Anh hùng Bắc cương (từ hồi 6)
CDDLT 13.01.2005 18:17:57 (permalink)
Hồi thứ sáu mươi sáu

Tình nghĩa Hồng-thiết



Tự-An cười nhạt:
- Giữa phái Tản-viên với phái Đông-a có tình giao hảo từ lâu. Đỗ trưởng lão! Đúng ra, ta thấp hơn người một vai. Nhưng người không còn chức vị tôn sư phái Tản-viên nữa, ta không cần nể nang. Ta muốn lĩnh giáo mấy chiêu Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng của người. Nào mời.
Đỗ Xích-Thập đụng nhau một chưởng với Trần Tự-An, y thấy khó mà thắng nổi địch thủ. Y định tìm kế thoái thác, nhưng tự tin vào độc chưởng của mình. Y vỗ hai tay vào nhau:
- Tên nhà quê kia, mi có bản lĩnh gì thì dở ra. Ta há sợ hay sao?
Nói rồi y phát chiêu Ác ngưu nan độ của Phục-ngưu thần chưởng. Chưởng phong cực kỳ trầm trọng ụp xuống đài. Tự-An thản nhiên, lùi hai bước quay tròn tay một cái, đẩy chưởng của Xích-Thập lệch sang một bên. Vô tình chưởng đó hướng vào Đoàn Huy. Đoàn Huy thấy chưởng phong quái ác, ông đứng dậy, đẩy một chiêu vào giữa chưởng Xích-Thập. Bình một tiếng. Cả hai lảo đảo lui lại.
Bàn chung, bản lĩnh của Đoàn Huy đâu kém gì Xích-Thập? Thế mà một nhánh chưởng của y sao có thể đẩy lui ông? Nguyên sau khi bị Thanh-Mai thu hết công lực, ông đã luyện lại, nhưng mới chỉ được có ba thành. Vì vậy ông cảm thấy người choáng váng.
Tự-An biết Xích-Thập chỉ còn có mười hai chiêu Phục-ngưu thần chưởng. Ông tính:
- Sau khi đánh hết mười hai chiêu, thế nào y cũng xử dụng Nhật-hồ độc chưởng. Ta phải dĩ độc, trị độc.
Từ lúc vợ bị chết vì Chu-sa độc chưởng, Tự-An để hết tâm trí nghiên cứu cách khắc chế loại chưởng này, rồi dạy cho các sư đệ, cùng đệ tử, hầu gặp đệ tử Hồng-thiết giáo, còn có chỗ sở dụng. Không khó khăn, ông đã tìm ra trong lần Đỗ Lệ-Thanh tới trang Thiên-trường. Nội công phái Đông-a vốn phát xuất từ thiền công. Mà thiền công vốn phát xuất từ nhà Phật, nên việc hoá giải Hồng-thiết công một thứ công lực tà ma dễ dàng.
Bồ-tát Sùng-Phạm, Bố-Đại đều biết cách hoá giải Hồng-thiết độc công. Song các ngài vốn từ bi, hỷ xả, nên chỉ làm biến độc chất đi mà thôi. Còn Tự-An, ông là một đại hiệp. Đối với ông, kẻ xử dụng độc công hại mình, không có lý gì mình phải tử tế nhân nhượng với chúng. Cứ thẳng tay giết không tha. Vì vậy khi ông với Đỗ Lệ-Thanh cùng hợp tác nghiên cứu ra phép khắc chế Chu-sa độc chưởng.
Phương pháp khắc chế thực giản dị, đầu tiên chia công lực làm hai. Một phần hoá giải chất độc, một phần đẩy ngược lại đánh đối thủ. Vừa rồi Thanh-Mai thắng Nguyên-Hạnh bằng võ công này. Ngược lại Bảo-Hòa luyện nội công theo phép phối hợp âm-dương vào với kinh mạch. Nàng dùng Thủ tam dương kinh đẩy chất độc trở lại cơ thể địch. Còn Thủ tam âm bảo vệ cơ thể, hay thu chân khí của đối thủ. Nàng thắng Phạm Hổ nhờ biến cải phương pháp của Trần Tự-An đi cùng với phương pháp Bố-Đại dạy nàng.
Biết rõ chưởng lực Hồng-thiết giáo đánh ra, phạm vi chân khí phát rộng vô cùng. Tự-An nghiên cứu cách vận khí để Thủ tam dương kinh tấn công. Thủ tam âm kinh phòng ngự. Ông luyện đi, luyện lại thuần thục vô cùng. Bây giờ ông đem ra áp dụng.
Quả nhiên Xích-Thập đánh một chiêu chưởng phong rất rộng. Trong chưởng có mùi tanh hôi khủng khiếp. Tự-An thản nhiên vận khí ra cả thập nhị kinh hoá giải. Lục kinh âm như thành đồng vách sắt phòng ngự cơ thể. Lục kinh dương phản công. Xích-Thập tưởng chỉ cần với một chưởng đó, Tự-An sẽ bị chất độc nhập cơ thể, mấy khắc sau kình lực mất hết, đau đớn đến phải kêu cha gọi mẹ. Nào ngờ y thấy kình lực đánh ra gặp một thứ âm kình rất mềm cản lại. Xích-Thập nghĩ thầm:
- Thằng này ngu quá, dám ngang chiên chống Chu-sa độc chưởng. Chỉ mấy chiêu nữa, nó sẽ đau đến phải kêu cha, gọi mẹ cho biết tay.
Ý nghĩ vừa thoáng qua, y cảm thấy cánh tay nặng chĩu. Biết có sự bất ổn, y đánh liền mười chiêu. Cứ mỗi chiêu y đánh ra, Tự-An lại lùi một bước, khoanh chưởng đỡ. Tất cả các đại cao thủ dù chính, dù tà đều kinh hãi:
- Ông này võ công cao thì cao thực. Song đỡ mấy chục chiêu Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng, e nguy đến nơi.
Trong khi đó, Xích-Thập vẫn khoan thai tấn công từng chiêu Phục-ngưu thần chưởng, bằng Hồng-thiết công. Mùi tanh hôi nồng nặc khắp khán đài. Tự-An không hề đánh trả. Ông chỉ đỡ. Cứ mỗi khi hai chưởng gặp nhau, ông lại lùi một nước.
Khi Xích-Thập đánh đến chiêu thứ sáu mươi, độc chất tụ ở tay y lên đến độ tối đa. Tự-An nói lớn:
- Đỗ trưởng lão! Người đánh ta sáu mươi chưởng. Bây giờ ta đánh lại người sáu chưởng. Nếu sau sáu chưởng này, mà người không bại, ta cùng phái Đông-a nguyện theo Hồng-thiết giáo.
Quần hùng nghe Tự-An nói, họ đều kinh hãi. Vì với công lực Xích-Thập, thắng y không phải truyện dễ. Thế mà Tự-An hẹn chỉ trong sáu chiêu, thực là một canh bạc quá lớn.
Trên đài Tự-An quát lớn:
- Chiêu thứ nhất. Đỡ này.
Ông vận khí ra Thủ tam âm bảo vệ cơ thể. Còn Thủ tam dương, đẩy chất độc trở lại người y. Ông phát chiêu Phong ba hợp bích, binh một tiếng. Xích-Thập bật lui ba bước, mặt nhăn nhó, tỏ ra đau đớn vô cùng. Y cảm thấy như có ba mũi dao đâm vào phổi, vào tim, vào lồng ngực.
Tự-An cười:
- Chiêu thứ nhì! Đỡ này.
Ông xuất chiêu Đông-hải lưu phong. Xích-Thập xuất chiêu Ngưu tẩu như phi đỡ. Bình một tiếng. Y loạng choạng lui liền ba bước. Tự-An cười lớn:
- Chiêu thứ ba! Đỡ này!
Ông xuất chiêu Hải-phong cuồng nộ. Xích-Thập thấy chân tay nặng nề. Biết nguy rồi, nhưng y vẫn nghiến răng đỡ. Binh một tiếng, y lùi liền ba bước.
Tự-An vỗ hai tay vào nhau:
- Đỗ Xích-Thập. Mi chết rồi. Trong người mi hiện có con quỷ ẩn náu. Ta chả cần đánh con quỷ nữa.
Xích-Thập cảm thấy mắt hoa, đầu váng, chân tay hết lực, y lảo đảo ngã ngồi xuống. Y run rẩy như người bị bệnh sốt rét.
Dương Ẩn hỏi:
- Đỗ sư đệ! Cái gì vậy?
Xích-Thập không trả lời, mặt y tái xanh. Thình lình y ôm ngực kêu thét lên như con lợn bị chọc tiết.
Y móc trong bọc ra một bình nhỏ, mở nắp, lấy viên thuốc cho vào miệng nuốt đi, rồi nghiến răng ngồi vận công cho thuốc mau tan.
Cả quảng trường náo loạn lên. Vì người ta những tưởng Trần Tự-An bị trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng, tại sao ông không việc gì. Trái lại Đỗ Xích-Thập lại bị đau đớn cùng cực.
Từ xưa đến giờ, khi giáo chúng Nhật-Hồ cùng luyện độc công đấu với nhau, giữa kẻ thắng, người thua không đến nỗi mất mạng. Vì họ đã bị cấy độc tố đầy người trong khi luyện công rồi. Còn ngoại giả, bất cứ người nào đấu với họ, chỉ cần hai chưởng chạm nhẹ vào nhau, lập tức độc chất ngấm vào người, đau đớn đến chết đi sống lại trong bẩy lần bẩy bốn mươi chín ngày rồi kiệt sức mà chết. Trong trường hợp đó, nạn nhân chỉ có cách xin qui phục Hồng-thiết giáo, tuyệt đối trung thành, sẽ được phát thuốc giải mỗi năm một lần sau tiết Đông-chí. Nếu vì lý do nào, bị cắt thuốc giải, cũng vẫn đau đớn trong bốn mươi chín ngày rồi chết. Dù đã được phát thuốc giải, mỗi tháng cũng bị lên cơn trong một giờ. Bây giờ rõ ràng Xích-Thập uống thuốc giải, mà y vẫn đau đớn rên la khủng khiếp. Không ai hiểu ra sao cả.
Nhật-Hồ lão nhân hỏi Tự-An:
- À, không ngờ Côi-sơn đại hiệp cũng theo Hồng-thiết giáo đấy. Chu-sa độc chưởng của đại hiệp mạnh thực.
Trần Tự-An hướng vào Nhật-Hồ vái một vái:
- Giáo-chủ! Luật lệ của quí giáo định rằng: Nếu giáo chúng có tội, sẽ do chính giáo chủ trừng phạt. Giáo chúng dù bị tội nặng đến đâu, người ngoài cũng không thể đánh giết. Vị tiền bối này dùng độc công định hại tại hạ. Tại hạ tuyệt không có ý hại người. Nhưng phàm trong phép đấu nội lực. Công lực ai mạnh, người đó thắng. Công lực tại hạ mạnh hơn Đỗ trưởng lão, nên Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng chạy ngược trở về cơ thể người. Chứ phái Đông-a một danh môn chính phái, đâu có biết dùng độc công?
Đỗ Xích-Thập bò lại trước Nhật-Hồ lão nhân. Y run rẩy:
- Sư...ư...ư...phụ...ụ...ụ.
Hai hàm răng y cắn vào nhau kêu lập cập. Nhìn thảm cảnh Xích-Thập, hình ảnh mấy năm trước, vợ ông, Cao-huyền-Nga từng chịu đau đớn chết đi sống lại. Cho đến ngày thứ bốn mươi chín mới chết. Ông cho khâm liệm chôn cất. Nào ngờ, đó chẳng qua chỉ do kiệt lực ngất đi mà thôi. Rồi bọn Hồng-thiết cho uống thuốc tỉnh lại, dùng làm cây thuốc.
Nghĩ đến đó, ông đưa mắt nhìn tên Đặng Trường, lòng ngút lửa thù:
- Tên Đặng Trường tàng ẩn trong trang Thiên-trường bao năm, với ý đồ nắm lấy phái Đông-a. Y làm nhơ nhuốc vợ ta, cũng với mục đích làm bại hoại danh tiếng của ta. Hôm nay, ta phải nhân trước anh hùng thiên hạ, cho y chịu cái đau đớn này, mới hả mối căm hận.
Nhật-Hồ lão nhân thấy Xích-Thập uống thuốc rồi, mà cơn đau không giảm, lão kinh hoàng. Lão cầm tay y bắt mạch rồi hỏi:
- Đỗ trưởng lão. Người uống thuốc gì vậy?
Xích-Thập rên:
- Thuốc...giải...của bản giáo.
Dương Ẩn bắt mạch Xích-Thập rồi lắc đầu:
- Sư phụ. Đỗ sư đệ không bị trúng Chu-sa độc chưởng thông thường. Chu-sa độc do y phát ra, bị đẩy ngược lại bằng chân khí Đông-a. Nếu không trị mau, e mất tính mạng. Mong sư phụ dùng Hồng-thiết mật công hoá giải mới được.
Nhật-Hồ lão nhân hít một hơi, lão vận chân khí, tay trái vỗ sẽ lên đầu Xích-Thập. Xích-Thập rung động người một cái, rồi miệng hét be be. Người y nhảy chồm chồm lên như con ếch, chứng tỏ đau đớn cùng cực. Mắt y đỏ ngầu. Y nhảy lại vồ Nùng Dân-Phú, tôn sư bang Quảng-nguyên. Dân-Phú nhảy vọt ra xa tránh khỏi. Y lại vồ sư thái Tịnh-Huyền. Bà lạng người ra xa. Y đứng thẳng chỉ lên bàn thờ, miệng chửi:
- Thằng Đào-Kỳ, con Phương-Dung kia. Đầu hàng ngay. Ông nội mày là Phục-ba đai tướng quân đây!
Y phóng chưởng vào bàn thờ. Nhật-Hồ lão nhân thấy nếu để y đánh đổ bàn thờ, ắt Hồng-thiết giáo trở thành kẻ đại thù của dân Việt. Vì vậy lão xỉa tay, cắt ngang chưởng của Xích-Thập. Bộp một tiếng, Xích-Thập loạng choạng lui lại. Hai mắt y đỏ ngầu, miệng hét lên be be như con dê bị rượt.
Y lại phóng chưởng tấn công thiền sư Minh-Không. Thấy chưởng lực của y hùng mạnh quá, ngài phải đứng dậy, vận chưởng đỡ. Rầm một tiếng. Đài rung rinh. Minh-Không cảm thấy tay ê ẩm. Còn Xích-Thập bị bay tung xuống đài, ngay chỗ giáo chúng Hồng-thiết giáo.
Y gào gáy lên lanh lảnh, tay chụp một giáo đồ. Y tung giáo đồ lên cao, rồi phóng chưởng theo. Binh một tiếng. Tên giáo đồ vỡ làm nhiều mảnh, máu thịt bay tứ tung lên đầu đội thiết kỵ Hồng-thiết. Đám giáo chúng thấy vậy, bỏ chạy tứ tán.
Y chụp được một nữ giáo đồ. Tay y túm ngực cô gái, dơ lên cao. Ai cũng tưởng y sẽ vật chết cô gái khốn nạn. Không ngờ y lột quần áo cô trần truồng, rồi ghé miệng vào cổ cô cắn đứt nghiến một miếng, rồi hút máu, uống ừng ực.
Cô gái khốn nạn chết ngay tại chỗ.
Phạm Trạch nói với Nhật-Hồ:
- Sư phụ. Xin sư phụ cứu lục sư huynh.
Nhật-Hồ lão lắc đầu:
- Hãy đợi xem sao đã. Y chưa chết ngay đâu.
Xích-Thập uống máu cô gái rồi liệng xác cô ra xa. Miệng y đỏ lòm, trông giống như một con quỷ. Y nhảy đến khán đài phái Sài-sơn, tay chụp Lê Thiếu-Mai. Nhưng tay y chưa chạm vào người nàng, đã bị một chưởng rất hùng hậu đánh vào sau gáy. Nếu y không thu tay về đỡ, đầu y sẽ vỡ nát ra.
Xích-Thập tuy điên loạn, nhưng võ công chưa mất. Y nhảy vọt lên cao tránh thế chưởng quái dị. Ở trên cao, y phóng xuống đầu người kia một chưởng. Người kia xỉa tay một cái. Thân hình Xích-Thập vọt ra xa. Người kia chạy theo, đánh nhẹ một chưởng, y bay lên lễ đài, ngay trước mặt Nhật-Hồ lão nhân.
Mọi người kinh ngạc, nhìn xem ai, mà lại có võ công cao đến như vậy? Thì ra Hồng-Sơn đại phu. Quần hùng vỗ tay vang dội.
Hồng-Sơn đại phu búng tay liền bốn cái. Bốn viên thuốc mầu đỏ, to bằng hạt nhãn bay đến người Xích-Thập. Hai viên trúng hai đầu gối, hai viên trúng cùi chỏ. Lập tức bốn viên thuốc tan thành bột. Một đám bụi mầu đỏ bao trùm người y. Y hét lên một tiếng, ngã ngồi xuống, chân tay không cử động được. Phút chốc y nhắm mắt ngủ.
Đám đệ tử của Xích-Thập lên đài bồng y xuống.
Minh-Không thiền sư chắp tay hướng Hồng-Sơn đại phu:
- Đa-di-đà Phật. Mừng đại phu đã chế được thứ thuốc thần diệu. Bần tăng kính thỉnh tên thuốc đó là gì vậy?
Hồng-Sơn đại phu chắp tay đáp lễ:
- Đa tạ đại sư quá khen. Tại hạ đặt tên cho nó là Ma-túy hoàn. Phàm người thường, dù đau đớn đến đâu, chỉ cần dùng hai viên ắt tê đến ba giờ. Còn trường hợp Đỗ trưởng lão, công lực quá cao, phái dùng đến bốn viên.
Từ khán đài Hồng-thiết giáo, hai người bịt mặt nhảy lên đài. Một người chỉ vào mặt Trần Tự-An:
- Tên khốn kiếp kia. Mi hại một trưởng lão của chúng ta như vậy, có khác gì mi bôi tro trát trấu vào mặt Hồng-thiết giáo. Ta phải giết mi để phục thù.
Nói rồi y phát chiêu tấn công Tự-An. Chiêu của y chưa phát hết, mà quần hùng muốn ngộp thở. Ầm một tiếng. Cả hai người đều bật lui lại. Tự-An cảm thấy cánh tay tê dại, tai ù đi. Ông quát lên:
- Mi là ai?
Phạm Trạch la lên:
- Đại ca! Tứ đệ! Hai vị đến hồi nào vậy?
Người bịt mặt cười nhạt:
- Ta đến đã lâu rồi.
Nghe Phạm Trạch kêu, quần hùng trấn động tinh thần, cùng trố mắt nhìn. Vì từ hơn ba mươi năm nay, họ từng nghe Hồng-thiết giáo có mười trưởng lão, võ công cao siêu không biết đâu mà lường. Nhưng những trưởng lão này khi ẩn, khi hiện, không ai biết rõ mặt mũi ra sao. Tuy có nghe nói đến tên cùng hành tung cực kỳ tàn ác của họ. Người ta còn thêm thắt, nghi ngờ rằng các trưởng lão không phải ai đâu xa lạ, mà chính những đại tôn sư, chưởng môn các phái.
Tuy vậy, trong mười trưởng lão, người ta cũng biết mặt được ba người. Nguyễn Chí, trước đây làm tướng thời Thập-nhị sứ quân, cực kỳ tàn ác. Phạm Trạch, một ma đầu khét tiếng vì y thích ăn bào thai chưng thuốc Bắc, giết người không gớm tay. Lê Đức, một Nho-sinh học giỏi, đọc sách nhiều.
Từ lúc vào đại hội, nảy ra tôn sư phái Mê-linh chính làm trưởng lão thứ mười, tên Hoàng Liên, rồi tôn sư phái Tản-viên làm trưởng lão thứ sáu tên Đỗ Xích-Thập. Toàn những điều ngoài sức tưởng tượng của quần hùng. Sau chính Nhật-Hồ lão nhân xác nhận đạo sư Dương Ẩn, đại tôn sư phái Sài-sơn là Lê Ba. Mà Lê Ba nức tiếng gian manh, ác độc có một không hai của võ lâm. Y có tật, khi trông thấy bất cứ phụ nữ nào, dù bà già tám mươi, dù thiếu nữ mười tuổi, y nổi hứng lên, phải bắt hiếp ngay trước mặt chồng con. Hiếp xong y giết chết.
Mới đây Bảo-Hòa trong lớp áo thiếu nữ Hồng-thiết giáo, đánh bại Phạm Hổ. Một tên hái hoa đại đạo. Y gian dâm hãm hiếp không biết bao nhiêu phụ nữ trong vùng kinh đô Trường-yên hai mươi năm trước. Từ ngày kinh đô dời ra Thăng-long, y lại tiếp tục. Trong dân gian, hàng tháng đều có những mệnh phụ phu nhân, tiểu thư bị mất tích. Người ta nghi y bắt cóc, song không biết mặt mũi y ra sao. Không ngờ y xuất hiện nguyên hình Trịnh Hồ, một người hào hoa phong nhã. Một đại Mạnh-Thường-Quân của đế đô Thăng-long.
Từ lúc đại hội, họ thấy một trưởng lão bịt mặt. Trong khi Hồng-thiết giáo còn ba trưởng lão chưa xuất hiện. Vậy người bịt mặt có thể là Vũ Nhất-Trụ, Đặng Trường hay Hoàng Văn?
Bây giờ xuất hiện thêm hai người bịt mặt mới, Phạm Trạch gọi một người bằng đại ca, tứ đệ. Đại ca ắt hẳn Vũ Nhất-Trụ. Tứ đệ chắc là Hoàng Văn. Như vậy còn người bịt mặt kia tên Đặng Trường.
Nhất-Trụ, Hoàng Văn vẫy tay, lập tức bọn Dương Ẩn, Phạm Trạch, Nguyễn Chí, Lê Đức, Đặng Trường, bẩy người đứng vây xung quanh Tự-An trong tư thế chuẩn bị ăn tươi nuốt sống ông. Tự-An hiên ngang:
- Bẩy trưởng lão Hồng-thiết giáo định dùng số đông thắng ta ư? Được, lại đây, lại đây. Ta há sợ bọn người sao.
Nói rồi ông hít hơi, vận khí đẩy một chưởng vào Nhất-Trụ. Nhất-Trụ tung chưởng đỡ. Thấy chưởng Nhất-Trụ mạnh kinh người ông đẩy xéo chưởng của y vào người Lê Ba. Lê Ba bị lãnh hai luồng cuồng phong. Y nhảy vọt lên cao, đánh một chưởng vào giữa chưởng hai người. Tự-An chuyển chưởng vào Phạm Trạch. Trạch kinh hoảng phóng chưởng đỡ. Thế là chưởng bốn đại cao thủ gặp nhau, bùng một tiếng, đài rung rinh như sắp đổ.
Thiên trường tứ kiệt cùng bay lên đài, đứng cạnh Tự-An. Trong tư thế sẵn sàng đối chọi với bọn Hồng-thiết.
Thấy cảnh hỗn độn sắp diễn ra, Nhật-Hồ lão nhân quát lớn:
- Khoan!
Bẩy trưởng lão Hồng-thiết lui lại thủ thế. Thiên-trường ngũ kiệt dàn hàng ngang, trong tư thế cực kỳ uy mãnh.
Nhật-Hồ nghĩ rất nhanh:
- Bọn Đông-a mạnh nhất võ lâm Đại-Việt. Vừa rồi Tự-An diệt tên Xích-Thập cho mình, điều mình mong ước. Mình thà mất hết bẩy trưởng lão, chứ không thể để mất phái Đông-a.
Nghĩ vậy, lão hướng vào Tự-An:
- Xin Côi-sơn đại hiệp miễn chấp. Đây chẳng qua có sự hiểu lầm mà thôi.
Dương Ẩn hướng vào Nhật-Hồ lão nhân:
- Giáo-chủ. Giáo chủ là chúa tể bản giáo, nỡ để cho người ngoài làm nhục giáo đồ như vậy mà không có phản ứng. Bây giờ các vị sư huynh, sư đệ phải đứng ra trả hận, còn gì thể diện bản giáo nữa?
Nhật-Hồ cười nhạt:
- Từ xưa đến nay, võ lâm Đại-Việt có phái chủ trương hoà hoãn với Trung-quốc. Có phái chủ trương chống Trung-quốc. Phái nào cũng bị một vài người làm gian tế cho họ. Riêng bản giáo với phái Đông-a, trước sau như một, đều chống Trung-quốc. Bản giáo chủ trương phải xoá bỏ mọi vết tích Trung-quốc, cùng tiêu diệt bọn người Hoa kiều ngụ ở Đại-Việt. Ngược lại phái Đông-a lại coi trọng văn hoá Trung-quốc, cổ động người Hoa, người Việt sống chung. Nhưng nếu Trung-quốc đem quân xâm lăng, phải dùng mọi khả năng chống trả. Hoá cho nên bản giáo với phái Đông-a đều được dân chúng theo đông. Nay trong bản phái nảy sinh ra cái quái thai Hoàng Liên, đã bị ta xử tử. Còn tên Xích-Thập này, ta không giết, để cho người khác giết dùm cũng thế.
Dương Ẩn đưa con mắt căm hờn nhìn Nhật-Hồ:
- Giáo chủ! Hôm qua giáo chủ đã thề độc rằng chúng ta quên hết thù hận quá khứ để trùng hưng bản giáo. Thế mà bản giáo có mười trưởng lão. Thập sư muội bị giáo chủ cho rắn ăn thịt, để tỏ ra sư phụ có oai trước mặt mọi người. Cửu sư đệ Phạm Hổ bị người ta giết trước mặt anh hùng. Mà sư phụ không một lời bênh vực, lại còn cho rắn ăn thịt. Bây giờ lục sư đệ bị phái Đông-a đánh cho hoá điên. Sư phụ không chịu dùng Hồng-thiết tâm pháp cứu trị. Nay chúng tôi chỉ còn có bẩy người, cả gan xin giáo chủ trị cho lục sư đệ.
Cách đây mấy giờ, Nhật-Hồ lão nhân định giết Đỗ Xích-Thập, bị bọn trưởng lão cùng lên đài bao vây áp lực. Đúng ra với bản lĩnh độc công của lão, lão có coi bọn trưởng lão ra gì? Nhưng lão nghĩ rằng, mình ở tù bấy lâu nay, tình hình trong giáo, lão không biết gì. Không những thế, hầu hết giáo chúng đâu biết lão là ai. Nếu xẩy ra cuộc động thủ, giáo đồ của các trưởng lão sẽ bênh sư phụ chúng. Như vậy lão hoá ra trắng tay. Cho nên lão phải nhượng bộ.
Trải qua một thời gian ngắn trong buổi lễ, sau khi lão đánh bại thủ tọa Đạt-Ma đường phái Thiếu-lâm dễ dàng, các đại tôn sư, các chưởng môn nhân cũng như giáo đồ đều khâm phục lão. Ban nãy bọn Phạm Trạch hô hào quần hào tôn lão lên làm Vua, gần như không ai phản đối, khiến lão tự tin một phần nào. Trong thâm tâm lão, việc khống chế một đại cao thủ, rồi cho làm trưởng lão thực không khó. Khi thấy Phạm Hổ chết, lão càng khoan khoái trong lòng. Cho dù tất cả bọn trưởng lão chết đi, mà lão được lên làm Vua, lão cũng hả dạ. Lão nghĩ:
- Mình được anh hùng kính trọng, dân chúng theo đông đảo, vì chủ trương chống Tầu, giữ nước. Thế mà trong hội đồng giáo vụ trung ương lại có tên Xích-Thập, còn ai tin tưởng nữa. Nay y giao đấu với Tự-An, mà bị trúng độc. Ta cầu mà không được, ta trị cho y làm gì?
Vì vậy lão trả lời Dương Ẩn:
- Ta không thể, và không bao giờ dùng Hồng-thiết thần công trị độc công cho tên phản giáo. Dù ta trị, chưa chắc có kết quả. Người nên biết rằng thần công bản giáo chỉ trị được Chu-sa độc chưởng cùng tất cả độc chất khác. Đây Xích-Thập bị người ta đẩy ngược độc chất vào người bằng nội lực Đông-a, nên ta không thể làm gì hơn.
Dương Ẩn hướng vào giáo chúng Hồng-thiết. Y vận nội lực nói lớn:
- Thưa các vị huynh đệ. Bản giáo thành lập với mục đích cứu dân khỏi loạn Thập-nhị sứ quân. Sau đó thiết lập một nước lấy Hồng-thiết kinh làm căn bản, tạo hạnh phúc cho dân. Từ ngày ấy đến giờ, anh em bản giáo tử đạo có hàng mấy chục vạn. Thế nhưng giáo chủ tự coi mình như một ông Vua, hơn thế nữa một ông trời. Như anh em thấy, giáo chủ giết trưởng lão Hoàng Liên thê thảm biết chừng nào. Rồi mới đây, trưởng lão Phạm Hổ vô tội, bị người ta đánh cho chết. Giáo chủ không bênh vực, còn cho rắn ăn thịt. Bây giờ đến Đỗ trưởng lão, giáo chủ tước hết giáo đồ của người, đem cho phái Tản-viên. Cuối cùng Đỗ trưởng lão bị trúng độc, giáo chủ buông tay không chữa.
Y chỉ vào Hồng-Sơn đại phu:
- Nhục nhã cho chúng ta, phải nhờ đến Hồng-Sơn đại phu làm cho Đỗ trưởng lão mê đi, tránh khỏi cơn đau.
Y lớn tiếng, dõng dạc:
- Hồng-thiết độc công của Hồng-thiết giáo vốn giản dị. Sau khi trúng độc, uống thuốc giải thì khỏi. Mỗi năm uống thuốc giải một lần cũng đủ. Còn trường hợp được dùng Hồng-thiết tâm pháp trị, khỏi vĩnh viễn. Theo luật lệ Hồng-thiết giáo Tây-dương, bất cứ trưởng lão nào cũng được học Hồng-thiết tâm pháp. Thế nhưng giáo chủ sửa đổi đi. Người không truyền thần công đó cho bất cứ ai. Lại nữa công thức thuốc cũng đổi. Ai bị trúng độc tuy uống thuốc giải, mà mỗi tháng lên cơn một lần, đau
đớn vô cùng cực.
Y chỉ vào bọn trưởng lão:
- Hồi nãy giáo chủ hứa rằng, sẽ truyền Hồng-thiết tâm pháp cho chúng ta, cùng trị dứt đau khổ cho các giáo vụ trưởng từ cấp huyện trở đi. Bây giờ giáo chủ nuốt lời.
Nhật-Hồ cười nhạt:
- Lê-Ba, mi định phản ta ư? Điều này không dễ đâu.
Đặng Trường, Lê Đức, Hoàng Văn đứng bên Lê Ba. Đặng Trường chắp tay vào nhau:
- Sư phụ! Giáo-chủ. Xin giáo chủ chữa cho Đỗ trưởng lão. Bằng không e tan nát hết cả.
Sự thực Nhật-Hồ đã dùng bàn tay để lên huyệt Bách-hội Đỗ Xích-Thập hút chất độc trong người y. Nhưng không kết quả, ngược lại y còn đau đớn đến điên loạn. Nguyên do chất độc trong người Đỗ Xích-Thập không do ăn uống, thở hít hay do Chu-sa độc chưởng truyền vào, mà do nội công phái Đông-a đẩy ngược lại. Nội công phái Đông-a xuất phát từ thiền công nhà Phật. Nội lực phái Đông-a có Phật-tính, pha lẫn với học thuyết âm dương, ngũ hành của Lão-giáo. Thành ra khi nhập người Xích-Thập, giữa Phật-tính, Tiên-tính với ma tính Hồng-thiết xung chiến chạy hỗn loạn. Cho nên y mới đau đớn như vậy.
Nhật-Hồ vốn người xảo quyệt. Xảo quyệt bậc nhất trong lịch sử nhân loại. Lão biết rằng nếu nói thẳng ra rằng mình trị cho Xích-Thập, không kết quả, ắt giáo chúng còn coi lão ra gì nữa? Đằng nào Xích-Thập cũng chết. Chi bằng cứ nói rằng lão khoanh tay không trị cho y, để thu phục nhân tâm quần hùng rằng: Dù người có công lao như các trưởng lão, mà phản dân, lão cũng trừ khử. Vì vậy lão lắc đầu, nói lớn:
- Ta không trị cho tên gian tế của Tống. Một khi y nhẫn tâm đem bọn chó Ngô sang đất Việt giết người Việt, tàn phá giang sơn đẹp như gấm của tổ tiên, hỏi y còn trung thành với ai?
Quần hùng vỗ tay vang dội, hết tràng này, đến tràng khác. Phái Đông-a vỗ tay lâu nhất, to nhất. Tự-Mai, Tôn-Đản, Hà-thiện-Lãm, Lê-thuận-Tông từ dưới đài nhảy lên. Chúng nó ôm lấy lão, nhấc bổng lên. Bốn đứa khoanh tay thành kiệu, rước lão đi quanh đài. Dàn nhạc Hồng-thiết giáo cử bản nhạc hùng tráng nhịp nhàng.
Nhật-Hồ lão nhân ngồi trên kiệu của bốn thiếu niên. Lão sướng quá tiếp:
- Tên Xích-Thập này, về võ công, leo lên tột đỉnh của một danh môn chính phái. Trong bản giáo tới trưởng lão. Như vậy y theo Tống ắt không phải vì công danh. Y lại giầu có súc tích. Chắc y làm gian tế cho Tống không phải vì tiền bạc. Vậy y bán nước với mục đích gì? Câu trả lời duy nhất y điên khùng. Giết đi một tên điên khùng mãi quốc, dù ai giết cũng đáng kính cả. Huống hồ Côi-sơn đại hiệp.
Trong khi Nhật-Hồ nói, Vũ Nhất-Trụ, Phạm Trạch, Nguyễn Chí đi cạnh kiệu rước Nhật-Hồ, với chủ ý tỏ lòng trung thành với lão. Lê-Ba cười nhạt:
- Như vậy rõ ràng giáo chủ phụ chúng tôi, chứ không phải chúng tôi phụ giáo chủ. Ba anh em chúng tôi đành tách ra khỏi quyền của giáo chủ, thiết lập một Hồng-thiết giáo mới.
Y chỉ cờ vào một đoàn giáo chúng:
- Các người gốc đệ tử của đệ thập trưởng lão Hoàng Liên. Các người có biết rằng giáo chủ giết sư phụ người, rồi sẽ có ngày giết các người không? Những ai theo ta, lập một Hồng-thiết giáo mới hãy đứng sang bên phải. Còn nếu các người theo giáo chủ cứ đứng im.
Gần phân nửa số giáo chúng chạy sang phải. Lê Ba tiếp:
- Trưởng lão Đỗ Xích-Thập, Phạm Hổ bị giáo chủ hại, thân bại danh liệt. Vậy những ai còn trung thành với các vị đó, nên đứng sang bên phải, để lập tân giáo.
Một số ít đứng sang bên phải.
Cứ như thế, Dương Ẩn hô hào đệ tử y, đệ tử Đặng Trường, Lê Đức. Cuối cùng cũng chỉ được có non nửa. Nhật-Hồ lão nhân cười nhạt:
- Các đệ tử nghe đây. Tên Dương Ẩn phản giáo, mưu làm giáo chủ. Phàm muốn làm giáo chủ phải hội đủ ba điều kiện. Một, võ công cao nhất bản giáo. Hai, phải học được Hồng-thiết tâm pháp, hoá giải chất độc cho đệ tử. Ba, phải được hội đồng giáo vụ trung ương tín nhiệm. Đây võ công y không thể hơn Nhất-Trụ. Y lại không biết Hồng-thiết tâm pháp. Ba, y không được tín nhiệm của hội đồng giáo vụ trung ương. Vậy ai theo y, ta sẽ để cho đau đớn đến chết. Ai theo ta, ta sẽ dùng Hồng-thiết tâm pháp hoá giải chất độc cho.
Đám đệ tử chạy sang phải, lại chạy trở về chỗ cũ.
Phạm Trạch rống lên như con trâu:
- Đặng Trường, Lê Ba, Hoàng Văn, Lê Đức. Các người phải quỳ gối tạ lỗi với giáo chủ ngay. Bằng không, chúng ta phải giết các người.
Lê Ba suy nghĩ:
- Tên Phạm Trạch nói không sai. Nếu xẩy ra động thủ, nguyên Phạm Trạch, Nguyễn Chí đấu ngang tay với ta và Đặng Trường. Còn Hoàng Văn với Lê Đức, địch sao lại lão già kia, với Nhất-Trụ?
Y chưa kịp có phản ứng, thình lình Nhật-Hồ lão nhân lạng người đi một cái, tay phải lão chụp Lê Đức. Tay trái lão cầm viên thuốc vỗ lên đầu y một cái. Chân tay y tê liệt. Lê Ba xỉa hai tay vào mắt lão cứu bạn. Nhưng không kịp. Lão đã ném Lê Đức xuống sàn đài.
Bốn đứa trẻ kiệu Nhật-Hồ nhảy khỏi đài.
Đúng ra, bản lĩnh Lê Đức đâu đến nỗi để lão bắt dễ dàng như vậy? Một là vì Lê Đức không chú ý. Hai là vì lão ra tay như sét nổ, quá mau, nên y không phản ứng kịp.
Dưới đài Tự-Mai hỏi Thanh-Mai:
- Tại sao mình lại thả tên Nhất-Trụ với Hoàng Văn ra?
- Tên Hoàng-Văn, ta muốn giết lúc nào cũng được, không ai thắc mắc gì. Còn tên Vũ Nhất-Trụ tức Đàm Can, địa vị y rất lớn. Y vừa vai quốc cữu, vừa làm đại công thần trong triều. Các võ quan trấn thủ ở ngoài, mười người, có đến sáu do y đào tạo. Vì vậy bây giờ đem lột mặt nạ y ra, bảo y là Vũ Nhất-Trụ, e hoàng-đế cũng không tin. Vì vậy cần làm cách nào giả đệ tử của y, cứu y ra. Chắc chắn thế nào y cũng đến đây cùng Nhật-Hồ tính tội tên Lê Ba. Sau đó bắt y tại trận. Bấy giờ y không còn chối vào đâu được nữa.
Tự-Mai gật đầu:
- Vấn đề phức tạp thực.
Trên đài Nhất-Trụ nói với Lê Ba:
- Bất cứ giá nào, chúng ta cũng phải đoàn kết. Ngày hôm nay dành ngôi vua về cho sư phụ. Sư phụ qui tiên, anh em chúng ta sẽ cử người khác thay thế.
Nghe Nhất-Trụ nói vậy, Nhật-Hồ lão nhân nghĩ thầm:
- Nếu ta chết đi, đương nhiên Nhất-Trụ thay thế. Bây giờ ta gỉa phong cho Lê Ba làm phó giáo chủ, để y với Nhất-Trụ giết nhau.
Nhật-Hồ nói với Lê Ba:
- Lê-Ba! Nếu người muốn truất phế ta, để lên làm giáo chủ cũng dễ thôi. Người hãy dùng võ công thắng ta, rồi thắng luôn các trưởng lão. Còn như người không thể làm được việc đó, người mau đầu hàng. Ta sẽ phong người làm phó giáo chủ. Ta đã già rồi, cái chết ngay trước mắt. Ta chết đương nhiên người trở thành giáo chủ. Còn như người chống ta, ta e cái chết khó tránh.
Lê Ba còn lạ gì Nhật-Hồ. Y biết lão nói thế để chia rẽ y với Nhất-Trụ, Đặng Trường. Y hướng vào quần hùng:
- Thưa các vị! Bần đạo vốn xuất thân tử phái Sài-sơn. Bản phái do Phù-đổng Thiên-vương lập ra. Đời đời võ đạo lấy việc tạo hạnh phúc cho dân làm lẽ chính. Nhân thấy Hồng-thiết giáo du nhập vào Đại-Việt có nhiều chủ trương cải cách dân sinh, đi đến thiết lập một một nước giầu, dân hạnh phúc. Cho nên bần đạo âm thầm nhập giáo.
Y ngừng lại chỉ tay vào Nhật-Hồ lão nhân:
- Từ khi bản giáo khai môn đến giờ, có hàng trăm vạn giáo chúng hy sinh, nên mới có địa vị ngày nay. Nào ngờ giáo chủ tự cho mình thành thần, thành thánh, coi tính mệnh giáo chúng như sâu như kiến. Bần đạo nhiều phen khuyên răn, lão nhân gia không những không hối cải, lại còn đi xa hơn nữa trong việc chém giết giáo đồ. Cho nên, hai mươi năm trước đây, bần đạo đem lão nhân gia giam vào hầm tối. Sau hai mươi năm, nhân ngày sinh nhật lão nhân gia, bần đạo thả người ra, để cùng anh em xây dựng lại bản giáo. Không ngờ tuổi tuy đã một trăm, mà lão nhân gia bồng bột như con trẻ, nghe lời tố gian, muốn giết hết anh em bản giáo, để đổi lấy được phái Đông-a trợ giúp lên làm vua. Thực không còn trời đất nào nữa.
Y nói thực lớn:
- Cho nên hôm nay đây, anh em bần đạo quyết cho lão nhân gia về hưu, để bầu một giáo chủ mới.
Y nói với Nhất-Trụ:
- Đại ca! Đại ca thử nghĩ xem, lão nhân gia tuổi hạc đã cao, nên lui về nghỉ ngơi. Ngôi giáo chủ, nhường lại cho đại ca mới đúng.
Nhất-Trụ cười nhạt:
- Lê Ba! Sư đệ đừng hòng ly gián ta với sư phụ. Dù thế nào chăng nữa, ta vẫn trung thành với người.
Y quay lại hỏi Bảo-Hòa:
- Trần cô nương. Cô nương mới được phong làm trưởng lão thứ chín của bản giáo. Cô nương phải tỏ lòng trung thành với giáo chủ chứ?
Mọi diễn biến xẩy ra, Bảo-Hòa đều im lặng. Nhiều lúc nàng muốn nhảy lên đài tranh phong với bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo. Nhưng biến chuyển dồn dập, ngoài sự tiên đoán của nàng, nàng đành ngồi im chờ lệnh Khai-Quốc vương.
Nàng nghĩ:
- Trên nguyên tắc ta làm trưởng lão của Hồng-thiết giáo. Theo như kế hoạch của võ lâm Đại-Việt, có ba trận đấu giữa đôi bên. Sư bá Tự-An đã thắng trận đầu. Chỉ cần thắng một trận nữa, coi như giải quyết xong. Nhưng bây giờ Hồng-thiết giáo chia hai. Có lẽ mình nên theo phe Nhật-Hồ, diệt phe Lê Ba, như vậy ít ra Hồng-thiết giáo mất thêm ba trưởng lão nữa. Rút cục chỉ còn ba tên, tiêu diệt chúng dễ dàng.
Bây giờ nghe Vũ Nhất-Trụ hỏi, nàng định ứng lời y, bỗng nghe tiếng Thanh-Mai dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai:
- Bảo-Hòa! Cự tuyệt với Vũ Nhất-Trụ, theo phe Lê Ba. Như vậy lực lượng y mới mạnh. Y thêm can đảm chống Nhật-Hồ. Bằng không y thoái lui mất.
Bảo-Hoà đứng dậy bước lên đài. Nàng chắp tay hành lễ:
- Giáo chủ! Tuổi giáo chủ đã cao. Uy quyền quá nhiều rồi. Giáo chủ nên rút lui đi là vừa. Tiểu nữ đề nghị giáo chủ tìm lấy trong các vị trưởng lão, người nào có uy tín, truyền ngôi cho. Rồi giáo chủ lui về qui ẩn, tiêu dao tự tại, sống như tiên chẳng thú lắm ư?
Nhật-Hồ lão nhân nhìn Bảo-Hòa với con mắt toé lửa. Trong thâm tâm lão nhân cứ nghĩ Bảo-Hòa là Trần Quỳnh-Hoa, con gái của lão. Cho nên lão giúp cho Bảo-Hòa trở thành trưởng lão. Bây giờ giữa lúc lão tranh phong với Lê Ba con gái lão lại về hùa với địch nhân.
Trong khi đó Lê Ba thấy Bảo-Hoà theo phe mình, lại tưởng rằng Trần Quỳnh-Hoa là con gái y, đương nhiên theo y. Như vậy y được thêm đám giáo chúng của Hoàng Liên, Xích-Thập, thêm phái Tản-viên. Y nói với Nhất-Trụ:
- Sư huynh! Người nên khuyên sư phụ lui về qui ẩn là hơn. Vạn nhất xẩy ra tranh chấp trong bản giáo, e tan nát hết cả.
Nhất-Trụ hỏi Ngô Bách-Vân:
- Ngô sư muội! Sư muội vẫn trung thành với sư phụ chứ?
Ngô Bách-Vân chắp tay:
- Đại sư huynh. Tiểu muội nghĩ sư phụ nên về nghỉ ngơi cũng phải. Ngôi giáo chủ phải truyền cho sư huynh mới đúng luật lệ bản giáo.
Người ngoài nghe Bách-Vân nói, đều tưởng y thị thân Vũ Nhất-Trụ. Sự thực từ khi Nhật-Hồ bị giam, y thị theo hẳn về phe Lê Ba. Y thị tuy miệng tôn Vũ Nhất-Trụ, nhưng thực ra hại y.
Vũ Nhất-Trụ tức Đàm Can còn lạ gì Lê Ba, Bách-Vân nữa. Bây giờ nếu Nhật-Hồ rút lui, người thừa kế đương nhiên phải Lê Ba. Vì trong Hồng-thiết giáo, Nhất-Trụ có uy tín bậc nhất, nhưng y chưa hề xuất hiện công khai. Trước đây, thời Lê Ngoạ-Triều, y làm hữu thân vệ điện tiền chỉ huy sứ, đứng sau Lý Công-Uẩn làm Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ có một bậc. Chính y là một trong bốn người: Vạn-Hạnh, Thân Thiệu-Anh, Đào Cam-Mộc, Đàm Can chủ xướng đưa Lý Công-Uẩn lên ngôi vua tức Thuận-thiên hoàng-đế. Khi Thuận-Thiên hoàng-đế lên ngôi vua, phong sư phụ làm Quốc-sư. Gả công chúa An-Quốc cho Đào Cam-Mộc, phong tước Trung-nghiã hầu. Phong Thân Thiệu-Anh làm Phò-mã, tổng trấn 207 khê động Bắc-biên.
Đối với Đàm Can, ngài vẫn dùng tình bạn trong việc giao tế hàng ngày. Ngài phong y tới Thái-sư, tả bộc xạ, đồng bình chương sự, Khu-mật viện sứ, đô-nguyên soái. Hơn nữa, ngài thu nạp con gái Đàm Can tên Đàm Thụy-Châu làm Tây-cung quý phi. Con trưởng Đàm Can, tuy tài không lấy gì làm xuất sắc, ngài cũng phong làm An-vũ sứ trấn Thanh-Hoá.
Như vậy một nhà hưởng phú quý vinh hoa. Nhưng trước kia y từng làm một trưởng lão Hồng-thiết giáo. Thời Thập-nhị sứ quân, tuy tuổi còn trẻ, mà y tỏ ra sắt máu khủng khiếp. Sau khi Thập-nhị sứ quân bị vua Đinh dẹp, y ẩn thân một thời gian, rồi đầu quân chống Tống. Y lập được chiến công. Từ đó y lên đến tột đỉnh trong hàng võ quan thời Lê.
Y nảy ra ý định muốn lên làm Vua. Một phía trong bóng tối, y dùng Hồng-thiết giáo diệt những đối thủ trong triều. Một phía y cố tỏ ra sắt máu, tàn sát người Hoa, để không ai nghi ngờ y theo Tống, rồi y bí mật cử người sang qui phục triều Tống. Y gặp may mắn. Thời bấy giờ Lưu thái hậu đang cầm quyền bên Tống, bị bang Nhật-Hồ Trung-quốc dùng độc chưởng khống chế. Y ra tay giết chết một cao thủ bang này, rồi cấp thuốc giải cho Lưu thái-hậu. Nhân đó, y được gần Lưu thái-hậu. Y hiến Lưu thái-hậu dùng cây thuốc để giữ nhan sắc. Vì vậy triều Tống tin tưởng y.
Sứ đoàn Triệu Thành sang Đại-Việt, Lưu thái hậu dặn dò phải lễ độ với Đàm Can, để được giúp đỡ. Cho nên bọn Triệu-Thành đối với Đỗ-xích-Thập, Nguyên-Hạnh, Hoàng Liên, Nùng Dân-Phú, coi như những người thuộc quyền. Mà đối xử với đám họ Đàm cực kỳ trọng vọng.
Y định đánh thuốc độc giết Thuận-Thiên hoàng-đế. Nhưng trước khi đánh thuốc độc giết ngài, y cần loại trừ các đối thủ. Hầu lúc ngài băng hà, ngôi vua về con trai Tây-cung quý phi. Y đương nhiên trở thành phụ chính đại thần, rồi cướp ngôi.
Đàm Can thành công trong việc đưa Hoàng Văn làm gia bộc cho Khai-Thiên vương, bắt giam Vương-phi làm cây thuốc, hầu sau này làm nhục Vương. Vương sẽ không còn được chỉ định nối ngôi vua. Y sai bắt giam Vương-phi Đông-Chinh vương tên Chu Vân-Nga cũng cùng mục đích. Đối thủ lợi hại nhất của y là Dực-Thánh vương, em trai Thuận-Thiên hoàng-đế, y lại không sợ. Vì vương thường liên lạc với các sứ đoàn, hầu tìm lấy trợ lực. Tất cả thư tín, liên lạc với Tống, Lưu thái hậu cho y biết hết. Khi gặp đúng lúc, y chỉ việc trưng ra bằng cớ, Vương trở thành tội nhân, khó tránh khỏi hoạ sát thân. Chỉ còn Khai-Quốc vương với Vũ-Đức vương, y chưa tìm ra được cách khống chế.
Gần đây Khai-Quốc vương uy trấn Hoa-Việt, y đành khoanh tay chờ đợi thời cơ. Đối với Vũ-Đức vương, tính tình bồng bột, y không coi vào đâu.
Vì những lý do đó, muôn ngàn lần Nhất-Trụ không dám xuất hiện, để mọi người biết y chính Đàm Can. Cũng vì vậy y phải trung thành với Nhật-Hồ lão nhân vì hai lý do. Một là y chờ lão chết. Khi lão chết y là đại đệ tử, đương nhiên kế vị lão lên làm giáo chủ. Chứ bây giờ lão rút về qui ẩn, người thừa kế không ai khác hơn Lê Ba. Hai là y sợ lão cho mọi người biết Đàm Can, Nhất-Trụ cùng một, ắt y mất tất cả.
Còn Đặng Trường tuy đóng vai nhị đệ tử của Nhật-Hồ lão nhân. Nếu lão qui ẩn, y cũng không thể kế vị làm giáo chủ. Vì y ẩn thân trong phái Đông-a, bắt Cao Huyền-Nga làm cây thuốc, gây ra mối hận kinh thiên động địa với phái này. Cuối cùng chỉ còn mình Lê Ba có thể kế ngôi giáo chủ.
Hóa cho nên Lê Ba rủ Nhất-Trụ chống Nhật-Hồ, đời nào y chịu?
Lê Ba tính nhẩm:
- Muốn cho Nhật-Hồ lão nhân rút lui, mình phải diệt chân tay y cùng tên Nhất-Trụ này mới được.
Nghĩ vậy y tiến tới gần Nhật-Hồ lão nhân:
- Sư phụ. Được, đệ tử thuận qui phục sư phụ để làm phó giáo chủ.
Thình lình y dùng một thế hổ trảo chụp Nhất-Trụ. Y ra tay như sét nổ, Nhất-Trụ kinh hoàng bật lui lại, nhưng kình lực của Lê Ba làm bay chiếc khăn che mặt y. Đắc thế rồi, Lê Ba nhảy lui lại. Y nói lớn:
- Đại ca, mong đại ca bỏ khăn ra cho quần hùng biết rõ đại ca một chút.
Quần hùng thấy mặt Đàm Can, cùng kinh ngạc kêu lên:
- Đàm quốc cữu.
Thuận-Thiên hoàng-đế kinh hoàng đến ngơ ngẩn cả người. Ngài hỏi Nhất-Trụ:
- Đàm quốc cữu! Người sao lại thành Vũ Nhất-Trụ ư?
Đàm Can lạnh lùng:
- Đúng thế. Bệ hạ ngạc nhiên ư? Thần đã làm trưởng lão Hồng-thiết giáo trước khi làm tướng cho vua Lê đánh Tống ở Chi-lăng. Tuy thần làm trưởng lão Hồng-thiết giáo, nhưng vẫn một dạ trung thành với triều đình.
Y chỉ mặt Lê Ba:
- Mi ra tay ám toán ta, hôm nay mi phải cùng ta một mất một còn.
Nói rồi Nhất-Trụ vung chưởng tấn công Lê Ba. Chưởng của y cực kỳ hùng hậu. Lê Ba cười nhạt vung tay đỡ. Ầm một tiếng, lễ đài rung rinh như sắp đổ xuống.
Nhật-Hồ bảo Phạm Trạch:
- Người hãy bắt tên Hoàng Văn mở mặt nạ ra cho chúng nhân biết y là ai.
Phạm Trạch lạng mình một cái, y dùng một thế ưng trảo chụp vào mặt Hoàng Văn. Hoàng Văn trầm người tránh khỏi. Y tung một chưởng vào ngực Phạm Trạch. Phạm Trach nhảy lui lại, đẩy ra một chưởng đỡ. Binh một tiếng, chưởng phong đánh bay khăn che mặt Hoàng Văn thành từng mảnh như bươm bướm lượn khắp đài.
Quần hùng lại một phen la hoảng, vì y chính là Trương Yêm, một lão già ôn nhu văn nhã, không vợ, không con, làm quản gia trong phủ Khai-Thiên vương. Tuy làm quản gia, nhưng gần như y đóng vai cố vấn của vương. Võ công y rất cao. Y lại giao du rất thân với võ lâm. Vì vậy ai cũng biết mặt y. Bây giờ y thành Hoàng Văn, một trưởng lão của Hồng-thiết giáo, giết người không gớm tay.
Nhật-Hồ lão nhân hô lớn:
- Ngừng tay.
Nhất-Trụ, Lê Ba, Hoàng Văn, Phạm Trạch cùng thu chưởng nhảy lùi lại. Đúng lúc đó Nhật-Hồ lão nhân vọt lên cao, tung ra một chưởng. Chưởng phong bao trùm bốn người. Cả bốn người rùng mình, rồi lảo đảo ngã xuống.
Dưới đài, Thanh-Mai hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
- Đỗ phu nhân! Cái gì vậy?
Đỗ Lệ-Thanh thở dài:
- Nhật-Hồ lão nhân thấy rằng muốn khống chế Lê Ba, Hoàng Văn thực không phải dễ. Nếu để bốn trưởng lão giao chiến, ít nhất chết mất hai. Vì vậy lão hô ngừng tay. Giữa lúc mọi người thu chưởng về, lão tung độc dược ra. Bốn người bị chính chưởng lực của mình đem chất độc về thân thể. Lão thành công.
Nhật-Hồ lão nhân tiến đến bên Vũ Nhất-Trụ, Phạm Trạch. Lão vung tay một cái, hai viên thuốc bay ra trúng vào huyệt Bách-hội hai người. Hai người rùng mình, rồi đứng dậy:
- Đa tạ sư phụ.
Nhật-Hồ lão nhân bảo Đặng Trường:
- Mi có lột khăn bịt mặt ra hay phải đợi ta?
Đặng Trường còn chần chờ, Nhật-Hồ lão nhân vung tay phóng ra một chưởng. Đặng Trường lùi lại chuyển tay đỡ. Bình một tiếng. Y thoái lui liền bốn bước. Khí huyết trong người y đảo lộn.
Nhật-Hồ lão nhân cười nhạt:
- Ta mới vận có năm thành công lực.
Nói rồi lão vận khí, phóng một chưởng nữa. Đặng Trường biết chưởng này rất mãnh liệt. Y vận đủ mười thành công lực đỡ. Bình một tiếng. Y bật lui liền bốn bước. Đúng lúc đó Nhật-Hồ lão nhân tung ra một đám phấn trắng. Đặng Trường hít phải, người y lảo đảo, ngã ngồi xuống cạnh Lê Ba.
Đệ tử phái Đông-a đều đã biết vụ Đặng Trường ẩn trong phái, bị Trần Kiệt bắt trao cho Khu-mật viện. Cho nên họ thấy mặt thực của y, đều thản nhiên như không.
Nhất-Trụ, Phạm Trạch xách bọn Xích-Thập, Lê Đức để cạnh Lê Ba, Đặng Trường, Hoàng Văn. Y hướng vào đám đệ tử Hồng-thiết giáo nói lớn:
- Năm tên này phản giáo, đã bị giáo chủ bắt sống. Ai làm tội, người ấy chịu. Giáo chúng thuộc nhóm trưởng lão phản giáo đều vô tội.
Năm trưởng lão Hồng-thiết giáo cùng bị trúng độc. Mỗi người bị trúng một cách khác nhau. Nhưng họ cùng giống nhau một điểm là đau đớn cùng cực, chân tay run rẩy, miệng la hét như người điên.
Nhật-Hồ vẫy tay gọi Ngô Bách-Vân:
- Bách-Vân, mi đến đây!
Bách-Vân run run:
- Đệ tử nguyện theo sư phụ.
Nhật-Hồ búng tay một cái, viên thuốc mầu đỏ trúng giữa trán Bách-Vân. Y thị choáng váng, ngã ngồi xuống cạnh Lê Ba.
Nhất-Trụ hỏi Bảo-Hòa:
- Trần cô nương. Cô nương mới được phong trưởng lão. Cô nương có qui phục giáo chủ hay để chúng ta phải ra tay?
Trong tâm Nhật-Hồ nghĩ rằng Bảo-Hòa là con lão, lão mở cho nàng một con đường sống:
- Trần trưởng lão. Nếu người có thể chống được với một trong các trưởng lão bậc trên một trăm chưởng, ta sẽ tha tội phản giáo cho người.
Bảo-Hòa cười nhạt:
- Không biết trưởng lão nào giáo huấn người sư muội này đây?
Phạm Trạch bước ra:
- Ta xin lĩnh giáo cao chiêu của sư muội.
Phạm Trạch định phát chiêu bỗng y nghe tiếng Nhật-Hồ dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai:
- Phạm trưởng lão! Tuyệt đối không được đả thương vị tiểu cô nương này. Chỉ đấu cầm chừng thôi.
Phạm Trạch nghe Nhật-Hồ lão nhân ra lệnh. Y vung tay đánh một chiêu về phía hông Bảo-Hòa. Bảo-Hòa mỉm cười phát chiêu Thanh ngưu qui gia phản công. Bình một tiếng. Phạm Trạch loạng choạng lui lại. Quảng trường bật lên những tiếng la kinh ngạc. Vì ai cũng biết võ công y cực kỳ cao siêu.
Từ chiêu Thanh-ngưu qui gia, Bảo-Hòa chuyển sang chiêu Ngưu thực ư dã. Trong mười chiêu đầu, nàng có vẻ yếu thế. Sang chiêu thứ mười một, nàng bắt đầu chiếm được thượng phong. Cứ mỗi chiêu nàng đánh ra, Phạm Trạch phải lui lại một nước.
Lúc đầu, Phạm Trạch không giám vận hết công lực, vì Nhật-Hồ lão nhân dặn y không được đả thương nàng. Bây giờ dù y cố gắng, cũng không chạm đến vạt áo nàng được, chứ đừng nói đả thương. Bản lĩnh Phạm Trạch không kém Đỗ Xích-Thập làm bao. Vì vậy Bảo-Hòa chưa đàn áp nổi y.
Phạm Trạch càng đấu, càng yếu thế. Y nghĩ thầm:
- Hay Nhật-Hồ lão nhân muốn hại ta như Phạm Hổ? Ta phải cẩn thận mới được, bằng không e táng mạng hôm nay không chừng.
Nghĩ vậy không nhân nhượng nữa, y vận Hồng-thiết công. Chưởng phong đánh ra, có mùi tanh hôi khủng khiếp. Bảo-Hoà ứng phó rất nhanh, nàng biến chưởng thành chỉ. Lĩnh-Nam chỉ rít lên vo vo, xuyên thủng chưởng của Phạm Trạch.
Phạm Trạch nhớ lại cuộc đấu giữa Bảo-Hòa với Đỗ Xích-Thập. Xích-Thập dùng bất cứ vũ khí nào, cũng bị Lĩnh-Nam chỉ đánh gẫy. Nhưng xử dụng Lĩnh-Nam chỉ tiêu hao rất nhiều công lực. Y nghĩ thầm:
- Đã vậy ta cứ dằng dai, cho con nhỏ này kiệt lực rồi ra tay giết chết. Nghe Lê Ba nói, y theo học với Hồng-thiết Tây-dương giáo chủ, mà sao không thấy y thị dùng độc chưởng?
Bảo-Hòa thấy Phạm Trạch đánh cầm chừng , nàng hiểu ngay chủ ý của y, nhưng không biết làm sao đối phó. Chợt có tiếng Trần Tự-An dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai:
- Cháu Bảo-Hòa. Cháu vận chân khí ra sáu kinh âm để hộ vệ cơ thể. Sau đó dùng Thủ-dương-minh đại trường kinh phát Lĩnh-Nam chỉ tấn công y.
Bảo-Hòa tỉnh ngộ. Nàng chửi thầm:
- Mình đáng chết thực. Hôm đến Thiên-trường, Trần sư bá cùng Đỗ Lệ-Thanh phát minh ra phương pháp chống Chu-sa Nhật-hồ chưởng, rồi dạy cho Thanh-Mai, Mỹ-Linh với mình. Ban nãy Trần sư bá dùng phương pháp đó thắng Xích-Thập. Thanh-Mai thắng Nguyên-Hạnh. Tại sao mình không dùng để thắng tên Phạm-Trạch này.
Nghĩ đến đâu, chân khí tòng tâm phát ra. Khí sáu kinh âm bao phủ khắp cơ thể. Trong khi đó, nàng dẫn khí về Đốc-mạch đưa lên huyệt Đại-trùy rồi đưa vào Thủ-dương-minh đại trường kinh phát ra ở huyệt Thương-dương rít lên vo vo.
Trong khi đó, chưởng của Phạm-Trạch vẫn phát ra đều đều. Lĩnh-Nam chỉ xuyên vào giữa chưởng của y, đem theo độc khí trúng vào ngực y đến bộp một tiếng. Y đau đớn, nhăn nhó, chỉ thứ nhì xuyện thủng chưởng của y trúng vào vai y. Y loạng choạng lui lại.
Sau khi trúng hai chỉ, y nhảy nhót tránh né, không để bị thọ thương nữa. Khoảng nhai dập miếng trầu, y cảm thấy vai tê, ngực nặng chĩu, đau đớn vô cùng. Bất giác y bật lên tiếng ái. Chân tay mất hết lực, y ngã ngồi xuống, toàn thân run lẩy bẩy.
Nhật-Hồ lão nhân mỉm cười:
- Trần cô nương xuất thân đệ tử của giáo chủ Hồng-thiết Tây-dương có khác. Độc chưởng của cô nương lợi hại thực.
Bảo-Hòa bị Khai-Quốc vương bắt phải đóng vai Trần Quỳnh-Hoa, chứ nàng nào có biết độc chưởng gì đâu? Sở dĩ Phạm Trạch ra nông nỗi ấy, vì nàng áp dụng phương pháp của Trần Tự-An đẩy chất độc ngược lại người của Phạm Trạch.
Nhật-Hồ lão nhân đến trước Phạm Trạch. Lão vận Hồng-thiết công, vung tay vỗ lên đầu y, để giải Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng. Sau khi lão vỗ xong, Phạm Trạch hét lên như con lợn bị thọc huyết, rồi lăn lộn trên đài.
Quần hùng nhìn Phạm Trạch, thấy tình trạng y giống Xích-Thập, đều tự hỏi:
- Tại sao Trần Quỳnh-Hoa lại biết xử dụng phương pháp của phái Đông-a?
Nhật-Hồ lão nhân là một đại tôn sư võ học, kinh nghiệm có thừa. Từ lúc Bảo-Hòa xuất hiện, lão đã có nhiều nghi vấn. Tại sao nàng mới từ Tây-dương trở về, lại phải mang mặt nạ? Tại sao nàng sang Tây-dương từ nhỏ, làm thế nào nàng có thể xử dụng Phục-ngưu thần chưởng, Lĩnh-Nam chỉ pháp tới chỗ cực kỳ tinh diệu? Tại sao nàng không biết gì về Chu-sa độc chưởng. Cho nên chưởng phong của nàng phát ra không có mùi hôi tanh. Bây giờ nàng lại xử dụng phương pháp của Trần Tự-An đẩy chất độc trở lại người Phạm Trạch?
Lão nghĩ thầm:
- Không biết con nhỏ này lý lịch ra sao? Không chừng ta lọt vào cạm bẫy của Khu-mật viện Đại-Việt cũng nên.



