KÝ ỨC TUỔI THƠ
KÝ ỨC TUỔI THƠ Con viết cuốn sách này như một nén hương, kính dâng lên hương hồn Cha, Mẹ, và hai Anh cùng những người thân yêu đã nằm xuống. ---------------------oOo---------------------
PHẦN I
Tôi sinh ra ở một vùng quê Phú Yên. Làng Phú Thứ nằm dọc theo Con mương dẫn thủy của đập Đồng Cam, tưới khắp cánh đồng Tuy Hoà trù phú. Làng quê yên ả, hiền hoà ấy bị cày xới, sôi sục trong chiến tranh. Chẳng một mảnh vườn, một tấc đất nào không khét mùi thuốc súng. Tuồi thơ được trộn chung với đạn bom và xác người.
Cha tôi làm đủ thứ nghề, mặc dù nghề của ông là dạy học. Ban đêm đi dạy “học trò tổng hợp” - mỗi lớp vài người, dưới ánh đèn dầu đặc biệt được làm bằng chai thuốc đủ chủng loại có lò xo quấn bao lấy bấc đèn. Mỗi khi đang thắp mà nghe kẻng báo động có máy bay, chỉ cần vặn nắp đậy lại là xong. Dù bom vùi, dù đạn lấp miễn đừng có trái đạn nào trúng vào, nó chẳng bao giờ rơi một giọt dầu và, cũng đặc biệt như lớp học của ông: “Điểm danh mà vắng trò nào quá ba bận thì có nghĩa là người đó đã ra đi vĩnh viễn”
Ban ngày, ai cần hớt tóc - có ngay! Ai cần may quần áo - có ngay! Ai cần sửa cái nồi, thùng xách nước - có ngay! Người trong thời chiến tranh làm gì có nhất nghệ tinh! Có những cái chết mà trong làng chỉ có khóc chứ không kèn trống và khiêng ma! Và cũng có những cái chết mọi người chỉ đứng quanh cúi đầu chứ không khóc! Bởi lẽ một quả bom rơi thẳng xuống nhà hoặc một quả đại bác “ùng” ngay giữa mâm cơm! Tìm được gì đâu mà đem chôn, có còn ai đâu để mà khóc. Chị Hai tôi làm nghề may nhưng lại đi bán muối! Không ngồi may chuyên nghiệp được, trẻ con chúng tôi và cả người lớn nữa lấy vải dù pháo sáng, dù máy bay thả đồ ăn may áo quần!. May xong nhúng vào bùn vài lần cho đổi màu để dễ mặc và máy bay địch khỏi trông thấy. Mà vải dù bền vô kể, chỉ đứt đường chỉ chứ rất khó rách. Thế là nghề may được chuyển sang cho cha tôi. Dạo nọ tôi dược một chú bộ đội cho tấm vải dù trắng còn mới tinh, tôi săm se mãi, ướm vào người và nghĩ ra một cách, bèn đến bên cha:
- Ba ơi ! ba may cho con một cái áo mới đi. Một cái áo sơ mi có cổ cứng hẳn hoi đấy ba nhá, con để dành mặc tết!
- Ừ! Ba sẽ may. Con đem ra ao ngâm vào bùn mai đem phơi khô rồi ba may cho.
- Ba cứ may đi. Con ngâm sau cũng được.
Áo ba may xong đẹp lắm, trắng tinh, có cả cổ nữa. Mặc dù cổ mềm xèo nhưng vẫn đẹp vô cùng. Tôi chưa bao giờ sở hữu một cái áo nào đẹp như thế. Áo tôi (hầu hết bọn trẻ chúng tôi) đều loại áo không cổ và đặc biệt không có màu trắng!. Tôi tự hào về nó và tuyệt đối giữ bí mật không ngâm vào bùn.!
MỘT VIỆC LÀM TÁO BẠO .
Anh ba Sơn có một tiệm sửa xe đạp. Gọi là tiệm cho oai chứ thực ra chỉ dăm cái săm lớp, vài cái vành đã cũ mèm, một khung xe sơn màu xám xịt và thùng đồ nghề lỉnh kỉnh những cờ-lê mỏ-lếch. Tiệm của anh nằm ngay chợ Phú Thứ. Má kể mấy năm trước tiệm buôn bán cũng đỡ lắm, nhưng từ khi chiến tranh về, làm ăn trở nên khó khăn. Vả lại anh Sơn năm ấy đã mười lăm tuổi, thích ngồi nghe những chú bộ đội kể chuyện hơn là sửa xe. Có lúc anh ngồi nhìn bộ đội đi ngang qua – nhìn say sưa, chẳng biết anh nghĩ gì. Nhưng chắc cũng giống như tôi nhìn say sưa chiếc xe đạp anh dựng ngoài hiên. Chiến tranh bắt đầu ác liệt anh vắng mặt ở tiệm nhiều hơn, có khi vài giờ, một buổi hoặc đôi khi cả ngày. Anh đi tôi trở thành cậu chủ nhỏ, tiệm của anh trở thành thế giới của tôi. Anh Hà là anh thứ tư, lúc đó mười hai tuổi, cùng tôi trông coi tiệm. Môt buổi tối, đúng hơn là vừa chạng vạng chưa kịp đỏ đèn, chị Hai đi bán muối trở về tóc tai rối bời, dép đằng dép chân đằng chân, tất ta tất tưởi, kéo theo sau chừng năm người có cả trẻ con:
- Má ơi! Thằng Sơn bị bọn lính bắn chết rồi...!
Mẹ tôi đang cho heo ăn hốt hoảng chạy lên:
- Con nói cái gì? Sao lại bắn chết nó hả trời, nó sửa xe đạp mà!
Phạm Tú Uyên (còn tiếp)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.12.2009 14:37:32 bởi ptuuyen >
KÝ ỨC TUỔI THƠ (tiếp theo)
Mẹ tôi đang cho heo ăn hốt hoảng chạy lên:
- Con nói cái gì? Sao lại bắn chết nó hả trời, nó sửa xe đạp mà!
Mẹ tôi khóc bù lu bù loa. Tôi không khóc như mẹ nhưng nước mắt của tôi chảy dài nóng ran cả đôi má, tôi thương anh vô chừng, anh Sơn ơi!
- Con làm sao mà biết được, hồi xế thấy bọn lính trói dẫn đi, gặp con, nó ra hiệu con đừng có lại, nó bị trói vầy nè, con đi một đoạn tự nhiên nghe hai phát súng , sảng quá chạy lại thì đúng là nó bị bắn quăng xuống mương dẫn thủy mất xác rồi!
Vừa nói chị Hai vừa đưa hai tay bắt chéo trước bụng. Tôi chân tay bủn rủn, đứng thẩn thờ nhìn bộ đồ anh mắc trên vách, nhìn chiếc giường kê gần cửa ra vào mà hằng đêm tôi với anh ôm nhau ngủ. Giờ anh nằm đoạn mương nào hay còn đang trôi theo con nước… Suy nghĩ miên mang, mẹ sai anh Hà chạy tìm ba về. Ba chưa kịp về đã thấy anh Sơn quần áo dính bùn đất, đầu tóc rối bời, ướt mem lao vô nhà. Chưa nói gì anh đã cười toe toe:
- Làm gì tụi nó bắn con được!
Chị Hai tìm áo quần đưa anh Sơn, mẹ lấy khăn vo khô đầu và anh kể lại chuyện xãy ra trưa nay. Tôi, anh Hà ngồi há hốc mồm, đôi khi cười ré lên sung sướng, thích thú. Mẹ, chị Hai thì xít xoa, cứ lạy trời, lạy phật còn cha tôi trầm ngâm không nói gì. Tôi biết cha rất hài lòng vì ánh mắt ông nhìn anh kể, nhìn một cách triều mến. Quả thật anh Sơn của tôi rất cừ, trong mắt tôi anh là một anh hùng. Tôi ngưỡng mộ anh quá sức. Như tôi đã kể ở trên, thời gian sau này anh Sơn hay vắng mặt ở tiệm. Anh lân la theo các chú bộ đội (anh nghĩ phải làm được một việc gì đó để chứng tỏ mình là người đã lớn, can đảm) thế là hôm đó anh xuống Phú Lâm mua phụ tùng xe đạp. Trên đường về tới ga Gò Mầm, thấy lính Cọng hoà đi càn về đang ngồi nghỉ, đánh bài. Có tốp nằm ngủ dưới gốc cây. Anh men lại làm quen, tên lính ngồi gần gốc cây đang thiu thiu ngủ, anh lén lấy khẩu “cạc bin” nhét vô cái hầm ếch bé tẹo được moi sâu dưới gốc cây mà bọn trẻ con chúng tôi hay đào chơi trò đánh giặc giả và cũng để làm hầm tránh đạn, tránh máy bay. Bé bằng cái lỗ mũi, muốn vào phải nằm trường như con rắn mối! Nhét khẩu súng vô hầm xong anh giả bộ uể oải đứng dậy về. Không tên lính nào nghi ngờ, đi được một đoạn bọn chúng phát hiện mất súng nên rượt theo anh. Lẽ ra, rời khỏi chỗ bọn lính anh phải chạy nhanh hoặc trốn đâu đó (mà nếu làm điều này thì chắc khi bắt bọn chúng sẽ bắn anh ngay!). Anh cứ đi lơn tơn, vừa đi vừa xiết mía nên khi bọn chúng rượt tới cũng không thể nói anh lấy súng được. Bọn chúng bợp anh mấy bạt tai, đạp ngã nhào xuống vũng nước gần đó và trói lại. Chúng dẫn anh về quận.
Năm đó anh mười lăm tuổi, ốm nhom và đen nhẻm. Cao lêu đêu như một cây củi khô, giống như đứa giữ bò hơn là cậu chủ tiệm xe đạp. Tóc anh loăng quăn cháy vàng! Màu tóc của tuổi thơ bom đạn, của chiến tranh và cơ cực. Tôi thích nhất ở anh không phải mái tóc, tôi cũng có mái tóc như vậy. Bởi vì mỗi lần mẹ hôn lên đầu tôi người luôn bảo “tóc của thằng Hà em hôi giống mùi chó con của mẹ quá!” Khi đó tôi không thích thế. Tôi rất thích đôi mắt và cái miệng của anh, cái miệng khi nào như cũng muốn cười, kể cả những lần bị cha cho ăn roi mây!. Nếu không có những giọt nước mắt lăn trên má lúc khóc thì tôi cứ tưởng là...anh cười!. Có một bận tôi lén lấy chiếc xe đạp của anh tập đi. Tôi chỉ đi được một kiểu là để chân lên bàn đạp rồi lấy chân kia đẩy cho xe chạy! Và tôi đã cho xe chạy luôn xuống mương dẫn thủy! Bị anh la một trận tơi bời, nhưng lúc đó tôi vẫn thấy…miệng anh như cười! Tôi không sợ nhưng thương anh lắm. Và cũng nhờ chuyện anh lặn xuống mương (gọi là mương nhưng thật ra rất rộng. Ngày ấy tôi đã phải dùng hết sức mới bơi qua được bờ bên kia. Phải rộng hơn một thân tre và sâu thì bằng cả hai thằng tôi chắp lại). Lặn từ chỗ tôi quăng xe, đoạn cầu Phú Thứ đến ga Gò Mầm mất một buổi trời. Chiếc xe bị miếng chắn của ga cản lại và chính cái thùng thiếc rỗng cột sau “ba ga” đã lôi chiếc xe đi xa như vậy. Tại đây anh đã phát hiện ra một hầm bí mật bỏ hoang, sạc lở, hư hỏng khá nhiều, ăn thông qua đường cái dẫn đến một cửa nữa nằm phía dưới bụi tre, lề trên.
