhã lượng cao trí của một kẻ sĩ. Ông càng phục hơn.
        Ông nghĩ thầm:
        - Anh em mình cùng Thanh-Mai lên đường, chỉ có người trong phái Đông-a biết. Thế mà từ sáng đến giờ, thoáng qua, Khai-quốc vương đã biết, còn kịp thời tổ chức đón tiếp.
        Từ chỗ khâm phục, ông sinh khách sáo:
        - Anh em tại hạ là kẻ võ phu thô lỗ ở chốn quê mùa, mà vương gia dành cho danh dự này đã là quá đáng rồi. Nghĩ ra thực thẹn vô cùng.
        Huệ-Sinh vỗ tay cười:
        - Túi khôn của phái Đông-a có khác, ứng đối hay thực. Tất cả chúng tôi đang muốn cầu Trần ngũ kiệt phái Đông-a giúp cho một vài phương cách đối phó với bọn Tống đây.
        Trần Kiệt chắp tay:
        - Đại sư dạy quá lời. Anh em tại hạ hạc nội mây ngàn, vui với cỏ cây thực. Nhưng nếu vương gia cần sức mọn của anh em tại hạ đối phó với quân cướp nước, thì anh em tại hạ xin ra sức.
        Khai-quốc vương nắm tay Trần Kiệt:
        - Trần ngũ kiệt nói câu đó, quả thực tỏ được võ đạo phái Đông-a cao muôn thủa. So tuổi tác, vai vế, tại hạ còn ở dưới đại hiệp một bậc.
        Nói rồi chàng liếc nhìn Thanh-Mai. Thanh-Mai cúi đầu e thẹn.
        Trần Kiệt chau mày suy nghĩ:
        - Khi ra đi, đại sư huynh chưởng môn của ta muốn chúng ta gặp chưởng môn phái Tản-viên, thăm dò ý kiến về trường hợp bọn Tống kéo quân sang. Chúng nêu ngọn cờ chính nghĩa Hưng diệt, kế tuyệt, bắt Lý Công-Uẩn thoái vị, nhường ngôi cho Lê Long-Mang, hiện là Hồng-Sơn đại phu. Phái Đông-a muốn Đặng chưởng môn Tản-viên hãy nghĩ đến chiến tranh xẩy ra, đất nước điêu linh, người chết hàng mấy chục vạn, mà lại khó giữ nổi nước mà cùng phái Đông-a áp lực Lý Công-Uẩn thoái vị. Như vậy phái Đông-a làm sáng cái đạo lý bênh vực kẻ yếu, chủ trì công đạo. Thứ nhì giữ võ đạo, duy trì tình giao hảo của sư phụ, trước đây là bạn của Lê Hoàn. Chúng ta là bạn của Lê Long-Mang. Thứ ba tỏ ra cho võ lâm biết, phái Đông-a tri ơn Lê Hoàn có công đánh Tống.
        Không ngờ Khai-quốc vương lại dùng đại lễ tiếp anh em ông, rồi xin kế sách cho hoàn cảnh này của họ Lý. Ông đưa mắt nhìn sư huynh.
        Phạm Hào biết ý Trần Kiệt, ông đỡ lời sư đệ:
        - Chúng tôi có năm anh em. Bất cứ quyết định truyện gì, cũng phải có ý kiến tất cả năm. Hiện tại, chúng tôi chưa dám hứa gì cả.
        Huệ-Sinh cười tủm tỉm:
        - Bần tăng thử đặt một giả thuyết thôi: Ví như Hồng-Sơn đại phu bỏ ý định đòi lại ngôi vua. Mà bọn Tống vẫn kiếm cớ mang quân sang Đại-Việt nhị vị đại hiệp nghĩ sao?
        Trần Kiệt nghĩ thầm:
        - Chết thực. Phái Đông-a của mình, người nhiều, nghe rộng. Thế mà chưa chắc Lê Long-Mang với Hồng-Sơn đại phu có phải là một không. Đại sư huynh đang trên đường đi Vạn-thảo sơn trang tìm hiểu sự thực. Nay nghe ngôn từ của lão Huệ-Sinh này thì ra Khu-mật viện không những biết rõ Mang đích thực Hồng-Sơn đại phu. Còn những chuẩn bị của Lê Long-Mang, Khu-mật viện biết hết. Ngay cả âm mưu bọn Tống, cùng những điều phái Đông-a đang làm cũng không qua được mắt họ. Khi họ đã biết hết, mà mình chối thì còn xưng anh hùng sao được?
        Ông đưa mắt nhìn sư huynh, nhìn Khai-quốc vương, ông nghĩ rất nhanh:
        - Huệ-Sinh hỏi câu đó, tỏ ra Khai-quốc vương rộng lượng bao dung. Đúng luật Đại-Việt, âm mưu của Hồng-Sơn đại phu, cùng chuẩn bị của phái Đông-a là phạm tội đại nghịch. Nếu muốn, Khai-quốc vương có thể đem quân làm cỏ Vạn-thảo sơn trang cùng trang Thiên-trường, mà y không làm. Y đã đem cái lễ kẻ sĩ cái lượng anh hùng đãi mình, mà mình không biết điều, chẳng hoá ra anh em mình là kẻ ngu chăng?
        Ông vái Khai-quốc vương một vái:
        - Bất cứ trường hợp nào, quân Tống sang Đại-việt, phái Đông-a xin đi tiên phong. Sư phụ tại hạ xưa đã làm việc đó trên sông Bạch-đằng. Thì nay anh em tại hạ xin nối tiếp, đâu dám ôm kiếm đứng nhìn quân Tống giết người Việt.