<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.01.2005 01:32:18 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 13.01.2005 18:19:39 (permalink)
    Hồi thứ sáumươi bẩy


    Chính tà quyết đấu


    Nhật-Hồ lão nhân hỏi Bảo-Hòa:
    - Trần cô nương! Có thực cô nương theo học với Tây-dương Hồng-thiết giáo chủ chăng?
    Bảo-Hòa nghĩ:
    - Thân thế ông ngoại, ông nội, mạ mạ cao biết mấy, mà mình lại nhận làm học trò tên Tây-vực giáo chủ, một đại ma đầu ư? Nhất định ta không nhận. Dù cậu hai trách mắng, đã có ông ngoại bênh.
    Có tiếng Tôn Đản dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai nàng:
    - Chị Bảo-Hòa, trêu cho lão tức điên người lên, để làm trò cười cùng quần hùng.
    Gì chứ, chọc phá thiên hạ, Bảo-Hòa rất giỏi. Từ thầy trò Địch Thanh cho đến Hồng-Sơn đại phu, nàng đều đã trêu qua. Mới đây, Bố-Đại hòa thượng nàng còn gọi bằng danh tự Thầy chùa ăn thịt chó. Xá gì lão Nhật-Hồ. Huống chi trong Thuận-Thiên cửu hùng, Bảo-Hòa thích nhất Tôn Đản. Nghe em xui, nàng mỉm cười. Nàng trả lời lơ lớ:
    - Tây-phương giáo chủ ư? Ông ta tên gì?
    - Bát-Nặc.
    Bảo-Hòa ngơ ngẩn:
    - Tiên sinh nói sao? Bát-Nạt à? À chắc lão nhân gia còn có tên Ba-Bị. Ông Ba-Bị hay bắt nạt trẻ con. Vì vậy trẻ nhỏ thường hát:

    Ông Ba-Bị,
    Chín quai,
    Mười hai con mắt.
    Bắt trẻ bỏ bị.