Khoảng hai giờ chiều hoặc hơn, bóng ngã đã hai sải chân, trời còn đang nắng chang chang, bọn lính đứa xô, đứa đạp lên người, thúc anh đi nhanh (có lẽ không tìm được súng và cũng không có cơ sở bảo rằng anh lấy nên bọn chúng trút bực bội lên anh) thỉnh thoảng anh lại bị đạp ngã nhào. Lề đường phía trên có nhiều bóng cây, phía dưới là con mương dẫn thuỷ. Gần đến ga Gò Mầm mùi hôi xông lên nồng nặc. Rác, xác súc vật chết, đủ thứ trên đời bị ga cản nên kết lại một mảng lớn. Còn hơn hai trăm mét chợt nhiên anh nhớ đến... cái hầm bí mật!. Anh mừng không tả nỗi, anh mừng phát run lên, và cũng lúc này anh gặp chị Hai, sợ rầy rà cho chị và nhất là sợ...qua khỏi ga! Làm trở ngại ý đồ của anh, may mà chị đi luôn, anh cố đi chậm để chị đi thật xa. Thấy anh đi chậm quá một tên lính xô mạnh vào lưng – anh chỉ đợi có giây này. Thực ra anh có thể nhảy ùm xuống mương, nhưng nếu vậy bọn lính sẽ bắn theo ngay và có thể sẽ bị trúng đạn. Anh chờ một cú đạp, cú đẩy vào người, anh sẽ ngã - cố ngã làm sao thật tự nhiên. Và rồi anh ngã thật, ngã thật...đẹp! rơi “tòm” xuống mương! Phía trên mặt nước là một dề rác rưởi dày cả tấc, anh chìm nghỉm không thấy tăm hơi. Tên lính xô anh rơi xuống nước hốt hoảng chưa biết phải làm sao thì mấy tên gần đó:
- Đ.m. cho nó chết luôn, vớt làm gì!
Lúc đó trên bờ không có người dân nào, chứ nếu có ai nhảy xuống cứu thì phiền to!. Một tên có vẻ là chỉ huy, chỉa súng xuống nước định bắn, ai đó nói:
- Không cần bắn nó cũng chết, ga nước chảy thế này mà bị trói cả hai tay nữa. Chắc chắn nó bị hút kẹt dính vô mấy lỗ của tấm thép chắn ga, chầu Hà Bá rồi.
Tên chỉ huy ngứa tay ấn vào cò súng “đoàng, đoàng”. Hai phát súng khô khốc chìm trong mênh mông biển lúa đang thì con gái. Bọn chúng lại tiếp tục lên đường, dững dưng như chưa hề có chuyện gì xãy ra. Còn về phần anh Sơn khi ngã “ùm” xuống mương, anh lặn một mạch đến hầm bí mật, chui ra khỏi bụi tre. Nương theo bờ ruộng. Những đám lúa sắp làm đòng che chở , bảo vệ anh thoát ra khỏi vùng nguy hiểm.
Phạm Tú Uyên (còn tiếp)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.12.2009 14:46:46 bởi ptuuyen >
KÝ ỨC TUỔI THƠ (tiếp theo)
Từ đó, trong mắt bọn trẻ chúng tôi và cả người lớn nữa - anh không còn là thằng Sơn ốm nhom như que củi! Đi đứng ra vẻ người lớn lắm!. Cây súng lấy được anh đem nộp cho mấy anh xã đội.ới công trạng này, anh bị mấy chú trên huyện phê bình cho một trận vì tội liều lĩnh, nguy hiểm nhưng sau đó được tuyên dương trước toàn đội thiếu niên nhi đồng xã. Tôi sung sướng và tự hào lắm, cứ như công trạng đó là của tôi vậy.
Tiệm sửa xe được giao lại cho cha tôi!. Vậy là ông kiêm luôn thợ sửa xe, anh Hà giúp việc, còn tôi vẫn chạy long nhong. Anh Sơn được mấy bác ở trên huyện giao công tác liên lạc, oai không chê vào đâu được!. Anh nói khi nào đủ mười bảy tuổi, các bác sẽ giao súng và anh dặn cả nhà nếu ai hỏi thì bảo là anh đã mười sáu!.
CÂY DA LÀNG
Trong nhà, anh Hà là người giống tính cha - trầm tỉnh, ít nói. Anh hơn tôi năm tuổi, dáng người thấp nên chỉ nhỉnh hơn tôi chút xíu, ấy thế mà tôi lại sợ anh nhất nhà. Anh cũng chưa bao giờ đánh tôi, cứ thấy miệng anh mím lại không hiểu sao tôi lại chẳng dám ho he!. Có một điều lạ, là anh luôn biết tôi thích gì và, với tôi, anh là người vừa gần vừa xa!.
Năm đó, tôi học mẩu giáo. Những năm đầu của chiến tranh, làng quê còn yên ả, lâu lâu có một chiếc máy bay Bà già (L19) bay ro ro tít trên cao. Bé tí như dấu phẩy trên bầu trời, cỡ nó tôi dùng ná thun bắn cũng rớt! Trong lưng quần tôi luôn lận sẵn một bọc sạn giàng ná thun quàng trên cổ, không phải để bắn chim đâu, để...bắn ma và bắn máy bay đấy! Lớp mẩu giáo của tôi đứa nào cũng vậy cả, ngoài giờ học là đi đánh giặc giã.Thấy máy bay...cũng bắn! Gặp ma cũng bắn! Ma ở đây nhiều vô cùng, bờ dứa, bụi tre cũng có ma, mương nước, giếng lạng (giếng bỏ hoang) cũng có ma. Mà đặc biệt, gần nhà và trường mẩu giáo của tôi - nghĩa là mỗi ngày đi học tôi đều phải đi qua một nơi mà ai nghe cũng rùng mình “cây da”!.Từ cầu dưới Phú Thứ đến cầu trên cây da nằm quản giữa, Từ đường cái dọc mương dẫn thuỷ đến đường liên thôn bên trên, cây da cũng nằm...ở giữa!. Nói chung, nếu “con ma cây da” xuất hiện thì chỉ cần”phoóc” một cái là...đứng sát chúng tôi ngay nên chúng tôi trang bị ná thun để... phòng thân!.
Nhà tôi có một đám ruộng sào rưỡi nằm gần cây da, do phải thường xuyên đào chuột, đuổi chim phá lúa cùng với cha tôi và anh Hà nên...”con ma cây da” có vẻ cũng thân thiện với tôi hơn! Và điều này làm bọn trẻ con cùng lứa phục tôi sát đất. Rất nhiều lần tôi cam đoan với bọn chúng rằng “con ma cây da” đồng ý để bọn chúng đến...sờ vào thân cây!.
- Thật đấy! mình đã từng...leo lên cây mấy lần!
- Bạn có bắn trúng con ma nào không?
- Mà nó không có bàn chân chớ gì!
Tôi giải thích :
- Ma quen chớ có bắn!. Mình chỉ niệm“nam mô a di đà Phật” “họ” sẽ không làm gì đâu, mẹ bày thế - y chang!.
Dù có nói cỡ nào, dù cam đoan ra sao bọn chúng cũng chỉ lao nhao lấm lét đưa mắt nhìn cây da.
- Eo ui! Chưa tới cây da, đi ngang qua giếng lạng đã rùng mình. Có lần mẹ mình nhìn xuống giếng thấy có một con ma...xanh lè! Đang nhe răng trắng ỡn cười...với mẹ!
Con Vân là đứa nhát gan nhất trong bọn. Vừa nói nó vừa len
vào đứng giữa nhóm.Thằng Ngọng lên tiếng:
- Uị...ụi...ụi mình quề...quề nhà i...! Ao...ao ợ dắm!!.
Thằng Ngọng nói chưa dứt, chợt từ rất xa có tiếng gì kêu ro ro, nó vển tai, hốt hoảng:
- B..à...b...à bà bà g..i...à !.
Không ai bảo ai cả bọn chúng tôi cùng chạy thật nhanh tìm chổ núp. Cái con bà già này mắt như mắt cú vọ, các chú bảo thế, nó không biết bắn nhưng biết kêu canh nông thả “ùng”xuống nhà mình! Bọn tôi núp dưới gốc cây thật kín đáo, không còn lo nữa. Đứa nào cũng sẵn sàng ná thun trong tay, đạn đã...lên nòng! Chỉ còn kéo căng dây thun...bụp! Là máy bay rơi các...”đồng chí” ạ!.
Dường như nó sợ hay sao mà bay thật cao rồi tự nhiên đổi sang hướng khác, xa tít tắp- mất hút vào trong mây. Bọn tôi thở phào, quàng ná thun vào cổ. Tôi đứng sát nhỏ Vân, mặt nhỏ bổng tái méc ú ớ như bị trúng gió, tay chân quơ quơ,lào khào:
- M...ì...n...h....! ơ!...ơ!!!
Bọn tôi hốt hoảng chưa biết phải làm sao thì “thằng Phú con
thầy Tàu” giọng lơ lớ:
- Chời ơi! Ma-cây-zzzzaaaa !.
Vừa nói nó vừa đưa bàn tay run rẩy chỉ lên cây da. Hoá ra vì lo chạy núp máy bay mà bọn tôi không để ý, ma xui quỉ khiến thế nào lại chui vào núp dưới cây da! (thật ra, tôi cũng sợ lắm nhưng như kể ở trên, tôi vẫn thường đuổi chim ăn lúa ở đây cùng cha hoặc anh Hà nên hơi quen, vả lại ở đây đang đông người và, hơn thế, tôi không muốn...mất mặt với nhỏ Vân! Tôi không muốn Vân...cười tôi!).
- Làm gì mà các cậu cuốn lên thế. “Ma cây da”...quen mình...! mình ở đây hoài mà, có sao đâu.
Phạm Tú Uyên (còn tiếp)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.12.2009 14:41:41 bởi ptuuyen >
KÝ ỨC TUỔI THƠ (tiếp theo) Tôi cầm tay nhỏ Vân cho nó bớt sợ (tôi nghĩ thế). Định nói thêm gì đó với các bạn và Vân thì anh Hà từ xa phía bên, đường trong làng đi tới. Nghe bọn tôi kể chuyện vừa rồi, anh cười: - Tụi bây sợ gì!. Anh với thằng Hà em ở đây hoài, buổi trưa nóng không muốn tắm mương lại múc nước giếng lạng tắm nữa là. Tôi dựa hơi anh. - Có bữa làm rớt gàu em còn khiều lên nữa anh hè!. Tôi chạy lại dưới gốc da. - Các bạn tới đây chơi đi. Không hiểu sao, khi đó tôi hăng như một chú gà choai. Bám vào rễ da to bằng bắp chân lòng thòng xuống đất, leo thoăn thoắt lên cháng ba. Bọn bạn có vẻ bớt sợ khi anh Hà xuất hiện, lúc thấy tôi ngồi vắt vẻo trên cháng ba cây da bọn chúng mới men lại gần!. Máu nóng trong người tôi chạy rần rần, tôi nhìn xuống Vân - Leo lên đây chơi các bạn ơi! Tôi chưa dứt lời thì có tiếng mẹ Phú kêu về, Phú chạy tới chổ mẹ, các bạn chạy theo. Tôi hốt hoảng mặt mày tái méc, luống cuống không biết đường nào xuống. nhìn lên tán cây đen sì những hình thù quái gỡ, tôi đâm chột dạ - Bạn xuống đi, từ từ coi chừng té Tôi hoàn hồn nhìn xuống, Vân vẫn còn đứng bên dưới Anh Hà ngồi trên bờ đám ruộng, nhe răng: - Còn chờ gì mà không xuống hở ông tướng!. TRÒ CHƠI... Thằng Phú bằng tuổi tôi, nhưng nó trắng trẻo phốp pháp, lại cao nên nỗi bật lên trong nhóm bạn đen cháy và còm nhom!. Nhà nó giàu nhất làng, cha nó là “Thầy Tàu” chính gốc. Anh Hà bảo “ ông Thầy Tàu” giống y chang Tôn Sĩ Nghị. Anh đưa cả hình Tôn Sĩ Nghị ở trong sách truyện tranh lịch sử cho tôi xem nữa, giống thật! - Tôn Sĩ Nghị là giặc Tàu, còn cha thằng Phú là ông Thầy Tàu bán muối với lại nước mắm mà sao hai người giống nhau ghê anh hén, trong làng này đâu ai giống thế đâu!. Anh Hà giảng giải một hồi nhưng tôi chả hiểu gì, chỉ láng máng một điều rằng ông ta ở xa tít tắp tận đâu đâu. Trước đây, trong nhóm bạn không có Phú, mà bọn tôi cũng chẳng thích chơi với nó. Con trai gì mà y cục bột! Quần áo tươm tất, đi đứng như...con gái! Nhưng đổi lại, tính Phú hiền lành, nhút nhác và, đặc biệt vườn nhà Phú rất rộng, trồng nhiều cây ăn trái. Cứ mổi tháng đôi lần, cha Phú xuống thị xã Tuy Hoà chở hàng, nguyên hai xe lam đầy ắp muối và nước mắm. Cứ mỗi lần thế là bọn trẻ chúng tôi lại kéo đủ bộ đến nhà Phú, trèo tót lên cây. Nào xoài, ổi, mận. Đứa nào đứa nấy ăn cành hông, tuơ cả miệng, ních thêm mỗi đứa gáo nước trong ảng, bụng phành lặc lè, kéo cả lũ ra đường cái quan, đu xe ngựa xuống ga Gò Mầm chơi trò đánh giặc giả với bọn xóm dưới. Bọn chúng tôi dân xóm trên nên tụi Gò Mầm gọi là “Việt Cọng” còn chúng xưng là “Quốc Gia”, nhưng chúng đích thị là bọn Nguỵ! Gọi thế bởi nhiều lẽ - qua khỏi ga Gò Mầm có một cái đồn lính Cọng Hoà, sáng bọn chúng đóng quân tại đây chuyên soát đàn bà con gái đi chợ qua lại. chẳng biết là soát cái gì, chỉ thỉnh thoảng nghe bọn chúng cười tô hố, còn các mẹ các chị thì chạy tán loạn. Trong khi chờ tụi "Gò Mầm" tới để chia phe đánh giặc giã. Bọn chúng tôi cùng túa xuống đám ruộng vừa mới gặt xong. Mùi rạ mới thơm nồng. Những gốc rạ chỉa lên tua tủa, cọng nào cọng nấy to bằng ngón tay út, láng cháng đâm lủng chân như chơi. Cào cào châu chấu bay loạn xạ, những chú sâu róm mập cui, mủm mỉm, đen mềm như nhung, đu trên ngọn lúa gặt sót, cung vòng. Lúa được mùa nên bông nào bông nấy vàng óng, hạt nằm sắp lớp đều tăm tắp trông mê tơi. Tôi đưa mắt quanh đám ruộng, những bông lúa rơi lại nhiều ghê! Chỉ cần nhặt mấy đám quanh đây cũng đã non phần giạ lúa. Có lẽ cùng nghĩ như tôi nên thằng Ngọng cúi xuống lượm ngay hai bông to bằng cái liềm gặt, mặt hí hững. Tôi nói mà không như lòng mình đang nghĩ: - Không thèm lượm! Ta đi "đánh giặc" không thèm lượm lúa...của nó! Ngọng chưng hửng, Phú "thầy Tàu" nhanh nhẩu: - Mình pắc cào cào, châu chấu thôi, pắc cho chim ăn! Đức "lì" lên tiếng: - Đen về tối rang ăn! Khi Đức "lì" vừa nói xong, cả bọn như khựng lại. Ngọng nhìn mấy bông lúa trên tay như tiếc rẻ, quăn xuống trước mặt, đám cào cào được dịp bay tứ tán. Cào cào, châu chấu là những món "nhấm nháp" khoái khẩu của bọn tôi, nhất là những khi mùa gặt về. Thường là khi xong một "trận" giặc giả, hoặc đem cơm, xách nước ra đồng cho ba mẹ - trên đường về, với một bao nilông trên tay vừa đi vừa bắt, về tới nhà cũng bộn cào cào nhảy rào rạo trong bao. Lấy một cọng tre xiên qua từng chú, huơ huơ trên ngọn lửa tan tành những áo xanh áo đỏ. Vác "chiến lợi phẩm" ra đường uơ uơ vài tiếng là cả bọn tập trung. Không hẹn nhau nhưng hầu như đứa nào cũng một xâu cào cào trên tay! Quơ đâu đó một nắm rơm với dăm cục phân bò khô, thế là ngồi xây quanh đống lửa nhấm nháp.
