Thuận Thiên Di Sử (từ hồi 16)
CDDLT 11.01.2005 17:53:52 (permalink)
Hồi thứ bốn mươi sáu


Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng
(Đoạn trường tân thanh)




Lâm Huệ-Phương ngồi vuốt tóc Mỹ-Linh như một bà mẹ hiền đối với cô con gái yêu:
- Đáng lý ra, giờ này tôi là thím của công chúa. Nếu may mắn, không chừng tôi còn trở thành vương phi của một vị vương gia, có tài kinh thiên động địa, có ơn đức trải khắp đất nước, lại nhã lượng, cao trí. Nhưng cái tình là cái chi chi, lịch sử cổ kim không ai định nghĩa nổi. Từ ngày gặp Hồng-Sơn đại phu, trong tâm tôi chỉ có chàng. Nếu vương gia như những vị đế vương khác, tôi đành ôm mối vạn cổ sầu trong vương phủ. Thế nhưng lòng dạ vương gia như biển, cho nên tôi mới được hạnh phúc như thế này.
Huệ-Phương nói nhỏ:
- Mỹ-Linh nhớ nhé. Mỹ-Linh rời đây, trở về gặp vương gia. Mỹ-Linh nói dùm Huệ-Phương dù thịt nát xương tan, cũng nguyện làm bất cứ việc gì trợ giúp cái chí của vương gia.
Hai tay Mỹ-Linh ôm lấy cổ Huệ-Phương nói nhỏ vào tai:
- Chú hai muốn biết, việc chú trả phu nhân lại cho đại phu. Đại phu đã biết chưa?
- Chưa. Không phải tôi dối chồng, mà chưa đến lúc nói. Hồi vương gia bầy kế cho tôi trở lại gặp đại phu. Vương gia có dự trù trường hợp đại phu thắc mắc rằng, tôi trốn khỏi Hoàng-cung mà tại sao triều đình không truy cứu gia đình. Nên vương gia khuyên tôi mang bố mẹ theo, giả tìm đại phu trị bệnh. Quả nhiên, một đêm đại phu thắc mắc. Tôi trả lời đại phu rằng: Vì khi tôi về đến nhà, thì dẫn bố mẹ đi tìm đại phu, rồi ở lại luôn trong Vạn-thảo sơn trang. Nào biết triều đình truy cứu hay không? Ví dù có truy tầm, cũng khó mà tìm ra.
Huệ-Phương ngước mắt nhìn lên bầu trời xanh ngắt, lảng vảng những tảng mây trắng trôi lờ đờ:
- Một lần khác đại phu hỏi chi tiết về việc tôi được tuyển cung. Tôi cứ sự thực trình bầy hết. Chỉ không thuật đoạn được đưa về phủ Khai-quốc vương. Thay vào đó tôi nói: Đêm đó, em ngồi tưởng nhớ đến anh, ôm mặt khóc cho mối tình không trọn vẹn, thì một người mặc quần áo vương tước cật vấn em tại sao lại khóc. Em nói rõ sự tình. Vị vương đó dẫn em theo cửa sau trốn khỏi Hoàng-thanh. Đại phu hỏi tên vị vương ân nhân. Tôi đáp : Không biết tên, nhưng nếu gặp mặt thì nhớ. Đại phu trầm ngâm nói: Nếu vị vương đó là con Lý Công-Uẩn, mà Uẩn thuận truyền ngôi cho y, thì ta không đòi phục hồi nhà Lê nữa. Tôi hỏi :Tại sao. Chẳng lẽ anh vì một người con gái như em, mà bỏ sự nghiệp tổ tiên?. Đại phu đáp :Không phải vì ân nghĩa nhượng vợ, mà muốn cho người có lượng cả như vậy làm vua, thì nước Việt mới ngóc đầu dậy được.
Huệ-Phương nhắc lại:
- Như vậy lúc đầu chỉ có vương gia, vú già nuôi vương gia với tôi biết. Không hiểu vương gia đã cho những ai biết?
- Thêm ông nội bà nội, Thiệu-Thái, Bảo-Hòa với cháu. Hôm ấy bọn cháu đứng hầu bên cạnh nên biết mọi truyện. Chúng cháu có kể truyện hồi ở Vạn-thảo sơn trang, chúng cháu ngạc nhiên vô cùng, khi thấy phu nhân mới gặp chúng cháu, mà đối xử cực kỳ thân thiết cho ông bà nội nghe. Ông nội khen phu nhân thực không hổ là nữ anh hùng Đại-Việt.
Rồi Mỹ-Linh tường thuật lại việc phụ vương nàng chất vấn, kết tội Khai-quốc vương trong Long-hoa đường như thế nào. Thuận-thiên hoàng đế cùng hoàng hậu Lập-Nguyên tra khảo vương về Huệ-Phương, Hà-Thanh ra sao. Hoàng đế suýt đem vương ra chặt đầu v.v. không bỏ sót một chi tiết nào.
Huệ-Phương nước mắt đầm đìa:
- Vương...anh... anh..vì hạnh phúc của em mà phải chịu trăm bề cay đắng. Dù em có tan xương nát thịt cũng không đền đáp được công đức này của anh.
Huệ-Phương lau nước mắt rồi cắn vào má Mỹ-Linh một cái:
- Vương gia thực chu đáo. Hôm qua, tôi xin phu quân tôi cho phép tôi với Lê Văn đi thăm Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, Thanh-Mai. Nhưng sự thực muốn gặp vương gia. Tôi ngạc nhiên vô cùng, vì từ xưa tới giờ vương gia cực kỳ chu đáo, mà sao lánh mặt không gặp tôi? Rồi lại cho Mỹ-Linh theo tôi đi dễ dàng trong khi chúng tôi về Thăng-long kỳ này, mực đích đối đầu với vương gia. Thì ra vương gia sợ gặp tôi, rồi lộ bí mật, vương cho Mỹ-Linh đi dễ dàng, để nhờ Mỹ-Linh chuyển tin cho tôi.
Mỹ-Linh ghé miệng vào tai Huệ-Phương:
- Phu nhân nói chỉ đúng một nửa. Chú hai không muốn gặp phu nhân. Vì gặp phu nhân, thì sau đó trong lòng nổi cơn bão táp. Chú hai nói, hôm gặp phu nhân, yêu phu nhân, say đắm phu nhân. Nhưng chú hai không muốn nhắm mắt hưởng thụ trong cái đau khổ của phu nhân.
Trống ngực Huệ-Phương đập mạnh. Mặt nàng lúc trắng, lúc đỏ, nhớ lại cái phút Lý Long bồng nàng lên dường, tay lần mở nút áo, tay kéo dây lưng quần. Bấy giờ nàng như mê như tỉnh, tê dại khắp người. Huệ-Phương quên sao được, từ hồi còn nhỏ, nàng đã nghe nói về vị thái tử tài kiêm văn võ, lại rộng lượng, trọng nghĩa khinh tài. Nàng dệt những giấc mơ đẹp như gấm như hoa. Nàng tưởng tượng sau này sẽ được gặp vị thái tử đó. Thế mà bây giờ nàng đang nằm gọn trong tay con người đa tình, đa tài. Con người này dang chuẩn bị đưa nàng vào giấc mơ huyền ảo của núi Vu-sơn. Thế nhưng bản tính ngay thẳng, nàng phải thố lộ chân tình về cuộc gặp gỡ người thầy thuốc đêm nọ, và dành cho ông tình yêu ngay từ đấy.
Mỹ-Linh nhìn mặt Huệ-Phương, biết Huệ-Phương chưa quên được chú mình. Nàng nói sang truyện khác:
- Sao phu nhân biết chị Thanh-Mai bị nạn, mà đến thăm?
- Khi chúng tôi khởi hành về Thăng-long dự đại hội võ lâm Đại-Việt, đêm tôi mơ thấy đi trên cái xe. Thình lình cái xe bị vấp vào đá, bánh cong đi. Trong phép giải mộng, đó là có người mong mình. Đêm sau tôi thấy Thanh-Mai đang ôm bụng đau đớn. Tôi đoán : Xe bị gẫy bánh là điềm có người mong mình. Thanh-Mai ôm bụng đau đớn, vì nang đang bị tai nạn. Cho nên đến Cổ-loa, tôi lấy xe đi thăm Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, Thanh-Mai. Nghe nói ba người ở phủ Khai-Quốc vương. Chúng tôi tới nơi đúng lúc Thiệu-Thái, Thanh-Mai đang mê man. Tôi xin Quốc-vương để tôi đem hai người về đây trị bệnh. Nhiều người xin đi theo. Song tôi chỉ thuận cho Mỹ-Linh đi mà thôi.
Mỹ-Linh hỏi:
- Cứ như đại phu nói, cần đả thông Kỳ-binh bát-mạch cùng Thập-nhị chính kinh, thì hoà hợp được Thiền-công với Chu-sa Ngũ-độc. Như vậy anh Thiệu-Thái đã hết nguy hiểm chưa?
Lê Văn gật đầu:
- Hết thì hết rồi. Có điều trong người anh Thiệu-Thái còn hút độc Thất-trùng Ngũ-hoa, nên cần cho uống thuốc trục độc ra. Thang thuốc ban nãy để trục độc đấy. Trong lúc anh mê man đã được đổ cho hai thang. Thang hồi nãy là ba. Cơm ba bát, thuốc ba thang. Bệnh của anh khỏi rồi.
Thiệu-Thái cảm động:
- Đại phu thực là thần nhân. Không biết hiện giờ bệnh tình chị Thanh-Mai ra sao?
Hồng-Sơn phu nhân sẽ vỗ tay vào vai Thiệu-Thái:
- Thế tử đừng lo. Thanh-Mai là đệ tử cưng của phu quân tôi. Trên đời này, chưa từng có ông thầy nào yêu học trò bằng Hồng-Sơn đại phu đâu. Thế tử thì ông ấy để ở đây đưỡng bệnh. Còn Thanh-Mai, ông ấy mang về cho ở phòng kế bên cạnh chúng tôi. Bệnh tình Thanh-Mai gần như đã khỏi hẳn rồi.
Thiệu-Thái hỏi Lê Văn:
- Này chú em, có phải Hoàng Giang đại phu chưởng quản y viện Yên-lãng của Cổ-loa là đệ tử của Vạn-thảo sơn trang không?
- Đúng thế. Người là đệ nhị đệ tử của bố em.
Đến đó một y sinh vào chắp tay hành lễ với Hồng-Sơn phu nhân, rồi nói với Thiệu-Thái, Mỹ-Linh:
- Sư phụ tôi mời hai vị lên gặp người có truyện khẩn.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đứng lên theo y sinh đi. Qua ba dãy nhà, tới căn nhà bằng gỗ hình bát giác. Y sinh nói lớn:
- Trình sư phụ, đã mời công chúa Bình-dương cùng thế tử Thân Thiệu-Thái.
Cánh cửa nhà bát giác mở ra, Thiếu-Mai vẫy tay:
- Mời hai vị vào. Bố tôi đang chờ.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái bước vào. Trong căn phòng, có mười người ngồi sau Hồng-Sơn đại phu. Mỹ-Linh nhận diện được mấy người mà nàng đã gặp tại phòng đại hội ở Vạn-thảo sơn trang, trong dịp đón Triệu Thành. Hai người hành lễ:
- Đệ tử tham kiến đại phu.
Hoàng Giang đại phu cười:
- Tôi mời hai vị lên đây để nói một truyện. Như hai vị biết sư phụ tôi không trị bệnh cho người Hoa cũng như con cháu họ Lý. Người chỉ trị bệnh cho con cháu họ Lý với điều kiện. Khi thế tử mê man, công chúa Bình-dương khóc lóc nhờ sư phụ tôi cứu thế tử. Công chúa xin làm bất cứ việc gì mà sư phụ tôi sai bảo. Bây giờ thế tử đã khỏi bệnh. Tôi muốn thế tử nhắc lại một lần nữa lời cam kết đó.
Thân Thiệu-Thái kính cẩn:
_ Tiểu bối coi như chết đi, được đại phu tái sinh, thì đương nhiên đại phu sai bảo gì, tiểu bối đâu dám chối từ. Huống hồ, trong võ lâm, đại phu ngang vai với ông nội cháu.

Ghi chú:
Hồng-Sơn đại phu xuất thân là con thứ vua Lê Đại-Hành. Vua Lê có tới sáu bà hoàng hậu, cùng hai mươi bốn phi tần, sinh ra mười hai con trai. Nhà vua xuất thân là quan võ, rồi nhờ thời cơ mà được ngôi, cho nên vua hết sức khuyến khích các con luyện tập võ công. Khi con trai đến tuổi mười ba, thì được phong vương, cho mở phủ đệ riêng cùng cưới vợ. Tới tuổi mười sáu, cho cầm quân đánh giặc, tổng trấn một vùng. Theo Khâm-định Việt sử thông giám cương mục của triều Nguyễn, vua Lê phong cho các con trấn nhậm như sau:

Khai-Minh vương Long-Định trấn Đằng-châu.
Ngự-Man vương Long-Đinh trấn Phong-châu.
Ngự-Bắc vương Long-Cân trấn Phù-lan.
Định-Phiên vương Long-Túng trấn Ngũ-huyện-giang.
Tư doanh thành phó vương Long-Tương trấn Đỗ-Động.
Trung-Quốc vương Long-Cánh trấn Mạt-liên.
Nam-Quốc vương Long-Mang trấn Vũ-long.
Hành-Quân vương Long-Đế trấn Cổ-lãm.
Phù-Đái vương trấn Phù-đái.


Hồng-sơn đại phu có tên là Lê Long-Mang. Năm sáu tuổi được phụ hoàng ủy cho một cao nhân phái Sài-sơn dạy dỗ. Cũng như các đệ tử của phái Sài-sơn, vương được luyện võ, học văn, cùng các học thuật khác bao gồm Nho, y, lý, số. Vương chăm chỉ cần mẫn, nên năm mười tuổi, từ võ công cho đến chính sự, vương bỏ xa các anh em.
Trong một lần theo sư phụ đến Thiên-trường thăm chưởng môn phái Đông-a, vương gặp đám đệ tử ngang tuổi của phái này, trong đó có Trần Tự-An, Trần Kiệt. Sau hơn tuần ở Thiên-trường, vương kết bạn với năm đệ tử ngang tuổi phái Đông-A. Vương đâu có ngờ, sau này họ thành Đông-A ngũ kiệt.
Năm mười tám tuổi được phụ hoàng phong tước Nam-quốc vương, cho trấn thủ vùng Vũ-long (Thanh-hoá). Có quyền trong tay, vương không ham hưởng thụ, mà dốc tâm luyện tập võ công, trau đồi văn học.
Lúc phụ hoàng lớn tuổi, mười hai hoàng tử bắt đầu ngấm ngầm tranh dành để được truyền ngôi vua. Vương rửng rưng, khoanh tay ngồi cao, đứng ngoài. Khi phụ hoàng băng hà, các vương đem quân đánh nhau tranh dành ngôi vua. Cuộc chiến diễn ra trong sáu tháng liền. Kẻ thắng, người bại, cuối cùng Lê Long-Đĩnh giết chết hầu hết các anh, em, chiếm ngôi vua. Nhiều người khuyên vương nên đem quân về triều hỏi tội Lê Long-Đĩnh. Nhưng vương từ chối.
Theo vương chế cổ, khi một vị vua lên ngôi, thì đặt ra niên hiệu để gọi. Lê Hoàn lên ngôi vua năm Canh-thìn (980) lấy hiệu là Thiên-phúc. Chín năm sau, vào năm Kỷ-sửu (989) cải là Hưng-thống. Năm Giáp-ngọ (994) lại cải là Ứng-thiên.
Ứng-thiên hoàng đế băng năm Ất-tỵ (1005). Con trưởng là Lê Long-Việt lên ngôi chưa kịp đặt niên hiệu thì bị Long-Đĩnh giết chết.
Một vị vua khi băng hà, thường quàn áo quan trong ba năm mới chôn. Kể từ khi chết, không dùng niên hiệu gọi nữa, mà gọi là Đại-Hành hoàng đế. Đợi khi vua kế vị lên ngôi, sẽ truy phong tôn hiệu để gọi. Thế nhưng Long-Đĩnh được ngôi vua rồi, không đặt thụy hiệu cho Ứng-thiên hoàng đế, chỉ lo chém giết, ăn chơi, vì vậy cho đến nay Ứng-thiên hoàng đế Lê Hoàn không có tên thụy, mà vẫn gọi là vua Lê Đại-Hành. Đau xót cho vị anh hùng một thời, mà khi chết không có miếu hiệu thờ kính.
Khi thấy Lê Long-Đĩnh chuẩn bị đem quân vào đánh vương. Với võ công, mưu lược, cùng uy tín, nếu vương đem quân chống cự, ắt diệt được Long-Đĩnh. Giữa lúc đó được tin người Tống chuẩn bị đem quân sang đánh Đại-Việt. Vì sự sống còn của đất nước, vương viết thư cho Long-Đĩnh rồi âm thầm treo ấn, niêm phong kho tàng, lẳng lặng bỏ đi, cải tên, đổi họ đến Vạn-thảo sơn trang lập nghiệp.
Chỉ mấy năm sau vương cùng đám bầy tôi thân tín biến Vạn-thảo sơn trang thành một trang trại lớn. Vương nổi tiếng nhờ y học. Nguyên y học của phái Sài-sơn vốn đã có cơ sở từ nghìn năm trước. Đến vương, do năng khiếu đặc biệt, vương trở thành thiên tài y học. Tiếng tăm vương trở thành lừng lẫy. Ngoài trừ người thân, không ai biết vương là con vua Lê. Người đời thấy vương lập nghiệp đưới chân núi Hồng, gọi vương là Hồng-Sơn đại phu.
Về võ công, phái Sài-sơn do tổ sư là Phù-đổng thiên vương sáng lập di truyền lại. Trải qua nhiều đời, võ công Sài-sơn không dũng mãnh như Tản-viên, tinh diệu như Mê-linh, chính đại như Tiêu-sơn, huyền diệu như Đông-a, nhưng đời nào cũng có nhân tài xuất chúng. Võ đạo phái Sài-sơn lấy đại nghĩa dân tộc làm cơ sở. Hóa cho nên được quần chúng kính phục. Đến đời Hồng-Sơn đại phu, nhờ tinh thâm về y học, ông biến đổi từ nội công đến chiêu thức, nên võ công Sài-sơn lại hưng thịnh hơn lên. Hành tung của ông rất huyền bí, chưa một ai đấu với ông, nên không biết võ công của ông ra sao. Người ta chỉ biết võ công đệ tử ông, rồi suy đoán ra võ công của ông.
Khi sư phụ của đại phu qua đời, truyền cho đại phu làm chưởng môn phái Sài-sơn. Tuy đại phu làm chưởng môn, nhưng lại không ở tại tổng đàn của phái, mà ở Vạn-thảo sơn trang.
Người anh Lê Long-Đĩnh của vương ngày càng trở thành ác độc, trói người vào cột đồng, rồi chất củi bên trong cột đốt. Nạn nhân bị cháy da, phỏng thịt kêu thét lên như con thú, rồi chết. Long-Đĩnh đứng xem, khoan khoái cười vui. Trò chơi thứ nhì của Đĩnh là bắt đàn bà chửa giam lại, đem từng người ra, cùng các quan đánh cuộc xem thai nhi là trai hay gái. Sau đó mổ bụng, để định được thua. Trò chơi thứ ba là đóng cọc dưới giòng sông, trói người vào đó, cùng các cận thần ngồi uống rượu, chờ nước lên, khiến nạn nhân chết ngộp dần dần.
Long-Đĩnh trác táng quá độ, thành bệnh, nằm liệt dường. Khi lâm triều, phải đặt trên một cái giường khiêng đi. Dân chúng gọi là vua Ngọa-triều. Bồ-tát đắc đạo Vạn-Hạnh thiền sư, sai đệ tử về kinh đô Hoa-lư, khuyên răn Ngọa-triều. Ai cũng tưởng thiền sư Vạn-Hạnh là sư phụ vua Lê Đại-Hành, thì lời can gián của ngài hẳn Long-Đĩnh nghe theo. Nào ngờ Long-Đĩnh bắt sứ giả của Vạn-Hạnh thiền sư quỳ gối, rồi để mía lên đầu róc vỏ. Thỉnh thoảng giả bộ lỡ tay, cho dao chém xuống đầu nhà sư. Long-Đĩnh nhìn máu chảy cười khoan khoái.

Năm Kỷ-dậu (1009) Long-Đĩnh băng. Khi Đĩnh còn tại vị. Y tàn sát tất cả anh, em cũng như con cái họ. Bây giờ y băng, triều đình muốn tìm lấy một người trong giòng họ Lê tôn lên ngôi vua, thì không còn ai cả. Triều đình chia làm hai phe. Một phe cho rằng trước đây vua Lê được tôn lên vì con vua Đinh còn thơ ấu. Nay cũng nên chọn một đại thần có đức đặt vào ngôi báu. Nhân quan Điện-tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn là phó mã của vua Lê Đại-Hành, là con nuôi thiền sư Lý Khánh-Vân, đệ tử Bồ-tát Vạn-Hạnh, tính tình trung hậu, văn võ kiêm toàn thức xứng đáng. Phe này có hữu thân vệ điện tiền chỉ huy sứ Đàm Can, Đô-nguyên soái, Tổng trấn Thăng-long Đào Cam-Mộc.
Phe thứ nhì không chịu, định tôn đứa con sáu tháng của Long-Đĩnh lên ngôi vua. Hai phe định kéo quân về đánh nhau. Giữa lúc đó lạc hầu Thân Thiệu-Anh, thống lĩnh lực lượng biên phòng phía Bắc tập trung quân, tuyên cáo rằng, nếu triều đình không tôn Lý Công-Uẩn lên làm vua. Ông đem quân về làm cỏ.
Sợ chiến tranh xẩy ra, Vạn-Hạnh thiền sư giảng hòa bằng cách tạo trao quyền cho Lý Công-Uẩn làm vua. Đợi sau này tìm được con vua Lê, sẽ trả lại ngôi.
Biết rằng các vua Đinh, Lê, nhờ võ công oanh liệt, mà được ngôi vua. Thuận-thiên hoàng đế chỉ dựa uy tín sư phụ là thiền sư Vạn-Hạnh, lại là phò mã mà đắc vị. Cho nên nhà vua hết sức chăm lo chính sự, giảm thuế, giảm chi, khuếch trương văn học. Nhờ vậy, đân chúng sống trong thanh bình, no ấm như thời vua Hùng, vua An-dương, vua Trưng.
Hồng-Sơn đại phu thấy Lý Công-Uẩn chiếm ngôi của nhà mình. Ông cũng chẳng thiết cái ngôi vua, vừa lao tâm khổ tứ, vừa bận rộn. Nhưng đi đâu cũng nghe sĩ dân thiên hạ xỉ mạ Ngọa-triều, rồi họ cho rằng con của Đại-Hành hoàng đế đều như nhau. Uất khí, ông mưu trung hưng Lê triều, dùng y đạo trị dân, rửa tiếng nhục cho tổ tiên. Vì vậy ông đào tạo học trò, truyền bá y học, cùng ban ân đức cho dân, chuẩn bị.
Giữa lúc đó, nhà Tống muốn đánh chiếm các nước phía Nam như Đại-lý, Đại-Việt, Chiêm-thành, Lão-qua, mở mang bờ cõi. Để dò đường, triều đình cử sứ đoàn Triệu Thành xuất hiện với chiêu bài Hưng diệt, kế tuyệt, ý muốn có đội quân người Việt giết người Việt, khi một bị diệt, một suy yếu, tinh lực không còn, Tống đem quân sang chiếm. Triệu Thành định giả lập lại nhà Đinh. Nhưng khi thấy Đinh Toàn tài năng không làm bao, lại chẳng có uy tín gì. Trong khi đó, y biết Hồng-Sơn đại phu chính thị Nam-quốc vương Lê Long-Mang, ơn đức trải khắp Hoa-việt, võ công lại là một trong Đại-Việt ngũ long. Triệu Thành gạt phăng Đinh ra ngoài, đến Vạn-thảo sơn trang tìm Hồng-Sơn đại phu ngỏ ý ấy.
Là người thông kim bác cổ, đại phu vốn sẵn có tinh thần bài Hoa. Ông chưa quyết định, thì người yêu của ông, Lâm Huệ-Phương xuất hiện. Huệ-Phương tuổi còn trẻ, mà kiến thức thực siêu việt. Nàng trình bầy cho ông nghe tất cả những âm mưu dành dân lấn đất của người Tống ở Bắc-biên. Ông nắm được chủ mưu của Tống: Trước phá tan thành trì 207 khê động của Đại-Việt. Sau đó khích người Việt đánh người Việt trong nước, rồi thừa cơ đem quân vượt biên.
Ông tỏ ý nghi ngờ thiện ý của triều Tống. Những cái gương cũ còn đó: Thời vua Trưng có thầy trò Lê Đạo-Sinh. Mới đây Kiều Công-Tiễn dẫn quân Nam-Hán vào, cuối cùng đều đi đến kết quả thản khốc. Chính ông trước đã nêu cao chính nghĩa. Ông tuyên bố ai đến ông cũng trị. Ngoại trừ ba loại người, ông cũng trị, nhưng với điều kiện. Một là bệnh nan y, mà các đệ tử ông không trị được. Hai là người Hoa. Ba là con cháu họ Lý.
Tin Hồng-Sơn đại phu tức Lê Long-Mang tước Nam-quốc vương lan truyền mau lẹ. Chưởng môn phái Đông-a Trần Tự-An đích thân đến Vạn-thảo sơn trang thăm ông. Rồi Trần Kiệt, Phạm Hào đi Tản-viên hỏi ý kiến chưởng môn Đặng Đại-Khê. Đặng Đại-Khê hứa sẽ trả lời trong ngày đại hội võ lâm Đại-Việt. Sở đĩ Đặng chưa dám quyết định, vì trong phái đang có sự tranh chấp.
Chưởng môn phái Mê-linh, sư thái Tịnh-Tuệ cũng chưa có quyết định rõ rệt. Chỉ có chưởng môn phái Tiêu-sơn, cương quyết giúp họ Lý. Hồng-Sơn đại phu tin rằng, quá phân nửa võ lâm nghiêng về Lê, lại thêm áp lực triều Tống rằng nếu Lý không lùi, thì Tống đem quân sang. Như vậy ắt võ lâm Đại-Việt sợ chiến tranh, ép Lý thoái vị, trả ngôi vua cho Lê.
Ông tin rằng Lý Công-Uẩn phải thoái vị. Ông dùng nhân đức cai trị dân, sẽ không sợ bọn Tống nữa.
Hồng-Sơn đại phu chuẩn bị thực chu đáo. Hiện ông có đệ tử khắp nơi. Mỗi người đều mở một y viện chữa bệnh cho dân chúng, gây cảm tình. Mỗi đệ tử lại mở một võ đường huấn luyện thanh thiếu niên.
Trước đây các võ đường của Sài-sơn thường bị lực lựơng Hồng-thiết giáo cùng lực lượng Hồng-hương thiếu niên của Nguyên-Hạnh chống phá. Từ ngày Triệu Thành đến Vạn-thảo sơn trang, tự nhiên hai lực lượng này đều tỏ ý thân thiện với hệ thống Sài-sơn. Ông đâu có ngờ trong bóng tối, Triệu Thành ra lệnh cho đám trưởng lão gian tế Hồng-thiết giáo cùng Nguyên-Hạnh phải giúp ông, hầu ông quyết tâm hơn.
Khi về Thăng-long dự đại hội võ lâm Đại-Việt, ông đã âm thầm ra lệnh cho đệ tử các nơi chuẩn bị. Nếu họ Lý không chịu thoái vị, sẽ khởi binh, cơ sở các địa phương nổi dậy chiếm lấy chính quyền, rồi kéo về Thăng-long.
Tới Thăng-long, ông cùng các đại đệ tử trú ngụ ở y viện Yên-lãng tại Cổ-loa, do đệ tử của tên Hoàng Giang đại phu chưởng quản. Vừa tới nơi, người vợ yêu của ông là Lâm Huệ-Phương xin ông cho phép dẫn Lê Văn đi thăm bà con. Ông tuyệt không ngờ bà con đó là Khai-quốc vương Lý Long-Bồ. Huệ-Phương tới phủ Khai-quốc vương gặp đúng lúc Thiệu-Thái, Thanh-Mai bị nạn. Nàng xin mang hai người đến Cổ-loa trị bệnh.
Thanh-Mai vừa là con gái chưởng môn phái Đông-a, bạn thân của ông, đương nhiên ông phải tận tình cứu chữa. Hơn nữa Thanh-Mai là đệ tử yêu của ông, vì vậy ông dùng hết khả năng cứu nàng.
Còn Thân Thiệu-Thái, ông nhận chữa trị, với điều kiện. Bây giờ ông gọi Mỹ-Linh với Thiệu-Thái lên để tuyên bố về điều kiện đó.
Hoàng Giang đại phu nói với Mỹ-Linh, Thiệu-Thái:
- Sư phụ tôi cứu thế tử. Điều kiện của sư phụ tôi giản dị thôi: Trong suốt cuộc đời, cả hai vị không được xử dụng võ công chống sư phụ tôi cũng như các đệ tử bản phái trong bất cứ trường hợp nào. Vậy hai vị hãy quỳ trước bàn thờ Quốc-tổ, Quốc-mẫu thề đi.
Mỹ-Linh nghĩ thầm:
- Tưởng điều kiện gì khó khăn, chứ điều kiện đó thì dễ quá. Dù Hồng-Sơn đại phu không bắt tuyên thệ, chỉ nguyên đại phu trị bệnh cho Thanh-Mai thôi, mãn đời mình cũng chẳng dám vô phép với đệ tử của người.
Hai người thắp hương, quỳ gối trước bàn thờ Quốc-tổ, Quốc-mẫu khấn:
" Đệ tử Lý Mỹ-Linh, Thân Thiệu-Thái xin tuyên thề trước bàn thờ Quốc-tổ, Quốc-mẫu rằng trọn đời không bao giờ dám chống lại Hồng-Sơn đại phu cũng như phái Sài-sơn trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nếu đệ tử sai lời, sẽ chết dưới muôn nghìn đao, kiếm."
Hồng-Sơn đại phu cười rất tươi, ông gật đầu:
- Không ngờ Lý Công-Uẩn lại có những đứa cháu thông minh, mẫn tiệp, trọng lời hứa như vậy.
Dương Bình bảo Mỹ-Linh:
- Thôi, bệnh thế tử khỏi rồi. Xin công chúa đem thế tử về thôi.
Thiệu-Thái, Mỹ-Linh hành lễ, rồi ra đi...
Hồng-Sơn đại phu hỏi:
- Sư mẫu với Thanh-Mai đâu?
Dương Bình thưa:
- Sư mẫu với sư muội đang ở nhà thủy tạ. Để đệ tử mời về.
Dương Bình ra một lúc, trở về cùng với Huệ-Phương, Thanh-Mai. Hồng-Sơn đại phu đứmg dậy đón Huệ-Phương, mời nàng ngồi. Ông trịnh trọng nói:
- Hôm nay ta mời phu nhân cùng đến họp với các vị đệ tử, để chuẩn bị đại hội võ lâm Đại-Việt trong ba ngày nữa. Kiến thức phu nhân quảng bác, ta mong phu nhân sẽ giúp ta phục hồi nghiệp lớn của tổ tiên. Ở đây ta có chín đại đệ tử, cùng Thiếu-Mai, Thanh-Mai mười một. Chúng ta duyệt lại tình hình lần cuối cùng trước khi thực hành.
Ông cầm tay Thanh-Mai bắt mạch, rồi bảo Thiếu-Mai:
- Con cho sư tỷ uống thang thứ mấy rồi.
- Thưa bố, sư tỷ uống thang thứ ba rồi.
Ông tát yêu Thanh-Mai:
- Từ lâu ta mong tìm một con bé thông minh, lanh lợi, lại có kiến thức rộng, nhất là lòng nhân đạo, để truyền nghiệp. Hà... không ngờ anh ta, sư huynh Tự-An lại có đứa con gái bảo bối này. Hôm trước bố con mới tới đây cùng sư thúc của con. Lâu ngày chúng ta mới gặp nhau. Gớm, bố của con xưa sao, nay vẫn vậy, ngang ngược không coi ai ra gì.
Thanh-Mai nghe sư phụ phê bình bố, nàng bật cười:
- Tự lâu lắm sư phụ không gặp bố con, rồi cứ tưởng bố con thay đổi. Bố con nhu nhã, thực là nhu nhã, khi ngang tàng, dù là Ngọc-Hoàng đại đế, Diêm-La lão tử, người cũng ngang. Không biết hồi trẻ bố con có ngang quá ghẹ như hiện nay không?
Hình ảnh thời thơ ấu sống lại với Hồng-Sơn đại phu. Bấy giờ ông mới mười hai tuổi. Sư phụ của ông dẫn ông đến Thiên-trường thăm chưởng môn phái này tên Trần Trí-Đức. Trước khi đi, phụ hoàng căn dặn ông rằng:
" Đại hiệp Trần Trí-Đức là một hào kiệt hiếm có của nước Việt mình. Khi ta tiếp sự nghiệp vua Đinh, người định kéo đệ tử về Hoa-lư hỏi tội ta. Ta những tưởng nội chiến khó tránh khỏi. Không ngờ trên đường về Hoa-lư, khi nghe quân Tống kéo sang, người dừng lại, cho sứ đến gặp ta, để bàn truyện đánh Tống. Chính người suất lĩnh đệ tử phái Đông-a phụ trách mặt trận Bạch-đằng. Thắng Bạch-đằng, người lên Chi-lăng tiếp viện với ta. Sau khi giặc hết, người bảo ta :Đáng lẽ tôi hỏi tội nhà vua về việc đoạt ngôi của con vua Đinh. Song bây giờ nhà vua đã thắng giặc Tống, sĩ dân đều phục, tôi không có lý do gì hỏi tội nữa. Mong nhà vua lấy đức trị thiên hạ như vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng."
Ta tôn phong vương tước, người chối. Vậy con tới Thiên-trường cần khéo léo học hỏi, kết thân với những đệ tử phái Đông-a ngang tuổi, học lấy điều hay.
Khi tới Thiên-trường, ông được làm quen với năm thiếu niên cùng tuổi Trần Tự-An, Vũ Anh, Hoàng Hùng, Phạm Hào, Trần Kiệt. Năm người với ông như quen nhau từ thủa nào. Gặp nhau là thân, không muốn rời nhau. Khi luyện võ, khi hái hoa quả ăn, khi nhảy xuống sông tắm, nô đùa với nhau. Thế rồi họ kết làm huynh đệ.
Sau hơn tháng ở Thiên-trường. Ông trở về với ngôi hoàng tử. Khi được phong tước Nam-quốc vương, tổng trấn vùng Thanh-hóa, ông viết thư sai người mời năm vị nghĩa huynh, nghĩa đệ đến dự lễ tấn phong. Nhưng đúng thời gian đó, đại hiệp Trần Trí-Đức qua đời, nên các đệ tử phải cư tang không đi được. Vương đành sai người đến điếu tang. Sau đó những biến cố dồn dập diễn ra, vương cùng Thiên-trường ngũ kiệt không được gặp nhau.
Cho đến ngày Lê Long-Đĩnh đem quân đánh Thanh-hóa, vương xấu hổ, ẩn danh, đến nay mới xuất hiện. Cái đặc điểm là trong thời gian ẩn thân, ông theo dõi rất kỹ hành trạng của võ lâm, của Thiên-trường ngũ kiệt. Thiên-trường ngũ kiệt ngược lại, không biết tin tức gì của ông. Họ không thể nào tưởng tượng nổi Hồng-Sơn đại phu với Lê Long-Mang là một.
Thanh-Mai được bố cưng chiều rất mực, nhưng chưa bao giờ được nghe bố kể lại cho nghe về thời thơ ấu của ông. Nàng biết Hồng-Sơn đại phu thương yêu đệ tử như con, nên nàng tò mò hỏi:
- Sư phụ. Hồi xưa bố con ngang lắm hả?
- Nếu nói rằng ngang, cũng thực ngang. Nói rằng tình cảm cũng thực tình cảm. Đại ca của ta, hà... hà ... không nghe lời bất cứ ai, ngoại trừ bạn với đệ tử. Hôm trước người với Vũ Anh tới đây, mà không báo trước.
Ông kể đến đó, Thanh-Mai thấy nét mặt các sư huynh đều cười nửa miệng. Nàng đoán bố mình đã làm một cái gì lạ lùng lắm, để lại trong lòng họ một kỷ niệm vui. Nàng hỏi Hoàng Giang:
- Sư huynh! Bố em đã làm gì?
Hoàng Giang bật cười:
- Sư muội đã biết trong Vạn-thảo sơn trang của chúng ta chia ra ba khu rõ rệt. Một là khu Văn-lang trong đó có điện Kinh-dương. Hai là khu Âu-lạc trong đó có điện Âu-cơ. Bà là khu Lĩnh-nam, trong đó có các vùng Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận, Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam. Trong điện Kinh-dương, sư phụ tạc tượng Tam-hoàng thờ. Sư muội có biết Tam-hoàng của ta với của Trung-quốc khác nhau thế nào không?
Thanh-Mai nheo mắt:
- Sư huynh làm như em con nít không bằng. Trong trang của bố em cũng thờ Tam-hoàng. Người Việt mình thờ Tam-hoàng có hai quan niệm. Một là Phục-Hy, Thần-Nông và Kinh-Dương. Hai là Kinh-dương, An-dương, Nhị-Trưng. Hôm đầu tiên đến Vạn-thảo sơn trang, thấy trong điện Kinh-dương thờ Kinh-Dương, An-Dương, Nhị-Trưng. Còn Tam-hoàng của Trung-quốc là Phục-Hy, Thần-Nông, Hoàng-Đế. Ta với Trung-quồc cùng tổ Phục-y, Thần-Nông. Triều đại Thần-Nông thứ tư trở đi, tức vua Đế-Minh mới chia ra làm hai. Bắc là vua Đế-Nghi tức Trung-quốc. Nam là vua Kinh-dương tức Đại-Việt mình.
Hoàng Giang thấy cô sư muội thông kim bác cổ, ông kinh sợ:
- Xin lỗi sư muội. Ta quên mất sư muội là con gái cưng của chưởng môn phái Đông-a nổi tiếng bác học. Để ta tiếp, Trong điện Kinh-dương sư phụ tạc tượng Tam-hoàng, xếp ngồi ngang nhau. Hai bên, mỗi bên người để tượng ba người, theo tư thế đối diện nhau. Tổng cộng sáu tượng. Đó là tượng Thiên-trường ngũ kiệt với sư phụ. Ý sư phụ muốn Thiên-trường ngũ kiệt với người lúc nào cũng phải noi gương Tam-hoàng.
Đến đây ông bật cười:
- Sáng hôm đó, ta cùng mấy sư huynh đệ lên điện Kinh-dương lễ. Như thường lệ ta cho đặt xôi, gà, trái cây lên bàn thờ, rồi xì xụp lạy. Sau khi lễ, ta ngồi đọc sách. Ta đọc được mấy trang, thấy con gà trên bàn thờ biến mất. Hai đĩa xôi chỉ còn một nửa. Hai tượng đang ăn xôi, tay cầm đùi gà nhai tóp tép.
Hoàng Giang kể đến đó, từ Hồng-Sơn đại phu cho đến các đệ tử đều cười lăn cười lộn.
- Ta kinh hoàng, mở to mắt nhìn, thấy tượng của thân phụ sư muội và tượng của sư thúc Vũ Anh đang xơi thịt gà với xôi. Ta cho rằng hai vị chết rồi hiện hồn về, vội quỳ xuống khấn : Sư bá, sư thúc hẳn qua đời rồi, nay linh thiêng về chứng giám. Xin anh linh hai vị chờ một lát. Đệ tử thỉnh sư phụ đến. Sư phụ đệ tử nhớ hai vị lắm. Tượng sư thúc Vũ Anh nói : Hay lắm, người mau đi gọi sư phụ đến. Vì chúng ta từ trên Thiên-cung chỉ giáng hạ có một lúc thôi. Ta chưa kịp đi mời, thì sư phụ đã tới. Người nhảy xổ lên, ôm lấy thân phụ sư muội, rồi hai vị khóc như trẻ con.
Thanh-Mai không biết bố đã ước hẹn gì với Hồng-Sơn đại phu. Nàng vờ hỏi:
- Sư phụ! Bố con tới chơi mấy ngày rồi lại đi?
- Sư huynh ta ở lại mười lăm ngày. Trong mười lăm ngày, hai ta bàn truyện làm thế nào cho nước giầu dân mạnh. Làm thế nào để nước Việt mình vĩnh viễn không sợ người Hoa sang chiếm. Chúng ta phác họa chương trình bốn giai đoạn. Hôm nay ta loan báo cho phu nhân cùng các đệ tử biết.
Ông đưa măt nhìn Dương Bình:
- Con trình bầy bốn giai đọan đi.
- Giai đoạn thứ nhất, chiếm lại quyền trị nước từ họ Lý. Sư phụ tạm giữ quyền cai trị.
Thanh-Mai đưa mắt nhìn Huệ-Phương. Hai người như cùng ý nghĩ:
- Hỏng to rồi. Hai ông này mà hợp lại e nghiêng nước mất. Không biết chàng phản ứng ra sao?
- Giai đoạn thứ nhì, liên kết võ lâm Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la, Đại-Việt, Đại-lý, Mân-Việt tức các vùng Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-nam. Tổ chức đại hội anh hùng, bầu người thủ lãnh. Như xưa kia đã bầu vua An-dương thời Âu-lạc vua Trưng thời Lĩnh-nam.
Thanh-Mai hỏi:
- Như vậy sư phụ không làm vua nữa sao?
Hồng-Sơn đại phu dơ bàn tay làm hiệu gõ vào đầu Thanh-Mai:
- Con bé này! Mi chỉ biết kính, biết yêu sư phụ, mà không hiểu sư phụ tý nào cả.
Thanh-Mai chù mỏ ra:
- Con có gần sư phụ nhiều đâu mà biết. Bố con cũng mới tìm được sư phụ, nên trước đó đâu biết gì mà dạy bọn con.
Thiếu-Mai ôm lấy vai Thanh-Mai:
- Đúng đấy. Để em nói về bố cho Thanh-Mai biết. Này Thanh-Mai. Nếu bố Thanh-Mai chủ trương tiêu dao với cỏ cây. Nhưng khi nước hữu sự lại xách gươm bảo vệ. Thì ngược lại bố em chủ trương, trước hết đòi quyền hành từ kẻ vô tài bất đức tức họ Lý lại, để rửa tiếng xấu rằng họ Lê không phải toàn như bác Ngọa-triều. Sau đó đại hội võ lâm anh hùng thiên hạ, cử người tuấn kiệt ra lãnh đạo. Bấy giờ bố em sẽ phủi tay vui với cỏ cây như Nghiêm Tử-Lăng thời vua Trưng. Chứ bố em đâu có thích làm vua!
Huệ-Phương tiếp:
- Tôi với phu quân cùng một ý nghĩ. Làm vua như bác Long-Đĩnh mới sướng thân xác nhưng làm nhục tổ tiên, làm cho nước khổ, dân nghèo. Còn làm vua, mà phải lo cho nước giầu dân mạnh thì đâu có sướng? Làm vua bất quá được dân kính sợ trước mặt, nhưng không biết người ta giết lúc nào. Còn Hồng-Sơn đại phu hiện khắp thiên hạ đều cảm đức, thì làm đại phu hơn làm vua. Thứ nhì, làm vua bất quá nhiều tiền, nhiều của, nhưng cũng đến ngày ba bữa. Vì vậy cho nên sau khi đại hội anh hùng thiên hạ xong, lập tức lui về ngao du thắng cảnh đất nước.
Thanh-Mai hỏi:
- Sư phụ, giả như có người nào đó, được anh hùng thiên hạ phục vì đức, vì tài. Người đó nguyện gánh nhiệm vụ đòi ngôi vua nhà Lý. Sư phụ có lui lại, để người đó hành sự không?
Hồng-Sơn đại phu nói:
- Lui, lập tức ta lui. Nếu có người như vậy, bố cháu cũng lui. Nhưng hiện giờ ta chưa thấy ai có khả năng đó.
Thanh-Mai nhìn Huệ-Phương, nàng thấy Huệ-Phương nháy mắt, ý muốn ngăn cản nàng nói về Khai-Quốc vương. Nàng vội vàng ngừng lại, nói lảng:
- Sư huynh! Giai đoạn ba là gì?
- Giai đoạn ba, cùng vị vua Đại-việt mới bầu lên hết sức khuếch trương văn học, thao luyện võ công, dẫn dắt dân chúng canh tác. Chỉ ít năm sau nước giầu dân mạnh. Bấy giờ chuyển sang giai đọan thứ tư, liên kết với các nước Liêu, Kim, Tây-hạ, Thổ-phồn cùng tiến công tiêu diệt Tống. Cắt Tống làm nhiều mảnh. Đại-việt không chiếm đất Tống, mà chỉ đòi lại đất nước như hồi Lĩnh-nam, tức nay gồm Lưỡng-Quảng, Đại-lý.
Dương Bình tiếp:
- Chúng ta đang ở giai đoạn một. Chỉ còn mấy ngày nữa, đại hội anh hùng võ lâm Đại-việt. Trước đây, khi vua Ngọa-triều băng, con còn thơ ấu. Sư phụ lại qui ẩn, cho nên Vạn-Hạnh thiền sư mới đề nghị cho Lý Công-Uẩn lên tạm quyền. Võ lâm im lặng, không có phản ứng gì. Nay sư phụ xuất hiện. Chúng ta có nguyên một phái Sài-sơn, người nhiều, đức thịnh. Lại được phái Đông-a, người còn nhiều hơn, hết sức hỗ trợ. Gần đây, không hiểu sao, bọn Hồng-Thiết giáo tự nhiên cũng cho người về qui phục. Bọn này tuy tà môn, nhưng chúng cũng có quá khứ yêu nước. Hôm rồi, Nguyên-Hạnh đại sư ở chùa Sơn-tĩnh cử người về tỏ ý hoan hô sư phụ đòi lại ngôi vua. Đại sư Nguyên-Hạnh ngang vai với quốc sư Minh-Không, trị sự trưởng chùa Sơn-tĩnh, thống lĩnh mấy vạn thiếu niên Hồng-hương.
Thanh-Mai nghe nói lạnh người. Vì nàng biết rằng Thuận-thiên hoàng đế hoàn toàn dựa vào phái Tiêu-sơn để được làm vua. Mà chi nhánh của Tiêu-sơn là Sơn-tĩnh. Lực lượng Sơn-tĩnh có tổ chức Hồng-hương thiếu niên, rất đông đảo. Nguyên-Hạnh qui phục Hồng-sơn, tức phản phái Tiêu-sơn. Như vậy coi như lực lượng Tiêu-sơn còn có một nửa.
Dương Bình chờ cho cử tọa im lặng, tiếp:
- Lý Công-Uẩn dựa vào 207 khê động Bắc-biên do con gái làm vua Bà cai trị. Nhưng trong 207 Khê-động đó, sắc dân Nùng mạnh, đông hơn cả. Nùng Dân-Phú, đứng trên hết thống lĩnh mười châu Quảng-nguyên. Dưới có con tên Nùng Tồn-Phúc thống lĩnh châu Thảng-do. Nùng Tồn-Lộc thống lĩnh châu Vạn-nhai. Cháu tên Dương-Đạo thống lĩnh châu Tả-giang. Y còn có đệ tử tên Lý Tự thống lĩnh châu Thất-nguyên. Uy tín Dân-Phú muốn lấn át vợ chồng Thân Thừa-Qúi. Hôm rồi, cha con Dân-Phú cũng thân đến Vạn-thảo sơn trang xin qui phục.
Thanh-Mai tuy bề ngoài im lặng, mà trong lòng than thầm:
- Hỏng bét. Làm sao bây giờ?
- Trong lúc anh hùng đại hội, sư phụ xuất hiện, đặt vấn đề với đại sư Minh-Không chùa Tiêu-sơn về vấn đề chính thống của ngôi vua Đại-việt. Bấy giờ võ lâm anh hùng đều lên tiếng đòi Lý Công-Uẩn thoái vị. Nhân đó sư phụ cũng hứa để cho họ Lý vẫn được an toàn.
Huệ-Phương hỏi Hồng-sơn đại phu:
- Anh. Em có thắc mắc. Tỷ dụ Lý Công-Uẩn không chịu thoái vị. Không lẽ bấy giờ anh hùng thiên hạ chia hai, phe ủng Lý đánh nhau với phe ủng Lê. Thế thì Đại-việt tan nát hết. Chúng ta có thắng thế, mà võ lâm mười phần chết tám chín, còn hy vọng gì nước giầu, dân mạnh, để đòi đất cũ?
Dương Bình kính cẩn:
- Thưa sư mẫu, trong kế hoạch đã dự trù điều đó. Hôm trước Bình-nam vương nhà Tống có đến đây. Vương gia hứa trong lúc đại hội võ lâm, phía Nam quân Chiêm kéo đến biên cương. Phía Tây quân Lào ép vùng Thanh-hóa. Phía Bắc đại quân Tống đóng trọng binh ở Ung, Liêm châu. Ngoài khơi chiến thuyền đậu ở Nam-hải. Nếu Công-Uẩn không lui, khó giữ được ngôi.
Huệ-Phương lắc đầu:
- Khó lắm. Tôi sợ một mặt Lý không lùi. Võ lâm Đại-Việt đang giết nhau, phương Nam quân Chiêm, Lào tiến vào. Bắc quân Tống kéo sang, chúng ta thành Lê Đạo-Sinh thời Lĩnh-nam mất.
Nàng nghiêng khóe mắt phụng, hướng khuôn mạt tươi như hoa nhài ban mai:
- Anh ơi! Mình mưu cầu cho nước giầu dân mạnh, mà lại dựa trên bọn gian xảo nhà Tống, bọn hèn hạ Chiêm, Lào, còn chi thể diện con cháu vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng?
Hồng-Sơn đại phu thấy kiến thức vợ mình quả không tầm thường. Bà trông rộng nhìn xa muốn hơn ông. Ông cúi đầu suy nghĩ một lúc, rồi nói:
- Ta chỉ ép Lý. Nhưng cho Lý một thời gian ba tháng suy nghĩ. Như vậy võ lâm Đại-Việt không thể ché
Hồng-Sơn đại phu lắc đầu:
- Trước khi trị, anh bắt chúng hứa rằng sẽ làm bất cứ việc gì anh sai khiến. Chúng đã tuyên thệ. Sau khi trị khỏi bệnh rồi, Hoàng Giang định bắt chúng tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của anh trong việc đòi ngôi vua từ Lý. Nhưng nghĩ lại, mình đường đường là đại tôn sư, lấy đức trị người, lấy y đạo cứu người, mà lại bắt cháu chống ông, thực quả là đồ bất nhân. Như vậy anh hùng thiên hạ, ai theo mình? Cho nên, anh chỉ bắt chúng thề không được chống mình là đủ.
Huệ-Phương nắm tay chồng, ánh mắt nàng chan chứa tình cảm, nhưng long lanh như hạt sương sớm. Mặt nàng tươi như hoa hải đường:
- Em có ông chồng đạo đức như vậy, thực không uổng tấm nhan sắc.
Thiếu-Mai hỏi Thanh-Mai:
- Sư tỷ. Sư tỷ định dự đại hội võ lâm với phái Sài-sơn hay phái Đông-a?
Thanh-Mai đưa mắt hỏi ý kiến sư phụ. Hồng-sơn đại phu vẫy tay:
- Con phải trở về với phái Đông-a ngay. Bố con đang mong đợi con lắm đó. Bố cũng như bốn chú con đều lo lắng về tình hình sức khỏe của con. Vậy con nên về cho sớm. Ngày mười rằm ta sẽ gặp con.
Tan họp, Huệ-Phương dắt Thanh-Mai dạo chơi khu trồng hoa của y viện Yên-Lãng. Hai người đẹp đi giữa muôn hoa tươi thắm, tà áo bay phầt phới. Nhìn trước nhìn sau không có ai, Huệ-Phương nói nhỏ vào tai Thanh-Mai:
- Thanh-Mai này. Truyện mình với Khai-quốc vương, Thanh-Mai biết rồi chứ?
Thanh-Mai đáp nhỏ:
- Khi Thanh-Mai về Thăng-Long, mới được vú Tú thuật cho biết. Thực sự, chàng gặp phu nhân là yêu ngay. Say đắm phu nhân. Yêu phu nhân, chàng muốn phu nhân hạnh phúc. Nhưng giữa cái ích kỷ nhắm mắt hưởng thụ, với cái tạo hạnh phúc cho phu nhân, chàng chọn lối hành động thứ nhì.
Huệ-Phương nắm chặt tay Thanh-Mai:
- Em thực có diễm phúc. Trước khi về với phái Đông-a, em phải gặp chàng trước, cho chàng biết hết tình hình. Bọn Tống mưu đồ sâu sa lắm. Hiểm độc không chừng. Chúng chỉ mong sao cho võ lâm Đại-Việt chém giết nhau, tinh lực yếu đi. Ta biết hết. Ta tuy làm vợ đại phu, nhưng không dám nói thực âm mưu bọn Tống ra. Nói chưa chắc chàng tin, mà có khi chàng còn nghi ngờ nữa.
- Ý phu nhân muốn nói???
- Dù đại phu thiết kế sao, cũng nằm trong việc Tống mưu cướp nước mình. Bọn mình tuy phận gái. Song đạo lý tộc Việt định: Khi nước hữu sự, trách nhiệm gái trai chung. Hai ta phải nắm lấy vụ này.
Nàng ngửa mặt nhìn trời:
- Đây thuộc âm mưu cướp nước của bọn Tống. Một mặt chúng cho Dương-Bá tức Nguyên-Hạnh trường kỳ mai phục ở phái Tiêu-sơn chạy theo đại phu. Như vậy phái Tiêu-sơn bị chia hai. Một mặt, chúng lôi kéo bọn Nùng Dân-Phú, chia đôi lực lựơng Bắc-biên theo đại phu. Ta sợ, giờ phút trót, phái Mê-linh, Tản-viên cũng khó tránh khỏi nạn chia rẽ. Đương nhiên giữa anh hùng đại hội, phu quân ta cùng Thiên-trường ngũ hiệp ép Lý Công-Uẩn thoái vị, sẽ được anh hùng thiên hạ theo. Võ lâm chia hai đánh nhau. Cuối cùng, Lý cho giáp sĩ xuất hiện. Thắng hẳn về Lý. Lý thắng, sẽ lệnh cho các quan địa phương tiêu diệt hạ tầng cơ sở Sài-sơn, Đông-a, Sơn-tĩnh, Nùng Dân-Phú. Các nơi kia trước thế nguy phải chống lại. Thế là trên toàn quốc có chiến tranh tự diệt. Đợi cho hai bên kiệt quệ, bấy giờ Tống chỉ cho một đạo quân sang... Cái nạn mất nước sao thoát khỏi?
Thanh-Mai rùng mình tỏ ý cương quyết:
- Như vậy em phải khuyên chàng nên lui hay sao? Nghĩa là chàng không nên dùng giáp sĩ, cố tránh nạn võ lâm tương tàn?
- Ý chị không phải thế. Chị muốn nói rằng, em khuyên chàng nên có hành động thích hợp mà thôi.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái bái tạ Hồng-Sơn đại phu, rời y viện Yên-lãng lên đường về Thăng-long.
Mỹ-Linh đã hẹn gặp Huệ-Phương nói truyện với nhau, nhưng bây giờ nàng không thấy Huệ-Phương đâu, đành cùng Thiệu-Thái ra về.
Lần đầu tiên Mỹ-Linh được đi ra ngoài tự do một mình. Hai người rời y viện Yên-lãng, đi dọc theo bờ sông. Mỹ-Linh hỏi Thiệu-Thái:
- Từ đây đến chỗ đóng của đạo quân Đằng-hải không xa. Chúng mình tới đó đưa thẻ bài của chú hai ra, mượn hai con ngựa, về Thăng-long.
Thiệu-Thái nói nhỏ:
- Ngàn năm một thủa chúng mình được đi chơi thế này, anh em mình thuê xe ngựa trở về thích hơn. Chúng ta ra chợ Cửa-Bắc ăn quà đi.
Nghe nói đến ăn quà, mặt Mỹ-Linh tươi lên:
- Ừ nhỉ, nhưng em không mang theo tiền.
Thiệu-Thái sờ tay vào túi, may quá, trong túi có một đĩnh bạc, chàng nói:
- Một đĩnh bạc này, đủ cho hai anh em mình ăn quà đến một tháng.
Chợt nhớ ra điều gì, Mỹ-Linh nói nhỏ:
- Thôi không ăn quà nữa, về mau. Trễ, chú hai không lột da, cũng đánh què.
Thiệu-Thái cười:
- Em thông minh thì thông minh thực, nhưng không hiểu thấu ý cậu hai. Tại sao lúc đi, cậu lại bắt anh em mình mặc quần áo nâu như con nhà nông dân? Đó, cậu đã dự trù trường hợp chúng mình lẫn vào dân chúng, không ai chú ý. Tức cậu hai cho phép chúng mình đi ăn quà.
Hai người vượt qua xóm Thượng, đến cửa Bắc. Chợ Cửa-Bắc đang ngày phiên, dân chúng các vùng xung quanh như Uy-nỗ, Dục-nội, Dục-tú, Cương-nỗ, Kính-nỗ kéo nhau về buôn bán.
Thiệu-Thái đã từng ra ngoài, kinh nghiệm nhiều, chàng dẫn Mỹ-Linh len lỏi vào chợ, qua khu bán tơ, vải, đến khu bán ngũ cốc. Hết khu ngũ cốc, đến khu hàng quà. Khu hàng quà họp trong bốn cái đình. Các bà bán quà thấy một cặp thiếu niên ăn mặc như trẻ con nhà quê. Họ tuyệt không ngờ đó là công chúa, thế tử.
Mỹ-Linh thấy hàng bún ốc, nàng thèm quá, kéo áo Thiệu-Thái:
- Anh ơi, ngồi đây đi.
Hai người ngồi xuống hai cái ghế thấp. Cô hàng bún ốc đon đả mời:
- Cô cậu xơi bát to hay bát nhỏ.
Thiệu-Thái biết người yêu tham ăn, mà dạ dày lại nhỏ quá, chàng nói:
- Chị cho tôi hai bát nhỏ.
Cô hàng bốc bún bỏ vào bát, lấy đũa gắp rau thơm, rau muống chẻ nhỏ như sợi tóc, ngâm nước cong queo để lên trên bún. Cô gắp thêm tý mắm tôm, ba lát ớt, rồi múc ốc trong nồi bằng đồng, đang đun sôi sục đổ lên trên. Nước nấu ốc có váng mỡ vàng ngậy, tẩm ngay vào những sợi bún.
Thiệu-Thái, Mỹ-Linh bưng bát bún ốc ăn. Mỹ-Linh hỏi:
- Chị ơi, rau thơm ăn bún ốc bắt buộc phải là kinh giới, tía tô với ngổ hay sao, mà chị không cho húng.