    Nhật-Hồ lão nhân tưởng Bảo-Hòa mới ở Tây-vực về, không thạo tiếng Việt. Lão nhắc lại:
    - Tên Hồng-thiết giáo chủ Tây-dương theo Trung-quốc đọc thành Bát-Nặc. Nếu theo tiếng Tây-dương thành Xẹp-Lép.
    Bảo-Hòa lắc đầu:
    - Xẹp-Lép? Tên gì mà kỳ vậy?
    Vũ Nhất-Trụ nhắc Nhật-Hồ:
    - Trình sư phụ, giáo chủ Xẹp-lép đã về với thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh lâu rồi. Giáo chủ Tây-dương hiện thời đại danh Gọt-tam-Hổ.
    Bảo-Hòa để tay lên tai làm bộ điếc:
    - Gọt-tam-Hổ à? Chắc ông làm nghề gọt đầu cọp hẳn? Ừ sao có nghề lạ lùng thế nhỉ.
    Nhật-Hồ lão nhân không nhịn được nữa, lão quát lên:
    - Cô nương tên gì? Con nhà ai?
    - Lão gia muốn biết tên người trên tôi hả? Cụ ngoại tôi tu đắc đạo thành Bồ-tát. Xin lão gia đoán xem người tên gì?
    Nhật-Hồ cau mặt:
    - Vô lý, người đi tu thành Bồ-tát, sao lại có con, mà thành cụ ngoại? Họa chăng ông ta là sư hổ mang.
    Bảo-Hòa càng trêu già:
    - Sao lại không? Đức Thích-ca Mâu-ni chẳng có vợ, có con rồi mới đi tu sao? Trong mười đại đệ tử của ngài, hầu hết đều có vợ có con, rồi mới đi tu. Sau thành Bồ-Tát hết.
    - Thế ông cô nương cao danh quý tính là gì?
    - Ông ngoại tôi, một người nhân từ nhất thế gian. Yêu dân Việt hơn yêu mẹ tôi. Ông nội tôi, danh vang bốn bể. Bố tôi, một người đạo đức ít có. Còn mẹ tôi ư? Mẹ tôi quanh quẩn gần lão nhân đó.
    Nhật-Hồ tức muốn điên lên được, lão quát:
    - Cô nương không chịu trả lời ta. Ta giết cô nương tức khắc.
    Bảo-Hòa cực kỳ can đảm, nghe lão đe dọa, nụ cười tắt trên môi. Nàng cười nhạt:
    - Lão định giết tiểu nữ ư? Khó lắm.
    Biết sự thể không dấu diếm được nữa, nàng lột mặt nạ ra. Đang từ một cô gái xấu xí kinh khiếp, Bảo-Hòa trở lại một thiếu nữ xinh đẹp, khuôn mặt sáng như trăng rằm.
    Quần hùng bật lên tiếng la, tiếng huýt sáo, tiếng vỗ tay.
    Nhật-Hồ hỏi Bảo-Hòa:
    - Thì ra cô nương làm gian tế, tiềm ẩn trong bản giáo. Cô nương có biết rằng những gian tế trong bản giáo, sẽ bị hình phạt khủng khiếp như thế nào không?
    Bảo-Hòa mỉm cười:
    - Giáo chủ nói lạ. Từ lúc tiểu nữ xuất hiện, tự nhiên trưởng lão Lê Ba rồi giáo chủ, cứ gọi tiểu nữ bằng tên Trần Quỳnh-Hoa, rồi ghép cho tiểu nữ vào làm đệ tử của Hồng-thiết giáo chủ Tây-phương. Trong khi chính tiểu nữ nói ra rằng tiểu nữ học nghệ với sư bá Đặng Đại-Khê phái Tản-viên. Rồi bây giờ giáo chủ bảo tiểu nữ làm gian tế. Giáo chủ ơi! Sao giáo chủ lại quá vô lý như vậy?
    Nhật-Hồ ôn lại từ đầu, quả Bảo-Hòa chưa từng xưng tên Trần Quỳnh-Hoa, cũng không hề nhận liên hệ, hay đệ tử Hồng-thiết giáo. Lão biết nàng chỉ nhân bọn lão lầm, rồi nương theo mà thôi. Lão hỏi:
    - Thế cô nương có biết Trần Quỳnh-Hoa hiện ra sao? Cô nương khuê danh là gì?
    Bảo-Hòa không trả lời vào câu hỏi của lão. Nàng đánh trống lảng:
    - Giáo chủ. Giáo chủ sai Phạm trưởng lão đấu với tiểu nữ. Bây giờ Phạm trưởng lão bị bại. Vậy giáo chủ có còn đòi làm vua nữa chăng? Giáo chủ hẹn đấu ba cuộc với võ lâm Đại-Việt. Nếu bên giáo chủ thắng hai, võ lâm phải tôn giáo chủ lên làm vua. Còn ngược lại, giáo chủ sẽ qui phục triều đình. Trận đầu, Trần đại hiệp thắng Đỗ trưởng lão. Trận thứ nhì tiểu nữ thắng Phạm trưởng lão. Như vậy võ lâm Đại-Việt thắng. Giáo chủ là đại tôn sư võ học. Xin giáo chủ giữ lời hứa cho.
    Mặt Nhật-Hồ lão nhân xám như tro. Lão dơ tay:
    - Nếu cô nương không chịu cho lão biết thân thế cô nương, cô nương đừng trách lão không nương tay.
    Bảo-Hòa cười khúc khích:
    - Tôi đã khai rồi, mà lão nhân gia không tin ư? Cụ ngoại tôi họ Lý, húy Khánh-Vân, một Bồ-tát đắc đạo. Ông ngoại tôi, hiện làm Thuận-Thiên hoàng-đế, nhân từ, yêu dân Việt hơn yêu mẹ tôi. Có đúng thế không? Mẹ tôi là vua Bà Bắc-biên, đang ngồi gần lão tiên sinh đấy thôi! Còn tên ư? Tôi họ Thân, tên Bảo-Hòa.
    Nàng đến trước Thuận-Thiên hoàng-đế hành đại lễ, rồi cất tiếng:
    - Ngoại công! Cháu chúc ngoại công tâm an thần tĩnh.
    Trước đây Mỹ-Linh đánh bại Đông-Sơn lão nhân, rồi nàng xưng là cháu nội của Thuận-Thiên hoàng-đế, võ lâm đã một lần kinh ngạc. Bây giờ Bảo-Hòa thắng ba trưởng lão Hồng-thiết giáo, rồi lại gọi Hoàng-đế bằng ông ngoại. Quần hùng lại một phen kinh ngạc đến ngẩn người ra.
    Thuận-Thiên hoàng-đế có mười ba công chúa, vì vậy quần hùng không biết nàng do công chúa nào sinh ra?
    Bảo-Hòa đến trước vua Bà Bắc-biên quỳ gối hành đại lễ:
    - Mạ mạ! Mạ mạ thấy con đánh có được không?
    Vua Bà Bắc-biên tát yêu con gái:
    - Con ngoan lắm, thực không uổng công bố mẹ sinh thành dạy dỗ.
    Nhật-Hồ lão nhân cùng quần hùng thấy Bảo-Hòa gọi công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hòa bằng mạ mạ, lão biết nàng quả đúng con của vua Bà Bắc-biên.
    Bảo-Hòa nói với Nhật-Hồ lão nhân:
    - Lão tiên sinh! Lão tiên sinh về đi thôi. Cái ngôi vua không đến với lão nhân đâu. Tiểu nữ nghĩ lão tiên sinh nên truyền ngôi cho đệ tử, rồi về nghỉ ngơi, hưởng an nhàn chẳng thú lắm sao?
    Nhật-Hồ lão nhân cười khổ sở:
    - Ta muốn về nghỉ, nhưng ngặt vì không có người nào luyện thành Hồng-thiết thần công hầu giải độc chưởng cho giáo chúng, nên vẫn phải ngồi lại ngôi giáo chủ.
    Tiếng Khai-Quốc vương dùng Lăng-không truyền ngữ như sợi tơ rót vào tai Bảo-Hoà:
    - Khen ngợi lão, khích lão nhường ngôi giáo chủ cho Nhất-Trụ, vì y hiện mất hết uy tín. Y có lên ngôi giáo chủ, cũng không có giáo chúng theo y.
    Bảo-Hòa nghe cậu nói, nàng nghĩ thêm được một kế:
    - Giáo chúng Hồng-thiết đa số là người yêu nước, nhiệt tâm với dân, mà lâm vào hoàn cảnh dở sống, dở chết. Ta phải cứu họ mới được. Hiện anh Thiệu-Thái có khả năng giải Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng. Vậy ta gài bẫy để lão truyền ngôi cho Nhất-Trụ, trong khi giáo chúng lại thuộc Lê Ba. Sau đó anh Thái xuất hiện giải độc cho giáo chúng, thu phục nhân tâm, để họ có thể đem tài năng ra giúp nước.
    Nghĩ vậy, Bảo-Hòa hướng vào giáo chúng Hồng-thiết giáo, nàng vận nội lực nói thực lớn:
    - Anh em giáo chúng. Giáo chủ lão nhân gia có võ công cao nhất Đại-Việt. Lão nhân gia đem Hồng-thiết giáo vào Trung-quốc cũng như Đại-Việt. Hồng-thiết giáo chủ trương giúp người nghèo, chúng nhân bình đẳng. Cho nên anh em mới quyết tâm gia nhập giáo. Hy sinh tính mệnh cho giáo. Nhưng trong hai mươi năm qua, giáo chủ vắng mặt, giáo chúng không người cầm đầu, thành ra có nhiều hỗn loạn. Bây giờ giáo chủ muốn về nghỉ ngơi, hưởng nhàn, nhưng lão nhân gia còn muốn tìm một người học được phép giải Hồng-thiết độc chưởng cho anh em giáo chúng, rồi mới qui ẩn.
    Nàng hỏi Nhật-Hồ:
    - Thưa giáo chủ. Tại sao phải có người đủ khả năng hoá giải Hồng-thiết độc công cho anh em giáo chúng, giáo chủ mới truyền ngôi? Tiểu nữ nghĩ, giáo chủ cứ tạm truyền cho một vị trưởng lão nào đó. Sau đấy giáo chủ truyền Hồng-thiết mật công cho tân giáo chủ chẳng hay ư? Theo tiểu nữ nghĩ, giáo chủ nên truyền ngôi cho đại đệ tử của người, hầu danh chính ngôn thuận.
    Nhật-Hồ thấy Bảo-Hoà là cháu ngoại Thuận-Thiên hoàng đế, mà lại khẩn thiết yêu cầu lão truyền ngôi cho Đàm Can, kẻ phản bội họ Lý, hẳn có mưu kế gì. Lão cười nhạt:
    - Cô nương! Cô nương giết chết một trưởng lão bản giáo, lại làm cho một trưởng lão bị trúng độc. Lão phu làm giáo chủ, không thể bỏ qua vụ này. Bây giờ nếu cô nương đỡ được của lão phu ba chưởng, lão sẽ không truy cứu tội cô nương. Lão phu nguyện rút lui, không tranh ngôi vua với Lý Công-Uẩn nữa.
    Bảo-Hòa cực kỳ gan dạ, can đảm bậc nhất trên thế gian. Hồi ở Thanh-hóa, tuy biết võ công kém xa Triệu Anh, nàng cũng dám so tay với y. Nay thấy Nhật-Hồ nói vậy, nàng nghĩ:
    - Ta biết rằng công lực chưa đủ, muôn ngàn lần không thể đỡ được ba chưởng của lão. Nhưng ta cứ cố gắng. Bất quá ta chết là cùng. Ta chết, mà lão không tranh ngôi vua nữa, đỡ tốn hao biết bao nhiêu xương máu!
    Nghĩ vậy nàng nói:
    - Tiểu nữ xin nhận lĩnh ba chiêu của đại tôn sư võ lâm Lĩnh-Nam.
    Quần hùng ào lên những tiếng bàn tán, rồi im lặng theo dõi.
    Bảo-Hoà vận đủ mười thành công lực, phát chiêu Ác ngưu nan độ tấn công lão. Nhật-Hồ lão nhân thấy nàng dám tấn công mình, lão mỉm cười vung chưởng đỡ. Binh một tiếng, Bảo-Hòa bật lui liền ba bước, cánh tay nàng muốn tê liệt, tai phát ra tiếng kêu o o không ngừng. Nàng loạng choạng ngã ngồi xuống đài, miệng ri rỉ chảy máu ra hai bên mép. Nàng hít một hơi chân khí, nghiến răng chịu đau, từ từ đứng dậy.
    Thấp thoáng một cái, Trần Tự-An đã đứng trước mặt nàng. Ông chắp hai tay vào nhau:
    - Giáo chủ, tại hạ xin thay quận chúa Bảo-Hoà lĩnh hai chiêu còn lại của giáo chủ.
    Nhật-Hồ thấy Tự-An chế ra được phương pháp khắc chế Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng của lão, cũng có ý hơi gờm. Lão cười:
    - Trần đại hiệp. Khi lão phu tranh phong thiên hạ với vua Đinh, dường như đại hiệp chưa ra đời thì phải. Lão phu hứa với quận chúa Bảo-Hòa sẽ rút lui, nếu nàng đỡ được ba chưởng của lão phu, chứ lão phu có hứa với đại hiệp đâu? Nếu đại hiệp muốn qua lại mấy chiêu với lão phu, xin chờ.
    Bảo-Hoà hướng Tự-An:
    - Sư bá, xin sư bá để cháu lĩnh hai chiêu nữa của giáo chủ.
    Nhật-Hồ cười nhạt:
    - Ta mới vận có ba thành công lực, cũng chưa vận độc chưởng.
    Bảo-Hòa biết thế, nhưng nàng vẫn không lui, không sợ, tay chuyển sang chiêu Ngưu tẩu như phi, nàng vận âm kình, dương kình hỗn hợp. Vù một tiếng nữa, người nàng bay bổng lên cao, rồi rơi xuống giữa đài, chân tay gần như tê liệt hoàn toàn. Nàng không ngồi dậy được nữa.
    Toàn thể quảng trường im lặng, quan sát cuộc đấu kỳ lạ. Tất cả đều khâm phục can đảm của Bảo-Hòa.
    Qua chưởng thứ nhì, Nhật-Hồ thấy công lực Bảo-Hòa đang từ dương sang âm, hoá giải hết kình lực cũa lão. Trong người lão như bị hàng trăm cái kim đâm vào. Lão kinh hãi nghĩ:
    - Hèn gì hai đệ tử mình bại về con nhỏ này. Không biết nó học đâu được chiêu Phục-ngưu thần chưởng âm dương hỗn hợp này?
    Trên đài, Bảo-Hoà nằm thẳng cẳng, nàng nghiến răng chịu đau, quằn quại, hít một hơi, rồi từ từ ngồi dậy. Miệng nàng thở hồng hộc:
    - Lão nhân! Còn một chưởng nữa! Xin lão nhân tiếp lấy.
    Nàng nói hết câu đó, người lảo đảo muốn ngã.
    Thình lình một đám mây vàng thoáng bay qua khán đài như một tia sáng, rồi biến đi. Bảo-Hoà thấy như có ai vỗ vào lưng nàng. Bao nhiêu cái đau đớn biến mất. Mọi người đều hoa mắt lên, rồi bóng vàng biến mất. Họ định thần lại, thấy Bảo-Hoà đã đứng dậy. Bảo-Hoà biết có một cao nhân nào đó, dùng thần công thượng thừa truyền vào người nàng. Thân pháp người này mau quá, nàng không nhận ra ai. Qua tấm áo vàng giống áo cà sa, nàng đoán có lẽ Minhh-Không hoặc Huệ-Sinh., Nhưng nàng chợt nghĩ lại không phải, vì thủy chung hai vị vẫn ngồi tại chỗ. Một mùi trầm phát ra quanh nàng thoang thoảng. Nàng bật cười:
    - Thì ra Bố-Đại hoà thượng.
    Bố-Đại hoà thượng qua đài cứu Bảo-Hoà, ngài dùng một thứ kinh công thượng thừa, chỉ những loại võ công cao như Đại-Việt ngũ long mới nhìn rõ. Còn Nhật-Hồ đúng ra lão cũng nhìn thấy, nhưng vì tuổi cao, mắt kém, nên lão biết có người cứu Bảo-Hoà, mà không nhận ra ai. Lão nghĩ rất nhanh:
    - Chỉ còn một chiêu nữa. Nếu mình nhân nhượng, bao nhiêu công lao vứt đi hết.
    Nhật-Hồ lão nhân không cho nàng phát chiêu thứ ba. Lão phóng một chưởng chụp lên đầu nàng. Nàng thấy chưởng phong ụp xuống đầu, vội vận đủ mười thành công lực đỡ. Nhưng chưởng của lão chưa phát ra hết, nàng đã bị quay tròn như con quay.
    Đặng Đại-Khê ngồi gần nàng nhất. Liên hệ tình thầy trò, khiến ông quên nguy hiểm, ông phát một chiêu bằng tất cả công lực của mình đỡ cho nàng. Bình một tiếng, Đặng Đại-Khê, Bảo-Hòa cùng ngã lăn trên sàn.
    Nhật-Hồ lão nhân cười nhạt:
    - Hai người trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng rồi. Mau quỳ xuống lạy ta, tôn ta làm sư phụ, ta sẽ ban thuốc giải cho.
    Đại-Khê, Bảo-Hòa cùng cảm thấy đau đớn, rét run lên. Nhưng hai người nghiến răng chịu đau, không kêu than. Bảo-Hoà từ từ ngồi dậy, nói:
    - Giáo chủ! Tiểu nữ đã đỡ được ba chưởng của giáo chủ. Mong giáo chủ giữ lời hứa.
    Đến đó hai hàm răng nàng chạm vào nhau kêu lộp cộp. Thuận-Thiên hoàng-đế thấy đứa cháu ngoại nhất tâm, nhất chí bảo vệ ngôi vua cho mình, mà phải chịu đau đớn cùng cực, long tâm nhũn ra, ngài nghĩ thầm:
    - Ta có năm con trai, mười ba con gái, nhưng chỉ có Bồ nhi chịu hy sinh cho ta. Bồ nhi truyền dạy tinh thần này cho Mỹ-Linh, Bảo-Hòa. Dù Hồng-Sơn đại phu không áp lực, ta cũng phải truyền ngôi cho Bồ nhi.
    Vũ Nhất-Trụ móc trong túi ra viên thuốc, nói với Thuận-Thiên hoàng đế:
    - Bệ hạ. Nếu bệ hạ ân xá tội cho hạ thần, hạ thần sẽ trao thuốc giải cho đứa cháu ngoại bảo bối của bệ hạ.
    Thuận-Thiên hoàng đế thấy cháu đau đớn quá độ, ngài gật đầu:
    -- Đô nguyên soái. Nếu như thuốc này trị cho Bảo-Hòa hết đau, trẫm sẽ ân xá cho nguyên soái.
    Ngài tiếp viên thuốc, định trao cho Bảo-Hòa, bỗng nhiên ngài cảm thấy tay tê tê, rồi ngứa ngáy khó chịu. Ngài vội liệng viên thuốc vào người Nhất-Trụ:
    - Đồ hèn hạ. Mi đánh thuốc độc ta.
    Nói rồi ngài vung chưởng tấn công Nhất-Trụ. Nhất-Trụ lùi lại vung tay đỡ. Y cười lớn:
    - Công-Uẩn! Người trúng độc mà còn xử dụng võ công chỉ mau chết mà thôi.
    Thuận-Thiên hoàng-đế thấy tay sưng vù, lực đạo bị mất, ngài không còn phát chiêu được nữa.
    Vũ Nhất-Trụ phát một chưởng hướng ngài, trong chưởng phong có mùi tanh hôi khủng khiếp.
    Từ dưới đài, một người nhảy lên, thân pháp cực kỳ mau lẹ. Người đó phát một chưởng hướng Nhất-Trụ. Chưởng phong như có, như không. Nhất-Trụ thấy chưởng kỳ lạ, hơi phân tâm một chút, chưởng phong đã bao trùm người y. Y vội vọt lên cao, rơi xuống đài. Bây giờ y mới nhìn kỹ đối thủ, chỉ là một thiếu niên thân thể cực kỳ hùng vĩ, nhưng mặt đần độn, xấu xa khủng khiếp.
    Thiếu niên đó cầm lấy tay Thuận-Thiên hoàng-đế bóp một cái. Rồi vận khí hoá giải chất độc. Khoảng nhai dập miếng trầu, bao nhiêu cái ngứa, đau của ngài biến mất.
    Tuy Thiệu-Thái đã hoá trang, nhưng Thuận-Thiên hoàng-đế cũng nhận ra chàng. Ngài kinh ngạc vô cùng:
    - Không biết đứa cháu ngoại của ta học ở đâu được Thiền-công cao đến trình độ chỉ mó vào tay ta, mà đã đẩy được hết chất độc ra ngoài? Ta tưởng trên đời, chỉ có sư phụ Vạn-Hạnh thiền sư, mới luyên đến mức này mà thôi.
    Quần hùng thấy một thiếu niên mập mạp khinh công tuyệt cao, chỉ một chiêu hời hợt đánh bay Vũ Nhất-Trụ, rồi vuốt tay một cái hoá giải chất độc cho Thuận-Thiên hoàng-đế đều kinh ngạc vô cùng. Nhưng họ không biết chàng là ai.
    Thiệu-Thái vung tay phát một chưởng nhẹ nhàng hướng Đặng Đại-Khê. Ông đang nghiến răng đau đớn cùng cực, chưởng phong của chàng lướt qua, ông rùng mình một cái, bao nhiêu cái đau đớn biến mất.
    Ông mỉm cười:
    - Đa tạ thiếu hiệp.
    Thiệu-Thái lại phát một chiêu giải độc cho Bảo-Hòa. Bảo-Hòa rùng mình một cái, nàng đứng dậy, như không hề hấn gì.
    Nhật-Hồ lão nhân thấy Thiệu-Thái phát chiêu, rõ ràng công lực thuộc Thiền-công Tiêu-sơn, nhưng phương pháp hoá giải lại của Hồng-thiết giáo. Lão kinh ngạc:
    - Thiếu hiệp, phải chăng thiếu hiệp tên Trần Đông-Thiên, mới từ Tây-dương về? Công lực thiếu hiệp quả thực cao thâm khôn lường. Bản lĩnh hoá giải Hồng-thiết độc công của thiếu hiệp cao minh e không thua gì Tây-dương giáo chủ Hồng-thiết giáo. Thiếu hiệp cho lão phu biết cao danh quý tính, được chăng?
    Thiệu-Thái nhổ râu, vuốt mặt. Lớp sáp bao phía ngoài rơi ra hết. Chàng tới trước mặt Thuận-Thiên hoàng-đế quỳ gối hành đại lễ:
    - Ngoại công! Cháu ra tay cứu trị hơi trễ, để ngoại công kinh sợ, thực có tội.
    Chàng lại đến trước Thân Thiệu-Anh quỳ gối::
    - Nội tổ! Cháu ngu tối, không luyện hết được võ công gia truyền xin nội công tha tội.
    Chàng đến trước vua Bà Bắc-biên quỳ gối:
    - Mạ mạ! Con vấn an mạ mạ.
    Nói rồi chàng chắp tay đứng hầu sau Thuận-Thiên hoàng đế, mắt liếc nhìn Mỹ-Linh.
    Khai-Thiên vương vốn cực kỳ ác cảm với Thiệu-Thái, vì gương mặt chàng không lấy gì làm dễ coi, tướng ụt ịt như con lợn. Lại nữa, chàng đã đính hôn rồi, mà còn lè kè bên cạnh Mỹ-Linh.
    Trước đây, vì muốn tranh dành ảnh hưởng với các em, Vương định gả Mỹ-Linh cho Đàm An-Hoà. Vì Hoà là con Đàm Can, một khai quốc công thần, hiện có thế lực nhất triều đình. Can lại có đến năm con trai, bốn ngươi đang trọng nhậm ở ngoài.
    Hôm nghe Mỹ-Linh tường thuật về vụ Đàm An-Hoà vô phép với nàng ở Thanh-hoá. Vương không tin, cho rằng nàng bịa truyện, để có cớ gần Thiệu-Thái.
    Truyện Đàm Can tức Vũ Nhất-Trụ, cùng việc anh em An-Hoà phản triều đình, Khai-Quốc vương giữ kín, vì vậy Vương không biết gì. Hôm nay, nảy ra Đàm Can hoá ra Vũ Nhất-Trụ. Rồi Trụ công khai hại Thuận-Thiên hoàng-đế. Giữa lúc nguy nan, Thiệu-Thái hiển lộ bản lĩnh kinh thế hãi tục, đánh bay Nhất-Trụ, cứu mọi người. Bao nhiêu ác cảm của Vương với chàng biến mất.

