Thuận Thiên Di Sử (từ hồi 11)
CDDLT 07.01.2005 17:54:00 (permalink)
Hồi thứ bốn mươi mốt


Hậu thế tri âm như dục vấn
Đoạn trường tục ký thử dư âm


Dịch:

Tri âm ai đó ngàn sau
Đoạn trường xin hãy vì nhau tỏ bày.
(Hà-thượng-Nhân) (1)




Vương lắc đầu:
- Con hiểu một mà không hiểu hai. Ta nay lâm thế cỡi cọp rồi. Bước xuống e mất mạng. Mạng ta mất đã đành, đến các con cũng khó an tòan. Thời Lê, tấm gương còn đó. Khi em tranh dành được ngôi vua, việc đầu tiên họ nghĩ ngay đến trừ mầm mống nội loạn. Ta là con trưởng, tay cầm trọng binh, đã từng xông pha trận mạc, công lao cũng nhiều, uy tín không nhỏ. Bây giờ bất cứ người em nào lên làm vua, việc đầu tiên họ nghĩ tới trừ ta trước.
Mỹ-Linh chợt nhớ lại Bắc-sử, những gì chép trong Chiến-quốc sách, trong Hán-sử, trong Tấn-sử, Tùy-sử, Đường-sử sống dậy. Khi người ngoài tranh dành ngôi vua với nhau, kẻ thắng dành cho người bại đất sống. Như khi vua Võ-vương đánh Trụ, vẫn phong cho con cháu vua Trụ một nước nhỏ để thờ cúng tổ tiên. Thế mà khi vua Hán Văn-đế lên ngôi vua, Triệu-vương Như-Ý bị giết thảm. Chỉ vì trước đó Cao-tổ Lưu Bang định truyền ngôi cho vương. Đường Thái-tôn tranh ngôi vua, lập tức giết anh là Kiến-Thành, em là Nguyên-Kiệt.
Mỹ-Linh nghĩ đến Khai-quốc vương, nàng hỏi:
- Khai-quốc vương hiện nắm binh quyền trong tay. Không lẽ chú hai lại buông tay nhìn phụ vương bị hại sao?
Vương thở dài:
- Trong các anh em, chú hai là người duy nhất không hại ta, không tranh dành với ta. Nhưng giữa ta với chú hai có một hố ngăn cách. Vì mẫu hậu ta trước đây nghi ngờ chú hai, nên có nhiều lời dèm pha người. Rồi sau đó, phụ hoàng nghe lời xàm tấu của cung nữ, thái giám hầu hạ mẫu hậu ta nói rằng chú hai làm phản. Đang đêm phụ hoàng cùng ta đem quân đến Trường-yên, mới nảy ra việc chú hai bị hàm oan. Từ đấy hố chia rẽ càng lớn. Hai cung nữ, ba thái giám hầu mẫu hậu ta bị xử tử. Phụ hoàng còn trao trọng quyền cho chú hai vì biết chú hai không thích làm vua. Hôm trước ta có dò ý chú hai về việc giúp ta. Chú hai nói thẳng ra rằng chú không giúp bất cứ ai trong anh em ta tranh dành ngôi vua. Người nào được phụ hoàng truyền ngôi, thì chú hai giúp người đó.
Vương nhìn Bảo-Hòa:
- Ta tìm hậu thuẫn ở mạ mạ cháu. Mạ mạ cháu với ta vốn bất hòa từ nhỏ. Cho nên ta có nói cũng vô ích. Chỉ duy có công chúa An-Quốc là hứa giúp ta. Nhưng công chúa chỉ thích trồng hoa, tập võ, còn truyện triều đình không màng tới.
Bảo-Hòa suy tính, rồi hỏi:
- Trong các cậu, hiện ai là người thường cạnh tranh với cậu hơn cả?
- Có hai người. Một là chú ta, tước phong Dực-Thánh vương. Em ta là Vũ-Đức vương. Sở dĩ chú ta cũng tranh dành, vì phụ hoàng có lần muốn theo gương vua Tống Thái-tổ Triệu Khuông-Dẫn, nhường ngôi cho Tống Thái-tôn là Triệu Khuông-Nghĩa. Hai vị vương đều có võ công cao, cầm trọng binh trong tay.
Bảo-Hòa nhớ lại hành tung của Dực-Thánh vương với bọn Tống, mà nàng cùng Mỹ-Linh gặp trên đường từ Thiên-trường về Thăng-long. Nàng định đem ra nói với Khai-thiên vương. Nhưng nhớ lại hôm mới về Thăng-long, Khai-Quốc vương dặn mọi người không được tiết lộ vụ này. Theo vương, thì cứ để vậy theo dõi, mới biết rõ âm mưu bọn Tống. Còn tiết lộ ra, chúng sẽ mua chuộc các thân vương khác, e không biết đâu mà mò.
Nàng nói xa xôi:
- Thưa cậu, cháu nghĩ Dực-thánh vương không đủ tư cách làm vua Đại-việt. Cho dù người có được truyền ngôi, thì võ lâm sẽ nổi lên chống đối. Cậu cứ mặc cho vương tranh dành.
Khai-thiên vương biết Bảo-Hòa không phải là người gặp đâu nói đó. Nàng đưa ra nhận xét về Dực-Thánh vương, chắc có những yếu tố quan trọng mà nàng không thể nói ra.
Khai-thiên vương thấy Bảo-Hoà có nhận xét chính xác. Ông gật đầu:
- Đành rằng thế. Nhưng Dực-thánh vương lại rất được lòng mạ mạ cháu. Người đã hỏi cháu cho đứa cháu trai đích tôn. Dường như tên Hưng-Long thì phải. Hưng-Long học văn, học võ đều thành. Tính tình lại mẫn tiệp, được phụ hoàng rất mực sủng ái. Do vậy thanh thế phủ Dực-thánh càng cao.
Bảo-Hoà nhăn mặt:
- Thưa cậu, cháu xin nói thực. Dù mạ mạ đánh què, cháu cũng không lấy thằng Hưng-Long mặt trắng đâu. Cái thứ đó chẳng không làm lên bất cứ việc gì. Không biết y học võ với ai?
- Y là đệ tử chân truyền của đại sư Nguyên-Hạnh chùa Sơn-tĩnh Cửu-chân. Hiện y thống lĩnh lực lượng thiếu niên Hồng-hương vùng Thăng-long và Thiên-trường, Trường-yên. Thế lực rất lớn.
Nghe đến Nguyên-Hạnh, Bảo-Hoà, Mỹ-Linh đưa mắt nhìn nhau. Nhưng hai người không dám tiết lộ những gì mắt thấy tai nghe ở Thanh-hoá, vì Khai-quốc vương dặn giữ kín.
Khai-thiên vương ngừng lại một lát, tiếp:
- Chỉ lát nữa, phụ hoàng ta sẽ họp tất cả con cháu tại lầu Thúy-hoa. Ta linh cảm thấy việc này rất quan trọng. Cho nên ta cho con biết trước, hầu liệu mà đối đáp.
Ông nhìn Thiệu-Thái:
- Còn cháu, cháu liệu mà trả lời với phụ hoàng ta. Vì các quan trấn Thanh-hóa đều thượng biểu rằng cháu với Bình-dương có tình ý. Cháu đã được mạ mạ hỏi vợ cho. Vợ cháu là con động trưởng động Vật-ác tên Vi Huệ-Chân. Chỉ còn chờ ngày cưới. Cháu không thể làm như thế. Hơn nữa việc dựng vợ, gả chồng do cha mẹ. Không có phép cha mẹ, mà trai gái tằng tịu với nhau là trọng tội. Kể từ giờ này, ta cấm cháu với Bình-dương gần nhau. Bằng trái mệnh ta chặt đầu cả hai. Ta đã quyết gả Bình-dương cho em trai Đàm quý phi tên Đàm An-Hòa.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nghe vương nói, hai người như bị dội một thùng nước lạnh lên đầu giữa mùa đông. Cả hai nhìn nhau, mặt nhợt nhạt.
Bảo-Hoà hỏi lại vương:
- Thưa cậu! Cậu có biết rõ về Đàm An-Hòa không? Lại nữa cái chết của mợ hai có liên quan tới anh em họ Đàm. Cậu không nên gả Mỹ-Linh cho y. Vả y là một đứa lêu lổng. Văn không thông, võ không lực. Suốt ngày ăn chơi trên ghẹo lương gia phụ nữ, chỉ biết dựa hơi cha, anh, chị.
Khai-thiên vương cau mày:
- Đành rằng thế. Nhưng trong các thiếu niên ngang tuổi với Mỹ-Linh, không ai hơn An-Hòa. Đàm Can hiện là tể thần số một của triều đình. Năm con trai, thì bốn làm tiết độ sứ, tuyên vũ sứ, an vũ sứ trọng trấn ở ngoài. Con gái làm quý phi. Ông ta đang giữ chức đô nguyên soái, thái phó, tổng trấn Thăng-long.
Khai-thiên vương tiếp:
- Mỹ-Linh chưa tập võ, bây giờ cũng nên luyện tập cho thân thể khoẻ mạnh, chứ chỉ học văn không thì không đủ.
Nghe phụ vương nói, Mỹ-Linh mừng thầm, vì phụ vương chưa biết những gì xẩy ra cho nàng hơn năm qua. Về võ công, hiện giờ trong triều khó ai bằng nàng. Thế mà phụ vương nàng không biết . Nàng hy vọng sư thái Tịnh-Huyền, cùng với sư phụ Huệ-Sinh có thể giúp nàng với Thiệu-Thái được.
Khai-thiên vương tiếp:
- Thôi chúng ta trở lại võ đường.
Vương đi trước, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Bảo-Hòa theo sau. Vào võ đường, vương ngồi trên ghế chủ vị. Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, Thiệu-Thái đứng ra sau vương, khoanh tay hầu.
Giáo đầu lại cho Kim-Thành với Hồng-Phúc tái đấu. Mỹ-Linh chú ý theo dõi. Nàng kinh ngạc đến ngẩn người ra, vì Kim-Thành dùng võ công Tiêu-sơn. Còn Hồng-Phúc dùng một thứ võ công rất lạ. Bảo-Hòa, Thiệu-Thái cũng quay lại nhìn nàng như cùng hỏi tại sao. Mỹ-Linh trả lời bằng cái lắc đầu.
Kể về công lực, Kim-Thành với Hồng-Phúc ngang nhau. Nhưng về chiêu số Kim-Thành sút kém rõ rệt. Mỹ-Linh biết rõ nguyên do. Đối với các võ công phái khác, chỉ tập một năm đã có một bản lĩnh khá. Còn võ công Tiêu-sơn phải luyện tới năm thứ ba trở đi mới có kết qủa. Nhưng bất cứ võ công môn phái nào, luyện tới năm thứ tư trở đi, đều thua võ công Tiêu-sơn.
Tuy Hồng-Phúc dùng những quái chiêu, nhưng Kim-Thành vẫn công thủ giữ kín môn hộ vững chắc. Mỹ-Linh biết Kim-Thành được phụ vương nàng huấn luyện căn bản rất vững, nhưng không ra ngoài bộ Pháp-vân quyền hoặc bộ Tiêu-sơn hộ thể quyền.
Thình lình Hồng-Phúc tấn công liền ba quyền, Kim-Thành lùi ba bước, gần tới chân tường. Hồng-Phúc lui lại phát một chưởng. Chiêu số rất quái dị. Kim-Thành đành khoanh tay trước ngực chịu đòn. Khai-thiên vương chuyển thân mình một cái, tay ông xuyên vào giữa Kim-Thành với Hồng-Phúc. Hồng-Phúc bị đẩy bật lui lại. Khai-thiên vương tát Hồng-Phúc hai cái liền. Người Hồng-Phúc bị bật văng về sau. Nàng ôm mặt đứng tần ngần.
Khai-thiên vương quát lên:
- Mi học ở đâu ra chưởng pháp này?
Vương mẫu Hồng-Phúc là con gái Đinh Ngô-Thương, hiện giữ chức tiết độ sứ, tổng trấn vùng Thanh-hóa, thanh thế rất lớn. Bà nhập tuyển cung trước vương mẫu Mỹ-Linh, nhưng chỉ được phong phu nhân. Bà thấy con gái bị đòn, thì chạy xa xoa má cho Hồng-Phúc rồi hỏi:
- Vương gia. Hai trẻ đang dượt võ với nhau. Tại sao vương gia bênh Kim-Thành, mà đánh Hồng-Phúc? Chiêu chưởng vừa rồi do thân phụ thần thiếp dạy cho nó đó. Ông ngọai dạy cháu, nào có gì lạ?
Khai-Thiên vương đang đinh cật vấn con gái, thì có tên thái giám bước vào hành lễ:
- Khải tấu vương gia. Đã đến giờ khởi hành đi chúc thọ hoàng thượng. Hoàng thượng có chỉ dụ truyền vương gia đem tất cả thế tử, các vương phi, cùng quận chúa nhập Hoàng-Thành chầu ngay lập tức. Hoàng thượng đang thiết đại yến.
Thời vua Lý Thái-tổ mới lên ngôi, ngài ấn định thiết đại triều một tháng sáu lần vào ngày ba, tám, mừơi ba, mười tám, hai mươi ba và hai mươi tám. Còn tiểu triều thì bất cứ lúc nào có việc khẩn, hoàng đế sẽ cho thiết. Tiểu triều gồm các thái tử, tam-công, tể tướng, sáu vị thượng thư sáu bộ, đô nguyên soái, các quan trong Khu-mật viện. Còn đại triều cũng vẫn những vị trong tiểu triều thêm các thân vương, thân vệ điền tiền chỉ huy sứ cùng các quan văn từ cấp thái bảo trở lên.
Linh tính báo cho Khai-thiên vương biết có biến cố quan trọng, nên phụ-hoàng mới cho thiết tiểu triều khẩn cấp như vậy. Ông truyền:
- Các bà chuẩn bị thực mau.
Ông nói với Mỹ-Linh:
- Con với Thiệu-Thái, Bảo-Hòa cũng đi cùng. Con có gia nhân nào theo hầu không?
Mỹ-Linh nghĩ tới Đỗ Lệ-Thanh, nàng nói:
- Con có đem theo một nữ nô bộc, tuổi trên bốn mươi.
- Vậy con cũng nên cho theo vào hoàng cung luôn.
Khai-thiên vương cùng ba bà phi đi trên một chiếc xe ngựa. Xe của Mỹ-Linh tương đối rộng lớn, nàng cho hai em gái Kim-Thành, Trường-Ninh đi cùng. Còn lại các con của ba bà phi đi trên một chiếc, do Hồng-Phúc dẫn đầu. Chị em xa cách lâu ngày, bây giờ gặp lại nhau. Mỹ-Linh kể về chuyến đi của mình cho các em nghe. Tính tình nàng chân thật, ôn nhu. Vì vậy dù những biến cố nguy nan, nàng cũng chỉ thuật lướt qua mà thôi. Kim-Thành nhỏ hơn Mỹ-Linh một tuổi, Trường-Ninh nhỏ hơn Mỹ-Linh hai tuổi. Hai nàng nghe chị kể, trong lòng thầm mơ sẽ được đi ra ngoài như vậy.
Mỹ-Linh nhớ đến người em trai út, hỏi Kim-Thành:
- Nhật-Tôn đâu?
Kim-Thành thở dài:
- Mấy bà vương phi thường khắt khe, ác độc với nó, nên phụ vương cho nó ở trong cung Long-thụy tại Hoàng-thành với nhũ mẫu. Trên đường đi, chúng ta sẽ đón nó.
Xe vào trong Hoàng-thành, đến cung Long-thụy. Xe ngừng lại. Kim-Thành bước xuống, định vào tìm em, đã thấy nhũ mẫu dắt nó ra.
Nhũ mẫu Nhật-Tôn là một thiếu phụ tuổi khỏang hai mươi, hai mốt, tên Nương. Dáng người bà cao, mảnh khảnh. Khuôn mặt thanh tú. Chồng bà hiện giữ một chức quan văn nhỏ trong phủ Khai-thiên vương. Bà thấy Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, Thiệu-Thái vội hành lễ. Mỹ-Linh tháo chiếc vòng ngọc trên tay, mà hôm trước tiết độ sứ Đinh Ngô-Thương đã tặng nàng làm lễ diện kiến. Nàng cầm tay vú Nương, đeo vòng ngọc vào, rồi nói bằng giọng nhu mì:
- Hơn năm nay mới gặp vú. Hồi này trông vú khỏe mạnh hơn trước. Tôi thay mặt ông nội Nam du, mang quà về tặng vú đấy. Thế nào em tôi ngoan chứ?
Vú Nương cảm động, nước mắt rưng rưng:
- Đa tạ công chúa. Hồi này thế tử bắt đầu học chữ. Quan thái phó Lý Đạo-Thành khen thế tử thông minh lạ thường. Còn võ thì thế tử chưa có sư phụ.
Mỹ-Linh vẫy tay gọi Nhật-Tôn. Nó chạy lại. Nhật-Tôn sinh ra hơn ba năm thì mẹ mất. Tuy được nhũ mẫu săn sóc, nhưng nó vẫn thấy thiếu một cái gì, mà tuổi nó, không biết diễn tả. Nó chỉ biết đeo theo các chị gái. Nhưng các chị gái bị phụ vương ép học văn, học may, học thêu, cùng học cung cách của một quận chúa. Chiều tối còn phải luyện võ nữa. Vì vậy nó cảm thấy bơ vơ cô đơn. Trong các chị gái, nó thích nhất Mỹ-Linh. Không may cho nó, năm trước đây, Mỹ-Linh lại phải rời phủ Khai-thiên vương về ở trong phủ Khai-quốc vương. Gần năm nay, bây giờ nó mới gặp lại nàng.
Vừa trông thấy Mỹ-Linh, nó chạy tới ôm lấy cổ nàng, rồi không hiểu nghĩ gì, nó tu lên khóc. Nó khóc nức nở, khóc nghẹn ngào. Mỹ-Linh bế bổng em vào lòng, tay nàng ôm chặt đầu nó vào ngực, lấy khăn lau nước mắt cho nó:
- Nín đi! Nín đi! Chị đã về đây. Chị thương em nhiều.
Nhật-Tôn lại càng khóc lớn hơn. Nó nói trong nức nở:
- Mẹ chết rồi! Bố bỏ em! Chị cũng bỏ em. Em ở một mình. Em khổ lắm.
Hai tay Nhật-Tôn ôm thực chặt cổ Mỹ-Linh, như sợ nàng đi mất. Mỹ-Linh dỗ em:
- Thôi nín đi. Chị sẽ dẫn em đi chơi! Dẫn em ăn quà.
Rồi không kiềm chế được, nàng cũng khóc. Thế là trên xe, Bảo-Hòa, Kim-Thành, Trường-Ninh cũng khóc theo. Nhật-Tôn ngừng khóc trước, hai tay bá cổ chị, nó hỏi:
- Chị Linh đừng bỏ em đi nữa nhé. Xa chị Linh em khổ lắm.
Nước mắt Mỹ-Linh lại rơi trên mặt Nhật-Tôn. Nàng dỗ em:
- Ừ chị ở lại với em. Em học chữ đến đâu rồi?
Nhật-Tôn nói như con két. Nó thuật tất cả những gì nó học được cho chị nghe. Trong khi nó thuật, xe chuyển bánh tới lầu Thúy-hoa, là nơi nhà vua truyền con, cháu tới đó hội họp.
Mỹ-Linh cùng các em lên lầu. Viên thái giám có bổn phận xếp đặt chỗ ngồi dẫn nàng vào Long-hoa đường là phòng hội lớn nhất trên lầu Thúy-hoa.
Trong Long-hoa đường tiệc đã bầy. Một cỗ lớn nhất, đặt trên sập sơn son thiếp vàng, chạm trổ hình hai con rồng chầu. Đó là cỗ dành cho hoàng đế và các hoàng hậu cùng quý phi. Phía trái, còn ba cỗ nữa, đặt trên ba sập, cũng chạm hình hoàng long, dành cho các bà phi tần, mỹ nữ của vua.
Phía phải có một sập, trên chạm hình con phụng hoàng, dành cho Vũ-uy vương. Một sập chạm hình con kỳ lân dành cho Dực-thánh vương. Phía đối diện có bốn dẫy sập. Một dẫy chạm hình bạch mã dành cho Khai-thiên vương cùng vương phi, con cháu. Riêng Khai-quốc vương chưa có vương phi, con cháu, nên chỉ có một sập, trên bầy cỗ chay. Vì vương thường ăn chay. Một dẫy sập chạm hình con hổ dành cho Đông-chinh vương cùng vương phi, con cháu. Một dãy sập nữa chạm hình con voi, dành cho Vũ-đức vương với vương phi, con cháu. Tiếp sau, có mười ba cỗ trên mười ba sập, dành cho mười ba công chúa cùng phò mã.
Mỹ-Linh được mời ngồi vào sập thứ nhì trong dẫy sập dành cho phủ Khai-thiên vương. Nàng ngồi chung cỗ với Kim-Thành, Trường-Ninh, Nhật-Tôn. Còn sập thứ ba dành cho các em nàng, nhưng là con của Mai, Vương, Đinh phi.
Thiệu-Thái, Bảo-Hòa là con của đệ nhị công chúa, nên được mời ngồi vào sập dành cho mạ mạ nàng. Vô tình nàng được ngồi gần sập của công chúa An-Quốc cùng phò mã Đào Cam-Mộc.
Mỹ-Linh đã quen với những cuộc hội họp như thế này, riết rồi nàng thuộc hết mọi thủ tục lễ nghi. Thông thường, mỗi năm vào các ngày ngày sinh nhật, ngày lên ngôi vua, ngày giỗ các tiên tổ và ngày tết Nguyên-đán đều có cuộc họp. Cuộc họp hôm nay không nằm trong thông lệ, chắc ông nội nàng định loan báo một quyết định gì.
Mỹ-Linh đưa mắt quan sát một lượt. Kinh nghiệm cho biết cứ mỗi cuộc họp mới, số người lại tăng lên. Vì vác vương thu dụng thêm tỳ thiếp, cũng như sinh thêm con. Hiện giờ mới có bậc cháu của hoàng đế. Nàng tỷ mỷ nhìn một lựơt, nói với Kim-Thành:
- Này em, trong các gia, chú hai không có con, cũng chẳng có vợ, thành ra trống trơn. Còn đông nhất thì phủ Vũ-uy vương với Vũ-đức vương. Phủ nhà mình đứng hàng thứ ba.
Trường-Ninh nhìn sang phía phủ Vũ-uy nói:
- Dực-thánh vương là em của ông nội. Vì vậy các thế tử, quận chúa bên đó đều trên chúng mình một vai. Có người lớn tuổi hơn phụ vương. Vì vậy con cháu họ lớn hơn bọn mình. Bên phủ Dực-thánh không chú trọng văn học, ai cũng phải tập võ. Võ công họ rất cao.
Đến đó, một thiếu niên mặt trắng, môi hồng, trang phục lòe loẹt từ phía bên phủ Dực-Thánh dơ tay vẫy chị em Mỹ-Linh. Mỹ-Linh nhận ra y là Hưng-Long. Mỹ-Linh vẫy tay đáp lại. Kim-Thành nói nhỏ:
- Thằng Hưng-Long kỳ lạ lắm. Suốt ngày tô son, điểm phấn, õng ẹo như con gái. Coi thực chướng mắt. Miệng nó luôn xưng em, nhún nhẩy. Ai cũng tưởng nó là con gái.
Mỹ-Linh hỏi em:
- Các em luyện võ đến đâu rồi?
Kim-Thành buồn rầu:
- Hồi vương mẫu còn tại thế, phụ vương cho chúng mình luyện võ. Sau khi vương mẫu qua đời, phụ vương chỉ cho chúng em học văn. Rồi hồi đầu năm nay lại bắt luyện võ trở lại. Vì vậy võ công chúng em thua sút anh chị em phủ khác.
Hồng-Phúc cười nhạt:
- Chỉ có chị em nhà các cô võ công thua sút người, chứ quận chúa phủ Khai-Thiên, có ai chịu thua người đâu? Hôm qua người đấu với ta suýt mất mạng, mà không nhớ ư?
Mỹ-Linh chậm rãi khuyên Hồng-Phúc:
- Em không nên nói những lời khinh bạc như vậy. Chúng ta là con cùng một cha, như hoa cùng gốc. Kim-Thành với em luyện võ với nhau, chứ có phải ra trận đánh nhau với quân thù đâu, mà phải kẻ sống người chết?
Hồng-Phúc vẫn cứng đầu:
- Người tuy lớn tuổi hơn ta, nhưng người chưa từng học võ, thì người lên mặt khuyên ta thế nào được? Ta biết người tự thị văn hay chữ tốt, vậy nếu nay mai có giặc, người hãy cầm bút viết sao cho giặc chết hết mới giỏi, chứ người mang đạo đức ra nói trong nhà nó thối hoăng lên ai mà chịu nổi?
Mỹ-Linh vẫn kiên nhẫn:
- Hồng-Phúc ơi. Tại sao em cứ thích gây truyện như vậy? Gây như thế có ích gì không? Bộ em tưởng võ công cao, rồi muốn đánh ai, chửi ai cũng được sao?
Hồng-Phúc dơ tay tát Mỹ-Linh bằng một chiêu quyền pháp rất kỳ lạ. Nếu Mỹ-Linh muốn, nàng chỉ búng tay một cái, Hồng-Phúc mất mạng ngay. Nhưng nàng thản nhiên để em tát mình. Bộp một tiếng. Hồng-Phúc khoan khóai:
- Chỉ có những cái tát như vậy mới có thể dạy dỗ cho những đứa vô duyên, thích lên mặt dạy đời. Ối chao ôi, chỉ có chiêu võ công hạng bét mà tránh cũng không nổi.
Mỹ-Linh chịu để cho em tát một cái, rồi lên tiếng khuyên giải. Nàng vừa định nói, thì có tiếng hô:
- Im lặng. Chuẩn bị hành đại lễ. Các vương phi, công chúa , phò mã giá lâm.
Trong phòng có hơn trăm người, đang cười nói ồn ào, bỗng im lặng. Từ các cửa của hai bên Long-hoa đường, các bà quần áo sang trọng, ngọc ngà sáng chói bước vào.
Theo nghi lễ Hoàng-cung thời Lý, trong những lần hội như thế, thì các thế tử, quận chúa tập hợp. Sau đó các vương phi, công chúa, phò mã mới tới. Tất cả mọi người phải quỳ gối cho đến khi các bậc trưởng thượng an tọa, rồi mới được đứng dậy.
- Bình thân.
Tất cả đứng dậy.
Mười ba công chúa, mười ba phò mã cùng hai mươi bốn bà vừa là vương phi, vừa là phu nhân của các vị thân vương vào Long-hoa đường. Long-hoa đường ồn ào hẳn lên, người này hỏi thăm người kia về công việc hàng ngày, về con cái học tập.
Mỹ-Linh chú ý nhất đến công chúa An-Quốc cùng phò mã Đào Cam-Mộc. Kim-Thành hỏi Mỹ-Linh:
- Kìa Đào phò mã vẫn còn sống. Mà sao người ta nói người đã tạ thế. Đến nỗi sử quan cũng chép như vậy. Chị có biết ngyên do tại sao không?
Mỹ-Linh đáp sẽ:
- Trước đây phò mã Đào Cam-Mộc giúp ông nội thành đại nghiệp, rồi được ông nội gả cô là công chúa An-Quốc cho. Khi ông nội thu dụng chị của Đàm Toái-Trạng làm Tây-cung qúi phi, Đào phò mã cực lực phản đối, vì người thấy võ công anh em họ Đàm có đôi phần tà môn. Nhưng ông nội vẫn thu dụng. Vì vậy phò mã với cô cáo quan, ngao du sơn thủy. Trong hơn năm không có tin tức gì. Triều đình cho rằng người đã tạ thế. Chỉ có chú hai biết rõ người ẩn ở Thanh-hóa, lập ra Vạn-hoa sơn trang. Chị đã kể cho em nghe ban nãy, về những gì diễn ra khi chị đến đấy. Chị đoán chắc chú hai tâu lên ông nội. Ông nội sai sứ giả triệu hồi, vì vậy cô An-Quốc với người phải về hội kỳ này.
Công chúa An-Quốc lại bên công chúa Bảo-Hòa thăm hỏi. Công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hòa nắm tay chị, rơm rớm nước mắt:
- Em ở Bắc-biên được tin anh chị cáo quan, vân du sơn thủy, rồi tuyệt tích. Phụ vương cho tìm khắp nơi không thấy. Cho đến hôm cháu Thiệu-Thái khám phá có người nuôi chim ưng, hàng ngày sai chúng tuần tiễu canh chừng động tĩnh bọn gian nhân ở chùa Sơn-tĩnh. Nó báo về cho chị. Chị biết ngay là vợ chồng em. Chị cho cậu hai biết. Cậu hai tìm ra chỗ ẩn thân của anh chị. Không biết nó sai anh chị những gì?
Công chúa An-Quốc cảm động:
- Anh chị ẩn thân, lập ra Vạn-hoa sơn trang, tưởng vui với cỏ hoa. Nào ngờ chạy không khỏi tầm tay của nó. Nó ghê thực. Nó dùng chim ưng truyền lệnh cho anh chị, bắt làm đủ mọi truyện. Rồi cách đây hai ngày, nó sai chim ưng đem chiếu chỉ triệu hồi anh chị về kinh, làm anh chị phi ngựa bất kể ngày đêm về đây. Cái thằng ghê thực, giá công-chúa Phùng Vĩnh-Hoa, hay tể tướng Nguyễn Phương-Dung thời vua Bà sống dậy cũng không hơn nó.
Công chúa Lĩnh-nam Bảo-hòa hỏi sẽ:
- Tháng giêng năm trước nghe phụ vương tuyển trăm mỹ nữ nhập cung. Nghe đâu dành cho nó một cô đẹp nhất, rồi không ai thấy cô đó đâu. Cuối năm lại tuyển một trăm mỹ nữ, phụ hoàng cho nó cô xinh dẹp nhất, dường như là đệ nhất ca kỹ Long-thành tên Đào Hà-Thanh. Nhưng bấy giờ nó đang đi vi hành Thanh-hóa, nàng chờ nó gần năm. Khi trở về, nó đem nàng đi đâu mất.
An-Quốc gật đầu:
- Nó hành sự thần không biết, quỉ không rõ. Có lẽ hỏi Mỹ-Linh hay con Bảo-Hòa mới biết được. Cái thằng... hành sự gì cũng xuất quỷ nhập thần không ai hiểu nổi. Được cái nó thương các cháu. Cứ hỏi con Mỹ-Linh hay Bảo-Hòa con thì biết ngay. À, phụ hoàng cứ bảo nó có tim sắt, không bao giờ động trước người đẹp. Thế mà nó mới gặp một cô gái trong giới võ lâm là mê ngay.
Công chúa Lĩnh-nam Bảo-hòa mở to mắt kinh ngạc:
- Cô nào mà diễm phúc thế? À, em nghĩ ra rồi, trong lần gặp gỡ ở trấn Thanh-hóa, em thấy một cô xinh đẹp tuyệt trần, võ công kiến thức rất cao. Cô ấy là con vị chưởng môn phái Đông-a thì phải.
Đào phò mã nói sẽ:
- Cái cô đi cùng Bảo-Hòa con, với Mỹ-Linh đến trang nhà ta đó. Lúc bấy giờ võ công cô ấy ngang với công chúa. Nhưng bây giờ e hơn.
Phò mã Thân Thừa-Quý kinh ngạc:
- Tôi tưởng trên đời này, không có người đàn bà thứ nhì võ công bằng chị An-Quốc. Nào ngờ lại có một vị cô nương võ công cao đến như thế ư?
Đào Cam-Mộc cười :
- Võ công thì còn có người sánh với nàng. Còn mưu trí, tôi e tể tướng Phương-Dung thời vua Bà có sống lại cũng không hơn.
Nội công Mỹ-Linh hiện rất cao thâm, vì vậy hai bà cô nói truyện với nhau, nàng nghe rõ hết. Nàng biết tiếng nó hai bà dùng để chỉ Khai-quốc vương. Nàng nảy ra ý so sánh giữa phụ vương với Khai-quốc vương. Nàng thấy Khai-quốc vương quả là nhân vật có tài kinh thiên động địa, tính tình lại đằm thắm. Còn phụ vương nàng tính tình nghiêm nghị, nhưng có tài cầm quân. Nếu nàng là ông nội, chắc chắn nàng truyền ngôi cho chú hai, chứ không truyền cho phụ vương.
An-Quốc chỉ sang phía sập của phủ Khai-quốc vương lo lắng:
- Phụ hoàng dành cho nó hai đệ nhất mỹ nhân, chả biết bây giờ hai nàng đó đâu? Lát nữa phụ hoàng hỏi đến, không biết nó sẽ trả lời sao? Chị e người nổi giận lôi đình chứ đừng hy vọng bỏ qua. Bấy giờ hai chị em mình cùng quỳ xuống xin tội cho nó, may mới thoát khỏi.
Thân Thừa-Quý lắc đầu:
- Đúng ra, đối với người ngoài, cậu hai thừa sức trả lời. Nhưng cậu là người con chí hiếu, nên tôi e cậu ấy sẽ không dám nói dối. Phụ hoàng hỏi hai cô đó đâu, cậu không dám nói thực, chỉ im lặng chịu tội.
Công-chúa An-quốc tát yêu Bảo-Hòa một cái:
- Con cháu thơm này đẹp thực. Hôm trước nó với Mỹ-Linh ghé Vạn-hoa sơn trang. Chị thử chiết chiêu với nó. Công lực nó cao thâm không thua gì chị. Không biết nó học được ở đâu trọn bộ Phục-ngưu thần chưởng với Lĩnh-nam chỉ pháp. Cứ đà này, hơn năm nữa nó hơn chị đấy.
Rồi bà thuật chi tiết mọi việc đã xẩy ra cho em nghe. Cuối cùng bà nói nhỏ:
- Việc em định gả nó cho Hưng-Long, nên xét lại cẩn thận. Vì Nguyên-Hạnh với Hồng-hương thiếu niên, không phải thiện nhân đâu.
Bỗng tiếng chiêng trống cùng trỗi dậy, trong Long-hoa đường im phăng phắc. Dứt ba hồi chiêng trống, có tiềng hô:
- Hoàng thượng giá lâm. Tất cả quỳ gối.
Thuận-thiên hoàng đế đi trước, phía sau ba bà hoàng hậu Tá-quốc, Lập-nguyên, Lập-giáo, Tây-cung qúi phi, rồi tới các vị thái tử.
- Bình thân.
Mọi người đứng dậy. Thuận-thiên hoàng đế ngồi vào cái sập lớn, có hai con rồng sơn son thiếp vàng chầu. Các bà hoàng hậu, quý phi cùng ngồi trên một sập. Vũ-uy vương, Dực-thánh vương là anh, em hoàng đế, được về chỗ ngồi. Còn các vị thái tử đứng hai bên sập, khoanh tay hầu hoàng đế với các hoàng hậu.
Thuận-thiên hoàng đế vẫy tay cho phép các vị thái tử về chỗ. Sập nào cũng đầy người. Sập của Khai-quốc vương chỉ có mình bé Thường-Kiệt ngồi đó từ bao giờ với Đỗ Lệ-Thanh. Trừ Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, ai cũng ngạc nhiên không hiểu Lệ-Thanh với Thường-Kiệt thân thuộc với vương ra sao?
Công chúa An-quốc hỏi Bảo-Hòa:
- Con bé thơm! Ai ngồi trên sập cậu hai vậy?
- Thiếu phụ đó tên Đỗ Lệ-Thanh, nữ tỳ của anh Thiệu-Thái. Còn bé Thường-Kiệt, là con trai của tướng Ngô An-Ngữ, quản Khu-mật viện Nam Đại-việt.
Hồng-Phúc nghe Bảo-Hoà nói, nàng liếc nhìn Đỗ Lệ-Thanh với Thường-Kiệt. Trong lòng nàng nổi lên cơn giông tố:
- Ta là quận chúa, còn phải ngồi sập nhì, đâu dám ngồi sập nhất với phụ vương! Còn mụ tôi tớ với đứa trẻ con viên mạt tướng, mà lại ngồi sập nhất ư?
Nàng định chạy lại đuổi Lệ-Thanh cùng Thường-Kiệt đi, thì Nhật-Tôn đang ngồi trong lòng Mỹ-Linh, nó chạy lại bên Khai-quốc vương. Vương bồng cháu vào lòng, hôn lên mớ tóc nó. Rồi không biết nghĩ gì, hai giọt lệ vương rớt trên mặt cháu. Nhật-Tôn hỏi:
- Chú hai nuôi chị Mỹ-Linh làm con hả?
- Ừ!
- Chú hai có thương con không?
- Chú hai thương con nhất! Hơn cả chị Mỹ-Linh.
- Chú hai nuôi con đi!
Vương nhìn cháu, hai mắt ngây thơ chờ vương trả lời. Vương tự biết, mình không thể hứa rồi bỏ qua được. Vì vậy vương im lặng suy nghĩ. Nhật-Tôn òa lên khóc:
- Chú hai không thương con rồi.
- Nín đi! Nín đi! Chú hai thương con. Chú hai cho con người bạn nghe.
Vương chỉ bé Thường-Kiệt:
- Thường-Kiệt chơi với Nhật-Tôn nào.
Nhật-Tôn nín ngay, một tay nó ôm chặt lấy vương, như sợ vương đi mất. Một tay nó nắm lấy Thường-Kiệt. Sảnh đường đông đến mấy trăm người, không ai chú ý đến hai đứa bé nắm tay nhau. Có ai ngờ cái nắm tay đó, sau này làm nghiêng ngửa giang sơn Đại-tống, Chiêm-thành, Chân-lạp.
Thuận-thiên hoàng đế phán:
- Cùng các con, các cháu. Hôm nay ta cho hội các con, các cháu lại đây để cùng nhau hưởng sơn hào hải vị của nước Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua tiến cống. Sau đó, ta sẽ ban hành một số chỉ dụ.