<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2005 10:48:58 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 11.01.2005 17:55:21 (permalink)
    Hồi thứ bốn mươi bẩy


    Đại Việt Hồng Thiết Giáo


    Cô hàng được dịp trổ tài:
    - Không phải thế. Như nếu về mùa Đông, rau muống không có, thì ăn bún với rau riếp. Rau riếp hơi tanh, phải dùng lá tỏi non, lá mùi, hành lá chẻ. Bây giờ đang mùa Thu ăn với rau muống thì phải dùng kinh giới, tiá tô với ngổ. Ấy là lá thơm ăn sống. Còn gia vị nấu với bún ốc, phải là xương xông với lá lốt, nếu không thì tanh lắm.
    Phía sau hàng bún ốc là hàng chả cá. Hàng chả cá có nhiều người ăn, bà hàng chả cá cùng cô con gái đang ra sức tiếp khách. Cậu con trai hì hục quạt lửa, khói lên mù mịt. Khách vừa ăn, vừa dụi mắt.
    Mỹ-Linh trông thấy chả cá, hỏi bà hàng:
    - Bà cho anh em chúng tôi ăn đi.
    Nghe hỏi, bà hàng biết ngay hai cô cậu này chưa từng ăn chả cả ở chợ bao giờ. Vì những người ăn quà ở chợ, họ sẽ nói bà cho tôi một xâu, hay hai xâu, chứ không bao giờ nói trống không như vậy.
    Bà không nói gì, cười toe toét:
    - Cô câu chờ một tẹo đi.
    Bà gắp bún cho vào bát. Tay bà bốc đậu lạc xay rắc lên trên, lại ít rau thơm thái nhỏ rắc đều trên mặt bún. Bà lấy một cái bát nhỏ, múc mắm tôm chanh, lẩn vẩn có mấy khoanh ớt đỏ, rồi cầm bình cà cuống nhỏ vào vài giọt.
    Cô con gái để bốn xâu cá tẩm nghệ vàng ngậy trên đĩa, lòng đĩa lót đầy thì là, bầy ra trước mặt hai người. Cô lấy rau muống chẻ, rau thơm bỏ vào cái rổ, chỉ lớn bằng cái bát ăn canh đưa cho Mỹ-Linh:
    - Cô xem này, rau muống tôi chẻ có tinh không? Rău muống ăn với chả cá phải đủ năm thứ rau thơm: kinh giới, tía tô, tỏi, hành, mùi. Thiếu một thứ là mất ngon.
    Cậu con trai quạt nồi đun mỡ sôi sục. Cậu nói lớn:
    - Tránh ra, tránh ra, phỏng da, cháy thịt.
    Cậu đổ mỡ sôi lên hai đĩa cá. Mỡ gặp cá, nổ lên những tiếng lép bép. Muì cá, mùi gia vị bị mỡ đốt chín bốc lên thơm lừng.
    Thiệu-Thái, Mỹ-Linh định cầm đũa ăn. Bà hàng nói:
    - Khoan, cô cậu ơi, mỗi gắp cá, một gắp rau thơm, một gặp bún, thêm miếng bánh đa, một hột đậu lạc nữa, mới đủ mùi vị.
    Hai người không nói, không rằng, vừa ăn, vừa ngẫm nghĩ hương vị quê hương, đồng ruộng đất Việt. Mỹ-Linh chú ý đến ngón tay cậu con trai. Cậu dùng ngón trỏ vẽ vẽ trên mặt cái mâm, trong khi cậu nháy nàng. Mỹ-Linh kinh hãi:
    - Không lẽ cậu là người của Khu-mật-viện?
    Cậu vừa viết vừa hát nghêu ngao:

    Hò la, hò lẩy,
    Con gái bẩy nghề.
    Ngồi lê là một.
    Dựa cột là hai.
    Nói dai là ba.
    Ăn quà là bốn,
    Trốn việc là năm.
    Hay nằm là sáu.
    Hay cáu là bẩy.


    Trong khi hát, tay cậu viết mấy chữ:
    - Theo dõi bọn Tống, chúng đang vào chợ. Không cần về Thăng-long vội.
    Mỹ-Linh nheo mắt tỏ vẻ hiểu biết. Nàng vừa ăn vừa quan sát.
    Ăn xong Mỹ-Linh nói nhỏ:
    - Ăn ở chợ thế này, vừa ăn, vừa dụi mắt vì khói cay mới ngon. Chứ ăn ở phủ, người đầu bếp dọn lên, thiếu hẳn không khí ồn ào, mất đi một nửa cái ngon.
    Nàng vừa nói đến đó, thì thoáng thấy phía bên kia đình chợ, Triệu Huy đi với một người lạ. Cả hai mặc quần áo nâu, đội nón lá như nông dân Việt. Nàng thúc cúi chỏ vào hông Thiệu-Thái. Thiệu-Thái ngơ ngác không hiểu gì. Nhưng chàng vốn tuân phục Mỹ-Linh, thấy Mỹ-Linh đưa mắt ra hiệu, chàng không hỏi thêm. Mỹ-Linh nói nhỏ:
    - Anh trả tiền mau, có chuyện.
    Thiệu-Thái vội trả tiền. Mỹ-Linh lôi chàng đứng khuất sau cột đình, rồi chỉ cho thấy Triệu Huy.
    Thiệu-Thái kinh ngạc:
    - Bọn này âm mưu gì đây, nên mới ẩn thân vào lớp áo dân chúng. Anh em mình theo sát, để có thể khám phá ra kịp thời.
    Triệu Huy không biết bị người theo dõi, y thản nhiên len lỏi đi trong chợ. Qua chợ, y theo người kia đi vào một ngõ nhỏ. Ngõ chỉ vừa hai người đi. Hai bên là hai hàng dậu dăm bụt cắt xén cực kỳ tinh vi.
    Thiệu-Thái, Mỹ-Linh theo bén gót bọn Triệu Huy. Đi hết hàng dậu dâm bụt, tới hàng dậu trúc, có cái cổng nóc lợp ngói. Người đi cùng Triệu Huy giật chuông. Cánh cổng mở. Hai người bước vào, cổng đóng lại.
    Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nhìn trước, nhìn sau không có ai, hai người vọt mình qua hàng dậu trúc vào trong vườn. Một con chó vàng to như con nghé thấy hai người thì đứng xổ dậy định sủa. Thiệu-Thái móc tay vào miệng rít lên mấy tiếng như tiếng chó mừng. Con chó chạy lại vẫy đuôi.
    Mỹ-Linh không ngạc nhiên, vì hồi đi cùng Bảo-Hòa, nàng đã thấy bà chị họ giả tiếng chó nhiều lần. Hôm ở Hồng-hương cốc, Thiệu-Thái cũng dùng tiếng loài chó, dụ được đàn chó của Cao Thạch-Phụng.
    Mỹ-Linh núp vào dưới bụi hoa Mẫu-đơn, ghé mắt theo dõi bọn Triệu Huy. Còn Thiệu-Thái thì xoa đầu con chó.
    Từ cổng vào, qua cái ngõ nhỏ lót bằng những viên đá xanh dày. Hai bên có hàng rào trồng bằng những cây ngâu. Ngâu đang độ hoa nở vàng ối hương thơm ngào ngạt. Hết ngõ, tới cái sân gạch vuông mầu gạch cua. Trong sân, hai chậu cảnh, cắt tỉa thành hình đôi hạc, cao hơn đầu người. Giữa tọa lạc cái bể cạn. Trên bể trồng trúc.
    Sau sân sừng sững ngôi nhà ngói kiến trúc theo kiểu thời Văn-lang: bốn mái cong, lợp ngói đỏ. Giữa nóc, tượng một đôi hổ chầu ngọn lửa đỏ chói. Nhà làm trên nền khá cao. Từ sân phải leo lên chín bục mới tới hành lang. Bốn góc hành lang dựng thẳng bốn cột bằng ỗ lim, khảm xà cừ. Ánh sáng chiều vào xà cừ, phản chiếu ngũ sắc lung linh như ngọc. Sau lớp hành lang tới những cánh cửa rộng, lớn.
    Từ trong nhà, một người quần trắng, áo dài xanh, đầu quấn khăn như Nho sinh bước ra. Y chắp tay hành lễ với Triệu Huy:
    - Kính chào Triệu an phủ sứ. Tại hạ ngưỡng mộ uy danh an phủ sứ đã lâu. Hôm nay mới được diện kiến.
    Mỹ-Linh nghe tiếng nói của người này, bất giác nàng rùng mình. Y chính là Trương Yêm, một tên quản gia của phụ vương nàng.
    Nguyên niên hiệu Thuận-Thiên tứ tư (1013), ông nội nàng thân cầm quân đánh dư đảng của Hồng-thiết giáo ở vùng Hạc-xác, Kim-hoa, Vĩ-long. Phụ vương nàng theo trong quân. Sau khi phá giặc, quan quân giải phóng một số tù binh bị gịăc bắt giam. Trong số tù binh đó có Trương Yêm. Trương Yêm cảm kích, nguyện một đời xin làm nô bộc cho phụ vương nàng. Thuận-thiên hoàng đế thấy Trương Yêm tinh khôn, biết võ công, có ý muốn phong cho y chức quan nhỏ. Nhưng y từ chối, muốn làm nô bộc trả nghĩa mà thôi. Dần dần y trở thành người quản gia. Y làm việc liên miên ngày đêm. Tỳ nữ, bộc phụ, vệ sĩ trong vương phủ đều kính trọng y.
    Mỹ-Linh tự hỏi:
    - Tại sao tên Trương Yêm này lại đi với Triệu Huy. Nghe nói, y không vợ, không con. Tại sao y lại có dinh cơ to lớn như thế này?
    Triệu Huy vái dài:
    - Hoàng Văn tiên sinh quá khen, làm tại hạ ngượng ngùng.
    Mỹ-Linh kinh hãi:
    - Không lẽ tên Trương Yêm này lại là Hoàng Văn, một trưởng lão khét tiếng độc ác của Hồng-thiết giáo?
    Hoàng Văn mời Triệu Huy vào nhà. Mỹ-Linh nói nhỏ vào tai Thiệu-Thái:
    - Anh leo lên cây chay kia ẩn thân, bảo vệ em. Để em nghe xem xem chúng bàn truyện gì nghe.
    Thiệu-Thái không tâm vận sức vào hai chân, chàng nhún mình, vọt lên cành cây chay, ẩn vào chỗ lá rậm rạp, đưa mắt nhìn xung quanh. Không thấy có người, chàng bắt chước tiếng chim, hú sẽ ba tiếng. Mỹ-Linh phóng mình lên mái ngói. Nàng dùng chân móc vào mái nhà, rồi chuyền theo kèo, ghé mắt nhìn vào trong. Bất giác nàng ngẩn người ra.
    Bên trong, hơn mười người, ngồi xung quanh cái bàn hình bầu dục. Người ngồi đầu bàn là Triệu Thành, cạnh y còn Đông-Sơn lão nhân, Địch Thanh, Vương Duy-Chính, Triệu Huy, lão họ Hoàng. Phía bên kia ba người mặc quần áo theo lối Bắc-biên của người Nùng. Một người cụt tay, tuổi đã già. Một người khoảng sáu mươi, thân thể hùng vĩ. Một người nàng đã biết mặt, đó là tên Lý Tự, thủ lĩnh châu Thất-nguyên, nằm giữa biên giới Ung-châu nhà Tống với Đại-việt. Ngoài ra còn môt ni cô, tuổi đã già, và một người đàn ông tuổi khoảng bẩy chục, mặt lúc nào cũng cúi gầm xuống.
    Tên Trương Yêm đứng lên chắp tay hướng Triệu Thành hành lễ:
    - Khải tấu vương gia, anh em thần tuy ở phương trời xa, lúc nào cũng mỏi mắt ngưỡng cổ nhìn về Bắc, mong đại quân Thiên triều, chỉ ngọn cờ xuống Nam, cùng nhau ra sức phò tá, để tỏ tấm lòng trung nghĩa. Thần xin trình với vương gia, các anh hùng hiện diện hôm nay.
    Y chỉ vào người cụt tay:
    - Vị này là thủ lĩnh mười châu vùng Quảng-nguyên, họ Nùng tên Dân-Phú. Nùng đại huynh võ công trác tuyệt. Hồi còn trẻ, một thanh kiếm chinh phục hết các sắc dân Nùng, thống nhất thành châu Quảng-nguyên. Trước kia, bản triều chưa lập, Nùng đại huynh khuất thân theo về Đại-lý. Từ khi đức Thái-tổ, Khải-vận, Lập-cực, Anh-võ, Duệ-văn, Thần-đức, Thánh-công, Chí-minh, Đại hiếu hoàng đế dựng nước, Nùng đại huynh là người đầu tiên gửi sứ thần về qui phục.
    Mỹ-Linh cười thầm:
    - Bọn hủ Nho nhà Tống nịnh chúa đến thế là cùng. Cái ông Triệu Khuông-Duẫn cướp ngôi của người ta, mà khi chết, họ chắp đến hai mươi chữ để gọi. Tại sao không gọi là Tống Thái-tổ có gọn không?
    Nùng Dân-Phú đứng dậy, chắp tay hướng Triệu Thành hành lễ. Triệu Thành nở nụ cười nham hiểm. Hai mắt y tít lại:
    - Nùng tên sinh có biết tại sao trước đây triều đình chưa phong chức tước cho tiên sinh không?
    Vương Duy-Chính đáp:
    - Thần đã gửi tấu chương về triều, nhưng chưa thấy chiếu chỉ ban ra.
    Triệu Thành lắc đầu:
    - Cô gia muốn giữ kín hành tung cho Nùng tiên sinh, nên lưu chiếu chỉ lại cho đến hôm nay, lát nữa cô gia sẽ tuyên đọc thánh chỉ phong chức tước cho Nùng tiên sinh. Chức tước của tiên sinh có đẳng cấp chính đáng, chứ không phải cái chức hàm làm thủ lĩnh mười châu của Đại-lý phong cho đâu. Bọn Đại-lý có mắt như mù, một nhân tài như Nùng tiên sinh mà chúng không phong cho lấy một chức quan xứng đáng.
    Mỹ-Linh nghĩ thầm:
    - Triều Tống nhân tài có hàng vạn, thế mà Triệu Thành lãnh đạo được, quả y có tài. Y chỉ nói mấy câu, vừa mua lòng bọn họ Nùng, vừa chia rẽ với Đại-lý. Gớm thật!
    Triệu Thành tiếp:
    - Tương lai, một giải Bắc-biên, triều đình sẽ phong cho Nùng tiên sinh làm vua. Con cháu đời đời kế nghiệp. Biết đâu, đời sau, con cháu hưng thịnh lên, cất quân chiếm Đại-lý, triều đình cũng sẽ phong cho. Bấy giờ đường đường một triều đại văn thành, võ đức, thua gì Lý Công-Uẩn?
    Trương Yêm chỉ người to lớn ngồi cạnh Nùng Dân-Phú:
    - Vị này là trưởng nam của Nùng đại huynh tên Tồn-Phúc. Hiện Nùng đại huynh tuổi hạc đã cao, cho nên mọi quyền hành mười châu đều do Tồn-Phúc thống lĩnh. Võ công Tồn-Phúc rất cao thâm. Năm trước đây, đấu với Đặng Đại-Khê chưởng môn phái Tản-viên hơn trăm chiêu, bất phân thắng bại.
    Nùng Tồn-Phúc đứng dậy hành lễ.
    Triệu Thành gật đầu:
    - Đại-Khê là một trong Đại-Việt ngũ long, mà Nùng huynh đấu ngang tay, thì bản lĩnh Nùng huynh đã đến chỗ tối cao vậy.
    Mỹ-Linh nghe giọng nói Trương Yêm, nàng càng kinh ngạc:
    - Nghe y nói, rõ ra giọng kẻ cả với Nùng Tồn-Phúc, ngang với Nùng Dân-Phú. Vậy trước khi theo phụ vương nàng, địa vị trong võ lâm của y không tầm thường.
    Trương Yêm chỉ vào ni cô già:
    - Vị này là Hoàng-Liên sư thái, sư thúc của Tịnh-Tuệ, chưởng môn phái Mê-linh.
    Bọn Triệu Thành cùng bật lên tiếng “úi chà”. Vương Duy-Chính nói:
    - Tại hạ ở Trung-nguyên nghe danh sư thái như sét nổ bên tai. Nào kiếm thuật vô địch Đại-Việt, Đại-Lý. Nhất là hai cao đồ của người, nổi danh Hoàng-liên-sơn thần kiếm. Chưởng môn phái Mê-linh Tịnh-Tuệ, sư muội Tịnh-Huyền đều bại dưới tay hai vị. Sư thái ẩn trên tuyệt đỉnh Hoàng-liên-sơn đã lâu. Nay mới hạ sơn, phò tá thánh chúa.
    Mỹ-Linh kinh hoàng nghĩ:
    - Hôm trước đại hiệp Trần Tự-An bàn về phái Mê-linh có nhắc đến mụ Hoàng Liên này. Nghe nói hồi còn trẻ võ công mụ rất cao thâm, kiếm thuật thần thông. Hoa-Minh thần ni, sư phụ của thái cô Tịnh-Huyền bại dưới tay thị. Đáng lẽ thị được truyền chức chưởng môn, nhưng thị lại tằng tịu với chính nam đệ tử của mình. Việc bại lộ, thị bị khai trừ khỏi môn hộ. Thị tức giận bỏ lên núi Hoàng-liên-sơn thu nhận học trò, lập ra Hoàng-liên bang. Hoàng-liên bang qui phục Nhật-hồ lão nhân, đi lại trên giang hồ làm không biết bao nhiêu việc ác độc. Võ lâm Đại-Việt nghe đến tên mụ đều táng đởm kinh hồn.
    Hoàng-Liên cười:
    - Hễ thánh thiên tử tỏa hào quang tới đâu, thì dù tiên, dù thánh cũng phải tuân theo.
    Trương Yêm lại chỉ lão già to lớn:
    - Vị này họ Đỗ tên Xích-Thập, sư thúc Đặng Đại-Khê.
    Địch Thanh bật lên tiếng ái chà:
    - Đỗ tiên sinh. Phải chăng trước đây tiên sinh chỉ đánh có ba chưởng, khiến vô địch thần quyền Giang-hạ bỏ mình chăng?
    Đỗ Xích-Thập mỉm cười:
    - Một chút tiếng tăm, không bõ cho Địch trạng nguyên cười.
    Địch Thanh hướng Triệu Thành:
    - Mừng cho vương gia. Đỗ tiên sinh chịu xuất động theo vương gia, thì không còn sợ gì Đại-việt ngũ long nữa.
    Vương Duy-Chính chỉ vào Trương Yêm nói:
    - Vị này họ Hoàng tên Văn, trước đây sang Trung-nguyên phò giúp Thiên-triều. Khi đến tuổi già, xin được về Giao-chỉ nghỉ ngơi, nhưng lúc nào cũng hướng về Trung thổ. Hoàng tiên sinh là đại diện của Bình-nam vương gia. Khi vương gia ban lệnh cho các vị, sẽ ban qua Hoàng tiên sinh.
    Mỹ-Linh tỉnh ngộ:
    - Thì ra Trương Yêm là người của Khu-mật viện nhà Tống cài vào Đại-việt cũng giống như Nguyên-Hạnh. Nguy thực. Y ở trong vương phủ, bất cứ động tĩnh gì của triều đình y cũng biết, rồi cung cấp cho Tống.
    Đến đó bỗng Triệu Huy run run chây tay, mặt tái mét đi, dường như đau đớn lắm. Y lui lại phía sau, ngồi vận công. Hoàng Văn, Đỗ Xích-Thập, Hoàng Liên mặt tái mét đưa mắt nhìn nhau, rồi hỏi Triệu Thành:
    - Vương gia. Triệu an phủ sứ bị bệnh gì vậy?
    Triệu Thành thở đài:
    - Cách đây hơn tháng, cô gia cùng sứ đoàn trên đường từ Thiên-trường về Thăng-long. Giữa đường gặp một bọn cướp. Chúng ta giao chiến với chúng, rồi bị trúng độc.
    Hoàng-Liên mặt càng sợ hãi hơn:
    - Sứ đoàn có bao nhiêu người bị trúng độc?
    Triệu Thành thấy tình trạng dường như nguy kịch, y đáp gọn lỏn:
    - Toàn thể. Nhẹ nhất là Minh-Thiên đại sư. Nặng nhất là Quách Quỳ.
    Hoàng Văn cầm mạch Đông-Sơn lão nhân rồi hỏi:
    - Có phải sau khi giao chiến khoảng một giờ, thì lão sư cảm thấy tay sưng lớn, ngứa ngáy, lẫn đau đớn vô cùng. Rồi từ hôm đó tới giờ cứ mỗi ngày lên cơn một lần không?
    Đông-Sơn lão nhân chưa trả lời, thì Vương Duy-Chính, Địch Thanh đều lên cơn. Mặt tái mét, chân tay run rẩy, mồ hôi vã ra như tắm.
    Đỗ Xích-Thập trầm tư một lúc rồi nói:
    - Vương gia! Bọn đánh thuốc độc không thể là trộm cướp được. Bởi hắn biết xử dụng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Như vậy họ là đệ tử của Hồng-thiết giáo. Cứ như thần nghĩ, người có khả năng phát chưởng này, phải có công lực rất cao thâm. Như vậy điạ vị họ trong Hồng-thiết giáo không nhỏ. Giáo chúng Hồng-thiết giáo có thể giết lầm người chứ không bao giờ trộm cướp.
    Triệu Thành gật đầu:
    - Chúng tôi bị trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng ư? Tôi tưởng từ khi Quách Ngạn-Uy, Đỗ Ngạn-Tiêu chết rồi thì loại chưởng pháp kịch độc này bị thất truyền. Có ngờ đâu ngày nay vẫn còn người biềt xử dụng.
    Nói rồi y tường thuật giản lược vụ giao chiến trên sông Hồng-hà cho Hoàng Văn nghe.
    Bọn Hoàng Văn tuy làm tế tác cho Tống, nhưng chúng dấu nhẹm vụ chúng là trưởng lão trong hội đồng giáo vụ trung ương Hồng-thiết giáo. Hoàng Văn thì hoàn toàn lợi dụng Hồng-thiết giáo để phò trợ Tống. Ngược lại Đỗ Xích-Thập lại muốn mượn thế Tống, để làm giáo chủ. Còn mụ Hoàng Liên, là tình nhân của Xích-Thập. Mụ chẳng có chủ kiến gì.
    Nghe Triệu Thành tường thuật, Hoàng Văn đưa mắt liếc Xích-Thập, rồi nói bâng quơ:
    - Đúng thế thì ít ra người cầm đầu bọn giao chiến với vương gia phải có địa vị trưởng lão của Hồng-thiết giáo Trung-quốc hay Đại-Việt.
    Y hỏi lại Đông-Sơn lão nhân:
    - Bọn này chỉ giao chiến rồi bỏ đi, hay có gì khác không?
    - Có. Sau khi chúng đi, ta khám phá ra việc chúng trộm hết số vàng bạc, châu báu, cùng thơ tín tối mật của vương gia.
    Việc lấy trộm sách, cũng như vàng bạc châu báu là do Thanh-Mai sai tráng sĩ Thiên-trường làm, chứ không phải bọn Đại-lý. Nhưng bọn Tống tưởng là bọn Đại-lý.
    Triệu Thành là người nắm Khu-mật viện nhà Tống trong tay, gì mà y không hiểu những uẩn khúc của Hồng-thiết giáo Trung-quốc, Đại-Việt. Trước khi sang Đại-Việt, y đã nghiên cứu thực kỹ những người mà Khu-mật viện nhà Tống gửi sang làm gian tế.