Phạm Tú Uyên (còn tiếp)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.08.2009 16:41:49 bởi ptuuyen >
KÝ ỨC TUỔI THƠ (tiếp theo)
Cào cào được nướng đều trên lửa rơm, vàng sém, thơm phức. Bỏ vào miêng...bụp một cái dòn tan, béo ngậy lại ngọt bùi, thơm lựng.
Tất nhiên lượm lúa thì tốt hơn rồi. Nhưng khi nghe tôi nói có lý nên tụi bạn...đành quăn đi. Từ đầu mùa gặt đến giờ, bọn tôi kiếm được cũng bộn lúa. Mẹ tôi giữ để khi nào đủ thì may cho...Đức "lì" một cái áo, mua mấy tập vở. Với lại cho nó...làm vốn sau này! Thực ra, Đức "lì" hồi đầu năm nó chỉ là Đức không thôi. Chỉ tội ít nói, còn tính nó hiền như củ khoai. Dạo đầu năm, nó đi học,cha mẹ đi làm đồng, bồng theo đứa em kề nó, lên ba tuổi vì để ở nhà không ai trông. Gặp buổi giặc đi càn, cha mẹ nó sợ quá bồng luôn đứa em chui vô hầm "ếch" đào để tránh máy bay núp. Xe tăng giặc chạy băng qua ruộng, chạy băng qua chổ hầm cha mẹ và đứa em đang núp. Thế là chẳng người nào còn sống, và cũng không ai biết cả. Chỉ thấy tối không về. Tưởng là bị giặc bắt đi xuống quận. Mọi người xuống quận dò hỏi khắp nơi nhưng không ai biết. Năm ngày sau, những người làm đồng gần ruộng của nó nghe mùi...xác người! Tìm và phát hiện ba, mẹ và em nó trương phình. Thế đấy! Từ đó, nó đã ít nói càng ít nói hơn. Nó không còn ai người thân, bị bom đạn chết hồi còn ở trong Phú Nhiêu. Nhà nó dời ra Phú Thứ chừng hai năm nay. Gìơ thì trơ trọi chỉ mình nó trên đời! Bọn chúng tôi thương nó nhiều hơn...là ghét "lì" của nó. Đang hăm hở bắt cào cào thì xung quanh ào ào như giặc dậy:
- Tấn cô ô ô ô ô ô ô ô ô ông!
Sự phản xạ trong chiến tranh nó đã trở thành "xương máu" cho những đứa trẻ thơ chúng tôi, những đứa trẻ còn đang giữ...cức trâu trên đầu! Nên sau tiếng hô tấn công của bọn "Nguỵ" Gò Mầm (tên gọi tôi vừa chợt nghĩ ra) thì năm đứa bọn tôi, tất cả đều nằm rạp xuống ruộng, bất kể là những "chông rạ" chỉa lên tua tủa. Súng trong tay, đạn đã lên nòng. Ngọng nằm bên cạnh, khều khều:
- Tao..tao...tao rớt đạn khi...khi nhảy...nhảy...nhảy xe ngựa...
Tôi móc trong cạp quần hai viên bi đất đưa cho Ngọng, mắt gườm gườm:
- Liệu hồn, bắn cho trúng nghe chưa! Thôi, để dành đi, để dành...phòng thân!
Một tên “địch” cầm túm lá trên tay như tấm khiêng che đạn, tay kia xách một bị đất cục, liều lĩnh xáp gần chổ Phú "thầy Tàu". Phú là "lính mới" nên vừa thiếu kinh nghiệm "trận mạc" lại vừa chưa được...đào tạo sử dụng vũ khí chuyên nghiệp. Nên lóng cóng thế nào mà giàng ná thun đã nổ "phạch" một tiếng nhão nhẹt, còn hiệu quả thì như mây như khói. Khôi nằm bên cạnh gắt um:
- Bắn...như lỗ đít! Chưa nhét đạn mà bắn...
Thằng Phú định nói gì đó lại thôi. Nó tiếp tục làm động tác bỏ bi vào miếng da ná thun, thằng địch móc một hòn đất trong bị, chắc là định "câu" canh nông vào Phú. Tôi kéo căng sợi dây thun "phựt" tên địch nhảy loi choi như đỉa phải vôi, quăng cành lá cùng bị đất, quay lui chạy thục mạng. không bỏ lở cơ hội, tôi vùng dậy:
- Xung phoooooooong!
Thực ra trận địa chưa biết kẻ ăn người thua, nhưng bổng dưng phe nhà đang có người chạy có cờ, đối phương lại tràn lên như bão lũ, bọn Gò Mầm đội hình tự nhiên rối loạn, mạnh ai nấy chạy, mà chẳng biết vì sao. Phú không quen chạy, nhất là chạy trên ruộng mới gặt. Không có kinh nghiệm chẳng dễ gì chạy, phải đưa bàn chân xiên xiên với gốc rạ, gốc rạ mới chịu nằm xuống. Còn Phú thì chạy như...con kiến càng trên chảo lửa, như chú ngựa đóng móng bị sai, cà thọt cà thọt, cà nganh cà nganh không nhịn cười được.Mà kể ra cũng không trách nó, nó bị té lia chia. Mặt mũi, thân hình vằn vện những bùn đất, bộ dạng càng "quái chiêu". Mà dường như càng chạy nó càng hăng:
- Pắc lấy bọn nó...chém đầu "tế cờ anh em ơi...!
Chẳng ai hình dung được tình huống này. Bọn Gò Mầm thấy bộ dạng và nghe Phú nói như thế lại càng chạy hăng
Chúng chạy tán loạn. Leo lên tới bờ mương, đứa nhảy ùm xuống nước, đứa chạy qua đường ga. Tôi hét Phong “Thầy Tàu” đừng rượt nữa.
Trận đấu chưa đánh đã thắng, công đầu phải kể đến Phong. Chúng tôi tập trung lại bên ga, nhìn Phong bê bết bùn đất, mặt mày tái méc:
- Công nhận cậu “chiến” thật đấy.
Khôi gầm gừ nhìn Phong:
“Chiến” nhưng bắn ná thun như...củ khoai từ!
Đức “lì” góp lời:
- May thằng Hà “em” “đớp” một phát vào giò nó chớ không là tiêu dên rồi!
Sự hung hăng, can đảm của Phong biến đâu mất. Bộ mặt nhút nhát, hiền lành lại về với nó:
- Ngộ...ngộ...pắn mà không có...lạn, lạn pị dớt lâu dồi, ngộ dã pộ cho nó tin!
Bọn tôi cười như nắc nẻ. Những chiếc xe ngựa lên Phú Thứ quãng nữa buổi đã lóc cóc tới ga Gò Mầm. Tôi lội xuống bàu bẻ một lá súng ụp lên đầu, rủ cả bọn đu xe ngựa về cầu Phú Thứ, chợt thấy bên bót gác có mấy người dân, kẻ ngồi, người đứng. Một chiếc xe ngựa chạy lên, chúng tôi hờm sẵn. Xe qua khỏi bót gác là a lê hấp! Đứa nào đu được thì đu.