Chú giải.
(1)Hai câu thơ trên đây của Hà Thượng Nhân. Hà tiên sinh nhân cảm hứng đề tựa thi tập Con đường cải tạo của Dương Tử do Tổ-hợp xuất bản miền Đông Hoa-kỳ (1990) xuất bản. Bài thơ chứa chan tình cảm ngậm ngùi của người Việt trước cảnh tang thương có một không hai trong lịch sử. Xin mạn phép Hà tiên sinh cùng thi hữu Dương Tử ghi vào đây để độc giả thưởng lãm:

Phiên âm:

Khoái tai Dương-Tử Long Giao Ngâm
Nhất phiến u hoài quán cổ câm.
Báo quốc vô tài thân dĩ ngụy
Lâm lưu hữu ý thủy do thâm.
Thiên nhai viễn vọng sương vi vũ,
Khúc tận tương khan lệ mãn khâm.
Hậu thế tri âm như dục vấn
Đoạn trường tục ký thử dư âm.



Dịch:

Trời ơi một khúc Long Giao,
Nỗi lòng Dương-Tử nghẹn ngào xót xa.
Chính là cũng nỗi lòng ta,
Cổ kim dồn cả tinh hoa vào người.
Những mong giúp ích giống nòi
Bất tài giờ biến thành người Ngụy quân.
Đọc thơ vạt áo ướt đầm
Sông sâu xem thử tinh thần có sâu?
Tri âm ai đó ngàn sau
Đoạn trường xin hãy vì nhau tỏ bày.



<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2005 10:35:02 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 07.01.2005 17:56:10 (permalink)
    Hồi thứ bốn mươi hai


    Vạn Hoa Đại Việt




    Theo như tục lệ, các Thái tử, Công chúa dâng lễ vật lên Hoàng đế, cùng đưa lời chúc tụng. Đúng luật thời bấy giờ, thì con trai lớn dâng trước rồi theo thứ tự đến các con trai nhỏ. Sau đó tới các con gái lớn. Nhưng Thuận-thiên hoàng đế xuất thân quan võ. Thủa mới lập nghiệp, công chúa An-quốc võ công cực cao, theo giúp ngài chinh chiến lập nhiều công. Vì vậy bà được chúc đầu tiên, riết rồi thành lệ cứ theo trật tự con lớn chúc trước. Con nhỏ chúc sau. Luật triều Lý định rằng dù thái tử, dù công chúa, nếu chưa thành gia thất, vẫn bị coi như chưa trưởng thành.
    Thời cổ, các nước Á-châu gọi con trai của vua là Hoàng-tử. Trong các con, người nào được chỉ định làm trừ quân, tất sau này nói ngôi vua cha, được gọi bằng Thái-tử. Nhưng triều Lý có biệt lệ. Tất cả con trai Thuận-thiên đều được phong Thái-tử. Khi các thái-tử tuổi 13-14 được ban tước vương cho mở phủ đệ riêng, cùng cầm quân, thực tập phương sách cai trị, hầu sau này nếu lên nối ngôi cha không gặp bở ngỡ.
    Lý Long Bồ là con thứ nhì của Thuận-thiên hoàng đế, đến tuổi 13, thụ phong Khai-quốc vương, truyền mở phủ đệ riêng. Vua và Hoàng-hậu tuyển cho vương nhiều cơ thiếp xinh đẹp. Nhưng Vương chỉ giữ lại vài người làm tỳ nữ hầu hạ, chứ không dùng làm cơ thiếp. Vương dùng hết cả tâm tư dùng vào việc học văn, luyện võ, cùng thu phục nhân tâm thiên hạ. Phụ hoàng và mẫu hậu cho rằng vương khó tính nên chưa có cô gái nào lọt vào mắt xanh.
    Năm trước trong cuộc tuyển cung nữ, phụ hoàng đặc ân chọn Huệ Phương, Hà Thanh là hai thiếu nữ sắc nước hương trời, ôn nhu văn nhã cho Vương. Vương thu nhận hai nàng coi như một người bạn, rồi sau khi biết hai nàng có ẩn tình. Vương âm thầm trả hai nàng về với tình quân. Cho nên Vương trong cuộc dâng lễ vật, dù vương cầm quyền nghiêng nước, dù vương gần ba mươi tuổi, mà vẫn bị coi như nhỏ nhất, phải dâng lễ vật sau cùng.
    Công chúa An-quốc dâng lễ vật đầu tiên. An-quốc phò mã Đào Cam Mộc tiến tới trước sập rồng định quì xuống hành đại lễ. Nhưng đức vua đã đứng dậy, hai tay đỡ phò mã công chúa, ngài bùi ngùi cảm động :
    - Các con miễn lễ. Giang sơn này sỡ dĩ có ngày nay, một là do công của cô Hồng Châu, hai là do công của các con. Tiếc rằng cô Hồng Châu không còn tại thế. Hai con thích ngao du sơn thủy, đi lập Vạn-hoa sơn tranbg mà vẫn không quênquốc sự. Hôm Khai-quốc vương tấu về tìm được hai con, ta cùng các hoàng hậu mừng đến trẻ được mấy tuổi.
    Công chúa An-quốc định tâu với phụ hoàng về việc cô mẫu, công chúa Hồng Châu còn tại thế. Nhưng bà nhớ đến chuyện Khai-quốc vương yêu cầu phải giữ kín, hầu giữ thể diện cho Thân Thiệu Anh, Thân Thừa Quý.
    Đức vua rút thanh kiếm Thượng phương trao cho phò mã Đào Cam Mộc :
    - Trước phủ Khai-quốc vương tổng trấn Thanh-hóa. Mới đây ta chuyển vùng Nam Đại-việt thống thuộc về phủ Khai-quốc vương kiêm nhiệm. Ta lại trao chức Thái-úy Phụ-quốc, quãn Khu-mật viện cho vương. Chỉ trong hai năm, mà Vương làm cho binh lực hùng mạnh. Toàn quốc không còn một vụ trộm cướp nào. Ta sợ Vương kiêm nhiệm nhiều việc quá, e khó chu toàn. Ta trao thanh gươm này cho con. Con được quyền thay ta thanh sát khắp đất nước. Gặp việc tùy nghi giải quyết.
    Đào Cam Mộc kính cẩn tiếp kiếm.
    Công chúa An-quốc vẫy tay, bẩy thị nữ quần áo xanh tiến vào. Mỗi người bưng một bình sứ trồng hoa. Tất cả đều là hoa lan. Hương thơm đặc bioet đưa khắp phòng. Công chúa An-quốc tâu :
    - Con kính cẩn dâng lên phụ hoàng bẩy thứ Đại-việt danh lan mà con trồng được.
    Dực-thánh vương ngắm nhìn bẩy chậu lan hỏi :
    - Ta tưởng chỉ có một vài loại lan, nào ngờ có bẩy loại sao ?
    Công chúa An-quốc biết ông chú vốn xuất thân võ nghiệp, chưa từng đọc sách nên giảng giải :
    - Thưa thúc phụ, không phải vài hay bẩy, mà có không biết bao nhiêu mà kể. Thần nhi chỉ mới sưu tầm được hai nghìn năm trăm loại khác nhau. Tạo hóa ưu ái dành riêng cho Đại-việt ta không biết bao nhiêu loại lan. Mỗi loai lan lại phân ra muôn hình, muôn mầu, muôn sắc, đẹp không bút nào tả xiết. Vì vậy tự cổ Lan Đại-Việt được các danh sĩ gọi là Vương-hậu, vì nét đẹp, vì hương thơm, và vì tính chất trong sạch. Tùy theo nơi Lan mọc, thần nhi tạm phân Lan thành ba loại là Phong-lan, Địa-lan và Thạch-lan. Phong-lan là Lan mọc trên những thân cây, trên cao. Địa-lan là Lan mọc trên mặt đất. Còn Thạch-lan là Lan mọc ở nhưng khe đá. Thần nhi chọn trong hai nghìn năm trăm loại lan, lấy bẩy thứ lan có tên Thần-lan.
    Vũ-đức vương cười :
    - Chị nói bẩy loại lan này vốn có tên, tức tiền nhân đặt ra cho nó, hay chính chị đặt ra ?
    - Phò mã Cam Mộc với chị lựa ra bẩy thứ Phong-lan dường như tạo hóa cố tình sinh ra, cho hợp với đất linh, khí hùng của Đại-việt. Đặc tính, hình, sắc của chúng gắn liền vối lịch sử.
    Đại sảnh đường đông tới hơn trăm người, mà không một tiếng động. Ai cũng im lặng nghe An-quốc giảng giải về Lan. Bà vừa giảng, vừa chỉ vào những chậu lan, tươi mầu sắc sặc sỡ.
    Hoàng hậu Tá-quốc hỏi :
    - Công chúa giỏi thực, chỉ ra đặc tính cây cỏ thiên nhiên phù hợp với dân tộc Việt. Nào công chúa hãy nói tại sao những cây Lan này được ví như những biểu tượng anh linh của dòng giống Tiên-Rồng.
    An-quốc chỉ vào từng chậu một :
    - Đặc tính thứ nhất là lá xanh, thân lá mọc thẳng. Khi gặp giông tố ngả nghiêng, rồi lại trở về với lối mọc thẳng. Giống như người Việt, dù bị mất nước, dù gặp mưa dồn, sóng vỗ, vẫn không thay đổi tính tình. Đặc tính thứ nhì là các cánh hoa uốn cong vào phía trong nhụy, che cho phấn, nhụy không bị gió thổi tan tác. Vì vậy hoa giữ được hương lâu dài hơn các loại khác. Đặc tính thứ ba là hoa mọc sát nhau, không bao giờ bông nọ ép bông kia. Ví như người Việt, xuất thân ở đâu cũng không kèn cựa, chèn ép người. Đặc tính thứ tư là hương Lan thơm nhẹ nhàng, dù gió đưa, dù ghé mũi ngửi hương thơm cũng như nhau. Về mầu sắc, từ lúc nở đến lúc tàn, mầu sắc vẫn giữ nguyên. Ví như người Việt, bền gan, giữ vững khí tiết, dù lúc còn nhỏ, hay khi về già. Đặc tính thứ năm là hoa nở vào cuối Đông, sang đầu Xuân. Trong khi các loại khác đều nở vào mùa Hạ.
    Thuận-thiên hoàng đế gật đầu :
    - Công chúa thực xứng danh vương hậu các loài hoa. Trong bẩy thứ Lan này, chắc mỗi thứ công chúa đặt cho một tên hẳn.
    Được phụ hoàng khen, mặt công chúa ửng hồng :
    - Quả thế. Loại thứ nhất tên Động-đình cầu hôn.
    Một thị nữ tách khỏi hàng, đến trước hoàng đế quì xuống dâng lên một chậu hoa. An-quốc chỉ vào chậu đó :
    - Hoa tên Động-đình cầu hôn để nhắc lại xưa Quốc-tổ An-dương vương cầu hôn cùng con vua Động-đình. Loại hoa này mỗi mầm có hai bông, chẳng bao giờ lẻ loi một, lại chẳng bao giờ có ba. Bông lớn màu đỏ tươi, nở tròn như mặt trời chiếu sáng. Tỷ như Quốc-tổ Kinh-dương. Bông nhỏ thon dài, mầu nhạt hơn một chút hơi nghiêng về phía bông lớn. Tỷ như công chúa Động-đình. Đặc điểm của thứ lan này mọc trên đỉnh cao nhất của núi. Chỗ nó mọc, xung quanh có không biết bao nhiêu hoa Trường-xuân. Đúng như sử nói: «Xưa vua Kinh-dương cầu hôn cùng công chúa con vua Động-đình, rồi lên núi Tam-sơn hưởng thanh phúc, lúc bấy giờ đỉnh Tam-sơn nở ra ba vạn hoa Trường xuân».
    Nàng vẫy tay, một thị nữ khác tiến đến trước mặt hoàng đế dâng lên chậu thứ nhì. Chậu này gồm hai tầng. Tầng trên có hai bông màu đỏ nhạt. Một bông. Một bông cuống nhỏ dài, đầu nở lớn ra như đầu rồng. Một bông nhỏ hơn, giống như con chim âu bay. Tầng dưới nở ra một bầu đầy hoa nhỏ.
    - Tâu phụ hoàng, loại lan này thần nhi đặt tên là Bách tộc đồng nguyên
    Đây tầng trên, bông hình đầu rồng giống Quốc-tổ Lạc-Long, bông hình đầu chim, giống Quốc-mẫu Âu-Cơ. Tầng dưới, nở ra hàng trăm hoa nhỏ, giống trăm con. Lọai lan này hương thơm nhẹ nhàng, nhưng lâu tàn. Hoa mọc bất cứ chỗ nào cũng được. Song có đặc điểm hễ tưới phân, hoa chết liền, phải tưới bằng nước mưa. Tương truyền loại lan này xuất hiện vào ngày Quốc-Tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-Mẫu dẫn năm mươi con lên núi. Quốc-Tổ chỉ vào khóm lan nói rằng : Nay các con cùng một gốc, ví như trăm bông khóm lan này. Sau đây mỗi người làm vua một phương, phải dạy con cháu nhớ về cỗi nguồn cùng một tổ.
    Mỹ-Linh đang ngồi nghe cô giảng giải về Lan, bỗng có luồng âm thanh nói như tơ rót vào tai nàng. Nàng nhận ra tiếng của Khai-Quốc vương:
    - Trên nóc điện có gian nhân nghe trộm. Cháu hãy ra ngoài cửa Tây, có Thanh-Mai, Bảo-Hòa chờ ở đó. Mọi hành động phải nghe lời Thanh-Mai.
    Mỹ-Linh nhìn sang phía dẫy sập của Bắc-biên, quả không thấy Thiệu-Thái, Bảo-Hòa, Lệ-Thanh đâu. Nàng vội vàng kiếm cớ đứng lên lẻn ra cửa Tây Long-hoa đường.
    Trong khi đó cuộc luận về Lan vẫn tiếp tục. Đàm quí phi chỉ vào chậu lan thứ ba:
    - Loại lan này, rất thường thấy trong vườn Thượng-uyển. Không hiểu do sự tích gì, mà người ta nói rằng nó tượng trưng cho buồn sầu. Trai, gái đang lúc thanh xuân chẳng nên tặng nhau.
    An-Quốc gật đầu:
    - Thưa quí phi quả như thế. Loại lan này xuất hiện vào thời vua Hùng. Tương truyền thời vua Hùng, có cô Mỵ-Nương, con quan Tể-tướng, nhan sắc hiếm có trên đời. Nàng thường ngồi trên lầu ngắm sông dưới trăng. Một ngày kia, thấy trong sương mờ một chiếc thuyền đánh cá lững lờ trôi qua. Trên thuyền có ngư nhân ngồi thổi tiêu. Tiếng tiêu khi cao vút tận mây mờ, khi trầm như xuyên vào cây vào cỏ, như muôn ngàn sợi tơ. Người nghệ sĩ trên sông hàng đêm thổi tiêu, nào biết Mỵ-Nương tương tư mình. Một ngày kia, vắng tiếng tiêu của chàng, Mỵ-Nương bị bệnh nặng, không thuốc gì chữa khỏi. Rồi bỗng dưng, người nghệ sĩ lại xuất hiện, tiếng tiêu đưa đến lầu, Mỵ-Nương khỏi bệnh ngay. Quan tể tướng tìm được nguyên do bệnh của con gái. Ngài cho triệu Trương Chi vào yết kiến. Khi Trương Chi đến, thì hỡi ôi, Mỵ-Mương vỡ mộng, vì mặt chàng thực là khó coi. Mỵ-Nương thất vọng sai đuổi Trương Chi ra.
    Đàm quý phi mỉm cười:
    - Hèn gì trong dân gian có câu ca rằng:
    Ngày xưa có anh Trương-Chi,
    Người thì thực xấu, tiếng thì thực hay.
    Cô Mỵ-Nương vốn ở lầu Tây,
    Con quan tể tướng ngày rầy cấm cung.