        Khai-quốc vương thân rót rượu mời khách:
        - Anh hùng mới biết anh hùng. Hồng-Sơn đại phu hiện đức cao hơn núi. Tiểu bối e rằng người không còn thiết lên ngôi vua nữa. Làm vua thì cũng đến giầu có ức vạn. Đại phu hiện giầu hơn phụ hoàng nhiều. Làm vua được trăm họ phục tùng. Nhưng trong cái phục tùng đó, e có phân nửa cưỡng ép. Còn Hồng-Sơn đại phu được người đời tâm phục, khẩu phục, điều đó phụ hoàng tại hạ chưa chắc bằng.
        Anh em Phạm Hào, Trần Kiệt không bao giờ có thể nghĩ rằng Khai-quốc vương lại hào sảng, sòng phẳng đến độ đó. Thường từ người dân đen cho đến tể tướng, mở miệng đều phải ca tụng thiên tử là thánh thiên tử rồi đức thì sánh Thái-sơn cai trị dân thí phải hơn Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang. Chứ có đâu là con vua, mà vương lại ca tụng đức của kẻ đang lăm le đánh chiếm ngôi vua cha? Đã vậy vương còn nói toẹt ra, người ta phục tùng vua cha do cưỡng ép, còn phục tùng kẻ đối đầu do tâm phục.
        Thông thường những người trí cả, chỉ cần nói một câu đã hiểu nhau. Khi hành sự, anh hùng thường giống nhau. Khai-quốc vương, Huệ-Sinh đều là đấng anh hùng. Phạm Hào, Trần Kiệt là thứ anh hùng thảo dã. Cho nên họ nói với nhau tuy ít, mà hiểu nhau lại nhiều.
        Trần Kiệt nói:
        - Nếu được như lời vương nói, cái thế nguy của quân Tống không còn nữa. Đại-việt là một khối. Chúng ta có thể tính xa được. Vương còn chờ gì mà không chỉ ngọn cờ lên Bắc, trước chiếm Lưỡng- Quảng, sau phục Đại-lý. Đất nước thời vua Hùng, vua Trưng được phục hồi!
        Huệ-Sinh nắm tay Trần Kiệt:
        - Theo ý đại hiệp, chúng ta phải làm những gì?
        Trần Kiệt không đắn đo:
        - Bọn Tống vừa định giúp một thân vương Chiêm-thành chiếm ngôi vua. Ta phải theo dõi thực sát. Bất cứ phe nào thắng, ta giúp phe bại, rồi nhân đó hoặc chiếm lấy Chiêm-thành, hoặc khống chế họ. Như vậy mặt Nam đã yên.
        Ông ngừng lại nhìn Huệ-Sinh rồi tiếp:
        - Chúng ta cần có mười năm chỉnh bị cho dân giầu, luyện quân cho tinh. Bắc liên kết với Tây-hạ, Liêu, Kim. Họ mang quân đánh vào Tống. Đại-lý đem quân vượt Kim-sa-giang chiếm đất Thục. Vua Bà Bắc-biên đem quân đánh vào Quảng-tây lộ. Ta đem quân đánh Quảng-đông lộ. Một mặt đổ thủy quân lên đánh cắt ngang vào vùng Mân-Việt. Như vậy đại sự ắt thành.
        Khai-quốc vương chỉ lên bản đồ:
        - Xưa Quốc-tổ, Quốc mẫu sinh trăm con. Người phân tán các con đi mười khu, lập ra nước Văn-lang. Bây giờ phía Bắc, thì Quảng-đông, Quảng-tây thuộc Tống. Tượng-quận do anh hùng Thiên-sơn, Tượng-quận dựng lên triều đình Đại-lý. Phía Nam, chúng ta bị cắt thành Chiêm-thành, Chân-lạp. Phía Tây chúng ta bị chia ra Lão-qua, Xiêm-la. Tại hạ nghĩ làm sao thống nhất tộc Việt, trước khi chỉ ngọn cờ lên Bắc. Không biết nhị vị có cao kiến gì?
        Trần Kiệt đưa mắt nhìn Huệ-Sinh:
        - Thời nhà Chu, Văn-vương phong tám trăm chư hầu. Sau thu còn bẩy nước. Cuối cùng Thủy-Hoàng thống nhất làm một. Tần thống nhất được, không hẳn bằng võ lực. Bởi bằng võ lực rồi cũng bị võ lực đánh tan. Sở dĩ Tần, rồi Hán giữ nguyên được là nhờ văn hoá. Văn hoá của họ có Bách-gia, Chư-tử, Cửu-lưu, Nho, Lão. Tất cả dân Trung-quốc đều thờ Tam-hoàng, cùng nếp sống văn hoá. Vì vậy Tần, Hán thống nhất dễ dàng.
        Ông ngừng một lúc, rồi tiếp:
        - Tộc Việt mình trước kia có một trăm lạc hầu, cai quản một trăm nước. Đến khi vua An-Dương lên, vẫn còn lạc hầu, lạc tướng, nhưng thu lại thành mười vùng là Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận, Giao-chỉ, Lão-qua, Cửu-chân, Nhật-Nam, Việt-thường, Chân-lạp, Xiêm-la. Sau bị Tần chiếm mất Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận. Khi Triệu-Đà chiếm Âu-lạc, anh hùng Lão-qua, Xiêm-la, Chân-lạp hùng cứ không phục, thành một nước riêng. Việt-thường thành Chiêm-quốc.
        Huệ-Sinh, Nùng-Sơn tử nghe Trần Kiệt luận, mới phục ông bác học. Ông tiếp:
        - Khi vua Trưng phất cờ đuổi giặc, các xứ Lão-qua, Chiêm-thành, Xiêm-la, Chân-lạp không chịu hợp tác. Vì họ không bị Hán cai trị. Lúc vua Trưng thành đại nghiệp, sợ ngài cưỡng bách qui phục. Họ thần phục Hán, đem quân đánh phía sau. Vì vậy cho đến nay, tiếng nói đã khác, phong tục không đồng. Họ tự hùng cứ, coi như một nước. Nhưng có hai thứ, khiến họ với chúng ta ngồi lại với nhau.