    Ghi chú:
    Nguyên tắc căn bản của phép dụng gián tức gián điệp của Hoa-Việt cổ thời có ba điều. Một là cô tác. Tức người nào, nhóm nào hoạt động chỉ mình người đó, nhóm đó với Khu-mật viện biết mà thôi. Tránh cho nhóm khác, người khác biết. Sợ khi bị lộ, thì chỉ mất một nhóm, để khỏi mất hết. Hai là nghịch hành. Nghiã là hành động ngược lại với chủ đích. Như gian tế Tống gửi sang Việt, phải tỏ ra thù hằn với Tống, không đội trời chung. Ba là nhu nhuyễn. Nhu nhuyễn là lúc nào cũng đóng vai hiền lành, dễ thương, để người xung quanh không bới móc, đễ yên thân.

    Vì vậy y không cho nhóm Nguyên-Hạnh biết nhóm Hoàng Văn. Y biết rõ việc bang Nhật-Hồ Trung-quốc bị thất truyền thần công Hồng-thiết, hầu giải vĩnh viễn Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Ngay đến công thức chế thuốc giải, mỗi năm uống một lần, cũng thất truyền nốt. Chính vì vậy, mà Hồng-thiết giáo Trung-quốc chỉ có thể đánh người, làm cho người trúng độc. Bốn mươi chín ngày sau chết. Chứ chúng không thể cho thuốc giải, hầu bắt nạn nhân tuân theo mệnh lệnh chúng.
    Khi Triệu Thành gặp Nguyên-Hạnh hỏi về công thức chế thuốc giải, y trả lời rằng người duy nhất biết là Đỗ Lệ-Thanh. Nhưng Lệ-Thanh chết rồi, thành ra y cũng bó tay.
    Dọc đường từ Thanh-hóa về Trường-yên, Thiên-trường. Triệu Thành nghe nói Hồng-thiết giáo Trung-quốc sai người sang tìm tông tích Nguyên-Hạnh, Đỗ Lệ-Thanh. Bọn này còn đánh mấy chục thiếu niên Hồng-hương tử thương, mà Nguyên-Hạnh bó tay không trị được.
    Xích-Thập đưa mắt hỏi Hoàng Văn:
    - Dù người đánh là Hồng-thiết giáo Trung-quốc hay Đại-Việt, thì thuốc chữa cũng giống nhau.
    Đông-Sơn lão nhân thấy Xích-Thập nói vậy, lão biết bọn này có thể cứu lão. Lão nói với Triệu Thành:
    - Xin vương gia nhờ Hoàng hầu trị cho.
    Triệu-Thành khẩn thiết nói với Xích-Thập:
    - Xin tiên sinh cứu cô gia cùng các bạn đây. Nguyện không bao giờ quên ơn.
    Xích-Thập lấy ra hai bình thuốc. Một bình viên đỏ, một bình viên xanh để lên bàn:
    - Nguyên Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng có hai loại. Đầu tiên Nhật-Hồ tiên sinh học Hồng-thiết độc chưởng trong Hồng-thiết kinh. Loại chưởng này đánh trúng ai, mỗi ngày lên cơn một lần khoảng hai giờ, đau đớn cùng cực, rồi trong bốn mươi chín ngày chết. Nếu uống thuốc giải, thì khỏi. Nhưng lần sau bị trúng chưởng, vẫn đau đớn như thường. Còn nếu dùng Hồng-thiết thần công giải chất độc, sau này có trúng độc nữa, cũng không sao.
    Y bắt mạch Triệu Thành, tiếp:
    - Nhật-Hồ lão nhân học Hồng-thiết kinh, rồi trở về Trung-thổ, phối hợp với chất độc của sâu, bọ, rắn rết chế ra Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng, truyền tại Trung-quốc. Nếu trúng loại chưởng này, không trị, mỗi ngày lên cơn một lần, trong bốn mươi chín ngày cũng chết. Còn nếu dùng thuốc giải chỉ khỏi một năm mà thôi. Hàng năm phải uống thuốc giải một lần. Bằng không lại cũng lên cơn mà chết.
    Đông-Sơn lão nhân hỏi:
    - Thế sau khi uống thuốc giải, nếu trúng độc nữa, có bị đau đớn không?
    - Bị như thường. Còn nếu dùng Hồng-thiết thần công hoá giải chất độc, thì hàng năm không phải uống thuốc nữa.
    Y móc trong bọc ra viên thuốc xanh:
    - Đây là thuốc giải Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng Trung-quốc.
    Tần ngần một lát rồi y tiếp:
    - Sau này Nhật-Hồ tiên sinh về Đại-Việt, cải biến Nhật-hồ Chu-sa độc chưởng thành Ngũ-độc Nhật-hồ chu sa chưởng. Ai trúng chưởng, thì mỗi năm phải uống thuốc giải một lần. Không có thuốc giải, chết sau bốn mươi chín ngày. Nhưng dù uống thuốc, mỗi tháng lên cơn một lần, đau đớn khủng khiếp trong hai giờ. Còn như dùng Hồng-thiết thần công giải độc hàng tháng không đau nữa. Hàng năm không phải uống thuốc giải.
    - Nhưng sau này có trúng độc lại không?
    - Có.
    Xích-Thập đưa cho Triệu Thành năm viên thuốc mầu xanh:
    - Vương gia phân phối cho các vị đây uống. Nếu khỏi hẳn, thì người đánh là bọn Hồng-thiết Trung-quốc. Nếu trong vòng một tháng, thấy lên cơn, ắt do bọn Hồng-thiết Đại-việt đánh, mỗi vị cần uống một viên thuốc đỏ này.
    Triệu Thành phân phân phát thuốc cho cả bọn uống. Địch Thanh, Triệu Huy, Vương Duy-Chính vận khí nuốt thuốc vào khoảng nhai dập miếng trầu, cơn đau tan biến hết. Chúng xúm vào tạ ơn Hoàng Văn với Đỗ Xích-Thập.
    Triệu Thành hỏi:
    - Hoàng quân hầu, người biết chế thuốc này ư?
    Hoàng Văn vốn là quân lưu manh. Y nghĩ thầm:
    - Tội gì mà khai với Triệu-Thành. Để Thành biết chế thuốc, mình đâu còn được trọng dụng nữa?
    Y trả lời lấy lệ:
    - Thưa vương gia, tiểu tướng dùng tiền bạc, mua được hai bình này của giáo chúng Hồng-thiết giáo.
    Triệu Thành tinh tế hơn:
    - Như vậy Hồng-thiết giáo Đại-Việt còn biết cách chế thuốc giải. Nếu Hoàng hầu có thể dùng thực nhiều tiền bạc mua công thức chế thuốc về cho Khu-mật viện thì hay biết bao. Nếu ai cung cấp được đơn chế thuốc. Cô gia sẽ tâu lên thiên tử phong cho tước vạn hộ hầu, thưởng vàng vạn lượng.
    Hoàng Văn kính cẩn:
    - Thần nguyện sẽ cố gắng.
    Triệu Thành hắng rặng một tiếng rồi kéo mọi người trở về với kế hoạch:
    - Cô gia nhận chỉ dụ từ thiên tử, sang kinh lược Giao-chỉ, Chiêm-thành, Lão-qua, để chính đốn lại vùng Nam-biên. Khi cô gia sang, mới biết Lý Công-Uẩn lộng hành, phạm thượng. Thứ nhất y chỉ được phong Nam-bình vương, kiểm hiệu thái sư, coi quận Giao-chỉ. Thế mà y tiếm xưng hoàng đế, lấy niên hiệu là Thuận-thiên. Tội này không thể tha. Đất Giao-chỉ là một quận của Thiên-triều, thế mà y tự xưng quốc hiệu Đại-việt. Đó là hai tội không thể tha thứ. Trước đây, nhân Lê Long-Đĩnh hoang dâm quá độ qua đời. Công-Uẩn chỉ là tên tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ, nhân chúa mới chết, con còn thơ, cướp sự nghiệp của họ Lê. Ba điều không thể dung thứ.
    Y ngừng lại, bưng chén nước trà uống rồi tiếp:
    - Cô gia được chỉ dụ toàn quyền giải quyết mọi sự ở Nam biên. Nếu Thiên-triều không trị tội Lý Công-Uẩn, thì các xứ man di sẽ theo đó làm loạn. Bọn gian thần tặc tử từ đó nảy lòng lang dạ thú, làm điều nghịch thiên như bọn Vương Mãng, Tào Phi ở Trung-quốc.
    Y đập tay xuồng bàn:
    - Mấy hôm nữa, trước anh hùng đại hội đất Giao-chỉ, cô gia sẽ lớn tiếng trách mắng Lý Công-Uẩn, làm cho y không còn uy thế. Sau đó cô gia bắt y bỏ quốc hiệu, niên hiệu. Không phải cô gia có ý đè nén người Việt. Mà cô gia chỉ muốn cho sĩ dân Giao-chỉ biết Lý Công-Uẩn không xứng đáng cai trị đất này. Nếu Lý Công-Uẩn biết cái họa diệt tộc, phải trả ngôi vị cho con cháu nhà Lê. Khi con cháu nhà Lê trở lại, biết thần phục Thiên-triều, chăm lo chăn dắt muôn dân, bấy giờ cô gia tâu với Thiên-tử cho dùng niên hiệu, quốc hiệu.
    Y đưa mắt nhìn cử tọa một lượt, rồi tiếp:
    - Cô gia gặp các vị hôm nay để bàn kế hoạch tách võ lâm Giao-chỉ với họ Lý, cùng khuông phò con cháu Lê Hoàn.
    Đỗ Xích-Thập hỏi:
    - Thưa vương gia, không biết vương gia đã tìm ra con cháu của Lê Hoàn chưa? Hiện họ ở đâu?
    Triệu Thành đưa mắt cho Vương Duy-Chính. Duy-Chính mỉm cười:
    - Vương gia dốc tâm hưng diệt, kế tuyệt, đã tìm ra con trai thứ năm của Lê Hoàn tên Long-Mang, trước đây được phong Nam-quốc vương.
    Đỗ Xích-Thập mở to mắt:
    - Vương gia mới sang đây chưa đầy một năm, mà đã thành công như vậy sao? Thần ra công tìm kiếm năm năm liền, mà không ra tông tích bất cứ con cháu xa nào của Lê Hoàn thôi chứ đừng nói Lê Long-Mang. Y hiện ở đâu?
    Trừ đám tùy tùng của Triệu Thành, còn lại cử tọa đều kinh ngạc vô cùng. Vương Duy-Chính chưa trả lời ngay vào câu hỏi:
    - Long-Mang hiện là một người có võ công cao thâm không biết đâu mà lường. Uy tín, ân đức của y bao trùm khắp Giao-chỉ, Quảng-tây, Quảng-đông. Đệ tử của y hành sự khắp nơi.
    Ni sư Hoàng Liên chau mày suy nghĩ, rồi lắc đầu:
    - Võ lâm Giao-chỉ bần ni biết hết. Bàn về võ công thì ngoài Đại-Việt ngũ long ra còn Nùng sư huynh. Đỗ sư huynh đây. Long-Mang là ai? Không lẽ y là người của Hồng-thiết giáo?
    Vương Duy-Chính mỉm cười:
    - Sư thái nghĩ kỹ xem.
    - Còn hai lão gìa Sùng-Phạm với Bố-Đại của phái Tiêu-Sơn, hai vị này không thể là Long-Mang.
    Đỗ Xích-Thập chợt kêu lên:
    - Thôi đúng rồi, y chính là Hồng-Sơn đại phu.
    Triệu Thành đáp gọn lỏn:
    - Đúng thế!
    Hoàng Liên cất giọng the thé như xé lụa:
    - Thôi Lý Công-Uẩn ơi, phen này mi chết nhé. Hồng-Sơn đại phu ơn đức trải khắp nơi, đệ tử đông, mỗi người coi một cơ sở. Ông ta cất tay một
    cái thì tên chăn trâu họ Lý rồi đời.
    Triệu Thành bỗng đứng lên dõng dạc nói:
    - Có thánh chỉ của đức kim thượng. Tất cả quì xuống.
    Từ Đông-Sơn lão nhân cho tới Đỗ Xích-Thập đồng quì xuống, hướng về phương Bắc. Triệu Thành lấy trục giấy trong cái ống đeo sau lưng xuống. Y mở ra đọc lớn:
    Thừa thiên hưng vận Thiên-thánh hoàng đế nhà Đại Tống chiếu phong
    Cho các đại thần Nam-biên đã dày công khuông phò xã tắc:

    Nùng Dân-Phú
    Kiểm hiệu thái bảo,
    Quảng-Nguyên tiết độ sứ.
    Vạn-nhai hầu.
    Thực ấp nhị thiên hộ.
    Thực phong nhất thiên hộ.
    Nùng-tồn-Phúc
    Tuần kiểm thiếu bảo,
    Quảng-nguyên chiêu thảo sứ.
    Thực ấp nhất thiên hộ,
    Thực phong ngũ bách hộ.


    Cha con họ Nùng quì gối lạy tám lạy tạ ơn.
    Bọn Vương Duy-Chính, Địch Thanh xúm vào chúc mừng cha con họ Nùng. Triệu Thành nói với Hoàng Liên, Đỗ Xích-Thập, Hoàng Văn:
    - Cô gia mong các vị lập công, trong việc phù Lê diệt Lý, sau đó ấp phong các vị sẽ ở quanh Thăng-long chứ không phải ở miền Bắc. Cái chức tể tướng triều Lê không ai ngoài Xích-Thập. Thái úy tổng đốc quân mã dành cho Hoàng Văn. Vua Bà Bắc-biên nhất định là sư thái Hoàng Liên.
    Hoàng Văn vẫy tay. Từ trong nhà, sáu thiếu nữ quần áo lụa xanh, tha thướt bưng ra sáu cái khay đựng đồ ăn, bầy sang bàn bên cạnh.
    Mỹ-Linh lại kinh hoảng. Vì sáu thiếu nữ đó trước đây đều là cung nga hầu hạ trong phủ Khai-Thiên vương. Nhân đến tuổi hai mươi hai, phụ vương nàng cho về lấy chồng. Không hiểu sao nay lại là tỳ nữ của Hoàng Văn?
    Hoàng Văn đứng lên nói:
    - Vương gia cùng các vị giá lâm tệ trang, tiểu nhân xin kính thỉnh dùng bữa cơm lạt, gọi là làm duyên.
    Cả bọn đứng lên, sang bàn bên cạnh. Triệu Thành được mời vào ghế chủ vị. Kế đó đến Vương Duy-Chính, Đông-Sơn lão nhân, Địch Thanh, rồi mới tới bọn Nùng. Thấp nhất là Đỗ Xích-Thập.
    Hoàng Văn cầm bình rượi đưa lên cao nói:
    - Đây là rượu cất bằng nếp than. Uống vào không hại người, mà còn bổ đưỡng. Trong bình rượu này ngâm chín con tắc kè đực. Rượu nếp than ngâm với tắc kè vùng Thanh-hóa nổi tiếng bổ thận tráng dương.
    Nói rồi y rót rượu mời khách. Triệu Thành cầm chung rượu dơ cao lên:
    - Mời các vị. Chung rượu này chúc các vị thành công.
    Mọi người nâng chung rượu uống.
    Vương Duy-Chính hỏi Hoàng Văn:
    - Hoàng quân hầu. Quân hầu đã cắt người canh gác cẩn thận chưa? Trước khi bàn đến mật kế, có cần đi kiểm soát lại xung quanh nhà không?
    Hoàng Văn cười:
    - Vương chuyển vận sứ đừng lo. Quanh nhà này, tôi cho phục một đội mười con chó. Ngoài các ngả vào đây đều có người canh gác cẩn thận.
    Mỹ-Linh cười thầm:
    - Thế nhưng chó của mi lại không cắn bọn ta mới tuyệt.
    Tuy nghĩ thế, nàng cũng phải qui tức thật cẩn thận, vì với bản lĩnh bọn Hoàng Liên, Đỗ Xích-Thập, Đông-Sơn lão nhân, nàng chỉ cần thở nhẹ một tiếng, là chúng khám phá ra ngay. Dù nàng có bản lĩnh nghiêng trời lệch đất, e cũng không thoát khỏi tay chúng.
    Vương Duy-Chính hắng rặng một tiếng rồi nói:
    - Chỉ còn mấy ngày nữa là đại hội võ lâm. Không biết mục đích đại hội là gì? Ai đứng ra tổ chức.
    Hoàng Liên khúm núm:
    - Lệ từ hơn trăm năm nay, mỗi năm một trong bẩy môn phái đứng ra tổ chức một lần. Năm nay đến lươt phái Mê-linh. Địa điểm là bãi Hội-phụ, Lê-xá, Thị-thôn. Chương trình không có gì đặc biệt. Điểm chính là tế Bắc-bình vương Đào Kỳ cùng vương phi Nguyễn Phương-Dung. Sau đó, tới phần tuyển ngũ anh, ngũ hùng, ngũ hào và ngũ kiệt. Đặc biệt đại hội năm nay, các tôn sư võ phái xét lại vấn đề ngôi vua Đại-Việt.
    Triệu Thành ngơ ngác:
    - Cuộc thi võ ra sao?
    - Võ lâm Đại-Việt định rằng, mỗi phái được cử ra năm người theo thứ tự võ công cao bậc nhất, nhì, ba, tư, năm. Những thí sinh bậc nhất sẽ tranh đấu với nhau. Cuối cùng tuyển năm người võ công cao nhất là Ngũ-anh. Sau đó tuyển tới năm người bậc nhì là Ngũ-hùng, năm người bậc ba là Ngũ-hào, cuối cùng là Ngũ-kiệt. Tất cả hai mươi lăm người trúng cách, đều đươc bổ dụng vào các chức võ quan của triều đình.
    Đông-Sơn lão nhân khen:
    - Sáng kiến này hay đấy. Nhưng ai sẽ là giám khảo, trọng tài?
    Hoàng Liên hỏi Hoàng Văn:
    - Quân hầu, người có biết không? Bần ni ở trên tuyệt đỉnh Liên-sơn, không rõ cho lắm.
    Hoàng Văn thở dài:
    - Sáng kiến này của Vạn-Hạnh quốc sư. Kể từ khi Lý Công-Uẩn lên cầm quyền. Mục đích cung ứng nhân tài cho triều đình. Giám khảo bao giờ cũng có ba người. Một người đo phái võ đứng tổ chức cử ra. Năm nay là phái Mê-linh. Một người do thái-úy cử ra. Như vậy năm nay sẽ do tên ôn con Lý Long-Bồ đề cử. Một người do quốc sư cử ra. Quốc sư hiện thời là Minh-Không, sư huynh của Lý Công-Uẩn. Còn luật lệ, mỗi năm do binh bộ thượng thư đưa ban hành ra. Thể lệ sẽ công bố trước khi đấu.
    - Những ai được quyền ứng thí? Ai không được quyền ứng thí?
    - Một là do môn phái cử ra, cũng có người không do môn phái cử ra. Những người này phải tới binh bộ thi sơ tuyển. Năm nay nghe đâu số thí sinh tự do tới hai mươi người. Bất cứ ai cũng có quyền ứng thi hết.
    Triệu Thành ngồi bật dậy:
    - Làm thế nào chúng ta cho một số đệ tử trà trộn vào thi. Sau khi trúng tuyển sẽ nắm binh quyền trong tay. Lúc hữu sự tiện biết bao?
    Hoàng Văn gật đầu:
    - Vương gia thực minh kiến. Bọn tiểu nhân đã tính đến việc đó rồi. Trong hai mươi người thi tự do, có mười người của bọn thần. Trong đó đệ tử của thần chiếm bốn. Đệ tử của Nùng tiết độ sứ chiếm hai. Đệ tử của Hoàng Liên sư thái chiếm bốn. Đệ tử của Đỗ huynh chiếm hai.
    Triệu Thành hài lòng. Y gật đầu tỏ ý khen tặng. Hoàng Văn tiếp:
    - Đầu tiên giờ Dần ngày mười rằm, chưởng môn nhân các phái đến trước bàn thờ dâng lễ, dâng hương. Sau đó ai về chỗ người ấy. Tiếp theo là tế. Đến giờ Ngọ thì Lý Công-Uẩn đến dâng hương, cùng lễ vật. Sau đó ngừng. Hôm sau anh hùng đến Cổ-loa xem duyệt binh. Đến chiều Lý Công-Uẩn đãi tiệc cùng bàn quốc sự. Ngày thứ ba thi võ. Thi võ cũng tại Cổ-loa.
    Vương Duy-Chính nói với Triệu Thành:
    - Thưa vương gia, vậy chúng ta sẽ phá đại hội này như sau. Khi chưởng môn các môn phái đến dâng hương, chúng ta xuất hiện với tư cách quan khách. Hoàng Liên sư thái, chỉ trích Tịnh-Tuệ không đử đức cũng như tài làm tôn sư. Sau đó sư thái đánh bại Tịnh-Tuệ, đoạt bắt y suy cử làm tôn sư. Đỗ Xích-Thập tiên sinh cũng xuất hiện, đánh bại Đặng Đại-Khê chiếm quyền đại tôn sư phái Tản-viên. Thế là trong Đại-Việt ngũ long, ta có hai, đương nhiên thêm Trần Tự-An phái Đông-a, Hồng-Sơn đại phu phái Sài-sơn theo ta. Chúng ta bốn người, trong khi Minh-Không cô độc.
    Triệu Thành khoan khoái vỗ vai Vương Duy-Chính:
    - Mưu kế tuyệt vời.
    Vương Duy-Chính tiếp:
    - Khi Đại-Việt ngũ long họp nhau bàn quốc sự, vương gia đứng lên trách Lý Công-Uẩn về việc tiếm quốc hiệu Đại-việt, tiếm xưng hoàng đế. Tất nhiên Công-Uẩn phải lùi bước, xin bỏ quốc hiệu, niên hiệu. Đến đây vương gia rời gót ra đi. Khi vương gia lui rồi, thì Hoàng Liên sư thái, Đỗ Xích-Thập sư huynh đứng lên thống mạ Công-Uẩn hèn hạ, làm nhục quốc thể, yếu cầu Đại-Việt ngũ long bắt y thoái vị. Đương nhiên Trần Tự-An, Lê Long-Mang khoan khoái cùng ép Công-Uẩn. Thế là mọi sư thành công tốt đẹp.
    Trên xà nhà Mỹ-Linh nghe bọn gian bàn kế, nàng nhủ thầm:
    - Hỏng bét rồi. Như vậy thì ông mình sẽ phải trả ngôi cho Hồng-Sơn đại phu. Không biết chú hai sẽ giải quyết ra sao.
    Bỗng Triệu Huy lại kêu lên tiếng ái chà. Mặt y đỏ phừng phừng như người say rượu. Đỗ Xích-Thập chạy lại bắt mạch. Triệu Thành hỏi:
    - Cái gì vậy?
    - Triệu an phủ sứ bị trúng thêm một thứ phấn độc qua đường hô hấp nữa. Thứ phấn này tác dụng hơi giống Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng.
    Vương Duy-Chính ngồi xổm dậy:
    - Vậy thì bọn giao chiến với chúng ta thuộc bang Nhật-hồ Trung-quốc. Đúng rồi. Tôi nghe đám đệ tử Nguyên-Hạnh cũng bị trúng thứ phấn này. Có bọn chết. Có bọn còn bị bệnh. Riêng bọn bị trúng trên núi Dục-thúy không hiểu sao tự nhiên khỏi.
    Mỹ-Linh cười thầm:
    - Cái đó thì sai. Bọn bị trúng độc trên núi Dục-thúy do chị Bảo-Hòa, Thanh-Mai cho thuốc giải.
    Vừa lúc đó cả bọn Triệu Thành đều có hiện tượng giống Triệu Huy. Chúng nghiến răng ngồi vận công chống độc. Trong khi đó bọn Hoàng Văn lăng xăng chay đi chạy lại. Hơn giờ sau, cơn đau tự biến mất.
    Đỗ Xích-Thập thở dài:
    - Như vậy bang Nhật-hồ trung quốc chế ra lối phóng độc mới bằng phấn. Không biết có tác dụng giống như Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng hay khác? Điều quan trọng, chúng ta phải tìm ra bọn này, đòi thuốc giải. Bằng không thì nguy lắm.



    <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2005 11:06:38 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 11.01.2005 17:57:03 (permalink)
      Hồi thứ bốn mươi tám