    Nhật-Hồ lão nhân đã nhận ra được Thiệu-Thái là người cùng Mỹ-Linh đã cứu lão dưới hầm Cổ-loa. Lão nghĩ thầm:
    - Hôm trước thằng con lợn này với Mỹ-Linh đã chiết chiêu với Vũ Nhất-Trụ trong hầm Cổ-loa, công lực của nó cao hơn Nhất-Trụ một tý. Không hiểu sao mới mấy ngày qua, mà công lực nó đã cao đến trình độ này? Nó học ở đâu được Hồng-thiết mật công?
    Bảo-Hoà khỏi đau đớn, nàng đến trước Nhật-Hồ lão nhân, chắp tay thi lễ:
    - Giáo chủ. Tiểu nữ đã chịu đủ ba chưởng của giáo chủ. Vậy giáo chủ có còn tranh ngôi vua với ngoại công của tiểu nữ nữa chăng?
    Xảo quyệt, nói đấy, rồi lại nuốt lời đấy là bản lĩnh của Hồng-thiết giáo Tây-dương. Nhật-Hồ lão nhân cũng như các đệ tử đều làu thông Hồng-thiết kinh. Cho nên lão trở mặt:
    - Ta hứa rằng cô nương chịu ba chưởng của ta. Ta sẽ không tranh ngôi vua với Lý Công-Uẩn. Thế nhưng có lão thầy chùa nào đó giúp cô nương, một điều cô nương phạm lời ước. Tên ôn con Đặng Đại-Khê cũng giúp cô nương, hai điều cô nương phạm ước. Khi cô nương phạm lời giao ước, đừng đòi lão phu giữ lời hứa.
    Lão nói với Khai-Quốc vương:
    - Cứu lão phu ra khỏi cảnh tù đầy do công chúa Bình-Dương với Thân thế tử. Giúp đỡ, tha lão phu chính Vương-gia. Nhưng những ơn nghiã đó có tính cách cá nhân giúp cá nhân. Lão phu không thể vì chút ơn riêng mà bỏ đại cuộc. Mong Vương-gia đừng buồn.
    Lão nói đến đó, quần hùng nổi nóng, la hét vang trời. Đợi cho tiếng la hét giảm, Bảo-Hoà hỏi:
    - Thưa giáo chủ. Hồi đầu giáo chủ ước hẹn với võ lâm Đại-Việt đấu ba cuộc, bên nào thắng hai, coi như thắng cuộc. Hồng-thiết giáo thua hai cuộc coi như thua. Giáo chủ lại giao hẹn tiểu nữ chịu được ba chưởng của giáo chủ. Tiểu nữ chịu đủ ba chưởng. Nay giáo chủ nuốt lời, tiểu nữ e rằng chúng nhân thiên hạ khinh thường giáo chủ, như vậy giáo chủ có làm Vua cũng vô ích.
    Nhật-Hồ lão nhân vẫn cù nhầy:
    - Ba chưởng mà cô nương chịu với lão, do người ngoài giúp, coi như cô nương phạm ước. Bên cô nương thua cuộc. Bây giờ lão phu xin nhắc lại: Nếu như trong đám con cháu Lý Công-Uẩn, có ai chịu được của lão phu ba chưởng. Lão phu nhất định rời khỏi nơi đây cùng với giáo chúng.
    Quần hào im lặng, đưa mắt nhìn Thuận-Thiên hoàng đế. Thuận-Thiên hoàng đế nghĩ:
    - Y thách họ Lý, chứ không thách võ lâm. Trong các em, các con, không biết có người nào lớn gan như Bảo-Hoà không?
    Thuận-Thiên hoàng đế đưa mắt nhìn hoàng đệ Dực-Thánh vương. Vương cúi đầu xuống. Ngài đưa mắt nhìn Khai-Thiên vương. Vương im lặng lắc đầu. Cuối cùng ngài đưa mắt nhìn Khai-Quốc vương. Vương đứng dậy, hướng vào Nhật-Hồ:
    - Lão tiên sinh, tiểu bối xin xả thân bồi tiếp quân tử, nhận ba chưởng của tiên sinh.
    Vương vừa dứt lời thì vèo, vèo Thuận-Thiên cửu hùng bay lên đài, rồi đến Trần Tự-An, Đào Hà-Thanh, Hồng-Sơn đại phu, Lâm Huệ-Phương... Lại có cả Phủ-Van, Chế Ma-Thanh, Đoàn Huy. Tất cả đều muốn thay thế Khai-Quốc vương lĩnh ba chiêu của Nhật-Hồ lão nhân.
    Đào Hà-Thanh nghiêng mình thi lễ:
    - Giáo chủ, tiểu nữ bạo gan xin lĩnh ba chiêu của giáo chủ thay thế Khai-Quốc vương được chăng?
    Quần hùng thấy một thiếu phụ trẻ, nhan sắc khuynh quốc, tiếng nói thanh tao, đòi lĩnh ba chưởng thay thế Khai-Quốc vương. Họ kinh tâm động phách.
    Mọi người nghĩ thầm:
    - Cô này đi cạnh Trần Tự-An, hẳn thuộc phái phái Đông-a. Dù võ công Đông-a thần diệu đến đâu, mà thân thể cô thế kia, e Nhật-Hồ chỉ cần thổi một cái, cũng bay xuống đài, chứ đừng nói lão phóng chưởng.
    Nhật-Hồ lão nhân hỏi Đào Hà-Thanh:
    - Tiểu cô nương. Cô nương có phải con cháu họ Lý chăng?
    Hà-Thanh chỉ vào Trần Tự-An:
    - Không! Tiểu nữ họ Đào, làm dâu họ Trần. Phu quân của tiểu nữ chính vị này.
    Nhật-Hồ kinh hãi nghĩ:
    - Dù ta làm giáo chủ, dù ta làm Hoàng-đế cũng không nên gây hấn với tên Trần Tự-An. Để rồi cả đời không yên với nó.
    Nghĩ vậy lão nói:
    - Trần phu nhân. Phu nhân không biết võ công, chịu sao được ba chưởng của lão phu? Phu nhân không nên dại dột như vậy.
    Nhưng Đào Hà-Thành không lui, nàng tiến lên tát vào mặt Nhật-Hồ lão nhân. Nhật-Hồ lão nhân vốn người ác độc có một không hai trên thế gian. Lão giết người như chà chân vào ổ kiến. Nhưng lão được cái rất dịu dàng với phụ nữ. Lão nghĩ:
    - Tên Tự-An thực số đỏ. Y kiếm đâu được con vợ đẹp như thế này? Ta được nàng tát vào mặt còn gì sướng bằng?
    Lão để cho Hà-Thanh tát. Bốp một cái, lão cười:
    - Thực hân hạnh.
    Quần hùng thấy Hà-Thanh là vợ Tự-An, những tưởng võ công của nàng ít ra cũng bằng Thanh-Mai. Nào ngờ cái tát của nàng chứng tỏ nàng không biết chút võ nghệ nào.
    Đào Hà-Thanh tát liền hai cái nữa. Nhật-Hồ lão nhân thủy chung vẫn không đỡ, lão vuốt râu cười:
    - Đa tạ phu nhân.
    Đào Hà-Thanh cười:
    - Giáo chủ, tiểu nữ đã thay Khai-Quốc vương, chiết với giáo chủ ba chiêu rồi. Như vậy giáo chủ rút lui đi chứ?
    Nhật-Hồ lão nhân cười ha hả:
    - Lão phu thách là thách họ Lý, chứ không phải thách các vị. Nào ngờ trong họ Lý không ai có can đảm chịu nổi ba chưởng của lão phu, còn mong gì làm vua nữa?
    Khai-Quốc vương cảm động chắp tay hướng Trần Tự-An, Hồng-Sơn đại phu:
    - Đa tạ tiền bối cùng phu nhân. Giáo chủ thách họ Lý tại hạ. Thành ra uổng công các vị chiếu cố.
    Phò mã Đào Cam-Mộc bước lên đài:
    - Giáo chủ! Tiểu bối phò mã Đào-cam-Mộc, xin được lĩnh ba chiêu của giáo chủ.
    Nhật-Hồ cười ha hả:
    - Đào phò mã, người họ Đào, chứ có phải họ Lý đâu? Trời ơi, không còn ai giám lĩnh ba chưởng của lão phu. Chán thực.
    Mỹ-Linh rẽ mọi người bước tới trước mặt Nhật-Hồ:
    - Giáo chủ. Tiểu nữ xin lĩnh ba chiêu của giáo chủ.
    Trần Tự-An nhìn Mỹ-Linh nghĩ thầm:
    - Mỹ-Linh kiếm pháp thần thông, không biết có chịu nổi ba chiêu của lão ma đầu này không?
    Ông dắt Đào Hà-Thanh bước xuống đài cùng mọi người.
    Tự-Mai lo nghĩ cho Mỹ-Linh, nó nói với Nhật-Hồ:
    - Giáo chủ! Giáo chủ nhớ giữ lời hứa, chỉ ba chiêu thôi nhé. Tại hạ xin đứng đây đếm.
    Nhật-Hồ lão nhân vuốt râu cười nhạt:
    - Lão phu lớn tuổi hơn công chúa, xin nhường công chúa ra tay trước.
    Mỹ-Linh biết trận đấu này cực kỳ quan trọng. Nếu nàng thua, e Hồng-thiết giáo sẽ còn gây nhiều rắc rối. Cuối cùng, võ lâm phải một phen đổ máu. Tinh lực Đại-Việt do đó mất đi rất nhiều. Vì vậy nàng không nhân nhượng, tay rút kiếm tung ra chiêu số rất ảo diệu. Kiếm đưa thẳng vào cổ Nhật-Hồ lão nhân. Lão né sang trái tránh, kiếm co lại như con rắn, bật sang phải, đúng giữa ngực lão.
    Kinh hoàng, lão lộn đi một vòng tránh thế kiếm hiểm ác. Chân lão vừa chạm đài, kiếm Mỹ-Linh theo như hình với bóng đã tơí sát vào ngực trái lão, ngay giữa tim. Lão không còn tránh kịp, đưa tay kẹp kiếm của Mỹ-Linh. Mỹ-Linh đã bỏ ra ngoài sống chết, nàng hạ kiếm xuống một chút, kiếm chạm vào da bụng lão. Lão nhảy vọt lên cao.
    Không nhân nhượng, Mỹ-Linh vọt theo. Còn ở trên không nàng quay kiếm liền ba vòng. Kiếm trúng giữa ngực lão đến choang một tiếng. Lão đá gió một cái, người bay khỏi đài, rơi xuống đất.
    Thì ra Mỹ-Linh đâm trúng cái bình bằng đồng đựng thuốc trước ngực lão.
    Từ-Lúc Mỹ-Linh với lão ra chiêu, quần hùng đều nín thở. Chiêu số của Mỹ-Linh cực kỳ thần tốc, mà thân pháp của lão cũng thần tốc không kém. Bây giờ mọi người mới có dịp hoan hô.
    Trong khi đó Tự-Mai đã đếm được mười lăm chiêu. Nó nói lớn:
    - Giáo chủ thua rồi. Chị Mỹ-Linh thắng. Mười lăm chiêu rồi.
    Nhưng Nhật-Hồ lão nhân mặt lầm lỳ. Từ dưới đài, lão vọt lên cao. Trong khi còn ở trên không, lão xuất chưởng hướng Mỹ-Linh. Chưởng phong có mùi tanh hôi khủng khiếp, bao trùm khắp đài. Mỹ-Linh quay kiếm một vòng cắt ngang chưởng của lão, rồi đẩy về trước. Đây là chiêu kiếm rất ảo diệu. Hơn nghìn năm trước Vạn-Tín hầu cầm quân đánh Hung-Nô, trong khi tuyết rơi, ngài đã chế ra chiêu này, để tuyết không tới mình được. Thành ra khi Nhật-Hồ lão nhân tới đài, Mỹ-Linh vẫn vô sự, mà kiếm đẩy vào giữa ngực lão.
    Nhật-Hồ lão nhân kinh ngạc đến đờ người ra. Lão vỗ tay vào ngực một cái, rồi nhảy vọt lên cao. Lập tực cái bình trước ngực lão phun ra một luồng khói đen. Các tôn sư võ học cùng kêu lớn:
    - Độc khí Xích Trà-Luyện.
    Rồi nhảy khỏi đài. Trên đài Mỹ-Linh bị bao trùm trong làn khói, người nàng lảo đảo, chân tay tê liệt, kiếm rơi xuống đến choang một tiếng.
    Nhật-Hồ lão nhân bất chấp đạo lý. Lão phóng một chưởng, định kết thúc tính mạng nàng.
    Đến lúc này, Thiệu-Thái không đừng được nữa. Chàng phát chiêu Lâm-trung kiến ngưu, trong Mục-ngưu Thiền-chưởng mà Bố-Đại hoà thượng dạy chàng. Trái với chưởng của Nhật-Hồ, nặng nề, dũng mãnh. Chiêu Lâm trung kiến ngưu như có, như không, giống trận gió xuân thổi qua. Vù một tiếng, chưởng của Nhật-Hồ mất tăm mất tích.
    Thiệu-Thái chụp Mỹ-Linh tung cho Thanh-Mai, đang đứng gần đài.
    Trời sinh ra Thiệu-Thái, tính tình hiền hoà, nói năng cẩn trọng. Chàng cực kỳ có hiếu, lại tôn kính ông ngoại với cậu hai như thánh. Bây giờ thấy Hồng-thiềt giáo cứ gọi tên tục ông ngoại ra trước quảng trường, rồi đòi hết điều kiện này đến điều kiện kia. Cuối cùng Nhật-Hồ lão nhân định giết Mỹ-Linh, dù hiền đến đâu chàng cũng không chịu nổi.
    Nhật-Hồ lão nhân tưởng đánh một chưởng như trời long đất lở, kết thúc tính mạng Mỹ-Linh. Nào ngờ đâu, Thiệu-Thái xuất một chưởng rất lạ lùng, lão chưa hề thấy qua, làm chưởng lực của lão mất tăm, mất tích.
    Lão kinh ngạc đến đờ người ra:
    - Thằng con lợn này, lúc nãy biết xử dụng phương pháp hoá giải Chu-sa độc chưởng bằng một thứ nội lực phảng phất giống Thiền-công Tiêu-sơn. Bây giờ xử dụng một chiêu chưởng, hơi giống Phục-ngưu thần chưởng. Nhưng trong một chiêu bao gồm chiêu Ác-ngưu nan độ đương cương, thêm chiêu Thanh-ngưu nhập điền âm nhu, lại có chiêu Ngưu-thực ư dã, nửa nhu nửa cương.
    Nghĩ vậy lão quát lớn:
    - Khá lắm. Thân thế-tử, võ công mà Thế-tử vừa dùng tên gì vậy?
    Câu hỏi của lão, cũng là câu hỏi của tất cả các đại tôn sư, Đại-Việt ngũ long. Ai cũng thấy rõ ràng nội lực của chàng giống nội lực Tiêu-sơn, còn chiêu số hao hao Phục-ngưu thần chưởng, nhưng trong một chiêu bao gồm đến ba kình lực cương, nhu, hỗn hợp khác nhau.
    Chỉ có Trần Tự-An, ông không ngạc nhiên, vì ông đã biết Thiệu-Thái được Bồ-tát Sùng Phạm truyền cho một trăm năm công lực, cùng những kỳ duyên khác mà chàng gặp được.
    Thiệu-Thái còn đang chần chờ, có tiếng Khai-Quốc vương dùng Lăng-không truyền ngữ ra lệnh:
    - Thiệu-Thái, nghe cậu dạy. Cháu phải dùng hết khả năng đánh bại Nhật-Hồ lão nhân ngay. Bằng không sẽ có cuộc đổ máu lớn.
    Nghe cậu hai ra lệnh, Thiệu-Thái tiến lên đáp câu hỏi của Nhật-Hồ lão nhân:
    - Thưa giáo chủ, võ công mà tiểu bối xử dụng do sư phụ tiểu bối mới sáng chế ra tên gọi Mục-ngưu Thiền-chưởng. Mục-ngưu Thiền-chưởng có mười chiêu, mỗi chiêu bao gồm ba chiêu Phục-ngưu thần chưởng. Có thể cả ba chiêu âm nhu, có thể cả ba chiêu dương-cương, có thể một chiêu âm, hai chiêu dương. Như vậy thành một trăm hai mươi chiêu. Mà trong Phục-ngưu có tới ba mươi sáu chiêu, biến hoá thành ra bốn nghìn ba trăm hai mươi chiêu.
    - Không biết Thế-tử học võ với cao nhân nào vậy? Lão phu thấy dường như nội lực của Thế-tử hơi giống Sùng Phạm. Phải chăng Thế-tử học với Sùng Phạm ?
    - Tiểu bối có duyên gặp Bồ-tát Sùng Phạm, mà không được người thu làm đệ tử. Nhưng nội lực của tiểu bối chính ngài ban cho. Còn Mục-ngưu Thiền-chưởng do một cao tăng chế ra, rồi dạy tiểu bối. Người cũng không thu tiểu bối làm đệ tử. Về danh tính của người, người bảo chả là cái đếch gì.
    Nguyên hôm Bố-Đại dậy Mục-ngưu Thiền-chưởng cho Thiệu-Thái. Thiệu-Thái hỏi:
    - Nếu sau này có người hỏi đệ tử rằng pho võ công này ai dạy cho, đệ tử có thể khai rằng Bồ-Tát dạy không?
    Bố-Đại đáp:
    - Ta chả là cái đếch gì cả. Ta chỉ hợp những gì Vạn-Tín hầu làm, Tăng-giả Nan-đà làm, Bắc-Bình vương làm, Yên-lãng công chúa làm mà thôi.
    Nói rồi ngài nhập tĩnh. Vì vậy hôm nay chàng nhắc lại lời Bố-Đại. Câu nói của chàng làm quảng trường ồ lên kinh ngạc. Nguyên người trong võ lâm trọng sư đạo vô cùng. Thế mà Thiệu-Thái bảo sư phụ chả là cái đếch gì cả ai mà không kinh ngạc? Chỉ những cao tăng phái Tiêu-sơn nghe chàng nói, họ biết ngay người dạy Thiệu-Thái là Bố-Đại hoà thượng.
    Trả lời xong, chàng vận đủ mười thành công lực phát chiêu Lâm-trung kiến ngưu, chàng vận thuần dương, thành ra cả ba chiêu Tứ-ngưu phân thi, Ngưu-tẩu như phi, Ác-ngưu nan độ cùng phát ra một lúc. Kình lực mạnh muốn long trời lở đất. Áp lực khiến nhiều cao nhân phải nhảy khỏi đài. Nhật-Hồ lão nhân vận Chu-sa chưởng đỡ. Ầm một tiếng. Cả hai cùng lảo đảo lùi lại. Mặt Nhật-Hồ lão nhân đỏ lên như gấc. Râu tóc lão dựng đứng dậy, trông thực khủng khiếp. Mặt Thiệu-Thái biến ra trắng bệch.
    Nhật-Hồ lão nhân kinh hãi, nghĩ thầm:
    - Trong đời ta, ta đã thắng khắp anh hùng Hoa-Việt. Trước đây chỉ có lão thầy chùa Vạn-Hạnh, Bố-Đại, Sùng-Phạm có thể đỡ được chưởng của ta mà thôi. Nhưng nay những lão thầy chùa đó đều hoá ra tro bụi cả rồi. Hơn nữa sau hai mươi năm ở tù luyện công, công lực ta cao biết bao. Ví dù bọn Vạn-Hạnh có còn sống, chưa chắc đã đỡ nổi chiêu của ta. Mà thằng con lợn này coi bộ nó không hề hấn gì.
    Nghĩ vậy lão vận một Chu-sa độc chưởng với tất cả bình sinh công lực đẩy ra. Thiệu-Thái phát chiêu Nhân-ngưu câu vong, thuần âm. Vù một tiếng, chưởng của Nhật-Hồ mất tăm mất tích. Lão lảo đảo lùi lại. Thiệu-Thái không nhân nhượng, chàng phát chiêu Kị-ngưu qui gia.
    Hai người quấn lấy nhau, chưởng phong ào ào tuôn ra. Sự thực với một trăm năm công lực của Bồ-tát Sùng Phạm, sau này trong khi trị bệnh cho Thanh-Mai, Thiệu-Thái lại thu được một số nội lực nữa, công lực chàng cao hơn Nhật-Hồ lão nhân nhiều. Nhưng chàng vừa luyện Mục-ngưu Thiền-chưởng, đây là lần xử dụng đầu tiên, nên còn bỡ ngỡ.
    Đấu được trên trăm chiêu, Thiệu-Thái đã có kinh nghiệm rồi. Cứ mười chiêu chàng phản công được năm sáu. Càng đấu, chàng càng chiếm được thượng phong. Tuy nhiên Nhật-Hồ lão nhân, một bác học hiếm có trong võ lâm, lão lại thừa kinh nghiệm, nên chàng không thắng nổi.
    Bỗng lão đánh ra chiêu hết sức thô kệch, Thiệu-Thái đẩy ra một chưởng đỡ. Bộp, hai chưởng dính chặt nhau. Thế là cuộc đấu trở thành đấu nội lực.
    Các đại tôn sư, chưởng môn nhân đều kinh hãi lo cho Thiệu-Thái, vì họ nghĩ rằng chàng còn trẻ, công lực khó có thể so được với Nhật-Hồ lão nhân. Hơn nữa, thần công Hồng-thiết của lão cực mạnh. Chỉ cần chạm vào tay lão, sẽ trúng độc chết liền.
    Hai bên đấu trong khoảng thời gian ăn một bữa cơm, trên đầu Thiệu-Thái bốc lên một luồng khỏi trắng. Còn trên đầu Nhật-Hồ bốc lên một luồng khói đen.
    Thiệu-Thái nhớ lời Khai-Quốc vương dặn, cần phải hạ lão, mới mong bảo toàn được điạ vị cho ông ngoại. Chàng vận hết công lực ra. Nhưng vô ích.
    Thấy Thiền-công không hạ được lão, chàng vận Chu-sa độc chưởng ra lẫn với Thiền-công. Nhưng vẫn vô hiệu.
    Lát sau, thình lình Thiệu-Thái lui lại một bước. Mọi người đều kinh ngạc.
    Nguyên công lực của Thiệu-Thái là Thiền-công, lấy chữ không làm căn bản. Tứ đại giai không. Trong khi chàng lại vận hết công lực mong tiêu diệt đối thủ, thành ra tứ đại giai hữu. Lại nữa Thiền-công thuộc công lực nhà Phật, chàng lại vận thên Chu-sa độc, một thứ công lực ma quái, thành ra chính chàng làm giảm Phật tính trong người chàng vậy. Vì công lực giảm đi, chàng mới bị Nhật-Hồ đẩy lui một bước.
    Không ai hiểu nguyên do nào cả. Chỉ duy Minh-Không thiền sư biết rõ. Ngài vẫy tay gọi Mỹ-Linh lại gần:
    - Công chúa. Công chúa tụng cho Thế-tử một bài kinh Bát-nhã.
    Minh-Không là sư phụ của Khai-Thiên vương, tức thái sư phụ của Mỹ-Linh. Vì vậy khi nghe ngài dạy. Nàng không chần chờ, đến gần Thiệu-Thái, cất tiếng đọc:

    Quán-tự-tại Bồ-tát,
    Hành thâm Bát-nha Ba-la mật đa thời,
    Chiếu kiến ngũ uẩn giai không,
    Độ nhất thiết khổ ách....
    .....
    Sắc bất dị không, không bất dị sắc.
    Sắc tất thị không, không tất thị sắc,
    Thụ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị...


    Bát-nhã, một bài kinh ngắn, bất cứ người theo đạo Phật nào cũng biết. Quảng trường quần hùng thấy Mỹ-Linh tụng kinh Bát-nhã họ cho rằng nàng lo sợ dùm Thiệu-Thái, đọc kinh để đức Phật che chở. Tiếng nàng trong trẻo, ngọt ngào vang đi rất xa. Ai ai cũng nghe rõ.
    Thiệu-Thái đang lâm nguy, nghe tiếng Mỹ-Linh tụng kinh Bát-nhã, chàng tỉnh ngộ:
    - Mình chết thực. Hôm tước Bố-Đại hoà thượng giảng rằng, khi phát lực phải bỏ lục tặc ra ngoài, mà bây giờ mình lại muốn giết lão. Trong Phật pháp, khi giận hờn làm ma tính, quỉ tính hiện, quỷ A-tu-la nhập vào người ắt Thiền-công giảm là phải.
    Thế rồi chàng bỏ ra ngoài nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý. Tức lục căn biến đi, con người trở thành chân không như Quán-tự-tại Bồ-tát nhập thiền rất sâu khi xưa. Vì vậy Thiền công của chàng trở thành mạnh vô cùng. Chàng nhập tĩnh thực sâu, không còn nghe tiếng Mỹ-Linh tụng kinh. Cũng không còn thấy gì nữa.
    Về phía Nhật-Hồ lão nhân, lão tưởng đàn áp được Thiệu-Thái trong chốc lát. Không ngờ Mỹ-Linh tụng kinh Bát-nhã, công lực Thiệu-Thái trở thành mạnh vô cùng. Trong khi đó công lực của lão là thứ công lực ma quái. Mỗi câu kinh lọt vào tai lão, ma tính từ từ giảm đi, công lực lão yếu dần.
    Mỹ-Linh tụng hết bốn lần bài kinh Bát-nhã, Minh-Không thiền sư dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai nàng:
    - Tụng bài chú kinh Thủ-lăng-nghiêm.
    Mỹ-Linh hiểu ý thái sư phụ liền:
    - Hiện giờ anh Thiệu-Thái nhập tĩnh đâu còn biết gì? Thái sư phụ bảo ta tụng kinh Thủ-lăng-nghiêm, mục đích cho Nhật-Hồ lão nhân nghe đây. Vì kinh Thủ-lăng-nghiêm là kinh để hàng phục ma quái. À phải rồi, ngày xưa ngài A-Nan bị nàng Ma-đăng-Già dùng chú Tiên-phạm-thiên làm cho gần phá giới thể. Phật tổ phải sai đệ tử đi cứu. Sau đó ngài giảng kinh Thủ-lăng-nghiêm dạy cho đệ tử cách phá ma chướng, ma nghiệp. Nay Hồng-thiết giáo của Tây-dương quỷ truyền vào Đại-Việt, phải dùng chú Thủ-lăng-nghiêm mới mong phá bỏ ma tính, ma nghiệp trong người Nhật-Hồ lão nhâm, vì vậy thái sư phụ bảo ta tụng hầu giải ma.
    Khi Mỹ-Linh tụng chú Thủ-lăng-nghiêm, lọt vào tai nhật-Hồ lão nhân. Lão cười thầm:
    - Con nhỏ Mỹ-Linh đọc kinh để cầu cho thằng nhỏ này ư? Khó lắm!
    Nhưng những câu mật chú lão không hiểu tý gì về ý nghĩa. Cứ mỗi câu Mỹ-Linh tụng, ma tướng, ma sắc, ma nghiệp trong người Nhật-Hồ giảm đi dần, công lực lão cũng giảm theo.
    Lát sau lão phải lùi một bước.
    Khi Mỹ-Linh tụng xong bốn trăm hai mươi bẩy câu, thì ma tướng trong người lão như bị biến đi mất hết. Lão bật lùi liền hai bước.
    Đại hiệp Trần Tự-An nghĩ thầm:
    - Tên đại ma đầu này thua đến nơi rồi. Ta sợ khi y thua, mấy ông hoà thượng lại tha cho lão, lão còn tác ác nhiều. Ta phải làm cách nào mượn tay Thiệu-Thái giết y đi mới được.
    Ông dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai Thiệu-Thái:
    - Buông lỏng chân khí ba kinh âm, để bảo vệ cơ thể, rồi dùng ba kinh dương đẩy chất độc trở lại người lão.
    Ông nói đến đâu, Thiệu-Thái tòng tâm làm đến đấy. Nhật-Hồ lão nhân thấy tự nhiên công lực Thiệu-Thái yếu đi, lão mừng quá dồn chân khí sang thực mạnh. Có ngờ đâu chân khí lão vào người Thiệu-Thái, trong khi độc chất tụ ở tay lão. Đến khi Thiệu-Thái dùng ba kinh dương đẩy chất độc tấn công lão. Lão cảm thấy như ba mũi dùi đâm vào ngực. Phút chốc lão bật tung người lên cao, rồi rơi xuống đài.
    Nhất-Trụ, Nguyễn Chí nhảy lên đài vung chưởng tấn công Thiệu-Thái cứu sư phụ. Thiệu-Thái vận chiêu Nhân-ngưu câu vong thuần dương. Bình một tiếng, cả hai người bay bổng ra xa, rơi trên đài, nằm bất động, không ai biết rõ họ chết hay sống.
    Nhật-Hồ lão nhân nằm thẳng cẳng. Thiệu-Thái định chạy lại đỡ lão dậy, tiếng Khai-Quốc vương rót vào tai chàng:
    - Cẩn thận! Y giả vờ đấy.
    Thiệu-Thái tỉnh ngộ, chàng nói lớn:
    - Đa ta giáo chủ nương tay. Giáo chủ dậy đi thôi. Thân phận giáo chủ lớn biết bao, mà giáo chủ lại phải giả chết?
    Nhưng lão vẫn nằm im.
    Bỗng có tiếng la hoảng của Mỹ-Linh. Thiệu-Thái nhìn lại, thì ra thuốc trấn thống của Hồng-Sơn đại phu hết hiệu lực, sư thái Tịnh-Tuệ đang nghiến răng vận công chống đau.
    Thiệu-Thái không lý đến Nhật-Hồ lão nhân cùng Nhất-Trụ, Nguyễn Chí nữa. Chàng đến trước sư thái Tịnh-Tuệ, chắp tay hành lễ:
    - Sư thái, đệ tử bạo gan, xin được hoá giải độc tố Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng cho sư thái.
    Tịnh-Tuệ mỉm cười:
    - Phúc đức quá.
    Thiệu-Thái vung tay, phát một chưởng hướng huyệt Chí-dương của bà. Vèo một cái như cơn gió thoảng. Sư thái Tịnh-Tuệ rùng mình, mồ hôi bà thoát ra như tắm, mùi tanh hôi nồng nặc bốc lên, khiến mọi người buồn nôn.
    Lát sau bà chắp tay hướng Thiệu-Thái:
    - Đa tạ thí chủ.
    Chàng lại trị cho đại sư Sùng-Văn chùa Sơn-Tĩnh.
    Sư thái Tịnh-Tuệ bị trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng của mụ Hoàng Liên. Sùng-Văn bị trúng chưởng của Nguyên-Hạnh, quần hùng đều biết. Hồng-Sơn đại phu phóng Ma-túy hoàn giúp hai vị chống đau nhức. Nhưng cứ hơn giờ thuốc hết hiệu nghiệm, lại phải phóng tiếp. Bây giờ họ thấy Thiệu-Thái chỉ phát một chưởng hời hợt, mà giải được cho bà. Họ kinh ngạc tự hỏi:
    - Chưởng này là chưởng gì, mà có thể trị được Chu-sa độc tố?
    Hôm trước đây, giáo chúng Hồng-thiết đã nghe anh em Đỗ-xích Nhất-Bách khoe rằng họ được Thiệu-Thái hoá giải vĩnh viễn Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng cho. Họ biết, nhưng chưa hoàn toàn tin tưởng. Nay họ thấy thủ pháp của Thiệu-Thái, giống hệt thủ pháp trước đây của Nhật-Hồ đã từng trị cho giáo chúng, họ kinh ngạc hỏi nhau:
    - Thiếu niên này tại sao lại biết Hồng-thiết mật công? Hơn nữa đánh bại giáo chủ. Theo luật Hồng-thiết, như vậy y ta đương nhiên thành giáo chủ.
    Họ kéo đến trước đài, định quỳ gối khấu đầu trước Thiệu-Thái. Thình lình Nhật-Hồ kêu thét lên như con lợn bị chọc tiết. Mắt lão đỏ gay, râu tọc dựng đứng. Lão hét be be. Trong khi đó Vũ Nhất-Trụ, Nguyễn Chí cũng nhảy lên choi choi vì đau đớn. Ba thầy trò vừa hét, vừa nhảy, vừa lăn lộn.
    Quần hùng đưa mắt nhìn Thiệu-Thái. Bang trưởng bang Hồng-hà hỏi:
    - Thân thế-tử, phải chăng Thế-tử đã dùng Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng đánh Nhật-Hồ lão nhân và Vũ, Nguyễn trưởng lão?
    Thiệu-Thái trả lời bằng cái lắc đầu. Chàng đưa mắt nhìn Trần Tự-An. Tự-An hướng vào Sử Anh:
    - Sử bang chủ. Nhật-Hồ lão nhân cùng Vũ Nhất-Trụ, Nguyễn Chí dùng Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng hai Thân thế-tử. Trong khi hai bên giao đấu, tại hạ hướng dẫn Thân thế-tử phương pháp đẩy chất độc trở về cơ thể đối thủ. Vì vậy Nhật-Hồ, Nhất-Trụ, Nguyễn Chí tự đánh mình, chứ Thân thế-tử đâu có ý hại người?
    Minh-Không thiền sư nói với Hồng-Sơn đại phu:
    - Xin đại phu ban mấy viên ma túy hoàn, giải cái đau khổ cho Nhật-Hồ lão nhân cùng nhị vị trưởng lão.
    Hồng-Sơn đại phu đưa mắt cho Thiếu-Mai. Thiếu-Mai vung tay một cái, ba viên thuốc bay ra. Một viên hướng Nhật-Hồ. Hai viên hướng Nhất-Trụ, Nguyễn Chí. Khi thuốc sắp tới người, thì vỡ tan thành đám bụi, chụp lên người họ. Khoảng nhai dập miếng trầu, cả ba thầy trò hết đau. Nhưng qua cơn lăn lộn, ba người mệt nhoài, họ ngồi im ở góc đài, vận công phục hồi chân khí.
    Từ hồi Nhật-Hồ lão nhân mang Hồng-Thiết giáo vào Đại-Việt, giáo chúng bắt buộc phải coi lão như một nhân vật thần thánh. Một vài người tỏ ý không kính trọng lão, lập tức bị các vị trưởng lão giết chết, hoặc không cho thuốc giải hàng năm, cuối cùng đi đến cái chết thảm khốc. Khi Lê Ba giam lão vào hầm để khảo Hồng-thiết mật công, y tìm một người hơi giống lão, đánh thuốc độc cho chết, phao rằng lão chết, rồi làm lễ an táng thực lớn, xây lăng mộ lão, bắt giáo chúng mồng một, ngày rằm thờ cúng.
    Bây giờ thình lình lão tái xuất hiện, dự đại hội võ lâm ở Hội-phụ. Chính mắt họ chứng kiến, cũng như nghe những điều dơ bẩn của các trưởng lão. Rồi các trưởng lão với giáo chủ tranh chấp nhau, chém giết nhau, họ đã nản đến tận xương, tận tủy. Rồi bây giờ lão bị một thanh niên trẻ đánh bại, cái thần tượng lão tiên, thánh biến mất.
    Trong khoảnh khắc, người nọ truyền tai người kia rằng, Thiệu-Thái có bản lĩnh hoá giải độc chưởng vĩnh viển cao minh hơn Nhật-Hồ lão nhân nhiều. Không ai bảo ai, hơn năm nghìn giáo chúng cùng đến trước lễ đài quỳ mọp xuống, đồng hô lớn lên:
    - Bọn thuộc hạ kính mừng tân giáo chủ.
    - Tân giáo chủ muôn năm.
    Có tên nói lớn:
    - Muôn năm thế nào được, phải vạn vạn, ức ức năm mới đúng.
    Có tên khác lại nỏi:
    - Chúng ta mau mau đuổi lão Lý Công-Uẩn đi, tôn giáo chủ lên làm hoàng-đế Đại-Việt.
    Khi nói xong câu này, y chợt nghĩ lai Thiệu-Thái là cháu ngọai Thuận-Thiên hoàng-đế. Y vội tát vào mịệng mình:
    - Cái miệng này nói bậy! Cái miệng này nói láo.
    Một giáo chúng khác chỉ Nhật-Hồ:
    - Thằng già đầu gáo, râu cáo kia, có mau quỳ lạy tân giáo chủ không? Chậm trễ ta cho cỡi Ngũ-xa hồng-xà về với thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh ngay bây giờ.
    Một nữ giáo chúng chỉ vào Nhật-Hồ:
    - Giết quách lão đi cho rồi.
    Một đoàn thiếu nữ Hồng-thiết, tuổi trẻ, xinh đẹp, đến quỳ trước Thiệu-Thái:
    - Khải tấu giáo chủ. Bọn đệ tử nguyện làm cây thuốc cho giáo chủ luyện thần công.
    Anh em Đỗ-xích Nhất-Bách, Nhị-Bách, Tam-Bách cùng lên đài. Ba người hướng vào quần hùng hành lễ, rồi nói với giáo chúng:
    - Xin anh chị em nghe đây.
    Mọi người im phăng phắc. Nhất-Bách nói:
    - Tất cả chúng ta đều bị trúng Chu-sa độc chưởng hết. Nay Thân thế-tử luyện được Hồng-thiết mật công, có thể giải độc cho chúng ta. Chính ba anh em tôi đã được người giải chất độc Chu-sa cho hôm qua. Vậy tôi đề nghị chúng ta tôn Thân thế-tử làm giáo chủ.
    Lập tức hơn năm nghìn người cùng hoan hô vang dậy trời đất, rồi quỳ xuống.
    Nhất-Bách hô:
    - Bọn đệ tử kính cẩn ra mắt tân giáo chủ.
    Diễn biến xẩy ra, Thiệu-Thái chưa biết giải quyết sao, có tiếng Khai-Quốc vương nói bằng Lăng-không truyền ngữ:
    - Hãy nhận chức giáo chủ. Sau đó chữa trị mọi người. Có gì khó khăn, Bảo-Hoà sẽ giúp cho.
    Thiệu-Thái dơ tay ra hiệu cho giáo chúng im lặng, rồi chàng nói lớn:
    - Nếu anh em giáo chúng muốn tôi nhận chức giáo chủ, phải tuyệt đối tuân mạng lệnh tôi. Còn không, tôi bỏ mặc.
    Đám giáo chúng cùng quỳ gối:
    - Bọn đệ tử tuyệt đối tuân lệnh giáo chủ.
    Thiệu-Thái chỉ vào Bảo-Hoà:
    - Đây là em gái của bản nhân. Mới đây đánh bại trưởng lão Phạm Hổ, Phạm Trạch. Bản nhân phong làm Tả sứ giả trong hội đồng giáo vụ trung ương.
    Có tiếng Khai-Quốc vương rót vào tai:
    - Mời Thanh-Mai làm hữu sứ giả Hồng-thiết.
    Chàng chỉ vào Thanh-Mai:
    - Đây, Trần sư tỷ! Trần sư tỷ làm Hữu sứ giả bản giáo.
    Đám giáo chúng thấy Thanh-Mai võ công cao cường, lại xinh đẹp. Hơn nữa nàng là con gái chưởng môn phái Đông-a, một danh môn chính phái. Nay làm Hữu sứ giả còn gì bằng. Họ hoan hô vang trời đất.
    Thiệu-Thái chỉ vào anh em Nhất-Bách:
    - Ba vị này đã có công trấn ngự biên cương của bản giáo, võ công cao cường. Bản nhân cũng phong làm trưởng lão. Nhưng vì cái tên Đỗ-xích kinh tởm quá, không nên giữ lại. Nhân hôm nay ngày giỗ Bắc-bình vương, ngài họ Đào, vậy đổi họ Đỗ của ba vị thành họ Đào. Từ nay tên ba vị thành Đào Nhất-Bách, Nhị-Bách, Tam-Bách.
    Chàng ngừng lại nhìn Bảo-Hòa:
    - Mời nữ Tả sứ đặc trách kế hoạch ra ban bố chương trình hoạt động của bản giáo.
    Bảo-Hòa bước ra nói:
    - Việc cải cách đầu tiên của bản giáo gồm năm điểm. Ai không tuân theo, sẽ không được giải độc chưởng.
    Giáo chúng im lặng, lắng tai nghe. Bảo-Hoà tiếp:
    - Tổ đầu tiên của giòng Hoa-Việt là vua Thần-Nông. Sau này Quốc-tổ, Quốc mẫu mới lập ra nước Văn-lang, để phân biệt với Trung-Quốc. Trung-Quốc thờ vua Hoàng-Đế làm quốc tổ. Hoàng-Đế, Lạc-Long quân là tổ về chính trị. Còn Thần-Nông là tổ về huyết tộc. Chúng ta vốn con rồng, cháu tiên, không thể thờ thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh. Chúng ta thờ hai thánh này, e không thể nào thu phục được nhân tâm. Vì Mã-Mặc, Lệ-Anh bản chất điên khùng. Trong lúc điên khùng, viết ra bộ Hồng-thiết kinh, gây cảnh núi xương, sông máu bao đời!
    Ngừng một lát nàng tiếp:
    - Nếu nay không thờ Mã-Mặc, Lệ-Anh, mà thờ Phật, ắt những người theo Nho, theo Lão cũng sẽ chống. Ngược lại thờ Lão-tử ắt những người theo Phật, theo Nho chống. Việc đầu tiên muốn thống nhất nhân tâm, kể từ nay, chúng ta không xưng Hồng-thiết giáo nữa, mà cải thành Lạc-long giáo. Lạc-long giáo không thờ thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh, mà thờ Quốc-tổ, Quốc-mẫu cùng các vị anh hùng, tiên hiền Đại-Việt. Tuy nhiên giáo chúng muốn theo đạo Phật, Đạo-Nho, Đạo-lão cũng không cấm. Nhưng phải thờ Quốc-tổ, Quốc-mẫu, cùng anh hùng dân tộc.
    Giáo chúng hô lớn:
    - Đại-Việt muôn năm. Quốc-tổ, Quốc-mẫu muôn năm.
    - Điều thứ nhì, bản giáo chủ trương bênh kẻ khó, diệt kẻ ác. Cứu người nguy, giúp người nghèo. Ai cũng phải làm mới có ăn. Những kẻ lười biếng đều kết tội.
    Giáo chúng hoa hô nhiệt liệt. Đợi cho tiếng hoan hô dứt, Bảo-Hoà tiếp:
    - Điều thứ ba, bản giáo chủ trương đứng hẳn ra ngoài cuộc tranh chấp ngôi vua Đại-Việt. Sẵn sàng phục tùng các vị hoàng đế nhân từ, thương dân. Sẵn sàng diệt trừ các hoàng đế hôn ám, ác độc, làm cho dân khốn khổ.
    Giáo chúng lại hoan hô nhiệt liệt.
    - Điều thứ tư ...
    Bảo-Hoà chưa kịp nói, Nhật-Hồ, Vũ Nhất-Trụ, Đỗ Xích-Thập, Nguyễn Chí hét lên lanh lảnh, lăn lộn tỏ vẻ đau đớn khổ sở vô cùng.
    Vũ Nhất-Trụ hét lớn:
    - Ối chết! Đau chết đi. Giết ta đi, giết ta đi.
    Nhật-Hồ lão nhân thở hồng hộc như con trâu, miệng la bai bải. Còn bọn Đỗ Xích-Thập chạy quanh đài miệng hú như vượn.