        Huệ-Sinh mỉm cười:
        - Đại hiệp đừng nói vội. Chúng ta thử viết vào bàn tay xem có giống nhau không.
        Huệ-Sinh, Nùng-Sơn tử, Lý Long, anh em Trần Kiệt cùng cầm bút viết vào lòng bàn tay. Huệ-Sinh hô:
        - Chúng ta để tay lên bàn.
        Năm người cười ồ lên. Vì bàn tay Trần Kiệt, Phạm Hào có chữ Lạc-long quân, Âu-Cơ, Lĩnh-Nam vũ kinh. Bàn tay Huệ-Sinh, Nùng-Sơn tử, Lý-Long có chữ Dùng Quốc-tổ, Quốc-mẫu, võ công.
        Huệ-Sinh mỉm cười:
        - Dùng Phật giáo thống nhất tộc Việt không được. Vì những người theo Nho, theo Lão chống. Dùng Nho, Lão thì bị Phật giáo chống. Chúng ta vốn có tôn giáo thờ tổ tiên, lấy việc tôn thờ Quốc-tổ, Quốc-mẫu cùng anh hùng dân tộc, thì người Việt ở Xiêm, ở Lão, ở đâu cũng quay đầu lại với nhau.
        Phạm Hào tiếp:
        - Một điều đáng ghi nhớ nữa, hiện Đại-lý có phái Thiên-tượng. Vùng Lưỡng-Quảng có phái Trường-sa. Lão-qua có phái Vạn-tượng, Chiêm-quốc có phái Phật-thệ, Chân-lạp có phái Cửu-long, Xiêm-la có phái Tha-Nôm. Tất cả đều cùng nguồn gốc từ thời Lĩnh-Nam. Hiện võ công của họ đã bị thất truyền hơn nửa. Nay vương gia có bộ Lĩnh-nam vũ kinh trong tay, có thể qui tụ họ về nguồn gốc.
        Ông lại nhìn Đỗ Lệ-Thanh, Thân Thiệu-Thái rồi liếc Khai-quốc vương cười lớn:
        - Về phương Bắc, hiện bọn Triệu Thành bị trúng Chu-sa độc, chúng chết hay sống là do vương gia. Vương gia còn đợi gì mà không ban thuốc giải cho chúng. Sai một số cao thủ giúp Triệu Thành, để y về nước cướp ngôi của cháu.
        Nùng-Sơn tử hỏi:
        - Trường hợp y không cướp ngôi của cháu thì sao?
        Trần Kiệt cười:
        - Nùng đạo trưởng thử tại hạ làm chi vậy? Nếu y không cướp ngôi ta tìm cách phao lên rằng y sắp cướp ngôi. Lưu thái hậu ắt nghi ngờ, thu quyền của y hoặc giết y. Bấy giờ trong triều rối loạn. Biên cương ta khởi sự. Khó gì?
        Khai-quốc vương đứng dậy chắp tay vái Trần Kiệt ba vái:
        - Đa tạ sư thúc chỉ dạy.
        Nói rồi chàng nhìn Thanh-Mai. Bốn mắt gặp nhau biết bao lưu luyến.
        Truyện Thanh-Mai với Khai-quốc vương, Trần Kiệt biết rõ hơn cả anh mình. Nhưng vì thương cháu, ông không muốn cho anh biết hết. Ông mỉm cười, tìm một câu nói, để cho Khai-quốc vương hiểu rằng Ta biết việc vương say cháu ta từ lâu rồi. Ông nói với Thanh-Mai:
        - Cháu đã tạ vương gia tặng hoa quý chưa?
        Câu nói đó làm Thanh-Mai ngượng đã đành. Mà anh hùng như Khai-quốc vương cững ngơ ngẩn:
        - Lão này ghê thực. Thì ra lão biết từ hồi ấy, mà mình tưởng không ai hay. Song lão giữ bí mật như vậy, có nghiã là lão không ghét ta. Việc ta với Thanh-Mai coi như xong.
        Huệ-Sinh muốn gỡ thế e thẹn cho Thanh-Mai. Ông hỏi:
        - Cháu ngoan! Bố cháu hồi này ra sao?
        Thanh-Mai cảm động đáp:
        - Thưa sư bá, hồi này sức khỏe, võ công của bố cháu tăng. Nhưng trong lòng không được vui.
        Huệ-Sinh nói bâng quơ:
        - Những gì đang diễn ra ở kiếp này, là kết tinh muôn vàn kiếp trước. Bố cháu có buồn cũng vậy thôi. Nghiệp đã đến thì chỉ có một đường duy nhất là vui vẻ tiếp nhận. Bằng không kiếp sau nó sẽ trở lại.
        Thanh-Mai nhắc lại lời bố nàng:
        - Bố cháu tiếc rằng sư bá không đắc đạo trước khi mẹ cháu bị nạn.
        Huệ-Sinh ngửa mặt nhìn trời:
        - Cháu cho rằng đời này sướng lắm sao? Biết đâu mẹ cháu chẳng thác sinh vào thế giới khác sướng gấp nghìn lần.

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2005 10:28:44 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 07.01.2005 17:50:08 (permalink)
          Hồi thứ bốn mươi

          Nhất thi khẳng khái anh hùng lệ,
          Bách chiến, quan hà cố quốc tâm.


          (Câu đối ở đền thờ Đào Hiển-Hiệu, Quý-Minh, Phương-Dung).

          Nghĩa là:

          Một bài thơ khẳng khái, anh hùng rơi lệ.