      Thiên Hạ Qui Tâm


      Hoàng Liên hỏi Triệu Thành:
      - Vương gia. Nhược bằng Lý Công-Uẩn bất chấp luật lệ võ lâm, y cho thiết kị bao vây, bắt hết anh hùng võ chặt đầu thì hỏng bét. Vương gia thử nghĩ coi, tỷ như bên Đại-tống, chỉ cần một người nào đó là mối lo ngại, đe dọa cho triều đình, ắt vương gia đã đem quân bắt cả nhà y chặt đầu. Nay bên Đại-Việt, Lý Công-Uẩn không lẽ không làm được việc đó?
      Nùng Dân-Phú cũng nói:
      - Huống hồ trước đây Lê Ngọa-triều dùng hình pháp cai trị dân. Y muốn giết ai thì giết, mổ bụng đàn bà đẻ làm trò vui, chặt dao vào đầu tăng ni để tiêu khiển, đốt người trên cột đồng lấy làm khoan khóai, trói người nhìn nước lên cho chết ngộp giải khuyây. Ngược lại Công-Uẩn là đệ tử yêu của Bồ-tát Vạn-Hành, con nuôi Bồ-tát Lý Khánh-Vân. Y được nuôi dạy trong núi Tiêu-sơn từ nhỏ. Tính tình y cẩn trọng, văn mô, vũ lược, võ công không thua Đại-Việt ngũ long. Khi lên ngôi vua, y đại xá cho cả nước, nhà tù trống rỗng. Kế đó y cho triệt bỏ hết hình phạt khắc nghiệt đo luật vua Đinh để lại như chặt tay, cho cọp ăn thịt, nấu vạc dầu. Trong mười bẩy năm trị vì, không có một án tử hình nào. Y cho ai có việc oan ức, đến trước điện Càn-nguyên đánh trống khiếu nại. Đích thân y sẽ xử vụ kiện đó. Vì vậy dân chúng ca tụng y đức không kém vua Hùng, vua Trưng.
      Đỗ Xích-Thập thở dài:
      - Tháng hai năm Thuận-thiên nguyên niên (1010) y về thăm châu Cổ-pháp là cố hương. Y đem lụa phát cho các bậc kỳ lão. Rồi y ban chiếu rằng trong toàn quốc, bất kỳ nam, nữ, ai tới tuổi sáu mươi đều được ban lụa. Ai đến tuổi bẩy mươi, sẽ được triều đình ban lụa may áo đỏ, ngồi trên bục cao, con cháu phải làm lễ tế sống. Tháng bẩy, y xuất khố hai vạn quan tiền, lập tám cảnh chùa.
      Triệu Thành đưa con mắt nghiêm khắc nhìn Vương Duy-Chính. Vương kinh sợ run người lên. Thành hỏi:
      - Vương chuyển vận sứ, những tin này người có biết không? Tại sao trong các biểu tâu trình về tình hình Giao-chỉ không nói tới?
      Vương Duy-Chính lạnh người, y nói lắp bắp:
      - Khải tấu... vương... vương gia. Những truyện nhỏ nhặt đó, thần biết hết, nhưng không tâu về triều.
      Sự thực không phải Vương-duy-Chính bỏ qua những chi tiết đó. Y từ chân đậu tiến sĩ xuất thân, nên những việc làm của vua Lý Thái-tổ để thu phục nhân tâm, y cố tình che dấu, có như vậy triều Tống mới quyết tâm theo đề nghị của y, xua quân chiếm Đại-việt. Y nghĩ, với tài kiêm văn võ của y, nếu triều đình đánh Đại-Việt, y sẽ được cầm quân. Chiếm xong Đại-Việt, thì cái tước công, tước vương khó chạy khỏi tay. Cho nên y luôn tâu về triều những xấu xa của Đại-việt. Do thế Triệu Thành cứ tưởng vua Lý Thái-tổ là người đi ở chăn trâu cho chùa, chứ không có tài có đức gì.
      Qua lời thuật của Hoàng Liên, Đỗ Xích-Thập, Hoàng Văn hôm nay, trong lòng y đã nảy ra những khâm phục đối với vua Lý.
      Y hỏi Hoàng Văn:
      - Hoàng hầu, người đem tất cả những công việc Lý Công-Uẩn đã làm từ khi lên ngôi vua đến giờ thuật cho cô gia nghe. Tám ngôi chùa đó là chùa nào?
      Hoàng-Văn không giám dấu diếm:
      - Trong thành Thăng-long dựng tám cảnh chùa. Sau đó còn xay thêm chùa Hưng-thiên, Vạn-tuế. Ngoài thành dựng chùa Thắng-nghiêm, Thiên-vương, Cẩm-uy, Long-hưng, Thánh-thọ, Thiên-quang, Thiên-đức. Đã hết đâu, các chùa đổ nát, y xuất công nho tu bổ hết.
      Triệu Thành gật đầu:
      - Như vậy Lý Công-Uẩn có tài đế vương. Bên nhà Đại-tống ta dùng Nho để lập kỷ cương cai trị thiên hạ. Bên Đại-Việt, Phật giáo ăn sâu vào quần chúng, y xuất thân đệ tử một cao tăng, con nuôi một cao tăng, đó là một điều y thu được nhân tâm. Mới lên ngôi, bỏ hình pháp hà khắc cho dân, tức đem lòng nhân thay bạo tàn. Hai điều y thu phục được nhân tâm. Hành động này y bắt chước vua Cao-tổ nhà Hán. Khi Cao-tổ đánh chiếm Hàm-dương, người cho bãi bỏ luật Tần Thủy-Hoàng, ban ước pháp ba chương, dân chúng các nơi hướng về ngài hết. Y lại giữ nguyên họ Lý của nghiã phụ, đó tỏ ra người đại hiếu, đại nghĩa. Người theo Nho, theo Phật đều khâm phục y. Ba điều y thu được nhân tâm. Y bỏ tiền xây chùa, tu bổ chùa, để dân chúng các nơi có chỗ lễ bái, đến chùa nghe kinh, tức nhiên giữ đạo đức. Đó là cách dạy dân của đế vương.
      - Cũng năm này, tháng bẩy, y xá thuế ba năm cho cả nước. Tha thuế cho người còn nợ mấy năm trước. Tháng tám độ cho hơn ngàn người làm sư, phát ra một nghìn sáu trăm tám mươi lạng bạc đúc quả chuông lớn treo ở chùa Đại-giác.
      Triệu Thành vỗ đùi đánh đét một cái:
      - Trong lịch sử các đế vương, vị nào không tăng thuế đã được khen đại minh quân. Đây không những không tăng, còn xá thuế nợ cũ, xá thuế ba năm liền. Thế, không thu thuế, y lấy tiền đâu chi dụng trong nước?
      Hoàng Văn móc trong túi ra cuốn sách nhỏ, đọc:
      - Y đặt ra năm điều tiết kiệm. Một, không trả lương cho quân, mà cấp ruộng. Ai đi lính, được cấp ruộng, tùy theo đẳng trật. Lính trơn được hai mẫu ruộng khỏi nộp thuế. Hai, cho cung nga, thái giám về dân dã làm ăn, nên chi dụng trong hoàng cung tiết giảm rất nhiều. Ba, cấm các hoàng hậu, thân vương, công chúa cùng các quan dùng dân, lính làm tôi tớ. Bốn, cấp ruộng cho hoàng hậu, cung nga, vương thân, chứ không phát tiền. Năm, cấm các quan tiệc tùng, đình đám.
      Triệu Thành gật gật đầu:
      - Không trả lương, mà cấp ruộng có hai điều lợi. Thứ nhất, bắt buộc quan lại, quân lính ngoài thời gian làm việc, phải canh tác. Thứ nhì, sản lượng trong nước tăng. Không ngờ Lý Công-Uẩn lại giỏi vậy. Việc y độ cho hơn nghìn người làm sư. Đương nhiên các sư đó trở thành người thân tín của y. Các sư trụ trì ở chùa, hàng ngày dạy dỗ dân chúng lương thiện, làm cho kỷ cương trong nước được trọng. Các sư đó nhớ ơn y, sẽ không tiếc lời ca tụng y. Dân chúng lại kính trọng y hơn. Hà... không biết trong nước hiện có mấy thứ thuế?
      Hoàng Văn đáp:
      - Niên hiệu Thuận-thiên thứ tư (1013), tháng hai, y ban hành chiếu qui định sáu thứ thuế. Một, thuế đầm, ao, ruộng, đất. Hai, thuế bãi dâu. Ba, thuế sản vật ở núi rừng. Bốn, thuế mắm, muối. Năm, thuế sừng tê, ngà voi, hương liệu. Sáu, thuế gỗ, hoa quả. Y qui định rất chi tiết như thuế ruộng, chia làm mười loại khác nhau mà thu. Ruộng đất của binh lính, quan võ được miễn thuế. Ngược lại của hoàng hậu, thái tử, công chúa vẫn phải nộp. Chùa, đền miễn thuế.
      Địch Thanh nhìn Triệu Thành:
      - Vương gia, đúng như vậy thì thuế Giao-chỉ quá nhẹ. So với Trung-quốc không có thuế đinh. Thuế đinh thường gây oán hận trong dân chúng rất nhiều. Y lại không đánh thuế trâu, bò, gia súc. Dân chúng sẽ thi nhau chăn nuôi. Như thế nước mau giầu lắm. Lại không đánh thuế các nhà buôn, hầm mỏ. Chắc chắn hầm mỏ được khai thác mạnh. Dân càng mau giầu.
      Triệu Thành dục Hoàng Văn:
      - Người kể tiếp đi.
      - Niên hiệu Thuận-thiên thứ mười lăm (1014) tháng chín, phát 310 lạng bạc trong kho, đúc chuông treo ở chùa Hưng-thiện. Tháng mười xuất tám trăm lạng bạc đúc chuông treo ở chùa Thắng-nghiêm và lầu Ngũ-phụng. Niên hiệu Thuận-thiên thứ bẩy (1016) được mùa to. Dân chúng giầu có, no ấm, Công-Uẩn không nhân dân trúng mùa thu thêm thuế, trái lại năm sau (1017) y xuống chiếu tha thuế ruộng cho cả nước.
      Đông-Sơn lão nhân vỗ bàn:
      - Giỏi. Y thấy trúng mùa, sợ dân lười không làm việc. Y xá thuế khen thưởng. Dân sẽ nghĩ phải làm sao cho trúng mùa nữa để được xá thuế nữa. Khôn! Khôn thực!.
      - Niên hiệu Thuận-thiên thứ chín (1018), y tha nửa thuế ruộng cho cả nước. Năm thứ mười lại độ dân làm sư, bỏ tiền trong kho đúc chuông chùa Hưng-thiện, Đại-giáo, Thắng-nghiêm. Năm thứ mười lăm (1024) y bỏ tiền riêng của mình xây chùa Chân-giáo trong thành Thăng-long. Cũng năm này, tháng mười, y ban chiếu, những người trên năm mươi tuổi, không có con, cháu, được cấp tiền, gạo, vải , giao cho các xã phải trông coi, nuôi dưỡng. Nhà nào có từ bốn con trở đi, dưới tuổi mười sáu, mỗi con được miễn thuế một mẫu ruộng. Nhà nào nghèo, xuất kho cấp gạo, vải sao cho đủ ăn, đủ mặc. Y lập mỗi huyện một y viện. Mỗi xã có thầy lang săn sóc dân chúng.
      Triệu-Thành hừ một tiếng, rồi tiếp:
      - Thảo nào ta đi khắp nước, thấy toàn nhà ngói, không thấy ăn mày, dân chúng giầu có sung túc. Họ làm ruộng từ sáng tinh mơ cho đến tối mịt. Lý Công-Uẩn được lòng dân như vậy, mà bây giờ hạ y xuống thực khó thay. Làm sao bây giờ? Triều đình thấy phía Bắc có bọn Kim, Liêu, phía Tây bọn Tây-hạ, Thổ-phồn mạnh, nên bỏ không muốn đánh các nước này, giao cho ta nghiên cứu đánh Giao-chỉ. Tình hình này đánh cũng dở, bỏ lại tiếc. Làm sao đây?
      Y đưa mắt nhìn Vương Duy-Chính. Hàn quang của y làm Vương lạnh người. Y rùng mình nghĩ:
      - Mình những tưởng vì thiên tử lập đại công, mở mang bờ cõi xuống Nam, nên trong biểu tâu trình, mình dấu một số sự việc. Đợi khi triều đình đã gây hấn với họ Lý, việc đã rồi. Nay tuy vương gia chưa ra mặt, nhưng kế hoạch đã chuẩn bị đầy đủ. Chỉ còn mấy ngày nữa, giữa anh hùng đại hội, vương gia ép Lý bỏ quốc hiệu, niên hiệu nữa, coi như công nhiên khai chiến. Bấy giờ triều đình có muốn lui, thì giữa Giao-chỉ với Tống coi như thù hận không lấp nổi. Mình phải nói mấy câu, cho vương gia bước tới bước nữa mới xong.
      Nghĩ vậy, y hướng vào Triệu Thành:
      - Vương gia. Từ trước đến nay, anh hùng, hào kiệt Giao-chỉ sở dĩ được dân chúng khâm phục, không phải ở việc xây chùa, đúc chuông, mà ở việc lập được võ công. Thời An-Dương có Lý Thân, Cao Nỗ, Vũ Bảo-Trung. Thời Đông-hán có Trưng Trắc, Trưng-Nhị. Thời Tam-quốc có Triệu-Ẩu. Sau này có Lý Bôn, Dương Diên-Nghệ, Ngô Quyền, Đinh Bộ-Lĩnh, Lê Hoàn. Đây Lý Công-Uẩn không có gì cả. Y chỉ nhân chúa chết, con còn dại, dùng binh đao cướp nghiệp của người, nên anh hùng thiên hạ bất phục.
      Y chỉ vào Nùng Dân-Phú, Đỗ Xích-Thập, Hoàng Liên:
      - Bằng cớ, trước mặt vương gia, ba vị võ lâm đệ nhất cao thủ muốn triệt hạ y. Lại nữa Lê Long-Mang, Thiên-trường ngũ kiệt. Hào kiệt theo Lý chỉ có mấy ông sư ở chùa Tiêu-sơn, đâu đáng kể. Vả lại, trong đất Giao-chỉ này, hơn nghìn năm thuộc Trung-quốc, dân chúng tự coi mình như người Hoa. Nay chỉ cần thiên triều kéo quân sang đánh cho Lý một trận, họ sẽ nghiêng theo Tống.
      Triệu Thành lại tỏ ra lạc quan:
      - Thôi, đã trót đành phải theo. Nào, bây giờ chúng ta cần làm gì nào?
      Vương Duy-Chính dùng Lăng-không truyền ngữ, nói như rót vào tai Triệu Thành:
      - Hồi nãy sư thái Hoàng Liên sợ khi lâm sự, Lý Công-Uẩn sẽ điểm giáp binh vây bắt anh hùng, hào kiệt đem chặt đầu về tội phản loạn thì hỏng hết việc. Vương gia đừng lo, đây là điều chúng ta mong mà không được.
      Triệu Thành cau mày:
      - Người nói sao?
      Vương Duy-Chính tiếp:
      - Mục đích của triều đình muốn cho bên Giao-chỉ chia năm, sẻ bẩy chém giết nhau. Triều đình đứng tọa thủ bàng quan. Trai cò tranh đấu, ngư ông đắc lợi. Giả tỉ mà Lý Công-Uẩn điểm giáp binh diệt võ lâm, chắc chắn sẽ có cuộc đổ máu kinh hoàng. Phái Tiêu-sơn, Tây-vu chém giết nhau với phái Sài-sơn. Trong nội bộ phái Tản-viên, bọn theo Đặng Đại-Khê chém giết nhau với bọn theo sư huynh Xích-Thập. Bọn theo Tịnh-Tuệ đại chiến với bọn theo sư thái Hoàng Liên. Phái Tiêu-sơn, bọn theo Nguyên-Hạnh giết bọn theo Minh-Không. Tất nhiên bọn Tiêu-sơn, Đại-Khê, Tịnh-Tuệ theo Công-Uẩn sẽ được giáp binh yểm trợ thắng thế. Bọn thua kéo về trang ấp, khởi loạn.
      Y ngừng lại, nhìn quanh, rồi tiếp:
      - Lê Long-Mang, Nguyên-Hạnh có tổ chức khắp nơi, nếu họ ra tay trước, có lẽ ngay ngày đầu, đã chiếm được một phần ba nước. Trong khi Lão-qua, Chiêm-thành mang quân tới. Đợi cho quân Chiêm, Lào cùng Lý đánh nhau nghiêng ngửa. Ta cho thủy quân vùng Quảng-đông đổ lên mặt Nam tiếp Chiêm-thành, chiếm Thanh-hóa, Trường-yên. Mặt Bắc ta đóng trọng binh, ép Lý Công-Uẩn thoái vị. Tất nhiên dân chúng, quan lại sợ quân thiên triều, chạy theo Lê Long-Mang. Đến đây Lý, Lê đều kiệt quệ. Cuối cùng một Lý, hay một Lê thắng, tinh lực trong nước hết. Ta kéo trọng binh sang đóng, nhưng vẫn để cho chúng tồn tại, không có quyền hành gì. Ta sai chúng đem phần tinh lực cuối cùng đánh Chiêm, chiếm Lào. Dĩ nhiên chiếm xong, chúng hoàn toàn tê liệt. Ta đặt quan, chia quận hiện cai trị cả ba xứ Việt, Chiêm, Lào. Trên cao ta vẫn để cho người bản sứ ngồi làm vua bù nhìn.
      Triệu Thành tin tưởng vào Vương Duy-Chính phần nào:
      - Chỉ còn mấy ngày nữa đại hội anh hùng. Chúng ta cứ thế mà làm. Các vị có gì thay đổi, xin liên lạc với Cổ-loa hầu Hoàng Văn.
      Trên xà nhà Mỹ-Linh chợt tỉnh:
      - Thì ra tên Hoàng Văn này tước phong Cổ-loa hầu. Bọn triều Tống thực khả ố. Tên Hoàng Văn theo chúng chinh chiến. Khi thành sự, chúng phong cho khu đất của Đại-Việt. Như vậy dù muốn dù không tên Hoàng Văn này phải cố công giúp Tống chiếm Đại-việt, mới hy vọng hưởng lộc Cổ-loa.
      Triệu Thành nâng chén rượu lên:
      - Nào mời các vị cạn chung này. Chúng ta cứ thế mà làm.
      Sau đó bọn chúng ăn uống chán rồi, Vương Duy-Chính hỏi Hoàng Văn:
      - Hoàng quân hầu, bây giờ chúng ta phải ra về bằng cách nào, để che dấu tung tích Khu-mật viện bọn Giao-chỉ? Nhất là võ lâm.
      Hoàng Văn chỉ vào cái tủ kê giữa phòng:
      - Vương gia với Đông-Sơn lão sư, Địch trạng nguyên, Vương đại nhân cứ theo đường này mà đi, có trời cũng không biết. Còn Nùng hầu cùng Nùng huynh tôi sẽ phái người đưa ra khỏi đây. Riêng Triệu an phủ sứ, Đỗ lão sư, Hoàng sư thái cùng Lý trại trưởng, lúc vào bằng đường chợ, bây giờ cũng ra bằng đường chợ.
      Triệu Thành nhìn ra ngòai trời, y nói:
      - Thôi, chúng ta giải tán. Bây giờ không chừng cuối giờ Dậu rồi.
      Hoàng Văn đứng dậy mở cánh tủ ra. Vương Duy-Chính chui vào trước, tiếp theo đến Đông-Sơn lão nhân. Triệu Thành đi sau cùng.
      Mỹ-Linh kinh ngạc:
      - Cái tủ kia lớn tuy lớn thực, nhưng giỏi lắm chứa được ba người . Tại sao bọn chúng tám người chui vào lọt?
      Nàng đoán:
      - Phải rồi, phía sau tủ thông sang gian phòng bên cạnh. Từ phòng bên cạnh, chúng sẽ ra bằng ngả khác.
      Hoàng Văn đóng cánh cửa tủ lại, y bảo Triệu Huy:
      - An phủ sứ cùng với sư huynh Lý trại chủ ra khỏi xóm nay, xin cứ tới cuối chợ thuê xe ngựa về Thăng-long, không nên la cà chỗ khác, e gặp võ lâm phiền phức lắm.
      Hoàng Văn gọi một thiếu niên:
      - Đoàn, mi dẫn Nùng hầu cùng huynh theo phía sau vườn ra chợ.
      Còn lại Đỗ Xích-Thập, Hoàng Liên, Hoàng Văn. Xích-Thập hỏi Hoàng Văn:
      - Sư huynh nghĩ sao?
      - Qua cuộc họp vừa rồi, ta thấy rõ ràng bọn Tống chuẩn bị chiếm Đại-việt sát nhập làm quận huyện. Chúng ta hiện chưa thể có quyết định gì hơn, ngoại trừ chờ anh em về đủ, rồi lấy quyết định chung. À, tôi nghe nhị sư huynh bị bắt giải về Thăng-long, việc này ra sao?
      Hoàng Văn thở dài:
      - Nhị sư huynh hành sự không cẩn trọng, lại muốn mau có kết quả, nên mới ra nông nỗi. Y ẩn thân trong phái Đông-a từ bao lâu nay, đâu có ai hay. Hồi bọn Triệu Thành đến Thiên-trường mua chuộc phái Đông-a. Nhị sư huynh khẩn báo cho chúng ta biết. Chúng ta quyết định giết chết con trai Trần Tự-An, để gây ra hố chia rẽ giữa phái Đông-a với Tống. Không ngờ nhị sư huynh sơ hở, bị lộ, rồi bị Trần Kiệt bắt được.
      Nghe đến đây Mỹ-Linh tỉnh ngộ:
      - Thì ra bọn này thuộc bang Nhật-hồ. Không biết bọn Nhật-hồ âm mưu gì, mà chúng mai phục trong các võ phái, triều đình đã đành. Chúng còn mai phục trong bọn Tống nữa. Rõ ràng Hoàng Văn trước đây theo Tống chinh chiến, được phong tới tước hầu. Y trở về Bắc-biên hoạt động cho Nhật-hồ. Khi phụ vương ta đánh căn cứ của Nhật-hồ, y gỉa làm tù nhân, kẻ thù của Nhật-hồ ẩn vào vương phủ. Y làm quản gia giả, tước hầu của Tống đối với y cũng giả. Y đích thực người của Nhật-hồ. Ta im lặng, theo dõi, may ra tìm được thủ phạm hại vương mẫu ta.
      Đỗ Xích-Thập hỏi Hoàng Văn:
      - Nhị ca hiện bị Khu-mật-viện giam giữ. Không biết tại nhà giam nào? Chúng ta phải tìm cách cứu ra.
      Hoàng Văn lắc đầu:
      - Ta đã dò hỏi Khai-thiên vương, nhưng chính vương cũng không biết. Để thủng thẳng, ta sẽ cố gắng tìm chỗ giam giữ, rồi cứu ra.
      Đỗ Xích-Thập móc trong túi ra tờ giấy. Y trao cho Hoàng Liên:
      - Sư muội xem, thư của đại ca đây. Đại ca cho biết bang Nhật-hồ bên Trung-quốc lại tái lập. Nhưng bang không còn giữ được toa thuốc giải Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Cho nên bang chủ phái Chu An-Bình cùng hai đứa cháu sang Đại-việt tìm tung tích một cặp vợ chồng. Chồng tên Dương-Bá, vợ tên Đỗ Lệ-Thanh. Hai người này sang đất Việt từ lâu. Chính Đỗ Lệ-Thanh còn giữ thang thuốc giải, cũng như tâm pháp luyện Chu-sa độc chưởng. Họ cũng ra công tìm kiếm anh em chúng ta.
      Hoàng Văn hứ một tiếng:
      - Tìm anh em chúng ta? Tìm bóng chim tăm cá còn hy vọng, chứ tìm anh em chúng ta e đến muôn kiếp. Sư phụ quả thực thần nhân. Người an trí chúng ta như thế này, ngay anh em chúng ta cũng không biết rõ đích xác hành trạng của nhau hống hồ người ngoài.
      Hoàng Liên cười:
      - Thế họ đã tìm ra tông tích vợ chồng Dương Bá chưa?
      - Họ thấy tổ chức Hồng-hương thiếu niên của Nguyên-Hạnh hơi giống lối tổ chức Hồng-thiết giáo Tây-vực, nên theo dõi kỹ. Họ nghi Nguyên-Hạnh là Dương Bá. Nhưng thấy vợ Nguyên-Hạnh là Cao Thạch-Phụng chứ không phải Đỗ Lệ-Thanh. Tuy nhiên họ ra tay tàn bạo, đánh hơn năm chục thiếu niên Hồng-hương bằng Chu-sa độc chưởng, đốt nhà trong Hồng-hương mật cốc khiến gần hai chục thiếu niên Hồng-hương chết cháy. Hôm sau họ lại phóng độc mấy chục người nữa. Thế nhưng bọn thiếu niên Hồng-hương không đứa nào bị chết. Chúng chỉ rên siết hai ngày rồi khỏi.
      Xích-Thập lắc đầu:
      - Vậy có thể bọn Chu An-Bình không phải người của bang Nhật-hồ, hoặc giả Chu-sa độc chưởng của Trung-quốc bị mai một đi, chứ có đâu bị trúng chưởng, chỉ đau đớn hai ngày rồi hết.
      Mỹ-Linh cười thầm:
      - Tin tức bọn này hồ đồ thực. Nhưng chúng đâu có biết rằng bọn thiếu niên Hồng-hương trúng chưởng, đau đớn hai ngày, rồi người Khu-mật-viện xuất hiện cho thuốc giải, để chúng phải làm người dò thám cho triều đình. Chúng cũng không biết Nguyên-Hạnh đích thực là Dương-Bá, lại càng không biết Đỗ Lệ-Thanh theo triều đình.
      Hoàng Văn móc trong túi ra hai các thẻ bài trao cho Xích-Thập, Hoàng Liên:
      - Này lục đệ, thập muội. Đây thẻ bài của phủ Khai-thiên vương. Hãy cầm lấy để làm phương tiện di chuyển trong kinh thành. Tai mắt bọn Khu-mật-viện nhan nhản khắp nơi. Chỉ cần sơ hở một chút, lộ tung tích ngay. Ta dặn trước, từ nay tới lúc đại hội, tuyệt đối tránh di chuyển để khỏi lộ hình tích, cho đến phút chót. Bây giờ hai em cầm thẻ bài này, nghiễm nhiên thành nô bộc, vệ sĩ trong phủ Khai-thiên vương, dù cho thằng bé con Long-Bồ cũng không dám gây hấn. Thôi ta đưa các em về Thăng-long.
      Hoàng Văn sai người đánh xe ra. Cả ba lên xe, ra khỏi trang. Đợi chúng đi rồi, Mỹ-Linh mới vẫy Thiệu-Thái. Cả hai nhảy xuống hàng hiên.
      Mỹ-Linh chỉ vào cái tủ:
      - Chúng mình mau theo dõi bọn chúng.
      Trên cái giá cạnh tủ có treo nhiều vũ khi. Thiệu-Thái lấy con dao trủy thủ. Mỹ-Linh lấy thanh kiếm đeo vào hông.
      Thiệu-Thái mở cánh tủ. Phía sau cánh tủ quả có con đường hầm. Hai người đóng cánh tủ lại, rồi men theo hầm mà đi. Ngay cửa đường hầm có ngọn đèn dầu leo lét, nhưng cũng đủ ánh sáng. Hầm khá rộng. Hai người dò từng bước hướng phía trước. Cứ một quãng lại có ngọn đèn. Đi được một mấy trăm bước, hàm chia làm hai ngả. Một đi thẳng và một sang trái. Đường sang trái có đèn. Còn đường đi thẳng thì tối om. Thiệu-Thái ngừng lại, hỏi Mỹ-Linh:
      - Chúng ta đi lối nào?
      - Cứ đi thẳng xem sao!
      Thiệu-Thái cầm ngọn đèn, lần theo đường thẳng mà đi. Được năm, sáu trượng, lại chia làm hai ngả nữa. Một sang phải, và một đi thẳng. Thiệu-Thái quẹo sang phải. Đi mươi trượng, gặp cửa chắn ngang. Cửa làm bằng song sắt lớn hơn ngón tay. Hai cánh cửa cột lại bằng sợi xích lớn, có khóa. Nước từ trên nóc hầm ri rỉ chảy theo song sắt xuống không ngớt. Hai bên hông hầm, hai cửa bằng gỗ kín mít, mùi hôi thối xông ra nồng nặc.
      Thiệu-Thái soi đèn vào cửa. Sau cửa, đường hầm vẫn còn dài hun hút. Đã kinh nghiệm về vụ Hồng-hương mật cốc, chàng mở to mắt nhìn.
      Mỹ-Linh nói sẽ vào tai Thiệu-Thái:
      - Lại hầm giam người. Không biết tên Hoàng Văn giam ai ở trong hầm này? Bang Nhật-hồ gớm thực.
      Hai người tới đứng trước song sắt nhìn. Mỹ-Linh đề nghị:
      - Chúng ta làm cách nào vào trong này, không chừng đường hầm còn dài nữa cũng nên.
      Thiệu-Thái hít hơi, không tâm, áp dụng lối vận công mà Huệ-Sinh dạy chàng, tay bẻ mạnh, hai cây sắt cong đi. Mỹ-Linh hoan hô một tiếng, nàng chuồn vào trước. Thiệu-Thái chui theo. Vào sâu bên trong năm trượng nữa, có ánh sáng chiếu ra rất rõ. Phía trước là ngõ cụt, với hai phòng giam. Hai phòng nằm liền nhau. Cả hai phòng đều có cửa sắt, với những thanh sắt to bằng cổ tay. Sau cửa sắt có hai phòng xây bằng đá ong.
      Chợt Mỹ-Linh kêu lên tiếng ái, rồi đứng sát lại bên cạnh Thiệu-Thái. Thiệu-Thái gật mình hỏi:
      - Mỹ-Linh, cái gì vậy?
      Mỹ-Linh run run chỉ vào hai bên cửa sắt. Thiệu-Thái nhìn theo: Ngay dưới đất, sát khung cửa bên trái, có mười xương đầu lâu trắng hếu. Đầu lâu xếp thành ba tầng. Tầng dưới cùng bốn cái. Tầng thứ hai ba cái. Tầng thứ ba hai cái, và tầng cao nhất một cái. Tất cả đặt ngay ngắn trên mấy dống xương chân tay.
      Phản ứng tự nhiên chàng nhìn sang bên phải cũng một đống tương tự.
      Chàng định thần nhìn vào trong cửa sắt đối diện. Giữa phòng, một người đàn ông, ngồi theo tư thức luyện công. Người y xương xương, chòm râu dài tới rốn, khuôn mặt hơi dài. Mũi thẳng. Hai mắt nhắm lại. Cạnh lão, một người đàn bà nằm dài, dáng người thon thon, khuôn mặt trái xoan, tóc đen mướt, để chảy dài xuống ngang vai, toả ra lưng, ngực. Da mặt thiếu phụ trắng xanh. Thiếu phụ mặc chiếc áo cánh mầu xanh lá cây, quần lụa đen, rất tươm tất. Còn lão già một tay nắm bàn tay phải thiếu phụ. Một tay đặt lên nhũ hoa nàng.
      Phòng giam lão rất rộng. Trong kê một cái giường, trên có nệm cỏ. Một cái bàn để cạnh giường. Trên bàn một bình hoa tươi, cắm bốn bông hồng bốn mầu. Hai cái đĩa lớn, trên xếp đủ thứ trái cây. Cạnh đó, một kệ chứa không biết bao nhiêu sách vở mà kể. Phòng còn một cửa nhỏ thông sang căn phòng con. Trong phòng con có chỗ đi đại tiểu tiện, một chum nước lớn. Một cái bếp nhỏ, than cháy đỏ rực. Trên bếp, dường như đang đun nấu, cái nồi đất bốc hơi thơm thơm như mùi gà hấp.
      Thiệu-Thái đưa mắt nhìn Mỹ-Linh như ngụ ý hỏi:
      - Đây phòng giam lão già hay mật thất để lão luyện công? Mà lại có bếp nấu nướng?
      Phía bên phải còn một phòng nữa. Cách trần thiết tương tự như phòng lão già gầy. Trong phòng còn lão già khác to lớn, cũng đang ngồi trên giường, xũa chân xuống dưới dọc sách. Một thiếu phụ gương mặt còn rất trẻ, quì gối bóp chân cho y. Bếp của y cũng đang nấu món gì đó, cùng hương thơm như bên lão già gầy.
      Lão già to lớn ngừng đọc sách, ném cho Mỹ-Linh, Thiệu-Thái một cái nhìn lãnh đạm, rồi tiếp tục dán mắt vào trang giấy. Thiệu-Thái chú ý đến thiếu phụ bóp chân cho lão già.
      Thiếu phụ này trẻ hơn thiếu phụ đang nằm dài nhiều. Tuổi nàng ước độ hai mươi ba, hai mươi bốn là cùng. Mái tóc nàng quấn trần trên đầu, cột bằng chiếc khăn mầu vàng tươi để hở cái cổ trắng ngần. Áo, quần nàng đều bằng lụa mầu mỡ gà. Chiếc áo cánh tuy hơi rộng, nhưng vẫn hiện ra cái lưng tròn, bộ ngực khá nở nang. Bàn chân, bàn tay nàng trắng mịn, thon như búp măng. Mỹ-Linh suýt bật lên tiếng kêu, vì gương mặt thiếu phụ rất quen, mà trong nhất thời nàng không nhớ ra rằng đã gặp ở đâu?
      Mỹ-Linh sống giữa rừng người đẹp đã quen, thế mà khi thấy thiếu phụ này, nàng cũng phải công nhận là người nhan sắc hiếm có.
      Lão già gầy mở mắt ra, nhìn Mỹ-Linh, Thiệu-Thái bằng đôi mắt sáng loáng, rồi cất tiếng hỏi:
      - Tiểu thư, công tử. Các vị là ai? Các vị do bọn Hoàng Văn sai đến hay đến vì lý do nào khác?
      Mỹ-Linh đáp:
      - Chúng tôi vô tình lạc vào đây. Nếu các vị bị giam, chúng tôi sẵn sàng cứu các vị.
      Nàng nói với Thiệu-Thái:
      - Anh ơi, liệu anh có bẻ được song sắt cứu mấy người này ra không?
      Thiệu-Thái trầm ngâm một lúc rồi lắc đầu:
      - Khó quá, song sắt lớn thế này, làm sao anh bẻ được?
      Lão già gầy nói rất khoan thai, giọng đầm ấm:
      - Hai cô chú kia. Làm sao cô chú lọt vào đây được? Cô chú muốn cứu chúng ta ra ư? Khó lắm. Hãy nhìn hai mươi bộ xương khô kia. Đó toàn những người toan cứu chúng ta ra cả.
      Thiệu-Thái hỏi:
      - Tiền bối là ai? Tại sao lại bị giam vào đây? Ai đã giam tiền bối như thế này?
      Người kia thở dài:
      - Các người có thiện tâm cứu ta, ta cảm ơn lắm. Ta là ai, các người chả cần biết làm đếch gì. Còn ai giam ta ư? Người đó tên Lê Ba.
      Thiệu-Thái, Mỹ-Linh cùng bật lên tiếng úi chà. Vì Lê Ba đệ tử thứ ba của Nhật-hồ lão nhân. Hồi Thập-nhị sứ quân, y hoạt động ở vùng Thanh-hóa. Trong khi tứ sư đệ của y là Nguyễn Chí được ủy nhiệm của Nhật-hồ lão nhân coi suốt một giải từ Thanh-hóa vào đến Chiêm-thành. Lê Ba thất học, nhưng y cực kỳ sảo quyệt, y điều khiển giáo chúng Hồng-thiết giết người không gớm tay. Y lại dâm đãng hơn con quỷ dâm dục.
      - Tiền bối bị giam vào đây lâu chưa? Lê Ba thuộc Hồng-thiết giáo, đệ tử Nhật-Hồ lão nhân. Vậy ra lão tiền bối là kẻ thù của Hồng-thiết giáo đấy. Năm nay tiền bối bao nhiêu tuổi rồi?
      - Ta bị Lê Ba giam, nhưng ta không phải kẻ thù của Hồng-thiết giáo cũng như Nhật-hồ. Ta bị giam trong này có lẽ đã hai mươi năm. Ta đoán mò vậy thôi, vì thấy trải qua hai mươi mùa lạnh. Còn ta bao nhiêu tuổi ư? Năm nay ta đúng một trăm tuổi. Phải, một trăm tuổi chẵn.
      Lão chỉ sang phòng bên phải:
      - Người to béo kia do ta giam vào đây. Ta giam y được hai năm rồi đích thân ta vào thả y ra. Giữa lúc đó ta bị Lê Ba đánh thuốc mê giam lại.
      Người đàn bà nằm trước mặt lão đã ngồi dậy. Nàng rót nước bưng đến đưa cho lão. Lão cầm lấy chung trà, tay kia vuốt lưng nàng, cử chỉ cực kỳ thân thiết như một cặp tình nhân trẻ.
      Lão chỉ vào người đàn bà:
      - Còn nàng mới vào đây bầu bạn với ta. Nàng có tên Vũ Thiếu-Nhung.
      Lão nói vọng sang với người to béo:
      - Đến giờ ăn cơm trưa rồi.
      Thiếu-Nhung sang phòng bên cạnh, lấy ra cái đĩa khá lớn, bưng nồi đổ thức ăn vào. Nàng cầm đũa, vun lại thức ăn cho tươm tất. Sau đó cho đĩa vào khay bưng ra. Dưới ánh sáng ngọn đèn trong phòng, Mỹ-Linh chú ý xem họ ăn uống gì: trên khay một đĩa đựng mấy con chim sẻ quay, một điã đựng hai nhát giò thủ đã cắt thành từng miếng. Một bát mọc. Món ăn chính trong điã lớn, khói bốc nghi ngút. Dường như giữa đĩa có một con thỏ hay con cá lớn, hấp lẫn với miến, mục nhĩ, nấm hương, kim châm, cùng nhiều gia vị khác.
      Hai lão già cũng như hai người đàn bà đều quì gối, chắp tay trước ngực, lớn tiếng đọc kinh.

      Ta pha tà ka la
      Sa sa thanh thí u tơ lơ ma
      Củng thiên chi ha ha
      Đạo ta cà mạ thì di hu.


      Họ đọc nhanh quá, Thiệu-Thái ngơ ngác hỏi sẽ Mỹ-Linh:
      - Họ đọc bằng tiếng gì vậy?
      Mỹ-Linh nhớ lại truyện cũ. Hôm nàng dự lễ Lệ-hải Bà-vương. Bọn Đông-Sơn lão nhân, Địch-Thanh bị Hồng-hương thiếu niên bao vây. Địch Thanh cất cao giọng đọc bài kinh này, lập tức thủ lĩnh Hồng-hương thiếi niên Hoàng Can líu ríu tạ lỗi rồi rút lui như mèo cụt đuôi. Hôm nay, vô tình nàng được nghe lại.
      Mỹ-Linh nói sẽ vào tai Thiệu-Thái:
      - Chắc họ đọc kinh Hồng-thiết giáo.
      Thiếu phụ bị giam chung với lão già béo bây giờ mới lên tiếng:
      - Cô cậu kia có đói không? Mời cô cậu ăn cơm với chúng ta nhé?
      Lời nói của nàng mang giọng kẻ cả, coi hai ngưới như con cháu.
      Mỹ-Linh từ chối:
      - Chúng tôi không đói.
      Lão già béo chỉ thiếu phụ, giới thiệu với Mỹ-Linh:
      - Cô nương. Ta giới thiệu với cô nương, đây là Chu Vân-Nga, được đưa vào giúp ta luyện công mấy tháng nay.
      Vân-Nga cầm đũa vặn một cái, đầu con thỏ đứt lìa. Nàng gắp bỏ vào cái bát, rồi đưa cả đũa, bát cho Mỹ-Linh:
      - Cô nếm thử cái đầu nhân sâm này. Ngon lắm, lại tăng tiến sức khoẻ. Con sâm này đã ninh nhừ, hồi sáng bọn Lê Ba sai người hầu đem vào, thành ra nguội. Ta hâm lại cho nóng.
      Mỹ-Linh đã được nếm đủ mọi cao lương mỹ vị, sơn hào, hải sản. Nhưng nàng chưa biết con nhân sâm ra sao. Nàng tiếp bát, đũa từ tay Vân-Nga, đưa lên mũi ngửi, mùi vị hơi tanh như cá. Nàng chưa dám ăn, tay bưng bát, hỏi:
      - Tiền bối, con nhân sâm bắt ở đâu vậy?
      Lão già gầy bỏ đũa, nghiêm trang đáp:
      - Cái tên con nhân sâm này do lão phu đặt ra. Không phải nhân sâm như sâm của sứ Cao-ly đâu. Nguyên sau khi lão phu học được trọn bộ Hồng-thiết kinh rồi trở về Trung-quốc truyền giáo. Lão phu truyền thần công cho không biết bao nhiêu đệ tử. Nhưng chỉ có gã Đặng Đại-Bằng tiến triển mau không thể tưởng tượng được. Lão phu cũng như gã, không hiểu tại sao. Riêng lão phu lão phu cho rằng gã có điều bí ẩn gì dấu diếm. Sau thời gian dài theo dõi, lão phu thấy gã nuôi trong nhà mấy thanh nữ. Mỗi đêm gã ôm ấp một thanh nữ mà ngủ. Lão phu hỏi tại sao, gã cho biết đó là thuật Thái âm bổ dương.
      Mỹ-Linh là một công chúa, tuổi lại còn nhỏ, nàng chưa từng nghe một câu nói tục, chứ đừng nói nghe đến những truyên dâm đãng. Nghe đến thuật thái âm bổ dương, nàng ngơ ngác hỏi:
      - Thái âm bổ dương à? Tiểu nữ chưa nghe qua?
      Vũ Thiếu-Nhung tỏ ra hiểu biết Mỹ-Linh, nàng đáp thay lão già:
      - Thái âm bổ dương là thuật chăn gối của người Trung-quốc, Lĩnh-nam từ hơn nghìn năm trước để lại. Mục đích giúp cho trai, gái dựa vào nhau mà khoẻ mạnh trẻ trung.
      Mỹ-Linh nhăn mặt không muốn nghe, nàng hỏi lảng sang truyện khác:
      - Lão tiên sinh, tiểu nữ vẫn không hiểu con nhân sâm bắt ở đâu?
      - Mỗi đêm Đặng Đại-Bằng đều ôm một thanh nữ mà mgủ. Trong khi ngủ, y hấp khí của thanh nữ. Thanh nữ hấp khí của y. Thành ra cả hai người đều trẻ lâu, khoẻ mạnh. Riêng Bằng, hàng tháng hút kinh huyết của thiếu nữ, vì vậy công lực y tiến mau vô cùng. Từ đấy lão phu với y hợp được thuật Thái âm bổ dương vào phép luyện Hồng-thiết thần công.
      Lão chỉ vào đĩa nhân sâm hấp:
      - Sau khi về Đại-Việt, lão phu ngẫm ra rằng, dùng lối hút kinh nguyệt của thiếu nữ luyện công, chẳng qua là lấy tinh huyết của phụ nữ mà thôi. Tinh huyết của phụ nữ chỉ có âm chất. Nếu như có thêm dương khí vào mới khiến cho Hồng-thiết công trở thành mạnh. Lão phu nghĩ, con người ta muốn cho chân khí mạnh, sao không dùng thuật ăn uống phụ vào cho mau.
      Lão hỏi Mỹ-Linh:
      - Này tiểu thư, người có biết cấu thành của chân khí như thế nào không?
      Mỹ-Linh đã nghe Hồng-Sơn đại phu giảng hôm nàng đến Vạn-thảo sơn trang, nay nàng còn nhớ:
      - Tiểu nữ biết. Chân khí cấu thành do Tiên-thiên-khí và Hậu-thiên-khí.
      - Dĩ nhiên, nhưng Tiên-thiên-khí là gì?
      - Tiên-thiên-khí, là khí của con người khi chưa chào đời. Đầu tiên hạt tinh khí của người cha, gieo vào người mẹ. Sau khi kết thai, tinh khí hấp thụ khí huyết của mẹ tức nguyên khí. Tinh khí, nguyên khí hợp với nhau thành Tiên-thiên khí. Khi người ta sinh ra đời rồi, thở hít khí trời tức thiên-khí, ăn uống tức địa khí. Thiên-khí, địa-khí hợp lại thành Hậu-thiên-khí.
      - Giỏi. Tiên-thiên, Hậu-thiên khí hợp lại thành Chân-khí. Khi luyện công, thở hít thiên khí thuộc lẽ đương nhiên, dễ dàng. Ăn uống là nguồn gốc của Hậu-thiên khí. Khi con người sinh ra rồi, tinh khí của cha, nguyên khí của mẹ vốn đã cố định, liệu có thay đổi được không? Các gia, các phái khác cho rằng không đổi được. Nhưng Hồng-thiết giáo của lão phu cho rằng đổi được.
      Thiệu-Thái tỏ vẻ khinh bỉ:
      - Nhờ tiên sinh với Đặng Đại-Bằng sáng chế ra lối hút kinh huyết của phụ nữ áp dụng vào luyện công.
      Nhật-Hồ lão nhân biết Thiệu-Thái mỉa mai mình, nhưng lão thản nhiên, tỏ ra hãnh diện:
      - Đúng thế. Nhưng đó, hồi ở bên Trung-quốc. Khi trở về Đại-Việt, lão phu nghĩ rằng dùng lối hút kinh huyết, chỉ được âm huyết, sao bằng trộn lẫn âm huyết với tinh khí, có phải bổ được Tiên-thiên khí, mà võ lâm cổ kim đến giờ chưa ai vựơt qua được không?
      Thiệu-Thái rùng mình nghĩ:
      - Lão già này một đại ma đầu có khác. Y nghĩ được, làm được những gì, mà cổ kim chưa ai dám nghĩ, dám làm. Vì vậy mà giáo chúng Hồng-thiết giết người, lại cho rằng đạo đức, thì ra thế.
      Chàng hỏi với vẻ ngạo mạn:
      - Chắc tiên sinh cùng các cao đồ mỗi tháng đều hút kinh huyết của thiếu nữ, rồi hút tinh khí của thiếu niên để luyện công, cho nên võ công giáo chúng Hồng-thiết giáo mới mạnh thế.
      Lão già gầy mỉm cười tự phụ:
      - Đâu có, nếu hút tinh khí của con trai, kinh huyết của con gái, vẫn không thành được Tiên-thiên khí. Ví như ta ăn thịt, ăn cơm, sẽ thành máu huyết. Nhưng đem thịt với cơm trộn vào với nhau, sao thành máu huyết được? Công tử, tiểu thư thử nghĩ xem, làm thế nào tạo thành Tiên-thiên-khí?
      Mỹ-Linh, Thiệu-Thái ngẩn người ra suy nghĩ một lúc, rồi lắc đầu:
      - Bọn tiểu bối nghĩ không ra.
      Lão già béo nói vọng sang:
      - Cô cậu làm sao mà biết? Sư phụ tôi có trí tuệ cao nhất hoàn vũ, người mới nghĩ ra được. Phương pháp hợp tinh khí, nguyên khí, trời đất đã sinh ra từ khai thiên lập địa đến giờ rồi, mà không ai để ý.
      Trịnh Đức buông mành che kín xe, rồi ra roi cho hai ngựa chạy. Một lát thành Thăng-long hiện ra phía trước. Trịnh Đức hỏi:
      - Thưa cô nương vào cửa nào?
      - Người cho xe chạy vào cửa Đan-phượng.
      Mặt lão già Đức hơi biến đổi đôi chút. Lão cho xe chạy qua cửa Quảng-phúc, rồi tới Đại-hưng, tới cửa Đan-phương hiện ra trước mắt. Đến gần cửa Đan-phượng, Mỹ-Linh ra lệnh:
      - Người cho xe vào cửa, rồi quẹo sang trái.
      Lão Đức kinh hãi:
      - Bên trái là điện Uy-viễn, nơi Khu-mật viện đóng. Xe vào đó ắt tiểu nhân bị chặt đầu.
      Mỹ-Linh quát:
      - Im mồm! Tuân lệnh ngay, bằng không, ta giết liền.
      Xe vào trong thành, quẹo sang trái. Phía tới điện Uy-viễn. Xe chưa tới cung, có hai dũng sĩ cầm bảo đao chặn lại. Mỹ-Linh nhận ra hai vệ sĩ của Khai-Quốc vương. Nàng mở mành ra nói:
      - Anh Quế, anh Nam. Bình-Dương đây, cho xe vào mau!
      Hai vệ sĩ thấy cô công chúa ngàn vàng, con gái Khai-Thiên vương, con nuôi Khai-Quốc vương, em kết nghĩa của người quản Khu-mật viện Tạ Sơn, mà đầu tóc rối bù, ngồi trong xe, với mấy người quần áo ứơt sũng. Chúng kinh hoảng, vội mở cửa phủ cho xe đi. Nam cầm dùi đánh ba tiếng trống. Xe vào tới sân trong phủ Uy-viễn. Tạ Sơn đã chạy ra cùng với Ngô Thuần-Trúc theo sau còn bốn người, mà nàng nhớ nhung ngày đêm: Tự-Mai, Tôn Đản, Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm. Bé Ngô Thường-kiệt cũng có mặt. Tạ Sơn ngoắc tay ra lệnh, ba võ sĩ ra vác thầy trò Nhật-Hồ vào. Mỹ-Linh chỉ ba người nói: — Ba đại ma đầu của Hồng-thiết giáo. Chúng bị ngộp nước, mau cứu tỉnh. Phải cẩn thận, vì võ công chúng rất cao. Phủ đệ của Khai-Quốc vương ở điện Giảng-vũ, ngay cạnh điện Uy-viễn. Mỹ-Linh dẫn Vũ Thiếu-Nhung, Chu Vân-Nga, Thiệu-Thái theo ngả sau về phủ Khai-Quốc. Vú Tú thấy Công-chúa, Thế-tử ướt như chuột thì kinh hoàng. Mỹ-Linh dơ tay vẫy, ý muốn nói: Đừng hỏi lôi thôi. Nàng chỉ vào Vũ Thiếu-Nhung, Chu Vân-Nga:
      - Lấy quần áo của tôi cho hai vị này thay. Dẫn hai người đi tắm.
      Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cũng đi tắm rửa. Tắm, thay y phục, trang điểm xong, nàng xuống phòng ăn. Vú Tú đã dọn cơm lên sẵn. Bà nói:
      - Công-chúa có tin mừng.
      Mỹ-Linh hỏi:
      - Tin gì đấy vú? Thím hai khỏi bệnh thì tôi biết rồi.
      - Có người mà Công-chúa đêm nhớ, ngày mong đã về đây.
      - Ai thế vú? Sư phụ ư? Chú hai ư ? Hay chị Bảo-Hòa chăng?
      Trong tâm Mỹ-Linh chỉ có sư phụ, lúc nào cũng cười tươi như Bố-Đại hoà thượng, mà lòng nàng tưởng nhớ ngày đêm, sau đó đến Khai-Quốc vương. Ông chú đầy uy quyền, bận rộn tối mắt, nhưng luôn dành cho nàng tình yêu vô bờ bến. Chú nàng vừa là bố, vừa là mẹ. Gần đây thêm Bảo-Hòa, niềm an ủi lớn cho nàng. Vú Tú cười, mở cửa, một thiếu phụ, một thiếu nữ chạy vào với hai con chó. Mỹ-Linh mừng quá đứng dậy ôm lấy thiếu phụ:
      - Vú Hậu! Ninh!
      Quả thực nàng cũng thương vú Hậu như thương mẹ. Xa bà đã mấy tháng nay, nàng đinh ninh bà ở Trường-yên. Không biết nay sao cũng về Thăng-long, lại dẫn thên cô em sữa Ninh cùng hai con chó. Nàng ôm chầm lấy vú Hậu, ấp đầu vào ngực vú. Nàng cảm thấy một mùi thơm quen quen từ người vú Hậu, mà từ lâu, nàng ngẫm ra chỉ vú hậu mới có cho nàng. Cả hai cùng rơm rớm nước mắt. Nàng nói:
      - Con thương vú vô cùng.
      Hai hàng nước mắt vú Hậu chảy dài trên má:
      - Tiểu tỳ nhớ Công-chúa quá, nên cùng con Ninh về đây đã hai ngày, mong Công-chúa mãi.
      Mỹ-Linh mời vú Hậu, cùng Ninh ngồi. Nàng vuốt ve hai con chó thân yêu, rồi nói:
      - Vú và em Ninh ăn cơm chung với con nghe!
      Thời bấy giờ, tôi tớ nhà bình dân cũng không được ngồi ăn cùng chủ. Huống hồ Mỹ-Linh là Công-chúa. Nhưng Mỹ-Linh, ở với Khai-Quốc vương. Vương cho phép bất cứ tôi tớ, tỳ nữ nào, mà chủ nhân mời, đều được ngồi ăn chung. Vú Hậu, Mỹ-Linh cùng ngồi ăn. Vũ Thiếu-Nhung nước mắt dàn dụa nói với Mỹ-Linh:
      - Cô nương, ra cô nương là Công-chúa đấy. Tiểu nhân thực vô phép. Tiểu nhân nghĩ mình tội lỗi quá nhiều. Mong rằng Công-chúa rộng dung cho tiểu nhân đến khi gặp lại Hồng-Sơn đại phu. Sau khi nói với người mấy câu, rồi tiểu nhân tự xử, chứ không giám để ô uế đến lưỡi gươm của quan nha. Mỹ-Linh vẫy tay:
      - Bá mẫu cùng tiểu nữ vừa chung nhau một hoạn nạn, đừng nói đến cái gì khác hơn việc ta lấy lòng đãi nhau. Ăn xong chúng ta mau thẩm cung bọn Nhật-Hồ. Còn nhiều người bị chúng giam cầm, cần cứu ra.
      Từ lúc được cứu tỉnh, Chu Vân-Nga không nói một câu. Bây giờ nàng mới lên tiếng:
      - Công-chúa. Ngay khi gặp Công-chúa trong hầm, tôi đã nhận ra Công-chúa. Nhưng Công-chúa không nhận ra tôi. Công-chúa có biết tôi là ai không, mà lại cho tôi ăn cùng mâm. Biết đâu tôi phạm trọng tội thì sao?
      Mỹ-Linh gắp nhát cá trê rán dòn, chấm vào bát nước mắm gừng, bỏ cho Chu Vân-Nga:
      - Tôi không cần biết lý lịch chị. Dù chị là quân giặc cướp, chị có tội với luật nước. Dù chị giết người, chị bị kết án tử hình. Đối với tôi, chị ở hoàn cảnh đáng thương, đáng xót. Nhan sắc chị thuộc loại hiếm có trên đời, mà bị giam dưới hầm sâu, làm kẻ hầu cho Nguyễn Chí, thực còn gì đau khổ hơn nữa?. Tôi cứu chị ra, mời chị ăn bữa cơm, rồi bấy giờ chị là ai, có tội hay không sẽ bàn sau. Ăn cơm đi chị.
      Vân-Nga cảm động òa lên khóc. Luân-lý, luật pháp người Việt ngay từ thời vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng đều coi đức tính trinh-tĩnh của phụ nữ cực kỳ quan trọng. Khi cha mẹ hứa hôn rồi, coi như đã có chồng. Chồng chết phải ở vậy suốt đời dù chưa cưới. Còn những phụ nữ lấy chồng, có mai mối, sau khi lấy chồng chỉ biết có chồng. Lỡ ra bị cưỡng hiếp, phải tự tử để bảo toàn danh tiết. Đến khi vua Ngô Quyền dựng lại chính thống, tạm dùng lại luật Lĩnh-Nam. Trải qua loạn Thập-nhị sứ quân, đất nước ở trong một thời kỳ cực kỳ rối loạn, cho nên khi thống nhất giang sơn, vua ban hành luật nghiêm khắc. Phụ nữ thất tiết, bị xử tử hình, không có trường hợp giảm khinh. Vua Lê Đạo-Hành lên ngôi, chưa kịp ban hành luật, vẫn giữ luật cũ. Khi vua Lý Thái-Tổ lên ngôi, bấy giờ Nho-giáo đã có chỗ đứng vững trong xã hội. Luật triều Lý đặt cơ sở trên nhân trị của Nho-giáo, thêm một phần ảnh hưởng của Phật-giáo, khép người phụ nữ vào một khuôn khổ luân lý rất khắt khe. Chỉ cần người phụ nữ để người đàn ông khác nắm lấy tay, ôm trong tay, hoặc trông thấy bộ phận kín của mình coi như phạm tội bất trinh. Còn để người khác phạm vào thân thể liệt vào tội ô danh thất tiết. Cả hai tội đều đưa đến hình phạt. Nặng nhất bắt đến trước con voi, để nó dùng chân đạp lên người. Đó là tội voi dầy. Thứ đến cho cột chân tay vào bốn con ngựa, rồi đánh cho ngựa chạy ra bốn phía, cơ thể bị xé làm bốn mảnh. Đó là tội ngựa xé. Nhẹ hơn nữa, bị xử giảo, tức thắt cổ cho đến chết, hoặc chém đầu. Tất cả ba tội trên, sau khi chết, cơ thể đem ra đồng cho diều hâu, cho quạ ăn thịt. Trường hợp nhẹ nhất, chỉ bị đem ra giữa chợ đánh đòn, gọt đầu, lấy vôi bôi lên cho tóc không mọc được nữa, rồi cho xuống bè chuối, thả trôi sông. Những hình phạt đó, phổ thông đến dân chúng. Vì vậy, cho đến nay, khi người ta nguyền rủa đàn bà, thường dùng câu "Con voi dầy, ngựa xé kia hoặc Con diều tha, quạ mổ kia hoặc đồ trôi sông, đòn chợ". Vũ Thiếu-Nhung, Chu Vân-Nga vốn gái có chồng, bị Hồng-thiết giáo bắt giam, đáng lẽ phải tự tử ngay, để bảo toàn trinh tiết. Nhưng hai người không làm thế, mà cam tâm hầu hạ, cho Nhật-Hồ, Nguyễn Chí dầy vò bao năm. Tội quá nặng, không được quyền giảm khinh. Nay họ biết Mỹ-Linh là Công-chúa, chắc chắn đã khinh khiến, kinh tởm, khi biết họ phạm tội. Vì vậy cả hai mới thốt ra lời bi thương. Không ngờ Mỹ-Linh lại lảng ra truyện khác, dùng lời nói êm dịu phủ dụ họ. Đúng ra, Mỹ-Linh thẩm vấn hai người đàn bà này trước, rồi giải qua quan tiết độ sứ Thăng-long xử tội, mà nàng cố tình lờ đi. Hơn nữa còn cho ngồi ăn chung. Mỹ-Linh đâu phải không biết tội trạng hai người? Khi nàng được thầy dạy văn giảng về nhân trị, nàng tâm niệm, nếu có dịp, nàng sẽ thử đem đạo đức cảm hoá. Trước đây, khi gặp Đỗ Lệ-Thanh, mụ phạm tội làm gian tế cho Tống, không cần xét xử, đem ra xử lăng trì, tức xẻo từng miếng thịt. Hoặc ít ra, Mỹ-Linh cật vấn chi tiết về những tội trạng của mụ. Nhưng nàng lờ đi, vì vậy Đỗ cảm động, nguyện theo hầu nàng với Thiệu-Thái cả đời. Bây giờ nàng lại áp dụng với Thiếu-Nhung, Vân-Nga. Quả nhiên hữu hiệu. Vũ Thiếu-Nhung nhắm mắt hồi tưởng lại thời thơ ấu... Quan Tiết-độ sứ tổng trấn kinh thành Trường-yên, Vũ Hoàng-Quân, nguyên xuất thân làm một võ tướng, có chiến công trong trận đánh Chi-lăng với Tống, được vua Lê Đại-Hành tín cẩn. Vũ tiết độ sứ vốn là đệ tử phái Sài-sơn, sư thúc của Nam-quốc vương Lê Long-Mang. Vì vậy Nam-Quốc vương thường tới dinh Tiết độ sứ chơi, để học hỏi thêm võ công. Vũ tiết độ sứ chỉ có một con gái duy nhất tên Vũ Thiếu-Nhung. Trời cho tấm nhan dắc diễm lệ, lại giỏi nghề đàn ca. Trong khi Nam-quốc vương ra vào dinh Vũ tiết độ sứ, ông được quen với Thiếu-Nhung. Trai tài, gái sắc gặp nhau, họ cảm nhau ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên. Tin này đồn ra ngoài, vua Lê Đại-Hành sai sứ đến hỏi Thiếu-Nhung, phong làm vương phi Nam-Quốc. Không ngờ trong lễ tấn phong, anh của Nam-Quốc vương là Lê-long-Đĩnh nhìn thấy. Y mê chết lên chết xuống, nhưng chỉ ngậm bồ hòn, chờ dịp. Niên hiệu Ứng-thiên thứ mười hai, đời vua Lê Đại-Hành, nhằm năm Kỷ-tỵ (1005). Khai-Minh vương Lê Long-Đĩnh giết anh, lên làm vua, rồi sai tướng đem quân vào Thanh-hóa bắt Nam-Quốc vương Lê Long-Mang. Mục đích của Long-Đĩnh không phải diệt trừ em, mà bắt Vũ Thiếu-Nhung. Nam-Quốc vương là người bác học đa năng nhất trong các hoàng tử con vua Lê. Nếu Vương mốn làm vua, sĩ dân thiên hạ, không ai mà không vui mừng. Thấy anh gây điều bạo nghịch, Vương đã chán nản thế sự. Đúng lúc ấy, được tin quân Tống chuẩn bị sang đánh. Nếu Vương chống cự với anh, tất thắng, rồi nhân đó lên làm vua, hẳn dễ như trở bàn tay. Nhưng Vương sợ rằng giữa lúc hai bên đại chiến, hoặc sau khi một bên thắng, một bên bại, tinh lực kiệt quệ, quân Tống tràn sang, e cái nạn mất nước khó tránh. Vương bèn niêm phong kho lẫm, đêm treo ấn, lẳng lặng dẫn Thiếu-Nhung bỏ đi cùng gia bộc thân tín, khai đất, lập ra Vạn-thảo sơn trang. Vương dấu tên, dấu họ, chỉ dùng danh xưng Hồng-Sơn đại phu. Tuy vậy, ngoài gia bộc ra, chỉ có sư phụ đại phu, cùng những người vào vai sư thúc, sư bá biết rõ chân tướng Vương. Vương yêu thương Thiếu-Nhung rất mực. Hai người có với nhau người con gái đầu lòng tên Thiếu-Mai, người con trai thứ nhì tên Lê Văn, rồi tai vạ xẩy đến... Nàng bị người ta phóng độc chưởng. Đến đây nàng khóc òa lên, không dám nghĩ tiếp nữa. Vân-Nga cũng òa lên khóc theo, nàng nói với Mỹ-Linh:
      - Công chúa! Nếu tôi không phạm tội, tôi là người trên Công-chúa.
      Mỹ-Linh kinh ngạc:
      - Khi mới gặp, nhìn bóng dáng chị quen quá. Tôi không nhớ rõ đã gặp ở đâu.
      - Tôi là thứ phi của Đông-Chinh vương.
      Mỹ-Linh, Thiệu-Thái kinh hoàng nhớ lại truyện cũ. Năm năm trước đây, Thuận-Thiên hoàng đế tuyển con gái Tiết-độ-sứ Chu Toàn-Minh tên Chu Vân-Nga cho Đông-Chinh vương làm cung phi. Lập-Nguyên hoàng hậu có ý định để nàng sống trong cung ít lâu, rồi sẽ phong làm Vương-phi. Được một năm, Chu Vân-Nga bị mất tích, trong lần về thăm nhà ở vùng Mê-linh. Đông-Chinh vương ra sức tìm tòi, đều vô hiệu. Hai năm sau, truyện đó chìm vào dĩ vãng. Không ngờ bây giờ Mỹ-Linh tìm ra nàng ở trong đường hầm tại Cổ-loa. Mỹ-Linh nghĩ thầm: "Chu Vân-Nga tội nặng khó tha thứ. Bà ta được tuyển làm cung phi cho chú nàng là Đông-Chinh vương, thân thể cao quí biết dường nào. Đúng ra nàng ở vai thím mình. Mình với Thiệu-Thái trông thấy phải quì gối hành đại lễ. Không biết sự thực về vụ này ra sao. Mình cứ để Khu-mật-viện làm việc." Nàng á lên một tiếng:
      - Thì ra thím. Thảo nào lúc mới vào hầm, cháu thấy gương mặt thím quen quen. Việc này lớn quá, cháu không có thẩm quyền giải quyết, để ông nội định đoạt. Thôi chúng ta ăn cơm đã.
      Cơm xong, Mỹ-Linh dẫn Thiệu-Thái, Thiếu-Nhung, Vân-Nga sang Khu-mật viện. Nàng thuật sơ lược tất cả những gì thấy ở nhà Hoàng Văn cùng các biến chuyển một lượt. Ta Sơn nói:
      - Công-chúa thực may mắn, tìm ra tất cả âm mưu của bọn Tống. Nhưng cho đến giờ phút này, sư huynh cũng không biết chủ trương của bọn Hồng-thiết giáo ra sao. Sư huynh đã cho cứu tỉnh, gông ba thầy trò Nhật-Hồ rồi.
      Mỹ-Linh nhớ ra điều gì:
      - Còn gã Trịnh Đức, sư huynh giam gã ở đâu?
      Tạ Sơn nói sẽ vào tai nàng:
      - Y vốn người của Khu-mật-viện, cho vào ẩn ở trong phủ Đàm Can. Sư huynh thưởng bạc, truyền trở lại nhà y. Còn bọn Nhật-Hồ chờ lát nữa ta hỏi cung. Có điều không bao giờ sư huynh ngờ quản gia của phủ Khai-Thiên lại là Hoàng Văn, tên ma đầu đứng hạng ba của Nhật-Hồ lão nhân. Rồi nữa Đàm Can lại chính thị Vũ Nhất-Trụ. Vụ này thực không nhỏ.
      Thấy vắng bóng Bảo-Hòa đâu, Thiệu-Thái hỏi:
      - Bảo-Hoà đâu?
      - Các đệ tử Tây-vu tề tựu dự anh hùng đại hội đóng ở ngoài thành, vì vậy Quận-chúa cũng phải về chầu hầu vua Bà. Vua Bà có chỉ dụ, nếu Thế-tử về, đến chầu hầu ngay.
      Thiệu-Thái là con chí hiếu, nghe chỉ dụ của mẹ, chàng vội đứng lên nói với Mỹ-Linh:
      - Anh phải đi chầu mẹ ngay. Ngày đại hội, chúng ta sẽ gặp nhau.
      Chàng lấy ngựa lên đường. Tạ Sơn đứng lên kiểm điểm:
      - Thuận-Thiên cửu hùng, còn thiếu Vương-gia, Thanh-Mai, Thanh-Nguyên nữa là đủ. Nào chúng ta thẩm vấn bọn Nhật-Hồ. Mọi người vào phòng thẩm vấn. Tạ Sơn bảo Mỹ-Linh:
      - Công-chúa hiểu rõ nội tình bọn chúng. Xin công chúa thẩm vấn thì hơn. Giữa Công-chúa với sư huynh, có tình sư huynh, sư đệ cái gì cũng xong hết. Ngặt vì tên Trương Yên làm quản gia phủ Khai-Thiên. Tên Vũ Nhất-Trụ vai Quốc-cữu. Chức vụ Điện-tiền chỉ huy sứ, quản Khu-mật-viện của sư huynh không đủ uy quyền hỏi cung chúng.
      Tự-Mai không chịu:
      - Sư huynh, em nghĩ khi anh hỏi cung, anh là đại diện của luật pháp, đại diện của Đại-Việt hoàng đế. Ai phạm tội, anh cũng có quyền chấp pháp chứ?
      Lâu ngày không gặp cậu sư đệ bác học, thông minh, Mỹ-Linh nắm lấy tay Tự-Mai, liếc ánh mắt sáng như sao, rồi nở nụ cười:
      - Bộ Quốc-triều hình thư có dự trù khoản gọi là Bát nghị, nên anh hai khó lòng hỏi cung y.
      Tự-Mai, Thuận-Tông, Thiện-Lãm, Tôn Đản nhao nhao lên:
      - Bát nghị là kí gì vậy?
      Mỹ-Linh thư thả kể:
      - Từ khi ông nội chị lên làm vua, người ban hành mấy bộ luật tạm thời. Trong đó có bộ Quốc triều hình thư. Trong Hình-thư dự trù trường hợp giảm khinh, gọi là Bát nghị. Bát nghị đã có trong bộ luật thời Lĩnh-Nam, do công chúa Phùng Vĩnh-Hoa sọan. Nay bộ Hình-thư chỉ chép lại mà thôi.
      Tự-Mai gật gật đầu:
      - Em nghe bố nói một lần, nhưng không rõ cho lắm. Bát nghị nội dung ra sao?
      - Bát nghị bao gồm tám trường hợp được giảm khinh. Những người ở trong trường hợp sau đây, khi phạm tội, sẽ được giảm khinh: Một, nghị thân, tức trường hợp thân thuộc trực hệ của Hoàng-đế. Hai, nghị cố, tức những người bạn hữu của hoàng đế. Ba, nghị hiền. Tức những người nổi tiếng đạo đức, trong nước. Bốn, nghị năng. Tức những người tài ba. Năm, nghị công. Tức những người có huân công với xã tắc. Sáu, nghị quý. Tức những quan lớn. Võ từ cấp phó tiết độ sứ. Văn từ cấp thái bảo. Bẩy, nghị cần. Tức những người nổi tiếng làm việc xiêng năng. Tám, nghị bảo. Tức những người giầu có, được đem tiền chuộc tội.
      Nàng nhấn mạnh:
      - Vũ Nhất-Trụ được phong quốc cữu. Y liệt vào hàng Nghị thân. Vì vậy nhị sư huynh không có quyền thẩm cung y. Đúng ra, thân phụ của chị tước Khai-Thiên vương, chị là Quận-chúa ngang vai với Nhất-Trụ. Chị cũng không được hỏi cung y nốt. Nhưng chị được phong Công-chúa, nên cao hơn y một bậc. Chị hiểu rõ vị thế của sư huynh. Dù làm quan lớn đến đâu cũng không thể so sánh với bọn ngoại thích. Chị thấy tên Vũ Nhất-Trụ sinh ra Đàm quí phi, người đang được ông nội sủng ái. Bây giờ ngoài chị ra, chỉ có chú hai mới đủ tư cách thẩm cung y.
      Mỹ-Linh quyết định phải ngồi chấp cung y:
      - Nhật-Hồ vốn xảo trá khôn cùng. Tiểu muội không đủ kinh nghiệm thẩm cung chúng. Sư huynh hỏi cung đi. Tiểu muội góp ý với sư huynh.
      Thị vệ dẫn Nhật-Hồ lão nhân vào. Mỹ-Linh nhỏ nhẹ:
      - Lão tiên sinh, người ta sinh ra thọ được bẩy mươi tuổi là hiếm lắm. Nay tiên sinh đã tới trăm tuổi, mà Khu-mật-viện gông lão tiên sinh như thế này thực không phải. Sở dĩ thị vệ không giám để tiên sinh thư thả vì võ công tiên sinh quá cao thâm, nên họ phải làm vậy. Việc này thực bất đắc dĩ. Mong lão tiên sinh lượng thứ.
      Nhật-Hồ lão nhân bị giam hai chục năm, mọi biến chuyển, lão không biết gì. Lão hỏi:
      - Đây thuộc phủ nào? Cô nương cứu ta hai lần, nên dù cô nương giết ta, ta cũng không buồn. Huống hồ cô nương gông ta. Cô nương là ai?
      Mỹ-Linh ra lệnh cho thị vệ:
      - Các người mau tháo gông cho lão tiên sinh!
      Nhật-Hồ cười ha hả. Tiếng cười của lão làm mọi người ù tai, chóng mặt. Lão quát lên một tiếng vung tay mạnh. Hai cái tay gông gẫy rời. Lão bóp mạnh vào cái gông cổ, gông cũng gẫy nốt. Lão nói:
      - Lão phu tưởng cô nương gông lão phu, lão phu chịu. Chứ còn người khác, gông lão phu sao được! Lão đến cạnh Vũ Thiếu-Nhung, ngồi bên bà. Bất chấp công đường đông người, lão cầm tay bà đầy vẻ trìu mến như một cặp tình nhân trẻ. Mỹ-Linh thấy Thiếu-Nhung không phản đối, nàng nhăn mặt, tỏ vẻ bực mình. Tuy vậy, nàng vẫn truyền rót nước trà mời lão uống. Trong lòng nàng nổi lên cơn bão táp: "Như thế Thiếu-Nhung công khai nhận có tình ý với lão, chứ bà đâu có bị ép buộc? Thực bí mật, thực huyền bí. Mình phải điều tra cho ra manh mối mới được." Tạ Sơn chỉ Mỹ-Linh:
      - Thưa giáo chủ. Công chúa Bình-Dương cứu giáo chủ ra. Người muốn giáo chủ trả lời mấy câu. Hiện giáo chủ đang ngồi trong Khu-mật viện Đại-Việt.
      - Thì ra cô nương là Công-chúa của Lê triều đấy.
      Mỹ-Linh lắc đầu:
      - Lê triều hết số từ mười tám năm rồi. Đương kim thiên tử là Thuận-Thiên hoàng-đế, ông nội tiểu nữ.
      Thấy Nhật-Hồ ngơ ngơ ngác ngác. Tạ Sơn tóm tắt tình hình hai mươi năm qua cho lão nghe qua. Chàng tiếp:
      - Còn Hồng-thiết giáo của tiên sinh công bố rằng tiên sinh qua đời từ hai chục năm trước. Họ xây lăng cho tiên sinh lớn lắm. Mỗi ngày có hàng mấy trăm giáo đồ đến lễ tiên sinh đấy. Lê Ba cho phổ biến một di chúc của tiên sinh.
      Mặt Nhật-Hồ tái đi:
      - Láo thực, tôi có viết di chúc bao giờ đâu?
      Tạ Sơn hỏi:
      - Bị tù bấy nhiêu năm. Bây giờ được tự do, tiên sinh định làm gì?
      Nhật-Hồ thở dài:
      - Việc đầu tiên lão phu phải giết chết bọn phản thầy, rồi sau đó chính đốn lại Hồng-thiết giáo.
      Có tiếng Khai-Quốc vương dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai Tạ Sơn, Mỹ-Linh:
      - Hãy tìm cách phóng thích khéo lão này, để tự tay lão giết hết bọn ma đầu. Mình khỏi cần ra tay.
      Tạ Sơn biết Khai-Quốc vương ngồi ở phòng bên cạnh nghe chấp cung. Chàng yên lòng tiếp:
      - Người ta nói tiên sinh có mười đại đệ tử, Vậy họ là ai?
      - Lão phu nhất tâm cứu nước, nên thu dụng, huấn luyện nhiều đệ tử. Nhưng trong đó có mười tên khá nhất. Lão phu căn cứ vào ai nhập môn trước làm sư huynh. Ai nhập môn sau làm sư đệ. Chứ không căm cứ trên tuổi tác, bản lĩnh. Đại đệ tử của lão phu tên Vũ Nhất-Trụ, tức Đàm Can như các vị biết. Y đã được bị bắt cùng lão phu. Về võ công y cao thâm nhất.
      - Thế tiên sinh giao cho Nhất-Trụ nhiệm vụ gì?
      - Y tiềm ẩn ở Hoa-lư, bám sát triều đình. Sau này triều đình thiên đô về Thăng-long, y cũng về theo.
      Mỹ-Linh muốn biết tin Vương mẫu, nàng hỏi:
      - Có phải y tiềm ẩn, khống chế các quan trong triều đình không?
      - Đúng thế!
      Lão uống một hớp nước trà, rồi nói:
      - Đệ nhị đệ tử tên Đặng Trường. Y tiềm ẩn trong phái Đông-a. Mục đích ăn cắp di thư của phái này. Nhưng võ công phái Đông-a chép bằng thuật ngữ đặc biệt. Tuy y ăn cắp được, nhưng rút cuộc vẫn như không. Trong các đệ tử của lão phu, Đặng Trường tên ác độc nhất. Nghe nói dường như y bị bại lộ, bị bắt thì phải. Hà, công lực của y đâu phai tầm thường, không biết ai mà có bản lĩnh bắt sống y?
      Tự-Mai cười:
      - Lão tiên sinh bị tù lâu quá thành ra không biết gì về sự tiến hoá của võ học Đại-Việt. Đặng-Trường mưu giết tại hạ, nhưng không thành, y đấu võ với sư thúc tại hạ, bị người bắt sống.
      Nói rồi Tự-Mai thuật chi tiết diễn biến vụ Đặng Trường cho Nhật-Hồ nghe. Nhật-Hồ lão nhân nói với Tự-Mai:
      - Trần công tử. Công tử có thể diễn lại một vài chiêu võ công của Đặng Trường không? Ta không tin y bị bắt dễ dàng như vậy.
      Tự-Mai bảo Mỹ-Linh:
      - Chị Mỹ-Linh. Em làm sư thúc Trần Kiệt, chị làm Đặng Trường, chúng ta thử diễn lại một vài chiêu cho lão tiền bối thấy. Mỹ-Linh diễn lại những chiêu võ công của Đặng Trường. Còn Tự-Mai diễn lại những chiêu của Trần Kiệt. Cho đến chiêu cuối cùng, Đặng Trường ngã lăn ra, miệng ri rỉ chảy máu. Nhật-Hồ lão nhân cười:
      - Thiên-trường ngũ kiệt bị Đặng Trường lừa rồi. Nếu y dùng võ công Hồng-thiết giáo, không dễ gì Trần Kiệt thắng nổi. Vì vậy y dùng võ công Đông-a. Võ công Đông-a của y là võ công học lóm, sao bằng bản lĩnh chân thực?
      Tự-Mai kinh ngạc:
      - Tại sao y không dùng võ công chân thực, để đến nỗi bị bắt?
      Nhật-Hồ vuốt râu lắc đầu:
      - Các vị đây chưa ai hiểu Hồng-thiết giáo cả!
      Mỹ-Linh bật lên tiếng ái chà:
      - Tôi hiểu rồi. Đặng Trường biết rằng tung tích bị lộ. Nếu y dùng bản lĩnh chân thực đấu với sư thúc Trần Kiệt, ắt sư thúc phải dùng hết mười thành công lực. Dù y có thắng, ắt Thiên-trường ngũ kiệt cũng tìm cách bắt y. Bấy giờ, y khó tránh khỏi cái chết. Chi bằng giả thua, để bị bắt. Khi giải giao cho quan nha, y sẽ được đưa về Thăng-long. Trong thời gian đó, y tìm cách vượt ngục, hoặc thông tin cho đồng bọn cứu ra.
      - Đúng thế!
      Tạ Sơn kéo mọi người trở về thực tại:
      - Còn đệ tử thứ ba của tiên sinh tên gì. Hiện y ở đâu?
      - Y có tên là Lê Ba. Xuất thân làm thợ rèn. Y được lão phu thu làm đệ tử, cho quản trị giáo chúng vùng Thanh-hóa. Y ẩn thân trong phái Sài-sơn, theo dõi Hồng-Sơn đại phu từ lâu. Mục đích ăn cắp di thư Sài-sơn tên Thiên vương mật dụ. Sau cùng khống chế phái này, hầu nắm quyền chưởng môn.
      Vũ Thiếu-Nhung nói với Nhật-Hồ:
      - Anh lầm mất rồi? Trong Vạn-thảo sơn trang, không có ai tên Lê Ba cả. Em đâu có bị Lê Ba bắt giam? Em bị sư thúc Dương Ẩn bắt đấy chứ?
      Bà suýt bị chết ngộp, mới tỉnh nên đầu óc còn mơ hồ. Khi ở trong hàm đá, bà đã được biết Lê Ba chính là Dương Ẩn rồi, nhưng bây giờ bà quên mất. Bà nói với lão bằng giọng tha thiết như với người yêu. Trong lòng Thiếu-Nhung nổi lên một cơn bão tố. Suốt bốn năm qua, bà được giam chung với Nhật-Hồ. Một mặt bà phải phục thị lão như nữ tỳ. Một mặt bà ăn ở với lão như tình nhân. Hàng ngày lão hút nước tiểu, hàng tháng hút kinh huyết của bà để luyện công. Thế nhưng, những bí ẩn xung quanh bà, lão không hề hở môi. Hôm nay lão mới khai ra. Thế mà trong những năm chung sống, bà cứ tưởng lão thương yêu, sủng ái bà. Nào ngờ lão dùng bà như một thứ thuốc mà thôi, không tình, không nghĩa gì cả.
      Nhật-Hồ lão nhân nhìn Vũ Thiếu-Nhung, lão vuốt râu cười:
      - Y ẩn vào hang rồng mà dùng tên thực sao được? Y dùng tên giả. Y leo lên tới điạ vị khá cao trong phái Sài-sơn, cao hơn cả Hồng-Sơn đại phu. Trong môn phái, y đóng vai đạo đức, không tranh dành với ai. Nên ai cũng nể y.
      Vũ Thiếu-Nhung bật lên tiếng la lớn:
      - Không lẽ sư thúc Dương Ẩn?
      - Đúng thế.
      Đạo sư Dương Ẩn nổi danh đạo cao, đức trọng trong võ lâm. Ông thuộc vai sư thúc Hồng-Sơn đại phu. Quanh năm ông đóng cửa luyện võ, học thuốc cùng các học thuật khác. Ông ta không bao giờ tranh chấp với ai. Đối với đệ tử lớn, nhỏ, ông luôn tỏ vẻ từ ái, nói năng ngọt ngào. Chính Hồng-Sơn đại phu cũng kính nể ông ta bằng một thái độ đặc biệt. Vũ-thiếu-Nhung lắc đầu không tin:
      - Khó hiểu quá.
      Nhật-Hồ hừ một tiếng:
      - Có gì mà không hiểu. Khi sư phụ Hồng-Sơn qua đời, có hai người tranh chức chưởng môn với Lê Long-Mang. Nhưng Mang được Ẩn trợ giúp, nên thắng hai người kia. Sau khi Long-Mang lên nhậm chức, có lần Ẩn xin được coi cuốn sổ Thiên-vương mật dụ. Nào ngờ Long-Mang tuy nhớ ơn Ẩn, nhưng vẫn không thỏa mãn ước vọng của y. Bởi luật lệ phái Sài-sơn, cuốn sổ đó, chỉ chưởng môn mới được coi mà thôi.
      Lão ngừng lại nhìn Thiếu-Nhung:
      - Cho đến một đêm kia, y nhập mật thất định ăn cắp cuốn sổ đó. Em trông thấy tri hô lên. Y đánh em một chưởng nhẹ vào lưng. Lập tức em đau đớn như xé da, xé thịt. Bấy giờ tiếng la của em làm đệ tử trong phái đến đông bao vây. Y vội bỏ trốn. Từ đấy mỗi ngày em lên cơn một lần, đau đớn kể sao cho siết. Đến đêm thứ ba, Hồng-Sơn về. Y dùng hết khả năng y học cũng không trị được bệnh cho em. Một lần Hồng-sơn đi vắng, có người bịt mặt đến gặp em. Y xưng là người của Hồng-thiết giáo. Y cho biết em bị trúng Chu-sa Nhật-Hồ ngũ độc chưởng. Nếu em chỉ cho y chỗ cất sổ Thiên-vương mật dụ, y sẽ cho em thuốc giải. Em cương quyết từ chối, vì vậy đau đớn đúng bốn mươi chín ngày, rồi lúc ngất đi. Hồng-Sơn đại phu tưởng em chết, cho liệm vào áo quan. Đêm hôm đó, Lê Ba lén cậy nắp áo quan, đem em ra, thay vào đó bằng con chó bị giết chết, rồi đóng nắp quan tài như cũ.
      Tạ Sơn quay lại hỏi Thiếu-Nhung:
      - Phu nhân! Xin phu nhân cho biết sau đó sự thể ra sao?
      Thiếu-Nhung e thẹn, không muốn nói, nhưng bà biết sự thể không khai không được. Vì người chấp cung bà là chưởng quản Khu-mật-viện, đại diện Đại-Việt hoàng đế. Bà nghĩ thầm: " Đằng nào ta cũng ô danh, thất tiết rồi. Ta không còn mặt mũi nào về Vạn-thảo nhìn đệ tử nữa. Ta nói thực hết, hầu triều đình tru diệt bọn Hồng-thiết giáo. "
      Nghĩ vậy, bà ngửng mặt lên nhìn Mỹ-Linh:
      - Khi tôi đau đớn quá, người mệt lả, thiếp đi. Trong lúc mê mê tỉnh tỉnh, tôi thấy con, đệ tử xúm xít bên cạnh khóc lóc. Sau đó đại phu trở về. Đại phu bắt mạch tôi, lắc đầu nói gì, tôi không nghe rõ. Rồi tôi bị khâm liệm, bỏ vào quan tài. Biết mình sắp bị chôn sống, tôi muốn gào thét lên mà mở miệng không ra. Tôi mê đi, khi tỉnh lại,thấy mình đang nằm trên giường. Cạnh giường, một thiếu phụ. Tôi hỏi thiếu phụ, tại sao tôi ở đây, thiếu phụ không trả lời.
      Nhật-Hồ vuốt chòm râu bạc:
      - Thế sau đó mấy ngày em bình phục?
      - Năm ngày sau.
      Mỹ-Linh không muốn cho Thiếu-Nhung phải khai đoạn bị cưỡng dâm trước mặt mọi người. Nàng hỏi Nhật-Hồ:
      - Tiên sinh! Đệ tử thứ tư của tiên sinh tên Hoàng Văn. Đệ tử thứ năm tên Nguyễn Chí. Phải chăng đệ tử thứ sáu tên Đỗ Xích-Thập? Thứ mười tên Hoàng Liên?
      Nhật-Hồ kinh ngạc:
      - Công-chúa, công-chúa biết cả rồi ư?
      Tạ-Sơn mỉm cười:
      - Chúng tôi đang muốn thỉnh tiên sinh về đệ tử thứ bẩy, tám, chín. Từ trước đến giờ Hồng-thiết giáo của tiên sinh hành sự thường bí mật, ít ai biết rõ.
      Nhật-Hồ hỏi ngược lại:
      - Lão phu có bắt buộc phải khai không? Nếu bắt buộc, hẳn lão phu đóng vai bị cáo. Lão phu bị cáo tội gì? Xưa nay có ba loại người dù phạm tội nào cũng được tha. Một, sau bẩy mươi tuổi. Hai, sau khi phạm tội mười năm. Ba, không biết mà phạm. Nay lão phu ở trong cả ba trường hợp. Lão phu xin từ chối trả lời.
      Đến đó có tiếng nói vọng vào:
      - Tiên sinh nói hay không tùy tiên sinh. So về tuổi tác, tiên sinh đã ở ngoài cái tuổi chịu hình. Bộ Hình-thư có trường hợp giảm khinh cho những người tuổi trên bẩy mươi. Nay tiên sinh đến tuổi một trăm, tội lỗi gì cũng không thể đem xử. Huống hồ tiên sinh bị giam đã hai mươi năm. Dù có phạm tội, là phạm tội với triều Lê. Chứ bấy giờ bản triều chưa lập.
      Mỹ-Linh nhận được tiếng Khai-Quốc vương, nàng đứng dậy ra đón vương. Vương từ ngoài vào cùng với Nùng-Sơn tử, Huệ-Sinh. Thấy Huệ-Sinh, lòng Mỹ-Linh ấm lại:
      - Sư phụ. Sư phụ tâm vẫn thường an lạc chứ?
      Huệ-Sinh cười chúm chím:
      - Sư phụ an, có an, mà lạc thì không.
      Bởi bỗng nhiên cô đệ tử Mỹ-Linh mất tích. Nào ngờ trong cái mất tích lại xuống ngục A-tỳ cứu mẫu thân như ngài Mục-Kiều-Liên. Khai-Quốc vương ôm đầu Mỹ-Linh vào ngực mình, tay bẹo má nàng:
      - Con gái chú giỏi quá.
      Nhật-Hồ lão nhân bị giam lâu ngày, lão không biết Khai-Quốc vương. Nhưng thấy tất cả mọi người đứng dậy hành lễ với Vương, lão biết Vương có địa vị không nhỏ. Lão cũng chắp tay xá một xá. Tạ Sơn, Mỹ-Linh trình bày mọi chi tiết với Huệ-Sinh, Khai-Quốc vương. Vương nói:
      - Sư huynh biết truyện này quan trọng, vội về đây giải quyết.
      Vương quay lại chỉ vào Huệ-Sinh, Mỹ-Linh ,nói với Nhật-Hồ lão nhân:
      - Lão tiên sinh! Tại hạ Lý Long-Bồ, đệ tử phái Tiêu-sơn. Vị này pháp danh Huệ-Sinh, sư phụ của tại hạ. Còn Mỹ-Linh là cháu gọi tại hạ bằng chú.
      Vương trịnh trọng đưa ra tấm danh thiếp:
      - Sắp tới ngày giỗ Bắc-bình vương Đào Kỳ, tiểu bối kính mời tiên sinh đến dự. Trước lễ ngài, sau chúng ta cùng bàn việc cứu nước. Bây giờ tiên sinh cần gặp chư đệ tử, xin tiên sinh cứ tự tiện.
      Vương bảo viên thị vệ hầu cận:
      - Người thay ta, chọn một con ngựa tốt tặng tiên sinh.
      Vương móc trong bọc ba nén vàng:
      - Lão tiên sinh từ trong ngục ra, tiền không có, quần áo rách hết rồi. Xin tiên sinh cầm ít bạc vụn để tiêu vặt.
      Nhật-Hồ cười, tay lão vuốt râu:
      - Đa tạ Vương-gia.
      Lão nói với Mỹ-Linh:
      - Đa tạ Công-chúa cứu lão. Lão nguyện báo đáp. Về những điều Công-chúa thẩm vấn, xin Công chúa cho lão phu nghỉ ngơi mấy ngày đã. Sau đó lão phu mới có thể nói được. Lão phu bị giam hai mươi năm nay, bây giờ mới thấy ánh sáng mặt trời.
      Lão chỉ Vũ Thiếu-Nhung:
      - Đối với Hồng-Sơn, coi như nàng đã chết. Lão phu cứu sống nàng. Nàng với lão phu thành vợ chồng trải hơn bốn năm, xin Công-chúa đừng bắt lão phu xa nàng.
      Mỹ-Linh lắc đầu:
      - Tiểu nữ cần hỏi phu nhân đây ít câu đã. Sau đó sẽ trả lời tiên sinh.
      Mỹ-Linh bảo một thị vệ:
      - Người đưa lão tiên sinh ra ngoài.
      Nhật-Hồ theo thị vệ ra ngoài. Tạ Sơn xướng:
      - Gọi Vũ Nhất-Trụ vào.
      Thị vệ áp giải Vũ Nhất-Trụ tới. Y chỉ mặt Tạ Sơn:
      - Tên họ Tạ kia. Mi lấy tư cách gì mà gông cổ ta như thế này? Cái chức Điện tiền chỉ huy sứ của mi so với ta chỉ bằng hạt vừng, hạt đậu. Mi hỗn láo với ta, phạm tội đại bất kính, toàn gia sẽ bị phanh thây.
      Tạ Sơn chỉ vào Mỹ-Linh:
      - Đàm quốc cữu. Tiểu tướng ở chức vị Điện tiền chỉ huy sứ, dĩ nhiên không đủ tư cách thẩm cung một vị Thái-phó, Đô nguyên soái, kiêm quốc cữu. Nhưng vị này, e thừa tư cách.
      Vũ Nhất-Trụ nhìn Mỹ-Linh, y nhận ra nàng cùng Thiệu-Thái đã qua lại mấy chiêu trong hầm Cổ-loa. Y hỏi:
      - Y thị là ai?
      - Là Công-chúa Bình-Dương.
      Vũ Nhất-Trụ nhăn mặt:
      - Công chúa Bình-Dương? Ta nghe con gái của Khai-Thiên vương tên Mỹ-Linh được phong Công-chúa Bình-Dương. Thị chỉ biết đọc sách, có đâu võ công cao như cô nương này.
      Vũ Nhất-Trụ chợt nhận ra khuôn mặt Mỹ-Linh hơi giống Khai-Thiên vương. Y hỏi:
      - Công-chúa điện hạ. Lão thần hiện giữ chức Đô nguyên soái, đóng vai Quốc cữu. Cháu ngoại của lão thần là em của Khai-Thiên vương, còn cao hơn công chúa một vai. Như vậy lão thần cao hơn Công-chúa đến ba bậc. Công-chúa gông đại thần như thế này đây? Theo luật bản triều, lão thần được hưởng Bát nghị. Ai được hưởng Bát nghị, không thể bị gông.
      Mỹ-Linh nghĩ đến Vương mẫu, nàng muốn biết ngay hiện tình ra sao, nên lời nói có vẻ khắt khe. Nghe Vũ Nhất-Trụ than, nàng trở về với bản tính hiền hậu, nhỏ nhẹ:
      - Đàm quốc cữu. Dường như khi soạn bộ Hình-thư, Quốc-cữu cũng dự thì phải. Bộ hình thư dự trù khoản Bát-nghị, đúng ra Quốc cữu được hưởng giảm khinh. Nhưng có ba tội không được giảm khinh là tạo phản, tư thông với ngoại quốc và đại nghịch bất đạo. Quốc-cữu thân làm đại thần, võ tới Đô nguyên soái, văn tới Thái phó. Con gái làm Quí phi. Con trai làm Tuyên-vũ-sứ. Toàn gia được hưởng hoàng ân. Thế mà Quốc-cữu lại qui phục bọn Hồng-thiết giáo. Hơn nữa Quốc-cữu bắt giam Vương-phi của Thái-tử. Quốc cữu phạm cả ba tội đại nghịch, còn khoan hồng ở chỗ nào được nữa?
      Vũ Nhất-Trụ thở dài:
      - Lão phu đã từng làm việc ở Khu-mật-viện. Theo luật bản triều chỉ có quan Thái úy mới được quyền thẩm cung lão phu. Mỹ-Linh chỉ Khai-Quốc vương:
      - Quốc cữu hãy quay lại sau, xem ai đây?
      Vũ Nhất-Trụ quay lại, thấy Khai-Quốc vương, y không còn hồn vía nào nữa. Y biết với vị Vương gia này, y không thể qua mặt được. Y thở dài, cúi mặt xuống. Mỹ-Linh nghĩ đến Vương-mẫu không biết sống chết ra sao, nàng hết lịch sự được nữa:
      - Trong hầm người đã nói với ta rằng người giam Vương-mẫu ta cùng phu nhân Thiên-trường đại hiệp. Vậy người giam ở đâu phải khai ra?
      - Nếu lão phu không khai thì sao?
      Tự-Mai quát lên:
      - Ta có cách!
      Vũ Nhất-Trụ thấy Tự-Mai tuổi còn nhỏ, bất quá mười lăm, mười sáu. Y khinh thường cười lên hô hố. Tự-Mai vọt người tới, tay nó điểm vào huyệt Bách-hội, Đại-trùy của Nhất-Trụ. Nhất-Trụ né mình tránh, nhưng y bị gông chân, tay, nên không thoát khỏi bàn tay Tự-Mai. Người y rung động một cái, rồi bật lên tiếng kêu ái. Y cảm thấy khắp người như bị hàng ngàn mũi kim đâm vào da thịt, đau đớn không bút nào tả xiết. Nhưng tính quật cường, y nghiến răng chịu đau. Nguyên lúc Thiệu-Thái ở trong hang đá với Bố-đại hoà thượng. Chàng thấy ông chĩa ngón tay chỏ dồn chân khí vào huyệt Bách-hội, Đại-trùy của Mỹ-Linh, khiến nàng khỏi đau đớn. Sau khi rời hang đá, chàng hỏi ngài tại sao điểm tay hai cái mà hết đau đớn. Ngài dạy: "Trong người con nhí nhiễm Chu-sa độc chưởng. Chu-sa độc chưởng phát xuất từ Hồng-thiết công, là thứ công lực ma quái. Muốn trừ ma công, phải dùng Thiền-công nhà Phật. Ta điểm ngón tay, dồn Thiền-công vào hai huyệt trên, bao nhiêu ma khí quanh huyệt bị hoá giải, cho nên khỏi bị đau”. Hồi nãy Thiệu-Thái rời Khu-mật-viện đi chầu thân mẫu. Tạ Sơn hỏi chàng phương pháp khống chế Nhất-Trụ. Thiệu-Thái ghé tai Tự-Mai dặn: "Chỉ cần vận khí điểm vào huyệt Đại-trùy, Bách-hội, phân tán chân khí của y, lập tức y bị đau đớn." Quả nhiên bây giờ Nhất-Trụ giở quẻ. Tự-Mai đem ra áp dụng hữu hiệu.


      <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.01.2005 02:36:25 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 11.01.2005 17:59:22 (permalink)
        Hồi thứ bốn mươi chín


        Đệ Nhất Trưởng Lão




        Thấy Mỹ-Linh vẫn chưa hiểu, lão già gầy tiếp:
        - Có gì đâu, mỗi người đàn bà là cái máy hợp tinh khí, nguyên khí đó. Khi họ thụ thai, thành bào thai, bào thai chính thị khối Tiên-thiên-khí.
        Một tia sáng lóe ra trong đầu óc Mỹ-Linh, nàng chú ý nhìn vào bát nhân sâm, lấy đũa bới xem cái đầu nhân sâm, thực giống một cái đầu trẻ con. Nàng thét lên hãi hùng:
        - Thì ra tiên sinh lấy bào thai, đem hấp mà ăn. A-di Đà-Phật. Tiên sinh thành quỉ chứ đâu phải người?
        Nàng để cái bát, trong có đầu bào thai, với đôi đũa xuống đất, rồi đọc kinh vãng sinh.
        Mỹ-Linh được giáo dục về từ bi, hỷ xả của Phật-giáo từ nhỏ. Giận hờn trong đạo Phật một hình thức bị quỉ A-tu-la phân thân nhập vào người, cũng có một tội. Cho nên, dù khi bị bọn Tống hãm hại, bị bọn Triệu Huy hành hạ, bị Hồng-Sơn đại phu khinh khiến, bị Nguyên-Hạnh giam trong mật cốc, nàng cũng nói năng ôn nhu, nhỏ nhẹ, cư xử khoan hoà, chưa bao giờ nàng nặng lời với bất cứ ai.
        Hôm nay lần đầu tiên trong đời, nàng không kiềm chế được, đã thốt ra lời lẽ nặng nề với Nhật-Hồ. Thốt ra xong, biết như vậy không xứng đáng với ngôi vị công chúa, đệ tử của Bồ-tát Huệ-Sinh. Nàng bình tĩnh trở lại:
        - A-di Đà-Phật, đức Phật từ bi tha thứ cho tiểu nữ. Tiểu nữ nói lời vô phép với tiên sinh.
        Ngược lại với Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đã từng thay thế cha mẹ cầm quân ở Bắc-biên, chàng coi bọn này là thứ tội phạm đáng giết. Chàng hừ một tiếng rồi hỏi:
        - Như vậy, tiên sinh cùng quí cao đồ nấu bào thai ăn, để luyện công, gọi bào thai bằng tên con nhân sâm?
        - Đúng thế. Đây, món ăn trân quí vô cùng.
        Thiệu-Thái nghĩ đến một ngày nào đó, chàng đem truyện thày trò y ăn bào thai cáo với quan hình-bộ thượng thư, xử tội chúng. Nên chàng khai thác thêm:
        - Nhưng tiên sinh lấy đâu ra bào thai mà ăn? Không lẽ tiên sinh bắt đàn bà, mổ bụng ra hay sao?
        Nhật-Hồ liếc con mắt sáng loáng vào Thiệu-Thái:
        - Hồng-thiết giáo, kết nạp giáo chúng, đặt trên lòng trung thành. Cho nên giáo chúng tuyệt đối tuân lệnh chúng ta. Trong Hồng-thiết giáo, cho nam nữ tự do luyến ái.
        - Tiên sinh theo Hồng-thiết giáo ư?
        Hai lão già cười:
        - Cô nương đần thực. Từ nãy đến giờ mà cô nương chưa biết chúng ta ư?
        Mỹ-Linh đã nghe Khai-quốc vương nói, sở dĩ Hồng-thiết giáo bành trướng mạnh, nhờ giáo điều chủ trương cho trai gái tự do luyến ái, không cần quyền cha mẹ, cũng không nhất thiết trọng chữ trinh. Nàng hỏi:
        - Chắc trai gái giáo chúng tự do luyến ái, khi có thai rồi, lấy bào thai đo dâng cho tiên sinh ăn hàng ngày?
        Lão già gầy lắc đầu:
        - Đâu phải mình ta ăn, mà toàn thể đệ tử bản giáo đều ăn. Khi thai được ba tháng, cho uống một số thuốc thông máu, thai bị trụy. Lấy thai đó hấp ăn như hấp cá, hấp gà.
        Thiệu-Thái ghê tởm lão, nhưng chàng vẫn cố ghìm lại:
        - Khi ở ngoài, tiên sinh ăn con nhân sâm đã đành. Bây giờ tiên sinh với tiền bối này bị giam, mà Lê Ba vẫn cung cấp bào thai cho ăn, lại bắt giam phụ nữ trẻ đẹp hiến cho, để đêm đêm nằm ngủ hấp khí, cũng như cung phụng đủ mọi thứ quí báu. Kể ra họ cũng tử tế với tiên sinh đấy chứ?
        - Tử tế ư? Người chưa hiểu đấy thôi. Y còn muốn học hết thần công của lão phu.
        Nghe lão già gầy nói, Mỹ-Linh tỉnh ngộ:
        - Ta nghe sư phụ Huệ-Sinh nói, giữa Thiền-công nhà Phật với thần công các phái khác nhau ở chỗ một bên từ bi hỉ xả, đánh người, mà không có ý sát phạt, chỉ hoá giải khi người đánh ta. Một bên sát thủ cực mạnh. Tuy nhiên cả hai bên đều quang minh chính đại. Còn nội công của tà môn thường dùng độc chất, độc trùng luyện, để hại người. Hồng-thiết công Tây-dương lấy chất độc luyện công, đi vào đường tà ma. Lão già kia lai lịch ra sao? Lão đem Hồng-thiết công hợp với cái thuật dâm đãng của người Hoa, rồi lại tự mình tìm ra lối luyện công kinh khiếp này. Bọn Hồng-thiết giáo thực kinh tởm. Ta phải tâu hết mọi sự với ông nội mới được.
        Sau khi ăn uống xong, lão già gầy hỏi lại câu hỏi trước:
        - Này cô chú kia, làm sao cô chú lọt vào đây đựơc? Cô chú là ai?
        Mỹ-Linh sợ Thiệu-Thái thổ lộ thân thế, nàng đáp vội:
        - Bọn tiểu bối vốn người ở Thăng-long, vô tình khám phá ra sau tủ của Hoàng Văn có đường hầm, rồi lần theo đường hầm tới đây.
        Người già to béo cười nhạt:
        - Cô ơi, cô đẹp thế kia, mà cô nói dối tôi làm gì vậy? Nếu cô chú không có nội công thâm hậu, làm sao bẻ song sắt cửa ngoài mà vào đây?
        Mỹ-Linh chưa kịp trả lời, có tiếng gầm gừ, rồi mùi hôi khủng khiếp xông ra. Lão già cười nhạt:
        - Phải cẩn thận. Bọn giữ hầm biết có người đột nhập vào, thả cọp ra ăn thịt các ngươi đấy. Trong hai mươi mốt người đã vào đây, mười hai người bị cọp vồ chết rồi ăn thịt. Tám người có bản lĩnh khá, đánh chết cọp, nhưng bị xông thuốc mê, rồi cho cọp ăn thịt bẩy người.
        - Thế còn một người nữa đâu?
        - Người đó là ta. Ta vào đây phóng thích tên to béo kia, rồi bị tên Lê Ba thả cọp ra ăn thịt. Ta đập chết cọp xong, bị xông thuốc mê.
        Đến đó tiếng cọp gầm gừ lớn hơn. Rồi trong bóng tối, Mỹ-Linh thấy bốn ngôi sao xanh lè, đang từ từ tiến tới. Nếu trước kia, Mỹ-Linh đã kinh hoảng, nhảy tránh. Bây giờ võ công của nàng đã đến trình độ cao thâm. Nàng thản nhiên đứng nhìn đôi cọp đang chậm chạp lại gần. Đây là đôi cọp xám, cao lớn, hùng vĩ. Chúng gầm gừ, nhe hàm răng trắng ởn, lưỡi đỏ lòm.
        Thiệu-Thái bảo Mỹ-Linh:
        - Hôm trước anh đã dạy em cách chế ngự cọp. Em thử áp dụng xem sao.
        Cổ thời, nước Việt, nơi có nhiều thú dữ. Người Việt phải chống trả với chúng, lâu ngày những phương pháp đó trở thành một bản lĩnh. Cho đến thời Lĩnh-nam, nữ anh hùng Hồ Đề đặt hẳn thành hệ thống. Đệ tử phái Tây-vu dạy đủ mọi loại thú dữ để sai khiến như canh gác, săn bắn. Trong các loại thú được huấn luyện thành binh đội chống giặc gồm có hổ, báo, trăn, ong, voi, khỉ, ưng, và chó sói. Các đạo quân này đã làm cho quân Hán kinh tâm động phách bao phen.
        Khi thấy vận nước sắp nguy, vua Trưng ra lệnh cho Trưng Nhị, Phương-Dung, Phùng Vĩnh-Hoa, Đào Kỳ chép tất cả võ công, học thuật lại thanh bộ Lĩnh-Nam vũ kinh lưu truyền hậu thế. Khi vua Trưng tuẫn quốc, công chúa Hồ Đề còn tiếp tục kháng chiến. Đệ tử Tây-vu lập thành môn phái. Nghệ thuật nuôi, dạy thú mỗi đời thêm kinh nghiệm, cho đến phò mã Thân Thừa-Quý, trở thành tinh vi.
        Công-chúa Lĩnh-nam Bảo-hòa được tôn lên làm vua Bà Bắc-biên, đã gửi về cho Khu-mật-viện hơn trăm chim ưng, để làm nhiệm vụ trinh sát, đưa thơ. Thiệu-Thái, Bảo-Hòa được học bản lĩnh này. Trong chuyến đi Thanh-hóa, hai anh em cỡi hùm, sai chim ưng, vỗ về cho chó khỏi cắn.
        Khi Mỹ-Linh gặp Bảo-Hòa, hai chị em rất tương đắc. Bảo-Hòa thấy nàng muốn cỡi hùm của Thiệu-Thái. Bảo-Hòa dạy nàng mấy chục tiếng để sai khiến. Sau đó, Thiệu-Thái dạy nàng hàng mấy trăm tiếng nữa. Hôm nay, trước hai con hùm này, nàng bình tĩnh bóp miệng, bóp cổ nói với chúng mấy câu. Quả nhiên hai con hùm đang gầm gừ, tự nhiên im hẳn.
        Thấy hiệu nghiệm, nàng gọi chúng. Chúng vẫy đuôi, tiến lại gần. Mỹ-Linh ôm lấy cổ chúng. Nàng uốn cong lưỡi lên xử dụng ngôn ngữ loài cọp nói với chúng. Chúng nằm xuống đất. Nàng với Thiệu-Thái ngồi dựa lưng vào chúng, tay gãi cho chúng. Chúng thích quá, liếm tay nàng thân thiết như con chó với chủ nhân.
        Lão già kinh ngạc:
        - Này cô nương. Cô nương với thủ lĩnh 207 khê động Bắc-biên Thân Thiệu-Anh là chỗ thế nào?
        Mỹ-Linh thấy lão già tuy bị giam, mà từ đầu tới cuối ngôn ngữ cẩn trọng, lịch sự, nàng nghĩ thầm:
        - Người này tất phải có lai lịch rất lớn. Định lực của ông ta cao thâm khôn lường.
        Nàng đáp:
        - Thưa tiền bối, cháu chưa từng gặp tiền bối Thân Thiệu-Anh bao giờ.
        Lão già biết Mỹ-Linh không muốn thố lộ gia thế. Lão cười:
        - Cô nương không muốn lộ chân tướng cũng được.
        Lão nói nhỏ:
        - Lúc cô nương vào đây, ta thấy bước chân của cô nương nhẹ như chim, nhất định cô nương luyện nội công âm nhu của phái Mê-linh đến trình độ tối cao. Ta e Hoa-Minh thần ni của phái Mê-linh có còn sống cũng thua cô nương. Ta thấy tiếng nói của cô nương ngân dài, tiếng nọ cách tiếng kia đều, hẳn cô nương còn luyện Thiền-công nhà Phật, dường như của phái Tiêu-sơn. Ta lạ một điều...
        Lão ngừng lại một lát rồi lắc đầu:
        - Kỳ thực. Phái Tiêu-sơn không nhận nữ đệ tử, mà sao cô nương lại học được nội công phái này?
        Người to béo từ đầu đến cuối không lên tiếng, bây giờ y mới nói:
        - Còn thiếu niên kia, phải chăng người là đệ tử của phái Tiêu-Sơn?
        Thiệu-Thái không biết nói dối, chàng khai:
        - Tiểu bối không có sư phụ. Tiểu bối học võ công với phụ thân.
        - Phụ thân à? Rõ ràng bước đi của người trầm, vang truyền đi rất xa, đây là nội công của phái Tiêu-sơn. Tiêu-sơn có hai loại đệ tử. Loại tục gia, loại là xuất gia. Nội công của người là nội công của kẻ xuất gia. Phụ thân người đâu có xuất gia, mà biết nội công này truyền cho người?
        Những gì lão già gầy nói, chứng tỏ lão có kiến thức quảng bác về võ học. Võ công lão chắc cao thâm lắm, nên lão mới có khả năng tay không giết cọp.
        Đến đó, có tiếng chân người, rồi một gã đàn ông mặc quần áo đen từ ngoài tiến vào. Dường như gã đã già, mái tóc lốm đốm trắng đen. Gã đó khoanh tay trước ngực cười nhạt:
        - Hai đứa bay là ai, mà đột nhập vào đây?
        Mỹ-Linh chỉ vào ba người bị giam:
        - Tiểu bối đang muốn hỏi ông là ai? Tại sao dám giam giữ người trái phép? Ông không tôn trọng luật của hoàng đế, tội đáng chém đầu. Ông có mau thả ba vị này ra không?
        Mỹ-Linh quên mất mình đang đóng vai cô gái dân dã, mà dùng ngôn ngữ của cô công chúa trách cứ.
        Người bịt mặt cười nhạt:
        - Mi bảo ta thả y ư? Mi có biết y là ai không đã?
        - Dĩ nhiên tiểu bối không biết. Tiểu bối đang muốn thỉnh tiền bối danh tính bốn vị này.
        Người bịt mặt chỉ người to béo:
        - Chỉ nguyên tên ma đầu này thôi, tay y đã nhúng không biết bao nhiêu máu mà kể. Số người y giết, nếu đem thây chất lại, e cao hơn núi Hoàng-liên-sơn.
        Lão già to béo cười nhạt:
        - Cô nương. Ta biết lòng dạ cô nương tốt, muốn cứu người. Nhưng ta nói tên ta ra e cô nương kinh tởm ta ngay. Ta tên Nguyễn Chí.
        Thiệu-Thái, Mỹ-Linh cùng bật lên tiếng « Ủa » kinh ngạc.
        Nguyễn Chí là đệ tử thứ năm của Nhật-hồ lão nhân, rất được lão tin dùng. Võ công của y cao thâm ngang với đại sư huynh Vũ Nhất-Trụ. Hơn bốn mươi năm trước, y được sư phụ trao cho nhiệm vụ phát triển bang ở vùng Chiêm-thành, Trà-lô, Nghệ-an, Thanh-hóa. Bang chúng Nhật-hồ các vùng này do y điều khiển, giết người không gớm tay.
        Sau khi bang Nhật-Hồ bị vua Đinh đánh bại, y vẫn ẩn thân bí mật hoạt động, điều khiển bang chúng giết người. Về sau vua Lê Đại-Hành đem quân vào dẹp, đánh chiếm tổng đường, tìm thấy xác y dập nát ở một cửa hầm. Từ đấy võ lâm quên y. Không hiểu sao nay y lại bị giam ở đây.
        Mỹ-Linh đi từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác:
        - Lão tiền bối chả là sư đệ của Lê Ba ư? Thời Thập-nhị sứ quân, lão tiền bối tuy là sư đệ, nhưng được Nhật-hồ lão nhân cho trông coi toàn thể giáo chúng miền Nam Đại-Việt. Trong khi Lê Ba chỉ coi một vùng Thanh-hóa. À phải rồi, vì y tranh quyền nên giam tiền bối.
        Nguyễn Chí lắc đầu:
        - Không phải thế. Lão già kia vừa nói rằng lão giam ta mấy năm, rồi thân vào thả ra. Trong khi đó Lê Ba xua cọp ăn thịt lão. Lão đập chết cọp, rồi bị Lê Ba xông thuốc mê.
        Mỹ-Linh nói với người bịt mặt:
        - Tiền bối không muốn thả ông Nguyễn Chí cũng được. Còn vị tiền bối trăm tuổi, với hai người đàn bà kia, tiền bối mau thả ra.
        Người bịt mặt cười khẩy:
        - Lão già kia tuy nói năng ngọt ngào, nhưng lão là một đại ma đầu khét tiếng. Tay lão đẫm máu gấp vạn lần Lê Ba, Nguyễn Chí.
        Mỹ-Linh hỏi lão già:
        - Tiên sinh. Tiên sinh cho bọn tiểu bối biết đại danh.
        Lão già vuốt râu cười:
        - Ta ư! Ta là sư phụ của Lê Ba, Nguyễn Chí.
        Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nhảy lùi lại một bước. Nàng mở to mắt ra:
        - Tiên sinh là Nhật-hồ lão nhân ư?
        Lão già cười đầy vẻ tự đắc:
        - Ừ, đúng thế.
        Thiệu-Thái hỏi lão:
        - Thực lạ quá, Lê Ba làm trưởng lão Hồng-thiết giáo, xuất từ cửa tiên sinh. Nguyễn Chí hẳn cũng thế. Tại sao tiên sinh giam Nguyễn Chí? Tại sao Lê Ba giam tiên sinh?
        Nhật-Hồ thở dài:
        - Ta lầm lẫn. Lúc đầu ta tin Nguyễn Chí, y lại có tài. Ta cho y coi miền Nam Đại-Việt. Sau Lê Ba dèm pha rằng Nguyễn Chí đi thẳng với giáo chủ Xích Trà-Luyện, định hất ta ra ngoài. Ta lo sợ, gọi Nguyễn Chí về nhận lệnh, rồi giam ở đây. Nhưng ảnh hưởng của Nguyễn Chí lớn quá, ta phải dối rằng y chết rồi.
        Lão rơm rớm nước mắt:
        - Sau ta mới khám phá ra, chính Lê Ba muốn đi thẳng với giáo chủ Hồng-thiết, nên y gả con gái cho con trai giáo chủ Bát-Nặc. Y mưu hất ta ra. Ta hối hận, vào tù thả Nguyễn Chí. Trong khi ta đang mở khóa. Lê Ba thả cọp ăn thịt ta. Ta đánh chết cọp, y đốt thuốc xông khói vào. Ta ngạt hơi mê mệt không biết gì. Khi tỉnh dậy thấy mình bị giam.
        Mỹ-Linh rùng mình về đám Nhật-hồ:
        - Thế tại sao y không giết tiền bối, mà chỉ giam thôi?
        - Dễ quá. Tất cả các đệ tử đều được học Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Sau khi chưởng này đánh trúng ai, người đó phải tuân theo lệnh của bản giáo. Như vậy, mỗi năm vào tiết Đông-chí sẽ được cho một viên thuốc giải. Tuy được uống thuốc giải không chết, nhưng hàng tháng bị lên cơn đau đớn không thể tưởng tượng được một lần. Cơn đau dài ước hơn hai giờ. Còn muốn trục toàn thể độc chất ra khỏi cơ thể, khỏi uống thuốc, cũng như không bị đau hàng tháng chỉ có một mình giáo chủ được truyền tâm pháp hoá giải mà thôi. Y giam ta, mục đích muốn được truyền tâm pháp đó. Ta nhất quyết không truyền. Vì ta truyền cho y, lập tức y giết ta.
        Thân mẫu Mỹ-Linh bị chết một cách đau đớn, ai cũng cho rằng trúng phải Nhật-hồ độc chưởng. Sau này nàng nghe phu nhân của Hồng-sơn đại phu, phu nhân của Trần Tự-An đều chết về chưởng này. Nàng run run hỏi:
        - Lão nhân, phải chăng lão nhân đã ám hại vương phi Khai-Thiên?
        Hỏi câu này xong, nàng biết không phải lão. Vì lão bị giam vào đây hơn hai mươi năm rồi. Trong khi vương mẫu của nàng mới qua đời có mấy năm.
        Lão chỉ người bịt mặt:
        - Cái gì phu nhân Khai-thiên? Lê Hoàn đã phong cho ai làm Khai-thiên vương hẳn? Cô nương hỏi tên bịt mặt kia thì rõ hơn. Y họat động ở vùng Cổ-loa này từ lâu, y biết hết.
        Mỹ-Linh chợt nhớ ra lão già này bị giam vào đây hai mươi năm rồi. Hai mươi năm trước, đang thời kỳ trị vì của Lê Ngoạ-triều. Dễ thường y không biết triều Lê đã chấm dứt, ông nội nàng lập triều Lý, đời đô ra Thăng-long.
        Người bịt mặt lên tiếng:
        - Hai đứa bay chịu trói đi thôi. Hoặc nếu mi đỡ được của ta ba chiêu, ta sẽ trả lời mi.
        Nói rồi y vung tay ra chiêu hổ trảo chụp Thiệu-Thái. Thiệu-Thái « hú » một tiếng, hai con cọp nhảy lên vồ người bịt mặt. Người bịt mặt quát tháo ra oai. Hai con cọp như sợ hãi uy của y, ngừng lại. Y chỉ vào Mỹ-Linh, Thiệu-Thái ra lệnh tấn công. Hai con cọp ngần ngừ chưa nhảy lên.
        Thiệu-Thái dùng tiếng cọp hú gầm. Hai con cọp nhảy lên vồ người bịt mặt. Y kinh hoàng, vòng tay một cái, đẩy một con văng vào cửa. Con thứ nhì nhảy đến, y phóng một cước vào cổ nó. Đau quá, hai con cọp lui lại quật đuôi xuống đất, nhe răng đe dọa, nhưng không dám tấn công nữa.
        Võ công người bịt mặt quái dị vô cùng, Thiệu-Thái, Mỹ-Linh chưa từng thấy qua. Mỹ-Linh kinh hãi về kình lực của người bịt mặt. Có lẽ công lực của y còn cao hơn bọn Triệu Thành một bậc, ngang với công chúa An-quốc không chừng. Nàng chợt nhớ, hôm ở Thiên-trường, tên Đặng Trường đấu ngang tay với Trần Kiệt, một trong Thiên-trường ngũ kiệt. Tên này là sư huynh sư đệ của Đặng Trường, võ công của y không tầm thường được.
        Nhật-Hồ lão nhân nói lớn:
        - Cô cậu chịu trói đi thôi. Cô cậu không địch nổi y đâu. Y là đại đệ tử của ta, tên Vũ Nhất-Trụ đó. Nếu cô cậu ra chiêu, đỡ đòn, sẽ bị trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng ắt toi mạng.
        Nghe đến Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng, Thiệu-Thái tỉnh hẳn người. Hồi ở phủ Khai-quốc vương tại Trường-yên, chàng đã được Đỗ Lệ-Thanh truyền cho tâm pháp luyện, để sau này gặp người nào trúng chưởng Chu-sa, chàng còn ra tay trị cho. Nay nghe đến chưởng này, chàng bình tĩnh lạ thường.
        Thiệu-Thái kéo Mỹ-Linh về sau lưng mình như để che chở cho nàng. Chàng vận sức ra hai tay, chuẩn bị đối phó. Nhưng Mỹ-Linh lách mình một cái, đã đứng trước chàng.
        Vũ Nhất-Trụ quát lên một một tiếng, y vung tay gạt vào vai Mỹ-Linh. Mỹ-Linh cười nhạt, nàng rút kiếm ra khỏi vỏ, chĩa đầu kiếm vào vai mình. Nếu Nhất-Trụ tiếp tục chụp vai nàng, chính y bị thương. Nhất-Trụ chuyển tay, biến thành chỉ chọc vào mắt nàng. Mỹ-Linh di chuyển kiếm chĩa thẳng vào ngực Nhất-Trụ. Y kinh hoàng bật ngửa người về sau tránh mũi kiếm. Y vừa đứng xuống lại cảm thấy cổ đau nhói. Kiếm Mỹ-Linh đã dí vào cổ. Y dơ tay toan đoạt kiếm nàng, Mỹ-Linh di chuyển kiếm, nếu Nhất-Trụ tiếp tục, cánh tay y bị đứt. Y quát lên Một tiếng, thụp người xuống, lăn đi mấy vòng, định nhảy lên, mũi kiếm Mỹ-Linh dí vào ngực.
        Chán nản, y chửi thề:
        - Con bà nó. Con mọi kia, mi giết ta thì giết đi. Ta không phục, vì mi dùng tà thuật.
        Nhật-Hồ lão nhân cười khanh khách:
        - Nhất-Trụ. Người không biết, đừng có nói bậy. Đây là kiếm pháp chính tông của Đại-Việt, chứ không phải tà thuật. Có tên Long-biên kiếm pháp.
        Mỹ-Linh thu kiếm lại, mỉm cười. Nhật-Hồ lão nhân hỏi:
        - Tiểu cô nương, lão già này mắt kém, không biết cô nương học võ công này của vị nào trong phái Mê-linh.
        Mỹ-Linh chưa kịp trả lời, lão lẩm bẩm một mình:
        - Chiêu Thu nhật bạch lộ, biến sang chiêu Hoành thiên mang mang sao lại nối liền được nhỉ. Này tiểu cô nương, trả lời lão đi chứ?
        Mỹ-Linh chỉ Nhất-Trụ:
        - Tiểu nữ chưa thể trả lời được. Tiểu nữ chỉ muốn vị tiền bối này trả lời cho mấy câu.
        Vũ Nhất-Trụ cười nhạt:
        - Vừa rồi người dùng kiếm, ta dùng tay, dĩ nhiên mi thắng ta. Ta muốn thằng ôn con kia đỡ của ta ba chiêu. Nếu y đỡ được, coi như ta thua, ta thả hai người ra, ta sẵn sàng trả lời những câu hỏi của người.
        Thiệu-Thái mỉm cười:
        - Xin tiền bối dạy dỗ cho mấy chiêu.
        Vũ Nhất-Trụ phóng vào ngực Thiệu-Thái một quyền. Mùi tanh hôi nồng nặc bốc ra, làm Mỹ-Linh buồn mửa. Thiệu-Thái dùng tay trái gạt mạnh. Tay phải chàng trả lại một quyền. Hai tay chạm nhau, Vũ Nhất-Trụ cảm thấy nội lực đối thủ như có như không. Bao nhiêu kình lực trên tay y biến mất. Y kinh hoàng nhảy lùi lại tần ngần suy nghĩ:
        - Thằng bé con này đệ tử của ai, mà Thiền-công mạnh đến không tưởng tượng được? Dường như Chu-sa độc chưởng vô hiệu đối với y thì phải? Trên đời ta, chỉ thấy gã thầy chùa Bố-Đại, Sùng-Phạm, Minh-Không luyện tới mức này mà thôi.
        Nhất-Trụ nhảy lên đá một cước vào ngực Thiệu-Thái. Thiệu-Thái trầm người xuống tránh. Cước vừa qua đầu chàng, chàng phóng một quyền vào bụng y. Y vung tay đỡ. Bộp một tiếng, Nhất-Trụ nhảy lui lại cười:
        - Thằng lỏi kia, người chết đến nơi rồi.
        Thiệu-Thái ngơ ngác, không hiểu gì, Nhật-Hồ lão nhân nói:
        - Cháu ơi, cháu trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng rồi. Không tin, cháu thử đưa tay lên mà xem. Có phải tay bị tím bầm lại không?
        Thiệu-Thái đưa tay lên xem, tay chàng vẫn như thường. Chàng ngơ ngẩn:
        - Tay tiểu bối vẫn như thường.
        Bỗng Vũ Nhất-Trụ rùng mình một cái, rồi kêu lên tiếng « ái ». Tiếp theo người y run run. Y vội lấy trong bọc ra một hộp thuốc, đổ ra hai viên, rồi bỏ vào mồm nuốt trửng. Y vận công, cho thuốc mau tan.
        Nhật-Hồ lão nhân trợn mắt, há hốc mồm ra:
        - Tiểu thí chủ. Người...người cũng biết xử dụng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng ư? Ai đã dạy người?
        Mỹ-Linh sợ Thiệu-Thái khai thực, nàng nói:
        - Anh tôi là đệ tử phái Tiêu-sơn. Tiêu-sơn là danh môn chính phái, đâu biết luyện độc chưởng?
        Nhật-Hồ lão nhân nhăn mặt:
        - Ta biết người xuất thân Tiêu-sơn, mà Thiền-công mạnh không thua gì Vạn-Hạnh. Có lẽ chỉ đại-sư Sùng-Phạm hay Bố-Đại hoà thượng mới có công lực này. Nhưng rõ ràng người dùng nội lực Tiêu-sơn, luyện Chu-sa độc chưởng. Người đấu với Vũ Nhất-Trụ. Hai bên cùng xử dụng độc chưởng, người nào công lực thấp, sẽ bị độc chất của đối thủ cùng với độc chất của mình chạy ngược trở về. Cho nên Nhất-Trụ trúng độc rồi.
        Vũ Nhất-Trụ đang ngồi ôm tay, vận công chống độc. Người y toát ra mùi hôi tanh khủng khiếp.
        Mỹ-Linh bảo Thiệu-Thái:
        - Hãy giữ tên này lại, đừng cho y chạy ra.
        Thiệu-Thái túm áo Nhất-Trụ liệng vào trước cửa phòng giam Nhật-Hồ lão nhân. Bỗng y bật lên tiếng « ái » rồi lại run rẩy, đau đớn.
        Nhật-Hồ cười ha hả:
        - Thuồc giải của bản giáo, chỉ có thể trị cho ngươi, trong trường hợp bị trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng, do công lực Hồng-thiết giáo truyền vào người. Đây người bị truyền độc chất Chu-sa ngũ độc bằng Thiền-công, chỉ người có công lực Hồng-thiết giáo tối cao, biết tâm pháp hút tuyệt nọc độc ra, mới cứu được người. Người có vận công cũng vô ích.
        Vũ Nhất-Trụ quì gối hướng Nhật-Hồ:
        - Sư phụ, xin sư phụ cứu đệ tử. Đệ tử nguyện cải tà, qui chính, tuyệt đối trung thành với sư phụ.
        Nhật-Hồ lão nhân cười nhạt:
        - Khi nhập giáo, mi chả từng tuyên thệ như thế ư? Rồi mi cũng cùng tên Lê Ba hại ta. Ta tin mi thế nào được? Thôi bây giờ ta tạm trị cho mi khỏi đau, rồi sau này cứu mi hay không, tùy vào sự trung thành của mi.
        Lão thò tay qua cửa vỗ vào lưng y hai cái nhẹ nhàng. Nhất-Trụ rên lên một tiếng, rồi ngồi im.
        Nhật-Hồ lão nhân cười nhạt:
        - Nhất-Trụ, ta tạm phóng vào người hai chiêu, để chất độc không nhập vào tâm tạng. Sau đó sẽ trị cho người sau. Người chịu đầu hàng ta chưa?
        Nhất-Trụ thở dài:
        - Đệ tử đầu hàng. Sư phụ, từ nay đệ tử cải tà qui chính, nguyện trung thành mãn kiếp với sư phụ.
        Bỗng Nhất-Trụ kêu lên tiếng « ái » rồi, lại run rẩy, mồ hôi vã ra, tỏ vẻ đau đớn cùng cực.
        Nhật-Hồ lão nhân hỏi:
        - Sao? Không khá ư?
        Nhất-Trụ lắc đầu, mồ hôi vã ra như tắm.
        Lão hỏi Thiệu-Thái:
        - Công tử, người có biết cách trị cho Nhất-Trụ không?
        Mỹ-Linh nói với Nhật-Hồ lão nhân, cùng Nguyễn Chí:
        - Này hai vị tiền bối. Hai vị có hứa khi được cứu ra khỏi đây, sẽ không hại người, anh tôi sẽ cứu quí vị.
        Người đàn bà ở trong phòng Nhật-Hồ lão nhân bây giờ mới lên tiếng:
        - Thiếu hiệp, cô nương, xin cứu tôi ra với!
        Mỹ-Linh hỏi:
        - Bà cho biết danh tính? Tại sao lại bị bang Nhật-Hồ giam vào đây?
        - Tôi tên Vũ Thiếu-Nhung. Tôi là vợ của Hồng-Sơn đại phu. Tôi bị bắt đem vào đây để hầu hạ Nhật-Hồ lão nhân.
        Mỹ-Linh kinh hãi:
        - Bà nói sao? Phu nhân của Hồng-Sơn đại phu bị người ta đánh Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng chết đã lâu rồi kia mà. Làm sao có thể còn tại thế.
        Nhật-Hồ lão nhân cười:
        - Không phải vậy đâu. Khi đệ tử Nhật-Hồ ra tay, muốn đánh chết người cứ đánh. Ngoài ra còn lối vận công đặc biệt. Khi vận công lối này đánh ra, người trúng chưởng cũng đau đớn đủ bốn mươi chín ngày, rồi mạch không nhảy nữa, chân tay lạnh, mặt tái mét. Ai cũng tưởng chết, nhưng sự thực chỉ ngất đi. Đệ tử Nhật-Hồ chỉ việc đợi người ta đem chôn, rồi cậy nắp quan tài, lấy xác ra, cho uống ba thang thuốc, lại khoẻ như thường. Bấy giờ dùng vào việc khác.
        Nguyễn Chí tiếp lời Nhật-Hồ lão nhân:
        - Bà này bị Lê Ba đánh một chưởng. Sau bốn mươi chín ngày, bà ta ngất đi. Lão Hồng-Sơn cho khâm liệm, để ở điện Kinh-Dương. Đêm Lê Ba đột nhập, cậy nắp quan tài, cho một xác chết khác vào, rồi mang bà ta ra, cứu tỉnh.
        Mỹ-Linh run run hỏi:
        - Thế còn phu nhân của vương phi Khai-Thiên vương, ai hại? Bây giờ vương phi ở đâu?
        Nguyễn Chí chỉ Vũ-nhất-Trụ:
        - Hai vị hỏi y. Vì chúng ta bị giam trong này, không biết gì cả.
        Vũ Nhất-Trụ nghiến răng chịu đau, y nói:
        - Tôi giam ở một nơi khác.
        Mỹ-Linh mừng run lên:
        - Người giam vương phi ở đâu? Nói mau?
        Nhất-Trụ nghiến răng:
        - Đằng nào ta cũng chết. Ta không nói.
        Thiệu-Thái điểm ngón tay vào huyệt Đại-trùy, Đản-trung của Nhất-Trụ. Y bớt đau liền. Chàng dỗ y:
        - Người không chết được đâu. Ta hứa, nếu người chỉ cho ta nơi giam vương phi Khai-Thiên vương cùng phu nhân đại hiệp Trần Tự-An, ta sẽ cứu người.
        - Được, tôi xin dẫn đường.
        Mỹ-Linh hỏi Vũ Thiếu-Nhung:
        - Phu nhân. Phu nhân có biết tại sao Lê Ba lại giam phu nhân ở đây không?
        Vũ Thiếu-Nhung nghiến răng:
        - Khi tôi mê đi, tôi biết rõ mọi việc xung quanh diễn ra. Nào chồng, nào con khóc. Nào họ niệm tôi. Nào Dương Ẩn cậy quan tài đưa tôi ra. Nào cho tôi uống thuốc tỉnh. Dương Ẩn tra khảo, bắt tôi cung khai nguồn gốc Hồng-Sơn đại phu. Tôi nhất định không khai. Bắt tôi cung khai nơi đại phu cất mật thư Thiên vương mật dụ tôi cũng không khai. Y giam tôi ở đây bắt tôi hầu hạ lão tiên sinh. Bấy giờ tôi mới biết Dương Ẩn tên Lê Ba.
        Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cùng bệt lên tiếng « a » kinh ngạc. Vì trưởng lão Lê Ba trong hội đồng giáo vụ trung ương Hồng-thiết giáo có uy tín rất lớn. Y nổi tiếng con quỷ dâm dục, giết người không gớm tay. Còn Dương Ẩn khác hẳn, ông tu theo Lão, thuộc phái Sài-sơn, sư thúc Hồng-sơn đại phu, đạo cao, đức trọng, rất ít xuất hiện. Không ngờ hai người lại là một.
        Vũ Thiếu-Nhung nói đến đó mặt bà đỏ lên, vẻ bẽn lẽn hiện ra.
        Thiệu-Thái chợt nhớ lại, trước đây Đỗ-lệ-Thanh kể rằng:
        - Hồng-thiết giáo dạy người ta thuật dùng Âm dương hỗ căn để giữ cho người trẻ trung mãi. Thuật này bên Tây-dương không có. Khi Nhật-Hồ lão nhân về Trung-thổ, cùng với các đệ tử Hồng-thiết giáo, giỏi về y học, đã hợp với y học Hoa-Việt, khai sáng lối luyện công, bổ dương mới tên là Âm dương hỗ căn. Cho nên các trưởng lão trong Hội đồng giáo vụ trung ương nào cũng thế, tuổi trên tám mươi, mà vẫn trẻ trung khoẻ mạnh.
        Sau đó chàng hỏi chi tiết, Đỗ Lệ-Thanh chỉ vào Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, ngụ ý không dám nói về thuật đó trước mặt hai người.
        Thiệu-Thái hỏi Nhật-Hồ lão nhân:
        - Lão tiên sinh. Tiểu bối có một thắc mắc. Tại sao các vị đệ tử của lão tiên sinh khi giam tiên sinh, còn ưu đãi tiên sinh như thế này?
        Nhật-Hồ hừ một tiếng:
        - Thế nào là ưu đãi? Bọn chúng giam ta dưới hầm như thế này, mà bảo rằng ưu đãi ư?
        Thiệu-Thái chỉ vào Vũ Thiếu-Nhung:
        - Nếu như họ coi tiên sinh như tù, ắt họ đóng gông tiên sinh, chứ có đâu cho giường, nệm đẹp thế kia. Hàng ngày còn cung cấp hoa cắm trong phòng, quả tươi để ăn, lại còn bắt phụ nữ đẹp hầu hạ.
        - Nếu y không cung cấp những thứ đó cho ta, ta sẽ chết. Ta chết ắt chúng tuyệt vọng học tâm pháp.
        Mỹ-Linh kinh hãi nghĩ:
        - Vũ Thiếu-Nhung bị giam vào đây hầu lão già Nhật-Hồ. Còn vương mẫu của ta, không biết bây giờ bị giam ở đâu? Có lẽ chúng cũng bắt hầu hạ một tên khốn nạn nào như thế này chứ không sai. Thiếu-Nhung vì sợ chúng đánh thuốc độc giết chồng con, mà không giám tự tử. Phụ nữ giầu đức hy sinh nhất cũng không thể hơn bà.
        Mỹ-Linh an ủi bà:
        - Phu nhân quả thực xứng đáng liệt nữ. Thà chết để bảo vệ chồng. Nhưng bây giờ không cần thiết nữa. Đại phu đã xuất hiện với cái tên Lê Long-Mang. Ai cũng biết đại phu với Nam-Quốc vương là một.
        Mỹ-Linh hỏi Vũ Nhất-Trụ:
        - Người hãy đưa chìa khóa, để ta mở cửa cứu mấy vị này.
        Nhất-Trụ lắc đầu. Y định mở miệng nói, nhưng đau quá. Y rên hừ hừ.
        Thiệu-Thái giật khăn bịt mặt của Vũ Nhất-Trụ ra. Bất giác Mỹ-Linh kinh hoàng. Y chính thị Đàm Can, cha đẻ của Đàm Toái-Trạng, Đàm quí phi, Đàm An-Hòa. Hiện y được phong tới Đô nguyên soái, cấp bậc cao nhất trong hàng võ quan. Chức tới Tổng trấn Thăng-long. Nàng gặp y một lần, trong dịp tấn phong con gái làm quí phi. Bấy giờ nàng còn nhỏ, nên nay y không nhận được nàng. Nhưng nàng nhận ra mặt y.
        Mỹ-Linh cười nhạt:
        - Phải chăng tên thực mi tên Đàm Can, đẻ ra Đàm Toái-Trạng, Đàm quí phi và Đàm An-Hoà?
        Vũ Nhất-Trụ run run đáp:
        - Chính thế!
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.01.2005 02:38:12 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 11.01.2005 18:03:10 (permalink)
          Hồi thứ năm mươi