    Công chúa ơi, thế rồi hai người có thành vợ chồng không?
    - Tâu quý phi không. Anh Trương Chi bị làm nhục, trở về nhảy xuống sông chết. Tin này đến tai Mỵ-Nương, nàng hối hận vô bờ bến, sinh bệnh nặng. Thế nhưng từ đấy, đêm trăng, Trương Chi hiện lên thổi tiêu cho nàng nghe. Quan Tể tướng giận lắm, sai quật mả Trương Chi đem xác đốt, nhưng khi đào lên chỉ có tảng đá. Ngài truyền đem vứt tảng đá đi. Cô Mỵ-Nương sai lượm viên đá, đẽo thành cái chén uống nước. Hằng đêm, nàng đổ nước vào chén, hình Trương Chi lại hiện lên, thổi tiêu cho nàng nghe.
    Công chúa chỉ vào chậu hoa Trương Chi, Mỵ-Nương:
    - Kể từ ngày ấy, bên bãi sông lầu Tây, nảy ra loại Lan này. Vì vậy người Việt mình gọi là Lan Trương-Chi, Mỵ-Nương. Ban ngày, không có hương thơm, ban đêm hương tỏa ngào ngạt. Đây cánh trong cùng của hoa có bốn mầu. Nhụy giống hình người Trương Chi hiện lên trong chén, mầu vàng như chàng từng tắm trăng. Cánh hoa hình giống chén uống nước. Phần dưới mầu vàng, là chỗ nước đựng trong chén. Phần trên trắng, là phần chén, mà nước không tới. Trong chỗ chứa nứơc có hai vết đen, là bóng Mỵ-Nương với tể tướng in vào.
    Đàm quí phi gật đầu:
    - Quả đúng như công chúa nói. Thế sao trên cánh hoa lại có vết đỏ?
    - Thưa, vết đỏ đó do công chúa uống trà, son trên môi nàng in vào miệng chén.
    Hoàng hậu Lập-Giáo chỉ vào một chậu hoa hỏi:
    - Còn Lan này có tên gì, mà sao coi giống phía sau một người không quần áo, dù rằng rất đẹp?
    An-Quốc chỉ vào khóm lan đó nói:
    - Lan này có tên Hiếu tử thiên thu, cũng xuất hiện vào thời vua Hùng. Tương truyền vua Hùng thứ sáu. Bấy giờ có cha con họ Chử, làm nghề đánh cá ven sông. Hai cha cho chỉ có một cái khố. Khi cha ra ngoài thì cha mang. Khi con ra ngoài thì con mang. Một ngày, cha lâm bệnh sắp chết, dặn rằng: Sau khi bố chết, con cứ chôn bố trần truồng, giữ lại cái khố mà mặc. Nhưng khi cha chết, Chử đồng tử đem chôn khố theo cha. Một ngày kia chàng đang đánh cá ven sông, thấy thuyền rồng công chúa tới. Sợ hãi, chàng vội bới cát, chôn nửa người trong bụi lau. Công chúa đến bãi sông, truyền quây màn quanh bụi lau để tắm rửa. Khi đang tắm, nước làm trôi cát, hiện ra thân hình trần truồng của Chử đồng tử. Công chúa cho là duyên trời, kết hôn với chàng. Từ đấy ven sông, nảy ra loại lan này, dân chúng gọi là lan Chử đồng tử hay Lan hiếu tử thiên thu. Tuy hình dáng thô tục, nhưng tinh thần đẹp hơn bất cứ loại hoa nào.
    Công chúa ra lệnh cho tỳ nữ khác bước tới dâng lên một chậu lan, hương tuy thơm, nhưng hơi nặng. Hoàng đế bật cười:
    - Loại này coi ngộ thực. Trông giống như một cái chum đựng nước, trên có lọng che. Hình dáng thực quen thuộc. Không biết ta thấy ở đâu rồi.
    Khai-Quốc vương tâu:
    - Tâu phụ hoàng, hình dáng giống như chỏm cao nhất của Loa-thành thời vưa An-Dương.
    - Đúng rồi, giống hệt vọng lâu ở Loa-thành. Này công chúa, loại lan này ắt có tên là Lan Loa-thành hẳn?
    - Tâu phụ hoàng vâng. Tương truyền sau khi vua An-Dương đắp xong Loa-thành, khắp chân thành nảy ra loại lan này, cho nên dân chúng dùng tên ấy đặt cho lan.
    Hoàng hậu Lập-Nguyên hỏi:
    - Này công chúa, trong bẩy thứ lan, tất cả đều hướng trở lên. Duy loại lan này lại mọc úp trở xuống. Thế nó ứng với linh khí gì của Đại-Việt?
    An-Quốc tâu:
    - Loại Lan này có tên Hận tình Mỵ-Châu.
    Hoàng hậu Lập-Nguyên thấy trong đám con cháu, có nhiều người không hiểu Mỵ-Châu là gì, bà nói:
    - Công chúa nhắc lại truyện tình Mỵ-Châu, Trọng-Thủy một lần đi.
    Công chúa An-Quốc dạ một tiếng tiếp:
    - Thời vua An-Dương có Âu-lạc tam bảo. Một, nhờ Cao-cảnh hầu Cao-Nỗ chế ra nỏ thần, bắn một phát cả nghìn mũi tên. Hai, địa thế hiểm trở. Ba, võ công Đại-Việt khắc chế võ công Trung-nguyên. Vua nước Nam-Việt tên Triệu Đà, nhiều lần mang quân sang đánh đều bại. Triệu Đà xin cầu hoà, hỏi công chúa Mỵ-Châu cho con trai là Trọng-Thủy. Lại xin cho Trọng-Thủy sang ở rể Âu-lạc. Trọng-Thủy sang ở trong Loa-thành, y dò được cách chế nỏ thần, học được võ công Đại-Việt, và biết được điạ thế. Rồi y giả vờ xin về thăm nhà. Khi đi, y hỏi Mỵ-Châu rằng Lỡ ra khi ta đi rồi, có giặc đến thì biết làm sao tìm nàng?. Mỵ-Châu đáp :Thiếp có áo lông ngỗng, khi đi đâu, thiếp rắc lông ngỗng. Chàng tìm dấu lông ngỗng sẽ thấy thiếp.
    Đến đó An-Quốc ngừng lại. Đám trẻ nhao nhao lên:
    - Rồi sao? Rồi sao?
    - Trọng-Thủy trở về cung cấp Âu-lạc tam bảo cho Triệu-Đà. Triệu-Đà cất quân sang đánh Âu-lạc. Vua An-Dương bị thua. Ngài bỏ Mỵ-Châu ngồi sau ngựa, rồi chạy vào phương Nam. Trọng-Thủy theo dấu lông ngỗng đuổi gấp. Khi vua An-Dương chạy đến bờ biển vùng Cửu-chân, mới khám phá ra vụ Mỵ-Châu. Ngài rút kiếm giết con gái, dặn các tướng ẩn thân chờ ngày phục quốc, rồi nhảy xuồng bể tự tử. Còn Trọng-Thủy đuổi đến bờ biển thấy xác vợ, sau khi chôn cất nàng rồi, trở về Cổ-loa nhảy xuống giếng tự tử. Từ đấy quanh thành Cổ-loa mọc ra thứ lan này, dân chúng gọi là Hận tình Mỵ-Châu.
    An-Quốc chỉ vào khóm Lan hận tình Mỵ-Châu:
    - Lan này có đặc điểm, là lưng cánh mầu trắng, phía trong mầu tím, luôn mọc ngược, giống như người sầu hận, hối lỗi.
    Tỳ nữ dâng khóm lan cuối cùng. Hoàng đế gật đầu:
    - Trong bẩy loại Lan, loại này trông vừa mỹ miều, lại thanh cao. Hoa có năm cánh, mầu trắng ngần, nhụy giống hình một phụ nữ đầu đội khăn, mặc áo hơi vàng. Hương thơm thực thanh cao. Thế nó biểu tượng cho biến cố gì? Hồi năm trước, trẫm đi qua Mê-linh, thấy khắp nơi đều có Lan này.
    An-Quốc chỉ vào khóm lan:
    - Tâu, Lan này có tên là Lan vua Bà.
    Cả đại sảnh cùng ồ lên một tiếng, tỏ vẻ hiểu biết. An-Quốc tiếp:
    - Trong lịch sử Đại-Việt, chỉ có một người đàn bà duy nhất mặc áo lụa vàng nhạt, đó là vua Trưng. Tương truyền từ sau khi vua Bà tuẫn quốc ở Cẩm-khê, khắp nơi trên Lĩnh-Nam đều mọc ra loại hoa này.
    Hoàng-đế hỏi Khai-Quốc vương:
    - Khai-Quốc vương. Con đi khắp đất nước. Con có nhận xét gì về các loài hoa của Đại-Việt?
    Khai-Quốc vương tâu:
    - Tạo hóa sinh ra muôn vật đều có liên hệ. Cỏ cây cũng giống như người ta. Khi con đi khắp đất nước, ngẫm ra được một điều, là vùng nào hoa tươi, đẹp, con gái vùng đó xinh tươi lạ thường. Vùng nào hoa hoa cằn cỗi xấu, vùng đó con gái hình dạng thô lậu, mặt mũi khó coi. Hoa vùng nào có hương thơm, phụ nữ vùng đó có nhiều đức tính nhu thuận, trinh tĩnh, khoan hòa. Hoa vùng nào không hương thơm, phụ nữ vùng đó cộc cằn, dữ tợn, khô khan.
    Tiếp theo các Thái-tử, Công-chúa dâng lễ vật. Đa số lễ vật đều trân quí như vàng, ngọc, châu báu. Công chúa An-Quốc không thấy Khai-Quốc vương dâng lễ vật, nàng lấy làm kinh ngạc cho em.
    Hoàng hậu Lập-Nguyên cũng lo nghĩ cho con. Bà hỏi:
    - Long-Bồ, kể về quyền uy, con đứng đầu, chỉ thua có vua Bà Bắc-biên. Không lẽ con nghèo đến độ không có gì dâng phụ hoàng ư?
    Cả sảnh đường cùng cười ồ, vì ai cũng biết Khai-Quốc vương chỉ lo làm việc, quên ăn, quên ngủ, và quên cả lấy vợ. Bổng lộc có bao nhiêu, Vương đem tặng anh hùng, danh sĩ khắp nước, rút cuộc Vương nghèo đến chẳng còn gì.
    Các vị Thái-tử thấy Khai-Quốc vương không dâng lễ vật, đều cười, tỏ vẻ khinh khiến. Các ông đến đây dự yến, ông nào quần áo cũng đẹp đẽ, ngọc ngà đeo đầy người. Khai-Quốc vương chỉ mặc bộ quần áo vải đơn sơ, trên mình không có một chút châu báu nào.
    Chợt Thuận-Thiên hoàng-đế cau mặt hỏi Khai-Quốc vương:
    - Vương nhi. Năm trước ta với mẫu hậu tuyển trên trăm mỹ nữ khắp thiên hạ về cung. Ta thân lựa lấy một mỹ nhân ôn nhu văn nhã, sắc nước hương trời. Nàng lại biết võ công, đem về phủ cho con. Ta những tưởng nàng sẽ được con cho làm chính phi. Ta chờ mãi không thấy con thượng biểu tâu xin phong Vương-phi. Ta đoán rằng nàng không khéo hầu hạ con, nên năm vừa qua, ta với hậu lại tuyển cung nữ. Lần này ta tuyển đệ nhất ca kỹ Thăng-long tên Đào Hà-Thanh, đem cho con. Nhan sắc của nàng thực vô song. Nàng lại đàn ngọt hát hay. Như vậy chắc con vui lòng chứ? Hai nàng đó đâu, không đến bái kiến ta?
    Nghe phụ hoàng hỏi đến Huệ-Phương, Hà-Thanh, Khai-Quốc vương luống cuống:
    - Tâu phụ hoàng hai nàng đó vắng mặt.
    Khai-Thiên vương vốn thích uy quyền, nay được dịp đàn hặc:
    - Chú nói lạ. Trong phủ anh em chúng ta, không thiếu gì phi tần, mỹ nữ. Chúng ta muốn làm gì thì làm. Duy các mỹ nữ do phụ hoàng tuyển cho, tức nàng đương nhiên trở thành vợ rồi. Chúng ta chỉ có quyền đặt họ làm chính phi hay thứ phi thôi. Huệ-Phương, Hà-Thanh là hai thiếu nữ nhan sắc có một không hai. Phụ hoàng thân tuyển cho chú. Dù chú không thích, cũng phải cho hai nàng đến chầu phụ hoàng cùng mẫu hậu ngày hôm nay chứ!.
    Khai-Thiên vương thấy em im lặng, ông tiếp:
    - Phụ hoàng niên kỷ đã cao. Anh em chúng ta ai cũng con đàn cháu đống. Duy có chú, giờ này gần ba mươi tuổi, mà chính thê chưa định, con cái nối dõi cũng chưa có, thế là đạo lý gì?
    Khai-Quốc vương tự biết mình nắm quyền nghiêng nước, uy thế cực kỳ mạnh, vì vậy anh em luôn tìm dịp để tấn công mình. Chàng tâu:
    - Tâu phụ hoàng, thần nhi tự biết đến tuổi này, chưa có con nối dõi tông đường là tội lớn. Tuy vậy thần nhi đã nuôi Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, Thiệu-Thái, thì tuy không con, cũng như có con rồi vậy. Còn việc hai mỹ nữ Huệ-Phương, Hà-Thanh, thần nhi xin chịu tội với phụ hoàng. Quả thực thần nhi đã cho hai nàng ấy qui gia rồi.
    Nhật-Tông chạy lại quỳ gối trước hoàng đế:
    - Ông nội! Ông nội cho con làm con nuôi chú hai đi!
    Thuận-Thiên hoàng đế suy nghĩ một lúc rồi gật đầu:
    - Khi chú hai có vợ, ông sẽ cho con ở với chú hai.
    Nhật-Tông lạy tạ, rồi nhảy tọt vào lòng Khai-Quốc vương.
    Thời bấy giờ, con gái đi lấy chồng mà phạm lỗi nặng, thì bố mẹ chồng, hoặc chồng có quyền đem trả về nhà mình, gọi là qui gia. Nghe Khai-Quốc vương nói cho Huệ-Phương, Hà-Thanh qui gia, Dực-Thánh vương lên mặt ông chú:
    - Cháu nói gì mà kỳ lạ vậy. Theo gia pháp nhà mình, hai nàng ấy do phụ mẫu tuyển cho. Nếu hai nàng có lỗi đạo, cháu phải tâu với phụ hoàng, mẫu hậu, đợi chỉ dụ rồi mới cho qui gia được chứ? Ta thấy hai nàng ấy tài sắc đáng giá nghiêng thành, đức hạnh khó bì. Thế mà cháu nỡ cho qui gia ư?
    Khai-Quốc vương nghe chú, rồi anh xúm vào đả kích mình. Chàng thừa sức trả lời hai người. Nhưng chàng không muốn cãi cọ trước mặt song thân. Chàng nhìn chú, nhìn anh, nhìn em, rồi chửi thầm:
    - Người ta thường nói:
    Anh hùng đánh khắp chín châu,
    Khi về xó bếp, chuột chù gặm chân.
    Khi có sự, các người mũ ni che tai, mình ta giải quyết. Khi vô sự các người bới lông tìm vết hại ta. Sau này ta sẽ cho các người hối hận.
    Chàng khấu đầu tâu:
    - Hai nàng ấy quả thực xinh đẹp, ôn nhu văn nhã. Thần nhi không thể chê vào đâu được. Thần nhi cho hai nàng qui gia, một là cảm thông hoàn cảnh, hai là kính trọng, mà cho qui gia, chứ không phải vì ghét bỏ hay vì hai nàng phạm lỗi gì.
    Nghe Khai-Quốc vương biện luận, Thuận-Thiên hoàng đế nào phải không biết con. Ngài mỉm cười không nói ra lời, đưa mắt nhìn vương, trong lòng suy nghĩ:
    - Đứa con thứ nhì của mình hành sự cẩn trọng, không thể hồ đồ. Nó cho hai nàng qui gia, ắt có lý do trọng đại. Ta cần phải xét lại, chẳng nên bắt nó nói ra ở đây.
    Nghĩ vậy trong lòng ngài nổi lên một niềm tự hào. Tuy vậy ngài cũng cảm thấy đứa con trai thứ nhì của mình thực khác hẳn với con cả. Khai-Thiên vương, lúc nào cũng thích ra uy quyền con cả, thích tỏ cho mọi người biết rằng mình có vương tước, một tướng cầm quân, hơn nữa tương lai có thể sẽ lên ngôi cửu ngũ. Còn Đông-Chinh vương trung hậu có trung hậu, song phải cái nhẹ dạ dễ tin người. Vương còn mắc một tật nguy hiểm là : Coi người thân như cừu thù, coi kẻ ác như chân tay. Từ khi mở vương phủ riêng, Vương dùng người nào làm tâm phúc, y như người ấy phản Vương. Vũ-Đức vương xấu người, nhưng rất khôn khéo, vương có đủ đức tính của Khai-Quốc vương, trong nhà thường gọi Vương là Tiểu Khai-Quốc vương .
    Ngài suy nghĩ:
    - Ta phải truyền ngôi cho ai bây giờ?
    Ngài hỏi Khai-Quốc vương:
    - Bồ nhi, con định dâng cho ta vật gì đây?
    Bảo-Hòa từ ngoài bước vào, nghe ông ngoại hỏi cậu hai, nàng chạy đến trước ông ngoại, quỳ xuống rập đầu:
    - Tâu ông ngọai. Cậu Long-Bồ giầu nhất Đại-Việt, mà cũng nghèo nhất. Con xin vì cậu, dâng lên ông ngoại lễ vật.
    Thuận-Thiên hoàng-đế vẫy tay, cho Bảo-Hòa đứng dậy:
    - Con cháu thơm nhất Đại-Việt dâng lễ gì thay bố nuôi đây?
    Thời bấy giờ, cha với con gái. Mẹ với con trai. Anh với em gái. Ngay ông với cháu gái. Kể từ mười hai tuổi trở đi, phái sống cách biệt, tuyệt đối cấm không được chạm vào người nhau. Thế nhưng Thuận-Thiên hoàng đế cực kỳ sủng ái Bảo-Hòa. Ngài nắm tay kéo nàng cho ngồi bên cạnh.
    Bảo-Hòa kính cẩn tâu:
    - Cậu hai là người giầu nhất, mà cũng nghèo nhất. Cậu nghèo nhất vì cậu có gì, bất cứ võ lâm, danh sĩ muốn, cậu cho hết. Cậu giầu nhất, vì bất cứ võ lâm danh sĩ thiên hạ có gì, cậu muốn họ cũng dâng hết. Hiện nay anh hùng thiên hạ chín phần mười đều qui phục cậu hai. Mà cậu hai là con ông ngoại. Vì vậy cái kho tàng vô giá nhân tâm thiên hạ đó là của ông ngoại. Con xin vì cậu hai dâng lên ông.
    Thuận-Thiên hoàng đế hỏi Bảo-Hòa:
    - Cháu ngoan. Trẫm đọc tấu chương của Khu-mật viện nói về những việc cháu với Bình-Dương làm ở trấn Thanh-hoá thực kinh thế hãy tục. Bây giờ cháu hãy thuật lại đầy đủ những gì đã xẩy ra trong gần một năm qua cho trẫm cùng các chú, các cô, các cậu nghe.
    Bảo-Hòa khoan thai kể lại mọi việc, không dấu một việc nào. Khi mới về Thăng-long, Khai-Quốc vương đã dặn anh em nàng với Thanh-Mai rằng có hai việc cần dấu là việc phản quốc của bọn họ Đàm và bọn Nguyên-Hạnh. Vì Vương muốn những việc đó cần để như vậy hầu tương kế tựu kế. Nếu phá vỡ những ổ gian nhân đó, bọn Tống sẽ xây thêm những ổ khác, khó mà tìm được. Cho nên Bảo-Hòa chỉ thuật những gì liên quan đến bọn Tống, đến Vạn-thảo sơn trang, Vạn-hoa sơn trang và trang Thiên-trường.
    Cuối cùng Bảo-Hòa kết luận:
    - Cậu hai bỏ tất cả tài sản, tâm trí ra hầu thu phục nhân tâm. Võ lâm trăm người như một, không ai mà không hướng về triều đình. Đó là lễ vật trân quý không gì bằng, mà cậu hai dâng lên ông.
    Khai-Thiên vương lắc đầu:
    - Chưa hẳn. Chú hai cầm toàn binh quyền trong tay, lại kiêm quản Khu-mật viện. Thế có chắc đã thu phục được nhân tâm của phái Đông-a, phái Sài-sơn chưa? Trong Ngũ-long Đại-Việt, chỉ có Quốc-sư Minh-Không, sư thái Tịnh-Tuệ, cùng Tản-viên Đặng-Đại-Khê ta nghĩ chẳng cần đến Khai-Quốc vương họ cũng qui phục triều đình.
    Vũ-Đức vương cãi:
    - Thu phục nhân tâm là nhiệm vụ chung của phụ hoàng, của anh em chúng ta, đâu phải của riêng anh hai?
    Khai-Thiên vương cười nhạt:
    - Phụ hoàng chẳng từng chỉ dụ rằng, ai có thể giải được cái mâu thuẫn giữa phái Đông-a, Sài-sơn với triều đình, người ấy xứng đáng lên ngôi Cửu-ngũ. Ta là anh cả, ta muốn các em phải nghĩ đến điều đó. Chúng ta có nắm được võ lâm thiên hạ, mới mong giữ nổi đất nước. Chìa khóa của việc thống nhất nhân tâm võ lâm ở phái Đông-a và phái Sài-sơn. Chưa thu phục được hai phái đó, vẫn như không.
    Thấy anh với em cãi nhau, Khai-Quốc vương chợt nhớ đến một truyện. Hôm trước Thanh-Mai từ Thiên-trường về tới, chàng dẫn nàng dạo chơi cố đô Cổ-loa. Thanh-Mai trao cho chàng một thanh kiếm rất cổ. Nàng cho biết hồi trước bố nàng giết chết một tên đạo tặc, mà lấy được. Bố nàng cho nàng. Thanh kiếm rất sắc bén, trên khắc hình con rồng với con chim âu. Nay nàng tặng cho chàng. Chàng không biết thanh kiếm đó tên gì, nên đeo bên mình. Động tâm cơ, chàng đứng dậy nói:
    - Tâu phụ hoàng, hài nhi xin dâng phụ hoàng một thanh kiếm.
    Chàng kính cẩn, hai tay nâng ngang mày, quỳ gối dâng cho phụ hoàng. Mới trông thấy thanh kiếm, Thuận-Thiên hoàng đế kinh ngạc, gần như xuất thần, rồi ngài tiếp lấy, rút ra khỏi vỏ hỏi:
    - Con tìm ra thanh kiếm này ở đâu?
    Chàng định nói tên Thanh-Mai, nhưng chợt nhớ ra rằng, dù có nói tên nàng ra, phụ hoàng cũng không biết. Chàng tâu:
    - Do một nữ hiệp thuộc phái Đông-a tặng.
    Thuận-Thiên hoàng đế càng kinh ngạc. Vì từ khi lên ngôi, mối ưu tư số một của ngài phải làm sao thu phục được phái Đông-a, với Hồng-sơn đại phu. Vì ngài biết hai nơi này tàng trữ sức mạnh Đại-Việt, mà không hiểu vì lý do gì cứ ngấm ngầm kình chống triều đình. Triều đình đã gửi lễ vật ban tặng, không bao giờ hai nơi ấy tiếp nhận. Nay Khai-Quốc vương lại được người của phái Đông-a tặng kiếm, theo phong tục hồi ấy như một hành động tuân phục. Ngài biết con không nói dối, nhưng cũng hỏi lại:
    - Có thực không?
    - Tâu phụ vương thực. Nàng là em kết nghĩa của con.
    Rồi vương kể sơ lược vụ chín người kết nghĩa trên núi Chung-chinh, xưng tên Thuận-thiên cửu hùng cho phụ hoàng nghe.
    Thuận-Thiên hoàng đế ngắm nghía thanh kiếm, rồi gật đầu:
    - Vật mà trẫm mơ ước bao năm, bây giờ lại do người của phái Đông-a tặng, thực đến nằm mơ trẫm cũng không ngờ tới.
    Khai-Thiên vương nhăn mặt:
    - Một thanh kiếm cổ, đen sì, có gì quý đâu, mà phụ hoàng kinh ngạc?
    Thuận-Thiên hoàng đế lắc đầu:
    - Con không biết đó thôi, thanh kiếm này có tên Khai quốc bảo kiếm nó được đúc từ hồi vua Kinh-Dương. Vua Kinh-Dương đúc thanh kiếm, rồi khắc hình con rồng, con chim âu để ban cho Quốc-Tổ Lạc-Long, Quốc-Mẫu Âu-Cơ. Thanh kiếm tượng trưng cho uy quyền quốc gia. Nó được truyền qua các đời vua Hùng. Sau về vua An-Dương. Khi vua An-Dương tự tử, thanh kiếm biến mất. Đến thời Lĩnh-Nam, Bắc-bình vương Đào Kỳ tìm được, dâng cho vua Trưng. Khi vua Trưng tuẫn quốc, nó bị Mã Viện ăn cứơp mang về Trung-nguyên. Vua Hán cất ở điện Vị-ương, tự cho có oai thế đàn áp man di. Đời Tam-quốc, Tào Tháo mang theo đánh Ngô ở Xích-bích. Tào bị bại, bỏ chạy. Khi qua Hoa-Dung, Tào bị Quan Vũ cướp thanh kiếm này. Khi Quan Vũ bị Đông-Ngô diệt, thanh kiếm đó về tay Tôn Quyền. Lúc bà Triệu khởi binh, Quyền trao cho Lục Dận đem sang đánh đẹp. Trong trận đánh Cửu-chân, bà Triệu đoạt kiếm này từ tay Lục. Thế rồi thanh kiếm đó thất lạc đến nay. Không hiểu sao, nó lại về phái Đông-a, mà phái này tặng Long-Bồ.
    Khai-Quốc vương trở về chỗ ngồi. Thuận-Thiên hoàng đế rút kiếm ra ngắm nghía. Khai-Thiên vương tâu:
    - Không biết có đúng thanh kiếm đó không? Phái Đông-a mà được kiếm đó, đời nào họ cho chú hai? Con không tin.
    Dực-Thánh vương tiến lên nói:
    - Gần đây Khu-mật viện không ngớt thượng biểu nói về hành trạng của công chúa Bình-Dương, thế tử Thiệu-Thái, quận chúa Bảo-Hòa tại trấn Thanh-hóa. Những việc đó thực kinh thiên động địa. Đến bọn thần, tuổi trên tứ tuần, mà cũng không thể làm nổi, trong khi khu-mật viện lại gán cho mấy đứa trẻ công lao đó. Thần thực không tin. Bình-Dương bất quá tuổi mười bẩy, văn học tuy có uyên thâm, nhưng võ công e trói gà không chặt. Hồi nãy Hồng-Phúc tát một cái, mà không đỡ nổi, thế thì võ công chẳng có gì. Thế mà Khai-Quốc vương tâu rằng Bình-Dương có thể chống lại với bọn võ công lừng danh thiên hạ như Tung-sơn tam kiệt, e quá đáng.
    Đông-Chinh vương cũng tiếp:
    - Lời tâu của Dực-Thánh vương thực phải. Xin phụ hoàng trừng phạt Khai-Quốc vương về tội khi quân, dối triều đình.
    Phò mã Thân Thừa-Quý nghe chú vợ, rồi em vợ kết tội Khai-Quốc vương, ông bực mình. Nhưng ông xa Thiệu-Thái, Bảo-Hòa gần một năm. Ông không biết những biến cố quan trọng, nên không biện luận được. Nhưng qua những bản tin do Bảo-Hòa sai chim ưng đưa về Bắc-biên, thì những việc xẩy ra, hoàn toàn hợp lý chứ không thể nào bịa đặt được.
    Thình lình ầm một tiếng kinh khủng trên mái ngói, rồi ba người đáp xuống như ba con đại bàng. Một người tay phóng chưởng tấn công Hoàng-đế, tay đoạt kiếm. Hoàng-đế vung chưởng đỡ. Bình một tiếng, ngài bật lui liền ba bốn bước. Người lảo đảo. Kiếm đã bị đoạt mất. Một người đỡ chưởng của phò mã Đào Cam-Mộc. Một người đỡ chưởng của công chúa An-Quốc.
    Mọi người cùng kinh hoảng la lên. Vì Thuận-Thiên hoàng đế là đệ tử đắc ý của Vạn-Hạnh thiền sư. Võ công cao thâm không biết đâu mà lường. Võ công các hoàng tử đều do ngài truyền dạy. Thế mà người kia chỉ đánh một chưởng, khiến ngài bật lui, e rằng khắp sảnh đường không ai địch lại y.
    Người đó, có thân hình gầy như que củi, gương mặt khắc khổ, chòm râu đã bạc trắng, y mặc quần áo nâu, mặt bịt khăn, chỉ hở hai con mắt, sáng như sao. Các thái tử bao vây người đó vào giữa.
    Người đó cười nhạt:
    - Lý Công-Uẩn tự thị anh hùng vô địch, dùng võ công sáng lập triều đại, thế mà lại dùng số đông uy hiếp người ư?
    Y nói tiếng Việt bằng âm thanh hơi lạ, không giống với bất cứ tiếng nói vùng nào trong nước.
    Người đối chưởng với phò mã Đào Cam-Mộc thân hình nhỏ bé, dường như chưa già. Phò mã Đào Cam-Mộc đã xử dụng Cửu-chân chưởng đỡ chưởng của y. Hai người cùng bật lui, đủ tỏ công lực ngang nhau. Còn người đối chưởng với công chúa An-Quốc là một phụ nữ. Công chúa An-Quốc dùng chiêu Ác ngưu nan độ trong Phục-ngưu thần chưởng đỡ. Thế mà người kia chỉ loạng choạng một chút, chứ không bị bật lui.
    Mỹ-Linh nói với Bảo-Hòa:
    - Bọn này là người Việt, võ công của họ hơi giống võ công Tượng-quận. Võ công Cửu-chân chỉ khắc chế võ công Trung-nguyên. Vì vậy phò mã Đào Cam-Mộc không thắng được y.
    Biến cố xẩy ra đột ngột. Tuy vậy, đám đàn bà trẻ con cũng nhanh nhẹn lui vào cuối phòng. Ở giữa chỉ còn hoàng đế với các thái tử, cùng công chúa mà thôi.
    Khai-Thiên vương cười nhạt:
    - Cứ như thân thủ các vị, thì thuộc loại đại tôn sư hiếm có trên thế gian này. Hà cớ phải bịt mặt. Các vị có thể cho ta biết danh tính được chăng?
    Người lùn cười nhạt:
    - Khai-Thiên vương nói câu đó thực ngu vô cùng. Chúng ta cần dấu căn cước mới phải bịt mặt. Khi đã bịt mặt, đời nào còn nói tên ra nhỉ. Hỏi thế mà cũng hỏi.
    Vũ-Đức vương chỉ xuống sân:
    - Các người hãy trông? Thị vệ bao vây kín như thành đồng vách sắt. Các người dù có cánh cũng không bay ra lọt. Hãy bỏ khăn bịt mặt, chịu trói.
    Người đàn bà cười nhạt:
    - Chúng ta không bỏ. Các người có bản lĩnh thì bắt chúng ta đi. Không ngờ trên từ Hoàng-đế, xuống đến Thái tử, mà dùng đông người uy hiếp chúng ta. Thực không xứng đáng làm con người chứ đừng nói làm vương, làm đế.
    Các Vương luận bàn, chê bai, bẻ bác rất hay, nhưng khi gặp việc khó khăn, họ lại buông xuôi, nghĩ rằng, đã có Khai-Quốc vương giải quyết.
    Từ khi Khai-Quốc vương cầm đại quyền, họ không ngớt bới lông tìm vết bắt bẻ đủ điều, vì sự thành công của Vương. Bây giờ trước vấn đề nhỏ bé như thế này, họ chỉ biết im lặng. Vũ-Đức vương, Đông-Chinh vương, Dực-Thánh vương cho tới Khai-Thiên vương đều đưa mắt nhìn Khai-Quốc vương như ngụ ý người giải quyết đi. Vũ-Đức vương cười nhạt, nói với Khai-Quốc vương:
    - Người tự hào mưu kế trùm hoàn vũ. Vậy người hãy làm cách nào đuổi được bọn này đi, ta tôn người làm trừ quân.
    Khai-Thiên vương mỉa mai:
    - Mưu với mẹo, người thử kiếm ra mưu khuất phục bọn này xem. Ta e tể tướng Nguyễn Phương-Dung thời Lĩnh-Nam sống dậy cũng bó tay.
    Khai-Quốc vương vẫn ung dung mỉm cười, cầm bình trà rót ra uống, thái độ thản đãng đãng nhàn nhã như không có gì xẩy ra.
    Công-chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hoà nói với lão già:
    - Được, ở đây các người có ba người. Chúng ta sẽ cử ra ba người đấu với các người. Hễ các người thắng được chúng ta. Ta cho người ra đi. Ngược lại, các người bại, tất cả phải ở lại.
    Lão già cất giọng trầm trầm khoan thai:
    - Hay lắm. Chúng ta đấu với các người.
    Công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hòa ước lượng lão già, e khắp tất cả mọi người hiện diện, không ai địch lại đã đành. Nhưng gã lùn, phò mã Đào Cam-Mộc có thể thắng y. Còn người đàn bà, có công chúa An-Quốc dư sức chế phục. Chỉ cần bắt được một trong ba tên, sẽ ra tông tích chúng.
    Lão-già mỉm cười:
    - Ta muốn đấu trận đầu tiên. Nào, bên người có ai muốn biết mặt Diêm-Vương ra đấu với ta.
    Cả Long-hoa đường im lặng, không ai lên tiếng, ngơ ngác nhìn nhau.
    Khai-Quốc vương tiến lên đối diện với lão già, chàng chắp tay vái một vái. Lão già cũng đáp lại. Nhưng lão tung ra một kình phong cực mạnh. Khai-Quốc vương đã đề phòng. Chàng vận Vô-ngã tướng thiền công. Kình lực của lão già tràn ra như sóng vỗ, gặp sức hút của Vô-ngã tướng thiền công, bị mất tăm, mất tích.
    Khai-Quốc vương mỉm cười:
    - Lão tiên sinh. Tiểu bối bản lĩnh tuy không làm bao, nhưng cũng bạo gan xin lão tiên sinh chỉ giáo cho mấy chiêu. Tuy nhiên, giữa lão tiên sinh với tiểu bối vốn không thù, không oán lại cùng nguồn gốc tổ tiên. Tiểu bối xin được mời lão tiên sinh cùng hai vị đây uống mấy chung rượu trước khi đấu võ, không biết lão tiên sinh cùng hai vị tiền bối có thuận không? Việc lão tiên sinh cùng hai vị tiền bối giá lâm Hoàng-thành, tiểu vương chậm nghinh tiếp, thực có lỗi vô cùng. Mong lão tiên sinh đại xá cho.
    Nói rồi chàng thân kéo ghế:
    - Mời ba vị ngồi chơi uống mấy chung rượu nhạt.
    Lão già đưa mắt nhìn hai tùy tòng, lão suy nghĩ:
    - À thì ra con thứ Lý Công-Uẩn đây. Người Đại-Việt đồn y mưu trí trùm hoàn vũ, lại độ lượng hơn người. Vừa rồi không biết y dùng võ công gì mà làm tiêu hao mất lình lực của mình?
    Y cười:
    - Người ta đồn làm anh hùng võ lâm mà chưa được gặp Khai-Quốc vương thì vẫn là kẻ phàm phu. Hôm nay lão phu mới tin.
    Lão ngồi xuống ghế. Hai tùy tùng khoanh tay đứng sau hầu. Khai-Quốc vương truyền thái giám:
    - Hãy bày một tiệc rượu, để ta mời lão tiền bối cùng hai vị đây nâng chung rượu giao hữu.
    Tay Vương rót rượu mời ba người, rồi lại thân rót cho mình một chung. Vương đưa lên miệng uống trước, chứng tỏ rượu không có chất độc. Đợi cho lão già uống xong, vương hỏi:
    - Xin lão tiền bối cho biết, người giá lâm Hoàng-thành, có điều chi dạy dỗ tiểu vương?
    Lão già cười:
    - Hay thực. Xưa kia Lương-Huệ vương sơ kiến Mạnh-tử. Vương hỏi Mạnh-Tử rằng: Cụ từ phương xa đến đây có gì làm lợi cho nước tôi. Mạnh-Tử chê rằng Huệ vương không có chí lớn, chỉ thu lại trong nước mình. Nay Quốc vương lại hỏi có gì dạy dỗ, đúng thực con người nhún nhường, nhã lượng cao trí vậy. Lão phu tới đây vì muốn được xem phong cách của một vị Hoàng-đế xuất thân võ lâm thế nào mà thôi.
    Thuận-Thiên hoàng-đế thấy giữa lúc hai bên chuẩn bị đấu võ, mà Khai-Quốc vương vẫn thản nhiên mời kẻ gian uống rượu, vui vẻ như không có gì xẩy ra. Ngài tự cảm thấy bản lĩnh, mưu trí mình thua con xa, nên im lặng ngồi xuống long ỷ. Các vị vương cũng khen thầm Khai-Quốc vương khoan dung đại độ.
    Khai-Quốc vương thản nhiên thù tiếp ba người bịt mặt. Từ phía sau Vương, năm người tiến lên khoanh tay đứng hầu. Vương liếc nhìn thì ra Thanh-Mai, Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, Thiệu-Thái và Đỗ Lệ-Thanh.
    Đỗ Lệ-Thanh nói với lão già:
    - Trấn-Nam vương gia nước Đại-lý, Thái-sơn Bắc-đẩu võ lâm có khác, võ công thực trác tuyệt. Còn hai vị đây chắc là Phạm đại tư đồ và phu nhân có mỹ danh Nam-thiên đệ nhất kiếm Hàn nữ hiệp hẳn. Võ công các vị thực có một không hai trên đời.
    Nghe Đỗ Lệ-Thanh nói, trên từ Thuận-Thiên hoàng đế xuống tới các vương đều rúng động. Vì nước Đại-lý hiện đo họ Đoàn làm vua, dân số, diện tích, tài nguyên không thua gì Đại-Việt. Họ Đoàn đo võ lâm xuất thân cai trị vùng đất tiếp giáp với Bắc-biên Đại-Việt. Phía Bắc, Đông giáp Quảng-nam lộ của Trung-nguyên. Nước Đại-Lý về thời vua Hùng, vua An-Dương vua Trưng thuộc Tượng-quận. Từ khi vua Trưng tuẫn quốc, anh hùng Tượng-quận không ngớt nổi lên dành độc lập, vì vậy họ lập ra nước Đại-lý. Trong khi đó vua Ngô, vua Đinh, vua Lê dành độc lập vùng Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam lập ra Đại-Việt. Có thể nói, Đại-Lý với Đại-Việt cùng thuộc tộc Việt.
    Võ công Đại-lý rất cao thâm, đỉnh lập ra một phái riêng biệt, chính nhà vua làm chưởng môn. Niên hiệu Cảnh-thụy thứ nhì (1009) vua Lê Long-Đĩnh chết, triều đình tôn Tả-thân-vệ điện tiền chỉ huy-sứ Lý Công-Uẩn lên ngôi vua. Năm đó nhằm nên hiệu Đại-trung Tường-phù thứ nhì đời Tống Chân-tông. Bên nước Đại-lý, Đoàn Tố-Liêm lên ngôi vua. Tố-Liêm là một đệ nhất cao thủ võ lâm, lại có chí khí. Ông muốn chỉnh bị quân mã, rồi khởi binh đánh sang Đông, chiếm lại vùng Quảng-Tây, Quảng-Đông lộ nhà Tống, thuộc Quế-lâm, Nam-hải xưa kia. Sau đó chỉ binh xuống Nam, đánh chiếm Đại-Việt, lập lại nước Văn-lang thời vua Hùng.
    Gần đây nghe Lưu hậu nhiếp chính, gửi hàng chục đoàn do thám sang Đại-Việt mưu tìm lại di thư thời Lĩnh-Nam. Đoàn Tố-Liêm cũng gửi sáu đoàn sang. Đoàn phục tại đền thờ Thánh-Thiên đo Đại tư-không Chu-Minh chỉ huy, bị Đỗ Lệ-Thanh đánh thuốc độc. Y đã xuất hiện tại trang Thiên-trường, xin Thân Thiệu-Thái ban thuốc giải độc.
    Đoàn thứ nhì đo Trấn-nam vương Đoàn Huy đem tư đồ Phạm Văn cùng vợ Văn là Hàn Ngọc-Quế đến Thăng-long mở được phòng Ích-sinh-đường, hầu nghiên cứi tình hình Đại-Việt, cùng tìm di thư. Hôm trước y, nghe tin sứ đoàn Triệu Thành tìm ra di thư thời Lĩnh-nam, đang trên đường về Tống. Y cùng Chu Minh, vợ chồng Phạm Văn bí mật theo dõi từ Thiên-trường về Thăng-long, chờ dịp bọn chúng sơ hở sẽ đoạt kinh thư.
    Không ngờ trong khi y theo dõi bọn Tống, bọn Chu An-Bình cũng rình rập. Trận đấu giữa cao thủ Đại-lý với bang Nhật-hồ năm trước, Chu An-Bình có dự. Hai bên nhận ra nhau. Chu An-Bình biết muôn ngàn lần y không phải đối thủ của bọn Triệu Thành. Vì vậy y bàn với Đoàn Huy cùng hợp tác.
    Nếu cướp được di thư, Chu An-Bình chỉ xin được luyện Vô-ngã tướng thần công, để thay thế thuốc giai Chu-sa độc chưởng. Nhưng sự thực trong lòng y nghĩ rằng sau khi đoạt được kinh thư, y đánh thuốc độc giết chết bọn Đại-lý, rồi một mình tọa hưởng. Đoàn Huy cũng nghĩ rằng, nếu đấu với nhau, bọn y khó thắng bọn Triệu Thành. Vì vậy y cần nhờ Chu An-Bình dùng độc dược hại bọn Tống. Sau khi cướp được kinh thư, y sẽ diệt Chu An-Bình. Đúng là kẻ cắp bà già gặp nhau.
    Trong lúc theo dõi, Phạm Văn với vợ đọat được bộ kinh thư trên tay bọn Tống. Đoàn Huy biết chữ Khoa-đẩu. Y cho sao lại nguyên văn bộ Kinh-thư cất vào một cái rương. Y đoán rằng bọn Tống thế nào cũng theo đoạt lại. Y bôi sửa bộ kinh thư, để dù bọn Tống có luyện cũng vô ích, rồi y nhờ Chu An-Bình tẩm thuốc độc vào hầu hại chúng.
    Vì bọn Tống vốn đã dụ được Dực-Thánh vương theo chúng. Chúng nhờ Dực-Thánh vương tung người đón hết các ngả đường sông đường bộ lùng bắt Phạm Văn. Quả nhiên hai bên gặp nhau trên sông Hồng. Trong trận đấu trên sông Hồng, y biết mình đấu không lại Minh-Thiên, y vờ chịu lép vế trả sách. Bọn Tống bị mắc mưu y, tất cả đều bị trúng độc nặng. Y cùng bọn Chu An-Bình xuôi thuyền chạy.
    Khi đi dọc đường, bọn Chu An-Bình tung thuốc độc hại bọn y. Nhưng y kịp thời ra tay. Bọn An-Bình bỏ chạy. Y yên tâm mở tráp ra coi kinh thư, thì than ôi! Kinh thư cùng bao nhiêu thư tín đều không cánh mà bay. Y nghi bọn Tống cho người ăn trộm. Nào ngờ người lấy trộm lại là đệ tử Đông-a, do Thanh-Mai sai đi.


    <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2005 10:38:34 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 11.01.2005 17:49:10 (permalink)
      Hồi thứ bốn mươi ba