          Trăm trận đánh, lòng luôn nghĩ đến cố quốc.



          Khai-quốc vương đãi tiệc anh em Phạm Hào xong. Hai vị thượng khách được mời đến cư ngụ trong điện Nghinh-tân, là nơi hoàng đế dành tiếp sứ thần ngoại quốc. Thời bấy giờ ngoài sứ nhà Tống còn có sứ của Đại-lý, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la thường vãng lai Thăng-long. Tất cả đều cư ngụ trong điện Nghinh-tân. Còn Thanh-Mai, Tự-Mai, Tôn Đản là anh em kết nghĩa với Lý Long, đều ở trong phủ Khai-quốc vương.
          Vì phải tiếp xúc với võ lâm, anh hùng, nên Khai-Quốc vương mở phủ đệ ở trong Kinh-thành, chứ không ở trong Hoàng-thành như các thân vương khác. Sư huynh, sư muội gặp lại nhau, truyện trò như pháo rang.
          Mỹ-Linh đã nếm qua hương vị tình yêu, nàng thông cảm với chú, biết chú với Thanh-Mai xa cách đã lâu, có nhiều truyện muốn nói với nhau. Nàng tìm cách đưa Tự-Mai, Tôn Đản rời vương phủ bằng cách sai người dem hai ông mãnh hay tò mò này đi viếng thăm kinh đô thời Âu-lạc ở Cổ-loa, cách xa Kinh-thành hai giờ sức ngựa.
          Sau đó nàng nói với đầu bếp luộc đôi con gà trống lớn, xôi một chõ xôi. Nàng sắm sửa hoa quả, nến, hương rồi nói với Thiệu-Thái:
          - Chúng ta vắng mặt một thời gian. Bây giờ em phải phải yết kiến phụ vương cùng các thúc, bá. Vậy anh với chị Bảo-Hòa nên đi với em. Còn ông bà, ngày mai chúng ta theo chú hai vào yết kiến một thể.
          Nghe đến yết kiến Khai-Thiên vương, Thiệu-Thái ngần ngại vô cùng. Chàng biết ông cậu này không thích võ công, mà chỉ thích văn học. Ông với mạ mạ chàng thường xung đột nhau về nhiều vấn đề. Song ở phận cháu, hơn nữa tương lai còn là rể, chàng phải chiều lòng Mỹ-Linh. Khi chàng chuẩn bị lên đường, Đỗ Lệ-Thanh bàn:
          - Thế tử! Thế tử đừng quên rằng trong phủ Khai-Thiên vương có gian nhân ẩn thân. Hắn đã hại vương phi bằng Chu-sa độc chưởng. Để thế tử với quận chúa đi một mình, tiểu tỳ không an tâm. Xin thế tử cho tiểu tỳ cùng theo đi.
          Thiệu-Thái cảm động về sự tận tụy của Đỗ Lệ-Thanh. Chàng nói:
          - Vậy thì phiền phu nhân quá.
          Đỗ Lệ-Thanh bùi ngùi:
          - Tiểu tỳ còn sống đến hôm nay, đều do chủ nhân.
          Thời bấy giờ, chế độ vua chúa thịnh thời. Các nhà giầu đều có gia nhân. Gia nhân suốt đời phải phục vụ chủ. Giữa chủ với tớ cách nhau một khoảng rất xa về vị thế. Đỗ Lệ-Thanh giữ lời hứa, nguyện làm tôi tớ cho Thiệu-Thái. Nhưng một là tính tình Thiệu-Thái ôn tồn, chân thực, giản dị. Hai là chàng không giám coi Đỗ Lệ-Thanh như tôi tớ bình thường. Cho nên lời nói của chàng đối với bà luôn luôn trịnh trọng.
          Ba người lấy xe ngựa ra đi. Từ phủ Khai-quốc vương tới phủ Khai-thiên vương khá xa. Khi qua thôn Thổ-quan, tới ngõ Ống lệnh, Mỹ-Linh chỉ vào ngôi đền phía trước:
          - Anh Thái, kia có đền thờ các vị anh hùng thời Lĩnh-Nam mà anh rất khâm phục. Xôi, gà cùng hoa quả em sắm để chúng mình lễ các ngài.
          Thiệu-Thái ngơ ngác:
          - Ba vị này là ai? Anh hùng thời Lĩnh-Nam, vị nào mà anh không khâm phục?
          Bảo-Hòa đưa mắt nhìn Mỹ-Linh cười:
          - Mỹ-Linh đừng nói tên vội, cứ để cho anh Thiệu-Thái nghĩ ra được mới hay.
          Xe từ từ ngừng trước ngôi đền. Đền tuy nhỏ, nhưng rất xinh đẹp. Trước cổng đền có đôi câu đối. Mỹ-Linh đọc:
          Nhất thất trung trinh, thị muội, thị huynh, phái xuất Thanh-hóa tam trí dũng.
          Ức niên miếu mạo, vi thần, vi tướng, lực phù Trưng chúa lưỡng anh thư.
          Thiệu-Thái hỏi:
          - Hai đôi câu đối này nghĩa là gì vậy?
          Mỹ-Linh dịch:
          - Đôi câu đối này có nghĩa: Một nhà trung trinh, này em, này anh, ba người đều xuất từ Thanh-hóa. Ức năm sau miếu vẫn thờ kính làm tướng làm thần, vì đã dốc lòng phò tá vua Trưng.
          Thiệu-Thái vẫn chưa đoán ra đền này thờ ba vị anh hùng nào. Ba người xuống xe. Ông từ thấy có khách vội chạy ra đón vào. Ông nhìn hai thiếu nữ xinh đẹp đi với một thiếu niên, phía sau còn một thiếu phụ theo hầu. Tất cả đều đeo kiếm, thì biết đây là những người có lai lịch lớn. Ông kính cẩn cúi chào:
          - Không biết nhị vị tiểu thư và công tử đi vãng cảnh hay lễ thần?