Phạm Tú Uyên (còn tiếp)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2009 07:58:34 bởi ptuuyen >
KÝ ỨC TUỔI THƠ (tiếp theo) Bọn tôi kéo đến gần bót gác núp nắng. Mấy người dân bị lính Cọng Hòa thu mất giấy căn cước ngồi tụm quanh bót gác. Có vẻ như hôm nay mấy chú lính không bình thường, không chọc ghẹo đám con gái đi chợ nữa, mặt mày người nào cũng ra vẻ lầm lì, quan trọng. Chợt từ hướng Phú Lâm chạy lên một chiếc xe “rip” Mỹ. Ba người lính Cọng Hòa nhảy ra khỏi xe, phía sau có một người mặc đồ “sơ vin” đeo gương đen to tướng, cùng đi lại bót gác. Ngọng thầm thì vào tai tôi: - Hình…hình…như… Tôi gắt: - Cậu im xem. Lính đuổi đi bi giờ! Tôi chưa dứt lời, có tiếng quát: - Mấy ông nội oắc con ra kia chơi. Cả bọn lùi dần ra, Phú cố bám chút bóng mát của bót gác bị tên lính đi đầu đá vào mông, nó nhảy loi choi - Ối! chời lấc ơi...lâu quá...lâu quá! Tên lính nổi khùng tưởng Phú chọc, xách tai cậu ta đứng dậy: - Mày dám chọc ông đấy hả, ôn con? Mặt Phú xanh dờn, lắp bắp: - Ngộ...ngộ...lâu ngộ lâu lít mà... - Nó là dân ba Tàu đó, tao biết. Tôi đứng mé sau bót gác nhìn xéo ra người mặc đồ “sơ vin”: - “Đúng là người này thấy quen quen, không biết gặp ở đâu. Ông ta đeo gương đen to, tràm nửa mặt khó nhận, nhưng...” Ngọng ghé sát tai tôi: - Hình…hình…như… ... CHIẾN TRANH Trường lớp đã bắt đầu thưa thớt học sinh. Những gia đình khá giả, buôn bán hoặc ít ruộng vườn, đóng cửa nhà, dắc díu nhau ra ngoài Mỹ Lệ, hoặc lên quãng trên, tránh bom rơi đạn lạc. Vài gia đình có bà con ở Thị xã thì thuê xe lam chuyển đồ về dưới đó. Chiến tranh đã mom mem tới gần. Lính đi “càn” dày hơn, ruộng đồng bị xe tăng xéo nát chưa kịp trở mình lại bị bom đạn cày xới. Nhóm bạn chúng tôi, gia đình đứa nào cũng nghèo, cũng bám víu vào mảnh ruộng nên chưa dám đi đâu. Nhà thằng Phú là dễ đi xuống Thị xã nhất nhưng cha nó…lại không chịu đi! Cha nó nói: - “Càng chiến tranh càng dễ buôn bán!” Thế là nhà nó chuyển lên Thạch Thành - ở đó tương đối yên tĩnh. Phú Thứ là vùng giáp ranh, đôi khi năm ngày, nữa tháng, lính Cọng Hòa “càn” lên đóng quân vài ngày – Cách mạng rút lui vào “bí mật”. khi lính rút thì đâu lại vào đấy, cuộc sống của người dân cũng thế mà…thích nghi. Bọn trẻ con chúng tôi là “thuận lợi” nhất! Ngày nào cũng đến lớp, học thì ít mà đi lang thang, tắm mương, đánh giặc giả, hái trộm ổi…thì nhiều. Chơi riết trò chơi “trẻ con” cũng chán. Tôi muốn mình lớn nhanh để đi “uýnh giặc” như các chú bộ đội, như anh Sơn của tôi. Đánh nhau bằng súng thật thì thích hơn nhiều, “đùng” một cú là ngã quay lơ, chẳng bù với giàn ná thun: “bịch” một phát, “bọn địch” phủi đít nhe răng cười hì hì! Phú “thầy Tàu” mấy hôm nay không đi học, chắc ba nó sắp đưa cả nhà lên Thạch Thành. Nhóm thiếu một đứa tự nhiên buồn ghê. Cha tôi cho người chở cát, sạn, sắt, xi măng về chất đống trước sân. Không phải cha xây nhà đâu, làm hầm tránh đạn, tránh “canh nông”. Hầm được đúc bê tông cốt thép chìm dưới mặt đất. Cả Phú Thứ, hầm tránh đạn của nhà tôi là kiên cố nhất. Tôi hỏi cha: - Thế làm hầm là nhà mình không đi đâu nữa hả ba? Lỡ lính lên ở luôn đây thì sao! Cha ngồi xuống ôm tôi vào lòng - Ba làm hầm cho nhà ta tránh đạn, hầm cũ không an toàn con ạ! Khi cần, ba sẽ chuyển cả nhà đi. Căn hầm vừa xong, cha cùng anh Sơn vội từ biệt gia đình để lên núi. Ngày ấy tôi còn bé quá, nào biết được gì đâu, cứ ngỡ đi đâu đó rồi lại trở về. Căn hầm cha làm mà chưa một lần chui vào tránh đạn, chị Hai và anh Hà, tôi cũng buồn, nhưng buồn trong sự chia ly, buồn trong nỗi thiếu vắng. Mẹ như linh cảm điều gì, xin cha với anh Sơn chậm lại dẫu chỉ một ngày: - “Một ngày thì có mấy tí hở mẹ - tôi nói” Mẹ không nói gì, thẩn thờ hết lấy đồ cha đơm lại mấy cúc áo, vá chổ sờn trên vai anh Sơn, mẹ không khóc nhưng nước mắt cứ lăn dài trên má. Cha cũng buồn vì phải xa vợ và các con, suốt buổi chiều hôm ấy, tôi cùng anh Hà đều ở nhà, chị Hai nghỉ một ngày bán muối. Chẳng ai thấy anh Sơn buồn cả, vì lâu nay anh rất ít khi ở nhà, đi liên miên có khi năm ngày, nữa tháng mới ở nhà một đôi ngày nên có thể anh quen. Nhưng không phải thế, tôi biết anh rất buồn, anh dặn tôi đủ điều, dặn cả anh Hà, chị Hai, cả mẹ nữa. Phạm Tú Uyên (còn tiếp)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.08.2009 16:44:03 bởi ptuuyen >
KÝ ỨC TUỔI THƠ (tiếp theo)
Bất đầu từ đó, nhà tôi không còn những bữa cơm đầy đủ người. Tôi đã bắt đầu thấy nhớ cha, nhớ anh, đã bắt đầu biết nếu không có cha sẽ như thế nào – mọi chuyện trong nhà đều một tay mẹ, từ việc đồng áng đến heo gà bếp núc. Anh Hà chính thức làm “chủ” tiệm sửa xe. Công việc thấy tưởng như vẫn thế, tưởng như thiếu cha, thiếu anh mỗi người chỉ làm thêm tí chút là xong, nhưng tôi thấy chẳng xong chút nào. Mẹ làm mà hồn vía cứ để đâu đâu, cứ giật thót mình khi nghe tiếng bom ì ầm phía núi. Riêng tôi sẽ không còn bị cha rầy, anh mắng, được “tự do” hơn, nhưng sao khi thiếu vắng tôi lại thấy thèm mỗi lần chạy chơi về được nhìn cha, được thấy anh dựng xe ngoài ngõ, chạy vào nhà uống vội gáo nước rồi đi ngay, nhưng vẫn yên lòng vì có anh, giờ thì có vẻ như trầm trọng hơn, xa hơn và…Tôi không biết nữa, nhưng thấy mẹ hay lo lắng, u buồn, chị Hai thỉnh thoảng đi bán về ngồi kể chuyện chiến sự ở đâu đó mà chị nghe được làm cho mẹ càng thêm hoang mang. Tôi thương mẹ, thương anh, nhớ cha đâm ra ghét đánh nhau. Tôi thề là sẽ không thèm đánh giặc giả nữa! Chiến tranh, súng đạn đã thật sự đến với làng quê. Xe bọc thép cày nát ruộng đồng, lính Đại Hàn, linh Cọng Hòa lăm lăm súng trong tay, lùng sục từng ngóc ngách, xới tung, đốt sạch những đống rơm, ủi bật từng bụi tre. Con mương dẫn thủy hiền hòa, tắm mát bọn chúng tôi trong những trưa hè, nuôi sống cả cánh đồng phì nhiêu Tuy Hòa bổng chốc trở thành người chuyên chở những xác chết. Ban đầu thì đôi ba ngày, từ đâu trôi ngang Phú Thứ một vài thây người trương phình, căng cứng. Bọn trẻ con chúng tôi chẳng bao giờ dám nhìn. Bất kể vào lúc nào, cứ mỗi lần có xác người trôi về mẹ đều tất tã chạy đến xem! Và người im lặng gạt nước mắt quay đi. Những người nhà ở gần đó chung tiền hoặc công sức, kéo người chết lên, khâm liệm tử tế và chôn bên vệ đường. Sau, người chết trôi về thường xuyên và nhiều nên dân làng không làm xuể. Hơn nữa, trong làng bây giờ hầu như không còn đàn ông, trai tráng. Thanh niên số thì đi lính Cọng Hòa, số thì như anh Sơn tôi, lên núi theo Cách mạng, phần còn lại là những người bệnh tật, ốm yếu, phụ nữ và trẻ con. Lúc ấy quả thật tôi không hiểu tại sao người lớn lại “chia phe” đánh giết nhau, thả trôi sông, trôi mương như vậy, lại có cả những người lính tận đẩu tận đâu cũng đến đây bắn giết. Đúng là thời kỳ khủng khiếp, xác chết không người chôn trôi xuống ga Gò Mầm bị ga cản lại nên lớp củ lớp mới lèn chặt, ngày nối ngày xếp kín cả đoạn mương. Súng cứ nổ, bom cứ thả người chết ngày cứ nhiều thêm. Những con chó chạy qua chạy lại hai bên bờ, chúng rượt đuổi nhau trên những xác người. Đến lúc chúng cũng không còn sức để chạy nữa, chúng no lặc lè, căng phành bụng. Có lẽ từ dạo ấy, chiến tranh đã dạy chúng tôi không biết sợ, quên đến chai lỳ của sự chết chóc. Bọn tôi không dám lên đường cái quan nữa, chẳng phải vì sợ những thây người rệu rã thịt xương, cũng không phải sợ gặp ma – chuyện nhỏ, chúng tôi sợ mùi xác người! Con người không thể hít thở liên tục cái mùi xú uế đặc quánh của xác người chết ngày này qua tháng nọ, và thế là xóm làng hè nhau gỡ những tấm chắn của ga. Dẫu ai gan dạ cỡ nào khi nhìn tấm chắn được gỡ cũng đều nhắm mắt. Một cảnh tượng hãi hùng, xác người nằm đã lâu ngày, được ép chặt như nêm cối giờ được dịp di chuyển, lại xô đẩy nhau lao xuống ga, nước đổ như thác – chẳng còn gì nguyên vẹn, không một hình hài, một mớ hổn độn, nhầy nhụa. Những thân thể ấy sẽ đi về đâu, những hình hài ấy rồi được ráp nối ra sao trong thế giới bên kia. Có lẽ lúc ấy chẳng ai đủ tâm trí mà nghĩ ngợi. Dòng mương lại trở về với dáng vẻ tươi mát, hiền hòa như nó vốn có. Nhưng có ai biết rằng chính con mương thân yêu ấy đã ôm trong lòng biết bao thân xác con người, đã hòa tan ngàn vạn thịt xương của bao linh hồn, ngày ngày tưới xanh ruộng đồng. Lính Cọng hòa, Đại Hàn cùng xe tăng, súng ống lần lượt kéo xuống hướng Phú Lâm. Làng quê cũng dần im tiếng súng, trả lại sự yên bình cho thôn xóm. Sự yên bình trong hiu hắt, nhà cửa toang hoác những dấu vết đạn bom, ruộng vườn xe tăng bánh xích vằm nát, cây cối bật gốc, trụi ngọn đứng chơ vơ. Nhà tôi bị sạc một góc phía bếp do quả “đại bác” cắt đứt cây keo đập xuống. Căn hầm cha tôi làm là nơi trú ẩn gần năm gia đình, “kiên cố không chê vào đâu được” – ai cũng bảo vậy! Con tự hào về cha lắm, cha ạ! Quãng trên cầu Phú Thứ dưới - một đoạn, gần nhà tôi có lùm keo chừng ba mươi cây. mọc bao quanh khu đất trống, chẳng cây nào còn nguyên vẹn. Duy có một điều kỳ lạ là: Cây Da to lớn cỡ đó mà chẳng hề hấn gì, không một nhánh gãy, không một dấu vết đạn bom. Bọn chúng tôi bàn với nhau: - Đích thị là cây Da thiêng rồi! - Ma ở đây là ma lớn…Thiêng lắm! - Chẳng phải ma, ma…không giỏi vậy! Nó chỉ chuyên môn nhác người… - Nó…nó…nó tu lu…luyện…lâu…lâu năm… - Không phải ma, là cây Da thần! Từ dạo bọn tôi đến bên gốc Da núp máy bay, cây Da ít nhiều không còn bí hiểm nữa. Tất nhiên ai chẳng sợ ma! Cây giờ đã được bọn tôi…phong thành thần! Thần khác ma nhiều lắm. Luôn cứu giúp con người và, nơi nào có thần thì ở đó chẳng bao giờ có ma quỉ! Với suy nghĩ ấy, cây Da trở thành điểm hẹn của chúng tôi. Phạm Tú Uyên (còn tiếp)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2009 08:07:35 bởi ptuuyen >