      Quốc Thống Đại Việt



      Y tưởng bọn Tống lấy trộm, không ăn được thì đạp đổ. Y tìm dịp báo cho vua Lý biết. Vua Lý ắt sai cao thủ đón bắt sứ đoàn Triệu Thành lấy lại di thư. Y chờ giữa lúc một bên thắng, một bên bị thương, thừa cơ xuất hiện làm ngư ông hưởng lợi.
      Y nghe vua Lý mở yến ở lầu Thúy-hoa, nên tìm cách xuất hiện , báo tin việc Triệu Thành. Nhân đó dùng võ công khống chế triều đình Đại-việt. Hầu sau này bàn việc thống nhất, họ Lý ắt phải chịu dưới vai họ Đoàn. Không ngờ, Huy bị một phụ nữ hầu cận Khai-quốc vương khám phá ra tông tích.
      Khai-quốc vương hướng vào Thuận-thiên hoàng đế:
      - Tâu phụ hoàng, vị tiền bối đây họ Đoàn tên Huy, hiện giữ binh quyền Đại-Lý. Còn vị này là đại tư đồ Phạm Văn cùng phu nhân có biệt danh Nam-thiên đệ nhất kiếm Hàn Ngọc-Quế.
      Thanh-Mai hỏi Đoàn Huy:
      - Đoàn vương gia. Không biết tiền bối Chu Minh hiện ở đâu, vương gia có thể cho tiểu nữ tiếp kiến được chăng?
      Đoàn Huy thấy tông tích mình đã bị khám phá. Y không biết có nên bịt mặt nữa hay không? Hôm trước Chu Minh về Thăng-long gặp lão, kể những việc xẩy ra ở Thiên-trường. Lão biết Thanh-Mai đi trước một bước trong việc liên minh Đại-Việt, Đại-lý, nhưng như vậy Đại-Việt ở thế thượng phong. Huy không chịu. Y muốn thân giáp mặt hoàng đế Đại-việt, thảo luận thế liên minh. Nhưng theo y, cần hiển lộ võ công cho triều đình nhà Lý bớt kiêu đã.
      Nghe Thanh-Mai hỏi Chu Minh, Đoàn Huy trả lời cho qua:
      - Đã lâu, tại hạ không được tin tức gì của y.
      Mỹ-Linh cười:
      - Đoàn vương gia, triều đình Đại-việt thể tình họ Lý, họ Đoàn đều là con cháu vua Hùng, vua Thục, vua Trưng. Cho nên vương gia tới Thăng-long mở Ích-sinh-đường mấy năm nay. Triều đình để nguyên, không bắt tội. Như vương gia biết, luật Đại-việt xử lăng trì bất cứ gian nhân ngoại quốc nào làm tế tác mưu hại xã tắc. Đúng ra khi vương gia vừa đến, đã bị bắt xử lăng trì. Triều đình cho rằng vương gia vốn người Việt, tới Thăng-long làm tế tác cho vua Việt họ Đoàn, không phải làm tế tác cho ngoại quốc, nên không bắt tội đấy thôi.
      Mỹ-Linh lắc đầu:
      - Triều đình rộng lượng với vương gia, mà vương gia không biết thế. Hôm nay vương gia còn đục thủng mái lầu Thúy-hoa, tấn công thiên tử, cướp kiếm của người. Vương gia ơi, tại sao vương gia làm thế?
      Bảo-Hòa móc trong bọc ra một tập giấy trao cho Mỹ-Linh:
      - Vương gia đến Đại-Việt, nào nghiên cứu sông núi, binh tình, nhân vật, lại muốn tìm bộ Lĩnh-Nam vũ kinh... Vương gia làm nhiều việc vô pháp vô thiên quá. Chỉ cần một việc của vương gia, triều đình cũng có thể đem vương gia ra chặt đầu rồi.
      Đoàn Huy kinh ngạc:
      - Xin công chúa cho biết lão phu vô pháp, vô thiên như thế nào?
      Mỹ-Linh móc trong bọc ra tập giấy:
      - Đây, bao nhiêu tấu chương của vương gia gửi về Đại-lý, chúng tôi đã tráo bằng một tấu chương khác, còn tấu chương của vương gia thì giữ lại. Xin trả vương gia.
      Mồ hôi Đoàn Huy vã ra như tắm. Những bản mật tấu gứi về nước của y thực bí mật đến thần không biết, qủi không hay, làm thế nào Khu-mật viện Đại-việt lấy được? Huy chợt hiểu ra: Cái tráp của y trong thuyền bị mất trên sông Hồng, do Khu-mật viện triều Lý chứ không sai. Huy than thầm:
      - Thôi rồi, họ sẽ gửi về Đại-lý những bản tấu chương giả mạo, khiến triều đình Đại-lý ước tính sai về Đại-Việt mất rồi.
      Phạm Văn cầm tập giấy coi, quả đúng những tấu chương y soạn theo lệnh Đoàn Huy gửi đi. Bất giác chân tay y run lẩy bẩy.
      Thuận-thiên hoàng đế, cùng Khai-thiên vương đều kinh ngạc đến đờ người ra vì những thay đổi của Bình-dương. Trước mắt hai vị, Mỹ-Linh là cô gái ẻo lả, suốt ngày ngồi đọc thơ Đường, phú Hán. Thế rồi, chỉ theo Khai-quốc vương có hơn năm, mà nói năng hành sự mẫn cán khác thường.
      Thanh-Mai nói với Phạm Văn:
      - Phạm tiền bối võ công trác tuyệt. Hôm trước đây tiền bối đánh nhau với người của bang Nhật-hồ Trung-quốc, bị họ phóng chất độc vào người. Không biết nay đã khỏi chưa? Nếu chưa khỏi, tiền bối còn đợi gì không cầu với hoàng thượng. Hoàng thượng sẽ sai người trị cho tiền bối.
      Trong trận đấu trên sông Hồng, Phạm Văn đã bị Chu An-Bình phóng độc dược vào người. Từ hôm đó đến giờ, mỗi ngày y đều lên cơn đau đớn đến chết đi sống lại. Bây giờ nghe Thanh-Mai nói, y biết nàng có thể trị bệnh cho y được. Y kính cẩn nói với Thanh-Mai:
      - Cô nương, xin cô nương sinh phúc cứu tiểu nhân. Nguyện không bao giờ quên ơn.
      Đến đây độc chất phát tác, Phạm Văn run lẩy bẩy, tay ôm bụng nhăn nhó, mồ hôi toát ra trông cực kỳ thảm não.
      Mỹ-Linh cười:
      - Phạm tiên sinh ơi, người có lẫn không? Nước có vua, đất có chủ. Người đã làm đến chức Tam-công nước Đại-lý mà sao không hiểu điều đó? Người hiện đang là tội phạm nước Việt, chỉ có hoàng đế Việt mới đủ quyền truyền lệnh sai người trị bệnh cho tiền bối. Còn Long-hoa đường này thuộc Hoàng-thành. Chúa của Hoàng-thành là hoàng hậu. Vậy tiên sinh phải cầu hai vị phúc thánh đó mới mong được cứu trị.
      Phạm Văn tiến tới trước Thuận-thiên hoàng đế quì gối, rập đầu cộp cộp:
      - Hạ thần Phạm Văn, vốn người Việt, thuộc nước Đại-lý. Mong bệ hạ nghĩ tình con Rồng, cháu Tiên ban chỉ dụ cho người cứu hạ thần, hầu thắt chặt tình giao hảo hai nước.
      Thuận-thiên hoàng đế thấy Mỹ-Linh biến Phạm Văn đang từ một thích khách kiêu ngạo, không coi triều đình nhà Lý ra gì. Không chừng y còn muốn bắt họ Lý qui phục họ Đoàn... bây giờ y chịu xuống nước xưng người Việt. Long tâm hớn hở. Ngài phán:
      - Bình-Dương, Bảo-Hòa, các cháu hãy mở tâm Bồ-đề cứu Phạm tiên sinh một phen.
      Bảo-Hòa chỉ Thanh-Mai:
      - Xin mợ ra tay. Ông ngoại cháu đã ban chỉ dụ, tức tha tội cho Phạm tiền bối rồi.
      Thuận-Thiên hoàng đế thấy một thiếu nữ đi cùng với Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, ngài cho rằng đó là một quận chúa nào. Bây giờ ngài mới nhìn kỹ, trong lòng kinh ngạc:
      - Cô gái này là ai, mà nhan sắc thực tươi đẹp hiếm có. Nếu so với Mỹ-Linh khó biết ai đẹp hơn ai. Cứ coi bước đi, dường như nàng thuộc phái Đông-a. Không biết Bồ nhi làm sao mà chiêu mộ được nàng?
      Thanh-Mai bắt mạch Phạm Văn rồi nói:
      - Phạm tiền bối không hẳn bị trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng, mà chỉ bị trúng độc mà thôi. Chất độc của Phạm tiền bối thuộc Ngũ-độc. Chu An-Bình thuộc bang Nhật-Hồ, nội công y vốn âm nhu. Công lực của y rất yếu, đúng lý ra y không thể đả thương tiền bối được. Vì vậy y phóng chất độc vào người tiền bối. Trong khi tiền bối đánh chiêu Ưng phi sơn lĩnh của phái Thiên-sơn, chiêu này cực kỳ lợi hại, nhưng để hở vùng bụng trên. Đúng lúc đó Chu An-Bình phóng chất độc. Chất độc nhập vào huyệt Thượng-uyển, Trung-uyển, Hạ-uyển. Huyệt Trung-uyển nằm trên Nhâm-mạch, là nơi giao hội của Thủ-thái-dương, Thủ-thiếu-dương, Túc-dương-minh cùng Nhâm-mạch. Vì vậy cho nên độc chất chạy vào cơ thể. Ngay ngày đầu, tiên sinh cứ bị ợ hơi. Ăn xong buồn ngủ. Khoảng một giờ sau bữa ăn, bao tử đau chịu không được. Đáng lẽ bệnh cũng không nặng. Song tiên sinh tưởng bao tử bị hư nhược dùng Phục-linh, Bạch-truật, Nhân-sâm, Quế-chi, Cam-thảo, Thương-truật. Sau khi uống vào, các vị thuốc bổ hoà lẫn với độc tố, phân tán khắp người. Vì vậy tiên sinh mới đau đớn như thế này.
      Thanh-Mai nói đến đâu Phạm Văn cùng Hàn Ngọc-Quế gật đầu đến đó.
      Đoàn Huy hỏi:
      - Cô nương biết bệnh, song liệu có trị được không?
      Thanh-Mai móc trong bọc ra một hộp kim. Nàng để kim lên tay búng mấy cái. Kim bay đến ngực Phạm Văn trúng vào các huyệt Trung-uyển, Hạ-uyển, Thượng-uyển, Lương-môn. Hiện diện có hàng chục người biết châm cứu. Thường khi châm, họ dùng môt tay án vào huyệt, rồi tay kia cầm kim. Sau đó dùng hai tay đẩy kim vào. Khi kim đến độ sâu vừa đủ, thì ngừng lại, kích thích kim. Đây Thanh-Mai để hơn chục kim trên bàn tay trái, rồi dùng ngón tay phải, vận sức vào, búng mạnh, kim bay đến ghim vào huyệt.
      Quan thái y hiện diện nhìn thủ pháp của Thanh-Mai, ông kinh ngạc:
      - Cô nương này học ai, mà đứng xa búng kim, trúng huyệt đã là điều khó. Cô còn tính toán khiến cho kim ngập sâu đúng độ cần thiết, ta chưa từng thấy qua.
      Thái y kính phục hỏi:
      - Cô nương! Xin cô nương giảng cho tiểu nhân về lý, pháp, phương trong vụ này?
      Thanh-Mai giảng:
      - Ba huyệt uyển thuộc Nhâm-mạch. Huyệt Thượng-uyển còn là nơi giao hội huyệt của Túc-dương-minh, Thủ-thái-dương và Nhâm-mạch, là nơi cận của vị, hợp với huyệt Lương-môn cũng là cận huyệt của vị. Cận huyệt để kích thích tỳ, vị hoạt động hầu đẩy chất độc ra ngoài.
      Nàng lại búng kim. Kim bay đến các huyệt Công-tôn, Nội-quan, Túc-tam-lý, cắm vào. Thanh-Mai tiếp:
      - Công-tôn là Lạc-huyệt của Túc-thái-âm tỳ kinh, thông với Túc-dương-minh vị kinh, một trong bát mạch giao hội huyệt thông với Xung-mạch. Xung-mạch tỏa ra vùng ngực bụng. Nội-quan là Lạc-huyệt của Thủ-khuyết-âm tâm bào kinh thông với Thủ-thiếu-dương tam tiêu kinh, một trong bát mạch giao hội huyệt thông với Âm-duy mạch. Mạch Âm-duy buộc chặt các kinh âm lại, phân tán vào ngực. Như vậy cặp Công-tôn, Nội-quan bao trùm khu ngực, bụng trên. Cho nên dùng để trị càc bệnh về tim, về phế, về can, về vị về tất cả các bệnh của lồng ngực. Dùng cặp huyệt này thì trục được độc chất trong tâm, vị của tiên sinh.
      Nàng ngừng một lúc , rồi tiếp:
      - Tôi dùng thêm huyệt Túc-tam-lý, là Hiệp-huyệt của Túc-dương-minh vị kinh. Phạm tiên sinh ơi, vì chất độc nhập vị, làm vị không hoạt đông được. Dùng Hiệp-huyệt để kích thích vị hoạt động hầu trục chất độc ra ngoài.
      Phạm Văn đang đau đớn, sau khi Thanh-Mai phóng kim vào, bao nhiêu cái đau biến mất. Thanh-Mai chỉ vào Thiệu-Thái:
      - Tôi chỉ có khả năng dùng kim, trục độc trong vị mà thôi. Nhưng chất độc chạy khắp cơ thể, phải cần người có Thiền-công tối cao nhà Phật mới hóa giải được. Ở đây thế tử Thiệu-Thái có bản lĩnh đó. Ngày mai tiên sinh đến phủ Khai-thiên vương cầu thế tử trị cho.
      Thanh-Mai biết Thiệu-Thái, Mỹ-Linh đang gặp trắc trở duyên tình. Nàng muốn đẩy món ân nghĩa này cho Thiệu-Thái có dịp làm cho Khai-thiên vương hài lòng, nên nàng nói thế.
      Thanh-Mai nói với Đoàn Huy:
      - Đoàn tiền bối. Hoàng đế Đại-Việt ngồi dự yến, thế mà tiền bối lại ngồi trên nóc điện. Như vậy là tội đại bất kính. Trong khi đó tiền bối bị trúng độc nặng. Tôi tuy biết có người chữa cho tiền bối được, song chưa có chỉ dụ, nên không thể làm gì hơn.
      Đoàn Huy cười nhạt:
      - Này cô nương. Lão phu thấy nhan sắc cô nương thuộc loại hiếm có trên đời. Mắt cô nương chiếu ra những tia sáng long lanh, đã biết nội công cô nương cao, e rằng hiếm có nữ lưu trong thiên hạ bì kịp. Bước đi của cô nương uyển chuyển, bàn tay xinh đẹp vô cùng. Thủ pháp phóng kim dường như ảnh hưởng của chỉ pháp Đông-a. Trong khi đó lối trị bệnh bằng châm cứu của cô nương lại thuộc phái Sài-sơn. Cô nương không có một chút nào dính dáng với triều Lý. Tại sao một người như thế lại khoanh tay đứng hầu sau Khai-quốc vương? Cô nương là ai? Lão phu dám quyết cô nương chẳng phải phi tần, cung nữ họ Lý.
      Bảo-Hòa cười khúc khích:
      - Lão tiên sinh thực có con mắt tinh đời. Đúng như tiên sinh nói, sư tỷ Thanh-Mai là học trò yêu của Hồng-Sơn đại phu. Thanh-Mai sư tỷ không những học võ công Đông-a, mà người còn là con gái thiên kim của vị chưởng môn phái này.
      Mọi người cùng bật lên tiếng ồ hoặc úi chà. Vì từ lâu, triều đình nhà Lý từng nghe danh phái Đông-a, mà chưa có dịp biết về võ công cũng như hành tung đệ tử phái này. Triều đình chỉ biết phái Đông-a vốn thân với triều Lê. Nên khi Thuận-thiên hoàng đế lên ngôi vua, phái Đông-a không chống, song tuyệt đối bất hợp tác. Bây giờ Thanh-Mai là con gái yêu của vị chưởng môn phái Đông-a lại theo giúp Khai-quốc vương. Hỏi ai không kinh ngạc?
      Thuận-thiên hoàng đế đã nói với các em, các con rằng, muốn giữ vững giang sơn, cần phải đoàn kết các võ phái lại như thời vua Bà. Thế nhưng từ khi ngài lên ngôi, phái Đông-a, không hợp tác. Còn phái Sài-sơn thì chống đối ra mặt. Ngài ân cần nhắc nhở: Nếu như trong các em, các con, ai thu phục được võ lâm, thống nhất thành một khối ngài sẽ truyền ngôi cho. Các vị vương tìm đủ cách mua chuộc, liên hệ đến hai phái này, nhưng vô ích. Giờ đây, Thanh-Mai hiện diện trong buổi yến dành cho con cháu họ Lý, mà Khai-quốc vương mời được nàng tham dự, thực cả một kỳ công, ngài không ngờ tới.
      Đoàn Huy cười ha hả:
      - Lão nghe Đông-a ngũ kiệt võ công kiến thức vô song. Tống thiên tử cho người sang mời đại hiệp Trần Tự-An làm nguyên soái, nhưng đại hiệp từ chối. Không ngờ... không ngờ một vị thiên kim tiểu thư của người lại đi làm tỳ nữ cho Khai-quốc vương.
      Bảo-Hòa cười khúc khích lắc đầu:
      - Đoàn lão tiền bối. Người chẳng là người Việt đó ư? Phàm đã là người Việt phải hiểu võ đạo Lĩnh-nam chứ? Võ đạo Lĩnh-nam định rằng Việc xã tắc là việc chung của mọi con dân. Xưa kia Phương-chính hầu Trần Tự-Minh, Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung, Cao-cảnh-hầu Cao Nỗ, Vạn-tín-hầu Lý Thân theo vua An-dương đâu có phải làm nô bộc cho người, mà chẳng qua giúp người trong việc trị quốc. Sư tỷ Thanh-Mai tuy là con vị đại hiệp chưởng môn, nhưng cũng là con dân Đại-việt. Bản thân sư tỷ đâu có theo hầu Khai-quốc vương? Sư tỷ theo giúp Khai-quốc vương chẳng qua để giúp người bảo vệ đất nước mà thôi.
      Nàng ngừng một lát rồi tiếp:
      - Cũng như xưa kia, vua Trưng khởi binh, anh hùng hào kiệt đồng cắp gươm theo người. Đất Đại-lý trước đây thuộc Tượng-quận thời Lĩnh-nam, bấy giờ anh hùng Tượng-quận theo vua Trưng có hàng vạn. Anh hùng theo vua Trưng, đâu phải làm đầy tớ vua Trưng, mà muốn bảo vệ đất tổ vậy. Sư tỷ Thanh-Mai theo Khai-quốc vương, vì Khai-quốc vương dang cầm vận mệnh Đại-việt.
      Đoàn Huy xoay qua truyện khác:
      - Trần cô nương. Cô nương bảo ta trúng độc. Vậy ta trúng độc gì? Bao giờ? Cô nương nói ra được, Đoàn mỗ xin bái phục.
      Kỳ thực cách đây năm năm, trong lần cầm đầu phái đoàn Đại-lý nhập Trung-nguyên tranh hùng với võ lâm nhà Tống. Đoàn Huy thắng hầu hết các đại tôn sư võ lâm. Y chỉ thua có chưởng môn phái Võ-đang về kiếm thuật và thua chưởng môn phái Thiếu-lâm về nội công. Thế nhưng khi đấu với một cao thủ bang Côn-luân. Y tuy thắng, giết chết đối thủ, nhưng bị trúng Thất-trùng ngũ-hoa phấn. Vì nội công y quá cao, chất độc ngấm vào cơ thể không nhiều, nhưng từ đấy, cứ mỗi quí tiết, y lại lên cơn đau đớn đến không chịu nổi. Y tin rằng Thanh-Mai không thể tìm ra bệnh y. Nên y mới đưa ra lời thách thức.
      Thanh-Mai liếc mắt nhìn một lượt khắp Long-hoa đường, rồi nói:
      - Đoàn tiên sinh khéo giả bộ thực. Rõ ràng người bị trúng độc nặng mà còn lờ đi như không hề gì. Bây giờ tiểu nữ với tiên sinh đánh cuộc. Nếu tiểu nữ nói ra được tiên sinh trúng độc gì, tiên sinh phải trở về Đại-lý thuyết phục triều đình liên minh với Đại-việt trong thế bình đẳng. Việt không trên Lý. Lý không trên Việt. Còn ngược lại tiểu nữ tìm không ra bệnh của tiên sinh, tiểu nữ nguyện làm tỳ nữ theo hầu tiên sinh cả đời.
      Đoàn Huy là hoàng thúc Đại-lý, võ công cực kỳ cao thâm, kiến thức quảng bác. Y lại được phong tước Trấn-nam vương, tổng đốc binh mã toàn quốc, uy quyền chỉ thua hoàng đế. Có thể nói quyền hành của y ngang với Triệu Thành bên nhà Tống và Lý Long-Bồ bên Đại-Việt. Chính Huy là người soạn thảo ra kế hoạch Phục hồi cố thổ Văn-lang, khuếch trương uy thế Âu-lạc, thống nhất Việt tộc. Mưu trí, tài ba của Huy vang dội khắp Trung-nguyên, Đại-lý. Vì thế dù trong hoàn cảnh nào, y vẫn giữ vững lập trường rằng hoàng đế Đại-lý mới thuộc chính thống, xứng đáng kế tục huyết thống vua Hùng. Cho nên khi biết Thanh-Mai có thể trị bệnh cho mình, nhưng nghĩ đến đại cuộc đất nước, y dè dặt hơn.
      Huy hiên ngang nói:
      - Cô nương nói lạ. Thời vua An-dương, vua Trưng, Đại-lý thuộc Tượng-quận, Đại-Việt thuộc Giao-chỉ, Quảng-đông lộ thuộc Ngô-Việt. Chúng ta vốn con cháu vua Hùng, vua An-dương, đương nhiên phải lo thống nhất lại đất cũ mới mong đứng vững với Tống. Sau khi vua Trưng tuẫn quốc, anh em bên Tượng-quận chúng tôi sớm khởi binh lập lại tự trị lấy quốc hiệu Đại-lý (Lâm-ấp), truyền ngôi trải đã mấy trăm năm, cho đến nay văn hiến, luật pháp thành hẳn một nước hùng mạnh. Anh em bên Nam-hải lập ra nước Ngô-Việt. Song niên hiệu Thái-bình thứ chín đời vua Đinh của Đại-Việt bên Trung-nguyên niên hiệu Thái-bình hưng-quốc thứ ba đời vua Thái-tông bị nhà Tống thôn tính. Còn bên Giao-Chỉ họ Lý mới lập nghiệp được mười bẩy năm. Bây giờ thống nhất đương nhiên hoàng đế Đại-lý mới xứng đáng kế tục sự nghiệp tổ tiên.
      Y nhìn Thuận-thiên hoàng đế để xem xét nét mặt, thái độ rồi tiếp:
      - Bàn cho phải, khi vua Trưng làm vua, chia đất nước làm sáu nước nhỏ. Mỗi nước có một vị vương. Bây giờ chúng ta theo gương đó. Hoàng đế Đại-lý tôi đứng trên, vua Lý làm Giao-chỉ vương. Sau này cùng hưng binh, chiếm lại Quảng-đông, Quảng-tây, sẽ phong cho hai vị Quảng-đông vương, Quảng-tây vương, tất cả thống thuộc hoàng đế Đại-lý.
      Mỹ-Linh cười khúc khích:
      - Đoàn vương gia nói sao lạ tai quá. Bản triều trước sau như một, giữ vững nếp cũ, quốc hiệu Đại-việt. Còn bên quí quốc xưng quốc hiệu Đại-lý, thì đâu xứng đáng kế tục sự nghiệp tổ tiên?
      Đoàn Huy cười ha hả:
      - Cô nương nói sai, quốc hiệu tuy có đổi, sự nghiệp đâu có gì thay đổi? Vua Hùng lấy quốc hiệu Văn-lang. Đến vua An-dương lấy quốc hiệu Âu-lạc, cũng vẫn kế tục chính thống. Vua Trưng đổi thành Lĩnh-nam, có ai giám bảo ngài không chính thống đâu?
      Mỹ-Linh gật đầu:
      - Tiên sinh có lý. Bây giờ chúng ta bàn về lẽ chính thống đã. Từ xưa đến giờ, phàm được coi như chính thống, phải thuộc huyết tộc các vị tiên vương. Hoặc giữ được phần đất trung ương của tổ tiên. Như bên Trung-nguyên, ai chiếm được phần đất lưu vực sông Hoàng-hà của tộc Hán mới trở thành chính thống. Cho nên Sở-Bá vương chiếm được Trung-thổ, mà Lưu Bang phải chịu phong. Cho đến khi Quang-Vũ chiếm được Trung-nguyên, các chư hầu như Công-tôn-Thuật, Ngỗi Hiêu phải xưng thần. Lại như cuối đời Hán, Ngô Quyền chiếm giữ Giang-đông, phải xưng thần với Ngụy-Võ đế. Ngay cả con cháu Trung-sơn Tĩnh-vương Lưu Bị trung hưng ở Thục, mà vẫn coi như ngụy vì không chiếm được Trung-nguyên.
      Nàng chỉ vào Thuận-thiên hoàng đế:
      - Trước đây vua Hùng đóng đô ở Phong-châu, nay thuộc Đại-vệt. Vua An-dương đóng đô ở Cổ-loa nay thuộc ngoại ô Thăng-long. Vua Trưng đóng đô ở Mê-linh nay thuộc Đại-việt. Thế thì ông nội tôi mới xứng đáng kế tục tổ tiên giữ nền chính thống. Trái lại hoàng đế Đại-lý phải tiến cống xưng thần.
      Đoàn Huy cười khanh khách, tiếng cười của y làm rung động cả Long-hoa đường, làm mọi người ù tai nhức óc:
      - Cô nương nói như thế tức theo điệu vong quốc. Chúng ta là người Việt, hà cớ phải theo người Hán, lấy những tục lệ Trung-nguyên làm tục lệ mình? Bây giờ lão phu dám đề nghị chúng ta dùng võ công để định chính thống hay không chính thống. Họ Đoàn chúng tôi dùng võ nghiệp lập quốc. Họ Lý cũng dùng võ công lập nghiệp. Vậy tôi đề nghị người họ Lý đấu võ với họ Đoàn. Lý thắng thì Lý chính thống. Đoàn thắng thì Đoàn chính thống. Cô nương nghĩ sao?
      Lão chỉ vào công-chúa Lĩnh-nam Bảo-hòa:
      - Hồi nãy công chúa đã đồng ý cho bên họ Lý đấu với họ Đoàn. Không lẽ bây giờ sợ hãy rồi sao?
      Công chúa Lĩnh-nam Bảo-hòa lùi lại bàn cùng công chúa An-quốc, phò mã Đào Cam-Mộc rồi đưa ý kiến:
      - Bàn về võ công, ở đây cao nhất phải kể phụ hoàng. Không lẽ người hạ thể đi đấu với Đoàn Huy? Bản lĩnh sau phụ hoàng là thúc phụ Dực-thánh vương rồi tới anh chị. Vậy chị đấu với Hàn Ngọc-Quế, anh đấu với Phạm Văn. Thúc phụ đấu với Đoàn Huy. Chỉ cần chúng ta thắng hai cuộc coi như thắng.
      Dực-thánh vương tiến ra nói với Đoàn Huy:
      - Đoàn huynh đã nói vậy, chúng tôi xin được lĩnh giáo mấy cao chiêu của Đại-lý. Bây giờ đêm đã về khuya, đấu võ không có gì làm thú vị. Vậy ngày mười rằm này, giỗ Bắc-bình vương Đào Kỳ cùng vương phi Nguyễn Phương-Dung, tại hạ xin mời Đoàn huynh cùng hai vị đây tới trước đền thờ hai ngài tranh tài. Chẳng hay ý Đoàn huynh thế nào?
      Dực-thánh vương lo nghĩ cuộc đấu này chưa chắc bên Lý thắng. Lỡ ra mà bại, còn đâu quốc thể? Vì vậy vương muốn hoãn binh, để tìm ra kế sách an toàn.
      Đoàn Huy nghe Dực-thánh vương nói, ý biết ngay đây là kế hoãn binh. Nhưng tự hào vào võ công của mình, y nhận lời:
      - Thế thì còn gì bằng. Lão phu cũng đang muốn được thấy binh hùng, tướng mạnh của Đại-việt đây.
      Đỗ Lệ-Thanh đưa mắt nhìn Khai-quốc vương như hỏi ý kiến một việc gì. Vương gật đầu. Bà tiến ra chắp tay xá Đoàn Huy:
      - Đoàn vương gia. Vương gia đang bị trúng độc. Nếu đấu võ, Lý gia có thắng cũng thắng người bệnh, chẳng vẻ vang gì. Tiểu tỳ nghĩ, vương gia phải trị bệnh trước, rồi đấu thì mới công bằng.
      Đoàn Huy lắc đầu:
      - Ta chẳng có bệnh họan gì cả.
      Đỗ Lệ-Thanh lắc đầu:
      - Tại sao tính mệnh của vương gia lâm nguy đến nơi mà vương gia còn chối được ư?
      Thanh-Mai chỉ vào tay Đoàn Huy:
      - Đoàn tiền bối. Người bị trúng Thất-trùng, ngũ hoa phấn của phái Côn-luân. Nhưng dường như người đấu võ với tiền bối chỉ bắn sang có ít phấn mà thôi, nội lực y quá yếu so với tiền bối, thành ra tiền bối chỉ bị trúng rất nhẹ. Tiền bối bị độc chất nhập lý, ai nhìn qua cũng biết. Tiền bối ơi, trong ngũ tạng thì tâm thuộc hỏa, can thuộc mộc, tỳ thuộc thổ, phế thuộc kim, thận thuộc thủy. Mà cả ngũ tạng tiền bối điều bị thương nặng.
      Đoàn Huy cười mát:
      - Đâu có. Đoàn mỗ vẫn khỏe như thường mà.
      Thanh-Mai lắc đầu:
      - Có phải tiền bối thường đau nhói ở chỗ huyệt Đản-trung không? Đản-trung là mộ huyệt của tâm. Huyệt Đản-trung đau nhói, tức tâm tạng bị thương rồi vậy. Tiền bối thường bị đau nhức, căng thẳng ở mạn sườn phải, chỗ huyệt Chương-môn, đó là can tạng bị thương. Sau khi ăn xong, tiền bối thường thấy chân tay bị lạnh, buồn ngủ, đó là tỳ tạng bị tổn thương. Tiền bối thường hay ho húng hắng vào lúc giờ Thân, Dậu, đó là phế tạng bị tổn thương. Cuối cùng, tiền bối thường đau ngâm ngẩm ngang lưng chỗ huyệt Thận-du, Chí-thất, đó là thận tạng bị thương. Mỗi tiết khí thay đổi, tiền bối bị một thứ bệnh khác nhau.
      Mặt Đoàn Huy tái nhợt. Y im lặng không phản đối Thanh-Mai nữa. Nàng tiếp:
      - Hôm qua là ngày đổi tiết khí, không gian bắt đầu chuyển vào tiết Thu-phân. Khí của mùa Thu thuộc kim. Kim khắc mộc. Can thuộc mộc. Can tạng tiền bối bị trúng độc, nên vào tiết khí Thu-phân bệnh can phát mạnh. Y-kinh nói rằng Can tàng hồn, chủ nộ. Bởi vậy từ qua đến giờ tiền bối thường dễ nổi giận vô lý.
      Vợ chồng Phạm Văn, Hàn Ngọc-Quế gật gật đầu, tỏ vẻ tán thành những gì Thanh-Mai nói. Nàng tiếp:
      - Can chủ cân, quan của can là mắt. Từ qua đến giờ mắt tiền bối thường bị mờ mờ như sương che, gân cốt yếu đuối. Nếu tiền bối không trị đi, tiểu nữ e rằng bằng giờ sang năm tiền bối không được dự lễ Bắc-bình vương đấy.
      Mặt Đoàn Huy tím ngắt:
      - Tại hạ không hiểu Thất-trùng ngũ hoa là độc chất gì? Không lẽ nó còn nguy hại hơn cả Nhật-hồ chu-sa ngũ độc chưởng hay sao?
      Thanh-Mai cười nhạt:
      - Mỗi thứ độc một khác. Nhật-hồ chu-sa chưởng thì dùng nội lực, sức mạnh của chưởng đẩy chất độc người ta vào kinh mạch. Mới đây bang Nhật-hồ lại chế ra thuốc, bắn thẳng vào người đối thủ. Còn Thất-trùng ngũ hoa của phái Côn-luân lại khác. Côn-luân vốn thuộc danh môn chính phái, nhưng lại dùng dộc chất là tại sao? Trước hết phải biết nguồn gốc phái này. Tổ sư của phái Côn-luân xuất thân là một Nho-sinh, bị đời hành hạ. Sau đó ông quyết tâm luyện võ, rồi lập phái. Vì vậy ông chủ trương dùng khoan thai cải hóa người. Khi một người cải hóa không được, nên giết bỏ để trừ cho nhân lọai một thứ người tác hại.
      Thấy cả triều đình cùng Đoàn Huy im lặng nghe, nàng tiếp:
      - Phái Côn-luân dùng năm thứ hoa lan, sen, cúc, hồng, trà, chế ra một thứ phấn, dùng nước hoà vào nhau. Hương các loài hoa thuộc dương. Hương thơm Ngũ-hoa thoang thoảng nhẹ nhàng, vì vậy nó sễ nhập phế, nhập da. Còn thất trùng là gì? Thưa tằm núi, nhện xanh, rắn lục, rết đen, bò cạp trắng, ong vàng, sâu ngũ sắc. Các lọai trên đều thuộc âm tính. Phấn Thất-trùng tán thành bột. Thế rồi trộn lẫn Thất-trùng với Ngũ-hoa thành độc chất. Người ta sẽ dùng loại bột phấn này bắn lên không. Ai hít phải ngày thứ nhất trong người sẽ bị ngứa ngáy như hàng vạn, hàng triệu con kiến cắn, hàng trăm con rắn cắn trong tạng phủ, ngứa ngáy không bút nào tả siết. Ngày thứ nhì người nóng như nhảy vào lò lửa. Ngày thứ ba đau đớn như xẻo từng miếng thịt. Ngày thứ tư lại lạnh như rơi vào một hồ nước mùa Đông. Ngày thứ năm bệnh biến thành chóng mặt như đi trên thuyền.
      Đoàn Huy im lặng một lúc, y hỏi:
      - Cô nương nói về bệnh của lão phu thực đúng, song không biết cô nương có trị được không?
      - Chữa thì chữa được. Nhưng lão tiền bối phải cầu xin Thuận-thiên hoàng đế ban chỉ, tiểu nữ mới có giám trị cho tiên sinh.
      Đoàn Huy cẩn thận hơn:
      - Cô nương thử nói phương pháp chữa trị của nô nương cho ta nghe trước đã.
      Thanh-Mai nhìn Thiệu-Thái, rồi cười:
      - Đoàn tiên sinh ơi. Trong thiên hạ này hiện không có thuốc nào giải nổi Thất-trùng ngũ hoa độc cả, ngọai trừ Bồ-tát Sùng-Phạm và Bố-đại hoà thượng có thể dùng thần công thượng thừa đẩy độc chất ra ngoài. Ở đây, tiểu nữ biết, có người được Bồ-tát Sùng-Phạm ban cho cả một trăm năm Thiền-công. Vì vậy người đó cứu được tiền bối. Ngoài ra, nếu người nào luyện Vô-ngã tướng thiền công, mà có tâm Bồ-tát, nguyện hóa giải chất độc trong người tiền bối, cũng cứu được. Tiểu nữ luyện nội công Đông-a vốn thuộc Thiền-công. Sau được sư bá Huệ-Sinh dạy dỗ, cũng có thể cứu được tiền bối.
      Đoàn Huy cười rộ:
      - Tưởng trị pháp của cô nương tuyệt diệu thế nào, chứ dùng Thiền-công đẩy chất độc ra, bên Đại-lý của lão phu đâu thiếu các cao tăng đắc đạo? Lão phu đã thử rồi. Vô ích.
      Thanh-Mai lắc đầu:
      - Tiểu nữ lại không biết như thế sao. Địa vị vương gia đâu có nhỏ? Thiếu gì các danh y, thiếu gì những tay nội công cao cường. Nhưng họ không biết cách phối hợp. Phối hợp giữa châm cứu với Thiền-công.
      Công chúa Lĩnh-nam Bảo-hòa vẫy tay ra hiệu cho Thanh-Mai im lặng. Bà nói:
      - Trên đời này chỉ có bệnh nhân đi cầu thầy thuốc, chứ có đâu thầy thuốc cầu bệnh nhân? Trần muội muội, em khỏi cần đối thoại với người này nữa. Y muốn chết, để cho y chết. Y đã thấy muội muội cứu tên Chu Minh, hôm nay lại cứu tên Phạm Văn, thế mà y còn lằng nhằng rắc rối, thôi để cho y chết.
      Bà nói bâng quơ:
      - Một chân đã bước vào quan tài rồi, mà còn chối bai bải rằng mình không bệnh tật gì.
      Bà bảo Thanh-Mai:
      - Muội muội không cần nói với y nữa. Muội muội nói cho ta nghe. Tỷ như muội muội trị bệnh của y, muội muội trị như thế nào?
      Thanh-Mai dạ một tiếng:
      - Khải tấu vua Bà. Tiểu muội đã trình bày rõ nguyên do Đoàn tiền bối mắc bệnh, thành phần chất độc, cũng như trạng thái bệnh lý. Bây giờ xin trình bày về phương pháp trị. Phương pháp trị có hai phần, đầu tiên dùng châm cứu, đả thông Kỳ-kinh bát mạch, Thập-nhị kinh biệt, vòng Tiểu-chu-thiên. Bởi tiền bối vẫn thường luyện công, dẫn khí theo vòng Tiểu-chu-thiên, cũng như Kỳ-kinh bát mạch. Nhưng chưa đả thông hoàn toàn. Khi kinh mạch thông rồi, cần một vị Bồ-tát đắc đạo, dùng Thiền-công hoá giải chất độc. Nếu như không gặp Bồ-tát đắc đạo phải có người nào đã luyện Vô ngã tướng thiền công mới hoá giải được.
      Nghe đến Vô ngã tướng Thiền-công Đoàn Huy đưa mắt nhìn Phạm Văn, Hàn Ngọc-Quế một cái. Hàn Ngọc-Quế hỏi:
      - Cô nương, tôi nghe ngày xưa Tăng-gỉa Nan-Đà sang Lĩnh-nam truyền Thiền-công Vô-ngã-tướng cho công chúa Yên-lãng Trần Năng cùng Tiên-yên nữ hiệp. Từ khi hai vị đó tuẫn quốc rồi, Thiền-công này tuyệt tích. Không lẽ nay còn có người biết sao?
      Mỹ-Linh đã cùng Trần Tự-An thảo luận rất kỹ về Thiền-công, nàng đỡ lời Thanh-Mai:
      - Xưa đức Thích-ca Mâu-ni sau bốm mươi chín ngày ngồi dưới gốc bồ đề đã tìm ra phép Thiền-na, gọi tắt là Thiền. Thiền có bốn loại: Vô-ngã tướng, Vô-nhân tướng, Vô-chúng-sinh tướng và Vô-thọ gỉa tướng. Vô ngã tướng do ngài Tăng-gỉa Nan-Đà truyền sang Lĩnh-nam. Vô chúng sinh tướng truyền sang Tây-tạng. Vô thọ giả tướng truyền sang Đại-lý. Vô nhân tướng do ngài Bồ-đề Đạt-ma truyền sang Trung-nguyên, ngài Tỳ-ni Đa-lưu-chi truyền sang Đại-Việt.
      Nghe Mỹ-Linh phân giải, Thuận-thiên hoàng đế, Khai-thiên vương cùng mở to mắt ra kinh ngạc. Hai người, một là ông, một là cha, đều nghĩ như nhau:
      - Con bé này, mấy tháng trước đây còn là cô gái ngây thơ, nói năng ngượng ngập. Thế mà theo chú một thời gian, nay đã biết ứng đối mạch lạc, lại có kiến thức rất rộng về lịch sử Thiền. Không biết nó học ở đâu?
      Mỹ-Linh tiếp:
      - Phật giáo có muôn vàn pháp môn, nhưng thu lại cũng chỉ có một điểm là tính không, đi đến giác ngộ. Thiền cũng thế, tuy phân biệt ra nhân, ngã tứ tướng, nhưng khi đã đắc đạo, tuy biết một, nhưng đạt được cả bốn. Vì vậy sư tỷ Thanh-Mai mới nói cần có vị Bồ-tát đắc đạo, tức đạt tới Vô thượng bồ đề mới đủ công lực hóa giải hết chất độc cho Đoàn vương gia. Hoặc có người luyện Vô ngã tướng Thiền-công cũng đủ sức hóa giải.
      Phạm Văn hỏi:
      - Công chúa. Xin công chúa giải rõ hơn, tại sao Vô ngã tướng Thiền công lại có khả năng mạnh như vậy?
      - Phạm tư không này. Trong kinh Kim-cương, Lăng-gìa đều nói đến Nhân ngã tứ tướng. Bỏ bốn tướng ra thì đi đến đắc đạo được. Thế nhưng trong bốn tướng, chỉ cần bỏ Ngã tướng đi, lập tức không còn Nhân tướng? Đã không có Nhân tướng thì không có nhiều nhân tướng tức Chúng sinh tướng. Khi không có Chúng-sinh tướng ắt không còn Thọ gỉa tướng nữa. Trong phép luyện công cũng vậy. Hễ luyện được Vô ngã tướng coi như xử dụng được cả bốn lọai. Cho nên Trần sư tỷ mới nói rằng cần có người luyện Vô ngã tướng Thiền công mới hoá giải được hết chất độc trong người Đoàn vương gia là thế.
      Đoàn Huy đăm chiêu một lúc, rồi hỏi:
      - Lão phu nghe nói xưa kia Bắc-bình vương Đào Kỳ đã tự đả thông được Nhâm, Đốc mạch, vì vậy hoà hợp được nội công âm, dương. Sau lại đả thông được Kỳ-kinh bát mạch và Thập nhị kinh biệt. Cho nên chân khí tòng tâm phát ra, sau đó chế ra Lĩnh-nam chỉ pháp. Từ khi ngài tuẫn quốc, thuật này thất truyền. Dường như gần đây Hồng-Sơn đại phu cũng tìm ra cách đả thông kinh mạch, nên trở thành một trong Đại-Việt ngũ long. Nghe Trần cô nương phân giải, dường như cô nương cũng đả thông được kinh mạch?
      Thanh-Mai gật đầu:
      - Hồi đầu năm, tiểu nữ qua Vạn-thảo sơn trang, được Hồng-Sơn đại phu thu làm đồ đệ, dốc túi truyền nghề cho. Rất tiếc lòng dạ tiểu nữ tối tăm, không thu hết được những gì sư phụ dạy.
      Thình lình Đoàn Huy cảm thấy mạn sườn căng đầy, rồi như có con dao đâm vào bụng. Y nghiến răng để khỏi bật thành tiếng kêu. Nhưng mặt y tái mét, chân tay run run. Y muốn nói, mà miệng mở không ra.
      Nghiến răng chịu một lát, y bật lên tiếng rên nho nhỏ. Thanh-Mai định cứu trị y. Vua Bà Bắc-biên hỏi y:
      - Đoàn vương gia! Vương gia vừa nói rằng vương gia không bệnh tật gì mà? Tại sao vương gia lại rên rỉ như vậy?
      Hai hàm răng Đoàn Huy đánh vào nhau lộp cộp. Hàn Ngọc-Quế hành lễ với Thanh-Mai:
      - Trần cô nương. Mong cô nương cứu Đoàn vương gia. Nguyện không bao giờ quên ơn.
      Thanh-Mai liếc mắt nhìn vua Bà Bắc-biên. Thấy bà gật đầu tỏ ý ưng thuận. Nàng tiến đến cầm tay Đoàn Huy bắt mạch. Trong lòng Đoàn Huy nghĩ thầm:
      - Nhỏ này là con gái Trần Tự-An. Nghe nói võ công cao thâm như một đại cao thủ. Ta thử đồn chân khí đánh nó một chiêu, để nó mất cái tính kiêu kỳ đi.
      Vì vậy Thanh-Mai vừa để ngón tay lên cườm tay Đoàn Huy. Nàng cảm thấy như tay bị người ta ngoặm một miếng. Biết Huy dùng nội công thượng thừa tấn công mình. Tuy đau điếng, nhưng nàng vẫn nghiến răng chịu, không dụt tay lại. Nội lực Đoàn Huy cuồn cuộn tấn công vào người nàng. Lúc đầu Thanh-Mai cảm thấy lồng ngực như muốn nổ tung ra. Phản ứng tự nhiên, nàng xử dụng lý thuyết dung hoà thủy, hỏa của Huệ-Sinh dạy nàng để chống lại.
      Thanh-Mai luyên nội công Đông-a, vốn phát xất từ Thiền-công Tiêu-sơn. Sau được Huệ-Sinh dạy cho phép hóa giải những khó khăn trong việc điều hòa thiên-địa, phong-lôi, thủy-hỏa, tổng hợp được hết khí ngũ tạng, biến thành một thứ chân khí duy nhất. Nàng còn phải chờ từ năm tới mười năm, mới đả thông kinh mạch hầu tùy tâm phát ra từng kinh. Cuối cùng nàng được Hồng-Sơn đại phu dạy học thuyết kinh mạch, vòng Đại-chu-thiên, Tiểu-chu-thiên, do đó đả thông mười hai kinh, Kỳ-kinh Bát-mạch cùng Thập nhị kinh biệt. Vì vậy trong người nàng toàn chân khí dương cương lưu thông. Bây giờ nàng để tay vào ba bộ Thốn, Quan, Xích, trùng với ba huyệt Thái-uyên, Kinh-cự, Liệt-khuyết thuộc thủ Thái-âm phế kinh của Đoàn Huy.
      Y kinh nói rằng thủ Thái âm phế kinh là kinh đa khí, vì vậy chân khí Huy như con sông Hồng-hà, đổ vào biển. Nội tức của y cuồn cuộn tuôn ra. Lúc đầu y tưởng Thanh-Mai sẽ phải rung động, tê liệt toàn người. Nhưng một lúc sau, y cảm thấy nội tức ra đi như nước đổ vào hồ. Y định thu nội lực lại, nhưng không kịp nữa.
      Về phần Thanh-Mai, nàng thấy nội lực Đoàn Huy theo ba kinh âm trên tay tràn vào người nàng. Biết nguy hiểm, nàng dùng nội công chống lại nhưng không được. Trong lúc nguy nan, cái chết đến trong đường tơ kẽ tóc, đầu óc nàng lóe lên một tia sáng: Ngày xưa khi Khất đại phu Trần Đại-Sinh đấu với sư đệ Lê Đạo-Sinh trong trận hồ Tây. Giữa lúc ông sắp bại thì Bắc-bình vương Đào Kỳ nhắc ông buông lỏng chân khí Thủ-tam-âm kinh, qui liễm chân khí của sư đệ trong đơn điền, rồi chuyển sang Thu-tam-dương kinh đánh trả lại.
      Thanh-Mai nghĩ đến đâu, kinh khí tòng tâm theo kinh mạch. Nội lực Đoàn Huy theo ba kinh âm trên tay cuồn cuộn tràn vào người nàng. Nàng thản nhiên qui liễm chân khí. Càng hút nội lực của Đoàn Huy bao nhiêu, sức hút càng tăng thêm. Cho đến lúc Đoàn Huy thấy nguy, thu nội tức lại, thì tay y với tay nàng dính chặt vào nhau.
      Hiện diện, kiến thức cao như Thuận-thiên hoàng đế, mà cũng không hiểu được. Còn Long-Bồ, Thiệu-Thái, Mỹ-Linh, Bảo-Hòa tuy có võ công tối cao nhưng chưa có kinh nghiệm, nên không nhận ra cái nguy, để giải cứu. Ai cũng tưởng Thanh-Mai, Đoàn Huy đấu nội lực.
      Khoảng ăn xong bữa cơm, nội tức Đoàn Huy bị mất gần hết, gương mặt y cau có, nhăn lại một cách khổ sở. Y muốn lên tiếng van xin Thanh-Mai, mà mở miệng không ra. Nếu y mở miệng, có thể sẽ hộc máu mà chết. Còn Thanh-Mai, nàng muốn giật tay rời khỏi tay Huy, cũng không được.
      Thuận-Thiên hoàng đế thấy sự hơi khác lạ. Ngài đứng dậy quan sát. Bỗng ngài nhận ra sự thực, song chưa biết có phản ứng ra sao, thì Đoàn Huy lảo đảo, muốn ngã. Tay lão giật mạnh, khiến Thanh-Mai trở về thực tại. Nàng thu liễm chân khí. Tay Huy với tay nàng rời nhau.
      Phạm Văn chạy lại đỡ lão. Y hỏi:
      - Vương gia. Cái gì đã xẩy ra?
      Đoàn-Huy chỉ Thanh-Mai thều thào:
      - Ta bị hút hết nội lực.
      Bỗng mặt Thanh-Mai tái nhợt, rồi nàng lảo đảo muốn ngã. Mỹ-Linh đứng cạnh, vội đỡ nàng dậy. Lệ-Thanh lạng người đến bên Thanh-Mai. Bà móc trong bọc ra một hộp nhỏ, lấy ra hai viên thuốc bỏ vào miệng nàng. Bà chỉ tay vào mặt Đoàn-Huy:
      - Đoàn vương gia, đường đường là đại tôn sư võ học, lại cầm quyền nghiêng nước, lý ra phải tìm hết cách thu phục nhân tâm thiên hạ, chứ có đâu lấy oán trả ơn? Trần cô nương bắt mạch, trị bệnh cho vương gia, mà vương gia dùng nội công đẩy hết chất độc sang người cô nương. Như vậy cũng gọi bằng tác phong vương giả sao?
      Công chúa Lĩnh-nam Bảo-hòa tức vua Bà Bắc-biên, tính tình cương quyết, hành động mẫn tiệp, phản ứng mau chóng. Bà chỉ vào mặt Đoàn Huy:
      - Người... người đường đường một đấng vương giả mà lại hành động đốn mạt đến như thế ư? Trần tiểu thư bắt mạch chữa bệnh cho người mà người lại nỡ lòng nào dùng nội lực tấn công, rồi dồn chất độc sang hại tiểu thư. Phụ hoàng ta dù có rộng dung cho người, đến khi người về qua Bắc-biên ta cũng băm vằm người ra từng mảnh.
      Bà hô lớn:
      - Võ sĩ đâu. Gô cổ nó lại!
      Vỗ sĩ dạn ran, từ ngoài ào vào. Bình nhật với bản lĩnh vô địch, Đoàn Huy có coi đám võ sĩ ra gì. Nhưng y vừa bị hút hết nội lực, chân tay cử động nặng nề khó khăn. Y lắc đầu, nói không ra hơi:
      - Không phải như thế. Lão phu...
      Rồi loạng choạng ngã xuống.
      Cả sảnh đường ồn ào, ai cũng muốn băm vằm Đoàn Huy ra như băm chả.
      Khai-quốc vương luống cuống hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
      - Đỗ phu nhân. Phu nhân có thể trị được bệnh cho Thanh-Mai không?
      Đỗ Lệ-Thanh rưng rưng nước mắt:
      - Vương gia xá tội, thần chỉ chữa được Chu-sa Ngũ-độc chưởng của Nhật-hồ mà không thể chữa được Thất-trùng ngũ-hoa độc. Mong vương gia thứ tội. Hai viên thuốc vừa rồi, tạm thời giữ cho chất độc không hại được tiểu thư mà thôi.
      Thanh-Mai đã tỉnh. Nàng tuy hút hết độc chất của Đoàn Huy, nhưng nhờ nội lực cao thâm, đầu óc vẫn minh mẫn. Nàng biết mình không khéo léo, triều Lý có thể giết chết Đoàn Huy với Phạm Văn e đại kế sách liên kết Việt-Lý cũng như thống nhất lãnh thổ thời Lĩnh-nam khó thành. Nếu bây giờ nàng nói thực ra rằng mình bắt mạch cho Huy, bị Huy dùng chân khí tấn công, rồi trong cơ thể mình có sức hút thu hết chân khí y, ắt nguy cho y. Vì vậy nàng vẫy tay gọi công chúa Lĩnh-nam Bảo-hòa:
      - Công chúa. Đoàn tiền bối không có ác ý. Chẳng qua, một thứ tai nạn mà thôi.
      Từ khi gặp Thanh-Mai trong lễ tế Lệ-Hải bà vương, công chúa Lĩnh-nam Bảo-hoà đã có rất nhiều thiện cảm với nàng. Mới đây nghe hai con kể lại trong suốt thời gian qua, nàng đã làm nhiệm vụ của một đại thần. Bà hy vọng nàng sẽ thành em dâu mình. Bây giờ trước tai nạn, bà đến bên Thanh-Mai, nắm lấy tay nàng:
      - Muội muội. Em có sao không?
      - Không sao. Công chúa đừng bắt tội Đoàn tiền bối.