          Mỹ-Linh đáp lễ, nói:
          - Chúng tôi xin được vào lễ nhị vị quốc công cùng công chúa.
          Đỗ Lệ-Thanh bưng mâm lễ cho ông từ. Ông nhìn lồng bàn, cùng mâm, bát, đĩa đựng lễ mà phát rùng mình.
          Nguyên những vật dụng của Thuận-Thiên hoàng đế, cùng thân vương đều có vẽ biểu hiệu riêng. Những gì của hoàng đế đều vẽ hình rồng bay, để ghi lại khi ngài dời đô ra Đại-la có con rồng thăng thiên. Còn anh, em ngài cùng các con, mỗi người lấy một biểu hiệu riêng. Anh trai ngài, tước phong Vũ-Uy vương lấy biểu hiệu là con phụng. Em trai ngài, tước phong Dực-Thánh vương lấy biểu hiệu là con kỳ lân. Các vị thái tử con ngài, mỗi người cũng có biểu hiệu riêng biệt. Con đầu lòng tước phong Khai-Thiên vương lấy biểu hiệu là con ngựa trắng đang bay qua sông, vì vậy ông còn có tên Phật-mã. Bởi tích cũ, hồi còn là thái tử, đang đêm đức Phật cỡi Bạch-mã vượt sông, mở đầu cho cuộc đi tìm lẽ giải thoát. Khai-Quốc vương là con thứ, ông lấy biểu hiệu bông sen mầu hồng bên lá xanh. Đông-Chinh vương lấy biểu hiệu là con hổ. Cuối cùng, Vũ-Đức vương lấy biểu hiệu là con voi.
          Dân chúng đều biết việc đó. Cho nên ông từ thấy từ mâm tới lồng bàn, bát, đĩa đều có hình bông sen. Ông biết khách tới lễ, ắt là người thuộc phủ Khai-Quốc vương.
          Ông nghe nói, Khai-Quốc vương chưa có vương phi, thì hai thiếu nữ này không chừng là cháu của vương hoặc có thể là vương phi tương lai. Trong nhất thời, ông không biết phải xưng hô thế nào cho phải. Chợt ông để ý đến quần áo Bảo-Hòa hơi khác lạ, người nàng lại tiết ra mùi trầm. Ông hiểu ngay:
          - Mình nghe nói Lĩnh-Nam bảo quốc,hòa dân công chúa hiện là vua Bà vùng Bắc-biên, sinh ra cô con gái là thiên tiên giáng phàm, người lúc nào cũng có hương thơm. Đúng là cô này đây. Hèn chi từ nãy đến giờ mình thấy có mùi hương thoang thoảng như trầm. Còn cậu con trai hơi giống cô, hẳn là anh ruột. Nhưng còn cô gái sắc nước hương trời này là ai? Mình thực may mắn, được gặp thiên tiên.
          Mỹ-Linh chỉ vào đôi câu đối phía trước bàn thờ nói với Thiệu-Thái:
          - Anh cứ đọc đôi câu đối này, ắt rõ các ngài là ai.
          Thiệu-Thái đọc:
          - Ứng đào mộng, há tiên cung, dị tích cổ kim tồn bí sử.
          Phù Trưng vương, trừ Hán tặc, linh thanh Nam, Bắc lẫm sùng từ.

          Chàng lắc đầu:
          - Văn câu đối khó quá, anh hiểu không nổi.
          Mỹ-Linh giảng giải:
          - Vế trên nghĩa là : Ngày xưa trên thượng giới, Ngọc-Hoàng thượng đế chuẩn bị tiệc đãi chư tiên. Ngài sai hai tiên nam, một tiên nữ đi hái bàn đào. Không ngờ tới vườn đào, thấy cảnh trí đẹp quá. Ba vị tiên mải chơi, thành ra về trễ. Ngọc-Hoàng thượng đế truyền đầy cả ba xuống đất Cửu-chân. Nay là Thanh-Hoá. Ba vị tiên đó, sau làm tướng giúp vua Trưng. Khi ba vị giáng trần, thì song thân nằm mộng thấy được cho ba quả đào. Vì vậy câu trên nghĩa là: Ứng vào giấc mộng quả đào, từ tiên cung giáng hạ, tích lạ truyền trong sử sách thần bí. Vế dưới nói rằng: Giúp vua Trưng, trừ giặc Hán, tiếng thiêng khắp Nam, Bắc, đền miếu vẫn tôn nghiêm.
          Thiệu-Thái tỉnh ngộ:
          - Anh biết rồi. Đền thờ này của ba vị anh hùng. Ba vị là anh em ruột. Song anh không nhớ thần tích của ba ngài.
          Mỹ-Linh thuật:
          - Ba anh em đều họ Đào, con chú con bác với Bắc-bình vương Đào Kỳ. Anh cả tên Hiển-Hiệu được phong Đăng-châu quốc công. Anh thứ nhì tên Quý-Minh được phong Ký-hợp quốc công. Em gái tên Phương-Dung được phong Đăng-châu công chúa . Đầu tiên Đăng-châu quốc công lĩnh chức Hổ-nha đại tướng quân thống lĩnh đạo binh Tượng-quận đánh Thục, dưới quyền Bắc-bình vương Đào Kỳ. Ký-hợp quốc công làm phó tướng. Sau khi chiếm Thành-đô, anh hùng Lĩnh-nam phản Hán, khởi nghĩa. Ngài đem quân chiếm lại Tượng-quận trong vòng ba ngày, không tốn một mũi tên, một giọt máu.
          Nghe thuật về anh hùng muôn nghìn năm cũ, tự nhiên Thiệu-Thái rơm rớm nước mắt vì cảm động.
