Trầu Cau Trong Ðời Sống Văn Hóa Dân Tộc
G.S. Phạm Thị Nhung
Ngày nay, qua nhiều sách vở và các tài liệu khảo cổ, người ta được biết trầu cau là hai loại cây đã xuất hiện rất lâu đời ở các vùng Trung Ấn, Ðông Nam Á và ở một số quần đảo trên Thái Bình Dương; như trong di chỉ khảo cổ thuộc văn hóa Hòa Bình, hạt cau đã được tìm thấy trên dưới một vạn năm (1). Tại các nơi đây đã có nhiều dân tộc có tục ăn trầu như các dân tộc thiểu số xưa ở miền nam nước Trung Hoa (kể từ lưu vực sông Dương tử trở xuống), tức người Trung Hoa miền nam ngày nay, các dân tộc Thái Lan, Miến Ðiện, các dân tộc Việt-Mên-Lào, kể cả các dân tộc thiểu số như người Thái, Tày, Nùng, Mường, Dao, Thượng... trên bán đảo Ðông Dương, cùng các dân tộc trên quần đảo Nam Dương, Mã Lai, Phi Luật Tân; và ở Ấn Ịộ cũng có nhiều nơi dân chúng có tục ăn trầu (2).
Có lẽ người xưa, do kinh nghiệm mà có, đã biết sử dụng vôi, trầu, cau, cũng như các loại lá, rễ, quả của nhiều thứ cây khác tìm được để bảo vệ sức khỏe, phòng ngừa hay trị bệnh. Quả thực, ăn trầu đã giúp cho cơ thể được ấm nóng chống lạnh, chống sơn lam thủy khí; ăn trầu lại sạch miệng, răng lợi và xương cốt được bồi dưỡng, vững mạnh.
Sự tích trầu cau - Ý nghĩa.
Riêng tại xứ ta, tục ăn trầu tất nhiên đã có rất sớm, ngay tục dùng trầu cau làm sính lễ cưới hỏi thay muối (vì người xưa cho muối là quí nhất) có thể cũng có đã lâu, nhưng chưa biết bắt đầu từ thời điểm nào. Phải đợi đến cuối thế kỷ thứ XV, sách Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp ra đời, nó mới được ghi chép lại thành một truyện tích rõ ràng, có một nguồn gốc mang nhiều ý nghĩa thâm thúy.
Theo tài liệu của Bùi Văn Nguyên, dịch giả cuốn Tân Ðính Lĩnh Nam Chích Quái của Vũ Quỳnh, thì Trần Thế Pháp trong bài đề tựa sách của mình, có cho biết, chính ông là người đã sưu tập được cuốn Lĩnh Nam Chích Quái Lục, bản gốc, của một tác giả khuyến danh, có lẽ khởi thảo vào đời Trần. Sách chép những chuyện huyền hoặc, quái dị trong nước từ xưa đến nay, căn cứ vào lời kể của dân gian và chỉ được phổ biến trong từng địa phương.
Ðược sách, họ Trần bèn nghiên cứu cho sáng tỏ đầu đuôi sự việc rồi chép lại, có sắp xếp và chỉnh lý về nội dung một số truyện.
Sau đó, tác giả Vũ Quỳnh rồi Kiền Phú (đời hậu Lê) cũng dựa vào bản gốc để viết lại L.N.C.Q. theo sự sắp đặt riêng của mình. Đặc biệt trong cuốn Tân Ịính L.N.C.Q., Vũ Quỳnh đã bổ xung nhiều chi tiết, thêm nhiều truyện mới và viết bằng một hình thức mới mẻ, hấp dẫn hơn.
Sự tích Trầu Cau trong L.N.C.Q. đã có nội dung như thế nào?
Vào thời xa xưa, có hai anh em nhà họ Cao, một người tên Tân, một người tên Lang (tân lang có nghĩa là cây cau) rất mực thương yêu nhau. Khi cha mẹ qua đời, hai anh em đến trọ học nhà ông thầy họ Lưu.
Thấy Tân và Lang vừa học giỏi, vừa đẹp người đẹp nết, ông thầy yêu quí như con. Cô con gái của thầy cũng đem lòng quyến luyến, muốn chọn người anh làm chồng.
Hai anh em Tân và Lang sát tuổi nhau, dung mạo lại giống nhau như khuôn đúc, cô gái không sao đoán được ai là anh, ai là em. Nhân dịp biếu cháo, cô cố ý chỉ đưa tới một bát cháo với một đôi đũa rồi rình xem, thấy Lang cung kính mời Tân ăn trước cô mới biết Tân là anh, và xin cha được gá nghĩa cùng chàng.
Vợ chồng Tân và Xuân Phù (tên cô gái, xuân phù có nghĩa là trầu không mùa xuân) sống rất hạnh phúc. Hai anh em Tân và Lang vẫn ở bên nhau, nhưng Lang nhận thấy từ ngày anh có vợ, tình anh đối với mình không còn quyến luyến như xưa, trong khi ấy người anh vô tình không hề hay biết. Ðã thế lại xẩy ra chuyện hiểu lầm. Một hôm hai anh em đi làm đồng về muộn, Lang về trước, nàng Lưu tưởng chồng, chạy ra vồn vã âu yếm. Lang vội lên tiếng, cả hai đều biết là nhầm nên rất ngượng. Tân về,biết chuyện để dạ nghi ngờ, từ đó tỏ ra lạnh nhạt với em hơn.
Lang buồn tủi âm thầm bỏ nhà ra đi. Chàng lang thang trong rừng cho tới khi kiệt sức, chết đi hóa thân thành cây cau bên bờ suối vắng.
Thấy em không về, Tân ân hận, xót xa. Chàng lặng lẽ lên đường tìm em. Tân cũng đã tới bờ suối nọ, ngồi bên cây cau than khóc. Khi thân xác rũ liệt, chàng chết hóa thân thành tảng đá vôi, nằm sát bên gốc cau.
Nàng Lưu chờ chồng mãi chẳng thấy trở về, quá nhớ thương nên lại đi tìm. Một chiều kia nàng cũng tới được bờ suối định mệnh. Nàng ngồi trên tảng đá khóc miết... đến khi hồn lìa khỏi xác thì hóa thân thành cây trầu không, leo bám trên thân đá.
Gia đình họ Lưu đi tìm con, được biết chuyện bèn lập miếu thờ. Người đương thời rất cảm kích trước tình anh em khắng khít, tình vợ chồng thắm thiết, thủy chung của anh em vợ chồng họ Cao nên thường đến đốt nhang, chiêm bái, cầu cúng (3).
Một hôm vua Hùng thứ tư nhân dịp tuần du qua đấy, thấy có miếu thờ, lại được dân sở tại kể cho nghe câu chuyện thương tâm kia thì vô cùng cảm động. Ngài bảo lấy trầu cau ăn thử mới khám phá ra một mùi vị thơm cay, nồng ấm, và khi nhổ nước cốt trầu xuống tảng đá vôi lại thấy hiện ra sắc đỏ tươi như máu, nhà vua cho là quý bèn truyền lấy giống về trồng, xa gần bắt chước làm theo. Ngài còn xuống lệnh cho thần dân từ nay sẽ nhất thiết dùng trầu cau trong các dịp cưới hỏi, và trong các buổi hội họp lớn, nhỏ. Tục ăn trầu ở nước ta có từ đó.
Sau khi đọc sự tích Trầu Cau trong Lĩnh Nam Chích Quái, ta nhận thấy, truyện được ghi chép lại không những có kết cấu chặt chẽ, lại phối hợp được cả hai yếu tố hiện thực lẫn huyền hoặc một cách khéo léo. Như thế , các tác giả của nó đã khiến một câu chuyện truyền khẩu vụn vặt, còn mờ nhạt trong dân gian trở thành một truyện cổ tích có đầu đuôi, vừa lý thú hấp dẫn, vừa hàm chứa nhiều ý nghĩa thâm thúy.
Quả vậy, ở giai đoạn đầu, truyền có tính hiện thực với dấu vết thời đại, với những tên tuổi rõ ràng, có ý nghĩa, với những tình tiết hợp tình, hợp lý, tự nhiên. Ở giai đoạn cuối, truyện trở nên huyền hoặc: hai anh em họ Cao và vợ người anh vì không hiểu nhau nên đã tự chia lìa. Chỉ đến khi cả ba người cùng chết đi và chết bên nhau, người em hóa cây cau, người anh hóa phiến đá vôi và vợ người anh hóa cây trầu không, họ mới có được sự cảm thông hoàn toàn; từ nay họ sẽ mãi mãi gắn bó bên nhau và kết hợp thành một qua miếng trầu tình nghĩa. Ở đó, một dòng nước đỏ tươi như máu được tiết ra, tượng trưng cho tình gia đình muôn đời thiêng liêng, bền chặt.
Trần Thế Pháp, cũng như các tác giả đời Lê khác, khi viết lại sự tích Trầu Cau nói riêng, dàn dựng lại những huyền thoại dân gian trong Lĩnh Nam Chích Quái nói chung, hiển nhiên đã có hậu ý đề cao những giá trị cũ của dân tộc, với mục đích phổ biến để giáo dục con em theo tinh thần 24 điều dụ của vua Lê Thánh Tông (4). Có lẽ bắt đầu từ đấy (cuối thế kỷ XV) các truyện cổ tích, thần thoại nói chung, truyện Trầu Cau nói riêng mới được truyền bá rộng rãi trong toàn quốc. Riêng trong sự tích Trầu Cau, ta thấy các tác giả muốn giải thích cho mọi người hiểu rằng, dân tộc ta đã có một đời sống văn hóa khá cao ngay từ thuở xa xưa, từ thời Hùng Vương kia (theo Ðại Việt Sử Lược, vào khoảng thế kỷ thứ VII trước Tây lịch) (5). Ngay từ thuở đó xã hội Việt Nam đã có truyền thống lấy gia đình làm gốc, anh em biết thương quý nhau, trên kính dưới nhường; vợ chồng lấy nhau vì tình vì nghĩa, và người đàn bà đã biết trọn niềm chung thủy son sắt với chồng... Không phải đợi đến khi người Trung Hoa sang đô hộ nước ta, giáo hóa ta, dân ta mới biết thế nào là hiếu đễ, thế nào là tiết nghĩa.
Và cũng vì sự tích Trầu Cau có ý nghĩa sâu sắc như thế nên tục ăn trầu của dân ta đã được thăng hoa, trở thành một mỹ tục mang tính chất đặc thù của một nền văn minh cổ Ðông Nam Á. Mỹ tục ăn trầu này đã gắn liền với những sinh hoạt văn hóa, từ đời sống vật chất hằng ngày đến đời sống tinh thần của dân ta trước kia như thế nào?
Ðể tìm hiểu, chúng ta tất phải dựa một phần lớn vào những tài liệu có từ ngàn xưa, đó chính là loại văn chương bình dân truyền khẩu của dân tộc: thành ngữ, tục ngữ, ca dao và dân ca vậy.
1. Trầu cau nơi quê hương
Chúng ta đều biết, xưa kia trầu cau là hai loại cây được trồng khắp nơi trên quê hương đất nước để lấy lá, lấy trái dùng hằng ngày. Từ vua quan cho chí thứ dân, từ đàn ông cho chí đàn bà, ai ai cũng thích nhai trầu; nhiều người còn nghiện là đằng khác, nhất là các bà già bình dân, nhai trầu bỏm bẻm suốt ngày, do đó mới có khẩu ngữ "bà già trầu".
Ðặc biệt cây cau chẳng những được dân gian quí hóa bảo nhau trồng ở sân trước nhà - chuối sau cau trước - mà ngay ở Hoàng thành, vào đời Minh Mạng (1820 - 1840), cây cau còn được chọn khắc trên đỉnh đồng, có tên Anh Ðỉnh, đỉnh thứ tư trong cửu đỉnh, được đặt trước sân Thế Miếu.
Với chúng ta, hình ảnh những hàng cau thẳng tắp, cao vút (nhiều khi cao hơn 10 mét), có lá mọc thành chùm ở ngọn cây, thân lá xẻ hình lông chim, lung linh trong nắng sớm, đong đưa trước gió chiều hay in hình trên nền trời xanh thẳm vào những đêm trăng sáng; cùng hình ảnh những giàn trầu không xanh rờn với những chiếc lá to bằng bàn tay, có hình trái tim duyên dáng nơi góc vườn của nội, của ngoại... đều là những hình ảnh thân quen đã in sâu vào ký ức của nhiều người. Ngày nay chúng đã trở thành những hình ảnh biểu tượng cho quê hương trong nỗi nhớ, niềm thương của bầy con xa xứ.