      <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2005 10:39:56 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 11.01.2005 17:50:48 (permalink)
        Hồi thứ bốn mươi bốn


        Anh Hùng và Giai Nhân


        Nghe Thanh-Mai nói, Đoàn Huy cảm động đến run người lên. Y nghĩ:
        - Hôm trước Chu Minh từ Thiên-trường về ca tụng võ đạo phái Đông-A không tiếc lời. Hôm nay mình mới được thấy sự thực.
        Ông đến trước Thuận-Thiên hoàng đế, lạy phục xuống đất:
        - Hoàng đế bệ hạ. Xin người nhận ở thần mấy lạy, để tỏ lòng qui phục. Từ nay, thần sẽ vì Đại-Việt đi tuyên dương đại đức của bệ hạ. Thần xin hết sức thuyết phục triều đình Đại-lý kết hiếu với Đại-Việt trong tinh thần bình đẳng. Việc chính thống sẽ bàn sau. Cuộc đấu võ vào ngày rằm cũng xin hủy bỏ. Thần đã bị Trần cô nương dùng võ đạo đánh bại mất rồi.
        Lão lại quì gối trước Thanh-Mai lạy liền bốn lạy:
        - Trần cô nương. Từ nay lão vĩnh viễn xin tuân mạng lệnh cô nương, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
        Thanh-Mai đã tỉnh. Nàng ngồi ngay ngắn lại, nói với Đoàn Huy:
        - Đoàn tiền bối. Khi tôi bắt mạch cho người. Người dồn chân khí tấn công tôi. Tôi có thể thu tay về, mà tôi không làm thế. Tôi thấy vận mệnh Đại-lý, Đại-Việt đủ sức chống lại được nhà Tống, nếu có sự góp công của tiên sinh. Vì vậy tôi không muốn tiên sinh bị nguy... Thanh-Mai này có chết đi, thì sẽ có hàng vạn Thanh-Mai khác. Nhưng tiền bối chết đi e hai nước Đại của chúng ta thiếu một người đầy khả năng kết hợp.
        Câu tôi không muốn tiên sinh bị nguy đối với Đoàn Huy là nàng tránh cho y bị triều Lý giết chết. Còn đối với mọi người, câu trên có nghiã nàng hút chất độc trong người y cho y sống.
        Đoàn Huy hướng vào Thuận-Thiên hoàng đế:
        - Muôn tâu hoàng thượng, thần xin vì Đại-việt mà loan báo một tin quan trọng, có liên quan đến vận mệnh Việt tộc.
        Cả sảnh đường im lặng. Đoàn Huy tiếp:
        - Thần được tin Lưu-Hậu nhà Tống phái nhiều đoàn do thám sang Đại-Việt với mục đích mưu đồ đánh chiếm, hầu mở rộng giang sơn xuống phía Nam.
        Thuận-thiên hoàng đế cùng các thân vương, công chúa đều được Khu-mật viện phúc trình đầy đủ về các đoàn do thám của Tống. Nhưng ngài im lặng nghe Đoàn Huy tâu xem y có thực tình với Đại-Việt không. Ngài hỏi:
        - Trấn-nam vương biết được những gì, xin cho trẫm biết.
        Đoàn Huy tâu:
        - Triều Tống muốn mở rộng giang sơn lên phía Bắc gặp phải Tây-hạ, Liêu, Kim binh lực hùng mạnh. Vì vậy họ muốn mở xuống Nam. Trước đánh chiếm Đại-Việt, Chiêm-thành, Lão-qua, sau đánh Đại-lý. Nhưng họ sợ võ công Đại-Việt. Vì vậy họ phái người sang Đại-Việt với ba nhiệm vụ. Một, tìm cho được bộ Dụng binh yếu chỉ của công chúa Thánh-Thiên cùng bộ Lĩnh-Nam vũ kinh về nghiên cứu. Hai, vẽ bản đồ điạ thế, sông ngòi sản vật, hầu dễ tiến quân. Ba, mua chuộc, liên kết võ lâm Đại-Việt chống triều đình, cùng gây chia rẽ giữa triều đình với võ lâm.
        Thuận-Thiên hoàng đế gật đầu. Ngài nghĩ thầm Tin tức của Đoàn-Huy cũng khá đấy. Ngài hỏi:
        - Thế các đoàn đo thám đã làm được những việc gì?
        - Nhiệm vụ thứ nhất, họ đã thành công mỹ mãn, vì họ tìm ra nơi khắc di thư tại đền thờ Nhâm Diên, Tích Quang ở Thanh-hóa. Họ đã chép mang theo. Bia đá, họ phá hủy hết. Hiện họ đang trên đường về nước.
        Ngay từ lúc Đoàn Huy nhảy xuống Long-hoa đường. Thanh-Mai, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh cùng theo dõi Dực-thánh vương, xem phản ứng của ông ra sao? Cả ba cùng nhận thấy nét mặt của ông thực khó coi. Đôi mắt đăm chiêu tỏ ra lo lắng không ít. Mỹ-Linh nói sẽ vào tai Bảo-Hòa:
        - Cứ coi nét mặt Dực-thánh vương thì biết ông theo bọn Tống để mưu cầu ngôi vua, chứ không phải ông tuân chỉ của hoàng đế hộ tống sứ đoàn.
        Vũ-đức vương hỏi:
        - Cứ như ý kiến Đoàn vương gia, liệu Triệu Thành mang kinh thư theo, hay y cho người mang về Tống trước?
        Đoàn Huy hỏi ngược lại:
        - Theo vương gia, y sẽ hành động như thế nào?
        Vũ-đức vương đáp:
        - Nếu là tôi. Tôi sẽ học thuộc lòng, rồi đốt đi. Hoặc mang theo trong người. Chứ trao cho người khác, lòng tham nổi dậy, họ sẽ phản mình, trốn biệt, kiếm chỗ nào vắng luyện thành bản lĩnh nghiêng trời lệch đất rồi xuất hiện e hết phương đòi lại.
        Đoàn Huy vỗ tay khen ngợi:
        - Đúng như vương gia nghĩ. Vì y chưa kiếm ra người đọc được văn tự Khoa-đẩu, cho nên y không học thuộc, mà mang theo bên mình. Chỉ nội ngày một, ngày hai y sẽ tới Thăng-long, rồi về nước. Tôi nghĩ triều đình phải bắt y trả lại kinh thư.
        Khai-quốc vương sợ phụ hoàng họăc anh em làm hỏng mưu kế của mình, vương nói:
        - Đoàn vương gia yên tâm. Bằng mọi giá, chúng tôi sẽ phái người đón đường đoạt lại kinh thư. Còn mai này y đến Thăng-long với tư cách sứ thần, triều đình sẽ không đề cập đến vấn đề này.
        Thanh-Mai đã tỉnh hẳn. Nàng tâu với Thuận-thiên hoàng đế:
        - Dù triều đình không đòi lại, võ lâm Đại-việt dễ gì để cho sứ đoàn Tống mang di thư của anh hùng Lĩnh-nam về Tống. Đất nước này tuy chưa có chúa thánh như vua Trưng, nhưng cũng xuất hiện một minh quân nhân từ. Cho nên nhiều người sẵn sàng chết cho Đại-Việt. Kể cả tiểu nữ.
        Thuận-Thiên hoàng đế nghe Thanh-Mai nói, cảm động đến không nói ra lời, ngài nắm tay Thanh-Mai:
        - Cháu... cháu không thể chết được. Trẫm...Trẫm ta phải làm bất cứ việc gì cho cháu sống.
        Thanh-Mai mỉm cười, nàng thở hổn hển:
        - Hoàng thượng. Khó có thể biết thần sẽ sống hay chết. Dù sống, dù chết thần xin khẩn cầu bệ hạ ba việc.
        Thuận-thiên hoàng đế cảm động phán:
        - Cháu cứ nói. Dù việc khó đến đâu, trẫm cũng xin chu toàn.
        Thanh-Mai nghiến răng chịu đau:
        - Điều thứ nhất, thần xin hoàng thượng tha tội cho Khai-quốc vương vì đã cho qui gia hai phi tần. Khi vương cho hai vị cô nương đó về là muốn hoà giải nhiều mâu thuẫn giữa võ lâm với triều đình. Vương không thể nói ra tại sao, vì nói ra e võ lâm lại nổi sóng.
        Thuận-thiên hoàng đế đã tuyển cho các thái tử nhiều phi tần. Khai-quốc vương cho hai phi tần về nhà, không phải tội nặng. Ngài gật đầu:
        - Trẫm hứa.
        - Điều thứ nhì, xin bệ hạ ân xá cho Đoàn vương gia cùng hai vị tiền bối Đại-lý. Để họ có thể về nước, xây dựng mối giao hảo Việt-Lý.
        Mọi người đưa mắt nhìn Đoàn Huy. Thuận-thiên hoàng đế gật đầu:
        - Trẫm hứa. Còn điều thứ ba.
        Thanh-Mai ghé miệng vào tai ngài thì thầm. Người có nội công cao như phò mã Đào Cam-Mộc mà cũng không nghe rõ những điều nàng nói. Không biết nàng nói những gì, mà khiến Thuận-thiên hoàng đế tần ngần suy nghĩ một lúc, chưa có quyết định.
        Đến đây nàng run lên bần bật. Thuận-thiên hoàng đế cầm tay nàng nói:
        - Trẫm hứa!
        Thanh-Mai mấp máy môi:
        - Đa tạ bệ hạ.
        Rồi ngất đi.
        Khai-quốc vương hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
        - Đỗ phu nhân, làm sao bây giờ?
        Đỗ Lệ-Thanh thở dài:
        - Mau đem Trần tiểu thư về vương phủ. Thần xin cố gắng xem sao.
        Thuận-thiên hoàng đế hô:
        - Mau đem cáng của trẫm đến đây.
        Không chờ cáng, chờ võng, Mỹ-Linh ôm Thanh-Mai, loáng một cái nàng đã rời khỏi lầu Thúy-Hoa. Bảo-Hòa, Thiệu-Thái, Đỗ Lệ-Thanh cùng chạy theo. Xuống lầu, tất cả lên xe ngựa, hướng về phủ Khai-quốc vương.
        Vào trong phủ, Đỗ Lệ-Thanh đặt Thanh-Mai nằm ngay trên giường. Bà nắn bóp mấy huyệt, Thanh-Mai từ từ tỉnh dậy. Đến đó Lý Long-Bồ cũng về tới.
        Khai-quốc vương hỏi Đỗ-lệ-Thanh:
        - Đỗ phu nhân. Xưa kia công chúa Yên-Lãng bị vợ chống Phan Anh đánh trúng Huyền-âm đôc chưởng. Người dùng Thiền-công đẩy được độc chưởng trong người ra, liệu nay có thể dùng phương pháp đó không?
        Đỗ Lệ-Thanh thở dài:
        - Thưa vương gia không được. Ngày trước công chúa Yên-lãng chỉ bị trúng chưởng, độc chất ngoài da ngoài thịt thì đẩy ra được. Còn trường hợp Trần tiểu thư, độc chất nhập vào tạng phủ làm sao trục cho được? Chắc vương gia nhớ truyện Đào Tứ-Gia hút chất độc cứu Bắc-bình vương Đào Kỳ, sau chính Tăng-giả Nan-đà cũng đành bó tay.
        Thiệu-Thái trầm tư một lúc, rồi hỏi:
        - Hôm trước phu nhân bảo tôi hút chất độc cứu Chu Minh ở trang Thiên-trường được. Vậy tôi có thể dùng phương pháp này cứu mợ hai chứ?
        Đỗ Lệ-Thanh lại lắc đầu:
        - Hôm trước tiểu tỳ phóng chất độc vào cánh tay Chu Minh theo Thủ-thái-âm phế kinh và Thủ-dương-minh đại-trường kinh, thì hút được. Đây độc chất theo chân khí của Đoàn Huy nhập khắp người tiểu thư, làm sao hút cho nổi. Mà dù thế tử có hút hết, chỉ hút được phần ngoài da, ngoài thịt. Còn chất độc trong tim, trong gan vẫn tác hại... cũng vô ích.
        Đỗ Lệ-Thanh cậy miệng Thanh-Mai bỏ vào mấy viên thuốc. Bà nói:
        - Mấy viên thuốc này, để tiểu thư ngủ ngon, hầu không bị đau đớn.
        Lý Long ngồi cạnh giường Thanh-Mai. Tay chàng nắm chặt tay nàng. Chàng nói với Bảo-Hòa, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái:
        - Đúng lý ra, Thanh-Mai không thể nào chết được. Vì nàng chỉ biết làm điều thiện. Không lẽ ông trời không có mắt? Thôi các cháu đi ngủ đi.
        Chợt nhớ ra một truyện, chàng hỏi gia nhân:
        - Tự-Mai, Tôn Đản đi đâu chưa về?
        Gia nhân thưa:
        - Hồi chiều hai vị công tử lấy ngựa đi cùng hai vị đại hiệp Thiên-trường. Hai công tử nói rằng lên núi Tản-viên, sau mấy ngày sẽ về.
        Long-Bồ đóng cửa lại. Chàng ôm Thanh-Mai đặt trên lòng, chàng như muốn dùng tất cả sinh lực níu kéo nàng lại. Thanh-Mai vẫn mê mê tỉnh tỉnh, không biết gì. Ngồi một lúc, mệt quá chàng thiếp đi lúc nào không hay.
        Bỗng chàng giật mình tỉnh dậy, vì có tiếng người, tiếng ngựa rầm rập trước cửa. Chàng nhìn ra, trời sáng từ bao giờ. Trời tháng tám, có những đám mây trắng trôi lờ lững, nắng vàng đổ chụp lên cây cỏ. Tiếng tỳ nữ nói vọng vào:
        - Khải tấu vương gia, hoàng-thượng cùng hoàng hậu giá lâm.
        Long-Bồ đặt Thanh-Mai xuống dường, sửa quần áo ngay ngắn lại, mở cửa bước ra. Thấy phụ hoàng cùng mẫu hậu tới, chàng vội gọi Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Bảo-Hòa ra quì gối hành lễ.
        Thuận-Thiên hoàng đế vẫy tay:
        - Miễn lễ cho vương nhi. Thế nào, Trần cô nương ra sao?
        Chàng tâu:
        - Vẫn mê man chưa tỉnh. Tuy nội lực mạnh đến kinh người.
        Thuận-thiên hoàng đế cùng hoàng hậu Lập-nguyên ngồi xuống ghế cạnh dường Thanh-Mai. Ngài cầm mạch Thanh-Mai, cảm thấy nội lực mạnh đến chỗ không lường được. Ngài nghĩ thầm:
        - Ta tưởng từ khi sư phụ ta là Vạn-Hạnh thiền sư viên tịch chỉ có Bố-Đại hòa thượng cùng Bồ-tát Sùng-Phạm mới có nội lực hùng hậu thế này mà thôi. Không biết Bồ nhi làm thế nào mà thu phục được Thanh-Mai? Cứ nhìn mắt Bồ nhi, dường như giữa Bồ nhi với nàng có tình ý. Nếu sự thực như vậy, ta phải phong nàng làm vương phi cho Bồ nhi. Triều đình được một thiếu nữ như Thanh-Mai trợ giúp, còn gì bằng?
        Sự thực, nội lực Thanh-Mai không thể mạnh như vậy được. Chỉ vì nàng vốn có nội công hùng hậu của phái Đông-A. Khi được Huệ-Sinh chỉ điểm, nàng đã thành một đại cao thủ. Sau đó nàng luyện nội công dương cương theo lối vận hành kinh mạch, nội lực đã mạnh vô cùng. Bây giờ đấu nội lực với Đoàn Huy, nàng thu hết nội lực của y, vì vậy nội lực nàng mới mạnh đến trình độ kinh người.
        Hoàng hậu hỏi Khai-quốc vương:
        - Vương nhi, ta muốn biết sự thực về hai nàng Huệ-Phương, Hà-Thanh. Hai nàng đó bây giờ ra sao? Ở đâu? Còn con với Thanh-Mai chỉ có tình sư huynh, sư muội hay có truyện gì khác không?
        Long-Bồ là người mưu trí tuyệt vời. Chàng có hàng nghìn cách để dấu mẫu hậu. Nhưng bản tính người con chí hiếu, chàng không muốn nói dối mẹ, dù truyện nhỏ. Chàng im lặng, cúi đầu tỏ vẻ chịu tội.
        Hoàng hậu Lập-Nguyên lắc đầu:
        - Thực khó hiểu. Mẹ thấy dường như Trần cô nương với con có tình ý sâu hơn biển, nàng mới cứu Đoàn Huy, để lập liên minh Việt-Lý. Nhưng khi cứu y rồi, đáng lý ra trước cái chết, nàng phải xin phụ hoàng truyền ngôi cho con, chứ đâu lại xin tha tội về vụ Huệ-Phương với Đào Hà-Thanh?
        Long-Bồ cúi đầu xuống im lặng, một lúc chàng ngửng đầu dậy:
        - Con xin tâu thực. Hai nàng Huệ-Phương và Hà-Thanh con đã nhường cho người ta rồi.
        Thuận-thiên hoàng đế quát lớn:
        - Con thực lớn mật, táo gan. Ta cùng mẫu hậu tuyển khắp nước mới được hai giai nhân nhu mì, nhan sắc tuyệt vời. Một người trí lự, võ công hiếm có. Một nàng văn thơ, ca xướng nhất nước. Ta những mong con sẽ được hưởng thanh phúc bên hai nàng đó. Không ngờ con lại nhường cho người khác. Phu thê là đạo của trời. Cha mẹ định vợ cho, mà con chối bỏ đã là một tội khó tha. Huống hồ đây đường đường thái tử, vợ của con cao qúi biết bao, mà con đem nhường cho người ta, thực không còn đạo lý nào nữa.
        Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, như người mê man bừng tỉnh. Những việc xẩy ra ở Vạn-thảo sơn trang cùng trang Thiên-trường sống dậy trong trí óc. Hồi ấy hai nàng cùng với Thanh-Mai đến sơn trang cầu Hồng-Sơn đại phu trị bệnh cho Bảo-Hòa. Trong khi chờ ở cổng họ thấy ngoài đôi chim ưng theo đõi họ ra, còn đôi chim ưng nữa như theo dõi, dẫn đường cho ai. Bây giờ họ mới hiểu, thì ra đôi chim ưng đó theo dõi, hướng dẫn Huệ-Phương. Tuy nhiên chuyện Lâm Huệ-Phương với Đào Hà-Thanh vẫn là những bí ẩn, dù hai người thuộc hàng cháu, con nuôi Khai-quốc vương mà cũng không biết rõ sự thực ra sao.
        Long-Bồ cúi đầu, không dám trả lời. Hoàng hậu thương con hỏi:
        - Hai nàng đó không biết hầu hạ con, con đuổi đi rồi chăng?
        - Không phải thế. Con chưa từng gần hai nàng. Khi rời vương phủ, hai nàng vẫn còn là trinh nữ. Con chẳng bao giờ dám bắt hai nàng hầu con cả.
        Thuận-thiên hoàng đế quắc mắt nhìn vương:
        - Con hãy đem hết nguyên ủy tâu bày cho ta nghe. Bằng không dù công con có to lớn đến đâu, ta cũng chặt đầu.
        Chợt nghĩ đến một việc, hoàng hậu bảo tỳ nữ đứng hầu:
        - Con mau gọi vú Tú đến cho ta hỏi truyện.
        Vú Tú là nhũ mẫu nuôi sữa Long-Bồ hồi xưa. Khi chàng ba tuổi, hết bú, vú được thưởng tiền, phong chức tước rồi cho về quê. Hồi chàng được phong vương, lòng tưởng nhớ vú, cho đón bà cùng chồng con về phủ chung sống. Chàng không d0ám coi bà như tôi tớ, mà phụng dưỡng như mẹ đẻ.
        Một lát vú Tú tới quì gối hành lễ. Hoàng hậu hỏi vú:
        - Hoàng thượng cùng ta muốn biết một vài truyện. Vú phải nói thực.
        Vú Tú rập đầu:
        - Tiểu tỳ xin tâu sự thực.
        - Hai năm trước ta tuyển Huệ-Phương, gả về cho vương gia. Bây giờ nàng đó đâu, không thấy trong phủ. Năm rồi chúng ta lại tuyển Đào Hà-Thanh cho vương. Hà-Thanh bây giờ ở đâu?
        Vú Tú cúi đầu tâu hết nguyên ủy:

        Niên hiệu Thuận-Thiên thứ mười sáu. Triều đình ban chiếu chỉ xuống cho các quan địa phương tuyển phi tần nạp vào Hoàng-cung. Thuận-Thiên hoàng đế đi vào tuổi ngũ tuần. Các hoàng hậu Tá-Quốc, Lập-nguyên, Lập-Giáo đều ngang tuổi ngài. Thời bấy giờ phụ nữ đến tuổi bốn mươi trở đi, đường tình dục coi như không được nói tới nữa. Cho nên ngài cần nhiều phi tần hầu hạ. Ngài có anh là Vũ-uy vương, em là Dực-thánh vương cũng cần tuyển phi tần trẻ thay cho lớp phi tần cưới hồi còn niên thiếu, nay đều trên bốn mươi. Ngài lại có bốn hoàng tử tuổi mới lớn, muốn nạp phi tần. Vì vậy số phi tần tuyển sẽ đến hơn trăm.

        Trong chỉ nói rõ sẽ tuyển ít nhất một trăm người. Quan địa phương phải điều tra, lập danh sách các mỹ nữ với năm điều kiện. Điều kiện thứ nhất tuổi từ mười ba đến mười tám. Điều kiện thứ nhì, các nữ ứng tuyển phải xinh đẹp nết na, còn đồng trinh. Điều kiện thứ ba phải văn hay chữ tốt, tề gia nội trợ, may vá thực giỏi. Điều kiện thứ tư không bệnh hoạn. Điều kiện thứ năm phải là người Việt.
        Chiếu chỉ ban ra làm trấn động trong nước. Những nhà có con gái đẹp đủ điều kiện, tìm đủ cách lấy lòng, mua chuộc các quan phủ, huyện hầu con gái mình được tiến cung. Họ hy vọng, con gái mình dù không được làm cung phi của hoàng đế, ít ra cũng làm thứ phi của các hoàng tử. Thế là một bước, đang từ khuê nữ trở thành vương phi. Còn hơn lấy chồng dân gian, giỏi lắm xông pha trận mạc, trở thành hầu tước, mà khó khăn vô cùng.

        Sau một tháng, các nơi thượng biểu tấu về tuyển được ba trăm người. Thuận-Thiên hoàng đế truyền ban lụa, gấm cho các thiếu nữ may quần áo, cùng ban tiền, vàng, bạc cho bố mẹ các thiếu nữ rồi truyền đưa về Thăng-long. Tại Thăng-long, vị quan hoàng-môn tổng quản cùng hoàng môn chỉ hậu bắt đầu tuyển thêm một lần nữa. Lần này tuyển khó hơn. Các thiếu nữ chịu cuộc khám rất kỹ. Quan hoàng môn tổng quản khám mồ hôi, nách, bàn chân, âm hộ.
        Mồ hôi không được khét. Người có mồ hôi khét là trong người thiếu thiện tính, nhiều ác tính, bị lọai. Người có mồ hôi mặn quá, đa số da nhờn, tính tình nóng nảy, cũng bị lọai. Nách, bàn chân, âm hộ tuyệt đối không có mùi hôi. Hôi hám thuộc loại chồn cáo, bị loại.

        Sau đợt khám này còn một trăm sáu thiếu nữ. Các thiếu nữ bị lọai được chia cho các quan, cùng võ tướng có công. Tuy vỡ mộng quí phi, vương phi, nhưng được làm phu nhân, các mỹ mữ cũng thoả mãn. Một trăm sáu thiếu nữ trúng cách, phải chịu đợt tuyển của quan hoàng môn chỉ hậu. Được vào tuyển kỳ này, coi như đã lọt vào Hoàng-thành. Đợt cuối chỉ cân nhắc người nào đẹp hơn, người nào có qúi tướng hơn, rồi tùy chỉ dụ của hoàng đế “ban” cho các vị vương.
        Quan hoàng môn chỉ hậu, khám xem lông, tóc, da, răng, miệng, dáng đi, tiếng nói. Lông phải nhỏ như tơ, lẫn vào mầu da. Lông âm hộ phơn phớt vàng, hoặc mềm, không được cứng. Tóc phải đen mướt, óng, dài. Da tươi hồng coi như tốt nhất. Sau đến da trắng mịn. Môi trái đào là môi vừa qúi vừa hiển. Môi đen sì, chề ra giống môi trâu, bị lọai. Răng phải trắng đều như hạt bắp, càng bóng càng tốt. Dáng đi thì thanh thóat, khoan thai. Đi như cúi về trước hoặc ngửa mẳt lên đều bị chê, cuối cùng tiếng nói phải thanh tao.

        Quan hoàng môn chỉ hậu tuyển được mười tám thiếu nữ không có chỗ nào khả dĩ chê được, tâu lên hoàng đế. Chiếu chỉ truyền chia chín mươi tám thiếu nữ không được vào chung kết cho các bà hoàng hậu cùng các thân vương để làm cung nga, tỳ nữ.
        Mười tám thiếu nữ còn lại do chính đức vua cùng ba hoàng hậu cân nhắc nên ban cho vị vương nào. Hoàng-đế chọn Đàm Thụy-Châu là con gái một võ tướng tên Đàm Can làm Tây-cung qúi phi.

        Trong các hoàng tử, vị nào cũng đều có vương phi cả rồi. Chỉ duy Khai-quốc vương là chưa. Vì vậy đức vua thân kén trong mười bẩy thiếu nữ lấy một người tài sắc vẹn toàn ban cho vương. Hy vọng vương tuyển làm chính phi. Cân đi, nhắc lại, Huệ-Phương có nhan sắc huyền ảo, lại biết võ công, văn học tinh thông, được ngài chọn ban cho Khai-quốc vương, làm các vị vương khác ghen tức không ít. Vì Huệ-Phương có tiếng nói ôn nhu, như ru hồn người ta vào giấc mộng. Nàng lại có vẻ hồng hào của người tập võ. Ngay cả Thụy-Châu cũng thua xa.
        Mười sáu thiếu nữ còn lại, chia ra cho các vị vương, hoàng tử làm thứ thiếp. Thuận-thiên hoàng đế cùng hoàng hậu cho rằng sở dĩ Khai-quốc vương không nạp cơ thiếp, vì chưa có người xứng đáng. Bây giờ với một Huệ-Phương, không thể chê vào đâu, vương ắt thu nạp.

        Khi cuộc tuyển lựa xong, đúng lúc đó vương đang trên đường quan sát cuộc thao luyện thủy quân. Bốn ngày sau, vương trở về, vào cung triều kiến phụ hoàng, mẫu hậu, vấn an sau mấy ngày xa cách. Hoàng hậu hỏi han qua loa rồi nói với vương:
        - Phụ hoàng với ta vừa tuyển cho vương nhi một giai nhân sắc nước hương trời. Nàng lại văn hay, chữ tốt. Phụ hoàng ưu ái dành nàng cho vương nhi. Vậy vương nhi hãy mau trở về phủ cùng nàng thành duyên giai ngẫu.
        Vương lạy tạ rồi về phủ.