KÝ ỨC TUỔI THƠ (tiếp theo) Anh Hà nghỉ ở tiệm sửa xe mấy ngày, rủ tôi ra ngoài đường cái, cách nhà chừng trăm mét đào…hầm bí mật! Mẹ cũng đồng ý - từ dạo lính rút, máy bay “bà già” hay lượn lờ trên trời lắm. Thỉnh thoảng phát hiện được điều gi, chúng gọi “canh nông” từ Hòa Phong “câu” lên hoặc kêu máy bay chuồn chuồn bắn “rốc ket” xèo xèo: “Đào hầm ngoài đường để các con có cái mà núp nếu lỡ chạy về nhà không kịp”. Gọi là hầm bí mật cho oai chứ thật ra chỉ là cái hàm ếch nhưng với óc “sáng tạo”, anh Hà chọn một lùm cây dại mọc ven triền đường, đào cái lổ như miệng cống xiên xiên. Anh dùng cái cuốc bé tí lượm được của lính Cọng Hòa, cởi trần ngồi cuốc từng lát mỏng, tôi phụ trách việc cào đất bưng đổ xuống hố bom gần đó. Trông anh ngồi làm giống y con chuộc chũi đào hang. Đường hầm dài chừng hơn hai sải tay, vừa đủ một người bò lom khom. Áng chừng hang đã ăn sâu trong đường cái quan, anh bắt đầu moi hầm rộng ra chừng bằng chiếc chiếu, đủ cho hai anh em chúng tôi và còn có thể thêm được độ ba người nữa, anh động viên: - Ráng chút xíu em, chừng đến trưa là xong. Mình có chổ núp lỡ còn người đi trên đường…Tội họ! Với lại rộng rãi thế này ngồi thích hơn. Đến trưa trật mới xong. Qủa là một công trình “vĩ đại” mà lần đầu tiên tôi được tham gia, khác xa căn hầm bé tẹo mà bọn tôi hay đào đánh giặc giả. Hai anh em đang định dọn cuốc, mủng ra về chợt nghe tiến gì đục đục, rền rền làm những cục đất trên vách hầm rơi xuống, anh Hà bò ra chưa tới cửa đã vội thụt vào, thở hổn hển: - “Canh nông” bắn dữ lắm! - Dễ chừng chúng lại đi càn… - Chắc không phải! Mấy lần trước đi càn có thấy nó bắn “canh nông” đâu. Tôi định bò ra coi, anh Hà kéo chân lại: - Mầy đừng, để anh ra cho. Nói xong anh trườn ra cửa hầm, cửa quá bé, tôi nom mãi mà chẳng nhìn được gì. Anh nói vọng vào: - Xóm sau có nhà đang cháy. Hình như gần ao rau muống, chổ bụi tre bật gốc nhà mình bị một quả, đất tươi roi rói… Ngồi tận trong hầm, nghe anh Hà nói lao thao không chịu được, tôi cố ép người sát đất trườn dưới bụng anh, nhoi đầu nhìn ra ngoài trời. Tôi cố rướn mạnh nhìn ra lổ ánh sáng ít ỏi ngoài miệng hầm, nhìn về hướng nhà mình. Như chú nhái mang trên lưng con ếch, hai anh em lấp ló ở miệng hang. Xóm làng vắng ngắt, không một tiếng chó sủa, đây đó vài cột khói đang bốc cao. Bổng như có ai kéo những tấm tôn chạy trên đường cái “sàn sạt” tiếng rít rợn người, anh Hà chỉ kịp hét: “canh nông”, cả người anh trùm kín lấy tôi, miệng hầm sụt một mãng lớn, đất cát rơi tứ tung, những tiếng nổ nối tiếp nhau “ùng ùng” căn hầm như rung lên. Qua cơn khiếp đảm chúng tôi thụt vô lại trong hầm, nhìn anh đầu tóc, mặt mũi, áo quần dính đầy đất, tôi vẫn còn run: - Anh có bị gì không? Khiếp thật! - May mà không có quả nào rớt…trúng hầm! - Khi nãy anh sụm xuống tui cứ tưởng… - Tại mầy chen phía dưới chứ không anh đã “phóc”vô hầm rồi. Chợt nhiên anh im lặng, vểnh tai ra ngoài nghe ngóng. Dường như có tiếng “phạch phạch” giống ai đó đang giặt chiếu ngoài mương. Tiếng “phạch phạch” nhiều lắm, to dần. Tôi cũng căng tai lên nghe ngóng nhưng chẳng đoán được gì: - Thôi về anh! Đạn hết nổ rồi, về nằm hầm nhà sướng hơn. Tôi lui cui xách cái mủng chui ra cửa, anh Hà ngăn lại: - Khoan, để anh xem đã. Anh bò từ từ ra cửa, núp bên bụi cây dại nhìn dáo dác, bổng anh tụt nhanh vô hầm, thở như bị ai rượt. Tôi tò mò, sè sẹ ra xem, anh chụp chân kéo lại, tôi quẫy mạnh bò nhanh. Núp bên bụi cây nhìn quanh, chẳng nhìn thấy gì. Chợt từ đâu đó có ai đang nói chuyện, hình như mọi người đã đi ra đường, đông và nhộn nhịp. Tôi đứng thẳng người lên cho dễ chịu: - Về thôi anh ơi… Chưa nói hết câu, nhìn sang bên kia mương, cơ man nào là lính Cọng Hòa đứng từng dãy dài. Tiếng thét của anh Hà chìm trong tiếng hô đứng lại, tiếng súng nổ. Tôi không phân biệt được gì, như bản năng, tôi chỉ nghĩ đến mẹ, đến ngôi nhà cần phải về, và sau lưng sự nguy hiểm phải tráng xa. Thế là tôi chạy, chạy bất kể trời đất. Súng nổ như rang bắp, đạn cày “chíu chíu” trên đường. Tôi chạy như bay nhưng sao đoạn đường dường như cứ xa thêm. Ở trong nhà, mẹ cùng rất đông người hàng xóm cũng chạy ra, vừa chạy vừa khóc, toàn phụ nữ và trẻ con. Tôi đang chạy tự nhiên cảm thấy như nhẹ tênh, như bay bổng. Chơi vơi chân không chạm tới mặt đất, sau lưng, anh Hà đã ra khỏi hầm, đứng giữa đường cái quan hai tay đưa lên trời, khóc như mưa: “Em của con…đừng bắn em con…”. Phạm Tú Uyên (còn tiếp)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2009 08:15:09 bởi ptuuyen >
KÝ ỨC TUỔI THƠ (tiếp theo) Sau đợt chết hụt (mọi người đều gọi như vậy) chứ thật ra tôi vấp phải hòn đá toét ngón chân. Nếu bắn vào tôi thì đã tan xác pháo rồi. Mà “Việt Cọng” gì bé tí tẹo, chạy tụt cả quần…Cái xóm đông vui ngày nào giờ còn lại ba gia đình. Nhà bác Hai Trong, nhà nhỏ Vân và nhà tôi. Bác Hai Trong còn một mẹ già gần chín mươi tuổi, lụm cụm, mù lòa. Vợ bác với hai anh con trai bị một quả canh nông “rơi lạc” trong vườn làm cả ba chết không toàn vẹn. Giờ bác chẳng muốn đi đâu nữa.Cũng như nhà tôi, dì Liên đợi tin chú Dũng (ba Vân). Tình hình này dì dễ đem nhỏ Vân về ngoại trên mạn sông Đồng Bò. Sáng nay mẹ lên Thạch Thành thật sớm, dường như là có tin tức gì đó trên chổ ba, còn anh Hà xuống Phú Lâm mua thêm phụ tùng xe đạp. Nhà vắng hoe, tôi rủ nhỏ Vân lấy cù quéo ra mé đường hái keo: - Không biết tụi thằng Ngọng, thằng Khôi ở đâu Vân nhỉ? Vân im lặng, vê vê ngọn lá trong tay nhìn tôi: - Vân nhớ ba quá! Hà em ơi. - Mình cũng nhớ ba, nhớ anh Sơn nữa. Vân rơm rớm nước mắt: - Đêm nào nằm mơ cũng thấy ba về… - Vân thấy được ba là thích rồi - Nhưng khắp người ba đầy máu… Tôi đến bên cầm tay Vân nói như để an ủi chính mình: - Đừng nghĩ bậy Vân nhá. Mẹ bảo chiêm bao là không thật đâu. Hai đứa đi lững thững ra đường cái quan. Tôi chỉ tay về hướng ngọn núi xa mờ trong sớm mai: - Những người làm cách mạng đều ở trên đó cả, an toàn lắm, chú Ngọc chủ tịch vẫn nói thế mà! Vân kéo tay tôi nép vào thân keo: - Máy bay “bà già”kìa! Tôi lắng tai, mắt nhìn qua kẽ lá. Tiếng u u lớn dần. Chiếc “bà già” ánh bạc lấp lánh, đủng đỉnh như một kẻ rảnh rang đi dạo. Mà không phải đi dạo, nó như kẻ cắp gian manh, rình rập. Đang bay, dường như nó muốn dừng lại, liếc xéo, nhìn ngang, vòng lui, hạ thấp. Mấy chú du kích mỗi lần nhìn thấy nó tức muốn lộn ruột. Cỡ nó “cắc bùm” là tiêu tùng liền. Tôi quay sang Vân: - À! Trưa nay nếu mẹ chưa về, Vân qua nhà ăn cơm nghe. - Mẹ nấu cơm sáng để phần trưa rồi. - Chị Hai nói dạo này muối bán được lắm! - Mẹ Vân bảo ráng đi vài chuyến nữa rồi dọn nhà về ngoại. Tôi đá mạnh cục đất nằm bên vệ đường: - Chán quá! Vân tròn xoe mắt nhìn tôi: - Chán gì cơ? - Không biết! - … ? - Mình ghét đánh nhau. Chiến tranh là cái gì mình không biết, nhưng mình ghét nó, mình căm thù nó. Mình thề sẽ… - Sao Hà em… hôm nay hung thế? Một tốp máy bay ném bom giàn hàng ngang từ hướng Phú Lâm bay lên cắt đứt câu chuyện bọn tôi. Tôi cầm tay Vân chạy men theo hàng keo về nhà. Chiếc “Bà già” bay dọc theo đường cái quan, thấp lắm, tưởng chừng như cầm cù quéo đập cũng trúng. Bay lên đâu quãng Cầu Trên rồi quẹo lại, vòng vài lần biến mất. Hai đứa ngồi trước miệng hầm: - Sao kỳ thế Vân nhỉ? Hình như nó đang tìm cái gì đó… - Ừ! Chưa bao giờ mình thấy nó bay thấp như thế. “Ùng! Ùng! Ùng! Những tiếng nổ liên tiếp hất bọn tôi ngã nhào. Hai đứa hốt hoảng chui vô hầm, khiếp đảm nép thật sâu bên trong góc. “Ùng! Ùng…! Căn hầm đặc quánh mùi bụi đất, tranh rơi. Bổng cửa hầm tối sầm lại. Tôi kinh hoàng: - Nhà sập rồi! Chưa nói hết câu, một ngọn lửa đỏ ối phủ kín miệng hầm. Khó thở quá tôi há miệng thật to vẫn thấy khó thở, quần áo như đang bốc cháy. Thèm thở quá, muốn hít thật mạnh nhưng không được nữa rồi ngực tôi căng cứng. lửa lại tràn vào, căn hầm rực sáng. Vân nằm mềm nhũn bên cạnh và rồi tôi ngất đi. Khi tỉnh lại, căn hầm ướt sũng nước. Không biết bọn tôi ngất bao lâu và chẳng nhớ được chuyện gì vừa xảy ra. Ngồi trong bóng tối lòa nhòa, mùi tro than ngai ngái, nồng nồng phả vào mặt, nước lạnh thấm vào người khiến tôi tỉnh hẳn. tôi hốt hoảng quay sang bên cạnh, Vân nằm lấp sấp trong nước cũng đang lồm cồm ngồi dậy. Chúng tôi bò ra miệng hầm. Một cảnh tượng tan hoang đang hiện ra trước mặt. Ngôi nhà thân yêu giờ còn lại đống tro than. Những thân gỗ cháy đen được nước mưa dập tắt nằm chỏng chơ. Đồ đạc ngổn ngang, vụn nát. Mưa vẫn đang to, tôi đưa mắt nhìn sang nhà bác Trong, thảng thốt: - Cháy rồi! Cả nhà Vân… trời ơi! Cả xóm cháy trụi trơn… Phạm Tú Uyên (còn tiêp)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.12.2009 14:54:40 bởi ptuuyen >