    <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.01.2005 01:34:55 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 13.01.2005 18:21:52 (permalink)
      Hồi thứ sáu mươi tám

      Lấy chết rửa tội



      Minh-Không thiền sư nói với Hồng-Sơn đại phu:
      - Xin đại phu lại ra tay cứu họ một phen nữa. Họ đau đớn quá, hoá khùng, hóa điên rồi.
      Hồng-Sơn đại phu vung tay, bốn viên thuốc bắn vào mình thầy trò Nhật-Hồ. Họ rùng mình một cái, không kêu gào nữa, ngồi xuống góc đài vận công chống đau.
      Bảo-Hòa tiếp:
      - Điều thứ tư, Lạc-long giáo chủ trương kết thân hết với tất cả các võ phái, xóa bỏ mọi hận thù cũ cũng như mới. Nếu như giáo chúng trong quá khứ có gây thù hận với ai, giáo chủ cùng hội đồng trung ương giáo vụ sẽ tìm đủ mọi phương cách xin lỗi, bồi thường, để đi đến giao hảo tốt đẹp.
      Từ mấy chục năm nay, Hồng-thiết giáo như bóng ma, bóng quỷ, gây ra không biết bao nhiêu tang tóc đau khổ cho dân. Gây lên những trận phong ba với võ lâm. Những bang, những trang, những động nhỏ bị giáo chúng Hồng-thiết gây hấn, đành ngậm tăm ấm ức.
      Trong các đại môn phái, chỉ Tiêu-sơn, Tây-vu có hệ thống kiểm soát rất gắt gao mới thoát khỏi bàn tay của họ mà thôi. Còn các môn phái khác, không ít thì nhiều, đều bị Hồng-thiết giáo gây hấn. Như phái Đông-a, người nhiều, thế mạnh, thế mà Nhật-Hồ lão nhân cũng cho Đặng Trường tiềm ẩn ở trong, bắt giam Cao Huyền-Nga làm cây thuốc cho các trưởng lão luyện công. Họ bắt giam bà còn nhằm mục đích sau này khống chế Trần Tự-An. Nếu ông tuân theo mạng lệnh Hồng-thiết thì thôi, bằng không họ sẽ làm vỡ lở vụ vợ làm cây thuốc ra, ắt thân bại danh liệt ngay.
      Phái Sài-sơn còn đau hơn nữa, Lê Ba làm thái thượng chưởng môn, lại đóng vai thứ nhì trong Hồng-thiết giáo. Y giam Vũ Thiếu-Nhung, với mục đích như bắt Cao Huyền-Nga. Phái Tản-viên, Mê-linh họ gây ra vụ Đỗ Xích-Thập, Hoàng Liên.
      Trong triều đình, Nhật-Hồ lão nhân cài Vũ Nhất-Trụ vào. Y leo lên đến địa vị tể thần. Có thời y làm tới Thái-úy phụ quốc, coi toàn bộ binh lực trong tay, kiêm quản Khu-mật-viện một cơ quan an ninh tối cao. Trong năm con y, hết bốn lĩnh chức trọng trấn bên ngoài. Ở nội cung, con gái làm đến Tây-cung quý phi. Vũ Nhất trụ còn cho bắt Vương-phi của Khai-Thiên vương. Họ cài Hoàng Văn vào phủ Khai-Thiên. Đông-Chinh vương làm lại bộ thượng thư, Vương-phi cũng bị bắt làm cây thuốc, để sau này kiềm chế Vương.
      Bây giờ quần hùng nghe Bảo-Hoà tuyên bố chấm dứt tình trạng gây hấn, cũng như hoà giải, xin lỗi, bồi thường cho các nạn nhân, họ như trút được một gánh nặng. Họ vỗ tay hoan hô hết tràng này đến tràng khác.
      Bảo-Hoà chờ cho tiếng hoan hô giảm, nàng tiếp:
      - Điều thứ năm, Về võ công. Giáo chúng nguyên thuộc phái nào, vẫn tiếp tục luyện võ công phái đó. Bản giáo khuyến khích các võ phái gửi đệ tử nhập giáo, để chăm lo việc nước. Tuy nhiên bản giáo lấy bộ Lĩnh-Nam vũ kinh thời vua Trưng làm võ công trấn môn. Đệ tử nào muốn luyện, sẽ được chỉ dạy.
      Các phái võ gốc Việt từ hải ngoại về đây dự lễ, hầu hết chỉ với mục đích tìm tông tích bộ Lĩnh-Nam vũ kinh. Nay thấy Bảo-Hòa tuyên bố sẽ đem bộ Lĩnh-Nam vũ kinh ra giảng dạy cho giáo chúng, họ nghĩ thầm:
      - Thế tại sao mình không cho đệ tử nhập giáo Lạc-long để được luyện Lĩnh-Nam vũ kinh?
      - Điều thứ sáu, bản giáo lấy bảo quốc, hòa dân làm cương yếu hoạt động. Việc giữ gìn xã tắc chống ngoại xâm, cùng giữ an ninh trong nước làm nhiệm vụ của toàn thể con dân Đại-Việt, chứ không phải của triều đình. Các cơ sở bản giáo tại hương thôn đảm trách việc huấn luyện tráng đinh, canh phòng trộm cướp, cứu giúp người khốn nguy. Khi quốc gia hữu sự phải xung quân bảo quốc. Có như vậy ngân khố quốc gia mới không tốn tiền nuôi quân nhiều, dĩ nhiên triều đình sẽ giảm thuế cho dân.
      Bảo-Hoà vừa dứt, chính Thuận-Thiên hoàng-đế vỗ tay đầu tiên, rồi đến anh hùng các nơi.
      Bảo-Hoà đợi cho tiếng ồn ào giảm, nàng tiếp:
      - Điều thứ bẩy, Lạc-long giáo chủ trương hoà hoãn với Trung-quốc. Trong quá khứ Hồng-thiết giáo đi đến đâu đánh đuổi Hoa-kiều thực khốn khổ. Dù tình người với nhau cũng không nên. Huống hồ tộc Hán, tộc Việt vốn gốc từ vua Phục-Hy, Thần-Nông. Về tộc Việt, bản giáo nối liền tình huynh đệ giữa các nước, nguyên thuộc giòng Bách-Việt, để đi đến thống nhất. Đại-Việt, Mân-Việt, Đại-lý, Chiêm-thành, Lão-qua, Chân-lạp, Xiêm-la, bẩy nước, như một. Ranh giới có thể phân, nhưng tình thương yêu huyết tộc không thể chia cắt. Mọi phân chia tình thương yêu tộc Việt đều đáng kết tội.
      Thiệu-Thái tiếp:
      - Cương yếu của bản giáo có bẩy điều. Bất cứ ai, không kể nam, nữ, già trẻ, thuộc giòng Bách-Việt đều có thể gia nhập Lạc-long giáo. Như giáo chúng Hồng-thiết cũ, thấy chủ trương của bản giáo có điều không hợp, toàn quyền rút ra. Bản giáo không cấm.
      Đến đó có tiếng rên la trong hàng giáo chúng, thì ra hai vị đạo trưởng quản giáo bị Chu-sa độc hành hạ, đang nghiến răng vận công chống trả. Đào Nhất-Bách kính cẩn nói với Thiệu-Thái:
      - Trình giáo chủ, xin giáo chủ cứu trị cho hai anh em đạo-trưởng.
      Hai đạo trưởng đã được đưa lên đài. Một người đang ôm đầu nghiến răng rên siết. Một người đang ôm hai bàn tay sưng lớn đỏ hỏn. Hai tay run run, mồ hôi vã ra, tỏ vẻ đau đớn cùng cực. Bằng cử chỉ nhu nhã, Thanh-Mai, Bảo-Hòa đỡ họ ngồi trước bàn thờ. Thanh-Mai hỏi:
      - Hai vị huynh đệ hiện quản đạo nào trong bản giáo?
      Người nhức đầu nói:
      - Thưa sứ giả, tiểu nhân tên Chung Hoa quản đạo Mê-linh. Còn sư đệ đây tên Lê Cường quản đạo Ba-vì.
      Thiệu-Thái vung tay phát chưởng nhẹ nhàng như gió thoảng vào đầu Chung Hoa. Lập tức y rùng mình một cái, rồi ngồi im. Thiệu-Thái lại cầm lấy hai tay Lê Cường, chàng vận công truyền chân khí sang. Bàn tay Lê Cường đang đỏ hỏn, từ từ trở lại bình thường.
      Khoảng nhai dập miếng trầu, Chung Hoa, Lê Cường cùng hướng vào Thiệu-Thái rập đầu:
      - Đa tạ giáo chủ cứu mạng.
      Hàng vạn giáo chúng đến trước đài, quỳ gối:
      - Xin giáo chủ cứu trị cho thuộc hạ.
      - Mong ơn giáo chủ giải ách cho thuộc hạ.
      - Đệ tử cầu mong giao chủ ra tay thần thánh.
      Thiệu-Thái hướng vào các trưởng lão, giáo chúng:
      - Bản nhân may học được Hồng-thiết thần công, có thể giải Chu-sa độc chưởng cho bất cứ ai. Vậy anh em giáo chúng hãy về chỗ, trước sau đều được trị.
      Chàng hướng vào Nhật-Hồ:
      - Riêng về Nhật-Hồ lão gia cùng các trưởng lão Vũ Nhất-Trụ, Đỗ Xích-Thập, Nguyễn Chí, bản nhân không thể trị được. Bởi nếu chỉ đẩy Chu-sa độc chưởng ra, thì Hồng-thiết công có khả năng. Nay bốn vị dùng độc chưởng đánh người, rồi người dẩy ngược trở về, bản nhân không biết cách trị. Tại sao? Vì Hồng-thiết nội lực bị pha lẫn với nội lực người khác, hoá cho nên chất độc biến đổi đi nhiều.
      Chàng chỉ vào Đỗ Xích-Thập:
      - Đỗ trưởng lão dùng độc chưởng đánh Côi-sơn đại hiệp. Côi-sơn đại hiệp dùng nội lực Đông-a đẩy trở về người Đỗ trưởng lão. Hóa cho nên Nhật-Hồ lão gia đã dùng Hồng-thiết thần công cứu trị, mà bệnh thêm nặng ra.
      Chàng nhìn ông ngoại, rồi tiếp:
      - Bản giáo tuy xóa bỏ hận thù, nhưng chỉ trong bản giáo. Bản giáo không phải Đại-Việt. Bản giáo chủ trương tuyệt đối tuân theo phép nước. Những ai mang tội với Đại-Việt, cần phải được triều đình ân xá, bản nhân mới dám giải ách cho.
      Đến đó Thuận-Thiên hoàng-đế đứng dậy, ngài vận nội lực nói lớn:
      - Lý-công-Uẩn, đệ tử phái Tiêu-sơn, được anh hùng các phương tín nhiệm, tôn lên ngôi vua, hầu lo cho trăm họ Đại-Việt. Mới đây lại được Hồng-Sơn đại phu, nguyên là Nam-quốc vương, truyền nhân của vua Lê trao thêm nhiều trọng trách. Bây giờ tại hạ xin tuyên bố đức trạch của đại phu trước anh hùng thiên hạ. Đức trạch của đại phu gồm năm điều.
      Ngừng lại một lát, ngài tiếp:
      - Điều thứ nhất, kể từ giờ phút này, đại xá thiên hạ. Đại xá có ba phần. Phần thứ nhất đại xá hình phạt. Bất cứ ai phạm tội gì, đang ở tù, hoặc đang trong vòng điều tra thụ án, đều được ân xá. Phần thứ nhì, đại xá thuế. Bất cứ con dân Đại-Việt nào còn thiếu thuế những năm về trước, đều được ân xá. Phần thứ ba đại xá lao dịch. Những người nghèo phải bán thân, bán con làm nô bộc, triều đình xin chủ cho họ về nhà làm ăn. Triều đình sẽ bồi hoàn bằng cách khấu trừ tiền thuế những năm sau.
      - Điều thứ nhì, phàm những người già, tuổi từ bẩy mươi trở đi, việc phụng dưỡng tuy do con cháu, nhưng ngày lễ sinh nhật thất tuần An-vũ-sứ, Tiết độ sứ phải trích công khố mua lụa, cùng khánh bạc thay triều đình đến mừng. Lễ mừng sinh nhật cứ tiếp tục hàng năm cho đến khi qua đời. Người nào thọ tới tám mươi, ngày khánh thọ, đích thân Tể-tướng sẽ đại diện triều đình mang khánh vàng tới dự lễ tế sống. Lễ tế sống tiếp tục hàng năm, cho đến khi qua đời.
      - Điều thứ ba, việc trị bệnh các con dân Đại-Việt, triều đình ủy cho phái Sài-sơn. Mỗi xã sẽ có ít nhất một y sĩ đảm trách. Mỗi huyện sẽ có một chẩn y viện, để những người bệnh nặng đến nằm chữa trị. Những y sĩ nào đang hành nghề, phải trình diện đại phu, để được xét lại khả năng, bổ vào chỗ xứng đáng. Người nào không đủ khả năng sẽ được dạy dỗ thêm.
      - Điều thứ tư, hàng năm, các hương dịch phải tấu về triều những lương gia phụ nữ tiết liệt, để triều đình ban sắc Tiết hạnh khả phong hầu tưởng thưởng. Nhà nào một vợ, một chồng sinh năm con trở lên, đều được miễn thuế. Nếu nhà không có ruộng, mỗi con được cấp một mẫu công điền, miễn thuế. Nhà nào khéo dạy con, những bậc thầy giỏi hương ấp, hương dịch phải tâu về, để triều đình ban sắc tưởng thưởng.
      - Điều thứ năm, về binh dịch. Trai tráng tuổi mười sáu trở đi, được ghi tên vào sổ, gọi là hoàng nam. Hoàng nam vẫn học văn, luyện võ. Đến mười tám tuổi, ai tình nguyện đầu quân, ngoài tiền lương bổng ra, mỗi người được cấp một mẫu công điền. Ruộng đó do hoàng nam trong xã cầy cấy, thu hoạch cho, để sau này khi mãn hạn về, còn có tài sản chi dùng. Người nào lập được chiến công, thì thầy, cha mẹ, hương dịch đều được sắc khen. Người nào tuẫn quốc, hương dịch phải thay mà phụng dưỡng cha mẹ già, chu cấp cho con côi, vợ góa.
      Ngài vừa ngừng, thì tiếng hò reo hoan hô vang vang như muốn rung động trời đất. Lý Đạo-Nghĩa giữ quyền Tể tướng lên đài hướng vào bàn thờ lễ tám lễ, rồi nói:
      - Tuân chỉ dụ của đức Hoàng-đế. Các chức sắc trong Hồng-thiết giáo đều được ân xá. Vì vậy Đàm quốc cữu, trước làm Đô nguyên soái, thái-phó, tổng trấn Thăng-long. Nay chức tước vẫn giữ nguyên. Duy chức tổng trấn Thăng-long đã giao cho Tạ Sơn, vì quốc cữu cao niên. Các con quốc cữu cũng được ân xá, giữ nguyên chức tước cũ.
      Thấy Hoàng-đế lờ đi, không xét đến tội âm mưu với Tống, để được làm vua, một tội nhục nhã vô cùng. Đàm Can đến trước Thuận-Thiên hoàng đế quỳ gối lạy tạ. Thuận-Thiên hoàng-đế rơm rớm nước mắt:
      - Đàm huynh! Người cùng ta nguyên kết bạn. Người lại có công phò ta lên ngôi vua. Con gái người ta đã phong quí phi. Người bị quỷ kinh, ma thư Hồng-thiết làm mờ cả trí minh mẫn. Nay người thoát ách, ta mừng cho người.
      Lý Đạo-Nghĩa tiếp:
      - Còn trưởng lão Hoàng Văn, tiềm ẩn trong phủ Khai-Thiên vương, bắt giam Vương-phi làm ô uế hoàng tộc. Tội phải lăng trì, chu di tam tộc. Nay được ân xá tất cả. Nhưng Hoàng trưởng lão nguyên là mệnh quan Tống-triều, tước phong hầu, triều đình sẽ để trưởng lão cùng gia quyến, của cải trở về Trung-nguyên.
      Hoàng Văn đến trước Khai-Thiên vương quỳ lạy tám lạy:
      - Vương gia! Hoàng Văn này tội đáng chết trăm lần. Nay được ân xá, xin khấu đầu tạ tội với Vương-gia.
      Khai-Thiên vương dở khóc dở cười, ông đỡ Hoàng Văn dậy:
      - Hoàng quân hầu chẳng nên đa lễ.
      Vương nghĩ lại trước đây mình ác cảm với Thiệu-Thái, nay muốn bảo chàng giải Chu-sa độc tố cho y mà Vương ngượng. Vương đưa mắt nhìn Mỹ-Linh. Mỹ-Linh hiểu ý phụ vương. Nàng nói:
      - Hoàng quân hầu mau tới bái kiến tân giáo chủ để được trục Chu-sa độc chưởng.
      Hoàng Văn tới trước Thiệu-Thái quỳ xuống. Chàng vung tay lên, chưởng hướng vào chân y. Y bay bổng lên cao, lộn đi ba vòng rồi rơi xuống đài. Máu cùng nước vàng tiết ra ở hai bàn tay y hôi tanh khủng khiếp. Máu càng ra nhiều người y càng hồng hào lên. Lát sau máu không rỉ ra nữa. Y lạy tạ Thiệu-Thái:
      - Đa tạ giáo chủ. Được đức Hoàng-đế cùng giáo chủ ân xá. Thần xin làm một con dân thực ngoan của Đại-Việt để báo ân đức này.
      Lý Đạo-Nghiã tiếp:
      - Trưởng lão Đỗ Xích-Thập cùng trưởng lão Hoàng Liên can tội làm nội ứng cho Tống. Nay trưởng lão Hoàng Liên qua đời rồi, tội lỗi cũng theo luôn. Trưởng lão Đỗ Xích-Thập cũng được ân xá hết tội trạng.
      Lý Đạo-Nghĩa hướng vào quần hùng:
      - Những giáo chúng phạm tội với triều đình, đều được ân xá. Tuy nhiên trước đây, giáo chúng Hồng-thiết gây ra nhiều oán hờn với các gia, các phái, triều đình kêu gọi các gia các phái xoá bỏ hết hận thù cùng nhau giữ nước.
      Đến đó lại có mấy đạo trưởng bị độc chưởng Nhật-Hồ hành, họ kêu thét lên. Bảo-Hòa đưa họ lên đài cho Thiệu-Thái trị. Thiệu-Thái đến trước thầy trò Nhật-Hồ, chắp tay:
      - Nhật-Hồ lão nhân cùng các vị đang bị trúng độc. Tiểu bối xin vì các vị trị độc, để gỡ cái ách cho các vị.
      Nhật-Hồ lão nhân cười nhạt:
      - Thằng bé con kia! Ta tuy bại dưới tay người, nhưng ta không phục. Nếu người muốn ta phục, người phải khai ra hai điều. Điều thứ nhất nội công Tiêu-sơn luyện tập kết quả rất chậm. Tại sao tuổi ôn con như người công lực lại cao đến trình độ không biết đâu mà lường? Điều thứ nhì, mi học Hồng-thiết mật công ở đâu, mà có thể giải được Chu-sa độc chưởng của ta. Người phải nói thực, vì Chu-sa độc chưởng của Tây-dương giáo chủ ta đã biến đổi đi, dù chính lão nhân gia hiện diện cũng không giải được.
      Thiệu-Thái tính người chân thật, chàng không muốn dấu diếm lão, khi lão đã trở thành thân tàn ma dại:
      - Lão tiên sinh đặt câu hỏi thực phải. Nguyên tiểu bối cùng công chúa Bình-Dương bị đại sư Nguyên-Hạnh dùng Chu-sa độc chưởng đánh bại, rồi bắt giam vào Hồng-hương mật cốc. Tại đây, người cũng giam Bồ-tát Sùng-Phạm, cùng Bố-Đại hòa thượng với phu nhân của người tên Đỗ Lệ-Thanh. Chính Bồ-tát Sùng-Phạm đã trút một trăm năm Thiền-công, Đỗ Lệ-Thanh đã truyền Hồng-thiết mật công Trung-nguyên cho tại hạ.
      Nhật-Hồ cau mày:
      - Người nói lạ, Thiền-công của Sùng-Phạm vốn vô sắc, vô tướng. Còn Hồng-thiết mật công phải luyện với độc tố, thuộc loại hữu sắc, hữu hình. Làm sao người trộn làm một được? Họa chăng người có tài bao gồm cả Vạn-tín hầu Lý Thân, Bắc-bình vương Đào Kỳ, Công-chúa Yên-lãng Trần Năng và Tăng-giả Nan-đà.
      Thiệu-Thái mỉm cười:
      - Lão nhân thực xứng đáng thiên tài võ học. Điều gì lão nhân cũng biết hết. Tiểu bối...
      Đến đây có tiếng Khai-Quốc vương dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai chàng:
      - Đừng nói hết ra. Lão đang dò hỏi, để học lóm đấy.
      Thiệu-Thái tỉnh ngộ:
      - Tiểu bối được sư phụ dạy cho.
      - Sư phụ của người là ai?
      - Tiểu bối không biết. Khi thì người bảo người chẳng là cái đếch gì. Khi thì người bảo người cũng như cục phân trâu.
      Nhật-Hồ lão nhân chỉ vào các trưởng lão:
      - Mi làm giáo chủ, mà bất quá chỉ trị được cho mấy đứa đạo trưởng, còn các trưởng lão mi không trị được e cũng vô ích. Mi có giỏi, hãy trị độc chưởng Chu-sa cho chúng đi.
      Nghe Nhật-Hồ thách, Thiệu-Thái vẫy tay gọi Đặng Trường. Y bị Nhật-Hồ vỗ thuốc tê vào đầu, người y mơ mơ hồ hồ, không cử đông được. Nhưng y cũng hiểu tất cả những diễn biến xẩy ra. Y tiến lại trước chàng quỳ gối xuống:
      - Thuộc hạ xin giáo chủ cứu trị.
      Thiệu-Thái để tay lên đầu y, chàng vận Thiền-công đẩy nhẹ. Y rùng mình một cái, máu mũi y tuôn ra xối xả. Các cao nhân ngồi trên đài đều kinh ngạc. Họ tưởng Thiệu-Thái xử dụng công lực quá mạnh, khiến y bị thương. Nhưng họ thấy máu ra xối xả, mà trên gương mặt y hiện ra nét hân hoan. Máu càng ra nhiều, mặt y càng tươi lên. Khoảnh khắc máu ngừng chảy.
      Hoàng Văn đứng dậy. Y hít hơi vận chân khí, thấy lưu thông như thường biết rằng cả thuốc tê lẫn Chu-sa độc chưởng được trục ra khỏi cơ thể. Y hiểu mình đã thoát cái ách mấy chục năm bị Nhật-Hồ khoác vào thân.
      Trước đây mỗi lần Nhật-Hồ tung thuốc vào giáo chúng làm cho tê liệt, sau đó muốn giải, lão cũng dùng thuốc chứ, không dùng thần công. Bây giờ Thiệu-Thái dùng thần công, chứng tỏ công lực chàng cao hơn lão nhiều, khiến giáo chúng nhìn chàng với con mắt khâm phục hơn.
      Hoàng-Văn quỳ gối lạy Thiệu-Thái:
      - Đa tạ giáo chủ giải ách.
      Y đến trước Nhật-Hồ lão nhân lạy ba lạy:
      - Giáo chủ! Sư phụ. Không phải thuộc hạ phụ lão gia, mà chính lão gia phụ thuộc hạ. Theo luật lệ bản giáo, khi có người thắng được giáo chủ bằng Hồng-thiết thần công, người đó đương nhiên thành tân giáo chủ. Bây giờ Thân thế-tử thắng giáo chủ, thuộc hạ xin theo về người. Thuộc hạ tạ từ giáo-chủ ở đây.
      Y đến trước Trần Tự-An quỳ xuống rập đầu binh binh bốn lần:
      - Côi-sơn đại hiệp. Tại hạ bị ma tính, quỷ tính Hồng-thiết kinh làm cho trở thành con quái. Tại hạ đã làm hại đại hiệp cùng phái Đông-a, tội ác không thể chết một lần mà trừ được. Hôm nay tại hạ xin cúi đầu, để lĩnh phạt của đại hiệp.
      Trần Tự-An là một bác học thời đại. Ông chỉ cứng rắn với kẻ ác. Còn đối với người hối lỗi, lòng dạ ông lại rất rộng. Ông đỡ Đặng Trường dậy:
      - Đặng trưởng lão. Khi người đã hối hận, muôn ngàn tội lỗi theo đó trôi đi. Hãy quên tất cả, để cùng nhau lập Lạc-long giáo.
      Thiệu-Thái tiến đến trước Lê Đức, vung tay nói:
      - Lê trưởng lão. Trong bản giáo người có cái nhìn rộng nhất, kiến thức cao nhất. Ta giải ách cho người, để người đem tài năng ra kiến thiết Đại-Việt.
      Nói rồi chàng vung tay đẩy một chưởng vào lưng Lê Đức. Y rùng mình một cái đứng dậy. Nhấp nhô mấy cái, đã rời xa đài, tới chỗ đất trống, y cúi xuống mửa. Y mửa ra đờm trắng, vàng bầy nhầy. Y mửa trong khoảng ăn một bữa cơm, thì hết. Trở lại đài, y rập đầu trước Thiệu-Thái:
      - Đa tạ giáo chủ giải ách.
      Y đến trước Nhật-Hồ từ tạ:
      - Sư phụ! Sư phụ truyền Hồng-thiết kinh cho đệ tử. Nhưng sư phụ cũng cấy vào người đệ tử một con quỷ. Đệ tử làm ác bao năm, nào có biết mình ác! Bây giờ Thân thế-tử giúp đệ tử thoát khỏi quỷ nghiệp, đệ tử phải theo người, chuộc tội với Đại-Việt. Mong sư phụ hiểu cho đệ tử.
      Phạm Trạch đến trước Thiệu-Thái:
      - Thuộc hạ kính xin giáo chủ gia ân.
      Thiệu-Thái vung tay một cái, chưởng lực như có như không đánh vào đỉnh đầu y. Lập tức mười đầu ngón chân y như bị cắt, máu đen chảy tuôn ra. Phạm Trạch ngồi xuống vận công đẩy chất độc. Phút chốc y đứng dậy, tạ Thiệu-Thái:
      - Đa tạ giáo chủ cứu thuộc hạ.
      Y cũng đến trước Nhật-Hồ từ tạ, rồi đứng chắp tay đứng sau Thiệu-Thái.
      Lê Ba đưa mắt nhìn Hồng-Sơn đại phu. Y biết, nếu Hồng-Sơn đại phu không tha tội ắt Thiệu-Thái sẽ chẳng bao giờ ra tay gỡ ách cho y. Xưa nay, y ngồi ở vị thế cao hơn Hồng-Sơn đại phu, thế mà bây giờ y phải tạ tội với ông, đời nào y chịu? Vì vậy y tới trước Nhật-Hồ lão nhân:
      - Sư phụ! Người không phải giáo chủ. Người trở thành con quỷ rồi. Khi tôi đang làm một đạo sĩ, hành y đạo cứu dân, người xuất hiện, thuyết giảng Hồng-thiết kinh. Nhiệt tình với đất nước, tôi bỏ hết, theo người những mong xây dựng một nước theo Hồng-thiết giáo. Thế nhưng người phóng Chu-sa độc chưởng vào tôi, mà không bao giờ gỡ ra. Hôm nay, được hoàng-đế ân xá, tôi không mặt mũi nào nhìn anh hùng thiên hạ, cũng như con em bản giáo. Tôi vẫn tôn thờ thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh, cho nên tôi không muốn ở trong Lạc-long giáo, cũng chẳng muốn theo người nữa. Tôi từ tạ người ở đây.
      Đến đó y hướng vào giáo chúng:
      - Hỡi con em Hồng-thiết giáo! Bấy lâu nay chúng ta tôn thờ thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh, tại sao phút chốc chúng ta lại phải cúi đầu tôn phục thằng nhãi con, cháu ngoại Lý Công-Uẩn làm giáo chủ? Giáo chủ Nhật-Hồ lão nhân, thất đức, chúng ta phải truất phế lão, đó là điều đương nhiên. Sau lão, đến ta lên làm giáo chủ mới xứng đáng. Vậy ta đi đây. Nếu con em nào còn muốn trung thành với nhị thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh, mau cùng ta kiến thiết lại bản giáo.
      Nói rồi y định bước xuống đài. Nhưng y vừa tới mép đài, có bóng vàng thấp thoáng. Một người đáp nhẹ như chiếc lá trước mặt y, đến nỗi suýt nữa hai người chạm vào nhau. Kinh hoàng, y vội nhảy lùi lại một bước. Người kia nhảy theo sát y như bóng với hình.
      Biết gặp kình địch. Y lộn liền ba vòng, tránh ra xa. Trong khi đó, y đẩy trở lại một chưởng. Bóng vàng vung chưởng đỡ. Binh một tiếng. Cả hai lảo đảo lui lại. Lê Ba quát lên:
      - Mi là ai? Ta với mi không thù, không oán. Hà cớ gì mi cản đường ta?
      Mọi người nhìn lại, bóng vàng đó là một nhà sư mặc cà sa đại hồng. Đôi mắt nhà sư chiếu ra tia hàn quang lấp lánh, chứng tỏ nội công cao thâm không biết đâu mà kể. Nhưng mặt nhà sư lạnh lùng, trơ như gỗ, xấu xí đến kinh khủng. Rõ ràng ông mang mặt nạ da người.
      Quần hùng coi hình dáng, dường như nhà sư còn rất trẻ. Ai cũng kinh ngạc vì Lê Ba ở ghế sư thúc của Hồng-Sơn đại phu. Nguyên võ công Sài-sơn của y đã cao thâm không biết đâu mà lường. Y lại luyện thêm Chu-sa Nhất-Hồ độc chưởng. Thế mà vừa rồi nhà sư giao nhau một chưởng với y, bất phân thắng bại.