        Tới phủ, vú Tú dẫn Huệ-Phương bái kiến vương. Phớt nhìn qua, vương thấy trước mặt mình một thiếu nữ tươi hồng, sắc đẹp có vẻ huyền ảo, thực từ ngày ra đời vương chưa thấy ai đẹp như vậy. Vương vội đỡ nàng dậy, không cho hành đại lễ. Vương nắm tay nàng nói:
        - Huệ-Phương. Phụ hoàng cùng mẫu hậu tốn không biết bao công lao mới tìm được một giai nhân sắc nước hương trời như Huệ-Phương. Các người ưu ái gả nàng cho anh. Không biết kiếp trước anh tu thế nào, mà kiếp này anh gặp nàng. Hôm nay, nàng với anh thành duyên giai ngẫu. Trước khi thành vợ chồng, anh muốn nói với nàng ít điều.
        Huệ-Phương e thẹn, nhưng nàng không run rẩy, sợ hãi như các cô gái khác khi được đem đến vương phủ lần đầu:
        - Thiếp xin nghe vương dạy dỗ.
        - Dạy dỗ. Chắc gì anh đã hơn nàng mà dạy dỗ nàng. Anh sinh ra làm con vua, làm thái tử, được phong Khai-Quốc vương, lại mới được phụ hoàng trao trọng quyền. Nhưng anh không tự hào vì những gì sinh ra đã có. Cái anh tự hào, là anh có chí khí. Anh muốn nối tiếp sự nghiệp vua An-Dương vua Trưng.
        Trước đây vương đã được phụ hoàng gả cho một vài thiếu nữ. Nghe vương nói vậy, họ chỉ biết nghe, thảng hoặc vâng dạ cho qua, rồi ngơ ngơ ngác ngác chẳng biết gì. Huệ-Phương nghe vương nói vậy thì vui mừng:
        - Khi thiếp còn ở thôn dã, đã nghe võ lâm đồn rằng Những ai chưa từng gặp Khai-Quốc vương đừng vội xưng anh hùng hảo hán. Thiếp không tin, cho rằng người đời nói quá. Nhưng hôm nay mới nghe mấy lời của vương, thiếp thấy lời đồn còn thua sự thực.
        Khai-quốc vương ngắt lời:
        - Nàng chưa nghe anh nói hết, mà đã khen. Như vậy thì lời khen e không đúng sự thực.
        Huệ-Phương mỉm cười, ánh mắt đưa tình. Mắt nàng sáng như viên minh châu, môi hồng mọng, da mặt trắng hồng, khiến vương ngây ngất như người say rượu. Nàng nói:
        - Phàm tri kỷ, cần gì phải nói nhiều, chỉ cần nghe qua một lời, nhìn ánh mắt của nhau ắt hiểu nhau liền. Trong Phật pháp gọi là Nhân ngã tương thông. Vương đã xuất thân đệ tử một vị Bồ-tát đắc đạo hẳn biết điều đó.
        Vương nghe Huệ-Phương lý luận, chàng tìm thấy ở Huệ-Phương ngoài một giai nhân, còn là người bạn tâm tình, mà chàng chỉ tìm thấy ở những người cộng sự. Chàng nhìn thẳng vào mặt Huệ-Phương, khuôn mặt tươi như hoa, môi hồng, mái tóc đen óng mựơt. Tuy nàng hơi có vẻ e thẹn, nhu mì, nhưng ánh mắt sáng chiếu ra những tia sáng cực kỳ thông minh. Bất giác vương nghĩ thầm:
        - Phụ hoàng, mẫu hậu ta thực có con mắt tinh đời, chọn cho ta một người như thế này, ta làm sao mà không mềm lòng?
        Vương kéo đầu nàng vào ngực mình. Đôi vai Huệ-Phương tròn, mềm mại. Một hương thơm từ mái tóc nàng đưa vào mũi, làm cho vương cảm thấy nhẹ nhàng như đi trên mây. Vương bế bổng nàng dậy, đặt nàng ngồi trong lòng mình, rồi hôn lên đôi môi nàng. Hai người lặng đi một hồi lâu, họ cùng say say trong cái êm đềm.
        Vương là người tỉnh trước, Vương nói:
        - Anh cần nói với Huệ-Phương rằng từ năm mười ba, phụ hòang đã kén mỹ nữ cho anh, phong anh tước vương. Nhưng anh chưa thâu nạp một nàng nào cả. Chỉ vì họ muốn làm một tỳ nữ hơn là một người tình. Họ lại không có khả năng thành một người tri kỷ, một người bạn cùng lo quốc sự. Hoá cho nên suốt thời gian mười lăm năm, năm nào anh cũng được ban cho mỹ nữ, mà chưa người nào đáng cho anh thu nạp làm phi tần.
        Ngừng một lát vương tiếp:
        - Nay anh nhận em, đương nhiên anh sẽ tâu xin phong em làm vương phi. Nhưng anh phải nói trước. Em làm tỳ thiếp các vị vương khác còn sướng hơn làm vương phi của anh. Vì anh nghĩ rằng mình làm vương, để lo cho dân chứ không phải làm vương để ngồi trên đầu dân mà hưởng thụ.
        Huệ-Phương nói bằng giọng ôn nhu nhẹ nhàng:
        - Em chỉ nghe một lời cũng hiểu anh rồi. Anh đã nói rằng muốn theo chí vua An-Dương, vua Trưng, thì em biết rằng anh muốn sao cho nước giầu dân mạnh. Ta chỉnh đốn binh bị, kết hợp với Đại-Lý, chỉ ngọn cờ lên Bắc, đòi lại đất tổ thời vua Hùng. Than ôi, Đại-Việt ta mấy triệu người, chỉ mình anh có chí đó. Hoàng thượng sinh bốn hoàng tử, chỉ mình anh quên ăn, quên ngủ, quên cả vợ con, lo làm truyện vá trời. Như vậy chưa phải là anh hùng sao? Làm vợ một anh hùng, tự đó đã là hạnh phúc, đâu cần gì hơn nữa?
        Vương nghe Huệ-Phương nói, vội ngồi ngay ngắn lại chắp tay vái một vái:
        - Đa tạ em có lời khen. Kiến thức em thực không tầm thường. Theo em, ta phải làm gì bây giờ?
        Huệ-Phương biết vương từng khuất thân cầu người hiền, xung quanh vương thiếu gì người tài trí mà vương phải hỏi nàng? Vương hỏi nàng chẳng qua để thử nàng mà thôi. Vì vậy Huệ-Phương đáp:
        - Đời vua An-Dương vì không nghe lời Cao-cảnh hầu, rồi triều đình chia rẽ mà mất nước. Thời vua Trưng vì anh hùng đồng tâm mà lập lại được Lĩnh-Nam. Mới đây, Lê Hoàn cướp ngôi nhà Đinh, nhân tâm không phục, quân Tống tràn sang. Vạn-Hạnh thiền sư kéo cao ngọn cờ thống nhất, khiến anh hùng thiên hạ đều tuốt gươm giữ nước, vì vậy máu giặc ngập sông Bạch-đằng, xác quân Tống chất cao hơn núi ở Chi-lăng. Bản triều từ khi hoàng thượng lên ngôi, ân đức trải khắp nước. Có thể nói, nhân tâm đã thành một khối. Tuy vậy võ lâm e chưa hẳn một lòng.
        Khai-quốc vương thấy Huệ-Phương kiến thức cao, chàng mừng vì từ nay có một nữ lưu tri kỷ. Vương ôm lấy nàng, bế bổng lên, đặt ngồi vào lòng:
        - Trời đem em cho ta. Em thử nói hết cái không một lòng cho anh nghe xem có đúng không nào?
        Huệ-Phương run rẩy, má nàng ửng hồng, đẹp hơn bao giờ cả:
        - Nói về võ, mình có tới sáu đại môn phái. Nói về tôn sư, mình có Ngũ-long. Trong sáu phái, phái Tiêu-sơn là nơi dựng ra triều Lý, tuy lớn, một lòng phò trợ triều đình, nhưng một cây làm chẳng lên non. Phái Tản-viên, Mê-linh, Tây-vu lúc nào cũng sẵn lòng. Nhưng còn phái Đông-A, người nhiều, thế mạnh. Phái Sài-sơn uy tín rất rộng. Hai phái này đã chịu hợp tác với triều đình đâu? Nếu anh vựơt được hai cái khó khăn ấy, mới mong làm lên đại nghiệp.
        Vương đặt Huệ-Phương ngồi xuống ghế, hai người say xưa trong buổi đầu tiên gặp gỡ, hợp nhau vì chí cả, thân nhau vì cùng có kiến thức. Vương hỏi Huệ-Phương:
        - Nàng có linh cảm rằng chúng ta thành công hay không?
        Huệ-Phương dựa đầu vào vai vương:
        - Phàm làm truyện cứu dân, bảo quốc, chỉ cần đem hết tài trí ra cũng đủ. Thành công hay không đâu cần biết tới.
        Vương bế bổng Huệ-Phương lên, ôm ghì nàng vào hôn lên môi nàng lần nữa, rồi đặt nàng lên giường. Huệ-Phương tê dại khắp người, nàng muốn nghẹt thở. Tay vương lần mở nút áo nàng. Huệ-Phương như người trong giấc mơ. Tuy nhiên nàng vẫn còn đủ minh mẫn nói:
        - Nếu anh như các vị hoàng tử khác, em sẽ im lặng thành vợ anh. Nhưng anh là đấng anh hùng, em cần nói với anh một truyện, trước khi dâng hiến cả cuộc đời cho anh.
        Vương ngừng lại hỏi:
        - Nàng có tâm nguyện gì, cứ nói ra, anh sẵn sàng chu toàn.
        Huệ-Phương từ từ thuật lại truyện nàng tìm thầy thuốc trị bệnh cho bố, chẳng may gặp lạnh ngất xỉu, rồi được thầy lang để tay vào huyệt Đản-trung truyền chân khí chữa cho. Từ đó hai người nảy sinh ra mối tình. Khi nàng tiến cung, có trao cho mẹ bộ quần áo, làm tín vật gửi cho vị thầy thuốc kia. Trong tâm nàng đã có hình bóng một người.
        Nàng kết luận:
        - Trước đây em ước ao được gặp mặt anh cũng mãn nguyện. Bây giờ em được là vợ anh thì còn gì hơn nữa? Tuy nhiên, em xin anh ban cho em một ước nguyện, cho em tìm gặp vị thầy thuốc kia, đem vàng, để chuộc lời nguyền sắt đá trăm năm.
        Khai-Quốc vương nghĩ thầm:
        - Thì ra Huệ-Phương đã có lời thệ nguyện với cùng thầy thuốc kia. Với nhan sắc, tài trí của nàng, ắt vị thầy thuốc phải say đắm khôn cùng. Bây giờ vì chiếu chỉ của triều đình, Huệ-Phương bị tiến cung, làm vợ ta. Trên luật lệ quốc gia thì hợp tình hợp lý. Trên đạo nghiã, họ Lý nhà ta dùng cường lực bắt người yêu của vị thầy thuốc kia. Như vậy ta có khác gì đạo tặc không? Ta phải trả nàng về với ý trung nhân của nàng. Nhưng vấn đề không phải dễ. Phụ hoàng cưới nàng cho ta, mà ta gả cho người, e mất thể diện hoàng triều, truyện này đến tai phụ hoàng tội ta không nhỏ.
        Vương nhìn Huệ-Phương, đôi mắt sáng, mái tóc đen nhánh, nét mặt tươi hồng. Vương sẽ thở dài:
        - Ta thà bị tội với phụ hoàng chứ không thể cướp vợ thiên hạ.
        Vương ngồi ngay ngắn lại:
        - Như vậy nàng đã có mối nhu tình. Nay ta ép nàng làm vợ, có khác gì cướp vợ của người? Nàng yên tâm, ta hứa khi nào tìm ra tông tích vị thầy thuốc kia, sẽ cho nàng và chàng hội ngộ. Từ nay nàng cứ sống trong vương phủ. Ta hứa coi nàng như em gái ta.
        Nói là làm. Vương đối xử với Huệ-Phương cực kỳ thân thiết như một cô em gái. Huệ-Phương thường đeo kiếm theo vương đi duyệt binh, luyện quân, giúp đỡ vương ... giống như nữ tướng tham mưu. Sau hơn năm, dịp tình cờ, vương tìm ra thầy lang đó chính thị Hồng-Sơn đại phu. Vương thuật cho Huệ-Phương nghe, rồi nói:
        - Mừng cho Huệ-Phương. Không ngờ thầy lang mà Huệ-Phương gặp lại là nhân vật lừng danh võ lâm, nổi tiếng thánh y. Sau đây anh sẽ đưa Huệ-Phương đến Vạn-thảo sơn trang gặp Hồng-Sơn đại phu. Như vậy anh đã chu toàn lời hứa.
        Huệ-Phương quỳ gối xuống lạy vương tám lạy:
        - Anh hùng thiên hạ, cổ kim chưa từng thấy ai như anh. Về tình cảm, em làm vợ Hồng-Sơn đại phu. Về quốc sự, xin anh coi em như một võ tướng. Em nguyện đem hết sức mình theo giúp đại nghiã của anh. Em sẽ khuyên Hồng-Sơn đại phu không làm lợi cho triều đình thì cũng không hại cho triều đình.
        Thế rồi vương tặng vàng, ngọc, lụa, cho người đưa Huệ-Phương về quê. Huệ-Phương lấy xe chở bố, cùng mẹ lên đường tìm Hồng-Sơn đại phu. Nàng đã trở thành chủ mẫu Vạn-thảo sơn trang.

        Thuận-Thiên hoàng đế hỏi lại Khai-quốc vương:
        - Vương nhi có chắc Hồng-Sơn đại phu là Lê Long-Mang không?
        - Chắc chắn như vậy.
        Ngài ngồi trầm ngâm một lúc rồi nói:
        - Con vì lòng tốt, tuy có làm đảo lộn Hoàng-thành, nhưng ít ra cũng hóa giải được một mũi đùi mạnh nhất của Lê Long-Mang chĩa vào ta. Vả lại Trần cô nương đã xin ta ân xá tội này cho vương nhi rồi.
        Vương tâu:
        - Thần nhi vẫn nhận được đầy đủ tin tức của Lê Long-Mang, do Huệ-Phương gửi về. Có thể nói, thân xác Huệ-Phương của Lê Long-Mang, còn chí khí của nàng, nàng dành cho Đại-Việt.
        Nghe vú Tú tường thuật, Mỹ-Linh nhìn Thiệu-Thái, Bảo-Hòa, cả ba như người trong mơ bừng tỉnh. Trước đây tại Vạn-thảo sơn trang, nàng thấy Huệ-Phương thuật với Lê-Long-Mang rằng Em bị tuyển vào cung, ngày đêm nhớ nhung anh. Em trốn đi tìm anh. Bấy giờ nàng không tin, vì Huệ-Phương có gan lớn bằng trời cũng không dám trốn khỏi Hoàng-cung, bởi luật của Đại-Việt trừng phạt rất nặng trường hợp vợ bỏ chồng trốn theo trai. Huống hồ nàng là cung nữ bỏ đi, cha mẹ ắt bị vạ lây. Hồng-Sơn đại phu vốn người thông minh, kinh lịch, thông thường dễ gì ông tin. Nhưng bấy giờ ông bị áng mây xanh tình yêu che lấp, nên bỏ qua chi tiết đó.
        Hồi ấy Bảo-Hòa ngạc nhiên vô cùng khi thấy Huệ-Phương vừa lấy chồng. Chồng là Hồng-Sơn đại phu, có địa vị lớn chỉ thua hoàng đế. Ông đang mưu phục hồi đại nghiệp của tổ tiên. Thế mà Huệ-Phương không những không thuận theo chí của chồng, mà lại dùng tất cả cái dịu dàng, cái khôn khéo, để khuyên chồng bỏ mưu cầu đại cuộc. Lại nữa, gặp Bảo-Hòa, Mỹ-Linh là con cháu kẻ thù của chồng, nàng lại tỏ ra thương yêu thiết tha, bênh che cho hai người. Khi chồng đi vắng, nàng truyện trò với con cháu kẻ thù rồi xui trốn đi. Nàng còn cho Lê Văn, con của chồng theo Mỹ-Linh đi chơi, hầu giải hòa bớt căng thẳng của nhà chồng với triều đình. Bảo-Hòa cứ thắc mắc mãi về lòng tốt quá đáng của Lâm Huệ-Phương. Bây giờ nàng mới hiểu thì ra Huệ-Phương làm như vậy vì cảm ơn lòng đại lượng của cậu hai một phần, mà vì đại cuộc một phần.
        Bỗng chốc trong lòng ba người nổi lên mối cảm hoài, kính phục Huệ-Phương hơn bao giờ cả. Ba người im lặng, vì họ muốn biết truyện Đào Hà-Thanh.
        Thuận-thiên hoàng đế hỏi:
        - Còn truyện Đào Hà-Thanh?
        Vương tâu:
        - Truyện Đào Hà-Thanh do thần nhi xếp đặt hoàn toàn. Thần nhi thường cùng võ lâm anh hùng đến các tửu lâu trong thành Thăng-long yến tiệc nghe hát. Thấy Đào Hà-Thanh vừa xinh đẹp, vừa văn hay chữ tốt, được đủ mọi lẽ. Thần nhi định đón nàng vào cung, hầu làm vương phi, thì đúng lúc đó được tin Trần Tự-An du ngoạn trên sông Hồng. Thần nhi thân mời Long-thành Song-phụng vào Khu-mật viện, nói rõ tình hình đất nước chông chênh như trứng trồng. Nguy nan bọn Tống trước mắt, mà anh hùng võ lâm lại chia rẽ. Thần nhi nhờ Long-thành Song-phụng giúp đỡ. Hai người ấy thực là nghĩa sĩ, khảng khái nhận lời. Thần nhi nhân đấy sai bọn Hồng-hà hành sự. Quả nhiên Tự-An rơi vào vào lưới tình. Giữa lúc đó, thần nhi được lệnh đi Thanh-hóa. Nào ngờ ở nhà phụ hoàng tuyển mỹ nữ, Đào Hà-Thanh trúng cách. Phụ hoàng ban nàng cho thần nhi. Vì vậy thần nhi lại cho nàng về Thiên-trường. Bây giờ nàng là vợ Trần Tự-An, nhưng làm việc dưới quyền của thần nhi.
        Thuận-Thiên hoàng đế mỉm cười hài lòng:
        __ Những việc ở trang Thiên-trường, Khu-mật viện tâu lên, ta đều theo dõi tỷ mỉ. Lúc đầu biểu chương nói rằng Khu-mật viện khám phá ra âm mưu mai phục của Nhật-Hồ lão nhân trong trang Thiên-trường, nhưng không rõ ý định. Ta đã châu phê rằng Mặc dù phái Đông-a không theo triều đình, nhưng họ vẫn là con dân Đại-Việt. Cần theo dõi, nếu Nhật-Hồ có ý định hại phái này, cần ra tay giúp đỡ. Nào ngờ Nhật-Hồ lại âm thầm đi với Tống. Tống nhờ Nhật-Hồ ra tay giết Tự-Mai, Tôn Đản để ra oai với phái Đông-a, và khống chế Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Bảo-Hòa. Con ra tay kịp. Nếu sau này Tự-An biết rằng y tuy tài trí, mà vẫn phải nhờ Khu-mật viện mới khám phá ra manh mối phản lọan. Hơn nữa vợ yêu của y, do con nhượng cho khó lòng y chống triều đình được nữa.
        Hoàng hậu vuốt tóc vương:
        - Vương nhi vì lo quốc sự, mà hy sinh cả tình yêu, hy sinh cả hai người đẹp nhất, hầu biến hai lực lượng kình chống triều đình thành lực lượng trợ lực triều đình. Thế mà từ trước đến nay vương nhi giữ im lặng, quỉ không biết, thần không hay, cho nên phụ hoàng với ta cũng không tường, mới phiền trách vương nhi. Tại sao tất cả mọi truyện con đều tâu bầy cặn kẽ, ngoài trừ việc Lâm Huệ-Phương và Đào Hà-Thanh?
        Khai-quốc vương tâu bày tỉ mỉ việc anh em họ Đàm phản triều đình ở trấn Thanh-hóa như thế nào, đến việc Dực-thánh vương ngầm qui phục Tống. Nếu chàng tâu bày mọi việc giữa chốn đông người, tai mắt của Dực-Thánh vương của Đàm qúi phi ắt sẽ báo về cho chủ, Tống lại sẽ phá kế hoạch của Khu-mật viện. Vì vậy chàng không thể nói ra trước công chúng, khi bị phụ hoàng cật vấn.
        Vương kết luận:
        - Con được phụ hoàng ủy thác việc lớn, ngày quên ăn, đêm quên ngủ. Nếu phụ hoàng thấy có điều chi khác lạ, xin cứ triệu thần nhi vào cung mật tấu, như vậy mới bảo toàn được mọi sự.
        Thuận-Thiên hoàng đế thở dài:
        - Ta không ngờ Đàm Toái-Trạng, Dực-thánh vương phản ta. Đúng ra ta đem cả nhà hai người này chặt đầu. Nhưng như vậy bọn Tống lại tìm tay sai khác, khó mà khám phá ra. Thà cứ để nguyên vậy. Ta sẽ phong cho Dực-thánh vương chức tước khác lớn hơn, nhưng không có binh quyền. Đàm Toái-Trạng ta sẽ cho về Thăng-long, giao cho chức lớn, nhưng vô quyền. Đàm Toái-Trạng là con trai Đàm Can. Can hiện tổng trấn Thăng-long. Về võ, y được thăng cấp cao nhất, đô nguyên soái. Về văn y còn được phong là thái phó. Không biết bọn Trạng phản triều đình Can có biết không? Con phải theo dõi cho kỹ.
        Ngài ngừng lại, nhìn Thanh-Mai hỏi:
        - Còn việc Trần cô nương thế nào? Ta nghe An-quốc cùng Lĩnh-nam Bảo-hòa, ca tụng mưu trí, võ công cùng đức hạnh hoài. Con hãy cho ta biết rõ mọi truyện về nàng.
        Khai-quốc vương tường thuật mọi chi tiết từ khi gặp chị em Thanh-Mai tronglần hai người xem hoa ở Trường-yên, rồi sau này gặp gỡ ở Thanh-hóa, kết anh em ra sao.
        Hoàng-hậu mỉm cười:
        - Kể về nhan sắc, Thanh-Mai ngang với Huệ-Phương, Hà-Thanh. Nhưng về gia thế cùng tài năng, Thanh-Mai gấp trăm lần hai người kia. Mẹ mong nàng khỏi bệnh, rồi cử sứ về Thiên-trường xin đại hiệp Trần Tự-An cho nàng làm dâu nhà ta. Ta đã quyết phong nàng làm vương phi cho con. Ta nói một là một, hai là hai. Đối với Thanh-Mai, ta không tuyển như các mỹ nữ khác, mà tổ chức đại lễ tấn phong nàng. Lần này, con không ưng nữa thì ta cho con đi tu.
        Mỹ-Linh nghe bà nội dọa chú, nàng cười thầm:
        - Bà dọa gì, chứ dọa cho chú đi tu, thì chú không sợ, mà còn khoan khoái trong lòng. Làm hoà thượng sướng hơn làm Khai-quốc vương nhiều.
        Bà quay lại hỏi Thiệu-Thái:
        - Ta nghe mẫu thân con tâu về đã hỏi vợ cho con rồi. Thế mà con với Mỹ-Linh còn có tình với nhau. Đúng luật triều đình thì con có quyền lấy nhiều vợ. Nhưng Bắc-biên dùng luật thời vua Trưng, trai một vợ, gái một chồng. Hơn nữa ta đã hứa gả Mỹ-Linh về làm dâu Đàm quốc cữu. Đàm Toái-Trạng tuy có làm gian tế cho Tống, nhưng họ Đàm vẫn là cột trụ triều đình. Vậy từ nay, hai cháu chỉ đối với nhau như anh em. Nếu còn kia khác, ta chặt đầu cả hai.
        Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nghe bà nói, chỉ biết gật đầu, trong khi, lòng dạ xót xa, quặn đau. Cả hai quì xuống:
        - Chúng cháu xin tuân chỉ dụ.
        Thuận-Thiên hoàng đế vốn thấm nhuần sâu sa giáo lý nhà Phật. Vì vậy ngài dành cho ba bà hoàng hậu rất nhiều quyền. Một bà được phong Tá-quốc, được quyền nghe, tham dự mọi biến cố của đất nước. Hoàng hậu Tá-Quốc sinh ra Khai-thiên vương, công chúa An-quốc, công chúa Lĩnh-nam Bảo-hòa. Một bà được phong Lập-nguyên, cai quản mọi việc trong hoàng cung, quyết định tuyển phò mã, cung phi, thái giám, dạy dỗ các thái tử, công chúa. Một bà được phong Lập-giáo phụ tá cho ngài về lễ nghi , phong tục trong nước. Cho nên việc dựng vợ gả chồng cho Khai-quốc vương, hoàng hậu Lập-nguyên quyết định hết, mà không cần chỉ dụ của hoàng đế. Cho đến việc tính tội Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, cùng bất đồng ý về cuộc hôn nhân này bà cũng quyết định cả.
        Hiện mối quan tâm của Thuận-thiên hoàng đế là đặt vương nào trong các con làm trừ quân, để mai sau nối nghiệp? Ngài có bốn thái tử, người nào cũng có tài cầm quân, đánh Đông dẹp Bắc, nhiều công với xã tắc. Nhưng nổi hơn hết phải kể Khai-Thiên vương. Vương là con cả, uyên thâm Phật-pháp, lại là đệ tử của quốc sư Minh-Không, sư huynh ngài. Tính tình vương uy nghiêm, nhân hậu, thương dân, thương quân lính, hòa thuận với anh em.
        Nổi hơn nữa tới Khai-quốc vương. Hiện trong các thái tử, võ công vương cao nhất, mới đây lại được Bồ-tát đắc đạo Hệ-Sinh thu làm đệ tử. Võ công vương không thua gì ngài. Tương lai có thể hơn. Ngài còn nghe nói vương cùng tìm học được võ công của công chúa Yên-lãng Trần Năng, bản lĩnh e không kém gì sư phụ Huệ-Sinh. Còn về kinh bang, tế thế, thì thực trong lịch sử chỉ có tể tướng Nguyễn Phương-Dung triều vua Trưng mới sánh kịp. Vương lại nhã lượng, cao trí, thu phục được hết nhân tâm trong nước. Có điều từ ngài cho đến triều đình chỉ mong giữ vững bờ cõi, chống với Tống là mừng rồi. Trong khi đó, vương mới cầm quyền hơn năm, mà làm cho Tống kinh sợ. Đại-việt trấn áp Chiêm-thành, cùng Lão-qua. Vương lại lập chí lớn qúa, mưu cùng Tây-hạ, Liêu, Kim, Đại-lý cùng bức Tống, đòi lại đất tổ lên tới hồ Động-đình như thời Lĩnh-nam.
        Đứng về phương diện con Lạc, cháu Hồng, chí của vương thực xứng đáng. Nhưng ngài là một Phật tử, dù con chó, con mèo bị giết ngài cũng không muốn. Vạn nhất vương lên ngôi, đem quân lên Bắc, ắt người chết không phải hàng nghìn hàng vạn, mà hàng trăm vạn. Mới chỉ nghĩ đến thôi, ngài đã rùng mình. Một điều ngài lo nghĩ nữa, nếu nhường ngôi cho vương, thì đến đời con vương gặp khó khăn. Hiện vương chưa có vương phi, chưa có thế tử. Sau này khi vương qua đời, ấu quân cai trị, ắt dễ đi đến vạ mất nghiệp. Trong tình thế hiện tại, không nhường ngôi cho vương, e không xong, vì anh hùng thiên hạ đều hướng về phủ Khai-quốc vương cả.
        Chợt nhớ ra điều gì, ngài hỏi:
        - Vương nhi. Chỉ còn ba ngày nữa, sứ đoàn Triệu Thành sẽ đến Thăng-long. Vương nhi đã chuẩn bị tiếp đón chưa?
        - Tâu phụ vương, hài nhi đã xếp đặt tất cả. Cứ như Mỹ-Linh, Bảo-Hòa cùng Thanh-Mai cho biết, kỳ này sứ đoàn Triệu Thành đến Thăng-long sẽ bắt phụ hoàng bỏ quốc hiệu Đại-việt, niên hiệu Thuận-thiên, mà chỉ được dùng danh xưng Giao-chỉ cùng Giao-chỉ quận vương mà thôi. Việc này y đã làm ở chùa Sơn-tĩnh, bị Mỹ-Linh, Bảo-Hòa phá tan âm mưu. Y đến Thiên-trường những tưởng đem vàng bạc mua chuộc phái Đông-a. Không ngờ phái này cứ nhận lễ vật, nhưng cương quyết đòi giữ quốc uy tôn trọng tên Đại-việt cùng niên hiệu Thuận-thiên. Kỳ này về Thăng-long chúng cũng sẽ diễn lại.
        Thuận-Thiên hoàng đế tươi nét mặt:
        - Võ đạo phái Đông-a sáng không thua gì Tiêu-sơn. Họ phân biệt việc ta với họ Lê có cừu thù. Họ phù Lê chống ta là việc người Việt với nhau. Còn bọn Tống là bọn cướp nước, không có quyền, nói truyện nội tình người Việt. Không như một số vô tư cách. Chúng thù hận triều đình, rồi thù hận cả Đại-Việt. Trần Tự-An thực xứng đáng anh hùng như võ lâm tặng cho. Như vương nhi nghĩ, chúng gây hấn như vậy với mục đích gì?
        - Chủ tâm của Tống đã rõ rệt. Một mặt họ cố làm cho họ Lý mất uy tín. Một mặt họ mua chuộc võ lâm hướng về Thiên triều như thế có nghĩa Đại-Việt là quận huyện của họ. Họ bắt bỏ đế hiệu, đổi quốc hiệu. Tuy vậy Triệu Thành không làm nổi đâu. Cái khó là lúc hai bên đấu võ, khó tránh được tử vong. Trong khi đó thần nhi muốn làm thân với y, tâng bốc y, rồi khiến cho y tạo phản.
        Thuận-Thiên hoàng đế phất tay:
        - Thôi được. Ta ủy quyền cho vương nhi lo vụ này.
        Ngài cùng hoàng hậu ra xe về. Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, Thiệu-Thái quỳ gối khấu đầu tiễn đưa.



        <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2005 10:43:18 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 11.01.2005 17:52:35 (permalink)
          Hồi thứ bốn mươi lăm