KÝ ỨC TUỔI THƠ (tiếp theo) Tôi dẫm bừa lên than gỗ, mảnh sành chum vại. Tôi chạy bất kể trong màn mưa trắng đục, Vân liu xiu, ngã nghiêng theo sau. Tôi lao qua vườn nhà bác Trong: - Bà ơi! Bác ơi…! Tôi bổng khựng lại, ngôi nhà đã ba lần cháy sập vì bom đạn, cứ mỗi lần làm lại ngôi nhà nhỏ đi một ít, đến lần thứ ba nó như một cái chòi giữ vịt. Trên thềm nhà trống hươ trống hoát được nước mưa giội sạch, lổm nhổm giữa đồ đạc vỡ vụn là hai xác người cháy đen, co quắp trong tư thế cõng nhau. Tôi như chết điếng, đứng sững. Bổng như ai đó xô vào người, tôi thẩn thờ quay lại, Vân tái méc, ướt sủng nước ngả oằn vào tôi. Thời chiến tranh, xác người chết là không hiếm, tôi đã gặp đã thấy nhiều vô kể những thây người chết, kinh khủng có, bình thường có nhưng cảnh bác Trong cõng mẹ già không kịp chạy thoát, chết ngay trên hiên nhà. Tay bà vẫn còn đang ôm chặt cổ bác – những người đã gắn liền với tôi thời thơ ấu, đã bồng bế, yêu thương tôi giờ không còn nữa. Trời đang mưa, người tôi ướt sũng nước, có vị gì đó mặn mặn trên môi, tôi dụi dụi mắt. Súng nổ đì đùng khắp nơi, tôi nhìn Vân: - Chẳng biết mẹ với chị Hai có gì không? - Hà em ơi!… Vân sợ lắm – mẹ ơi! PHẦN II LƯU LẠC Hướng nào cũng có đánh nhau, Anh Hà đang ở Phú Lâm chắc không sao. Nghĩ thế, tôi nói với Vân: - Mình lên phía trên tìm mẹ với chị. Vân im lặng theo lời tôi, hai đứa chạy lúp xúp lên hướng Thạch Thành. Mưa ngớt hạt nhưng bầu trời còn một màu xám xịt. Đất bị cày xới nhảo nhẹt dưới chân, thỉnh thoảng một tràng súng liên thanh nổ dòn phía sau, bọn tôi lại ngồi thụp xuống một thân cây bật gốc, một ụ đất nào đó tránh đạn. Làng xóm hoang tàn đổ nát, bên những hố bom toan hoác đất tươi và, trên cánh đồng lúa mênh mông xanh rì, hai đứa trẻ chạy xiêu vẹo trong màn mưa trắng đục. Bọn tôi đến gần cây Da “thần” hồi nào không hay. Đạn bom chẳng chừa một ai, cây Da to là thế mà giờ chỉ còn trơ lại trụ gốc. Một tán lá sum suê biến đâu mất, những thân rễ khổng lồ lòng thòng bao quanh cũng được cắt gọn. Cây Da “thần” huyền bí của tuổi ấu thơ giờ gần như không còn nữa. Dưới gốc ngay mặt đất có một cái lổ đen ngòm giờ trơ ra, miệng to áng chừng bằng cái nia. Một giọng nói phát ra từ trong hốc cây: - Trời đất! Bom đạn thế mà bọn bây đi ngơ ngơ ngoài đó vậy hở? Vô đây nhanh lên tụi con! Bác Ký nhà ở sau chợ lồm cồm chui ra kéo hai đứa ngồi xuống gần hốc cây. Tôi kể giọng lào khào, tiếng được tiếng mất. Càng kể càng tủi thân hai đứa khóc òa: - Con Hai với con mẹ Dũng hồi tờ mờ sáng bác gặp ở ngoài soi, nghe đâu tụi nó lên bán ở quãng Đồng Bò, mà tụi bây… Vân nức nở: - Con đi tìm mẹ, con sợ lắm! Bác Ký xoa đầu Vân, định kéo hai đứa vô hốc cây thì từ phía ga Gò Mầm tiếng gì “ì ì” như sấm rền, trên nền trời nhiều chấm đen xuất hiện. Tiếng ai đó hốt hoảng: - Xe tăng! Máy bay Chuồn Chuồn bà con ơi! Không ai bảo ai, trong hốc cây chừng sáu người vội vã bò ra chạy tán loạn lên hướng Cầu trên, tôi kéo Vân chạy theo. Những đợt “càn” trước ít sợ, về sau càng ác liệt hơn, xóm thôn tiêu điều hơn, nhà cháy, người chết nhiều hơn! Bọn chúng tôi không biết mình phải dừng lại ở nơi nào, phía sau là máy bay, xe tăng và súng nổ, phía trước kẻ gồng người gánh, trâu bò heo qué cứ thế mà chạy! Đến tối xẩm, hai đứa đói lả không đi nổi, ngồi bệt bên rìa đường. Vân thều thào: - Hà em ơi! Đi không nổi nữa, Vân đói, mệt quá! Tôi không nói gì, thất thểu qua đường đẩy cửa một ngôi nhà gần đó, cửa mở toan – vắng tanh không một bóng người! “Con không đủ sức đi nữa rồi má ơi!” Tôi ngã phịch xuống nền đất lạnh ngắt, tai nghe “ung ung” như có con gì chui vào. “Không thể nằm ở đây được nghe Hà em, phải đi tìm mẹ tìm chị Hai, ngoài kia còn Vân nữa!” Tôi nhủ vậy và cố lê người vào sâu trong nhà tìm một cái gì đó – khát quá! Tôi thấy trên trang thờ giữa nhà có một nải chuối đã ngã sang đen. Không thể bắt ghế với tới trang thờ, tôi cố tựa người vào phên vách, dùng cả sức lực còn lại lay mạnh, nải chuối rơi xuống. Có được cái để ăn người bỗng nhiên khỏe ra, tôi lần mò xuống bếp, ảng nước khô rang đành phải cầm nải chuối đen thui đem ra hai đứa cùng ăn! Phạm Tú Uyên ( còn tiếp)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2009 09:36:03 bởi ptuuyen >
KÝ ỨC TUỔI THƠ (tiếp theo)
Ai thấy hoàn cảnh của bọn tôi đều thương và động viên:
- Mẹ không sao đâu, ở trên này bình yên hơn dưới kia! Tụi con rồi sẽ gặp mẹ với chị thôi.
Nghe họ nói chúng tôi bớt sợ, lủi thủi đi theo. Dường như trận này đánh lớn hay sao mà thấy thỉnh thoảng có những chú bộ đội đi ngược chiều. Tôi mong sao được gặp anh Sơn của tôi. Trên này làng xóm ít bị tàn phá hơn dưới kia, nhưng nhà cửa, vườn tượt cũng tiêu điều, vắng lặng. Vân quay sang người đàn bà gánh hai đứa nhỏ trong thúng:
- Dì ơi! Sông Đồng Bò còn xa không hả dì?
- Xa cháu ạ!
Bà chỉ tay về phía trước:
- Mấy người kia lên Đồng Bò đấy, nhà tui lên mé trên lánh nạn vài hôm rồi về. Sao mấy cháu đi một mình, ba mẹ đâu, lạc à?
Vân nhớ mẹ tủi thân khóc rấm rức. Thế là chúng tôi quyết định: “Trên đường lên nhà ngoại sẽ hỏi thăm tin tức mẹ và chị Hai”. Hai đứa lại nhập bọn với nhóm người đi trước. Qủa thật, nếu đừng lo chuyện đạn bom, đừng buồn vì lạc mẹ, đừng nghĩ đến nhà cửa cháy rụi thì đi như thế này cũng thích. Từ bé đến giờ bọn tôi chỉ biết loanh quanh Phú Thứ, mở mắt đã thấy cánh đồng, mương dẫn thủy, những chiếc xe ngựa lại qua trên đường cái quan mỗi ngày. Còn người quen đến độ nghe tiếng đã biết mặt. Giờ cái gì cũng lạ, cũng mới. Bụng đói? Gặp gì ăn nấy! Đôi khi một vắt cơm với dúm muối é, một cục thịt mặn đắng nhưng sao ngon lạ lùng! Cũng có lúc dăm trái ổi xanh, chùm mận non sương của vườn nhà ai bỏ trống – miệng khát? Lu nước bên chái nhà hoang, con suối róc rách uống căng bụng lại lên đường.
Chân Vân sưng đỏ tấy vì dẫm phải mảnh bom đã có vẻ trầm trọng. Hôm qua Vân sốt, mê ú ớ suốt đêm, tôi xin được một miếng giẻ thấm nước đắp lên đầu Vân (ngày xưa tôi sốt ba vẫn làm thế). Sáng nay mọi người lên đường cả, tôi đỡ Vân đứng dậy, người nóng hầm hập như cục than, chân đau lê không nổi. Tôi tha được một đoạn hai đứa ngã lăn quay. Những người đi trên đường thấy vậy đưa một vốc muối bảo hòa nước rửa vết thương và ái ngại nhìn bọn tôi:
- Cháu ơi! Ở đây không có làng xóm gì, cháu cố đưa em đi đi.
Tôi lại gắng đỡ Vân đứng lên. Hai đứa sức vóc sàn sàn nhau, bình thường Vân nhẹ hều, đừng nói là đỡ đứng lên, vác trên vai có khi còn được nữa là. Nhưng nay quả thật tôi không làm nổi. Tôi đã cố hết sức kéo Vân đứng dậy tựa vào người tôi, tôi đã muốn té nhào, tay chân như không nghe lời, cứ run run như sắp khụy xuống:
- Vân ơi, cố lên!
Tôi nói trong hơi thở, kéo tay Vân vắt ngang cổ tôi, hai đứa tha nhau đi liu xiu. Đồng bằng lùi dần phía sau, những trảng rừng thưa cây cối lúp xúp. Đoàn người tản cư bơ phờ, mệt mỏi dù có muốn cũng chẳng ai giúp được gì chúng tôi. Sự đói khát, buồn vì nhớ nhà nhớ cha mẹ, anh chị đã làm hai đứa kiệt sức. Hơn nữa, Vân lại đau, chân sưng tấy đỏ ửng, lê từng bước nên nhóm người đi trước cứ mỗi lúc một xa dần. Chừng xế trưa, bóng nắng đã ngã ra sau lưng, bụng đói cồn cào miệng khô đắng dẻo queo, tôi dìu Vân lê đến một bụi cây ngồi nghỉ. Móc trong cạp quần vắt cơm với dúm muối é đưa sang Vân:
- Vân ăn đi, ráng ăn cho hết để có sức khỏe nghe!
Vân thều thào, mặt mày tái xanh không một giọt máu:
- Hà em ăn đi Vân chưa thấy đói…Vân mệt quá!
Cầm vắt cơm khô khốc trong tay, bụng tôi bổng cồn cào tợn. Vắt cơm khi sáng của những người tản cư tốt bụng đã lọt thỏm trong cái dạ dày háu đói, tiêu tan nhanh trong từng bước đi. Không phải là cục cơm bé tẹo này mà đến mười cục có lẽ tôi cũng ăn cái vèo! Qủa là cái đói khi tưởng tượng nó không thể khủng khiếp, nó không làm cho người ta thấy quay quắc, tức ngực thắt lòng, hoa mắt ù tai như thế này. Tôi đói đến xây xẩm mặt mày:
- Vân cố mà ăn đi, Hà em đói sơ sơ mà, chỉ có khát nước thôi. Mà phải ăn để còn có sức đi tìm mẹ chứ!
Vân gượng ngồi dậy, cười méo xẹo:
- Thôi, Vân một nửa Hà em một nửa nghe!
Tôi cố nài thêm rồi hai đứa cùng bẻ vắt cơm chấm với muối é ăn ngon lành. Vắt cơm bé quá nên đến miếng cắn thứ ba chỉ còn một mẩu không lớn hơn ngón tay, tôi đâm hối tiếc: “Gía ăn từ từ nhai thật kỹ thì có phải thích hơn không!” Mẩu cơm cuối cùng tôi bỏ từng hột vào miệng nhai nhóp nhép. Chưa thấm tháp gì so với bao tử trống rỗng nhưng cũng êm êm được cái ruột. Vân vẫn còn đang cầm nắm cơm trong tay miệng nhai trệu trạo. Tôi động viên:
- Ráng ăn đi Vân, vừa đi mình vừa tìm nước uống, với lại phải đi cho qua đoạn này chớ lỡ ban đêm mà vắng teo như thế này thì eo ơi!
