Thuận Thiên Di Sử (từ hồi 21)
CDDLT 11.01.2005 18:05:44 (permalink)
Hồi thứ năm mươi mốt


Mưu Sâu, Chí Cả


Nguyên Vũ Nhất-Trụ đấu chưởng với Thiệu-Thái. Y dồn độc công hại chàng. Nhưng thiền công của chàng quá cao, thành ra chất độc chạy ngược trở lại người y. Nhật-Hồ lão nhân dùng tâm pháp trong Hồng-thiết kinh tạm giải cái đau cho y. Nhưng lão chỉ biết hoá giải chất độc do Hồng-thiết công, chứ không biết hoá giải chất độc do Thiền-công truyền sang. Vì vậy sau đó mấy khắc cơn bệnh tái phát. Thiệu-Thái đã điểm vào mấy huyệt bằng Thiền-công tạm phong bế cho y khỏi đau.
Bây giờ y bị Tự-Mai khai huyệt, cái đau đớn trở lại. Chịu được một lát, mồ hôi vã ra như tắm, y bật lên tiếng rên. Nhưng y vẫn ngậm miệng. Một lát chịu không nỗi, y lăn lộn mấy vòng rồi kêu lên:
- Tôi ... xin... nói..ói...ói.
- Mi giam vương phi Khai-thiên vương cùng phu nhân Thiên-trường đại hiệp ở đâu?
- Ở Ngọc-thụy. Lầu Ngọc-lan.
Mỹ-Linh run lên:
- Ngọc-thụy ở đâu?
- Trên bãi sông Hồng, trụ sở của Hồng-thiết giáo Thăng-long.
Câu trả lời của Vũ Nhất-Trụ làm Tạ-Sơn suy nghĩ về những biến cố trước đây. Nếu đúng như lời Nhất-Trụ khai, Hồng-thiết giáo quả có nhiều cơ sở mật ngay trong lòng Thăng-long. Bởi chủ nhân lầu Ngọc-lan cũng kiêm chủ nhân của tửu lầu Động-đình, nơi ăn chơi bậc nhất đế đô Đại-Việt.
Ngọc-thụy nằm trên một mỏm sông, nơi giao hội sông Hồng và sông Đuống. Giữa bãi Ngọc-thụy có một ngôi dinh thự kiến trúc từ thời vua Đinh. Chủ nhân là thân vương tên Đinh Điền. Khi Lê Hoàn tư thông với thái hậu Dương Vân-Nga. Đinh Điền cùng Nguyễn Bặc đem quân đánh. Giữa lúc trận chiến nghiêng về phía Đinh, Nguyễn thì hai người bị thái hậu giả gọi vào cung tưởng thưởng, rồi thình lình sai võ sĩ giết chết. Sau đó con cháu Đinh Điền bán dinh thự lại cho một phú gia. Phú gia trồng trong vườn toàn thứ Ngọc-lan, nên đổi thành Ngọc-lan đình. Chủ Ngọc-lan đình hiện thời làm chủ cả tửu lầu Động-đình.
Thời Lý kinh thành Thăng-long có bốn đại tửu lầu. Một tên Lạc-viên lâu ở phía Bắc hồ Tây, nay thuộc xã Phú-thượng. Một ở phía Nam hồ tên Nguyệt-quang lầu, nay thuộc xã Đông-thái. Một tên Long-biên anh hùng quán ở bờ sông Hồng nay thuộc xã Thanh-lương. Tử lầu thứ tư đặt trên con thuyền cực kỳ lớn, mang tên Động-đình tửu lâu. Thuyền có ba tầng. Tầng trên cùng có năm mươi bàn. Ở giữa đặt một cái đài bằng gỗ cao hơn trượng, để cho ca nhi lên đó đứng hát. Xung quanh đài, một cái quầy, bầy rượu, cây trái. Tầng dưới một nửa dùng làm nhà bếp, một nửa chia thành nhiều phòng để du khách mua hoa thưởng lãm. Tầng dưới cùng, dùng làm nhà kho, nơi lọc nước, chứa nứơc. Thông thường Tửu-lầu đậu ở bãi Ngọc-thụy. Nhưng cũng có khi di chuyển dọc theo sông. Cả hai cơ sở, do một văn nhân tên Trịnh Hồ làm chủ. Năm nay Trịnh Hồ, tuổi đã trên bẩy mươi lăm. Dáng người lão hơi mập, tóc chỉ mới đốm bạc. Lão không biết võ công, nhưng lại giao du với tất cả các võ phái. Chính phái như Tiêu-sơn, Đông-a, Mê-linh, Sài-sơn, Tản-viên, Tây-vu tuy có chỗ không đồng ý với nhau. Nhưng cùng giống nhau ở chỗ, họ đều là khách của tửu lầu Động-đình. Ngay cả những bang hội, phái võ nhỏ, hay bọn đầu trộm đuôi cướp, lão cũng thân quen hết. Lão lại rất hào phóng. Võ lâm anh hùng hắc bạch, thiếu tiền, ghé thăm lão, thế nào lão cũng tặng cho số bạc lớn. Vì vậy tiếng tăm lão lừng lẫy.
Đối với các thân vương, quan lại trong triều, gần như lão quen biết hết. Lão nuôi một lúc hơn trăm con gái thực xinh đẹp. Lão cho các cô mang tên Lan. Lan Thanh, Lan Hồng, Lan Phương, Lan Thúy... Vì vậy khách tiêu dao đặt cho các cô mỹ danh bách lan. Các nàng Lan rất kiêu kỳ. Không phải ai cũng được tiếp. Các nàng chỉ tiếp ba loại người. Thứ nhất phải có chức tước. Văn từ chức thiếu bảo. Võ từ chức thần tướng. Thứ nhì, phải thuộc giới tao nhân mặc khách, hào hoa phong nhã. Thứ ba phải có điạ vị trong võ lâm. Hễ không được tiếp thì thôi. Còn được tiếp, lại không phải trả tiền. Kể cả tiền cơm rượu.
Nhất-Trụ quay lại nói với Khai-quốc vương:
- Vương gia! Nếu vương gia không tưởng đến công lao của lão phu cũng tưởng đến Tây-cung quí phi... Ối... Ối...
Khai-quốc vương biết nếu mình can thiệp, khoan thứ cho Vũ Nhất-Trụ hôm nay, e không bao giờ Tạ Sơn dám thẳng tay với bọn phản nghịch. Vương nói với Nhất-Trụ:
- Cô gia muốn khoan miễn cho tiên sinh. Nhưng ngặt vì đây thuộc thẩm quyền của Tạ chỉ huy sứ.
Tạ Sơn là sư đệ của Khai-quốc vương, chàng hiểu sư huynh hơn ai hết. Sư huynh nói vậy như muốn bảo chàng đừng có nể vì. Chàng đưa mắt nhìn sư phụ, chỉ thấy người lơ đãng nhìn mây trắng trôi trên bầu trời xanh ngắt.
Vương nói với Mỹ-Linh:
- Phàm làm việc nước, không được vị tình riêng. Con gái nhớ không? Chú cho con câu này:
Thương anh tôi để trong lòng,
Việc quan tôi cứ phép công tôi làm.

Mỹ-Linh được chú cho thêm uy quyền, nàng cương quyết hơn:
- Quốc cữu còn giam ai nữa không?
- Còn, nhiều lắm, thần không nhớ rõ hết tên. Xin cứ đến Ngọc-lan đình mà tìm.
Tạ Sơn đứng dậy, tháo một cái gông bên phải cho Nhất-Trụ.
Mỹ-Linh tiếp:
- Quốc cữu vẽ bản đồ Ngọc-lan đình cho Khu-mật-viện. Tôi hứa sẽ tâu lên ông nội giảm khinh cho quốc cữu. Xin quốc cữu vẽ thực đúng cho.
Nhất-Trụ biết sự thể không đừng được, y cầm bút vẽ chi tiết bản đồ, cùng ghi chú mật hiệu của giáo chúng Hồng-thiết giáo Thăng-long.
Tự-Mai vận khí điểm vào huyệt Đại-trùy của Nhất-Trụ. Y bớt run rẩy. Nó hỏi tiếp:
- Tại trụ sở này, thường trực có bao nhiêu giáo chúng?
Nhất-Trụ rên lên mấy tiếng vì đau đớn, y run run:
- Xin cứu cho tôi khỏi đau, tôi mới nói.
Tạ Sơn vận khí điểm vào huyệt Bách-hội của y rồi hỏi:
- Hiện ai coi thành bộ Thăng-long?
- Cửu sư đệ Phạm Hổ.
- Trưởng lão Phạm Hổ à? Có phải y là Trịnh Hồ không?
- Đúng! Y giữ nhiệm vụ rất quan trọng, làm Chấp-pháp vương trong bản giáo.
Tạ Sơn thẩm vấn thực tỷ mỉ, từng đường, từng ngõ ngách, cùng mật khẩu của giáo chúng Hồng-thiết giáo vùng Thăng-long. Chàng kinh ngạc vô cùng, vì trụ sở của bọn gian, nằm ngay vùng Ngọc-thụy sát kinh thành Thăng-long, mà Khu-mật-viện không biết thì còn mặt mũi nào nhìn thiên hạ nữa?
Khi mới lên ngôi vua, Thuận-thiên hoàng đế cho thành lập Khu-mật-viện, đặt trực thuộc hoàng đế. Nhưng trên thực tế do quan Thái-úy, tổng đốc binh mã toàn quốc điều khiển. Khu-mật-viện có ba cơ quan lớn. Một coi về phương lược huấn luyện, hành quân. Cơ quan nay do binh bộ thượng thư đảm trách. Một coi về ngoại giao, nghiên cứu tình hình nước ngoài do lễ bộ thượng thư phụ trách. Một coi về tình báo quốc gia, do quản lĩnh Khu-mật-viện trông coi.
Trước đây phò mã Đào Cam-Mộc làm thái úy, tổng đốc binh mã toàn quốc. Vũ Nhất-Trụ quân hàm phó tiết-độ-sứ giữ chức vụ quản lĩnh Khu-mật-viện. Sau khi con gái Đàm Can tức Vũ Nhất-Trụ tên Đàm Thụy-Châu được tuyển làm quí phi. Y được đặc cách thăng làm thực thụ tiết độ sứ, quân hàm cao bậc nhì trong hàng võ quan. Đào Cam-Mộc với tư cách phò mã, khai quốc công thần. Quân hàm ông cao hơn Vũ Nhất-Trụ. Trong khi Nhất-Trụ có con gái làm quí phi, thành ra vai vế y cao hơn Đào Cam-Mộc đến hai bậc. Y thường hành sự coi thường lệnh của phò mã. Phò mã Đào Cam-Mộc tâu xin Thuận-Thiên hoàng đế cách chức y. Nhưng hoàng đế chỉ giảng hòa rồi bỏ qua.
Cho đến khi Khai-quốc vương thay thế phò mã Đào Cam-Mộc. Vương vốn nhiều mưu trí, nghĩ ra cách tâu xin thăng cấp cho Đàm Can. Quả nhiên Thuận-Thiên hoàng đế thăng y lên làm Đô nguyên soái, tức cấp bậc cao nhất của quan võ thời Lý. Sau đó vương tâu rằng y có tài văn võ kiêm toàn, đề bạt cho y kiêm chức quan văn. Y được phong làm thái phó. Đến đó, vương tâu rằng với tài của y, cấp bậc cao nhất trong quân, văn hàm bậc ba, xin giao cho chức vụ quan trọng hơn. Thuận-Thiên hoàng đế phong y làm tổng trấn thành Thăng-long. Tổng trấn Thăng-long thời bấy giờ, coi như chức vụ béo bở, nhiều bổng lộc nhất. Thuận-Thiên hoàng đế nghĩ tình y phò trợ lúc đầu, không nghi ngờ, chấp thuận ngay. Ngài tưởng như vậy để tỏ lòng biết ơn y.
Người ngoài nhìn vào cho rằng y được thăng cấp liên tiếp, nhưng trong lòng y không vui. Vì chức tổng trấn Thăng-long, sao bằng chức quản lĩnh Khu-mật-viện, kiêm điện tiền chỉ huy sứ? Nhưng y tuyệt không ngờ Khai-quốc vương đẩy y ra. Khai-quốc vương lập tức cử tướng chỉ huy đạo quân Ngự-long tên Tạ Sơn, sư đệ của vương làm quản lĩnh Khu-mật-viện.
Tạ Sơn xuất thân đệ tử phái Tiêu-Sơn, nơi phát xuất của hoàng đế. Sơn học nghiệp với đại sư Huệ-Sinh, tức sư điệt của hoàng đế. Sư đệ của Khai-quốc vương. Nhờ thế lực sư môn, dù quân hàm của Tạ Sơn tuy nhỏ, nhưng chàng dám làm tất cả mọi truyện, vì chàng tự tin vào lòng trung thành của mình với Đại-Việt. Từ lúc ngồi vào chức vụ quản lĩnh Khu-mật viện, điện tiền chỉ huy sứ, chàng cùng Khai-quốc vương thay đổi hoàn toàn hệ thống tình báo. Có thể nói, nhất cử, nhất động của triều Tống, Chiêm, Lào, Xiêm, Đại-lý, Chân-lạp, chàng biết hết. Tuy nhiên vẫn còn một mớ luộm thuộm, chàng chưa kịp chỉnh lại là vấn đề Hồng-thiết giáo.
Trong Khu-mật-viện, tàng trữ tài liêu của Hồng-thiết giáo, do... Vũ Nhất-Trụ soạn thảo. Tài liệu đều nói rằng giáo phái này đã cải tà qui chính, không tranh dành quyền với triều đình. Nào Nhật-Hồ lão nhân qua đời rồi mà dân chúng còn thờ kính, thì Hồng-thiết giáo được lòng dân, chẳng nên truy lùng giáo chúng.
Bây giờ nảy ra, y chính là đại đệ tử của Nhật-Hồ lão nhân, thống lĩnh giáo chúng. Vì vậy những tài liệu của Khu-mật viện về Hồng-thiết giáo không thể có một nét nào tin được.
Tạ Sơn đã biết trụ sở này rồi. Chàng nói với Khai-quốc vương:
- Sư huynh, xin sư huynh quyết định.
Ý Tạ Sơn muốn Khai-quốc vương ban lệnh, vì hiện thời Nhất-Trụ vẫn còn giữ chức tổng trấn Thăng-long. Chàng không thể điều động quân mã trong thành này được. Khai-quốc vương hô:
- Tất cả quì gối nghe chiếu chỉ.
Ngoại trừ Huệ-Sinh, sư huynh của hoàng đế. Ông được miễn hết lễ nghi triều đình, mọi người đều quì gối nghe chiếu chỉ. Khai-quốc vương lấy trong bọc ra một trục giấy, vương đọc:
Thừa thiên hưng vận,
Đại-Việt hoàng đế chiếu rằng:
Điện-tiền chỉ huy sứ Tạ Sơn trong năm qua lập được nhiều công trạng chống tế tác ngoại bang. Mới đây lại lập đại công chống phỉ tặc, khám phá ra âm mưu tạo phản. Công ấy thực đáng lao tưởng. Nay đặc cách thăng lên làm Tiết độ sứ, chưởng quản Khu-mật-viện, kiêm tổng trấn Thăng-long.
Thuận-thiên năm thứ mười bẩy, tháng tám, ngày mồng năm.
Khâm thử.

Tạ Sơn hướng về điện Càn-nguyên lạy tạ. Mọi người đều chúc mừng chàng. Chàng nghĩ thầm:
- Ta tuy có công thực, nhưng sở dĩ được trao chức vụ tín cẩn vì ta học nghiệp với sư huynh hoàng đế. Ta lại là sư đệ của Khai-quốc vương. Tất cả những gì ta có do sư phụ.
Chàng đến trước sư phụ quì gối:
- Sư phụ, đệ tử muôn vàn cảm tạ công đức giáo hoá của sư phụ.
Huệ-Sinh phất tay, không cho chàng quì:
- Con đang hưởng quả đẹp, hãy cố gieo nhân tốt hơn nữa đi.
- Đa tạ sư phụ dạy dỗ.
Vũ Nhất-Trụ nhìn Khai-quốc vương, nghĩ thầm:
- Hồng-thiết giáo của ta nổi tiếng mưu mẹo, xảo trá, thế mà cũng không qua mặt tên Lý Long-Bồ này. Ta mới bị bắt đây, mà y đã thủ sẵn chiếu chỉ thăng cấp cho Tạ Sơn, lại đề bạt y kiêm tổng trấn Thăng-long, như vậy hoàng đế ắt biết tội ta rồi. Làm sao bây giờ?
Tôn Đản hỏi Khai-quốc vương:
- Sư huynh! Sư huynh cũng phong cho bọn em mỗi người một chức đi.
Khai-quốc vương cười. Ông vỗ vai Tôn Đản:
- Đản ơi sao dại vậy? Nếu phong chức, bất quá em làm đội trưởng là cùng. Sao bằng để vậy, anh là em. Em là anh, có phải oai không?
Tôn Đản cười gật đầu.
Vương tiếp:
- Bây giờ bàn kế cứu người. Các em tính sao?
Tạ Sơn phất tay, một viên đô thống ra khỏi phòng họp, lát sau y mang vào mấy cuốn trục. Tạ Sơn vẫy các sư đệ lại bên chàng, rồi mở cuốn trục ra. Trong cuốn trục vẽ bản đồ khu Bắc hồ Tây. Chàng chỉ lên bản đồ:
- Đây chúng ta đang ở chỗ này. Ra khỏi thành, chúng ta đi về phía bờ sông Hồng. Qua bến Tiềm-long tới bến Ngoạ-long rồi rẽ vào phường hàng hoa. Qua phường hàng hoa tới phường hàng bát. Phường hàng bát nằm cạnh bờ hồ. Men theo hồ Tây đến bến đò Tứ-liên. Bên kia Tứ-liên thuộc Ngọc-thụy. Tửu lầu Động-đình hiện đậu ở bãi Ngọc-thụy.
Chàng chỉ lên bờ hồ phía Đông:
- Hiện phía Bằc hồ do chư vị đệ tử phái Sài-sơn về dự lễ, đang đóng ở đây. Chúng ta mang giáp sĩ đến trụ sở của Hồng-thiết giáo thành bộ Thăng-long phải qua bờ phía Đông, nơi phái Sài-sơn cắm trại. Ta sợ, phái này thấy giáp sĩ, lại cho rằng chúng ta đến tấn công họ, e có sự hiểu lầm. Còn đi vòng theo phía Tây, ắt gặp chỗ cắm trại của đám họ Nùng. Làm sao bây giờ? Ta muốn mọi việc âm thầm, kín đáo, hơn rầm rộ.
Hà Thiện-Lãm dơ tay xin nói:
- Từ khi đức kim thượng ban luật đại xá. Hồng-thiết giáo công khai hoạt động. Bên trong chúng làm bậy. Bên ngoài chúng giả tôn trọng luật pháp. Bây giờ đem quân vây trụ sở của chúng. Chúng sẽ đặt vấn đề, lôi thôi lắm. Thứ nhì Ngọc-lan, Động-đình được quản trị bới Trịnh Hồ. Bấy lâu nay y giao dịch ban ơn rộng rãi khắp triều đình, võ lâm, danh sĩ. Ta đem quân vây, cứu được người tù đương nhiên không ai nói gì. Vạn nhất, không cứu được ai, thực rắc rối to. Phải có kế sách nào vẹn toàn hơn dùng giáp sĩ.
Lê Thuận-Tông bàn:
- Đem quân vây Ngọc-lan, Động-đình, làm cỏ bọn chúng, không có gì khó. Em đề nghị: Anh hai để bọn em làm. Bọn em âm thầm đột nhập dò thám. Lỡ ra chúng khiếu nại, anh bảo việc này do đám trẻ nít phá phách, Khu-mật viện vô trách nhiệm. Nếu cứu được người ra càng tốt. Bằng không cứ để vậy. Đợi đúng lúc bọn Hồng-thiết giáo kéo đại lực lượng dự lễ Bắc-bình vương. Trụ sở không còn cao thủ. Ta cho người đột nhập cứu ra. Bấy giờ có đủ bằng cớ, ta đem quân vây bắt, không ai nói gì được nữa.
Viên đô thống đề nghị:
- Theo tiểu tướng, chúng ta nên khẩn cấp tâu lên thiên tử, Khai-thiên vương, báo cho phái Đông-a, Sài-sơn biết, để tất cả cùng ra tay diệt trừ bọn chúng.
Mỹ-Linh lắc đầu. Nàng đã thấy Vũ Thiếu-Nhung, Chu Vân-Nga, thân tàn, ma dại, chắc chắn vương mẫu cũng như mẹ của Tự-Mai cũng không hơn. Bây giờ tâu lên ông nội, đương nhiên việc giải cứu dễ dàng. Nhưng trước mặt mọi người, vương mẫu nàng thân thể ra thế ấy, e phụ vương nàng khó giữ nổi cái địa vị thái tử. Anh em nàng cũng mất hết địa vị công chúa, thế tử, quận chúa. Hai vị Thái-sơn Bắc-đẩu võ lâm Tự-An, Hồng-Sơn chắc gì đã vui lòng khi thấy vợ họ bị làm xấu như vậy?
Tạ Sơn hiểu ý Mỹ-Linh. Chàng gật đầu:
- Chúng ta cần làm cho bí mật. Bây giờ đã giờ Dậu, trời tối rồi. Chúng ta phải hành sự cho mau. Nếu trễ, e chúng di chuyển tù nhân đi chỗ khác mất. Bọn Tống cũng như bọn Nhật-Hồ đang mưu quấy phá trong ngày giỗ Bắc-bình vương. Ta cứu hai vị này ra, làm nhân chứng quan trọng. Sư huynh phải ứng trực, vậy công chúa với Tự-Mai đi được rồi. Nhưng còn vấn đề giáp sĩ?
Tôn Đản cười khúc khích:
- Em có kế , nhưng phải cho em đi, em mới nói.
Mỹ-Linh cốc vào đầu Tôn Đản:
- Em với chị tuy hai, mà một. Bất cứ em muốn gì, chị cũng ừ hết. Kế của em ra sao?
- Này nhé, chúng ta đã có bà Lâm Huệ-Phương cầm ô che nắng che mưa ở phái Sài-Sơn. Bà lại thương yêu chị Mỹ-Linh. Bây giờ chị Mỹ-Linh sắm sửa một lễ tới thăm bà. Việc một công chúa ngàn vàng, có trăm giáp sĩ hộ tống không ai ngạc nhiên gì cả. Sau khi thăm bà, ta dẫn giáp sĩ vượt sông bao vây Ngọc-thụy, ắt không ai nghi ngờ. Ngoài ra ta cho thủy quân tuần tiễu trên sông, thình lình bao vây tửu lầu Động-đình. Trong khi đó cho một đoàn thị vệ giả làm thực khách lên lầu ăn uống.
Nghe Tôn Đản hiến kế, Mỹ-Linh mừng lắm, đưa mắt nhìn Khai-quốc vương. Vương vẫy Tôn Đản:
- Em có nhiều mưu kế hay đấy. Sư huynh đã chuẩn bị hai mâm lễ vật tạ ơn đại phu cứu cháu, mà chưa mang đi. Các em cứ hành sự. Ta ngồi xem.
Tạ Sơn viết lệnh, sai người đem đi, chỉ lát sau ba viên võ quan đến trình diện. Viên chỉ huy đội thị vệ tên Hà Việt. Viên chỉ huy thủy đội thị vệ tên Chu Hải. Viên chỉ huy thiết kị tên Nguyễn Duệ.
Tạ Sơn ra lệnh:
- Hai vị đội trưởng đem quân theo công chúa thi hành một mật lệnh. Hai vị phải dặn dò binh sĩ trong khi đi đường cũng như sau khi chấm dứt nhiệm vụ. Bất cứ ai hở môi tiết lộ ra, tất cả đều bị xử tử, không cần biết ai oan ai không.
Những viên thị vệ Hoàng-cung, đều có võ công cao cường, được huấn luyện cực kỳ chu đáo về tác chiến, trinh sát. Theo quan chế nhà Lý, thì thị vệ lĩnh lương bổng như đội trưởng. Khi về hưu, họ được ngồi ngang với lý trưởng.
Vua Lý Thái-tổ xuất thân giữ chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ của triều Lê, tức trực tiếp thống lĩnh thị vệ, cấm quân. Chính nhà vua huấn luyện ra đám thị vệ này. Từ ngày Khai-quốc vương giữ chức thái-úy, vương chú tâm đặc biệt đến họ. Hàng ngày cứ một nửa làm việc, một nửa phải luyện võ, cùng học thêm về trinh sát. Họ tự biết, vị vương gia này rất thương yêu họ, nhưng cũng cực kỳ nghiêm khắc khi họ phạm lỗi. Nay họ nhận lệnh mật khẩn cấp, nên tự biết việc không thể chểnh mảng.
Tạ Sơn tiếp:
- Chu Hải dẫn thủy đội xuôi giòng, làm như tuần tiễu, rồi thình lình bao vây tửu lầu Động-đình. Tuyệt đối không được khai chiến. Bất cứ ai đến, hay ra khỏi, phải theo dõi. Sau đó cho thuyền tuần tiễu dọc sông. Nhớ coi chừng, đừng ngộ nhận với người của công chúa. Tôi sẽ sai hai chim ưng trên trời tuần tiễu. Nếu có biến cố gì, chúng báo cho. Nhất nhất tuân lệnh công chúa.
Tạ Sơn ra lệnh cho Hà Việt:
- Anh dẫn trăm thị vệ, giả làm dân chúng, qua sông Hồng, tiến về Ngọc-thụy bao vây mỏm sông, sẵn sàng chờ lệnh công chúa. Mỗi hành động cần cẩn thận, tránh ngộ nhận với võ lâm.
Chu Hải hỏi:
- Hôm nay là ngày tám, sắp đại hội võ lâm, ắt tửu lầu đông khách lắm. Tôi sợ theo dõi không hết.
- Tướng quân chỉ theo dõi ở tửu lầu, cùng trên mặt sông thôi. Những thuyền đưa khách từ bờ bên này sang Ngọc-thụy đều là người của ta, không cần theo dõi.
Tạ Sơn lấy ra một hộp nhỏ, chàng trao cho Hà Việt:
- Trong hộp này có hơn trăm sợi dây đỏ. Mỗi thị vệ phải thắt một cái dây vào cúc áo cổ, để dễ nhận nhau.
Chàng bảo Nguyễn Duệ:
- Người mang đội thiết kị theo hầu công chúa.
Lý Long ban chỉ thị:
- Ba vị tướng quân cần án binh bất động, để mặc cho công chúa Bình-dương hành động. Nhất thiết tránh đổ máu, tránh ồn ào. Càng bí mật càng tốt.
Chàng bảo Mỹ-Linh:
- Lần đầu tiên chú cho cháu hành sự một mình. Khi cháu lên đường, chú đã báo cho Thanh-Mai, Bảo-Hòa, Thiệu-Thái rồi. Nếu ba người có thời giờ, sẽ đến tiếp ứng. Thôi chú chúc cháu may mắn. Nhớ đừng để thua công chúa Gia-hưng Trần Quốc.
Cháng gọi Tự-Mai đến bên cạnh dặn dò nó một lúc lâu. Tự-Mai vỗ ngực:
- Anh cả yên tâm. Em sẽ làm tròn bổn phận.
Mỹ-Linh dẫn Tự-An, Tôn Đản đem theo hai mâm bánh, trái, dẫn trăm thiết kị, xuất ra cửa Tường-phù, men theo bờ sông Hồng mà đi. Đi một lát, trước mặt hiện ra khu trại đóng dọc bờ sông. Ngoài cửa trại canh gác nghiêm mật. Mỹ-Linh lệnh thiết kị dừng lại, rồi sai một cung nữ tới nói với người canh cửa:
- Xin nhân huynh vào trình với phu nhân Hồng-Sơn đại phu rằng có công chúa Bình-dương đến dâng lễ tạ.
Đối với võ lâm địa vị Hồng-Sơn đại phu cao hơn Mỹ-Linh nhiều. Còn đối với quan quyền, Hồng-Sơn đại phu chỉ là một thầy thuốc dân gian. Thầy thuốc trị bệnh cho công chúa, sau đó được ban thưởng thực hân hạnh lắm rồi. Thế mà cô cung nữ nói Công chúa dâng lễ tạ như thế tỏ ra coi trọng Hồng-Sơn đại phu cực kỳ.
Một lát Lâm Huệ-Phương cùng Lê Văn, Thiếu-Mai ra cửa. Mỹ-Linh xuống ngựa nói lớn:
- Đa tạ đại phu cứu mạng cho sư tỷ Thanh-Mai cùng thế tử Thiệu-Thái. Khai-quốc vương cử tôi tới đây dâng lễ tạ.
Huệ-Phương tuy thân với Mỹ-Linh, vì nàng suýt trở thành vương phi Khai-Quốc vương. Vương nuôi Mỹ-Linh làm con. Trong thâm tâm nàng coi Mỹ-Linh như người dưới vai. Nhưng bây giờ giữa chốn ba quân, nàng phải giữ lễ:
- Đa tạ vương gia. Y đạo Đại-Việt dạy cứu người không đòi thù lao. Thực không dám phiền ngọc thể công chúa điện hạ. Kính mời công chúa giá lâm.
Mỹ-Linh ra lệnh cho Nguyễn-Duệ:
- Người cùng anh em ở ngoài này.
Nàng vẫy Tự-Mai, Tôn Đản theo Huệ-Phương vào trong trại. Tới căn lều lớn, Huệ-Phương mời Mỹ-Linh vào. Mỹ-Linh truyền để hai mâm lễ lên bàn, rồi cho cung nữ ra ngoài. Huệ-Phương sai đóng cửa lều lại. Nàng nắm tay Mỹ-Linh:
- Công chúa! Có việc gì đây?
Mỹ-Linh nghĩ thầm :
- Chú hai thường nói, Huệ-Phương đáng mặt tri kỷ của chú hai. Bất cứ chú hai làm việc gì, nàng cũng hiểu hết. Vì vậy, nàng không khách sáo, hỏi ngay vào vấn đề.
Mỹ-Linh nói nhỏ:
- Khu-mật-viện vừa tìm được tung tích bọn Hồng-thiết giáo, vì vậy chú hai sai tôi đi bắt về. Ngặt vì trên đường đi, phải qua khu đóng trại của quý phái. Xin phu nhân giúp cho.
Huệ-Phương cảm động:
- Đúng ra, triều đình muốn mang quân đi đâu, chúng tôi phải tránh đường. Khu-mật-viện hành động như thế này, thực quá tế nhị. Công chúa cứ việc đem thiết kỵ đi qua, tôi hứa không có gì hiểu lầm xẩy ra.
Tự-Mai hỏi Lê Văn:
- Sư huynh! Sư bá đâu?
Lê Văn thấy một thiếu niên tuổi ngang mình, lại gọi mình là sư huynh. Nó bỡ ngỡ hỏi Mỹ-Linh:
- Bà chị xinh đẹp. Anh này có phải phe đảng bọn phá trời như em không?
Mỹ-Linh nhoẻn miệng cười, hàm răng nàng trắng đều, ánh mắt long lanh:
- Cũng con giòng cháu giống như em. Cũng mất mẹ, rồi gặp bà dì ghẻ vừa ngu vừa đần, vừa ác độc. Bây giờ cũng mới gặp bà kế mẫu đẹp như tiên nga.
Lê Văn bật cười:
- À anh tên Tự-Mai đấy hả? Đệ nghe chị Thanh-Mai, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh nói đến anh hoài. Hôm nay mới được thấy dung nhan.
Lê Văn nắm tay Tự-Mai. Hai thiếu niên ngang tuổi nhau, vốn nghe tiếng nhau, bây giờ mới gặp nhau. Họ thân với nhau ngay.
Tự-Mai nghĩ đến việc đi cứu mẹ mình, không biết sống chết ra sao. Còn Lê Văn, mẹ đang ở trong phủ Khai-quốc vương. Nó nhớ đến lúc sắp ra đi, Khai-quốc vương dặn nó một điều quan trọng, nó nói với Lê Văn:
- Sư huynh! Tôi mới học được thuật cải tử hoàn sinh. Tôi có thể cải tử hoàn sinh cho bất cứ người nào, dù chết lâu hay mới chết. Trong buổi diện kiến, nếu sư huynh muốn tôi hoàn sinh cho ai, tôi sẽ làm.
Có tiếng trầm trầm:
- Nếu cháu làm được việc đó thì cháu là phật bà Quan-âm rồi.
Hồng-Sơn đại phu vào lều. Mọi người hành lễ. Huệ-Phương chỉ lễ vật:
- Khai-quốc vương sai công chúa Bình-dương đến tạ đại phu đấy!
Hồng-Sơn đại phu vuốt râu cười khoan hoà:
- Lý Công-Uẩn tài đến đâu ta không biết, nhưng ít ra cũng sinh đươc ba người con đại quí. Một là vợ Đào Cam-Mộc, hai là vợ Thân Thừa-Quí ba là Khai-quốc vương. Người ta thường ca tụng rằng : « Ai chưa gặp Khai-Quốc vương đừng vội xưng anh hùng. » Cứ xét vụ này thì thấy. Y quả khôn ngoan có thừa. Bất đắc dĩ, ta phải chống đối y thực đáng buồn.
Đại phu chỉ Tự-Mai:
- Cháu học được thuật cải tử hoàn sinh ở đâu?
Tự-Mai nhìn Mỹ-Linh:
- Chị cháu có thể cải tử hoàn sinh cho người chết oan. Còn người chết già, cũng bó tay. Khổ một điều, trong đời người chỉ cải tử hoàn sinh cho một hồn. Cháu cũng thế.
Hồng-Sơn đại phu là người cực kỳ thông minh. Ông thấy lời nói của Tự-Mai như bao hàm những điều bí ẩn gì. Trong khi Tự-Mai nói, Mỹ-Linh ngơ ngác như không hiểu. Ông hỏi thẳng Mỹ-Linh:
- Công chúa! Ai dạy công chúa với Tự-Mai thuật đó?
Quả nhiên Mỹ-Linh luống cuống. Tự-Mai đáp thay:
- Sư phụ chúng cháu ẩn trên núi Tản-viên. Lão nhân gia chưa từng xuất hiện. Vì vậy sư bá không biết đâu.
Hồng-Sơn đại phu hiểu ngay. Ông nghĩ thầm:
- Lý Long-Bồ biết ta còn phẫn uất vụ vợ ta chết, ta bó tay. Nay dường như y nhờ Tự-Mai nhắn với ta rằng y có thể giải cái uất hận ấy. Nên Mỹ-Linh ngơ ngác quả không sai. Được! Ta thử dò xem.
Ông hỏi Tự-Mai:
- Ta muốn đánh cuộc với sư huynh cháu. Ta nghĩ, cháu với công chúa không đủ bản lĩnh làm việc đó. Nếu hai cháu làm được, ta chịu tuân theo ba điều do Lý-Long đưa ra. Còn hai cháu không làm nổi, Ly-Long cũng phải làm ba điều do ta đưa ra.
Tự-Mai cười:
- Vâng, cháu sẽ nói với sư huynh.
Hồng-Sơn đại phu tiếp:
- Nếu đúng như lời Tự-Mai nói. Hai cháu hoàn sinh cho mẹ Lê Văn, cháu muốn ta phải làm gì?
Mỹ-Linh vốn đọc sách nhiều, nàng nắm lấy cơ hội:
- Tiểu nữ xin tiên sinh làm cho ba điều, miễn ba điều đó không phạm luật, không hại nước, không trái đạo lý.
Hồng-Sơn đại phu chỉ tay lên trời:
- Nếu đúng như thế, lão phu nguyện tuân mệnh lệnh công chúa.
Tay ông móc trong túi ra ba tượng Phù-Đổng Thiên-vương nhỏ bằng vàng trao cho Mỹ-Linh:
- Công chúa cầm lấy, coi như tín vật. Bao giờ công chúa cho ta gặp vợ cũ của ta?
Mỹ-Linh đáp:
- Nội trong hai ngày.
Hồng-Sơn đứng lên tiễn khách.
Mỹ-Linh, Tự-Mai, Tôn Đản vẫy tay cho Nguyễn Duệ đem thiết kị lên đường. Tới Nhật-tân, Nguyễn Duệ cho quân dàn ra bên bờ sông. Còn Mỹ-Linh giả trai, cùng Tự-Mai, Tôn Đản đến bến đò Tứ-liên sang sông. Đứng bên bờ sông Hồng nhìn sang bên kia nơi con thuyền dùng làm tửu lầu Động-đình đậu. Mỹ-Linh, Tự-Mai rộn lên trong lòng. Hai người cùng nghĩ như nhau:
- Không biết mẹ ta bị giam ở tửu lầu Động-đình hay Ngọc-lan đình?
Thấy người chèo đò rước khách, trên cúc áo có sợi dây đỏ, biết họ làm việc cho Khu-mật-viện. Mỹ-Linh an tâm.
Thiếu nữ chèo đò nói bâng quơ:
- Ai đi đò, phải trả tiền bằng hoa lan. Muốn trả mấy bông?
Tự-Mai nghe mật khẩu, nó biết người đưa đò muốn biết đẳng cấp của ba chị em nó. Nó đáp:
- Chỉ có ba bông mận mà thôi.
Mận tiếng Hán-Việt là Lý. Tự-Mai muốn cho họ biết Mỹ-Linh thuộc hoàng thân, quốc thích, so với hoàng đế thuộc đời thứ ba. Cô lái đò mỉm cười, cất tiếng hát véo von. Thuyền ra giữa sông, cô lái đò nói sẽ:
- Bọn chúng đang ăn uống ở tửu lầu Động-đình, sau đó về Ngọc-lan đình. Phải cẩn thận đấy.
Thay vì đưa ba người đến tửu lầu Động-đình, cô đưa đến bãi lau sậy cách đó mấy dặm. Cô cất tiếng ngâm sa mạc:
Hỡi anh đi đường cái quan,
Dừng chân đứng lại, em than đôi lời.
Lập tức trong bụi lau có tiếng hú như cú kêu, rồi một người dơ tay vẫy. Cô lái đò nói:
- Lên bờ đi thôi.
Mỹ-Linh nhún chân vọt người lên bờ. Tự-Mai, Tôn Đản tung mình theo. Ba người đáp xuống nhẹ nhàng. Người dẫn đường là một thiếu nữ. Cô đưa ra ba bộ quần áo mầu hồng:
- Ba vị thay quần áo đi, phải giả làm giáo chúng Hồng-thiết giáo mới vào Ngọc-lan đình được. Không biết các vị có công tác gì?
Mỹ-Linh nói nhỏ:
- Chúng tôi phải cứu tất cả những người bị giam tại Ngọc-lan đình. Trong đó có bao nhiêu người bị tù?
- Nhiều lắm, nay thêm người tới, mai đem người đi. Ba vị cứu bằng cách nào? Tôi e không dễ đâu. Hiện các đại ma đầu tụ về đây cả. Bản lĩnh chúng cao thâm khôn lường. Tôi không được phép nói truyện với tù nhân, vì phải có lệnh của Vũ Nhất-Trụ mới được tiếp xúc với những người đó.
Ba người vào bụi lau thay quần áo. Thiếu nữ dẫn đường cười:
- Bây giờ các vị tự nhiên vào Ngọc-lan đình. Hồi chiều giáo chúng ở đây bị đưa đi nơi khác, thay thế bằng giáo chúng ở nhiều nơi đến. Nhân lúc hỗn độn, không ai nhận được ai, chúng ta tha hồ tung hoành.
Thiếu nữ nói:
- Tôi tên Lan-Hương. Còn ba vị tên Ngọc-Phúc, Ngọc-Đức, Ngọc-Hiền. Nhớ lấy.
Bốn người khoan thai theo cổng sau vào trong dình Ngọc-lan. Đình Ngọc-lan nằm giữa khu vườn rộng hơn ba mẫu. Trong vườn trồng toàn một thứ lan. Đình chia làm hai ngôi nhà vuông vức, cao ba tầng. Giữa hai ngôi nhà nối với nhau bằng một cây cầu gỗ, trên có lợp ngói xanh. Tường quét vôi trắng. Bốn bên đều có bậc thang lên lầu. Xung quanh lầu chính, có bốn dẫy nhà phụ, mỗi dẫy dài đến mười gian.
Tên giáo đồ gác cổng thấy Lan-Hương đi với ba người, y hỏi:
- Lan-Hương! Ba vị này từ đâu tới?
- Từ Tây-hồ đến thay thế hầu hạ buổi tiệc đêm nay.
Lan-Hương dẫn ba người vào một căn phòng thuộc dẫy nhà ngang, rồi đóng cửa lại:
- Hôm nay mồng tám, giáo chúng kéo nhau ra tửu lầu Động-đình ăn uống. Còn bọn đại ma đầu sẽ họp ở ngôi nhà bên cạnh đây. Ngôi nhà này có hai đường đi tới. Một đường từ bờ sông vào. Đường này các vị không đi được, vì chúng canh gác rất cẩn thận. Còn đường thứ nhì đi bằng đường hầm từ góc Đông căn đình. Ba vị cần thuộc hết đường đất trong trang mới được.
Nàng lấy trong ngăn tủ ra tấm bản đồ:
- Ngọc-lan đình có ba tầng. Tầng dưới gồm phòng họp rất lớn, và tám phòng nhỏ. Trên lầu nhất, chỉ có một phòng họp lớn. Trên lầu hai chia thành nhiều phòng để cho khách quí tới hành lạc với các Lan nữ. Còn những bí mật đều ở sâu dưới dất. Trong tám phòng dưới nhà, đếu có cửa thông với tám đường hầm, đi tám ngả. Các ngả khác tôi cũng không biết rõ. Tôi chỉ biết có ngả Đông, thông sang mật thất, nơi họ luyện công. Khu mật thất này gồm một căn nhà bằng gỗ trắc rất đẹp. Phía trước có cái hồ. Trên hồ tọa lạc căn thủy tạ.
Mỹ-Linh hỏi:
- Hiện trong các lầu có ai canh gác không?
- Không, trụ sở này mật mà lại hở. Mật vì chứa biết bao trọng yếu của Hồng-thiết giáo. Còn hở lại dùng vào việc ăn chơi, trác táng. Quan quân ít để ý tới.
Tự-Mai dặn Lan-Hương:
- Chị nhớ nhé, lỡ chúng tôi bại lộ, chị chối biến, coi như không biết chúng tôi. Như vậy an ninh cho chị hơn. Thôi chị ở lại.
Ba người ra khỏi phòng Lan-Hương, nhìn trước, nhìn sau không có ai, Tự-Mai lao mình vào ngôi nhà thứ nhất. Nó vận sức đẩy cửa. Cánh cửa mở ra. Bên trong, một phòng khá lớn. Giữa phòng lấp lánh cái hồ nước rộng đến hơn ba trượng (6m ngày nay). Trong hồ, một ngọn giả sơn cao hơn đầu người. Trên giả sơn có năm sáu con chim đủ loại, phơi khô, trông giống như chim sống.
Sau cái hồ đến bức bình phong bằng gỗ sơn mài khảm xà cừ mai, lan, cúc, trúc. Ngay phía cửa trước, hai tấm da hổ khô, nhồi bông, đặt trong tư thế mằm giống hệt hổ thực.
Trên tường treo rất nhiều bức danh họa Hoa-Việt. Từ phòng khách lớn, có tám cái cửa bằng gỗ lim không biết thông ra đâu..
Tôn Đản bàn:
- Chúng ta cùng mở cửa Đông đi vào. Như Lan-Hương nói, sau cửa có đường hầm.
Tự-Mai mở cửa phía Đông. Trong cửa, một căn phòng, trên tường treo đèn sáng trưng. Giữa phòng, kê chiếc dường. Cạnh dường để chiếc bàn lớn, và cái tủ.
Mỹ-Linh chỉ vào tủ:
- Có thể sau cánh tủ thông với đường hầm.
Nàng mở tủ. Trong tủ chỉ có mấy bộ quần áo đàn bà, hương thơm bốc ra ngào ngạt. Thất vọng, Mỹ-Linh đóng cửa tủ hỏi Tự-Mai:
- Em đoán xem hầm ở chỗ nào?
Tự-Mai qua sát một vòng, bỗng nó chỉ vào gầm giường:
- Đây rồi!
Tay nó lôi tấm thảm dưới gầm giường, để lộ ra một cánh cửa gỗ. Nó cầm khoen cửa kéo lên, dưới khoen lộ ra một đường hầm tối om.
Rất can đảm, Tôn Đản nói:
- Để em xuống trước.
Nói rồi nó chui vào gầm giường. Sau cửa gỗ, có những bậc thang bằng gạch. Đản xuống đến bậc thứ hai mươi, trước mặt nó hiện ra đường hầm vừa một người đi, xây gạch. Mùi ẩm thấp xông lên. Nó lấy trong bọc ra cây bổi, đánh lửa châm vào. Nó lần theo đường hẫm đi về trước khoảng hai mươi trượng, có ngách quẹo sang trái. Nó tiếp tục đi theo đường hầm dài nữa gặp một cái cửa gỗ. Dùng tay kéo mạnh, cửa không mở, nó rút trong bọc ra con dao trủy thủ, cho vào khe cửa nạy mấy cái. Then từ từ lui sang một bên. Nó nẩy ba bốn cái nữa, cánh cửa mở ra. Sau cửa có cầu thang đi lên. Cuối cầu thang,lại một cánh cửa nữa. Nó sẽ đẩy một cái, cánh cửa từ từ mở, ánh sáng lờ mờ chiếu vào.
Nghe ngóng, không có động tĩnh, nó tắt bổi, chui ra khỏi hầm. Cửa hầm thông với một căn phòng. Trong phòng treo một ngọn đèn dầu nhỏ. Nó đóng cửa hầm rồi lần tới cửa phòng.
Bên ngoài, ánh trăng sáng vằng vặc như ban ngày. Nó lắng tai, dường như có tiếng thở mạnh, như người ta đang luyện công. Nó ra khỏi căn nhà, núp vào bụi hoa phía trước, nhìn lại: Căn nhà nó vừa ra khỏi, bằng gỗ trắc, mái lợp ngói. Ngôi nhà tuy nhỏ, nhưng kiến trúc rất đẹp. Trong vườn trồng nhiều hoa, hương bốc lên ngào ngạt. Nó nhìn lại hướng cửa đường hầm vừa chui ra, cách đó không xa, chính thị Ngọc-lan đình, đứng sừng sững dưới trăng.
Nó nhủ thầm:
- Mới nhìn, Ngọc-lan đình với căn nhà cách nhau bằng hàng rào. Ai cũng tưởng Ngọc-lan đình với căn nhà gỗ thuộc hai chủ khác nhau . Nào ngờ có đường hầm thông sang.
Lần theo nơi có tiếng thở, nó đi tới. Không mất công, trước mặt nó một cái bàn bằng đá, nằm ngay cạnh bờ ao. Trên bàn, một người đàn bà nằm ngửa, tóc xõa, hai tay nắm lấy cạnh bàn. Người đàn bà gương mặt còn rất trẻ, dưới ánh trăng, nó nhận ra người này đẹp không kém gì Thanh-Mai. Người đàn bà mặc chiếc áo cánh ngắn trắng, quần lụa đen. Ngực nàng nhô lên thụp xuống theo điệu thở.
Cạnh bàn, một người đàn ông tóc lốm đốm bạc, quần áo hồng nhạt, ngồi trên ghế nhắm mắt thở hít. Dường như lão đang luyện công. Hơi thở của lão dài vô cùng.
Ký ức giúp Tôn Đản nhớ lại lời Mỹ-Linh thuật rằng bọn Hồng-thiết giáo có lối luyện công rất đặc biệt. Võ lâm luyện công thường ngồi dưới ánh sáng mặt trời như phái Tản-viên. Luyện dưới nước như phái Cửu-chân. Luyện trước bàn thờ, dưới gốc cây như phái Tiêu-sơn. Luyện trong đêm như phái Mê-linh. Còn Hồng-thiết giáo luyện công thường ở trong chỗ tối, hoặc dưới ánh trăng.
Võ phái khác dùng thuốc, để trợ công. Hồng-thiết giáo hấp tinh khí đàn bà luyện công. Thông thường họ dùng phụ nữ tuổi từ mười lăm tới bốn mươi. Phụ nữ phải xinh đẹp, khoẻ mạnh. Người phụ nữ ấy có thể là vợ, là tình nhân, là nàng hầu. Khi họ không thể kiếm ra vợ, tình nhân xinh đẹp, họ đi bắt cóc về. Vì vậy Vũ Thiếu-Nhung, Chu Vân-Nga đã bị bắt cho Nhật-Hồ, Nguyễn Chí luyện công. Ngoài lúc họ luyện công, đêm nằm họ ôm người đàn bà ấy mà ngủ, để hấp lấy khí. Người thường, ôm vợ cùng chiều. Bọn Hồng-thiết lại ôm gái nằm ngược chiều mà hấp lấy khí.
Nó im lặng theo dõi, quên mất cả Mỹ-Linh, Tự-Mai đang chờ nó. Lão già thở hít mỗi lúc một mau, rồi thình lình y đưa hai tay về trước, vận kình lực ra, khiến các ngón tay run run. Bất thình lình tay trái y úp lên nhũ hoa phải người con gái. Tay phải y để vào âm hộ nàng. Người con gái run lên bần bật, đầu lắc lư, mặt nhăn nhó, rên lên hừ hừ, miệng nói những âm thanh nho nhỏ, nó nghe không rõ. Thỉnh thoảng nàng uốn cong người lên, dường như không đau đớn gì.
Cứ như vậy kéo dài khoảng ăn một bữa cơm, lão già, vung tay trái giật mạnh rút quần người con gái, rồi y ghé miệng vài âm hoa nàng mà mút. Người con gái lại bật lên những tiếng rên nho nhỏ. Nó nhìn rõ lão già nuốt ừng ực, giống như lão đang uống nước. Tôn Đản chợt hiểu lời Mỹ-Linh thuật: Bọn Hồng-thiết thường hút tinh dịch, hoặc tinh huyết hoặc uống nước tiểu con gái mà luyện công.
Một lát sau lão ngừng lại, hỏi người con gái:
- Sao? Hôm nay em tiểu nhiều đấy chứ?
Người con gái nhoẻn một nủ cười, ngồi dậy, thỏ thẻ:
- Thì em phải nhịn tiểu từ trưa đến giờ, dành cho lão gia đấy.
Lão già ôm nàng vào lòng.
Tôn Đản còn niên thiếu, truyện tình ái tuyệt chưa có ý niệm gì. Nó nghĩ:
- Không biết cô gái kia thuộc giới nào? Chắc cô là nàng hầu lão này, chứ không phải lão bắt về, vì coi bộ cô thoả mãn với việc gần gũi lão.
Thình lình lão già quát lớn:
- Ai đó?
Tôn Đản kinh hoàng, tưởng lão khám phá ra nó đang rình rập. Nó định bỏ chạy, thì từ phía trước một người đáp xuống nhẹ nhàng. Người chưa tới y phóng chưởng tấn công lão già. Chưởng của y cực kỳ hùng hậu, làm Tôn Đản muốn nghẹt thở. Lão già đẩy thiếu nữ sang bên cạnh. Y vọt người lên cao tránh thế chưởng ác liệt. Người kia chuyển chưởng hướng lên trời, đuổi theo lão. Từ trên cao, lão phóng một chưởng vào giữa chưởng của ngừơi kia. Bình một tiếng, người lão bay ra xa. Lão đáp trên ngọn một cây bưởi. Lão cười nhạt:
- Bát đệ. Đang đêm bát đệ tới đây có việc gì vậy?
Người kia cười:
- Đệ đến gặp sư huynh vì một vài truyện khẩn cấp. Nguy lắm rồi thất sư huynh ơi.
Tôn Đản tỉnh ngộ:
- Thì ra lão già này là đệ tử thứ bẩy của Nhật-Hồ lão nhân tên Phạm Trạch. Còn người mới tới kia chắc tên Lê Đức. Vũ Nhất-Trụ khai rằng Phạm Trạch vốn gốc con nhà quan thời Ngô, có học thức. Còn Lê Đức nói rất giỏi. Y lại xảo quyệt, thủ đoạn vô cùng.
Nó tính thầm:
- Nhật-Hồ có mười đại đệ tử. Nhất-Trụ đứng đầu.Y tức Đàm Can, tàng ẩn giữa triều đình. Đặng Trường thứ nhì, ẩn ở phái Đông-a. Cả hai đã bị bắt. Còn người thứ ba tên Lê Ba tức Dương Ẩn của phái Sài-sơn. Hoàng Văn đứng thứ tư làm người quản gia phủ Khai-thiên vương. Nguyễn Chí đứng thứ năm, hiện bị Khu-mật-viện giữ. Đỗ Xích-Thập đứng thứ sáu, ẩn trong phái Tản-viên. Thứ chín Phạm Hổ, chủ nhân tửu lầu Động-đình, thứ mười Hoàng-Liên ẩn trong phái Mê-linh, lập ra bang Hoàng-liên-sơn. Bây giờ hai người chót xuất hiện hẳn Phạm Trạch với Lê Đức. Im xem chúng làm gì?
Lê Đức chỉ người con gái hỏi Phạm Trạch:
- Chúng ta bàn truyện cơ mật, có nên cho nàng nghe không?
Phạm Trạch nói với người con gái:
- Em vào nhà nghỉ, để anh nói chuyện với bát đệ một lát.
Người con gái mỉm cười, lui vào trong nhà. Khi nàng đi qua, Tôn Đản mới nhìn rõ. Nó ước lượng nàng khoảng hơn hai mươi. Nó tự hỏi: Không biết có phải thân mẫu Tự-Mai hay Mỹ-Linh không? Nó suýt bật cười vì tính lẩm cẩm của mình. Vì người con gái này giỏi lắm hai mươi ba tuổi sao có thể đẻ ra Mỹ-Linh với Tự-Mai?
Lê Đức đợi cho người con gái vào hẳn nhà, rồi y mới nói:
- Sư phụ thu mười anh em chúng ta làm đồ đệ, mưu chiếm giang sơn Đại-Việt, lập ra một nước Hồng-thiết giáo. Không may ngũ sư huynh sớm qua đời, rồi tiếp đến sư phụ qui tiên. Trong di chúc sư phụ không dặn ai sẽ kế sư phụ làm giáo chủ, thành ra anh em mình không ai phục ai, chia rẽ mỗi người một phương.
Tôn Đản cười thầm:
- Thì ra Nguyễn Chí bị bắt giam, hai tên này cũng không biết. Nhật-Hồ bị giam cầm, chúng cũng không hay.
Phạm Trạch cười khành khạch, bây giờ lão mới quay mặt lại phía Tôn Đản. Tôn Đản suýt bật thành tiếng kêu, vì trên đời, nó chưa từng thấy ai xấu xa như vậy. Mặt Phạm Trạch vừa nhỏ, vừa đài. Răng nhô ra. Hai mắt hõm vào, khiến người nhìn có cảm tưởng như hai cái hang cua. Da mặt lão dăn deo như một cúi túi vải, xếp với nhau thành nhiều nếp. Môi lão vều như hai quả chuối mắn gắn vào miệng:
- Sư phụ qui tiên, đại ca sẽ đương nhiên thay người đứng đầu.
- Sư huynh có biết sắp tới ngày anh hùng võ lâm đại hội không? Năm nay người đứng ra tổ chức là sư thái Tịnh-Tuệ, chưởng môn phái Mê-linh. Sư thái Tịnh-Tuệ vốn người nhà Phật, nên không kỳ thị, viết thư mời tất cả mọi võ phái, bang hội, về dự. Bản giáo cũng được thư mời. Không biết đại sư huynh định cử ai đi?
Phạm Trạch cười, hai môi y như hai quả chuối rung động mạnh:
- Trước đây tuân chỉ dụ của sư phụ, chúng ta mỗi người tiềm ẩn vào một môn phái, thừa thời cơ cướp quyền. Nếu như chúng ta nắm được các môn phái, sẽ có giang sơn nằm trong tay. Bây giờ được thơ mời, thì chỉ những người không tiềm ẩn mới xuất hiện được.
Lê Đức thở dài:
- Từ sau Thập nhị sứ quân, bản giáo lui vào tiềm ẩn, bí mật kết nạp giáo chúng. Đệ nghĩ, anh em chúng ta mau họp nhau, nhân dịp này đồng xuất hiện làm bá chủ võ lâm cho rồi. Trong anh em chúng ta, chỉ có sư huynh với đệ vốn không tiềm ẩn, chúng ta có thể ra mắt thiên hạ.
Trạch cười, tiếng cười y ư ứ trong cổ:
- Đời nào sư huynh để cho chúng ta đại điện bản giáo, như vậy chẳng hoá ra chúng ta thay sư phụ sao? Đợi lát nữa đây, tất cả anh em đều tụ họp, rồi sẽ quyết định.
- Họp ở đây hay ở bên Ngọc-lan đình?
Phạm Trạch chỉ ra căn nhà thủy tạ bên bờ ao:
- Ở căn nhà kia. Ta đã chuẩn bị chu đáo. Bên kia bờ sông Hồng, sông Đuống đều có giáo chúng canh gác. Trên sông, cứ một quãng lại có một con thuyền chài đánh cá làm tai mắt. Còn về phía Ngọc-lâm, Thượng-cát, mười nhà có đến chín của giáo chúng. Cho nên trong khu vực này không cần lực lượng phòng thủ.
Tôn Đản ớn da gà:
- Cứ như lời tên này nói, chúng canh phòng cẩn mật đến ba lớp. Vậy không biết ban nãy mình vào chúng có biết không? À, phải rồi, chị Lan-Hương chính người của bọn chúng. Nhưng làm việc cho Khu-mật-viện, thành ra đưa bọn mình vào lọt. Còn đám thị vệ, với thủy quân, không biết Khu-mật-viện có cách nào cho họ khỏi bị chúng nghi ngờ?
Tôn Đản thấy hai lão Hồng-thiết giáo bàn truyện, nó nghĩ đến Mỹ-Linh, Tự-Mai, vội lẻn vào trong nhà. Trong lúc vội vàng, nó quên mất thiếu nữ, người tình của Phạm-Trạch. Nó vừa định chui xuống hầm, chợt nhìn thấy thiếu nữ nằm trên giừơng. Nhớ lời dặn của Lan-Hương, nó vội chắp tay nhắm mắt, cúi đầu hành lễ.
Thiếu nữ hỏi:
- Chú nhỏ kia, lão gia đã ra lệnh cấm không cho bất cứ người nào ở phía Ngọc-lan đình sang đây. Tại sao chú lại sang? À ta hiểu rồi, chú định trốn phải không?
Tôn Đản nhảy vèo đến, dí dao vào cổ thiếu nữ:
- Cô im ngay. Nếu cô la một tiếng, chúng ta cùng chết cả.
Thiếu nữ run run hỏi:
- Chú muốn gì? Muốn trốn cứ vòng ra phía đầu nhà mà đi. Nhưng liệu chú có đủ tài bơi qua sông, vượt lưới canh phòng của mấy chục con thuyền không?
Thiếu nữ ôn tồn hạ giọng bảo Tôn-Đản:
- Đóng cửa lại, ta chỉ cho chú đường trốn.
Tôn Đản đóng cửa lại. Thiếu nữ chỉ xuống đường hầm:
- Chú theo ta, ta chỉ đường cho mà đi.
Thiếu nữ cầm cái khoen trên cánh cửa đường hầm kéo lên. Tôn Đản cười:
- Tưởng gì chứ con đường này tôi biết rồi.
Thiếu nữ vẫn mở cửa đường hầm, tay cầm cây đèn đi trước. Tôn Đản theo sau. Xuống dưới hầm rồi, thiếu nữ bảo Tôn Đản:
- Tôi biết chú định trốn, ngặt trốn không được. Tôi cũng thế, tôi trốn nhiều lần mà không xong. Vậy tôi giúp chú trốn, nhưng chú phải giúp tôi một việc.
- Được, tôi sẵn sàng, việc chị nhờ là việc gì?
Thiếu nữ tháo chiếc vòng ngọc trên tay đeo vào tay Tôn Đản:
- Nếu chú trốn thoát, chú đến tìm quan đại tướng quân Đinh Thịnh, tổng đốc quân mã phủ Đại-Thông trao cho người, và kể cho người biết tình cảnh của ta.
- Chị tên gì? Chị liên quan gì với đại tướng? Chị bị bắt vào đây lâu chưa?
- Không, ta là em gái đại tướng. Ta tên Đinh Mỹ-An. Ta bị giam hai năm rồi.
- Tôi không phải giáo đồ muốn trốn đi, mà từ ngoài vào tìm cứu hai người đàn bà.
- Ai thế?
- Một người tên Triệu liên-Phương, một người tên Cao Huyền-Nga. Chị có biết họ bị giam ở đâu không?
- Trong này có nhiều đàn bà con gái bị giam. Nhưng trong đường hầm chỉ có mình ta. Bọn con gái ở đây ít được gặp nhau lắm. Có gặp cũng không được nói truyện. Hôm nay các đại lão trong hội đồng giáo vụ trung ương họp. Sau khi họp, họ đều luyện công. Vì vậy mỗi người dẫn theo một thiếu nữ. Cậu cứ núp trong phòng ta, sẽ gặp hết. Vậy cậu lên đi, ta sẽ nói với lão gia rằng cậu mới được lão Trịnh Hồ sai sang hầu hạ ta. Vì hàng ngày ta đều có hai nam đồng, một tỳ nữ theo hầu. Hôm nay thay người. Người cũ đi rồi mà sao người mới chưa tới.
Chợt Tôn Đản nghe có tiếng chân người đi, nó ra hiệu im lặng. Một lát tiếng chân hai người tới gần.


<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.01.2005 08:28:26 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 11.01.2005 18:07:08 (permalink)
    Hồi thứ năm mươi hai


    Thiên Niên Hà Thủ Ô



    Nó vội thổi tắt ngọn đèn trên tay thiều nữ. Tiếng chân hai người tới cửa gỗ, rồi im bặt. Trong ánh sáng mờ ảo, thấy bóng dáng hai người, nó suýt bật cười, thì ra Mỹ-Linh với Tự-Mai. Nó tóm lược mọi truyện kể cho hai người nghe, tay chỉ xuống hầm:
    - Ngoài đó có gì lạ không?
    - Không.
    Mỹ-An nói sẽ:
    - Thôi chúng ta lên khỏi hầm.
    Mỹ-An dặn:
    - Cô cậu phải nhớ nhé, khi các đại lão hội họp, dù chúng ta cũng không được lai vãng. Chỉ lúc có lệnh mới được ra. Cô cậu tên gì?
    Tự-Mai chỉ giới thiệu:
    - Anh này tên Ngọc-Hiền. Tôi tên Ngọc-Đức. Còn chị này tên Ngọc-Phúc.
    Ngoài sân vọng vào nhiều tiếng nói lao xao. Trong đó có tiếng rất quen. Mỹ-Linh ớn da gà, vì chính tiếng nói của Hoàng Văn. Một tiếng nói nữa, nàng nhận ra của Lê Ba. Mỹ-Linh nói nho nhỏ cho Tự-Mai nghe:
    - Phải cẩn thận, tên Hoàng Văn biết mặt chị. Chị phải lánh mặt y, vì y làm quản gia phủ Khai-thiên vương.
    Có tiếng Phạm Trạch gọi vọng vào:
    - Mỹ-An đâu, ra tiếp khách nào.
    Mỹ-An vội chạy ra. Ngoài Hoàng Văn, Lê Ba còn hai người đàn bà tuổi rất trẻ, xinh tươi. Phạm-Trạch chỉ vào thiếu phụ dáng người tha thướt:
    - Đây là phu nhân của tam sư huynh Lê Ba. Tên Xuyên-Thủy.
    Y lại chỉ vào một thiếu nữ hơi đậm đà:
    - Đây phu nhân của tứ sư huynh Hoàng Văn. Tên Thuận-Ngôn. Em thay anh mời hai vị vào nhà uống nước, ăn bánh thưởng trăng.
    Mỹ-An chào hai thiếu phụ. Trong lòng nàng nổi lên một lớp sóng:
    - Không biết hai người này lý lịch ra sao? Họ thuộc Hồng-thiết giáo tình nguyện nguyện dâng hiến cho hai con quỉ hay cũng bị bắt như mình?
    Mỹ-An mời hai người vào nhà. Mỹ-Linh, Tự-Mai, Tôn-Đản vội cúi đầu hành lễ. Vợ Lê-Ba nhìn Mỹ-Linh, nhăn mặt:
    - Cô này là giáo chúng hay tỳ nữ?
    Mỹ-An đáp:
    - Tỳ nữ.
    Xuyên-Thủy nói nhỏ:
    - Em phải cẩn thận đấy. Với nhan sắc của em như thế này, e rằng mấy con quỉ không tha đâu.
    Nghe Xuyên-Thủy nói, Mỹ-Linh biết nàng bị bắt làm cây thuốc, chứ không phải giáo chúng tình nguyện. Vì giáo chúng, chẳng bao giờ dám gọi trưởng lão bằng tiếng con quỷ.
    Mỹ-An pha trà, lấy ra tám hộp bánh mứt mời khách. Mỹ-Linh là công chúa, nàng đã được thưởng thức tất cả mọi thứ bánh ngon, cho nên nhìn qua, nàng biết những thứ bánh Trung-thu này trân quí không kém gì trong Hoàng-cung.
    Trong sân lại thêm Đỗ Xích-Thập với Hoàng Liên. Lê Ba hỏi:
    - Cửu đệ thực tệ. Y tổ chức buổi họp hôm nay, mà giờ này y chưa tới. Không biết có gì trở ngại không?
    Có tiếng nói vọng lại:
    - Đệ tới đây rồi. Sao tam sư huynh khó khăn với đệ thế?
    Tự-Mai nhìn Phạm Hổ:
    - Cứ như Vũ Nhất-Trụ khai, tên này giả danh Trịnh Hồ, chủ nhân Ngọc-lan đình đây. Nếu bắt được tên này, sẽ biết chỗ giam mẫu thân ta.
    Phạm Hổ vẫy tay, chín thiếu nữ quần áo mầu hồng nhạt, tha thướt, đầu đội mâm, đậy lồng bàn tiến vào sân. Như quen thuộc, chúng theo cây cầu, ra ngôi nhà thủy tạ. Sau khi để các mâm cỗ xuống, họ chia nhau người thắp đèn, người bầy cỗ. Phút chốc cỗ bầy ra làm chín cái bàn khác nhau.
    Phạm Hổ đứng lên nói:
    - Hồi xưa, mỗi lần bầy tiệc Trung-thu, có mười một bàn. Một bàn dành cho sư phụ, mười bàn dành cho anh em chúng ta. Nay sư phụ với ngũù sư huynh qui tiên, chỉ còn chín anh em ta. Nghĩ cũng buồn.
    Y tính toán:
    - Tại sao đại sư huynh với nhị sư huynh chưa tới?
    Lê Ba thản nhiên:
    - Không chừng có gì trở ngại chăng?
    Nghe Lê Ba nói, Mỹ-Linh rùng mình về sự sảo quyệt của bọn Hồng-thiết giáo. Rõ ràng tên Lê Ba chôn sống Vũ Nhất-Trụ, y cũng biết rõ Đặng Trường bị bắt, thế mà y làm như không biết gì.
    Hoàng Liên cất tiếng the thé:
    - Tôi nghe nhị sư huynh bị lộ hình tích. Phái Đông-a bắt giao cho Khu-mật-viện. Không biết Khu-mật-viện giam ở đâu?
    Lê Ba cười:
    - Khu-mật viện là nơi làm việc cũ của đại sư huynh. Đại sư huynh chỉ dơ tay một cái, sẽ cứu đươc nhị sư huynh ngay.
    Cả bọn ngồi uống trà nói truyện. Một lát sau, Hoàng Văn lên tiếng:
    - Chiếu giáo qui của sư phu, đại sư huynh, nhị sư huynh đến trễ, chúng ta cứ khai hội. Tam sư huynh có vai vế cao nhất, xin mời lên chủ vị.
    Lê Ba ngồi vào ghế đầu bàn.
    Phạm Hổ đứng lên :
    - Mời các vị nhập tiệc.
    Bẩy người ngồi vào bẩy bàn, còn hai bàn dành cho Nhất-Trụ với Đặng Trường vẫn để trống.
    Phạm Hổ cười nói:
    - Trong chúng ta đây ai cũng mang theo thuốc cả. Đêm Trung-thu đẹp thế này, chúng ta mời thuốc cùng dự tiệc, nên chăng?
    Hoàng Liên rít lên:
    - Tiểu muội không mang thuốc theo. Sư huynh kiếm cho muội đi.
    Phạm Hổ vui vẻ:
    - Gì chứ thuốc cho muội thì dễ quá.
    Y cầm dùi gỗ đánh vào cái chiêng một tiếng. Lát sau, từ bên phía Ngọc-lan đình có bốn thanh niên tuổi khoảng hai mươi đi ra. Người nào trông cũng khoẻ mạnh, đẹp đẽ. Bốn người đứng trước Phạm Hổ chờ lệnh.
    Phạm Hổ bảo Hoàng-Liên:
    - Bốn cây thuốc này, sư muội lựa cây nào?
    Hoàng Liên đưa mắt quét qua bốn thanh niên một luợt, rồi mụ kéo một tên ngồi vào lòng. Mụ ôm thanh niên đó, hôn vào miệng. Thanh niên cũng hai tay ôm lấy cổ mụ. Hôn nhau chán, mụ nói:
    - Đa tạ sư huynh, muội chọn cây thuốc này.
    Phạm Hổ vẫy tay cho ba thanh niên kia lui. Thanh niên ở lại, ngồi bên cạnh Hoàng Liên. Một tay quàng cổ mụ. Một tay sờ soạng vào nhũ hoa, coi như trước mặt không có ai.
    Lê Ba nhìn mụ Hoàng Liên mỉm cười:
    - Sư muội có đói không? Nếu đói xin cứ tự tiện. Trong căn nhà kia có phòng ăn kín đấy.
    Mụ Hoàng Liên cười tủm tỉm:
    - Tam sư huynh giỏi y lý thực. Sư huynh chỉ nhìn qua, mà biết muội đói. Thú thực, hơn hai ngày qua muội chưa ăn gì cả. Xin phép nhé.
    Mỹ-An nói nhỏ vào tai bọn Mỹ-Linh, tay chỉ sang phòng bên cạnh:
    - Mụ Hoàng Liên cực kỳ ác độc. Ba người mau sang đó núp. Chớ để mụ trông thấy mà mất mạng.
    Bọn Mỹ-Linh vội mở cửa, lánh sang căn phòng nhỏ, đóng cửa lại.
    Mụ Hoàng Liên vẫy tay. Thanh niên to lớn đứng lên đi với mụ vào căn nhà gỗ. Thấy bọn Mỹ-An ngồi đó, mụ lớn tiếng:
    - Xin ba vị ra ngoài hầu hạ các trưởng lão, để bần ni luyện công.
    Phạm Hổ gọi vào trong:
    - Mời các cây thuốc quí ra.
    Trong này Mỹ-An, Xuyên-Thủy, Thuận-Ngôn vội bước ra. Phạm Hổ trịnh trọng:
    - Mời các chị ngồi vào với các anh.
    Mỹ-An ngồi vào bàn Phạm Trạch. Xuyên-Thủy ngồi vào bàn Lê Ba. Thuận-Ngôn ngồi vào bàn Hoàng Văn.
    Lúc đầu nghe nói đến thuốc, bọn Tự-Mai không hiểu gì cả. Bây giờ chúng mới tỉnh ngộ. Tự-Mai chửi thầm:
    - Thì ra bọn đàn ông Hồng-thiết giáo dùng thiếu nữ. Bọn đàn bà dùng thanh niên luyện công, vì vậy chúng gọi là thuốc. Trong bọn này còn ba tên Xích-Thập, Lê Đức, Phạm Hổ, chưa có đàn bà, không hiểu thuốc của chúng là ai?
    Thanh niên đi với Hoàng-Liên nhanh nhẹn đóng cửa phòng lại. Y thổi tắt ngọn đèn, trong phòng tối om. Có tiếng thanh niên nói:
    - Đệ tử xin hầu trrởng lão.
    Tiếng mụ Hoàng Liên cười the thé:
    - Giỏi! Người tên gì? Bao nhiêu tuổi?
    - Thuộc hạ tên Nguyễn Gia, năm nay hai mươi bốn tuổi.
    - Người đến Ngọc-Lan này lâu chưa?
    - Thưa hai năm rồi.
    - Thôi người phục thị ta đi.
    Bọn Mỹ-Linh, tuổi còn nhỏ, tuyệt không có ý niệm gì về những truyện dâm đãng. Ba người không hiểu trong bóng tối Nguyễn Gia cho mụ Hoàng Liên ăn cái gì? Tại sao ăn lại phải tắt đèn đi? Họ chỉ nghe tiếng mụ rên rỉ, tiếng thở hổn hển, tiếng quần áo sột soạt. Cứ như vậy lâu lắm, mới thấy mụ Hoàng Liên cất tiếng nói:
    - Đốt đèn lên.
    Có tiếng đá lửa chạm vào nhau, rồi ánh sáng ngọn đèn lọt vào căn phòng nhỏ. Bên ngoài tiếng Phạm Hổ vọng vào:
    - Thế nào? Hoàng muội! Nguyễn Gia cho Hoàng muội ăn có đủ không?
    - Đủ! No ứ hự rồi. Không biết mai này còn xử dụng võ công được không?
    Mụ sóng đôi cùng Nguyễn Gia đi ra. Trong này đám Mỹ-Linh chui khỏi căn phòng nhỏ, núp sau cửa dòm.
    Thình lình mụ vung tay vỗ lên đầu Nguyễn-Gia một chiêu quyền. Sau tiếng bộp, Nguyễn Gia lòi mắt, đầu vỡ chết tươi. Mụ rút con dao nhỏ trong bọc, cúi xuống cắt hai quả cật của Nguyễn-Gia, co chân đá xác y bay vào bụi cỏ. Vào nhà thủy tạ mụ trịnh trọng để hai quả cật vào cái đĩa trước mặt, rồi bảo một thiếu nữ đứng hầu:
    - Người lấy cho ta một thang thuốc, như sau:

    Kỷ tử 3 tiền, Thục địa 4 tiền,
    Xuyên khung 2 tiền, Hoài sơn 3 tiền,
    Hà thủ ô 4 tiền, Nhân sâm 1 tiền.


    Ghi chú,
    Đây là thang thuốc cổ. Tôi đã thử nghiệm lại, kết quả tốt, không hại. Phương thuốc dùng để tiềm gà ác (2kg) , thịt dê (2kg), cật dê (4 cái) cho Quý-ông đi vào tuổi trên 50, Quý-bà vào tuổi mãn kinh; để phục hồi tuổi xuân. Nhất là Quý-bà khỏi phải uống Hormones khi tuyệt kinh kỳ. Xơi liền 10 kg là... hồn xuân phơi phới phục hồi.

    Tất cỏ bỏ vào một cái bát lớn, cùng với hai quả cật này, chưng cách thủy. Sau khi chưng xong, mang ra đây cho ta ăn.
    Phạm Hổ chỉ chín thiếu nữ đứng hầu:
    - Lục sư huynh, bát sư huynh, lựa lấy một cây thuốc đi chứ?
    Xích-Thập lắc đầu:
    - Những cây thuốc này chạ người quá, dùng lỡ bệnh thì sao. Cửu đệ kiếm cho mấy cây khác tốt hơn đi.
    Phạm Hổ cười:
    - Cái đó không thiếu. Có điều món ăn ngon thường hay cay. Phải cẩn thận mới được.
    Phạm Hổ cầm dùi gõ năm tiếng chiêng, một thiếu nữ tha thướt từ bên Ngọc-lan bước ra, nước da nàng đen như than. Y kéo nàng ngồi xuống bên cạnh, giới thiệu:
    - Nàng này tên Sa-ki-Na, gốc người Thiên-trúc, theo cha sang Long-thành buôn bán. Đệ bị chứng đau xương ngang lưng. Người ta nói, gái da đen làm thuốc khỏi bệnh đau lưng, tốt lắm, nên đệ tốn biết bao công phu mới mời được nàng về đây. Chứng đau lưng của đệ gần hết rồi.
    Dưới ánh đèn sáng như ban ngày, tuy ở xa, nhưng bọn Tự-Mai cũng nhận thấy thiều nữ Thiên-trúc đẹp huyền ảo, lạ lùng. Dáng người nàng rong rỏng cao, vai tròn, lưng ong thắt lại, làm nảy ra bộ ngực căng. Mái tóc dài, đen óng ánh như giòng suối chảy xuống ngang vai. Mũi nàng cao, thẳng, mắt hơi sâu. Vẻ đẹp của nàng như có như không.
    Thình lình nàng vung tay tát vào mặt Phạm Hổ một cái. Phạm Hổ, đưa hai ngón tay kẹp cứng bàn tay nàng lại. Sa-ki-Na quát lên:
    - Tên khả ố này, mi đừng hòng bắt ta hầu hạ mi. Ta thà chết, chứ không chịu để mi đụng vào thân thể.
    Phạm Hổ cười:
    - Nàng là thuốc của ta mấy tháng nay rồi. Bây giờ còn chống làm chi?
    Y vận khí vỗ vào vai nàng một cái nhẹ nhàng. Lập tức Sa-ki-Na run người lên, rồi ngồi im.
    Y bảo một thiếu nữ đứng hầu:
    - Hai vị sư huynh của ta chê các cô. Vậy cô đi mời hai cây thuốc thiên niên hà thủ ô và tuyết sâm vạn niên cực trân quí ra cho ta. Ta đãi hai sư huynh một lần.
    Thiếu nữ đi liền. Lê Đức hỏi:
    - Hai cây thuốc nào mà trân quí thế?
    Phạm Hổ trả lời vòng vo:
    - Lát nữa sư huynh sẽ thấy. Hai cây này khó kiếm trong Đại-Việt đã đành, mà đệ nghĩ khắp thiên hạ cũng không tìm ra hai.
    Khoảng nhai dập miếng trầu, thiếu nữ áo hồng trở lại, dẫn theo hai thiếu phụ. Mới thoáng trông thấy, Tự-Mai run bắn người lên, vì một trong hai cây thuốc là mẫu thân. Cạnh nó, Mỹ-Linh cũng run lật bật, vì nàng nhận ra một người là mẫu thân nàng. Khác với những người đàn bà kia, hai bà bị xiềng chân tay bằng những sợi xích sắt, tiếng xích kêu leng keng.
    Tự-Mai, Mỹ-Linh định nhảy ra cứu mẫu thân. Nhưng suy nghĩ lại, cả hai có nhảy ra cũng uổng mạng. Xung quanh đây, thị vệ đã vây kín, việc cứu mẫu thân cũng không khó, đâu cần ra tay vội, có khi làm chết cả mẹ lẫn bản thân mình.
    Tất cả bọn Hồng-thiết giáo đều ngây người ra mà nhìn hai người đàn bà. Phạm Hổ chỉ vào người đàn bà thứ nhất:
    - Đây là Triệu Liên-Phương nữ hiệp, ái đồ của sư thái Tịnh-Tuệ, chưởng môn phái Mê-linh. Trước nàng là vương phi của Lý Phật-Mã tước phong Khai-thiên vương. Sau này nàng cải tà qui chính, gia nhập bản giáo, tình nguyện làm thuốc cho các vị trong hội đồng trung ương giáo vụ luyện công. Nàng được phong làm cây thiên niên hà thủ ô. Ai thưởng thức nàng, tóc trắng thành đen. Mắt mờ thành sáng. Trí óc minh mẫn.
    Liên-Phương co giò đá vào mông Phạm Hổ. Y nghiêng mình tránh khỏi, miệng la:
    - Dữ quá. Thuốc này dữ quá!
    Y chỉ vào thiếu phụ thứ nhì:
    - Người này tên Cao Huyền-Nga, đệ tử phái Sài-sơn, trước làm vợ Trần Tự-An. Sau vì mộ tiếng bản giáo, xin gia nhập, hiến dâng tất cả làm thuốc cho các vị. Bản giáo phong cho tên cây thuốc tuyết sâm vạn niên.
    Đỗ Xích-Thập nắm lấy tay Triệu Liên-Phương:
    - Con mẹ nó thằng chăn trâu Lý Công-Uẩn. Vì nó mà mỗ phải phiêu bạt khốn khổ bao năm. Bây giờ mỗ dùng con dâu nó làm thuốc, luyện công, để ngày mai đánh con bà nó bọn triều Lý.
    Triệu Liên-Phương đưa mắt nhìn Hoàng-Liên, bà đổ oán hờn lên mụ:
    - Hoàng thái sư thúc. Thái sư thúc là đệ nhất cao nhân phái Mê-linh, mà thái sư thúc để cho bọn ma quỉ làm nhục đệ tử bản môn như vậy sao?
    Trong quá khứ, Hoàng Liên từng dan díu với Xích-Thập. Sau này cả hai đều già, mỗi người đi một ngả. Mụ kiếm bọn trai trẻ làm thuốc. Xích-Thập cũng vậy. Mới đây, mụ thưởng thức thanh niên Nguyễn Gia, rồi giết chết, lấy cật ăn sống. Thế nhưng nhìn Liên-Phương đẹp quá, mụ nổi máu ghen lên, phất tay một cái, kình lực mãnh liệt đánh vào tay Đỗ Xích-Thập. Xích-Thập vội thu tay lại. Y chửi thề:
    - Mụ ni cô ăn thịt chó, quạ mổ, điều tha. Mụ làm gì thế?
    Mụ Hoàng Liên cười the thé:
    - Tên dơ bẩn kia, mi không được đụng đến đồ tôn của lão ni. Bằng không lão ni sống chết với mi ngay lập tức. Mi nên biết rằng luật lệ phái Mê-linh từ hồi vua Bà đến giờ, là không bao giờ để người ngoài làm nhục đồng môn. Mai này lão ni sắp xuất hiện làm tôn sư, mà không bảo vệ đồ tôn, còn ra thể thống gì nữa?
    Lê Ba an ủi Xích-Thập:
    - Thiếu gì cây thuốc khác trẻ hơn. Cây thuốc này đã ba mươi ba tuổi rồi, già như sơ mướp, ích gì mà sư đệ phải đụng đến, khiến mụ ni cô kia nổi giận?
    Xích-Thập vòng tay ôm lấy Cao Huyền-Nga, kéo nàng vào lòng. Cao Huyền-Nga cựa tay định thoát ra. Nhưng bà bị y ôm cứng, không dẫy được. Y ghé miệng hôn vào môi nàng:
    - Thơm quá, thơm quá.
    Cao Huyền-Nga kêu lên:
    - Sư thúc Dương Ẩn.
    Lê Ba núp trong phái Sài-sơn, ít người biết chân tướng y. Không ngờ Cao Huyền-Nga lại biết tung tích, gọi đúng đạo hiệu y. Y giật mình hỏi:
    - Cô nương là đệ tử của vị nào trong bản phái? Tại sao cô nương biết mặt ta?
    Cao Huyền-Nga bật lên tiếng khóc:
    - Sư thúc tuy qui ẩn, nhưng không thể dấu tung tích được. Ngày giỗ thánh Gióng mười bốn năm trước, sư thúc có tiếp sư phụ đệ tử trong viện Thiên-văn. Bấy giờ đệ tử đi theo hầu sư phụ.
    Lê Ba tỉnh ngộ:
    - Thì ra người là đệ tử của sư tỷ Hoàng Mai đấy.
    Y nói với Phạm Hổ:
    - Không nên đụng vào người đàn bà này trước mặt ta.
    Phạm Trạch cười rung hai môi quả chuối lên:
    - Này Lê tam sư huynh, thập muội. Phàm luyện công phải dùng đàn bà biết võ công, tinh khí, tinh huyết, nước tiểu mới tốt. Thế mà cấm đụng vào đệ tử các võ phái thì kiếm đâu ra bây giờ? Tôi nghĩ, nếu như hai nàng này thuận dâng hiến cho hai vị Đỗ, Lê hẳn sư huynh, sư muội không cấm cản?
    Lê Ba hiểu ý Phạm Trạch:
    - Dĩ nhiên ta không nói gì.
    Phạm Hổ móc trong bọc ra hai viên thuốc đưa cho Xích-Thập:
    - Nhờ sư huynh ra tay cho.
    Xích-Thập búng tay một cái, hai viên thuốc hướng Cao Huyền-Nga, Triệu Liên-Phương, quay thực nhanh, kêu lên tiếng vo vo. Khi tới gần hai người, kêu vù một tiếng rồi vỡ tung ra thành bụi, chụp xuống đầu.
    Mỹ-Linh thấy thủ pháp của Đỗ Xích-Thập, nàng nhủ thầm:
    - Thủ pháp này nguyên của phái Tản-viên thời Lĩnh-nam, do ngài Trần Đại-Sinh chế ra, để trị bệnh. Mình nghe phàm người bị bệnh, dù uống thuốc, dù thoa bóp cũng phải hàng giờ thuốc mới có kềt quả. Còn lối phóng thuốc này, thấm vào da thịt ngay, chỉ vài khắc sau hiệu nghiệm. Tên Đỗ Xích-Thập là vai sư thúc chưởng môn Đặng Đại-Khê, nên y biết thủ pháp này. Không biết y phóng loại thuốc nào vào vương mẫu ta với Trần phu nhân?
    Trong đầu óc nàng loé lên đoạn Lĩnh-nam vũ kinh chép về thủ pháp này. Nếu luyện tinh thục, nó trở thành một thứ võ công có sát thủ kinh khiếp. Nàng nhẩm đọc tâm pháp, rồi vận khí, quả nhiên tay nàng rung động mạnh. Không ngờ chân khí của nàng mạnh quá, phát ra tiếng véo. Cũng may từ chỗ nàng núp đến nhà thủy tạ khá xa, nên bọn Hồng-thiết không nghe thấy.
    Bỗng Cao Huyền-Nga rên lên một tiếng, ôm lấy Lê Đức, nàng ngồi vào lòng y. Hai tay bá cổ y mà hôn vào hai môi y.
    Lê Đức phân trần với Lê Ba:
    - Tam sư huynh, đồ tử của sư huynh ái mộ đệ, chứ đệ không hề cưỡng ép nàng. Sư huynh khỏi bận tâm.
    Bên cạnh, Triệu Liên-Phương cũng ôm lấy Đỗ Xích-Thập trong hoàn cảnh tương tự. Mỹ-Linh kinh ngạc đến đờ người ra. Tôn Đản nói nhỏ:
    - Sư tỷ đừng quên bọn Hồng-thiết giáo chuyên dùng độc. Đỗ Lệ-Thanh nói rằng, mỗi khi họ muốn người con gái nào, chỉ cần cho người con gái ấy uống một viên thuốc, thì dù gái tơ, dù bà già, dù mệnh phụ cũng cuồng lên như lợn phải nái. Chắc hai bà bị tên Đỗ Xích-Thập phóng thuốc ấy vào người.
    Mỹ-Linh định rút kiếm nhảy ra cứu vương mẫu, chợt có hai tiếng vo vo kêu lên inh tai nhức óc. Nàng đưa mắt nhìn: Từ hai phía bờ ao đối nhau, có hai vật tròn, to bằng quả cam, lấp lánh như bạc đang quay thực mau, hướng lầu thủy tạ. Bọn Hồng-thiết giáo vội đúng đậy định bắt hai trái đó. Không ngờ hai trái bay đến nhà thủy tạ, tự nhiên đổi chiều bật ra xa, chạm vào nhau đến chát một tiếng. Khói bụi bay mù mịt, bao phủ khắp cả ao, lan đến bờ. Nhà thủy tạ nằm trong vùng khói.
    Lê Ba la lớn:
    - Nguy quá, chạy mau. Xích Trà-Luyện độc khí.
    Xích Trà-Luyện độc khí, một thứ ám khí do giáo chủ Tây-dương Hồng-thiết đời thứ nhì chế. Loại độc khí này phát ra do một trái cầu. Trong trái cầu chia làm hai ngăn cách biệt với nhau. Một ngăn đựng bột độc, một ngăn đựng rượu. Khi trái độc ném vào đâu, vỏ vỡ tung phát ra tia lửa. Trong khi đó, rượu với bột độc lẫn với nhau, thành một thứ hỗn hợp cháy. Hỗn hợp gặp lửa, lập tức bùng lên, biến thành khói độc, bao trùm trong vòng đường kính ba trượng (6 mét). Người nào dù công lực cao đến đâu ngửi vào, chân tay mềm nhũn ra như người không biết võ.
    Loại độc khí Xích Trà-Luyện, chỉ mình Nhật-Hồ lão nhân biết chế. Trước đây trong thời gian Hồng-thiết giáo tranh giang sơn với Thập-nhị sứ quân, lão đem ra xử dụng nhiều lần. Mỗi lần như vậy dù võ lâm cao thủ đến đâu cũng đành bó tay chịu chết. Trong lúc quân hai bên giao tranh, trái độc Xích Trà-Luyện tung ra, đoàn quân bên địch hoàn toàn tê liệt. Cho nên võ lâm Đại-Việt nghe đến tên đều táng đởm kinh hồn.
    Từ khi Nhật-Hồ lão nhân bị đệ tử giam, dối rằng lão chết rồi. Võ lâm tưởng loại độc khí này tuyệt tích. Nào ngờ, hôm nay giữa lúc các đại ma đầu trong Hồng-thiết giáo họp, lại thấy độc khí Xích Trà-Luyện xuất hiện tấn công.
    Cả bọn vội qui tức, vọt người khỏi nhà thủy tạ vào bờ. Người chạy đầu là Phạm Hổ. Gần đến bờ, thì ngay đầu cầu có ba người đứng dàn hàng ngang. Một người vung tay phát chiêu. Bình, bình, bình. Bọn Lê Ba bị đánh bật tung trở lại thủy các. Tuyệt ở chỗ, tên nào tên ấy rơi ngay vào chỗ chúng ngồi.
    Đúng ra, với bản lĩnh cao thâm vô cùng của chúng, trên thế gian này, dễ gì có người chỉ phát hờ một chưởng khiến chúng bay vọt vào như thế. Nguyên chúng thấy độc khí Xích Trà-Luyện, vội qui tức, không thể vận khí được nữa, thành ra chúng trở thành người bình thường. Cho nên người kia chỉ phát chiêu nhẹ, khiến chúng bay vọt trở lại. Chúng ngộp thở, qui tức, lại bị đánh văng trở vào, bắt buộc chúng phải hít một hơi. Hơi độc nhập tạng phủ, gân cốt trở thành mềm nhũn, không xử dụng võ công được, chứ chân tay không bị tê liệt hoàn toàn. Chúng kinh hoảng, ngồi im bất động.
    Bốn người đứng trên bờ cười ha hả, khoan thai theo cầu gỗ vào thủy các. Họ ngồi vào bàn trống của Vũ-nhất-Trụ, Đặng-Trường.
    Tôn Đản hỏi Mỹ-Linh:
    - Bọn nào, mà công lực mạnh đến như vậy? Không lẽ người của Khu-mật-viện?
    Tự-Mai nhăn mặt:
    - Khu-mật-viện không biết xử dụng độc khí Xích Trà-luyện. Cứ chờ xem.
    Một lát sau, khói tan dần, trong ánh sáng lờ mờ, Mỹ-Linh thấy bọn ma đầu, vương mẫu, cùng tất cả mấy cây thuốc đều ngồi ngay ngắn trên ghế, chân tay uể oải như người bệnh. Ba người lạ mặt, tay rót rượu bưng lên uống. Khi khói tan hẳn, Mỹ-Linh nhận ra bốn người là Nhật-Hồ lão nhân, Vũ Nhất-Trụ, Đặng Trường và Nguyễn Chí.
    Mỹ-Linh kinh ngạc không ít, vì rõ ràng Vũ Nhất-Trụ, Đặng Trường, Nguyễn Chí bị Khu-mật-viện giam, mà nay sao chúng lại ở đây. Không lẽ chúng vượt ngục? Hay chú nàng thả chúng ra rồi?
    Bọn Lê Ba nhận ra ba người. Y kinh hoàng kêu lên:
    - Sư phụ, nhị sư huynh, ngũ đệ.
    Không ai bảo ai, chúng đều phục xuống đất rập đầu binh binh lạy Nhật-Hồ lão nhân, rồi phủ phục, không dám đứng dậy nữa.
    Bọn Đỗ Xích-Thập, Phạm Trạch, Lê Đức, Phạm Hổ, Hoàng Liên cùng bật lên tiếng kêu:
    - Sư phụ, ngũ ca. Thì ra lão nhân gia vẫn còn tại thế.
    Lê Đức liếc nhìn Lê Ba:
    - Cách đây hai mươi năm, tam sư huynh nói rằng lão nhân gia qui tiên. Rồi làm lễ an táng, xây lăng, tuyên cáo di chúc của sư phụ... thì ra láo cả!
    Nhật-Hồ cười nhạt:
    - Việc này Đặng Trường đã kể cho ta nghe. Ta cũng còn nhớ. Bấy giờ tuổi ta cao, ta sợ chết đi, uổng quá, nên ngày đêm lo luyện công. Hàng ngày ta cũng uống tinh huyết phụ nữ, đến nỗi mê muội không biết gì, bị tên Lê Ba nịnh hót, nên tin y, để y hầu hạ bên cạnh. Nhất, nhất bao nhiêu chỉ dụ, ta đều sai y truyền cho bọn mi. Y lợi dụng hoàn cảnh ấy, mưu phản ta, hại ta.
    Lão chỉ vào Hoàng Văn:
    - Y biết dù có phản ta, cũng không nắm được giáo đồ. Y bàn với Nhất-Trụ và tên này. Y giả lệnh ta phái Đặng Trường đi Trung-Quốc, phái Đỗ Xích-Thập, Lê Đức đi Tây-dương, phái Phạm Hổ, Hoàng Liên đi Chiêm-thành. Trong khi ở nhà, rình lúc ta xuống hầm tha Nguyễn Chí, rồi xông thuốc mê, giam ta. Một mặt y phao ta bị bệnh nặng. Y đem xác chết nào đó hơi giống ta, dối rằng xác ta. Các người đi vắng, khi về thì y đã chôn ta từ lâu, vì vậy các người tưởng ta chết thực.
    Rồi lão tường thuật tiếp đoạn Mỹ-Linh vào cứu lão với Nguyễn Chí, rồi Vũ Nhất-Trụ bị đánh lừa xuống hầm. Y kéo then cho hầm sập, đổ nước mong lão chết ngộp như thế nào.
    Bọn Đỗ Xích-Thập, Lê Đức, Hoàng Liên xúm vào chửi mắng Lê Ba.
    Nhật-Hồ lão nhân móc trong túi ra một bình thuốc, đưa cho Nguyễn Chí:
    - Trao thuốc giải cho Xích-Thập.
    Bọn Lê Ba bị trúng độc khí Xích Trà-Luyện, gân cốt rủn ra, không xử dụng võ công được, chứ không đến nỗi tê liệt hoàn toàn. Nguyễn Chí trao cho Đỗ Xích-Thập một viên thuốc. Y bỏ vào miệng nuốt trửng, hướng vào Nhật-Hồ lão nhân:
    - Đa ta sư phụ.
    Y rập đầu binh, binh bốn cái liền, rồi đứng dậy, ngồi vào bàn của mình.
    Lê Đức, Phạm Hổ, Hoàng Liên xoè tay ra chờ đợi. Nguyễn Chí đưa mắt nhìn sư phụ. Nhật-Hồ lão nhân mỉm cười:
    - Trao thuốc giải cho chúng.
    Nguyễn Chí trao thuốc cho ba người. Bọn Lê Đức bỏ thuốc vào miệng nuốt, rồi lay tạ Nhật-Hồ lão nhân. Còn lại chỉ có Lê Ba, Hoàng Văn.
    Lê Ba biết nếu không được thuốc giải, thì trong vòng ba ngày, công lực mất hết, y lập tức trở thành một người tàn phế. Y nháy mắt cùng Hoàng Văn, hướng Nhật-Hồ lão nhân rập đầu binh binh:
    - Sư phụ, xin sư phụ mở rộng lòng như biển, tha cho đệ tử một phen.
    Nhật-Hồ lão nhân thản nhiên uống rượu.
    Đặng Trường cười nhạt:
    - Lê Ba, người còn dám coi mình là đệ tử của sư phụ ư? Người đánh thuốc mê, giam sư phụ dưới hầm sâu hai mươi năm nay. Thế mà người dối rằng sư phụ qua đời. Người còn giả di chúc của sư phụ, bắt chúng ta tuân theo. Bây giờ người gì để nói không?
    Lê Ba vốn ngu dốt, xảo quyệt, đến nước cùng đường, y nghĩ: Bề gì mình cũng chết, thì ít ra mình lôi kéo thêm mấy người nữa chết theo. Y nói:
    - Sư phụ, thực tình đệ tử không muốn phản sư phụ. Đây là do Vũ sư huynh cùng với Hoàng sư đệ bàn với nhau. Đệ tử vô tình nghe được, bị Vũ sư huynh ép theo. Mọi việc do đại sư huynh chủ trương hết.
    Đặng Trường cười nhạt:
    - Cứ như mi nói, thì mi là đứa trung thành hẳn? Thế còn việc mi mưu chôn sống sư phụ cùng đại sư huynh với ngũ đệ cũng do lòng tốt của mi mà ra chăng?
    Từ đầu đến cuối, Nhật-Hồ lão nhân không nói một câu, bây giờ lão mới lên tiếng:
    - Nguyễn Chí, việc thẩm cung tội nhân trong hội đồng giáo-vụ trung-ương không thể cho người ngoài biết. Vậy hãy đem những cây thuốc này đi chỗ khác đã.
    Nguyễn Chí móc trong bọc ra mấy viên thuốc. Y kéo hàm từng người trong đám đàn bà, rồi bỏ vào miệng mỗi người một viên thuốc.
    Y hỏi Phạm Hổ:
    - Đám đàn bà này có nguy hiểm chăng? Nên giam lại hay giết đi để trừ hậu hoạn.
    Phạm Hổ chưa kịp trả lời, thì Nhật-Hồ đưa mắt nhìn qua những cây thuốc. Lão vuốt râu:
    - Không nên giết. Giết đi thực phí phạm vô ích. Trên thế gian dễ gì kiếm được những cây thuốc quí như thế này.
    Phạm Hổ cầm dùi gõ vào chiêng ba tiếng. Lập tức từ phía Ngọc-lan đình một lão già tiến ra. Lão nhìn thấy Nhật-Hồ, thì run run quỳ xuống lạy như tế sao:
    - Lão... lão tiên sinh còn tại thế ư?
    Giọng nói đầy vẻ thương cảm, kính trọng. Nhật-Hồ lão nhân vuốt râu cười:
    - Đinh Hiền, ta vẫn còn sống.
    Đinh Hiền chạy lại ôm lấy chân Nhật-Hồ lão nhân mà khóc. Y tỏ ra cảm động thực sự.
    Phạm Hổ bảo Đinh Hiền:
    - Sư đệ đem những cây thuốc quí này sang bên Ngọc-lan đình, bầy cỗ cho họ thưởng trăng Trung-thu, đợi lát nữa, khi có lệnh, lại đưa sang đây hầu hạ lão tiên sinh cùng các vị trong hội đồng giáo vụ trung ương.
    Đinh Hiền dẫn bọn phụ nữ sang phía Ngọc-lan đình.
    Mỹ-Linh đưa mắt cho Tự-Mai, Tôn Đản. Cả ba người lui vào nhà, mở cửa đường hầm, chui xuống, theo lối cũ về Ngọc-lan đình. Đến Ngọc-lan đình, chui lên căn phòng, Mỹ-Linh vẫy tay cho hai sư đệ núp vào gầm một cái ghế trường kỷ lớn. Còn nàng núp sau con hổ nhồi bông.
    Chỉ lát sau, Đinh Hiền dẫn chín thiếu nữ áo hồng cùng bọn Liên-Phương sáu người về tới.
    Đinh Hiền nói với bọn Liên-Phương:
    - Mời các vị tiên cô lên sân thượng. Lão sẽ cho bầy tiệc để các vị thưởng trăng.
    Đám đàn bà đều được thư thả. Chỉ riêng có Liên-Phương, Huyền-Nga, Sa-ki-Na bị xiềng chân tay bằng xích sắt. Họ cùng lên lầu. Đinh Hiền cầm dùi gõ vào cái chuông nhỏ hai tiếng. Lan-Hương từ nhà dưới lên, chắp tay chờ lệnh. Đinh Hiền chỉ lên sân thượng:
    - Sư muội mau cho bầy tiệc, gồm mười lăm chỗ ngồi cho những cây thuốc của các vị đại ca trong hội đồng trung ương giáo vụ. Cử người hầu hạ thực cẩn thận. Sau khi bầy cỗ xong, ta sẽ trở về khai mạc tiệc Trung-thu.
    Nói rồi lão hướng nhà thủy tạ ra đi.
    Lan-Hương rời đình Ngọc-lan một lúc, rồi trở lại với hai thiếu nữ, một thiếu niên trong y phục giáo chúng. Mỹ-Linh thấy trên nút áo của họ đều có sợi chỉ đỏ, thì biết là người của Khu-mật-viện, nàng yên tâm. Nhìn dáng đi của ba người, thấy hơi quen, nhưng trong mờ mờ bóng đèn, nàng không biết là ai.
    Ba thiếu niên theo đám phụ nữ lên sân thượng rồi. Mỹ-Linh từ bóng tối nhảy ra. Lan-Hương giật mình hỏi sẽ:
    - Đã tìm ra người định cứu chưa?
    - Thấy rồi. Chính là hai người đàn bà bị xích chân tay đó.
    Mỹ-Linh nghĩ tới cứu vương mẫu, nàng run run hỏi:
    - Trong trang này còn cao thủ nào không?
    - Các trưởng lão thuộc hội đồng giáo vụ trung ương họp cả ở nhà thủy tạ. Hiện ở Ngọc-lan đình này chỉ có đám giáo chúng phụ trách nấu bếp. Bọm giáo chúng cao cấp khác đang ăn uống ở trên lầu Động-đình. Đinh Hiền là một cao thủ duy nhất có mặt. Phải cẩn thận lắm. Kiếm thuật y bậc nhất trong Hồng-thiết giáo.
    - Chúng tôi lên lầu được không?
    - Cứ việc. Nhưng các vị đừng quên mình là người hầu hạ đấy nhé. Hãy chờ đây một lát, đầu bếp đưa cỗ tới, các vị tiếp lấy, rồi mang lên sân sân thượng. Người trên đó sẽ bầy ra bàn. Các vị chỉ có nhiệm vụ bưng từ đây lên mà thôi.
    Mỹ-Linh vẫy tay cho Tôn Đản, Tự-Mai chui ra. Tôn Đản nói nhỏ:
    - Em thỉnh cầu chị Mỹ-Linh với Tự-Mai một truyện.
    - Truyện gì?
    - Nếu chị với Tự-Mai nghĩ rằng có thể trấn áp tâm thần, khi gặp hai vị bá mẫu, hãy lên lầu cứu các vị. Bằng không đừng lên, e cứu không được người, mà còn làm mất mạng tất cả.
    Mỹ-Linh nhìn Tự-Mai:
    - Em nghĩ sao? Chị ư? Chị có đủ khả năng chế chỉ tâm thần.
    - Được mà. Bộ em cùi sao?
    - Thôi, chúng ta lên lầu.
    Năm đầu bếp đã bưng cỗ đến. Mỹ-Linh đưa mắt cho hai em tiếp lấy, rồi bưng lên lầu.
    Sân thượng khá lớn. Trăng chiếu sáng vằng vặc như ban ngày. Sân thượng trang trí như một vườn hoa. Những chậu hoa toả mùi hương ngào ngạt.
    Ba giáo chúng lên trước đã bầy xong mười lăm cái bàn theo hình bán nguyệt. Ở giữa hình bán nguyệt, còn một cái bàn khá lớn. Bàn, ghế đều làm bằng gỗ sơn son, thiếp vàng. Dưới ánh trăng, phản chiếu long lanh. Mười lăm người đẹp, mỗi người ngồi sau một bàn. Mỹ-Linh, Tự-Mai, Tôn Đản chuyển cỗ cho ba giáo chúng lên trước, để họ bầy ra.
    Sau bốn lần lên xuống, cỗ đã bầy xong. Chín thiếu nữ áo hồng, dường như quen biết nhau, họ trao đổi với nhau những câu truyện vặt về các buổi hiến thân cho bọn trưởng lão hội đồng giáo vụ trung ương luyện công. Cô khoe được Phạm Hổ giữ trong ba tháng liền. Có cô khoe được hầu Vũ Nhất-Trụ. Bọn Xuyên-Thủy, Mỹ-An, Thuận-Ngôn quen biết nhau. Họ nói truyện với nhau rất sẽ. Nội công của Mỹ-Linh cao thâm biết mấy, nhưng cũng nghe câu được câu chăng.
    Triệu Liên-Phương, Cao Huyền-Nga, và Sa-ki-Na ngồi gần nhau, lọt vào giữa hai đám người kia. Ba người ngồi im, không ai nói với ai câu nào cả.
    Cái bàn ở giữa để trống, dường như chờ đợi một nhân vật quan trọng nào ngồi vào đó.
    Khoảng nhai dập miếng trầu, lão Đinh Hiền trở lại. Y tiến đến ngồi vào cái bàn chính giữa. Tay y tháo kiếm để xuống bên cạnh.Thì ra y chủ tọa bữa tiệc hôm nay. Y trịnh trọng lên tiếng:
    - Các vị tiên cô. Như các vị tiên cô biết, Nhật-Hồ lão nhân, vị giáo chủ kính yêu của muôn dân Đại-Việt, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua Xiêm-la vắng bóng trong hai mươi năm, nay người lại trở về. Từ khi người qui ẩn luyện công đến giờ, giáo chúng tản mát khắp nơi. Các vị trong hội đồng giáo vụ trung ương không người chỉ dạy, nên bản giáo trải qua thời kỳ phân hoá.
    Đám phụ nữ nghe lão nói, có ba phản ứng khác nhau. Nhóm chín cô gái áo hồng vui vẻ, mỉm cười khoan khoái ra mặt. Còn nhóm của Đinh Mỹ-An nhăn mày, tõ vẻ khinh bỉ. Nhóm Triệu-liên-Phương lầm lỳ.
    Lão tiếp:
    - Các vị sinh ra có nhan sắc, lại không bệnh tật, trời phú cho trong người tiết ra mùi thơm, vì vậy bản giáo phong các vị làm cây thuốc, để giúp các trưởng lão luyện công. Công lực các trưởng lão cao thâm, là nhờ các vị. Các vị thực có huân công lớn với bản giáo. Năm nước Đại-Việt, Chiêm-thành, Lão-qua, Chân-lạp, Xiêm-la đều tri ân các vị. Hôm nay, sắp Trung-thu, lão phu thay mặt giáo chủ mời các vị dự tiệc. Nào mời các vị.
    Ba giáo chúng tiến đến từng bàn rót nước trà cho những cây thuốc. Mỹ-Linh, Tự-Mai nhìn mẫu thân cúi mặt xuống uống nước ăn bánh. Hai người những muốn nhảy lại ôm lấy mẹ. Song nhớ lời Tôn Đản dặn, đành đứng im.
    Đinh Hiền bưng chung rượu uống cạn, rồi hướng vào Cao Huyền-Nga, Triệu Liên-Phương, Sa-ki-Na:
    - Ba vị là những cây thuốc trân quí bậc nhất trên thế gian này. Khi các vị mới đến đây, lão phu đã cho biết, các vị được là cây thuốc trong bản giáo, thực vinh hạnh, sung sướng nhất thế gian. Thế mà hơi một tý các vị vô phép với bậc trưởng lão. Trước đây, lão phu đã nói, nếu các vị không khéo hầu hạ các trưởng lão. Bắt buộc lão phu sẽ ra lệnh đánh thuốc độc chồng, con, bố mẹ các vị. Nhờ các vị tận tâm hầu hạ chư vị trưởng lão. Cho nên, mấy năm qua, gia đình các vị vô sự. Thế mà hôm nay...
    Lão chỉ vào Sa-ki-Na:
    - Cô nương dám đá trưởng lão Phạm Hổ. Nếu cô nương không khéo hầu hạ Phạm trưởng lão. Người mà nổi giận, ắt đem thân mẫu cô nương ra tùng xẻo. Cô nương phải biết điều chứ?
    Lão chỉ Triệu Liên-Phương, Cao Huyền-Nga:
    - Một cô nương dám đánh trưởng lão Đỗ Xích-Thập. Một cô vô phép với trưởng lão Lê Đức. Đến nỗi phải dùng thần dược mới khiến các cô ngoan ngoãn. Ta nói cho cô nương Liên-Phương biết, chồng cô là Khai-thiên vương sắp lên kế vị làm vua. Con gái cô nương tên Mỹ-Linh, Kim-Thành, Trường-Ninh lớn lắm rồi. Chúng xinh đẹp vô cùng. Nếu cô nương không biết điều, ta sẽ cho đánh thuốc độc giết chồng cô, sau đem con gái cô vào đây thay thế .
    Lão chỉ vào Cao Huyền-Nga:
    - Còn cô. Con trai cô hiện bị chúng ta bắt. Con gái cô tên Thanh-Mai đã lớn, sắp được tuyển làm vương phi Khai-quốc vương. Nếu cô không biết điều, ta đem con trai cô làm cây thuốc cho các bà chức sắc bản giáo. Con gái sẽ thay thế cô.
    Nghe lão Đinh Hiền nói láo quá, Tự-Mai không chịu nổi, nó vọt người tới phóng vào lưng lão một chưởng. Đinh Hiền tuyệt không ngờ một giáo chúng còn trẻ, tự nhiên phóng chưởng đánh lão. Lão tung người lên cao tránh thế chưởng ác liệt. Chưởng phong làm bay cái bàn của lão đi.
    Trên cao, lão phóng xuống một chưởng, chụp vào đầu Tự-Mai. Tự-Mai trầm người, đẩy lên một chưởng. Hai chưởng chạm nhau đánh bùng một tiếng. Đinh Hiền bay bổng lên cao. Trong khi đó Tự-Mai cảm thấy lồng ngực như muốn nổ tung ra. Ở trên cao, Đinh-Hiền kêu lên:
    - Thì ra mi là gian tế của phái Đông-a, len lỏi vào bản giáo.
    Miệng nói, y phóng xuống một chiêu chưởng rất quái dị. Tự-Mai thấy chưởng phong có sát thủ kinh hồn, lẫn với mùi hôi tanh, thì biết y xử dụng Nhật-Hồ độc chưởng. Nó thu chưởng về, nhảy vọt ra ra, tay cầm cái ghế đưa lên đập vào chân lão. Chát một tiếng, cái ghế vỡ tan tành. Đinh Hiền đau thấu tâm can, nhưng y vẫn phóng ra một chiêu độc chưởng. Hai người đứng quá gần nhau. Tự-Mai vội uốn cong người bật ra xa.
    Trong khi Tự-Mai chiết chiêu với Đinh Hiền, Mỹ-Linh chụp kiếm của y để trên bàn. Nàng lách mình một cái đã tới trước Cao Huyền-Nga với Triệu Liên-Phương. Ánh kiếm loé lên, xích chân tay Liên-Phương, Huyền-Nga, Sa-ki-Na bị chặt đứt. Nàng nói với đám Đinh Mỹ-An:
    - Các vị muốn thoát thân hãy theo bọn tại hạ.
    Đến đó Mỹ-Linh quay lại, Tôn Đản đang nhập cuộc đấu với Đinh Hiền. Tự-Mai dùng võ công Đông-a, Tôn Đản dùng võ công Cửu-chân. Tuy hai người đã gặp kỳ duyên, học được bí kíp võ công, nhưng thời gian luyện tập không được bao lâu, lại nữa công lực Đinh Hiền cực kỳ cao thâm, chưởng của lão là độc chưởng, nên hai đứa cứ phải nhảy tránh né.
    Mỹ-Linh sợ dằng dai, bọn Nhật-Hồ tới thì mất mạng. Nàng lạng người đi, đưa một chiêu kiếm vào bụng Đinh Hiền. Đinh Hiền khinh thường, lão dùng hai ngón tay kẹp thanh kiếm của nàng. Không ngờ, Mỹ-Linh chuyển tay một cái, thanh kiếm chĩa vào cổ y. Y kinh hoàng, miệng hét lên be be, bật ngửa người ra sau, lộn đi ba vòng tránh thế kiếm đó. Nhưng khi y vừa đứng xuống thanh kiếm Mỹ-Linh lại chĩa vào ngực, cổ y.
    Triệu Liên-Phương kêu lên tiếng « ủa » kinh ngạc. Còn Đinh Hiền thản nhiên nói:
    - Con bà nó, mi là người hay ma? Kiếm của mi hơi giống Mê-linh kiếm pháp. Song mi dùng tà thuật, mỗ không phục.
    Trên sân thượng đã thêm một giáo chúng nữa, thân thể y cao lớn, đen thùi thũi như than. Người này rút kiếm liệng cho Đinh Hiền. Mỹ-Linh thấy trên cổ giáo chúng nào có sợi dây đỏ. Nàng kinh ngạc tự hỏi:
    - Rõ ràng anh này là người của Khu-mật-viện, tại sao anh ta lại trao kiếm cho Đinh Hiền?
    Đinh Hiền cầm kiếm nhìn Mỹ-Linh:
    - Cô nương tên gì? Ta thấy cô nương xử dụng Mê-linh kiếm pháp, ắt cô nương thuộc phái này. Cô nương ơi! Ta độ chừng đến sư thái Tịnh-Tuệ đấu kiếm với ta cũng chưa chắc hơn nổi. Ta muốn cô nương dạy dỗ cho mấy chiêu nữa.
    Y phóng ra một chiêu kiếm lóe lên như tia chớp. Mỹ-Linh không đỡ, nàng đợi cho kiếm đối thủ sắp tới bên, khẽ lách người một cái tránh khỏi. Tay nàng phóng một chưởng vào ngực Đinh Hiền. Binh một tiếng, Đinh Hiền bay vọt trở lại sau. Y oẹ một tiếng, khác ra bụm máu. Tay y ôm ngực thở hổn hển:
    - Cô nương, chiêu chưởng vừa rồi là Tiêu-sơn tượng đầu chưởng. Vậy cô nương thuộc phái Tiêu-sơn chăng?
    Mỹ-Linh không trả lời. Đinh Hiền phóng liền bẩy chiêu kiếm chụp lên đầu Mỹ-Linh. Mỹ-Linh thản nhiên chiết chiêu. Kiếm pháp Mỹ-Linh xử dụng là Long-biên kiếm pháp, do Vạn-tín hầu Lý Thân thời vua An-dương chế ra. Với pho kiếm này, Lý Thân thắng hết các kiếm khách Trung-nguyên. Đến thời vua Trưng, Đào Kỳ, Phật-Nguyệt, Phương-Dung học được, làm anh hùng Trung-nguyên kinh hồn táng đởm. Kiếm pháp đặt trên cơ sở, Bát-quái, lấy mau thắng chậm. Trong khi đó kiếm pháp của Đinh Hiền là kiếm pháp Nhật-Hồ cũng lấy mau thắng chậm. Vì vậy hai người đấu với nhau, như hai quả cầu bạc.
    Từ khi học được kiếm pháp Mê-linh. Mỹ-Linh đã đấu với Cao Thạch-Phụng, Nguyên-Hạnh, nàng đều thắng một cách dễ dàng. Hôm nay, nàng mới gặp một kiếm khách xứng đáng.
    Đấu được trên trăm hiệp, Mỹ-Linh muốn hạ y thực không khó. Nhưng nàng muốn nghiên cứu kiếm pháp Nhật-Hồ danh trấn Hoa-Việt xem sao. Vì vậy nàng khoan thai ra chiêu, tay trái bắt kiếm quyết.
    Bỗng Tự-Mai lên tiếng:
    - Mau lên chị tư ơi!
    Mỹ-Linh tỉnh ngộ, nàng nhảy xéo về bên trái đưa mũi kiếm vào giữa cổ Đinh Hiền. Y vung kiếm đỡ. Nhưng kiếm Mỹ-Linh co lại như con rắn. Y đỡ hụt. Kiếm Mỹ-Linh vọt tới, mổ vào vai phải y. Kiếm y rơi xuống sân thượng. Mỹ-Linh chĩa kiếm vào cổ y. Nàng hỏi:
    - Mi phục chưa?
    Đinh Hiền lòng nguội như tro tàn. Từ trước đến nay, y tự hào kiếm thuật của mình cao bậc nhất Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Không ngờ đêm nay bị bại dưới tay một cô gái vô danh. Y thở dài:
    - Lão phu xin phục cô nương. Nhưng lão phu có một điều thắc mắc: Không biết cô nương là cao đồ của vị tiền bối nào?
    Mỹ-Linh nói thực:
    - Tôi có hai sư phụ. Một vị là cao tăng phái Tiêu-sơn, một vị là thúc phụ của tôi. Song rất tiếc tôi không thể nói tên các ngài ra được.
    Tên giáo chúng ném kiếm Đinh Hiền nói:
    - Đinh tiên sinh. Chúng tôi mạn phép mời tiên sinh đưa chân chúng tôi rời khỏi đây với mấy « cây thuốc » này. Mong tiên sinh thuận cho.
    Tự-Mai nói với mọi người:
    - Ai muốn thoát khỏi cảnh này, mau theo bọn tại hạ.
    Chín cô gái áo hồng, cùng ba giáo chúng hầu hạ lắc đầu. Còn lại bọn Triệu Liên-Phương sáu người đều đứng dậy, theo sau Tự-Mai. Gã giáo chúng đen thui lấy giây trong bọc ra trói sáu cô gái lại thành một chùm, xé vạt áo nhét vào miệng các cô, rồi nói:
    - Chúng ta đi thôi.
    Tự-Mai nhìn gã giáo chúng đen thui, nó tự nghĩ:
    - Anh này hành sự mẫn cán. Anh ta trói ba giáo chúng vốn là người của Khu-mật-viện lại như vậy, để bọn Hồng-thiết không ngờ vực họ, hầu họ tiếp tục công tác.
    Mỹ-Linh đi theo Đinh Hiền, chĩa kiếm vào lưng bắt y đi trước. Phía sau là bọn Tự-Mai, Tôn Đản với sáu « cây thuốc ». Ra khỏi Ngọc-lan đình, tên « giáo chúng đen thui » chợt nhớ ra điều gì, y vào bếp, trói Lan-Hương với mấy người làm bếp lại, rồi cũng nhét nhẻ vào miệng.
    Rời khỏi khu vực Ngọc-lan đình, tới bờ sông, đã có con đò chờ sẵn ở đó. Trên đò có hai cô gái, một cô lái, một cô chèo. Bấy giờ tên giáo chúng đen thui mới gỡ lớp đất đắp trên mặt ra.
    Tự-Mai kêu lên:
    - Anh Thiệu-Thái.
    Mỹ-Linh thấy người yêu, nàng mừng khôn xiết. Thiệu-Thái nói nhỏ vào tai Mỹ-Linh, Tự-Mai:
    - Cậu hai dạy, tuyệt đối không được lộ thân thế ra cho mẫu thân các em biết. Vì cần bảo vệ danh dự các bà.
    Thiệu-Thái ra lệnh:
    - Mời các vị xuống đò.
    Đinh Hiền hỏi Mỹ-Linh:
    - Cô nương định bắt ta đi đâu đây?
    Thiệu-Thái lạnh lùng:
    - Chúng tôi mời tiên sinh đến thăm Khu-mật-viện.
    Nghe đến Khu-mật-viện, Đinh Hiền kinh sợ:
    - Các vị là quan quân ư?
    Tự-Mai đáp:
    - Đúng thế.
    Con đò rời bờ sông, đi về phía bến Ngự-long. Khi sắp đến bến Ngự-long, cô gái chèo đò bỗng cất tiếng hát:

    Sông hồ một giải con con,
    Gặp cơn sóng gió, chớ non tay chèo.
    Yêu nhau, sinh tử đã nhiều.
    Thương nhau, lặn suối, qua đèo có nhau.


    Lập tức một chiến thuyền trên bến Tiềm long có hai ngọn đèn đưa lên, đưa xuống làm hiệu. Cô lái đò cho mũi thuyền quay vào. Đò tới bến. Trên bến đã sẵn sáu cái kiệu. Một người mặc quần áo như thái giám đang đứng chờ. Y nói với bọn Triệu Liên-Hương:
    - Mời các vị lên kiệu.
    Sau khi rời khỏi Ngọc-lan đình, Liên-Hương không nói một câu. Vì kể từ lúc bị Lê Ba lấy ra khỏi quan tài, cho xác người khác vào thay thế, bà mê mê tỉnh tỉnh, không biết chúng giam mình ở đâu. Trong suốt hai năm bà phải làm « cây thuốc » cho bọn Nhật-Hồ luyện công, đổi lấy an ninh cho chồng con. Bởi chúng đe doạ, nếu bà tự tử, chúng sẽ đánh thuốc độc giết chồng bà cùng các con. Bây giờ bà mới nhận ra, nơi mình bị giam không xa kinh thành Thăng-long làm bao.
    Bà hỏi tên thái giám:
    - Người đưa ta đi đâu?
    Tên thái giám không biết bà là vương phi của Khai-thiên vương:
    - Tôi được lệnh đón các cô bằng kiệu. Lát nữa các cô sẽ biết mình về đâu.
    Có sáu võ sĩ trói Đinh Hiền lại.
    Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Tôn Đản, Tự-Mai lên ngựa theo sau sáu cái kiệu. Kiệu vòng sang cửa Đại-hưng, vào điện Uy-viễn thì ngừng lại. Sáu người đàn bà, đã có sáu cung nữ khác nhau đón.
    Bọn Mỹ-Linh, Thiệu-Thái bước vào cửa chính Khu-mật-viện. Bên trong, Khai-quốc vương cùng ngồi với đại sư Huệ-Sinh, đạo sư Nùng-Sơn tử, Tạ Sơn. Huệ-Sinh vẫy tay ra hiệu miễn lễ.
    Khai-quốc vương đứng dậy vòng tay ôm lấy đầu Mỹ-Linh vào ngực:
    - Con gái chú giỏi quá. Mới mấy tháng qua, mà con đã đổi từ một cô gái khuê các thành một người kinh lịch như một tướng ngoài biên cương.
    Ông bảo Tự-Mai:
    - Em thuật cho anh nghe hết mọi sự từ khi xẩy ra.
    Tự-Mai thuật chi tiết, không thiếu chút nào. Nó thắc mắc:
    - Tại sao ba tên Vũ Nhất-Trụ, Đặng Trường, Nguyễn Chí đang bị giam tại đây, mà chúng lại đi với lão Nhật-Hồ?
    Khai-quốc vương cười:
    - Em thử đoán xem?
    Tự-Mai lắc đầu:
    - Em đoán không ra.
    Khai-quốc vương vỗ đầu nó:
    - Để anh giảng cho em nghe, hầu thêm kinh nghiệm.
    Vương trầm tư một lúc rồi nói:
    - Khi anh lên cầm quyền Thái-úy, thì đã biết Đàm Can tức Vũ Nhất-Trụ là một trưởng lão cuả Hồng-thiết giáo. Vì vậy anh phải tâu với phụ hoàng thăng chức tước cho y, hầu đẩy y rời khỏi Khu-mật-viện. Tuy vậy chân tay của y trong viện còn khá nhiều. Anh cứ để im, theo dõi. Hôm nay, sau khi thẩm vấn, anh thả Nhật-Hồ lão nhân ra, để lão về kiến thiết lại Hồng-thiết giáo.
    Mỹ-Linh gật đầu tỏ ý hiểu:
    - Nếu giết, hay bỏ tù lão, thì tên Lê Ba cầm quyền. Hồng-thiết giáo vẫn mạnh. Nay tha lão ra, tất lão thanh toán tên Lê Ba. Mà hơn hai chục năm nay, giáo chúng toàn chân tay của Lê. Do vậy lão phải thanh toán hết. Ta mượn tay lão tàn phá Hồng-thiết giáo.
    Tự-Mai à lên một tiếng:
    - Chắc chắn anh cả dùng một tên giáo đồ gian tế trong Khu-mật-viện, báo tin cho Nhật-Hồ biết nơi giam Nhất-Trụ, Đặng Trường, Nguyễn Chí. Lão ắt tới cứu chúng ra. Ba tên này cũng có một số chân tay theo chúng. Như vậy cuộc tàn sát trong Hồng-thiết giáo mới kinh khủng hơn.
    Khai-Quốc vương hỏi Tôn Đản:
    - Còn nữa. Em thử nói xem có đúng không nào?
    Tôn Đản nhăn mũi lại:
    - Dễ quá. Anh đã biết tên Vũ Nhất-Trụ là Đàm Can. Chức tước của y tuy bị cách, nhưng vợ con y còn đó. Anh ra lệnh cho y phải làm tai mắt cho triều đình trong Hồng-thiết giáo, bằng không, anh đem cả ba họ y ra chặt đầu.
    - Chưa hết.
    Tự-Mai cười khúc khích, rồi nó ôm gối
    không nói gì. Khai-quốc vương vỗ lưng nó:
    - Em biết rồi hả. Giỏi đấy.
    Mỹ-Linh ngơ ngác:
    - Còn gì nữa? Tự-Mai cho chị biết đi.
    Tự-Mai đến bên Mỹ-Linh:
    - Mỏi lưng quá, chị đấm lưng cho em một tý đi.
    Mỹ-Linh không đừng được, dùng tai tay tẩm quất cho Tự-Mai. Tự-Mai cười khúc khích:
    - Sướng thực. Được công chúa đấm lưng cho thì còn gì bằng nữa. Nào bây giờ thầy đồ nói cho công chúa nghe. Lát nữa đây, em đem kiệu đưa mẫu thân về gặp bố. Em kể cho bố nghe về vụ tên Đặng Trường giả thua để bị chú em bắt sống, chính y là người đánh thuốc độc mẹ em. Như vậy ngày mai này, bọn Nhất-Hồ xuất hiện với mưu đồ giả giúp Hồng-Sơn đại phu hầu gây cho Đại-Việt rối loạn, quân Tống sang. Chúng được thể đứng lên xuất lĩnh anh hùng chống xâm lăng. Bố em sẽ đập chết chúng. Mà bố em đập chết chúng, đương nhiên bỏ không giúp Hồng-Sơn đại phu ép Thuận-thiên hoàng đế thoái vị nữa.
    Nùng-Sơn tử nghiêm trang nói:
    - Bây giờ, những đau khổ của vương phi Khai-thiên vương, cũng như phu nhân Thiên-trường, Hồng-sơn phải giữ thực kín. Nếu không, ba vị đó ắt tự tử. Như vậy chẳng hoá ra các bà sống với Hồng-thiết giáo không sao, khi về với triều đình lại bị dồn vào chỗ chết.
    Khai-quốc vương đứng dậy:
    - Hà! Tự-Mai, Thiệu-Thái đi với anh được rồi.
    - Đi đâu?
    - Đem Hồng-Sơn phu nhân về với chồng con.

    <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.01.2005 08:32:48 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 11.01.2005 18:08:47 (permalink)
      Hồi thứ năm mươi ba


      Ân Trả, Nghĩa Đền



      Khai-quốc vương cho mời Vũ Thiếu-Nhung ra. Vương kính cẩn nói:
      - Phu nhân. Tại hạ cứu phu nhân khỏi cảnh tù đầy, nhục nhã, lát nữa đây đưa phu nhân về gặp đại phu cùng tiểu thư, công tử. Không biết phu nhân nghĩ sao?
      Vũ Thiếu-Nhung quì mọp xuống khấu đầu:
      - Vương gia, thiếp biết tội quá nhiều. Chỉ mong vương gia mở lòng từ bi cho thiếp được gặp mặt chồng con, rồi thiếp chịu ngựa xé, voi dày.
      Vương phất tay, đỡ bà dậy:
      - Phu nhân bị hành hình, chết là hết, phần của phu nhân coi như xong. Phu nhân nghĩ sao khi thiên hạ đàm tiếu người sống? Đại phu thân bại danh liệt vì phu nhân. Tiểu thư hiện là một vị cô nương sắc nước hương trời, võ công, y đạo quán chúng. Công tử tuy chưa trưởng thành, nhưng tài năng phát triển, hơn hẳn bất cứ thiếu niên nào đồng tuổi. Không lẽ phu nhân để hai con bị người đời đàm tiếu vì bà mẹ ô danh thất tiết sao?
      Thiếu-Nhung run run:
      - Thiếp mong vương gia chu toàn cho. Thân này nguyện làm trâu ngựa báo đáp công ơn.
      Vương thở dài:
      - Tốt hơn hết chúng ta dấu biệt. Nói dối tuy xấu, nhưng nói dối mà cứu được người, ta nề quản gì? Chúng ta chỉ nói cho đại phu biết, phu nhân bị giam dưới hầm kín, tra khảo nơi dấu Thiên-vương mật dụ. Phu nhân nhất định không khai. Thế thôi.
      - Thiếp không còn muốn sống nữa!
      - Phu nhân có phải loại người dâm đãng, muốn thất tiết đâu? Phu nhân phải chiều lão Nhật-Hồ, vì muốn cho chồng con khỏi bị hại mà! Được, coi như phu nhân phạm trọng tội đi. Trong Hình-thư có khoản Bát-nghị. Phu nhân vì xã tắc làm một việc quan trọng, có thể lấy công ấy mà chuộc tội.
      - Xin vương gia cho biết thiếp phải làm gì? Dù nhảy vào miệng cọp thiếp cũng xin tuân lệnh vương gia.
      - Điều này cũng dễ thôi. Phu nhân không được nói ra sự thực với đại phu. Cũng không được tự tử. Đó là hai điều giản dị tại hạ yêu cầu.
      Thiếu-Nhung cảm thấy vị vương gia trước mặt thực hào sảng. Lúc đầu nghe vương nói phải làm hai điều ích quốc lợi dân, bà tưởng điều đó khó khăn thế nào. Hóa ra hai điều chỉ thu về một mối tha tội cho bà.
      Vũ Thiếu-Nhung chắp tay:
      - Vương gia thực là đại anh hùng.
      Khai-quốc vương đứng dậy hô:
      - Đem kiệu ra mau!
      Đêm mười tháng tám, trăng sáng tỏ như ban ngày. Dân chúng trong thành Thăng-long treo đèn, kết hoa. Trai thanh gái lịch chen chúc nhau thưởng trăng tết Trung-thu. Chỗ này múa sư tử, chỗ kia hát xướng. Lại có chỗ trai gái họp nhau hát trống quân đối đáp.
      Thông thường Khai-quốc vương hành sự rất kỳ bí, ít khi phô trương. Vương đi đâu, cũng chỉ có sư phụ Huệ-Sinh với đạo sư Nùng-Sơn tử là quá, không bao giờ vương dùng nghi vệ như các quan khác.
      Hôm nay, trường hợp đặc biệt, Long-thành người nghẹt trên đường, nếu không dùng nghi vệ, e khó có thể đưa Vũ Thiếu-Nhung đến hồ Tây vào trước nửa đêm. Vương phải dùng đến một kỵ mã đi phía trước kiệu của Vũ Thiếu-Nhung. Phía sau ba ngựa. Đó là ngựa của Khai-quốc vương, Thiệu-Thái, Tôn Đản. Họ đi về phía hồ Tây. Khi tới chỗ đóng trại của phái Sài-sơn, viên kỵ binh hô lớn:
      - Có Lý Long-Bồ phái Tiêu-sơn, cầu kiến Hồng-Sơn đại phu.
      Tiếng nói của viên kỵ binh rất lớn. Hồng-Sơn đại phu đang ngồi ngắm trăng cùng Lâm Huệ-Phương với các đệ tử, ôn kế hoạch sắp phải làm những gì. Nghe tiếng hô, đại phu kinh hoảng:
      - Tên Lý Long-Bồ là anh hùng đời nay. Y đang cầm đại quyền triều Lý. Ngày mai này mình sẽ cùng cha con hắn tranh dành lại ngôi vua. Đêm hôm, hắn đến đây làm gì?
      Lâm Huệ-Phương nghe Khai-Quốc vương đến, mặt nàng đỏ hồng lên. Hình ảnh vương ôm nàng lên giường, tay cởi nút áo lại hiện ra. Nàng nói với chồng:
      - Người ta lấy lễ võ lâm xin cầu kiến. Anh nên gặp xem sao. Em tạm lánh mặt.
      Đại phu cùng các đệ tử ra ngoài đón. Thấy Khai-quốc vương uy nghi, phong tư tiêu sái khác thường, ông chắp tay:
      - Đêm hôm mà vương gia còn gía lâm, chắc có điều chi dạy bảo.
      Vương chắp tay chỉ vào kiệu phía sau:
      - Không có việc gì khẩn, đâu dám phiền đại phu giữa đêm trăng đẹp thế này. Tại hạ nhân truy lùng trộm cướp, gặp một mệnh phụ phu nhân, dung nhan không kém Mỵ-Châu, ôn nhu e chẳng thua Hoàng Thiều-Hoa thời Lĩnh-nam. Ngặt vì vị phu nhân đêm nhớ ngày mong gặp chồng con, mà thành bệnh. Tại hạ phải đưa đến cầu đại phu trị cho.
      Đại phu mời Khai-quốc vương vào lều, truyền pha trà. Phân ngôi chủ khách. Thiệu-Thái, Tôn Đản khoanh tay đứng hầu sau lưng vương. Hồng-Sơn đại phu chưa gặp Tôn Đản bao giờ. Còn Thiệu-Thái, ông đã trị bệnh cho. Ông nhìn chàng:
      - Tiểu huynh đệ. Người thực có tiền duyên, tiền nghiệp tốt lành vô cùng. Người mới bằng này tuổi, mà đã được thọ lĩnh Thiền-công tới mức tối cao, thực hiếm có. Ta nghĩ trước đây chỉ có đại hiệp Trần Tự-Viễn mới có thể luyện tới mức này mà thôi.
      Trần Tự-Viễn sáng lập ra phái Đông-a, được ngài Pháp-Hiền truyền Thiền-công. Nhưng ông lại chính là tổ sư ngoại công phái Tiêu-sơn.
      Ông tiếp:
      - Tiếc rằng người tuy thọ lĩnh Thiền-công cao, nhưng lại chưa luyện Thiền-công bao giờ, thành ra không biết xử dụng. Cũng giống như đứa trẻ, được hưởng một kho vàng, mà không biết tiêu. Trước đây, người học võ công Tây-vu. Võ công Tây-vu cũng một thứ võ công có sát thủ kinh người. Khi xử dụng, nhãn pháp phải như muốn ăn tươi nuốt sống địch thủ. Ý tưởng phải như muốn làm đối thủ tan thây nát thịt. Trong khi đó nội công của người thuộc Thiền-công cần bỏ ra ngoài nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý. Người phải nhớ giữa cái sắc tướng của ngoại công Tây-vu với cái không tướng của nội công Tiêu-sơn trái ngược. Vì vậy khi người phát chiêu Tây-vu bằng nội công Tiêu-sơn, chưởng không ra là thế.
      Hồng-Sơn đại phu chợt nhớ ra:
      - Như vậy tiểu huynh đệ với Bảo-Hòa liên hệ thế nào?
      Thiệu-Thái gật đầu:
      - Hôm Bảo-Hòa về Thăng-long gặp vãn bối. Em nó nhắc đến đại phu luôn. Nó nhớ quý tiểu thư cùng quý công tử ngày đêm.
      Khai-quốc vương thấy Hồng-Sơn đại phu chỉ nhìn tướng đi của Thiệu-Thái mà biết rõ nội công trong người, vương phục vô cùng:
      - Ông này nổi tiếng một trong Đại-Việt ngũ long có khác. Kiến thức võ công quả siêu phàm.
      Hồng-Sơn đại phu nhìn Tôn Đản:
      - Tiểu huynh đệ, người quả xứng đáng hậu duệ của Bắc-bình vương Đào Kỳ. Tuổi người bất quá mười lăm, mười sáu, mà đã học được tuyệt nghệ của võ công Cửu-chân.
      Ông chau mày:
      - Ừ, người học được hết căn bản võ công Cửu-chân xưa. Chứ võ công Cửu-chân truyền đến nay cho phái Mê-linh không thể so sánh với người. Nhưng tiếc quá. Tiếc quá!
      Tôn Đản cung kính:
      - Xin đại phu chỉ dạy cho cháu những chỗ sai lầm.
      - Sai lầm thì không có đâu. Nếu người học được thuyết âm-dương hỗ căn. Sau đó tìm cho ra nội công âm nhu của phái Long-biên xưa mà hợp lại, công lực người sẽ cao thâm khôn lường.
      Ông thở dài:
      - Không biết nội công Long-biên xưa, nay phái Mê-linh có còn lưu truyền được hay không?
      Chợt ông nhớ ra:
      - Phải rồi! Hôm trước lão phu thấy quận chúa Bảo-Hòa có luyện được nội công này.
      Ông quay lại nói với Khai-quốc vương:
      - Xin cho tôi gặp bệnh nhân.
      Màn kiệu mở ra. Vũ Thiếu-Nhung oà lên khóc. Bà ôm lấy chân đại phu:
      - Đại phu! Thiếp còn sống về hôm nay, nhìn thấy đại phu đều nhờ vương gia đây.
      Hồng-Sơn đại phu vốn thông minh tuyệt đỉnh. Hôm trước nghe Tự-Mai, Mỹ-Linh bảo có thể cải tử hoàn sinh vợ ông. Ông đã nghi. Hôm nay, thấy người vợ chết đã bốn năm ngồi trước mặt, đó là điều ông kinh ngạc đến ngẩn người ra. Ông đỡ bà dậy hỏi:
      - Phu nhân. Rõ ràng chính tay ta liệm phu nhân, mà sao phu nhân lại còn sống?
      Phía sau màn, Thiếu-Mai, Lê Văn chạy ra ôm lấy mẹ.
      - Mẹ! Mẹ còn sống đấy à? Hôm trước Mỹ-Linh, Tự-Mai qua đây nói rằng sẽ cải tử hoàn sinh cho mẹ. Bố không tin. Không ngờ lại là sự thực.
      Thiếu-Nhung ôm lấy hai con, khóc òa lên:
      - Con ơi! Mẹ chết đi trăm lần, mà sống lại được, đều nhờ vương gia đây. Các con mau tạ ơn vương gia đi.
      Thiếu-Mai, Lê Văn đã cùng Hồng-Sơn đại phu luận bàn suốt năm qua về việc phục hưng nghiệp cũ của nhà Lê. Trước mắt hai người, Thuận-thiên hoàng đế là cường thần, tặc tử. Khai-quốc vương cầm đại quân trong tay, ông trở thành đệ nhất đối đầu của nhà Lê. Thế mà nay, mẹ nàng được vương cải tử hoàn sinh. Bà bảo hai người lạy tạ, sao có thể chối được? Hai người vội quì gối hành đại lễ. Khai-quốc vương phất tay, xử dụng một chiêu trong Tiêu-sơn tượng đầu chưởng, đỡ hai người dậy:
      - Công tử, tiểu thư không nên đa lễ. Huống hồ hai vị với Thanh-Mai có tình sư huynh, sư đệ đồng môn.
      Cả nhà đầy nước mắt. Thiếu-Mai đưa mẹ vào trong lều. Ngoài này Hồng-Sơn đại phu vỗ tay vào nhau:
      - Lý vương gia! Ta thua người một trận ân tình nặng quá. Nhưng ta chỉ lùi bước trước người, chứ không lùi bước trước họ Lý đâu. Ta chịu ơn vương gia. Bảo rằng vương gia cứu tiện nội, mà ta bỏ đại nghiệp của tổ tiên ta không bỏ đâu.
      Khai-quốc vương bưng chung trà uống:
      - Đại phu! Giữa việc tại hạ cứu phu nhân với công việc phục hồi Lê triều hoàn toàn khác nhau. Tại hạ cứu phu nhân không phải để đòi đại phu phải thế này, thế nọ. Tại hạ đến đây không phải Khai-quốc vương triều Lý để gặp Nam-quốc vương triều Lê. Mà là đệ tử của phái Tiêu-sơn, gặp đại phu chưởng môn phái Sài-sơn.
      Nghe Khai-quốc vương nói, Hồng-Sơn đại phu cảm thấy thẹn trong lòng. Ông tự chửi thầm:
      - Mình mới ra quân lần đầu, đã bị con trai Lý Công-Uẩn đánh cho đại bại rồi. Hôm trước mình bắt Bảo-Hoà, Mỹ-Linh phải chối bỏ họ Lý, mới trị bệnh cho. Hai đứa trẻ thà chết, chứ không chịu điều kiện đó. Mình giam lỏng chúng tại Vạn-thảo sơn trang. Rồi chúng tự trị lấy bệnh. Lại nữa, mình trị bệnh cho Thân Thiệu-Thái, bắt y với Mỹ-Linh không được chống lại phái Sài-sơn, với ý nghĩ rằng ngày mai này, thế nào cũng có cuộc long tranh, hổ đấu. Hai đứa đó không thể giúp Lý Công-Uẩn chống mình. Thế mà bây giờ tên Lý Long-Bồ, bằng cách nào đó cải tử hoàn sinh cho vợ mình. Nó lại không đòi hỏi gì cả. Mình thực không bằng nó. Hà... mình thua nó một trận đậm quá.
      Đại phu thở dài:
      - Phàm làm anh hùng, phải lấy lòng mà đãi nhau. Vương gia đã lấy hiệp nghĩa giúp ta, trong khi ta đang chống đối họ Lý. Ta không muốn ngồi mát ăn bát vàng. Ta có đưa cho Mỹ-Linh ba tượng của Thiên-vương. Vương gia có thể xử dụng. Mỗi tượng, vương gia được yêu cầu ta làm một việc.
      Khai-quốc vương trịnh trọng mở chiếc hộp bằng gỗ trầm. Trong bọc có ba tượng của Phù-đổng Thiên-vương, mà Hồng-Sơn đại phu trao cho Mỹ-Linh. Vương đặt lên bàn:
      - Mỹ-Linh là con gái của huynh trưởng tại hạ. Nó vốn mồ côi, tại hạ lại chưa nạp mỹ nữ, nên nhận nó làm con. Tại hạ bận rộn, ít thời giờ dạy dỗ cháu, vì vậy nó mới vô phép, nhận ba tượng này của đại phu. Tại hạ nhân danh bố nuôi, giáo bất nghiêm, lỗi ở tại hạ cả. Xin đại phu xá tội.
      Vương đứng lên xá ba xá, tỏ ý tạ lỗi.
      Hồng-Sơn đại phu tiếp lấy ba tượng, rồi hỏi:
      - Tôi nghe đồn, Khai-quốc vương chưa nạp bất cứ phi tần nào, có đúng không? Phải rồi, hẳn vương chưa tìm được giai nhân vừa ý đó thôi.
      Khai-quốc vương ngửa mặt nhìn trăng:
      - Đã hai lần phụ hoàng tuyển cho tại hạ được hai đệ nhất giai nhân. Sắc đẹp có một không hai trên đời. Một người kiến thức quảng bác, võ công vào loại hiếm có. Tại hạ mới thấy đã tự cảm ơn Trời, Phật ban cho đóa hoa trân quí trên trần gian.
      Hồng-Sơn đại phu ngạc nhiên:
      - Thế nay giai nhân đó đâu?
      - Nói dấu gì đại phu... Trong lúc tại ha say men tình, đến nỗi như người trong giấc mơ. May đâu giai nhân thố lộ cho biết nàng đã có ý trung nhân. Tại hạ tỉnh người dậy, tạ lỗi với nàng, giúp nàng vàng bạc, đi tìm người yêu.
      Trong màn, Vũ Thiếu-Nhung, Thiếu-Mai, Lê Văn cùng bật lên tiếng kinh ngạc « ui chà », « ái chà ». Còn Lâm Huệ-Phương biết vương nhắc đến truyện nàng hồi trước. Mặt nàng đỏ lên, chân tay run run, tim đập liên hồi.
      Bên ngoài Hồng-Sơn đại phu nghĩ thầm:
      - Người này quả thực xứng danh đại anh hùng, mới có thể dứt bỏ dục vọng, giữ đại nghĩa như vậy. Ta thực không bằng.
      Đại phu tiếp:
      - Thế còn người thứ nhì?
      - Nàng xuất thân đệ nhất đanh ca Long-Thành. Sắc đẹp hoa khôi thiên hạ. Khi nàng về với tại hạ, nàng cũng thố lộ tâm tư rằng trước đây, trong một đêm trăng, nàng du ngoạn trên sông Hồng, bị bang Hồng-hà toan bắt cóc. May nhờ một võ lâm cao thủ cứu thoát. Từ đấy trong tâm nàng đã có bóng dáng tình quân. Tại hạ lại cho nàng vàng bạc, đi tìm người tình. Hiện nàng đang sống hạnh phúc bên chồng.
      Hồng-Sơn đại phu giật mình:
      - Hoa khôi Long-thành à? Tại hạ nghe nói Long-thành có ba hoa khôi. Một tên Yên-Hoa đã làm thứ phi của Dực-thánh vương. Hai tên Lê Mai đã làm phu nhân đô nguyên soái họ Đàm. Ba tên Đào Hà-Thanh. Không lẽ là nàng đó?
      - Vâng, đúng nàng.
      Hồng-Sơn đại phu nghĩ thầm:
      - Ta nghi tên này bịa truyện hoang đường. Chứ đời nào có người thấy hoa đẹp vào tay, lại trao cho người khác? Huống hồ... Ta phải lật mặt nạ hắn mới được.
      Ông hỏi:
      - Vương gia nói lạ. Lòng dạ vương gia quảng đại thì ta tin. Nhưng phàm vợ do bố mẹ cưới, đâu có thể nhượng cho người khác. Huống hồ vợ một vị vương, cao quí biết mấy, mà trả về với tình lang, e chính vương gia làm đảo lộn Hoàng-thành. Tội đó nhẹ, mất thì tước vương, đuổi ra ngoài dân dã. Nặng, thì bị mất đầu. Nếu vương gia tỏ ra rằng những điều vương gia nói, có chứng cớ, ta nguyện cắp gươm theo hầu, hai tay dâng sự nghiệp lên vương gia.
      Khai-quốc vương nhìn trăng:
      - Đại phu không tin, tại hạ cũng đành vậy thôi.
      - Khi nào vương gia chứng minh được những điều vương gia vừa kể, lão phu xin lùi bước, trao giang sơn cho vương gia. Trao giang sơn cho vương gia, không phải lão phu đánh cuộc đâu. Tại sao vậy? Tại hạ muốn tranh lại thiên hạ, chỉ cũng với mục đích mưu hạnh phúc cho dân. Nay vì đất nước này có người anh hùng hào sảng đến thế, hỏi tại hạ còn muốn làm vua chi nữa cho khổ thân? Để vị anh hùng đó cai trị dân, mới mong nước mạnh, dân an.
      Lâm Huệ-Phương nghe chồng nói vậy, nàng nghĩ rất nhanh:
      - Chồng ta có làm vua, cũng không sướng bằng địa vị hiện tại. Ta khuyên hoài, mà người không nghe. Người đang đi vào con đường tà, do bọn Tống gài bẫy. Nhân dịp này, ta phải kéo chàng về thực tại.
      Nàng mở màn bước ra, quì gối trước Khai-quốc vương:
      - Tiện thiếp ở trong màn, nghe tiếng nói của vương gia, lúc đầu nghi không phải. Bây giờ đích thực là vương gia rồi. Tiện thiếp kính xin vương gia nhận cho bốn lạy ân tình này.
      Nói rồi nàng lạy liền bốn lạy. Khai-quốc vương để cho nàng lạy xong. Vương hỏi:
      - Huệ-Phương, sao nàng cũng có ở đây, mà không đi tìm tình quân?
      Nước mắt Huệ-Phương dàn dụa:
      - Thiếp đã tìm thấy tình quân. Tình quân chính là đại phu đây. Hơn năm nay, thiếp ngụp lặn trong hạnh phúc cũng nhờ lượng cả của vương gia.
      Hồng-Sơn đại phu hỏi:
      - Huệ-Phương, thế này ta không hiểu nổi.
      Lâm Huệ-Phương dàn dụa nước mắt nói:
      - Hôm em tìm đến anh, em đã thuật rằng khi tuyển cung, em được gả về làm phi tần cho một vị thái tử. Thái tử thấy em khóc, hỏi tại sao. Em thưa rằng em yêu anh, mà nay làm vương phi, nợ tình bao giờ trả hết ? Vị thái tử bảo em: « Nếu ta giữ nàng, ta thành đồ cường hào cướp vợ người. Mà cho nàng về với tình quân, phụ hoàng có thể chặt đầu ta. Thôi ta thà chịu làm ma không đầu, chứ không muốn bất nghĩa”.
      Rồi thái tử đó cho em vàng, bạc đi tìm anh. Anh hỏi em tên thái tử. Quả thực em không muốn nói cho anh biết. Hôm nay duyên may dun dủi, ngồi trong màn, trộm nghe tiếng vương gia, em mới biết mình có đại phúc được gặp lại ân nhân.
      Hồng-Sơn đại phu nắm tay Huệ-Phương, ngửa mặt lên trời than:
      - Ta nổi danh một trong Ngũ-long Đại-Việt. Mà chính thê bị cướp bắt giam, không cứu ra được, để người cứu cho, chịu ơn người. Kế thất, lại được người vì đại nghĩa nhường lại. Than ôi! Tài ta thua Long-Bồ. Nghĩa Long-Bồ cao hơn núi Hồng-lĩnh. Ta chịu thua!
      Ông nhìn Huệ-Phương, Vũ Thiếu-Nhung, các con, rồi nhìn Khai-quốc vương, chưa biết phải nói gì.
      Huệ-Phương chợt nhìn Tôn Đản, nàng hỏi:
      - Thiếu hiệp! Tuổi ta đáng chị của thiếu hiệp. Ta muốn nói với thiếu hiệp mấy câu.
      Tôn Đản kính cẩn chắp tay:
      - Phu nhân cứ dạy. Tiểu bối xin rửa tai nghe lời.
      Huệ-Phương mỉm cười. Môi nàng hồng mọng, mắt nàng chiếu ra tia sáng ngời. Dưới ánh trăng, nàng đẹp lộng lẫy như một bông hải đường mới nở:
      - Dạy thiếu hiệp thì không có đâu. Ta coi tướng thiếu hiệp, thấy tốt quá, nhịn không được, nên phải nói ra mà thôi.
      Tôn Đản đã nghe Thanh-Mai, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh kể về tài xem tướng của Huệ-Phương. Nay được bà xem cho, điều nó cầu mà không được:
      - Tiểu bối mong phu nhân coi tướng, rồi dạy cho những điều nên, những điều không nên.
      Huệ-Phương nói:
      - Tướng của thiếu hiệp thuộc tướng cực kỳ quý. Tuy không làm đế, làm vương. Nhưng sự nghiệp đối với đất nước e không nhỏ. Kìa, lông mày giống lông mày hổ, ắt can đảm, trường thọ, nhưng ít anh em. Hay tuy nhiều anh em mà phải ly tán. Mắt lại giống mắt rồng. Ắt sau gặp đấng minh quân. Mũi giống mũi sư tử, thì danh vang bốn biển. Miệng vòng cung, trọn đời phú quý. Tổng kết, sự nghiệp thiếu hiệp thực kinh thiên động địa. Nhưng hai tay thiếu hiệp nhỏ như tay khuê nữ, ắt hay bị dèm pha. Chung cuộc không trọn vẹn.
      Tôn Đản hiên ngang nói:
      - Tiểu bối chỉ mong sau này làm được bất cứ việc gì cho đất nước. Việc đó dù nhỏ, dù lớn không cần thiết. Còn ngoại giả nếu có vị quốc vong thân, cũng chẳng lấy thế làm buồn.
      - Tuổi trẻ khí khái, lập chí đáng phục. Ta tặng thiếu hiệp câu này để làm bùa hộ thân: Mũi nhọn dễ gẫy , để khi gặp việc, chớ cương quyết quá. Hoặc giả bỏ đi tu thì không sao.
      - Đa tạ phu nhân. Tiểu bối xin ghi lòng.
      Khai-quốc vương đứng dậy tạ từ:
      - Non xanh còn đó. Xin cáo từ đại phu.
      Hồng-Sơn đại phu đứng lên tiễn Khai-quốc vương. Sau ông, hai vợ, cùng hai con. Cả bốn người cùng cúi đầu tiễn đưa vương.
      Về tới Khu-mật-viện, vương hỏi Tạ Sơn:
      - Mỹ-Linh đâu rồi?
      Tạ Sơn lễ phép:
      - Công chúa đưa vương phi Đông-chinh vương về phủ. Sau đó đưa vương phi Khai-thiên vương đi. Không rõ đi đâu.
      Khai Quốc vương giật mình:
      - Hỏng rồi. Sao sư đệ không cản lại?
      Tạ Sơn ngơ ngác:
      - Tại sao lại cản?
      Vương lắc đầu:
      - Từ lúc Mỹ-Linh khám phá ra Hoàng Văn là trưởng lão Hồng-thiết giáo. Mà tên Hoàng Văn không hề biết y bị lộ hình tích. Sư huynh cố kiềm không cho Mỹ-Linh về phủ. Mục đích cho tên Hoàng Văn hành động, hầu mình biết những ai trong phủ Khai-Thiên theo Hồng-thiết giáo. Nay cho Mỹ-Linh đưa vương mẫu về, e hỏng hết.
      Tạ Sơn chỉ về hướng Đông:
      - Công chúa vừa ra khỏi xong, kiệu đi chưa xa đâu. Mau đuổi theo may ra kịp.
      Vương bảo Thiệu-Thái:
      - Cháu theo cậu đi ngay. Gọi Đỗ phu nhân, nữa.
      Vương cầm bút viết lệnh rồi bảo Tạ Sơn:
      - Sư đệ sai chim ưng đi tìm Mỹ-Linh, đưa thư này khẩn cấp, vì lỡ ra ta không đuổi kịp.
      Bốn người lấy ngựa lên đường. Phủ Khai-Thiên vương nằm phía Đông Thăng-long, trong khi Khu-mật-viện nằm ở phía Tây. Vì vậy ngựa phải băng ngang qua thành. Tới cổng phủ, vương xuống ngựa, hỏi tên võ sĩ canh cổng:
      - Công chúa Bình-dương về chưa?
      Viên võ sĩ kính cẩn hành lễ quân cách:
      - Khải tấu vương gia chưa.
      - Người vào khải với Thiên-vương rằng có ta cầu kiến.
      Viên võ sĩ vào trong một lát, Khai-thiên vương Phật-Mã ra. Vương thấy đêm khuya mà em mình đi với đứa cháu gọi bằng cậu, cùng người nô bộc giỏi y khoa, mà vương gặp trong Long-hoa đường một lần. Vương kinh ngạc:
      - Chú hai. Có việc gì khẩn không?
      Khai-quốc vương nắm tay anh:
      - Dĩ nhiên có, việc vui. Vui lắm. Đợi tý nữa anh sẽ thấy.
      Hai anh em, dắt tay nhau vào phủ. Khai-Quốc vương ghé tai Thiệu-Thái dặn nhỏ mấu câu, rồi nói lớn:
      - Cháu với Đỗ phu nhân chờ đây. Thấy Bình-Dương về dẫn vào gặp cậu ngay.
      Trong phủ Khai-thiên vương đang bầy
      tiệc, cỗ Trung-thu. Các thế tử, quận chúa, gia tướng, nô bộc đều tề tựu. Có một cỗ bỏ trống chưa ai ngồi. Khai-Quốc vương hỏi:
      - Sao vương huynh biết đệ đến mà bầy cỗ sẵn?
      - Không! Cỗ này đâu phải cỗ của chú. Cỗ của chú phải có rượu chứ. Cỗ này bầy để chờ Mỹ-Linh đấy.
      Khai-quốc vương đến trước ba bà chị dâu cúi đầu hành lễ:
      - Vì bận quốc sự, em ít có thời giờ vấn an anh cùng các chị, cũng như thăm các cháu.
      Các bà phi của Khai-thiên vương biết ông em chồng đang được phụ hoàng sủng ái cực kỳ. Ngài định truyền ngôi cho vương. Nhưng vương lại không muốn làm vua. Vương chỉ sủng ái Mỹ-Linh, Mỹ-Linh được phong công chúa liền. Vương dạy dỗ Mỹ-Linh mới hai năm, mà Mỹ-Linh đã có tài vương bá. Nếu như con các bà cũng được vương sủng ái, sau này ắt được lên ngôi vua. Các bà vội sai bầy một bàn tiệc cạnh bàn của Khai-Thiên vương mời vương ngồi.
      Khai-quốc vương nói:
      - Xin các chị cho một bàn nữa cạnh bàn của anh. Vì có một nhân vật quan trọng sắp đến dự tiệc. Nhân vật này ngang vai với anh. Một bàn cho cháu Thiệu-Thái, một bàn cạnh các tướng trong phủ cho Đỗ phu nhân, là gia khách bên em.
      Mai phi hỏi:
      - Ai đến đây nữa? Công chúa An-quốc chăng?
      Khai-quốc vương bảo bầy tiệc cho Triệu Liên-Phương, nhưng vương không muốn tiết lộ sớm, nói lơ mơ:
      - Một giai nhân mà anh sủng ái cùng cực.
      Mai phi định hỏi xem giai nhân đó là ai, song thấy mặt ông em chồng quá nghiêm nghị, bà không dám hỏi nữa.
      Đinh phi con gái Đinh Ngô-Thương, tổng trấn Thanh-hóa, hỏi:
      - Chú hai này. Bình-Dương đâu?
      - Cháu sắp về. Nó sẽ mang một lễ vật lớn dâng phụ vương nhân tết Trung-thu.
      Khai-quốc vương thấy đứa cháu trai tên Nhật-Tôn, em của Mỹ-Linh tuy nhỏ tuổi, nhưng đã tỏ ra chững chạc, đang chắp tay đứng hầu anh. Vương không thích lễ giáo khắt khe của anh, đưa hai tay ra bế bổng nó lên, rồi hôn lên má nó:
      - Cháu học võ chưa? Học văn đến đâu rồi? Có bị bố đánh đòn không?
      Quận chúa Hồng-Phúc là con Đinh phi xen vào:
      - Nó học văn tạm được. Còn học võ, ôi chao mềm xèo, chưa đi đến đâu cả. Chú hỏi chi cho thêm nhục.
      Khai-Quồc vương đưa con mắt nghiêm khắc nhìn Hồng-Phúc. Hồng-Phúc kinh sợ, vội im miệng, về chỗ ngồi.
      Khai-quốc vương hỏi sẽ anh:
      - Tên quản gia Hoàng Văn đâu rồi?
      - À, mẫu thân y bị bệnh. Y xin về báo hiếu đã bốn ngày. Lát nữa y sẽ đến chúc tết anh. Chú tìm y có việc gì vậy?
      - Anh có nghĩ rằng y trung thành với anh không?
      - Y rất trung thành. Đến độ anh cho tiền bạc gì y cũng không nhận. Y làm việc suốt ngày suốt đêm. Có chuyện gì không?
      - Trong phủ của anh, ai thân với y nhất? Y ghét ai nhất? Từ khi đến đây, y đã đưa những ai vào làm việc? Xin sa thải những ai?
      Thấy em đặt câu hỏi, Khai-thiên vương mới chợt nhớ lại, từ khi vào phủ, Hoàng Văn rất được lòng Đinh phi. Y đề nghị với vương phi cho về dân dã hơn hai mươi cung nữ đến tuổi hai mươi, để chúng có thể lấy chồng, rồi chính y tuyển hai mươi cung nữ trẻ tuổi xinh đẹp vào thay thế.
      Khai-Quốc vương hỏi:
      - Bọn cung nữ trẻ đâu rồi?
      - Hôm qua, y xin với ta cho chúng về thăm nhà nhân dịp tết Trung-thu.
      - Ngoài nhiệm vụ quản gia, anh có dùng y vào việc khác không?
      - Lúc đầu y chỉ làm quản gia. Sau ta thấy y có kiến thức, việc trong nước, việc võ lâm, không việc gì y không thạo. Vì vậy ta dùng y như một tham tướng. Y liệu địch, hành binh rất giỏi.
      Một lát sau Mỹ-Linh vào cùng Thiệu-Thái, Đỗ Lệ-Thanh, Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm. Cả năm hành lễ trước Khai-thiên vương và các bà phi. Khai-thiên vương thấy Hà Thiện-Lãm, Lê Thuận-Tông lạ mặt, vương hỏi em:
      - Chú hai! Hai thiếu niên này là ai.
      - Lê Thuận-Tông là đệ tử của cô mẫu Tịnh-Huyền, coi như ngang vai với chúng ta. Còn Hà Thiện-Lãm là đệ tử của Nùng-Sơn tử. Cả hai cùng kết huynh đệ với đệ. Thôi vương huynh cứ coi chúng như Mỹ-Linh.
      Hồng-Phúc thấy Mỹ-Linh đeo kiếm thì nói mỉa:
      - Không biết học được mấy cái múa, mà đeo kiếm làm như ta đây đệ tử danh gia võ học không bằng.
      Mỹ-Linh nhìn em mỉm cười tha thứ, rồi về chỗ ngồi. Nàng nghĩ thầm:
      - Mình đọc sử Trung-quốc thường thấy khi một người lên làm vua, thường tàn sát anh em đến thản khốc. Có lẽ cũng bắt nguồn từ sự ghen ghét kèn cựa kiểu Hồng-Phúc mà thành. Nếu mình không may mắn theo chú hai ra ngoài, để thấy những ưu tư quốc sự to lớn, có lẽ cũng không hơn Hồng-Phúc làm bao. Mình phải làm một cái gì để mở mắt cô em này ra mới được.
      Nghĩ vậy nàng nói nhỏ:
      - Người sau hơn người trước, nhà mới khá được. Chị bao giờ cũng mong các em hơn chị.
      Hồng-Phúc được thể:
      - Dĩ nhiên ta hơn người. Chẳng lẽ người hơn ta?
      - Chị muốn em phải hơn nữa...nữa kia. Như vậy chưa đủ.
      - Người cứ chờ, sẽ biết.
      Mỹ-Linh không muốn nghe cô em nói nữa, nàng im lặng, mỉm cười tha thứ.
      Lê Thuận-Tông ngồi bên quận chúa Kim-Thành. Hà Thiện-Lãm ngồi cạnh quận chúa Trường-Ninh. Họ cùng một lứa tuổi, nên gặp nhau dễ thân mật, truyện trò như pháo nổ.
      Khai-thiên vương cầm ly rượu lên mời em rồi nói:
      - Hôm nay trong phủ có cuộc đấu võ. Hồi nãy các gia tướng đấu xong rồi. Bây giờ tới hàng quận chúa. Nào mời gia sư.
      Gia sư tức võ sư thay vương phụ trách việc luyện võ cho các gia tướng cùng thế tử, quận chúa. Trong phủ Khai-thiên vương, các thế tử tuổi còn nhỏ, nên chưa tập võ. Chỉ có bốn quận chúa. Lớn nhất là Mỹ-Linh đã ở bên phủ Khai-quốc vương, vì vậy chỉ có ba quận chúa Kim-Thành, Trường-Ninh và Hồng-Phúc.
      Gia sư hỏi:
      - Khải tấu vương gia, công-chúa Bình-Dương chưa từng tập võ, vì vậy không dự cuộc đấu này. Xin vương gia rút thăm cho các quận chúa đấu với nhau.
      Khai-thiên vương bốc ba trong hai cái thăm. Quận chúa Hồng-Phúc, đấu với quận chúa Trường-Ninh. Hồng-Phúc tự tin mình thắng chị, nàng mỉm cười hỏi gia sư:
      - Thưa gia sư, trong cuộc đấu này chỉ được dùng võ công Tiêu-sơn hay muốn dùng võ công nào cũng được?
      Gia sư đưa mắt hỏi ý kiến Khai-Thiên vương, thỉnh ý. Vương hỏi Khai-Quốc vương:
      - Chú nghĩ sao?
      Khai-Quốc vương từng nghe Mỹ-Linh thuật về cuộc đấu võ giữa Hồng-Phúc với Kim-Thành trước đây. Vương nghi trong phủ của anh mình tàng chứa một cái gì bí ẩn sau cái chết của thân mẫu Mỹ-Linh. Sau này nảy ra vụ Hoàng Văn làm trưởng lão Hồng-thiết giáo. Bây giờ thấy Hồng-Phúc đưa ra câu hỏi, vương muốn để cho Hồng-Phúc lộ hết chân tướng võ công ra. Vương đáp:
      - Võ là gì? Là phương pháp thắng địch. Khi đấu võ cũng như ra trận, muốn dùng chiêu thức nào cũng được, không nhất thiết phải dùng võ công một phái. Các cháu có bản lĩnh gì cứ dở ra, không giới hạn.
      Hai quận chúa bái tổ, hành lễ trước hai vương rồi thủ thế.
      Hồng-Phúc phóng liền ba chiêu hồi phong cước, người nàng quay tròn như cơn gió lốc. Liếc nhìn qua lối xuất chiêu của Hồng-Phúc, Mỹ-Linh đã biết những chiêu đó không phải võ công Tiêu-sơn. Nàng đưa mắt nhìn Đỗ Lệ-Thanh. Cả hai cùng lắc đầu.Vì đó là võ công Hồng-thiết giáo. Trường-Ninh trầm người xuống tránh khỏi, tay thủ kín môn hộ, đúng qui củ võ công căn bản Tiêu-sơn.
      Cuộc đấu giữa hai quận chúa đang diễn, trong phòng thêm một người nữa bước vào. Y chính là Hoàng Văn. Hoàng Văn đến trước hai vị vương hành lễ, rồi về chỗ ngồi.
      Có tiếng Khai-Quốc vương dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai Mỹ-Linh:
      - Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nghe đây. Phải chú ý theo dõi tên Hoàng Văn. Hễ thấy chú ra hiệu, kiềm chế y liền bằng chiêu thức vũ dũng nhất. Nếu y phản công, cần đánh liên tiếp như sóng vỗ, bằng không y dùng độc chưởng, khó thủ thắng.
      Nhận được tiếng chú hai, Mỹ-Linh đưa mắt nhìn Hoàng Văn. Y tỏ vẻ lơ đễnh, không chú ý đến mọi người xung quanh.
      Ngoài đấu trường, thình lình Hồng-Phúc phóng ra một chiêu quyền đánh vào trước ngực Trường-Ninh. Trường-Ninh trầm người xuống, tay trái gạt tay phải Hồng-Phúc, tay phải chém một bàn tay vào cổ đối thủ. Không ngờ Hồng-Phúc vọt người lên cao. Từ trên cao, hai tay nàng dùng hổ trảo chụp xuống đầu Trường-Ninh. Trường-Ninh uốn cong người, vọt ra xa. Hồng-Phúc rơi xuống đất, phát một chưởng đến vèo một cái. Chưởng phong rất quái dị.
      Khai-Thiên vương thấy cuộc đấu có thể đi đến tai nạn. Vương định can thiệp, Trường-Ninh đã xuống xà-tấn phát một chưởng Tiêu-sơn Tượng-đầu đỡ. Binh một tiếng. Cả hai đều bật lui.
      Mặt Hồng-Phúc nhăn nhó, tỏ vẻ đau đớn, nàng quay tròn hai tay, rồi đẩy ra một chiêu nữa. Trường-Ninh lùi một bước, bước xéo sang trái, đẩy một chưởng vào giữa chưởng của em. Bộp một tiếng. Cả hai bật lui lại. Trường-Ninh cảm thấy tay đau nhói, nàng đưa tay lên coi, lòng bàn tay có mấy giọt máu chảy ra.
      Khai-Quốc vương quát lớn:
      - Ngừng tay!
      Miệng hô, vương nhảy vào giữa hai cháu, mỗi tay vương túm cổ áo một cháu nhấc bổng lên, liệng ra xa. Vương nói:
      - Trường-Ninh thua rồi. Hồng-Phúc thắng.
      Hồng-Phúc tươi nét mặt, tỏ vẻ đắc chí. Khai-Quốc vương kéo Hồng-Phúc lại gần, cầm lấy tay xem qua, rồi hỏi:
      - Ai cho cháu cái nhẫn này?
      Hồng-Phúc chỉ Đinh phi:
      - Vương mẫu ban cho cháu sáng nay.
      Khai-Thiên vương đã nhìn thấy chiếc nhẫn kim cương trên tay con. Mọi chiếc nhẫn, hạt kim cương thường có nhiều cạnh, và mặt trên bằng. Chiếc nhẫn này, trên mặt nhọn như cái đinh. Vì vậy trong khi giao chưởng, tay Trường-Ninh mới bị thương.
      Đỗ Lệ-Thanh đến trước Khai-Quốc vương quì gối:
      - Vương gia, tiểu tỳ muôn vàn tội lỗi. Mong vương gia đại xá.
      Khai-Quốc vương đỡ bà dậy, hỏi:
      - Có việc gì vậy. Phu nhân cứ nói ra. Đây là phủ của anh ta, cũng như phủ của ta.
      Đỗ Lệ-Thanh chỉ tay của Trường-Ninh:
      - Quận chúa bị trúng độc nặng, phải trị mau, để lâu e nguy đến tính mạng. Vết thương tuy nhẹ, nhưng độc tố không tầm thường.
      Khai-Thiên vương hỏi:
      - Con ta bị trúng độc gì?
      Đỗ Lệ-Thanh chỉ cái nhẫn của Hồng-Phúc:
      - Trên nhẫn của quận chúa có chất độc. Khi nhẫn cắt tay quận chúa Trường-Ninh, nọc độc theo vết thương nhập cơ thể. Nếu không chữa mau, ắt trong ba ngày chân tay phù lên, rồi chết.
      Đinh phi nổi cơn thịnh nộ:
      - Con mụ già điên kia, ở đâu đến đây, buông lời láo lếu. Bằng chứng nào mi dám bảo trên nhẫn con ta có chất độc? Mi muốn nói rông nói càn gì, cứ nói, ta cấm mi bịa truyện như vậy?
      Đỗ Lệ-Thanh được Khai-Quốc vương coi như một tân khách, kính trọng mụ khác thường, tuy mụ vẫn xưng tôi tớ. Đối với Đinh phi, mụ không coi vào đâu cả. Mụ thản nhiên nói:
      - Thưa vương gia, chất độc này không do cây cỏ, không ở trong Đại-Việt. Nó là độc chất do giáo chúng Hồng-thiết giáo chế ra. Nếu vương gia muốn thử nghiệm, cứ lấy bát nước mưa pha muối, rồi ngâm cái nhẫn vào trong chất độc tan ra, thành mầu xanh.
      Khai-Thiên vương tháo chiếc nhẫn trên tay Hồng-Phúc, truyền lấy nước mưa, pha muối đem vào. Vương cầm cái nhẫn nhúng trong bát. Bát nước hoá ra mầu xanh da trời ngay.
      Mặt Đinh phi, Hồng-Phúc tái như gà cắt tiết.
      Đỗ Lệ-Thanh tiếp:
      - Bây giờ đem bát nước này cho chó uống vào, sẽ biết sự tác dụng mạnh mẽ của nó.
      Trong vương phủ không thiếu gì chó. Một con chó được đem ra. Mỹ-Linh cản lại:
      - Thôi, như vậy đủ rồi, chẳng nên giết con vật dễ thương này.
      Nàng ôm con chó vào trong lòng, tỏ ý không muốn nó khỏi bị làm thí nghiệm. Đinh phi nổi cơn thịnh nộ:
      - Con Mỹ-Linh kia, mi phải bỏ con chó ra, mới phân biệt được trắng đen trong vụ này.
      Mụ chạy lại giật con chó, bóp miệng nó, đổ bát nước vào. Con chó vừa uống xong bát nước, lập tức quay tròn đi mấy vòng, rồi nằm lăn ra kêu oăng oẳng, tỏ vẻ đau đớn.
      Mỹ-Linh ôm lấy nó vuốt ve. Đỗ Lệ-Thanh mỉm cười, chỉ Thiệu-Thái:
      - Công chúa trao nó cho thế tử. Đã có thế tử đây, lo gì.
      Thiệu-Thái đỡ lấy con chó. Chàng để bàn tay lên bụng nó, rồi vận khí hút. Khoảng hơn mười tiếng đập tim, con chó hết kêu la. Con vật có linh tính. Nó biết Mỹ-Linh che chở cho nó. Nó chui vào lòng nàng tìm chỗ ẩn thân, mắt ngơ ngác nhìn Đinh phi.
      Bàn tay Trường-Ninh sưng vù lên, đỏ như mầu máu. Máu đen ri rỉ chảy ra. Nàng nghiến răng vận công chống độc, mồ hôi vã như tắm.
      Hà Thiện-Lãm cầm tay nàng hỏi:
      - Quận chúa đau lắm ư?
      Trường-Ninh gật đầu.
      Hà Thiện-Lãm nghĩ:
      - Mình phải làm gì bây giờ? Hôm trước nghe sư phụ nói, phàm trúng độc, phải hút độc tố ra, mới hy vọng cứu Trường-Ninh.
      Nghĩ là làm. Hà Thiện-Lãm cầm tay Trường-Ninh đưa chỗ vết thương lên miệng mà hút. Nó hút được ba cái, máu đen hết, máu đỏ bắt đầu ra. Nó hút thêm năm sáu lần nữa, Trường-Ninh đã bớt đau. Nàng dụt tay lại:
      - Anh Thiện-Lãm, đừng hút nữa. Anh hút như vậy, chất độc nhập vào người e khó sống.
      Đến đó, Thiện-Lãm cảm thấy trong ruột như bị muôn nghìn con dao đâm vào. Nó ôm bụng nghiến rằng không kêu một tiếng. Mồ hôi vã ra.
      Mỹ-Linh nắm tay Thiện-Lãm:
      - Sư đệ! tại sao sư đệ lại làm vậy. Nguy hiểm quá. Làm sao bây giờ?
      Khai-Quốc vương thở dài:
      - Đỗ phu nhân. Phu nhân cứu Trường-Ninh với Thiện-Lãm một phen.
      Đỗ Lệ-Thanh chỉ Thiệu-Thái:
      - Thưa vương gia, chỉ tiểu chủ của thần mới cứu được quận chúa mà thôi.
      Khai-Thiên vương vốn không ưa Thiệu-Thái, nhưng bất đắc dĩ vương phải ra lệnh:
      - Thiệu-Thái, cháu mau cứu em Trường-Ninh với Thiện-Lãm đi.
      Trường-Ninh ôm tay đến trước Thiệu-Thái. Thiệu-Thái nắm lấy chỗ huyệt Nội-quan của nàng, vận khí hút. Tay nàng đang tím xanh, từ từ chuyển sang trắng, rồi hồng. Đỗ Lệ-Thanh lấy cao dán vết thương cho nàng.
      Thiệu-Thái để tay vào huyệt Trung-uyển của Thiện-Lãm, rồi vận khí hút. Một lát, Thiện-Lãm cảm thấy bao nhiêu cái đau biến mất. Nó nói:
      - Đa tạ đại huynh cứu mạng.
      Khai-Thiên vương đưa con mắt nghiêm khắc nhìn Đinh phi:
      - Vì lý do nào, người muốn giết Trường-Ninh?
      Đinh phi run run:
      - Thiếp không có ý đó.
      Mỹ-Linh đến trước phụ vương quỳ mọp xuống:
      - Phụ vương đừng vội nóng nảy. Truyện đâu còn đó. Đinh phi muốn giết Trường-Ninh, ắt có nhiều cách khác kín đáo hơn. Chứ đâu lại mượn tay Hồng-Phúc, để gieo vạ cho Hồng-Phúc? Con thấy Đinh phi vô tội. Nếu Đinh phi chủ tâm giết Trường-Ninh, thì đời nào lại hăm hở đổ nước độc vào miệng chó để tự tố cáo mình?
      Từ trước đến nay Đinh phi thường ganh tỵ với Mỹ-Linh. Từ ganh tỵ, đến xui Hồng-Phúc làm nhục nàng. Bây giờ giữa lúc lâm nguy, Mỹ-Linh đứng ra bênh vực cho mình. Đinh phi phóng con mắt biết ơn nhìn nàng, gật đầu, tỏ thiện ý.
      Đỗ Lệ-Thanh cầm cái nhẫn xem xét thực kỹ, rồi nói:
      - Cứ như ý tiểu tỳ, thì Đinh vương phi, cũng như quận chúa Hồng-Phúc đều vô tội. Người định dùng cái nhẫn này hại Đinh vương phi. Vì nhẫn được ngâm vào chất độc, rồi phơi khô, sau đó ngâm nữa. Cứ như vậy nhiều lần. Nếu Đinh phi đeo nhẫn, chất độc ngấm dần vào da. Hoặc giả vương phi rửa mặt, chất độc ngấm vào da mặt, đến trình độ nào đó, bệnh mới phát. Vương phi nào biết nhẫn có chất độc, ban cho quận chúa. Quận chúa cũng không biết, vô tình đả thương chị. Nay sự việc hiện ra, cứu được vương phi, lẫn quận chúa Hồng-Phúc.
      Khai-thiên vương hất hàm hỏi Đinh phi:
      - Ai tặng vương phi chiếc nhẫn này?
      Đinh phi đưa mắt nhìn Hoàng Văn. Hoàng Văn bình tĩnh đến trước vương quỳ gối:
      - Vương gia, tiểu nhân có chiếc nhẫn gia bảo từ mấy đời. Do lòng trung thành với vương gia, tiểu nhân kính dâng vương phi. Khi tiểu nhân dâng vương phi, nào có chất độc gì?
      Thình lình y chỉ vào Đỗ Lệ-Thanh:
      - Chính mụ kia đã bịa truyện để hại thần. Khi mụ cầm lấy chiếc nhẫn, tay mụ đã quệt chất độc vào. Hơn mười năm nay, thần theo hầu vương gia, trước sau như một. Tấc lòng trung kiên này vương gia đã biết cho từ lâu. Không ngờ bây giờ mụ quái quỉ kia xuất hiện hại thần. Có lẽ gian tế đã bôi thuốc độc vào nhẫn của quận chúa, rồi sai mụ kia đến đây hí lộng quỷ thần hại thần. Mụ chính là người của Hồng-thiết giáo.
      Khai-Thiên vương xua tay, tỏ ý tin tưởng Hoàng Văn:
      - Hoàng tiên sinh không nên để tâm. Trong thế gian này, tiên sinh không trung thành với ta thì ai trung thành đây? Chắc có âm mưu ám hại tiên sinh. Tiên sinh cứ về chỗ ngồi.
      Vương hỏi Khai-quốc vương:
      - Chú hai, mụ kia có phải là người của Hồng-thiết giáo không? Tại sao chú lại dùng y thị để hại quản gia của ta? Đằng nào phụ hoàng cũng truyền ngôi cho chú rồi. Việc gì chú phải vu hãm ta?
      Có tiếng Khai-quốc vương dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai Mỹ-Linh:
      - Cẩn thận. Con phải ôm lấy Nhật-Tôn bảo vệ cho nó. Bằng không bọn Hồng-thiết có thể bắt nó làm con tin, hầu ta buông tha cho chúng đi.
      Khai-Thiên vương chưa biết giải quyết sao, Khai-Quốc vương vẫy tay:
      - Hoàng quản gia, Đỗ phu nhân. Hãy ngừng cãi nhau. Ta muốn Mỹ-Linh dâng phụ vương món quà lớn nhất. Ta dám quyết trên thế gian này, không có món quà nào quý hơn. Nào, Mỹ-Linh chuẩn bị đi.
      Mỹ-Linh đứng lên vỗ tay, hai thiếu nữ khoẻ mạnh khiêng vào một cái kiệu, để xuống giữa sân.
      Mỹ-Linh vẫy tay:
      - Nhật-Tôn, em lại đây với chị.
      Từ lúc thấy Mỹ-Linh, Nhật-Tôn định chạy lại bên chị, nhưng trước thế uy nghiêm của buổi lễ, nó không dám. Bây giờ được chị gọi, nó lại ôm lấy chân nàng. Mỹ-Linh bế em vào lòng rồi mỉm cười:
      - Phụ vương, xin phụ vương mở kiệu ra. Cam đoan đây là món quà phụ vương vui lòng không bút nào tả siết.
      Trong đại sảnh đường có hơn trăm người, đều im lặng, mở to mắt nhìn vào cỗ kiệu. Ai cũng tưởng trong đó ắt có một mỹ nhân, sắc bước hương trời. Đinh phi, Mai phi, Vương phi đều cau mày khó chịu.
      Khai-Thiên vương bước đến trước kiệu mở màn. Vương giật bắn người lên, như trong giấc mơ. Người ngồi trong kiệu chính là vương phi Triệu Liên-Phương, mà vương sủng ái cùng cực, qua đời đã hơn hai năm. Vương không còn giữ được vẻ nghiêm trang, ôm lấy vương phi, bồng ra ngoài.
      Cả sảnh đường cùng trợn mắt lên nhìn. Rõ ràng Triệu vương phi qua đời, sau bốn mươi chín ngày đau đớn khủng khiếp, rồi chết. Thế mà bây giờ vương phi bằng xương, bằng thịt đang khóc như mưa như gió.
      Đinh phi cười nhạt:
      - Vương gia cẩn thận, e gian tế giả dạng, chứ có đâu người chết sống lại được?
      Hoàng Văn đứng lên, lẳng lặng bước ra khỏi sảnh đường. Khai-Quốc vương vẫy tay gọi:
      - Hoàng tiên sinh. Hãy khoan!
      Hoàng Văn như không nghe thấy gì, y tiếp tục đi. Bốn võ sĩ cận vệ của phủ Khai-Thiên vương vọt ra chặn y lại. Y chuyển động thân mình, phất tay hai cái. Bình, bình, hai võ sĩ bắn tung đi. Y vung tay, túm hai võ sĩ khác liệng ra sân.
      Y nhảy vèo đến chụp Nhật-Tôn trong tay Mỹ-Linh. Thiệu-Thái đẩy ra chiêu chưởng Tiêu-sơn. Binh một tiếng, Hoàng Văn bật lui lại ba bước liền. Trong khi bật lui, tay y chụp Hồng-Phúc kẹp vào nách.
      Các gia tướng đồng lọat đứng dậy rút vũ khí bao vây xung quanh Hoàng Văn. Y bình thản như không coi ai ra gì. Y nói với Khai-Thiên vương:
      - Vương gia! Nếu vương gia không để cho lão phu rời khỏi đây, thì tất cả đều chết hết. Lão phu chỉ cần kẹp tay lại, quận chúa Hồng-Phúc sẽ bẹp ngực nát đời hoa.
      Khai-Thiên vương vẫn chưa hiểu rõ tình hình. Vương thấy trước nay Hoàng Văn không hề luyện võ, cứ tưởng y là một văn nhân. Nay bỗng nhiên thấy võ công y cao cường như vậy, vương kinh ngạc. Điều kinh ngạc vô cùng khi Hoàng Văn trở mặt xưng lão phu, chứ không xưng tiểu nhân nữa.
      Hai võ tướng nhảy lại chụp Hoàng Văn. Y trầm người xuống tránh, rồi phóng hai cước. Hai võ tướng bay bổng ra sân, nằm đứ đừ không cựa quậy được.
      Khai-Thiên vương vẫy tay cho mọi người lùi lại. Vương xử dụng một ưng trảo bắt y. Y vung tay gạt. Bình một tiếng, vương bật lui ba bước. Trong khi Hoàng Văn chỉ hơi rung động. Vương kinh hoảng hỏi:
      - Hoàng Văn, không ngờ võ công mi cao thâm như vậy. Mi ẩn trong phủ ta bấy lâu, mà ta không biết.
      Hoàng Văn cười nhạt:
      - Khai-Thiên vương có tài cầm quân, nhưng lại nhẹ dạ tin người, bị mắc mưu ta. Ta Hoàng Văn, đường đường một Chiêu-thảo-sứ của thiên triều, tước phong Cổ-loa hầu. Địa vị tôn quý gấp vạn lần mi, mà ta lại làm nô bộc cho mi ư? Lâu nay mi có mắt như mù, để ta qua mặt. Phen này thân bại danh liệt, mi còn dám nhìn võ lâm Đại-Việt nữa không? Ối chao ôi, đấng trừ quân mà ngu như vậy e Đại-Việt tàn đến nơi rồi. Ngôi vua Đại-việt không bao giờ đến cái thứ mặt như mi. Đừng mơ tưởng hão nữa. Vô ích!
      Khai-Thiên vương xấu hổ với em cùng vợ con, gia tướng. Vương vận khí tấn công y bằng một chiêu thức Tiêu-sơn. Hoàng Văn cười nhạt, y ra một chiêu rất quái dị phản công vương, miệng cười ha hả:
      - Tưởng gì chứ võ công Tiêu-sơn, ta có coi vào đâu.
      Hai chưởng gặp nhau, Binh một tiếng, Khai-thiên vương bật lui trở lại, khí huyết đảo lộn. Tai vương kêu lên những tiếng vo vo không ngớt. Vương biết muôn ngàn lần mình chẳng phải là đối thủ của y. Nhưng không lẽ để y ra đi một cách dễ dàng như vậy?
      Mỹ-Linh thấy bản lĩnh phụ vương không hơn Tạ Sơn làm bao, địch sao nổi một trưởng lão của Hồng-thiết giáo? Nàng vội trao Nhật-Tôn cho Thiệu-Thái, rồi lạng người đứng trước phụ vương, tay chỉ vào mặt Hoàng Văn:
      - Tên Hoàng Văn kia. Mi tưởng mi ẩn thân trong vương phủ ta không ai biết hẳn? Mi ngu lắm. Khu-mật-viện đã biết, phụ vương ta đã biết. Song ý phụ vương ta muốn lợi dụng mi, để theo dõi hành động của bọn Tống cũng như Hồng-thiết giáo.
      Khi Mỹ-Linh bước ra, Hồng-Phúc tuy bị Hoàng-Văn kẹp ở nách, nhưng lòng ghen tỵ không kiềm chế được. Nàng khinh bỉ:
      - Một cái múa không thông mà dám đứng ra gây gổ với tên phản nghịch. Nó chỉ búng tay một cái là mất mạng. Tiền cổ, có ai chửi chết được giặc bao giờ?
      Mỹ-Linh cười nhạt:
      - Mi không tin ư? Để ta nói cho mi biết, hầu mi sáng mắt ra, bằng không mi chết đi, lại không hiểu tại sao mình chết. Ta biết gốc gác mi rất rõ. Mi không phải người Việt. Mi người Hoa, sinh trưởng ở vùng Mân-Việt, làm nghề thợ may. Thủa nhỏ học võ với phái Liêu-Đông. Sau mi được Nhật-Hồ lão nhân thu làm đệ tử. Khi Nhật-Hồ rời Trung-quốc về Đại-việt, để mi ở lại. Mi đầu quân theo bọn Tống, lập công lớn, thăng chức thiên tướng, tước Thọ-xương bá. Mới đây mi được bọn Triệu Thành mang sắc sang phong cho mi làm Chiêu-thảo sứ, Cổ-loa hầu.
      Hoàng Văn kinh hoảng đến ngẩn người ra, nhưng y chưa tin hẳn. Y hỏi:
      - Rồi sao nữa?
      - Khu-mật viện nhà Tống muốn mi về đất Việt, tổ chức đội ngũ Hoa-kiều, chờ một ngày kia, quân Tống kéo sang, mi sẽ cùng đám Hoa-kiều làm nội ứng. Nhưng mi không trung thành với Tống, mà trung thành với Hồng-thiết giáo. Mi nói thực mọi truyện với Nhật-Hồ lão nhân. Lão cho mi hoạt động ở Thăng-long. Nhưng mi là tên phản phúc. Mi cùng với tên Vũ Nhất-Trụ, Lê Ba xông thuốc mê giam lão dưới hầm trong vùng Cổ-loa. Cả ba tên đòi lão khai ra phép luyện Hồng-thiết mật công, có thể dùng nội lực hoá giải vĩnh viễn Nhật-hồ độc chưởng, để khỏi mỗi năm phải uống thuốc giải vào tiết Đông-chí. Nhưng lão không khai.
      Thế rồi nàng nói chi tiết tất cả những vụ họp ở Cổ-loa, cùng những sự việc dưới hầm sâu. Cuối cùng tới cuộc họp hồi chiều ở Ngọc-lan đình, không thiếu chi tiết nào. Nhưng nàng lờ vụ y bắt giam vương mẫu, sợ y sẽ nói những điều xấu xa của bà ra e thực nhục nhã.
      Hoàng Văn cười khinh khỉnh:
      - Tuy tên ôn con Lý Long-Bồ biết rõ hành tung của ta. Tình thế hôm nay khiến ta không ở đây được nữa. Ta đi đây. Nào, nếu ai có tài ra chiết chiêu với ta. Bằng không đừng dại, để mất mạng vô ích.
      Nói rồi y từ từ bước đi. Y vừa tới sân, thấp thoáng một cái, có người chặn mất lối đi của y. Y nhìn lại, vẫn Mỹ-Linh. Mỹ-Linh nhỏ nhẹ:
      - Cổ-loa hầu, Chiêu-thảo sứ nhà Đại-tống. Nếu người muốn đi cũng được. Có điều mi vô phép với phụ vương. Mi phải để lại một tay, một chân chứ?
      Hoàng Văn đánh vào ngực Mỹ-Linh một quyền cực kỳ trầm trọng. Mọi người kêu thét lên:
      - Ngừng tay!.
      - Đồ hèn hạ!
      Nhưng không ai kịp ngăn cản. Tất cả những người có mặt, đều nhắm mắt lại, vì không muốn một cô công chúa đẹp như hoa nở phải tan xương nát thịt. Nào ngờ Mỹ-Linh tung người lên cao tránh thoi quyền. Ở trên cao, nàng đá gió một cái, người tà tà đáp xuống. Nàng mặc quần áo lụa trắng, cổ choàng khăn vàng, giây lưng cũng mầu vàng. Dưới ánh trăng huyền ảo, khi lộn trên không, lưng nàng uốn cong, đẹp vô cùng. Mọi người cùng tự hỏi:
      - Mỹ-Linh học võ bao giờ, mà khinh công đến dường này?
      Hoàng Văn thấy thế khinh thân của Mỹ-Linh, y không dám coi thường, xuất chưởng tấn công. Chưởng của y chưa ra, mà mọi người đã nghẹt thở. Đám trẻ con, đàn bà phải lùi ra xa để khỏi bị sức ép mà chết.
      Sợ Hoàng Văn giết chết Hồng-Phúc, Mỹ-Linh rút kiếm, đẩy một chiêu vào cổ y. Y khinh thường, đùng hai ngón tay kẹp sống kiếm của nàng. Nhưng Mỹ-Linh chuyển động tay một cái, mũi kiếm trúng cùi chỏ trái y, rồi lướt lên chỉ vào thái dương. Tay Hoàng Văn ôm Hồng-Phúc bị trúng kiếm mất lực, y vội tung nàng lên cao, rồi nhảy lùi lại. Mỹ-Linh vọt người tới đỡ lấy em. Tay nàng chĩa mũi kiếm chênh chếch vào đầu y.
      Hoàng Văn thấy rõ những chiêu kiếm của Mỹ-Linh rất tầm thường, nhưng có điều nàng xử dụng nhanh quá. Thoáng một cái đã đổi chiêu, y không phản ửng kịp, chỉ biết lộn đầu ra sau hai vòng tránh đòn.
      Mỹ-Linh tung Hồng-Phúc cho Khai-Quốc vương, rồi tra kiếm vào vỏ đến cách một cái, thái độ ung dung, nhàn nhã, phơi phới như tiên nga.
      Hoàng Văn cười nhạt:
      - Ta nghe sư đệ Đinh Hiền bị một con nha đầu dùng Mê-linh kiếm pháp đánh bại. Ta không tin, vì y nổi tiếng kiếm thần trong bản giáo. Thì ra con nha đầu đó là mi. Mi chẳng là học trò của Huệ-Sinh ư? Học trò của Huệ-Sinh mà phải dùng Mê-linh kiếm pháp đấu với ta, thực nhục cho sư phụ quá.
      Mỹ-Linh muốn thử xem Vô-ngã tướng Thiền-công của nàng có đủ sức khống chế của Nhật-hồ độc chưởng không. Nàng cười:
      - Trưởng lão Hoàng Văn! Ta đệ tử của Tiêu-sơn, muốn lĩnh giáo Nhật-hồ độc chưởng của tiên sinh.
      Khai-Thiên vương thấy bản lĩnh kiếm thuật của con gái đến chỗ xuất thần đã kinh dị. Bây giờ nàng công khai thách Hoàng Văn dùng Nhật-Hồ độc chưởng giao chiến. Vương kinh ngạc nghĩ:
      - Sư phụ ta dạy rằng, Nhật-hồ độc chưởng rút từ Hồng-thiết kinh, võ lâm nghe đến đều kinh tâm động phách. Khi đấu với bọn Nhật-Hồ, lỡ tay giao chưởng với chúng, sẽ bị độc chất nhập cơ thể. Bấy giờ chỉ có nước qui phục Hồng-thiết giáo, hằng năm được thuốc giải. Bằng không mỗi ngày lên cơn một lần khoảng hai giờ, rồi bẩy lần bẩy là bốn mươi chín ngày sẽ chết. Mỹ-Linh đấu chưởng với Hoàng Văn, thực nguy tai!
      Vương đưa mắt nhìn em, thấy Khai-Quốc vương thản nhiên ôm Nhật-Tôn trong lòng, tay bưng chung rượi uống, vương mới yên tâm.
      Mỹ-Linh xuất một chiêu Tiêu-sơn Tượng-đầu chưởng đánh thẳng vào người y. Chưởng của Tiêu-sơn là dương cương. Trong khi chưởng của Hoàng Văn cũng thuộc dương cương. Hai chưởng gặp nhau, bình một tiếng. Mấy chậu cảnh ở sân bị sức trấn động bay tung lên cao, rơi xuống vỡ tan tành.
      Mỹ-Linh vốn xuất thân đệ tử của một cao tăng đắc đạo, lòng dạ từ bi. Giết một con kiến nàng cũng không nỡ. Nhưng nghĩ đến việc Hoàng Văn đánh thuốc độc giam vương mẫu mấy năm nhục nhã có thừa. Nàng không nhân nhượng, tấn công liên tiếp mười chiêu. Binh, binh. Cứ mỗi lần hai chưởng gặp nhau, lại phát ra tiếng kêu lớn.
      Đinh phi liếc nhìn Hồng-Phúc. Hai mẹ con nghĩ lại truyện cũ mà rùng mình. Với công lực, bản lĩnh ấy của Mỹ-Linh, e nàng chỉ chọc một ngón tay, mẹ con bà đã tan xương nát thịt. Thế mà Hồng-Phúc tát nàng, chửi nàng, làm nhục nàng, mà nàng vẫn tươi cười. Võ đạo Mỹ-Linh cao đến như thế thực khó kiếm.
      Hoàng Văn tấn công tới tấp. Cứ trung bình mười chiêu Mỹ-Linh mới trả đòn được một chiêu. Mỗi khi hai chưởng gặp nhau, lại phát ra tiếng kêu lớn, làm sức ép trong sân tăng lên.
      Khai-Quốc vương hỏi anh:
      - Vương huynh! Vương huynh thấy võ công của Hoàng Văn thế nào?
      - Không ngờ bọn Hồng-thiết giáo đứa nào cũng ghê cả. Võ công của y thuộc phái Liêu-Đông. Nhưng y lại luyện thêm võ công trong Hồng-thiết kinh của Tây-dương, thành ra rất phức tạp.
      Vương nhìn con gái đấu với Hoàng Văn, rõ ràng nàng dùng võ công Tiêu-sơn. Những chiêu nàng xử dụng vương đều biết cả, có điều nội lực nàng cao thâm khôn lường mà thôi. Bất giác vương hỏi em:
      - Này chú hai, chú hai hay thực. Chú dạy Mỹ-Linh có hai năm mà võ công đã đến trình độ này rồi. Ta lấy làm lạ rằng võ công của ta do sư phụ truyền dạy, ta luyện tập ngày đêm, mà cũng chỉ ở trình độ trung bình. Còn Mỹ-Linh luyện tập cách nào mà mau như thế?
      Khai-Quốc vương lắc đầu:
      - Nội công Mỹ-Linh học là Vô-ngã tướng Thiền-công. Cháu gặp được cơ duyên đặc biệt rồi luyện thành. Đệ cũng gặp may, cũng luyện như cháu. Chứ đệ không dạy cháu.
      Ngoài sân, cuộc đấu mỗi lúc một gay go. Mỹ-Linh đã quen dần với lối xuất thủ của Vô-ngã tướng Thiền-công. Cứ năm chiêu nàng trả đòn được ba bốn chiêu.
      Khai-thiên vương truyền võ sĩ vây kín sân, đề phòng tên Hoàng Văn bỏ chạy. Vừa quan sát trận đấu, vương vừa hỏi vương phi về việc cải tử hoàn sinh. Triệu Liên-Phương ngậm ngùi nói:
      - Hồi ấy, trong đêm thiếp bị người ta đánh lén một chưởng vào lưng. Sau đó ba ngày, lên cơn đau nhức khổ sở vô cùng. Thiếp đau đến ngày thứ ba, ban đêm có người đột nhập vào phòng nói rằng, thiếp phải gia nhập Hồng-thiết giáo, sẽ được trao thuốc giải. Thiếp biết nhập giáo phái này, là đi vào đường tà đạo, phải phản họ Lý. Thiếp từ chối, thà chết chứ không phản chàng.
      Bà ngừng lại, vì hai chưởng của Mỹ-Linh với Hoàng Văn chạm nhau, khiến cát bụi bay tung. Bà lau mặt, rồi tiếp:
      - Thế rồi đến ngày thứ bốn mươi chín, người thiếp như mê đi. Trong cơn mê thiếp thấy vương cùng các con khóc, liệm thiếp vào quan tài. Thiếp muốn hét lên, mà hét không được. Thiếp mê mê tỉnh tỉnh trong quan tài, đến đêm có người cậy quan tài đem thiếp ra, rồi đậy lại như cũ. Người đó bỏ thiếp lên cái xe, chở đi. Y bỏ vào miệng thiếp ba viên thuốc, thiếp tỉnh lại. Sau y cho thiếp uống thuốc bổ, sức khoẻ phục hồi như cũ. Chúng giam thiếp dưới hầm Ngọc-lan đình từ hồi đó đến giờ, rồi Mỹ-Linh vào cứu ra.
      Đến đó bà ngừng lại, vì Mỹ-Linh đánh liền ba chưởng, đẩy Hoàng Văn tới góc sân. Tuy vậy nàng vẫn phải tấn công dồn dập, vì sợ y dùng độc chưởng.
      Khai-thiên vương nghe vương phi thuật, nhưng ông không tin. Ông vẫy tay gọi một gia tướng lại dặn nhỏ. Gia tướng đó vội vã lên đường liền.
      Thiệu-Thái đứng ngoài thủ sẵn, hễ thấy Mỹ-Linh sơ xuất là chàng nhập cuộc giết chết tên Hoàng Văn.



      <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.01.2005 08:35:27 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 11.01.2005 18:10:31 (permalink)
        Hồi thứ năm mươi bốn


        Mục Ngưu Thiền Chưởng



        Đứng ngoài, nhìn trận đấu của Mỹ-Linh với Hoàng Văn, Khai-Thiên vương, Khai-Quốc vương đều thấy rằng Mỹ-Linh mới luyện võ gần đây, nên chưa có kinh nghiệm chiến đấu. Rõ ràng nhiều lúc Hoàng Văn mất căn bản, mà Mỹ-Linh không biết lợi dụng hạ y. Bằng không, thì mấy chiêu nàng đã đả bại y dễ dàng. Còn Hoàng Văn, y đã từng giao đấu hàng ngàn trận, kinh nghiệm có thừa. Y chỉ mong Mỹ-Linh nới tay một chút, y có dịp vận Nhật-hồ độc chưởng hại nàng. Nhưng Mỹ-Linh tấn công ráo riết quá. Y trở tay không kịp.
        Trong đầu óc y, y nghĩ:
        - Không hiểu con nhỏ này học ở đâu ra thứ nội công kỳ diệu, gần giống như Tiêu-sơn, mà sát thủ mãnh liệt hơn. Còn chiêu thức, rõ ràng của phái Tiêu-sơn không sai.
        Viên gia tướng mà Khai-Thiên vương sai đi đã trở về. Y đến bên vương nói nhỏ:
        - Tiểu nhân đã khai quật mộ vương phi. Trong quan tài có bộ xương phu nữ. Nhưng y phục lại không phải y phục hồi khâm liệm. Châu báu đeo trên người vương phi cũng không thấy trong quan tài. Trước khi về đây, tiểu nhân chôn lại như cũ.
        Triệu Liên-Hương đứng bên chồng, nghe viên gia tướng phúc trình, bà biết chồng sai y đi quật mồ bà lên để khám nghiệm. Như vậy trắng đen đã rõ rệt. Bà thở dài một tiếng, trút được gánh nặng.
        Khi Mỹ-Linh đem bà về đến Khu-mật viện, đưa vào phòng kín, rồi mới gỡ lớp hoá trang cho bà thấy. Mẹ con nhận nhau, khóc lóc nức nở. Mỹ-Linh tóm lươc tất cả truyện nhà, truyện nước mấy năm qua cho mẹ nghe. Bà nghe Mỹ-Linh học được võ công kỳ diệu, tưởng bản lĩnh bình thường thôi. Nào ngờ quan sát nàng đấu với Hoàng Văn, bà mới thực sự kinh ngạc.
        Lần đầu tiên, từ khi học được võ công Lĩnh-nam trong hầm đá, bây giờ Mỹ-Linh mới gặp một địch thủ xứng tay. Càng đấu, nàng xử dụng các chiêu thức Tiêu-sơn bằng nội lực Vô-ngã tướng Thiền-công thuần thục hơn.
        Trong sân xuất hiện thêm mấy người là Huệ-Sinh, Nùng-Sơn tử, Tôn Đản. Tôn Đản cực kỳ sủng ái người sư tỷ hiền hậu này. Nó thấy sư tỷ không thắng được Hoàng Văn, nó sinh bực mình. Thấy chiêu thức nào của Hoàng Văn, nó cũng phá được, mà sao Mỹ-Linh không biết?
        Chợt Tôn Đản nhớ lại hồi đầu năm, nó đấu với Quách Quỳ, chỉ vài chiêu thô sơ, nó thắng y, vì võ công của nó là võ công Cửu-chân khắc chế võ công Trung-quốc. Từ hôm về Thiên-trường, nó dạy Mỹ-Linh hầu hết những chiêu võ công Cửu-chân mà nó học được trong hầm đá. Hôm nay thấy Hoàng Văn dùng võ công Trung-nguyên, nó nảy ra ý nhắc Mỹ-Linh.
        Giữa lúc đó Hoàng Văn để hở hạ bàn, nếu đánh vào đó chiêu Thiết kình trầm hải ắt y bị bại. Nó hô lớn:
        - Chị Mỹ-Linh, Thiết-kình trầm hải.
        Mỹ-Linh đang định xuất chiêu Khổ hải vô bờ trong Tượng-đầu chưởng, thấy sư đệ nhắc, nàng đổi ra chiêu Thiết-kình trầm hải. Binh một tiếng, Hoàng Văn bị trúng chưởng bay vọt ra xa.
        Ai cũng tưởng Hoàng Văn trúng chưởng đó phải nát thây mà chết. Nào ngờ y lại đáp xuống an toàn. Chính y cũng không hiểu tại sao chưởng phong Mỹ-Linh mạnh như sóng vỗ, chiêu số ác hiểm mà y không chết. Y cho rằng Mỹ-Linh chưa muốn giết y, vì lý do nào đó.
        Được thư thả, y vận Hồng-thiết độc công, phát chiêu. Trong chưởng phong có mùi tanh hôi khủng khiếp.
        Tôn Đản hỏi Huệ-Sinh:
        - Đại sư! Tại sao tên Hoàng Văn bị trúng chưởng của chị Mỹ-Linh mà dường như y không hề hấn gì?
        Huệ-Sinh vỗ vai Tôn Đản:
        - Thí chủ nên biết rằng xưa Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung nghiên cứu chế ra võ công Cửu-chân khắc chế võ công Trung-nguyên bao gồm nội công và ngoại công. Phải hai thứ đó hợp với nhau, mới mãnh liệt. Đây thình lình Mỹ-Linh xuất chiêu Cửu-chân bằng nội lực Tiêu-sơn sao có kết quả được?
        Tôn Đản vẫn không hiểu:
        - Xin đại sư dạy rõ hơn.
        Huệ-Sinh nở nụ cười từ bi:
        - Thí chủ đã biết Thiền-công của Mỹ-Linh là Vô-ngã tướng. Đúng ra nếu vận khí đúng, chỉ vài chiêu, tên Hoàng Văn bị hạ rồi. Khi xử dụng Vô-ngã tướng phải bỏ Ngũ-uẩn, Lục-căn ra ngoài. Bỏ ra nhân ngã tứ tướng. Nhân, ngã tứ tướng là gì? Nó có bốn thứ, tức Vô-ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng. Thế mà khi xử dụng, Mỹ-Linh nghĩ đến thù mẹ là « có ngã tướng ». Muốn thắng gấp đối thủ là « có nhân tướng », làm sao kiềm chế y nổi?
        Nùng-Sơn tử thêm vào:
        - Hồi nãy công chúa dùng võ công Cửu-chân đánh y bay đi dể dàng. Bây giờ y dùng Nhật-hồ độc chưởng e võ công Cửu-chân vô dụng.
        Tôn Đản dù sao vẫn còn trẻ, tính hiếu thắng nổi dậy, nó nghĩ thầm:
        - Võ công nào cũng thế, đánh trúng thì phải đau. Võ công Cửu-chân khắc chế võ công Trung-nguyên cũng khắc chế võ công Hồng-thiết giáo, chứ có đâu như lời Nùng đạo sư? Đã vậy ta xui chị Mỹ-Linh xử dụng võ công Cửu-chân lần nữa xem sao?
        Nó hô lớn:
        - Chị Mỹ-Linh, dùng võ công Cửu-chân gấp.
        Hồi nãy Mỹ-Linh dùng một chiêu võ công Cửu-chân thắng Hoàng Văn, bây giờ nghe sư đệ nhắc, nàng tỉnh ngộ:
        - Ta thử dùng võ công Cửu-chân nữa xem sao.
        Thuận tay nàng phát chiêu Thiết-kình phi chưởng. Binh, binh hai tiếng. Chưởng nàng chạm vào chưởng Hoàng-Văn, nàng bật lui lại đến ba bốn bước. Khí huyết nhộn nhạo cực kỳ khó chịu.
        Hoàng Văn không nhân nhượng, y phóng theo, đánh xuống một độc chưởng như sấm nổ. Mỹ-Linh kinh hoàng đẩy ra chiêu Nghiệp dĩ vô tận. Chiêu nghiệp dĩ vô tận lấy ý trong khi đức Thích-ca Mâu-ni ngồi dưới gốc Bồ-đề tu gần đắc đạo, thì có muôn ngàn ma vương, quỷ ác mà ngài mắc nghiệp với chúng từ muôn vàn kiếp trước. Chúng hiện đến quấy phá, đòi nợ. Ngài phải dùng Thiền-na để giải đi.
        Binh một tiếng, Hoàng-Văn bay tung lên cao. Y đáp xuống mái nhà. Mỹ-Linh nhảy vọt lên theo. Hoàng-Văn cười nhạt:
        - Con nha đầu kia, mi chết đến nơi mà không biết. Mi bị trúng Nhật-hồ độc chưởng rồi. Mau quỳ xuống lạy ta làm sư phụ, nhập bản giáo, ta sẽ cho thuốc giải. Mi không tin, thử nhìn tay xem, có phải tay mi tím bầm không?
        Mỹ-Linh đưa tay lên nhìn, thấy không có gì lạ, nàng cười:
        - Thiền-công của ta dùng để giết người thì khó, chứ dùng để chinh phục bọn ma quái các người thì dễ quá.
        Nùng-Sơn tử bảo Tôn Đản:
        - Thí chủ hiểu rõ chưa?
        - Xin đạo sư chỉ đạy cho.
        - Khi Hoàng Văn dùng võ công Liêu-Đông, tức võ công Trung-nguyên, công chúa dùng võ công Cửu-chân khắc chế được. Còn bây giờ y dùng Nhật-hồ độc chưởng, võ công này của Tây-dương giáo chủ tên Mã-Mặc và Lệ-Anh chế ra, võ công Cửu-chân không còn uy lực khắc chế nữa. Ngược lại khi công chúa dùng chiêu thức Tiêu-sơn Nghiệp dĩ vô tận y bị đánh bại. Tại sao? Vì Hồng-thiết giáo thuộc ma, thuộc quỷ. Dẹp ma, trừ quỷ mà dùng võ công Phật-gia đương nhiên ma tính, quỷ tính phải tiêu trừ. Khi ma tính, quỷ tính ra đi, con người trở về với nhân tính. Cho nên y bị đánh bay đi, chứ không chết.
        Mỹ-Linh thấy sư phụ, nàng an tâm, vừa phát chiêu vừa hỏi:
        - Sư phụ! Sư phụ thấy con phát chiêu có đúng không?
        Huệ-Sinh muốn Mỹ-Linh giải quyết Hoàng Văn cho mau, ông mỉm cười nhắc nàng:
        - Mỹ-Linh, phàm xử dụng Thiền-công, phải bỏ ra ngoài Ngũ-uẩn, mới phát huy được Phật-tính.
        Nghe tiếng sư phụ nói, Mỹ-Linh cảm thấy ấm trong lòng. Nàng bỏ ra ngoài ngũ uẩn, trong khi đó tay phát chiêu. Kình phong biến đổi, ào ào tuôn như sóng vỗ, như thác đổ. Cứ mỗi chiêu nàng đánh ra, chưởng của Hoàng Văn biến mất như muối bỏ biển. Binh, binh, hai chưởng đụng nhau,người Hoàng Văn bật lui lại sau ba bốn bước liền. Y càng đấu càng kinh hãi, vì cứ mỗi chiêu Mỹ-Linh đánh ra, y vận công đỡ, cảm thấy nội lực biến mất. Y nghĩ thầm:
        - Ta phải làm thế nào để đấu nội lực với con nhỏ này, rồi dồn độc khí sang người y thị mới mong sống sót hôm nay.
        Binh, binh, hai chưởng lại chạm nhau. Hoàng-Văn tiến lên một bước đánh thẳng một quyền vào ngực Mỹ-Linh. Mỹ-Linh xòe tay chụp chưởng của y, thì hai tay dính chặt vào nhau. Cuộc đấu nội lực bắt đầu.
        Đỗ Lệ-Thanh tiến lên quan sát trận đấu. Bà thấy Mỹ-Linh dùng Thiền-công hoá giải chất độc của Hoàng Văn, như vậy chẳng hoá ra tử tế với y ư? Bà phải lên tiếng bảo Mỹ-Linh đẩy chất độc trở lại người y, cho y nếm mùi đau khổ. Bà nói:
        - Công chúa, chẳng nên nhân nhượng với tên ma đầu này. Bàn tay nó đã đẫm máu biết bao nhiêu vạn mạng người. Công chúa buông lỏng chân khí Thủ-tam âm kinh, rồi dồn sang Thủ-tam dương kinh tấn công y.
        Mỹ-Linh nào phải không biết lý thuyết đó? Lúc đầu đấu với Hoàng Văn, nàng chưa đủ sức thắng y. Bây giờ nàng muốn giết y thực không khó. Nàng học Phật từ nhỏ, giết con kiến, con sâu nàng còn không nỡ, huống hồ đối với con người? Nàng muốn sao cho y khuất phục, giác ngộ, hồi đầu, rời khỏi bến mê. Vì vậy nàng chỉ vận có bẩy thành công lực.
        Triệu Liên-Phương trước đây theo học với sư thái Tịnh-Tuệ. Nay Tịnh-Tuệ đang là chưởng môn phái Mê-linh. Võ đạo phái Mê-linh khác với võ đạo phái Tiêu-sơn ở điểm, phái Tiêu-sơn dùng võ do bất đắc dĩ, lấy từ bi hỉ xả, dùng Phật pháp cảm hoá kẻ ác làm lẽ chính. Phái Mê-linh không thế, đối với kẻ ác, phải thẳng tay. Kẻ đã phạm tội phải bị trừng trị đích đáng. Vì vậy Liên-Phương tuy có học Phật pháp, nhưng lòng dạ khác xa Mỹ-Linh.
        Nhìn trước mắt, thấy con gái đang đấu nội lực với tên ma đầu, đã từng đánh bà một Nhật-hồ độc chưởng, đến nỗi đau đớn, chết đi, sống lại trong bốn mươi chín ngày, rồi bắt giam bà dưới hầm. Bà bị chuyển cho hết tên ma đầu này, tới tên ma đầu khác hãm hiếp, ôm ấp, gọi bà là cây thuốc để luyện công. Cuối cùng giam bà với Nhật-Hồ lão nhân dưới hầm sâu, cho lão dầy vò bà. Hận thù sâu như biển. Hơn nữa thời gian ở với bọn ma đầu, bị ma tính xâm nhập, trong người bà đầy dẫy thù hận, lẫn xảo quyệt. Rồi bà lại ăn bào thai biết bao lần, ác tính nổi dậy. Bà từ từ tiến đến bên Mỹ-Linh, cất tiếng nói:
        - Mỹ-Linh, con phải giết tên này ngay. Nếu để nó sống, ắt mẹ sẽ chết.
        Mỹ-Linh nghe mẹ nói, thực tại trở về với nàng. Đúng thế, nếu y chưa chết, y chính là nhân chứng về sự ô danh thất tiết của bà. Tin này lan truyền ra, đến phụ vương nàng không hy vọng nối ngôi ông nội đã đành, mà mẹ nàng sẽ bị xử voi dày ngựa xé. Phụ vương mất tước vương, bị đuổi về dân dã. Nàng phải giết y.
        Nghĩ vậy, chân khí tòng tâm phát ra. Ba kinh âm buông lỏng, chân khí của Hoàng Văn cuồn cuộn tràn vào người nàng. Hoàng Văn tự nhiên thấy chân khí Mỹ-Linh yếu dần, thì mừng lắm. Y dồn chất độc Nhật-hồ sang người nàng, trong lòng khoan khoái:
        - Con nha đầu này phải chết.
        Nhưng y chợt thấy ba luồng nội lực khác mạnh như xô núi, nghiêng biển hoá giải chất độc của y, xuyên qua tay, chạy vào tấn công nội tạng. Y kinh hoảng vận hết chân khí sang để chống lại. Nhưng chân khí ra đi bao nhiêu, mất hết bấy nhiêu.
        Huệ-Sinh đứng ngoài, ông hiểu ý Triệu Liên-Phương, Đỗ Lệ-Thanh. Ông có trái tim Bồ-tát, lòng dạ từ bi, ông chỉ muốn Mỹ-Linh hoá giải chất độc cũng như công lực y, rồi cảm hoá y, chứ không muốn giết y. Như vậy phải mấy năm sau, y mới phục hồi công lực. Trong thời gian đó ông có thể dùng Phật-pháp cảm hoá. Ông lên tiếng:
        - Mỹ-Linh! Không tâm, giải trừ Ngũ-uẩn.
        Mỹ-Linh trấn nhiếp tâm thần, đơn điền hư không, chân khí của Hoàng Văn tràn vào người nàng. Một lát trên đầu y phát ra làn hơi trắng. Y lảo đảo mấy cái, rồi ngã ngồi xuống.
        Võ sĩ trói y lại.
        Sợ ông anh tra khảo, lộ vụ Triệu Liên-Phương bị dùng làm cây thuốc, Khai-quốc vương truyền giải y về Khu-mật-viện. Vương nói:
        - Vương huynh, đệ xin vương huynh một điều.
        - Chú hai muốn gì ta cũng chiều. Những biến cố trong gia đình ta thực đau khổ, đều do chú hai giúp ta thoát. Chú muốn một điều, chứ nghìn điều, ta cũng chuẩn.
        Khai-Quốc vương ghé vào tai anh nói nhỏ:
        - Chị Liên-Phương bị giam hai năm dưới hầm kín, tâm thần có đôi chút khác thường. Đệ xin anh tuyệt đối không bao giờ nhắc tới vụ này trước mặt bà. Thế thôi.
        Khai-Thiên vương những tưởng ông em xin mình điều gì khó khăn, không ngờ điều xin đó lại chỉ là vấn đề trị bệnh cho vợ mình.
        Vương cảm động:
        - Anh hứa.
        Khai-Quốc vương cùng Huệ-Sinh, Nùng-Sơn tử, Tôn Đản ra về. Vương bảo Thiệu-Thái:
        - Chuyện ở đây xong rồi. Con về chầu mạ mạ đi. Nhớ sáng mai đến đây dự cuộc họp quan trọng. Mang theo Bảo-Hòa.
        Thiệu-Thái tiến đến trước Khai-Thiên vương quỳ gối:
        - Thưa cậu, mợ. Việc cứu mợ đã xong. Hoàng Văn cũng đã bị bắt. Con xin phép cậu mợ về chầu mạ, mạ.
        Khai-Thiên vương đã bớt ác cảm với Thiệu-Thái. Vương đỡ chàng dậy:
        - Ừ thôi cháu về. Mai gặp lại.
        Thiệu-Thái đưa mắt nhìn Mỹ-Linh, rồi lên ngựa ra về.
        Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm bịn rịn không muốn xa Kim-Thành, Trường-Ninh. Mỹ-Linh hiểu ý hai cậu em. Nàng mỉm cười:
        - Thiện-Lãm, Thuận-Tông. Ở lại chơi trăng với chị cho vui. Hôm nay mẫu tử trùng phùng, chị muốn hai em cùng chung vui.
        Thiện-Lãm, Thuận-Tông mừng rú. Chúng nói thầm trong lòng:
        - Cầu trời, cầu Phật cho chị mình tâm an, thần tĩnh. Bà chị mình thành Bồ-tát rồi. Nam-mô bồ tát Mỹ-Linh.

        Khu vực cư trú của đệ tử Tây-vu nằm ở ngoài thành Thăng-long, gần cửa Quảng-phúc. Thiệu-Thái về đến nơi, nọi người đã đi ngủ. Chỉ có ông nội, song thân, với Bảo-Hòa còn thức, đang uống trà thưởng trăng. Thấy chàng về công chúa Lĩnh-Nam Bảo-hòa hỏi:
        - Anh em con đi theo cậu hai riết rồi hành sự ẩn ẩn hiện hiện không biết đâu mà lường. Hôm trước vừa mới ăn cơm, có chim ưng gọi phải đi gấp, tới bây giờ mới về. Không chừng lát nữa lại có chim ưng gọi cũng nên.
        Tuy là phụ nữ, thích tò mò, luôn luôn muốn kiểm soát tất cả những việc con mình làm, nhưng công chúa Lĩnh-nam Bảo-hòa tự biết con hành sự dưới quyền của cậu em mình. Bà biết cậu em mình hành sự thần sầu quỷ khốc, nếu con khai ra thì khai, chứ bà không cật vấn. Vì đó là truyện quốc gia đại sự.
        Thiệu-Thái được Khai-quốc vương dặn dò cẩn thận, bới chỉ cần lộ ra việc vương phi Khai-thiên vương, Đông-chinh vương bị bọn Hồng-thiết giáo làm ô danh thất tiết, triều Lý ắt nghiêng ngả.
        Thiệu-Thái thuật sơ cho ông nội với song thân biết đại khái, chàng với Mỹ-Linh giải cứu được vương phi Khai-thiên vương, Đông-chinh vương cùng phu nhân Hồng-Sơn đại phu, Thiên-trường đại hiệp.
        Hồi nhỏ, anh em Thiệu-Thái học võ với ông nội là Thân Thiệu-Anh. Bản lĩnh anh em chàng vào loại hiếm có, so với người ngang tuổi. Từ hôm nhận lệnh vương mẫu, theo bọn Địch Thanh đi Thanh-Hóa, rồi chàng cùng Bảo-Hòa gặp hết kỳ duyên nọ đến kỳ duyên kia. Khi còn ở Bắc-biên, chàng cứ tưởng mạ mạ là người mưu trí bậc nhất. Không ngờ khi gặp Khai-Quốc vương, chàng mới thấy ông cậu này hơn mạ mạ xa. Có đi ra ngoài, mới mở rộng mắt ra. Trong thời gian gần năm, mà hai anh em tưởng như trải hơn mười năm vậy.
        Thân Thiệu-Anh làm thủ lãnh các khê động Bắc-biên. Nơi đây vẫn giữ phong tục từ thời vua Trưng còn lại. Giữa ông cháu, bố con, thân thiết đầm ấm, chứ không nghiêm khắc như miền xuôi, bị lễ giáo Khổng-Mạnh ngăn cấm. Ông cực kỳ sủng ái Bảo-Hòa. Ông nằm dài cho nàng đấm bóp. Vừa đấm bóp, Bảo-Hòa vừa thuật lại cuộc du hành kỳ thú gần năm qua của anh em nàng.
        Thân Thiệu-Anh là đại tôn sư võ học. Nên chỉ nghe cháu thuật qua, ông đã hiểu mọi chi tiết. Ông nghĩ:
        - Về nội công, hiện Thiệu-Thái cao không biết đâu mà lường. Nó có trăm năm Thiền-công nhà Phật, lại được Đỗ Lệ-Thanh dạy cho tâm pháp Chu-sa Nhật-hồ của Hồng-thiết giáo. Nhưng chiêu thức vỏn vẹn chỉ có bộ Tây-vu chưởng pháp, cùng mấy chục chiêu quyền thô sơ mà thôi. Phải dạy cho nó những tuyệt chiêu của Tây-vu mới được.
        Ông vẫy Bảo-Hòa, Thiệu-Thái ra khu đất trống. Ông bảo Thiệu-Thái diễn lại hết các chiêu số Tây-vu chưởng, rồi ông nói:
        - Phái Tây-vu có một pho chưởng pháp gọi là Long-hổ. Pho chưởng này do tâm huyết bao đời tổ tiên bản phái truyền lại. Muốn luyện chưởng pháp, cần nội công tối cao. Chính bố cháu, cũng chỉ mới luyện thành gần đây. Hôm nay ông dạy cho hai cháu.
        Nói rồi ông hít hơi, vận khí, tay phải xòe thành chưởng, tay trái nắm thành quyền, hai tay cùng phát chiêu hướng vào thân cây to bằng bắp chân. Bình một tiếng. Cây bị gẫy, từ từ đổ xuống.
        Ông hỏi hai cháu:
        - Các cháu thấy sao?
        Bảo-Hoà đáp:
        - Cháu thấy hai tay ông có hai lực đạo khác nhau. Khi hai lực đạo đó đánh vào thân cây, trở thành một lực đạo hỗn hợp, có sức sát thủ kinh khiếp.
        Thiệu-Thái tiếp:
        - Lực đạo tay phải của ông như hàng chục mũi dùi xuyên thủng cây. Lực đạo tay trái như lưỡi búa chém ngang. Vì vậy hai lực đạo hợp làm một, cây bị tiện đứt.
        Thân Thiệu-Anh thấy hai cháu nhận ra được tinh hoa chưởng pháp, ông khoan khoái trong lòng:
        - Hôm nay ông dạy cho hai cháu. Pho chưởng này có mười tám chiêu, biến hoá ra âm, dương thành ba mươi sáu. Ba mươi sáu chiêu nối liền với nhau, thành một dây. Khi xử dụng cần phải có ý niệm một tay là tay rồng, một tay là tay hổ. Long, hổ cùng hợp nhau diệt kẻ thù.
        Ông giảng chi tiết về cách vận khí, phát chiêu, rồi để cho hai cháu luyện. Sau khi thuần thục, ông bảo Thiệu-Thái:
        - Cháu phát chiêu đầu Long-phi, hổ phục xem nào.
        Thiệu-Thái nhảy vọt lên cao, tay trái vòng xuống dưới, tay phải đẩy thẳng ra, hướng vào cây thông. Vèo một tiếng, lực phát ra như gió thoảng. Lực đạo thua cả một người chưa tập võ.
        Thiệu-Thái nhìn ông nội, xấu hổ.
        Thân Thiệu-Anh bực mình:
        - Cái thằng ngu quá, khi phát chiêu phải ý niệm một long, một hổ cùng muốn cắn, xé địch thủ chân khí mới thoát ra chứ!
        Thiệu-Thái vận khí lại, trong đầu chàng nghĩ tay trái tay long, tay phải tay hổ, rồi xuất chiêu. Vèo một tiếng như gió Xuân thổi qua, lực đạo kém lần đầu.
        Thân Thiệu-Anh thấy cháu vận khí, kình lực mạnh vô cùng, không hiểu sao lực lại không ra. Ông bứt rứt khó chịu bỏ vào nhà, miệng dặn cháu:
        - Luyện nữa đi, khi nào thành, vào báo cho ông biết.
        Thiệu-Thái cho rằng mình tăm tối, làm ông nội buồn. Chàng kiên tâm ngồi luyện, nhưng trải qua hơn hai mươi lần, mà lực cũng không phát ra. Chàng nghĩ thầm:
        - Hay công lực ta cạn rồi?
        Đầu óc chàng mơ mơ, hồ hồ như người trong mộng, tay phát một chiêu Tiêu-sơn tượng đầu chưởng. Rầm một tiếng, tảng đá to bằng cái thúng trước mặt chàng bị bay đi xa, rơi xuống đất. Cát bụi bay mù mịt.
        Chàng ngơ ngẩn xuất thần, không hiểu tại sao, chàng phát chiêu Tiêu-sơn mạnh như vậy, mà chiêu Long-hổ lại không có uy lực. Buồn bã chàng đưa mắt tìm Bảo-Hoà, không tìm ra em gái ở đâu. Thói quen, mỗi khi muốn tìm em, chàng hít hơi mấy cái, thấy mùi trầm hương ở hướng nào, thì đi về hướng đó sẽ gặp Bảo-Hòa. Chàng hướng mũi xung quanh đánh hơi, thấy mùi trầm ở về phía sông Hồng. Chàng lần bước theo hương thơm đi. Gần tới bờ sông, có tiếng chưởng phong phát ra cực lớn.
        Chàng than thầm:
        - Đêm khuya, ai mà đến đây đánh nhau thế này?
        Chàng chạy thực nhanh, tới bờ sông, dưới bóng tối của cây bồ-đề cổ thụ, Bảo-Hoà đang giao chiến với một người to lớn. Mặt trăng bị che mất, vì đám mây trắng trôi qua. Trong bóng tối, chàng không nhận ra đối thủ là ai.
        Bảo-Hòa xử dụng Phục-ngưu thần chưởng, chưởng phong rít lên vo vo, kình lực phát ra làm cây cối rung động. Mỗi chiêu nàng đánh như muốn vỡ núi, đổ thành. Còn người kia lại đứng im, chỉ phẩy tay một cái, Bảo-Hòa bật lui mấy bước liền.
        Thiệu-Thái kinh hãi nghĩ:
        - Người này là ai, mà võ công đến chỗ không lường được? Dù ông nội, dù Đào phò mã, dù Mỹ-Linh hay dù Hồng-Sơn đại phu, Trần Tự-An cũng không thể bằng được. Nhân vật như vậy đâu có nhiều?
        Thấy bóng y phục bay, dường như người đó mặc áo cà sa, chàng đoán:
        - Hay Minh-Không đại sư phái Tiêu-Sơn?
        Chàng chợt thấy không phải, vì hôm trước nghe đại hiệp Trần Tự-An nói, Minh-Không người gầy như que củi, có đâu to béo thế kia?
        Bảo-Hòa xuất liền ba chưởng Ác ngưu nan độ rồi Ngưu thực ư dã chuyển sang Thanh ngưu nhập điền. Bình, bình, bình, chưởng phong cực kỳ hùng dũng. Thế nhưng người kia vẫn ngồi im dưới gốc bồ đề, mỗi chưởng của Bảo-Hoà tới, y chỉ vẫy tay một cái, đẩy sang bên cạnh, khiến kình phong rít lên vo vo xoay tròn như con gió lốc.
        Bảo-Hòa đã phát hết ba mươi sáu chiêu Phục-ngưu thần chưởng, mà không làm gì được người kia. Nàng kinh hãi ngừng, tần ngần suy nghĩ.
        Thiệu-Thái lần mò lại gần, đám mây trôi qua, ánh trăng rọi xuống rõ như ban ngày. Suýt nữa chàng bật cười. Vì nhà sư đó chính thị Bố-Đại hoà thượng. Chàng kêu lớn:
        - Bảo-Hoà ngừng tay. Không thể vô phép!
        Bảo-Hoà nghe tiếng anh nói, nhảy lùi lại. Thiệu-Thái tiến tới trước mặt Bố Đại. Chàng quỳ gối hành lễ:
        - A-di-đà Phật. Đệ tử Thân Thiệu-Thái xin tham kiến Bồ-tát.
        Bố Đại cười toe toét:
        - Con lợn! Con nhí đâu rồi?
        Thiệu-Thái kính cẩn đứng sang bên cạnh ngài, hai tay chắp vào nhau, cung cung kính kính:
        - Bạch đại Bồ-Tát, Mỹ-Linh hiện ở phủ Khai-Thiên vương.
        Bảo-Hòa thấy thái độ của anh, nàng kinh ngạc:
        - Gã thầy chùa ăn thịt chó này có quen biết với anh sao?
        Thiệu-Thái nghe em hỏi, chàng vội xua tay lắc đầu:
        - Bảo-Hoà không được vô phép, vị này là Bố Đại hoà thượng.
        Nguyên lúc Thiệu-Thái luyện Long-hổ chưởng pháp, Bảo-Hòa thấy trăng đẹp, nàng tản bộ ra phía bờ sông Hồng, nhìn những con thuyền của tao nhân mặc khách đang thả trôi trên sông, tấu nhạc, ngâm thơ, ngắm trăng. Suốt một giải dọc sông Hồng, đèn đuốc như sao sa, dẹp vô cùng.
        Chợt nàng để ý thấy dưới gốc cây bồ đề có người ngồi trong tư thức kiết-già luyện công. Tò mò, nàng lại gần, thấy đó là một hoà thượng bụng to như cái trống, nhưng mặt đẹp vô cùng. Tai hoà thượng dài xuống tận cổ. Nét mặt bảo rằng già cũng thấy già. Nói rằng trẻ cũng thực trẻ.
        Bảo-Hòa tiến đến gần chắp tay xá một xá. Hoà thượng vẫn ngồi yên, bất động. Nàng bực mình nghĩ thầm:
        - Ông hoà thượng này làm bộ đây. Rõ ràng ông ta ngồi, mắt mở thế kia, mà ta xá, ông không thèm đáp lễ. Đã vậy ta phá cho bõ ghét.
        Nàng tiến tới gần, lấy ngón tay chỏ chọc vào mắt vị hoà thượng. Ngón tay sắp tới mắt, mà ông vẫn như không biết. Nàng thu tay lại nghĩ:
        - Dường như một hoà thượng si ngốc!
        Tính tinh nghịch nổi dậy, nàng dùng tay cốc lên đầu ông. Cộp một tiếng, ông vẫn không nhúc nhích. Bảo-Hòa lui lại nghĩ:
        - Hay ông ta chết ngồi rồi?
        Nàng lên tiếng:
        - Hoà thượng ăn thịt chó kia, còn sống hay chết?
        Có tiếng trả lời:
        - Không sống, mà cũng chẳng chết.
        Bảo-Hòa mở to mắt nhìn xung quanh xem ai nói câu đó. Mà tuyệt, không có ai. Người nói không thể là ông hoà thượng được, vì ông vẫn ngồi im. Miệng, môi, mắt bất động. Nàng lên tiếng hỏi:
        - Ai vừa trả lời ta đó?
        - Không ai trả lời cả. Mọi vật trên thế gian, nhất thiết đều vô thường.
        Lần này Bảo-Hòa thấy tiếng nói phát ra từ phía sau hoà thượng. Nàng nhìn xung quanh ông, không có ai khác. Nàng hỏi:
        - Người là người, hay là ma?
        - Vua, chúa, thánh, thần, mai sau đều ra ma cả. Ta làm người không biết vô vàn kiếp, làm ma không biết bao nhiêu mà kể. Bây giờ mi hỏi ta là người hay là ma thì trả lời sao được.
        - Người có phải nhà sư béo tròn đâu mà trả lời ta. Ta hỏi nhà sư béo như cái thúng này kia. Nhà ngươi trả lời tức là nam-mô hớt có biết không?
        - Ta có nam-mô hớt đâu. Người hỏi ta, ta trả lời. Tại sao người lại nổi giận? Người nên biết cáu giận như vậy là tật xấu nhất của con gái không? Ta chính thị nhà sư béo tròn đây. Ta biết hôm nay người khó chịu trong lòng, nên giận cá chém thớt, người cáu với ta.
        - Tại sao người biết ta khó chịu trong lòng?
        - Ta biết vì ta biết. Ta biết người là con gái vua Bà Bắc-biên. Vua Bà định gả người cho cháu Dực-Thánh vương, mà người không chịu, cho nên người bị mạ mạ người mắng cho.
        - Vậy người biết ta là ai không nào?
        - Người họ Thân, tên Bảo-Hòa.
        Bảo-Hòa nghĩ đến trường hợp người Mường tại Bắc-biên thường nuôi ma xó. Khi người ta thù ai, thì sai ma xó theo rình rập đối thủ, rồi tìm cách hại. Nàng hơi rùng mình:
        - Người có phải là ma xó không? Người nên biết tất cả linh thần ở Bắc-biên đều phải qui phục mạ mạ ta. Người là ma xó, mà theo dõi ta, mạ mạ ta sẽ quật mồ người lên, đánh nát xương ra.
        - Không, ta là ta. Ta không phải ma xó. Ta không sợ linh thần, cũng không sợ vua bà Bắc-biên.
        Bảo-Hòa thấy bụng hoà thượng hơi chuyển động. Nàng hiểu liền:
        - Ta thực ngu. Lão hoà thượng này dùng thuật phúc ngữ. Bụng mở ra, khép lại, hơi đưa qua cổ, mà thành tiếng nói.
        Nàng cười lớn:
        - Thì ra hoà thượng ăn thịt chó. Người trêu bản cô nương từ nãy đến giờ. Này, người ăn thịt bao nhiêu con chó rồi? Thịt chó ngon không?
        - Thịt chó ư? Ta chưa ăn qua lần nào, thành ra không biết có ngon hay không. Nhưng ta biết chắc chó sạch sẽ hơn cô nương.
        Bảo-Hoà nổi giận:
        - Ông nói láo. Chó ăn phẩn thì phải dơ bẩn hơn người chứ?
        - Phẩn do đâu mà có?... Ở trong người ra. Chó ăn vào mà thành dơ, thì chính là người làm cho chó dơ. Ta biết rõ chân chó sạch hơn chân cô nương, vì chân chó không đá đồng lọai, còn chân cô nương xử dụng võ công đánh người. Chó chỉ biết sủa, không biết chửi bới, nói điêu, nói ngoa, nói cạnh nói khoé, như vậy miệng chó sạch hơn miệng cô nương.
        Bảo-Hòa nghe nhà sư nói, nàng nổi giận vung tay tát vào mặt ông. Ông không tránh, chỉ phẩy ngón tay một cái, chưởng lực Bảo-Hòa bị hoá giải mất. Biết gặp kình địch, Bảo-Hoà không nhân nhượng nữa, nàng phát một chiêu Phục-ngưu thần chưởng tấn công. Chưởng phong rít lên veo véo. Nhà sư vẫn ngồi im, bàn tay chuyển động một cái, chưởng phong của nàng bị đổi chiều đánh sang bên cạnh.
        Nhà sư cười:
        - À, đả miêu chưởng đây.
        Phục-ngưu thần chưởng, là chưởng pháp tinh diệu, hùng mạnh, danh trấn Hoa-Việt hơn ngàn năm qua. Thế mà nhà sư gọi là chưởng đánh mèo, Bảo-Hòa chịu sao nổi? Nàng quát lên phát ra chiêu Tứ ngưu phân thi, nhưng nhà sư thủy chung vẫn không đứng dậy. Ông phẩy tay, làm kình lực của nàng đổi chiều sang một bên.
        Đến đây, Thiệu-Thái xuất hiện.
        Nghe anh nói, Bảo-Hòa kinh hãi, nàng chửi thầm:
        - Mình đáng chết thực. Ừ trên đời làm gì có hoà thượng thứ nhì béo như thế này? Ta nghe truyền tụng rằng Bố Đại hoà thượng là Bồ-tát hoá thân, trở lại trần thế, giúp Đại-Việt lập nước. Công lực lão cao thâm khôn lường. Hôm nay ta mới thực sự thấy.
        Tuy vậy, vì tự ái, nàng vẫn không chịu nhận lỗi, chỉ nói một câu trống trơn:
        - Thực vạn hạnh.
        Bố Đại hoà thượng quan sát Thiệu-Thái, rồi ông lắc đầu:
        - Con lợn ơi! Tại sao mặt lợn lại bì bì ra thế kia? Này, lợn ạ, trong thế gian không có gì thường cả. Hôm nay lợn với ta hội ngộ. Ngày mai, ta một nơi, lợn một nơi. Việc nhỏ còn như thế huống hồ việc lớn như việc nước, việc dân.
        Thiệu-Thái tỉnh ngộ:
        - Đệ tử hiểu rồi. Long-hổ chưởng thì lợi hại với đệ tử Tây-vu, nhưng không thể với đệ tử Tiêu-sơn. Thiền-công hoá giải được ma nghiệp, nhưng giết người lại khó khăn.
        - Con lợn giác ngộ mau thực. Trong người lợn có một trăm năm Thiền-công, khi luyện bất cứ chiêu thức ngoại công nào của nhà Phật như Thiếu-lâm, Tiêu-sơn, Đông-a đều được. Còn Long-hổ chưởng, là chưởng của tục gia, mỗi chiêu biểu hiệu con long, con hổ giao chiến. Khi phát chiêu, phải vận đến hai lực đạo khác nhau. Trong khi Thiền-công phải dứt bỏ nhân ngã tứ tướng. Long-hổ chưởng, thuộc chưởng tục gia, thiên về sắc tướng. Dùng cái không, để làm cái có mà phát chiêu, chiêu không có lực.
        Nghe Bố Đại nói, Thiệu-Thái tỉnh ngộ:
        - Ông nội mình tuy là đại tôn sư võ học, nhưng cũng không nhìn ra vụ mình luyện Long-hổ chưởng bất thành. Ừ, sau đó mình phát chiêu Tiêu-sơn Tượng-đầu chưởng lại mãnh liệt vô cùng.
        Bảo-Hoà xì một cái:
        - Đại sư nói vậy e không đúng. Thế sao Phục-ngưu thần chưởng sát thủ kinh người, mà thời Lĩnh-nam, công chúa Yên-lãng Trần Năng lại dùng Vô-ngã tướng Thiền-công phát chiêu mà vẫn dũng mãnh? Vô-ngã tướng Thiền-công không thuộc Thiền-công nhà Phật đó ư?
        Bố Đại cười khềnh khệch:
        - Vị nữ thí chủ này dùng Phục ngưu thần chưởng tấn công bần tăng. Phục-ngưu thần chưởng do tổ sư phái Tản-viên là Sơn-Tinh chế ra, mục đích khắc phục, chế ngự trâu, chứ không phải để giết trâu. Sau Vạn-tín hầu Lý Thân nhân đó chế ra nội công âm nhu khắc chế nội công dương cương, rồi biến ba mươi sáu chiêu Phục-ngưu dương thành Phục-ngưu âm. Khi công chúa Yên-lãng gặp Tăng-giả Nan-đà, được ngài truyền Thiền-công cho. Công chúa dùng Thiền-công phát chiêu Phục-ngưu. Đến đây Phục-ngưu lại một lần nữa đổi đi thành pho võ công mới. Vì vậy khi Phục-ngưu Thiền-công này phát ra chỉ giải được chiêu thức ác độc của đối phương, mà không có sát thủ như trước nữa.
        Đến đây ngài đứng dậy, vận khí phát chiêu, đánh vào ụ đất bên sông. Binh một tiếng, ụ đất bay đi, rơi xuống sông ào ào. Bảo-Hoà nhận ra đó là chiêu Ngưu tẩu như phi. Nàng vỗ tay:
        - Đại hoà thượng! Phục ngưu thần chưởng của người mạnh thực.
        Bố Đại ngồi kiết già trở lại, mắt ông ngơ ngẩn xuất thần, nhìn vào không gian vô tận. Một lúc sau, ông nói:
        - Chúng ta đi tìm lẽ giải thoát, đi tìm Phật, như người vào rừng tìm trâu. Đi hoài, chỉ thấy này cây, này hoa, này cỏ. Càng tìm càng vô vọng. Trâu ở đâu, nào có thấy?
        Ông vận khí phát một chiêu hướng vào thân cây bên cạnh. Binh một tiếng, cây từ từ đổ xuống. Ông hỏi Bảo-Hòa:
        - Tiểu cô nương. Cô nương thấy thế nào?
        Bảo-Hòa đáp:
        - Trong chiêu vừa rồi của đại sư, dường như bao gồm nội công dương cương của tiểu bối, lại có nội công âm nhu khắc chế với tiểu bối. Lại có phần hoá giải, giống như Thiền-công. Cả ba đều nằm trong một chiêu của Phục-ngưu thần chưởng.
        - Giỏi!
        Ông chỉ thân cây đổ:
        - Con lợn thử nhìn xem, có gì lạ không?
        Thiệu-Thái chạy lại xem: Thân cây bị lực đánh vỡ ra thành từng miếng nhỏ. Trong các miếng nhỏ đó, có những chỗ nát nhừ ra, các thớ cây cong queo, lại có lực đạo tiện thân cây đứt như một nhát búa chặt. Chàng chợt hiểu, reo lên:
        - Trong chiêu vừa rồi, bao gồm ba thứ, lực dương cương làm đứt cây bằng phẳng. Âm nhu làm cho cây bị cắt ra thành thớ nhỏ. Thiền lực làm các thớ nát ra như bột.
        Bố-Đại gật đầu:
        - Ta đặt cho chiêu này tên là Sơn trung tầm ngưu, giống như người vào rừng tìm trâu. Như chúng sinh đi tìm Phật vậy. Phật ở đâu mà tìm? Tìm đến bao giờ? Thực giống như nằm mơ, phiêu phiêu, tưởng tưởng.
        Rồi không đợi Bảo-Hòa, Thiệu-Thái có đồng ý hay không, ông dạy hai người cách vận khí, xuất chiêu. Hai anh em cùng hợp sức luyện. Một lát sau, Bố-Đại bảo Thiệu-Thái:
        - Người phát chiêu ta xem nào!


        1. Sơn trung tầm ngưu (hình)

        Thiệu-Thái phát chiêu hướng phần cây còn lại. Chát một tiếng. Phần trên bị tiện đứt bằng phẳng. Chàng cầm khúc gỗ lên xem. Khúc gỗ bị vỡ thành thớ, thành bột, giống như thân cây bị Bố Đại đánh gẫy vừa rồi.
        Bảo-Hoà reo:
        - Thành công rồi. Nhưng các thớ gỗ bị nghiền chưa nát mấy. Phải luyện lại.
        Bảo-Hòa xuống đinh tấn, vận khí phát chiêu hướng gốc cây. Ầm, cát bụi bay tung, gốc cây bị bật tung lên, nhưng các thớ cây vẫn còn nguyên.
        Bố-Đại cười khềnh kệch:
        - Giữa sắc tướng với vô tướng, làm sao hợp lại được! Vô ích.
        Tự ái nổi dậy, Bảo-Hòa nghĩ thầm:
        - Ông Bố Đại với anh Thiệu-Thái vốn cùng môn hộ. Nên ông dạy, anh ấy thụ lĩnh dễ dàng. Còn mình thì khác môn hộ, nếu mình tập theo ông không khác chúng sinh đi tìm Phật. Hay mình vận công âm nhu xem?

        Hồi ở Vạn-thảo sơn trang, Mỹ-Linh đọc khẩu quyết cho Bảo-Hoà luyện Phục-ngưu thần chưởng dương cương. Trong khẩu quyết có nhiều thuật ngữ đặc biệt. Nàng chiếu thuật ngữ Đặng Đại-Khê dạy rồi luyện thử, thành công. Lúc trở lại Vạn-hoa sơn trang, phò mã Đào Cam-Mộc dạy nàng thuật ngữ luyện Phục-ngưu thần chưởng âm nhu. Từ đấy đêm đêm nàng luyện nội công âm nhu, đến nay đã được mấy thành.

        2. Kiến tích dã ngưu (hình)

        Bây giờ Phục-ngưu thần chưởng của nàng bị Bố Đại hoà thượng gọi là Đả miêu. Uất khí nổi dậy, nàng ngồi vận công âm nhu. Vận một lúc, thấy người mình lạnh toát, rét run lên. Nàng không dám vận nữa. Trong cơ thể, nội lực dương cương phản ứng tự động, chống lạnh. Thế là hai thứ nội tức hoà hợp với nhau. Cứ thế nàng luyện đi, luyện lại. Vô tình nàng làm công việc tổng hợp âm dương, mà xưa kia chỉ Bắc-bình vương Đào Kỳ làm được.
        Mặc cho anh em Thiệu-Thái luyện chiêu Sơn trung tầm ngưu. Bố Đại ngồi tần ngần suy nghĩ một lúc, rồi ông phát một chiêu nữa. Chiêu này cực kỳ vũ dũng, rầm một tiếng, đất lũng xuống thành lỗ.
        Thiệu-Thái, Bảo-Hòa ngưng luyện công, chạy lại xem. Bố Đại hỏi:
        - Người thấy có gì lạ không?
        Bảo-Hòa nói:
        - Trong chiêu của đại sư vẫn bao gồm ba thứ kình lực. Nhưng chiêu thức rõ ràng tập hợp ba chiêu. Chỗ này là chiêu Thanh ngưu qui gia cho nên có vết lủng tròn, bằng phẳng. Chỗ này là chiêu Tứ ngưu phân thi nên có bốn lỗ hũng. Chỗ này là chiêu Lưỡng ngưu tranh phong. Vì chỗ đất lũng xuống có hai lỗ.
        Bố Đại hỏi Thiệu-Thái:
        - Người nghĩ sao?

        3. Lâm chung kiến ngưu (hình)

        - Thưa Bồ-tát, chiêu này tượng trưng cho người đi tìm trâu đã thấy có vết chân trâu, nên đặt tên là Kiến tích dã ngưu nghĩa là tìm thấy vết trâu hoang.
        Bố Đại dạy Thiệu-Thái vận khí phát chiêu. Chàng vận công, phát chiêu, không có gì khó khăn cả.
        Bố Đại vẫy Thiệu-Thái lại gần:
        - Này con lợn! Trong Thiền-công, điều quan trọng nhất là hàng phục cái tâm mình. Tâm trong Đại-thừa là Ngã tướng. Thiền dạy cắt cái ngã tướng đi. Ngươi được truyền Thiền-công, mà không luyện được ngoại công nào để xử dụng, phát huy, cũng giống như chú mục đồng vào rừng. Đầu tiên thấy ve kêu, vượn hú, ngơ ngơ, ngác ngác, sau thấy có vết chân con trâu, lần theo mà đi. Chú mục đồng chạy mãi, cuối cùng thấy cái đuôi trâu thò ra trong bụi cây, rồi thấy nửa thân trâu. Thì ra trâu vẫn ở đây chứ có xa đâu? Tỷ như ta tìm Phật. Phật chính tại tâm, mà không biết.
        Thình lình ông hít hơi phát chiêu. Bùng một tiếng, chỗ đất trước mặt ông lủng một lỗ lớn.
        Bảo-Hòa thấy chiêu vừa rồi của Bố Đại đánh ra, hơi giống Phục-ngưu thần chưởng. Có điều chưởng phong kỳ diệu vô cùng.
        Thiệu-Thái reo lên:
        - Thành công rồi!

        4. Đắc ngưu hội thủ (hình)

        Bảo-Hòa ngơ ngác không hiểu, hỏi:
        - Cái gì mà anh bảo thành công rồi?
        - Bồ-tát giảng cách phục tâm, như người đi tìm Phật. Phật ở trong tâm, như trâu ở phía trước chúng ta. Vì vậy ngài hợp ba chiêu Phuc-ngưu lại thành một chiêu. Tức trong một chiêu vừa rồi bao gồm Ác ngưu nan độ, Ngưu thực ư dã, Thanh-ngưu nhập điền. Kình lực phát ra gồm cả dương như của Sơn-Tinh, âm nhu của Vạn-tín hầu và Thiền như của công chúa Yên-lãng.
        Bố Đại giảng cách vận khí, chuyển khí, phát chiêu cùng cách biến hoá. Đầu tiên có thể phát một trong ba chiêu Ác-ngưu nan độ, hoặc Ngưu thực ư dã, hoặc Thanh-ngưu nhập điền. Sau đó biến ra chiêu nào cũng được. Trong một chiêu, gồm có cả ba thứ kình lực, sát thủ dương cương, âm nhu hoặc hoá giải như Vô ngã tướng Thiền-công.
        Bảo-Hòa, Thiệu-Thái cùng ngồi vận khí, luyện một lúc. Bố Đại bảo Thiệu-Thái:
        - Phát chiêu đi!
        Thiệu-Thái hướng tảng đá trước mặt phát chiêu. Binh một tiếng tảng đá bay lên cao, rồi rơi xuống đất.
        Bảo-Hòa cũng phát chiêu vào tảng đá khác. Đá cũng bay lên, rồi rơi xuống. Ba người cùng chạy lại xem. Tảng đá của Bảo-Hòa không có gì lạ. Nàng lắc đầu:
        - Chiêu thức vừa rồi của tiểu bối phát ra, cũng vẫn là chiêu Ác ngưu nan độ, không có gì thay đổi cả. Hoà thượng ơi, hợp ba chiêu lại không được đâu!

        5. Mục ngưu ư dã (hình)

        Nàng chạy lại xem tảng đá của anh, bất giác, mở to mắt ra nhìn. Tảng đá có tới chín vết tích khác nhau. Chỗ nhẵn bằng là do Thiền-công đánh vào. Chỗ xoáy thành từng lỗ là do âm kình. Còn chỗ vỡ ra là do dương kình. Chỗ bị thủng vào là do chiêu Ác ngưu nan độ. Chỗ có bốn vết lủng là do chiêu Thanh ngưu nhập điền. Còn chỗ lấm tấm là do chiêu Ngưu thực ư dã.
        Bố Đại cười:
        - Chiêu này ta tạm gọi là tìm thấy trâu trong rừng, gọi bằng tiếng Hán-Việt là Lâm trung kiến ngưu.
        Bảo-Hòa hỏi:
        - Đại sư! Vì lẽ gì, tiểu bối đã luyện Phục-ngưu thần chưởng rồi, mà phát chiêu của đại sư lại không ra. Trong khi anh của tiểu bối, chưa biết gì về Phục-ngưu thần chưởng, mà lại luyện thành.
        Bố Đại an ủi Bảo-Hòa:
        - Tiểu thí chủ nên biết con lợn kia chỉ có cái xác là anh thí chủ thôi. Còn trong người y đầy dẫy Thiền-công. Y lại hàng phục được cái tâm, vì vậy y luyện thành. Còn thí chủ, luyện Phục-ngưu từ lâu, nhưng cái sắc tướng còn nhiều quá, thành ra lại trở về với Phục-ngưu.

        6. Kỵ ngưu quy gia (hình)

        Bảo-Hoà là người cực kỳ thông minh, nàng hiểu liền:
        - Đại sư tổng hợp ba chiêu Phục-ngưu làm một. Trong mỗi chiêu bao gồm tới ba thứ kình lực khác nhau. Một là dương cương của Sơn-Tinh. Hai là âm nhu của Lý Thân. Ba là Vô-ngã tướng của Thiền-công. Còn tiểu nữ thì thiếu nội công âm nhu, với Thiền-công, thành ra khi phát chiêu vẫn chỉ là Phục-ngưu dương cương.
        - Đúng thế.
        Bảo-Hoà suy nghĩ, vận công. Chân khí tòng tâm, nội lực âm nhu phát ra tay phải, trong khi nội lực dương cương phát ra tay trái. Cả hai cuồn cuộn, khiến tay nàng rung lên. Nàng vung cả hai tay. Vô tình cả hai tay đều phát chiêu Ác-ngưu nan độ hướng vào hai cây khác nhau. Ầm một tiếng. Cây phía tay trái bị tiện đứt ngon, bằng phẳng như nhát búa chặt. Còn cây phía phải một đoạn bị dập nát, các thớ cong queo như vỏ bào.
        Bố Đại gật đầu:
        - Xưa kia Vạn-tín hầu, rồi Bắc-bình vương đều tổng hợp được âm, dương, luyện thành cả Phục-ngưu âm lẫn dương. Sau này Chu Tái-Kênh học lén cũng thành. Bà chỉ có thể phát hai tay cùng một chiêu, cùng âm, hoặc dương. Còn Vạn-tín hầu, cũng như Bắc-bình vương, có thể một lúc phát mỗi tay một chiêu khác nhau. Hoặc âm cả, hoặc dương cả, hoặc một tay âm, một tay dương. Như tay trái phát chiêu Ngưu thực ư dã âm. Tay phải phát chiêu Kiến ngưu tại điền dương. Vì vậy một người, mà thành hai. Cho nên trong trận cuối cùng ngài cùng vương phi giết hết Liêu-Đông tứ vương cùng Sầm Anh, Phùng Đức.

        7. Vong ngưu tồn nhân (hình)

        Ngài chỉ Bảo-Hòa:
        - Phàm muốn phân tâm ra làm hai như vậy, phải là người chân thực như con nhí. Hoặc đần như con lợn. Tiểu quận chúa vì thông minh quá, nên khó tập trung tinh thần.
        Bảo-Hoà gật đầu, hiểu ra:
        - Nếu như người theo Phật, toạ thiền, để lòng lắng xuống, bỏ hết Ngũ-căn, Lục-trần, thần tĩnh, tâm an, như vậy dù linh lợi cũng thành công.
        - Đúng thế. Vừa rồi quận chúa xuất thần, hai tay phát cùng một chiêu, nhưng mỗi tay một kình lực khác nhau. Nào, quận chúa thử trụ tâm vào gốc cây đa này, buông lỏng hết cả. Tay phải phát chiêu Ác ngưu nan độ dương. Tay trái phát chiêu Ngưu tẩu như phi âm.
        Bảo-Hòa ngồi xuống, vận công, khí trầm đơn điền. Bao nhiêu tinh thần nàng trụ vào cây đa, rồi vận âm kình ra tay trái, dương kình ra tay phải. Phải khó nhọc lắm, kình lực mới ra như ý muốn.
        Nàng phát chiêu Ác ngưu nan độ ra tay phải. Lập tức tay nàng run lên, kình lực mạnh vô cùng. Nàng lại phát chiêu Ngưu tẩu như phi ra tay trái. Không khó nhọc. Hai tay tràn kình lực. Nàng hít hơi đẩy về trước. Bình, vèo hai chưởng cùng vọt ra, đánh trúng một thân cây.

        8. Nhân ngưu câu vong (hình)

        Thiệu-Thái chạy lại xem. Một đoạn thân cây bị đứt bằng phẳng, nhưng các thớ lại cong queo. Khúc cây khác chỉ rạn ra, không đứt, mà các thớ thì nát như bột. Chàng lắc đầu:
        - Em không thể tập trung tinh thần, mà cố quá, nên có trình độ này. Tay phải dương. Tay trái âm. Nhưng khi xuất chưởng, tinh thần không phân nổi, nên có tình trạng nửa nọ, nửa kia.
        Bố Đại ngửa mặt nhìn trăng than:
        - Đúng là nghiệp dĩ. Quận chúa! Người không phát được hai tay hai chiêu khác nhau, với hai kình lực âm, dương khác biêt. Nhưng chính cái không hoàn toàn phân tâm đó, làm cho tay dương ba phần dương một phần âm. Tay âm, ba phần âm một phần dương. Nó không giống của Bắc-bình vương. Cũng chẳng giống Thiệu-Thái. Nó thành một thứ chưởng mới. Ta có lời yêu cầu.
        Bảo-Hoà xấu hổ:
        - Xin đại sư cứ dạy.
        - Chưởng hỗn loạn như vậy, cực kỳ bá đạo. Sát thủ kinh người. Kẻ bị lĩnh, dù nhẹ, dù nặng, cũng chết. Mỗi khi xử dụng, quận chúa thử nghĩ xem, tội đối thủ có đáng chết không, rồi hãy phát chiêu. Nếu phát bừa bãi, bần tăng e nghiệp quả cao lắm, chứ không thường đâu.
        - Đa tạ đại sư chỉ dạy.

        9. Phản bản hoàn nguyên (hình)

        Thiệu-Thái ngây người ra suy nghĩ:
        - Như vậy bà Chu Tái-Kênh chỉ có thể chiêu trước, hai tay cùng phát dương. Rồi chiêu sau, hai tay cùng phát âm. Trong khi vận lực từ âm, sang dương, có khoảng thời gian ngăn cách, đối thủ lợi dụng chỗ đó mà tấn công. Nếu gặp đối thủ bậc trung thì không sao. Còn gặp đại đối đầu thực nguy tai. Tốt hơn hết bà chỉ nên đánh thuần dương hoặc thuần âm thôi. Nay Bảo-Hoà phát chiêu, không phân rõ như vầy, e còn lợi hại hơn Bắc-bình vương nữa.
        - Đúng vậy.
        Bố Đại giảng tiếp:
        - Thấy trâu, thì phải bắt lấy trâu, đừng để trâu đi mất.

        10. Nhập triền thụy thủ (hình)


        Nói rồi ngài lại phát chiêu, đặt chiêu này tên là Đắc ngưu hội thủ. Cứ như thế, một thầy, hai trò, hợp Phục-ngưu thần chưởng dương cương, âm nhu, vô ngã tướng thành pho chưởng mới, gồm mười chiêu mang tên như sau:

        1. Sơn trung tầm ngưu (Trong núi tìm trâu).
        2. Kiến tích dã ngưu ( Thấy vết trâu hoang).
        3. Lâm trung kiến ngưu ( Thấy trâu trong rừng).
        4. Đắc ngưu hội thủ ( Bắt trâu đem về).
        5. Mục ngưu ư dã (Chăn trâu ở đồng).
        6. Kị ngưu qui gia (Cỡi trâu về nhà).
        7. Vong ngưu tồn nhân (Trâu mất, người còn).
        8. Nhân ngưu câu vong (Người và trâu đều mất).
        9. Phản bản, hoàn nguyên (Trở về cội nguồn).
        10. Nhập triền, thụy thủ (Buông tay, vào chợ).


        Bố Đại giảng:
        - Thiền công phát xuất từ Thiền-na, gọi tắt là Thiền. Muốn đạt được tối cao Thiền-công phải tìm cách hàng phục cái tâm. Tâm của Đại-thừa là Ngã tướng. Vì vậy Vô ngã tướng Thiền công tổng hợp tất cả các Thiền-công. Tâm của Thiền thì thu hẹp lại thành cái « niệm ». Thiền dạy cắt đứt tư duy, bỏ hết lý luận. Cho nên luyện Thiền-công phải bỏ hết Ngũ-uẩn, Nhân-ngã tứ tướng.
        Ngài ngừng lại, nhìn trời rồi tiếp:
        - Trong Mục ngưu Thiền chưởng ta bắt đầu bằng tìm trâu. Tìm ở đâu? Đâu cũng là hoang vu, là rừng rậm. Hình thành chiêu Sơn trung tầm ngưu. Sang chiêu thứ nhì, chú bé thấy dấu vết chân trâu, Kiến tích dã ngưu. Rồi thấy trâu. Thì ra trâu vẫn đó, trâu có trốn đâu, tại chú không thấy trâu mà thôi. Ấy là chiêu Lâm trung kiến ngưu. Cũng như cái tâm. Tâm với Phật như nhau. Tâm ở đâu? Tâm vẫn ở trong ta, Phật vẫn ở trong ta, mà ta mất công đi tìm.
        Thiệu-Thái, Bảo-Hoà lắng tai ngồi nghe. Đây là lần đầu tiên Bảo-Hoà được nghe thuyết pháp giản dị như vậy. Những ý niệm không ưa Phật-giáo biến dần đi khỏi tâm tư nàng. Bố Đại tiếp:
        - Rồi chú mục đồng bắt được trâu, tức chiêu Đắc ngưu hiệp thủ, chăn trâu Mục ngưu ư dã. Cuối cùng, dắt trâu về nhà Kị ngưu qui gia. Cỡi trâu về nhà là ngự trị được cái tâm. Nhưng như vậy vẫn còn tâm. Còn tâm vẫn còn cảnh. Còn cảnh tức còn « Nhãn ». Nhãn là một phần của thân. Còn nhãn tức còn « thân ». Tức cảnh sinh tình là còn « Y Ù ». Như vậy thì Lục-tặc còn nguyên, chưa thoát khỏi Ngũ-uẩn. Làm sao phải Vô vô minh kia mà. Bây giờ phải dứt hết, tức bỏ cả cái tâm ra ngoài, tức trâu mất đi, chỉ còn người thôi. Đó là chiêu Vong ngưu tồn nhân. Khi tâm mất thì thân cũng mất, tức Nhân ngưu câu vong.
        Thiệu-Thái mỉm cười khoan khoái. Bố Đại hỏi:
        - Hiểu chưa, con lợn?
        - Bạch Bồ-Tát, khi người và trâu đều biến đi, thì đạt tới đắc pháp. Hôm trước Mỹ-Linh đọc kinh Lăng-già có đoạn đệ tử không hiểu, nay mới thấy rõ. Đó là đoạn:

        Buộc cảnh giới là tâm,
        Giác tưởng sinh là trí.
        Không thật có và thắng,
        Huệ ắt từ đấy sinh.


        - Đúng vậy. Người hãy nghe câu kệ này:

        Tầm ngưu tu phóng tích,
        Học đạo quý vô tâm.
        Tích tại, ngưu hoàn tại,
        Vô tâm đạo dị tầm.


        Thiệu-Thái thấy người nhẹ nhàng dị thường, chàng lẩm nhẩm dịch:

        Tìm trâu cần biết vết,
        Học đạo phải vô tâm,
        Dấu đâu, thì trâu đấy,
        Vô tâm đạo dễ tìm.


        Bố Đại xoa đầu Thiệu-Thái:
        - Người có duyên, mà được Sùng-Phạm cho trăm năm Thiền-công. Thế nhưng cơ thể người là cơ thể ăn mặn. Cơ thể Sùng-Phạm là cơ thể ăn chay. Thiền công Sùng-Phạm dễ gì tuần lưu trong người được. Lại nữa, tâm xử dụng lực. Thế mà tâm của người đầy sắc tướng, làm sao xử dụng Thiền-công vô sắc kia? Người lại cũng không biết phát lực của Tiêu-sơn, thành ra người như đứa trẻ ngồi trên đống gạo, mà chết đói, vì không biết nấu ăn. Bây giờ người hiểu hết, người phát chiêu tòng tâm được rồi.
        Thiệu-Thái nhớ lại hôm gặp Bố Đại ở Hồng-hương mật cốc, Bố-Đại gọi chàng là con lợn, rồi xưng đếch, chó, chàng bực mình. Hôm nay chàng mới hiểu, dù chó, dù lợn, dù gì chăng nữa, cũng là không cả.

        Ghi chú,
        Đây là nguồn gốc của Thập-ngưu Thiền-chưởng, do Bố Đại hoà thượng thời Lý sáng tạo ra, truyền tụng đến đời Tây-sơn mới bị tuyệt. Sau khi rời Bố Đại trở về, công-chúa Bảo-Hòa vẽ lại mười bức tranh, để gợi ý, khi luyện tập. Mười bức tranh ấy, truyền tụng rất rộng trong Thiền-học. Người sau không hiểu Mục ngưu đồ, rồi giải thích lung tung. Có người giải thích đúng. Có người giải thích sai. Chỉ độc giả Thuận-Thiên di sử mới biết bức tranh này được ra đời trong hoàn cảnh nào.
        Sau này khi đem quân sang đánh Tống, công chúa Bảo-Hòa có truyền thiền-học cho nhiều danh sĩ, tăng lữ Trung-quốc, vì vậy đến cuối thế kỷ thứ mười hai, loại tranh Mục ngưu đồ này truyền tụng rất rộng trong các thiền-viện, Tùng-lâm. Cứ mỗi một đời truyền tụng, người sau giải thích, thêm bớt, nên biến hình đổi dạng có hàng ngàn bộ khác nhau, nhưng đại lược không có gì thay đổi.
        Tranh Mục ngưu đồ tuy nhiều, nhưng tựu trung có hai loại khác biệt nhau, đó là tranh Đại-thừa và tranh Thiền-tông. Đây là nguồn gốc tranh Thiền-tông. Sau này Bảo-Hòa được Bố Đại hoà thượng quy y cho, thầy trò lại hợp võ công thiên hạ, sáng chế ra mười chiêu Mực ngưu Thiền chưởng nữa, khác hẳn với Mục ngưu Thiền chưởng này. Bảo-Hòa cũng vẽ tranh. Để phân biệt, người sau gọi bộ tranh trước là tranh Thiền-tông. Bộ tranh sau là tranh Đại-thừa. Nhiều người thích chẻ sợi tóc làm tư, họ giải thích tranh Đại-thừa thế này, tranh Thiền-tông thể kia, mà không hiểu rằng đạo Phật có muôn vàn pháp môn, nhưng thu lại vẫn chỉ có một mối là đi đến chỗ ” Vô thượng chính đẳng, chính giác” giải thoát con người. Sang bộ Anh-hùng Đông-a gươm thiêng Hàm-tử, thuật giả sẽ trình bày rõ ràng, chi tiết hai bức tranh Thiền-tông và Đại-thừa.


        <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.01.2005 08:40:41 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 11.01.2005 18:12:18 (permalink)
          Hồi thứ năm mươi lăm

          Ra Tay Tế Độ



          Thiệu-Thái, Bảo-Hòa được Bố Đại dạy võ công. Hai anh em nhắm mắt luyện một lúc. Khi mở mắt ra, trời đã sáng tỏ. Bố Đại bỏ đi từ hồi nào. Bảo-Hoà kinh hãi:
          - Chết rồi, dễ thường tới giờ Mão cũng nên. Mau trở về theo mạ mạ đi dự hội, không trễ.
          Hai anh em trở về chỗ đóng của phái Tây-vu, trại vắng vẻ. Trong trại, còn mấy đệ tử trẻ gác. Trên trời năm con diều hâu đang bay lượn canh phòng.
          Thiệu-Thái hỏi:
          - Ông nội với bố mẹ tôi đâu?
          Đệ tử đó đáp:
          - Sáng nay các ngài cho tìm thế tử với quận chúa mà không thấy, nên các ngài lên đường trước rồi. Hai vị mau lấy ngựa theo gấp, mới kịp.
          Thiệu-Thái hú một tiếng, con hùm xám của chàng với con hùm trắng của Bảo-Hoà chạy tới. Hai anh em rửa mặt, ăn uống qua loa, rồi vọt lên lưng hùm hướng về Lộc-hà mà phi.
          Đang phi, có tiếng chim ưng kêu trên trời, Thiệu-Thái nhìn lên, nói với em:
          - Dường như chim ưng của mạ mạ sai đi tìm chúng mình.
          Bảo-Hoà hú lên một tiếng. Hai con hùm ngừng lại. Nàng vẫy tay gọi chim ưng xuống. Nàng lý luận với anh:
          - Anh em chúng mình luyện võ ở bờ sông, đâu có xa doanh trại là mấy mà chim ưng không tìm được? Chẳng qua mạ mạ thấy bọn mình luyện công, để yên cho luyện. Chứ nếu muốn, mạ mạ đã gọi bọn mình rồi. Chim ưng này chắc của cậu hai.
          Hai con chim ưng đang bay, thấy Bảo-Hoà vẫy tay gọi, chúng lượn một vòng rồi đáp xuống. Quả nhiên chim của Khu-mật viện. Bảo-Hoà móc thư dưới chân chúng coi. Nàng nhận ra bút tích của Khai-quốc vương. Trong thư Khai-quốc vương ra lệnh cho nàng với Thiệu-Thái phải thay đổi y phục, giả làm đệ tử Hồng-thiết giáo, hầu biết hết âm mưu của chúng. Trên đường đi, sẽ có người trao quần áo cùng thẻ bài cho.
          Hai anh em đi một quãng, có ông già gánh hai bên hai chậu hoa cúc vàng rất đẹp. Ông lão thấy hùm, không những không sợ, lại đứng nhìn thản nhiên. Ông dơ tay ngăn anh em nàng lại, rồi vẫy tay cho hai người theo ông vào trong khu vườn hoang. Ông lấy ra cái túi đưa cho Thiệu-Thái:
          - Hai vị thay quần áo, để thành giáo chúng Hồng-thiết giáo.
          Thiệu-Thái biết ông là người của Khu-mật-viện. Chàng cầm lấy cái túi. Hai anh em vào bụi cây mở ra. Trong có hai bộ quần áo giáo chúng, vội mặc vào người.
          Ông lão dặn:
          - Khu-mật viện bắt được một đôi nam nữ, là anh em ruột. Trước đây Lê Ba cho sang Tây-dương du học với Hồng-thiết giáo bên ấy. Vậy hai vị phải giả làm hai tên này. Khi đi chúng còn nhỏ, bây giờ trở về, chính Lê Ba cũng không nhận ra chúng. Trong đại hội Lê Ba với Nhật-Hồ sẽ tranh dành, hai vị bênh Lê Ba, tàn sát các phe phái khác. Các vị nhớ nam tên Trần Đông-Thiên, nữ tên Trần Quỳnh-Hoa.
          Lão đem hồ, bột, mầu ra hoá trang cho anh em Bảo-Hoà. Tài nghệ hoá trang của lão rất thần kỳ. Bảo-Hoà không còn nhận ra anh mình nữa. Xong lão cho mỗi người một viên kẹo:
          - Hai người ngậm viên kẹo này, tiếng sẽ đổi đi. Còn hai con hùm, các vị cứ mang theo. Lát nữa các vị ra đường sẽ có hai con ngựa. Đó là ngựa của Trần Đông-Thiên với Trần Quỳnh-Hoa mang từ bên Tây-dương về. Các vị cỡi ngựa chạy trước, cho hùm theo sau. Đây là cuốn cẩm nang. Hai vị khoan thai đọc, để thi hành lệnh của thượng cấp.
          Thiệu-Thái nghe ông nói chợt hiểu rằng ông không biết lý lịch anh em chàng, nên mới nói « để thi hành lệnh cuả thượng cấp. »
          Bảo-Hòa dùng tiếng cọp nói với đôi hùm mấy câu. Hai con hùm ngoan ngoãn theo sau. Hai anh em từ biệt lão già ra đường. Ngoài vệ đường có hai con ngựa cực kỳ hùng vĩ. Hai anh em lên ngựa hướng Lộc-hà phi. Hai con hùm theo sau một quãng.
          Đi được mấy dặm, Thiệu-Thái nói nhỏ với em:
          - Cẩn thận, phía sau có ba kị mã đang phi như bay tới.
          Bảo-Hoà mừng thầm, vì với nội công cuả nàng, còn chưa nghe thấy tiếng ngựa phi từ xa, mà Thiệu-Thái đã nghe rõ, ắt chàng đã biết xử dụng nội công của Bồ-tát Sùng-Phạm rồi.
          Đúng như Thiệu-Thái nói, từ phía sau ba kị mã phi tới như bay. Ba con ngựa đang phi, thấy phía trước có hai con cọp, chúng kinh hãi, ngừng lại.
          Vì chúng ngừng khẩn cấp, phải dựng đứng hai vó trước lên, cất tiếng hí inh ỏi. Ba kị mã cố gắng ghìm cương ngựa lại, nhảy xuống đất. Một người chửi thề:
          - Tổ mẹ nó, hai đứa thối tha nào kia, hết chỗ chơi rồi hay sao, mà đem ông kễnh ra đường ngăn lối tổ nội mi?
          Bảo-Hoà cực kỳ sùng kính thân mẫu. Nghe người kia chửi tổ mẹ thì nàng chịu sao nổi? Nàng nhảy xuống đất, hú lên một tiếng, con hùm trắng quay đầu lại vồ người kia. Người kia không ngờ con cọp trắng lại vồ mình bằng động tác mau như vậy. Y nhảy vọt lên cao tránh khỏi. Ở trên cao, y đá gió một cái, người tà tà đáp xuống cách con cọp mấy trượng.
          Con cọp vồ y là hư chiêu. Bảo-Hoà hú mấy tiếng nữa, nó đổi chiều, chộp con ngựa của y. Con ngựa bị vồ trúng cổ, mắt. Nó hý lên một tiếng thê thảm, rồi ngã lộn xuống ruộng. Tiếng hí đau đớn của nó lẫn với tiếng hí của hai con ngựa còn lại, gây thành tiếng ồn ào, át cả ba tiếng quát tháo của ba kị mã. Con ngựa khốn nạn vẫn chưa chết, dẫy đành đạch. Cất tiếng kêu thảm thiết.
          Nói thì chậm, chứ diễn biến thực mau, con cọp vồ, người kia nhảy lên. Nó chuyển sang vồ ngựa, ngựa ngã, người kia đáp xuống đất... Chỉ thoáng một cái.
          Con cọp lộn trở lại. Bảo-Hoà cỡi trên lưng nó, thản nhiên nhìn người kia bằng con mắt lạnh lùng.
          Người kia đáp xuống đất, cùng với hai đồng bọn dàn hàng ngang, đứng chặn trước hai con ngựa khoẻ, như che chở cho chúng.
          Bấy giờ Bảo-Hoà mới chú ý đến ba kị mã. Tên kị mã bị mất ngựa, thân hình gầy, mặt giống lưỡi cầy, da đầy mụn. Y trẻ nhất. Tên thứ nhì mập ú. Cái đầu của y tròn trùng trục. Trong khi mũi, mắt, miệng xúm xít nhau lại một chỗ rất nhỏ. Thành ra mới nhìn, cứ tưởng đầu y là một trái dưa thịt. Tên thứ ba, dáng người thanh nhã, mặt hơi dài, da trắng. Y trang phục giống như một Nho sĩ.
          Tên mặt lưỡi cầy bình tĩnh trở lại, cất tiếng chửi thề:
          - Con đượi non kia, mi làm gì thế?
          Bảo-Hòa móc trong túi ra ba viên thuốc. Nàng dùng kình lực búng mạnh. Đây là thủ pháp xuất phát từ Phục-ngưu thần chưởng. Ba viên thuốc quay với tốc độ thực nhanh, nhưng đi thực chậm, hướng ba kị mã. Tên kị mã béo tròn đưa tay định bắt ba viên thuốc. Nhưng véo, véo, véo ba tiếng, Bảo-Hoà bắn ra ba viên thuốc nữa, bay thực nhanh, trúng ba viên thuốc trước. Cả sáu viên thuốc đều vỡ tan thành bụi. Tên béo tròn bắt hụt.
          Tên Nho-sinh phất tay vào đám bụi thuốc, đưa lên mũi ngửi, rồi tiến lên thi lễ:
          - Cô nương! Cái thứ thuốc độc trẻ con của cô nương, đem xử dụng với ai thì được, chứ với anh em tại hạ , chẳng qua là trò chơi. À thuốc này của bản giáo đây.
          Quả tình Bảo-Hòa đã dùng thứ thuốc độc trước đây đã tấn công Địch-Thanh. Thứ thuốc này là ám khí đặc chế của phái Tây-vu. Chỉ cần viên thuốc vỡ tan thành bụi, bám vào tay đối thủ, mấy khắc sau, tay đối thủ sưng lên ngay. Nếu không có thuốc giải, ba ngày sau, cánh tay bị hư. Không ngờ bọn này tưởng lầm là thuốc của Hồng-thiết giáo.
          Bảo-Hoà thấy ám khí của mình, không làm gì được đối thủ, nàng đã hơi kinh ngạc. Khi nghe Nho-sinh nói vậy, nàng biết gặp tay kình địch.
          Gã mặt lưỡi cầy nhảy xuống ruộng quan sát con ngựa, thấy nó bị thương nặng, biết khó tránh khỏi cái chết, y phóng vào đầu nó một chưởng. Đầu con ngựa bị vỡ làm đôi. Nó nằm im lìm.
          Khi y phát chưởng, Thiệu-Thái bật lên tiếng kêu kinh ngạc. Vì chiêu thức của y giống hệt võ công Tản-viên. Chàng đưa mắt cho Bảo-Hoà, ngụ ý dặn em cẩn thận.
          Tên mặt lưỡi cầy lên đường, từ từ tiến tới trước anh em Bảo-Hoà, vung tay chụp nàng. Bảo-Hoà thấy y khinh thường mình, nàng bước ngang một bước, đẩy về phía trước chiêu Long-hổ chưởng. Kình lực mạnh như thác đổ.
          Hai tay chạm nhau, Bộp một tiếng, tên mặt lưỡi cầy bay vọt trở lại sau. Cánh tay y gần như tê dại. Y cười lớn:
          - Con lỏi kia, lão gia vì khinh địch, nên chỉ vận có hai thành công lực. Mi hãy coi đây.
          Y phóng về trước một chưởng. Chưởng phong cực kỳ hùng hậu. Hai con cọp vội nhảy lùi bốn bước để khỏi bị áp lực. Bảo-Hoà thấy công lực đối phương cao thâm, nàng không dám coi thường, thuận tay phát chiêu Ác ngưu nan độ. Chưởng phong xoáy tròn đẩy về trước.
          Hai chưởng gặp nhau, Binh một tiếng. Cả hai đều bật lui. Tên mặt lưỡi cầy lùi liền bốn bước. Còn Bảo-Hoà lùi một bước. Thắng bại đã phân. Thiệu-Thái cũng như đồng bọn tên mặt lưỡi cầy đều kêu lên tiếng kinh ngạc. Thiệu-Thái kinh hoàng nghĩ:
          - Công lực Bảo-Hoà đâu phải tầm thường, mà dường như ngang tay với tên này. Vậy y là ai, mà võ công mình chưa hề thấy qua?
          Tên Nho sinh tiến lên hô lớn:
          - Ngừng tay!
          Y chắp tay thi lễ với Bảo-Hoà:
          - Cô nương. Phải chăng vừa rồi cô nương xử dụng chiêu Ác ngưu nan độ của phái Tản-viên?
          Bảo-Hoà gật đầu:
          - Đúng thế. Tiên sinh thấy thế nào?
          Tên Nho sinh hỏi tiếp:
          - Chẳng hay cô nương gọi tiền bối Đỗ Xích-Thập là gì?
          Bảo-Hòa nhớ lại, hôm rồi Thiệu-Thái kể rằng trong khi chàng cùng Mỹ-Linh phục ở nhà Hoàng Văn, nghe bàn truyện, thì biết Đỗ Xích-Thập thuộc phái Tản-Viên. Vai vế y cao hơn chưởng môn Đặng Đại-Khê một bậc. Có lẽ ba tên này quen biết với y nên mới gọi y là tiền bối. Nàng đáp mập mờ:
          - Điều này bí mật, tôi không thể nói ra được. Phải chăng tiên sinh có quen biết với người? Tiên sinh nói trước đi, rồi tôi mới nói.
          Gã Nho-sinh thấy Bảo-Hoà nói bằng giọng trẻ con. Y nghiêm trang:
          - Tiền bối Đỗ Xích-Thập là bề trên của anh em tại hạ.
          Bảo-Hoà chợt tỉnh ngộ:
          - Chắc ba tên này thuộc Hồng-thiết giáo đây. Đã vậy, ta thử dò la xem sao?
          Nàng cười đáp:
          - Bề trên là thế nào mới được? Đỗ trưởng lão rất tin tưởng vào anh em tại hạ.
          Tên Nho-sinh sáng mắt ra:
          - Thì ra tiểu cô nương cũng thuộc người Hồng-thiết giáo đấy!
          - Tiên sinh có biết tin giáo chủ Nhật-Hồ lão nhân gia mới tái xuất thế không?
          - Anh em tại hạ nghe tin, vội phi ngựa bất kể ngày đêm về xem sự thể thế nào. Tin tức có thực không?
          - Thực một trăm lần. Cả tứ trưởng lão Nguyễn Chí cũng tái xuất thế nữa. Hôm nay bản giáo sẽ xuất hiện, trấn áp quần hùng, chiếm chức minh chủ võ lâm Đại-Việt.
          Tên mập ú tỏ vẻ thận trọng:
          - Cô nương nói vậy ta tin vậy. Nếu cô nương là đệ tử bản giáo, cô nương có dám để ta phóng Nhật-hồ độc khí vào người không?
          Thiệu-Thái nhớ lại hôm lấy cung Nhất-Trụ, y khai rằng, phàm khi giao chúng Nhật-Hồ gặp nhau, thường đem độc chưởng ra đọ để biết vai vế cao thấp. Chàng mỉm cười:
          - Dĩ nhiên anh em tại hạ dám. Xin các vị nhìn đây.
          Chàng vận khí, phát chiêu Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng đánh vào một cây bên đường. Bình một tiếng, thân cây to bằng cổ chân gẫy đôi, từ từ đổ xuống. Gã béo mập thấy kình lực của Thiệu-Thái, y kinh hoảng:
          - Công tử! Với công lực này, tại hạ e ngang với các vị trưởng lão. Vậy công tử học với ai?
          Bảo-Hòa dọa y:
          - Chúng tôi được gửi sang Tây-dương, học nghệ với Tây-dương Hồng-thiết giáo chủ.
          - À thì ra thế! Vậy công tử đây là Trần Đông-Thiên còn cô nương là Trần Quỳnh-Hoa đấy. Anh em chúng tôi nghe trước đây hai giáo chúng Đại-Việt được giáo chủ Tây-dương Hồng-thiết thu làm đệ tử, nay thành tài, đang trên đường về Đại-Việt. Thực hân hạnh cho anh em tại hạ. Hai vị đi dự đại hội võ lâm hẳn?
          - Chúng tôi đi dự lễ Bắc-bình vương. Còn các vị?
          - Chúng tôi tìm gặp Đỗ tưởng lão. Ba anh em chúng tôi là đệ tử của người. Tôi lớn nhất tên Đỗ-xích Nhất-Bách. Phụ trách giáo chúng ở châu Vĩnh-An.
          Bảo-Hòa kinh hãi:
          - Vĩnh-An là châu lớn trong 207 Khê-động của mạ mạ ta hiện do họ Hoàng làm thủ lĩnh, tiếp giáp với Hợp-phố, Như-tích, Để-trạo của Khâm-châu Trung-quốc. Không ngờ cũng có bọn Hồng-thiết ẩn thân.
          Y chỉ gã to béo:
          - Nhị đệ tên Đỗ-xích Nhị-Bách. Phụ trách giáo chúng châu Tô-Mậu.
          Bảo-Hòa kinh hãi ngầm:
          - Châu Tô-Mậu trong đó có ba động Na-dương, Đình-lập, An-châu, do Vi Thủ-An làm thủ lĩnh, giáp giới với châu Thiên-long, Cổ-vạn, Tư-minh thuộc Ung-châu nhà Tống.
          Y chỉ gã mặt lưỡi cầy:
          - Tam đệ tên Đỗ-xích Tam-Bách. Phụ trách giáo chúng Lạng-châu.
          Bảo-Hòa rùng mình, vì châu Lạng, do chú nàng tên Thân Thừa-Phú làm thủ lĩnh. Đây là châu khá lớn, trong đó đó ba động Quang-lang, Môn-văn, Vạn-nhai. Phần đất này tiếp giáp với các châu Vĩnh-bình, Tây-bình, Tư-lăng, Lộc-châu do Vi Đại-An cai quản.
          Thiệu-Thái chỉ con ngựa của chàng bảo Đỗ-xích Tam-Bách:
          - Em tôi vì không biết, nên có chỗ mạo phạm, tôi xin nhường con ngựa của tôi cho nhân huynh. Tôi cỡi con cọp này được rồi. Chúng ta mau đến Lộc-hà, không trễ mất. Hai con ngựa này, chúng tôi mang từ Tây-dương về đấy.
          Gã mặt lưỡi cầy trầm trồ khen ngợi con ngựa cao lớn hùng vĩ, rồi nhảy lên. Cả bọn phi trước. Thiệu-Thái cỡi cọp theo sau.
          Bảo-Hoà phi song song với Đỗ-xích Nhất-Bách, nàng giả tảng để dò la:
          - Không biết ở Bắc-biên bản giáo còn những ai ẩn thân truyền giáo nữa? Kỳ đại hội này có về không?
          Đỗ-xích Nhất-Bách lắc đầu:
          - Chắc hai vị du học ở Tây-dương lâu, nên không biết rõ tình hình bản giáo. Nguyên khi giáo chủ qui tiên thình lình, người không để di chúc lại cho ai thay người, vì vậy giáo chúng chia làm chín nhóm. Mỗi nhóm ủng hộ một vị trưởng lão trong hội đồng giáo vụ trung ương. Đôi khi còn đánh giết lẫn nhau. Suốt một giải Bắc-biên này, đều theo về Đỗ trưởng lão.
          Y thở dài:
          - Nhưng Hoàng Văn trưởng lão lại phụ trách vấn đề người Tống ở đất Việt. Một giải Bắc-biên có không biết bao nhiêu người Tống sống lẫn với dân khê động. Vì vậy giáo chúng có sự đụng chạm không ít.
          Thiệu-Thái làm bộ buồn:
          - Chúng tôi ở Tây-dương, thành ra không biết gì cả. Theo như Đỗ huynh, bây giờ giáo chủ xuất hiện, liệu có thống nhất bản giáo lại được không?
          - Chắc là được. Vì chỉ mình giáo chủ xử dụng được Hồng-thiết giáo thần công, để trị tuyệt Nhật-hồ độc chưởng. Nhưng từ khi giáo chủ vắng bóng, giáo chúng qui tụ về ba trưởng lão. Một là Lê Ba trưởng lão, hai là Lê Đức trưởng lão, ba là Hoàng Văn trưởng lão. Ba vị này trước nay không mấy tuân phục giáo chủ.
          Đỗ-xích Nhị-Thập hỏi:
          - Hai vị là đệ tử của Tây-dương Hồng-thiết giáo chủ, bản lãnh cao cường, như vậy có thể được chỉ định kế tục giáo chủ. Bởi năm nay người đã trăm tuổi rồi. Không biết hai vị có học được thần công giải trừ vĩnh viễn Nhật-Hồ độc chưởng không?
          Thiệu-Thái cười thầm:
          - Mi hỏi ta điều gì, chứ điều đó thì ta hơn Nhật-Hồ lão nhân xa.
          Chàng cười:
          - Đương nhiên. Tại hạ có thể giải được Nhật-Hồ độc chưởng của bang Nhật-hồ Trung-quốc cũng như Nhật-hồ độc chưởng của Nhật-Hồ lão nhân, cùng tất cả các thứ độc chất khác.
          Ba anh em nhà Đỗ-xích nghe Thiệu-Thái nói, trên gương mặt chúng hiện ra nét kỳ dị. Đỗ-xích Nhất nói:
          - Nếu công tử làm được việc đó, không thiếu gì người trong bản giáo cúi đầu tuân phục. Công tử sẽ trở thành trưởng lão, sau này thành giáo chủ không chừng.
          Nghe y nói, một tia sáng chiếu vào đầu Bảo-Hoà. Nàng nghĩ thầm:
          - Tại sao anh Thiệu-Thái không nhân dịp này, giải ách cho bọn giáo chúng Hồng-thiết, để nhân đó, kéo chúng về chính đạo?
          Sợ anh thật thà, từ chối, Bảo-Hoà vui vẻ:
          - Anh tôi không muốn làm giáo chủ, mà chỉ muốn giúp những giáo chúng khốn khổ mà thôi. À có một vấn đề tôi không hiểu nổi là vấn đề giải độc trong bản giáo.
          Đỗ-xích Nhị đáp:
          - Hồng-thiết giáo Đại-Việt với Hồng-thiết giáo Tây-dương có nhiều khác biệt. Như giáo chúng Hồng-thiết giáo Tây-dương bị trúng Hồng-thiết độc chưởng, có hai cách trị. Một, đích thân giáo chủ dùng Hồng-thiết thần công hoá giải chất độc cho, sẽ khỏi vĩnh viễn. Sau này có trúng nữa, cũng không sao. Hoặc dùng thuốc giải, mỗi năm uống một viên cũng đủ.
          Đỗ-xích Tam tiếp:
          - Trước đây Nhật-Hồ lão nhân bị Đông-Nhật lão nhân cướp sự nghiệp, do đó người nghiên cứu, cải biến thuốc giải Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng đi. Khi bị trúng độc, đích thân giáo chủ dùng thần công giải cho, khỏi uống thuốc thôi, nhưng sau này bị trúng chưởng trở lại, vẫn bị đau khổ như thường. Còn dùng thuốc giải, tuy khỏi chết, nhưng mỗi tháng vào ngày nào đó lại lên cơn đau đớn trong vòng một giờ, đến chết đi sống lại. Như anh em tại hạ, nội ngày hôm nay sẽ lên cơn đau không biết đâu mà kể. Không biết... không rõ công tử có giải cho được không? Tại hạ bị cơn đau hành hạ từ sáng đến giờ. Nếu công tử làm phúc...
          Thiệu-Thái vung tay vỗ vỗ vào lưng Xích-Tam một cái. Xích-Tam đang bị cơn đau hành hạ, lưng như bị tảng đá nghìn cân đè vào. Sau cái vỗ của Thiệu-Thái, y cảm thấy thân thể nhẹ nhàng như đi trên mây. Y chắp tay hướng Thiệu-Thái:
          - Đa tạ công tử giải nạn.
          Bảo-Hòa nghĩ rất nhanh:
          - Anh em bọn này đều là những người kỳ tài, kiến thức, võ công rộng mênh mông, chẳng may vương vào ma nghiệp. Ta cần cứu họ, để kéo họ về với chính đạo.
          Nàng mỉm cười:
          - Dĩ nhiên anh em tại hạ sẽ cứu các vị.
          Thiệu-Thái ra hiệu cho ngựa dừng lại:
          - Ba vị tạm ngừng, để tại hạ hoá giải Nhật-Hồ độc chưởng vĩnh viễn cho, rồi hãy lên đường.
          Ba anh em họ Đỗ, nguyên là những võ học kỳ tài vùng biên giới. Vì lòng yêu nước, gia nhập Hồng-thiết giáo, rồi bị gieo Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng vào người. Khi biết Hồng-thiết giáo là bọn tà ma ngoại đạo, nhưng vẫn phải nhắm mắt đưa chân, để hàng năm nhận được thuốc giải. Bây giờ nghe Thiệu-Thái gỡ cái ách ra cho, họ mừng khôn tả.
          Thiệu-Thái hỏi Xích Nhất-Bách:
          - Đại ca bị trúng chưởng ở huyệt nào?
          - Thưa tại huyệt Bách-hội.
          Thiệu-Thái giảng:
          - Như vậy tại hạ sẽ phát chưởng đánh vào huyệt Đại-trùy của đại ca. Đại-trùy là huyệt giao hội của sáu kinh dương và Đốc-mạch. Truyền chân khí vào đây, sẽ thông Đốc-mạch. Do vậy huyệt Bách-hội được giải. Khi đại ca lên cơn, đầu nhức như búa bổ, mắt mờ đi, miệng thì mửa. Có đúng thế không?
          Nhất-Bách kinh ngạc:
          - Đúng thế. Tại hạ nghe nói học thuyết kinh lạc, huyệt đạo là của Việt-Hoa, không ngờ Tây-dương Hồng-thiết giáo cũng biết lý thuyết này?
          Bảo-Hoà giải thích thay anh:
          - Tại Tây-dương, Hồng-thiết giáo không biết học thuyết kinh lạc, nên chỉ truyền độc công vào người. Nhưng khi Nhật-Hồ lão nhân mang Hồng-thiết công về Đông phương, người pha trộn với y học, nên mới có việc truyền độc chưởng vào kinh lạc, huyệt đạo. Đại ca của tôi cũng phải nương theo học thuyết kinh lạc, mới giải nổi.
          Thiệu-Thái vung tay, vận Hồng-thiết công vỗ lên huyệt Đại-trùy của Nhất-Bách. Binh một tiếng, Nhất-Bách rung động toàn thân, rồi mồ hôi xuất ra đầm đìa, tanh hôi không thể tưởng tượng được. Bảo-Hòa nói:
          - Đại ca ngồi nhắm mắt vận công, để trục hết chất độc ra khỏi người.
          Đỗ-xích Nhất-Bách ngồi xuống vận công. Một lát sau y cảm thấy người nhẹ nhàng khoan khoái vô cùng. Y đứng dậy, đến trước Thiệu-Thái, quỳ xuống hành đại lễ:
          - Công tử. Tôi đang ở trong vòng ma chướng, nay được công tử giải thoát, thực là tái sinh. Từ nay tôi nguyện theo hầu công tử cả đời.
          Thiệu-Thái mỉm cười, hỏi Nhị-Bách:
          - Nhị ca! Người bị trúng độc chưởng vào huyệt nào.
          - Tiểu nhân bị trúng huyệt Khí-hải.
          Thiệu-Thái nói:
          - Huyệt Khí-hải nằm trên Nhâm-mạch. Xung-mạch thông với Nhâm-mạch. Muốn giải cho nhị ca, phải điểm vào huyệt Công-tôn. Công-tôn nằm trên Xung-mạch, thông với Nhâm-mạch, toả ra vùng bụng vào ngực. Khi nhị ca lên cơn, ngực đau đớn như trăm nghìn mũi kim đâm vào.
          Thiệu-Thái chĩa ngón tay điểm vào huyệt Công-tôn ở dưới nhân Nhị-Bách. Y cảm thấy như có cái gì đập vào bụng đến bộp một cái, huyệt Khí-hải thông liền. Mồ hôi y vã như tắm. Y ngồi nhắm mắt vận công đẩy chất độc ra ngoài.
          Thế rồi Thiệu-Thái giải độc cho Tam-Bách.
          Nhất-Bách cung kính:
          - Kể từ nay, anh em tại hạ xin theo hầu công tử, tiểu thư.
          Lời Nhất-Bách nói, làm Thiệu-Thái, Bảo-Hoà tỉnh ngộ. Bấy lâu nay anh em nàng như người trong mơ, vì thấy rõ ràng bọn Vũ Nhất-Trụ có thuốc giải trong tay, nhưng tại sao còn bắt giam Nhật-Hồ lão nhân để học thần công. Thì ra họ muốn thoát ách đau khổ, xa hơn nữa, họ có thể dùng nó ban ơn, giáng phúc cho giáo chúng, hầu làm giáo chủ.
          Năm người lên ngựa, tiếp tục hành trình.
          Từ phía trước, một toán người mặc quần áo giống như giáo chúng Hồng-thiết giáo. Họ đứng bên đường vẫy tay ra hiệu cho năm người dừng lại. Toán này gồm ba mươi người. Thanh niên trưởng toán hướng Thiệu-Thái, Bảo-Hòa hành lễ:
          - Có phải hai vị là Trần Đông-Thiên, Trần Quỳnh-Hoa không?
          Bảo-Hoà thấy trên nút áo thanh niên có sợi chỉ đỏ, thì biết là người của Khu-mật-viện. Nàng đáp:
          - Vâng, chính thị anh em tại hạ. Không biết các vị thuộc cơ đội nào của bản giáo?
          Thanh niên đáp:
          - Tiểu nhân thuộc đạo Cổ-loa, được lệnh trưởng lão vùng Thăng-long tiếp đón các vị.
          Gã dắt một con ngựa trao cho Thiệu-Thái:
          - Nhân huynh dùng con ngựa này, thay thế ông kễnh kia. Bằng không vào đại hội, người ta sợ hãi.
          Thiệu-Thái tỉnh ngộ:
          - Nếu mình cỡi hùm vào đại hội, có khác gì lạy ông tôi ở bụi này?
          Chàng xuống hùm, tiếp lấy cương ngựa, rồi nói:
          - Tôi trao hai ông ba mươi này cho nhân huynh. Hai ông cũng dễ bảo, chứ không bướng bỉnh đâu.
          Rồi chàng nói với hai con hùm mấy câu. Chúng ngoan ngoãn theo thanh niên. Đỗ-xích Tam-Bách trả ngựa cho Thiệu-Thái:
          - Công tử, xin trao con ngựa Tây-dương cho công tử.
          Y trao đổi ngựa với Thiệu-Thái. Năm người lại phi ngựa hướng Lộc-hà. Càng đến gần, người đi lễ càng đông. Hai bên đường, xe cộ, lừa ngựa tới tấp như mắc cửi. Còn cách khu lễ đài khá xa, bên cạnh đường có bãi đất trống. Trên bãi đất chật ních giáo chúng Hồng-thiết. Tuy họ đông thực, nhưng rất kỷ luật. Họ tụ tập thành từng nhóm một. Mỗi nhóm mang cờ hiệu đại biểu cho từng khu.
          Năm người vừa đi tới, một giáo chúng có nhiệm vụ xếp đặt hỏi:
          - Năm vị thuộc khu nào của bản giáo?
          Đỗ-xích Nhất-Bách đáp:
          - Khu Bắc-biên.
          Năm người được đưa đến dưới gốc cây đa lớn. Ở đó đã có hơn trăm người tụ tập. Thấy bọn Bảo-Hoà, họ đưa mắt tò mò nhìn. Tất cả đều nói tiếng Việt, nhưng giọng rất khó nghe. Lại có người nói tiếng Quảng.
          Mặc cho bọn Đỗ-xích thăm hỏi người này, người kia. Anh em Bảo-Hoà chú ý đến khu lễ đài. Trong khu lễ đài, đệ tử phái Mê-linh tấp nập đi đi lại lại sắp xếp công việc.
          Có tiếng loa xướng:
          - Bang chủ cùng bang Hồng-hà đến.
          Bảo-Hòa nhìn ra, người đi đầu tuổi khoảng năm mươi, bụng hơi lớn, lưng đeo bảo đao. Phía sau hơn hai trăm bang chúng lũ lựơt kéo vào. Một nữ đệ tử phái Mê-linh trung niên, cùng hai nữ đệ tử ra tiếp đón. Bảo-Hoà nhận ra là Ngô Thuần-Trúc, vợ của chưởng-quản Khu-mật-viện Tạ Sơn.
          Thuần-Trúc cung kính:
          - Tiểu bối Ngô Thuần-Trúc, tham kiến Sử bang chủ cùng các huynh đệ. Hồi này danh tiếng quý bang như sấm động, khiến anh hùng các nơi đều kính phục.
          Thiệu-Thái hỏi Bảo-Hoà:
          - Bang chủ họ Sử à? Như vậy ông là người Hoa hay người Việt?
          Có tiếng Đỗ-xích Nhất trả lời:
          - Thưa công tử, Sử Anh người Việt gốc Hoa. Đời ông nội, theo thuyền buôn tới lập nghiệp. Bang Hồng-hà là bang nửa chính nửa tà. Chính vì giúp đỡ, bảo vệ các thuyền buôn dọc các sông từ Thăng-long xuống biển, sang tới Quảng-đông. Tà vì họ thu thuế đen các thuyềm buôn. Ai không nộp cho họ, khó mà sống nổi.
          Bảo-Hoà nhớ lại hôm ông bà ngoại nàng đến phủ Khai-quốc vương cật vấn vương về tội cho quy gia Lâm Huệ-Phương với Đào Hà-Thanh. Trong lời trần tình, vương nói rằng bang Hồng-hà giúp vương đắc lực trong việc đưa Đào Hà-Thành làm vợ Trần Tự-An. Nàng cười thầm:
          - Như vậy bang Hồng-hà là chính phái chứ đâu phải tà phái? Khi họ làm việc cho Khu-mật-viện, tức họ phục vụ cho Đại-Việt.
          Có tiếng xướng:
          - Đặng chưởng môn cùng phái Tản-viên đến.
          Một nam đệ tử phái Mê-linh ra đón. Y cúi rạp người xuống:
          - Tiểu bối Trưng Tu kính chào Đặng chưởng môn cùng quý huynh đệ.
          Bảo-Hòa chú ý đến Đặng Đại-Khê. Mới xa cách có ba năm, mà nàng có cảm tưởng như xa nhau lâu lắm, vì trông ông già hẳn đi. Ký ức ba năm trước trở về. Bấy giờ Bảo-Hòa theo ông nội thăm tổng đàn phái Tản-viên. Nàng được Đặng Đại-Khê xem tướng. Sau khi xem tướng, ông dốc túi truyền mười hai chưởng Phục-ngưu cho nàng. Ông còn dạy nàng những thuật ngữ để nếu một mai, nàng tìm được bí lục Phục-ngưu, có thể dùng đến, mà luyện được. Không ngờ lời tiên đoán của ông thành sự thực. Hôm đó ông nói:
          - Ta dạy cháu mười hai chiêu Phục-ngưu. Nếu sau này cháu có cơ duyên học được toàn bộ pho chưởng này, cháu hãy giúp ta chỉnh đốn lại phái Tản-viên.
          Hôm đó ông lo lắng, bởi trước đây một người sư thúc của ông, võ công cực kỳ cao thâm, vì can tội hiếp dâm con nhà lương gia, bị đuổi khỏi môn phái, không biết đi đâu. Khi đi, y hứa một ngày kia trở về phá tan phái Tản-viên. Hôm đó ông không chịu nói tên người sư thúc. Bây giờ nàng biết y chính là Đỗ Xích-Thập của Hồng-thiết giáo, nhưng lại không trung thành với giáo phái này, mà chạy theo bọn Triệu Thành nhà Tống.
          Phái Tản-Viên khoảng hơn ba nghìn người rầm rập tiến vào khu lễ đài.
          Điạ điểm hành lễ là một bãi đất lớn, xung quanh có hàng rào tre. Ở giữa, một đài cao chín bậc. Trên cùng là bàn thờ. Trước đài treo sáu lá cờ của sáu vùng thời vua Trưng. Ở giữa treo lá cờ thực lớn của Lĩnh-nam. Một tấm vải đỏ ngăn bàn thờ làm hai. Phía sau để tượng Bắc-bình vương cùng vương phi, đợi khi đại lễ cử hành, mới mở ra. Phía trước, một cái đỉnh hương lớn hơn cái thúng, khói lên nghi ngút. Cạnh đó, một đôi lợn luộc, trong tư thế nằm chầu, đôi gà trống luộc, trong tư thế đứng, mỏ ngậm chiếc hoa hồng đỏ chói. Kế cạnh, hai mâm hoa quả.
          Đối diện và hai bên bàn thờ, có mười tám khán đài, làm theo thứ tự, phía gần lễ đài thì thấp, phía xa lễ đài thì cao. Trên mỗi khán đài đều treo cờ của các gia, các phái. Có tiếng loa xướng:
          - Chế chưởng môn cùng huynh đệ phái Phật-Thệ tới.
          Một đoàn người, ngựa, voi rầm rập tiến vào. Cách phục sức của đệ tử phái này mầu sắc sặc sỡ, trông không giống bất cứ vùng nào của Đại-Việt. Bảo-Hòa hỏi Đỗ-xích Nhất-Bách:
          - Phái Phật-thệ à? Tôi chưa từng nghe qua!
          - Phật-thệ là kinh đô của Chiêm-quốc. Võ công Chiêm-quốc rất quái dị, khi nhu, khi cương, khi hiểm độc. Đương nhiệm chưởng môn tên Chế Ma-Thanh. Thanh với vợ là Mỵ-Thu, nổi tiếng cao thủ bậc nhất Nam-thiên.
          Thiệu-Thái mới nhìn, đã nhận ra Chế Ma-Thanh. Y hiện là em Chiêm-vương Chế Ma-Huy. Y âm thầm hối lộ bọn Triệu Thành, định giết anh chiếm ngôi vua. Y được triều Tống phong cho chức tước như sau Kiểm hiệu thái sư. Tĩnh hải tiết độ sứ. Đồng bình chương sự. Suy thành, thuận hoá công thần. Chiêm-thành quận vương. Thực ấp vạn hộ. Thực phong ngũ thiên hộ. Mỵ-Thu được phong Khâm-linh vương phi.
          Phía sau Chế Ma-Thành còn một trung niên nam tử, da hơi đen, chàng nhận ra là Ngô Đà, được Tống phong cho chức Nội điện chỉ huy sứ. Tước Ma-linh hầu. Thực ấp nhị thiên hộ. Thực phong nhất thiên hộ.
          Chàng nhớ, hôm ấy, Triệu Thành xúi Chế Ma-Thanh cướp ngôi, giết anh. Sau đó đem quân đánh vào phía Nam Đại-Việt.
          - Vua Bà Bắc-biên, cùng huynh đệ phái Tây-vu đến.
          Thiệu-Thái nhìn ra: Đi đầu, một tráng sĩ lực lưỡng, cầm cây đại kỳ Tây-vu. Phía sau, hai hàng thiếu nữ, gồm 207 người, mỗi người mang một cây cờ của 207 khê động. Tiếp theo một đội nhạc công, cử bản nhạc nhu hoà đầm ấm. Kế đến ông nội chàng, ngồi ngang trên lưng một con tê-ngưu vĩ đại. Mỗi bên con tê ngưu, có cặp hổ đi song song hộ vệ. Sau tê-ngưu tới con voi lớn. Trên bành voi, một thiếu phụ mặc quần áo vàng, khăn vàng, lưng đeo kiếm, cực kỳ xinh đẹp. Chính là mạ mạ chàng. Cạnh mạ mạ, bố chàng cỡi con ngựa ô cao lớn, hùng vĩ. Sau cùng 207 toán, đại biểu của 207 khê động.
          Khí thế phái Tây-vu cực kỳ hùng hậu.
          - Hồng-Sơn đại phu cùng phái Sài-sơn đến.


          <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.01.2005 08:42:52 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9