          Bát Nhã Ba La Mật Tâm Kinh


          Bình-dương từ trong phòng Thanh-Mai bước ra, mặt nàng tái nhợt. Khai-quốc vương hỏi:
          - Cái gì đã xẩy ra?
          Bình-dương run run:
          - Mặt sư tỷ Thanh-Mai đỏ như gấc, mắt trợn ngược, e khó qua khỏi.
          Khai-quốc vương vào phòng Thanh-Mai. Vương hỏi Lệ-Thanh:
          - Đỗ phu nhân, còn hy vọng gì không?
          Đỗ-lệ-Thanh thở dài:
          - Cứ tình trạng này, tiểu tỳ nghĩ Trần cô nương khó qua khỏi trong ba ngày. Tiểu-tỳ chỉ biết trị Nhật-hồ chu-sa độc chưởng, mà không biết trị Thất-trùng ngũ hoa độc.
          Chợt Thanh-Mai nói trong cơn mê sảng:
          - Bố ơi! Con đau quá. Bố cứu con với. Ối bố ơi, hàng trăm con rắn nó cắn con.
          Nàng giật lên một cái:
          - Bố ơi! Bố đừng bỏ con một mình. Con đau quá. Bố cứu con với.
          Đỗ Lệ-Thanh hỏi Bảo-Hòa:
          - Tấu cô! Không biết sao Trần cô nương không kêu người khác, mà lại kêu đại hiệp Tự-An trong giấc mơ?
          Bảo-Hòa giảng nghĩa:
          - Gốc hồn con người thuộc trời. Vì vậy khi đau đớn về tinh thần, người ta gọi trời. Gốc của thân xác thuộc cha mẹ, nên khi đau đớn thân xác thường gọi cha mẹ. Trần cô nương mồ côi mẹ, bất cứ việc gì khó khăn cũng do Trần đại hiệp lo cho cả. Nay đau đớn thân xác, Trần cô nương gọi cha là lẽ thường.
          Bình-dương nước mắt đầm đìa nói với Khai-Quốc vương:
          - Chú hai ơi. Cháu nghĩ chú hai nên khẩn đưa Thanh-Mai về Thiên-trường, để Trần đại hiệp được nhìn mặt con gái lần cuối. Cơ chừng này, cháu e Thanh-Mai khó qua khỏi.
          Khai-Quốc vương hỏi Thiệu-Thái:
          - Hôm cháu với Mỹ-Linh bị giam ở Hồng-hương cốc. Mỹ-Linh bị trúng Chu-sa độc chưởng của Nguyên-Hạnh. Bố-đại hòa thượng chữa trị cho Mỹ-Linh như thế nào? Cháu thử diễn lại một lựơt cho cậu xem nào. Biết đâu chẳng tìm ra được chút ánh sáng?
          Thiệu-Thái diễn lại từ đầu đến cuối. Nhìn qua, vương biết Bố-đại hòa thượng dùng thượng thừa Thiền-công hóa giải chất độc trong người Mỹ-Linh. Vương nghĩ:
          - Hiện nay trong người Thiệu-Thái Thiền-công mạnh vô song, biết đâu y không làm gì được cho Thanh-Mai?
          Vương hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
          - Đỗ phu nhân, tôi nghĩ, thà chúng ta cho Thiệu-Thái thử hóa giải chất độc trong người Thanh-Mai, dù thành công, dù thất bại cũng cam lòng. Còn hơn để Thanh-Mai đau đớn như thế này.
          Đỗ Lệ-Thanh lắc đầu:
          - Tiểu tỳ chỉ truyền cho Thân thế tử phép hóa giải chất độc của Chu-sa Ngũ-độc chưởng. Còn đối với chất độc khác, tiểu tỳ không biết.
          Tuy nghe Đỗ Lệ-Thanh nói vậy, Thiệu-Thái vẫn đến trước Thanh-Mai. Chàng để tay lên huyệt Nội-quan của nàng, rồi vận khí hút độc chất ra. Chàng vừa vận khí, thì cảm thấy có hai luồng nội lực cực kỳ hùng hậu chống trả, đẩy bật tay chàng ra ngoài. Ngón tay chỏ của chàng như bị con thú ngoặm một miếng. Không tự chủ được, chàng dụt tay lại, kêu lên tiếng ái chà đầy vẻ đau đớn.
          Chàng nhìn lại ngón tay chỏ, nửa ngón tay đỏ như máu, sưng vù lên như quả chuối. Đỗ Lệ-Thanh lắc đầu:
          - Trong người Trần cô nương hiện có đến bẩy chất độc đều thuộc âm hàn. Vừa rồi thế tử để tay vào huyệt Nội-quan của Trần cô nương. Nội-quan thuộc thủ Khuyết-âm tâm bào kinh. Trong người cô nương có bẩy thứ độc. Độc rắn nhập tâm, phát ra tâm bào kinh. Vì vậy khi thế tử vận công hút độc chất trong người Trần cô nương, tay thế tử bị nọc rắn truyền sang. Thế tử khẩn đẩy chất độc ở ngón tay ra ngoài ngay, đừng để nó chạy vào tạng phủ.
          Thiệu-Thái vận khí ra ngón tay, trong khoảng mười tiếng đập tim, trên ngón tay chàng tiết ra thứ nước nhờn mầu vàng, thoang thoảng có mùi hương thơm. Bảo-Hòa cầm tay anh lên ngửi:
          - Có mùi thơm của Ngọc-lan với Hoàng-cúc.
          Thiệu-Thái sống ở rừng núi từ nhỏ, từng thấy nhiều người bị rắn cắn. Chàng lắc đầu:
          - Đỗ phu nhân. Thường nọc rắn nhập cơ thể, không làm sưng lên. Tại sao tay tôi lại bị sưng?
          - Thưa thế tử, trong bẩy thứ nọc độc, thì nọc rắn lục nhập tâm. Nọc bò cạp nhập can. Nọc nhện xanh nhập tỳ. Nọc rết đen nhập phế. Nọc tằm núi nhập thận. Thế nhưng nọc ong vàng, nọc sâu ngũ sắc nhập Tam-tiêu. Tam tiêu chia ra thượng, hạ, trung tiêu. Nọc ong vàng nhập thượng tiêu. Tâm nằm ở thượng tiêu. Vì vậy tay thế tử còn bị nọc ong vàng nhập. Nọc ong, nọc rắn hợp lại làm tay thế tử bị sưng lớn.
          - Thế bây giờ tôi làm sao để đẩy chất độc ra ngoài?
          - Khó quá. Nội công của Bồ-tát Sùng-Phạm thuộc Thiền-công. Khi tập Thiền-công đến chỗ tối cao, có thể hóa giải mọi thứ độc trong người. Nhưng khi độc chất nhập tạng phủ, Thiền-công cũng vô hiệu. Thế tử không nhớ hôm ở Thiên-trường, đại hiệp Tự-An đã kể truyện thời Lĩnh-Nam. Công chúa Yên-lãng Trần Năng cũng như Tiên-yên nữ hiệp Trần-thi Phương-Chi trúng Huyền-âm độc hưởng. Bồ-tát Tăng-giả Nan-đà dạy hai vị Thiền-công, nên hóa giải được chất độc. Đến khi Trần Tứ-Gia hút chất độc trong người Bắc-bình vương Đào Kỳ, Bồ-tát cũng bó tay. Nay độc chất nhập vào người Đoàn Huy, Trần cô nương hút vào, nên Thất-trùng, Ngũ-hoa đã nhập tạng phủ, Thiền-công e cũng chẳng làm gì được.
          Lý Long chợt hiểu ra:
          - Trong lúc đối thoại với Đoàn Huy, Thanh-Mai trình bầy phương pháp điều trị Thất-trùng Ngũ-hoa độc bằng cách đùng châm cứu, sau đó xử dụng Thiền-công hóa giải chất độc. Thì ra châm cứu trị Ngũ-hoa độc, còn Thiền-công hóa giải Thất-trùng. Ngặt vì bây giờ Thanh-Mai hút vào tạng phủ, thành ra cả hai phương pháp đều vô dụng.
          Bảo-Hòa đề nghị:
          - Hồi Bồ-tát Tăng-giả Nan-Đà giúp công-chúa Yên-lãng với nữ hiệp Trần-thi Phương-Chi đẩy chất độc, bằng cách giảng kinh, rồi hai vị tự hoá giải lấy. Còn trường hợp Thanh-Mai, chị mê man, làm sao có thể hoá giải chất độc cho nổi?
          Khai-quốc vương chưa có ý kiến gì, thân binh vào báo:
          - Khải tấu vương gia, hai vị thượng khách đã trở về.
          Hai vị thượng khách mà thân binh nói đây tức Phạm Hào, Trần Kiệt. Hai người lên vùng Tản-viên gặp chưởng môn phái này là Đặng Đại-Khê, nay trở về. Lý Long vội chỉnh đốn y phục ra đón. Ra tới cửa, vương thấy hai vị khách cùng Tự-Mai, Tôn Đản đang đứng chờ.
          Trần Kiệt thấy vương vội hỏi:
          - Tại hạ nghe Thanh-Mai bị trúng độc, bệnh thế ra sao?
          Khai-quốc vương rơi nước mắt:
          - Cực kỳ trầm trọng!
          Chị em Tự-Mai mồ côi mẹ sớm, sống với nhau thân thiết, hòa thuận vô cùng. Nó nghe tin chị bị bệnh, không cần ý tứ, lễ phép. Nó chạy vào phòng Thanh-Mai. Thấy chị nằm bất động, nó đưa tay bắt mạch. Vừa để ngón tay vào cườm tay chị, nó vội dụt lại, bật lên tiếng kêu:
          - Ái chà!
          Nó có cảm tưởng như bị người ta ngọam một miếng vào tay. Trần Kiệt hỏi:
          - Cái gì vậy?
          - Thưa chú, tay cháu như bị chặt đứt, đau đớn vô cùng.
          Trần Kiệt cầm tay Thanh-Mai bắt mạch. Ông sẽ để ngón tay vô danh vào bộ vị Thốn, thấy mạch căng như chiếc dây thừng. Ông để ngón giữa vào bộ vị Quan, ngón tay chỏ vào bộ vị Xích. Cả ba bộ vị mạch cùng Hồng đại, nhưng mạch lại không nhảy mau. Ông dồn chân khí vào ba bộ vị của Thanh-Mai. Ông thấy sức phản kích mạnh vô cùng. Ông dồn chận khí sang thực mạnh, bỗng ông cảm thấy bao nhiêu chân khí của ông cuồn cuộn chạy vào người Thanh-Mai. Kinh hoàng ông vội thu liễm lại.
          Đỗ Lệ-Thanh hỏi:
          - Đại hiệp thấy thế nào? Xin đại hiệp giảng chi tiết về phép luyện nội công phái Đông-a, hy vọng tiểu tỳ tìm ra phương giải cứu Trần cô nương.
          Trần Kiệt lắc đầu:
          - Thanh-Mai là con anh cả tôi, nhưng lại do tôi luyện võ cho nó. Có thể nói trong tất cả đệ tử bản môn, nội lực Thanh-Mai khi rời nhà theo Tịnh-Huyền lễ Lệ-hải bà vương vào loại cao nhất, hơn cả Ngô An-Ngữ. Tuy vậy muốn thành đại cao thủ cần phải đến tuổi bốn mươi, hòa hợp được thủy, hỏa mới thành tựu.
          Khai-quốc vương hỏi:
          - Tại hạ nghĩ nội công phái Đông-a vốn xuất từ phái Tiêu-sơn. Mà nội công Tiêu-sơn gốc Thiền công, làm gì có lẽ âm, dương, ngũ hành, mà có thủy hỏa?
          Trần Kiệt xua tay:
          - Đúng, lúc đầu nội công bản phái xuất phát từ Thiền-công Tiêu-sơn. Nhưng các tổ đời sau đã nghiên cứu, chế biến khác đi nhiều. Cho đến nay, võ công Tiêu-sơn vẫn còn giữ nguyên căn bản nhà Phật, song chiêu số sát thủ hơn võ công phái Thiếu-lâm nhiều. Võ công Đông-a, trải qua sáu trăm năm cải biến cũng khác xa với võ công Tiêu-sơn. Còn thủy, hỏa đây, không phải thủy hỏa của Ngũ-hành mà là Tứ-đại, trong kinh Phật.
          Khai-quốc vương tự chửi thầm:
          - Thanh-Mai bị bệnh làm mình lú lẫn. Mình là đệ tử của một vị đại sư đắc đạo, mà không biết đến Tứ-đại thì bậy thực. Hôm trước sư phụ đã giảng cho mình nghe chi tiết kinh Thủ-lăng-nghiêm, mà mình quên khuấy đi.
          Tôn Đản hỏi:
          - Sư huynh, Tứ-đại gồm những gì vậy?
          Khai-quốc vương giảng:
          - Tứ đại gốc từ tiếng Phạn mahâblutas dịch ra. Maha là lớn. Brutas là vật. Tứ đại gồm bốn chất lớn tạo thành vũ trụ và con người tức địa, thủy, hỏa, phong.
          Đỗ Lệ-Thanh tò mò:
          - Vương gia, tiểu tỳ chỉ nghe biết ngũ tạng lục phủ cấu tạo thành con người. Tâm, tiểu trường, tâm bào, tam tiêu, lưỡi, mạch thuộc hỏa. Can đởm, mắt, gân thuộc mộc. Tỳ, vị, miệng, thịt thuộc thổ. Phế, đại trường, mũi, lông, tóc, thuộc kim. Thận, bàng quang, tai, xương, răng thuộc thủy. Tiểu tỳ chưa từng nghe qua lý của Tứ-đại trong kinh Phật.
          Khai-quốc vương đưa mắt ra hiệu cho Mỹ-Linh. Mỹ-Linh đáp thay chú:
          - Điều phu nhân nói, đó thuộc lý Ngũ-hành trong y học, trong nội công của Lĩnh-Nam cổ. Còn Tứ-đại trong Phật giáo khác lắm. Tứ đại bao gồm đất, nước, lửa, gió. Trong con người tóc, răng, móng, da, thịt, gân, xương, thận, tim, gan, bụng, lá lách, phổi, dạ dày, ruột non, ruột già, phân... thuộc đất.
          Tôn Đản nghe Mỹ-Linh nói, nó gật đầu, tỏ ý hiểu:
          - Như vậy tất cả những gì thuộc chất ướt trong người thuộc thủy. Chẳng hạn như đàm, mủ, máu, nước dãi, mước bọt, nước tiểu.
          Trần Kiệt xoa đầu Đản:
          - Cháu nghe ít, mà hiểu nhiều. Thế cháu thử đoán xem, trong người, những gì thuộc hỏa? Thuộc phong?
          Tôn Đản đáp không suy nghĩ:
          - Cái gì làm nóng cơ thể thuộc lửa. Những gì làm ra hơi, như hơi thở, trong bao tử thuộc phong.
          Trần Kiệt khen ngợi Tôn Đản, rồi nói:
          - Đó thuộc Thiền-công nhà Phật, gốc nội công phái Đông-a. Trải sáu trăm năm, phái Đông-a đã nghiên cứu rộng ra hợp với lý Ngũ-hành thành hệ thống mới. Đệ tử phái Đông-a phải hòa hợp được Tứ đại động, tĩnh, phong, lôi, mộc, thổ, hỏa, kim, thủy, hỏa. Thanh-Mai đã hòa hợp được hết, chỉ duy thủy hỏa chưa tới được.
          Ông thở đài:
          - Bản phái cứ bị luẩn quẩn trong cái giới hạn đó mãi. Chưa tìm ra phương pháp cho đệ tử vượt trước bốn mươi tuổi. Không ngờ cái lẽ đó lại nằm trong kinh Thủ lăng nghiêm. Đại sư Huệ-Sinh đã tìm ra lẽ hòa hợp. Trong lần đi Cửu-chân cháu Thanh-Mai thọ lĩnh phép ấy từ người. Nội lực cháu trở thành cao thâm vô cùng. Thế rồi trong thời gian ở Vạn-thảo sơn trang, Hồng-Sơn đại phu dạy cháu về học thuyết Âm-Dương, Kinh-lạc, Tạng-phủ. Cháu luyện phương pháp vận khí bằng kinh mạch. Mười hai chính kinh, Kỳ-kinh bát mạch của cháu đả thông hết. Khi trở về Thiên-trường, cháu đem lý thuyết ra hỏi tôi. Tôi giải thích thêm vài chỗ khúc mắc, thế là cháu phối hợp được tất cả động, tĩnh, phong, lôi, mộc, thổ, hỏa, kim, thủy, hỏa. Cho nên công lực cháu mạnh không kém gì bọn tôi.
          Đỗ Lệ-Thanh nhảy phắt lên:
          - Tiểu tỳ hiểu rồi. Hôm trước Trần đại hiệp có giải thích rằng Thiền-công nhà Phật gồm có bốn loại, gọi là Tứ đại giai không. Khi luyện một loại nào tới chỗ tối cao, cũng kiêm cả bốn loại kia. Thanh cô nương được đại sư Huệ-Sinh chỉ điểm, vượt ra được, trong người như cái hồ trống rỗng. Rồi cô nương lại được Hồng-sơn đại phu dạy cho cách đả thông mười hai chính kinh cùng Kỳ-kinh bát mạch. Vì vậy khi cô nương chạm vào người Đoàn Huy. Trong người y đầy dẫy nội tức Vô-thọ giả tướng. Nội tức Trần cô nương như biển cả. Nội tức Đoàn Huy như nước sông. Thành ra bao nhiêu nội tức của y bị Trần cô nương thu hết, thu cả chất độc trong người y.
          Trần Kiệt hỏi:
          - Cái gì? Đoàn Huy cũng tới Thăng-long sao?
          Bảo-Hòa tường thuật tỷ mỷ mọi diễn biến trong vụ Thanh-Mai bị trúng độc một lượt. Trần Kiệt nghe xong, ông cau mày:
          - Như vậy Thanh-Mai nguy kịch lắm rồi. Hiện nay trong người nó đang hóa giải chất độc. Nếu sức chống trả mạnh hơn độc chất, nó thoát nạn. Còn ngược lại nó sẽ mê man mấy năm không chừng. Nội lực Thanh-Mai hiện gồm nội lực Đoàn Huy với của nó. Nội lực hai chúng tôi không đủ sức đẩy hết chất độc trong người nó ra ngoài. Muốn đẩy hết nội lực nó khỏi cơ thể, e phải năm anh em chúng tôi. Thôi được, tôi đem Thanh-Mai về Thiên-trường trị bệnh.
          Khai-quốc vương gật đầu:
          - Tiểu bối xin được cùng đi với sư muội Thanh-Mai.
          Mỹ-Linh nước mắt đầm đìa:
          - Chú hai ơi, hiện nay bọn Tống đang trên đường về Thăng-long, mưu ép triều đình bỏ quốc hiệu Thuận-thiên bỏ quốc danh Đại-Việt. Sự thể cực kỳ trầm trọng. Ông nội đạo đức có dư, nhưng cháu e không đủ sức đối phó với bọn Triệu Thành. Việc sư tỷ Thanh-Mai, sống hay chết đành phó thác cho số mệnh. Chú hai không thể để vận mệnh đất nước cho bọn Tống muốn làm gì thì làm.
          Trần Kiệt cũng nói:
          - Vương gia, dù Thanh-Mai có chết, cũng còn nhiều Thanh-Mai khác. Song quốc thể không nên để mất. Vương gia cứ để chúng tôi đem Thanh-Mai đi. Bằng vào lẽ nhân quả, Thanh-Mai không thể chết được. Nếu Thanh-Mai chết, cũng chết vì đại cuộc thống nhất tộc Việt. Phái Đông-a chúng tôi cực kỳ hãnh diện.
          Khai-quốc vương thở dài:
          - Đành vậy thôi. Sau khi bọn Tống đi rồi, tại hạ sẽ đến Thiên-trường bái kiến các vị sau.
          Phạm Hào mỉm cười:
          - Hẳn như vậy. Anh em tại hạ xin chờ vương gia.
          Mỹ-Linh đề nghị:
          - Cháu nghĩ, sắp đến ngày giỗ Bắc-bình vương Đào Kỳ, thế nào các vị đại hiệp Thiên-trường cũng về. Như vậy không cần đem sư tỷ Thanh-Mai đi. Cứ để chị ấy ở đây tốt hơn.
          Bảo-Hòa bảo Thiệu-Thái:
          - Vừa rồi anh Thiệu-Thái để tay vào huyệt Nội-quan chị Thanh-Mai, hút ra một ít chất độc. Vậy bây giờ ta thử làm lại. Tuy không hút chất độc khỏi tạng phủ, chỉ cần hút khỏi kinh mạch, biết đâu chị Thanh-Mai không tỉnh dậy, hoặc bệnh nhẹ đi, chờ Hồng-sơn đại phu trị cho.
          Đỗ Lệ-Thanh nói với Thiệu-Thái:
          - Thế tử thử làm xem, biết đâu chúng ta chẳng gặp may.
          Thiệu-Thái ngồi xuống, chàng nhắm mắt vận khí, rồi áp bàn tay vào bàn tay Thanh-Mai. Chàng dùng tâm pháp Đỗ Lệ-Thanh dạy, hút chất độc. Chàng cảm thấy bàn tay mình tê dại đi. Từ bàn tay Thanh-Mai có hai luồng nội lực cực kỳ hùng mạnh kháng cự lại sức hút của chàng. Chàng biết đó là độc chất cùng nội lực Thanh-Mai thay nhau chống với Thiền-công, cùng Chu-sa độc chưởng. Ước khoảng ăn xong bữa cơm, trong người Thanh-Mai thêm luồng nội lực thứ ba chống lại với Thiền-công của chàng, rồi chàng cảm thấy hai bàn tay đau, rát vô cùng. Chịu không nổi chàng bật lên tiếng kêu:
          - Ái chà.
          Rồi dụt tay lại. Lệ-Thanh hỏi:
          - Cái gì vậy?
          - Lúc đầu tôi thấy có hai luồng nội lực chống trả, lát sau thành ba. Độc chất không chịu cho tôi hóa giải, mà truyền vào tay tôi..
          Hai bàn tay Thiệu-Thái sưng vù. Lệ-Thanh nói:
          - Thế tử mau tọa công, rồi vận khí ra chống trả.
          Thiệu-Thái áp dụng tâm pháp Đỗ Lệ-Thanh dậy, chàng vận khí tự hóa giải chất độc, cảm giác đau nhức như bị thiêu đốt từ từ biến mất. Nhưng hai bàn tay chàng vẫn sưng vù.
          Đỗ Lệ-Thanh nhìn tay Thiệu-Thái, lắc đầu::
          - Thế tử thử vận khí phát chưởng thử xem, chưởng có ra không?
          Thiệu-Thái ra sân, chàng vận khí phát một Chu-sa chưởng, nhưng chưởng không ra. Trần-Kiệt bảo:
          - Thế tử vận khí vào đơn điền, rồi đưa lên thượng tiêu, phát chưởng.
          Thiệu-Thái làm theo, quả nhiên chưởng phát ra cực kỳ mãnh liệt, bùng một tiếng, sân bằng đất khô cứng như vậy, mà sụt xuống thành một cái hố sâu đến một gang tay. Trong chưởng có mùi thơm ngào ngạt của năm thứ hoa. Hai bàn tay Thiệu-Thái bớt sưng liền.
          Bảo-Hòa hỏi Trần Kiệt:
          - Như thế nghĩa là gì?
          Trần Kiệt giải thích:
          - Chân khí của Thiệu-Thái do Thiền-công tạo thành. Khi y luyện Chu-sa độc chưởng, giữa độc chất với Thiền-công không hợp với nhau được. Y dùng tâm pháp của Hồng-thiết giáo vận Thiền-công, nên Thiền-công không phát ra. Tuy vậy y cũng hoá giải được độc chất trong người Thanh-Mai. Tại đơn điền Thanh-Mai có ba thứ nội tức. Một là nội tức phái Đông-a, hai là nội tức của Tiêu-sơn do Huệ-Sinh truyền dạỵ. Ba là nội tức của Đoàn Huy. Ba thứ luân phiên chống trả. Thiền-công chỉ hoá giải được nội tức Đông-a, Tiêu-sơn. Còn nội tức Đoàn Huy e vô hiệu. Vì vậy nội tức đó mới truyền chất độc vào người y.
          Ông chỉ xuống hố sâu nói:
          - Y áp dụng tâm pháp Hồng-thiết phát chưởng, chưởng không ra. Tôi dạy y phát chưởng Đông-a, chưởng ra, chất độc theo đó cũng thoát đi.
          Bảo-Hòa mừng quá:
          - Bây giờ tuy chưa tìm ra biện pháp trị tuyệt bệnh cho chị Thanh-Mai. Anh Thái tạm áp dụng biện pháp vừa rồi, hút bớt chất độc ra. Chất độc giảm, biết đâu không dần dần khỏi hẳn?
          Đến đó có một thái giám phi ngựa tới. Y nhảy xuống đất kính cẩn hành lễ trước Khai-quốc vương:
          - Khải tấu vương gia, Hoàng-thượng ban chỉ thỉnh vương gia.
          Khai-quốc vương bái từ anh em Trần Kiệt. Vương vọt mình lên ngựa đi liền. Đến điện Càn-nguyên, vương xuống ngựa, vào trong. Thuận-thiên hoàng đế, cùng các thân vương, thượng thư đang ngồi chờ. Thuận-thiên hoàng đế hỏi:
          - Bệnh tình Trần tiểu thư ra sao?
          Khai-quốc vương lắc đầu:
          - E khó qua khỏi. Đại hiệp Trần Kiệt, Phạm Hào muốn đem về Thiên-trường để Thiên-trường ngũ kiệt dùng thần công đẩy chất độc ra.
          Chỗ triều đình đông người, vương không muốn tường thuật cuộc mò mẫm chữa bệnh của Thiệu-Thái.
          Thuận-thiên hoàng đế bảo Khai-quốc vương:
          - Vương nhi! Ta cho thiết triều bất thường, vì Bình-Nam vương triều Tống vừa tới kinh thành. Vậy vương nhi hãy trần thuật tất cả những biến cố vừa qua tại Cửu-chân cho triều đình nắm vững tình hình.
          Khai-quốc vương tóm lược mọi biến cố, nhưng vương dấu không thuật vụ anh em Đàm Toái-Trạng làm gian tế cho giặc, cũng như Nguyên-Hạnh là người của Khu-mật viện nhà Tống gửi sang Đại-Việt trường kỳ mai phục. Vương chỉ thuật tới chỗ phái Đông-a nhận lễ, rồi từ chối đề nghị của sứ đoàn nhà Tống. Vương lờ vụ Dực-thánh vương theo Tống.
          Thuận-thiên hoàng đế nói với triều thần:
          - Từ trước đến nay, phái Đông-a vẫn không trợ giúp triều đình. Từ lẽ đó, người ta phao vu phái này kình chống trẫm. Sự thực nay đã rõ trắng đen. Phái Đông-a chỉ không hợp tác với trẫm, do một vài hiểu lầm. Nhưng phái này vẫn một lòng với xã tắc, đó là điều trẫm mong muốn rồi. Dù trẫm làm vua, hay ai làm vua cũng được, miễn mọi con dân Đại-Việt đều nhất tâm giữ nước cũng đủ.
          Vua bà Bắc-biên hỏi:
          - Như vậy trong nước Việt mình hiện có bằng này vấn đề phải đối phó. Một, bọn sứ đoàn Tống đang đi mua chuộc, đe dọa võ lâm. Hai, Lê Long-Mang với thế lực vô cùng to lớn của phái Sài-sơn, định nổi dậy bên trong. Ba, bọn Chiêm-thành phía Nam, mưu đánh chiếm vùng Nam-biên. Bốn, Lão-qua đang chuẩn bị đánh vào phía Tây. Năm, bọn họ Nùng muốn nổi dậy ở Bắc-biên. Chúng ta phải đối phó cách nào?
          Vũ-đức vương nói:
          - Tất cả năm vấn đề đều đo bọn Tống gây ra. Con dun đạp lắm cái đầu cũng phải quằn. Khi Lê Hoàn mới cầm vận nước, võ lâm không thuận, triều đình thiếu người tài, mà Lê còn dám cầm gươm đánh Tống. Nay chúng ta có triều đình mạnh, nhân tài đông, lương thực dư thừa. Tốt hơn hết chúng ta trước diệt bọn sứ đoàn. Sau đó bất thần tung quân diệt Chiêm, Lào. Nội bộ, làm cỏ lực lượng Lê Long-Mang. Bấy giờ Tống kinh hoàng, không dám dòm ngó đất nước mình nữa.
          Phò mã Đào Cam-Mộc xua tay, tỏ ý không thuận:
          - Giết sứ đoàn, bất cứ ai cũng có thể làm. Từ tiền cổ đến nay, trong bang giao sử Việt-Hoa, chưa bao giờ xẩy ra truyện này cả. Hiện nhà Tống được cai trị bởi những Nho thần, chẻ sợi tóc làm tư. Miệng luôn nói nhân, nghĩa. Người chủ trương gây chiến e không quá hai, trong một trăm. Triều đình do đó thiếu quyết tâm Nam chinh. Nếu bây giờ ta giết chết sứ đoàn của họ. Máu tự ái nổi lên. Trăm người như một, họ có cớ dốc binh nghiêng nước đánh ta. Ta không chống nổi.
          Ông ngưng một lúc, tiếp:
          - Vả lại, chúng ta có hàng nghìn phương thức đối phó với Tống. Cần tìm phương thức nào đỡ tốn máu nhất vẫn hơn. Về việc Chiêm với Lào, thần nhi ở gần biên cương mấy năm qua, thần nhi biết rất rõ. Dân chúng Chiêm, Lào đều sợ người Hoa, không ưa Tống. Họ vẫn nghĩ họ là người Việt. Biên cương phân ra Việt, Lào, Chiêm chẳng qua như phân giới huyện mà thôi. Quốc vương hai nước đó đều hướng về triều đình. Bọn Triệu Thành sang, dụ dỗ, đe dọa, nhưng vô ích. Dường như chúng thay đổi kế sách, bằng cách xui quần thần giết chúa, sẽ được chúng phong chức tước. Sau đó chúng sai bọn gian thần đem quân đánh phía sau ta. Điều này Khai-quốc vương hẳn biết rõ hơn.
          Thuận-thiên hoàng đế hỏi Dực-thánh vương:
          - Hoàng đệ, sứ đoàn tới Thăng-long vào lúc nào?
          Dực-thánh vương tâu:
          - Thần được hoàng-huynh ban chỉ tiếp đón sứ đoàn, nên sáng hôm qua đã ra cửa Tường-phù đón tiếp. Sứ đoàn từ Chiêm-thành về bằng đường thủy. Thần mời sứ đoàn vào ngụ ở cung Nghênh-xuân. Thần cử thái giám, thị nữ, cùng mã phu hầu hạ cực kỳ chu đáo. Thần mời chánh sứ sáng mai sẽ vào triều kiến hoàng huynh ở điện Cao-Minh. Nhưng chánh sứ Bình-nam vương nói rằng, chức tước của vương cao hơn Nam-bình vương, nên y đòi hoàng huynh phải thân ra đón.
          Thuận-thiên hoàng đế gật đầu:
          - Dù sao, trẫm nhận sắc phong của triều Tống, mong họ để cho nước mình yên. Triều Tống phong cho trẫm làm Nam-bình vương của quận Giao-chỉ. Chức tước này nhỏ hơn chức Phụ quốc thái úy của Triệu Thành nhiều. Lại nữa, dù chánh sứ không phải là Thành, là Vương Duy-Chính chăng nữa, khi mang sứ mệnh của vua Tống, trẫm vẫn phải thân ra đón tiếp.
          Dực-thánh vương tiếp:
          - Bình-nam vương nói rằng: Hoàng huynh lạm xưng đế hiệu Thuận-thiên, quốc hiệu Đại-Việt, như vậy nghịch thiên triều. Ý Bình-nam vương muốn hoàng huynh phải triệt bỏ cả hai.
          Thuận-thiên hoàng đế hỏi:
          - Các khanh nghĩ sao?
          Phò mã Đào Cam-Mộc đứng dậy nói:
          - Kể từ khi vua Đinh thống nhất sơn hà, lấy quốc hiệu Đại-cồ Việt,thành lập triều đình riêng một góc trời. Họ Lê kế tục, người Tống mượn cớ đó đem quân sang đánh. Họ Lê được sĩ dân thiên hạ cùng đứng lên giúp sức, diệt bọn Hầu Nhân-Bảo, Lưu Trừng. Do đó người Tống để cho được yên. Bây giờ họ lại kiếm cớ khác. Họ thấy bản triều được lòng dân. Họ chưa dám đánh. Họ cần làm một cái gì, để cho bản triều mất hậu thuẫn của dân chúng. Sau đó họ mới đem quân sang. Bằng nay triều đình bỏ quốc hiệu Đại-Việt, chắc chắn sĩ dân thiên hạ sẽ khinh khiến, đem so sánh với họ Lê. Bấy giờ Lê Long-Mang khởi binh, lấy cớ triều đình hèn yếu. Sĩ dân Đại-Việt chia hai đánh nhau. Dù bên nào thắng chăng nữa, tinh lực kiệt quệ. Bấy giờ Tống mang quân sang đánh. Ta lại bị mất nước.
          Ông ngừng một lúc, tiếp:
          - Cho nên, dù bọn Triệu Thành đòi hỏi triều đình bỏ quốc hiệu, niên hiệu, chúng ta nhất định không lùi. Lùi tức là mắc mưu chúng.
          Khai-thiên vương hỏi:
          - Vậy chúng ta phải làm thế nào?
          Khai-quốc vương cười nhạt, tâu:
          - Việc này không còn thu gọn trong họ Lý nhà ta nữa, mà của võ lâm Đại-Việt. Cũng không phải của võ lâm Đại-Việt mà của toàn thể người Việt. Thần nhi nghĩ chẳng còn bao lâu nữa tới rằm tháng tám, đúng ngày giỗ Bắc-bình vương Đào Kỳ. Anh hùng thiên hạ đều tụ tập về Thăng-long. Chúng ta hãy đem việc này cáo với các đại tôn sư. Các đại tôn sư sẽ đối phó với bọn Tống.
          Dực-thánh vương nhăn mặt:
          - Các đại tôn sư võ lâm tụ hội về Thăng-long kỳ này lành ít, dữ nhiều cho họ Lý nhà mình. Giả như họ đồng quyết định trả ngôi vua về cho họ Lê, bấy giờ chúng ta sẽ ra sao? Khi ngôi vua về họ Lê. Lê Long-Mang, đương nhiên họ phải giết tuyệt giòng họ Lý để phòng hậu hoạn. Thần nghĩ, mình nên phục mấy đạo quân, trong lúc họ họp. Nếu họ để cho họ Lý tồn tại, ta im lặng. Nhược bằng họ muốn hại họ Lý, ta tung quân vào, bắt tất cả, đem giết đi là hơn cả.
          Khai-quốc vương lắc đầu:
          - Không thể, và không nên làm như vậy. Một là các đại tôn sư bị chúng ta giết chết, nhưng đệ tử, môn phái của họ còn. Tất cả họ sẽ đứng lên làm phản, chống triều đình. Bấy giờ bọn Tống kéo sang, ta chống sao nổi? Trước hết chúng ta làm cách nào duy trì được đoàn kết dân tộc thì tốt nhất. Bằng không, trong hai cái trọng đại gồm ngôi vua họ Lý và Đại-Việt, chúng ta cần phải hy sinh một. Ta hy sinh họ Lý.
          Dực-thánh vương gắt:
          - Ý người muốn để hoàng thượng cùng chúng ta đưa cổ cho Lê Long-Mang chặt đầu hay sao? Người hiện cầm quyền nghiêng nước, mà người không có kế hoạch gì chu toàn đã là điều không xứng đáng. Bây giờ nguy cơ đến trong sớm tối, người buông lỏng à?
          Khai-quốc vương nghĩ thầm:
          - Ông chú này âm mưu đi đêm với bọn Tống, mưu chiếm ngai vàng. Ông ta biết rằng khi ông ta ló đầu tạo phản, võ lâm không tha thứ cho ông. Vì vậy ông muốn diệt võ lâm trước, rồi khi ông tạo phản thì không sợ gì nữa. Ta sợ khi ông lên ngôi vua rồi, ắt bỏ quốc hiệu, niên hiệu, thần phục bọn Tống. Không chừng khi Tống mang quân đến biên giới, ông ta đã đầu hàng rồi cũng nên.
          Vương đưa mắt cho Thuận-thiên hoàng đế, rồi nói với Dực-thánh vương:
          - Thúc phụ đừng lo, thần nhi khắc có biện pháp đối phó.
          Dực-thánh vương hỏi dồn:
          - Biện pháp gì? Biện pháp tự tử ư?
          - Thúc phụ! Thúc phụ hãy để yên cho thần nhi giải quyết. Ở đây tai vách, mạch rừng. Kế hoạch không thể đem bàn được. Biết đâu không có gian tế Tống trong triều? Ngay trong nhà ta nào chắc không có bọn gian tế Tống?
          Dực-thánh vương nghe nói chột dạ, đành im lặng.
          Thuận-thiên hoàng đế đứng dậy:
          - Bãi triều. Ai về phủ ấy. Tất cả phải đề phòng. Vì sứ đoàn sang chuyến này toàn cao đại cao thủ võ lâm. Riêng Khai-quốc vương hộ giá trẫm thăm bệnh tình Trần cô nương. Trẫm quyết định nều cần hy sinh họ Lý, chúng ta hy sinh, để Đại-việt còn.
          Ngài lên xe, Khai-quốc vương cỡi ngựa theo hầu bên cạnh, hướng về phủ đệ. Vương tâu:
          - Tâu phụ hoàng, tại phủ đệ của thần nhi, hiện có hai vị khách, thần nhi e phụ hoàng trông thấy ắt nổi lôi đình.
          - Ai thế?
          - Tâu phụ hoàng đó là hai trong Thiên-trường ngũ kiệt.
          Thuận-thiên hoàng đế mỉm cười:
          - Con quên mất ta xuất thân đệ tử của bồ tát Vạn-Hạnh ư? Cái gì hôm nay có, ngày mai thành không. Lẽ vô thường trong đạo Phật con quên sao? Một năm trước đây, khi thần nhi chưa về nhiếp chính, ta bị các quan coi Khu-mật viện tâu hằng ngày về phái Đông-a. Nào là phản nghịch, nào kiêu căng, nào chống đối quan địa phương. Vì vậy cho nên ta mới không ưa phái Đông-a. Nay chỉ nguyên thấy tư thái Thanh-Mai, ta cũng hiểu được phần nào nội bộ phái này rồi.
          Ngài ngừng một lúc, tiếp:
          - Ta sẽ dùng lễ võ lâm tiếp hai vị ấy.
          Xe sắp đến cổng phủ, viên võ quan theo hầu hô lớn:
          - Đệ tử phái Tiêu-sơn tên Lý Công-Uẩn, xin được tiếp kiến nhị vị đại hiệp phái Đông-a.
          Hai anh em Phạm Hào, Trần Kiệt từ trong chạy ra, hành lễ theo qui cách võ lâm, hai tay chắp vào nhau:
          - Phạm Hào, Trần Kiệt xin tham kiến Lý đại hiệp phái Tiêu-sơn.
          Thuận-thiên hoàng đế xuống xe, nắm tay Trần Kiệt:
          - Hà, không ngờ hôm nay tại hạ được diện kiến cái túi khôn của Đại-Việt. Trần ngũ gia, thế nào bệnh tình cháu Thanh-Mai ra sao?
          Trần Kiệt lắc đầu:
          - E khó qua khỏi. Tuy nhiên bệnh tình có chiều thuyên giảm. Thiệu-Thái hút chất độc trong người cháu Mai ra, cũng có kết quả.
          Khai-quốc vương thỉnh Thuận-thiên hòang đế ngồi vào chủ vị tiếp khách. Còn vương ngồi dưới Phạm Hào, Trần Kiệt.
          Thuận-thiên hoàng đế nói:
          - Trước khi cháu Thanh-Mai bị nạn, cứ như lời cháu nói với Đoàn Huy, cháu có thể trị được bệnh cho y. Cháu là đệ tử của Hồng-Sơn đại phu, mà cháu biết trị, đại phu hẳn trị bệnh cho cháu được. Hai vị khẩn đưa cháu tới Vạn-thảo sơn trang cầu với đại phu, hy vọng cháu thoát nạn.
          Phạm Hào gật đầu:
          - Thế thì không đáng lo ngại. Chỉ còn mấy hôm nữa, đến ngày giỗ Bắc-bình vương Đào Kỳ, Hồng-Sơn đại phu ắt về Thăng-long. Bấy giờ chúng ta cầu người ra tay. Vả Hồng-Sơn đại phu tính tình có chỗ kỳ cục, nhưng người thương yêu đệ tử như thương yêu con trong nhà. Thanh-Mai có hy vọng sống.
          Trần Kiệt nhìn sắc diện Thuận-thiên hoàng đế, ông hỏi:
          - Lý đại hiệp, tại hạ hỏi một câu hơi đường đột. Đại hiệp hiện làm vua, ngồi trên ngai vàng ban phúc, giáng họa cho trăm họ. Tại sao Lý huynh lại tỏ vẻ đăm chiêu lo lắng thế kia?
          Thuận-thiên hoàng đế mỉm cười:
          - Trần ngũ hiệp tưởng tại hạ cũng giống như vua Lê ngọa triều hẳn? Tại hạ sinh vào gia đình nghèo khó, được nghĩa phụ nuôi dưỡng trong chùa Tiêu-sơn, lại được ân sư truyền nghiệp. Khi vua Lê Ngọa-triều băng, sư phụ truyền cho tại hạ giữ lấy quyền quốc thể, đem đạo lý đức Thế-tôn cai trị đất nước, sao cho dân chúng được ấm no. Từ ngày ấy đến giờ, đêm quên ngủ, ngày quên ăn, tại hạ đem lại cho dân chúng một đời sống thanh nhàn. Tuy vậy, tại hạ cũng không giám quên lề lối võ lâm.
          Lý Long tiếp lời phụ hoàng:
          - Tâu phụ hoàng, hôm trước Trần ngũ gia đã ghé thăm thần nhi, ban cho nhiều lời dạy dỗ thực quí báu hơn vàng.
          Rồi vương thuật lại buổi hội ngộ đầu tiên giữa vương với anh em Trần Kiệt, hôm họ tới Thăng-long. Thuận-thiên hoàng đế chỉ Lý Long:
          - Đây, đứa con thứ nhì của tại hạ. Trong chuyến đi Cửu-chân, nó đã kết huynh muội với Thanh-Mai, Tự-Mai. Mong hai vị coi nó như Thanh-Mai, mà dạy dỗ cho những điều hay.
          Phạm Hào vốn ít nói, bây giờ ông mới lên tiếng:
          - Phàm đã là anh hùng, phải lấy lòng đãi nhau. Có gì khó khăn, thố lộ cho nhau cùng nghe. Cách đây ít lâu, sứ đoàn nhà Tống đến Thiên-trường găp anh em tại hạ. Họ đưa ý kiến rằng vua Tống định cử binh sang hỏi tội họ Lý về việc cướp ngôi nhà Lê. Nhưng Bình-Nam vương Triệu Thành can gián không nên động binh. Y xin đi sứ, tìm con cháu nhà Lê, rồi bắt Lý huynh thoái vị, trả lại ngôi cho con cháu di thần. Triều Tống muốn tỏ ra họ Thiên-tử, muốn hưng diệt, kế tuyệt. Họ tìm được Hồng-Sơn đại phu, chính là Lê Long-Mang, con của Lê Hòan. Họ yêu cầu anh em tại hạ, trước đây thuộc chỗ cố tri Long-Mang. Rồi sư phụ tại hạ với Lê Hoàn có tình giao hảo... anh em tại hạ đứng lên giúp Long-Mang đòi lại ngôi vua. Đại sư huynh chúng tôi cho người điều tra, quả đúng Hồng-sơn đại phu tức Lê Long mang. Người phát thư mời Đại-Việt ngũ long, cùng các đại tôn sư võ phái về Thăng-long họp, nhân ngày giỗ Bắc-bình vương để bàn việc này.
          Thuận-thiên hoàng đế thản nhiên mỉm cười:
          - Ý Triệu Thành muốn nói rằng: Nếu Đại-Việt ngũ long ép tại hạ thoái vị. Tống để Đại-Việt yên. Còn như tại hạ tại vị, Tống mang quân sang đánh. Có phải thế không?
          Trần Kiệt gật đầu:
          - Đúng. Hôm trước Triệu Thành tới tệ trang trình bầy như vậy. Y yêu cầu phải Đông-a đứng ra chủ trì công đạo vụ này. Đại huynh tôi chưa quyết định gì cả. Người đích thân đi Vạn-thảo sơn trang điều tra xem có đúng Hồng-Sơn đại phu là Lê Long-Mang không? Người sai anh em tôi đi Tản-viên hỏi ý kiến chưởng môn Đặng Đại-Khê. Sau đó mới có quyết định.
          Khai-quốc vương hỏi:
          - Thế Đặng chưởng môn quyết định sao?
          - Đặng im lặng. Đặng bảo sau khi hội ý với các vị tôn trưởng trong phái, rồi sẽ phát biểu ý kiến vào ngày giỗ Bắc-bình vương.
          Phạm Hào tiếp:
          - Trong khi chúng tôi ở Tản-viên, bọn Triệu Thành dùng lễ vật tới thăm. Song tôi không rõ sứ đoàn đã nói gì, và phái Tản-viên phản ứng ra sao.
          Có tiếng nói đâu đó vọng lại:
          - Phái Tản-viên nhận lễ, hứa sẽ trả lời sau một tháng.
          Khai-quốc vương đứng dậy:
          - Nùng đạo trưởng.
          Vương ra ngoài, đã thấy Nùng-sơn tử cùng với sư phụ Huệ-Sinh vào trong phủ. Hai bên hành lễ với nhau. Huệ-Sinh nhìn Thuận-thiên hoàng đế, rồi cười:
          - Sư đệ, có truyện chi mà sắc mặt đăm chiêu thế kia? Sư đệ quên mất rằng sư phụ từng dậy Chúng ta sinh ra vốn trần truồng. Dù thế nào chăng nữa, ta chết trần truồng là cùng chứ gì?.
          Thuận-thiên hoàng đế chắp tay:
          - Đạo hạnh tiểu đệ thua nhị sư huynh xa. Đa tạ sư huynh nhắc nhở.
          Nùng-Sơn tử hỏi Trần Kiệt:
          - Hai vị đã gặp đại sư huynh của chúng tôi rồi phải không? Đại sư huynh chúng tôi có cái tật, bất cứ truyện gì cũng thủng thẳng giải quyết. Cho nên việc quí vị thỉnh ý kiến, người không trả lời ngay. Bọn Tống đem lễ vật tới, người cũng tiếp theo lễ võ lâm, rồi hứa lơ mơ. Mãi hôm qua người mới họp chúng tôi, bàn về việc Tống muốn Lý trả ngôi vua cho Lê. Chúng tôi đã quyết định xong. Ngày rằm này, sư huynh tôi sẽ phát biểu ý kiến. Sở dĩ tại hạ chưa thể công bố quyết định, vì trong bản phái đang có nhiều tranh chấp.
          Trần Kiệt ngạc nhiên :
          - Quý phái cũng có tranh chấp sao? Không lẽ lại Đỗ Xích-Thập?
          Nùng-Sơn tử than:
          - Đúng thế.
          Trước đây Bảo-Hòa được Đặng Đại-Khê sủng ái cùng cực. Ông dạy cho nàng mười hai chiêu Phục-ngưu thần chưởng. Nay nàng nghe ông đang có sự, thì quên cả địa vị nhỏ bé của mình trước ông ngoại, cậu hai. Nàng hỏi Nùng-Sơn tử:
          - Nùng đạo trưởng. Sư bá Đại-Khê của cháu có truyện không vui sao? Đỗ Xích-Thập là ai vậy?
          Nùng-Sơn tử thở dài:
          - Truyện này xẩy ra cách đây hơn ba mươi năm. Hồi ấy, sư phụ bần đạo lâm trọng bệnh, nghĩ khó qua khỏi. Người phân vân không biết chỉ định ai thay thế.
          Bảo-Hòa lắc đầu:
          - Khi sư phụ qua đời, đương nhiên đại đệ tử thay thế mới đúng đạo lý.
          - Lẽ thông thường thì vậy. Nhưng bấy giờ đại sư huynh bần đạo tuổi mới hai mươi lăm, võ công không đủ lãnh đạo môn phái. Sư phụ bần đạo triệu tập các vị trưởng thượng, cùng để tử. Yêu cầu mọi người bầu người kế tục. Ai cũng tưởng sư thúc bần đạo tên Đỗ Xích-Thập võ công cao cường, đạo đức nức tiếng sẽ được trúng cử. Nào ngờ, vào giữa lúc sắp khai diễn cuộc bầu, thì người bị bệnh.
          Bảo-Hòa ngạc nhiên:
          - Bị bệnh thì bị bệnh, cũng vẫn làm chưởng môn được chứ?
          - Quận chúa không biết đấy thôi. Người bị lên cơn vì... Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng. Trong bản phái phanh ra vụ người âm thầm nhập Hồng-thiết giáo. Hơn nữa người giữ chức trưởng lão trong hội đồng giáo vụ Trung-ương. Lập tức người bị đuổi ra khỏi bản phái. Sư huynh bần đạo được cử làm chưởng môn.
          Mỹ-Linh tỏ vẻ hiểu biết:
          - Bây giờ sắp đến ngày giỗ Bắc-bình vương Đào Kỳ. Trong ngày giỗ, các đại tôn sư sẽ quyết định về việc ủng Lê, ủng Lý. Đỗ tiền bối xuất hiện đòi làm tôn sư. Có phải thế không?
          __ Đúng vậy. Cho nên đại sư huynh bần đạo chưa dám công bố quyết định vì lý do ấy. Trong ngày giỗ, thế nào Đỗ sư thúc cũng xuất hiện, gây rối chứ người không chịu để yên đâu.
          Huệ-Sinh chỉ vào phòng Thanh-Mai:
          - Bần tăng nghe Thanh-Mai bị trúng độc, vội trở về xem có làm gì được không?
          Ông vào phòng, cầm mạch Thanh-Mai, rồi hỏi Tự-Mai:
          - Trước đây sư thái Tịnh-Huyền đã dạy cho Thanh-Mai với cháu những kinh gì?
          Tự-Mai kính cẩn:
          - Sư phụ giảng cho chúng cháu bộ kinh Lăng-già, Kim-cương, Tượng-đầu tinh xá, và Bát-nhã.
          Mỹ-Linh thấy sư phụ trở về, lòng nàng đang nặng trĩu lo bệnh tình Thanh-Mai, tự nhiên nhẹ hẳn đi. Nàng trình bầy tất cả mọi biến chuyển từ khi Thanh-Mai trị bệnh cho Đoàn Huy, y luận của Đỗ Lệ-Thanh, Trần Kiệt, cho đến việc Thiệu-Thái hút chất độc.
          Huệ-Sinh không nói gì. Ông mở bọc, lấy ra cuốn trục bằng lụa, đem treo lên tường. Đó là bức hình vẽ Phật Thích-Ca ngồi dưới gốc bồ đề. ông bảo Thiệu-Thái:
          - Thí chủ hãy ngồi Kiết-già, quay mặt vào bức tranh này. Hai tay nắm lấy tay Thanh-Mai. Ngón tay chỏ để vào huyệt Nội-quan nàng. Nếu thấy có triệu chứng gì lạ như đau, nóng cũng đừng buông ra.
          Thiệu-Thái vâng lời, làm theo. Huệ-Sinh nói với mọi người:
          - Sư thúc Sùng-Phạm chỉ tìm người có đức để ban một trăm năm công lực. Vì vậy người truyền cho Thiệu-Thái. Thiệu-Thái chưa qui y, cũng chưa tập Thiền. Về kinh điển có lẽ chỉ biết câu Nam-mô A-di-đà Phật. Thành ra y giống như đứa trẻ có một kho tàng, mà không biết xử dụng. Bây giờ bần tăng thử dạy y cách vận Thiền-công, may ra y có thể cứu được Thanh-Mai.
          Luật lệ võ lâm hồi đó, khi sư phụ, hoặc người trưởng thượng dạy võ công cho đệ tử, nếu người ngòai tò mò vào, coi như là một hành vi không tha thứ. Vì vậy mọi người rời khỏi phòng Thanh-Mai.
          Huệ-Sinh bảo Mỹ-Linh:
          - Con ngồi canh ngoài cửa phòng, bất cứ trường hợp nào cũng không được cho ai vào, bằng không tính mệnh Thiệu-Thái, Thanh-Mai với sư phụ e khó toàn.
          Ông đóng cửa lại, nói với Thiệu-Thái:
          - Bần tăng dạy thí chủ cách vận Thiền-công. Thiền-công nhà Phật đặt trên căn bản kinh Kim-cương, Lăng-già và Bát-nhã. Ba kinh tuy khác nhau, nhưng cùng thu về một mối là đi đến chỗ nhập đạo tức Vô thượng chính đẳng chính giác. Trong ba kinh, bần tăng giảng cho thí chủ kinh Bát-nhã trước.
          Thiệu-Thái đã nghe Mỹ-Linh đọc kinh Bát-nhã nhiều lần, riết rồi thuộc làu. Chàng nói:
          - Bạch đại sư, suốt mấy tháng nay, sáng, chiều đệ tử đều nghe Mỹ-Linh đọc kinh. Sau khi dứt kinh, đọc một lần kinh Bát-nhã. Vì vậy đệ tử thuộc lòng.
          - Thế thí chủ có hiểu ý nghĩa kinh này ra sao không?
          - Đệ tử không hiểu, chỉ đọc như con vẹt học nói mà thôi.
          - Bát-nhã không phải tiếng Hán-Việt, mà do tiếng Phạn phiên âm ra. Bát nhã là cái tâm trí thoát ra ngòai cái tham, sân, si, dứt các mối lầm, tự mình thông đạt, soi sáng.
          Thiệu-Thái có trong người Thiền-công của bồ-tát Sùng-Phạm, vì vậy chàng nghe Huệ-Sinh nói, hiểu liền. Huệ-Sinh tiếp:
          - Ba-la-mật có nghĩa vượt qua bờ bên kia, tới Niết-bàn, và giúp đưa người ta cùng tới. Ấy là nền tảng đại đức, đại hạnh, cao nhất của trí tuệ, quyết tới bờ giác, tức thành Phật và độ người đắc quả như mình. Có sáu đại đức, đại hạnh, gọi mang tên Lục-độ.
          Trí nhớ của Thiệu-Thái trở lại với hôm ở trong Hồng-hương cốc, bồ tát Sùng-Phạm bảo chàng phải dùng Thiền-công của ngài để đi vào Lục-độ, đó là: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tiến, Thiền-định, Trí huệ. Chàng chỉ hiểu lờ mờ. Hôm nay Huệ-Sinh giảng, chàng mới thực sự hiểu rõ, nó nằm trong yếu chỉ Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
          Huệ-Sinh tiếp:
          - Kinh Bát-nhã Ba-la mật-đa tâm kinh giảng về đại hạnh Bát-nhã. Cho nên phàm sau khi tụng xong bộ kinh, cần tụng một lần kinh Bát-nhã, coi như thoát ra vòng khổ hải. Con thử đọc kinh Bát-nhã lên cho ta nghe xem nào.
          Thiệu-Thái đọc:
          Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến Ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
          - Mấy câu này nghĩa là gì?
          - Hôm trước Mỹ-Linh giảng: Ngài Bồ-tát Quán-tự-tại, khi tu hành pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa đã tinh thâm, soi kính thấy năm uẩn đều không, độ thoát tất cả sự khổ ách. Nhưng đệ tử không biết Ngũ uẩn là gì. Tại sao khi năm uẩn đều không, mà giải thoát được hết khổ ách?
          - Đúng thế. Ngũ-uẩn gồm năm thứ, tích tụ, hoà hợp thành thân và tâm con người. Ngũ-uẩn nó che mất chân lý, khiến chúng sinh cứ đi vào luân hồi, không thoát ra được.
          Trong khi Thiệu-Thái trả lời Huệ-Sinh, chàng cảm thấy nội tực Thanh-Mai với nội lực chàng tranh đấu không ngừng. Độc chất từ người nàng tràn sang người Thiệu-Thái, chàng dùng tâm pháp của Đỗ Lệ-Thanh hoá giải đi.
          Chàng tỉnh ngộ:
          - Ngũ uẩn tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức như đoạn dưới của kinh nói. Trong thế gian có bao nhiêu người ắt có bấy nhiêu Ngũ-uẩn, không cái nào giống cái nào cả. Như đệ tử, bị chính cái Ngũ-uẩn của mình giam mình.
          - Đúng thế. Con giác ngộ mau thực. Sắc là vật có hình. Nếu bỏ được hình, sắc, có phải thoát ra được cái ngục tù thứ nhất rồi không?
          Thiệu-Thái buông lỏng, nhắm mắt lại, như quên mọi vật xung quanh. Tự nhiên chàng cảm thấy người như đi trên mây, như trong giấc mơ. Chàng nghe tiếng Huệ-Sinh giảng:
          - Còn thọ. Thọ là khi cái thân mình đối cảnh, thấy vui, sướng, buồn khổ. Đấy cái ách thứ hai buộc mình như thế đấy.
          Cái ách thứ ba tên tưởng. Khi đối cảnh, nhận ra sự đen, trắng, nhỏ, to, dài, ngắn. Đấy hình cái ách thứ ba trói buộc mình.
          Ách thứ tư tên hành. Khi đối cảnh, đem lòng ham muốn, buồn vui, giận hờn.
          Cuối cùng là thức. Đối cảnh hiểu biết, phân biệt mọi sự... Người tu Thiền phải bỏ ra ngoài năm thứ đó.
          Thiệu-Thái chợt nhớ lại:
          - Thanh-Mai thấy Đoàn Huy, nàng muốn trị bệnh cho y, chinh phục y, hầu đưa đến Đại-Việt, Đại-lý cùng khởi binh đánh Tống đòi lại đất tổ. Rõ ràng đủ cả Ngũ-uẩn. Nếu như bỏ ra Ngũ-uẩn, con người lên tiên rồi còn gì nữa?
          Chàng buông lỏng ý nghĩ, người như chết đi trong chốc lát. Chợt chàng thấy hai tay rung động thực mạnh, rồi nội lực Thanh-Mai như tuôn vào người chàng. Phản ứng tự động chàng hóa giải nội lực đó đi. Nhưng ngón tay chàng đau đớn không thể tưởng tượng được. Nhớ lời Huệ-Sinh, chàng chịu đau, không dụt tay lại. Chàng áp dụng kinh Bát-nhã Ba-la-mật, bỏ ra ngòai cái đau đớn, khiến người chàng như nhập vào giấc ngủ thực sâu. Trong mơ mơ màng màng, chàng nghe có tiếng người nói bên tai.
          Cứ như vậy, không biết bao nhiêu lâu, chàng thấy đau nhói ở môi trên và đầu ngón tay trỏ. Chàng giật mình thức dậy,thấy người cầm kim đâm mình là một trung niên nam tử khoảng năm mươi, khuôn mặt cực kỳ uy vũ. Trung niên này mỉm cười, hàm răng trắng đều như hạt bắp. Khi ông cười hai con mắt có đuôi, trông thực dịu dàng. Ông nói:
          - Tỉnh rồi. Con lợn tỉnh rồi.
          Chàng mở mắt nhìn xung quanh, thấy mình đang nằm trên một cái giường tre. Giường đặt giữa, căn phòng bằng gỗ. Cửa sổ bằng phên tre đan. Trong phòng không có gì, ngoài cái bàn cũng bằng tre. Chàng biết trung niên nam tử dùng châm cứu trị bệnh cho mình. Trong đầu óc, chàng nhớ rằng đại sư Huệ-Sinh bảo chàng nắm lấy tay Thanh-Mai, rồi giảng kinh Bát-nhã cho . Sau đó chàng nhập tĩnh, rồi không biết gì nữa.
          Thấy Mỹ-Linh đứng cạnh nước mắt đầm đìa, chàng hỏi:
          - Mỹ-Linh. Tại sao lại khóc?
          Mỹ-Linh gạt nước mắt:
          - Anh mê man từ hôm qua đến giờ.
          Thiệu-Thái vốn người chân thật, trung hậu, không biết khách sáo. Chàng chỉ trung niên nam tử:
          - Có phải vị này đã cứu anh không?
          Mỹ-Linh gật đầu:
          - Vị này là người mà em thường nhắc nhở. Anh vẫn ước mong được gặp đó. Nay anh đã toại nguyện. Không những anh được gặp, mà còn được người cứu trị cho thoát chết.
          - Là Hồng-sơn đại phu chăng?
          Mỹ-Linh trả lời bằng cái gật đầu. Thiệu-Thái ngồi dậy, chỉnh đốn y phục, chàng chắp tay hướng Hồng-Sơn đại phu:
          - Đệ tử Thân Thiệu-Thái kính cẩn ra mắt đại phu. Đa tạ đại phu cứu mạng.
          Hồng-Sơn đại phu cười ha hả:
          - Miễn lễ. Này, con lợn này, ta cứu người với điều kiện thì người khỏi tạ ơn ta.
          Thiệu-Thái nhìn xung quanh. Chàng ngạc nhiên vô cùng. Vì lúc đại sư Huệ-Sinh dạy Thiền-công cho chàng, chàng đang ở phủ Khai-quốc vương. Còn đây là đâu? Chàng chưa từng thấy qua.
          Một thiếu niên tuổi khoảng mười bốn, mười lăm bước vào hỏi Mỹ-Linh:
          - Thế nào? Ông ỉn của chị tỉnh rồi hả. Để em bảo chúng mang cái gì vào cho ông ăn.
          Nói rồi nó cầm tay Thiệu-Thái bắt mạch:
          - Mạch hết hồng đại rồi. Bây giờ trì mà hoãn. Thốn vị nhảy mạnh, nhưng có tiếng đập cao, tiếng đập thấp. Thốn vị ứng với thượng tiêu, bao gồm tâm, phế. Tâm tàng thần, khi thần bất định thì các nhịp đập ở thốn vị không đều. Ông ỉn ơi, nghe nói dường như ông ỉn lọt mắt xanh chị Mỹ-Linh của tôi, hẳn là người quân tử đạo cao lắm. Hà cớ ông ỉn lại giận người.
          Từ hôm gặp Bố-đại hòa thượng, ngài gọi chàng là con lợn, rồi từ đó cái tên lợn lan tràn khắp nơi. Hồng-Sơn đại phu gọi chàng là lợn, dĩ nhiên chàng không dám nói gì. Còn thiếu niên vừa rồi, dường như thân quen với Mỹ-Linh, cũng gọi chàng bằng tiếng ỉn, chàng hơi bực mình. Không ngờ thiếu niên này bắt mạch mà biết cả trong nội tâm chàng.
          Thiếu niên tiếp:
          - Bộ vị quan của ông ỉn yếu quá, hẳn ông ỉn đói rồi đây. Ông ỉn vừa qua hơn ngày mê man, giờ mới tỉnh, cho ông ỉn ăn một món đặc biệt, do mỗ làm, chứ không do đầu bếp. Nhưng mỗ giao hẹn trước. Khi mỗ sửa soạn, hễ ông ỉn nuốt nước bọt, phải công nhận cái tên ông ỉn hoặc lợn ỉn. Còn ngược lại ông ỉn không nuốt nước miếng mỗ tình nguyện lĩnh tên ông ỉn thay thế cho.
          Mỹ-Linh nghe thiếu niên nói, nàng bật cười, khẽ cốc lên đầu nó:
          - Lém vừa thôi!
          Thiếu niên chạy ra ngoài. Thiệu-Thái hỏi:
          - Mỹ-Linh, đây thuộc địa phương nào? Cái gì đã xẩy ra? Thiếu niên vừa rồi là ai vậy?
          Mỹ-Linh ngồi xuống cạnh chàng:
          - Đây thuộc Cổ-loa. Chúng ta đang ở trong y viện Yên-lãng. Hôm trước sư phụ dạy anh vận Thiền-công để hút chất độc cho chị Thanh-Mai. Anh nhập tĩnh sâu quá, Thiền-công phát ra mạnh vô cùng. Đáng lẽ anh sẽ hút được chất độc trong người chị ấy ra. Nhưng trước khi nhập tĩnh, anh quán tưởng hút chất độc. Vì vậy chất độc trong người chị Thanh-Mai tràn vào người anh. Thiền-công trong người anh hoá giải hết nọc độc Thất-trùng. Còn Ngũ-hoa hương lại không hút được. Thế là anh với chị Thanh-Mai cùng mê man. Giữa lúc đó phu nhân Hồng-Sơn phu nhân tới. Người đem chị Thanh-Mai với anh tới đây cho đại phu trị bệnh cho.
          Thiệu-Thái hỏi:
          - Vừa rồi Hồng-Sơn đại phu bảo rằng anh không nên đạ tạ người. Vì người trị bệnh có điều kiện. Vậy điều kiện đó là điều kiện gì?
          Mỹ-Linh nói:
          - Từ trước đến giờ Hồng-Sơn đại phu trị bệnh cho thiên hạ có đến hàng triệu người. Ai xin tiên sinh cũng trị cho hết, không nhận tiền tạ. Nhưng có ba loại người ngoại lệ, muốn tiên sinh trị cho, phải chịu một điều kiện nào đó. Một, bệnh nhân phải mắc chứng nan y, không lương y nào trị được. Hai, tiên sinh không trị cho bệnh nhân gốc Tầu. Ba, bệnh nhân thuộc con cháu, hoặc quan chức của họ Lý.
          Rồi nàng thuật lại những gì xảy ra khi nàng với Thanh-Mai, Bảo-Hòa tới Vạn-thảo sơn trang xin trị bệnh cho Thiệu-Thái nghe. Thiệu-Thái lắc đầu:
          - Như vậy đại phu cố chấp quá. Mạ mạ nói dị nhân thường kỳ quặc quả không sai.
          - Còn thiếu niên vừa rồi là con trai của Hồng-sơn đại phu, tên Lê Văn. Hồi bọn em tới Vạn-thảo sơn trang, có kết bạn với chú ấy, nên chú ấy gọi em bằng chị. Tâm địa chú ấy thực lương thuần, dễ thương kỳ lạ.
          Rồi nàng kể việc Lê Văn ăn cắp thuốc của bố cứu chị em nàng. Khi đấu võ với nàng, nó vờ thua, thuật lại một lựơt.
          Nghe Mỹ-Linh kể, tự nhiên Thiệu-Thái thấy yêu Lê Văn vô cùng.
          Có tiếng Lê Văn nói vọng vào:
          - Ôi, bà chị xinh đẹp đang kể xấu người ta đấy à.
          Nó mang vào một mâm thức ăn, bầy ra bàn. Nó nói:
          - Chị Mỹ-Linh, hôm nay em đãi chị ăn toàn cá, tôm, không có thịt lợn. Không lẽ em đãi ông ỉn, lại bắt ông ăn thịt bà ỉn sề?
          Trên bàn có bốn món ăn: Cá kho, cá rán, cá nấu ám, và ốc nhồi luộc. Mỹ-Linh xới cơm ra bát. Nàng bảo Thiệu-Thái:
          - Anh ngồi dậy ăn chứ!
          Thiệu-Thái ngồi dậy, chàng cầm bát đũa định ăn, Lê Văn chụp lấy tay chàng:
          - Khoan, ông ỉn uống thuốc đã.
          Nó đặt bát thuốc nóng, khói lên nghi ngút trước mặt Thiệu-Thái:
          - Ông ỉn uống đi.
          Thiệu-Thái nghe Mỹ-Linh nói về Lê Văn, chàng hết buồn tiếng ông ỉn của nó, mà cảm thấy vui vui. Chàng uống hết bát thuốc, cầm đũa định gắp cá kho ăn trước. Lê Văn dùng đôi đũa của nó, cặp cứng đôi đũa của chàng:
          - Khoan, khoan, ông ỉn có món ăn đặc biệt, ngon lắm, chờ tý nữa mẹ mỗ nấu cho. Còn bốn món này của chị em mỗ.
          Thiệu-Thái đói muốn lè lưỡi ra, mà chàng phải ngồi nhìn Mỹ-Linh, Lê Văn ăn. Hai người vừa ăn, vừa nói truyện, dường như không biết đến con tỳ, con vị trong người chàng nó đang nhai, đang cắn ruột gan chàng. Chàng nuốt nước bọt ừng ực, mà hai người như không biết đến.
          Hai người ăn xong bữa cơm, một thiếu phụ tuổi khoảng hai mươi, trang phục rất giản dị đến. Thiếu phụ quấn mớ tóc mây bằng một sợi lụa đỏ. Nàng mặc chiếc áo cánh lụa trắng, quần lụa đen. Bà không đeo nữ trang.
          Trước kia khi chưa rời Bắc-biên, Thiệu-Thái tưởng trên đời chỉ có em gái mình là Bảo-Hoà xinh đẹp nhất. Sau chàng thấy sắc đẹp dịu dàng của Mỹ-Linh, sắc đẹp tươi hồng của Thanh-Mai. Bây giờ chàng lại thấy sắc đẹp huyền ảo, khi có khi không, như người trong mơ của thiếu phụ.
          Mỹ-Linh thấy thiếu phụ, vội vàng đứng dậy:
          - Tiểu nữ tham kiến phu nhân.
          Thiệu-Thái giật mình, nghĩ thầm:
          - Thì ra thiếu phụ đẹp này là phu nhân Hồng-sơn đại phu đây. Hôm trước đứng hầu ông bà ngoại. Hai ngài cật vấn cậu hai về hai lần tuyển đệ nhất giai nhân cho cậu hai, mà cậu hai đều cho qui gia. Người thứ nhất thuộc đại tri kỷ của cậu tên Lâm Huệ-Phương. Cậu gặp Huệ-Phương, yêu ngay. Nhưng giữa lúc tình ý mặn nồng, cậu nghe Huệ-Phương có người tình, lập tức cậu tặng ngọc, ngà, vàng bạc cho nàng đi tìm ý trung nhân. Ý trung nhân của Huệ-Phương chính thị nhân vật lẫy lừng Hồng-Sơn đại phu. Huệ-Phương hẳn bà này đây.
          Chàng nhìn Huệ-Phương một lần nữa, trong lòng nảy sinh sự khâm phục Khai-quốc vương:
          - Ông bà ngoại mình quả thực có con mắt tinh đời, tuyển người đẹp thế này cho cậu hai. Hồi ở Bắc-biên, mình nghe mẹ kể, cậu hai thuộc loại người trung hậu, tính tình khoáng đạt, lại có cái đức từ bi của nhà Phật. Nay mình mới thấy sự thực. Với một giai nhân thế kia, cậu hai gặp, say mê liền. Thế nhưng cậu biết ngừng lại, để cho nàng được toại nguyện với người yêu.
          Thiếu phụ quàng tay qua cổ Mỹ-Linh, cử chị nhẹ nhàng, êm dịu như mẹ với con:
          - Thế nào, công chúa. Thế tử tỉnh rồi à. Công chúa bằng lòng chưa?
          Hai người đứng bên nhau, gió thổi y phục bay nhè nhàng, như hai cây ngọc trước gió. Thiệu-Thái nảy ra ý so sánh Mỹ-Linh với Huệ-Phương. Đẹp thì ca hai cùng đẹp. Nhưng ở Huệ-Phương tàng chứa tất cả cái sắc sảo, tươi hồng như đoá hoa hải đường. Còn Mỹ-Linh lại dịu dàng, ôn nhu như vẻ đẹp của tượng Quán-Thế-Âm.
          Lê Văn nắm tay thiếu phụ:
          - Mẹ đến trễ tý nữa, con e con tỳ con vị sẽ cắn đứt ruột ông ỉn ra, thực tai vạ.
          Thiệu-Thái biết chắc đây là phu nhân Hồng-Sơn đại phu. Chàng kính cẩn hành lễ:
          - Tiểu bối xin tham kiến phu nhân.
          Hồng-Sơn phu nhân mỉm cười:
          - Thế tử chẳng nên đa lễ. Tôi đến để làm món ăn cho thế tử đây. Độc chất trong người thế tử đã trục ra hết. Duy trong tỳ, còn chút, không cách gì lấy ra được. Vì vậy tỳ hoạt động khó khăn. Trong phép trị, cần làm cho tỳ vị vận hoá thực mạnh, mới mong trục nổi. Cho nên tôi bầy ra bữa ăn của Mỹ-Linh, Lê-Văn, để thế tử ngồi nhìn, tỳ vị bị kích thích tối đa.
          Bây giờ Thiệu-Thái mới hiểu tại sao Mỹ-Linh, Lê Văn cố tình ngồi ăn, không nói truyện với chàng, thì ra tất cả nằm trong trị liệu. Chàng tự biết, thân thế Hồng-Sơn phu nhân cao quí biết bao. Dù là một thế tử, một công chúa, khó lòng Huệ-Phương thân làm món ăn cho như vậy. Đây chẳng qua những liên hệ với cậu hai mà chàng được hưởng. Bà vì tình cậu hai mà cưng chiều chàng.
          Hồng-Sơn phu nhân mở cái đĩa đậy kín trước mặt Lê Văn ra. Bà chỉ cho Mỹ-Linh:
          - Trong này có tất cả tám thứ, ta làm món ăn, tên Bát trân, ngũ vị Bát trân, ngũ vị là gì? Bát trân là tám thức. Một là gan lợn, hai là cá chép, ba là chim sẻ, bốn là thịt gà, năm là cua biển, sáu là mực, bẩy là tôm, tám là lươn. Nếu không có thịt chim sẻ, có thể thay bằng thịt bồ câu hay bất cứ chim gì cũng được. Không có lươn, thay bằng ếch, bằng sò, bằng don, bằng hào.
          Bà mở cái hộp gỗ ra. Trong hộp có năm ngăn. Bà chỉ vào hộp:
          - Đây, năm thứ gia vị, gọi tức ngũ hương. Trong tám thứ trên, có thịt gà, cá chép, cua biển, mực, tôm, thuộc năm thứ có chất độc, ăn vào dễ sinh phong. Phải dùng năm thứ gia vị trị độc tố. Thịt gà dùng gừng, cá chép dùng tỏi, cua biển dùng chanh, mực dùng nghệ, tôm tiêu. Năm thứ gia vị này gọi là ngũ hương.
          Bà dùng đũa gắp miếng thịt gà nhúng vào hộp đựng gừng tươi dã nhỏ, rồi bỏ vào bát bằng sứ. Lê-Văn gắp miếng cá chép nhúng vào hộp đựng bột tỏi, sau tới cua biển với chanh. Nó làm được hai thức, thì Hồng-Sơn phu nhân đã làm xong ba thức. Cuối cùng bà gắp gan lợn, chim sẻ, lươn cho lên trên. Bà rưới thêm mấy giọt nước mắm, cười:
          - Thằng cà chớn, làm đi.
          Nhanh nhẹn Lê Văn cầm chai rượu rót vào một cái đĩa, rồi bưng bát đựng tám thức tẩm gia vị đặt giữa đĩa. Nó đánh lửa, châm vào rượu. Rượu cháy bùng lên. Ngọn lửa xanh như một cái hoa sen, bao phủ bát đựng thực vật. Nó cầm cái đũa bằng sành cứ luôn tay khuấy rượu cho lửa bốc cao. Một lát, mùi thơm xông lên ngào ngạt. Nó nói với Thiệu-Thái:
          - Ông ỉn, cấm ông nuốt nước bọt, mà từ nãy đến giờ, ông nuốt đến mười bẩy lần. Nhưng như vậy chính ông ỉn tự nhận cái tên lợn của mình rồi nghe.
          Miệng nói, tay nó cầm khăn lót cho khỏi nóng, bưng Bát trân, ngũ vị ra để trước mặt Thiệu-Thái:
          - Mời ông ỉn. Nhớ ăn chậm thôi, cẩn thận nghe, đừng có nuốt cả lưỡi vào.
          Thiệu-Thái đói quá, chàng quên mời Hồng-sơn phu nhân, cầm đũa gắp ăn. Tám thức, có tám mùi vị khác nhau, lại thêm năm thứ hương thơm. Thức ăn nọ hấp hương thơm sang thức ăn kia, cộng với hương rượu, vị cháy, làm thành món ăn cực kỳ trân quí.
          Lê Văn nói:
          - Phàm trong khoa trị bệnh, khi cơ thể mình thiếu thức gì, thì mình thèm thức đó. Như chị Mỹ-Linh, cơ thể thuộc âm hàn, nên chị thích ăn nóng. Cơ thể em thuộc dương nhiệt, nên thích ăn lạnh. Ngược lại khi cơ thể mình dư thức gì, thức đó trở thành chất độc. Cho nên hôm qua, chị Mỹ-Linh hắt hơi một cái hết chục quả xoài mà vẫn không sao. Còn em mới táp có mấy miếng, trong miệng muốn sưng, nổi mụn rồi.
          Mỹ-Linh tỉnh ngộ:
          - Ừ nhỉ, hèn gì hôm qua, chị thấy em ngồi nhìn chị ăn. Chị tưởng em nhường cho khách. Hoá ra em không thích. Ban nãy em bắt mạch cho anh Thiệu-Thái rồi cho anh ấy ăn món này, vậy nguyên lý ra sao?
          - À, thế này. Trước đây anh Thiệu-Thái chưa từng tập Thiền-công, chưa qui y, chẳng từng học kinh kệ. Thế rồi Bồ-tát Sùng-Phạm truyền cho anh ấy Thiền-công của ngài. Thành ra anh ấy có công lực cao thâm vô cùng, mà không biết xử dụng.
          Mỹ-Linh phục Lê Văn, nàng gật đầu:
          - Em mới bằng này tuổi mà kiến thức đã cao như vậy rồi, thực hiếm có. Hôm trước sư phụ chị cũng nói vậy.
          Lê Văn tiếp:
          - Thiền công là thứ công lực của Phật, của tiên, chính đại quang minh. Đỗ Lệ-Thanh không biết thế, đem truyền cách luyện Chu-sa Ngũ-độc chưởng cho anh Thiệu-Thái. Do vậy ma với Phật lẫn lộn trong người anh ấy. Thành ra anh ấy muốn dùng Thiền-công hoá giải chất độc không được.
          Nó cười:
          - Lại đến đại sư Huệ-Sinh cũng không nhìn ra lẽ quan trọng nữa, khi trong người anh Thiệu-Thái chứa toàn cá, thịt, tôm, cua. Trong lúc Thiền-công nhà Phật của ngài Sùng-Phạm chỉ toàn rau, đậu, hoa, qủa. Cho nên dù đại sư dạy anh ấy vận Thiền-công, cuối cùng đi đến chân khí chạy hỗn loạn trong cơ thể, rồi anh ấy còn hút chất độc cứu chị Thanh-Mai, suýt nữa cả hai tiêu dao miền Cực-lạc.



          <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2005 10:46:14 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9