          Hồng Thiết Thần Công




          Mỹ-Linh hỏi Vũ Nhất-Trụ:
          - Mi đưa chìa khoá đây, để ta mở cửa thả tù nhân ra.
          Vũ Nhất-Trụ lắc đầu:
          - Cửa này có ba khóa. Một do tôi giữ, một do Lê Ba giữ, một do Hoàng Văn giữ. Phải có ba chìa khóa mới mở được.
          Mỹ-Linh hỏi Nhật-Hồ:
          - Y nói có đúng không?
          - Y nói không sai. Trước đây, khi mới làm hầm này, các phòng giam chỉ có một khoá. Sau khi ba tên Nhất-Trụ, Hoàng Văn, Lê Ba phản lão phu, chúng không tin nhau, mới làm thêm hai khoá nữa. Mỗi đứa giữ một chìa. Lúc nào cả ba cùng đem chìa khoá mới mở được. Như khi đưa một mỹ nhân vào giúp ta luyện công, cả ba tên đều đến. Chúng xông thuốc cho ta mê đi, sau đó đẩy nàng vào, rồi cùng nhau khóa lại.
          Mỹ-Linh hỏi Vũ Thiếu-Nhung:
          - Bá mẫu. Y nói có đúng không?
          Vũ Thiếu-Nhung gật đầu. Bà thấy Mỹ-Linh gọi mình bằng bá mẫu, hỏi lại:
          - Cô nương! Cô nương có quen biết với Hồng-Sơn đại phu ư?
          Mỹ-Linh chỉ vào Thiệu-Thái:
          - Anh tôi đã chịu ơn cứu tử của đại phu. Còn tôi, tôi là bạn của Thiếu-Mai với Lê Văn.
          Vũ Thiếu-Nhung rưng rưng nước mắt:
          - Tôi... tôi không xứng đáng với Hồng-Sơn đại phu. Tôi còn mặt mũi nào nhìn Thiều-Mai, Lê Văn nữa?
          Thiệu-Thái đứng đinh tấn vận sức kéo song sắt thử, nhưng không nhúc nhích.
          Nhật-Hồ lão nhân nói:
          - Vô ích. Cửa này làm bằng những thanh thép lớn, cứng vô cùng. Kéo sao nổi. Trừ phi... trừ phi. Nếu có nội lực dương cương của Tiêu-sơn, hợp với nội lực âm nhu của Mê-linh, thêm vào nội lực cương nhu hợp nhất như của ta, may ra bẻ được.
          Mỹ-Linh bảo Thiệu-Thái:
          - Anh có nội lực Tiêu-sơn, hợp với nội lực âm nhu của em. Vậy ta cùng đẩy một song thử xem.
          Thiệu-Thái, Mỹ-Linh vận khí, hít một hơi dài, đẩy song sắt. Song hơi nhúc nhích, cong đi hơn tấc.
          Nhật-Hồ lão nhân kinh ngạc:
          - Con nhỏ này tại sao lại có nội công âm nhu cao thế này? Thực trên đời ta chưa từng thấy qua. Ta e Hoa-Minh thần ni cũng thua nó xa. Như vậy có thể bẻ song sắt, thoát cũi rồi đây.
          Lão nói:
          - Được rồi, hai cô cậu đẩy, tôi kéo thử xem. Phải cẩn thận lắm mới được. Những thanh sắt cửa này đều nằm trong cơ quan. Khi bẻ hai thanh, làm cơ quan chuyển động. Nếu có ai rút then cài ở trên nắp hầm ra, hầm sập, tất cả đều bị chôn thây, làm ma chết ngộp.
          Mỹ-Linh ngơ ngác hỏi:
          - Lão tiên sinh, hầm này do ai đào, đào từ bao giờ?
          Nhật-Hồ nói nhỏ:
          - Do chính lão phu cùng một số giáo chúng âm thầm đào. Đào xong bao nhiêu thợ lão phu giết sạch. Thành ra bí mật chỉ mình lão phu biết mà thôi.
          Lão hỏi Vũ Nhất-Trụ:
          - Khi các người giam ta, ai cư ngụ trong tổng đường bản giáo?
          - Thưa sư phụ, khi lão nhân gia bị giam rồi, đệ tử cùng với Hoàng Văn, Lê Ba lục trong phòng sư phụ, tìm di thư, bí lục võ công, nhưng không thấy gì cả. Sau cùng Lê Ba tìm được bản đồ căn hầm. Bọn đệ tử thấy bản đồ hầm chỉ là nơi giam tù, không quan trọng, nên giao cho y giữ.
          Nguyễn Chí lo lắng:
          - Như vậy nguy lắm. Tên Lê Ba thế nào cũng nghiên cứu kỹ bản đồ. Nếu khi chúng ta bẻ song sắt, cơ quan chuyển động, y biết, y rút cái then ra, hầm sụt e chết chôn hết.
          Nhật-Hồ hỏi Nhất-Trụ:
          - Mọi khi, mỗi lần đến thăm ta, các người đi một lúc, sao nay chỉ có mình người. Hai tên kia đâu?
          Nhất-Trụ đáp:
          - Hoàng Văn chạy theo Khu-mật viện nhà Tống. Còn Lê Ba chạy theo Hồng-thiết giáo Tây-dương.
          Nhật-Hồ nguyền rủa:
          - Con bà nó. Hai tên khốn nạn.
          Mỹ-Linh kinh ngạc. Từ lúc gặp Nhật-Hồ, nàng thấy lão ôn nhu, văn nhã, rõ ra đại tôn sư. Khi lão thuật đến chỗ dùng giáo chúng đào hầm, rồi giết sạch, lão thuật một cách thản nhiên. Thế mà nay nghe hai đệ tử chạy theo Tây-dương Hồng-thiết giáo với Khu-mật viện Tống, lão văng tục.
          Lão hiểu ý Mỹ-Linh, phân trần với nàng:
          - Cô nương nên biết Hồng-thiết giáo tuy gốc ở Tây-dương, lão phu đem về Đại-Việt, để tổ chức một nước Việt theo khuôn mẫu của người, mưu tìm hạnh phúc cho dân. Chứ lão phu không phải như bọn Lê Đạo-Sinh, Kiều Công-Tiễn bán nước. Thế mà nay hai tên đồ đệ khốn nạn vô tư cách như vậy, lão phu tha thứ sao được.
          Lão bảo Nhất-Trụ:
          - Còn người. Bấy lâu nay người theo ai?
          - Đệ tử không theo ai hết, vì vậy tuy làm đại sư huynh, mà hai tên Lê Ba, Hoàng Văn kết nạp giáo chúng thành phe cánh, chống đệ tử.
          Nhật-Hồ nói với Mỹ-Linh, Thiệu-Thái:
          - Nào, chúng ta thử bẻ song sắt xem sao?
          Ba người vận sức, đẩy, kéo một lượt. Thanh sắt từ từ chuyển động, cong đi, chạm vào song sắt kế tiếp.
          Mỹ-Linh chỉ thanh sắt cạnh:
          - Nào, chúng ta đẩy thanh này.
          Ba người lại vận sức kéo nữa. Thanh sắt kia cong đi liền. Nhật-Hồ lão nhân chui ra khỏi phòng giam. Y chắp tay hướng Thiệu-Thái, Mỹ-Linh:
          - Lão phu đa tạ công tử, tiểu thư đã ra tay nghĩa hiệp cứu lão phu. Ân này nguyện không bao giờ quên.
          Ba người lại bẻ song cứu Nguyễn Chí, với Chu Vân-Nga.
          Hai người vừa ra khỏi phòng giam, có tiếng lọc cọc. Nhật-Hồ biến sắc lắng tai nghe:
          - Các người có thấy tiếng cọc cọc không?
          Chưa ai kịp trả lời thì ầm ầm, gió tạt vào cực mạnh, bụi bay mù mịt. Mọi người giật mình kinh hoàng, nhìn lại: Phía sau, hầm đã sập, lối ra bị mất. Đèn trong phòng bị tắt. Chỉ còn mấy điểm than hồng ở bếp chiếu ra.
          Vũ Nhất-Trụ kinh hãi:
          - Trời đất ơi! Nguy quá, hầm đã sập rồi.
          Nguyễn Chí bảo Chu-vân-Nga:
          - Mau đốt đèn lên.
          Chu Vân-Nga vào bếp, đốt đèn lên. Không khí trong phòng ngột ngạt khó chịu vô cùng.
          Thiệu-Thái hỏi Nhật-Hồ:
          - Này lão tiên sinh, hầm này do tiên sinh xây, ắt tiên sinh biết rõ rằng có cơ quan làm sập hầm, hẳn có cơ quan thoát ra chứ?
          Nhật-Hồ thở dài:
          - Hầm này do lão phu dùng giáo chúng âm thầm đào. Những bí mật về cơ quan chỉ mình lão phu biết. Khi bọn Nhất-Trụ, Lê Ba, Hoàng Văn bắt giam lão phu, Lê Ba tìm ra nơi cất bản đồ. Vì vậy hôm nay y mới ra tay. Không có lối nào thoát ra cả.
          Có tiếng người trầm trầm vọng vào:
          - Các người tưởng thoát ra được ư? Hầm này có cơ quan. Các người đẩy cong các thanh sắt đi, làm chuyển động. Ta rút then cài, khiến cho hầm bị sụt, mất đường ra. Các người tự chôn mình. Vậy đừng trách ta nhé. A ha, muôn ngàn năm sau, không ai biết Nhất-Trụ chết vì lý do gì... Này đại sư ca, người chết rồi, ta đương nhiên thay sư phụ làm giáo chủ.
          Vũ Nhất-Trụ trỗi dậy:
          - Lê tam sư đệ, mau điều động giáo chúng đào đất cứu chúng ta ra.
          Có tiếng cười khành khạch:
          - Đại ca ơi! Cứu đại ca, tiểu đệ được lợi gì không? Đại ca nổi tiếng bài ngoại. Nếu tiểu đệ cứu đại ca ra ắt Tây-dương giáo chủ Hồng-thiết giáo nổi giận. Tiểu đệ đâu có hy vọng được chỉ định kế chức giáo chủ thay sư phụ?
          Nhật-Hồ lão nhân lên tiếng:
          - Lê Ba, người cứu ta ra, ta sẽ truyền tâm pháp giải trừ Chu-sa Ngũ-độc chưởng và truyền chức vụ giáo chủ cho người.
          Bọn Vũ Nhất-Trụ, Hoàng Văn, Lê Ba bàn nhau giam Nhật-Hồ lão nhân, chỉ với mục đích bắt lão truyền tâm pháp giải Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng.
          Tâm pháp Chu-sa độc chưởng là gì? Hơn trăm năm trước hai người Tây-vực tên Mã-Mặc, An-Hiền, nhân luyện tập nội công sai lầm, bị điên loạn, rồi làm nhiều điều ô danh võ lâm. Hai người bị vua quan đương thời lùng bắt, trốn vào rừng ẩn thân, sống lẫn với thú vật, côn trùng, nhân đó viết ra bộ vũ kinh tên “Hồng-thiết”.
          Người đương thời khinh bỉ coi như bọn tà ma, ngọai đạo. Hơn trăm năm sau, một người thợ tên Lệ-Anh ở vùng băng tuyết, nhân ăn cứơp, giết người, bị vua chúa lùng bắt. Y sang Tây-dương, tìm được bộ Hồng-thiết kinh, luyện thành Chu-sa độc chưởng. Y lập ra Hồng-thiết giáo. Lệ-Anh tự xưng giáo chủ. Hồng-thiết giáo ngụy xưng tôn chỉ Dân vi quý hô hào giáo chung nổi dậy chống vua chúa. Thành công. Y giết hết vua, quan, quý tộc, phú gia, rồi cai trị nước. Giáo-chúng Hồng-thiết nổi tiếng sắt máu, tàn sát không biết muôn ức nào người.
          Nhật-Hồ lão nhân, người đất Cửu-chân, nhân sinh vào thời loạn , có lòng yêu nước, muốn giúp dân thoát khỏi cảnh tranh dành, chém giết mà không sao được. Ông lưu lạc sang Tây-vực, giáo chủ đời thứ nhì là Xích Trà Luyện nhận làm đệ tử. Do đó ông được truyền bộ Hồng-thiết kinh, trong đó có ba phần. Phần đầu dạy về các độc chất, cùng cách xử dụng, chữa trị. Phần thứ nhì dạy về luyên độc công, cùng độc chưởng. Phần thứ ba dạy về triết lý quân chính, chủ trương diệt tất cả các tôn giáo khác,vua, chúa, nhà giầu.
          Khi Nhật-Hồ thành tài. Xích Trà Luyện sai về Trung-quốc truyền giáo. Nhật-Hồ lão nhân biến chế từ Chu-sa độc chưởng thành Chu-sa ngũ-độc chưởng. Ông không giám truyền Hồng-thiết giáo, mà chỉ lập ra bang Nhật-Hồ. Trong thời gian ở Trung-quốc, Nhật-Hồ thu nhận một số đệ tử, truyền bản lĩnh cho. Vì lão người Việt, nên lão bị đệ tử tên Lưu Trí-Viễn tìm cách lật đổ. Lão chán nản bỏ về Đại-Việt.
          Tri-Viễn thấy sư phụ vắng mặt một thời gian. Y tưởng sư phụ chết rồi, bèn vỗ ngực tự nhận mình sáng lập ra bang Nhật-Hồ. Người đời Hoa lãng quên tên Nhật-Hồ. Ít lâu sau, Trí-Viễn nghe bên Đại-Việt có Hồng-thiết giáo. Lão đâu biết sư phụ còn sống, mà tưởng nhân vật nào đó mới ra đời.
          Trí-Viễn gửi sứ giả sang kết thân với Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Bấy giờ mới nảy ra Nhật-Hồ lão nhân còn sống. Đã ném lao, phải theo lao. Y tuyên bố Hồng-thiết giáo Đại-Việt, do y sai người lập ra. Để minh chứng sự thực, y đổi tên thành Đông-Nhật, rồi đặt ra hệ thống Hồng-thiết danh. Cứ lấy chữ cuối tên sư phụ đặt cho chữ đầu tên đệ tử. Cho nên các đệ tử khét tiếng của Đông-Nhật lão nhân có tên Nhật-Quang, Nhật-Hải, Nhật-Sơn, Nhật-Minh, Nhật-Long. Sau đó lão cho đệ tử phao rằng chính Nhật-Hồ lão nhân là đệ tử lão.
          Ai thắc mắc hỏi tại sao lấy tên Đông-Nhật. Lão trả lời: Ta được thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh sai xuống phương Đông giải thoát chúng sinh, như ánh sáng mặt trời chiếu muôn vật. Lão giải thích tên của đồ đệ Nhật-Hồ rằng: Chữ Nhật, để nối tiếp chữ Đông-Nhật. Còn chữ hồ chỉ lần đầu tiên bang thành lập ở hồ Động-đình.
          Sau Đông-Nhật lão nhân xuất lĩnh giáo chúng lập ra nhà hậu Hán thời Ngũ-quý.
          Trở về Đại-Việt, Nhật-Hồ thu nhận một lúc mười đệ tử, bí mật lập bang. Lão chia lãnh thổ Đại-Việt thành mười vùng, giao cho mười đệ tử phụ trách việc truyền giáo bí mật. Một lần nữa lão biến đổi Chu-sa ngũ độc chưởng khác đi, thành Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Nhật-Hồ lão nhân chỉ thị cho đệ tử bằng mọi cách xâm nhập vào các đại môn phái, dùng độc chưởng khống chế những nhân vật trong phái, rồi dần dần nắm quyền lãnh đạo. Cuối cùng đi đến nắm quyền cai trị toàn quốc như giáo chủ Xích-trà-Luyện.
          Kinh nghiệm về vụ Đông-Nhật lão nhân phản sư phụ, trong mười đệ tử, lão truyền cho tất cả bộ Hồng-thiết-kinh. Nhưng lão giữ lại một phần làm bùa hộ mệnh. Những đệ tử luyên Hồng-thiết công, phải dùng nọc độc của rắn, rết, tằm, nhện, bò cạp cho cắn vào tay mình, rồi vận công cho nhập cơ thể. Sau khi thành công, mỗi năm, đến tiết Đông-chí, cần uống một viên thuốc giải trừ. Nếu không sẽ đau đớn, khốn khổ trong bốn mươi chín ngày rồi chết. Ai bị trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng cũng thế. Lão dạy cho đệ tử chế thuốc giải. Nhưng lão không dạy đệ tử phép luyện công, để hóa giải toàn bộ chất độc trong người, khỏi uống thuốc mỗi năm.
          Trong các đệ tử lão, người nào cũng xuất thân lưu manh bậc nhất. Nhưng có ba tên gian xảo nức tiếng tên Vũ Nhất-Trụ, Lê Ba và Hoàng Văn. Ba tên này tìm cách bắt giam lão, cướp tâm kinh, học phương pháp giải trừ vĩnh viễn độc chất.
          Nhân lão sủng ái nhất là Nguyễn Chí, định khi sắp chết chỉ định y làm người thừa kế. Lê Ba thấy vậy, tìm cách phao vu Nguyễn Chí sắp phản bang, chạy sang Tây-dương xin giáo chủ Hồng-thiết giáo công nhận. Nhật-Hồ tin thực, cho giam Nguyễn Chí lại, dối rằng y chết rồi. Sau ba năm, lão thấy chính Lê Ba sai người sang Tây-dương Hồng-thiết quốc, cầu giáo chủ phong mình làm thống lĩnh phía Nam Trung-quốc. Lão hối hận, vào nhà tù, thả Nguyễn Chí ra. Lão bị Lê Ba xông thuốc mê, bắt giam.
          Lúc đầu Vũ Nhất-Trụ, Lê Ba, Hoàng Văn tin tưởng giáo chủ Hồng-thiết quốc Tây-vực truyền cho chúng phương pháp giải trừ nọc độc. Không ngờ chính giáo chủ Tây-dương Hồng-thiết quốc cũng bị thất truyền phương pháp này. Ba người nghĩ chỉ có sư phụ là người duy nhất còn biết thần công.
          Ba tên ra lệnh cho đệ tử tra khảo Nhật-Hồ để biết phương pháp vận công giải độc. Bị giam, Nhật-Hồ lão nhân cùng một lò độc với nhau, lão đâu lạ gì bọn đệ tử. Lão biết, nếu lão khai ra, lập tức chúng giết lão. Lão im lặng hơn hai mươi năm liền.
          Bây giờ, thình lình lão hứa truyền tâm pháp đó cho Lê Ba, khiến Nguyễn Chí, Vũ Nhất-Trụ đều kinh ngạc không ít. Lê Ba ngần ngừ một lúc rồi nói vọng vào:
          - Sư phụ, người muốn đệ tử cứu ra, người đọc tâm pháp trước đi.
          Nhật-Hồ hỏi lại:
          - Hoàng Văn đâu? Ta muốn truyền một lúc cho các người.
          - Hoàng Văn hiện vắng mặt.
          Nhật-Hồ nói lớn:
          - Vậy người nghe đây.
          Rồi lão đọc:

          Nhật-Hồ chu sa chưởng,
          Dĩ độc luyện thần công.
          Công thành tất khí tụ,
          Ngũ độc nhập vào tâm.


          Cứ thế lão đọc năm mươi câu quyết, rồi nhắc lại:
          - Khi luyện, người phải dùng thang thuốc như sau: Kinh giới một cân, Tía-tô hai cân, Mộc-hương nửa cân, Xạ-hương nửa cân, Phòng-phong một cân, Ma-hòang ba cân, Quế-chi hai cân, Gừng tươi hai cân, Cam thảo hai lượng. Tất cả nấu lấy nước cho vào chum. Mỗi ngày ngâm mình trong đó luyện hai giờ. Luyện trong ba ngày, phải thay nước khác. Cứ như thế luyện trong một tháng, sẽ được một thành.
          Thiệu-Thái nghe Nhật-Hồ giảng cho đệ tử, chàng biết ông ta dạy láo. Hôm trước Đỗ Lệ-Thanh cho thang thuốc, cùng phép luyện khác hẳn. Phép giải độc càng phức tạp.
          Lê Ba thúc:
          - Còn phần sau ra sao?
          - Khi luyện xong phần thứ nhất, cần có người nào nội công cao gấp bội, để tay vào huyệt Bách-hội, đẩy chất độc cho luân lưu khắp cơ thể.
          Lê Ba biết lão chưa muốn truyền hết, vì sợ y không buông tha lão. Vì ham muốn ngôi giáo chủ, y phải tùng quyền. Y suy nghĩ:
          - Suốt hai mươi năm nay, mình đe dọa thế nào, lão cũng không thuận truyền tâm pháp giải độc, thế mà nay bỗng dưng lão đồng ý là tại sao?
          Nghĩ một lúc, y hiểu liền:
          - Những lần trước, nếu lão truyền cho ta. Ta luyện một đoạn, sẽ đòi đoạn hai, rồi ba. Nay lão hứa truyền cho ta ngụ ý rằng: Nếu ta không cứu lão ra, khi luyên xong đoạn một lão đã chết đói. Vì vậy bắt buộc ta phải cứu lão. Ta mà đào đất cứu lão, khi lão tự do rồi, liệu lão có để ta sống không? Được, ta có cách.
          Đã có chủ ý, y nói vọng vào:
          - Sư phụ. Xin chờ một lát, đệ tử sẽ sai người đào đất cứu sư phụ.
          Lát sau có tiếng chân người đi, rồi tiếng cuốc xẻng đụng nhau, rõ ràng nhiều người đang đào đất. Nguyễn Chí lắng tai nghe ngóng, mắt nhìn lên nóc hầm, sau khi tìm ra chỗ người ta đang đào phía trên, y nói thực nhỏ:
          - Sư phụ, chúng đang đào chỗ này.
          Nhật-Hồ lão nhân nói nhỏ với Thiệu-Thái, Mỹ-Linh:
          - Này cô cậu. Tên Lê Ba là đứa ngu dốt nhất trong đám đệ tử của ta. Nhưng y lại xảo quyệt nhất. Ta đánh lừa để nó đào đất cứu ta. Ta ước lượng khi chúng đào gần tới, sẽ thọc xuống một cái ống, hun khói độc, đợi chúng ta mê man, rồi mới đào tiếp, đem giam chúng ta ở chỗ khác. Vì vậy, ta phải tính trước.
          Lão chỉ chỗ hầm bị sụt:
          - Chỗ kia tuy sụt, nhưng đất xốp, chúng ta dùng các thanh sắt này đào. Giỏi lắm ba, bốn trượng đến chỗ hầm trống. Khi tên Lê Ba xông thuốc xuống, tưởng chúng ta mê man. Y cho đào nữa, chúng ta đã đi khỏi. Vậy bây giờ chúng ta cùng đào. Hễ chúng ta xong trước, ta thắng chúng. Còn chúng ta chậm hơn, bị chúng bắt.
          Nhật-Hồ lão nhân, Nguyễn Chí, Vũ Nhất-Trụ mỗi người cầm một thanh sắt, vận sức, đào đất. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cùng Vũ Thiếu-Nhung, Chu Vân-Nga đứng sau chuyển đất, đá. Cả sáu người công lực đều cao thâm, nên đào rất nhanh. Đào được hơn hai trượng, đất bắt đầu xốp.
          Đang khi bốn người đào, tự nhiên tiếng cuốc xẻng trên trần hầm im bặt, rồi có tiếng bình bịch.
          Nguyễn Chí cười:
          - Tên Lê Ba thực khả ố. Quả đúng như sư phụ nói, chúng đang đóng cọc xuống, để xông thuốc mê. Mình phải đào mau.
          Sáu người ra sức đào, nhưng đào thêm hai trượng nữa vẫn chưa thấy khoảng trống. Trong khi đó tiếng đóng cọc mỗi lúc một rõ.
          Vũ Nhất-Trụ lắng tai nghe, rồi lắc đầu:
          - Dường như chúng đóng xuống nhiều ống chứ không phải một đâu.
          Bốn người lại đào được hơn trượng nữa. Bỗng trên nóc hầm có mấy giọt nước chảy xuống, rồi nước túa ào ào như thác đổ.
          Nhật-Hồ lão nhân kinh hãi:
          - Bọn Lê Ba không hun khói như ta tưởng. Chúng dùng cọc thông nhiều lỗ, rồi xả nước xuống, cho chúng ta chết ngộp. Phải đào cho nhanh.
          Nước ào ào tuôn xuống mỗi lúc một nhiều. Phút chốc đã đến ngang lưng mọi người. Hai con cọp bị ngập nước, chúng gầm lên, dựng đứng thân mình , hai chân trước vin vào tường.
          Nhật-Hồ nói sẽ:
          - Chúng ta phải giả sặc nước.
          Vũ Nhất-Trụ nói lớn:
          - Lê Ba, người xả nước xuống như thế này, sư phụ chết, người hy vọng gì học được tâm pháp. Trời ơi, nước tới cổ rồi.
          Lê Ba cười lớn:
          - Đại sư ca ơi! Tiểu đệ nói cho đại sư ca nghe một bí mật. Khi tiểu đệ cùng với đại ca và tứ đệ sang cầu Tây-dương giáo chủ Hồng-Thiết giáo truyền tâm pháp. Giáo chủ biết đại ca bài ngoại, tứ đệ làm gian tế cho triều Tống, vì vậy người chối rằng tâm pháp đó bị thất truyền. Người âm thầm hứa với tiểu đệ làm sao trừ được đại ca với tứ đệ, người sẽ truyền tâm pháp cho. Tiểu đệ tìm mãi không ra dịp. Hôm nay nhân tứ đệ đi với bọn Tống. Đệ vờ đau liệt dường, trao chìa khóa cho đại ca thăm sư phụ, rồi chôn đại ca cùng sư phụ một thể. May thực, đại ca hành sự đúng như đệ ước đoán. Thôi đại ca ơi, tiểu đệ sẽ đổ thêm nước cho sư phụ, đại ca, cùng ngũ đệ sớm về với tổ tiên Hồng-thiết giáo.
          Đến đó nước lại ào ào tuôn xuống.
          Bẩy người dùng hết sức bình sinh đào đất, đào được hơn trượng nữa, thì nước đã tới ngang cổ. Nước dâng cao, tuy nguy hiểm, nhưng làm cho đất phía trước mềm ra, đào mau hơn.
          Nhất-Trụ tính toán rồi nói:
          - Chỉ còn hơn trượng nữa tới chỗ ngã tư hầm. Chúng ta đào mau, chậm trễ, Lê Ba làm sụt hết hầm vô phương thoát nạn.
          Y nói tới đó, bị sặc nước. Trong căn hầm nhỏ, bẩy người với hai con hổ chỉ còn chút ít không khí thở. Hai con hổ ngộp thở, chúng rống lên những tiếng kinh khủng.
          Mỹ-Linh, Thiệu-Thái phải qui tức, để khỏi bị ngộp. Trong lúc choáng váng, đầu óc Mỹ-Linh loé lên một tia sáng: Hôm ở trong hầm đá Cửu-chân, nàng đọc trong bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, đoạn nói về Giao-long công của công chúa Gia-hưng Trần Quốc, dậy người ta qui tức, có thể lặn dưới nước hàng giờ. Nàng nhẩm ôn lại, vận khí thử, thấy trong người khoan khoái vô cùng. Nàng ghé tai Thiệu-Thái nói nhỏ:
          - Anh hít một hơi đầy, dẫn khí về trung đơn điền. Sau đó toả ra khắp chu thân, rồi ngưng thở, dẫn khí đi rất chậm theo vòng Đại-chu-thiên.
          Thiệu-Thái làm theo, quả nhiên bao nhiêu cái ngộp, khó chịu biến mất.
          Ba thầy trò Nhật-Hồ, cùng với Vũ Thiếu-Nhung, Chu Vân-Nga đã bắt đầu ngộp thở. Hai con cọp lăn lộn trong giòng nước một cách tuyệt vọng.
          Một khắc sau, nước ngập kín hầm. Thầy trò Nhật-Hồ tuyệt vọng buông các thanh sắt, không đào nữa, ngồi im qui tức.
          Chỉ Thiệu-Thái, Mỹ-Linh vẫn vô sự.
          Nguyên thời Lĩnh-Nam, công chúa Gia-Hưng Trần Quốc lĩnh ấn đại đô đốc, thống lĩnh thủy binh, đã sáng chế ra Giao-long công. Người luyện Giao-long công có thể lặn dưới nước hàng giờ đồng hồ. Vì vậy đạo Giao-long binh của Lĩnh-Nam làm mưa làm gió trong trận Độ-khẩu, Xuyên-khẩu, Động-đình, Nam-hải và Lãng-bạc. Mỹ-Linh học thuộc tâm pháp này trong hầm đá, không ngờ lúc nguy cấp, nàng đem ra áp dụng, lại có kết quả.
          Mỹ-Linh, Thiệu-Thái thấy thầy trò Nhật-Hồ ngộp thở. Hai người cầm thanh sắt đào tiếp. Đào được hơn trượng nữa, khi Thiệu-Thái thọc thanh sắt vào đất, bỗng thấy nhẹ hỗng. Chàng tỉnh ngộ nghĩ thầm:
          - Đã đào tới chỗ hầm trống rồi.
          Chàng cầm thanh sắt quay ít vòng rồi rút ra. Nước theo lỗ hổng tuôn đi. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái chọc thêm mươi lỗ, nước từ từ hạ xuống. Phút chốc chỉ còn ngang gối. Hai người đào thêm một lát nữa, lỗ hổng lọt một người chui ra. Không khí ào vào. Hai người hít một hơi, thở phào ra.
          Mỹ-Linh bắt mạch Vũ Thiếu-Nhung, Chu Vân-Nga thấy hai người ngất xỉu, chứ chưa chết. Nàng xem đến thầy trò Nhật-Hồ cũng không hơn. Hai con cọp thì chết từ hồi nào. Nàng bảo Thiệu-Thái:
          - Chúng ta đem thầy trò Nhật-Hồ rời khỏi đây tức khắc.
          Trên trần tiếng xẻng cuốc im lặng. Nước vẫn từ trên nóc hầm túa xuống. Biết bọn Lê Ba tiếp tục đổ nước, Thiệu-Thái bàn:
          - Chúng ta giả ngộp nước, nằm đây, chờ bọn Lê Ba đào tới, ta chỗi dậy giết chết chúng cho bõ ghét.
          Mỹ-Linh lắc đầu:
          - Giáo chúng Nhật-Hồ toàn một bọn xảo trá, chúng ta đem xảo trá đấu với chúng thì thua tiệt. Chi bằng chúng ta tránh chúng đi là hơn. Phàm khi đổ nước, chúng cố đổ cho đầy. Chúng thừa biết rằng nước đầy ắt phía trên ứ lại. Nếu ta để nước tháo đi như thế này, chúng nghi. Chi bằng ta lấp hố cho mau, khi nước đầy hầm, trên mới ứ được.
          Hai người khuân đá, đất lấp hầm. Khoảng hầm sụt dài tới hơn hai trượng, nên khi lấp lại, nước không tràn ra nữa.
          Mỹ-Linh cắp Nhật-Hồ, Thiếu-Nhung, Chu Vân-Nga. Thiệu-Thái cắp Nhất-Trụ, Nguyễn Chí chui ra khỏi chỗ bị đất sụt. Tới ngã tư hầm, có ngọn đèn sáng, Mỹ-Linh nhìn theo ngọn đèn phía trước mà đi.
          Vừa lúc đó, một tiếng ầm vang lên, gió quạt vào mặt hai người. Mỹ-Linh kinh hoảng nhìn lại phía sau, cả quãng hầm nàng vừa đi qua, bị làm cho sập rồi.
          Nàng hô lớn:
          - Chạy mau.
          Qua hai khúc quẹo nữa, đường hầm cụt, có bậc thang leo lên.
          Thiệu-Thái nói nhỏ:
          - Phía trên này có thể là nhà bọn Lê Ba, phải cẩn thận.
          Chàng khẽ đẩy, cánh cửa từ từ mở ra. Chàng leo lên. Thì ra lại một căn hầm nữa, tối om. Chàng lần mò, sờ soạng xung quanh hầm, không có lối thông, hay cửa. Chàng sờ lên trên đầu, không khó nhọc, chàng tìm ra cánh cửa thép.
          Chàng đẩy mạnh, cửa mở ra. Ánh sáng lùa vào, làm chàng lóa mắt. Chàng chui ra khỏi hầm. Mỹ-Linh nhảy theo. Dụi mắt nhìn xung quanh, thấy mình đang ở trong căn phòng khá lớn. Cửa hầm chính là cái sập gụ lớn, chạm trổ rất công phu. Cạnh sập một cái tủ cánh, bằng gỗ trắc, dường như để quần áo. Ngoài ra không có gì khác.
          Mỹ-Linh vận khí để tay vào huyệt Trung-uyển Vũ Thiếu-Nhung. Bà ọc lên một tiếng, mửa nước ra. Đồ chừng bà mửa hết nước rồi, nàng để tay vào huyệt Đản-trung, dồn chân khí sang. Bà hắt hơi một cái mở mắt, ngơ ngác nhìn quanh. Bà òa lên khóc.
          Mỹ-Linh nói nhỏ:
          - Nín đi, bá mẫu được cứu sống rồi. Đây vẫn còn ở hiểm địa, chớ có lên tiếng.
          Mỹ-Linh lại vận khí chữa chu Chu Vân-Nga.
          Thiệu-Thái định vận công cứu thầy trò Nhật-Hồ. Mỹ-Linh cản lại:
          - Thầy trò bọn Hồng-quỉ này độc công cực kỳ thâm hậu, chúng mới bị ngộp đây. Để hơn giờ nữa, chúng chưa chết đâu. Cứu tỉnh chúng lại e nguy vô cùng.
          Mỹ-Linh mở cửa phòng ngủ, trước phòng, một vườn hoa chia làm bốn khu, trồng toàn một thứ hoa quế. Bốn khu bốn mầu, đỏ, vàng, trắng và hồng nhạt.
          Ký ức Mỹ-Linh thấy khu vườn khá quen thuộc. Dường như nàng đã đến một lần rồi, nay nhất thờ nàng không nhớ ra ở đâu. Bỗng nàng à lên một tiếng: Hồi vương mẫu mới mất, nàng theo Đàm qúi phi đi Cổ-loa chơi. Quí phi dẫn nàng đến nhà quốc cữu Đàm Can. Nay Đàm Can lột mặt nạ thành Vũ Nhất-Trụ. Thì ra đây là dinh Vũ Nhất-Trụ. Nàng ngạc nhiên vô cùng, không hiểu người nhà Vũ Nhất-Trụ đi đâu vắng?
          Nàng biết nhà Nhất-Trụ không xa chỗ đóng quân của đạo binh Đằng-hải làm bao. Nàng định quay vào, dặn Thiệu-Thái giữ tù nhân, còn mình đến đạo Đằng-hải, hỏi mượn xe giải chúng về Thăng-long. Chợt thấy một lão già đang cầm cái dao cắt hoa ngoài sân.
          Nàng dặn sẽ Thiệu-Thái:
          - Để em bắt sống lão già này, thẩm vấn tình hình Nhất-Trụ.
          Vèo một cái, nàng tới bên lão, rút kiếm chí vào cổ. Dường như lão không biết võ công. Lão thấy một cô gái ướt như chuột, đầu tóc rối bù, dí kiếm vào cổ. Lão run lật bật:
          - Cô nương là ai, sao lại định giết tiểu nhân?
          - Người trong trang đi đâu cả?
          - Thưa, quốc cữu mới vừa đây xong, không rõ người ở đâu. Còn phu nhân, với tỳ nữ, đều đi Lộc-hà lễ đền thờ Bắc-bình vương.
          - Trong nhà có xe ngựa không?
          - Có, một cỗ lớn, một cỗ nhỏ.
          - Người dẫn ta đi, thắng cỗ lớn ra đây.
          Lão già kinh sợ, dẫn Mỹ-Linh đi thắng xe, đưa đến trước phòng ngủ. Mỹ-Linh gọi Thiệu-Thái ra. Thiệu-Thái chất ba thầy trò Nhật-Hồ lão nhân lên xe, rồi bảo Thiếu-Nhung, Vân-Nga:
          - Xin hai vị hãy lên xe, chúng ta phải rời nơi đây khẩn cấp.
          Lão già làm vườn thấy Vũ-nhất-Trụ đầu tóc tả tơi, người ướt sũng. Lão kinh khủng, hỏi Mỹ-Linh:
          - Đàm quốc cữu làm sao thế này.
          Mỹ-Linh đáp:
          - Quốc cữu bị gian nhân ám hại, chúng ta đưa người đi cấp cứu. Bây giờ mi đánh xe cho chúng ta về Thăng-long gấp. Ta nhắc lại, nếu người có hành vi gì khác, ta giết người liền. Người tên gì?
          - Tiểu nhân là Trịnh Đức.
          - Được, đi mau lên.
          Trịnh Đức buông mành che kín xe, rồi ra roi cho hai ngựa chạy. Một lát thành Thăng-long hiện ra phía trước. Trịnh Đức hỏi:
          - Thưa cô nương vào cửa nào?
          - Người cho xe chạy vào cửa Đan-phượng
          Mặt lão già Đức hơi biến đổi đôi chút. Lão cho xe chạy qua cửa Quảng-phúc, rồi tới Đại-hưng, tới cửa Đan-phương hiện ra trước mắt. Đến gần cửa Đan-phượng, Mỹ-Linh ra lệnh:
          - Người cho xe vào cửa, rồi quẹo sang trái.
          Lão Đức kinh hãi:
          - Bên trái là điện Uy-viễn, nơi Khu-mật viện đóng. Xe vào đó ắt tiểu nhân bị chặt đầu.
          Mỹ-Linh quát:
          - Im mồm! Tuân lệnh ngay, bằng không, ta giết liền.
          Xe vào trong thành, quẹo sang trái. Phía tới điện Uy-viễn. Xe chưa tới cung, có hai dũng sĩ cầm bảo đao chặn lại. Mỹ-Linh nhận ra hai vệ sĩ của Khai-Quốc vương. Nàng mở mành ra nói:
          - Anh Quế, anh Nam. Bình-Dương đây, cho xe vào mau!
          Hai vệ sĩ thấy cô công chúa ngàn vàng, con gái Khai-Thiên vương, con nuôi Khai-Quốc vương, em kết nghĩa của người quản Khu-mật viện Tạ Sơn, mà đầu tóc rối bù, ngồi trong xe, với mấy người quần áo ứơt sũng. Chúng kinh hoảng, vội mở cửa phủ cho xe đi.
          Nam cầm dùi đánh ba tiếng trống.
          Xe vào tới sân trong phủ Uy-viễn. Tạ Sơn đã chạy ra cùng với Ngô Thuần-Trúc theo sau còn bốn người, mà nàng nhớ nhung ngày đêm: Tự-Mai, Tôn Đản, Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm. Bé Ngô Thường-kiệt cũng có mặt.
          Tạ Sơn ngoắc tay ra lệnh, ba võ sĩ ra vác thầy trò Nhật-Hồ vào.
          Mỹ-Linh chỉ ba người nói:
          - Ba đại ma đầu của Hồng-thiết giáo. Chúng bị ngộp nước, mau cứu tỉnh. Phải cẩn thận, vì võ công chúng rất cao.
          Phủ đệ của Khai-Quốc vương ở điện Giảng-vũ, ngay cạnh điện Uy-viễn. Mỹ-Linh dẫn Vũ Thiếu-Nhung, Chu Vân-Nga, Thiệu-Thái theo ngả sau về phủ Khai-Quốc. Vú Tú thấy Công-chúa, Thế-tử ướt như chuột thì kinh hoàng. Mỹ-Linh dơ tay vẫy, ý muốn nói: Đừng hỏi lôi thôi.
          Nàng chỉ vào Vũ Thiếu-Nhung, Chu Vân-Nga:
          - Lấy quần áo của tôi cho hai vị này thay. Dẫn hai người đi tắm.
          Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cũng đi tắm rửa. Tắm, thay y phục, trang điểm xong, nàng xuống phòng ăn. Vú Tú đã dọn cơm lên sẵn.
          Bà nói:
          - Công-chúa có tin mừng.
          Mỹ-Linh hỏi:
          - Tin gì đấy vú? Thím hai khỏi bệnh thì tôi biết rồi.
          - Có người mà Công-chúa đêm nhớ, ngày mong đã về đây.
          - Ai thế vú? Sư phụ ư? Chú hai ư ? Hay chị Bảo-Hòa chăng?
          Trong tâm Mỹ-Linh chỉ có sư phụ, lúc nào cũng cười tươi như Bố-Đại hoà thượng, mà lòng nàng tưởng nhớ ngày đêm, sau đó đến Khai-Quốc vương. Ông chú đầy uy quyền, bận rộn tối mắt, nhưng luôn dành cho nàng tình yêu vô bờ bến. Chú nàng vừa là bố, vừa là mẹ. Gần đây thêm Bảo-Hòa, niềm an ủi lớn cho nàng.
          Vú Tú cười, mở cửa, một thiếu phụ, một thiếu nữ chạy vào với hai con chó. Mỹ-Linh mừng quá đứng dậy ôm lấy thiếu phụ:
          - Vú Hậu! Ninh!
          Quả thực nàng cũng thương vú Hậu như thương mẹ. Xa bà đã mấy tháng nay, nàng đinh ninh bà ở Trường-yên. Không biết nay sao cũng về Thăng-long, lại dẫn thên cô em sữa Ninh cùng hai con chó. Nàng ôm chầm lấy vú Hậu, ấp đầu vào ngực vú. Nàng cảm thấy một mùi thơm quen quen từ người vú Hậu, mà từ lâu, nàng ngẫm ra chỉ vú hậu mới có cho nàng. Cả hai cùng rơm rớm nước mắt. Nàng nói:
          - Con thương vú vô cùng.
          Hai hàng nước mắt vú Hậu chảy dài trên má:
          - Tiểu tỳ nhớ Công-chúa quá, nên cùng con Ninh về đây đã hai ngày, mong Công-chúa mãi.
          Mỹ-Linh mời vú Hậu, cùng Ninh ngồi. Nàng vuốt ve hai con chó thân yêu, rồi nói:
          - Vú và em Ninh ăn cơm chung với con nghe!
          Thời bấy giờ, tôi tớ nhà bình dân cũng không được ngồi ăn cùng chủ. Huống hồ Mỹ-Linh là Công-chúa. Nhưng Mỹ-Linh, ở với Khai-Quốc vương. Vương cho phép bất cứ tôi tớ, tỳ nữ nào, mà chủ nhân mời, đều được ngồi ăn chung. Vú Hậu, Mỹ-Linh cùng ngồi ăn.
          Vũ Thiếu-Nhung nước mắt dàn dụa nói với Mỹ-Linh:
          - Cô nương, ra cô nương là Công-chúa đấy. Tiểu nhân thực vô phép. Tiểu nhân nghĩ mình tội lỗi quá nhiều. Mong rằng Công-chúa rộng dung cho tiểu nhân đến khi gặp lại Hồng-Sơn đại phu. Sau khi nói với người mấy câu, rồi tiểu nhân tự xử, chứ không giám để ô uế đến lưỡi gươm của quan nha.
          Mỹ-Linh vẫy tay:
          - Bá mẫu cùng tiểu nữ vừa chung nhau một hoạn nạn, đừng nói đến cái gì khác hơn việc ta lấy lòng đãi nhau. Ăn xong chúng ta mau thẩm cung bọn Nhật-Hồ. Còn nhiều người bị chúng giam cầm, cần cứu ra.
          Từ lúc được cứu tỉnh, Chu Vân-Nga không nói một câu. Bây giờ nàng mới lên tiếng:
          - Công-chúa. Ngay khi gặp Công-chúa trong hầm, tôi đã nhận ra Công-chúa. Nhưng Công-chúa không nhận ra tôi. Công-chúa có biết tôi là ai không, mà lại cho tôi ăn cùng mâm. Biết đâu tôi phạm trọng tội thì sao?
          Mỹ-Linh gắp nhát cá trê rán dòn, chấm vào bát nước mắm gừng, bỏ cho Chu Vân-Nga:
          - Tôi không cần biết lý lịch chị. Dù chị là quân giặc cướp, chị có tội với luật nước. Dù chị giết người, chị bị kết án tử hình. Đối với tôi, chị ở hoàn cảnh đáng thương, đáng xót. Nhan sắc chị thuộc loại hiếm có trên đời, mà bị giam dưới hầm sâu, làm kẻ hầu cho Nguyễn Chí, thực còn gì đau khổ hơn nữa?. Tôi cứu chị ra, mời chị ăn bữa cơm, rồi bấy giờ chị là ai, có tội hay không sẽ bàn sau. Ăn cơm đi chị.
          Vân-Nga cảm động òa lên khóc.
          Luân-lý, luật pháp người Việt ngay từ thời vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng đều coi đức tính trinh-tĩnh của phụ nữ cực kỳ quan trọng. Khi cha mẹ hứa hôn rồi, coi như đã có chồng. Chồng chết phải ở vậy suốt đời dù chưa cưới.
          Còn những phụ nữ lấy chồng, có mai mối, sau khi lấy chồng chỉ biết có chồng. Lỡ ra bị cưỡng hiếp, phải tự tử để bảo toàn danh tiết. Đến khi vua Ngô Quyền dựng lại chính thống, tạm dùng lại luật Lĩnh-Nam. Trải qua loạn Thập-nhị sứ quân, đất nước ở trong một thời kỳ cực kỳ rối loạn, cho nên khi thống nhất giang sơn, vua ban hành luật nghiêm khắc. Phụ nữ thất tiết, bị xử tử hình, không có trường hợp giảm khinh. Vua Lê Đạo-Hành lên ngôi, chưa kịp ban hành luật, vẫn giữ luật cũ.
          Khi vua Lý Thái-Tổ lên ngôi, bấy giờ Nho-giáo đã có chỗ đứng vững trong xã hội. Luật triều Lý đặt cơ sở trên nhân trị của Nho-giáo, thêm một phần ảnh hưởng của Phật-giáo, khép người phụ nữ vào một khuôn khổ luân lý rất khắt khe.
          Chỉ cần người phụ nữ để người đàn ông khác nắm lấy tay, ôm trong tay, hoặc trông thấy bộ phận kín của mình coi như phạm tội bất trinh. Còn để người khác phạm vào thân thể liệt vào tội ô danh thất tiết. Cả hai tội đều đưa đến hình phạt. Nặng nhất bắt đến trước con voi, để nó dùng chân đạp lên người. Đó là tội voi dầy. Thứ đến cho cột chân tay vào bốn con ngựa, rồi đánh cho ngựa chạy ra bốn phía, cơ thể bị xé làm bốn mảnh. Đó là tội ngựa xé.
          Nhẹ hơn nữa, bị xử giảo, tức thắt cổ cho đến chết, hoặc chém đầu. Tất cả ba tội trên, sau khi chết, cơ thể đem ra đồng cho diều hâu, cho quạ ăn thịt. Trường hợp nhẹ nhất, chỉ bị đem ra giữa chợ đánh đòn, gọt đầu, lấy vôi bôi lên cho tóc không mọc được nữa, rồi cho xuống bè chuối, thả trôi sông.
          Những hình phạt đó, phổ thông đến dân chúng. Vì vậy, cho đến nay, khi người ta nguyền rủa đàn bà, thường dùng câu Con voi dầy, ngựa xé kia hoặc Con diều tha, quạ mổ kia hoặc đồ trôi sông, đòn chợ.
          Vũ Thiếu-Nhung, Chu Vân-Nga vốn gái có chồng, bị Hồng-thiết giáo bắt giam, đáng lẽ phải tự tử ngay, để bảo toàn trinh tiết. Nhưng hai người không làm thế, mà cam tâm hầu hạ, cho Nhật-Hồ, Nguyễn Chí dầy vò bao năm. Tội quá nặng, không được quyền giảm khinh. Nay họ biết Mỹ-Linh là Công-chúa, chắc chắn đã khinh khiến, kinh tởm, khi biết họ phạm tội. Vì vậy cả hai mới thốt ra lời bi thương. Không ngờ Mỹ-Linh lại lảng ra truyện khác, dùng lời nói êm dịu phủ dụ họ.
          Đúng ra, Mỹ-Linh thẩm vấn hai người đàn bà này trước, rồi giải qua quan tiết độ sứ Thăng-long xử tội, mà nàng cố tình lờ đi. Hơn nữa còn cho ngồi ăn chung.
          Mỹ-Linh đâu phải không biết tội trạng hai người? Khi nàng được thầy dạy văn giảng về nhân trị, nàng tâm niệm, nếu có dịp, nàng sẽ thử đem đạo đức cảm hoá. Trước đây, khi gặp Đỗ Lệ-Thanh, mụ phạm tội làm gian tế cho Tống, không cần xét xử, đem ra xử lăng trì, tức xẻo từng miếng thịt. Hoặc ít ra, Mỹ-Linh cật vấn chi tiết về những tội trạng của mụ. Nhưng nàng lờ đi, vì vậy Đỗ cảm động, nguyện theo hầu nàng với Thiệu-Thái cả đời. Bây giờ nàng lại áp dụng với Thiếu-Nhung, Vân-Nga. Quả nhiên hữu hiệu.
          Vũ Thiếu-Nhung nhắm mắt hồi tưởng lại thời thơ ấu...
          Quan Tiết-độ sứ tổng trấn kinh thành Trường-yên, Vũ Hoàng-Quân, nguyên xuất thân làm một võ tướng, có chiến công trong trận đánh Chi-lăng với Tống, được vua Lê Đại-Hành tín cẩn. Vũ tiết độ sứ vốn là đệ tử phái Sài-sơn, sư thúc của Nam-quốc vương Lê Long-Mang. Vì vậy Nam-Quốc vương thường tới dinh Tiết độ sứ chơi, để học hỏi thêm võ công. Vũ tiết độ sứ chỉ có một con gái duy nhất tên Vũ Thiếu-Nhung. Trời cho tấm nhan dắc diễm lệ, lại giỏi nghề đàn ca. Trong khi Nam-quốc vương ra vào dinh Vũ tiết độ sứ, ông được quen với Thiếu-Nhung.
          Trai tài, gái sắc gặp nhau, họ cảm nhau ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên. Tin này đồn ra ngoài, vua Lê Đại-Hành sai sứ đến hỏi Thiếu-Nhung, phong làm vương phi Nam-Quốc. Không ngờ trong lễ tấn phong, anh của Nam-Quốc vương là Lê-long-Đĩnh nhìn thấy. Y mê chết lên chết xuống, nhưng chỉ ngậm bồ hòn, chờ dịp.
          Niên hiệu Ứng-thiên thứ mười hai, đời vua Lê Đại-Hành, nhằm năm Kỷ-tỵ (1005). Khai-Minh vương Lê Long-Đĩnh giết anh, lên làm vua, rồi sai tướng đem quân vào Thanh-hóa bắt Nam-Quốc vương Lê Long-Mang. Mục đích của Long-Đĩnh không phải diệt trừ em, mà bắt Vũ Thiếu-Nhung. Nam-Quốc vương là người bác học đa năng nhất trong các hoàng tử con vua Lê. Nếu Vương mốn làm vua, sĩ dân thiên hạ, không ai mà không vui mừng. Thấy anh gây điều bạo nghịch, Vương đã chán nản thế sự. Đúng lúc ấy, được tin quân Tống chuẩn bị sang đánh.
          Nếu Vương chống cự với anh, tất thắng, rồi nhân đó lên làm vua, hẳn dễ như trở bàn tay. Nhưng Vương sợ rằng giữa lúc hai bên đại chiến, hoặc sau khi một bên thắng, một bên bại, tinh lực kiệt quệ, quân Tống tràn sang, e cái nạn mất nước khó tránh. Vương bèn niêm phong kho lẫm, đêm treo ấn, lẳng lặng dẫn Thiếu-Nhung bỏ đi cùng gia bộc thân tín, khai đất, lập ra Vạn-thảo sơn trang. Vương dấu tên, dấu họ, chỉ dùng danh xưng Hồng-Sơn đại phu.
          Tuy vậy, ngoài gia bộc ra, chỉ có sư phụ đại phu, cùng những người vào vai sư thúc, sư bá biết rõ chân tướng Vương. Vương yêu thương Thiếu-Nhung rất mực. Hai người có với nhau người con gái đầu lòng tên Thiếu-Mai, người con trai thứ nhì tên Lê Văn, rồi tai vạ xẩy đến... Nàng bị người ta phóng độc chưởng.
          Đến đây nàng khóc òa lên, không dám nghĩ tiếp nữa.
          Vân-Nga cũng òa lên khóc theo, nàng nói với Mỹ-Linh:
          - Công chúa! Nếu tôi không phạm tội, tôi là người trên Công-chúa.
          Mỹ-Linh kinh ngạc:
          - Khi mới gặp, nhìn bóng dáng chị quen quá. Tôi không nhớ rõ đã gặp ở đâu.
          - Tôi là thứ phi của Đông-Chinh vương.
          Mỹ-Linh, Thiệu-Thái kinh hoàng nhớ lại truyện cũ. Năm năm trước đây, Thuận-Thiên hoàng đế tuyển con gái Tiết-độ-sứ Chu Toàn-Minh tên Chu Vân-Nga cho Đông-Chinh vương làm cung phi. Lập-Nguyên hoàng hậu có ý định để nàng sống trong cung ít lâu, rồi sẽ phong làm Vương-phi. Được một năm, Chu Vân-Nga bị mất tích, trong lần về thăm nhà ở vùng Mê-linh. Đông-Chinh vương ra sức tìm tòi, đều vô hiệu. Hai năm sau, truyện đó chìm vào dĩ vãng. Không ngờ bây giờ Mỹ-Linh tìm ra nàng ở trong đường hầm tại Cổ-loa.
          Mỹ-Linh nghĩ thầm:
          - Chu Vân-Nga tội nặng khó tha thứ. Bà ta được tuyển làm cung phi cho chú nàng là Đông-Chinh vương, thân thể cao quí biết dường nào. Đúng ra nàng ở vai thím mình. Mình với Thiệu-Thái trông thấy phải quì gối hành đại lễ. Không biết sự thực về vụ này ra sao. Mình cứ để Khu-mật-viện làm việc.
          Nàng á lên một tiếng:
          - Thì ra thím. Thảo nào lúc mới vào hầm, cháu thấy gương mặt thím quen quen. Việc này lớn quá, cháu không có thẩm quyền giải quyết, để ông nội định đoạt. Thôi chúng ta ăn cơm đã.
          Cơm xong, Mỹ-Linh dẫn Thiệu-Thái, Thiếu-Nhung, Vân-Nga sang Khu-mật viện. Nàng thuật sơ lược tất cả những gì thấy ở nhà Hoàng Văn cùng các biến chuyển một lượt.
          Ta Sơn nói:
          - Công-chúa thực may mắn, tìm ra tất cả âm mưu của bọn Tống. Nhưng cho đến giờ phút này, sư huynh cũng không biết chủ trương của bọn Hồng-thiết giáo ra sao. Sư huynh đã cho cứu tỉnh, gông ba thầy trò Nhật-Hồ rồi.
          Mỹ-Linh nhớ ra điều gì:
          - Còn gã Trịnh Đức, sư huynh giam gã ở đâu?
          Tạ Sơn nói sẽ vào tai nàng:
          - Y vốn người của Khu-mật-viện, cho vào ẩn ở trong phủ Đàm Can. Sư huynh thưởng bạc, truyền trở lại nhà y. Còn bọn Nhật-Hồ chờ lát nữa ta hỏi cung. Có điều không bao giờ sư huynh ngờ quản gia của phủ Khai-Thiên lại là Hoàng Văn, tên ma đầu đứng hạng ba của Nhật-Hồ lão nhân. Rồi nữa Đàm Can lại chính thị Vũ Nhất-Trụ. Vụ này thực không nhỏ.
          Thấy vắng bóng Bảo-Hòa đâu, Thiệu-Thái hỏi:
          - Bảo-Hoà đâu?
          - Các đệ tử Tây-vu tề tựu dự anh hùng đại hội đóng ở ngoài thành, vì vậy Quận-chúa cũng phải về chầu hầu vua Bà. Vua Bà có chỉ dụ, nếu Thế-tử về, đến chầu hầu ngay.
          Thiệu-Thái là con chí hiếu, nghe chỉ dụ của mẹ, chàng vội đứng lên nói với Mỹ-Linh:
          - Anh phải đi chầu mẹ ngay. Ngày đại hội, chúng ta sẽ gặp nhau.
          Chàng lấy ngựa lên đường.
          Tạ Sơn đứng lên kiểm điểm:
          - Thuận-Thiên cửu hùng, còn thiếu Vương-gia, Thanh-Mai, Thanh-Nguyên nữa là đủ. Nào chúng ta thẩm vấn bọn Nhật-Hồ.
          Mọi người vào phòng thẩm vấn. Tạ Sơn bảo Mỹ-Linh:
          - Công-chúa hiểu rõ nội tình bọn chúng. Xin công chúa thẩm vấn thì hơn. Giữa Công-chúa với sư huynh, có tình sư huynh, sư đệ cái gì cũng xong hết. Ngặt vì tên Trương Yên làm quản gia phủ Khai-Thiên. Tên Vũ Nhất-Trụ vai Quốc-cữu. Chức vụ Điện-tiền chỉ huy sứ, quản Khu-mật-viện của sư huynh không đủ uy quyền hỏi cung chúng.
          Tự-Mai không chịu:
          - Sư huynh, em nghĩ khi anh hỏi cung, anh là đại diện của luật pháp, đại diện của Đại-Việt hoàng đế. Ai phạm tội, anh cũng có quyền chấp pháp chứ?
          Lâu ngày không gặp cậu sư đệ bác học, thông minh, Mỹ-Linh nắm lấy tay Tự-Mai, liếc ánh mắt sáng như sao, rồi nở nụ cười:
          - Bộ Quốc-triều hình thư có dự trù khoản gọi là Bát nghị, nên anh hai khó lòng hỏi cung y.
          Tự-Mai, Thuận-Tông, Thiện-Lãm, Tôn Đản nhao nhao lên:
          - Bát nghị là kí gì vậy?
          Mỹ-Linh thư thả kể:
          - Từ khi ông nội chị lên làm vua, người ban hành mấy bộ luật tạm thời. Trong đó có bộ Quốc triều hình thư. Trong Hình-thư dự trù trường hợp giảm khinh, gọi là Bát nghị. Bát nghị đã có trong bộ luật thời Lĩnh-Nam, do công chúa Phùng Vĩnh-Hoa sọan. Nay bộ Hình-thư chỉ chép lại mà thôi.
          Tự-Mai gật gật đầu:
          - Em nghe bố nói một lần, nhưng không rõ cho lắm. Bát nghị nội dung ra sao?
          - Bát nghị bao gồm tám trường hợp được giảm khinh. Những người ở trong trường hợp sau đây, khi phạm tội, sẽ được giảm khinh:
          Một, nghị thân, tức trường hợp thân thuộc trực hệ của Hoàng-đế.
          Hai, nghị cố, tức những người bạn hữu của hoàng đế.
          Ba, nghị hiền. Tức những người nổi tiếng đạo đức, trong nước.
          Bốn, nghị năng. Tức những người tài ba.
          Năm, nghị công. Tức những người có huân công với xã tắc.
          Sáu, nghị quý. Tức những quan lớn. Võ từ cấp phó tiết độ sứ. Văn từ cấp thái bảo.
          Bẩy, nghị cần. Tức những người nổi tiếng làm việc xiêng năng.
          Tám, nghị bảo. Tức những người giầu có, được đem tiền chuộc tội.

          Nàng nhấn mạnh:
          - Vũ Nhất-Trụ được phong quốc cữu. Y liệt vào hàng Nghị thân. Vì vậy nhị sư huynh không có quyền thẩm cung y. Đúng ra, thân phụ của chị tước Khai-Thiên vương, chị là Quận-chúa ngang vai với Nhất-Trụ. Chị cũng không được hỏi cung y nốt. Nhưng chị được phong Công-chúa, nên cao hơn y một bậc. Chị hiểu rõ vị thế của sư huynh. Dù làm quan lớn đến đâu cũng không thể so sánh với bọn ngoại thích. Chị thấy tên Vũ Nhất-Trụ sinh ra Đàm quí phi, người đang được ông nội sủng ái. Bây giờ ngoài chị ra, chỉ có chú hai mới đủ tư cách thẩm cung y.
          Mỹ-Linh quyết định phải ngồi chấp cung y:
          - Nhật-Hồ vốn sảo trá khôn cùng. Tiểu muội không đủ kinh nghiệm thẩm cung chúng. Sư huynh hỏi cung đi. Tiểu muội góp ý với sư huynh.
          Thị vệ dẫn Nhật-Hồ lão nhân vào. Mỹ-Linh nhỏ nhẹ:
          - Lão tiên sinh, người ta sinh ra thọ được bẩy mươi tuổi là hiếm lắm. Nay tiên sinh đã tới trăm tuổi, mà Khu-mật-viện gông lão tiên sinh như thế này thực không phải. Sở dĩ thị vệ không giám để tiên sinh thư thả vì võ công tiên sinh quá cao thâm, nên họ phải làm vậy. Việc này thực bất đắc dĩ. Mong lão tiên sinh lượng thứ.
          Nhật-Hồ lão nhân bị giam hai chục năm, mọi biến chuyển, lão không biết gì. Lão hỏi:
          - Đây thuộc phủ nào? Cô nương cứu ta hai lần, nên dù cô nương giết ta, ta cũng không buồn. Huống hồ cô nương gông ta. Cô nương là ai?
          Mỹ-Linh ra lệnh cho thị vệ:
          - Các người mau tháo gông cho lão tiên sinh!
          Nhật-Hồ cười ha hả. Tiếng cười của lão làm mọi người ù tai, chóng mặt. Lão quát lên một tiếng vung tay mạnh. Hai cái tay gông gẫy rời. Lão bóp mạnh vào cái gông cổ, gông cũng gẫy nốt. Lão nói:
          - Lão phu tưởng cô nương gông lão phu, lão phu chịu. Chứ còn người khác, gông lão phu sao được!
          Lão đến cạnh Vũ Thiếu-Nhung, ngồi bên bà. Bất chấp công đường đông người, lão cầm tay bà đầy vẻ trìu mến như một cặp tình nhân trẻ.
          Mỹ-Linh thấy Thiếu-Nhung không phản đối, nàng nhăn mặt, tỏ vẻ bực mình. Tuy vậy, nàng vẫn truyền rót nước trà mời lão uống. Trong lòng nàng nổi lên cơn bão táp:
          - Như thế Thiếu-Nhung công khai nhận có tình ý với lão, chứ bà đâu có bị ép buộc? Thực bí mật, thực huyền bí. Mình phải điều tra cho ra manh mối mới được.
          Tạ Sơn chỉ Mỹ-Linh:
          - Thưa giáo chủ. Công chúa Bình-Dương cứu giáo chủ ra. Người muốn giáo chủ trả lời mấy câu. Hiện giáo chủ đang ngồi trong Khu-mật viện Đại-Việt.
          - Thì ra cô nương là Công-chúa của Lê triều đấy.
          Mỹ-Linh lắc đầu:
          - Lê triều hết số từ mười tám năm rồi. Đương kim thiên tử là Thuận-Thiên hoàng-đế, ông nội tiểu nữ.
          Thấy Nhật-Hồ ngơ ngơ ngác ngác. Tạ Sơn tóm tắt tình hình hai mươi năm qua cho lão nghe qua. Chàng tiếp:
          - Còn Hồng-thiết giáo của tiên sinh công bố rằng tiên sinh qua đời từ hai chục năm trước. Họ xây lăng cho tiên sinh lớn lắm. Mõi ngày có hàng mấy trăm giáo đồ đến lễ tiên sinh đấy. Lê Ba cho phổ biến một di chúc của tiên sinh.
          Mặt Nhật-Hồ tái đi:
          - Láo thực, tôi có viết di chúc bao giờ đâu?
          Tạ Sơn hỏi:
          - Bị tù bấy nhiêu năm. Bây giờ được tự do, tiên sinh định làm gì?
          Nhật-Hồ thở dài:
          - Việc đầu tiên lão phu phải giết chết bọn phản thầy, rồi sau đó chính đốn lại Hồng-thiết giáo.
          Có tiếng Khai-Quốc vương dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai Tạ Sơn, Mỹ-Linh:
          - Hãy tìm cách phóng thích khéo lão này, để tự tay lão giết hết bọn ma đầu. Mình khỏi cần ra tay.
          Tạ Sơn biết Khai-Quốc vương ngồi ở phòng bên cạnh nghe chấp cung. Chàng yên lòng tiếp:
          - Người ta nói tiên sinh có mười đại đệ tử, Vậy họ là ai?
          - Lão phu nhất tâm cứu nước, nên thu dụng, huấn luyện nhiều đệ tử. Nhưng trong đó có mười tên khá nhất. Lão phu căn cứ vào ai nhập môn trước làm sư huynh. Ai nhập môn sau làm sư đệ. Chứ không căm cứ trên tuổi tác, bản lĩnh. Đại đệ tử của lão phu tên Vũ Nhất-Trụ, tức Đàm Can như các vị biết. Y đã được bị bắt cùng lão phu. Về võ công y cao thâm nhất.
          - Thế tiên sinh giao cho Nhất-Trụ nhiệm vụ gì?
          - Y tiềm ẩn ở Hoa-lư, bám sát triều đình. Sau này triều đình thiên đô về Thăng-long, y cũng về theo.
          Mỹ-Linh muốn biết tin Vương mẫu, nàng hỏi:
          - Có phải y tiềm ẩn, khống chế các quan trong triều đình không?
          - Đúng thế!
          Lão uống một hớp nước trà, rồi nói:
          - Đệ nhị đệ tử tên Đặng Trường. Y tiềm ẩn trong phái Đông-a. Mục đích ăn cắp di thư của phái này. Nhưng võ công phái Đông-a chép bằng thuật ngữ đặc biệt. Tuy y ăn cắp được, nhưng rút cuộc vẫn như không. Trong các đệ tử của lão phu, Đặng Trường tên ác độc nhất. Nghe nói dường như y bị bại lộ, bị bắt thì phải. Hà, công lực của y đâu phai tầm thường, không biết ai mà có bản lĩnh bắt sống y?
          Tự-Mai cười:
          - Lão tiên sinh bị tù lâu quá thành ra không biết gì về sự tiến hoá của võ học Đại-Việt. Đặng-Trường mưu giết tại hạ, nhưng không thành, y đấu võ với sư thúc tại hạ, bị người bắt sống.
          Nói rồi Tự-Mai thuật chi tiết diễn biến vụ Đặng Trường cho Nhật-Hồ nghe. Nhật-Hồ lão nhân nói với Tự-Mai:
          - Trần công tử. Công tử có thể diễn lại một vài chiêu võ công của Đặng Trường không? Ta không tin y bị bắt dễ dàng như vậy.
          Tự-Mai bảo Mỹ-Linh:
          - Chị Mỹ-Linh. Em làm sư thúc Trần Kiệt, chị làm Đặng Trường, chúng ta thử diễn lại một vài chiêu cho lão tiền bối thấy.
          Mỹ-Linh diễn lại những chiêu võ công của Đặng Trường. Còn Tự-Mai diễn lại những chiêu của Trần Kiệt. Cho đến chiêu cuối cùng, Đặng Trường ngã lăn ra, miệng ri rỉ chảy máu.
          Nhật-Hồ lão nhân cười:
          - Thiên-trường ngũ kiệt bị Đặng Trường lừa rồi. Nếu y dùng võ công Hồng-thiết giáo, không dễ gì Trần Kiệt thắng nổi. Vì vậy y dùng võ công Đông-a. Võ công Đông-a của y là võ công học lóm, sao bằng bản lĩnh chân thực?
          Tự-Mai kinh ngạc:
          - Tại sao y không dùng võ công chân thực, để đến nỗi bị bắt?
          Nhật-Hồ vuốt râu lắc đầu:
          - Các vị đây chưa ai hiểu Hồng-thiết giáo cả!
          Mỹ-Linh bật lên tiếng ái chà:
          - Tôi hiểu rồi. Đặng Trường biết rằng tung tích bị lộ. Nếu y dùng bản lĩnh chân thực đấu với sư thúc Trần Kiệt, ắt sư thúc phải dùng hết mười thành công lực. Dù y có thắng, ắt Thiên-trường ngũ kiệt cũng tìm cách bắt y. Bấy giờ, y khó tránh khỏi cái chết. Chi bằng giả thua, để bị bắt. Khi giải giao cho quan nha, y sẽ được đưa về Thăng-long. Trong thời gian đó, y tìm cách vượt ngục, hoặc thông tin cho đồng bọn cứu ra.
          - Đúng thế!
          Tạ Sơn kéo mọi người trở về thực tại:
          - Còn đệ tử thứ ba của tiên sinh tên gì. Hiện y ở đâu?
          - Y có tên là Lê Ba. Xuất thân làm thợ rèn. Y được lão phu thu làm đệ tử, cho quản trị giáo chúng vùng Thanh-hóa. Y ẩn thân trong phái Sài-sơn, theo dõi Hồng-Sơn đại phu từ lâu. Mục đích ăn cắp di thư Sài-sơn tên Thiên vương mật dụ. Sau cùng khống chế phái này, hầu nắm quyền chưởng môn.
          Vũ Thiếu-Nhung nói với Nhật-Hồ:
          - Anh lầm mất rồi? Trong Vạn-thảo sơn trang, không có ai tên Lê Ba cả. Em đâu có bị Lê Ba bắt giam? Em bị sư thúc Dương Ẩn bắt đấy chứ?
          Bà suýt bị chết ngộp, mới tỉnh nên đầu óc còn mơ hồ. Khi ở trong hàm đá, bà đã được biết Lê Ba chính là Dương Ẩn rồi, nhưng bây giờ bà quên mất.
          Bà nói với lão bằng giọng tha thiết như với người yêu.
          Trong lòng Thiếu-Nhung nổi lên một cơn bão tố. Suốt bốn năm qua, bà được giam chung với Nhật-Hồ. Một mặt bà phải phục thị lão như nữ tỳ. Một mặt bà ăn ở với lão như tình nhân. Hàng ngày lão hút nước tiểu, hàng tháng hút kinh huyết của bà để luyện công. Thế nhưng, những bí ẩn xung quanh bà, lão không hề hở môi. Hôm nay lão mới khai ra. Thế mà trong những năm chung sống, bà cứ tưởng lão thương yêu, sủng ái bà. Nào ngờ lão dùng bà như một thứ thuốc mà thôi, không tình, không nghĩa gì cả.
          Nhật-Hồ lão nhân nhìn Vũ Thiếu-Nhung, lão vuốt râu cười:
          - Y ẩn vào hang rồng mà dùng tên thực sao được? Y dùng tên giả. Y leo lên tới điạ vị khá cao trong phái Sài-sơn, cao hơn cả Hồng-Sơn đại phu. Trong môn phái, y đóng vai đạo đức, không tranh dành với ai. Nên ai cũng nể y.
          Vũ Thiếu-Nhung bật lên tiếng la lớn:
          - Không lẽ sư thúc Dương Ẩn?
          - Đúng thế.
          Đạo sư Dương Ẩn nổi danh đạo cao, đức trọng trong võ lâm. Ông thuộc vai sư thúc Hồng-Sơn đại phu. Quanh năm ông đóng cửa luyện võ, học thuốc cùng các học thuật khác. Ông ta không bao giờ tranh chấp với ai. Đối với đệ tử lớn, nhỏ, ông luôn tỏ vẻ từ ái, nói năng ngọt ngào. Chính Hồng-Sơn đại phu cũng kính nể ông ta bằng một thái độ đặc biệt.
          Vũ-thiếu-Nhung lắc đầu không tin:
          - Khó hiểu quá.
          Nhật-Hồ hừ một tiếng:
          - Có gì mà không hiểu. Khi sư phụ Hồng-Sơn qua đời, có hai người tranh chức chưởng môn với Lê Long-Mang. Nhưng Mang được Ẩn trợ giúp, nên thắng hai người kia. Sau khi Long-Mang lên nhậm chức, có lần Ẩn xin được coi cuốn sổ Thiên-vương mật dụ. Nào ngờ Long-Mang tuy nhớ ơn Ẩn, nhưng vẫn không thỏa mãn ước vọng của y. Bởi luật lệ phái Sài-sơn, cuốn sổ đó, chỉ chưởng môn mới được coi mà thôi.
          Lão ngừng lại nhìn Thiếu-Nhung:
          - Cho đến một đêm kia, y nhập mật thất định ăn cắp cuốn sổ đó. Em trông thấy tri hô lên. Y đánh em một chưởng nhẹ vào lưng. Lập tức em đau đớn như xé da, xé thịt. Bấy giờ tiếng la của em làm đệ tử trong phái đến đông bao vây. Y vội bỏ trốn. Từ đấy mỗi ngày em lên cơn một lần, đau đớn kể sao cho siết. Đến đêm thứ ba, Hồng-Sơn về. Y dùng hết khả năng y học cũng không trị được bệnh cho em. Một lần Hồng-sơn đi vắng, có người bịt mặt đến gặp em. Y xưng là người của Hồng-thiết giáo. Y cho biết em bị trúng Chu-sa Nhật-Hồ ngũ độc chưởng. Nếu em chỉ cho y chỗ cất sổ Thiên-vương mật dụ, y sẽ cho em thuốc giải. Em cương quyết từ chối, vì vậy đau đớn đúng bốn mươi chín ngày, rồi lúc ngất đi. Hồng-Sơn đại phu tưởng em chết, cho liệm vào áo quan. Đêm hôm đó, Lê Ba lén cậy nắp áo quan, đem em ra, thay vào đó bằng con chó bị giết chết, rồi đóng nắp quan tài như cũ.
          Tạ Sơn quay lại hỏi Thiếu-Nhung:
          - Phu nhân! Xin phu nhân cho biết sau đó sự thể ra sao?
          Thiếu-Nhung e thẹn, không muốn nói, nhưng bà biết sự thể không khai không được. Vì người chấp cung bà là chưởng quản Khu-mật-viện, đại diện Đại-Việt hoàng đế. Bà nghĩ thầm:
          - Đằng nào ta cũng ô danh, thất tiết rồi. Ta không còn mặt mũi nào về Vạn-thảo nhìn đệ tử nữa. Ta nói thực hết, hầu triều đình tru diệt bọn Hồng-thiết giáo.
          Nghĩ vậy, bà ngửng mặt lên nhìn Mỹ-Linh:
          - Khi tôi đau đớn quá, người mệt lả, thiếp đi. Trong lúc mê mê tỉnh tỉnh, tôi thấy con, đệ tử xúm xít bên cạnh khóc lóc. Sau đó đại phu trở về. Đại phu bắt mạch tôi, lắc đầu nói gì, tôi không nghe rõ. Rồi tôi bị khâm liệm, bỏ vào quan tài. Biết mình sắp bị chôn sống, tôi muốn gào thét lên mà mở miệng không ra. Tôi mê đi, khi tỉnh lại,thấy mình đang nằm trên dường. Cạnh dường, một thiếu phụ. Tôi hỏi thiếu phụ, tại sao tôi ở đây, thiếu phụ không trả lời.
          Nhật-Hồ vuốt chòm râu bạc:
          - Thế sau đó mấy ngày em bình phục?
          - Năm ngày sau.
          Mỹ-Linh không muốn cho Thiếu-Nhung phải khai đoạn bị cưỡng dâm trước mặt mọi người. Nàng hỏi Nhật-Hồ:
          - Tiên sinh! Đệ tử thứ tư của tiên sinh tên Hoàng Văn. Đệ tử thứ năm tên Nguyễn Chí. Phải chăng đệ tử thứ sáu tên Đỗ Xích-Thập? Thứ mười tên Hoàng Liên?
          Nhật-Hồ kinh ngạc:
          - Công-chúa, công-chúa biết cả rồi ư?
          Tạ-Sơn mỉm cười:
          - Chúng tôi đang muốn thỉnh tiên sinh về đệ tử thứ bẩy, tám, chín. Từ trước đến giờ Hồng-thiết giáo của tiên sinh hành sự thường bí mật, ít ai biết rõ.
          Nhật-Hồ hỏi ngược lại:
          - Lão phu có bắt buộc phải khai không? Nếu bắt buộc, hẳn lão phu đóng vai bị cáo. Lão phu bị cáo tội gì? Xưa nay có ba loại người dù phạm tội nào cũng được tha. Một, sau bẩy mươi tuổi. Hai, sau khi phạm tội mười năm. Ba, không biết mà phạm. Nay lão phu ở trong cả ba trường hợp. Lão phu xin từ chối trả lời.
          Đến đó có tiếng nói vọng vào:
          - Tiên sinh nói hay không tùy tiên sinh. So về tuổi tác, tiên sinh đã ở ngoài cái tuổi chịu hình. Bộ Hình-thư có trường hợp giảm khinh cho những người tuổi trên bẩy mươi. Nay tiên sinh đến tuổi một trăm, tội lỗi gì cũng không thể đem xử. Huống hồ tiên sinh bị giam đã hai mươi năm. Dù có phạm tội, là phạm tội với triều Lê. Chứ bấy giờ bản triều chưa lập.
          Mỹ-Linh nhận được tiếng Khai-Quốc vương, nàng đứng dậy ra đón vương. Vương từ ngoài vào cùng với Nùng-Sơn tử, Huệ-Sinh. Thấy Huệ-Sinh, lòng Mỹ-Linh ấm lại:
          - Sư phụ. Sư phụ tâm vẫn thường an lạc chứ?
          Huệ-Sinh cười chúm chím:
          - Sư phụ an, có an, mà lạc thì không. Bởi bỗng nhiên cô đệ tử Mỹ-Linh mất tích. Nào ngờ trong cái mất tích lại xuống ngục A-tỳ cứu mẫu thân như ngài Mục-Kiều-Liên.
          Khai-Quốc vương ôm đầu Mỹ-Linh vào ngực mình, tay bẹo má nàng:
          - Con gái chú giỏi quá.
          Nhật-Hồ lão nhân bị giam lâu ngày, lão không biết Khai-Quốc vương. Nhưng thấy tất cả mọi người đứng dậy hành lễ với Vương, lão biết Vương có địa vị không nhỏ. Lão cũng chắp tay xá một xá.
          Tạ Sơn, Mỹ-Linh trình bày mọi chi tiết với Huệ-Sinh, Khai-Quốc vương. Vương nói:
          - Sư huynh biết truyện này quan trọng, vội về đây giải quyết.
          Vương quay lại chỉ vào Huệ-Sinh, Mỹ-Linh ,nói với Nhật-Hồ lão nhân:
          - Lão tiên sinh! Tại hạ Lý Long-Bồ, đệ tử phái Tiêu-sơn. Vị này pháp danh Huệ-Sinh, sư phụ của tại hạ. Còn Mỹ-Linh là cháu gọi tại hạ bằng chú.
          Vương trịnh trọng đưa ra tấm danh thiếp:
          - Sắp tới ngày giỗ Bắc-bình vương Đào Kỳ, tiểu bối kính mời tiên sinh đến dự. Trước lễ ngài, sau chúng ta cùng bàn việc cứu nước. Bây giờ tiên sinh cần gặp chư đệ tử, xin tiên sinh cứ tự tiện.
          Vương bảo viên thị vệ hầu cận:
          - Người thay ta, chọn một con ngựa tốt tặng tiên sinh.
          Vương móc trong bọc ba nén vàng:
          - Lão tiên sinh từ trong ngục ra, tiền không có, quần áo rách hết rồi. Xin tiên sinh cầm ít bạc vụn để tiêu vặt.
          Nhật-Hồ cười, tay lão vuốt râu:
          - Đa tạ Vương-gia.
          Lão nói với Mỹ-Linh:
          - Đa tạ Công-chúa cứu lão. Lão nguyện báo đáp. Về những điều Công-chúa thẩm vấn, xin Công chúa cho lão phu nghỉ ngơi mấy ngày đã. Sau đó lão phu mới có thể nói được. Lão phu bị giam hai mươi năm nay, bây giờ mới thấy ánh sáng mặt trời.
          Lão chỉ Vũ Thiếu-Nhung:
          - Đối với Hồng-Sơn, coi như nàng đã chết. Lão phu cứu sống nàng. Nàng với lão phu thành vợ chồng trải hơn bốn năm, xin Công-chúa đừng bắt lão phu xa nàng.
          Mỹ-Linh lắc đầu:
          - Tiểu nữ cần hỏi phu nhân đây ít câu đã. Sau đó sẽ trả lời tiên sinh.
          Mỹ-Linh bảo một thị vệ:
          - Người đưa lão tiên sinh ra ngoài.
          Nhật-Hồ theo thị vệ ra ngoài.
          Tạ Sơn xướng:
          - Gọi Vũ Nhất-Trụ vào.
          Thị vệ áp giải Vũ Nhất-Trụ tới. Y chỉ mặt Tạ Sơn:
          - Tên họ Tạ kia. Mi lấy tư cách gì mà gông cổ ta như thế này? Cái chức Điện tiền chỉ huy sứ của mi so với ta chỉ bằng hạt vừng, hạt đậu. Mi hỗn láo với ta, phạm tội đại bất kính, toàn gia sẽ bị phanh thây.
          Tạ Sơn chỉ vào Mỹ-Linh:
          - Đàm quốc cữu. Tiểu tướng ở chức vị Điện tiền chỉ huy sứ, dĩ nhiên không đủ tư cách thẩm cung một vị Thái-phó, Đô nguyên soái, kiêm quốc cữu. Nhưng vị này, e thừa tư cách.
          Vũ Nhất-Trụ nhìn Mỹ-Linh, y nhận ra nàng cùng Thiệu-Thái đã qua lại mấy chiêu trong hầm Cổ-loa. Y hỏi:
          - Y thị là ai?
          - Là Công-chúa Bình-Dương.
          Vũ Nhất-Trụ nhăn mặt:
          - Công chúa Bình-Dương? Ta nghe con gái của Khai-Thiên vương tên Mỹ-Linh được phong Công-chúa Bình-Dương. Thị chỉ biết đọc sách, có đâu võ công cao như cô nương này.
          Vũ Nhất-Trụ chợt nhận ra khuôn mặt Mỹ-Linh hơi giống Khai-Thiên vương. Y hỏi:
          - Công-chúa điện hạ. Lão thần hiện giữ chức Đô nguyên soái, đóng vai Quốc cữu. Cháu ngoại của lão thần là em của Khai-Thiên vương, còn cao hơn công chúa một vai. Như vậy lão thần cao hơn Công-chúa đến ba bậc. Công-chúa gông đại thần như thế này đây? Theo luật bản triều, lão thần được hưởng Bát nghị. Ai được hưởng Bát nghị, không thể bị gông.
          Mỹ-Linh nghĩ đến Vương mẫu, nàng muốn biết ngay hiện tình ra sao, nên lời nói có vẻ khắt khe. Nghe Vũ Nhất-Trụ than, nàng trở về với bản tính hiền hậu, nhỏ nhẹ:
          - Đàm quốc cữu. Dường như khi soạn bộ Hình-thư, Quốc-cữu cũng dự thì phải. Bộ hình thư dự trù khoản Bát-nghị, đúng ra Quốc cữu được hưởng giảm khinh. Nhưng có ba tội không được giảm khinh là tạo phản, tư thông với ngoại quốc và đại nghịch bất đạo. Quốc-cữu thân làm đại thần, võ tới Đô nguyên soái, văn tới Thái phó. Con gái làm Quí phi. Con trai làm Tuyên-vũ-sứ. Toàn gia được hưởng hoàng ân. Thế mà Quốc-cữu lại qui phục bọn Hồng-thiết giáo. Hơn nữa Quốc-cữu bắt giam Vương-phi của Thái-tử. Quốc cữu phạm cả ba tội đại nghịch, còn khoan hồng ở chỗ nào được nữa?
          Vũ Nhất-Trụ thở dài:
          - Lão phu đã từng làm việc ở Khu-mật-viện. Theo luật bản triều chỉ có quan Thái úy mới được quyền thẩm cung lão phu.
          Mỹ-Linh chỉ Khai-Quốc vương:
          - Quốc cữu hãy quay lại sau, xem ai đây?
          Vũ Nhất-Trụ quay lại, thấy Khai-Quốc vương, y không còn hồn vía nào nữa. Y biết với vị Vương gia này, y không thể qua mặt được. Y thở dài, cúi mặt xuống.
          Mỹ-Linh nghĩ đến Vương-mẫu không biết sống chết ra sao, nàng hết lịch sự được nữa:
          - Trong hầm người đã nói với ta rằng người giam Vương-mẫu ta cùng phu nhân Thiên-trường đại hiệp. Vậy người giam ở đâu phải khai ra?
          - Nếu lão phu không khai thì sao?
          Tự-Mai quát lên:
          - Ta có cách!
          Vũ Nhất-Trụ thấy Tự-Mai tuổi còn nhỏ, bất quá mười lăm, mười sáu. Y khinh thường cười lên hô hố.
          Tự-Mai vọt người tới, tay nó điểm vào huyệt Bách-hội, Đại-trùy của Nhất-Trụ. Nhất-Trụ né mình tránh, nhưng y bị gông chân, tay, nên không thoát khỏi bàn tay Tự-Mai. Người y rung động một cái, rồi bật lên tiếng kêu ái. Y cảm thấy khắp người như bị hàng ngàn mũi kim đâm vào da thịt, đau đớn không bút nào tả xiết. Nhưng tính quật cường, y nghiến răng chịu đau.
          Nguyên lúc Thiệu-Thái ở trong hang đá với Bố-đại hoà thượng. Chàng thấy ông chĩa ngón tay chỏ dồn chân khí vào huyệt Bách-hội, Đại-trùy của Mỹ-Linh, khiến nàng khỏi đau đớn. Sau khi rời hang đá, chàng hỏi ngài tại sao điểm tay hai cái mà hết đau đớn. Ngài dạy:
          "Trong người con nhí nhiễm Chu-sa độc chưởng. Chu-sa độc chưởng phát xuất từ Hồng-thiết công, là thứ công lực ma quái. Muốn trừ ma công, phải dùng Thiền-công nhà Phật. Ta điểm ngón tay, dồn Thiền-công vào hai huyệt trên, bao nhiêu ma khí quanh huyệt bị hoá giải, cho nên khỏi bị đau”.
          Hồi nãy Thiệu-Thái rời Khu-mật-viện đi chầu thân mẫu. Tạ Sơn hỏi chàng phương pháp khống chế Nhất-Trụ. Thiệu-Thái ghé tai Tự-Mai dặn: Chỉ cần vận khí điểm vào huyệt Đại-trùy, Bách-hội, phân tán chân khí của y, lập tức y bị đau đớn. Quả nhiên bây giờ Nhất-Trụ giở quẻ. Tự-Mai đem ra áp dụng hữu hiệu.


          <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.01.2005 02:43:20 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9