Phạn Tú Uyên (còn tiếp)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2009 09:47:07 bởi ptuuyen >
KÝ ỨC TUỔI THƠ (tiếp theo) Ăn xong và được nghỉ ngơi nên tôi cũng thấy khỏe ra. Tôi đỡ Vân đứng dậy, hai đứa lại khập khiễng lên đường. Qua hết trảng rừng thưa bọn tôi gặp một con sông đang mùa cạn. Suốt từ sáng đến giờ không một giọt nước, cổ họng đắng ngét, khô queo nên cả hai men theo lối bò đi lần xuống bến nước. Lũy tre trên bờ bạc phết bị nước bào mòn trơ gốc như những ông già tụm nhau ngồi chuyện gẫu. Tàn tre xác xơ ngã nghiêng xuống dòng sông còn đôi chổ trong xanh nước. Lá tre nổi lều bều, tôi dò chân xuống lấy tay khua khua nước vục uống vài ngụm đỡ khát, rồi lấy thế thật vững để Vân vịn vào người cúi xuống uống. Làn nước mát như chạy khắp người làm chúng tôi tỉnh hẳn ra, hơn nữa gió mát từ dưới sông phả lên, bóng tre che rợp một khoảng sông. Tôi đỡ Vân ngồi xuống vồng cát trên mép nước: - Gía mà được ngủ một giấc Vân nhỉ! Nói đến ngủ hai mắt tôi như muốn ríu lại, lơ mơ. Tôi ngáp dài, Vân nói như reo: - Hình như đây là sông Đồng Bò hay sao ấy! Tôi cố nhướng đôi mắt nặng trĩu nhìn sang bên kia bờ như để đoán nó là sông gì. Bờ bên xa tít tắp, tôi nhổm dậy: - Dám sông Đồng Bò lắm! Từ hồi đi đến giờ có gặp sông nào to như vậy đâu! Điểm đến đã gần kề nên hai đứa vui hẳn. Tôi vọt lên bờ nói vọng lại: - Vân cứ ngồi đó nghỉ để mình coi thử có ai ở quanh đây không! Mặt trời đã ngã dần về phía những ngọn núi. Cảnh vật đìu hiu, vắng lặng không một bóng người, đâu đó tiếng chim “bắt cô trói cột” cứ chập chờn khi gần khi xa. Tôi chẳng biết đi hướng nào – rẽ trái men theo bờ sông hay ngược sang phải, băng qua sông cũng chẳng được. Mà đây có phải sông Đồng Bò không? Nếu sông Đồng Bò thì nhà ngoại Vân ở đâu? Những câu hỏi cứ ẩn hiện trong đầu khiến tôi mệt lữ. Tôi vịn nhành cây nhoài người xuống sông: - Nhà ngoại ở đâu Vân biết không? - Về ngoại với mẹ đi đường cái quan, giờ đi thế này Vân đâu có biết! Tôi nghĩ, nếu gặp nhà nào đó quanh đây hỏi thăm thì hay biết mấy, nhưng chẳng thấy bóng dáng một ai, không làng xóm nhà cửa. Mặt trời cứ thấp dần xuống dãy núi xa xa, bầu trời ửng đỏ ráng chiều. Chẳng biết giờ này mẹ tôi đang ở đâu? Chị Hai, anh Hà ở đâu? Mẹ Vân đang ở đâu? Mọi người có bị làm sao không? Nghĩ đến cảnh nhà cửa tan hoang, cháy rụi, gia đình tứ tán đôi mắt bổng đỏ kè. Tôi lầm lũi men theo cành cây trườn xuống sông. Nhìn Vân ngồi khóc tỉ tê, cổ họng tôi nấc nấc mấy tiếng – có lẽ nếu không nén lại tôi cũng đã khóc theo Vân. Mà hai đứa ngồi khóc ở đây lại chẳng được việc gì. Tôi nói giọng khàn đặc: - Rửa mặt cho khỏe rồi đi! Vân uể oải đứng lên. Cái chân sưng húp hôm qua không còn căng tròn nữa, có vẻ như đã bớt, tôi đỡ Vân leo lên bờ dốc. Cái nắng của ngày đã dịu lại, gió trên sông thổi lồng lộng, trời se se. Vân nhìn tôi: - Trời sắp tối rồi lỡ mình không gặp ai, không gặp nhà cửa… Tôi nổi gai ốc nhưng cố trấn tỉnh: - Không sao đâu, sẽ gặp mà! - Ước gì bi giờ được ăn cơm Hà em nhỉ! Nhắc đến ăn bụng tôi bổng cồn cào. Từ sáng đến giờ vắt cơm lọt thỏm trong bụng, giờ nó chỉ chứa nước và nước, đi cứ óc a óc ách. Hai đứa đi về mé phải. Mé phải đường mòn lớn hơn chắc có nhiều người đi, hai đứa nghĩ thế nên ra sức đi nhanh. Vừa đi tôi vừa căng mắt nhìn chung quanh xem có thứ gì có thể ăn được không. Cây cối xác xơ, đất bạc màu trắng phết. Đây đó những cụm sim, tím sẫm trong rừng chiều. Mệt quá! Nhưng cả hai đều chẳng dám dừng lại nghỉ. Chợt phía trước có một vật làm tôi chú ý - tôi đi nhanh: - Vân ơi, cứt bò! Vân tròn mắt. Vật đen đen mằm cạnh bụi sim. Mùi nồng nồng, hăng hăng của phân bò phả vào mặt, tôi đưa ngón tay sờ lên ấn nhẹ xuống, bề mặt phân se se, ngón tay chìm trong cục phân to bằng cái bát. Tôi mừng rỡ reo lên: - Mới…ỉa chừng trưa nay! Nó hốt hoảng đâm ngơ ngác: - Hà em định…làm gì với nó? - Làm gì là làm gì? Cứt bò có nghĩa là gần đây có nhà! Bọn tôi như được tiếp thêm sức, đi nhanh hơn về phía trước. Trên trời, chim từng đàn bay về tổ. Ánh nắng nhợt nhạt dần, màn tối cứ lan nhanh. Bắt đầu từ những triền sâu, bóng nắng bò lên cao, con đường mòn cũng từng mảng, từng mảng nắng chờn vờn, lung lay rồi biến mất theo bước đi xiêu vẹo, khập khiễng của bọn tôi. Phạm Tú Uyên (còn tiếp)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2009 20:48:17 bởi ptuuyen >
KÝ ỨC TUỔI THƠ (Tiếp theo) Trời tối! - Vạt nắng cuối cùng rồi cũng yếu ớt tan biến. Đường mòn nhập nhòa tối, hai đứa không dám quay nhìn lui – dường như có bước chân nào đó đi sau lưng, cứ dậm thình thịch, thình thịch! Một tiếng “rẹt” trong lùm cây, một tiếng “huýt” từ đâu đó làm cả hai giật thót người. Chưa bao giờ nỗi sợ hãi lại đến với chúng tôi khủng khiếp như thế! Chẳng biết từ lúc nào bàn tay nhỏ nhắn của Vân nằm gọn trong tay tôi như một sự chở che. Mà che chở cái nỗi gì khi một tiếng vỗ cánh của con chim nào đó “phạch phạch” là tôi lại run bắn lên, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực! Vừa đói vừa khát, cộng với nỗi sợ hãi làm bọn tôi hoàn toàn suy sụp. Thật sự lúc này tôi và cả Vân đều không thể lê được bước chân, nhưng ngồi lại? – có nghĩa là chấp nhận cùng thế giới đầy ma quái bao quanh - những hình người kỳ dị lắc lư, vẫy tay cười “khặc khặc”. Bóng trăng non như lưỡi liềm trôi lơ lững trên cao, tỏa ánh sáng lờ mờ đủ để thấy con đường mòn và những bóng đen quái gỡ. Tôi mở căng mắt nhưng lại không dám nhìn vào một vật nào. Cả hai đứa mệt phờ nhưng có lẽ chẳng ai dám thở. Thèm ngồi xuống quá! Đôi chân như không còn là của tôi, nó đi theo quán tính. Cho vàng bọn tôi cũng chẳng dám nhìn lui chứ đừng nói là ngồi lại. Thỉnh thoảng Vân giật thót người, run bần bật, tôi lại bóp chặt tay Vân như để trấn an. Hai đứa, cứ thế truyền cho nhau thêm vững dạ. Đang đi Vân khựng lại, tôi thều thào: - Gì thế Vân? Vân im lặng vễnh tai về phía trước – trong không gian tỉnh mịch, lòa nhòa của bóng đêm có tiếng gì “phò phò” như ai đó đang thổi lò rèn. Tôi muốn biết tiếng gì lắm! Và nó ở đâu? Nhưng lại không dám nhìn. Tôi đoán: - Giống như…tiếng…người thở! Chưa nói dứt câu, Vân ôm chầm lấy tôi run như cầy sấy: - trời ơi, ma! Tôi nổi da gà lạnh toát cả sống lưng, hai đứa khụy xuống. Không đường thoát rồi, trước sau, phải trái đầy những bóng tối ma quái: - “Chạy đằng nào?” Hai đứa ôm lấy nhau khóc thét lên: - “Mẹ ơi! Mẹ ơi!” Vang toáng rừng đồi. Tiếng “phò phò” lúc thưa lúc nhặt, có lúc thật khẻ như tiếng thở dài, chú ý lắm mới nghe được. Sau trận khóc khàn cả cổ và rồi bọn tôi vẫn y nguyên, tôi bắt đầu bình tỉnh trở lại, Vân lạnh ngắt tay chân, người còn đang run. Tôi nói: - Hình như…nó rên! Vân úp mặt vô lưng tôi van xin: - Lạy Hà em… Đừng có nói! Tôi nghĩ: - “Nếu ma sao nó không “òa” lại chỗ bọn tôi, nếu ma sao nó không “hớp hồn”, “rút ruột” hai đứa. Tuy rất sợ nhưng tôi cũng tò mò, đưa tay quờ quạng trên lối mòn tìm hòn sỏi, cầm cục sỏi trên tay tôi bậm miệng ném vào nơi phát ra tiếng “phò phò”. Hòn sỏi vụt khỏi tay: - “Bịch” nơi đó vọng lại: - “Ụm…bò!” Tôi lay lay Vân: - Nghe gì không? Hình như…con bò! - Ma… bò! - Ma người le lưỡi mới sợ, chứ ma bò… Buột miệng nói vậy nhưng tôi cũng sợ. Dù ma gì cũng là ma! “Ụm…bo…o…bò!” Tiếng kêu “ụm bò” đứt quãng, như linh cảm điều gì tôi đứng lên: - Tiếng kêu đó… không phải nhát mình đâu! Giống như tiếng kêu cứu ấy. Vân níu áo tôi, van lơn: - Sợ lắm Hà em ơi! Đừng tới đó mà! - Mình không tới đó, nhưng để xem thử… Vân nắm vạt áo phía sau của tôi gì lại, tôi cố đi tới. Đương nhiên Vân không thể đứng đó một mình. Thế là cả hai dùng dằn từng bước một nhích về đằng trước. Tiếng “phò phò” rõ dần, được phát ra từ một đống đen thui. Tôi cầm thật chặt tay Vân vừa để Vân bớt sợ và ngồi thụp xuống, nhưng nó run bắn lên ngã nhào vào người tôi. Tôi đẩy nhẹ Vân sang một bên, đưa tay mò tìm hòn đá, ném vào cái đống đen thui, to lù lù phía trước: - “Bịch!” Trong bóng tối dường như nó “nhúc nhích”. Sự sợ hãi của Vân đến cực độ, Vân hét lên một tiếng, buông vạt áo của tôi chạy thục mạng về phía sau, tôi vụt theo chụp lại. Nỗi hoảng sợ đã khiến Vân chẳng còn nghĩ được gì. Trong hoàn cảnh này cả hai sẽ chết mất nếu mỗi đứa riêng lẻ một mình trơ trọi trong bóng đêm “hai đứa cần có nhau”! Tôi nghĩ thế nên cố rượt theo. Chạy được vài bước Vân ngã sóng soài trên đường. Tôi vừa dỗ dành vừa ra vẻ trách móc: - Lần sau đừng có…bỏ chạy nữa nghe! Bọn mình phải sống chết có nhau… Vân mặt mày dáo dác, lồm cồm ngồi dậy khóc thút thít: - Mình sợ quá! Tôi đưa tay về cái đống đen ngòm: - Chắc …nó là con bò, Con bò sắp chết! Để đáp lại lời nói của tôi, từ phía bóng đen ấy vang lại tiếng”bò” rõ to, đùng đục như thể đã cố hết sức tàn, như thể cầu xin được giúp đỡ. Thanh âm phát ra sao tha thiết! Không còn nghi ngờ gì, tôi cầm tay Vân: - Đúng là con bò bị gì rồi! Phạm Tú Uyên (còn tiếp)