          Bảo-Hòa hỏi:
          - Chị nghe nói, Đăng-châu quốc công là người đa tình bậc nhất thời Lĩnh-nam. Có đúng thế không?
          - Đúng đấy. Trước khi ngài đem quân tùng chinh Trung-nguyên, đã được bố mẹ cưới vợ cho. Phu nhân là sư muội đồng môn với ngài. Phu nhân họ Đinh húy Hồng-Thanh, có sắc đẹp huyền ảo, như có như không. Vừa cưới nhau được ba ngày, quốc-công phải lên đường. Trước khi lên đường ngài làm bài thơ dã biệt bằng tiếng Việt. Song nay không còn, mà chỉ còn bài thơ đã dịch sang Hán văn. Trong đó có hai câu rất thấm thía:
          Nhất thi khảng khái anh hùng lệ,
          Bách chiến quan hà cố quốc tâm.

          Nghĩa là: một bài thơ khẳng khái,anh hùng rơi giọt lệ. Trăm trận đánh quan hà, lòng vẫn giữ trung thành với cố quốc, chứ không phải tùng chinh Trung-nguyên mà quên đất nước. Thế rồi trong khi Quốc-công đánh chiếm Tượng-quận, ở nhà phu nhân cũng dự trận đánh Luy-lâu. Phu nhân bị tử thương, đúng lúc Quốc-công vừa về tới, để chỉ còn ôm xác mà khóc. Từ đấy về sau quốc-công không cưới bất cứ người con gái nào. Ngày ngày ra thăm mộ phu nhân, nói chuyện với phu nhân như hồi còn sống.
          Thiệu-Thái bùi ngùi:
          - Anh đọc sử thấy nói công chúa Đăng-châu đánh trận Long-biên, Luy-lâu, hồ Động-đình, Hằng-sơn. Cuối cùng đánh Lưu Long ở Thiên-trường, rồi không rõ sau ra sao.
          Mỹ-Linh gật đầu:
          - Đúng vậy. Sau khi Bắc-bình vương cùng vương phi quyết chí phá vòng vây Long-biên tử chiến. Ba ngài có tham dự, rồi về chỗ này tổ chức kháng chiến. Vào trận đánh cuối cùng, Mã Viện đem quân vây, ba ngài ẩn vào rừng lau sậy, ẩn náu. Sau không rõ ra sao. Đây chính là nơi đồn trú quân của ba ngài.
          Ba người vào đền, quỳ xuống lễ. Bảo-Hòa hỏi ông từ:
          - Ông từ ơi. Tiền thập phương cúng có đủ nhang khói không?
          Ông từ cúi rạp người xuống:
          - Tấu lạy cô, vì các ngài linh thiêng. Ai cầu gì cũng được, vì vậy thập phương cúng nhiều lắm ạ.
          Mỹ-Linh nghe ông từ nói, nàng ngẩn người ra, không hiểu sao ông nhận được Bảo-Hòa? Nàng đưa ra nén vàng:
          - Ông giữ lấy để đèn nhang.
          Ông từ cúi đầu cầm vàng. Thường thì thời bấy giờ, khách tới lễ thần. Ông từ giữ lại phân nửa lễ vật. Song trường hợp này ông không biết đối xử ra sao. Trả lại hết hay không trả. Vì thường các thân vương đến lễ đền xong, bao giờ cũng để lại hết lễ vật. Nhưng có một lần người trong phủ Vũ-Đức vương đến lễ lại mang về hết. Mỹ-Linh hiểu ý, nàng nói:
          - Bát, đĩa, mâm ông cho tôi xin lại. Còn lộc, ông cứ giữ hết, mai cho người khó.
          Ba anh em lại lên xe ngựa hướng phủ Khai-Thiên vương. Gần tới phủ, lòng Mỹ-Linh nao nao những cảm tình khác lạ. Lát nữa đây, nàng gặp lại phụ vương, sau gần một năm xa cách. Nàng sẽ gặp lại em trai, gặp lại các em gái. Nhưng nghĩ đến phải cúi đầu lạy mấy bà phi của phụ vương, nàng thấy buồn lòng.
          Trước đây vương mẫu của nàng sinh được bốn người con. Nàng là gái đầu lòng. Kế đến hai em gái tên Kim-Thành, và Trường-Ninh. Cuối cùng tới người em trai tên Nhật-Tôn. Khi Nhật-Tôn được ba tuổi thì xẩy ra thảm trạng khiến vương mẫu nàng qua đời. Trước kia phụ vương cực kỳ sủng ái vương mẫu, bà lại là chính phi. Chị em nàng cũng được phụ vương yêu thương. Sau khi vương mẫu qua đời, con các bà phi khác được sủng ái hơn. Vì vậy nàng phải đi ở với Khai-Quốc vương.
          Khi nàng rời Thăng-long về Trường-yên, phụ vương có ba bà phi họ Mai, họ Vương, họ Đinh. Chưa bà nào được phong làm chính phi. Ngôi chính phi vẫn còn bỏ trống. Thành ra trong ba bà, đang diễn ra mối tương tranh để ngồi vào vị thế của vương mẫu nàng.
          Hồi mới lên ngôi vua, mối ưu tư đầu tiên của vua Lý Thái-tổ là chú ý đến việc tuyển chọn người kế vị. Gương vua Đinh bỏ trưởng lập thứ, đưa đến Đinh Liễn giết em vẫn còn đó. Lại nữa khi vua Lê băng hà. Các con tranh quyền, đưa đến chém giết nhau khủng khiếp. Vì vậy ngài mới quyết định rằng tất cả các con trai đều được phong thái tử, không chỉ định người kế vị. Như vậy các thái tử luôn luôn phải tỏ ra có đức độ, cũng như tài ba, để hy vọng được truyền ngôi.
          Nhà vua có ba bà hoàng hậu là Tá-Quốc sinh ra công chúa An-quốc gả cho Đào Cam-Mộc, kế đến công chúa thứ nhì được phong Lĩnh-Nam bảo quốc hòa dân công chúa. Thứ ba đến Đức-Chính, hiệu Phật-Mã, tước phong Khai-Thiên vương, sinh ra Mỹ-Linh.
          Hoàng hậu Lập-Nguyên sinh Long-Bồ tước phong Khai-Quốc vương cùng bốn công chúa. Hoàng hậu Lập-Giáo sinh hai con trai, được phong Đông-Chinh vương và Vũ-Đức vương. Sau này, thu dụng thêm một mỹ nhân sắc phong Tây-cung quý phi họ Đàm. Bà là con của một đại thần tên Đàm Can, hiện giữ chức đô nguyên soái, tổng trấn Thăng-long. Quý phi còn là chị của Đàm Toái-Trạng, cùng Đàm An-Hòa, sinh ra một trai nữa. Vị hoàng tử này không được phong vương, vì ông ngoại với cậu phạm tội đại nghịch, sẽ nói sau.
          Tổng cộng vua Lý Thái-tổ có mười ba con gái, đều được phong công chúa. Riêng trường hợp Mỹ-Linh, nàng là con gái Khai-thiên vương, chỉ được phong quận chúa như những cô em nàng cùng các cô con chú. Năm trước đây, vương mẫu nàng qua đời trong một cuộc mưu sát của kẻ vô danh. Thuận-Thiên hoàng đế biết cái chết đó, anh em người thiếp yêu của ngài là Đàm qúi phi có liên hệ.
          Khai-Quốc vương xin thụ lý. Ngài truyền xếp nội vụ lại. Để an ủi Khai-thiên vương, ngài đặc cách phong cho Mỹ-Linh làm công chúa, như vậy ngụ ý ngài ngầm hứa sẽ truyền ngôi vua cho vương. Cho nên vương đặc biệt sủng ái nàng. Ba bà thiếp càng tranh dành nhau quyết liệt. Nếu được làm vương phi, thì sau này đương nhiên thành hoàng hậu. Bà nào là hoàng hậu thì con trai sẽ trở thành vua.
          Vì vậy ba bà đều tìm cách ngầm hại nhau, cùng tìm cách dèm pha chị em Mỹ-Linh. Trời sinh Mỹ-Linh có sắc đẹp huyền ảo. Nội trong cung vua, không ai sánh kịp. Đó là một lý do, khiến các bà càng ganh ghét nàng.
          Khai-Quốc vương thấy vậy, đề nghị với anh, giao Mỹ-Linh cho vương nuôi. Khác với anh, dạy con rất nghiêm. Bố con ít khi nói truyện thân mật. Khai-Quốc vương đối xử với các cháu bằng tình cảm chân thực. Khi cần dạy dỗ, vương rất nghiêm khắc. Còn ngoài ra, chú cháu thân thiết đằm thắm. Bất cứ đi đâu vương cũng mang Mỹ-Linh theo. Vương muốn Mỹ-Linh sẽ có võ công cao như công chúa An-Quốc. Có tài kinh bang, tế thế như công chúa Bảo-Hòa, đang làm vua Bắc-biên.
          Xe tới cổng vương phủ. Lính canh thấy Mỹ-Linh, vội hành lễ. Xe chạy thẳng đến chính đường. Mỹ-Linh xuống xe. Một tỳ nữ trông thấy nàng, mừng mừng tủi tủi hỏi:
          - Công chúa đã về đấy à? Nhà đang có sự.
          Mỹ-Linh hỏi:
          - Việc gì vậy?
          Tỳ nữ nói:
          - Quận chúa Kim-Thành, Trường-Ninh cùng quận chúa Hồng-Phúc gây với nhau. Đinh phi ngày nào cũng kiếm truyện với thế tử Nhật-Tôn. Vương gia nổi giận lôi đình.
          Hồng-Phúc là em gái, bằng tuổi nàng, con vương phi họ Đinh. Vương phi họ Đinh con tiết-độ sứ Đinh Ngô-Thương, đang trấn thủ Thanh-hóa. Hồng-Phúc thường ỷ thế mẹ, gây gổ với chị em nàng luôn.
          Mỹ-Linh hỏi sẽ:
          - Phụ vương hiện ở đâu?
          - Vương gia cùng ba vương phi đều đang ở phòng luyện võ. Mời công chúa đến đấy ra mắt vương gia.
          Mỹ-Linh cùng anh em Bảo-Hòa đẩy cửa bước vào. Giữa võ đường, Khai-Thiên vương ngồi trên chiếc ghế lớn. Cạnh ông, ba bà phi trong quần áo mầu sặc sỡ. Phía sau, một số võ sĩ ngồi khoanh tay. Giữa phòng, Kim-Thành đang đấu với Hồng-Phúc. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Bảo-Hòa tiến tới trước mặt Khai-Quốc vương qùi gối hành đại lễ, chúc phúc.
          Khai-Thiên vương xa con gái gần năm. Bây giờ gặp lại, thấy nàng lớn hẳn lên, nhan sắc càng diễm lệ. Ông truyền:
          - Con đứng dậy đi.
          Ông thấy anh em Thiệu-Thái, Bảo-Hòa gật đầu:
          - Hôm trước bố mẹ cháu nhân sự ở trấn Thanh-hóa, về qua đây có nói hai cháu cùng Mỹ-Linh lĩnh trọng trách chưa về được. Ta tưởng mấy hôm các cháu về. Không ngờ nay gần năm mới xong. Thôi các cháu đứng dậy đi.
          Vương quát lớn:
          - Ngừng tay!
          Kim-Thành, Hồng-Phúc cùng ngừng đấu, bái tổ rồi đứng hai bên chắp tay chờ lệnh. Khai-Thiên vương hướng vào vị võ sư phụ trách huấn luyện:
          - Xin giáo đầu tiếp tục luyện võ cho các con ta cùng vệ sĩ. Lát nữa ta trở lại.
          Ông vẫy tay cho Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, Thiệu-Thái theo ông ra ngoài. Khác hẳn với em là Khai-Quốc vương, đằm thắm, giản dị, tính tình nồng hậu, mau mắn. Khai-Thiên vương nghiêm cẩn, ít nói, không bao giờ ông đùa. Ông giận hờn, hay vui vẻ ít hiện ra nét mặt. Con gái yêu là Mỹ-Linh, xa cách hơn năm, thế mà nay bố con trùng phùng, ông chỉ hỏi thăm có một câu, rồi vẫy nàng theo.
          Đi theo Khai-thiên vương, Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, Thiệu-Thái cùng có cảm nghĩ như nhau. Nếu là Khai-quốc vương, ông đã gọi các cháu lại ngồi cạnh, rồi hỏi han mọi sự diễn ra trong khi xa cách. Đây Khai-thiên vương lạnh lùng đến phát ớn.
          Tới căn nhà lớn, nơi đặt thư phòng, vương truyền cho võ sĩ canh gác phía ngoài, tuyệt đối không cho ai nghe trộm, dù người đó là vợ con ông. Ông truyền Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Bảo-Hòa ngồi, rồi ông hỏi:
          - Hồi đầu xuân, phụ hoàng ban chiếu chỉ phong con làm công chúa Bình-dương, con có rõ tại sao không?
          Mỹ-Linh biết việc nàng được phong công chúa, nâng địa vị lên ngang với phụ vương và các chú, các cô hẳn đã gây ra nhiều bất lợi cho phụ vương nàng. Cho nên gương mặt vương kém vui, đăm chiêu. Nàng đã biết rõ tại sao được ông nội sủng ái đặc biệt như vậy rồi. Nhưng muốn biết kết quả không hay về vụ này đã có những gì diễn ra khi nàng vắng nhà. Nàng hỏi ngược lại:
          - Thưa phụ vương, thần nhi vắng nhà đã lâu. Ở ngòai, thần nhi chỉ biết tuân chỉ dụ của cô mẫu, thúc phụ. Không biết thần nhi đã làm gì để phụ vương buồn lòng.
          Khai-Thiên vương lắc đầu:
          - Con không làm gì cho ta buồn. Có điều những việc con làm ở ngòai thành công quá, Khu-mật-viện tâu lên, khiến ta là mũi dùi của mọi sự tranh dành. Ta biết, khi con rời ta, coi như võ chỉ biết mấy thức nội công Tiêu-sơn tập cho khoẻ mạnh. Văn thực đáng khen tài. Nhưng con vốn ngây thơ, kinh nghiệm một chút không có, làm sao hành sự lại mẫn tiệp như Khu-mật-viện tâu về? Ta, ta không còn lạ gì Khai-quốc vương. Vương muốn đi tu, không muốn làm vua. Vương xin con để làm con nuôi. Vì yêu con quá, mà bao nhiêu việc làm của vương. Vương đều bảo do con làm.
          Ông thở dài:
          - Phụ hoàng ta tuổi hạc đã cao. Anh em chúng ta đến tuổi trên ba mươi cả. Người nào cũng có tài kinh bang, tế thế, có tài cầm quân, công lao với xã tắc đã dày. Bỗng dưng vương mẫu con qua đời một cách đau đớn khôn tả. Vụ này có liên quan tới Đàm Toái-Trạng và Đàm quí phi. Khắp triều đình không ai biết cả. Chỉ duy ta với Khai-quốc vương biết.
          Vương nhìn lên nóc nhà:
          - Vương xin phụ hoàng để cho Khu-mật viện thụ lý. Phụ hoàng đã nói thực như sau: tuổi trời ta đã cao. Ba vị hòang hậu đều có đức, song không biết hầu hạ ta. Duy Đàm quí phi hầu ta, làm cho ta vui lòng. Ta làm vua, giầu có ức vạn, chăm lo hạnh phúc cho toàn dân. Ta chỉ mong được yên hưởng thanh phúc với quí phi. Vậy con đừng làm ta phải buồn. Do thế Khai-quốc vương đành im lặng. Phụ hoàng an ủi ta bằng cách phong cho con làm công chúa Bình-dương, cử làm đại diện người tế mộ Lệ-hải bà vương. Các em ta, cũng như quần thần đều cho rằng cử chỉ đó của phụ vương ngụ ý chỉ định ta làm người thừa kế. Vì vậy có biết bao miệng thế dèm pha ta. Các em kèn cựa ta.
          Bảo-Hòa đã từng cầm quyền, thông thạo quan trường hơn Mỹ-Linh nhiều, nàng thương hại ông cậu. Nàng an ủi:
          - Khi lên đường đuổi theo bọn Địch Thanh đến trấn Thanh-hóa, mạ mạ cháu cũng nói cho cháu biết cậu đang bị nhiều người kèn cựa. Thưa cậu, còn những việc chúng cháu với Mỹ-Linh làm là sự thực, chứ không phải do cậu hai thương chúng cháu, rồi nói tốt đâu.
          Mỹ-Linh tiếp lời Bảo-Hòa:
          - Con nghĩ trong trường danh lợi, đầu dễ bạc. Phụ vương chẳng nên lao tâm khổ tứ tranh dành ngôi trừ quân làm gì. Cứ thản đãng sống ngoài vòng cương tỏa như sư phụ con có phải sung sướng không?


          <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2005 10:32:00 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9