Hoa cau thì mọc thành một chùm lớn, phân nhánh, có mo bọc ngoài. Khi hoa kết trái thì buồng cau nở lớn, mo cau khô, rụng xuống. Câu ca dao sau đây đã mô tả hình ảnh và giới thiệu thời gian cau đơm hoa kết trái một cách thật lý thú:
- Ðầu rồng đuôi phượng te te
Mùa đông ấp trứng, mùa hè nở con.
Riêng loại cau liên phòng, còn gọi là cau tứ quí thì ra trái cả bốn mùa. Khi được mùa, mỗi buồng cau có đến trên trăm trái, hình bầu bầu và lớn bằng quả trứng gà.
Trầu cau không chỉ được trồng để nhà dùng mà nhiều khi còn là nguồn sống của gia đình và lập nên cửa nên nhà:
- Anh về cuốc đất trồng cau,
Cho em vun ké dây trầu một bên.
Chừng nào trầu nọ bén lên,
Cau kia sai trái lập nên cửa nhà.
Chả thế, gia đình nào có cả vườn trồng cau sinh lợi đều được kể là một trong những nhà giầu có nơi thôn dã:
- Nhà ngói, cây mít
- Ruộng sâu, trâu nái
hay
- Vườn cau, ao cá.
Ở nước ta, từ Bắc chí Nam đều có nhiều vùng nổi tiếng trồng trầu cau và sản xuất được nhiều trầu cau ngon, gửi bán đi các nơi hoặc để xuất cảng.
Theo tài liệu của Ðỗ Tất Lợi, trước đây (1930) diện tích trồng cau ở ngoài Bắc ước chừng 2.500 hectare, chủ yếu là các vùng Hải Dương, Kiến An, Quảng Ninh, Nam Ðịnh và Thái Bình. Ca dao cũng có câu:
- Ðồn rằng kẻ Trọng lắm cau,
Kẻ Cát lắm lúa, kẻ Mau lắm tiền.
Ở miền Trung, diện tích trồng cau khoảng 1.400 hectare. Đặc biệt trầu Chợ Dinh với cau Nam Phổ đã được ca dao vùng Huế Ợ Thừa Thiên ca tụng hết lời:
- Trầu Chợ Dinh với cau Nam Phổ
Non vôi cũng đỏ, thiếu vỏ cũng ngon.
Hạt thơm mà xác lại giòn,
Được tiếng khen là phải, dậy tiếng đồn không sai.
Chợ Dinh và Nam Phổ là hai đại xã nằm đối diện nhau ở hai bên bờ sông Hương, thuộc ngoại biên thành phố Huế.
Trong Nam, cau được trồng nhiều ở Mỹ Tho, Bến Tre, Cần Thơ, nhưng có tiếng hơn cả là trầu cau Bà Ðiểm - Hóc Môn. Bà Ðiểm - Hóc Môn, một miệt vườn ngoại thành Sài Gòn , có biệt danh là Mười Tám Thôn Vườn Trầu, chả vì cả mười tám thôn làng nơi đây dân chúng đều trồng trầu làm nghề chính. Trầu trồng từ vườn nhà này tiếp nối vườn nhà kia, tạo thành một vùng trầu xanh tươi bát ngát. Hiện nay, một phần do chiến tranh tàn phá, một phần do giới trẻ bỏ hẳn tục ăn trầu nên diện tích trồng trọt tất đã giảm nhiều.
2. Công dụng của trầu cau
Trầu cau rất đa dụng, nhất là cau. Thân cau được dùng làm cột nhà, làm cầu, người ta bắc thành cầu khỉ hay đóng thành bè thay cầu ván. Mo cau để lợp nhà, làm quạt, làm gầu tát nước, đôi khi còn để đựng đồ như gói tiền, gói vàng hay bọc thức ăn. Tàu cau thì làm chổi quét sân v.v...
Trong Ðông-y, ngành thuốc Nam, trầu cau được dùng làm thuốc chữa bệnh. Theo Ðỗ Tất Lợi, lá trầu giã nhỏ ép lấy nước chữa viêm mủ chân răng hoặc hòa với nước để rửa các vết lở loét, mụn nhọt hay vết chàm của trẻ sơ sinh. Lá trầu giã nhỏ để nguyên chất đắp lên ngực chữa ho hen, đắp lên vú cho sữa ngưng chảy.
Còn cau thì vỏ cau chữa bụng đầy trướng, bí tiểu, ốm nghén, nôn mửa.
Hạt cau khô giúp sự tiêu hóa, viêm ruột, sốt rét, sán lãi và bệnh chốc đầu trẻ em.
Tất nhiên, công dụng chính của trầu cau là để ăn. Ăn trầu vừa chắc răng, bổ xương, lại vừa ngon miệng, say sưa vui chuyện; ngoài ra ăn trầu còn để làm đẹp.
Một miếng trầu được gọi là khẩu trầu gồm có một lá trầu xanh hay xanh ngả vàng têm sẵn, trong để chút vôi; cộng với một miếng cau, ngoài là vỏ xanh đậm rồi đến cùi có sợi trắng ngà, phía trong, phần trên là thịt trắng phau, dưới là hạt nhờ nhờ lòng tôm; cộng thêm một lát vỏ mỏng chuyển dần từ mầu nâu non đến phớt hồng (thường lấy từ rễ các cây chay, mít chay hay cây đề ...). Nhìn mầu sắc đã thấy đẹp mắt, khi ăn vào còn có vị ngọt ngọt của cau, cay cay, thơm thơm của lá trầu (toàn thân cây trầu có tinh dầu thơm), chát chát của hạt và vỏ (có chất tanin), cùng cảm nhận được cơ thể đang nóng nóng vì vôi và đầu óc hơi choáng váng say vì trong hạt cau có chất arécoline làm kích thích thần kinh hệ.
Ðã vậy, nếu còn được đệm thêm tí quế, tí hồi hay tí thuốc lào, thuốc lá thì miếng trầu ăn vào càng tăng phần kích thích, làm thêm nóng bừng cơ thể, thêm dậy hồng đôi má và thêm long lanh cặp mắt. Sau nữa, nước cốt trầu có sắc màu đỏ tươi làm hồng thắm đôi môi. Người phụ nữ xưa đã biết lợi dụng những ưu điểm này của miếng trầu, nên họ ăn trầu còn để làm đẹp.
Làm đẹp cũng phải biết cách và phải có nghệ thuật nữa. Ðời nào chả thế, người phụ nữ xưa "có trầu chẳng để môi thâm" đã đành, mà còn biết cách ăn hai ba miếng trầu liên tiếp nhau, tạo cho được một cặp môi đỏ có đường viền như sợi chỉ, trông thật quyến rũ, được mệnh danh là "môi ăn trầu cắn chỉ". Khác nào ngày nay chị em bạn gái chúng ta, sau khi đã tô son trên đôi môi rồi còn lấy bút lông vẽ thêm một đường son đỏ đậm thật nhỏ quanh vành môi cho đôi môi thêm nổi.
Sau hết, trầu cau được sử dụng làm phương tiện giao tiếp xã hội, biểu lộ tình cảm và được dùng làm lễ vật trong những dịp cưới xin, tang ma, cúng tế gia tiên và thần linh.
3. Tục Mời Trầu
Tục mời trầu ở xứ ta cho thấy, trầu cau là phương tiện không thể thiếu trước nhất trong những nghi thức giao tế hằng ngày ngoài xã hội. Vì "Miếng trầu là đầu câu chuyện", là "đầu trò tiếp khách", nên chi vừa gặp nhau, sau mấy tiếng chào hỏi, người ta liền mở trầu mời ăn rồi mới nói gì thì nói, bàn gì thì bàn:
- Có trầu thì giở trầu ra
Trước là đãi bạn, sau ta với mình.
Người ta còn mời trầu để bắt chuyện làm quen:
- Tiện đây ăn một miếng trầu
Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là?
- Xưa kia ai biết ai đâu,
Chỉ vì điếu thuốc, miếng trầu nên quen.
Nhất là khi tới chỗ xa lạ, muốn được đón nhận vui vẻ, người khôn ngoan phải có cơi trầu đem ra mời chào mọi người để gây thiện cảm. Nếu vì một lẽ gì mà thiếu sót thì họ sẽ vô cùng áy náy, băn khoăn:
- Nhẽ thì có khẩu trầu hoa
Hiềm vì chợ vắng, nhà xa thế nào.
Nghĩ sao đây, hỡi anh hào
Lấy gì tiếp đãi mà chào chị em?
Lại nữa, người xưa thường cho rằng ăn trầu lúc nào là được hưởng chút hương vị cuộc đời lúc đó, kẻo thời gian vùn vụt trôi qua, già lúc nào không biết.
- Lại đây ăn một miếng trầu
Nữa mai tuyến nhuộm mái đầu huê râm.
Trong phạm vi tình yêu và hôn nhân, tục mời trầu đã được người bình dân khai thác triệt để. Vì trầu cau còn là lễ vật cưới xin nên những hình ảnh, màu sắc, hương vị của trầu, cau, vôi... luôn luôn gợi ý cho thanh niên nam nữ liên tưởng tới những chuyện tình yêu, chuyện duyên phận lứa đôi:
- Vào vườn hái quả cau non,
Anh thấy em giòn muốn kết nhân duyên.
- Phấn trắng hơn vôi, vôi nồng phấn lạt,
Bởi anh thương nàng, mới lạc tới đây.
- Vôi nồng, trầu thắm ai ơi,
Gá duyên chồng vợ ở đời trăm năm.
- Trầu xanh, cau trắng, chay hồng
Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên.
Thế nên việc mời trầu người khác phái nhiều khi phải hiểu là một cách tỏ tình gián tiếp, và đồng thời cũng để ướm thử xem tình cảm của người ấy đối với mình ra sao.
Thường thì người con trai chủ động, mời trầu trước:
- Gặp nhau ăn một miếng trầu
Gọi là chút nghĩa về sau mà chào.
và họ đã không quên lợi dụng lúc mời trầu để tán tỉnh các nàng:
- Trầu ăn là nghĩa, thuốc xỉa là tình,
Ðội ơn cha mẹ sinh mình dễ thương.
- Trầu lên nửa nọc trầu vàng
Khéo khen phụ mẫu sinh nàng dễ thương.
Nếu người con gái dứt khoát từ chối không nhận trầu thì dù sự từ chối ấy lịch sự, tế nhị đến đâu cũng phải hiểu đó là sự từ chối tình yêu:
- Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
Còn như người con gái chỉ tỏ ý ngần ngại, vì muốn tìm hiểu thêm tình ý của đối phương:
- Miếng trầu ăn nặng bằng chì,
Ăn rồi em biết lấy gì trả ơn ?
Thì người con trai trong trường hợp này phải trấn an liền, và thổ lộ rõ tình ý đứng đắn, xây dựng của mình:
- Miếng trầu ăn nặng là bao,
Muốn cho đông liễu, tây đào là hơn.
- Miếng trầu là nghĩa tương giao,
Muốn cho đây đấy duyên vào hợp duyên.
Một khi thấy ý hợp, lòng ưa rồi người con gái mới nhận trầu. Hành động này hàm ý chấp thuận, thật là một cách bầy tỏ tình cảm vừa kín đáo, tế nhị, vừa duyên dáng dễ thương. Từ ngày nhận ăn miếng trầu kết nghĩa tương giao, gắn bó trở về, tình yêu của người con gái lớn dậy, làm thăng hoa cuộc sống. Nàng trở nên xinh tươi, đằm thắm:
- Từ ngày ăn miếng trầu anh,
Cho nên má đỏ, tóc xanh đến giờ.
Và thường để tâm hồn lãng mạn bay xa, mơ tưởng về một ngày mai được sống trong hạnh phúc lứa đôi với chàng, được cùng chàng thân mật dùng chung một hộp trầu, một ống vôi:
- Ước gì chung mẹ chung thầy
Ðể em giữ cái quạt này làm thân.
Rồi ra chung gối chung chăn,
Chung quần, chung áo, chung khăn đội đầu.
Nằm thì chung cái giường tàu,
Dậy thì chung cả hộp trầu, ống vôi.
Trở về hiện tại, giây phút sung sướng nhất hiển nhiên là giây phút nàng được thưởng thức những miếng trầu tình ái do chàng trao tặng:
- Trầu này đủ vỏ, đủ vôi
Ðủ cau, đủ thuốc, đủ mùi xạ hương.
Không ăn thì bảo rằng thường
Ăn rồi thì biết người thương thế nào.
Nhất là những miếng trầu ấy lại được chàng quí hóa, trân trọng bọc trong chiếc khăn tay trắng, dành riêng cho nàng:
- Trầu bọc khăn trắng cau tươi,
Trầu bọc khăn trắng đãi người xinh xinh.
Ăn cho nó thỏa tâm tình,
Ăn cho nó thỏa sự mình sự ta.
Phần nàng, nàng cũng không quên sửa soạn sẵn những miếng trầu thật đặc biệt:
- Khẩu trầu chính là khẩu trầu
Ở giữa đệm quế, hai đầu thơm cay.
Có ăn mới biết đến cây
Có ăn mới biết trầu cay, trầu nồng.
rồi buộc trầu trong dải yếm đào để đem tới tặng lại chàng với tất cả tấm lòng trìu mến:
- Trầu em buộc dải yếm đào
Hỏi người tri kỷ ăn vào có say?
Những kẻ đang yêu ăn trầu dễ say lắm. Nhiều khi họ tự hỏi họ say vì trầu hay say vì tình, vì mê bóng sắc của nhau ?
- Tay ai như ngọc, như ngà
Ðưa trầu ta tưởng đưa ta miếng vàng.
Anh say nhan sắc của nàng
Hay say vì miếng trầu vàng, cau tươi ?
Tất nhiên cả hai rồi. Họ say vì trầu, vì trong hạt cau có chất arécoline làm kích thích thần kinh, đồng thời họ còn say vì tình; nhưng say vì tình mới là chính, chả thế ca dao còn có câu:
- Yêu nhau trầu vỏ cũng say
Ghét nhau cau đậu (6) đầy khay chẳng màng.
và
- Gặp nhau ăn một khẩu trầu
Không mặn vì thuốc, say nhau vì lời.
Như thế đủ thấy, những kẻ đang yêu được ngồi ăn trầu bên nhau thì dù trầu có thiếu vị họ vẫn say như thường, vì họ say tình nhau, say bóng sắc của nhau, say lời yêu đương của nhau chứ nào có xá gì trầu!
Tình yêu khi đã đến lúc đắm say tất xa nhau sẽ nhớ nhung, tương tư sầu khổ:
- Một thương hai nhớ ba sầu,
Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm hơi.
Thương chàng lắm lắm chàng ơi,
Biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than ?
Nàng thở than những gì đây ?
- Từ ngày ăn phải miếng trầu,
Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu.
Biết là thuốc dấu hay bùa yêu
Làm cho thiếp phải nhiều điều xót xa.
Làm cho quên mẹ, quên cha
Làm cho quên cử, quên nhà
Làm cho quên cả đường ra, lối vào
Làm cho quên cá dưới ao
Quên sông tắm mát, quên sao trên trời.
Trong vấn đề tình yêu và hôn nhân, không phải bao giờ người con gái cũng ở thế thụ động, như ca dao đã chứng tỏ, có nhiều trường hợp nếu người con gái bạo dạn một chút, lanh lợi một chút, và cũng phải biết tế nhị nữa thì có thể lợi dụng tục mời trầu để tự kén chọn cho mình một người bạn tình trăm năm. Thật thế, như khi đã gặp được người vừa ý rồi mà đối phương lại quá nhút nhát như anh chàng này chẳng hạn :
- Thương em chẳng dám trao trầu
Ðể trên bó mạ, gió nam lầu thổi qua.
Nếu người con gái cũng lại chấp nê, thụ động thì cuộc tình này đành để cho gió bay đi. Trái lại, nếu người con gái khôn ngoan, biết mở lời bóng gió đưa duyên thì có thể khích lệ đối phương tiến tới:
- Có trầu mà chả có cau
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm.
Ðúng ra phải nói là:
- Có trầu mà chả có vôi
Làm sao cho đỏ môi tôi thì làm.
Chả vì theo lời giải thích của Thúc Nguyên, "vôi phản ứng trên những polyphénols thuộc nhóm flavone của lá trầu và miếng cau bằng cách ô-xít hóa chúng và biến chúng thành orthoquinones. Sự việc này làm cho nước bọt người nhai trầu trở thành đỏ". Như thế, có trầu đã đành, còn phải ăn thêm với vôi mới làm đỏ được môi. Cũng như trong tình yêu, một người đã lên tiếng, kẻ kia phải đáp lời ; tình yêu song phương mới thực sự tạo được hạnh phúc lứa đôi.
Lại những khi chưa biết rõ đối phương đối với mình ra sao, người thiếu nữ cũng đã biết mượn miếng trầu để dò ý, ướm tình :
- Trầu đã có đây, cau đã có đây
Nhân duyên chưa định, trầu này ai ăn?
Trầu này trầu túi, trầu khăn,
Trầu này dải yếm, anh ăn trầu nào?
Nếu người con trai nhận ăn "trầu dải yếm" là những miếng trầu thiết thân của nàng thì nàng hiểu ngay là đối phương đã thầm xác nhận có yêu nàng, và những mong cùng nàng kết mối lương duyên; bằng không chỉ là bạn thường, vì bạn thường thì chỉ được phép ăn "trầu khăn", "trầu túi" của nàng mà thôi.
Lại những khi người con gái đã lỡ yêu rồi thì nàng cũng dám tấn công trước qua miếng trầu tỏ tình:
- Vào vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu.
Trầu này têm những vôi tàu (7)
Giữa đệm cát cánh, hai đầu quế cay.
Trầu này ăn thật là say
Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng
Dù chẳng nên vợ nên chồng
Xơi dăm ba miếng, kẻo lòng nhớ thương.
Miếng trầu đối với nàng lúc này không chỉ là một vật chất đơn thuần mà là một biểu tượng của tình yêu, nói khác đi, nó chính là tình yêu của nàng đã hóa thân:
- Trầu này trầu quế, trầu hồi
Trầu loan, trầu phượng, trầu tôi, trầu mình.
Trầu này trầu tính, trầu tình
Trầu nhân, trầu nghĩa, trầu mình, trầu ta.
Trầu này têm tối hôm qua
Dấu cha dấu mẹ, đem ra mời chàng.
Nhưng không phải hễ người con gái mời trầu là bao giờ cũng được bọn nam nhi đón nhận sốt sắng cả đâu. Nhiều chàng trai có tính đa nghi lắm, lại luôn luôn được phụ mẫu nhắc nhở, căn dặn: "Ra đường thấy con gái mời trầu thì chớ có ăn, nó bỏ bùa yêu, thuốc dấu cho là khốn, rồi đến bỏ cả học hành thôi". Thế nên nhiều chàng đã tỏ ra rất dè dặt trước những miếng trầu mời mọc của các nàng, bởi vậy mới có cái cảnh mời trầu nài nỉ:
- Trầu này không phải trầu hàng
Không bùa, không thuốc sao chàng không ăn ?
Hay là chê khó, chê khăn
Xin chàng dừng lại làm ăn miếng trầu.
Rất may việc này xẩy ra cũng hi hữu thôi, vì các cụ ta khi xưa đã dạy cho người thiếu nữ biết cách từ chối nhận trầu thì cũng lại dạy cho người thanh niên phải biết nhận trầu, có thế mới ra con người lịch sự:
- Tiện đây đưa một miếng trầu
Không ăn, cầm lấy cho nhau bằng lòng.
4. Trầu Cau Trong Nghi Lễ Cưới Hỏi
Người bình dân Việt Nam xưa nhờ vào hoàn cảnh sống gần gũi với thiên nhiên, nhờ điều kiện sinh hoạt tập thể về nông nghiệp, hội hè, hát xướng, lại nhờ vào tục mời trầu của xã hội... đã giúp cho tình yêu của họ dễ dàng nẩy nở, cởi mở, hồn nhiên. Dù thế nào chăng nữa, tình yêu của họ cũng không cuồng nhiệt, tự do quá trớn đến vượt ra khỏi vòng lễ giáo gia đình và phong tục xã hội.
Thực tế, người thiếu nữ vẫn hằng nhủ lòng "áo mặc sao qua khỏi đầu", nên khi vừa bước vào cuộc tình là không quên nhắc nhở bạn về thủ tục đầu tiên:
- Thương tôi rượu chén, trầu cơi
Ðến cùng phụ mẫu, đến nơi sinh thành.
Nếu người con trai còn nghi ngại:
- Tốn hao anh chẳng màng chi
Chỉ e lỡ dở uổng thì trầu cau.
thì người con gái xin hứa trước một lời để bạn vững dạ về trình cha mẹ, rồi nhờ mai dong đến thưa chuyện cùng song thân nàng:
- Ðợi lệnh song thân em phải vậy
Song em quyết một lời rồi, anh hãy cậy mai dong.
Người con trai sau khi đã được lời hứa chắc của bạn lòng , mặt mày hớn hở, đi khoe cùng làng, khắp xóm:
- Tôi về thưa với mẹ cha
Chạy lo sáu lễ đem qua cưới nàng.
Nhưng khi vào chuyện rồi người ta mới thấy trong ba việc khó khăn ở đời mà người xưa đã từng xác nhận qua câu tục ngữ:
- Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay!
thì việc cưới xin, việc hệ trọng nhất trong cuộc đời của mỗi con người, là khó khăn nhất, nghi thức cũng nhiêu khê nhất, và tốn kém nhất.
Trước hết, nhà trai phải đem phẩm vật đến cầu cạnh người mai mối, nhò họ chuyển lời cầu hôn đến nhà gái, đúng như phong tục đã định:
- Mâm trầu hũ rượu đàng hoàng
Cậy mai đến nói phụ mẫu nàng mới xong.
Khi ông mai, bà mối đã trình bầy tự sự, nhà gái thấy xứng đôi (xưa theo tiêu chuẩn môn đăng hộ đối) thì ưng, liền cho so đôi tuổi cô dâu, chú rể; tuổi tác có hợp rồi mới bắt đầu tính đến chuyện cưới hỏi. Ðâu đấy xong xuôi, hai bên gia đình nhà trai, nhà gái cho tiến hành các thủ tục hôn phối.
Bắt chước Trung Hoa, tất cả phải trải qua sáu lễ. Đó là:
- Lễ Nạp thái còn gọi là lễ sơ vấn, nhà trai đưa lễ vật để tỏ ý đã kén chọn. Lễ này nôm na gọi là lễ chạm ngõ hay lễ giạm vợ.
- Lễ Vấn danh: hỏi tên tuổi và họ người con gái.
- Lễ Nạp cát: báo cho nhà gái biết đã bói được điềm tốt.
- Lễ Thỉnh kỳ: xin định ngày cưới.
- Lễ Nạp tệ: tệ là lụa, nghĩa là đem lụa hay phẩm vật quí đến nhà gái, nói chung là đem đồ sính lễ đến nhà gái trong ngày lễ cưới.
- Lễ Thân nghinh: lễ đón dâu.
Sáu lễ kể trên về sau ta giảm xuống còn ba là lễ Sơ vấn (chạm ngõ), lễ Vấn danh (ăn hỏi) và lễ Thân nghênh (đón dâu). Nghi thức cũng đã được thay đổi phần nào cho hợp với phong cách Việt Nam. Theo phong tục của nước ta thì cả ba lễ này, trầu cau đều là lễ vật căn bản (7).
- Lễ chạm ngõ: nhà trai chỉ phải đem tới nhà gái vài gói trà, vài chai rượu và một nhánh cau cùng một xấp lá trầu (tất cả đều phải đi số chẵn). Theo tục lệ trong Nam thì ngoài trà rượu bánh mứt, nhà trai còn đem tới nhà gái một khay trên bầy 2 cái chung (ly) nhỏ, 1 nậm rượu và 1 cơi trầu têm sẵn 4 miếng, để mời anh chị sui mà trực tiếp thưa chuyện giạm vợ cho con.
- Chiếc khăn nhiễu tím đội đầu
Quai thao, nón thúng, cơi trầu cầm tay
Xu xê, bánh cốm, bánh dầy
Anh nhờ cả mẹ cùng thầy đưa sang.
Nếu cô dâu, chú rể tương lai chưa hề biết nhau thì đây chính là dịp họ được thấy mặt nhau, nên lễ này còn gọi là lễ xem mặt. Người thiếu nữ từ ngày nhận trầu cau coi như đã là dâu con nhà người, tục ngữ có câu: "Miếng trầu nên dâu nhà người" là vậy. Tuy nhiên lễ chạm ngõ không quan trọng mấy, vì dù sao mới chỉ là "giạm", nghĩa là ướm hỏi trước giữa hai gia đình mà thôi. Do đó sau này vì lẽ gì một bên muốn bãi bỏ thì cũng dễ dàng, chỉ cần thông báo cho bên kia biết chứ không phải thưa kiện, bồi thường gì. Thế nên tục ngữ lại có câu: "Miếng trầu chạm ngõ là miếng trầu bỏ đi".
- Lễ ăn hỏi: trong Nam lễ vật quan trọng nhất kỳ này là trầu cau, rượu trà và cặp đèn cầy để lễ gia tiên bên gái. Ở ngoài Bắc, xưa có lệ vào dịp lễ ăn hỏi, nhà gái chia phần trầu bánh cho bà con họ hàng, xóm giềng, bạn bè để báo tin lễ đính hôn chính thức của đôi trẻ; vì thế nhà trai phải dẫn cho đủ số trầu cau, trà bánh, nem trạo để nhà gái biếu xén.
Sau lễ ăn hỏi, hai gia đình mới bàn đến chuyện đám cưới. Theo phong tục xã hội Việt Nam xưa, nhà gái được quyền thách cưới. Ngoài vụ thách cưới áo quần, chăn chiếu, màn gối, nữ trang cho cô dâu, nhiều bậc cha mẹ còn đòi thách cưới cả tiền mặt để trang trải cỗ bàn thết đãi hai họ, cùng là ruộng vườn, trâu bò cho đôi vợ chồng mới ra riêng lập nghiệp. Nhiều chàng trai nhà nghèo, không theo được đành phải mất vợ.
- Vắn tay với chẳng tới kèo
Cha mẹ anh nghèo, cưới chẳng đặng em.
Từ lễ ăn hỏi đến lễ cưới khoảng một hai năm, người con trai phải sêu tết nhà vợ. Theo tài liệu trong Việt Nam Phong Tục của Phan Kế Bính thì bốn mùa xuân hạ thu đông, mùa nào thức nấy. Tháng ba thì sêu vải; tháng năm sêu dưa hấu, đường, ngỗng; tháng chín sêu cốm, hồng, gạo mới, chim ngói; tết sêu bánh mứt, cam bưởi.
Không sêu mà xin cưới thì người ta cho là thiếu lễ.
- Lễ đón dâu: sáng sớm ngày lễ đón dâu, chính bà mẹ chồng đích thân mang một cơi trầu, ngoài phủ khăn điều, trong đựng 6 miếng trầu, tượng trưng đủ 6 lễ, đem tới nhà gái để xin dâu cho trịnh trọng (nếu bà mẹ chồng mất sớm mới phải nhờ tới cô, bác hay người chị lớn của chú rể đi thay). Ịồng thời báo cho nhà gái biết trước giờ phái đoàn nhà trai đến để sửa soạn nghênh tiếp.
Phái đoàn đón dâu đi đầu là vị chủ hôn (phải là người trọng tuổi, vợ chồng song toàn, con cái đề huề, kén chọn trong gia đình họ hàng chú rể), sau đến vợ chồng người mai dong, tiếp theo là đoàn người đội phù trang mang đồ sính lễ, gồm trầu, cau (nguyên buồng), trà rượu, bánh mứt, xôi heo... Với người miền Nam còn phải thêm đôi đèn cầy lớn, trạm rồng phượng và đôi bông tai (hoa con gái) cho cô dâu. Chú rể, bà con đi sau chót.
Cặp đèn cầy nhà trai đưa tới được thắp sáng trên bàn thờ gia tiên nhà gái, một phần lễ vật đem ra bầy cúng. Sau khi lễ gia tiên, (4 lạy, 3 vái) cô dâu chú rể lạy tạ cha mẹ vợ (2 lạy, 1 vái), đoạn đi chào ra mắt cùng mời trầu, mời thuốc chú bác, cô dì nhà gái ; đồng thời họ nhận được tiền phong bao cùa họ hàng. Xong xuôi, lễ vật còn lại với cỗ bàn được bưng ra, đãi đằng hai họ:
- Anh hai đi cưới chị hai,
Mâm trầu, hũ rượu tốn hai mươi tiền.
Còn dư mua chả mua nem
Mua cặp lồng đèn, hai họ cùng lên.
Ông cai, ông ký ngồi trên
Sui gia ngồi dưới, hai bên họ hàng.
Mọi người ăn uống say sưa, chuyện trò vui vẻ; chờ tới giờ hoàng đạo (giờ tốt) mới đón dâu về nhà chồng.
Về tới đằng trai, cô dâu, chú rể lễ gia tiên trước rồi mới lễ tơ hồng (chủ đích tạ ơn Nguyệt Lão đã xe duyên đôi lứa) .Lễ tơ hồng cốt yếu có đĩa trầu cau, đĩa sôi gấc trên đặt con gà trống thiến luộc, mỏ cắm một bông hồng đỏ và đôi bạch lạp.
Theo tài liệu của Đỗ Thì Kênh G, trên nguyệt san Thế Kỷ 21 số 88 thì lễ gia tiên cũng như lễ tơ hồng lúc này đều có bài bản sẵn. Có thể mỗi gia đình soạn một bài riêng, nhưng đại khái cũng không khác nhau là bao.
Thí dụ lễ gia tiên:
- Cung cúc bái trước bàn thờ
Kính dâng lễ bạc hương hoa rượu trầu
Cùng là phẩm vật trước sau
Lòng thành tâm nguyệt thỉnh cầu gia tiên...
Lễ gia tiên xong, cô dâu chú rể ra sân, quỳ trước bàn thờ Nguyệt Lão để lễ tơ hồng:
- Cung duy tơ hồng... Nguyệt Lão thiên tiên
Xích thằng giao cấu kết nhân duyên.
Gối phượng, chăn loan tưng bừng đôi lứa
Chèo lan, lái quế êm ấm một thuyền...
Người chủ tế vừa hoàn tất việc xướng lễ, bái lễ, chú rể bước tới bàn thờ, nâng chung rượu uống nửa rồi trao cho cô dâu nhắp phần còn lại, đoạn rón 2 miếng trầu trong cái đĩa đặt trên bàn thờ, chia cho cô dâu một miếng, xong hai người cùng ăn. Ðể kết thúc buổi lễ tơ hồng, người chủ tế nhấc hai cây bạch lạp trên ban thờ xuống cho châu đầu vào nhau để hai ngọn lửa nhập làm một, đoạn thổi tắt, hàm ý vợ chồng từ nay sống chết cùng nhau, không rời bỏ nhau.
Sau lễ tơ hồng, cô dâu chú rể vào nhà lạy cha mẹ chồng cùng chú bác bên chồng, lại được tiền phong bao nữa.
Buổi tối, mâm cỗ lễ tơ hồng được hạ xuống cho cô dâu chú rể ăn chung.
Hôm sau ngày cưới gọi là ngày nhị hỉ hay ba hôm sau gọi là ngày tứ hỉ, cô dâu chú rể đem heo, xôi - sau này được thay bằng trà rượu - về bên ngoại cúng từ đường, thăm nhà và đi chào cùng cám ơn bà con cô bác.
Tục lệ thách cưới và dẫn lễ này không chỉ áp dụng trong dân gian mà ngay cả trong triều nội.
Theo tài liệu của Ông Tiến Hưng, đăng trong báo Thế Kỷ 21 số 84, cho biết, vua Thiệu Trị có em gái là công chúa Hương La, đến tuổi kén chồng. Các quan trong triều và hội đồng hoàng gia thấy ông Hoàng Kế Viêm đỗ cử nhân, 23 tuổi, là người hiền đức, lại là con cụ Hoàng Kim Xán, nổi tiếng hiếu hạnh, có bài vị thờ tại miếu Hiền Lương, nên đồng thanh tiến cử làm phò mã và được chuẩn y (mặc dầu ông đã có vợ và có 1 con gái, đang sống cùng mẹ chồng tại làng Văn La, Quảng Bình). Đám cưới công chúa trước sau đủ 6 lễ rườm rà, mỗi lễ đều có lễ vật, tính chung gồm 2 mâm trầu cau, 2 trâu, 2 bò, 3 heo, 4 ché rượu, 2 cây gấm, 12 cây lụa, 10 nén vàng, 36 nén bạc và 2 chuỗi ngọc. Ngoài ra còn các thứ lặt vặt khác như 2 hộp chỉ ngũ sắc, 100 đồng tiền tượng trưng sự phú quí, 2 lá thiên tuế tượng trưng cho sống lâu, 2 con ngỗng thay cặp nhạn ở xứ ta không có (chim nhạn không lìa đôi).
Nghi lễ ấn định như thế, nhưng sau Bộ Binh và Bộ Lại tâu lên vua về gia cảnh nhà trai nên nhà vua chấp nhận mọi chuyện chi phí về hôn lễ sẽ do công khố đài thọ.
Từ nửa đầu thế kỷ XX trở đi, các nghi lễ cưới xin nào quá rườm rà và không hợp lẽ đã bị nhiều nhà văn, nhà báo tiến bộ như nhóm Phong Hóa, Ngày Nay... viết sách viết báo đả kích kịch liệt. Như chuyện thách cưới chẳng hạn, sự đòi hỏi quá lố của nhà gái có khác gì bán con? Khẩu ngữ "gả bán" cũng từ đấy mới có. Nhiều nhà trai nghèo phải vay nợ để cưới dâu nên đem lòng oán hận, cưới được dâu về rồi cha mẹ chồng mới hành hạ cho đáo để:
- Mất tiền mua mâm
Bà đâm cho thủng.
Chỉ vì cha mẹ tham của hay vì chút tự ái, thích huênh hoang với xóm làng ra cái điều con gái ta cao giá mà để cho con phải chịu đọa đầy. Ðã vậy, hai vợ chồng trẻ còn phải làm việc còng lưng, tróc da, trầy vẩy để trả nợ cưới mà mãi vẫn không xong.
Những tục lệ nào phiền nhiễu và vô lý như thế, không chỉ bị đả kích mà còn vì xã hội đã có nhiều đổi thay, chiến tranh kéo dài, kinh tế khó khăn, tiêm nhiễm văn minh tây phương nên chúng đã phải suy giảm rõ rệt. Tuy nhiên ở ngoài Bắc trước năm 1954, và ở trong nam trước năm 1975, lễ ăn hỏi vẫn còn giữ lại tục lệ chia trầu cau, trà và bánh mứt (thường là bánh dầy, bánh chưng, sau mới đổi ra bánh xu xê - chính là bánh phu thê - hay bánh quế, bánh cốm, mứt sen) cho bà con họ hàng, xóm giềng và bạn bè. Tất nhiên nhà nào nghèo thì chỉ cần chia trầu cau với gói trà nhỏ cũng đủ.
Xưa kia trong Nam chưa có tục chia trầu cau thì lại có tục gửi rể. Trong khoảng thời gian từ lễ giạm đến lễ cưới kéo dài hai ba năm, người con trai phải về nhà vợ ở rể, giúp đỡ cha mẹ vợ mọi việc khi được yêu cầu, thường là những công việc nặng nhọc như cầy cấy, tát nước, dọn nhà, đào giếng... ăn uống thì lại kham khổ khiến nhiều chàng đã phải than thở:
- Trời mưa cho ướt lá khoai
Công anh làm rể đã hai năm ròng
Nhà em lắm ruộng ngoài đồng
Bắt anh tát nước, cực lòng anh thay.
Tháng chín mưa bụi, gió bay
Cất lấy gầu nước, chân tay rụng rời!
Chẳng qua chàng trai này vì nhà nghèo, không đủ điều kiện cưới vợ nên khi ở rể phải làm những công việc nặng nhọc để đền bù... nhờ vậy nhà gái mới chịu gả con cho.
Trái lại,chàng trai nào chữ nghĩa lầu thông thì chẳng những nhà vợ nể vì mà còn được phục dịch là đằng khác:
- Ham chi rể học hơn người
Ngồi trên phản vọng còn đòi lửa lư.
(phản vọng là phản kê ở gian giữa, lửa lư là lửa than trong cái đỉnh nhỏ, dùng để mồi thuốc hút)
Như thế ai dám bảo cứ "ở rể" là khổ ?!