KÝ ỨC TUỔI THƠ (tiếp theo) Hai đứa dò từng bước đầy cảnh giác, mom mem đến gần bóng đen. Dường như biết có người sắp đến “bóng đen” cựa quậy đứng lên: - “Bò...ò…ò!” tôi buột miệng: - Bò thiệt rồi! Con bò cố đứng lên bổng khụy xuống. Bọn tôi tiến đến, nó mừng rỡ rên “phò phò”, tôi đưa tay sờ nhẹ, nó rung rung làn da, quay đầu về phía tôi. Nó lại cố đứng lên – lại ngã! Tôi cúi xuống đưa tay mò mò trong bóng đêm, bàn tay chạm vào vật gì lạnh ngắt đầy những răng sắt, tôi la lớn: - Con bò bị dính bẫy! Vân dè dặt nép sau lưng tôi, đưa bàn tay về phía trước sờ vào cái bẫy. Bỗng hoạt bát hẳn lên: - Nhà ngoại cũng có cái này, cậu mình hay dùng nó để bẫy chồn với lại heo rừng… Tôi vuốt vuốt cái chân bị kẹp của nó, con bò rên khe khẻ đưa cái mũi ươn ướt, êm êm cọ vào tay. Tôi loay hoay mở vòng kẹp của chiếc bẫy, không biết đường nào mà lần. Vòng sắt đầy răng nhọn “ôm” cứng chân trước con bò. Tôi quay sang Vân: - Vân có biết cách mở không? - Kéo mạnh hai bên ra – mình thấy cậy vẫn làm thế! Tôi một bên, Vân một bên hai đứa cố sức lôi thật mạnh, chẳng ăn thua gì! Con bò có vẻ rất đau, chân của nó giật giật như bị kinh phong. Vân nói: - Hay Hà em mở sợi dây cũng được, tụi mình không kéo nổi cái bẫy đâu! Sợi dây được mở ra, chiếc bẫy vẫn còn kẹp phần dưới chân bò. Nó gượng đứng lên như người đau mới khỏe, đi xiêu vẹo quanh bọn tôi. Có lẽ trời cũng đã khuya lắm! Sương đêm ướt đẩm lưng hai đứa. Và cũng thật lạ, từ khi có con bò bọn tôi trở nên vững tâm hơn trong bóng đêm. Con bò được giải thoát, dẫu rằng ngàm sắt của chiếc bẫy vẫn ôm chặt ống chân, nhưng nó đi được! Đi khập khiễng theo lối mòn, bọn tôi cũng líu quíu theo bên nó! Bóng đêm bớt dần vẻ rùng rợn. Đâu đó có tiếng gà gáy, Vân mừng rỡ reo lên: - Có nhà rồi! Có người rồi…! Bầu trời đêm đầy sao, không gian mênh mông vắng lặng nổi bật lên tiếng gà gáy. Vừa đi tôi vừa đưa tay gải gải trên lưng bò: - Gía mày đừng đau, chở tụi tao thì hay biết mấy! Như hiểu được, con bò đi chậm lại quay đầu sang bên tụi tôi: - “Ụm…bo…bò!” Tôi xoa lên má nó: - Đùa đấy! Chân mày đau thế kia cỡi làm sao được! Mà cũng gần gặp được xóm làng rồi! Tiếng gà gáy nghe đâu gần lắm thế mà cả ba đi mỏi nhừ cả chân, ướt đẫm cả áo, trông mờ cả mắt mà vẫn hun hút bóng đêm. Vân lo lắng: - Con bò dẫn mình đi lạc rồi! - Mẹ hay nói “lạc ngõ nắm đuôi trâu”… - Nhưng đây là con…bò! - Bò…cũng như… trâu! Nền trời bắt đầu rựng hồng đằng đông. Những bóng cây, lùm bụi dần dần rõ nét. Hai đứa mệt muốn đứt hơi, định ngồi nghỉ một lát thì từ xa có tiếng người nói lao xao… . Chừng năm người đang đi trên đường mòn về hướng chúng tôi. Thấy hai đứa họ reo lên: - Nó đây rồi! Nó đây rồi! Họ đi đến với gậy gộc trong tay nhưng không có vẻ gì dữ tợn cả. Thậm chí, một người trạc chừng năm mươi tuổi cười ha hả: - Tôi biết thế nào cũng gặp “nó” mà! Té ra những người này đi tìm bò. Biết bọn tôi bị lạc nên khuyên hai đứa tạm về nhà họ ở rồi lần hồi dò tìm gia đình. Người trạc năm mươi tuổi là bác Hiền chủ con bò nói: - “Tụi con nhỏ thế này mà đi tìm mẹ sao được. May mà không chết đói, chết khát dọc đường . Về nhà bác ở rồi bác tìm dùm cho!”. Những ngày đói khát vừa qua, những kinh hoàng trong đêm tối đã làm chúng tôi không còn lựa chọn nào khác. Vậy là bọn tôi cùng về nhà bác Hiền. Được nghỉ ngơi và ăn uống đầy đủ nên hai đứa phục hồi nhanh chóng. Bọn trẻ con chúng tôi chẳng bao giờ ngồi yên được, nhưng lại không biết làm gì, nhất là đứa nào cũng nhớ nhà, nhớ mẹ. Vân thường ra sau chái hè ngồi khóc, tôi cũng chẳng hơn gì. Cứ nhớ mẹ, nhớ anh nhớ chị là hai mắt lại nóng ran. Cả ngày bác Hiền gái đi dò tìm, hỏi thăm những người tản cư. Ngày lại ngày ngồi chờ đợi, hy vong… Buồn quá tôi xin bác Hiền được đi giữ bò, bác gái an ủi, bác trai đắn đo mãi cuối cùng đồng ý để tôi giữ đàn bò. Bác nói: - Con nói vậy cũng được, có việc làm cho khuây khỏa… Đàn bò của bác gần hai chục con, có cả con Ve nữa. Ve là con bò sập bẫy được bọn tôi cứu. Chân nó giờ đã lành, tuy còn đi cà thọt! Tảng sáng hôm sau tôi lùa đàn bò ra những bãi bồi giữa sông, Vân đòi theo tôi cùng giữ bò. Bác Hiền đành gói thêm cơm cho hai đứa ăn trưa. Phạm Tú Uyên (còn tiếp)
KÝ ỨC TUỔI THƠ (Tiếp theo) Vào mùa khô sông không nhiều nước. Những bãi bồi xanh rì cỏ, lau và lùm bùm cây dại. Đàn bò quen đường cứ đi đủng đa đủng đỉnh. Hai đứa không dám theo đường của chúng vì phải lội qua những dòng nước sâu xanh thẩm, đành chạy lúp xúp tìm lối cạn để ra bãi bồi giữa sông. Giữ bò ở vùng trung du thật sướng, chẳng phải sợ ăn lúa, phá rau củ - thả ra gò đồi vào mùa mưa, hoặc bãi bồi giữa sông khi cạn nước. Rảnh ran không gì bằng đi giữ bò, nhưng nếu giữ bò mà chỉ có một mình thì buồn vô cùng. May mà có nhỏ Vân theo chứ không chắc buồn đến khóc mất! Cái chòi trên bãi bồi bác Hiền che để tránh nắng mưa lâu ngày sụp xệ giống như đống rác. Bọn tôi bẻ cành, nhổ cây dựng lại, Vân tìm những bụi hoa dại đem trồng trước lều. Nó ngắt những bông hoa mắc cở màu hồng nhạt cắm trên tóc, tôi buột miệng: - Giống cô dâu quá! Nhỏ Vân ngúng nguẫy: - Thèm! - À! Mình chơi trò cô dâu chú rể đi… - Vô duyên! Tôi ngơ ngác: - Hồi ở nhà bọn mình vẫn thường chơi, sao giờ “chảnh” thế? Vân lườm lườm: - Hồi đó khác, giờ khác! - ??? - Hồi đó có bọn thằng Ngọng, thằng Khôi làm hai họ, khách khứa, giờ chỉ có “tui” với “ông” thì làm cái gì? Rõ vô duyên! Qủa thật tôi chẳng hiểu, đúng là con gái! Hai đứa đứng ngắm căn lều vừa được sửa xong rồi cùng rủ nhau nhảy “ùm” xuống tắm sông. Cuộc sống đều đặng quá cũng đâm chán, chẳng có gì để chơi. Ban ngày thì thế, còn về đêm lại nhớ nhà. Mẹ tôi giờ không biết ra sao. Chắc mẹ khóc hết nước mắt khi chạy về nhà tìm đứa con trong đống đổ nát, tan hoang. Ngày còn ở nhà tôi thấy có bà mẹ, giống như mẹ tôi – hớt hãi, cuống cuồng chạy tìm con. Tay mẹ bới tung những tro than, những đất, những gạch đổ tìm con mình. Rồi người mẹ ấy đã hóa điên, đi lang thang ngoài đường bất kể ngày đêm. “Má ơi! Giờ má ở đâu?” Và tôi lịm dần vào giấc ngủ. Sáng nào cũng vậy, bác Hiền gái dậy thật sớm mấu cơm xong đùm cho hai đứa tôi một bọc cơm được cột chặt trong lá chuối non. Thức ăn là ít muối é, đôi khi dăm lát thịt kho mặn hoặc vài con cá, nhúm tép rang. Sáng nay được thêm cái đùi gà (con gà đêm qua bị chồn bắt hụt). Vân cho tất cả vào trong tấm vải, cột chặt mang trên vai. Tôi vào dưới phản moi ra mấy củ mì, lấy lạt xâu lại đem theo để nướng ăn. Con Ve đã thật sự khỏe mạnh, nó luôn tỏ ra thân thiện với hai đứa tôi. Tôi định nhường con Ve cho nhỏVân cỡi, nhưng Vân chưa quen cỡi bò. Thế là hai đứa cùng cỡi con Ve. Nó là con bò khỏe nhất đàn nên bọn tôi chẳng nhằm nhè gì khi ngồi trên lưng nó. Con Ve có vẻ hài lòng lắm, nó đi phăng phăng. Một đống lửa được nhen lên phía sau lều gần mép nước. Vân đi lượm cây khô bỏ thêm vào, tôi gác mấy củ mì lên đống lửa rồi xuống vũng nước cạn, nhỏ chừng bằng cái sân mò ốc. Tôm tép búng “lách chách”, tôi mò được vài con “chụp chụp” to bằng nửa bàn tay quăng lên bờ. Nhỏ Vân lấy cái nón cời lội ra bắt tôm. Hai đứa bắt cũng được kha khá tôm với “chụp chụp”. Tôi bẻ cây que xiên vào đầu tôm rồi hơ lên ngọn lửa, bọn chúng búng “rật rật”, tàn lửa bay tứ tán trông thật vui mắt, hai đứa chia nhau ăn ngon lành. Thịt tôm nướng nhẹ trên lửa thơm ngọt, mấy chú “chụp chụp” gặp lửa hả toang hoát miệng, mùi cháy của vỏ xèo xèo, nồng nồng Vân hít hà: - Thơm quá! - Ăn thêm mấy củ mì là no nức niềng… Bọn tôi đang ngồi ăn thì bên bờ sông có hai người đang lội ra. Người đi đầu tôi nhận ra ngay là bác Hiền trai, còn người thứ hai chưa nhận được là ai. Chợt Vân bỏ khúc mì đang cầm trên tay reo lên: - Cậu…cậu…Hà em ơi! Chưa dứt câu nó chạy ào, nước văng tung tóe, tôi rượt theo. Hai đứa chạy như bay bất kể đất trời. Vân lao vào cậu tôi cũng lao theo, cậu ôm hai đứa nhấc bổng lên cười ha hả. Lẽ ra gặp người thân trong hoàn cảnh này bọn tôi cũng cười như cậu, nhưng hai đứa lại khóc ngon lành, khóc như chưa hề được khóc. Những giọt nước mắt tủi thân, buồn nhớ, u uất bấy lâu giờ được dịp tuôn ra. Cậu hôn vào má hai đứa, cậu cười nhưng hai mắt đỏ hoe. Bác Hiền đứng yên, đưa tay dụi dụi mắt, nói: - Thôi, ba cậu cháu về nhà trước đi, bác ra cho bò về sau! Hai đứa chạy tung tăng phía trước, men theo dòng nước trong xanh, băng ngang bãi bồi như đôi chim non đang chập chờn bay. Tìm được cậu cũng có nghĩa là bọn tôi lại chia tay nơi này, nơi thời gian chưa đủ dài để chứa nhiều kỷ niệm, nhưng lại in đậm trong hai đứa tôi những con người tốt bụng như gia đình bác Hiền, như con Ve mà tôi xem như người bạn. Phạm Tú Uyên (còn tiếp)
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: