Thuận Thiên Di Sử (từ hồi 26)
CDDLT 12.01.2005 18:45:05 (permalink)
Hồi thứ năm mươi sáu


Đại Hội Võ Lâm


Phái Sài-sơn do Phù-đổng thiên vương cùng các anh hùng đánh giặc Ân bằng kị binh. Cho nên tất cả các đệ tử đều cỡi ngựa. Hồng-Sơn đại phu cỡi ngựa dẫn đầu. Cạnh ông, một đạo sĩ, chính thị Dương Ẩn. Phía sau, Lâm Huệ-Phương trong bộ quần áo lụa mầu hồng rồi tới chín đại đệ tử.
Thiệu-Thái tự hỏi:
- Không biết Vũ Thiếu-Nhung đâu, mà không thấy bà xuất hiện?
Chợt chàng để ý thấy cạnh Thiếu-Mai, Lê Văn có một thiếu phụ cỡi ngựa, trông lưng rất quen, nhìn kỹ lại chính là Thiếu-Nhung đã hoá trang. Chàng tỉnh ngộ:
- Phải rồi, Thiếu-Nhung ẩn thân, để rồi xuất hiện, lột mặt nạ tên Lê-Ba, đội lốt Dương Ẩn. Tình người thực khó mà nói trước được. Có ai ngờ tên Dương-Ẩn, sư thúc của Hồng-Sơn đại phu,đạo cao, đức trọng bậc nhất Đại-Việt lại theo Hồng-thiết giáo, một bọn dơ bẩn ác độc nhất. Có ai ngờ y đi cạnh Hồng-Sơn truyện trò thân mật thế kia, mà lát nữa đây sẽ ra mặt hại ông. Có ai ngờ Hồng-Sơn bình thản thế kia, sau đó lột mặt nạ Dương-Ẩn?
- Phủ chưởng môn cùng phái Vạn-tượng đến.
Một bầy voi hơn ba chục con xếp hàng đôi đi đầu. Phía sau hơn ba trăm người rầm rập theo vào. Thiệu-Thái nhớ hôm ở Hồng-hương cốc, Triệu Thành đọc sắc phong cho Phủ-Vạn là Thái-tử, thái bảo. Phó đô nguyên soái. Nam phương trung thành, tĩnh lự công thần. Lão-qua quận vương. Thực ấp vạn hộ. Thực phong ngũ thiên hộ. Vợ tên Nang-Chay được phong An-tĩnh quận chúa. Hôm đó Triệu Thành bầy mưu cho Đàm Toái-Trạng đem quân tới biên giới, để hoàng thái hậu Lão-qua trao binh quyền cho Phủ-Vạn, rồi y lật cháu, lên làm vua. Thành còn truyền Nguyên-Hạnh viện cho y mấy cao thủ.
- Rát-ta-na chưởng môn cùng phái Tha-Nôm tới.
Bảo-Hòa hỏi Nhất-Bách:
- Tha-nôm ở đâu, sao nghe lạ tai quá vậy?
Nhất-Bách chưa kịp trả lời, tiếng xướng ngôn viên tiếp:
- Thưa quý vị! Vương quốc Xiêm-la nằm ở phía Tây sông Cửu-long. Nguyên về thời Lĩnh-nam. Lúc vua Trưng tuẫn quốc, đạo quân của công chúa Nguyệt-Đức Phùng Vĩnh-Hoa phía sau bị Mã Viện chặn đường về. Phía trước bị Vương Bá tiến đánh. Công chúa đành dẫn quân vượt núi tiến về phía Tây, qua nước Lão-qua. Vương Bá đem quân đuổi tới cùng. Công chúa dẫn quân lội sông Cửu-long sang bờ Tây ẩn thân. Đạo quân công chúa Nguyệt-Đức có hơn năm nghìn người. Một nửa nam, một nửa nữ. Họ đều thuộc sắc dân người Thái. Cho đến nay, người Thái chiếm đến tám phần mười nước Xiêm. Những hậu duệ của nhóm người Thái lập ra phái Tha-Nôm. Nghĩ mình thuộc giòng Bách-Việt, con cháu di thần Lĩnh-nam. Cho nên hôm nay anh em phái Tha-Nôm cũng về dự lễ Bắc-bình vương cùng vương phi.
Đỗ-xích Nhất-Bách thắc mắc:
- Tại sao phái Phật-thệ, Vạn-tượng thuộc Chiêm, Lào, phái Tha-Nôm thuộc Xiêm mà cũng có nguồn gốc từ Bách-Việt nhỉ?
Bảo-Hòa quên mất mình mang lốt Trần Quỳnh-Hoa, chứ không phải quận chúa. Nàng mang đại nghĩa dân tộc ra nói:
- Nhất huynh quên mất rồi sao? Từ thời vua Hùng dựng nước, đất nước ta gồm trăm giống Việt. Vùng Chiêm-thành, Lão-qua, Chân-lạp, Xiêm đều thuộc về Việt-thường cả. Hơn nữa, vua Chiêm, Lào, cùng nhận sắc phong của Thuận-thiên hoàng đế, họ vẫn không quên nguồn gốc. Cho nên phái Mê-linh đứng tổ chức đại hội, mới đạt giấy mời họ đến dự.
- Bang trưởng Hùng Cơ cùng bang Đông-Hải đến.
Bảo-Hòa ở trên cao nguyên, chưa tới vùng biển bao giờ, vì vậy nghe đến danh hiệu bang Đông-hải, nàng ngơ ngác, đưa mắt nhìn Nhất-Bách. Nhất-Bách đáp:
- Bang Đông-hải được thành lập vào thời Thập-nhị sứ quân. Bang trưởng thuộc giòng dõi vua Hùng. Bang này hành hiệp dọc bờ biển, cùng trên các đảo vùng Đông-hải. Họ không thuộc chính, cũng chẳng thuộc tà.
- Trần chưởng môn, cùng phái Đông-a tới.
Phái Đông-a, người nhiều, thế mạnh, lại có năm đại cao thủ thành Thiên-trường ngũ kiệt, danh vang thiên hạ. Chưởng môn Trần Tự-An là người bác học đa năng, kết giao rất rộng với võ lâm, vì vậy khắp Hoa-Việt, ai cũng biết danh.
Tự-An đi cùng bốn huynh đệ. Phía sau hơn ba trăm đệ tử đời thứ nhì, và hơn năm nghìn đệ tử đời thứ ba. Khí thế bốc lên chín tầng mây. Bảo-Hòa thấy cạnh Tự-An có một giai nhân tuyệt sắc, áo lụa xanh, đai hồng, phơi phới như tiên nga. Chính là Đào Hà-Thanh. Không thấy Cao Huyền-Nga, Thanh-Mai, Tự-Mai. Nàng hỏi anh:
- Sao không thấy chị Thanh-Mai với Tạ-Mai đâu nhỉ?
Thiệu-Thái dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai em:
- Kìa, em nhìn kìa. Bà Cao Huyền-Nga với Thanh-Mai, Tự-Mai lẫn vào đám đệ tử Thiên-trường. Cả Tôn Đản, Hà Thiện-Lãm, Lê Thuận-Tông, Trần Anh, Thanh-Nguyên, bé Ngô Thường-Kiệt nữa kìa. Coi bộ Thuận-thiên cửu hùng chỉ thiếu cậu hai, Tạ Sơn, Mỹ-Linh nữa mà thôi. Không biết Mỹ-Linh hiện ở đâu?
Khán đài phái Đông-a với phái Mê-linh cạnh nhau. Vừa ngồi xuống, Thanh-Mai chợt thấy một thiếu nữ trông dáng rất quen ngồi cạnh. Thiếu nữ nhìn nàng mỉm cười, gật đầu chào. Thanh-Mai cũng chào lại:
- Không biết sư tỷ đây xưng hô thế nào?
Thiếu nữ nói sẽ vào tai nàng:
- Thím hai quên người ta rồi à?
Thì ra Mỹ-Linh. Thanh-Mai suýt bật thành tiếng kêu. Mỹ-Linh đã hoá trang thành một thiếu nữ, đệ tử phái Mê-linh. Thanh-Mai ghé tai Tự-Mai, báo cho em biết. Tự-Mai báo cho Tôn Đản. Phút chốc cả bọn đều nhận nhau. Ngô Thường-Kiệt cực kỳ tôn kính Bảo-Hoà. Nó hỏi Mỹ-Linh:
- Cô ơi! Cô Bảo-Hoà của con đâu?
Mỹ-Linh kéo nó ngồi vào lòng, nói sẽ:
- Con muốn tìm cô Bảo-Hòa à? Dễ lắm. Con còn bé, không ai chấp, con cứ chạy hết các khán đài, đánh hơi. Hễ thấy mùi trầm hương đâu thì cô Bảo-Hoà ở đấy.
Thường-Kiệt dạ một tiếng, nó chạy đi.
Thiên-trường ngũ kiệt gặp Hồng-Sơn đại phu, tụ lại một chỗ nói truyện. Trần Kiệt hỏi Dương Ẩn (Lê Ba):
- Dương đạo sư, không nhờ uy linh của Bắc-bình vương, đời nào đạo sư lại xuất quan ra đây.
Dương Ẩn khiêm tốn:
- Suốt hai mươi năm nay, bần đạo bế quan, luyện công. Nhân hôm nay, một phải tế anh hùng năm xưa, hai do vận mệnh Đại-Việt, bần đạo phải xuất quan cũng là bất đắc dĩ.
Nói xong, y ngồi yên nhìn mây trắng trôi trên nền trời xanh. Trông bề ngoài, quả thực y có phong quang đạo nhân vũ ngoại trần ai, không thiết việc đời. Có ai ngờ, y lại là tên ma đầu bậc nhất Hồng-thiết giáo.
Phái Tây-vu với phái Tản-viên xưa nay có tình giao hảo. Đặng Đại-Khê cùng Thân Thừa-Quý gặp nhau, truyện trò như pháo rang. Đại-Khê hỏi:
- Này Thân phò mã. Con bé thơm như trầm đâu? Dễ thường ba năm không gặp lại nó. Bây giờ lớn lắm rồi thì phải. Không biết phò mã đã định đâu chưa?
Thừa-Quý lắc đầu:
- Khó quá. Hơn năm nay, nó theo cậu hai nhà này làm việc nước. Có gặp nó đâu mà định nơi nào! Mười tám rồi chứ có ít đâu. Hôm trước nó về thăm nhà, cứ luôn miệng nhắc đến đại ca hoài.
Thừa-Quý không muốn lộ việc Bảo-Hoà học được đủ ba mươi sáu chưởng Phục-ngưu ra trước đám đông. Ông nói xa xôi:
- Đặng huynh! Bảo-Hòa nhắn với đệ rằng nó đã làm tròn những gì huynh giao phó.
Đặng Đại-Khê ngơ ngác. Ông không nhớ rằng mình đã ủy cho Bảo-Hoà việc gì? Thân Thừa-Quý hỏi nhỏ:
- Đặng huynh có được tin tức gì về Đỗ Xích-Thập không?
Nghe nhắc đến tên vị sư thúc hữu tài vô hạnh, Đại-Khê thở dài:
- Hoàn toàn không! Tuy nhiên đệ lo lắng ông ta sẽ xuất hiện trong đại hội này, phá rối không chừng.
Đặng Đại-Khê định hỏi Thừa-Quý một vài câu, thì tiếng loa xướng lên:
- Quốc-sư Minh-Không cùng phái Tiêu-sơn đến.
Phái Tiêu-sơn từ hơn trăm năm nay,được tôn đanh hiệu Thái-sơn Bắc-đẩu võ lâm Đại-Việt. Nhiều cao tăng đắc đạo thành Bồ-tát như Vô-Ngại, La Quý-An, Bố Đại, Sùng-Phạm, Vạn-Hạnh, Minh-Không, Huệ-Sinh... thêm vào đó vua Lê Đại-Hành cho đến Thuận-Thiên hoàng đế đều phát xuất từ phái này. Uy danh phái cực kỳ lớn. Dù Hoa, dù Việt, nghe đến tên Tiêu-sơn đều kính phục về đạo đức, về võ công. Trong cuộc kháng chiến chống quân Tống, chính chưởng môn bấy giờ là Vạn-hạnh thiền sư, hô hào anh hùng thiên hạ bỏ tỵ hiềm, khoan thứ cho Lê Hoàn việc cướp ngôi nhà Đinh, để cùng nhau giữ nước. Quân Tống bị đánh tan. Vạn-Hạnh thiền sư được tôn làm quốc sư.
Cho đến khi vua Lê Ngoạ-triều băng hà, triều đình tôn quan tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ Lý Công-Uẩn lên ngôi vua. Một số các quan bất phục, truyền hịch tới thân vương họ Lê trấn ở ngoài cùng kéo quân về diệt Lý. Đứng trước nguy cơ nội chiến, quân Tống thừa dịp kéo vào. Một lần nữa Vạn-Hạnh thiền sư kêu gọi ngưng chiến, đợi khi nào tìm được con cháu nhà Lê xứng đáng, sẽ lập lên kế vị. Tạm thời cho Lý Công-Uẩn trị vì.
Võ lâm Đại-Việt nhờ đó không bị chia sẻ, chém giết nhau. Cho đến bây giờ, mới xuất hiện Hồng-Sơn đại phu nguyên là Nam-Quốc vương Lê Long-Mang, đòi lại ngôi vua.
Đi đầu là Minh-Không thiền sư, cạnh ngài còn có các sư đệ Huệ-Sinh, Nguyên-Hạnh, Sùng-Văn, Sùng-Anh, Sùng-Đức, Sùng-Tín, Sùng-Không, Sùng-Kiến, với hơn năm ngàn đệ tử.
Tất cả các chưởng môn nhân đều đến chào Minh-Không quốc sư. Ngài hỏi:
- Bần tăng nghe Nhật-Hồ lão nhân trở lại dương gian, sao chưa thấy Hồng-thiết giáo đến?
Sư thái Tịnh-Tuệ, nhân danh ban tổ chức, đáp:
- Bần ni có đạt thư mời tới người chấp chưởng Hồng-thiết giáo, nhưng không được hồi âm. Còn giáo chủ Nhật-Hồ lão nhân chỉ mới tái xuất hiện có mấy ngày mà thôi. Tới giờ hành lễ rồi, chúng ta không thể chờ được nữa.
Tiếng loa xướng:
- Đoàn chưởng môn, cùng huynh đệ phái Thiên-tượng đến.
Đoàn Huy cỡi ngựa đi đầu. Hai bên có hai lá cờ cực lớn trên thêu hình con voi. Sau Đoàn Huy có Phạm Văn, Hàn Ngọc-Quế, Tôn Dung, Chu Linh và hơn ba ngàn người đi vào.
Xướng ngôn viên tiếp:
- Thưa các vị anh hùng. Phái Thiên-tượng được thành lập cách đây hơn năm trăm năm. Gồm các anh hùng phái Thiên-sơn và Tượng-quận thời Lĩnh-nam. Nguyên thời Lĩnh-nam, bẩy vị anh hùng phái Thiên-sơn Trung-quốc, nhân thời thế nhiễu nhương, cùng nhau phất cờ, mưu cứu dân. Họ đã chiếm được vùng Kinh-châu, Ích-châu, Hán-trung, Đông-xuyên, Tây-xuyên. Khi vua Trưng khởi nghiã, có kết giao với anh hùng Thiên-sơn, chia ba thiên hạ. Sau khi Thục mất, anh hùng Thiên-sơn chạy sang Tượng-quận ẩn cư. Đến khi Lĩnh-nam mất, anh hùng Tượng-quận cùng Thiên-sơn nhiều lần khởi nghĩa đều thất bại. Sau hai phái hợp với nhau, thành phái Lâm-Ấp, khởi binh chiếm lại được vùng Tây Quảng-tây, Nam Ích-châu, lập ra nước Đại-lý. Tuy tên Đại-lý, nhưng thực sự vốn giòng giống Việt, hậu duệ vua Trưng. Cho nên hôm nay anh hùng Thiên-tượng cũng đến đây đự lễ tế Bắc-bình vương.
Mỹ-Linh nói sẽ vào tai Thanh-Mai:
- Thím hai này! Ông Đoàn Huy kia nợ thím hai món nợ quá lớn. Tuy vậy, sau này bàn truyện thống nhất Đại-lý, Đại-việt, khó lòng mà y tuân theo mệnh lệnh thím hai.
Thanh-Mai khẽ đấm vào lưng Mỹ-Linh:
- Nếu y chỉ vì mạng sống, bỏ khí tiết, bỏ đại chí, bỏ môn hộ, bỏ triều đình, dù y có theo mình, mình cũng không đáng vui. Mình chỉ mong y nhất tâm, nhất trí thống nhất hai nước cũng may rồi.
Tiếng loa xướng lên:
- Tiền chưởng môn cùng huynh đệ phái Động-đình đến.
Một thanh niên công tử, tuổi khoảng hai mươi cỡi con bạch mã đi trước, tiếp theo năm đội đệ tử tiến vào. Mỗi đội mặc một mầu quần áo xanh, đỏ, trắng, vàng, đen. Mỗi đội ước năm trăm người.
Tiếng xướng ngôn tiếp:
- Thưa quý vị. Phái Động-đình gốc do con cháu anh hùng phái Quế-lâm, Khúc-giang thời Lĩnh-nam hợp lại. Nguyên sau khi vua Trưng tuẫn quốc. Anh hùng phái Khúc-giang, Quế-lâm tiếp tục kháng chiến, khởi nghĩa. Mãi sáu trăm năm trước đây, anh hùng hai phái kết hợp thành phái Động-đình, rồi khởi binh, lập ra nước Mân-Việt. Nước Mân-Việt bao gồm vùng Nam-Hải, và phân nửa Quế-lâm. Niên hiệu Thái-bình thứ chín đời vua Đinh nhằm niên hiệu thứ ba Thái-bình Hưng-quốc bên Trung-quốc. Nước Mân-Việt bị Tống thôn tính (978). Vị chưởng môn hiện thời của phái Động-đình là thái tử Tiền-Minh.
Phái Động-đình vào khán đài rồi. Xướng ngôn viên tiếp:
- Kim chưởng môn cùng đệ tử phái Cửu-long tới.
Một trung niên nam tử, da bánh mật, cực kỳ hùng vĩ, cỡi trên lưng con trâu xanh lớn đi cạnh lá cờ. Trên lá cờ thêu hình chín con rồng trong tư thế đang bay. Phía sau, đoàn đệ tử hơn nghìn người hàng lối ngay thẳng đi vào.
Xướng ngôn viên tiếp:
- Kính thưa quý vị võ lâm. Nước Chân-lạp vốn thuộc giòng Việt thường thời vua Hùng. Trải qua đời vua An-dương tách ra lập thành một nước cho đến ngày nay. Nước Chân-lạp Bắc giáp Chiêm-thành, Lão-qua. Đông và Nam giáp biển. Tây giáp nước Xiêm-la. Chân-lạp là nước bờ xôi, giếng mật. Dân cư thưa thớt, thường bị Xiêm-la xâm lấn. Nhưng gốc vốn giòng Việt-thường, can đảm, giầu nghị lực, nên có tinh thần quật cường. Vì vậy cho đến nay, Chân-lạp vẫn hùng mạnh. Võ công Chân-lạp thiên về dương cương.
Thanh-Mai hỏi Mỹ-Linh:
- Này Mỹ-Linh. Phái Cửu-long đến dự đại hội do phái Mê-linh mời hay tự nhiên vậy?
Mỹ-Linh nói sẽ:
- Do bộ Lĩnh-Nam vũ kinh mời đấy. Trước đây mấy năm, ngày giỗ vua Bà, Đại-Việt gửi thư mời, họ cũng không tới. Bây giờ nghe bọn Tống tìm thấy di thư. Họ vội đến dự. Phen này bọn Triệu Thành khó mà về nước được an toàn.
- Như vậy các phái Thiên-tượng, Trường-sa đến đây cũng vì bộ võ kinh cả sao?
- Không hẳn thế. Vì các năm trước họ đều về dự. Có điều năm nay, họ về đông đủ hơn, với mục đích đoạt di thư. Không biết chú hai tính sao? Thím biết không?
- Biết chứ. Chú hai cấm tất cả chúng mình, cả Bảo-Hoà, Thiệu-Thái không được dùng võ với bọn Tống, Nhật-Hồ. Theo chú hai, bọn Nhật-Hồ kênh kiệu gì, mình cũng im lặng, nhường nhịn. Bọn Nhật-Hồ dù sao cũng mang cái danh yêu nước. Khi bọn Tống xuất hiện, thế nào cũng hống hách. Bọn Nhật-Hồ đâu có chịu nhịn. Hai bên đụng nhau. Nếu bọn Tống thắng, triều đình không trách nhiệm gì. Còn bọn Nhật-Hồ thắng, triều đình chỉ gửi một thư sang cho các quan biên giới biết rằng sứ đoàn gây sự với võ lâm Đại-Việt, mà sinh truyện. Mưu này do sư thúc Trần Kiệt đưa ra.
Tự-Mai cười khúc khích:
- Trai Nhật-Hồ cắn cò Tống. Chúng ta làm ngư ông hưởng lợi. Không biết các đại tôn sư đã rõ mưu kế ấy chưa?
Thanh-Mai gật đầu:
- Biết hết. Quốc-sư Minh-Không được đại sư Huệ-Sinh trình cho biết rồi. Sư thái Tịnh-Tuệ được sư phụ cho biết từ hôm qua. Vua Bà Bắc-biên đã thông tri cho phái Tây-vu. Đạo sư Nùng-Sơn tử cũng báo trình tự sự cho chưởng môn Đặng Đại-Khê. Phái Sài-sơn chị đã trình với Hồng-sơn đại phu.
- Còn bố, ai cho bố biết?
Thanh-Mai cốc vào đầu em:
- Thằng này ngu quá. Khi chú bầy mưu đương nhiên có ý kiến bố rồi. Thế mà cũng hỏi.
Nghe chị em Thanh-Mai đối đáp, Mỹ-Linh nhẹ hẳn người đi. Từ mấy tháng nay, triều đình, cũng như chú hai đều lo âu về việc Hồng-Sơn đại phu xuất hiện, võ lâm chia rẽ, sẽ đưa đến chỗ tàn sát nhau. Bây giờ trước nạn Nhật-Hồ xuất hiện cùng với bọn Tống, khiến các môn phái lại gần nhau hơn. Nàng nói nhỏ:
- Như thế trong buổi lễ hôm nay, các môn phái sẽ có thái độ hết sức mềm dẻo với bọn Nhật-Hồ. Để đẩy chúng vào vòng tranh chấp với bọn Tống.
Thanh-Mai mỉm cười:
- Đúng thế.
Đến đó, chị em phải ngừng lại, vì tiếng xướng ngôn:
- Kính thưa các vị cao nhân tiền bối. Chín trăm tám mươi tư năm trước, cũng ngày này, Bắc-bình vương cùng vương phi tử chiến ngoài thành Long-biên. Khi sức cùng, lực kiệt, vương bị thương nặng, về đến đây mới tuẫn quốc. Hôm nay, võ lâm anh hùng tụ hội để tưởng nhớ công ơn của ngài.Theo truyền thống, các đại tôn sư võ phái sẽ lên đài, cùng tuyên thệ, dâng hương trước bàn thờ anh hùng Lĩnh-Nam. Năm nay, phái Mê-linh được chỉ định tổ chức ngày giỗ này. Kính mời đại tôn sư phái Mê-linh lên đài, ngồi vào ghế chủ vị.
Sư thái Tịnh-Tuệ tuổi hơn năm mươi, nhưng dáng người cực kỳ tinh anh nhẹ nhàng. Bà đeo cây kiếm di vật xưa kia của vua Trưng, khoan thai lên đài.
Bà vừa lên được đến bậc thứ ba, thì vèo một cái. Bóng vàng thấp thoáng, đã có một người đáp xuống ghế chủ vị. Mọi người kinh ngạc nhìn lên, đó là một ni cô, da dăn deo, dường như tuổi đã già.
Sư thái Tịnh-Tuệ khựng lại, nhìn lên. Bất giác bà mỉm cười chắp tay:
- A-di Đà-phật. Thì ra sư thúc. Lâu nay sư thúc qui ẩn nơi nào? Không biết tâm có thường an lạc không?
Thiệu-Thái nhận ra mụ ni cô đó là Hoàng Liên, một trong các trưởng lão Hồng-thiết giáo. Trong buổi họp ở nhà Hoàng Văn, Thiệu-Thái, Mỹ-Linh đã biết mặt mụ.
Nghe Tịnh-Tuệ nói, tất cả quảng trường cùng ngước mắt nhìn lên. Đa số không ai biết cái tên Hoàng Liên của mụ. Có người nhận ra mụ trước đây có pháp danh Duyên-Định. Một số người lớn tuổi chau mày tự hỏi:
- Phải chăng mụ này có tên Duyên-Định nổi danh tàn ác kinh khiếp ba mươi năm về trước không? Hơn ba mươi năm trước, Duyên-Định nổi danh một tay kiếm khách bậc nhất Đại-Việt. Sư phụ của mụ đã nghĩ đến truyền chức chưởng môn cho mụ. Sau khám phá ra vụ mụ gian dâm với chính học trò mình đến có thai. Mụ giết tên học trò đó, rồi phá thai, mong che dấu vết tích. Truyện vỡ lở. Mụ bị đuổi ra khỏi môn phái.
Xấu hổ, nhục nhã mụ tức giận mụ bỏ đi. Việc mụ nhập Hồng-thiết giáo, được Nhật-Hồ lão nhân cho làm trưởng lão, chưa ai biết. Mụ cải tên thành Hoàng Liên, mang danh hiệu trưởng lão Hồng-thiết, hằng đêm mụ đi bắt bọn con trai tuổi mười chín hai mươi về hành lạc. Tên nào sợ quá không hành lạc được, mụ giết chết, lấy máu uống. Mụ còn cắt quả cật, nấu với thuốc, ăn vào với hy vọng trẻ mãi. Tên nào hành lạc được với mụ. Mụ giữ lại, cho đến khi yếu quá, mụ lại giết, lấy cật nấu thuốc. Mụ qua lại giang hồ, gây ra không biết bao nhiêu vụ án kinh thiên động địa. Bấy giờ các đại tôn sư họp nhau, bàn cách trừ mụ. Từ đấy mụ biệt tích. Không ngờ bây giờ mụ lại xuất hiện.
Rất ít người biết Duyên-Định với Hoàng Liên là một.
Mụ cười the thé:
- Tịnh-Tuệ! Người hãy xuống đài ngay. Ở đây ta mới xứng đáng ngôi tôn sư bản phái. Ta mới xứng đáng ngồi vào chỗ này.
Sư thái Tịnh-Tuệ khoan thai đáp:
- Sư thúc. Trước đây sư thúc phạm môn qui, đã bị trục xuất khỏi môn phái rồi. Sư thúc không thể đại diện bản phái nữa. Xin sư thúc rời khỏi chỗ này cho.
Hoàng Liên cười nhạt, hỏi lớn:
- Lão ni nhận được thư mời của người gửi. Trong thư người đính kèm chương trình. Chương trình ghi rõ: Giờ Mão, các đại tôn sư môn phái, cùng bang hội lên hành lễ. Đại tôn sư là gì? Tức người có vai vế cao nhất trong phái. Đại tôn sư đâu phải chưởng môn nhân?
Dưới đài Mỹ-Linh nói với Tự-Mai:
- Mụ Hoàng Liên làm trưởng lão Hồng-thiết giáo. Mụ tưởng không ai biết. Nhưng thực ra sư thái Tịnh-Tuệ đã được thái cô báo cho biết. Chắc chắn người sẽ nhịn mụ, hầu cho Hồng-thiết giáo đắc chí, choảng mau với bọn Tống.
Đến đó, có tiếng trống rập rình, tiếng chiêng rung động trời đất, không còn ai nghe thấy gì nữa. Rồi hàng ngàn tiếng hô nhịp nhàng:

Giáo chủ Hồng-thiết,
Danh trấn giang hồ,
Uy trùm hoàn vũ,
Đức sánh kim ô.
Nào Phật, nào thánh,
Nào tiên, nào trời,
Nào vua, nào chúa,
Đều phải vâng lời.


Phía trước đội mười hai người lực lưỡng. Họ đi làm ba hàng. Hàng đầu một người cầm cây đại kỳ mầu đỏ, trên thêu hình con trâu xanh. Đó là kỳ hiệu của Hồng-thiết giáo. Hàng nhì, một tráng sĩ mang kỳ hiệu của Nhật-Hồ lão nhân. Phía sau hai hàng, mỗi hàng năm người, mang mười kỳ hiệu của mười trưởng lão trong hội đồng giáo vụ trung ương, cai quản giáo vụ mười khu.
Cách một khoảng ba trượng, tới đội chiêng trống gồm hai mươi hàng. Mỗi hàng năm trống, năm chiêng. Chiêng trống thúc nhịp nhàng.
Nhật-Hồ lão nhân ngồi trên cái kiệu do hai mươi bốn giáo chúng khiêng. Trên kiệu, để cái tháp hình tám cạnh cao hơn năm trượng. Đỉnh tháp, đặt cái ngai vàng. Hai bên ngai, có cặp rồng chầu. Lão ngồi trên cái ngai đó. Dưới kiệu, ba người cỡi ngựa đi theo, chính thị Nguyễn Chí, Phạm Trạch, Lê Đức.
Đoàn thứ ba gồm hai mươi lăm hàng. Mỗi hàng bốn cái xe. Mỗi xe do hai giáo chúng đẩy. Không biết trong xe chứa những gì. Người ngoài chỉ thấy phía trước xe chìa ra một ống đồng dài. Dưới ánh nắng ban mai chiếu vào các ống đồng sáng rực, làm mọi người chóa mắt.
Đoàn thứ tư, một trăm kị mã, giáp sắt. Đội kị mã võ trang rất hùng hậu. Giáp sắt che kín người. Đầu đội mũ đồng. Đỉnh mũ có hình con rắn ngóc đầu, thè lưỡi. Mỗi giáp sĩ đeo bên hông một cây đoản kiếm, dọc hông ngựa một cây trường thương. Bên trái, có túi đựng trăm mũi tên, một cây cung, dây bằng gân trâu. Bên phải, một túi đựng mười cái lao. Ngay vai ngựa, còn treo một túi đựng thực phẩm, một bình nước.
Võ lâm nhìn đội giáp sĩ, kinh hãi:
- Đội giáp sĩ này, thực không thua đội giáp sĩ của hoàng đế.
Tiếp theo, mười đoàn giáo chúng của mười giáo khu. Thiệu-Thái, Bảo-Hoà đi trong đội giáo khu Bắc-biên. Trên khán đài, Thanh-Mai đã nhận ra Bảo-Hoà với Thiệu-Thái:
- Kìa, Bảo-Hòa với Thiệu-Thái đi trong đám giáo chúng của Hồng-thiết giáo kìa.
Người ta tự hỏi:
- Nghe đồn Nhật-Hồ lão nhân có mười đệ tử. Không biết họ là ai, ở đâu? Mà chỉ có ba người theo sau? Không biết ba người đó tên gì?
Có tiếng loa xướng:
- Võ lâm Đại-việt, mau quỳ gối bái kiến giáo chủ.
Thấy Hồng-thiết giáo làm trò hề, quảng trường cùng cười ồ lên, với hàng vạn tiếng chửi rủa thô lỗ tục tằn. Dĩ nhiên không ai quỳ gối đón cả.
Hồng-thiết giáo, do Nhật-Hồ lão nhân lưu lạc sang Tây-vực mang về. Nguyên Nhật-Hồ lão nhân, xuất thân trong một gia đình quyền quý dưới triều Ngô. Ông sinh năm Đinh-Hợi nhằm niên hiệu Dương Diên-Nghệ tứ ba (927). Bên Trung-quốc thuộc niên hiệu Thiên-Thành thứ nhì đời vua Đường Minh-tông. Năm mười lăm tuổi, bỏ nhà sang Trung-nguyên, rồi lưu lạc đến vùng Tây-vực, được giáo chủ Hồng-thiết giáo đời thứ nhì Xích Trà-Luyện thu làm đệ tử. Năm hai mươi tuổi gặp Lưu Trí-Viễn cùng nhau lập ra bang Nhật-Hồ ở bộ lạc Sa-đà. Viễn xưng Đông-Nhật lão nhân. Vì giáo chúng toàn người Hoa, nên họ theo Đông-Nhật lão nhân hết. Nhật-Hồ truyền ngôi bang chủ cho Đông-Nhật, rồi trở về đất Việt, truyền giáo. Đông-Nhật lão nhân cùng đệ tử lập ra nhà Hán. (Hán thời Ngũ-quý xin đừng lầm với nhà Hán do Lưu Bang lập ra trước Tây-lịch hơn một thế kỷ).
Tại Đại-việt, năm Giáp-thân (944). Sau khi vua Ngô băng hà, giao cho em vợ là Dương Tam-Kha làm phụ chính, giúp thái tử Ngô Xương-Ngập. Dương Tam-Kha cướp ngôi vua của cháu, giáng Xương-Ngập xuống làm Bình-vương. Ngô Xương-Ngập chạy trốn. Năm sau, Dương Tam-Kha sai em Ngô Xương-Ngập là Ngô Xương-Văn đem quân đánh giặc. Xương-Văn quay trở về bắt Dương Tam-Kha, truất phế làm Trương-Dương công, rồi lên làm vua, xưng Nam-Tấn vương. Năm Tân-hợi (951), Nam-Tấn vương cho người đón anh về cùng trông coi việc nước. Ngô Xương-Ngập xưng Thiên-Sách vương.
Nhật-Hồ lão nhân về đến Đại-việt, đúng lúc này. Bấy giờ ông đã hai mươi bốn tuổi. Ông nhận thấy dân chúng quá đói khổ, trong khi vua, quan, nhà giầu lại xa xỉ. Ông đem Hồng-thiết giáo truyền bá. Hồng-thiết giáo chủ trương mọi người đều bình đẳng. Của cải trên thế gian là của chung. Bỏ trời, chối Phật, bỏ cả thờ thần, thánh, anh hùng dân tộc, chỉ thờ hai vị sáng tổ giáo Mã Mặc và Lệ Anh.
Giữa lúc thời thể nhiễu nhương, luân thường, kỷ cương tan vỡ, dân chúng hùa theo Hồng-thiết giáo. Tất cả những người nhập giáo, đều phải tuyên thệ tuyệt đối trung thành với giáo chủ. Nhật-Hồ tổ chức Hồng-thiết Đại-Việt giống hệt Hồng-thiết Tây-vực. Trên hết có giáo chủ, uy quyền tuyệt đối. Dưới giáo chủ hội đồng giáo vụ trung ương, có mười trưởng lão. Mười trưởng lão đều do Nhật-Hồ đào tạo. Trong nước chia làm mười vùng, mỗi trưởng lão phụ trách một vùng. Mỗi quận, huyện, đều có chức giáo vụ trưởng, với hội đồng gồm nhiều hội viên. Các hội viên này làm giáo vụ trưởng xã. Trong xã có mười xã-giáo. Còn giáo chúng, chia thành từng đơn vị hai mươi người một thành một giáo đội.
Khi anh hùng khắp nơi nổi lên, ly khai với chính quyền nhà vua. Có tất cả mười hai sứ quân. Mỗi người hùng cứ một phương. Đệ tử Hồng-thiết giáo chiếm bốn trong mười hai sứ quân. Đó là Kiều Công-Hãn, Kiều Thuận, Nguyễn Khoan, Ngô Nhật-Khánh. Lúc đầu bốn sứ quân này cực mạnh. Nếu hợp nhau lại, giang sơn đã thuộc Hồng-thiết giáo. Nhưng bốn sứ quân nghe lời Nhật-Hồ lão nhân, đốt chùa, đền, kể cả nơi thờ anh hùng dân tộc. Vì vậy dân chúng từ từ rời bỏ. Sau tất cả đều bị vua Đinh dẹp. Mười trưởng lão, cùng Nhật-Hồ ẩn thân, cải danh, tìm cách khống chế các gia, các phái cũng như vua quan, rồi thình lình nổi lên chiếm lấy giang sơn.
Vì vậy, Hồng-thiết giáo bị các đại môn phái cũng như triều đình truy lùng tận diệt. Cho đến năm 1009, vua Lý Thái-tổ lên ngôi, ban chiếu chỉ đại xá thiên hạ. Giáo chúng Hồng-thiết trong tù được phóng thích. Những giáo chúng ẩn thân dần dần xuất hiện.
Khi nhận trách nhiệm tổ chức giỗ Bắc-bình vương, sư thái Tịnh-Tuệ, coi Hồng-thiết như một võ phái, gửi thư mời. Không ngờ, trước ngày giỗ mấy hôm, Nhật-Hồ lão nhân được Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cứu ra khỏi tù. Lão tìm lại đệ tử, ân xá tội giam cầm lão, rồi lão kéo giáo chúng về hội, với ý đồ uy hiếp anh hùng, lên ngôi hoàng đế.
Nhật-Hồ lão nhân từ trên kiệu đáp xuống nhẹ nhàng trước khán đài phái Tản-viên. Lão cất tiếng hỏi:
- Đây thuộc phái nào?
Phạm Trạch khúm núm đáp:
- Tâu giáo chủ họ thuộc phái Tản-viên. Chưởng môn phái này hiện nay tên Đặng Đại-Khê.
Trái với khí thế của giáo chúng như muốn nuốt hết thiên hạ. Nhật-Hồ đưa mắt nhìn Đặng Đại-Khê, lão hỏi rất lịch sự:
- Đặng tiên sinh. Lão phu vắng mặt trên hai mươi năm. Hôm nay tái xuất giang hồ, nghe nói Đại-Việt có ngũ long. Tiên sinh là một. Hân hạnh cho lão phu.
Nói rồi chắp tay hành lễ.
Đặng Đại-Khê đứng dậy:
- Hai mươi năm trước, nghe tin giáo chúng nói giáo chủ qui tiên. Khắp giang hồ võ lâm đều tưởng như vậy. Thì ra giáo chủ quy ẩn. Người ta sinh ra, sống được bẩy mươi tuổi đã là quý lắm rồi. Thế mà giáo chủ sống đến trăm tuổi, chẳng do đại phúc ư?
Ông thấy Nguyễn Chí đứng sau lão càng kinh ngạc:
- Đại-sơn trưởng lão! Tại hạ nghe trưởng lão qui tiên đã ba mươi năm rồi. Nào ngờ trưởng lão vẫn còn tại thế.
So về tuổi tác, năm nay Đặng-đại-Khê mới trên năm mươi. Trong khi đó Nguyễn Chí tuổi đã trên bẩy mươi. Khi y nổi tiếng trên giang hồ, ông mới ra đời. Y sống đồng thời với sư phụ của Đại-Khê.
Nghe Đặng Đại-Khê nói, Nguyễn Chí thở dài:
- Lão trăm chết, mới thoát khỏi nguy nan...Cũng nhờ sư phụ truyền cho thần công.
Đến đó hai bên ngừng đối đáp, vì có nhiều tiếng la ó vang dậy. Trên khán đài, Hoàng Liên quát lên:
- Khắp anh hùng thiên hạ nghe đây. Kể từ khi Hoa-Minh thần ni kết hợp anh hùng, di thần thời vua Bà, lập ra phái Mê-linh, trải đã gần trăm năm. Thời Lĩnh-nam có các phái Cửu-chân, Long-biên, Nhật-nam, Quế-lâm, Hoa-lư, Tản-viên, Khúc-giang, Tượng-quận, Thiên-sơn. Khi vua Bà tuẫn quồc, anh hùng các nơi ly tán, âm thầm thu dụng đệ tử, lưu truyền võ học Lĩnh-nam. Dần dà, phái Tản-viên, Sài-sơn tái lập được. Sau hai phái Khúc-giang, Quế-lâm kết hợp lập ra phái Trường-sa, khởi nghĩa ở Nam-hải, lập ra nước Mân-Việt. Phái Thiên-sơn, Tượng-quận kết hợp lập ra phái Lâm-Ấp khởi binh, lập ra nước Đại-lý. Tại Đại-Việt, con cháu di thần phái Long-biên, Cửu-chân, Hoa-lư, Nhật-nam theo lời kêu gọi của Hoa-Minh thần ni lập ra phái Mê-linh, với lời ước hẹn rằng: Người nào có võ công cao nhất, sẽ được tôn làm quyền chưởng môn. Dưới chưởng môn có bốn vị chưởng quản Đông, Tây, Nam, Bắc. Đông qui tụ học thuật Long-biên. Tây qui tụ học thuật Hoa-lư. Nam qui tụ học thuật Nhật-nam. Bắc qui tụ học thuật Cửu-chân. Có đúng thế không?
Cử tọa đều hô lớn:
- Đúng thế.
Hoàng Liên tiếp:
- Tất cả anh hùng hiện diện đều quyết định lấy Long-biên kiếm pháp làm võ học trấn môn. Tất cả đều cùng thề rằng : « Khi suy cử quyền chưởng môn, lấy kiếm làm mô thức định võ công cao thấp. Ai có kiếm thuật cao nhất, đương nhiên là quyền chưởng môn. Sau này, ai tìm được kiếm phổ Long-biên kiếm pháp, người đó trở thành chưởng môn vĩnh viễn. Bấy giờ chưởng môn muốn truyền cho ai thì truyền ».
Mụ ngừng lại một lúc rồi tiếp:
- Lúc Hoa-Minh thần ni sắp viên tịch, truyền cho chín vị có võ công cao nhất cùng đấu. Sư phụ của lão ni kiếm thuật đệ nhất, được truyền chức chưởng môn. Khi còn sinh tiền, người thu dụng ba đệ tử. Đại sư tỷ Đàm-Nhẫn võ công cực cao, sau khi cùng Vạn-Hạnh thiền sư đánh đuổi quân Tống ở Chi-lăng, rồi vân du sơn thủy tuyệt tích giang hồ. Sư phu lão ni viên tịch thình lình, chưa kịp tổ chức luận kiếm, chỉ định người kế tục, thì sư tỷ Duyên-Tịnh tự kế vị, bỏ luật lệ môn hộ. Giang hồ đồn rằng Duyên-Tịnh ám hại sư phụ.
Minh-Không cùng các cao tăng phái Tiêu-sơn nghe đến đây đều chắp tay, bật lên tiếng kêu:
- A-di-đà Phật.
Thấy Hoàng Liên đặt điều bêu xấu sư phụ, nhưng sư thái Tịnh-Tuệ nổi tiếng thần ni đương thời, bà thản nhiên hỏi:
- Sư thúc ơi! Đương thời sư thúc phạm môn quy, lại phạm giới dâm, giới sát, bị thái sư phụ đuổi ra khỏi môn hộ. Sư thúc bỏ pháp danh bản phái lên Hoàng-liên-sơn lập bang Hoàng-liên. Bang Hoàng-liên chủ trương ra sao, anh hùng thiên hạ đều biết. Sư thúc gia nhập Hồng-thiết giáo cải danh thành Hoàng-Liên, được phong trưởng lão thứ mười. Hôm nay, sư thúc không thể, và không được nhân danh bất cứ cái gì liên quan đến phái Mê-linh nữa. Sư thúc vu cho sư phụ ám hại thái sư phụ, thì phải có chứng cớ chứ?
Từ mấy chục năm nay, võ lâm chỉ biết trưởng lão Hoàng Liên là một người cực kỳ ác độc, dâm đãng. Mụ đưa ra thuyết Dụng dương tư âm. Trường sinh bất lão, chuyên bắt thiếu niên hành lạc, cùng cắt hai quả cật, nấu thuốc ăn. Còn Duyên-Hoà sư thái, võ công cực cao thâm của phái Mê-linh. Bây giờ nghe Tịnh-Tuệ nói, người ta mới biết hai người là một. Quảng trường ồn lên bàn tán.
Hoàng Liên cười lớn:
- Người hỏi chứng cớ về việc Duyên-Tịnh ám hại sư phụ ư? Dĩ nhiên ta có chứng cớ.
Mụ chỉ vào sư thái Tịnh-Huyền:
- Chứng cớ đây chứ đâu. Y thị được phong công chúa Hồng-Châu, em ruột Lý Công-Uẩn, vợ Thân Thiệu-Anh.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.01.2005 08:45:00 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 12.01.2005 18:46:37 (permalink)
    Hồi thứ năm mươi bẩy


    Giòng giống Việt-Thường


    Võ lâm Đại-Việt đều biết rõ ràng rằng trước đây tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ triều Lê là Lý Công-Uẩn, đệ tử của Bồ-tát Vạn-Hạnh, con nuôi của Bồ-tát Lý Khánh-Vân cùng thủ lĩnh 207 khê động Bắc-biên Thân Thiệu-Anh kết huynh đệ.
    Khi vua Lê Đại-Hành băng, các hoàng tử chém giết lẫn nhau. Người chết, kẻ bại tẩu trốn ra ngoại quốc. Có người mai danh ẩn tích. Lê Long-Đĩnh lên làm vua, tàn ác cùng cực. Cuối cùng khi băng hà, con còn nhỏ dại, triều đình tìm một hoàng tử con vua Đại-Hành lên thay thế, nhưng không thấy. Vì vậy họ định tôn Lý Công-Uẩn lên làm vua. Bấy giờ võ quan trấn ở ngoài, cầm đại quân trong tay, muốn đem quân về triều tranh dành, mượn cớ Khuông phò chính thống, phù Lê. Trước tình thế có thể xẩy ra nội chiến. Trong triều, Đào Cam-Mộc giữ chức tiết độ sứ, tổng trấn Trường-ỵên và kinh thành Hoa-lư vội thư cho Thân Thiệu-Anh. Thân Thiệu-Anh tập trung quân Bắc-biên, gửi thư đi các trấn doạ rằng, kẻ nào đem quân về kinh đô Hoa-lư, ông sẽ tiêu diệt.
    Đứng trước hoàn cảnh đó, Vạn-Hạnh thiền sư, viết thư triệu tập các đại tôn sư võ học cùng các chưởng môn nhân, bang trưởng, động chủ về họp, để tìm lấy quyết định chung. Bấy giờ phái Sài-sơn, Đông-a thân triều Lê, muốn lập ấu quân, con Lê Long-Đĩnh lên làm vua. Phái Mê-linh, Tản-viên muốn lập Lý Công-Uẩn. Phái Tiêu-sơn coi như trung lập, vì Vạn-Hạnh thiền sư là sư phụ của Lê Hoàn cũng như Lý Công-Uẩn. Ngài đưa ra một đề nghị tạm để Lý Công-Uẩn lên ngôi vua. Nếu trong vòng mười năm, không tìm thấy hoàng tử con vua Lê, mà họ Lý làm cho nước giầu dân mạnh, sẽ để nhà Lý cai trị dân luôn.
    Sau khi lên ngôi vua, Lý Công-Uẩn lấy niên hiệu là Thuận-Thiên, gả con gái đầu lòng, công chúa An-Quốc cho Đào Cam-Mộc, rồi tổ chức nền cai trị đặt cơ sở trên nhân trị của Nho-gia, từ bi hỉ xả của Phật-gia. Vì vậy, sau mười năm, nước Đại-việt đang từ một quận huyện, do sứ quân cai trị, trở thành nước giầu có. Dân chúng no ấm, trong lịch sử chỉ thua có đời vua Hùng. Anh hùng không ai nhắc đến triều Lê nữa. Cho đến nay Thuận-Thiên hoàng đế làm vua đã mười tám năm.
    Hôm nay, võ lâm anh hùng thấy Hoàng Liên đưng lên tranh dành chức chưởng môn của sư thái Tịnh-Tuệ, tố cáo sư thái Duyên-Tịnh ám hại sư phụ , mà nguồn gốc ám chỉ thuộc triều đình. Quần hùng kinh ngạc vô cùng.
    Hoàng Liên chỉ vào sư thái Tịnh-Huyền:
    - Nguyên do Duyên-Tịnh ám toán sư phụ là người này. Người này tên Lý Mỹ-Duyên tước phong công chúa Hồng-Châu, em gái Lý Công-Uẩn, đổi tên, nhập phái Mê-Linh, được Duyên-Tịnh thu làm đệ tử. Người này dùng tiền bạc mua chuộc Duyên-Tịnh, xui Duyên-Tịnh ám toán sư phụ, chỉ vì, sư phụ vẫn nuôi ý định tái lập Lê triều.
    Công-chúa Hồng-Châu được gả cho Thân Thiệu-Anh, anh hùng thiên hạ đều biết. Sau con của Thiệu-Anh với công chúa Hồng-Châu là Thừa-Quý lại được gả công chúa Lĩnh-nam Bảo-hòa, được tôn làm vua Bà vùng Bắc-biên. Ai cũng tưởng Tịnh-Huyền ni sư đạo cao đức trọng, đi tu từ nhỏi, không ngờ bà lại là công chúa Hồng-Châu. Vậy ai kết hôn với Thân Thiệu-Anh, sinh ra Thân Thừa-Quý? Người người đều kinh ngạc, đưa mắt nhìn sư thái Tịnh-Huyền.
    Tịnh-Huyền đứng lên hướng vào các anh hùng nói lớn:
    - Thưa các vị. Bần ni tục danh Lý Mỹ-Duyên, trước đây được phong công chúa. Bần ni đã cùng huynh trưởng đánh Đông, dẹp Bắc. Bần ni thấy cuộc đời này đều hư không, vô thường, nên tâm nguyện theo cửa Bồ-đề tìm lẽ giải thoát. Dịp may, bần ni gặp sư phụ, được lão nhân gia cho thọ giới. Nhân, huynh trưởng gả bần ni cho vị anh hùng Bắc-biên Thân Thiệu-Anh. Bần ni nghĩ, trái mệnh huynh trưởng, mất chữ hiếu. Tuân mệnh thì lại lăn mình vào thế tục. Vì vậy trên đường vu qui, bần ni được một người em kết nghiã thuận thay thế làm dâu họ Thân. Do đó bần ni mới được tiêu dao cửa Bồ-Đề bấy lâu.
    Nghe Tịnh-Huyền nói, anh hùng thiên hạ trấn động. Người thì cho công chúa Hồng-Châu hạnh phúc như thế mà bỏ đi tu thực uổng. Người cho rằng công chúa có hạnh Bồ-tát, mới giác ngộ tìm nguồn vui trong cửa Bồ-đề.
    Tịnh-Huyền tiếp:
    - Việc bần ni theo sư phụ, qui nhập phái Mê-linh, không có gì đáng cấm kị, luật võ lâm cũng không cấm. Tại sao vị tiền bối Hoàng Liên lại nêu ra như một tội?
    Hoàng Liên cười nhạt:
    - Ta không nói mi nhập bản phái là một tội. Mà ta muốn nói, Lý Công-Uẩn cho mi nhập bản phái làm gian tế. Mi cùng với Duyên-Tịnh bỏ thuốc độc ám hại sư phụ ta. Rồi Duyên-Tịnh chiếm quyền chưởng môn. Nhưng việc làm của y thị với mi trời không dung, nên chỉ được mấy năm, y thị chết. Đáng lý ra Duyên-Tịnh chết, Tịnh-Tuệ phải tổ chức đấu kiếm. Ai có kiếm thuật cao nhất lên kế vị. Thế nhưng Tịnh-Tuệ bỏ luật lệ của tổ tiên, tự tiếm quyền chưởng môn. Hôm nay, ta trở về đây, để thanh lý môn hộ.
    Sư thái Tịnh-Tuệ hướng vào anh hùng các nơi:
    - Thưa các vị đại tôn sư. Thưa các vị chưởng môn nhân. Vị tiền bối Hoàng Liên này đã bỏ pháp danh của sư môn, từng bẻ kiếm thề không trở lại môn phái nữa. Từng thiết lập bang Hoàng-Liên. Thế mà hôm nay còn trở về đây, gây rối trong ngày giỗ anh hùng thời Lĩnh-Nam. Đã vậy còn bịa truyện, bôi xấu tiên sư. Xin các vị cho biết Hoàng Liên tiền bối có còn tư cách đệ tử phái Mê-linh không?
    Từ phía phái Tiêu-sơn, Nguyên-Hạnh đứng lên chắp tay hướng vào quần hùng:
    - Bần tăng Nguyên-Hạnh, trị sự trưởng chùa Sơn-tĩnh.
    Quần hùng nghe đến tên Nguyên-Hạnh, đều ồ lên. Nguyên-Hạnh xuất thân phái Tiêu-sơn, đệ tử của Bố-đại hoà thượng, đương thời truyền khẩu ngài là Phật Di-Lặc giáng sinh. Từ khi vào trị sự chùa Sơn-tĩnh, đã xiển dương đạo pháp, võ học, tiếng tăm vang lừng tới Trung-nguyên. Nguyên-Hạnh lại lập ra lực lượng thiếu niên Hồng-hương, có đến mấy vạn người, giúp đỡ xã ấp phòng trộm cướp. Trên từ triều đình, đến quan địa phương đều kính phục.
    Tôn Đản chửi thề:
    - Quần hùng nhìn vào bề ngoài Nguyên-
    Hạnh tưởng y đạo cao, đức trọng, trong lớp áo cà sa, nên y phân giải, ắt nghe theo. Chúng ta phải lột mặt nạ y cho rồi.
    Thanh-Mai nói sẽ vào tai sư đệ:
    - Không nên. Cứ để xem y làm gì đã. Đỗ phu nhân hiện có mặt tại đây. Bà có cách trị hắn.
    Nguyên-Hạnh đợi cho anh hùng bớt ồn ào. Y tiếp:
    - Thưa các vị anh hùng. Chúng ta tụ hội nơi đây với mục đích suy tôn anh hùng thời Lĩnh-Nam. Anh hùng đều là những người đi trước chúng ta. Vì vậy chúng ta nên tôn kính các bậc tiền bối. Chúng ta không thể vì danh vọng, cũng không thể vì chức vị bề ngoài mà thiếu lễ nghi với bậc tiền bối. Như tại bản tự, nếu dùng chức vị trị sự trưởng, ắt bần tăng là người được lên đài dâng hương. Nhưng trong bản tự còn các vị đại sư mang chữ Sùng, cao hơn tiểu tăng một bậc. Thành ra tiểu tăng không thể lên đài.
    Nguyên-Hạnh chỉ vào phái Mê-linh:
    - Xét về địa vị, sư thái Tịnh-Tuệ đương nhiệm chưởng môn, người uy quyền nhất. Nhưng xét về địa vị tôn kính, sư thái Hoàng Liên vai vế cao hơn, xứng đáng lên đài dâng hương.
    Quần hùng thấy Nguyên-Hạnh lý luận mạch lạc, y lại đưa ra đường lối hòa giải: Tịnh-Tuệ vẫn là chưởng môn. Có nghĩa y bác bỏ lời vu cáo của Hoàng Liên rằng sư thái Duyên-Tịnh ám toán sư phụ. Y công nhận Hoàng Liên lên địa vị tôn sư của phái Mê-linh, có nghĩa mụ vẫn còn ngôi cao nhân phái này.
    Đặng Đại-Khê đứng lên đặt vấn đề:
    - Từ hơn hai chục năm nay, vị tiền bối Hoàng Liên này đã làm nhiều điều ô danh võ lâm như gian dâm với nam đệ tử. Lại đưa ra lối luyện công ác độc, bắt thiếu niên giao hoan. Giao hoan xong, cắt lấy quả cật, hấp thuốc mà ăn. Hành động như vậy, có còn xứng đáng con người nữa không, chứ đừng nói cao nhân.
    Nguyên-Hạnh chắp tay xá Đại-Khê:
    - Đặng chưởng môn nói vậy thực phải. Sư thái Hoàng Liên, Tịnh-Tuệ cũng như bần tăng đều là đệ tử nhà Phật. Việc sư thái Hoàng-Liên tác ác, không có chứng cớ rõ ràng, chỉ nghe nói. Nghe nói, sao đúng cho được? Giả như sư thái Hoàng Liên có làm những việc đó chăng nữa, nay người sám hối, cũng tha thứ được. Kinh Phật nói rằng : « Buông dao mổ heo, tức thị thành Phật ». Võ đạo phái Mê-linh luôn đề cao việc hối lỗi. Vì vậy sư thái Hoàng Liên có mặt hôm nay, cũng đủ chứng tỏ người hối lỗi rồi.
    Bề ngoài ai cũng tưởng Nguyên-Hạnh công tâm đứng ra giải quyết mối tranh chấp của phái Mê-linh. Đâu có ai ngờ tới, y đưa ra những lời biện luận trên bênh vực cho Hoàng Liên, để đặt thành tiền lệ, nếu lỡ sau này ai khám phá ra vụ y đã có vợ, có con, cũng như y giam vợ, gian dâm với thiếu nữ lương gia, bấy giờ y có thể phủi tay tự biện hộ rằng phái Mê-Linh đã có trường hợp Hoàng Liên. Như vậy y vẫn còn chỗ đứng trong võ lâm.
    Nguyễn Chí đứng lên, y hướng vào quần hùng nói lớn:
    - Tại hạ, đệ ngũ trưởng lão, trong hội đồng giáo vụ trung ương Hồng-thiết giáo, xin có ý kiến.
    Cách đây năm mươi năm, Nguyễn Chí được Nhật-Hồ lão nhân ủy cho trông coi việc phát triển Hồng-thiết giáo từ vùng Thanh-Hóa vào Nam, bao gồm cả Chiêm-thành, Lão-qua. Y kiến tạo thế lực Hồng-thiết giáo cực kỳ mạnh. Bất cứ quan nha, võ lâm, ai tỏ ý chống đối, y giết chết liền. Trong suốt mấy năm, giáo chúng của y giết người có hàng mấy vạn. Cho nên giang hồ nghe đến tên y đều kinh hồn táng đởm.
    Hơn hai mươi lăm năm trước, Lê Ba tức Dương Ẩn thấy thế lực của y lên cao, sợ Nhật-Hồ lão nhân truyền ngôi giáo chủ cho y. Lê Ba vu cho Nguyễn Chí tư thông với Hồng-thiết giáo Tây-dương, lật sư phụ. Nhật-Hồ lão nhân tin thực, đem giam Nguyễn Chí vào hầm. Nhưng vì thế lực y lớn quá, lão dối rằng y chết rồi. Sau lão hối hận vào tù thẩm vấn để biết hư thực, rồi thả y ra, lão bị Nhất-Trụ, Lê Ba, Hoàng Văn mưu với nhau, xông thuốc mê giam lão. Bây giờ quần hùng nghe y xưng tên Nguyễn Chí, lập tức nổi lên những tiếng bàn tán.
    Đợi quần hùng bàn tán vãn, y tiếp:
    - Các vị kết tội sư thái Hoàng Liên về việc giao hoan với thiếu niên, rồi giết đi, lấy cật hầm thuốc để luyện công. Tỷ như sư thái Hoàng Liên có làm truyện đó chăng nữa, theo nhà Phật, tội cũng không nặng hơn các vị. Các vị giết lợn, giết gà, xào, nấu, kho mà ăn, sư thái Hoàng-Liên nấu cật thiếu niên đâu có khác? Theo Phật, dù con gà, con lợn, với con người cũng như nhau. Ở đây, nếu vị nào chưa từng ăn cá, ăn thịt, mới có quyền kết tội sư thái Hoàng Liên.
    Hoàng Liên không thèm nhìn đến sư thái Tịnh-Tuệ. Mụ khoan thái bước đến ghế chủ vị ngồi xuống. Sư thái Tịnh-Tuệ thản nhiên về chỗ dành cho chưởng môn ngồi.
    Người xướng ngôn tiếp:
    - Kính mời đại tôn sư bang Hồng-hà lên đài.
    Một lão già, râu tóc bạc như cước, da mặt tươi hồng. Lão mặc bộ quần áo mầu nâu sậm, lưng đeo một cái roi da. Lão từ chỗ ngồi của bang Hồng-hà khoan thai lên đài. Tất cả quảng trường đều trầm trồ khen ngợi:
    - Đẹp thực. Đẹp như tiên.
    Mỹ-Linh hỏi Thanh-Mai:
    - Lão này là ai vậy?
    - Lão là Sử Canh, chú ruột Sử Anh. Lão khám phá ra phép quy liễm âm dương, luyện công dưới nước, khiến cho người ta trẻ mãi. Nghe đồn lão đã chín mươi tuổi, mà trông như người sáu mươi vậy.
    - Kính mời đại tôn sư phái Tản-viên lên đài.
    Đặng Đại-Khê khoan thai từ khán đài dành riêng cho phái Tản-viên, tiến lên lễ đài. Ông hướng vào quần hùng chắp tay hành lễ. Sau khi vái ba vái, ông ngồi vào ghế dành cho mình. Thấp thoáng một cái, trên ghế dành cho ông đã có một người ngồi đó. Người ấy phất tay tấn công ông một chưởng. Ông vung tay đỡ. Bình một tiếng, lễ đài rung động. Người đó lộn đi một vòng đứng dậy. Còn ông, ông phải thoái lui hai bước.
    Quần hùng la hoảng. Vì Đại-Khê là một trong Đại-Việt ngũ long. Công lực cao thâm không biết đâu mà lường. Thế mà dường như bị người kia đánh bại.
    Đại-Khê nhìn lại, người chiết chiêu với mình không ai khác hơn Đỗ Xích-Thập, người sư thúc hữu tài, vô hạnh của ông. Ông bình tĩnh chắp tay:
    - Thì ra Đỗ sư thúc. Lâu nay sư thúc vẫn bình an chứ?
    Đỗ Xích-Thập cười ha hả:
    - Đặng Đại-Khê, người nên xuống đài đi thôi. Ta đã có mặt hôm nay, người đừng hy vọng gì xưng hùng xưng bá nữa. Bàn về địa vị lãnh đạo, người là chưởng môn, cao hơn hết. Bàn về vai vế, ta mới là người đáng ngồi vào chỗ này.
    Đại-Khê hỏi:
    - Sư thúc, trước đây người phạm môn quy, bị đuổi khỏi môn hộ. Nay người lại muốn trở về để ngồi vào chỗ cao quý của bản phái ư?
    - Phái Mê-linh đã chịu cho sư thái Hoàng Liên ngồi vào ghế đệ nhất tôn sư, tại sao phái Tản-viên không cho ta vào địa vị này? Vả lại khi xưa tổ Sơn-Tinh chế ra ba mươi sáu chiêu Phục-ngưu thần chưởng dạy cho đệ tử. Phàm ai lên ngôi chưởng môn mới được truyền hết. Bản phái truyền đến vua Trưng làm chưởng môn. Khi ngài tuẫn quốc rồi, đệ tử phiêu bạt khắp nơi. Cho đến cách đây hai trăm năm, năm đại tôn sư họp lại, tái lập môn phái, định rằng: « Hễ ai tìm được đủ ba mươi sáu chiêu Phục-ngưu, sẽ được giữ chức chưởng môn. Còn không ai có võ công cao nhất tạm quyền chưởng môn». Ta đến đây không tranh chức chưởng môn của mi, mà chỉ ngồi vào ghế tôn sư mà thôi.
    Đặng Đại-Khê là đại tôn sư, liệt vào hàng Ngũ-long Đại-Việt. Ông đã tiến tới chỗ thoát tục. Nên tuy bị Xích-Thập ngăn trở, nhớ lời sư đệ Nùng-Sơn tử cho biết theo kế hoạch của Trần Kiệt phái Đông-a, các phái tạm nhường cho bọn Nhật-hồ đắc chí, để chúng ra mặt đấu với bọn Tống. Vì vậy ông thản nhiên:
    - Sư thúc! Sư thúc muốn ngồi vào ghế đệ nhất tôn sư của bản phái cũng được. Nhưng xin sư thúc tuyên thệ cho ba điều. Một, dùng võ đạo bảo vệ đất nước. Hai, phải dùng võ công tru diệt bọn tà ma, ngoại đạo. Ba, luôn bảo vệ môn quy.
    Đỗ Xích-Thập suy nghĩ một vài khắc, rồi y dơ tay thề như Đặng Đại-Khê nói. Đặng Đại-Khê hướng vào đệ tử phái Tản-viên:
    - Chư đệ tử nghe đây. Mấy chục năm trước Đỗ sư thúc phạm môn quy bị đuổi ra khỏi môn phái. Người bỏ theo Hồng-thiết giáo, làm không biết bao nhiêu điều ác độc. Nay người hối lỗi, xin trở về với bản môn. Người đã tuyên thệ như vậy. Nhân danh chưởng môn, ta thu nhận người trở lại. Người không còn dính líu gì đến Hồng-thiết giáo nữa. Nếu người còn liên hệ tới giáo phái này, đệ tử toàn thể môn phái phải xúm vào tru diệt người.
    Nói rồi ông khoan thai xuống đài. Một người từ dưới đất vọt lên cao. Còn ở trên không, y phóng chưởng tấn công Đặng Đại-Khê. Chưởng của y hùng hậu không thể tưởng tượng được. Các đệ tử phái Sài-sơn đứng dưới đài tấu nhạc, bị sức ép phải lùi ra xa. Đặng Đại-Khê chuyển tay phát chiêu Ác ngưu nan độ đỡ. Ầm một tiếng. Hai chưởng chạm nhau. Người kia bay vọt lên cao. Ở trên cao, y giáng xuống một chưởng. Đại-Khê phát chiêu Lưỡng ngưu tranh phong. Bình một tiếng. Người kia lại bay lên không. Đến đây kình lực của y hết. Trong khi đó Đại-Khê chuyển chưởng hướng lên trời. Ở trên không người kia kêu thét lên. Nếu chưởng đó trúng y, ắt xương thịt y nát ra mà chết.
    Từ chỗ Hồng-thiết giáo, một người bịt mặt vọt lên đài. Người chưa tới, chưởng đã tới, hướng vào ngực Đại-Khê. Quần hào bật lên tiếng la, vì đó là chiêu Đông hải lưu phong của phái Đông-a.
    Đặng Đại-Khê quay tròn tay trái, chưởng đang hướng lên trời, đổi chiều hướng vào người bịt mặt. Bình một tiếng, người bịt mặt loạng choạng lui lại một bước. Trong khi đó người trên không tà tà đáp xuống cạnh đài.
    Đặng Đại-Khê cảm thấy khí huyết đảo lộn. Ông đưa mắt nhìn kẻ trên cao rơi xuống. Y là Phạm Trạch. Đại-Khê cười nhạt:
    - Thì ra đệ thất trưởng lão Hồng-thiết giáo Phạm tiên sinh đấy. Không hiểu tại hạ có lỗi gì, mà trưởng lão lại tấn công như vậy?
    Ông nhìn người bịt mặt:
    - Các hạ là hai? Coi thân thủ các hạ, e tài không kém các trưởng lão Hồng-thiết giáo. Hà cớ phải bịt mặt? Các hạ đánh tại hạ, cứ dùng võ công Hồng-thiết giáo. Tại sao lại dùng võ công Đông-a?
    Người bịt mặt im lặng không trả lời. Đặng Đại-Khê cười nhạt:
    - Các hạ không nói, tại hạ cũng biết rồi. Các hạ muốn gây chia rẽ giữa Tản-viên với Đông-a đây. Nhưng này các hạ, chiêu vừa rồi của phái Đông-a, phải dùng Thiền-công hoặc nội công chính phái, đánh ra mới có uy. Đây, các hạ dùng nội công Hồng-thiết giáo một thứ nội công ma quỷ thì sao có lực?
    Gã bịt mặt vẫn im lặng, không lên tiếng.
    Phạm Trạch lườm lườm nhìn ông:
    - Hôm nay, đại giá giáo chủ của ta hiện diện, cùng giáo chúng đông đảo. Thế mà mi dám nhục mạ bản giáo, mi to gan thực. Mi không còn muốn sống nữa ư?
    Đặng Đại-Khê vẫn ung dung:
    - Xin trưởng lão cho biết tại hạ nhục mạ Hồng-thiết giáo bao giờ? Nhục mạ như thế nào?
    Phạm Trạch đưa hai cái môi vều đen to như hai quả chuối ra:
    - Rõ ràng mi vừa nói: « Người bỏ theo Hồng-thiết giáo làm biết bao nhiêu điều ác độc ». Mi còn chối ư?
    Đại-Khê cười ha hả. Tiếng cười của ông rung động quảng trường, làm nhiều người ù tai, chóng mặt. Ông nói lớn:
    - Thưa chư vị anh hùng Đại-việt. Hồng-thiết giáo chủ trương không trời, chẳng Phật. Thánh, thần, tổ tiên, cho đến anh hùng dân tộc đều không thờ kính, đi ngược lại với truyền thống dân tộc như vậy không ác ư? Lại nữa, trong suốt bao năm qua, Hồng-thiết giáo dạy con giết cha, vợ bỏ chồng. Hủy diệt tình sư môn, nghĩa chủ tớ. Như vậy không là ác ư? Lại khi Hồng-thiết giáo theo giúp các sứ quân, giết người có hàng ức vạn. Như vậy không là ác ư? Nói đâu xa, ngay việc luyện công, xui giáo chúng nam nữ giao hoan bừa bãi. Khi có thai, phá thai, lấy bào thai chưng lên ăn, gọi là con sâm. Bắt phụ nữ lương gia về giam lại hàng tháng hút kinh nguyệt, hàng ngày lấy nước tiểu luyện công. Gọi phụ nữ khốn nạn đó là cây thuốc. Như vậy không ác ư?
    Người bịt mặt cười khành khạch. Y cất tiếng nói lớn:
    - Chính các người mới thực ác nhân. Các người thờ trời. Vậy các người có thấy trời không? Trời có đem lại cơm áo cho người không? Các người cầu Phật. Phật chẳng qua là khúc gỗ, miếng đồng, các người tạc ra, đúc ra, rồi xì xụp lạy. Thực quá trò hề. Còn thánh, thần, tổ tiên, chết rồi, làm sao biết ăn, mà các người cúng? Tổ tiên ư? Người chết xương mục là hết, việc gì phải thờ, phải cúng?
    Quảng trường nghe y nói đều la hét, chửi rủa. Tiếng la hét vang dội. Lập tức giáo chúng Hồng-thiết giáo cùng hô lên nhịp nhàng, cùng với tiếng trống, tiếng kèn, tiếng thanh la:

    Giáo chủ Hồng-thiết,
    Danh trấn giang hồ.
    Uy trùm hoàn vũ.
    Đức sánh kim ô.
    Nào Phật, nào thánh,
    Nào tiên, nào thần.
    Nào vua, nào chúa,
    Đều phải vâng lời.


    Phạm Trạch dơ tay làm hiệu, lập tức chiêng trống im bặt. Người bịt mặt tiếp:
    - Các người hiện diện hôm nay, đều thuộc võ lâm Đại-việt. Đã là võ lâm, phải biết lẽ phải trái chứ? Hà cớ các người sợ ta nói. Để ta tiếp. Cha, mẹ là gì? Chẳng qua một cặp vợ chồng hú hí với nhau, đẻ ra con. Đẻ con rồi nuôi cho lớn hầu sai bảo, về già chúng nuôi dưỡng. Ích kỷ. Toàn một bọn ích kỷ bóc lột. Cho nên bản giáo chủ trương cha mẹ cũng như mọi người mà thôi. Khi cha mẹ phạm tội với Hồng-thiết giáo, người đầu tiên phải cầm dao giết sẽ là con. Vợ phạm tội chồng giết. Chồng phạm tội vợ giết.
    Y cười ha hả mấy tiếng, rồi tiếp:
    - Tình sư môn ư? Bản giáo chủ trương, mọi người phải trung thành với giáo chủ. Chỉ hiếu với giáo chủ mà thôi. Những ai tôn sùng sư phụ, sư mẫu mình đều đáng chém đầu. Còn việc nam nữ giao hoan, giống như đói ăn, khát uống. Việc gì phải cưới hỏi lôi thôi. Thích nhau, thì ôm lấy nhau. Những gì thằng Khổng, thằng Mạnh dạy, hãy liệng xuống sông hay cho vào chuồng hôi là tiện nhất.
    Hồi đầu, người bịt mặt nói, quần hùng còn la hét, chửi bới. Nhưng càng nghe y nói, họ càng hiểu rõ ra rằng, từ xưa đến giờ họ học đạo lý Văn-lang, Âu-lạc, Lĩnh-nam đã quen. Còn Hồng-thiết giáo là đạo lý của Mã Mặc, Lệ Anh. Khi giáo chúng học đạo lý đó, sẽ coi đạo lý Văn-lang là thứ tà ma ngoại đạo. Bởi vậy, họ tàn sát những người theo đạo lý cổ truyền của người Việt, của Thích, của Khổng cũng không có gì lạ.
    Trong khi người bịt mặt nói, Đặng Đại-Khê, Phạm Trạch đã rời lễ đài về khán đài ngồi.
    Xướng ngôn viên tiếp tục:
    - Trân trọng kính mời tôn sư phái Cửu-long lên lễ đài.
    Kim-Sinh từ khán đài khoan thai lên lễ đài. Ông hướng vào quần hùng chắp tay hành lễ, rồi tiến tới ghế dành cho phái Cửu-long. Xướng ngôn viên tiếp:
    - Kính thưa chư vị anh hùng. Khi vua Bà tuẫn quốc, anh hùng Cửu-chân tiếp tục kháng chiến. Hơn năm sau, bọn Mã Viện, Lê Đạo-Sinh mới đổ bộ theo đường biển, từ Nhật-nam đánh lên. Trước thế nguy tận diệt, Cửu-chân vương Đô Dương bàn cùng đại tư mã Đinh Đại rằng dù chiến đấu, cũng tốn xương máu vô ích. Chi bằng đem đệ tử trốn ra hải ngoại nuôi chí phục quốc. Đại tư mã Đinh Đại đem theo đại đệ tử của Cửu-chân vương Đào Thế-Kiệt là Trần Dương-Đức cùng hơn trăm đệ tử Cửu-chân vượt biển vào Chiêm-quốc. Nhưng giữa đường gặp bão, thuyền lạc đến Chân-lạp. Để tránh sự tỵ hiềm, Đinh Đại cùng Trần Dương-Đức lập ra phái võ khác, nhưng không biết sẽ đặt tên là gì?
    Xướng ngôn viên ngừng lại, rồi tiếp:
    - Thưa quý vị. Tại Chân-lạp có con sông rất lớn, chảy từ Bắc, xuống Nam, rồi quẹo sang Đông, đổ vào biển. Con sông này chưa làm chín khúc như chín con rồng, cho nên ngài Đinh Đại đặt tên là sông Cửu-long. Thấy con sông có nhiều linh khí, ngài sai đệ tử ngược giòng sông tiến lên Bắc. Sau đó tìm ra con sông này chảy từ Bắc Lão-qua, xuống Nam, đổ vào Chân-lạp. Vượt qua Bắc Lão-qua, thấy con sông đó phát nguyên từ đất Tượng-quận. Vì vậy mới đặt cho con sông tên Cửu-long và phái võ tên Cửu-long. Trải qua hơn nghìn năm, hôm nay các đệ tử thuộc Chân-lạp trở về nguồn gốc tổ sư, để tưởng niệm liệt tổ phái Cửu-chân cũ.
    Tiếp theo, tôn sư phái Phật-thệ Chế Ma-Thanh. Tôn sư phái Vạn-tượng Phủ-Vạn. Tôn sư phái Trường-sa Trần Uy thứ tự lên đài. Xướng ngôn tiếp:
    - Kính mời tôn sư bang Quảng-nguyên lên đài.
    Nùng Dân-Phú từ khán đài khoan thai bước lên lễ đài. Mỹ-Linh nói nhỏ với Thanh-Mai:
    - Tên này nhận sắc phong của bọn Tống. Lát nữa đây không biết y sẽ có hành động ra sao với bọn Nhật-hồ, khó mà biết trước. Chính mắt em thấy y quỳ gối nhận sắc phong Kiểm hiệu thái bảo,tiết độ sứ, thực ấp tam thiên hộ. Thực phong nhất thiên hộ. Bây giờ y lên đài lễ trước bàn thờ, tuyên thệ trung thành với Đại-việt. Thực là trò hề.
    Dân-Phú hướng vào quần hùng hành lễ, rồi ngồi vào ghế của mình. Xướng ngôn viên tiếp:
    - Kinh thưa quý vị anh hùng. Quảng-nguyên là một trong 207 khê động Bắc-biên. Quảng-nguyên hiện có nhiều mỏ vàng, mỏ kim cương. Thống thuộc Quảng-nguyên còn có các châu Tư-lãng, Thảng-do, Hạ-long, Hoàng-sơn, Ôn-nhuận, Quy-hóa, tiếp giáp với châu Ung của Trung-quốc. Phái Quảng-nguyên được thành lập từ hơn trăm năm nay. Chưởng môn hiện là đại hiệp Nùng Tồn-Phúc. Đại tôn sư là lão sư Nùng Dân-Phú.
    Tiếp theo tôn sư của phái Lâm-ấp Đoàn Huy. Tôn sư của bang Đông-hải Hùng Cơ lên đài. Xướng ngôn viên tiếp:
    - Kính mời vua Bà Bắc-biên, thống lĩnh anh hùng 207 khê động lên lễ đài.
    Một hồi trống, chiêng cử nhã nhạc vang lừng. Tiếp theo, ba hồi tù và inh tai nhức óc. Một đoàn hơn nghìn chim ưng từ xa bay lại, lượn trên bầu trời khu lễ đài. Một thiếu nữ cầm cờ đỏ phất lên ba cái, một đàn cọp hơn năm trăm con, một đàn voi hơn ba trăm con rống lên rung chuyển trời đất. Thiếu nữ phất cờ trắng ba cái, tiếng voi, tiếng cọp im bặt. Bấy giờ, công chúa Lĩnh-nam Bảo-hoà khoan thai lên lễ đài.
    Xướng ngôn tiếp:
    - Kính mời tôn sư phái Đông-a lên lễ đài.
    Trần Tự-An vừa đứng dậy, tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay rung chuyển quảng trường. Nguyên tổ sư phái Đông-a Trần Tự-Viễn, nhân học lóm Thiền-công của phái Tiêu-sơn, rồi dùng Thiền-công chế ra những bộ quyền chưởng danh tiếng như Ưng-xà quyền, Hầu-quyền, Hổ-quyền, đem dạy cho các tăng sĩ phái Tiêu-sơn. Có thể nói ông là đệ tử về nội công của Tiêu-sơn, nhưng lại là tổ sư ngoại công của phái này. Ông về quê ở Thiên-trường lập ra phái Đông-a. Trải hơn bẩy trăm năm, võ công phái Đông-a ngày càng tiến. Đệ tử đông đến hàng vạn. Chủ trương võ đạo phái Đông-a lấy việc bảo vệ giang sơn làm lẽ chính. Vì vậy khi vua Lê chống quân Tống. Chưởng môn Trần Trí-Đức đang đem đệ tử từ Thiên-trường về Hoa-lư đánh vua Lê... lập tức đổi lập trường, quay đánh Tống, khảng khái nhận nhiệm vụ diệt quân Tống trên sông Bạch-đằng.
    Sau khi thắng Tống, vua Lê phong ông làm Đại-Việt, nghĩa dũng bình Bắc đại vương. Ông từ chối, chỉ nhận mấy cân trà của nhà vua, pha nước cùng đệ tử mừng chiến thắng. Huân công đó khiến anh hùng thiên hạ kính phục phái Đông-a vô cùng.
    Nay chưởng môn Trần Tự-An là con Trần Trí-Đức kế tiếp phụ thân. Ông nổi danh cùng với quốc sư Minh-Không phái Tiêu-sơn. Chưởng môn phái Tản-viên Đặng Đại-Khê. Chưởng môn phái Sài-sơn Hồng-Sơn đại phu. Chưởng môn phái Mê-linh sư thái Tịnh-Tuệ, thành Đại-Việt ngũ long. Năm trước đây, vua Tống sai sứ sang mời Trần Tự-An làm Đô nguyên soái, đem quân đánh Tây-hạ. Ông khẳng khái từ chối.
    Ông hướng vào quần hùng hành lễ, rồi ngồi vào ghế.
    - Kính mờì tôn sư phái Sài-sơn lên lễ đài.
    Đạo-sĩ Dương Ẩn khoan thai lên đài. Y hướng vào quần hùng hành lễ.
    Mỹ-Linh nói nhỏ với Thanh-Mai:
    - Từ trước đến nay, em thấy thiên hạ ca tụng Đại-việt ngũ long, cứ tưởng rằng các vị là đại tôn sư võ công cao cường. Dần dà, cho đến hôm nay em mới hiểu, thiên hạ kính trọng các vị về võ đạo, về kiến thức và về cách hành xử.
    Tôn Đản tán thành ý kiến Mỹ-Linh:
    - Em cũng thấy như vậy. Sư thái Tịnh-Tuệ chắc đắc đạo thành Bồ-tát rồi. Cho nên ngài biết mụ Hoàng Liên làm trưởng lão Hồng-thiết giáo. Mục đích của mụ đến đây vì bọn Tống. Thế mà sư thái nhịn nhục, để cho mụ tác oai tác quái, hầu hoàn thành kế hoạch của sư thúc Trần Kiệt. Cho đến chưởng môn phái Tản-Viên, người nhịn nhục tên đại ma đầu Đỗ Xích-Thập. Hồng-Sơn đại phu mới thực là người chế tâm cực kỳ cao siêu. Người biết tên Dương Ẩn thành đại ma đầu Lê Ba, người kiên tâm không lột mặt nạ y đã là cao. Khi người biết y bắt giam phu nhân bấy nhiêu năm, đen trắng rõ ràng, người vẫn để cho y ngồi ghế tôn sư, hầu kế hoạch của sư thúc Trần Kiệt được vẹn toàn.
    Xướng ngôn tiếp:
    - Kính mời đại tôn sư của Hồng-thiết giáo lên lễ đài.
    Tiếng xướng vừa dứt, trăm cỗ xe cùng hướng ống đồng lên cao. Mỗi ống phóng một pháo thăng thiên. Pháo bay lên cao, rồi nổ tung. Tiếng nổ làm mọi người inh tai nhức óc. Mỗi cây pháo toả ra một mầu đẹp vô cùng.
    Tiếp theo tất cả giáo chúng đều cất tiếng hát. Bài hát ngụ ý ca tụng Nhật-Hồ lão nhân là đấng chí tôn, sinh ra để cứu trăm họ Đại-việt, Chiêm-thành, Lão-qua, Chân-lạp.
    Bài ca dứt, lão đã lên trên đài, an toạ.
    Tiếng xướng ngôn tiếp:
    - Kính mời Đại tôn sư phái Tiêu-sơn lên lễ đài.
    Minh-Không thiền sư, tay chống thiền trượng khoan thai lên đài. Trái với khi xướng tên Trần Tự-An, quần hùng hoa hô vang dậy. Bây giờ khắp quảng trường có đến mấy vạn người, mà không một tiếng động. Người ta cùng im lặng, để được chiêm ngưỡng một vị Bồ-tát đương thời. Minh-Không bồ tát là đệ tử truyền tâm ấn của Vạn-Hạnh bồ tát. Ngài còn là sư huynh của đức Thuận-thiên hoàng đế. Không ai biết võ công của ngài đến trình độ nào. Khi nói đến ngài, người ta chỉ bàn về đạo đức, cũng như công đức tế độ chúng sinh của ngài mà thôi.
    Sư thái Tịnh-Tuệ là người đứng ra tổ chức buổi lễ, lên đài nói:
    - Thưa các vị đại tôn sư. Đúng như thể lệ của Đại-việt, người chủ lễ hôm nay phải có đạo cao đức trọng nhất trong các tôn sư. Thường năm do vị tôn sư phái Tiêu-sơn. Không biết năm nay các vị có gì thay đổi không?
    Đại hiệp Trần Tự-An nói:
    - Thưa các vị. Cứ như mọi năm, bàn về đạo cao, đức trọng thì ai bằng quốc sư? Năm nay chúng tôi kính mời quốc sư ngồi vào ghế chủ vị.
    Hoàng Liên cười lên the thé:
    - Theo lão ni, cần phải có sự thay đổi. Ở đời, tất cả đều vô thường. Năm nay có mặt Nhật-Hồ lão nhân, xin để lão nhân làm chủ vị.
    Tôn sư phái Trường-sa là Trần Uy nhăn mặt:
    - Đạo cao, đức trọng của Đại-Việt, mà để một lão ma đầu ngồi chủ vị ư?
    Lão vừa dứt lời, người bịt mặt, từ chỗ Hồng-thiết giáo vọt mình lên khán đài tấn công Trần Uy một chưởng. Mọi người kinh hoàng, vì đó là chiêu Kình-ngư thăng thiên của phái Đông-a. Chưởng phong bao trùm một vùng rộng lớn. Trần Uy nhảy vọt lên cao tránh. Nùng Dân-Phú đứng sau Trần Uy vô tình bị hứng tất cả kình lực. Y quay tay một vòng phóng, chưởng cắt đôi chiêu chưởng của người bịt mặt. Bình một tiếng, người bịt mặt bay ngược xuống dưới đài. Nùng Dân-Phú chắp tay:
    - Thực đắc tội.
    Trên khán đài phái Đông-a, Trần Kiệt quay lại hỏi Thanh-Mai, Mỹ-Linh:
    - Này, mấy con bé cứng đầu, có nhận ra chân tướng tên bịt mặt không?
    Mỹ-Linh lắc đầu:
    - Ngay từ lúc hắn lên đài tấn công Đặng chưởng môn, cháu thấy lưng y quen quen mà nhận không ra.
    Thanh-Mai cau mày suy nghĩ, rồi lắc đầu hỏi Tự-Mai:
    - Em thử đoán xem nó là ai?
    Tự-Mai cười, ngồi rung đùi:
    - Từ xưa đến giờ bố vẫn bảo chị thông minh bậc nhất, không ai qua mặt nổi. Bây giờ làm « thài lài » rồi thành ra lú lẫn.
    Mỹ-Linh ngơ ngác kéo tai Tự-Mai:
    - Thài lài là cái gì vậy?
    Tự-Mai, rời chỗ. Trước nó ngồi cạnh Thanh-Mai, bây giờ ngồi cạnh Mỹ-Linh:
    - Em phải ngồi đây cho an toàn, rồi mới dám trả lời chị. Nếu không bà chằng tinh « đục » thủng đầu.
    Nó làm bộ nói vào tai Mỹ-Linh, nhưng nói rất lớn:
    - Tục ngữ nói : Gái phải trai, như thài lài phải cứt chó. Trai phải gái như cò bợ phải nước mưa. Cây thài lài, mà gặp cứt chó sẽ lớn mau vô cùng. Còn cò bợ phải nước mưa lại ủ rũ như chết rồi vậy.
    Tôn Đản dọa Tự-Mai:
    - Tự-Mai dám bảo anh cả là cứt chó hả? Thôi nói đi, tên bịt mặt gốc tích ra sao, ta không mách anh cả.
    Nghe đến Lý Long, Tự-Mai không dám đùa nữa. Nó nói sẽ:
    - Tên bịt mặt chính là gã Đặng Trường, quản gia ở trang nhà mình đó.
    Thanh-Mai tỉnh ngộ:
    - Đúng rồi. Sau khi Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cứu Nhật-Hồ lão nhân ra. Anh cả thấy nếu giết lão đi, bọn đệ tử chia năm sẻ bẩy, ẩn hiện khắp nơi, thực khó mà diệt hết. Chi bằng thả cho lão ra, rồi cho người của Khu-mật viện ẩn trong lớp áo giáo đồ tìm lão, giúp lão vào ngục cứu Nguyễn Chí, sau tìm bọn Lê Ba. Trong khi bọn Lê Ba nhận được thư mời của phái Mê-linh về dự đại hội. Tất nhiên y đưa thư cho lão. Lão sẽ kéo giáo đồ về dự, với mục đích khống chế quần hùng.
    Sư thái Tịnh-Tuệ nói với Nhật-Hồ lão nhân:
    - Tiên sinh! Mong tiên sinh bảo các vị trưởng lão không nên động võ trước bàn thờ tiền nhân.
    Nhật-Hồ vuốt râu hướng vào giáo chúng:
    - Các người không được dụng võ.
    Sư thái Tịnh-Tuệ hướng vào các tôn sư:
    - Thưa các vị, từ hơn năm mươi năm qua. Bao giờ chủ vị trong các ngày giỗ Bắc-bình vương, anh hùng đều tôn vị chưởng môn phái Tiêu-sơn làm chủ vị. Năm nay, sư thúc Hoàng Liên lại muốn tôn Nhật-Hồ lão nhân. Ở đây chúng ta có mười hai môn phái, bốn đại bang. Tốt hơn hết chúng ta cùng đề cử.
    Hoàng Liên nhảy lên choi choi:
    - Như vậy mới công bằng.
    Nói xong mụ biết rằng mình hớ. Vì trong mười lăm người trên đài, phe Hồng-thiết chỉ có Dương Ẩn, Đỗ Xích-Thập, và Nhật-Hồ. Tuy biết hớ, mụ vẫn nói cứng:
    - Nào, chúng ta cùng đề cử.
    Sư thái Tịnh-Tuệ tiếp:
    - Chúng ta có hai vị được đề cử. Vậy ai đồng ý cho Nhật-Hồ tiên sinh ngồi vào chủ vị xin đưa tay lên.
    Bà chỉ tay đếm:
    - Phái Tản-viên, phái Mê-linh, phái Sài-sơn, phái Phật-thệ, phái Vạn-tượng, phái Tha-nôm, bang Nhật-hồ, bang Quảng-nguyên. Tất cả tám vị. Còn vị nào nữa không ?
    Bà quay lại hỏi:
    - Vị nào đồng ý thỉnh Minh-Không đại sư ngồi vào ghế chủ vị?
    Bà chỉ tay đếm:
    - Phái Đông-a, phái Tây-vu, phái Thiên-tượng, phái Trường-sa, phái Cửu-long, bang Hồng-hà, bang Đông-hải, phái Tiêu-sơn. Minh-Không đại sư cũng được tám vị đề cử.
    Bà hỏi cử tọa:
    - Hai vị cùng được tám cao nhân đề cử. Phải làm sao đây?
    Minh-Không đại sư chắp tay:
    - A-di-đà Phật. Bần tăng đức bạc, tuổi kém Nhật-Hồ lão tiên sinh. Bần tăng xin cử lão tiên sinh. Như vậy lão tiên sinh đa số hơn bần tăng. Xin lão tiên sinh ngồi vào chủ vị cho.
    Sư thái Tịnh-Tuệ phất tay một cái, chiêng trống cử bản nhạc Động-đình ca, đây là bản nhạc cổ từ thời Lĩnh-nam. Nhật-Hồ lão nhân tiến tới trước bàn thờ, dâng hương trước. Sau đó, tôn sư các phái, các bang theo thứ tự tuổi tác lên dâng hương.
    Dâng hương xong, các tôn sư chia làm hai, ngồi vào hai hàng ghế cạnh bàn thờ trên đài. Buổi tế bắt đầu.
    Tế vừa dứt, mặt trời lên cao. Tiếng loa xướng:
    - Thuận-thiên hoàng đế, cùng tam công, tể tướng, triều đình tới dâng hương.
    Từ khi các môn phái tới, không nhiều thì ít, mỗi môn phái đều có biểu tượng uy nghi. Tựu trung chỉ có vua Bà Bắc-biên với bang Nhật-Hồ khí thế hùng mạnh nhất. Người ta nghĩ tới Thuận-thiên hoàng đế tới, hẳn phải uy nghi gấp mấy lần. Không ngờ khi nghe xướng ngôn, mọi người nhìn ra cổng, chỉ thấy hoàng đế đi đầu, theo sau hơn năm mươi thái giám mang lễ vật, cùng các thái tử, công chúa, phò mã đi theo. Không thấy một tên giáp binh, cũng chẳng thấy voi, ngựa, tướng sĩ.
    Bên phải hoàng đế là Vũ-uy vương anh ngài. Bên trái là Dực-thánh vương, em ngài. Tiếp đến phò mã Đào Cam-Mộc, công chúa An-quốc, rồi tới Khai-thiên vương, Khai-quốc vương, Đông-chinh vương, Vũ-đức vương, các phò mã, công chúa.
    Trong quảng trường, có mấy vạn người, mà không một tiếng động, không một tiếng nói, không một tiếng cười. Tất cả anh hùng trên những khán đài đều đứng dậy, cúi đầu chắp tay.
    Tới lễ đài, ngài hoan thai bước lên. Ban nhạc tấu nhạc. Hết nhạc, ngài quỳ gối lễ tám lễ, rồi hướng vào các bậc tôn sư võ học vái một vái đáp lễ. Ngài nói:
    - Hôm nay nhờ vong linh của đại vương xưa, trẫm mới được gặp tất cả anh tài của đất nước.
    Trong khi ngài nói truyện với các tôn sư võ học, các thái tử, công chúa theo thứ tự lên đài hành lễ.
    Thuận-thiên hoàng đế phán:
    - Chiều mai, trẫm kính mời các vị tôn sư, cùng toàn thể các vị chưởng môn, bang trưởng tới điện Càn-nguyên dự tiệc. Hôm nay, trẫm xin tặng mỗi vị một lễ vật, gọi là làm duyên.
    Ngài đến trước Nhật-Hồ lão nhân:
    - Lão tiên sinh qui ẩn hai chục năm, giáo chúng không hiểu, tưởng người qui tiên, xây lăng thờ cúng. Không ngờ bây giờ người lại xuất hiện, vì vậy trẫm mới được gặp tiên sinh.
    Thái giám bưng đến một mâm lễ vật. Nhật-Hồ tiếp lấy mở ra. Bất giác lão mừng đến chảy nước mắt. Trong mâm có năm cặp lộc nhung tẩm thuốc, đựng trong hộp bằng bạc. Cạnh đó mười chai rượu lớn. Trong mỗi chai đều có một củ sâm. Lão vẫy tay. Phạm Trạch nhảy lên đài tiếp lấy mâm lễ vật. Lão chắp tay tạ hoàng đế, rồi chỉ vào Khai-quốc vương:
    - Lão phu trăm chết, mới được Quốc-vương cứu sống, lại được bệ hạ ban thuốc. Thành thực đa tạ.
    Hoàng-đế đến trước Minh-Không đại sư:
    - Sư huynh. Trong suốt thời thơ ấu, đệ ở trong chùa, được sư huynh tận tâm dạy dỗ. Nay sư huynh lại nhận làm quốc sư, giúp đệ làm cho dân giầu nước mạnh. Đệ xin dâng sư huynh món quà này.
    Thái giám dâng lên đại sư mâm lễ vật. Đại sư mở ra. Trong mâm có cái mõ, với cái dùi cực lớn. Mõ, dùi bằng gỗ trầm, hương thơm bốc ra ngào ngạt. Trên mõ nạm chữ vàng toàn bộ bài kinh Bát-nhã. Ngài tiếp lấy mõ, dùi, mỉm cười:
    - Hoàng đế hiện giờ là người uy quyền, giầu có bốn bể, nhưng cái tâm vẫn trong sáng như thủa xưa quả đại phúc vậy.
    Ngài tiến đến trước Đoàn Huy:
    - Đoàn huynh! Ngày xưa Quốc-tổ, Quốc-mẫu sinh ra trăm con. Con trưởng được phong làm vua. Còn lại chín mươi chín người, ngài truyền phải đi các nơi, qui dân lập ấp. Vị hoàng tử thứ nhì đến thứ mười được phong ở vùng quanh hồ Động-đình. Vị hoàng tử thứ mười một tới hai mươi được phong ở vùng phía Tây. Sau thành Tượng-quận. Nay là Đại-lý. Vì vậy dù Đại-lý, Đại-việt đều cùng gốc của vua Hùng, vua Trưng. Nhưng anh hùng Thiên-sơn, Tượng-quận nhờ linh khí tổ tiên, nhờ quyết tâm, đã lập được nước Đại-lý. Trẫm xin gửi lời vấn an đến trăm họ cùng hoàng đế bệ hạ Đại-lý.
    Khi Đoàn Huy mới tới Đại-Việt, trong lòng y đầy kiêu căng, vì cho rằng họ Đoàn nước Đại-lý anh hùng hơn họ Lý. Nhưng dần dần, đi nhiều, nghe lắm, y thấy vua Lý quả thực minh quân nhân từ. Anh hùng Đại-việt như sao trên trời, Đại-lý y muôn ngàn lần không bằng. Rồi hôm ở Long-hoa đường, y cùng Phạm Văn được Thanh-Mai xả thân cứu mệnh cho. Võ đạo ấy, bên Đại-lý không thể có. Hôm nay nghe Thuận-thiên hoàng đế gửi lời thăm trăm họ trước, rồi mới tới hoàng đế sau. Y càng phục hơn nữa, nghĩ thầm:
    - Người này quả thực một minh quân, chỉ biết có dân.
    Y kính cẩn mở cái hộp bọc nhiễu đỏ để trên mâm ra. Trong bọc có thanh kiếm cổ. Nhìn mấy chữ triện khắc trên bao kiếm, tuy đã mòn, nhưng vẫn còn đọc được:

    Anh hùng Thiên-sơn,
    Dĩ đức trị dân,
    Nhất kiếm tru tặc,
    Vạn cổ lưu danh.


    Đọc hết bốn giòng chữ, bất giác y choáng váng.


    <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.01.2005 08:50:38 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 12.01.2005 18:48:09 (permalink)
      Hồi thứ năm mươi tám


      Lượng cả bao dong


      Nguyên thời mạt của nhà Tây-Hán, Thiên-sơn lão tiên dạy trước sau bẩy người đệ tử đều văn võ kiêm toàn. Bẩy người cùng nhau thề đem sức ra giúp dân, mưu cầu hạnh phúc. Họ ứng thí, thành đạt, cùng giữ chức thái thú, thứ sử bẩy quận liên tiếp. Nhưng bấy giờ vua Hán u mê tin dùng Vương Mãng, khiến giặc dã khắp nơi nổi dậy. Thiên-Sơn lão tiên triệu tập cả Thiên-sơn thất hùng lại, rồi ban cho thanh kiếm, với bốn giòng chữ trên.
      Vừa đúng lúc đó, Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán. Thiên-sơn thất hùng cùng khởi binh lập ra nước Thục. Người đứng đầu Thiên-sơn thất hùng tên Công-tôn Thuật được tôn làm vua. Thanh kiếm Thiên-Sơn lão tiên ban cho, trở thành Thượng-phương bảo kiếm. Khi Công-tôn Thuật băng, thanh kiếm này lọt về tay con thứ nhì tên Công-tôn Thi. Công-tôn Thi hàng Hán. Sau này Thi lại phản Hán, bị Vương Bá giết chết, thanh kiếm về tay Vương Bá. Trong trận đánh bên bờ sông Bồ-lăng, Bắc-bình vương Đào Kỳ dùng chiêu võ Cửu-chân, tay không đoạt thanh kiếm này trên tay Vương Bá.
      Khi Đoàn Huy sang Đại-Việt, hoàng đế Đại-lý ân cần dặn y bằng mọi cách tìm cho ra thanh kiếm này. Bởi, hiện họ Đoàn cai trị nước Đại-lý được là nhờ hai phái Thiên-sơn, Tượng-quận hợp lại. Nhưng có nhiều chi phái của Thiên-sơn, vẫn không phục. Họ cương quyết chỉ tuân phục người nào tìm được tín vật của Thiên-sơn lão tiên ban cho Công-tôn Thuật làm thượng phương bảo kiếm.
      Đoàn Huy nhìn thấy thanh gươm, y run run, hướng vào đệ tử phái Thiên-tượng hô lớn:
      - Toàn thể đệ tử phái Thiên-tượng quỳ xuống!
      Mấy ngàn đệ tử Đại-lý nghe tôn sư của phái hô, họ không hiểu gì, nhưng cũng quỳ gối xuống. Đoàn Huy tay tiếp bọc nhiễu đỏ hô lớn:
      - Đệ tử kính cẩn cung nghinh thánh lệnh của Thiên-sơn lão tiên.
      Y tâu với Thuận-thiên hoàng đế:
      - Hôm trước, anh em hạ thần mười phần chết, mới có phần sống. Nhờ ân đức của hoàng thượng thoát khỏi hiểm nguy. Hôm nay lại được bệ hạ ban cho di vật của lão tiên. Thần xin vì bệ hạ, đi khắp nơi tuyên bố thánh đức.
      Nói rồi y quỳ gối lạy tạ. Thuận-thiên hoàng đế phất tay, một kình lực nhu hoà đỡ Đoàn Huy dậy. Ngài phán:
      - Hôm nay, chúng ta tụ họp ở đây, vì cùng là con cháu vua Trưng cả. Đoàn huynh không nên đa lễ.
      Ngài tiến tới trước mặt Kim-Sinh, tôn sư phái Cửu-long:
      - Kim huynh. Dù Chân-lạp, dù Chiêm-thành, dù Lão-qua, dù Ngô-Việt, dù Đại-lý, dù Đại-Việt, chúng ta đều là giòng giống Việt-thường, con cháu vua Hùng cả. Xưa vua Hùng phong cho con thứ hai mươi mốt đến ba mươi theo dấu chim nhạn vào tận cùng phía Nam lập ấp qui dân. Nay thành nước Chân-lạp. Hôm nay Kim huynh cùng chư huynh đệ phái Cửu-long về đây lễ Bắc-bình vương, đủ tỏ anh em Cửu-long không quên được nguồn gốc.
      Ngài cầm lấy hộp bọc nhiễu điều trên chiếc mâm do thái giám đội, mở ta. Bên trong lại một thanh kiếm nữa. Thanh kiếm này nhỏ, dài hơn thanh kiếm của Thiên-Sơn lão tiên một chút. Kim-Sinh liếc nhìn qua, thấy trên bao kiếm có khắc chữ Cửu-chân vương cạnh đó khắc cành hoa đào.
      Mắt Kim-Sinh muốn hoa lên. Vì trong mật dụ của phái Cửu-long chép rằng, tỗ xưa kia của phái là Đào Thế-Kiệt, sinh ra Bắc-bình vương Đào Kỳ. Lúc sinh thời, ngài dùng một thanh kiếm đánh Đông dẹp Bắc. Khi thành đại nghiệp, ngài được tôn lên ngôi Cửu-chân vương. Sau ngài vui mừng, cười mà qui tiên. Thanh kiếm đó về Đô Dương, người kế tục ngài trấn nhậm Cửu-chân. Sau khi Đô Dương tử trận, thanh kiếm này tuyệt tích.
      Kim Sinh nghĩ:
      - Thanh kiếm này vốn là linh vật của Đại-Việt, mà nay hoàng đế ban cho phái Cửu-long. Có nghĩa ngài công nhận nước Chân-lạp vẫn thuộc giòng giống Việt.
      Kim Sinh quỳ gối kính cẩn tiếp thanh kiếm. Khác với khi Đoàn Huy hành lễ, Thuận-thiên hoàng đế đỡ dậy không cho quỳ. Ngược lại ngài để Kim Sinh hành lễ. Đứng cạnh ngài có các thái tử. Các thái tử hiểu rằng ngụ ý phụ hoàng muốn nói: Chân-lạp vốn đất cũ, cùng giòng giống Việt-thường. Sau này ai được nối ngôi phải tìm cách thống nhất làm một.
      Thuận-thiên hoàng đế đến trước Chế Ma-Thanh, ngài cầm lấy tay y, bằng giọng ấm áp, ngài phán:
      - Xưa Quốc-tổ, Quốc mẫu sinh trăm con. Con lớn nhất được phong làm vua. Còn lại chín mươi chín người, mỗi người được phong một nơi. Hoàng tử thứ ba mươi mốt đến bốn mươi vượt núi vào Nam, lập ra nước Chiêm-thành. Chế huynh đệ, người nhỏ hơn ta đến mười tuổi, thì ta là anh, người là em. Một giải đất Chiêm-thành, dài từ Nghệ-an vào đến Chân-lạp, ta giao cho người. Chân-lạp vốn nhiều vàng, lắm ngọc, sông sâu, núi cao, biển rộng, người hãy đem hết tài năng ra phò tá huynh trưởng, để ghi danh thiên cổ. Bất cứ huynh đệ làm việc gì liên quan đến Đại-việt, Chân-lạp, Lão-qua, cũng đừng quên rằng chúng ta cùng một tổ.
      Ai nghe Thuận-thiên hoàng đế nói những lời đó đều tưởng những câu khuyên nhủ thông thường. Nhưng Chế Ma-Thanh đã từng hội họp với Triệu Thành tại Hồng-hương mật cốc. Y được phong Kiểm hiệu thái sư. Tĩnh hải tiết độ sứ. Đồng bình chương sự. Suy thành thuận hoá công thần. Chiêm-thành quận vương. Thực ấp vạn hộ. Thực phong ngũ thiên hộ. Cho nên khi nghe Thuận-thiên hoàng đế nhắn nhủ, y rùng mình, cảm thấy như mưu kế đã bại lộ.
      Thuận-thiên hoàng đế, trao cho y một hộp sơn son thiếp vàng. Y mở hộp ra, bất giác mồ hôi y xuất cùng mình, chân tay y bải hoải. Vì trong hộp có mười thoi vàng lớn, bốn đôi vòng đeo tay bằng hồng ngọc. Một cái vòng đeo cổ bằng vàng, nạm ba mươi sáu hạt kim cương lớn. Đây chính là lễ vật y dâng cho Triệu Thành. Trong hộp còn một phong giấy. Y mở ra coi, chính là tờ biểu, y gửi Triệu Thành tâu về Tống đế, trình bày mưu kế của y lật anh là Chế Ma-Huy, rồi đem quân đánh vào phía Nam Đại-việt. Y không hiểu sao, nay lại nằm trong cái quả này.
      Kinh hoàng y nghĩ:
      - Mình họp cùng Triệu Thành bí mật đến thần không biết, quỷ không hay. Mà sao Khu-mật viện nhà Lý lại biết tỏ tường. Vàng, ngọc, cùng tờ biểu này, chính tay Triệu Thành cất giữ, làm sao lọt vào tay Lý Công-Uẩn? Chỉ nguyên tờ biểu này, y có thể đem mình ra chặt đầu. Hoặc nếu y gửi cho hoàng huynh mình thì toàn gia mình đã bị tru lục rồi.
      Bất giác chân tay y bủn rủn cả ra. Y quỳ gối rập đầu binh binh liền tám lần:
      - Biên thần Nam phương tạ hồng ân của hoàng đế bệ hạ. Ân đức của bệ hạ rộng như trời như biển. Hạ thần dù thịt nát xương tan cũng không đủ đền ơn bệ hạ.
      Nguyên những thư tín, vàng ngọc của Chế Ma-Thanh dâng cho Triệu Thành. Trong lần từ Thiên-trường về Thăng-long, y đã bị Thanh-Mai sai tráng sĩ Thiên-trường lặn xuống sông, đột nhập thuyền ăn cắp về. Khai-quốc vương trình với Thuận-thiên hoàng đế, đem tặng lại cho y, để suốt đời y phải cúi đầu tuân lệnh Khu-mật viện Đại-Việt.
      Ngài đến trước Phủ-Vạn:
      - Phủ hoàng thúc. Hiện giờ bên Lão-qua, do ấu quân cai trị. Quyền hành đều nằm trong tay hoàng thúc. Tiếng rằng hoàng thúc ngồi dưới một người, mà thực ra ngồi trên trăm họ. Hoàng thúc tuy chưa làm vua, mà thực ra uy quyền đã hơn vua. Xưa Quốc-tổ cho các hoàng tử thứ bốn mươi mốt tới năm mươi vượt núi về phương Tây qui dân lập ấp. Nay thành Lão-qua. Lão-qua với Đại-việt cùng giòng giống vua Hùng cả. Hôm nay hoàng thúc tới đây dự lễ để tỏ lòng không quên nguồn gốc. Thực quý vô cùng. Ta có món quà tặng hoàng thúc.
      Ngài mở lồng bàn. Trên cái mâm, có hộp lớn sơn son thiếp vàng, ngoài đề chữ Hoàng-thúc Lão-qua. Phủ-Vạn mở ra. Bên trong có một tượng Phật bằng ngọc xanh biếc, lớn bằng cổ tay. Cạnh đó mười thỏi vàng với con voi bằng vàng, trên nạm hơn trăm hạt kim cương. Đây chính là lễ vật y gửi Triệu Thành về dâng cho vua Tống. Trong hộp còn trục giấy, cuộn tờ biểu y dâng vua Tống trình bầy kế hoạch lật đổ cháu, chiếm ngôi vua, rồi đem quân đánh vào vùng Thanh-hóa của Đại-việt.
      Y kinh hoàng, chân tay run lẩy bẩy, đầu gối nhũn ra. Y quỳ xuống rập đầu liền tám lần:
      - Hạ thần thọ hoàng ân trọng hơn núi. Kể từ nay, thần xin làm thân trâu ngựa theo hầu hoàng đế bệ hạ.
      Đợi cho Phủ-Vạn lạy xong, Thuận-thiên hoàng đế đến bên Trần Uy. Ngài nắm lấy tay ông, ân cần nói:
      - Khi xua Quốc tổ cho các hoàng tử thứ năm mươi mốt tới sáu mươi đến vùng Nam-hải phá rừng, lập ấp qui dân. Đời vua An-Dương, vua Trưng vẫn là Nam-hải. Ngài lại sai hoàng tử thứ sáu mươi mốt tới bẩy mươi lập ấp qui dân. Đời vua An-dương vua Trưng là Quế-lâm. Hơn trăm năm trước, anh hùng Quế-lâm, Nam-hải hợp sức với nhau lập ra nước Ngô-việt. Gần đây Ngô-việt bị Tống diệt. Tuy vậy, dân Ngô-việt vẫn không quên nguồn gốc mình gốc con cháu vua Hùng. Hôm nay Trần huynh cùng Tiền thái tử về đây lễ anh hùng thời vua Trưng. Mong rằng sau lễ trẫm sẽ được gặp Trần huynh để đàm đạo.
      Sau khi tặng quà hết tất cả mười sáu đại tôn sư, hoàng-đế hướng xuống quần hùng nói lớn:
      - Hôm nay giỗ một vị đại vương, ngài còn là một vị đại tôn sư võ học Lĩnh-nam. Trẫm...
      Một đoàn người ngựa rầm rập tiến vào khu lễ đài. Đi đầu có một tráng sĩ cầm lá cờ lớn, trên thêu chữ Đại-tống Bình-nam vương một lá cờ khác có chữ Thái-úy, tổng đốc binh mã, chưởng quản Khu-mật viện. Tiếp theo hơn mười người cỡi ngựa đi vào.
      Thanh-Mai nói với Mỹ-Linh:
      - Bọn Triệu Thành.
      Triệu Thành cỡi ngựa đi đầu, tiếp theo, bọn Vương Duy-Chính, Dư Tĩnh, Minh-Thiên, Đông-Sơn lão nhân, Địch Thanh, Triệu Anh, Triệu Huy, Quách Quỳ.
      Sư thái Tịnh-Tuệ, nhân danh ban tổ chức cùng hai nữ đệ tử Ngô Thuần-Trúc, Hàn Diệu-Chi tiến ra thi lễ:
      - Bần ni, chưởng môn phái Mê-linh, được võ lâm Đại-việt ủy cho tổ chức giỗ Bắc-bình vương năm nay. Bần ni xin các vị cho biết, các vị thuộc môn phái nào?
      Dư Tĩnh đáp:
      - Chúng tôi không thuộc phái võ cũng như bang hội nào của Giao-chỉ cả. Chúng tôi là sứ đoàn Thiên-triều qua quận Giao-chỉ.
      Nói rồi y giới thiệu từng người trong bọn. Cao nhất Triệu Thành, thấp nhất Quách Quỳ.
      Ngô Thuần-Trúc lễ phép đáp:
      - Thì ra các vị thuộc sứ đoàn nhà Đại-tống đấy. Nhưng thưa Triệu vương gia, đây là nơi võ lâm Đại-việt tổ chức giỗ tổ. Giỗ tổ chia ra làm năm ngày. Ngày thứ nhất dành cho võ lâm anh hùng. Ngày thứ nhì trở đi đành cho dân chúng. Các vị không phải võ lâm Đại-Việt, cũng không phải con dân Đại-Việt, các vị không thể vào đây.
      Vương Duy-Chính quát lớn:
      - Khắp thiên hạ, đâu cũng thuộc đất của thiên tử. Giao-chỉ là một quận của nhà Đại-tống, tức đất của thiên tử. Chúa ta lĩnh mệnh làm sứ thần, thay mặt thiên tử kinh lý Giao-chỉ, mà các người dám cấm ư?
      Ngô Thuần-Trúc vẫn ôn tồn:
      - Vương chuyển-vận-sứ nói sai rồi. Từ cổ, vua Đế-Minh đã cắt đất chia thiên hạ làm hai. Từ núi Ngũ-lĩnh về Bắc thuộc Trung-quốc. Từ Ngũ-lĩnh về Nam thuộc Văn-lang. Cương giới đã định, phong tục, luật pháp khác nhau. Có lý đâu đất Đại-việt chúng tôi thành một quận của Trung-quốc?
      Vương Duy-Chính đưa mắt cho Triệu Thành, rồi nói:
      - Nếu cứ biện luận theo kiểu này, không biết bao giờ cho dứt. Bây giờ chúng tôi lấy tư cách người võ lâm, đến đây dự lễ tiền nhân võ lâm có được không? Xưa kia Đào Kỳ được phong Hán-trung vương triều Hán. Vương gia của tôi là Bình-nam vương triều Tống. Người sau lễ người trước sự thường. Không lẽ các vị không cho?
      Hàn Diệu-Chi gật đầu:
      - Nếu tiền bối nói thế thì được. Anh hùng vốn của chung thiên hạ. Ai cũng có quyền vào lễ. Nào mời các vị.
      Vương Duy-Chính tự hào tiến sĩ xuất thân, ứng đáp nhanh, mà y cảm thấy thua kém một bước. Y muốn nhân danh võ lâm vào lễ, Diệu-Chi gọi ngay y bằng danh tự tiền bối, không còn gọi y là Chuyển-vận-sứ nữa. Y đành cùng Triệu Thành theo thầy trò Diệu-Chi vào lễ đài.
      Diệu-Chi cầm loa xướng ngôn:
      - Kính thưa chư vị anh hùng võ lâm Đại-việt. Đặc biệt giỗ Bắc-bình vương năm nay có nhiều cao nhân tiền bối võ lâm Trung-quốc tới lễ. Vị cao tăng mặc áo cà sa đại hồng là Minh-Thiên đại sư, thủ tọa Đạt-Ma đường phái Thiếu-Lâm.
      Nàng chỉ vài Đông-Sơn lão nhân:
      - Vị lão nhân đây là một trong Hoa-sơn tứ đại thần kiếm Đông-Sơn lão nhân. Vị trung niên này là Dư Tĩnh, đệ tử của người. Thiếu niên đi cạnh người là võ trạng nguyên Địch Thanh.
      Nàng chỉ vào Triệu-Thành:
      - Vị này là đại hiệp Triệu Thành, cao đồ của Minh-Thiên đại sư. Hai vị đi cạnh Triệu đại hiệp là hai trong Tung-sơn tam kiệt tên Triệu Anh, Triệu Huy.
      Nàng cố ý hạ Triệu Thành xuống sau Địch Thanh, coi như không cần biết đến cái tước Bình-nam vương của y. Nàng giới thiệu tiếp:
      - Vị này họ Vương tên Duy-Chính thuộc phái Võ-đang.
      Nàng xướng tiếp:
      - Tấu nhạc.
      Nhạc tấu vang lừng. Bất đắc dĩ Triệu Thành phải lên đài đốt hương. Nhưng y chỉ vái có một vái, rồi đứng sang bên cạnh nhường chỗ cho tùy tùng lễ. Đợi cho bọn tùy tùng lễ xong, y cất tiếng hỏi:
      - Trong buổi lễ hôm nay, ai có ngôi vị cao nhất?
      Nhật-Hồ lão nhân bước ra:
      - Chính lão phu. Không biết đại hiệp có điều chi thắc mắc?
      Việc Nhật-Hồ lão nhân mới tái xuất giang hồ, Triệu Thành chưa biết. Vì vậy y không rõ lão là ai. Y chỉ vào cây cờ bay phất phới, trên có hàng chữ:
      Đại-hội anh hùng võ lâm Đại-việt
      - Phải triệt hạ cây cờ này ngay tức khắc. Cây cờ mang giòng chữ phản nghịch như thế kia, mà để nguyên được ư?
      Nhật-Hồ lão nhân hỏi:
      - Xin Triệu đại hiệp cho biết thế nào là phản nghịch?
      Triệu Thành dõng dạc nói lớn:
      - Các người đây đều thuộc con dân Thiên-tử. Đất của các người chỉ có một quận Giao-chỉ, không hơn, không kém. Thế nhưng các người tiếm xưng Đại-việt. Như vậy không phản nghịch ư?
      Phạm Trạch từ dưới đài nhảy lên, trả lời thay cho sư phụ:
      - Triệu đại hiệp tới đây là khách, chúng tôi lịch sự, để các vị lên đài lễ tổ, đó là một điều thân thiện. Các vị chỉ lễ có một lễ, thực vô phép, không thể tha thứ. Đã vậy còn hống hách với chúng tôi. Bộ các vị chê gươm Đại-việt không sắc ư?
      Dư Tĩnh quát lớn:
      - Các người định đùng số đông áp chế chúng ta ư? Ta đến đây là khách. Các người là chủ. Lớn tiếng đe dọa khách phải chăng chủ trương của võ đạo Giao-chỉ? A ha, hậu thế của Đào Kỳ, Phương-Dung không ngờ hèn quá!
      Tại khán đài phái Đông-a, Tôn Đản cười khoan khoái:
      - Bọn Triệu Thành sắp đánh nhau với bọn Nhật-Hồ rồi. Kể ra bọn Nhật-Hồ tuy ác độc, tà ma, ngoại đạo, tham quyền, ngu dốt, nhưng được cái chúng yêu nước. Hôm trước mình bắt được Nhật-Hồ lão nhân, Vũ Nhất-Trụ, Hoàng Văn, Đặng Trường, Nguyễn Chí. Chỉ cần tung mẻ lưới, vây Ngọc-lan đình, có vồ, giam trọn bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo, coi như dẹp yên cái mầm mống kinh tởm này. Nhưng anh cả cho rằng diệt bọn Hồng-thiết như vậy, uổng mất lòng yêu nước của chúng. Cần thả Nhật-Hồ lão nhân ra dùng lão cùng bọn giáo chúng đối phó với bọn Tống. Anh cả bầy kế cho Nhật-Hồ lão nhân ngồi chủ vị hôm nay, để lão phải đứng ra đối đầu với bọn Triệu Thành. Ta cứ việc ôm gối ngồi cao.
      Trong mười trưởng lão của Hồng-thiết giáo Đại-việt, mỗi người đều có một đường lối hoạt động riêng. Chống Trung-quốc bằng tất cả mọi khả năng như Vũ Nhất-Trụ, Lê Ba, Nguyễn Chí, Phạm Trạch, Lê Đức, Phạm Hổ. Đối với năm người này, cái gì của Trung-quốc cũng xấu hết. Đến độ văn hoá chung của Hoa-Việt như lịch số, thiên văn, y học, Phật-giáo, họ cũng bài xích, muốn xóa bỏ hết. Trong khi cầm quân tranh dành thời Thập-nhị sứ quân, khi họ tới đâu có người Hoa ắt thẳng tay tàn sát. Họ quên mất rằng những triều đại Tần, Hán, Đường, Tống đem quân sang đánh Đại-việt do bọn vua quan ác độc. Chứ dân Hoa với Việt vốn cùng một tổ, đâu có thù hằn gì nhau! Những người Hoa sống ở đất Việt, họ càng đáng thương, vì phải chạy trốn bọn vua chúa tàn bạo, mà rời quê hương ra đi. Tuy chủ trương như vậy, nhưng đối với Hồng-thiết giáo cả sáu người đều trung thành.
      Ngược lại Hoàng Văn vốn người Việt gốc Hoa. Y mang hai giòng máu Hoa-Việt. Đúng ra, với địa vị của y. Y phải dung hoà những mâu thuẫn Hoa-Việt. Y lại thiên hẳn về phía Hoa, đào thêm hố chia rẽ hai dân tộc. Y vốn người của Khu-mật viện nhà Tống sai sang Đại-Việt, tổ chức người Hoa thành đội ngũ, để chờ quân Tống sang, làm nội ứng. Y được phong tước Cổ-loa hầu, phó đô nguyên soái. Chính y dẫn dụ bọn Hoàng Liên theo Tống. Vì vậy, khi y bị Mỹ-Linh đánh bại, bị bắt, Khai-quốc vương không giết y. Vương muốn dùng y như một chứng cớ, tố giác âm mưu bọn Triệu Thành.
      Đặng Trường vốn xuất thân họ Trần. Sau vì ông tổ ba đời phạm tội, phải cải sang họ Đặng. Y xuất thân trong gia đình vọng tộc, tương đối có kiến thức rất rộng. Thủa thơ ấu, y theo Nhật-Hồ lão nhân sang Trung-nguyên, học võ công Trung-nguyên, cho nên y không chống Trung-quốc. Nhưng rất trung thành với Hồng-thiết giáo Đại-việt.
      Đỗ Xích-Thập quả thực ngu dốt nhất trong bọn mười trưởng lão Hồng-thiết. Y xuất thân đệ tử phái Tản-viên. Nhưng vì làm những điều ô danh môn hộ, bị đuổi ra khỏi môn phái, y theo Hồng-thiết giáo. Nhân khi Nhật-Hồ lão nhân bị bọn Lê Ba, Vũ Nhất-Trụ giam dưới hầm. Y tưởng lão chết rồi. Y muốn làm giáo chủ, nhưng quá dốt, nên y đi tìm thế dựa bằng cách theo tên Hoàng Văn, có thể mượn thế Tống triều.
      Nhật-Hồ lão nhân bị giam hai mươi năm, lão mới ra tù, không biết gì đến những thay đổi của đám đệ tử. Từ trước đến nay, võ lâm Đại-Việt cho lão là bọn tà ma, ác quỷ. Không bao giờ Hồng-thiết giáo được mời tham dự những cuộc tế lễ anh hùng. Hôm nay không những lão được mời mà còn được võ lâm Đại-việt cho ngồi vào ghế chủ vị, một ghế cao nhất của các tôn sư. Đến nằm mơ lão cũng không ngờ tới mình lại được danh dự cao như vậy.
      Bây giờ, thình lình bọn Triệu Thành tới quấy phá buổi lễ. Lão là chủ vị, bổn phận lão phải đứng ra đối phó. Bọn đệ tử chống Trung-quốc của lão chỉ thiếu Vũ Nhất-Trụ, không biết Khu-mật viện giam đâu. Còn tất cả đều có mặt. Lê Ba đội lốt đạo sĩ Dương Ẩn, y quên mất mình ở vị tôn sư của phái Sài-Sơn. Y đứng dậy chỉ vào mặt Dư Tĩnh:
      - Chúng ta đang hội nhau, tưởng nhớ công ơn võ lâm tiền bối. Bất cứ kẻ nào đến đây gây rối, chúng ta đều giết sạch. Mi là ai, ta không cần biết. Dù mi có là Ngọc-Hoàng đại đế, Thập-điện Diêm-La cũng phải biết điều.
      Khai-quốc vương đứng hầu bên cạnh phụ hoàng. Vương nghĩ thầm:
      - Ta cần phải đổ thêm dầu vào cho hai bọn này chém giết nhau.
      Nghĩ vậy vương hướng vào Dương Ẩn:
      - Dương đạo sư. Vị này là một đại thần của triều Tống đấy. Về võ, người thuộc phái phái Hoa-sơn, về văn người xuất thân tiến sĩ.
      Dương Ẩn trở lại bình tĩnh:
      - Dù cho Triệu Khuông-Dẫn tới đây cũng phải biết điều, chứ cái thứ tép riu, cá lòng tong này mà cũng hạch sách chúng ta ư?
      Triệu Khuông-Dẫn là thái tổ nhà Tống. Khắp Trung-quốc không ai được nhắc đến tên tục này. Bất cứ người nào nhắc đến bị ghép phạm tội đại bất kính, bị đem chém. Nay Dương Ẩn công khai nhục mạ trước chỗ đông thì còn gì thể thống thiên triều?
      Triệu Thành giận quá, chân tay y run bần bật. Nhưng y không dám cho tùy tùng xử dụng võ công. Vì y biết rằng xử dụng võ công ở đây có khác gì tự tử? Y dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai Địch Thanh:
      - Địch trạng nguyên, kể từ giờ phút này, bất cứ kẻ nào làm nhục thiên triều, trang nguyên phải kiềm chế cho chúng biết oai Trung-quốc.
      Chợt nhìn thấy Thuận-thiên hoàng đế. Y lớn tiếng:
      - Nam-bình vương! Vương gia nhận sắc phong của thiên triều, trấn ngự phương Nam, mà để cho người ta đem húy của đức thái tổ ra nhục mạ thế ư?
      Thuận-thiên hoàng đế mỉm cười:
      - Triệu đại hiệp. Đại hiệp là ái đồ của viện trưởng viện Đạt-ma phái Thiếu-lâm, không lẽ không biết luật lệ võ lâm? Tại hạ đến đây với tư cách đệ tử phái Tiêu-sơn, chứ không phải với tư cách ông vua. Trên đài này, toàn các tôn sư võ phái của giòng giống Việt. Vai vế tại hạ rất nhỏ. Người có quyền, vai vế cao nhất ở đây chỉ có Nhật-Hồ tiên sinh. Đại hiệp gặp điều gì không vừa lòng, cứ khiếu nại với tiên sinh hay hơn.
      Nhật-Hồ lão nhân nghe Thuận-thiên hoàng đế đề cao vai trò của mình, lão hãnh diện, sung sướng ra mặt. Lão đưa mắt nhìn các đệ tử, ngụ ý bảo : « Các người hành động đi chứ? »
      Đỗ Xích-Thập, Hoàng Liên đều nhận sắc phong của Tống. Họ cùng nghĩ rằng: Vạn nhất xẩy ra động thủ, chắc chắn bọn Triệu Thành bị nguy. Bấy giờ không lẽ hai người ngồi nhìn? Mà ra tay viện trợ, e mất mạng. Hoàng Liên vốn người xảo trá bậc nhất. Y thị đứng lên, nói với Triệu Thành:
      - Bình-nam vương gia. Không hiểu cây cờ đây có gì lạ, mà vương gia kết tội chúng tôi bạo nghịch?
      Triệu Thành bình tĩnh trở lại. Y chỉ cây cờ, dõng dạc nói:
      - Võ công các vị dù cao đến đâu, nhưng vẫn phải tuân theo luật lệ của thiên tử. Thiên-tử phong cho Lý Công-Uẩn làm Giao-chỉ quận vương cai quản quận Giao-chỉ, gồm đất từ phía Nam Lưỡng-Quảng, cho đến quận Chiêm-thành. Các vị sống trong đất Giao-chỉ cùng như sống tại Trung-nguyên. Các vị không thể tiếm danh từ một quận, xưng lên một nước. Cây cờ này phải hạ xuống, bỏ chữ Đại-việt đi, thay vào đó bằng chữ Giao-chỉ.
      Triệu Thành cảm thấy dường như kế hoạch của y với Duy-Chính phác hoạ cùng Hoàng Văn ở Cổ-loa bị lộ. Bây giờ sự tình biến đổi đảo lộn hết. Đúng chương trình, sau khi Thuận-thiên hoàng đế đến lễ. Triệu Thành xuất hiện, nhân danh sứ thần thiên triều, thống trách hai việc. Một, tiếm xưng hoàng đế. Hai, tiếm đùng quốc hiệu Đại-việt. Triệu Thành bắt Thuận-thiên hoàng đế theo đúng chiếu chỉ thiên triều, trở lại với tước Nam-bình vương, bỏ niên hiệu Thuận-thiên. Đồng thời bỏ quốc hiệu Đại-việt, trở lại với tên quận Giao-chỉ. Võ lâm Giao-chỉ muốn « được » mang tên Đại-việt, cùng dùng niên hiệu, Thuận-thiên hoàng đế phải thoái vị, nhường ngôi cho Nam-quốc vương triều Lê tức Hồng-Sơn đại phu.
      Sau đó Thành bỏ đi. Bấy giờ bọn Hoàng Văn, Xích-Thập, Hoàng Liên, Nùng Dân-Phú xúm vào thống mạ Thuận-thiên hoàng đế hèn nhát, làm mất quốc thể, bắt phải thoái vị trả ngôi vua về cho Hồng-Sơn đại phu. Nếu ngài chịu thoái vị, Hồng-Sơn đại phu lên ngôi vua. Triều đình văn võ bá quan người bỏ đi, người ngơ ngác. Trong khi võ lâm chia năm xẻ bẩy. Đúng lúc đó, Tống, Chiêm, Lào đem quân vào.
      Ngược lại Thuận-thiên hoàng đế không chịu thoái vị, Hồng-Sơn đại phu sẽ được phái Đông-a phò trợ, khởi binh. Phái Mê-linh đã vào tay Hoàng Liên. Phái Tản-viên vào tay Đỗ Xích-Thập cùng nổi lên tiếp tay. Đợi cho người Việt tàn sát nhau, cuối cùng dù bên nào thắng, Tống cũng đem quân vào. Hoàng Văn sẽ cùng đoàn ngũ người Hoa nổi lên tiếp ứng.
      Như vậy cả hai trường hợp, Tống chiếm Đại-Việt xong, sẽ thừa thế chiếm Chiêm-thành, Lão-qua, Chân-lạp. Bờ cõi phương Nam mở rộng. Bấy giờ có thừa lương thực, cùng binh sĩ, đem lên chiếm Đại-lý. Đại-lý chiếm rồi, thanh thế Tống lớn vô cùng, chỉ đánh một tiếng trống là chiếm được Liêu, Tây-hạ.
      Thế nhưng, bây giờ sự thể đổi khác. Từ hai ngày qua Triệu Thành tìm Hoàng Văn khắp mà không thấy. Nhà của y bị giáp binh chiếm đóng. Tìm Hoàng Liên, Xích-Thập cũng biệt tăm.
      Triệu Thành thấy mười sáu đại tôn sư võ lâm đang ngồi trước mặt. Trong đó có Xích-Thập với Hoàng Liên. Còn lão già Nhật-Hồ, Thành không biết lý lịch.
      Nghe Triệu Thành nói, Dương Ẩn (Lê Ba) cười nhạt:
      - Triệu đại hiệp nói nghe cũng lạ tai. Từ cổ, giữa Lĩnh-nam với Trung-nguyên cương giới đã phân, văn hoá, phong tục có khác. Trung-quốc là Trung-quốc. Đại-việt là Đại-việt. Đại-việt có bắt Trung-quốc phải bỏ tên Trung-quốc để đổi thành Liêu-đông, Quan-ngoại đâu? Tại sao Trung-quốc bắt Đại-việt phải đổi thành Giao-chỉ? Đương kim hoàng đế Tống triều lấy hiệu Thiên-thánh hoàng đế. Đại-việt nào có bắt Thiên-thánh hoàng đế bỏ niên hiệu để trở thành Biện-lương quận vương đâu mà Trung-quốc bắt hoàng đế Đại-việt bỏ niên hiệu Thuận-thiên để trở thành Giao-chị quận vương?
      Y ngừng lại một lát rồi tiếp:
      - Tôi nghĩ, rừng nào, cọp ấy. Trung-quốc có vua Trung-quốc. Đại-việt có vua Đại-việt. Nước sông, nước giếng không ai phạm vào ai sẽ tốt đẹp mọi bề. Các vị là sứ đoàn sang Chiêm-quốc, trở về ngang Đại-việt, đến dự lễ anh hùng nước tôi. Chúng tôi xin kính mời quý vị uống ít chung rượu rồi lên đường cho.
      Vương Duy-Chính thấy Dương Ẩn ngồi sau cây cờ trên thêu hình một kỵ mã. Con ngựa phun ra lửa, y biết Ẩn thuộc phái Sài-sơn. Y nghĩ thầm:
      - Lạ thực. Ta đến đây với mục đích ép Lý Công-Uẩn thoái vị, trả ngôi vua cho chưởng môn phái Sài-sơn Hồng-Sơn đại phu. Tại sao tên đạo sĩ này vốn người của phái Sài-sơn lại làm khó dễ ta?
      Vương Duy-Chính không hiểu cũng phải. Vì ngoài Khu-mật viện Đại-việt, không ai biết chân tướng cùng nguồn gốc của Dương Ẩn. Không ai có thể ngờ Dương Ẩn trong lớp áo đạo sư, thái thượng chưởng môn phái Sài-sơn lại âm thầm theo Hồng-thiết giáo, leo tới chức trưởng lão. Võ công Dương rất cao thâm, ngôi sư thúc của Hồng-Sơn đại phu, một trong Đại-việt ngũ long. Ngoài ra đạo sư Dương Ẩn ít khi xuất hiện. Nên chỉ những đệ tử thân tín mới biết mặt.
      Còn Lê Ba, một ma đầu hạng nhất, nổi tiếng giết người không gớm tay. Giáo-chúng Hồng-thiết cho y cái tên con quỷ dâm dục. Khi y nhìn thấy một người đàn bà nào, mà y nảy lòng ham muốn. Y phải tìm đủ mọi cách để giao hoan cùng người đàn bà đó, với bất cứ giá nào, dù phải hy sinh cả tính mệnh. Y không từ bất cứ người đàn bà nào, dù vợ của thuộc cấp, chị dâu, con dâu. Tuy dốt nát, dâm đãng cùng cực, nhưng mưu đồ của y rất lớn. Y muốn trở thành giáo chủ Hồng-thiết giáo. Nhưng Hồng-thiết giáo bị võ lâm coi như bọn tà ma ngoại đạo. Trong thâm tâm, y tưởng rằng Sài-sơn thế mạnh, ân nhiều, khắp Đại-việt tôn phục vì, sáng tổ là Phù-đổng Thiên-vương. Trong phái, y đóng vai hiền lành đạo đức. Sau này y có lên ngôi giáo chủ, ai dám dị nghị về đạo hạnh của y.
      Hồng-Sơn đại phu nguyên là Nam-quốc vương Lê Long-Mang, ngoài phu nhân ra chỉ duy sư phụ của ông biết thôi. Khi sư phụ của ông từ trần, truyền ngôi chưởng môn cho ông, bị nhiều kẻ chống đối. Ông phải thố lộ lý lịch của ông với sư thúc Dương Ẩn, để nhờ Dương Ẩn giúp đỡ ông. Chính vì thế Dương Ẩn nắm được yếu điểm của ông. Y tự tin, y nắm được cả Hồng-thiết giáo lẫn phái Sài-sơn, rồi đi tới chỗ thống lĩnh võ lâm.
      Thế rồi Hồng-Sơn đại phu ngày càng nổi tiếng. Tài năng càng tăng, khắp nơi đều kính nể. Y muốn khống chế ông thực muôn lần không được. Sau y nghĩ ra một kế, bắt cóc phu nhân của ông là Vũ Thiếu-Nhung, cho Nhật-Hồ lão nhân dùng làm cây thuốc luyện công. Rồi sau đó gài cho truyện này vỡ lở ra. Đương nhiên Hồng-Sơn đại phu phải từ chức và truyền ngôi chưởng môn cho y.
      Khi gài bẫy cho Vũ Nhất-Trụ xuống thăm Nhật-Hồ lão nhân, y những tưởng xông thuốc mê, giam Nhất-Trụ lại, rồi đem Vũ Thiếu-Nhung ra doạ Hồng-Sơn đại phu. Y đương nhiên thống lĩnh đệ tử phái Sài-sơn. Trong đại hội võ lâm này, y cho Lê Đức thống lĩnh giáo chúng dự đại hội. Y sẽ đứng ra khuyên Lê Đức cải tà quy chánh. Lê Đức giả quy thuận phái Sài-sơn. Hồng-thiết giáo đang bị coi như tà ma ngoại đạo, trở thành đệ tử phái Sài-sơn đạo đức nhất nước.
      Nào ngờ Nhật-Hồ lão nhân được Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cứu ra. Khai-quốc vương phóng thích lão. Lão xuất hiện, tha thứ hết tội lỗi cho bọn đệ tử. Bao nhiêu công trình của Lê Ba đều ra mây khói. Cho đến giờ này, quần hùng vẫn chưa biết Lê Ba với Dương Ẩn là một.
      Vương Duy-Chính gật đầu:
      - Những điều Dương đạo sư nói chẳng qua thuộc lý. Lý đó đã mất từ lâu rồi. Thời Tần Thủy-Hòang, vua An-dương sai sứ giả sang tiến cống xưng thần, được phong chức tước. Từ đấy, đất phía Nam thành quận huyện của Trung-quốc. Đến khi Triệu Đà thắng An-dương. Y cũng phải phục tùng, tiến cống xưng thần. Sau này con Đà xin về kinh làm việc, xóa bỏ lĩnh địa Nam-việt. Đến cuối thời Đông-hán, nhân Vương Mãng soán vị ở Trung-quốc, Trưng Trắc nổi lên làm loạn ở Lĩnh-nam.
      Bỗng thấp thoáng, Vương Duy-Chính bị một người tát vào mặt bốp bốp hai cái. Khi y vung tay đỡ, người kia đã lùi lại. Mọi người nhìn xem ai đánh Vương, thì ra Lê Đức. Lê Đức chỉ tay vào mặt Vương Duy-Chính:
      - Trước bàn thờ anh hùng Lĩnh-nam, mà mi dám kêu tên húy của vua Bà ra ư? Cho mi hai cái tát, để liệu mà giữ mồm.
      Đúng ra bản lĩnh Vương Duy-Chính ngang với bọn trưởng lão Hồng-thiết. Nhưng vì trong khi y mãi nói, Lê Đức xuất thủ mau quá, y phản ứng không kịp. Y chửi thề:
      - Võ công đánh trộm mà cũng dương danh ư? Đẹp mặt chưa? Các hạ cho biết cao danh.
      Sư thái Tịnh-Tuệ đáp:
      - Người này là đệ tử thứ tám của Nhật-Hồ lão nhân. Hiện giữ chức trưởng lão của Hồng-thiết giáo.
      Vương Duy-Chính giận căm gan, nhưng y phải ngậm miệng. Y tiếp:
      - Kể từ sau khi Trưng thị bị bại, đất Giao-chỉ lại thuộc về Trung-quốc. Mãi gần đây, thiên triều bận việc ở phương Bắc, mới phong cho Lê Hoàn làm Giao-chỉ quận vương. Con Hoàn là Long-Đĩnh nối ngôi. Y hoang dâm quá, bị bệnh không ngồi được, phải nằm mà thiết triều. Người Việt gọi y bằng Ngọa-triều. Ngọa-triều chết, con còn nhỏ, thiên triều chỉ dụ tìm con trai Lê Hoàn cho kế vị.
      Y ngừng lại, đưa mắt cho Triệu Thành. Triệu Thành tiếp:
      - Nhưng Lý Công-Uẩn âm mưu với Đào Cam-Mộc, Thân Thiệu-Anh tâu rằng Lê Hoàn không còn một người con nào cả. Thiên triều thể theo đó, thuận cho Công-Uẩn tạm làm Giao-chỉ quận vương, để chờ tìm ra con Lê Hoàn sẽ trả ngôi vua về cho. Còn nếu không tìm được, chờ đến khi con Ngọa-triều lớn, sẽ nối ngôi cha. Không may con Ngọa-triều chết.
      Y ngừng lại một lát, đưa mắt nhìn khắp cử toạ một lượt, rồi tiếp:
      - Lý Công-Uẩn lên làm vua đã mười tám năm. Thiên triều năm lần bẩy lượt thúc dục y tìm kiếm con cháu nhà Lê. Y đều trả lời rằng không còn. Thiên triều luôn luôn tưởng nhớ đến Lê Hoàn đã tiến cống xưng thần trong bao năm, không hề lỗi đạo, nên vẫn cố công tìm kiếm con cháu kẻ cô trung. Hay đâu trời không phụ người. Cô gia mới tìm ra được con thứ của Lê Hoàn.
      Hồng-Sơn đại phu là Lê Long-Mang rất ít người biết. Vì vậy khi nghe đến con thứ của vua Lê Đại-Hành còn sống, họ đều im lặng chờ xem là ai.
      Triệu Thành tiếp:
      - Người đó tên Lê Long-Mang, tước phong Nam-quốc vương. Vương ẩn thân ở thôn dã. Về võ công, danh vương lừng lẫy Giao-chỉ. Về ân đức, vương trải khắp Hoa-Việt. Vương xứng đáng làm vua đất Việt.
      Chờ cho mọi người ngơ ngác một lúc, Triệu-Thành chỉ xuống khán đài phái Sài-Sơn:
      - Vương chính thị Hồng-Sơn đại phu.
      Mọi người đều bật lên tiếng ái chà, « ồ » kinh ngạc.
      Triệu Thành lớn tiếng:
      - Thiên triều quyết định hưng diệt, kế tuyệt, cho nên phái cô gia đến đây, để thương lượng với anh hùng Lĩnh-nam rằng: Lý Công-Uẩn phải thoái vị, để trả ngôi vua về cho họ Lê, thiên triều để yên. Bằng không, đại quân Lưỡng-Quảng trên sáu mươi vạn theo đường bộ tiến sang. Thủy quân vùng Mân-Quảng hơn mười vạn sẽ đổ bỗ vào vùng Thanh-Nghệ. Quân Chiêm từ trong tiến lên. Quân Lào từ Tây kéo qua, quyết dẹp Lý Công-Uẩn.
      Y ngừng lại một lát rồi dõng dạc:
      - Khổng-tử nói « Binh đao là hung khí, thánh nhân bất đắc dĩ mới phải dùng ». Nhưng nếu thiên triều không diệt Lý Công-Uẩn, e bọn phản thần tặc tử Trung-quốc sẽ noi gương. Anh hùng, võ lâm Đại-việt chọn Lý tức chọn chiến tranh. Chọn Lê có hòa bình. Chọn Lý chỉ có quận Giao-chỉ, với tước Giao-chỉ quận vương. Phải, bỏ quốc hiệu Đại-việt, bỏ niên hiệu Thuận-thiên hoàng đế. Chọn Lê có quốc hiệu Đại-Việt, với niên hiệu của hoàng đế. Trung-quốc, Đại-Việt kết anh em, đời đời kết thân trong thế môi hở, răng lạnh.
      Lê Đức có học nhất trong đám đệ tử Nhật-Hồ. Y hỏi:
      - Lê làm vua hay Lý làm vua cũng là việc riêng của Đại-việt chúng tôi. Các vị không có quyền xen vào. Các vị hăm mang quân sang đánh ư? Các vị đừng quên hai lần sông Bạch-đằng xác đến giờ chưa tiêu hết. Núi xương ở Chi-lăng vẫn còn đó. Chúng ta há sợ sao? Các người kết tội Lý cướp sự nghiệp của Lê Hoàn. Thế còn Triệu Khuông-Dẫn cướp sự nghiệp của Sài Vinh thì sao? Nói mà không sờ lên gáy.
      Địch Thanh lạng người chặt vào vai Lê Đức. Lê Đức trầm vai tránh khỏi. Địch Thanh chuyển tay thành trảo chụp vào ngực y. Lê Đức xuống trung bình tấn tay trái gạt tay Địch Thanh, tay phải xỉa vào ngực. Địch Thanh thu tay lại, chân quét một cước. Lê Đức nhảy lên cao, phóng vào cổ, mặt y hai cước.
      Địch Thanh đẩy lên cao một chưởng. Chưởng phong bao trùm khắp lễ đài. Lê Đức ở trên cao đá gió một cái, y đáp xuống dưới đài. Y cười lớn:
      - Tên bé con Địch Thanh kia. Ta sợ chạm đến bài vị anh hùng Lĩnh-nam, nên nhường mi. Mi có giỏi xuống đây chọi với ta ngàn chiêu.
      Phạm Trạch cười hích hích, hai môi y rung động như hai quả chuối đen trên mặt:
      - Hôm nay chúng ta giết sạch mấy tên Tống này, lấy gan tế Bắc-bình vương.
      Giáo chúng Hồng-thiết giáo rút vũ khí ra loảng xoảng.

      <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.01.2005 08:52:52 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 12.01.2005 18:49:50 (permalink)
        Hồi thứ năm mươi chín


        Quốc Hiệu Đại Việt



        Thấy nguy, Minh-Thiên đại sư để tay trước miệng hú lên một tiếng vang vang, inh tai nhức óc. Nhưng người công lực thấp phải bịt tai lại, mới đứng vững. Đợi cho giáo chúng Hồng-thiết giáo nghiêng ngả, Minh-Thiên mới ngừng. Ông nói lớn:
        - Các vị định đùng số đông hiếp chế bọn bần tăng ư?
        Khai-Quốc vương nghĩ được một kế. Vương dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai Trần Tự-An. Tự-An mỉm cười bước ra, hướng Minh-Thiên xá một xá:
        - Đại sư! Tại hạ xin mạn phép đề nghị một giải pháp. Mong đại sư nhận cho.
        Minh-Thiên nghĩ rằng Tự-An thân với Hồng-Sơn đại phu, giải pháp đó hẳn có lợi cho Tống. Ông bình tĩnh:
        - Mong đại hiệp chỉ dạy.
        Tự-An hướng Nhật-Hồ lão nhân:
        - Giáo-chủ! Hôm nay giáo chủ ngồi chủ vị của võ lâm Đại-Việt. Mọi trách vụ do giáo chủ. Các vị võ lâm Trung-quốc quả có nhiều điều vô lễ trước bàn thờ tổ. Tội đó khó tha. Vậy tiểu bối đề nghị thế này. Bên Tống cử ra ba người đấu với ba người bên Đại-Việt. Nếu Tống thắng hai, thì giáo chủ tha cho họ về nước. Còn như ta thắng hai, họ phải quỳ gối trước bàn thờ Bắc-bình vương lễ đủ tám lễ, rồi mới cho về. Sau nữa tuyệt đối không được can thiệp vào việc quốc hiệu, niên hiệu Đại-Việt bữa.
        Nhật-Hồ lão nhân được chưởng môn phái Đông-a cung kính tôn làm chủ vị. Lão sướng quá gật đầu:
        - Triệu đại hiệp, xin đại hiệp cử ra ba người đi.
        Triệu Thành đưa mắt cho đám bộ hạ, rồi nói:
        - Cô gia cử ba người ra lĩnh giáo võ công Giao-chỉ. Người đầu tiên sư phụ tại hạ, Minh-Thiên đại sư. Người thứ nhì là Đông-Sơn lão nhân sẽ lĩnh giáo kiếm pháp Giao-chỉ. Người thứ ba trạng nguyên Địch Thanh. Không biết bên Giao-chỉ, ai sẽ ra đấu?
        Nhật-Hồ lão nhân bị giam hai mươi năm, lão không biết sở trường, sở đoản của anh hùng Đại-việt. Lão nghĩ:
        - Đã thế mình chỉ dùng người của Hồng-thiết giáo. Như vậy sau trận này anh hùng thiên hạ sẽ phải khuất phục giáo phái ta đơn phương đánh đuổi bọn Tống. Ta thừa sức hạ lão thầy chùa Minh-Thiên kia rồi. Còn lại Hoàng Liên xuất thân phái Mê-linh, không biết có đàn áp được lão Đông-Sơn không? Còn thằng Địch Thanh này, Nguyễn Chí thừa khả năng đàn áp y.
        Lão vuốt râu mỉm cười:
        - Như vậy còn gì bằng? Lão phu xin lĩnh giáo những cao chiêu của Thiếu-lâm thần tăng. Còn Hoàng Liên sẽ lĩnh giáo kiếm thuật của Đông-Sơn lão nhân. Địch trạng nguyên còn trẻ, phải có người trẻ lĩnh giáo. Trong các đệ tử của lão, Nguyễn Chí trẻ nhất, sẽ xin hầu tiếp Địch trạng nguyên. Không biết bên quý vị ai sẽ xuất thủ trước.
        Sư thái Tịnh-Tuệ nhân danh trưởng ban tổ chức, bà nói:
        - Trên lễ đài này chỉ dành cho đại tôn sư của môn phái, bang hội. Sứ đoàn qua đây, chúng tôi coi như một môn phái. Vậy mời Triệu vương gia ngồi trên lễ đài. Còn tất cả các vị xin xuống khán đài. Bần ni đã dành một chỗ quý trọng cho các vị.
        Triệu Thành đưa mắt cho bộ hạ. Từ Minh-Thiên đến Quách Quỳ đều xuống khán đài ngồi.
        Vương Duy-Chính biết bọn Hồng-thiết giáo sở trường về dùng độc. Y ngăn trước:
        - Tại hạ cũng xin đưa ra thể lệ cuộc đấu. Điều thứ nhất tuyệt đối không dùng thuốc độc, độc chưởng, ám khí. Điều thứ nhì, người ngoài không được trợ giúp. Nếu bên nào phạm vào, coi như bị thua. Điều thứ ba, ai rơi xuống đài, cũng coi như bị thua.
        Thanh-Mai than thầm:
        - Mụ Hoàng Liên nhận chức tước của triều Tống. Không chừng mụ giả thua Đông-Sơn lão nhân, để tha cho bọn Triệu Thành về. Phải làm cách nào giải quyết đây?
        Vương Duy-Chính nói với Địch Thanh:
        - Địch trạng nguyên hãy lĩnh giáo cao chiêu của đệ ngũ trưởng lão Hồng-thiết giáo đi.
        Địch Thanh dạ một tiếng, y tiến đến giữa đài, khoanh tay chờ. Nguyễn Chí từ dưới đài tung mình lên đứng đối diện với Địch Thanh. Hai bên chưa ai muốn xuất thủ trước.
        Ở dưới khán đài, Triệu Huy nhìn thấy Đoàn Huy ngồi trong đám tôn sư võ học. Bây giờ y mới tỉnh ngộ:
        - Thì ra bọn phóng độc ta ở trên sông Hồng-hà là một môn phái võ của Giao-chỉ. Tên cầm đầu ngồi kia, chắc y thuộc loại đại tôn sư. Bọn ta bị trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng, dùng thuốc của Hoàng Văn tạm thoát chết. Còn phấn độc như con quỷ đòi mạng đe dọa bấy lâu. Ta ra công tìm chúng, đòi thuốc giải mấy tháng nay đều tuyệt vô âm tín. Bây giờ không tìm lại thấy nó ngồi ngay trước mắt.
        Triệu Huy tung người người lên đài, chỉ tay vào mặt Đoàn Huy:
        - Thì ra mi! Mi cũng có mặt ở đây sao? Chúng ta tìm mi suốt mấy tháng nay. Thực ông trời có mắt. Hôm nay mi còn trốn được nữa không?
        Nói rồi y nhảy đến vồ Đoàn Huy. Đoàn Huy ngồi im mỉm cười. Từ dưới đài, Chu Minh tung mình lên, chìa bàn tay phải đâm vào lưng Triệu Huy. Triệu Huy đang tấn công Đoàn Huy, y cảm thấy có áp lực đè lên lưng, vội trầm người xuống, vòng tay ra sau gạt. Bộp một tiếng, tay Triệu Huy cảm thấy như chạm vào phiến đá. Trong khi Chu Minh mỉm cười như không coi y vào đâu.
        Triệu Huy nhận ra Chu Minh là người trong bọn vô danh tấn công bọn y trên sông Hồng. Y chỉ mặt Chu Minh:
        - Bọn mi thực khả ố. Bọn mi đã ăn cắp vàng, ngọc, kinh thư của chúng ta, rồi còn phóng độc. Mi mau đưa thuốc giải độc ra đây. Bằng không mất mạng ngay lập tức.
        Chu Minh làm tới một trong tam công Đại-lý, văn võ toàn tài. Hôm trước Đoàn Huy với y giao chiến cùng đám Triệu Thành. Bên phía y nhờ có Chu An-Bình giúp sức. Bình phóng phấn độc vào kinh thư, rồi trả cho bọn Tống. Bọn Tống truyền tay nhau, đều trúng độc. Sau đó hai bên không gặp lại nữa. Hôm nay, vô tình cả hai tao phùng. Chu Minh hiểu Triệu Huy muốn nói gì rồi, nhưng y giả tảng:
        - Người là An-vũ sứ của Quảng-tây đấy ư? Dường như người đứng hàng thứ ba trong Tung-sơn tạm kiệt thì phải? Tại sao giữa lúc ngũ trưởng lão Hồng-thiết giáo sắp đấu với trạng nguyên Địch Thanh, mà mi lại lên đài đánh trộm vào lưng Trấn-Nam vương của ta? Mi có điên không?
        Triệu Huy bị trúng độc, đau đớn, lo sợ khốn khổ mấy tháng qua, lòng căm thù ngun ngút cháy. Bây giờ thấy kẻ thù, Triệu Huy y trút tất cả lên đầu Chu Minh:
        - Mi không đem thuốc giải ra, một mi chết. Hai cả chúng ta cùng chết.
        Nói rồi y phát chiêu tấn công Chu Minh. Chu Minh vừa đỡ, vừa lùi. Sau ba hiệp, y nói:
        - Triệu an vũ sứ. Người đến đây lễ tổ tiên ta người vai khách, ta vai chủ. Ta nhường người ba chiêu cũng đủ rồi. Người nói cái gì? Thuốc giải gì tại hạ không hiểu.
        Y đánh ra một quyền đến vù. Triệu Huy vung tay gạt. Nhưng Chu Minh đánh hư chiêu. Triệu Huy đỡ hụt. Y nổi quạu:
        - Con bà tụi Nam-man.
        Chu Minh nhảy lui lại hỏi:
        - Người nói sao?
        Biết mình lỡ mồm, có thể mất mạng như chơi. Y lảng sang truyện khác:
        - Mi có mau đưa thuốc giải ra không?
        Dư Tĩnh từ dưới đài nhảy lên. Y đến trước Đoàn Huy:
        - Đoàn vương gia. Xin vương gia ban thuốc giải.
        Đoàn Huy đứng dậy, ông nói thực lớn:
        - Anh hùng thiên hạ chứng minh cho. Chúng tôi xuất thân phái Thiên-tượng. Từ mấy trăm năm nay, Thiên-tượng nổi danh môn chính phái. Đến phi tiễn, ám khí cũng không dùng chất độc, chúng tôi đâu biết phóng độc hại các vị, mà các vị đòi thuốc giải?
        Cho đến bây giờ bọn Triệu Thành mới biết mình đã giao chiến với phái Thiên-tượng của Đại-lý. Y tự chửi thầm:
        - Mình ngu thực. Hôm đầu, mình thấy Dực-thánh vương nói rằng võ công bọn này không thuộc bất cứ môn phái nào của Đại-việt. Trong khi chúng nói tiếng Việt rất rõ ràng, hẳn phải biết chúng thuộc Đại-lý hay Mân-Việt chứ? Ôi thôi, thế thì bao nhiêu thư tín, tấu chương, mật kế cùng vàng ngọc châu báu của mình vào tay bọn Đại-lý rồi. Nguy thực. Bằng mọi giá, phải đòi thuốc giải. E không chỉ còn mấy ngày nữa tất cả bọn mình phải chết.
        Nghĩ vậy y nói với Đoàn Huy:
        - Trấn-nam vương. Nếu vương gia không ban thuốc giải, e tất cả anh em tại hạ đành liều mạng bồi tiếp quân tử.
        Sư thái Tịnh-Tuệ lách mình một cái, bà đã đứng trước Triệu Huy với Chu Minh:
        - Giữa sứ đoàn với phái Thiên-tượng có ân oán, xin chờ dịp khác. Ở đây sứ đoàn với võ lâm Đại-Việt đang có cuộc đua tài. Vậy xin các vị không có nhiệm vụ về chỗ cho.
        Dư Tĩnh, Triệu Huy đành về chỗ ngồi.
        Địch Thanh với Nguyễn Chí đứng đối diện thủ thế. Cả hai cùng chưa hiểu chút gì về nguồn gốc võ học của nhau. Thình lình Địch Thanh tung một cước vào giữa ngực Nguyễn Chí. Nguyễn Chí lùi lại một bước, chờ chân Địch Thanh lướt qua, y khẽ đẩy theo đà chân Địch Thanh. Địch Thanh đá hụt, sức của mình đã mạnh, lại thêm sức Nguyễn Chí, người y quay tròn.
        Nhanh trí, y vọt lên cao, tấn công vào đỉnh đầu Nguyễn Chí bằng một quyền đến vù một cái. Nguyễn Chí lộn một vòng, người y bật ra xa.
        Hai bên thăm dò, chiết với nhau mấy chiêu, vẫn chưa rõ bản lĩnh đối thủ ra sao. Nguyễn Chí phóng thẳng một chưởng về phía trước. Bây giờ y mới vận đủ mười thành công lực. Kình lực làm lễ đài rung động. Địch Thanh biết không đừng được. Y trả lại một chiêu Tuyết lạc Hoa-sơn. Hai chưởng gặp nhau, ầm một tiếng. Áp lực trên đài mạnh quá, khiến những nhạc công cạnh đài, phải nhảy ra xa để khỏi bị sức ép làm vỡ ngực.
        Cả hai cùng lui lại, gườm gườm nhìn nhau.
        Dưới đài, Mỹ-Linh hỏi Thanh-Mai:
        - « Thím » hai này. Thím thử nghĩ xem, ai sẽ thắng?
        - Khó biết lắm. Hai bên cùng kinh nghiệm chiến đấu. Nếu Nguyễn Chí dùng hết sức trong hai trăm chiêu đầu sẽ thắng Địch Thanh. Vì Hồng-thiết công thiên về dương cương. Khi xử dụng như sét nổ, bởi vậy hao tốn công lực vô cùng. Còn thần công Hoa-sơn, trong cương có nhu. Ngoài hai trăm chiêu, công lực vẫn chưa cạn.
        Trên đài Nguyễn Chí cũng biết vậy. Y tấn công ráo riết. Địch Thanh chỉ đánh cầm chừng. Cứ mười chiêu, y mới trả một chiêu. Lối đánh của hai người đều già dặn, vững chắc.
        Dưới đài, các gia, các phái đều nín thở theo dõi. Lần đầu tiên họ được thấy võ công Trung-nguyên đấu với võ công Hồng-thiết. Mà cả hai đều thuộc đệ nhất cao thủ.
        Chiêu số của Địch Thanh biến ảo khôn lường. Còn chiêu số của Nguyễn Chí cực kỳ dũng mãnh, thâm độc. Bình, bình, bình. Nguyễn Chí đánh liền ba chiêu như sét nổ. Địch Thanh ung dung đỡ. Nhưng mỗi lần đỡ, người y rung động cực mạnh.
        Bọn Thanh-Mai, Mỹ-Linh đang mải mê xem trận đấu thì Ngô Thường-Kiệt đã trở về. Nó ôm cổ Mỹ-Linh nói vào tai nàng:
        - Cô ơi! Con tìm thấy cô Bảo-Hòa rồi.
        Mỹ-Linh mừng quá, nàng hỏi:
        - Cô Bảo-Hòa đâu con?
        Thường-Kiệt chỉ vào khu giáo chúng Hồng-thiết:
        - Kìa cô Bảo-Hòa với chú Thiệu-Thái kìa.
        Mỹ-Linh, Thanh-Mai suýt bật cười, vì thấy hai người trong lớp quần áo giáo chúng Hồng-thiết. Thanh-Mai dặn Thường-Kiệt:
        - Con nói sẽ với cô Bảo-Hòa rằng khi nào thấy cô đưa tay phất trước mặt một lần phải lên đài can thiệp. Còn thấy cô chắp hai tay lại, đến lượt chú Thiệu-Thái phải xuất hiện.
        Ngô Thường-Kiệt dạ một tiếng rồi nó len lỏi giữa đám người lớn tìm đến chỗ Bảo-Hòa.
        Trên đài, cuộc đấu giữa Địch Thanh với Nguyễn Chí diễn ra ác liệt. Một bên là võ trạng Trung-nguyên. Một bên là trưởng lão Hồng-thiết giáo, nội công thâm hậu.
        Thình lình Nguyễn Chí đánh ra một chưởng rất kỳ ảo. Địch Thanh lui một bước đỡ. Binh một tiếng. Người Địch Thanh lảo đảo. Nguyễn Chí đánh tiếp chiêu thứ nhì. Địch Thanh lui tới mé đài.
        Bọn Triệu Thành kinh ngạc vô cùng, vì hai chiêu Nguyễn Chí đánh ra không có gì đặc biệt, mà sao Địch Thanh lại không đỡ nổi?
        Không ai hiểu rõ nguyên lý. Nhưng phía khán giả, chỗ đệ tử phái Mê-linh cùng bật lên tiếng kêu:
        - Thiết kình phi chưởng.
        Địch Thanh vọt lên cao, đáp giữa đài, y phản lại bằng hai chưởng.
        Thanh-Mai không hiểu gì, nàng hỏi Mỹ-Linh:
        - Sư muội! Thiết kình phi chưởng thuộc võ công của phái nào vậy? Chị thấy hai chiêu vừa rồi hơi giống võ công của Tôn Đản.
        Tôn Đản nói sẽ đáp:
        - Đúng đấy. Trong hai chiêu vừa rồi, chiêu đầu tên Kình ngư thăng thiên. Chiêu sau tên Kình ngư chuyển vĩ. Nguyên phái Mê-linh gồm có di thần các phái Cửu-chân, Hoa-lư, Long-biên thời vua Trưng hợp lại. Vì vậy võ công cuả họ bao gồm tinh hoa của ba phái trên. Vừa rồi Nguyễn Chí xử dụng võ công Cửu-chân, nên đệ tử phái Mê-linh nhận ra ngay.
        Tự-Mai nhớ lại một điều, nó ghé tai chị:
        - Trước đây bố thường nói rằng võ công Cửu-chân do Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung chế ra, nhằm khắc chế võ công Trung-nguyên. Vì vậy Nguyễn Chí đánh ba chiêu làm cho Địch Thanh lạc bại.
        Mỹ-Linh tường thuật sơ lược trận đấu giữa nàng với Hoàng Văn. Nàng dùng võ công Tiêu-sơn thì thắng được y. Ngược lại dùng võ công Cửu-chân lại suýt bị bại, rồi kiết luận:
        - Khi gặp võ công Trung-quốc, mà nguồn gốc có trước thời Hán, mình dùng võ công Cửu-chân mới hiệu nghiệm. Còn võ công Trung-quốc xuất hiện sau thời Hán sẽ vô hiệu. Như tên Địch Thanh, võ công y thuộc võ công phái Hoa-sơn. Mà tổ sư phái Hoa-sơn nguyên xuất thân từ phái Tương-dương thời Hán. Vì vậy mấy chiêu Thiết-kình phi chưởng Cửu-chân, Nguyễn Chí đánh ra làm cho y choáng váng.
        Tự-Mai hỏi Tôn Đản:
        - Không hiểu sao Nguyễn-Chí lại chỉ biết có mấy chiêu đó thôi? Anh Đản này. Anh biết nhiều về võ công Cửu-chân, anh có thể mách nước cho Chí không?
        Cao Huyền-Nga giả làm một nữ đệ tử phái Đông-a. Bà đã hóa trang thành người có khuôn mặt khác hẳn, để tránh tai mắt bọn Hồng-thiết giáo. Bà ngồi im, quan sát các biến chuyển, nghe hai con, cùng các bạn đàm đạo. Bà thấy con trai không hiểu gì về Nguyễn Chí, bây giờ bà mới lên tiếng:
        - Trước đây Nguyễn Chí từng thống lĩnh giáo-chúng vùng Cửu-chân một thời gian dài. Vì vậy y học được mấy chiêu võ công Cửu-chân. Còn nội công thực không rõ.
        Trần Kiệt bảo Tôn Đản:
        - Cháu len lỏi lại chỗ Hồng-thiết giáo, tìm cách mách cho Nguyễn Chí xử dụng võ công Cửu-chân, mới hy vọng thắng Địch Thanh. Cơ chừng này, chỉ mấy chục chiêu nữa Nguyễn Chí bại đến nơi rồi.
        Tôn Đản đứng lên. Nó cùng Tự-Mai chạy lại chỗ giáo chúng Hồng-thiết. Không khó khăn, nó tìm ra chỗ đứng của Phạm Trạch. Thấy Phạm Trạch đang nói truyện với Phạm Hổ, Lê Đức. Tự-Mai nói thầm với Tôn Đản:
        - Đản này, hôm trước chúng ta cùng chị Mỹ-Linh đi cứu bá mẫu. Vô tình được biết mặt hết bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo. Nhưng bọn chúng lại không biết mặt chúng mình. Trong mười tên trưởng lão Hồng-thiết giáo, chỉ duy hai tên Vũ Nhất-Trụ, Nguyễn Chí đã biết mặt anh em mình hôm dự cuộc thẩm vấn chúng tại Khu-mật viện. Bây giờ mình đóng vai trẻ con được.
        Giáo chúng Hồng-thiết giáo thấy hai thiếu niên len lỏi vào khu vực của mình, họ ngăn lại:
        - Hai chú em. Hai chú đi đâu đây?
        Tự-Mai đã được Khu-mật viện cung cấp cho những tín hiệu mật khẩu của Hồng-thiết giáo. Nó trả lời:
        - Đi tự tử.
        Tên giáo chúng thấy Tự-Mai trả lời đúng mật khẩu hỏi tiếp:
        - Uống máu chưa?
        Câu này có nghĩa:
        - Chú thuộc cơ đội nào?
        Tự-Mai đưa ngón tay cái chỉ lên trời. Cử chỉ này có nghĩa rằng:
        - Tôi thuộc đội thông tin.
        Tên giáo chúng để hai đứa tự do. Chúng đến bên bọn thủ lĩnh đang tụ tập với nhau, bàn tán làm sao giúp Nguyễn Chí thắng Địch Thanh. Phạm Trạch hỏi một thủ lĩnh giáo chúng vùng Cửu-chân:
        - Người có biết ngũ trưởng lão học võ công Cửu-chân ở đâu không?
        - Đệ tử không biết rõ cho lắm. Hồi hơn hai mươi năm trước đệ tử thấy đệ ngũ lão gia luyện võ công Cửu-chân. Lão gia nói rằng người biết xử dụng ba chiêu Thiết-kình phi chưởng toàn vẹn. Còn lại, người chỉ biết phát chiêu, mà không biết vận khí.
        - Người có biết Thiết kình phi chưởng gồm bao nhiêu chiêu không?
        - Đệ tử không rõ.
        Trên đài, hai cao thủ bậc nhất tiếp tục phát chiêu. Mỗi chiêu Địch Thanh đánh ra, Nguyễn Chí phải vận hết công lực đỡ, râu tóc lão đựng đứng lên. Ngược lại mỗi chiêu Nguyễn Chí đánh ra, Địch Thanh phải lùi lại hai bước.
        Phía bên Tống, Dư Tĩnh hỏi Đông-Sơn lão nhân:
        - Sư phụ. Đệ tử thấy Địch đệ thắng khắp quần hùng Trung-nguyên, mà không hạ được lão già kia, thực võ ông Giao-chỉ cao thâm không biết đâu mà lường. Như vậy bọn Đại-việt ngũ long hay lão già Nhật-Hồ kia công lực sẽ cao đến đâu?
        Đông-Sơn lão nhân lắc đầu:
        - Người nên nhớ bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo đều là những quái kiệt võ lâm Giao-chỉ. Tên nào cũng trên bẩy mươi tuổi, kinh nghiệm sâu sa, công lực dồi dào. Chúng học võ của Hồng-thiết thần công, rồi học thêm võ công Giao-chỉ. Cho nên chúng bác học vô cùng. Bản lĩnh chúng chưa chắc thua Đại-Việt ngũ long làm bao đâu.
        Trên đài, Nguyễn Chí lại phát chiêu Thiết kình thăng thiên của phái Cửu-chân. Binh một tiếng, Địch Thanh loạng choạng lui lại hai ba bước. Tôn Đản cất tiếng ca thực lớn:

        Kình nhập biển Đông,
        Khí tụ Đản-trung,
        Truyền khắp lồng ngực,
        Phát chiêu cầu vòng.


        Trên đài, Nguyễn Chí biết sau khi phát chiêu Thiết-kình thăng thiên phải chuyển qua chiêu Kình-nhập biển Đông. Tay trái từ trên cao quay một vòng xuống dưới, rồi chuyển thẳng về trước. Khi kình lực phát ra rồi, tay phải đang từ dưới đẩy lên. Hai kình lực như mũi dùi quay tròn đâm thẳng ra. Nhưng y không biết vận khí ra sao. Giữa lúc đó, nghe tiếng Tôn Đản la lớn lên phép vận khí. Chân khí của y tòng tâm chuyển theo hai tay.
        Địch Thanh vừa bị chiêu Thiết-kình thăng thiên, tuy không mạnh hơn các chiêu trước của Nguyễn Chí làm bao, nhưng trong chưởng bao hàm sát thủ khủng khiếp, khắc chế chưởng pháp của y, khiến căn bản y tự tuyệt. Y lui lại ba bước. Nguyễn Chí không cho y thở, đánh thêm chiêu Kình-nhập biển Đông. Binh một tiếng nữa, Địch Thanh cảm thấy trời long đất lở.
        Nói thì chậm, chứ từ lúc Nguyễn Chí phát chiêu Thiết-kình thăng thiên. Tôn Đản đọc tâm pháp. Nguyễn Chí phát chiêu Kình-nhập Đông-hải chỉ thoáng cái. Tôn Đản đọc tiếp:

        Đuôi kình đập sóng.
        Vận khí tâm không,
        Ý chuyển bụng dưới.
        Toả ra song song.


        Trên đài Nguyễn Chí co tay trái lại. Tay phải chém ngang vào ngực đối thủ, thành chiêu Kình vĩ lăng ba tức đuôi cá kình đập sóng bay lên. Trong khi đó y vận khí như Tôn Đản.
        Bình, Địch Thanh nghiến răng đỡ, y lảo đảo muốn ngã.
        Cứ như thế, Tôn Đản đọc đến chiêu Ngũ kình đồng du thuộc chiêu thứ mười, Địch Thanh không đỡ nổi nữa. Y bay bổng lên cao, rơi xuống giữa đài, miệng ứa máu ra.
        Tôn Đản ngừng đọc. Nguyễn Chí thấy Địch Thanh ngã. Y mỉm cười:
        - Địch trạng nguyên, người thua rồi!
        Địch Thanh nghiến răng, từ từ đứng dậy. Nhưng y lảo đảo, ngã ngồi xuống. Theo luật lệ võ lâm, trong khi giao đấu, đối thủ thọ thương, không cử động được, người phát chiêu phải đỡ dậy. Nguyễn Chí thấy Địch Thanh quằn quại, y chạy lại đỡ hắn lên.
        Thình lình Địch Thanh chụm hai tay vào nhau, đẩy thẳng vào ngực Nguyễn Chí một chưởng như trời long đất lở. Bình một tiếng. Nguyễn Chí bay bổng khỏi đài, rơi xuống ngay trước khán đài của phái Tiêu-sơn. Mọi người kêu thét lên. Lê Đức chạy lại đỡ sư huynh. Nguyễn Chí nhăn nhó, y mửa ra búng máu tươi, rồi lắc đầu, không ngồi dậy được.
        Lê Đức nhảy lên đài chỉ vào mặt Địch Thanh:
        - Nhục nhã cho mi, xuất thân là một trạng nguyên, thuộc danh môn chính phái, mà có hành vi đê tiện như vậy sao? Trận này không kể.
        Dư Tĩnh cũng nhảy lên đài:
        - Tôi hỏi Lê trưởng lão câu này nhé. Khi mới đấu, sư thái Tịnh-Tuệ đã nói: Ai rơi xuống đài coi như thua. Sư đệ của tôi tuy ngã, nhưng ngã trên đài. Còn Nguyễn trưởng lão rơi xuống đài rõ ràng. Hơn nữa sư đệ của tôi dùng trí mà thắng Nguyễn trưởng lão. Dùng trí hay dùng lực mà thắng cũng là thắng.
        Dư Tĩnh đưa mắt nhìn xuống khu giáo chúng Hồng-thiết để tìm xem kẻ nào đã nhắc đòn cho Nguyễn Chí. Bất giác y giật mình, vì nhận ra Trần Tự-Mai với Tôn Đản hai thiếu niên y đã gặp trên núi Chung-chinh, rồi trong đại hội Lệ-hải Bà-vương. Sau cùng hai thiếu niên này làm cho bọn y khốn đốn ở Thiên-trường. Y tự hỏi:
        - Hai thằng này tại sao lại đứng trong đám đệ tử Hồng-thiết giáo?
        Y lên tiếng:
        - Kẻ nào đã lên tiếng đọc tâm pháp võ công? Nếu là anh hùng hảo hán, hãy lên đây đối thoại với ta!
        Tôn Đản vốn gan cùng mình. Nó như con nghé tơ, không sợ bất cứ cái gì. Nó vọt mình lên đài, khoanh tay, ưỡn ngực:
        - Tại hạ họ Tôn tên Đản, người trấn Thanh-hóa, xin sẵn sàng đối đáp với Dư đại hiệp.
        Dư Tĩnh chỉ Nguyễn-Chí:
        - Trước khi đấu, sư thái Tịnh-Tuệ nói rằng cấm người ngoài cuộc không được trợ giúp kẻ đang ở đấu trường. Tại sao tiểu huynh đệ lại giúp trưởng lão Nguyễn Chí?
        Tôn Đản cười lớn:
        - Anh hùng thiên hạ xin chứng giám cho. Tôi mới bằng này tuổi. Trong khi ngũ trưởng lão tuổi đã trên thất tuần. Tôi e, khi người nổi danh thiên hạ, thống lĩnh giáo chúng Hồng-thiết giáo nổi dậy ở Cửu-chân, lúc ấy thân phụ tôi chưa ra đời. Võ công người cao thâm biết chừng nào, mà bảo tôi trợ giúp người ư? Thực vô lý.
        Nó cười:
        - Dư đại hiệp bảo tôi giúp ngũ trưởng lão, đọc tâm pháp, vậy đó là tâm pháp gì? Tôi đâu biết võ công Hồng-thiết giáo!
        Dư Tĩnh lắc đầu:
        - Dĩ nhiên tiểu huynh đệ không biết võ công Hồng-thiết giáo. Tiểu huynh đệ đọc tâm pháp võ công phái khác ra, nên y mới đánh ngã Địch đệ cuả tôi.
        Những người ở gần chỗ đứng của Tôn Đản đều nghe thấy nó đọc một số câu tâm pháp, nhưng nay nghe nó cãi lý, cũng phải bật cười:
        - Đúng rồi.
        Tôn Đản chỉ cãi lý với Dư Tĩnh, chứ nó không qua mặt được những người của phái Mê-linh. Khi nó mới cất tiếng đọc, những người phái Mê-linh biết ngay đây thuộc tâm pháp võ công Cửu-chân xưa. Nay thuộc phái Mê-linh.
        Sư thái Tịnh-Huyền đã biết nhiều về Tôn Đản. Hôm mới gặp nó lần đầu, chính bà thấy nó dùng võ công Cửu-chân, Tản-viên thắng Quách Quỳ. Bấy giờ bản lĩnh nó còn rất non nớt. Vừa rồi nghe nó đọc tâm pháp Thiết-kình phi chưởng, bà thấy nó biết rất nhiều chiêu, mà chính phái Mê-linh cũng không ai biết. Bà dùng Lăng-không truyền ngữ nói với sư tỷ Tịnh-Tuệ:
        - Sư tỷ, thiếu niên này quả biết rất nhiều võ công Cửu-chân. Những chiêu Nguyễn Chí vừa đánh ra, chính y đã đọc tâm pháp lên, chứ không sai tý nào.
        Sư thái Tịnh-Tuệ là thần ni, chí công, vô tư. Bà gật đầu:
        - A-di-đà Phật. Dù Tôn tiểu thí chủ có nhắc ngũ trưởng lão hay không Địch trạng nguyên cũng thắng rồi. Xin các vị xuống đài cho. Bây giờ sang trận đấu thứ nhì. Nào mời Đông-Sơn lão nhân lên đài đấu với đệ thập trưởng lão Hồng-thiết giáo Hoàng Liên.
        Sư thái Tịnh-Tuệ không muốn Hoàng Liên nhân danh phái Mê-linh, đấu với Tống. Bà muốn cho mọi người biết, trận này Hồng-thiết giáo đấu với Tống, chứ không phải Đại-việt. Được, thua không liên quan gì tới phái Mê-linh.
        Hoàng Liên rời khỏi chỗ ngồi. Mụ khoan thai ra đứng giữa đài. Một tay cầm đốc kiếm. Một tay bắt kiếm quyết. Võ lâm Đại-việt vỗ tay hoan hô rung động quảng trường.
        Đông-Sơn lão nhân từ chỗ ngồi của sứ đoàn, vọt mình lên cao. Ở trên không y lộn liền ba vòng. Trong khi đang rơi xuống, y chắp tay hướng bốn phương thi lễ. Võ lâm lại hoan hô vang dậy.
        Đông-Sơn lão nhân chắp tay hướng Hoàng Liên:
        - Hoa-sơn hậu học Đông-Sơn xin được lĩnh giáo cao chiêu của di đồ Vạn-tín hầu Lý Thân.
        Toàn phái Mê-Linh nghe Đông-Sơn nói vậy, đều hiểu rằng kiếm thuật y rất cao minh. Y biết bên Đại-việt có pho Long-biên kiếm pháp khắc chế kiếm pháp Trung-nguyên. Không những y không sợ, mà còn thách thức nữa.
        Hoàng Liên tuy xuất thân phái Mê-linh, một trong danh môn chính phái. Nhưng y thị lại sa đọa nhất võ lâm, thân danh tàn tạ. Không cần lễ nghi. Y thị rút kiếm quay một vòng, rồi đẩy về trước.
        Dưới khán đài phái Đông-a, Tôn Đản, Tự-Mai đã trở về chỗ ngồi. Mỹ-Linh kéo Tôn Đản lại ngồi bên cạnh, khen:
        - Em giỏi thực, giúp Nguyễn Chí thành công. Tiếc rằng xưa nay bọn Hồng-thiết vốn xảo quyệt, mà lại không ngờ đến việc người ta xảo quyệt với mình, thành ra bị bại.
        Trần Kiệt bảo bọn Thanh-Mai:
        - Các cháu phải chú ý theo dõi kiếm pháp Hoa-sơn. Tham vọng bọn Tống còn dài. Chiến tranh Tống-Việt không biết lúc nào diễn ra. Ta nghiên cứu võ công của chúng, rồi chế ra các thức khắc chế, cho người sau dùng, như Vạn-tín hầu xưa.
        Mỹ-Linh, Thanh-Mai nghe Trần Kiệt nói, bất giác cả hai cùng nhìn nhau, trong lòng rộn lên những niềm vui vô cùng. Hơn ai hết, từ Thuận-thiên hoàng đế cho đến bách quan Đại-Việt đều lo lắng không ít về phái Sài-sơn với Đông-a. Sài-sơn đứng đầu về đạo đức, ân nghĩa thấm khắp đất nước. Đông-a nổi danh hào sảng, anh hùng. Cả hai phái, người nhiều, thế mạnh. Gần hai mươi năm qua, triều đình dùng đủ cách lấy lòng tôn sư hai phái, mà không được. Trong khi đó Tống cứ rình rập mua chuộc võ lâm Đại-việt để đem quân xâm chiềm.
        Thuận-thiên hoàng đế chỉ ước mong vạn nhất Tống mang quân sang, phái Đông-a không theo Tống chống triều đình cũng may mắn rồi, chứ chẳng hy vọng gì phái này cùng hợp tác chống giặc. Mối lo nghĩ này, Khai-quốc vương thường thố lộ với Thanh-Mai, Mỹ-Linh. Hai chị em đã tiết lộ cho vương biết rằng đối với năm ông cầm đầu phái Đông-a, chỉ cần lấy chính nghĩa ra nói truyện cũng đủ. Tuy vậy cho đến đêm hôm qua vương cũng chưa tin tưởng lắm, vì lo sợ Thiên-trường ngũ kiệt sẽ vì mối thâm giao hai đời với Lê triều, mà theo chủ trương của Hồng-sơn đại phu. Vô tình làm lợi cho Tống.
        Nay nghe cái túi khôn của Thiên-trường ngũ kiệt là Trần Kiệt dặn chị em phải nghiên cứu kiếm pháp Hoa-sơn, để chuẩn bị thế phòng Tống sẵn, hai chị em hiểu rằng trong tâm các ông chỉ biết có đất nước trên hết.
        Mỹ-Linh nói nhỏ với Thanh-Mai:
        - Từ đây đến chỗ chú hai xa quá. Nếu dùng Lăng-không truyền ngữ, cần có nội công thượng thừa. Trong bọn mình, thím có công lực cao nhất. Vậy thím tường trình cho ông nội với chú biết tình hình đi.
        Thanh-Mai vận khí, dẫn về Đốc-mạch, tới huyệt Mệnh-môn, chuyển qua Nhâm-mạch, đưa vào trung đơn điền. Nàng hướng Lý Long phát âm:
        - Thanh-Mai đây. Anh có nghe được không.
        - Anh nghe rất rõ. Nội công em cao thực. Có tin gì về phái Đông-a không?
        - Có.
        Rồi nàng trình bầy tất cả diễn tiến.
        Khai-quốc vương nói:
        - Tôn Đản với Tự-Mai hay thực. Đừng chạy đâu, lát nữa có việc.
        Trên đài Hoàng Liên ra chiêu Yến tử thoát sào như con chim én bay vọt khỏi tổ. Chiêu số rất ảo diệu, có sát thủ kinh người. Mỹ-Linh than thầm:
        - Mụ này thực vô lễ. Khi mới giao đấu mà ra chiêu này, còn gì lễ nghi Âu-lạc của Vạn-tín hầu nữa.
        Đông-Sơn lão nhân thấy chiêu kiếm hiểm độc, khắc chế với võ công của lão. Lão vọt người lên cao tránh khỏi. Hoàng Liên chuyển kiếm hướng mũi lên trời. Đông-Sơn lão nhân co chân lại, chĩa kiếm xuống quay một vòng. Mũi kiếm của lão trúng mũi kiếm Hoàng Liên. Lão đẩy mạnh một cái, hai thanh kiếm cong đi. Người lão bay vọt lên cao. Ở trên cao, lão đá gió hai lần người tà tà đáp xuống.
        Trong khi đó Hoàng Liên cảm thấy cánh tay tê rần, kiếm suýt rơi xuống sàn. Khi Đông-Sơn lão nhân đáp xuống, mụ không truy kích được.
        Qua một chiêu, hai đối thủ đã biết sức nhau, cùng cầm kiếm đứng nhìn, chờ đợi.
        Cho đến bây giờ, khán giả mới kịp vỗ tay hoan hô.
        Mỹ-Linh suýt xoa:
        - Mụ Hoàng Liên hiếu thắng, thành ra quên mất căn bản kiếm pháp Mê-Linh. Phàm kiếm pháp bản môn dùng kiếm chiêu, chứ không dùng kiếm khí. Dùng mau thắng chậm. Khi phát chiêu, đối thủ mất căn bản, lập tức chuyển chiêu khác, sao cho như mây trôi, nước chảy, đối thủ không còn trở tay kịp. Đây mụ đối chiêu với Đông-Sơn lão nhân, hoá ra dùng kiếm khí. Tức lấy sở đoản của mình, chống với sở trường của địch. Hỏng!
        Đông-Sơn lão nhân đưa kiếm quay một vòng, tia kiếm như một ánh chớp, rồi biến thành mấy chục chiêu, bao trùm khu đầu Hoàng Liên. Mụ không sợ, thụp người xuống, đưa mũi kiếm xuyên vào giữa vòng kiếm quang của Đông-Sơn lão nhân.
        Lão bước sang trái hai bước, đẩy ngược lại một chiêu. Thế là hai người quay tròn lấy nhau. Kiếm của Hoàng Liên cực kỳ tinh diệu, khi phải đấy, mà lại thành trái. Khi trái đấy, mà lại thành phải. Hư hư, thực thực.
        Vũ Anh hỏi Mỹ-Linh:
        - Công chúa! Tôi nghe công chúa học được trọn vẹn Long-biên kiếm pháp. Công chúa thấy kiếm pháp của Hoàng-Liên ra sao?
        Nghe Vũ-Anh hỏi, Mỹ-Linh nghĩ thầm:
        - Ông này là một trong Thiên-trường ngũ kiệt, võ công, kiến thức trùm đất Việt. Thế mà ông lại hỏi ý kiến mình. Hẳn ông muốn trắc nghiệm mình đây. Chứ không lẽ ông không biết? Mình cứ trình bầy thực, có gì sơ xuất, ông sẽ chỉ cho.
        Nghĩ vậy nàng đáp:
        - Thưa sư thúc. Xưa Vạn-tín hầu đấu với anh hùng Trung-nguyên, nhân đó thu thập tinh hoa kiếm pháp của họ lại, rồi tìm ra nội công, cùng chiếu số khắc chế. Pho kiếm ấy đặt tên Long-biên kiếm pháp. Kiếm có 72 thức. Mỗi thức 36 biến hoá căn cứ vào tám quẻ của kinh Dịch gồm Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Lý, Khôn, Đoài. Tám mà đánh về sáu phương Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới thành sáu biến nữa hoá ra bốn mươi tám. Như vậy mỗi chiêu biến thành bốn mươi tám chiêu. Tổng cộng 3456 chiêu. Đệ tử Mê-linh nào cũng biết xử dụng những chiêu này.
        Ngừng lại một lát, nàng tiếp:
        - Mỗi chiêu phân ra tấn công là dương, thủ là âm. Như vậy thành 6912 chiêu. Điều này bị thất truyền. Nếu ai học được 72 chiêu trấn môn, nối liền các chiêu lại với nhau sẽ xử dụng được đủ. Ai học được bài quyết biến hoá, sẽ biến thành hư thực. Cứ ba chiêu hư, có bẩy chiêu thực. Cộng tới 20.736 chiêu hư và 48.384 chiêu thực. Tổng cộng thành 69.120 chiêu.
        Vũ Anh lại hỏi:
        - Tôi nghe nói hôm trước công chúa đã xử dụng kiếm pháp này hạ Hoàng Văn, một trong trưởng lão kiệt hiệt của Hồng-thiết. Liệu lát nữa đây, nếu Hoàng Liên thua, công chúa có nên xuất thủ không?
        Mỹ-Linh lắc đầu:
        - Tiểu nữ không dám, và không có quyền. Tiểu nữ ở phận cháu, lại được sủng ái làm con nuôi, tiểu nữ chỉ xuất chiêu khi có lệnh của chú hai.
        Vũ Anh nghe Mỹ-Linh trình bày, ông nghĩ thầm:
        - Thực không hổ đệ tử của sư huynh Huệ-Sinh, lời lời đều có đạo lý hiếu thuận.
        Trên đài thình lình Hoàng Liên đổi hẳn kiếm pháp. Kiếm chiêu của mụ vẫn là Long-biên. Nhưng biến hoá khác hẳn. Mỗi chiêu đánh ra kình lực mạnh vô cùng. Phạm Hào bật lên tiếng khen:
        - Giỏi. Mụ Hoàng Liên giỏi!
        Bọn Mỹ-Linh, Thanh-Mai không hiểu gì. Trần Kiệt giảng:
        - Các cháu nhìn kìa. Kiếm chiêu, mụ vẫn dùng Long-biên kiếm pháp. Nhưng nội công, mụ dùng nội công Hồng-thiết. Kình lực mạnh vô cùng.
        Đúng như Trần Kiệt nói. Mỗi chiêu mụ Hoàng Liên đánh ra, kiếm khí cực mạnh, phát ra tiếng kêu vo vo.
        Đông-Sơn lão nhân không hổ đệ nhất kiếm khách Trung-nguyên. Y thư thả trả đòn. Kiếm chiêu của y thô kệch vô cùng. Nhưng mỗi chiêu đều bao hàm sát thủ khủng khiếp.
        Nguyên tổ sư phái Hoa-sơn xuất thân từ phái Tương-dương. Sau khi phái Tương-dương tranh dành, phân chia chém giết nhau trong thời Lục-triều. Ông cắp gươm ngao du thiên hạ, giao đấu cùng anh hùng khắp nơi, rồi trở về núi Hoa-sơn nghiên cứu, chế ra pho Hoa-sơn kiếm pháp. Ông thu dụng đệ tử, truyền nghề. Từ đấy Hoa-sơn kiếm pháp nổi danh vô địch Trung-nguyên. Đến đời thứ mười ba, nảy ra bốn tay kiếm khách lừng danh. Họ được đời tặng danh hiệu Hoa-sơn tứ lão. Gồm Đông, Tây, Nam, Bắc. Đông-Sơn lão nhân dạy là một trong Hoa-sơn tứ lão. Ông dạy rất nhiều đệ tử. Nhưng có hai người thành danh nhất phải kể Dư Tĩnh, hiện giữ chức An-phủ-sứ Quảng-tây lộ. Địch Thanh trúng cách Võ trạng nguyên năm trước tại Biện-kinh.
        Nhân Tống triều muốn mở rộng bờ cõi ra xa, mới ban hành chính sách trọng đãi, khuyến khích võ nghiệp. Triệu Thành nắm quyền thái-úy, nhờ Dư Tĩnh mời lão ra giúp. Lão nhận lời, nhân đó theo sứ đoàn sang Đại-Việt. Lúc đầu, lão tự cho mình vô địch thiên hạ, coi võ lâm Đại-việt bằng nửa con mắt. Từ khi qua Thiên-trường thăm phái Đông-a, rồi trên đường về Thăng-long gặp anh hùng Đại-lý. Lão mới biết ngoài bầu trời này con bầu trời khác.
        Bây giờ, lão thấy mình đã cố gắng hết sức, mà không thắng được mụ ni cô già, lão càng thêm e dè.
        Thình lình lão nghe có tiếng Lăng-không truyền ngữ của Minh-Thiên nói vào tai:
        - Lão nhân nghe đây. Hoàng Liên cùng Đỗ Xích-Thập nhận sắc phong của ta. Mụ sẽ giả vờ thua, để cho ta rời khỏi Giao-chỉ an toàn. Vì vậy không được đả thương mụ.
        Trong khi đó Hoàng Liên nghe Đỗ Xích-Thập dùng Lăng-không truyền ngữ nói :
        - Liệu tìm cách thua đi là vừa.
        Nghe tình nhân nói, mụ Hoàng Liên chửi thầm:
        - Tổ bà thằng ngu! Chỉ vì tham miếng đỉnh chung mà cam chịu nhục. Thôi đã trót, phải trét. Ta chịu thua tên này cho xong truyện.
        Nghe vậy, mụ quay kiếm vo vo, đánh liền mười chiêu, đẩy lui Đông-Sơn lão nhân tới góc đài, rồi bổ một chiêu như sét đánh vào đầu lão. Lão đưa kiếm đỡ, tay đẩy ra một chưởng. Choang một tiếng, kiếm của Hoàng Liên bị gẫy làm nhiều mảnh bay lên cao. Đông-Sơn chĩa kiếm đánh bốn chiêu liền. Mụ tránh được ba chiêu. Đến chiêu thứ tư, mụ lùi tới mé đài, hụt chân. Mụ lộn xuống đất.
        Vừa xuống tới đất, mụ rút kiếm của một đệ tử phái Mê-linh, vọt trở lên. Tay mụ ném cán kiếm gẫy vào người Đông-Sơn lão nhân. Lão phẩy tay một cái, cán kiếm hướng vào người Khai-thiên vương.
        Khai-thiên vương đứng hầu phụ hoàng, nhưng vương không chú ý đến trận đấu. Những biến cố vừa qua làm vương lo nghĩ không ít.
        Trước đây phụ hoàng đã phán với triều thần rằng, người không nhất thiết chỉ định trừ quân. Ngài đợi xem, trong các em, các con, ai tỏ ra có tài, có đức sẽ truyền ngôi cho. Vì vậy các con ngài đều được gọi là thái tử hết.
        Sau khi vương phi Triệu Liên-Hương từ trần do trúng độc Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Ngài biết cái chết đó có liên quan tới quốc trượng Đàm Can, cùng quý phi. Khai-quốc vương xin cho Khu-mật viện thụ lý, ngài gạt đi. Để đền bù, ngài phong cho con gái đầu lòng của vương là Mỹ-Linh tước công chúa Bình-dương. Với ngụ ý, sẽ truyền ngôi cho vương.
        Hơn hai năm qua Bình-dương theo chú ra ngoài hoạt động, đã làm được nhiều điều kinh thiên động địa. Vương hy vọng tràn trề, cái ngôi vua kia. Nay thình lình Mỹ-Linh cứu được vương phi ra từ chốn giam cầm của Hồng-thiết giáo.
        Tuy Khai-quốc vương hết sức che chở. Nhưng một mai đây đem Đàm Can, Đàm Toái-Trạng, Đàm quý phi ra xử, chắc chắc chúng sẽ xưng ra việc dùng vương phi làm cây thuốc. Bấy giờ cái ngôi vua không hy vọng gì, mà đến cái tước vị Khai-thiên vương cũng mất.
        Vương đang mơ mơ màng màng, thì bị cái cán kiếm gẫy của Hoàng Liên ném trúng chân. Vương nhăn mặt tỏ vẻ đau đớn.
        Đông-Sơn lão nhân biết, chưởng của mình không thể đánh gẫy được kiếm của mụ. Chẳng qua, mụ dùng nội lực tự trấn gẫy kiếm của mình mà thôi. Lão lui lại, chắp tay:
        - Đa tạ sư thái nhẹ tay.
        Đối với Hoàng Liên, lão nói câu đó là thực tình. Nhưng đối với quần hùng, có nghĩa, mụ bị gẫy kiếm, mụ bị thua rồi.
        Mỹ-Linh chợt nghe thấy tiếng Khai-quốc vương dùng Lăng-không truyền ngữ nói:
        - Cùng Tự-Mai, Tôn-Đản lên đài gây sự với bọn Tống. Nhớ để Tự-Mai chủ động. Cháu đấu với Đông-Sơn lão nhân dưới danh nghĩa đệ tử phái Mê-linh.
        Mỹ-Linh kéo hai ông mãnh lại gần, để cùng bàn kế hoạch.
        Trên đài Triệu Thành hớn hở đứng lên nói:
        - Như đã ước hẹn, chúng ta đấu ba cuộc. Bên Thiên-triều thắng hai. Coi như thắng. Vậy bên Giao-chỉ có gì khiếu nại không?
        Thấp thoáng, y thấy ba người tung lên đài. Y nhận ra được Tự-Mai với Tôn Đản. Người thứ ba là Mỹ-Linh, đã giả trang. Y không nhận ra. Y chửi thầm:
        - Suốt một năm qua, ta bị hai thằng ôn vật này phá rối hoài. Hôm nay đừng hòng ta nhịn chúng nữa.
        Mỹ-Linh tiến đến băng bó vết thương ở chân cho phụ vương. Dù nàng đã cải trang, nhưng Khai-thiên vương cũng nhận ra con gái. Vương để con gái băng chân cho mình.
        Trong khi đó Tôn Đản cười ha hả:
        - Đại-Việt có mười hai môn phái, bốn đại bang. Vừa rồi Hồng-thiết giáo đấu với Tống, chứ có phải võ lâm Đại-Việt đâu. Tôi không phục!
        Tự-Mai chỉ vào mụ Hoàng Liên:
        - Mụ này nguyên xuất thân phái Mê-linh, nhưng đã bỏ phái này đầu Hồng-thiết giáo. Mụ là tình nhân của tên Đỗ Xích-Thập. Cả hai phản Hồng-thiết giáo, nhận sắc phong Tống triều. Vì vậy vừa rồi mụ giả thua, trấn động gẫy kiếm, nhường cho Tống thắng.
        Đỗ Xích-Thập ngồi trên ghế của tôn sư phái Tản-viên. Y cười nhạt:
        - Này chú bé. Chú phải chứng minh rõ ràng ta làm gian tế của Tống. Bằng không chú là con của chưởng môn phái Đông-a. Chứ dù chú là chưởng môn phái này, ta cũng lấy tính mạng chú.
        Tự-Mai nhăn mặt, méo mồm trêu Xích-Thập:
        - Này Đỗ trưởng lão. Nếu Đỗ trưởng lão vẫn giữ địa vị cao nhân phái Tản-viên, đời nào tôi dám đụng đến! Ngay dù trưởng lão vẫn trung thành với Nhật-Hồ giáo chủ, tôi càng không nên đụng vào. Nhưng Đỗ trưởng lão âm mưu dâng giang sơn của vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng cho Tống, vì vậy tôi không cần lễ phép với trưởng lão nữa.
        Nhật-Hồ lão nhân đã biết truyện Xích-Thập, Hoàng Liên nhận sắc phong của triều Tống. Lão lại được tin hai tên này theo Lê Ba, giam lão. Nay lão được ra, chúng âm mưu tranh quyền với lão. Lão muốn trừ hai tên này, để tỉa bớt vây cánh Lê Ba. Nhưng lão chưa có chứng cớ. Bây giờ nghe Tự-Mai tố cáo, lão hỏi:
        - Tiểu huynh đệ. Người căn cứ vào đâu, mà tố cáo hai đệ tử của lão phu làm gian tế cho Tống?
        Tôn Đản móc trong túi ra một tập giấy, trao cho Nhật-Hồ lão nhân:
        - Đây, xin tiên sinh thử coi xem có phải bút tích của mụ Hoàng Liên với Đỗ Xích-Thập không?
        Nhật-Hồ lão nhân tiếp tập giấy coi. Hai tờ đầu gồm thư của Đỗ Xích-Thập viết cho Triệu Thành, tường trình về những việc y đã chuẩn bị cướp ngôi phái Tản-viên. Sau đó đem phái Tản-viên ép vua Lý thoái vị. Hai tờ kế tiếp của Hoàng Liên tường trình rõ ràng kế hoạch khống chế phái Mê-linh, rồi dùng phái này ép vua Lý thoái vị. Sau này quân Tống sang, cả hai phái nguyện làm nội ứng.
        Nhật-Hồ lão nhân đưa mắt hỏi Hoàng Liên, Xích-Thập:
        - Các người còn chối được nữa không?
        Triệu Thành kinh hoàng. Vì những thư tín đó, y trao cho Minh-Thiên cất cẩn thận, mà không biết bằng cách nào Khu-mật viện lấy được, rồi sai hai tên ôn con ra phá thối. Y hướng vào Trần Tự-An:
        - Côi-Sơn đại hiệp. Phải chăng quý công tử lên đây với tư cách đại diện cho phái Đông-a?
        Tự-Mai ỷ được bố cưng chiều. Nó cười lớn:
        - Triệu vương gia. Vương gia hỏi câu đó, tỏ ra không hiểu gì Đại-việt chúng tôi. Tôi lên đây không nhân danh Bố, cũng chẳng nhân danh phái Đông-a. Tôi nhân danh tôi. Vì tôi là con dân Đại-Việt, có toàn quyền bảo vệ quốc thể nước tôi.
        Cả quảng trường cười ầm lên vỗ tay liên tiếp. Vô tình đội nhạc Hồng-thiết giáo cùng đội nhạc phái Sài-sơn đồng nhất loạt cử bài Động-đình ca. Đâu đó, pháo thăng thiên bắn lên trời nổ ầm ầm, toả ra muôn ngàn thứ hoa đẹp vô cùng.

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.01.2005 08:55:38 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 12.01.2005 18:51:54 (permalink)
          Hồi thứ sáu mươi


          Đại Việt Hoàng Đế


          Triệu Thành hơi run run trước khí thế đó. Y bảo Tự-Mai:
          - Chú bé liệu xuống đài đi. Bằng không dù ta có khoan thứ cho chú. Nhưng bộ hạ ta họ không để chú yên đâu. Ở đây toàn truyện người lớn, truyện quốc gia đại sự. Chú còn con nít, chú không phải quan quân. Chú không có quyền bàn việc nước. Đi chỗ khác chơi!
          Tự-Mai méo miệng trêu Triệu Thành:
          - Ôi! Không ngờ một ông Bình-nam vương nhà Tống mà lý luận như thế thì dốt quá. Để ta dạy cho ông một bài học về lịch sử Đại-việt ta. Nước ta từ mấy nghìn năm trước, có một đức thánh ra đời, cỡi ngựa đánh giặc Ân. Vị thánh ấy đại danh Phù-đổng Thiên-vương. Cho nên từ đó đến nay, con dân Đại-việt bẩy tuổi trở đi đều có quyền bàn quốc sự. Hiểu chưa!!!
          Chợt nó thấy Dương Ẩn ngồi trên đài. Nó biết Dương Ẩn vốn chống Trung-quốc. Nó muốn gây chia rẽ giữa y với Triệu Thành, nó hướng vào y:
          - Dương đạo sư. Có phải sáng tổ của quý phái là Thiên-vương, mới bẩy tuổi đã đánh tan giặc Ân không?
          Dương Ẩn gật đầu:
          - Đúng thế. Từ khi Thiên-vương đánh giặc đến giờ, thiếu niên Việt đến tuổi lên mười đã được bàn việc làng, việc nước. Ý người Việt nghĩ rằng Thiên-vương bẩy tuổi, đánh giặc, vì ngài vốn người nhà trời. Thiếu niên Việt thuộc loại con cháu ngài, phải kém một chút, mười tuổi được coi như người lớn. Chú em! Chú đã mười lăm rồi, ắt hẳn chú đã bàn việc nước đến năm năm là ít.
          Tự-Mai để tay lên mũi trêu Triệu Thành:
          - Ông Bình-nam vương nhà Tống. Ông đã nghe vị tôn sư phái Sài-Sơn nói chưa?
          Nếu người khác, Triệu Thành đã tát cho Tự-Mai mấy cái, đuổi xuống đài. Nhưng vì Tự-Mai là con của chưởng môn phái Đông-a, thành ra y giận tím gan, mà phải im lặng.
          Tự-Mai tiếp:
          - Còn ông bảo phải quan, quân, mới có quyền lên đây phải không?
          Triệu Thành gật đầu:
          - Đúng thế!
          Tự-Mai móc trong túi ra cái thẻ bài chĩa vào mặt Triệu Thành:
          - Ông coi xem cái gì đây?
          Triệu Thành cầm lấy coi, đó là cái thẻ bài chứng nhận Tự-Mai làm một tên lính hiệu thủy quân. Y cười ha hả:
          - Tưởng quý tử Thiên-trường đại hiệp làm vương, làm tướng gì, hoá ra một tên lính hiệu.
          Tự-Mai hứ một tiếng:
          - Tự nước tôi nhân tài nhiều quá, thành ra tôi chỉ đáng làm tên tiểu hiệu là đã quá rồi. Thế nhưng tên tiểu hiệu này kiến thức hơn quan thái úy nhà Tống đấy nhé!
          Đội trống Hồng-thiết giáo với phái Sài-sơn lại thúc liên hồi.
          Triệu Thành giận cành hông. Thấy mưu cơ bại lộ. Y nói với Nhật-Hồ lão nhân:
          - Tiên sinh đừng nghe hai tên ôn con này. Chúng làm việc cho Khu-mật viện. Khu-mật viện sai người giả bút tích viết thư hại quý trưởng lão đấy.
          Nhật-Hồ lão nhân cười nhạt:
          - Chứng cớ rành rành ra thế này, chối làm sao được? Triệu vương gia. Trong chuyến đi này của vương gia có mục đích chuẩn bị xâm lăng Đại-việt chúng tôi. Vương gia không chối được đâu. Bút tích, cùng lối hành văn của hai tên đệ tử họ Đỗ, Hoàng tôi đã quen rồi. Giả thế nào được.
          Đặng Đại-Khê từ dưới đài bước lên hướng vào anh hùng vái ba vái:
          - Tôi Đặng Đại-Khê. Nhân danh chưởng môn phái Tản-viên, tôi trục xuất tiền bối Đỗ Xích-Thập khỏi địa vị tôn sư. Vì tiền bối làm gian tế cho ngoại bang.
          Sư thái Tịnh-Tuệ hướng vào Hoàng Liên:
          - Sư thúc. Bản phái biết bao đời lấy việc giữ nước làm lẽ chính của võ đạo. Sư thúc làm gian tế cho ngoại bang. Sư thúc không thể làm tôn sư bản phái được.
          Hoàng Liên thét lên:
          - Tịnh-Tuệ! Đúng rồi, sư phụ mi nhận vàng ngọc của Lý Công-Uẩn, hại thái sư phụ. Cho nên nay mi thấy tờ thư giả của Khu-mật viện, gây sự với ta. Từ xưa đến giờ, bản phái lấy võ công định chưởng môn. Mi hãy lấy kiếm ra, cùng ta hơn thua.
          Từ lúc đến lễ đài, Minh-Không thiền sư không nói một câu nào. Bây giờ ông mới lên tiếng:
          - Hai vị sư thái! Việc tranh chấp của phái Mê-linh xin để lúc khác. Đây là chỗ tôn nghiêm, không nên đem việc nhà ra bàn, để người ngoài đàm tiếu.
          Lời nói của một vị quốc sư vừa từ bi, vừa uy nghiêm, khiến Hoàng Liên nín lặng. Mụ đưa mắt nhìn sư thái Tịnh-Tuệ như muốn ăn tươi, nuốt sống.
          Trong khi ấy Tự-Mai nghe tiếng Khai-quốc vương:
          - Sư đệ. Em gây sự cho Mỹ-Linh đánh nhau với tên Đông-Sơn lão nhân kia đi.
          Tự-Mai nói với Triệu Thành:
          - Này Bình-nam vương gia. Vừa rồi giữa Đại-tống với Hồng-thiết giáo giao tranh hai trận. Trận đầu coi như hòa. Vì ngũ trưởng lão vị lừa. Trận thứ nhì, giữa Tống đấu với Tống, rồi bầy trò hề tự trấn động gẫy kiếm giả thua. Như vậy không kể.
          Nó hướng vào sư thái Tịnh-Tuệ:
          - Sư thái! Khi mụ Hoàng Liên không còn tư cách của tôn sư phái Mê-linh. Mụ đâu có phải đại biểu cho võ lâm Đại-việt. Có đúng thế không?
          Tịnh-Tuệ đáp:
          - Đúng thế. Đó là trận đấu giữa Tống với Tống.
          Triệu Thành giận căm gan. Y hỏi:
          - Nếu sư thái nói thế cũng được. Nào ai không phục kiếm pháp Hoa-sơn cứ lên đây tỷ thí.
          Y vừa dứt câu này, năm người nhảy lên đài một lúc. Tự-Mai nhìn ra có sư thúc Trần Kiệt, đại sư Sùng-Minh chùa Sơn-tĩnh, Hàn Ngọc-Quế phái Thiên-tượng, đạo sư Nùng-Sơn tử phái Tản-viên, Lê Đức bang Hồng-thiết giáo.
          Triệu Thành tự chửi thầm:
          - Mình đáng chết thực. Tự nhiên đưa ra lời thách thức, có khác gì chọc tay vào tổ ong.
          Tuy vậy tính hung hăng, kiêu hãnh khiến y không chùn bước:
          - Được! Không biết trong năm vị. Vị nào ra tay trước? Hay nếu năm vị muốn, Đông-Sơn lão gia có thể lĩnh giáo cả năm vị cũng không sao.
          Tự-Mai chắp tay hướng vào năm vị cao thủ:
          - Năm vị thuộc tiền bối võ lâm, lớn vai hơn bọn tiểu bối tại hạ nhiều. Đối với Đông-Sơn lão nhân, năm vị không nên ra tay. Nếu năm vị ra tay, có khác gì dùng dao mổ trâu mà mổ gà. Xin năm vị để cháu vinh danh thánh Gióng một chút.
          Năm tôn sư mỉm cười, khoan thai bước xuống đài.
          Nó thấy Mỹ-Linh băng chân cho Khai-thiên vương rồi, chỉ mặt lão Đông-Sơn lão nhân:
          - Lão già kia. Lão đấu với mụ Hoàng Liên nhà lão. Cớ sao lão lại vô phép với Khai-thiên vương? Tại sao lão lại đánh lén vương gia?
          Đông-Sơn lão nhân giận Tự-Mai phá vỡ kế hoạch của mình. Lão vung tay tát nó một cái.Thấy Đông-Sơn lão nhân đánh Tự-Mai, Trần Kiệt định vung tay đỡ cho nó. Nhưng ông thấy lão chỉ vận có ba thành công lực, Tự-Mai đủ sức chống đỡ. Ông đứng nhìn.
          Tự-Mai thấy kình lực của lão đổ ụp vào đầu mình, nó không dám coi thường, vội vận Vô-ngã tướng Thiền-công phát một chiêu Đông-a chưởng pháp đỡ. Bộp một tiếng. Chưởng của Đông-Sơn lão nhân bị mất tích. Lão kinh hoảng đưa mắt nhìn đối thủ. Trong đầu lão tự hỏi:
          - Thằng nhỏ láu cá này mới mười lăm, mười sáu tuổi là cùng, mà công lực đã đến trình độ có thể hoá giải công lực của ta được ư? Ta thử lại một lần nữa xem.
          Nói rồi lão phát nhẹ một chưởng. Lần này lão đã vận đến năm thành công lực. Tự-Mai thấy lão không có ác ý. Nó không đỡ chưởng của lão, mà tấn công vào hạ bàn lão bằng chiêu Đông hải lưu phong. Đông-Sơn lão nhân tuyệt không ngờ Tự-Mai lại dám tấn công mình. Lão bật tay xuống, đỡ chưởng của nó. Binh một tiếng, Tự-Mai bật lui liền ba bước. Trong khi cánh tay Đông-Sơn lão nhân cảm thấy tê buốt, kình lực bị mất tăm, mất tích.
          Lần này, không nhân nhượng nữa, lão vận đến bẩy thành công lực đánh ụp lên đầu Tự-Mai. Kình lực làm nó muốn ngộp thở. Ỷ có bố với sư thúc ở cạnh. Nó xuất chiêu Phong quá sơn đầu hai tay đẩy về trước. Bình một tiếng, người nó bay bổng lên cao, rơi xuống cạnh Đoàn Huy. Huy biết Tự-Mai là em Thanh-Mai, người xả thân cứu mạng ông. Ông khẽ phất tay một cái. Tự-Mai bay trở lại, rơi xuống cạnh Mỹ-Linh. Nó chỉ mặt Đông-Sơn lão nhân:
          - Ỷ lớn ăn hiếp nhỏ, không biết nhục.
          Nó thấy Mỹ-Linh cầm cái chuôi kiếm gẫy, trong đầu nó nảy ra một cách gây sự với bọn Tống. Nó cầm lấy chuôi kiếm dơ ra hỏi:
          - Đứa nào tung chuôi kiếm đánh trộm Khai-Thiên vương? Nếu là hảo hán, nhận đi.
          Triệu Thành chỉ Hoàng Liên:
          - Chuôi kiếm của vị sư thái kia ném vào Đông-Sơn lão nhân. Lão nhân đẩy ra, trúng vào y.
          Tự-Mai bảo Mỹ-Linh:
          - Bà chị, mau ra bắt y phải quỳ gối tạ lỗi với Khai-thiên vương.
          Mỹ-Linh nhận được lệnh chú phải gây sự với Đông-Sơn lão nhân, nhưng vốn tính hiền hậu, nàng tìm không ra cớ. Bây giờ nghe Tự-Mai nói, nàng mới tỉnh ngộ, chỉ tay vào mặt Đông-Sơn lão nhân:
          - Tên thôn phu kia. Mi ở rừng núi Hoa-Sơn, không biết lễ nghi gì cả. Mi đánh trộm một vị thái tử của Đại-Việt, thực một hành vi hết sức vô lễ. Mi có mau lại quỳ gối tạ tội không?
          Triệu Thành cười khanh khách, vì Mỹ-Linh đã cải trang thành một cô gái quần áo giống như đệ tử phái Mê-linh. Dáng người nàng đã ẻo lả, mà lại lên đài bắt lỗi một đại kiếm khách như Đông-Sơn lão nhân thực quá hài hước. Y nói:
          - Tiểu cô nương! Gã Lý Đức-Chính này có bị thương hay chết, không liên quan gì đến cô nương. Cô nương lên đây làm gì? Chỗ gươm đao vô tình này, tai bay vạ gió khó tránh được.
          Dù đã cải trang, Mỹ-Linh quên mất rằng mình không còn là công chúa nữa. Nàng cười nhạt:
          - Triệu vương gia! Ta lên đây có hai mục đích. Thứ nhất bắt lão kia phải quỳ gối tạ tội với Khai-thiên vương. Thứ nhì ta không phục kiếm pháp của lão.
          Triệu Thành cười nhạt:
          - Lý Đức-Chính thân làm thái tử, tước phong Khai-thiên vương, mà võ công không đủ để đỡ cái chuôi kiếm văng vào người, còn hy vọng gì lên kế vị làm vua. Giao-chỉ đến ngày tàn tạ rồi vậy.
          Mỹ-Linh xua tay:
          - Triệu vương gia. Vương gia nói như vậy e sai rồi. Thứ nhất Khai-thiên vương bị đánh trộm, nên lão nhà quê kia mới thành công. Thứ nhì phàm làm vua, cần lấy đức trị thiên hạ, chứ đâu cần võ công cao? Ta hỏi vương gia nhé: Vua Văn đời Thương. Vua Cao-tổ nhà Hán đâu có biết võ công? Ngay Thiên-thánh hoàng đế bên qúy quốc e không biết quá hai cái múa?
          Quay lại Đông-Sơn lão nhân, nàng quát:
          - Lão già kia! Mi có lại quỳ gối tạ tội không?
          Đông-Sơn lão nhân cười nhạt:
          - Ta không quỳ, hẳn nương giết ta chăng?
          Mỹ-Linh trả lời chắc như đinh đóng cột:
          - Đúng thế!
          Đông-Sơn lão nhân cười rung động cả quảng trường lên.
          Triệu Thành nói:
          - Này cô nương. Nếu cô nương đỡ được của lão nhân mười chiêu kiếm, ta xin quỳ gối lạy tạ gã Lý Đức-Chính. Sau đó xin rời khỏi nơi này.
          Tự-Mai vận khí vào đơn điền nói lớn:
          - Xin anh hùng thiên hạ nghe đây. Bình-nam vương nhà Đại-Tống nói rằng, nếu như bà chị bé xíu này của tôi đỡ được mười chiêu kiếm của Đông-Sơn lão nhân, Triệu vương gia xin quỳ gối tạ lỗi với Khai-thiên vương, rồi rời khỏi đây. Phàm đánh cuộc phải có ăn có thua. Tôi cũng đánh cuộc, nếu bà chị tôi không đỡ được mười chiêu của Đông-Sơn lão nhân, tôi cũng xin theo hầu Triệu vương gia cả đời.
          Quần hùng thấy con trai của chưởng môn phái Đông-a dám đánh cuộc to lớn như vậy, đều im lặng, lo lắng cho nó.
          Mỹ-Linh tiến ra giữa đài, khoanh tay chờ đợi. Nữ đệ tử phái Mê-linh đều mặc áo xanh, quần đen, lưng thắt khăn vàng, cổ choàng khăn hồng. Mỹ-Linh mặc quần áo trắng quen rồi, nay nàng mặc quần áo xanh, lại hoá trang, thành ra không ai nhận được nàng, trừ phụ vương, thúc phụ với Tôn Đản, Tự-Mai.
          Minh-Thiên thấy một cô gái dám ngang nhiên thách một đại kiếm khách như Đông-Sơn lão nhân đấu, ắt phải có biệt tài gì. Ông nhắc nhỏ:
          - Lão nhân, phải cẩn thận.
          Đông-Sơn lão nhân ra vẻ kẻ cả, lão nói:
          - Tiểu cô nương ra chiêu trước đi.
          Tay trái Mỹ-Linh bắt kiếm quyết. Tay phải nàng rút kiếm. Ánh thép lóe lên, thanh kiếm đã đưa sát vào ngực Đông-Sơn lão nhân. Đông-Sơn lão nhân tuyệt không ngờ trên đời lại có thứ kiếm thần tốc đến như vậy. Lão lộn người ra sau tránh. Mỹ-Linh di chuyển thân hình theo, thanh kiếm vẫn dí sát cổ lão. Lão kinh hoàng lộn liền ba vòng, nhưng thanh kiếm của Mỹ-Linh thủy chung vẫn dí sát cổ . Lão hét be be, vọt người lên cao. Xoẹt một tiếng, áo lão bị kiếm chọc thủng ở bên hông.
          Mặt mũi lão tái mét. Mỹ-Linh lui lại hai bước, tra kiếm vào vỏ đánh cách một cái. Nàng nói như dạy dỗ kẻ dưới:
          - Ta tha cho lão, vì vừa rồi lão chưa rút kiếm ra.
          Khi Mỹ-Linh ra chiêu, Đông-Sơn lão nhân lui. Hai người cử động mau quá, chỉ thấy thấp thoáng bóng xanh, ánh thép. Mọi người kinh hoàng đến nín thở. Bây giờ họ mới kịp vỗ tay hoan hô Mỹ-Linh.
          Đông-Sơn lão nhân sợ quá, đến đờ người ra. Tay lão rút kiếm, mà còn run run.
          Khi Mỹ-Linh ra chiêu, tất cả đệ tử phái Mê-kinh đều nhận ra những chiêu nàng đánh. Đó là những chiêu rất bình thường. Nhưng có điều nàng ra chiêu thần tốc quá mà thôi. Sư thái Tịnh-Tuệ nhìn kỹ xem Mỹ-Linh tên gì, mà tuyệt bà không nhận ra. Bà nghĩ:
          - Xem chừng thiếu nữ này là đệ tử đời thứ ba đây. Đệ tử đời thứ ba nhiều quá, ta làm sao nhớ hết. Không biết bằng cách nào mà nó luyện được bản lĩnh ảo diệu đến như thế? Hay một cao nhân phái khác cho đệ tử nhập bản phái hôm nay để cứu viện?
          Nghĩ như vậy, nhưng bà thấy không phải. Vì rõ ràng kiếm pháp Mỹ-Linh đánh là Long-biên kiếm pháp.
          Mỹ-Linh hỏi Đông-Sơn lão nhân:
          - Người chuẩn bị chưa?
          Đông-Sơn lão nhân cho rằng vừa rồi Mỹ-Linh ra chiêu trước, chiếm được tiên cơ. Lần này lão không để cho nàng đắc thế kiểu đó nữa. Lão rút kiếm nhằm đỉnh đầu nàng bổ xuống một chiêu như sét đánh. Mỹ-Linh không đỡ, nàng lao đầu về trước, rồi chĩa kiếm vào ngực y. Đông-Sơn lão nhân đã kinh nghiệm, lão vọt người lên cao. Mỹ-Linh cũng vọt lên như pháo thăng thiên. Ở trên cao, hai người chiết với nhau hơn mười chiêu.
          Rơi xuống đài, Mỹ-Linh đánh liền một lúc mười tám chiêu. Mỗi chiêu biến làm ba mươi sáu chiêu khác. Ánh kiếm bạc bao phủ khắp người Đông-Sơn lão nhân. Lão vừa đỡ, vừa lui, vừa hò hét. Trong khi Mỹ-Linh phiêu phiêu, hốt hốt như tiên nga múa vũ Nghê-thường.
          Tuy kiếm pháp Long-biên mau thực, nhưng Hoa-sơn kiếm pháp cũng không kém. Hai người như hai trái cầu bạc bao phủ lấy nhau. Không ai có thể phân biệt Mỹ-Linh với Đông-Sơn lão nhân nữa.
          Minh-Thiên nhìn những chiêu kiếm Mỹ-Linh đánh ra, ông nghĩ:
          - Ta thường nghe võ lâm đồn rằng Giao-chỉ có pho Long-biên kiếm pháp, khắc chế tất cả kiếm pháp Trung-nguyên. Ta không tin. Nay mới biết nghe không bằng thấy. Nếu ta là Đông-Sơn lão nhân, cũng đến chịu chết, chứ không biết phản công ra sao.
          Về phía Tịnh-Huyền, bà nghĩ thầm:
          - Hôm trước gặp Mỹ-Linh, ta thấy nó có nhiều duyên may, lại giầu tâm đạo. Ta truyền tâm pháp cùng thuật ngữ luyện Long-biên kiếm pháp cho nó. Không biết sau đó, nó tìm ở đâu ra được kiếm phổ cùng nội công để luyện, mà nay đến trình độ này?
          Trong khi đó Đông-Sơn lão nhân đánh liền ba chưởng cực kỳ hùng hậu. Mỹ-Linh biết công lực mình thấp, nàng vọt người ra xa, rồi quay tròn người như con chong chóng. Quả cầu bạc cũng quay theo. Khi quả cầu của nàng gặp quả cầu của Đông-Sơn lão nhân, chỉ thấy một ánh thép vọt lên cao. Mọi người nhìn xem, đó là một thanh kiếm bay lên.
          Không biết thanh kiếm của ai.
          Cử toạ nhìn xuống, thấy Mỹ-Linh khoanh tay đứng ở mép đài, tư thái khoan hòa, miệng mỉm cười. Còn Đông-Sơn lão nhân tay phải ôm cổ tay trái, máu ra xối xả.
          Mỹ-Linh cất tiếng trong như sương mai, ngọt như cam thảo:
          - Lão tiên sinh! Xin lão tiên sinh băng tay lại đi. Để máu ra nhiều quá e hại đấy.
          Có bóng hồng bay vọt lên đài. Đó là một thiếu nữ cực kỳ xinh đẹp. Nàng mặc quần lụa trắng, áo hồng, dây lưng vàng, cổ choàng khăn cũng mầu vàng. Tự-Mai, Tôn Đản nhận ra Lê Thiếu-Mai, con gái Hồng-Sơn đại phu. Thiếu-Mai lấy thuốc rịt vết thương, dùng vải băng cổ tay cho Đông-Sơn lão nhân. Động tác của nàng thành thạo, mau vô cùng. Băng xong, nàng nói:
          - Lão tiên sinh! Vết thương nhẹ thôi. Tiên sinh vẫn có thể tái đấu được.
          Đông-Sơn lão nhân cũng nhận ra nàng. Lão chắp tay:
          - Đa tạ cô nương.
          Tự-Mai bước ra hỏi Triệu Thành:
          - Thế nào Triệu vương gia? Đông-Sơn lão nhân thua rồi. Vương gia mau đến quỳ gối tạ lỗi với Khai-thiên vương đi chứ?
          Đông-Sơn lão nhân cầm kiếm lên nói với Mỹ-Linh:
          - Cô nương! Vừa rồi cô nương dùng tà thuật, chứ không phải dùng kiếm pháp. Lão phu không phục. Xin cô nương thử diễn lại cho lão phu xem được không?
          Cử toạ đều có ý nghĩ như Đông-Sơn lão nhân. Mỹ-Linh chưa quyết định, thì nghe tiếng Lăng-không của sư thái Tịnh-Tuệ:
          - Chiêu này rất khó, con có diễn lại chúng cũng không bắt chước được đâu. Cứ diễn đi.
          Mỹ-Linh mỉm cười, nàng nhảy ra xa, người quay tròn rất chậm. Mỗi vòng quay nàng đánh ra ba mươi sáu chiêu. Mỗi chiêu đều có sát thủ kinh người. Chiêu cuối cùng thì kiếm đâm vào giữa ngực Đông-Sơn lão nhân. Lão lùi lại tránh, thanh kiếm Mỹ-Linh co như con rắn, rồi bất thình lình vươn cổ mổ sang trái, trúng cườm tay lão nhân.
          Biểu diễn xong nàng nghe tiếng Trần Kiệt nói vọng vào tai bằng lăng-không truyền ngữ:
          - Cho lão đấu lại, vì lão chưa hiển lộ hết tuyệt kỹ Hoa-sơn kiếm pháp. Đợi khi lão đánh hết chiêu cuối cùng, rồi thắng lão cũng vừa.
          Mỹ-Linh nghe vậy, nàng nói với Đông-Sơn:
          - Nếu lão nhân không phục, ta đấu lại.
          Nắng tháng tám chói chang, y phục Mỹ-Linh bay phất phới trên không đẹp vô cùng. Nàng nghe tiếng Khai-quốc vương nói:
          - Không nên tấn công nhiều, phải cẩn thận, đừng để hai kiếm chạm nhau.
          Mỹ-Linh khoan thai khi công khi thủ. Tay phải xử dụng kiếm, tay trái bắt kiếm quyết. Cứ mỗi lần nàng tấn công, Đông-Sơn lão nhân lại luống cuống. Mỹ-Linh thấy kiếm pháp của y cao minh hơn Đinh Hiền của Hồng-thiết giáo nhiều. Càng đánh kiếm của lão càng chậm lại, kiếm khí phát ra mạnh đến vỡ núi, tan thành. Mỗi chiêu lão đưa ra, kiếm khí kêu lên vo vo, mũi kiếm rung động. Nhiều khi kiếm của Mỹ-Linh chạm phải làn kiếm khí, khiến tay nàng muốn tê liệt. Nhưng nhờ có Vô-ngã tướng thiền công hộ thể, nên chân khí của lão bị nàng hút mất.
          Khi được lệnh Đỗ Xích-Thập bảo phải thua Đông-Sơn lão nhân, mụ Hoàng Liên hơi ấm ức trong lòng. Bây gìơ nhìn Đông-Sơn lão nhân đấu với Mỹ-Linh, mụ phải tự nhận mình còn thua lão xa. Mụ than thầm:
          - Cũng may mình với lão cùng là thần tử nhà Tống, chứ nếu mình đối địch với lão e bỏ mạng. Kiếm khí của lão mạnh thế kia mình bì sao kịp.
          Về phía phái Mê-linh, sư thái Tịnh-Tuệ thấy tất cả các chiêu Mỹ-Linh đánh ra đều không có gì mới lạ. Những chiêu đó, bọn đệ tử đời thứ nhì đều biết hết. Có điều chiêu nọ nối liền chiêu kia liên miên bất tuyệt, tạo thành một bức thành đồng kiên cố quanh nàng. Hai nữa, nàng xử dụng mau quá, thành ra đối thủ chưa kịp phản ứng, chiêu khác đã tới.
          Trước đây, nghe sư phụ, cùng các bậc tiền bối nói rằng Mê-linh kiếm pháp chính do kiếm pháp Long-biên thời vua An-dương lưu truyền. Vạn-Tín hầu nhờ pho kiếm này mà thắng khắp anh hùng Trung-nguyên. Đời Lĩnh-nam, tể tướng Nguyễn Phương-Dung, công chúa Phật-Nguyệt làm rung động triều Hán với pho tuyệt kỹ này. Đệ tử phái Mê-linh cho rằng đó chẳng qua huyền thoại. Không ngờ bây giờ thấy Mỹ-Linh xử dụng, họ mới tin là thực.
          Đông-Sơn lão nhân đánh rất chậm chạp, mỗi chiêu kiếm khí tuôn ra mạnh vô cùng. Trong khi Mỹ-Linh hư hư, thực thực, khiến lão cứ phải nhảy nhót tránh né.
          Tịnh-Tuệ thấy lúc đầu Mỹ-Linh xuất thủ còn gượng gạo. Càng về sau càng thuần thục. Là đại tôn sư võ học, bà biết ngay rằng Mỹ-Linh mới học Mê-linh kiếm pháp, có lẽ lần đầu tiên gặp đối thủ có bản lĩnh tinh diệu như vậy, cho nên nàng mới phải dở hết bản lĩnh chân thực ra.
          Sau sáu trăm chiêu, Đông-Sơn lão nhân đã xử dụng hết Hoa-sơn kiếm pháp. Mỹ-Linh hiểu được nguyên tắc kiếm thuật của y. Cho nên mỗi chiêu y đánh ra, nàng đều đoán trước. Tuy vậy, vì công lực y quá cao thâm, nàng không thể nào đưa kiếm xuyên vào người, đả thương lão. Trong khi đó, công lực nàng cạn dần.
          Các đại tôn sư võ học đều nhận thấy mối nguy cho Mỹ-Linh. Khi Mỹ-Linh lên đài. Minh-Không thiền sư chỉ liếc qua, ngài đã biết nàng luyện nội công Tiêu-Sơn. Hôm trước nghe sư đệ Huệ-Sinh kể rằng mới thu nhận công chúa Bình-dương làm đệ tử. Thiền sư biết ngay là cô gái này. Ngài nghĩ:
          - Có lẽ phải giúp công chúa Bình-dương thắng lão Đông-Sơn.
          Nghĩ vậy ngài nói với sư thái Tịnh-Tuệ:
          - Bạch sư thái! Dễ thường Ngọ rồi. Sư thái làm trưởng ban tổ chức. Xin sư thái tụng cho oan hồn tử sĩ thời Lĩnh-nam đoạn đầu kinh Lăng-già, để họ siêu thoát.
          Trong Phật giáo, giữa những người luyện thiền công với nhau, khi luyện lâu rồi, đi đến cái gọi là nhân ngã tương thông. Hai bên chỉ nhìn nhau, hoặc nghe nhau nói một câu, họ hiểu nhau liền. Sư thái Tịnh-Tuệ với thiền sư Minh-Không cũng thế. Sư thái biết quốc sư muốn bà tụng kinh Lăng-già, để giúp Mỹ-Linh. Nhưng bà hơi ngạc nhiên. Vì kinh Lăng-già có mục đích bỏ ác tính, đi đến chân không. Nội công âm nhu phái Long-biên vốn thuộc sắc tính đi đến giết người trong chớp mắt. Mỹ-Linh mới luyện nội công này, vì vậy không đủ thâm hậu thắng Đông-Sơn lão nhân. Nay nếu bà đọc kinh Lăng-già lên ắt sức mạnh của nội công âm nhu trong người Mỹ-Linh ắt giảm. Như vậy chẳng hóa ra hại nàng ư?
          Một tia sáng loé lên:
          - Phải rồi, Mỹ-Linh đã luyện Vô-ngã tướng công. Nếu đọc kinh Lăng-già lên, sắc tướng của Vạn-tín hầu biến đi, công lực Mỹ-Linh mới mạnh được.
          Bà định tâm, nhập thiền thực nhanh, đưa mắt nhìn Bồ-tát Minh-Không. Giữa tâm hai người nở ra như bông sen. Bà hiểu ngay:
          - Minh-Không thực đã thành đại Bồ-tát. Thì ra ngài đâu có nói với mình! Mà nói với con ma Hoàng Liên. Mình chẳng cần tụng, mang tiếng.
          Trong khi bà đang suy nghĩ, cũng đúng lúc mụ Hoàng Liên suy nghĩ như ma chướng của mụ. Mụ nghĩ thầm:
          - Chi bằng ta tụng kinh Lăng-già lên cho con nha đầu kia thua lão Đông-Sơn. Nếu ai có trách cứ, ta đổ cho lão Minh-Không.
          Nghĩ rồi mụ tụng liền:

          Sắc thảy và tâm không,
          Sắc thảy nuôi lớn tâm,
          Thân thọ dụng an lập.
          Tàng thức hiện chúng sinh,
          Tâm, ý cùng với thức,
          Tự tính pháp có năm,
          Vô ngã hai thứ tịnh.
          Diễn rộng nói thế này:
          Dài, ngắn, có, không, thảy,
          Lần lượt lẫn nhau sinh.


          Mỹ-Linh đang chiết chiêu, tự nhiên nghe bốn câu kinh kia lọt vào tai. Kinh Lăng-già nàng đã tụng hàng trăm, hàng ngàn lượt, đến độ nàng thuộc làu. Thành ra khi Hoàng Liên tụng, bao nhiêu sắc tướng, cùng sát thủ của nội công âm nhu Vạn-Tín hầu từ từ giảm xuống. Kiếm chiêu của nàng chậm lại dần. Nhưng mỗi khi kiếm của nàng chạm vào kiếm khí của Đông-Sơn lão nhân, nàng không thấy tê dại nữa. Trái lại nàng thấy chân khí của lão theo kiếm truyền vào người nàng.
          Mụ Hoàng Liên không biết rõ tình thế. Mụ thấy kiếm của Mỹ-Linh chậm lại. Mụ cho rằng việc mình làm có kết quả. Mụ tụng tiếp:

          Bởi không nên thành có,
          Do có nên thành không,
          Vi trần việc phân biệt,
          Chẳng khởi vọng tưởng sắc.
          Tâm lượng chỗ an tập,
          Ác kiến chẳng là ưa,
          Phi cảnh giới giác tưởng,
          Thanh văn cũng như thế.
          Chỗ nói của cứu thế,
          Cảnh giới của tự giác.


          Đến đây, trong tâm Mỹ-Linh hoàn toàn trống rỗng. Nội công âm nhu Vạn-Tín hầu như nước về nguồn rót vào đơn điền. Trong khi đó Vô-ngã tướng thiền công toả khắp thân nàng. Tay nàng nặng chĩu, kiếm chiêu càng chậm hơn. Nhưng kình lực toả ra cực rộng. Giữa kình lực của nàng với kình lực của lão đẩy vào nhau, thành ra hai người đứng cách xa nhau đến hai trượng mà chiết chiêu. Áp lực của hai người làm bàn thờ rung rinh.
          Kiếm khí khiến râu tóc Đông-Sơn lão nhân dựng đứng dậy. Trong khi quần áo Mỹ-Linh bay phơi phới.
          Trần Tự-An, Đoàn Huy nháy nhau, cả hai đồng đến trước bàn thờ xuất chưởng bảo vệ. Công lực của hai đại tôn sư võ học quả kinh người. Họ chỉ đứng đưa hai bàn tay ra, mà bàn thờ lại trở về thế bình thường.
          Cả quảng trường có tới mấy vạn người, mà im lặng, không một tiếng động. Họ đều nín thở theo dõi cuộc đấu có một không hai trên đời.
          Cứ mỗi lần Mỹ-Linh đẩy ra một chiêu, Đông-Sơn cũng tiếp một chiêu. Hai người cùng rung động. Người không biết võ cứ tưởng họ là thầy phù thủy bắt bùa, làm phép.
          Mỹ-Linh nghe tiếng sư phụ Huệ-Sinh dùng Lăng-không truyền ngữ:
          - Hãy bỏ ra ngoài Lục-căn. Làm theo sư phụ. Nào, bỏ nhãn.
          Mỹ-Linh bỏ ra ngoài nhãn ý. Nàng nhìn về trước, rõ ràng thấy Đông-Sơn lão nhân, khi nàng nhập vào sâu Thiền, chỉ thấy mờ mờ có hình người, không phân biết lão Đông-Sơn hay các vị tôn sư đang ngồi coi. Đến đó kiếm nàng đưa ra, lực đạo chạm vào kiếm Đông-Sơn lão nhân, khiến cả hai cùng bật tung, lùi lại hai ba bước.
          Quảng trường có mấy vạn người, nhưng rất ít người hiểu được cuộc đấu kiếm khí trên đài. Kình lực làm y phục Mỹ-Linh căng phồng lên. Dây lưng, khăn bay phất phới. Nàng từ từ đưa kiếm về trước. Trong khi Đông-Sơn lão nhân cũng đẩy kiếm hướng nàng. Cả hai cùng cảm thấy như đẩy kiếm vào vách núi, trong khi hai mũi kiếm cách nhau hơn trượng.
          Tiếng Huệ-Sinh nói vào tai Mỹ-Linh:
          - Được rồi bỏ nhĩ.
          Mỹ-Linh định thần, nhập sâu vào Thiền hơn nữa. Tai nàng không còn nghe được tiếng động xung quanh. Mũi kiếm của nàng nhẹ dần. Trong khi đó chân khí của Đông-Sơn lão nhân cuồn cuộn tràn vào cơ thể nàng. Nàng quy liễm vào đơn điền. Khoảng cách hai người ngắn dần.
          Tiếng Huệ-Sinh nói:
          - Được rồi! Bỏ tỵ, bỏ thân!
          Bây giờ Mỹ-Linh nhập Thiền cực sâu. Mũi nàng không còn ngửi thấy mùi hương. Chính bản thân nàng biến đi. Chân khí Đông-Sơn lão nhân cuồn cuộn chảy vào người nàng, mà nàng cũng không biết. Nàng đứng đó, mà giống như một người ngủ. Trong giấc mê chỉ còn nhớ mơ hồ rằng nàng đang đấu với Đông-Sơn lão nhân.
          Tiếng sư phụ Huệ-Sinh như trong giấc mơ:
          - Được rồi. Khoan bỏ ý.
          Nàng cảm thấy nội lực Đông-Sơn lão nhân cuồn cuộn truyền qua kiếm nhập cơ thể nàng. Khoảng cách giữa nàng với lão ngắn dần, ngắn dần lại, đến độ hai kiếm sắp chạm vào nhau.
          Trong khi đó nội công Đông-Sơn lão nhân phát ra tối đa. Hai người cùng từ từ đưa kiếm về trước. Hai mũi kiếm dính liền lại với nhau. Mỹ-Linh buông lỏng chân khí. Trong khi Đông-Sơn lão nhân đồn hết nội lực ra, hy vọng đánh gẫy kiếm nàng.
          Mụ Hoàng Liên thấy hai người đấu nội lực, mụ cho rằng Mỹ-Linh còn trẻ, nội lực muôn ngàn lần không thể bằng Đông-Sơn lão nhân. Mụ đọc tiếp :

          Xa lìa chấp đoạn trường,
          Thế gian hằng như mộng,
          Trí chẳng thấy có không,
          Mà khởi tâm đại bi.


          Bốn câu này nhập vào tai Mỹ-Linh, tòng tâm nàng bỏ lỏng căn thứ sáu trong lục căn là « ý ».
          Đến đây nội công âm nhu hoàn toàn biến mất. Vô-ngã tướng thiền công biến Mỹ-Linh thành một người trống rỗng. Chân khí Đông-Sơn lão nhân dồn ra bao nhiêu, bị cơ thể nàng nạp bấy nhiêu. Hai bên đấu trong khoảng ăn một bữa cơm, trên đầu Đông-Sơn lão nhân bốc thàng một làn khói trắng. Lão thấy chân khí tuôn ra cuồn cuộn, cứ trình độ này thì lão sẽ kiệt quệ mà chết. Lão muốn buông kiếm, nhảy lùi lại, mà buông không được. Lão muốn lên tiếng năn nỉ Mỹ-Linh, nhưng lão biết chỉ cần mở miệng ra, sẽ hộc máu chết tại chỗ.
          Một lát sau, bao nhiêu chân khí của lão kiệt quệ. Đúng lúc đó Mỹ-Linh rùng mình trở lại thực tại. Nàng thấy lão run run, động lòng trắc ẩn, thu kiếm nhảy lùi lại. Lão lảo đảo muốn ngã.
          Địch Thanh nhảy lên đàn đỡ lão:
          - Sư phụ! Sư phụ!.
          Mặt Đông-Sơn lão nhân co rúm lại. Mới qua hơn giờ, mà trông lão già hơn trước đến hai mươi tuổi. Lão nói yếu ớt:
          - Cô nương! Đa tạ cô nương nhẹ tay.
          Địch Thanh đỡ sư phụ xuống đài.
          Trận đấu kết thúc thực bi thảm. Tự-Mai hướng vào Triệu Thành:
          - Triệu vương gia. Xin vương gia giữ lời hứa, đến trước Khai-thiên vương dập đầu tạ tội, rồi rời khỏi nơi đây đi chứ?
          Triệu Thành hướng vào Mỹ-Linh:
          - Tiểu cô nương. Kiếm pháp tiểu cô nương cao minh bậc nhất trên thế gian. Không biết ai là sư phụ của cô nương? Xin cô nương cho biết cao danh quý tính.
          Mỹ-Linh không quen nói dối, lại quên mất mình đã cải trang, nàng chỉ vào sư thái Tịnh-Huyền:
          - Thái...thái... sư phụ dạy kiếm pháp cho tôi.
          Nàng định nói thái cô nhưng như vậy sẽ bị lộ, nên nàng nói bà là thái sư phụ. Triệu Thành không tin:
          - Xin cô nương cho biết cao danh quý tính của tôn sư.
          Mỹ-Linh nói lảng:
          - Tôi học kiếm với mẫu thân.
          Câu nói sau cùng của Mỹ-Linh làm Nhật-Hồ lão nhân nhận ra nàng. Bởi cách đây ít lâu, lão đã thấy nàng xử dụng kiếm pháp Long-biên đánh bại đệ nhất cao đồ của lão là Vũ Nhất-Trụ trong hầm Cổ-loa. Nàng lại thẩm vấn lão, nên dù nàng cải trang, uống thuốc cho đổi tiếng nói, lão cũng nhận ra nàng. Lão đến trước nàng xá ba xá:
          - Công chúa điện hạ. Lão phu có mắt như mù. Đại giá công chúa điện hạ lên đài từ nãy đến giờ mà lão phu không nhận ra.
          Mỹ-Linh lột tấm da người bao trên mặt, cử toạ reo lên rung chuyển trời đất, vì họ thấy khuôn mặt cực kỳ xinh đẹp của nàng. Nàng tiến đến trước sư bá Minh-Không, sư phụ Huệ-Sinh hành lễ, lại đến trước ông nội, phụ vương, thúc phụ... quỳ xuống rập đầu lạy tám lạy, rồi ôm kiếm đứng hầu phía sau.
          Triệu Thành kinh hoàng:
          - Trời ơi! Không thể tin được. Con nha đầu này trước đây chỉ biết có mấy thế võ mèo cào. Không ngờ nay y thị học ở đâu được võ công cao thế này?
          Triệu-Thành nói lảng ra truyện khác:
          - Thưa các vị anh hùng võ lâm Đại-Việt. Chúng ta ước định đấu ba trận. Trận đầu Địch trạng nguyên thắng Nguyễn Chí. Trận thứ nhì vì có sự vu cáo sư thái Hoàng Liên người của Đại-Tống, coi như không kể. Vậy tôi đồng ý trận thứ nhì tiểu cô nương đây đấu với Đông-Sơn lão nhân. Bên Giao-chỉ thắng trận nhì. Còn trận thứ ba, xin mời đệ nhất cao nhân Giao-chỉ đấu với sư phụ của tôi, Minh-Thiên đại sư.
          Tự-Mai quát lớn:
          - Đúng như thế! Nhưng trước khi đấu trận nhì, Triệu vương gia nói rằng: Nếu bà chị bé xíu của tôi đỡ được mười chiêu của Đông-Sơn lão nhân, Triệu vương gia xin quỳ gối tạ tội trước Khai-thiên vương. Bây giờ không những chị tôi đã đấu với lão gần nghìn chiêu, lại đánh cho lão suýt mất mạng. Vậy Triệu vương gia thực hành lời hứa đi chứ?
          Khai-thiên vương thấy con gái thắng đệ nhất kiếm khách Trung-quốc. Tuy rằng trung gian có sự trợ giúp của quốc sư Minh-Không. Bản tính vương ôn nhu, thấy vậy cũng thoả mãn rồi. Nay bắt Triệu Thành quỳ lạy, e làm nhục y thái quá. Vương phất tay:
          - Cháu Tự-Mai, như vậy đủ rồi. Làm kiếm văng vào chân ta do Đông-Sơn lão nhân, lão đã bị bại rồi. Bình-nam vương gia vô can. Vả lại vương gia là sứ thần của Đại-tống, không thể bắt hành lễ với bất cứ ai, ngoại trừ bài vị các vị anh hùng Đại-Việt. Mà việc này, vương gia đã làm rồi.
          Mỹ-Linh xuống đài, chắp tay đứng hầu sau thái cô Tịnh-Huyền. Còn Tự-Mai, Tôn Đản trở về khán đài phái Đông-a.



          Xin đọc tiếp bộ: Anh Hùng Bắc Cương



          <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.01.2005 08:57:58 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            NuHiepDeThuong 19.01.2005 05:42:30 (permalink)
            Bộ Thuận Thiên Di Sử của tác giả Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ đã được đưa vào thư viện.

            Xin chân thành cảm ơn bạn CDDLT.
            #6
              Chuyển nhanh đến:

              Thống kê hiện tại

              Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
              Kiểu:
              2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9