      Khi nhà sư xuất hiện, đám Tự-Mai, Tôn Đản, Thanh-Mai đều đưa mắt nhìn nhau, rồi nhìn Bảo-Hòa. Vì chính ông đã cứu Bảo-Hòa trong ngày giỗ Lệ-Hải Bà-vương. Chính ông đánh bọn Triệu Huy cứu Thanh-Mai. Khi Mỹ-Linh, Thanh-Mai, Bảo-Hòa bị giam trong hầm đá. Ông đánh thuốc mê cả bọn Triệu Huy, rồi vào sao chép Lĩnh-Nam vũ kinh. Tiếp theo, ông xuất hiện trong Vạn-thảo sơn trang chữa bệnh cho Bảo-Hòa. Gần đây nhất, ông đến trang Yến-vĩ sương sen ném tên Qúy-Toàn vào chuồng hôi, cùng giết cả nhà tên Đặng Đức-Kềnh.
      Nhà sư trẻ không trả lời. Ông xuất một chiêu quyền rất quái dị đánh thẳng vào giữa ngực Lê Ba. Lê Ba thấy kình phong đối thủ trầm trọng vô cùng. Y không giám coi thường, vung chưởng đỡ. Khi hai chưởng sắp giao nhau, y ngẩn người ra, vì chưởng của nhà sư biến thành hư không. Vèo một tiếng, chưởng của Lê Ba như đánh vào một quãng không.
      Nhà sư bật tay một cái, chưởng hướng đỉnh đầu Lê Ba, giống như người ta đùa cợt, không một chút lình lực. Lê Ba vội trầm xuống tránh, thì nhà sư phát một chỉ dương cương mãnh liệt hướng bụng y. Chỉ lực rít lên vo vo. Lê Ba tung người lên không tránh thế chỉ. Nếu nhà sư đánh theo một chỉ nữa ắt Lê Ba hết sống. Nhưng nhà sư tần ngần đứng im.
      Tự-An đưa mắt hỏi Đặng Đại-Khê:
      - Đặng huynh! Hai chiêu đầu hao hao giống Thiên-vương chưởng của phái Sài-sơn. Còn chiêu chỉ phải chăng Lĩnh-Nam chỉ?
      Đặng Đại-Khê trả lời bằng cái gật đầu. Trên đài, nhà sư dùng Thiên-vương chưởng tấn công Lê Ba khiến y luống cuống chân tay. Những cao thủ hạng nhất đều thấy rằng công lực nhà sư không cao hơn Lê Ba. Nhưng ông dùng Thiên-vương chưởng khi cương, khi nhu, khi thực, khi hư, khiến y không biết đường nào mà phản công.
      Đặng Đại-Khê, Trần Tự-An, Hồng-Sơn đại phu tụ lại bên Minh-Không đại sư chỉ chỏ bàn tán.
      Minh-Không hỏi Tự-An:
      - Trần đại hiệp. Đại hiệp có kiến thức uyện bác nhất Đại-Việt. Đại hiệp thử đoán xem nhà sư kia học võ với ai? Mà khi dùng võ công Sài-sơn, khi dùng võ công Tản-viên. Lạ một điều, võ công Sài-sơn xưa nay vốn cương nhu hợp nhất. Thế mà nhà sư trẻ phân ra khi cương, khi nhu, khiến Dương đạo sư không biết đâu mà ứng phó.
      Từ lúc nhà sư trẻ xuất hiện, trong lòng Tự-An thấy một tình cảm lạ lùng dâng lên. Buồn cũng không phải, thương cảm cũng chưa hẳn, vui cũng chẳng đúng. Tự nhiên ông thấy hồi hộp lạ lùng. Nay nghe Minh-Không hỏi, ông đáp:
      - Lúc vị tiểu sư phụ nhảy lên đài, người dùng thân pháp phái Đông-a. Chiêu chưởng đầu tiên tên Lôi đả ngạc ngư của Sài-sơn. Chiêu này đã thất truyền. Đến Hồng-Sơn đại phu cũng không biết. Sao tiểu sư phụ lại xử dụng thành thạo vô cùng? Sau đó lại dùng Lĩnh-Nam chỉ. Xét về hai loại võ công này, hiện nay chỉ có phò mã Đào Cam-Mộc, Bảo-Hòa biết xử dụng. Nhưng Phò-mã chỉ xử dụng được Phục-ngưu thần chưởng dương cương với Lĩnh-Nam chỉ, chứ không biết xử dụng âm chỉ. Còn Bảo-Hoà có thể xử dụng một tay âm, một tay nhu từng chiêu một, chứ không thể hai tay luân phiên xử dụng cương nhu như thế kia.
      Nhà sư tấn công tới tấp, khiến Lê Ba cứ phải lùi hoài. Khi y lùi đến cạnh Nhật-Hồ lão nhân, lão xỉa một ngón tay vào hông nhà sư. Nhà sư kinh hãi nhảy lui lại tránh. Nhờ đó Lê Ba có cơ hội phản công.
      Bình, bình, bình. Y phóng ra ba chiêu Thiên-vương chưởng. Chưởng phong như núi đổ ập xuống. Nhà sư trả lại bằng ba chiêu Thiên-vương chưởng.
      Minh-Không hỏi Hồng-Sơn đại phu:
      - Đại phu! Xin đại phu cho biết, Lê lão sư có còn thuộc phái Sài-sơn không?
      Hồng-Sơn đại phu cười nhạt:
      - Dù Công-Uẩn sư huynh có đại xá thiên hạ. Dù cho Lạc-long giáo chủ xoá bỏ thù hận. Nhưng Lê Ba làm hại bản phái thái quá. Tại hạ không thể tha thứ cho y.
      Hồng-Sơn đại phu cũng như đệ tử Sài-sơn, thấy nhà sư trẻ xử dụng Thiên-vương chưởng cực kỳ huyền ảo. Họ đứng ngây người ra mà nhìn.
      Nguyên sau khi đánh tan giặc Ân, Phù-đổng Thiên-vương lên núi Sài-sơn qui ẩn. Ngài mở phái, thu dụng đệ tử. Trong thời gian đó, ngài chế ra bẩy mươi hai chiêu chưởng. Trong mỗi chiêu bao gồm cả cương lẫn nhu. Khi cương, chân khí bốc ra nóng bỏng. Khi nhu chân khí hoàn toàn băng giá. Đời sau đặt tên pho chưởng ấy tên Thiên-vương chưởng.
      Đến thời Lĩnh-Nam, pho chưởng chỉ còn có hai mươi chiêu. Sau Bắc-bình vương Đào Kỳ tìm ra bộ Văn-lang võ kinh, trong đó có chép đủ 72 chiêu, trao lại cho Nam-Hải nữ hiệp. Nhưng Nam-Hải nữ hiệp chưa luyện xong, bà đã tuẫn quốc. Khi Bắc-bình vương tuân chỉ vua Trưng, chép bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, có chép pho chưởng này lại.
      Trải đến đời sư phụ Hồng-Sơn đại phu, Thiên-vương chưởng chỉ còn mười tám chiêu. Tuy vậy yếu chỉ để luyện, trong phái vẫn còn lưu truyền, mang tên Thiên-vương mật dụ. Lê Ba dùng trăm khôn nghìn khéo giúp ông lên làm chưởng môn, rồi xin ông cho xem Thiên-vương mật dụ. Ông từ chối. Sau y khống chế Vũ Thiếu-Nhung, bắt nàng lấy trộm mật dụ cho y. Không ngờ nàng chịu chết, chứ không nỡ hại chồng.
      Hồng-Sơn đại phu kinh ngạc tự nghĩ:
      - Ta nghe nói Thanh-Mai, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh tìm ra nơi chép Linh-Nam vũ kinh. Có thể họ biết cách luyện Thiên-vương chưởng. Nhưng dù họ có cuốn phổ, mà không biết Thiên-vương mật dụ, sao luyện thành? Nhà sư là ai, mà y lại xử dụng thành thạo Thiên-vương chưởng thế kia?
      Từ lúc nhà sư xuất hiện, trong lòng Bảo-Hoà nổi lên một cơn bão tố. Tim nàng đập loạn xạ. Mặt nàng khi trắng khi hồng. Vì nhà sư này, chính người theo sát bên nàng mấy năm qua, không lúc nào rời.
      Lần đầu tiên, nàng tuân chỉ của mạ mạ, cùng anh theo dõi hành tung của bọn Địch Thanh. Trên đường hành sự nàng gặp nhà sư. Nhà sư tỏ ra hào sảng, cho nàng biết rằng chính ông cũng theo dõi bọn Địch-Thanh.
      Thế rồi ai bên cùng làm chung một việc. Bảo-Hoà không theo Phật giáo. Vì vậy dọc đường nàng trêu chọc, châm biếm nhà sư, làm tình làm tội thế nào nhà sư cũng không giận. Chọc nhà sư chán, nàng sai nhà sư thi hành không biết bao nhiêu công tác khó khăn, lạ lùng thay nhà sư vẫn vui vẻ chiều nàng.
      Một lần nàng nói đùa: Thôi tiểu sư phụ đừng đi tu nữa. Tôi nói với mạ mạ, cưới tiểu sư phụ làm chồng quách. Bảo-Hoà tưởng với câu nói đùa này nhà sư sẽ nhảy dựng lên. Nào ngờ, ông e thẹn, cúi đầu xuống không trả lời. Từ đấy trong lòng Bảo-Hoà nảy sinh ra mối nhu tình với nhà sư.
      Khi đến trấn Thanh-hoá, nàng bị bọn Địch Thanh, Dư Tĩnh tấn công. Nhà sư nhảy vào cứu nàng. Nhưng ông cặp nàng chặt quá. Sự đụng chạm cơ thể lần đó khiến người Bảo-Hoà như tê liệt. Từ đấy nàng yêu thương nhớ nhung nhà sư, mà nàng không hề biết mặt mày.
      Hồi bị bọn Triệu Huy giam ở hầm đá, trong khi nàng bị trúng độc mê man. Nhà sư xuất hiện, dùng châm cứu trị bệnh cho nàng. Mỹ-Linh còn kể, nhà sư chép toàn thể bộ Lĩnh-Nam vũ kinh mang đi. Rồi tới hôm nàng bị Hồng-Sơn đại phu phóng thuốc độc vào người, không thể thoát khỏi Vạn-thảo sơn trang. Nhà sư lại xuất hiện cứu nàng. Hai người yêu nhau say đắm ngay từ đêm ấy.
      Bẵng đi hơn năm trời, bây giờ, nhà sư lại xuất hiện, với võ công cao thâm ngang với Đại-Việt ngũ-long.
      Trên đài Lê-Ba bắt đầu dùng Chu-sa độc chưởng. Mỗi chưởng của y đánh ra đều có mùi tanh hôi khủng khiếp. Nhà sư biết thế, ông dùng Lĩnh-Nam chỉ pháp trả đòn. Chỉ phong véo, véo, tuôn ra. Mỗi chỉ như mũi kiếm đâm thủng màn chưởng của Lê Ba. Lập tức y cảm thấy đau nhói ở ngực. Y kinh
      hãi nghĩ:
      - Cơ chừng này, mình chắc bỏ mạng tại đây mất thôi. Bây giờ Hồng-thiết giáo tan vỡ. Mộng bá vương tan như sương. Thôi thì mình bắt lấy đứa con gái nào đó làm con tin, hầu thoát thân. Sau đó kiếm nơi hang cùng, dùng làm cây thuốc, an hưởng tuổi già.
      Nghĩ vậy y đánh liền ba chưởng, bình, bình, bình. Rồi y nhảy khỏi đài. Nhà sư không tha, ông đuổi theo. Như ánh chớp, Lê Ba xẹt đến khán đài phái Sài-sơn. Y chụp một nữ đệ tử phái này đơ lên đỡ chỉ của nhà sư. Nhà sư vội hướng chỉ ra chỗ khác, nhảy lùi lại.
      Một tay Lê Ba túm nữ đệ tử kia, một tay phóng chưởng đánh nhà sư. Nhà sư kinh hãi, chỉ biết nhảy nhót tránh né.
      Hai đệ tử phái Sài-sơn tung mình tấn công Lê-Ba cứu đồng môn. Mọi người nhìn lại đó là Dương-Bình với Lê-Văn.
      Hồng-Sơn đại phu vội trở về khán đài của mình. Ông hiểu liền.
      Thì ra nữ đệ tử mà Lê Ba chụp làm bia đỡ chỉ của nhà sư, chẳng ai khác hơn Lê Thiếu-Mai.
      Hồng-Sơn đại phu quát lớn:
      - Ngừng tay!
      Dương Bình, Lê Văn nhảy lùi lại sau bố. Nhà sư trẻ cũng thu chỉ về. Hồng-Sơn gườm gườm nhìn Lê Ba. Ông nói với y:
      - Sư thúc! Việc làm của sư thúc gây ra biết bao nhiêu oán hờn. Tôi vì đại nghĩa, tuân chỉ ân xá của Thuận-Thiên hoàng-đế, cùng lời cầu khẩn của Lạc-long giáo, không truy cứu tội của sư thúc. Hà cớ gì sư thúc còn định bắt Thiếu-Mai làm bia đỡ đòn?
      Lê Ba cười nhạt:
      -- Người muốn ta thả Thiếu-Mai ra ư? Cũng được. Người phải nạp Vũ Thiếu-Nhung cho ta. Vũ Thiếu-Nhung trước kia làm vợ nhà ngươi. Nhưng sau đó nàng thuận dâng hiến cho ta. Vì vậy nàng là vợ ta. Cho nên ta muốn mang nàng đi. Ta tìm không thấy nàng, bắt con gái thay vào. Không mẹ thì con, có gì là lạ đâu? Mi cản ta như thế này mà bảo rằng phải lý ư? Nếu mi để cho ta đi, mọi truyện sẽ tốt đẹp. Bằng không, ta bóp chết y thị.
      Nhà sư trẻ quát lên một tiếng. Ông tung ra một chiêu chưởng hướng Lê Ba. Chưởng phong cực kỳ trầm trọng. Nếu Lê Ba có đưa Thiếu-Mai ra đỡ, cả y lẫn nàng thịt nát xương tan. Y vội tung nàng lên cao, phát một chiêu Thiên-vương chưởng đỡ. Trong khi y lùi liền ba bước để hoá giải kình lực của nhà sư trẻ. Nhà sư trẻ tiến lên, đánh liền ba chưởng nữa. Lê Ba phải lùi liền ba bước.
      Nhà sư bắt lấy Thiếu-Mai. Lê Ba thấy mất Thiếu-Mai, y tiến lên phóng chưởng phản công. Nhà sư trẻ cặp Thiếu-Mai vào nách, tay phải đỡ chưởng của Lê Ba. Bình một tiếng. Cả hai bật lui lại một bước.
      Thình lình Lê Ba lui liền hai bước. Vèo một tiếng, y xẹt qua khán đài phái Sài-sơn, tay y chụp một phụ nữ khác ở phía sau. Bà chính là Vũ Thiếu-Nhung.
      Quần hào la hoảng. Lê Ba lầm lỳ nhìn mọi người. Sắc mặt y tím bầm, coi thực khủng khiếp.
      Hồng-Sơn đại phu định xuất chưởng tấn công y, Lê Văn tới trước ông quỳ xuống:
      - Bố! Bố coi như mẹ con chết rồi. Bố để cho y mang mẹ con đi. Nếu bố tấn công y, ắt mẹ con chết.
      Hồng-Sơn đại phu bị Lê Ba nói điều bí mật dơ bẩn của vợ ông ra trước quần hùng. Lòng tự ái nổi dậy, ông nghiến răng:
      - Lê Ba! Trước kia ta tôn kính mi biết bao! Nay chính mi hại mi, mi đừng trách ta tàn bạo.
      Ông vung chưởng tấn công y. Thấp thoáng bóng xanh, Thanh-Mai đã đứng trấn trước ông:
      - Sư phụ! Sư phụ để con thanh lý môn hộ. Với cái thứ người dơ bẩn như Lê Ba, sư phụ không nên hạ thể giao chiến với y.
      Hồng-Sơn đại phu biết công lực Thanh-Mai hiện giờ cao không thua gì ông. Nàng lại học được phương pháp dĩ độc trị độc của phái Đông-a, ắt nàng đủ sức kiềm chế Lê Ba. Ông lui lại.
      Thanh-Mai phát chiêu Đông-hải lưu phong của phái Đông-a. Nàng vận đủ mười thành công lực. Chưởng phong cuộn như một cơn gió lốc. Lê Ba kinh hãi vung chưởng đỡ. Chưởng của y có mùi hôi tanh nồng nặc. Ầm một tiếng. Y bật lui hai bước. Trong khi Thanh-Mai lui một bước.
      Lê Ba biết mình khó thắng Thanh-Mai. Mà dù y có thắng nàng, ắt Thiên-trường ngũ kiệt sẽ lâm chiến. Vốn tính tàn ác, vô tình, bạc nghĩa, y chuyển tay ôm Vũ Thiếu-Nhung trước ngực, rồi cười:
      - Con nha đầu kia, mi có giỏi cứ phát chưởng đi.
      Thanh-Mai không dám phát chưởng. Vì nàng sợ làm sư mẫu tổn thương.
      Mọi người ngơ ngác, không biết giải quyết sao. Thì sư thái Tịnh-Huyền ghé tay Lâm Huệ-Phương, Mỹ-Linh nói nghỏ mấy câu. Huệ-Phương tiến đến gần Lê Ba chắp tay:
      - Lê sư thúc. Nếu sư thúc muốn, tiểu nữ nguyện thay cho chị Thiếu-Nhung. Sư thúc muốn băm vằm, mổ xẻ thế nào tiểu nữ cũng không oán hận.
      Hồng-Sơn đại phu chưa kịp cản, Huệ-Phương đã chạy đến bên Lê Ba. Lê Ba vốn là con quỷ dâm dục. Từ hôm thấy Huệ-Phương về làm dâu Vạn-thảo sơn trang, y thèm đến dỏ dãi ra. Trong lòng y nguyện phải bắt cóc nàng làm cây thuốc. Vừa rồi, y định bắt nàng. Nhưng thấy nàng ngối gần Hồng-Sơn đại phu. Y không giám. Y chuyển ra ý bắt Vũ Thiếu-Nhung mang đến một chỗ kín nào đó, dùng làm cây thuốc luyện công. Bây giờ Huệ-Phương tình nguyện, điều y cầu mà không được.Y tung Thiếu-Nhung ra, chụp Huệ-Phương. Thì nhanh như chớp, sư thái Tịnh-Huyền xẹt tới xớt nàng. Mỹ-Linh xớt Thiếu-Nhung nhảy lui. Trong khi đó nhà sư trẻ tấn công y bằng ba chỉ liên tiếp.
      Quần hùng thấy sư thái Tịnh-Huyền lập mưu cứu được Thiếu-Nhung, Huệ-Phương, đều thở dài nhẹ nhõm, vỗ tay hoan hô.
      Bỗng Mỹ-Linh kêu lớn lên:
      - Hồng-Sơn phu nhân làm sao rồi!
      Lê Thiếu-Mai vội chạy lại bắt mạch. Nàng tìm ra trên ngực bà có con dao nhỏ đâm giữa vùng tim. Mặt bà tái mét, hơi thở dồn dập. Bà nói rất khó khăn:
      - Con! Con tha thứ cho mẹ. Thân mẹ dơ bẩn, thực không xứng đáng làm người nữa.
      Hồng-Sơn đại phu móc trong bọc ra ba viên thuốc bỏ vào miệng bà. Ông vận nội lực đẩy thuốc xuống bao tử, phút chốc mặt bà tươi lên. Bà mỉm cười:
      - Đại phu! Thiếp không hề phụ đại phu. Bằng chứng thiếp chịu đau bốn mươi chín ngày rồi chết, không trao Thiên-vương mật dụ cho y. Nhưng khi bị trúng chưởng, độc chất làm cho thiếp mất nhân tính, để cho bọn quỷ làm dơ bẩn thân thể. Vì vậy, thiếp lấy cái chết để tạ lỗi với đại phu.
      Đến đó, bà mửa ra mộm búng máu rồi chết. Lê Văn kêu lớn:
      - Mẹ! Mẹ lại chết nữa à?
      Nhà sư trẻ vẫn dùng Thiên-vương chưởng đấu với Lê Ba. Khi ông dùng dương kình, chưởng phong như núi lở như băng tan, chạm vào chưởng của Lê Ba bật thành tiếng nổ lớn. Khi ông dùng dùng âm kình, chưởng phong không có, mà khiến cho Lê Ba lảo đảo.
      Nhà sư trẻ với Lê Ba đã đấu nội lực. Mọi người cùng nín thở theo dõi. Hồng-Sơn đại phu bàn với Tự-An:
      - Sư huynh! Công lực Lê Ba cao không biết đâu mà lường. Đệ sợ vị tiểu sư phụ không chịu nổi mấy khắc nữa.
      Quả nhiên, nhà sư trẻ bắt đầu yếu thế. Ông lùi một bước. Trên đầu ông có làn khói bốc ra. Hồng-Sơn đại phu cuống lên:
      - Làm sao bây giờ?
      Trên từ Minh-Không, Tự-An, Hồng-Sơn đại phu đều chuẩn bị, nếu thấy nhà sư trẻ bị nguy cấp, lập tức nhảy vào diệt Lê Ba.
      Nhà sư trẻ lại lùi một bước nữa, cơ chừng ông nguy đến nơi.
      Bảo-Hòa nhảy lên đài, nàng dõng dạc nói lớn:
      - Lê Ba, tội mi ác ngập đầu. Ta bất kể đạo lý, luật lệ võ lâm. Hôm nay ta ra tay giết người như giết con rắn độc.
      Nói rồi nàng phát một chiêu Long-hổ chưởng đánh vào lưng y. Mọi người đều hoan hô:
      - Rồi đời tên đại ác nhân.
      - Đáng kiếp.
      Một người từ góc đài, vung chân đá vào lưng Bảo-Hòa một cước cứu Lê Ba. Bắt buộc Bảo-Hòa phải thu chưởng về, nhảy lùi lại tránh. Nàng nhìn lại, người cứu Lê Ba chính là Nhật-Hồ lão nhân.
      Lão nói:
      - Không thể hai người đánh một.
      Bảo-Hòa đành nhảy xuống đài.
      Nhà sư trẻ cơ chừng không chống nổi nữa rồi. Mọi người cuống lên.
      Một thiếu phụ từ phái Đông-a, tha thướt bước ra. Bà đến bên nhà sư trẻ với Lê Ba, rồi nói:
      - Anh Ba ơi! Anh có nhớ em không? Anh có nhớ đêm mười rằm tháng bẩy vừa rồi anh đến Ngọc-lan đình cùng em uống rượu ngắm trăng không?
      Lạ thay, thiếu phụ cất tiếng nói rất ôn nhu, mà công lực Lê Ba giảm xuống. Nhà sư đã lấy lại được thăng bằng.
      Nghe tiếng thiếu phụ, Tự-An rúng động tâm can. Vì nàng chính là Cao Huyền-Nga, vợ của ông. Trước đây Cao Huyền-Nga bị bắt làm cây thuốc cho bọn Hồng-thiết giáo luyện công, mới được Mỹ-Linh, Tự-Mai cứu ra. Từ hôm đoàn tụ với chồng, bà giữ lời hứa với Khai-Quốc vương, không cho ông biết mình bị bọn Hồng-thiết giáo dùng làm cây thuốc. Thế nhưng trong lòng bà luôn nổi lên cơn phong ba. Bà muốn tìm cái chết để tạ lòng chồng.
      Hôm nay thấy nhà sư đang đấu nội lực với Lê Ba, nguy cơ đến trong chốc lát. Khi nhà sư lên đài, bà đã nhận ra chân tướng của ông ta. Bà muốn dùng cái chết để cứu nhà sư trẻ.
      Lê Ba nổi cộc lên văng tục:
      - Con tiện nhân cút ngay.
      Cao Huyền-Nga tiếp:
      - Anh nhớ chứ. Hôm đó em đang hành kinh. Anh xin uống kinh của em để luyện công. Em dâng cho anh hết cả.
      Lê Ba nghe Cao Huyền-Nga nói, kinh khí của y chạy hỗn loạn. Y lui liền ba bước. Nhà sư dồn chân khí tấn công mạnh hơn.
      - Anh Lê Ba ơi! Ngừng đấu võ đi, để cùng em hưởng thú thanh nhàn.
      Lê Ba nghe đến đây, y thấy máu đưa lên cổ. Y nghiến răng không thở, nhưng chỉ được một lát, máu lại đưa lên. Y oẹ một tiềng, máu miệng phun ra có vòi. Y lảo đảo lùi lại. Tay phải y túm Cao Huyền-Nga:
      - Mày muốn giết tao ư? Thì tao với mày cùng chết.


      <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.01.2005 01:40:07 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 13.01.2005 18:23:59 (permalink)
        Hồi thứ sáu mươi chín

        Bể khổ vô bờ,
        Hồi đầu thị ngạn.



        Lê Ba đánh một quyền vào giữa đầu bà. Binh một tiếng. Cao Huyền-Nga bị bật tung ra xa, sọ vỡ óc tung toé..
        Nhà sư trẻ nổi giận phóng vào người y ba chỉ liền. Phụp, phụp, phụp. Ngực, đầu y thủng ba lỗ. Y quằn quại mấy cái, rồi ngã xuống.
        Nhà sư trẻ ôm lấy Cao Huyền-Nga gọi lớn:
        - Mẹ ơi! Mẹ ơi! Mẹ cứu được con, thì mẹ lại chết.
        Thanh-Mai, Tự-Mai chạy đến bên nhà sư gọi:
        - Anh Thông-Mai đấy ư? Bấy lâu nay anh ở đâu?
        Nhà sư trẻ mở mặt nạ ra, mọi người ồ lên kinh ngạc. Ông chính là một tiểu hoà thượng pháp danh Huệ-Trung của chùa Sơn-tĩnh. Huệ-Trung đến trước Tự-An quỳ gối lạy bốn lạy:
        - Xin bố tha tội cho đứa con bất hiếu này.
        Sùng-Văn kinh ngạc vô cùng. Vì cách đây bẩy năm, có thiếu niên lên chùa Sơn-tĩnh xin thọ giới đi tu. Nguyên-Hạnh không biết lý lịch thiếu niên, nên không chịu thu nhận làm đệ tử. Thiếu niên hết sức cầu khẩn, đại sư Sùng-Văn, viện trưởng viện Hoằng-Pháp mủi lòng thu làm đệ tử, cho thọ giới sa di, pháp danh Huệ-Trung.
        Vì không rõ lý lịch thiếu niên, nên chùa Tiêu-sơn chỉ dạy cho Huệ-Trung kinh kệ, mà không dạy võ công. Huệ-Trung rất chăm chỉ, cần cù học kinh điển. Chàng nói với sư phụ Sùng-Văn:
        - Sư phụ! Mẫu thân đệ tử mới qua đời. Trong lòng đệ tử không tin người đã khuất. Vì vậy đệ tử xin thọ giới với lời nguyện Đệ tử tu đến khi nào gặp mẫu thân. Dù gặp trên dương thế, dù gặp ở thế giới Cực-lạc.
        Bảo-Hoà đến trước Thông-Mai, nàng nói trong nước mắt:
        - Anh! Anh chính là Thông-Mai ư?
        Thông-Mai gật đầu:
        - Anh đã nguyện với bản sư, chỉ tu đến khi nào... khi nào gặp mẫu thân. Kể từ nay anh không còn làm hoà thượng nữa. Bảo-Hoà chẳng nên khổ tâm.
        Có tiếng hú rùng rợn, lảnh lót, mọi người nhìn lại, thì ra thuốc hết hiệu nghiệm, Vũ Nhất-Trụ nhảy lên, hét be be vì đau đớn. Hồng-Sơn đại phu lại phóng đến người y một viên thuốc. Nhưng lần này vô hiệu. Y vẫn đau đớn rên la:
        - Đại-phu... cho thêm vài viên nữa.
        Hồng-Sơn đại phu phóng liền một lúc bốn viên Ma-túy hoàn vào người y, nhưng y vẫn la hét nhảy lên choi choi.
        Minh-Không đại sư thở dài:
        - Dường như Ma-túy hoàn chỉ có hiệu lực đến viên thứ năm. Đại phu, có cách nào không?
        Hồng-Sơn đại phu lắc đầu:
        - Ma-túy hoàn của tại hạ, phóng vào người thường một viên có thể làm cho tê hẳn đi, mê trong vòng một ngày một đêm. Nhưng đối với những vị công lực cao như Nhật-Hồ lão nhân cùng các vị trưởng lão, tại hạ đã xử dụng đến năm viên. Bây giờ cơ thể quen với thuốc, thành ra vô dụng mất rồi.
        Minh-Không đại sư hỏi Thiệu-Thái:
        - Thân giáo chủ. Hồng-thiết công của giáo chủ có thể trị cho Đàm quốc cữu không?
        Thiệu-Thái kính cẩn chắp tay:
        - Bạch đại sư, Hồng-thiết thần công có thể giải được Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng mà thôi. Còn trường hợp Nhật-Hồ giáo chủ cùng các trưởng lão Vũ, Đỗ, Nguyễn là do các vị dùng độc chưởng đánh người, rồi bị đẩy ngược trở lại. Vụ này tiểu bối nghi Hồng-thiết thần công cũng vô ích.
        Chàng chỉ Đỗ Xích-Thập:
        - Hồi sáng, Đỗ trưởng lão dùng độc chưởng đấu với Côi-sơn đại hiệp, bị người đẩy chất độc trở lại cơ thể. Nhật-Hồ lão nhân đã dùng Hồng-thiết thần công cứu trị. Không những Đỗ trưởng lão không khỏi, mà bệnh càng nặng thêm ra.
        Hồng-Sơn đại phu lo lắng:
        - Lát nữa đây cả bốn thầy trò Nhật-Hồ cùng tái phát. Họ hoá điên, hoá khùng, ai sẽ kiềm chế họ cho được?
        Đại phu hỏi Trần Tự-An:
        - Trần huynh! Trần huynh phát minh ra phương pháp dĩ độc trị độc dùng thần công đẩy chất độc về người đánh mình. Vậy Trần huynh có cách nào trị cho họ không?
        Tự-An cười lớn:
        - Minh-Không đại sư là Bồ-tát đắc đạo, dù kẻ ác đến đâu, người cũng muốn cứu chúng. Đại phu làm thầy thuốc, dù người ta tróc thịt, trầy da, đại phu cũng thương xót. Song đối với đệ lại khác. Kẻ kia dùng trăm thứ độc luyện công, gieo tang tóc khắp Đại-Việt. Mấy chục năm qua, có hàng trăm vạn người chết vì họ. Tại hạ muốn băm vằm họ ra làm nghìn mảnh, xác quẳng xuống trộn với phân mới hả dạ! Tại sao lại phải cứu họ? Nếu như hồi nãy, công lực tại hạ kém, e giờ này tại hạ sẽ đau đớn đến phải kêu cha gọi mẹ, rồi cúi đầu lậy mấy con quỷ này để cầu thuốc giải, liệu chúng có tội nghiệp tại hạ không?
        Ông hướng vào Thuận-Thiên hoàng-đế:
        - Hoàng-đế bệ hạ. Bệ hạ làm đấng minh quân, nhân từ hơn Nghiêu, Thuấn, không kém gì vua Hùng, vua An-Dương. Bệ hạ ban chỉ đại xá cho bọn ma đầu này, đấy thuộc quyền của bệ hạ. Lạc-long giáo chủ xoá bỏ mọi hận thù, Trần mỗ cũng ứng lời giáo chủ đại xá cho Đặng Trường. Đại xá không có nghĩa phải ra tay cứu bọn ma đầu.
        Quần hùng nghe Tự-An nói, nhiều người khoan khoái trong lòng. Họ vỗ tay hoan hô.
        Tự-An tiếp:
        - Tại hạ xin đề nghị với Lạc-long giáo, hãy trói thầy trò Nhật-Hồ lại ngay, bằng không lát nữa chúng nổi cơn điên lên, bấy giờ anh em tại hạ đành giết chúng như giết con chó điên vậy.
        Đỗ Xích-Thập đang ngồi vận công, nghe Tự-An nói, y vọt người dậy, phát một chưởng hướng vào ông. Trong chưởng có mùi hôi tanh nồng nặc. Tự-An vận khí chống độc, rồi phát chiêu Nam-phong ngộ sơn chống trả. Ông đẩy chưởng cửa y vào người Vũ Nhất-Trụ.
        Vũ Nhất-Trụ kinh hãi, phát chưởng đỡ. Ầm một tiếng, cả y lẫn Xích-Thập lảo đảo lùi lại.
        Nguyễn Chí đang ngồi vận công, y đứng dậy phát chưởng đánh Tự-An. Tự-An lại đẩy chưởng của y về phía Xích-Thập. Xích-Thập vừa phát chưởng, chân khí gần kiệt. Y lùi lại một bước núp sau Nhật-Hồ lão nhân. Nhật-Hồ đứng dậy phát một chiêu, hoá giải kình phong của Nguyễn Chí.
        Tự-An cười nhạt:
        - Tên bán nước Xích-Thập kia. Mi đã bị trúng độc, mà còn xử dụng võ công, chẳng khác gì tự tử. Xưa nay mi phóng độc vào người ta, rồi bắt người ta quỳ lạy quen rồi. Bây giờ mi hãy quỳ xuống lạy ta tám lạy. Kêu đủ một trăm tiếng Con cắn cỏ con lạy ông. Xin ông cứu cho cái mạng kiến ruồi của con. Ta sẽ cứu mệnh chó má của mi.
        Tự-An nói xong câu đó quần hùng đều bật cười. Ai cũng tưởng ông nói thế, ắt Xích-Thập sẽ nổi cơn điên phóng chưởng giết ông. Nào ngờ y bò đến trước ông, rập đầu binh binh đủ tám lần:
        - Con cắn có lạy ông... xin... ông tha cho cái mạng chó má này.
        Nguyễn Chí, Vũ Nhất-Trụ tỏ vẻ khinh bỉ:
        - Đồ hèn hạ.
        Vũ-nhất-Trụ phóng một chưởng hướng đầu Xích-Thập. Xích-Thập vung tay đỡ. Binh một tiếng, cả hai bật lui lại.
        Đến đó Nhất-Trụ, Nguyển-Chí, Xích-Thập đồng kêu thét lên, rồi nhảy chồm chồm. Ba người lên cơn điên phóng chưởng đánh lẫn nhau. Các cao nhân cùng rời khỏi đài, tránh độc chưởng.
        Lát sau đến Nhật-Hồ lão nhân cũng lên cơn. Bốn thầy trò phát chưởng. Độc khí bay khắp đài, không còn phân biệt được ai đánh ai nữa.
        Minh-Không thiền sư nói với Tự-An:
        - Côi-sơn đại hiệp! Thiên-trường ngũ kiệt đều biết xử dụng thần công chống Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng. Xin các vị mau khống chế Nhật-Hồ giáo chủ cùng các vị trưởng lão. Bằng không thì có nhiều người chết bây giờ.
        Tự-An hỏi Thiệu-Thái:
        - Thân giáo chủ. Không biết Nhật-Hồ cùng các gã họ Đàm, Đỗ, Nguyễn có còn ở trong Lạc-long giáo không? Nếu họ còn ở trong giáo chúng của quý giáo, xin quý giáo quản thúc, kiềm chế họ. Bằng không phái Đông-a sẽ tuân lệnh Minh-Không đại sư đánh chó điên.
        Thiệu-Thái nhìn thấy trò Nhật-Hồ hoá điên, chàng nói với Tự-An:
        - Đỗ trưởng lão đã chịu qui phục tiền bối. Xin tiền bối trị cho Đỗ trưởng lão.
        Tự-An mỉm cười, ông nhắm đỉnh đầu Đỗ Xích-Thấp đánh một quyền. Xích-Thập tuy trong cơn mê loạn vì đau đớn, nhưng cũng nhận ra được Tự-An. Y biết Tự-An trị bệnh cho, nên không phản công. Quyền Tự-An trúng đầu Xích-Thập đến binh một tiếng. Xích-Thập loạng choạng ngã ngồi xuống. Tự-An túm cổ y nhắc bổng lên. Ông vọt mình, rời khỏi đài, đem Xích-Thập về khán đài phái Đông-a.
        Người Xích-Thập nhũn ra, nhưng bao nhiêu cái đau đớn, điên loạn biến mất. Y chắp tay tạ Tự-An:
        - Đa... tạ.
        Tính Tự-An cực kỳ cương ngạnh. Đối với người đạo đức, ông kính trọng, xử lại bằng đạo đức. Đối với kẻ ác, ông giết không tha. Trong lúc ghét thầy trò Nhật-Hồ, ông đưa ra điều kiện bắt họ quì lạy một trăm lạy, với lời cầu khẩn trên, chẳng qua để tỏ rằng mình không muốn trị cho họ. Nào ngờ Xích-Thập qùy gối cầu xin thực. Trong lòng ông hối hận vô cùng về việc làm của mình.
        Ông dùng một quyền đánh trên huyệt Bách-hội của Xích-Thập. Bách-hội tổng hội các kinh dương cùng Đốc-mạch. Khi đánh, ông dồn chân khí vào. Bao nhiêu độc khí ban nãy ông đẩy về người Xích-Thập, đã bị ông hoá giải. Vì vậy y không còn đau đớn nữa.
        Ông để Xích-Thập ngồi ngay ngắn lại, rồi quỳ gối trước mặt y:
        - Tại hạ Tự-An, hồi nãy có lời lẽ ngông cuồng quá đáng. Mong Đỗ huynh tha tội cho.
        Sau đó ông lạy Xích-Thập đủ tám lạy.
        Xích-Thập tuy được cứu khỏi cơn đau. Nhưng sau cơn mê sảng, người y mất hết lực. Y muôn ngăn cản không cho Tự-An lạy, nhưng sức không còn, miệng chỉ lắp bắp được câu:
        - Không nên...Không nên làm thế.
        Thiệu-Thái thấy Tự-An cứu được Xích-Thập, chàng nói với ông:
        - Tiền bối. Xin tiền bối cứu Nhật-Hồ lão nhân cùng Đàm, Nguyễn trưởng lão một phen.
        Tự-An lắc đầu:
        - Thế tử ơi! Đỗ huynh do tôi dùng nội lực Đông-a đẩy chất độc vào người, tôi mới trị được. Còn Nhật-Hồ với Đàm, Nguyễn do Thế-tử đẩy chất độc vào người họ, phải do chính Thế-tử mới hoá giải nổi. Chứ tôi làm sao mà cứu họ được. Đối với Đỗ huynh, tôi đã hoá giải chân khí của tôi trong thân người. Còn độc tố Chu-sa xin Thế-tử ra tay.
        Thiệu-Thái vung tay đánh vào huyệt Đại-trùy của Xích-Thập. Người y rung động thực mạnh, rồi mửa ra mấy ngụm máu. Y mửa đến ngụm thứ bẩy thì ngừng lại, đến trước Thiệu-Thái:
        - Đa tạ giáo chủ giải ách.
        Thiệu-Thái hỏi Tự-An:
        - Xin tiền bối chỉ cho cháu phương pháp hoá giải chân khí cháu đẩy độc chất trở lại người Nhật-Hồ lão gia cùng Vũ, Nguyễn trưởng lão.
        Tự-An mỉm cười:
        - Đối với nội lực của Thế-tử, tôi không biết sẽ hoá giải bằng phương pháp nào. Còn nội lực Đông-a, tôi dùng ba kinh dương đẩy chất độc vào người họ bằng ba kinh âm. Vì vậy bây giờ đảo đi, tôi dùng chân khí chuyển vào sáu kinh dương. Chân khí đó sẽ gặp chân khí ở sáu kinh âm. Thế là âm dương tự hoá giải lẫn nhau.
        Nói rồi ông nhảy khỏi đài.
        Trong khi đó Thông-Mai đến bên Hồng-Sơn đại phu:
        - Xin sư bá miễn cho cháu cái tội học trộm võ công của Thiên-vương.
        Hồng-Sơn đại phu với đại hiệp Tự-An vốn thân nhau từ nhỏ. Chả vậy mà khi thấy Thanh-Mai lần đầu, ông không cần hỏi ý kiến Tự-An, cũng chẳng biết Thanh-Mai có tuân lệnh không, ông dạy y khoa cho nàng liền. Bây giờ thấy Thông-Mai xử dụng võ công Sài-sơn đến chỗ tinh vi, ông mừng vô hạn. Ông cầm tay chàng:
        - Tre già măng mọc. Ta mong dạy cho cháu mà không được. Thấy cháu xử dụng võ công bản môn đến chỗ siêu việt, ta mừng thầm vì Thiên-vương linh thiêng đã ban ơn cho cháu. Có điều ra thắc mắc rằng : Ai đã dạy cháu?
        Thông-Mai ghé tai đại phu tường thuật một lúc. Mắt đại phu sáng lên:
        - Khi cháu thượng đài, ta cũng nghi vị cao nhân đó dạy cháu. Ta thực hồ đồ, không biết rõ hành tung của Lê Ba. Ai ngờ trong bóng tối, cao nhân đó biết hết bộ mặt của y. Người dạy cháu võ công bản môn, rồi ủy cho cháu giết tên Lê Ba để thanh lý môn hộ phải không?
        - Thưa sư bá đúng thế.
        Trên đài, thầy trò Nhật-Hồ vẫn hú lên lanh lảnh, tỏ ra đau đớn cùng cực. Thiệu-Thái thấy Vũ Nhất-Trụ, Nguyễn Chí đang đấu với Nhật-Hồ lão nhân. Người nọ đánh lẫn người kia, chiêu thức rối loạn, chẳng ra đường lối nào cả. Họ không khác gì ba người điên đang đùa với nhau. Chàng thở dài:
        - Mình thử làm giống sư bá Tự-An xem. Biết đâu chẳng thành công?
        Chàng vận khí, vỗ vào đầu Nguyễn Chí, Vũ Nhất-Trụ, mỗi người một cái. Hai người loạng choạng ngã ngồi xuống đài.
        Thấy thành công, chàng hướng đầu Nhật-Hồ lão nhân vỗ một cái. Lão cũng ngã ngồi xuống.
        Cả ba người gần như tỉnh táo. Họ nhắm mắt ngồi dưỡng thần. Quần hào hoan hô nhiệt liệt. Thiệu-Thái an ủi:
        - Các vị chịu khó ngồi vận công, lát nữa tại hạ sẽ khu trục độc tố Chu-sa cho các vị.
        Thiệu-Thái bảo anh em Đào Nhất-Bách:
        - Ba vị đưa từng đạo trưởng một lên đài, để bản nhân giải ách cho họ.
        Một thiếu phụ tuổi khoảng ba mươi lên đài, quì gối hành lễ:
        - Thuộc hạ Ngô Bách, đạo trưởng đạo Trung-thành, tham kiến giáo chủ. Xin giáo chủ ban ân.
        Thiệu-Thái vỗ nhẹ trên đầu Ngô Bách một cái. Thị rùng mình, máu mũi tuôn ra đầy mặt. Thị xé vặt áo hứng máu. Máu ra bao nhiêu, mặt thị tươi bấy nhiêu. Một ngừng chảy, nét mặt thị vui mừng không bút nào tả siết. Thị qùi gối lạy tám lạy:
        - Đa tạ giáo chủ giải ách.
        Nói rồi thị xuống đài. Một đạo trưởng khác lên hành lễ:
        - Đệ tử Ngô Công tham kiến giáo chủ.
        Thiệu-Thái lại vung tay lên, phóng vào người y một chưởng.
        Cứ thế, hơn giờ sau, Thiệu-Thái trị xong các đạo trưởng.
        Đào Nhất-Bách chắp tay:
        - Trình giáo chủ, trong bản giáo ngoài một trăm đạo trưởng ra, còn có ba mươi sáu vị phụ trách giáo chúng ở ba mươi sáu trấn trên toàn quốc. Xin giáo chủ giải cứu.
        Thiệu-Thái gật đầu. Nhất-Bách đưa lên đài một thiếu nữ. Thiệu-Thái vừa vung tay, bỗng nghe tiếng Thanh-Mai, Bảo-Hòa thét lên:
        - Coi chừng!
        - Ngừng tay!
        Nội công Thiệu-Thái hiện đã đến mức tối cao. Dù cơn gió thỏang, dù con dán, con chuột chạy quanh năm trượng, chàng cũng phân biệt được. Nhưng chàng mải mê trị bệnh, nên không biết những gì diễn ra phía sau. Khi nghe tiếng Bảo-Hòa, Thanh-Mai, chàng giật mình, vì cảm thấy như có ai đánh trộm. Thuận tay, chàng vòng về sau một chưởng, rồi tung người lên cao. Hai tiếng bình, bình vang lên dưới chân. Chàng nhìn xuống, thấy Thanh-Mai đỡ chưởng của Nhất-Trụ. Bảo-Hòa đỡ chưởng của Nguyễn Chí. Cả bốn người đều loạng choạng lui lại.
        Thiệu-Thái đá gió một cái, người chàng bật ra xa, rồi đáp xuống dưới đài. Trên đài Thanh-Mai, Bảo-Hoà đang đấu với Nhất-Trụ, Nguyễn Chí. Còn Nhật-Hồ lão nhân đang đấu với Tự-An.
        Thì ra Thiệu-Thái dùng Thiền-công hoá giải nội lực của chính chàng đẩy vào người ba thầy trò Nhật-Hồ. Nhưng chỉ một chiêu chàng chưa hoá giái hết. Ba người ngồi nhắm mắt vận công đẩy nốt phần còn lại. Họ thấy công lực phục hồi như xưa, bèn dùng Lăng-không truyền ngữ nói với nhau. Cả ba đồng ý bất thần phát chiêu tập kích Thiệu-Thái. Chỉ cần giết chết chàng, cục diện có thể thay đổi. Tuy mộng làm vua mất, nhưng cũng nắm lại được Hồng-thiết giáo.
        Không ngờ mọi hành động của họ không qua mắt được đại sư Minh-Không. Ngài dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai Tự-An, Thanh-Mai, Bảo-Hòa. Ba người vận công đề phòng. Nên thầy trò Nhật-Hồ vừa ra tay, đã bị phản công.
        Thiệu-Thái thấy công lực Tự-An thua sút Nhật-Hồ một chút. Bảo-Hòa, ngang tay với Nguyễn Chí. Còn Thanh-Mai, nàng có vẻ thắng thế Nhất-Trụ. Đấu thêm được chút nữa, Nhất-Trụ bắt đầu dùng Chu-sa độc chưởng. Chưởng phong của y tanh hôi khủng khiếp. Thanh-Mai bình tĩnh, dùng phương pháp chống độc của phụ thân trả đòn.
        Nhất-Trụ đánh liền mười chiêu, Thanh-Mai trả mười chiêu. Cứ mỗi chiêu nàng lại lùi một bước. Trong khi đó Nhất-Trụ cảm thấy tay mỗi lúc một nặng nề, chưởng phong thêm trầm trọng. Đến chiêu thứ mười một, Thanh-Mai lui lại, vỗ hai chưởng vào nhau:
        - Đàm quốc cữu! Người bại rồi! Tôi không đánh với người nữa!
        Đàm Can định lên tiếng chửi bới. Chợt y cảm thấy như có con dao đâm vào ngực. Y kêu kên tiếng ái rồi lùi lại. Y nghiến răng phóng thêm chiêu nữa, nhưng tay mới dơ lên, y kêu tiếng ái nữa rồi hét như con lợn bị chọc tiết.
        Thanh-Mai nhảy lui lại. Nàng cười gằn:
        - Mi dùng Nhật-Hồ độc chưởng hai ta. Ta chỉ đẩy trở lại người mi mà thôi!
        Tất cả mọi người đều kinh hoàng tự hỏi:
        - Thanh-Mai dù là con gái yêu của Trần Tự-An, nhưng tuổi bất quá mười chín, hai mươi là cùng. Làm sao mà công lực nàng mạnh đến độ trong mười chiêu, có thể thắng nhân vật thứ nhì của Hồng-thiết giáo? Ngay Tự-An, muốn hạ Vũ Nhất-Trụ, ít ra cũng phải sau một trăm chiêu?
        Không ai hiểu là phải. Khi vào Cửu-chân lễ Lệ-Hải bà vương, công lực của Thanh-Mai tuy có cao, nhưng chưa dung hoà được thủy, hỏa. Phải đợi đến khi nàng đi cùng Huệ-Sinh lên chùa Sơn-tĩnh, nàng được Huệ-Sinh giảng cho phép hoà hợp này. Từ đấy công lực nàng lên tới trình độ hiếm có.
        Khi đến Vạn-thảo sơn trang, Hồng-Sơn đại phu thu nàng làm đệ tử, dạy nàng học thuyết kinh lạc, cách vận khí theo vòng Tiểu-chu-thiên, Đại-chu-thiên. Công lực nàng lại tiến thêm một bậc nữa. Cũng do đó, khi đấu với cao thủ, người ta dùng nội lực tấn công nàng, bị cơ thể nàng hấp mất.
        Sau này về Thiên-trường, nhờ phụ thân chỉ cho cách hoà hợp xử dụng những gì học được. Công lực nàng đã ngang với phụ thân. Cuối cùng trong lần trị bệnh cho Đoàn Huy, nàng hút hết công lực của y. Tuy người nàng đầy ắp chân khí, nhưng nàng lại trúng độc. Rồi Trần Kiệt, Huệ-Sinh, Thiệu-Thái dùng thần công trị bệnh cho nàng. Nàng lại hút thêm công lực của ba cao thủ nữa.
        Giữa lúc nàng mê man, Hồng-Sơn đại phu dùng châm cứu đả thông kinh mạch, hoà hợp những luồng dị khí trong người. Thế là nàng trở thành một đại cao thủ hiếm có.
        Thiệu-Thái thấy công lực Bảo-Hoà với Nguyễn Chí ngang nhau. Nhưng vì nàng úy kị độc chưởng của y, nên vẫn chưa thủ thắng. Chợt nhớ ra một điều: Hôm trước Bố-Đại hoà thượng dạy anh em chàng Mục-ngưu Thiền-chưởng. Chàng xử dụng được cả nhu lẫn cương, hoặc cương nhu hợp nhất. Còn Bảo-Hòa chỉ xử dụng dược dương cương. Nếu bây giờ nàng dùng Mục-ngưu Thiền-chưởng, có thể đàn áp được Nguyễn Chí.
        Nghĩ vậy, chàng nhắc em:
        - Bảo-Hòa, Mục-ngưu Thiền-chưởng.
        Bảo-Hòa nghe anh nhắc, tòng tâm nàng phát chiêu Kỵ-ngưu qui gia. Một chiêu bao gồm ba chiêu Phục-ngưu thần chưởng. Nguyễn Chí nào biết gì? Y tưởng chiêu đó cũng như những chiêu trước. Y vung tay đỡ. Bình một tiếng, người y bay bổng lên cao. Bảo-Hòa không nhân nhượng, nàng phóng một chỉ lên trên định kết liễu tính mệnh y.
        Nhưng sau khi ra chiêu Kỵ-ngưu qui gia trong Mục-ngưu thiền chưởng, công lực Bảo-Hòa đã cạn. Thành ra chỉ không có lực. Nguyễn Chí đã đánh dư trăm trận. Tuy bị tung lên, nhưng y chưa chết. Ở trên cao, y vung chưởng đánh xuống đầu Bảo-Hòa.
        Trong lúc nguy cấp, tay trái Bảo-Hòa phát chiêu Ác-ngưu nan độ âm, tay phải phát chiêu Tứ-ngưu phân thi dương. Bộp, bộp hai tiếng, Nguyễn-Chí cảm thấy hai lực đạo âm dương hỗn họp xung phá trong người y cực kỳ hung hãn. Trọn đời y, y từng đấu với hàng ngàn người, đủ loại chính tà. Chưa bao giờ y thấy thứ lực đạo kinh hoàng như vậy.
        Y phân tâm một chút, Bảo-Hòa đã đánh hai chiêu nữa. Nguyễn Chí nghiến răng kêu lên:
        - Mạng ta cùng rồi.
        Nhật-Hồ lão nhân đang đấu với Tự-An, thấy đệ tử lâm nguy, lão phát một chưởng hướng lưng Bảo-Hòa. Bảo-Hòa chuyển chưởng về sau đỡ. Rầm một tiếng, nàng bật lui lại ba bước. Trong khi Nhật-Hồ lão nhân cũng cảm thấy bốn lực đạo theo chưởng Bảo-Hòa công phá cơ thể lão. Lão kinh hãi:
        - Rõ ràng con nhỏ này dùng Phục-ngưu, thế nhưng sao lực đạo sát thủ kinh thế hãi tục như thế này? Nó còn bá đạo hơn Chu-sa của mình nữa.
        Nhờ Nhật-Hồ lão nhân giúp một chiêu, Nguyễn Chí lấy lại được thế công, y đánh liền ba chưởng. Bảo-Hòa lùi hai bước, rồi trả đòn. Sau khi tiếp ba chiêu của Bảo-Hòa, Nguyễn Chí thấy rõ ràng công lực của nàng đã cạn. Y cần đấu nội lực để thủ thắng. Y đánh liền ba chưởng, đến chưởng thứ ba, y được toại nguyện. Hai người cùng đứng im đấu nội lực.
        Thiệu-Thái đứng cạnh, chàng vận công thủ sẵn, nếu thấy em sơ xuất sẽ ra tay cứu liền.
        Cuộc đấu nội lực dần dần đi đến bất lợi cho Bảo-Hòa.
        Thông-Mai từ dưới đài nhảy lên. Chàng hướng vào Nguyễn Chí, nói lớn:
        - Ta, Trần-thông-Mai là tiểu sa-di chùa Sơn-tĩnh. Ngũ giới cấm ta không được sát sinh. Nhưng ta cũng là đệ tử phái Sài-sơn, hậu duệ của Thiên-vương. Hôm nay ta giết chết mi, để trừ cho võ lâm một mối hoạ.
        Nói rồi chàng chìa ngón tay định phóng một chỉ vào người Nguyễn Chí. Mọi người đều khoan khoái trong lòng:
        - Đáng đời tên ác bá.
        Trong khi Nguyễn Chí vừa thắng thế một chút, y thấy Thông-Mai giết mình, trong lòng hoảng sợ, chân khí yếu đi. Nhờ vậy Bảo-Hòa có dịp phản công. Nguyễn Chí bị đẩy lui liền hai bước.
        Thông-Mai cười hô hố, thu tay lui lại. Bấy giờ mọi người mới biết chàng chỉ dọa cho Nguyễn Chí rối loạn tâm thần mà thôi.
        Nhưng suốt từ sáng đến giờ, Bảo-Hòa đã đấu với Đỗ Xích-Thập, Trịnh Hồ, Phạm Trạch, rồi Nhật-Hồ lão nhân, công lực tiêu hao quá nửa, chưa có thời giờ phục hồi, thành ra vẫn không thắng được Nguyễn Chí.
        Thình lình dưới đài, một thiếu phụ mặt che bằng cái khăn lụa, trong quần áo giáo chúng Hồng-thiết, khoan thai lên đài. Thiếu phụ đến đối diện với Nguyễn Chí, nàng cất tiếng ôn nhu:
        - Nguyễn Chí ơi! Em là cây thuốc của anh đây. Anh có biết không? Từ hôm xa anh, ngày em tưởng đêm em nhớ, không bao giờ nguôi. Anh ơi!. Ngừng đấu đi, em đem thuốc cho anh luyện công đây này.
        Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đưa mắt nhìn nhau, vì hai người nhận ra tiếng thiếu phụ rất quen, mà trong nhất thời không biết là ai.
        Lạ thay, mấy câu nói của thiếu phụ, khiến công lực Nguyễn Chí yếu đi. Y tỏ vẻ cáu giận:
        - Con tiện nhân. Có cút đi không?
        Y nói mấy câu đó, công lực giảm, y lùi liền bốn bước.
        Thiếu phụ tiếp:
        - Anh ơi! Hôm nay ngày em hành kinh! Anh có luyện công không?
        Nguyễn Chí nghe nói câu đó, y hét lên một tiếng, máu miệng trào ra. Y ngã lăn trên đài.
        Không ai hiểu tại sao? Thiếu phụ là ai?
        Thiếu phụ cười ha hả:
        - Nguyễn-Chí. Bọn Hồng-thiết bắt ta làm cây thuốc cho mi luyện công bốn năm liền ở dưới hầm Cổ-loa. Bọn mi những tưởng làm cho phu quân ta thân bại danh liệt. Hôm nay ta lên đây trả được mối thù này.
        Nói dứt nàng cười một tràng dài, tiếng cười đầy man rợ như người điên. Nàng đến trước Nguyễn Chí, tay vuốt mắt y bằng cử chỉ nhu nhã:
        - Anh ơi, tuy vậy chúng ta cũng thành vợ chồng trong bốn năm dưới hầm, ngày đêm có nhau. Anh rất mực chiều chuộng em. Tình yêu sâu như biển. Bây giờ em đưa anh về với thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh.
        Nói rồi nàng rút con dao trong bọc, đâm thẳng vào giữa ngực y. Nhưng dao chưa tới ngực, y vùng dậy đánh một quyền. Thiếu phụ bay tung lên cao, rồi rơi xuống giữa đài, nàng nghẹo đầu sang một bên, máu miệng ri rỉ chảy ra. Còn Nguyễn Chí, y cũng nằm bất động.
        Diễn tiến xẩy ra thực bi thảm. Chờ một lát, không thấy hai người cựa quậy, Thanh-Mai chạy lại bắt mạch. Nàng đáp gọn:
        - Mạch không nhảy, hơi thở tuyệt. Cả hai đã chết.
        Thiệu-Thái định mở khăn bịt mặt thiếu phụ ra, có tiếng Khai-Quốc vương:
        - Không được mở khăn! Người nhà đấy. Để Mỹ-Linh mang về an táng.
        Nguyên thiếu phụ đó chính thị Chu Vân-Nga, Vương-phi của Đông-Chinh vương. Vương là em ruột của Khai-Quốc vương. Nàng bị Hồng-thiết giáo bắt sống, đem cho Nguyễn Chí làm cây thuốc luyện công. Từ hôm được Mỹ-Linh, Thiệu-Thái giải cứu. Nghĩ lại thân mình dơ bẩn, nàng định tử tử bao phen. Hôm nay nhân ngày lễ. Nàng trà trộn vào hàng giáo chúng, với ý định trả thù. Thì vừa lúc Nguyễn Chí đấu nội lực với Bảo-Hòa.
        Chu Vân-Nga cũng học võ. Trong thời gian bị giam dưới hầm Cổ-loa làm cây thuốc của Nguyễn Chí. Y tiết lộ cho nàng biết rằng, những người luyện Hồng-thiết công có một nhược điểm rất quan trọng, luôn phải tập trung tinh thần. Lỡ ra trong lúc đấu nội lực với đối thủ, mà cây thuốc xuất hiện, lập tức phân tâm, chân khí tản ra da, chỉ khoảnh khắc kiệt quệ mà chết. Vì vậy, nàng muốn trả cái hận bị làm nhục, chờ lúc y đang đấu nội lực, lên đài nói truyện với y. Quả nhiên y lạc bại.
        Còn Ngyễn Chí, khi y thấy Chu Vân-Nga lên đài, biết tử thần đã xuất hiện đòi mạng. Vì phân tâm, công lực giảm y bị đánh ngã, nhưng chưa chết. Vân-Nga nào hay, nàng định đến đâm chết y, bị y đánh một quyền, vỡ nát tạng phủ chết ngay.
        Mỹ-Linh cho người đem hai xác chết rời khỏi đài.
        Lúc nãy, người ta thấy Cao Huyền-Nga đến bên Lê Ba nói những lời dâm đãng ngọt ngào, khiến cho y lạc bại. Bây giờ thấy thiếu phụ này cũng đến bên Nguyễn Chí thỏ thẻ như cặp tình nhân, rồi y bị mất mạng. Không ai hiểu tại sao. Chỉ những người trong Hồng-thiết giáo mới biết mà thôi.
        Cuộc đấu giữa Tự-An với Nhật-Hồ vẫn tiếp diễn. Nhật-Hồ công lực cao hơn Tự-An, nhưng lão sợ bóng sợ gió phương pháp đẩy chất độc ngược về của ông, nên chưa giám dùng độc công.
        Nhật-Hồ lão nhân nhìn sang bên cạnh, thấy Nguyễn Chí chết thảm. Còn Nhất-Trụ đang hóa điên hóa khùng. Lão nghĩ rất nhanh:
        - Ta có thắng được tên Tự-An này, ắt thằng Thiệu-Thái cũng không buông tha. Chi bằng tạm bỏ chạy, ẩn nhẫn. Sau này, ta sẽ kiến thiết lại bản giáo.
        Nghĩ vậy lão đánh ra liền ba chưởng, rồi tung mình lên cao, bỏ chạy.
        Tự-An thấy lão bỏ chạy, ông cười nhạt:
        - Hồng-thiết giáo thành Lạc-long giáo, mi có chạy thoát, cũng chẳng làm hại được ai nữa.
        Chân lão vừa chạm xuống đất, một bóng xanh đã chặn mất lối đi. Bóng xanh tung ra hai chưởng. Lão vung tay đỡ. Bình một tiếng, khí huyết lão đảo lộn. Lão nhảy lui một bước. Bóng đó cũng nhảy theo, phóng chưởng thứ ba. Bình một tiếng. Lão phải nhảy lui hai bước nữa, chân lão đáp xuống đài.
        Thủ pháp, thân pháp của bóng xanh cũng như Nhật-Hồ nhanh như điện chớp, quần hùng không nhìn rõ bóng xanh là ai. Họ tự hỏi:
        - Công lực Nhật-Hồ vô địch thiên hạ. Không biết ai, mà có khả năng xuất chiêu đẩy lui lão?
        Bấy giờ Nhật-Hồ với quần hào mới nhìn rõ. Bóng xanh đó chính Hồng-Sơn đại phu.
        Quần hùng vỗ tay hoan hô:
        - Hồng-Sơn đại phu muôn năm.
        Hồng-Sơn đại phu cười nhạt:
        - Nhật-Hồ lão ma đầu. Hôm nay mi phải đến tội. Mi định chạy ư? Mi chạy đâu cho thoát?
        Nhật-Hồ lão nhân nhìn xung quanh, y bị vây bởi bốn cao thủ: Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Tự-An, Hồng-Sơn đại phu. Lòng y nguội như tro tàn. Y ngửa mặt lên trời than:
        - Các người tự nhận danh môn chính phái, mà bốn người vây ta ư? Võ đạo các người cao thực.
        Tự-An cười gằn:
        - Võ đạo chỉ có thể xử dụng với kẻ biết đạo lý. Còn bọn Hồng-thiết của mi từ chối mọi kỷ cương, mi không thể đòi hưởng tinh thần võ đạo. Bình sinh mi giết người có ức vạn. Mi đâu có thấu hiểu nỗi đau đớn của họ? Hôm nay, mi có bị giết, cũng xứng đáng tội trạng!
        Nhật-Hồ lão nhân ngửa mặt lên trời than:
        - Không ngờ ta tung hoành trăm năm, dọc ngang trên đầu không cần biết có ai, thế mà lại chết ngày hôm nay. Côi-Sơn đại hiệp. Trước khi chết, ta xin một đặc ân.
        - Đặc ân gì?
        - Ta chỉ ước ao được ăn một bữa thịt chó no nê.
        Tự-An cười nhạt:
        - Khi mi giết người có hàng ức vạn, mi có cho họ đặc ân gì không?
        Lòng Nhật-Hồ lão nhân nguội như tro tàn, lão nhìn trời:
        - Tiếc quá, trời đẹp thế kia mà ta bị giết. Ôi! Đau đớn thay.
        Khi đấu nội lực với Thiệu-Thái. Giữa lúc ma công phát ra tối cao, thì Mỹ-Linh tụng kinh Bát-nhã, rồi bài chú Thủ-lăng-nghiêm, ma tính trong người lão giảm rất mau. Bây giờ, Thiệu-Thái dùng Thiền-công đẩy vào người lão, trị độc cho lão. Đến trình độ này, ma tính gần như giảm hết. Lão nhắm mắt lại, những hình ảnh giáo chúng giết người trong quá khứ thoáng hiện lên, chạy qua mặt lão.
        Lão ngồi xuống giữa đài, nói lớn:
        - Than ôi! Ta xuất thân con nhà danh gia. Chỉ vì học Hồng-thiết kinh, mà mất nhân tính, hóa ra ma, ra quỷ. Ta giết người không kể số. Hôm nay ta thấy trong lòng hối hận vô cùng. Vậy các vị mau giết ra đi. Giết ta đi để ta được thảnh thơi, còn hơn trong lòng hối hận, đau khổ gấp vạn lần.
        Y nhìn mây chiều trôi, mà nhớ lại quá khứ:
        - Ta dạy đệ tử rằng: Theo thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh, cần xoá bỏ tất cả những gì gọi là tinh hoa tộc Việt. Ta dạy giáo chúng giết cha, hại mẹ, khinh thầy. Phật, Nho, Lão ta đả phá đã đành. Ngay đền thờ anh hùng dân tộc ta cũng truyền phá bỏ. Ôi thực ta điên khùng mà ta không tự biết.
        Lão gào lên:
        - Ta điên! Ta điên.
        Y nói với Mỹ-Linh:
        - Công chúa điện hạ. Lão phu bị giam trong hầm hai mươi năm, được công chúa giải thoát. Thế mà lão phu không hề biết ơn công chúa. Thì ra trong người lão phu đầy ma tính, quỷ tính, đâu còn biết gì nữa?
        Lão nhìn Thiệu-Thái:
        - Lão phu thành ma, thành quỷ mà không biết, lại cho anh hùng thiên hạ là đồ trộm cướp, ác độc, cần tru diệt. Hôm nay được Thế-tử dồn Thiền-công vào cơ thể, ma tính bị Phật tính đẩy khỏi người, mới tự biết mình. Tuy vậy, lão phu tội quá nhiều, chỉ có cái chết mới chuộc được tội lỗi.
        Y cào hai tay vào mặt, máu me chảy ra kinh khiếp.
        Y nhìn Tự-An:
        - Côi-Sơn đại hiệp. Lão khẩn cầu đại hiệp giết lão càng mau càng tốt, để lương tâm khỏi bị dày vò cấu xé.
        - Cái đó không khó!
        Tự-An dơ tay lên phóng chưởng xuống. Vạn người như một đều nói thầm:
        - Rồi đời tên ma đầu.
        Nhật-Hồ lão nhân nhắm mắt chờ chết. Thình lình bóng vàng thấp thoáng. Một người mặc cà sa từ đâu, nhảy vào giữa vòng vây. Người này vòng tay một cái, Tự-An, Thiệu-Thái, Mỹ-Linh, Hồng-Sơn đại phu đều bị đẩy lui.
        Tất cả cao nhân đều đứng nhổm dậy, la hoảng lên. Họ trố mắt nhìn xem ai, mà chỉ một chiêu đẩy lui được bốn đại cao thủ một lúc. Khi định thần lại, họ thấy đó là một nhà sư mập tròn, mặt đẹp vô cùng, miệng cười toe toét, lưng đeo túi vải lớn.
        Quảng trường vang lên tiếng niệm:
        - Nam-mô A-di-đà Phật.
        - Nam-mô Di-Lặc tôn Phật.
        - Nam-mô Bố-Đại Bồ-tát.
        Sự xuất hiện của Bố-Đại hoà thượng, làm quảng trường đang đầy sát khí, bỗng nhiên đổi hẳn thành một bầu không khí hiền hoà, vui vẻ. Người người đều quỳ gối hướng ngài tụng kinh A-di-đà, trong đó có cả Minh-Không, Huệ-Sinh, Thuận-Thiên hoàng-đế.
        Thời bầy giờ Tịnh-độ-tông trong Phật-giáo tuy không thịnh bằng Thiền-tông. Nhưng hầu hết quần chúng đều theo tông phái này. Hằng ngày, họ ăn hiền, ở lành, làm điều phúc đức, sáng tối tụng kinh A-di-đà, với niềm ước mong lúc lâm chúng được ngài đón về thế giới Tịnh-độ. Khắp một giải Hoa-Nam, Đại-Việt, Đại-lý, Chiêm-thành, Chân-lạp, Xiêm-la, Lão-qua đều nghe Phật A-di-đà phân thân giáng thế thành Bố-đại hoà thượng. Nay được thấy ngài, ai không mừng?
        Khắp quảng trường vang lên tiếng tụng kinh. Người ta nói với nhau:
        - Không ngờ đi lễ Bắc-bình vương, lại được thấy Phật A-di-đà, thực đại phúc.
        Bố-Đại đến trước bàn thờ, chắp tay vái bốn vái, rồi ngài bưng mâm hoa quả xuống. Không biết ngài phất tay thế nào, mà một quả na lớn, chín thơm, tung đến trước Mỹ-Linh:
        - Con nhí ăn đi! Ngon lắm.
        Mỹ-Linh bắt lấy trái na, chắp tay tạ ơn:
        - Nam-mô A-di-đà Phật.
        Bố-Đại búng tay một cái, quả chuối tiêu chín trứng quốc, bay đến trước mặt Thiệu-Thái:
        - Con lợn, ăn đi! Thơm đáo để.
        Thiệu-Thái lạy tạ:
        - Nam-mô Bố-Đại Bồ-tát.
        Ngài xuống đài, đến chỗ trẻ con đứng xem. Chúng thấy ngài, lập tức bu lại xung quanh chắp tay, mắt hau háu nhìn. Ngài chĩa ngón tay vào mâm hoa quả. Từng trái một bay vọt lên, rơi trúng tay từng đứa một. Chia hết mâm trái cây, ngài vẫy Mỹ-Linh:
        - Con nhí, bưng xôi, trái cây xuống đây.
        Mỹ-Linh, Thiệu-Thái dạ một tiếng, bưng mâm trái cây, cùng xôi xuống. Bố-Đại tiếp tục chia cho đám trẻ con. Một lát, trên bàn thờ chỉ còn lại gà, lợn, rượu. Ngài lên đài hướng vào Minh-Không thiền sư:
        - Này, lão hoà thượng kia! Ta đem Nhật-Hồ lão nhân đi đây!
        Bố-Đại hoà thượng cười toe toét. Ngài nắm tay Nhật-Hồ lão nhân:
        - Bể khổ không bờ. Quay đầu thấy bến. Lão nhân giết người không sao kể siết. Nhưng khi đã xám hối, tội lỗi cũng trôi theo.
        Ngài nhìn Thiệu-Thái:
        - Con lợn! Khá lắm.
        Thấy Nhất-Trụ đang nhảy nhót la hét, ngài tiến đến bên vỗ vào lưng y một cái. Cơn đau hết. Y quỳ xuống niệm:
        - Nam-mô A-di-đà Phật.
        Nhật-Hồ, Nhất-Trụ đều quỳ gối:
        - Bồ-tát! Đệ tử nguyện quy y theo Phật. Mong Bồ-tát độ cho.
        Bố-Đại vuốt tay trên đầu, trên mặt hai thầy trò Nhật-Hồ. Bao nhiêu râu tóc biến mất. Ngài cười:
        - Nào là giáo chủ! Nào là trưởng lão! Nào là quốc trượng, chẳng qua một giấc mộng ảo. Hai người đi theo ta, ăn trái cây, uống nước suối, có phải sướng không?
        Bố-Đại hướng vào quần chúng thuyết pháp. Ai cũng tưởng ngài giảng những điều cao xa, không ngờ ngài giảng những kiến thức phổ thông: Ăn hiền ở lành, giữ ngũ giới. Các bậc thức giả đều thất vọng. Họ nghĩ:
        - Trời ơi, Phật Di-Lặc chỉ dạy có vậy sao?
        Ngài Bố-Đại nói lớn:
        - Các người cho rằng muốn thành Phật khó lắm phải không? Dễ mà. Ai cũng có thể thành Phật. Các người tưởng học giỏi thông kinh điển sẽ thành Phật ư? Sai lầm lắm. Ai trong các người cũng có Phật tính. Chỉ cần bỏ vọng tâm, Phật-tính lớn ra, ma tính rời khỏi liền.
        Ngài ngừng lại:
        - Muốn phục cái tâm, phải đi từng bước.
        Ngài hướng vào Bảo-Hòa:
        - Tiểu quận chúa. Người đã vẽ mười bức tranh Mục ngưu phải không? Hãy in ra thực nhiều, giảng kỹ, để chúng sinh ai cũng biết.
        Bố-Đại thấy gần như tất cả quảng trường đều quỳ gối niệm kinh A-di-đà. Ngài cũng niệm theo. Thấp thoáng một cái, ngài với Nhật-Hồ, Nhất-Trụ biến mất khỏi lễ đài.

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.01.2005 01:43:53 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 13.01.2005 18:26:13 (permalink)
          Hồi thứ bẩy mươi

          Kho tàng Tần-Hán



          Sau đại hội, Thiệu-Thái, Mỹ-Linh, Bảo-Hoà, Thanh-Mai cùng các trưởng lão Lạc-long giáo dẫn giáo chúng về tổng đàn. Bây giờ Thiệu-Thái mới biết tổng đàn Lạc-long giáo đặt ở bãi Ngọc-thụy.
          Đường Lộc-hà, Hội-phụ về Thăng-long không xa. Khoảng hơn giờ tới nơi. Thời bấy giờ đường Lộc-hà đi Ngọc-thụy phải vòng qua Hồ-Tây, vượt sông Hồng. Khi còn cách bờ sông Hồng hơn hai dặm, viên chưởng quản đạo Thăng-long đến trước Thiệu-Thái chắp tay:
          - Khải tấu giáo chủ, bến sông bị thủy quân phong tỏa. Viên đô đốc chỉ huy nói, y có nhiệm vụ giữ bến đò. Mọi việc qua đò đều cấm chỉ. Phải có lệnh của quan tổng trấn Thăng-long, y mới dám cho đi. Xin giáo chủ định liệu.
          Thiệu-Thái tiến tới phía bờ sông Hồng. Viên đô đốc không phải ai xa lạ, mà chính thị Đoàn Thông. Thanh-Mai chắp tay hướng Đoàn Thông:
          - Sư huynh! Sư huynh trấn ở đây ư?
          - Sư muội! Lâu quá không gặp sư muội. Càng ngày sư muội càng xinh đẹp hơn trước. Võ công sư muội đến trình độ ta không ngờ tới.
          Tự-An có tất cả chín đệ tử. Đoàn Thông là một trong chín người đó. Y hiện giữ chức đô đốc hạm đội Động-đình. Trước đây, giữa phái Đông-a với Lý triều có nhiều xung đột, vì vậy tiến trình của y đầy chông gai. Bây giờ y thấy sư phụ hòa với triều đình. Hơn nữa Thanh-Mai sắp làm Vương-phi của thượng cấp đầu lĩnh y. Y mừng vô hạn.
          Thanh-Mai nhìn dưới sông: Thủy quân dàn ra nghiêm chỉnh, bao vây bãi Ngọc-thụy. Xa xa, bên kia bờ vẫn còn kéo cờ Hồng-thiết giáo. Giáo chúng gươm đao sáng ngời đi đi, lại lại tuần phòng.
          Đoàn Thông thấy Mỹ-Linh, y vội hành lễ. Mỹ-Linh hỏi:
          - Đô đốc được lệnh bao vây từ bao giờ?
          - Khải tấu Công-chúa, thần được lệnh đem thủy đội tuần tiễu từ mười hôm. Lệnh ban ra rằng, khi giáo chúng lên đường dự đại hội, lập tức phong toả mặt sông Hồng, sông Đuống. Phía bộ, tướng Nguyễn Duệ vây Thượng-cát, Ngọc-lâm. Còn Vũ vệ thường thị Hà Việt đem thị vệ bất thần chiếm lầu Động-đình.
          Thiệu-Thái kinh hoảng:
          - Thế hai bên có giao tranh không? Bao nhiêu người chết, bị thương?
          - Thưa Thế-tử không. Thần nhận chỉ dụ phong toả, tránh giao tranh. Mới hồi nãy được lệnh rằng khi Công-chúa cùng Thế-tử về đến, trình Công-chúa một mật lệnh.
          Nói rồi Đoàn Thông kính cẩn trao cho Mỹ-Linh một bao thơ. Mỹ-Linh mở ra xem. Trong có mười tờ giấy ghi chép lệnh của Khai-Quốc vương. Mỹ-Linh đọc xong, trao cho Thanh-Mai, Thiệu-Thái cùng thi hành.
          Thiệu-Thái nói với mọi người:
          - Cậu hai ra lệnh cho tôi giải quyết truyện Lạc-long giáo, rồi phải chầu mạ mạ ngay. Thôi chúng ta qua sông.
          Mỹ-Linh nói với các trưởng lão:
          - Trước đây, nhất cử nhất động của Hồng-thiết giáo, Khu-mật viện đều biết hết. Cho nên đã trù liệu kế sách đánh úp tổng đàn. Nếu như trong đại hội, Hồng-thiết giáo làm loạn, tổng đàn bị ba mặt giáp công. Phía trụ sở các đạo ở quận huyện cũng bao vây tương tự. Bây giờ Hồng-thiết giáo thành Lạc-long giáo, mọi truyện tốt đẹp. Các trưởng lão đừng lo.
          Nàng bảo Đoàn Thông:
          - Phiền đô đốc cho chiến thuyền chở giáo chúng sang Ngọc-thụy.
          Phạm Trạch vui vẻ:
          - Nhờ ân đức của giáo chủ, biến đổi hết. Nếu giáo chủ không lên ngôi, e giữa bản giáo với quan quân có cuộc hỗn chiến. Mà phần thất bại tất về anh em giáo chúng.
          Đoàn Thông tiếp lời Phạm Trạch:
          - Phạm tưởng lão chỉ biết một mà không biết hai. Sáng nay, tư thất tất cả các trưởng lão, quản giáo cấp huyện, cũng bị bao vây. Trong Thanh-hóa, quân sĩ chiếm chùa Sơn-tĩnh. Lực lượng thiếu niên Hồng-hương được tập trung chứng kiến quan quân khám xét Hồng-hương mật cốc. Triều đình giải cứu được hơn trăm thiếu nữ bị giam làm cây thuốc.
          Thuyền tới bờ Ngọc-thụy. Đám giáo chúng thấy các trưởng lão đi bằng chiến thuyền. Họ mở to mắt, đầy vẻ kinh ngạc. Một giáo chúng nói:
          - Thưa các vị trưởng lão. Sáng nay, giáo chủ cùng các vị ra đi một lát, quan quân chiếm lầu Động-đình. Bốn phía bị bao vây. Bọn thuộc hạ chuẩn bị nghinh chiến. Nhưng quan quân không tấn công.
          Lê Đức vẫy tay:
          - Các người đâu về đó. Quan quân không làm khó dễ mình nữa đâu.
          Về đến tổng đàn. Lê Đức kính cẩn mời Thiệu-Thái ngồi vào ngôi giáo chủ. Bảo-Hòa, Thanh-Mai ngồi hai bên tả hữu. Kế đến các trưởng lão.
          Thiệu-Thái thở dài:
          - Trong cuộc chiến vừa qua các trưởng lão Lê Ba, Nguyễn Chí, Phạm Hổ, Hoàng Liên qua đời. Xin hãy thu nhặt hài cốt đưa về nguyên quán chôn cất. Trưởng lão thứ mười Hoàng Liên đã có trưởng lão Ngô Bách-Vân thay thế. Nay cứ để nguyên. Còn ngôi vị trưởng lão Lê Ba, sẽ do Đào Nhất-Bách kế tiếp. Đào Nhị-Bách thay trưởng lão Nguyễn Chí. Đào Tam-Bách thay trưởng lão Phạm Hổ. Trưởng lão Vũ Nhất-Trụ tuy theo Bố-Đại hoà thượng vân du thắng cảnh, ngôi vị trưởng lão vẫn giữ nguyên.
          Chàng ngừng một lát, tiếp:
          - Thuận-Thiên hoàng-đế ban chỉ đại xá thiên hạ. Chắc giờ này quan quân không còn bao vây các cơ sở của chúng ta. Gia đình các vị hẳn cũng được thảnh thơi.
          Từ trước đến nay, Lê Đức giữ nhiệm vụ thiết kế, tổ chức của Hồng-thiết giáo. Y lên tiếng:
          Trình giáo chủ. Khi Nhật-Hồ lão nhân tổ chức đại hội hồ Động-đình thành lập bản giáo có một trăm hào kiệt theo. Người phong cho bẩy vị làm Tả, Hữu hộ pháp, ngũ Sứ. Tả, Hữu hộ pháp cùng ngũ Sứ mỗi vị phụ trách tổ chức giáo tại một vùng. Bẩy vùng là Quế-lâm, Nam-hải, Đại-lý, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la. Bảy mươi hào kiệt được phong trưởng lão của bẩy vùng. Mỗi vùng mười vị. Còn lại hai mươi ba vị thuộc hộ đồng giáo vụ trung ương. Sau dần dần tuẫn giáo, người mới cử anh em chúng tôi vào thay thế. Cho đến nay chỉ còn mười người. Vì vậy bản giáo có cơ sở khắp Quế-lâm, Nam-hải, Đại-lý, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la càng mạnh hơn. Theo chủ trương của triều đình, không nên gây hấn với các nước lân bang. Như vậy những tổ chức ấy giữ nguyên hay giải tán?
          Thiệu-Thái đưa mắt nhìn Thanh-Mai, Bảo-Hòa hỏi ý kiến. Bảo-Hòa suy nghĩ một lúc, rồi đứng dậy nói:
          - Lạc-Long giáo của chúng ta không phải tổ chức chính sự, triều đình. Đạo Phật từ Tây-trúc vào Lĩnh-Nam, Trung-nguyên được. Lạc-Long giáo cũng có thể truyền đi khắp nơi. Lạc-Long giáo thờ các vua Phục-Hy, Thần-Nông, Kinh-Dương, Lạc-Long cùng các anh hùng của tộc Việt. Tôn chỉ chính lấy hiếu, nghĩa, làm căn bản. Lạc-long giáo cần phải truyền bá rộng rãi. Có điều mỗi nơi, tùy hoàn cảnh địa phương, có thay đổi chút ít.
          Nàng ngừng lại một lúc, tiếp:
          - Huống hồ khi xưa Quốc-tổ, Quốc-mẫu sinh trăm con, trao cho mỗi con khai hoang, qui dân lập quốc một vùng. Trải qua mấy nghìn năm, nay phân ra làm sáu nước cùng vùng Lưỡng-quảng. Tuy tiếng nói khác nhau, nhưng phong tục tương đồng. Tất cả đều thờ Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Các nước thuộc tộc Việt hiện chưa xâu xé nhau, nhưng người Tống lúc nào cũng tìm đủ cách xúi dục chúng ta tương tàn, hầu lực yếu đi, họ mang quân sang chiếm. Giữa sáu nước, chỉ Lạc-long giáo có thể làm điểm qui tụ tinh thần đoàn kết cùng hoà giải xung đột. Vậy không những ta phải giữ nguyên, mà cần phát triển thêm ra.
          Thiệu-Thái hỏi:
          - Bản nhân muốn biết danh tính của Tã, Hữu hộ pháp, cùng ngũ Sứ. Hành trạng của các vị ấy ra sao?
          Lê Đức đáp:
          - Tả hộ pháp là Đào Tường-Phúc. Hữu hộ giáo là Chu Bội-Sơn. Đào tả hộ pháp xuất thân phái Cửu-chân. Chu hữu hộ pháp xuất thân phái Khúc-giang. Cả hai vị võ công không thua gì Nhật-Hồ lão nhân. Còn ngũ sứ gồm Nguyễn San, Bun Thành, Nguyễn Thúy-Minh, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản. Cả bẩy vị đều là sư đệ của Nhật-Hồ lão nhân, nên luyện thành Hồng-thiết tâm kinh. Đào làm giáo chủ vùng Quảng-Tây, Đàm-châu, Quế-châu. Chu làm giáo chủ vùng Ngô-Việt, Quảng-Đông. Còn lại Sử trấn Lão-qua, Bun trấn Xiêm, Khiếu trấn Chân. Nguyễn San trấn Chiêm đã qua đời. Nguyễn Thúy-Minh trấn Đại-lý, hiện mất tin tức.
          Đặng Trường hỏi:
          - Thưa giáo chủ. Hiện bản giáo có mấy vấn đề cần giải quyết. Vấn đề thứ nhất, tối quan trọng. Mai này có cuộc thí võ của triều đình, chọn người làm tướng. Vấn đề thứ nhì, cứ như lời Triệu Thành, năm tới đây Tống mở võ đài ở Biện-kinh. Không biết bản giáo đối với việc này ra sao? Vấn đề thứ ba cũng không kém quan trọng. Hiện nay anh hùng thiên hạ đang hăm hở tìm kho tàng Tần-Hán cùng Âu-Việt. Bản giáo có tham dự không?
          Thiệu-Thái tuy được vua Bà Bắc-biên huấn luyện thuật lãnh đạo từ nhỏ. Nhưng chàng bị đặt vào ngôi giáo chủ trong tình trạng ngoài sự dự liệu. Bây giờ phải giải quyết ba vấn đề trọng đại, chưa dám đưa ra đường lối hành động. Chàng hỏi ngược lại:
          - Xin các vị cho biết ý kiến.
          Chàng nhấn mạnh:
          - Đầu tiên bàn việc tuyển võ của Đại-Việt đã. Trước đây trưởng lão Hoàng Văn cho bốn đệ tử dự tuyển. Trưởng lão Hoàng Liên bốn. Trưởng lão Đỗ Xích-Thập hai. Như vậy chúng ta có tới mười người ứng thí. Không biết bản lĩnh anh em đó thế nào? Hơn năm trước, trong âm mưu trường kỳ mai phục, Triệu Thành lệnh khiến chân tay của y như Nguyên-Hạnh, Hoàng Văn, Hoàng Liên, Đỗ Xích-Thập cho đệ tử dự thi võ của triều đình. Nếu trúng tuyển, các đệ tử ấy đương nhiên trở thành tướng cầm quân. Khi Tống đem binh qua, những tướng ấy sẽ làm nội ứng. Việc họ bàn với nhau ở Cổ-loa, Thiệu-Thái, Mỹ-Linh nghe được. Bây giờ Thiệu-Thái hỏi đến. Bọn Hoàng Văn, Xích-Thập vừa kinh ngạc, vừa thẹn thùng.
          Mỹ-Linh biết thế, nàng đỡ cho chúng:
          - Trước kia, các đệ tử thuộc Hồng-thiết giáo, một loại tà ma ngoại đạo. Còn bây giờ, họ đương nhiên thành đệ tử Lạc-long giáo, một tôn giáo chính đạo nhất Đại-Việt. Tôi mong đệ tử của các vị sẽ đạt được kết quả. Dù không trúng cách, tôi cũng đề bạt họ vào những chức vụ xứng đáng.
          Thiệu-Thái tiếp lời Mỹ-Linh:
          - Mai đã là ngày thi tuyển rồi. Vậy đêm nay Mỹ-Linh chỉ điểm cho bốn đệ tử của cố trưởng lão Hoàng Liên. Bảo-Hòa phụ trách hai đệ tử của Đỗ trưởng lão. Còn bốn đệ tử của Hoàng Văn trưởng lão, xin...mợ hai giúp dùm. À quên, tối nay mợ hai bận. Thôi được bản nhân sẽ làm việc đó.
          Thiệu-Thái vốn chậm chạp, khi truyền lệnh cho Mỹ-Linh, Bảo-Hoà chàng dám. Nay phải truyền lệnh cho Thanh-Mai, chàng không biết nói gọi nàng như thế nào cho đúng. Trong đầu óc chàng loé lên tia sáng: Thanh-Mai sắp thành vương phi Khai-Quốc vương, chàng phải gọi nàng bằng mợ. Vì vậy chàng tuôn ra tiếng mợ hai.
          Thanh-Mai biết rằng, tối hôm nay Thuận-Thiên hoàng-đế cùng ba vị Hoàng-hậu đãi yến Thiên-trường ngũ kiệt ở điện Long-thụy. Trong thiếp nói rõ ngoài Thiên-trường ngũ kiệt, Thuận-Thiên cửu hùng ra, không có ai khác. Thanh-Mai hiểu rằng Hoàng-đế muốn đưa lời chính thức cầu hôn cho Khai-Quốc vương. Tuy biết vậy, nghe Thiệu-Thái gọi bằng mợ, nàng vẫn ngượng.
          Thanh-Mai đánh trống lảng:
          - Bây giờ tới vấn đề võ đài Biện-kinh.
          Đào Nhất-Bách truyền giáo ở biên giới lâu ngày. Y hiểu biết tình hình bên Tống. Y phát biểu:
          - Thưa giáo chủ cùng quý trưởng lão. Trước khi bàn về võ đài Biện-kinh. Chúng ta cần phân tích tình hình bên Tống trước đã. Sau đó nghiên cứu tình hình các nước khác. Cuối cùng, chúng ta tùy theo triều đình Đại-Việt, rồi mới có thể quyết định. Thuộc hạ thấy việc này thỉnh ý Khai-Quốc vương, hầu thống nhất hành động. Vậy chỉ còn vấn đề kho tàng mà thôi. Vấn đề kho tàng, từ trước đến giờ trưởng lão Lê Đức vẫn phụ trách. Xin tưởng lão trình bầy cùng giáo chủ.
          Lê Đức đứng dậy. Y lấy ra cuốn trục bằng lụa, vẽ bản đỗ Trung-quốc, Đại-Việt, Đại-lý treo lên. Y chỉ lên trục lụa nói:
          - Thưa giáo chủ, trước kia nhà Chu diệt vua Trụ, lên ngôi vua. Vua Võ vương thu được kho tàng rất lớn. Nhà Chu làm vua trải tám trăm năm, hơn nghìn chư hầu tiến cống. Kho tàng thêm giầu có, súc tích. Tần diệt Chu, cùng các chư hầu, kho tàng càng chồng chất lên. Vua Cao tổ nhà Hán đánh vào Hàm-dương, cướp lấy kho tàng đó của con trai Thủy-Hoàng, đem về Trường-an. Từ đấy kho tàng mang tên kho tàng Thủy-Hoàng. Cao tổ sai Tiêu Hà xây điện Vị-ương, dưới nền cất chôn kho tàng Thủy-Hoàng.
          Thiệu-Thái hỏi:
          - Tôi nghe nhà Tây-Hán làm vua trên hai trăm năm, thôn tính hàng chục nước nhỏ, cướp tài vật của người ta đem về. Lại nữa, các chư hầu tiến cống. Tích sản ấy đâu có nhỏ? Vậy ngoài kho tàng Tần Thủy-Hoàng, ắt còn kho tàng Tây-Hán. Kho tàng ấy sau đi đâu?
          Từ lúc được Thiệu-Thái cứu trị Chu-sa độc chưởng, tuy bề ngoài Lê Đức tôn phục vị tân giáo chủ trẻ tuổi. Nhưng trong lòng, y vẫn coi chàng như trẻ con. Bây giờ thấy chàng đặt câu hỏi, tỏ ra mẫn tiệp vô cùng. Trên gương mặt y hiện ra nét kính phục. Y có biết đâu, truyện kho tàng Trung-quốc thời Tần-Hán, chàng đã được Khai-Quốc vương thuật cho nghe nhiều lần. Tuy chàng ít chú ý. Nhưng cũng biết lờ mờ, không đến nỗi mù tịt.
          Lê Đức cung kính tiếp:
          - Giáo chủ thực minh mẫn. Tây-Hán trải hai trăm năm, được các chư hầu tiến cống, cũng như ăn cướp của các nước nhỏ. Họ cất giữ thành một kho tàng nữa. Kho tàng này mang tên Tây-Hán. Sau hơn hai trăm năm cai trị, kho tàng ấy nhiều vô kể. Khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán. Y biết mình không đức, khó tranh giữ giang sơn lâu dài. Y đem châu báu của nhà Tây-Hán cùng đào kho tàng ở nền điện Vị-ương lên, rồi đem chôn cất một nơi bí mật. Thành ra kho tàng này mang tên kho tàng Tần-Hán.
          Mỹ-Linh đã biết rất tường tận vụ này. Tuy vậy nàng muốn thử xem Lê Đức có thực tình với Lạc-long giáo không, nàng hỏi:
          - Giai đoạn ấy tôi cũng nghe qua. Lúc Phan Sùng tức Xích-Mi giúp Cảnh-Thủy hoàng đế đánh Vương Mãng. Y tiến vào Trường-an. Thấy kho tàng Tần-Hán lớn quá. Y nảy ra tham tâm, sai thủ hạ đem chôn ở vùng hồ Động-đình. Sau khi chôn, y cho giết hết bọn quân lính để bảo mật. Cuối cùng dường như kho tàng Tần-Hán lọt vào tay vua Trưng?
          Lê Đức gật đầu:
          - Lời công chúa tuyên phán rất đúng. Vua Quang-Vũ nhà Hán được anh hùng giúp sức trung hưng đại nghiệp. Nghiêm-Sơn, Đặng Vũ đem quân tiến đánh Trường-sa. Xích Mi bại. Trước khi xuất trận lần cuối, y gọi một tỳ nữ, mà bình sinh y rất sủng ái đến trao cho bản đồ nơi cất kho tàng cùng Ngọc-tỷ truyền quốc. Y đâu ngờ tỳ nữ đó chính là liệt nữ Lĩnh-Nam Trần Thiếu-Lan. Lúc Trưng Nhị, Phật Nguyệt, Hồ Đề, Trần Năng đem quân đánh Trường-sa. Trần Thiếu-Lan trao bản đồ nơi cất kho tàng Tần-Hán cho Trưng Nhị. Các anh hùng thời ấy mở bản đồ ra. Thì ôi thôi bên trong chỉ đầy chữ số với một ít địa danh, chứ không có bản đồ. Công chúa có biết về sau ra sao không?
          Mỹ-Linh mỉm cười:
          - Tên Xích-My rất khôn ngoan. Y khắc bản đồ nơi cất kho tàng vào tấm đồng, rồi cắt ra thành mười sáu thẻ. Y lại đúc hai con gấu bằng đồng đen rỗng bụng. Trong bụng mỗi con, y bỏ vào tám thẻ đồng, rồi trao cho hai con trai, mỗi người một con gấu, để sau này hai anh em phải hợp nhau lại mới có thể tìm ra nơi cất báu vật. Như vậy vẫn chưa cho rằng đủ. Y sợ sau này lỡ hai con gấu đó lạc vào tay người khác thì sao? Cho nên trên bản đồ y ghi chú địa danh bằng chữ số. Như một y ghi vào chỗ Tương-giang, hai y ghi vào chỗ Trường-sa. Song tuy trao gấu cho hai con, mà y chưa trao cho mật số đó.
          Nàng ngừng lại nhìn Lê-Đức, rồi tiếp:
          - Lúc biết mình sắp gặp nguy. Y chép tất cả những chữ số, tương quan với địa danh trao cho liệt nữ Thiếu-Lan. Bà Thiếu-Lan trao cho Trưng-Nhị. Nhưng trong khi đó hai con gấu cất tám thẻ đồng bản đồ lọt vào tay Thiên-ưng lục tướng. Trưng Nhị, Thiên-ưng lục tướng họp với nhau, tìm ra nơi cất kho tàng chính là một căn nhà hầm dưới đáy hồ Động-đình. Đường hầm vào đáy hồ nằm trên một cù lao. Tôi chỉ biết đến đây. Lê trưởng lão chắc biết nhiều hơn.
          Hồi còn thơ, Mỹ-Linh đã nghe phụ vương nói nhiều về kho tàng Tần-Hán, song nàng không mấy chú ý. Lúc về phủ Khai-Quốc vương, hàng ngày nàng được dọc những phúc trình của các nơi gửi về Khu-mật viện, nên nàng biết rất rõ chi tiết.
          Đại để thiên hạ có hai kho tàng lớn. Một mang tên Âu-Việt, một mang tên Tần-Hán. Khi nghe Lê Đức trình bày về kho tàng Tần-Hán, nàng thuận miệng nói ra hết những gì mình biết về nguồn gốc kho tàng Tần-Hán đã thuật ở trên.
          Còn kho tàng Âu-Việt, có liên hệ rất nhiều đến lịch sử Đại-Việt. Truyền sử nói rằng Quốc-tổ, Quốc-mẫu cho trăm hoàng tử đi qui dân lập ấp. Mỗi năm các hoàng tử về chầu một lần. Tục lệ định rằng, các hoàng tử phải mang những gì trân quý nhất dâng phụ hoàng. Quốc-tổ truyền cất bảo vật vào kho tàng. Trải suốt hơn hai nghìn năm triều đại Hồng-Bàng, các lạc hầu, lạc tướng dâng lên vua không biết bao nhiêu vàng ngọc châu báu mà kể. Kho tàng mang tên Văn-lang.
          Đến đời vua Hùng thứ tám mươi tám, vì vua hôn ám, rượu chè quá độ. Anh hùng các nơi tôn một lạc hầu tên Thục-Phán lên làm thủ lĩnh, diệt vua Hùng, thành lập triều đại Âu-lạc. Trong trận chiến cuồi cùng. Phò mã Sơn-Tinh tuy võ công vô địch, nhưng chỉ giữ kinh đô được hai tháng. Biết rằng kinh đô trước sau cũng thất thủ. Phò mã Sơn-Tinh cho chở kho tàng Văn-lang đem lên vùng Tản-Viên cất dấu. Tương truyền kho tàng ấy phải chở đến mười xe ngựa mới hết.
          Khi đoàn xe chở kho tàng sắp tới núi Tản-Viên, Sơn-Tinh gặp đạo quân phục kích của Vạn-tín hầu Lý Thân. Lý Thân với Sơn-Tinh đấu với nhau trong suốt ba ngày bất phân thắng bại. Sau Lý Thân thấy không thể thắng nổi Phục-ngưu thần chưởng. Ông nhân Phục-ngưu thần chưởng, chế ra chưởng pháp âm nhu khắc chế với dương cương. Vì vậy Sơn-Tinh bị bại, bỏ chạy lên núi Tản-Viên. Lý Thân cướp được kho tàng Văn-lang.
          Lý Thân đem kho tàng chôn ở một nơi rất bí mật. Sau đó con cháu Lý Thân lập ra phái Long-biên. Người chưởng môn phái Long-biên luôn giữ bí mật về nơi chôn cất kho tàng Văn-lang.
          Vua An-Dương cai trị Âu-lạc tuy không lâu, nhưng các lạc hầu, lạc tướng dâng hiến không thiếu gì vàng bạc, châu báu. Ngài cất ở thành Cổ-loa. Trong thời Âu-lạc, bên Trung-quốc trải qua thời kỳ thất quốc tranh hùng. Nhà Tần diệt sáu nước, thống nhất Trung-nguyên. Mỗi khi một nước bị diệt, con cháu vua chúa, đại thần sợ bị giết. Họ mang theo bảo vật, trốn xuống Âu-lạc xin kiều ngụ. Những bảo vật đó, họ dâng cho vua An-Dương. Hoặc bán đi làm kế sinh nhai. Các lạc hầu, lạc tướng mua, dâng cho vua. Vua An-Dương có kho tàng Âu-lạc vĩ đại, chôn dấu vào cùng nơi với kho tàng Văn-lang, gọi chung bằng danh tự kho tàng Âu-lạc.
          Triệu Đà chiếm Âu-lạc, kho tàng ấy thuộc về y. Họ Triệu đem kho tàng Âu-lạc cất về Phiên-ngung. Họ Triệu cai trị nước Nam-Việt một thời gian dài, lại thu được không biết bao nhiêu của quý, thành kho tàng Nam-Việt. Họ Triệu cất kho tàng Nam-Việt vào cùng nơi kho tàng Âu-lạc, gọi bằng tên kho tàng Âu-Việt. Khi Lữ Gia giết Cù-Thị, Thiếu-Quý. Vua Hán sai bọn Lỗ Bác-Đức đem quân chiếm Nam-Việt. Kho Âu-Việt ấy lọt vào tay Trường-sa vương nhà Hán. Hồi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, Thiên-sơn thất hùng nổi lên tranh thiên hạ. Công-tôn Thiệu đem quân đánh Trường-sa. Thiệu đem chở về cất ở thành Bạch-đế.
          Thời Lĩnh-Nam, Trưng Nhi, Phật Nguyệt, Trần Năng, Hồ Đề đem quân trợ Hán đánh Thục, chiếm Xuyên-khẩu. Đại tư mã Hán Đặng Vũ hứa rằng ai vào Bạch-đế đầu tiên, sẽ thưởng cho kho tàng Âu-Việt trong tay Công-tôn Thiệu. Trận đánh sau đó, Thiên-ưng lục tướng lọt vào Bạch-đế đầu tiên, bắt sống Công-tôn Thiệu. Đặng Vũ giữ lời hứa tặng kho tàng ấy cho Lục-tướng. Hồ Đề sai em là Hồ Hác chở về Tản-viên chôn cất. Nơi chôn cất chỉ có Hồ Đề, Hồ Hác, Trưng Nhị, Nguyễn Phương-Dung biết.
          Sau khi vua Trưng tuẫn quốc, Bắc-bình vương Đào Kỳ cùng Vương-phi Phương-Dung trấn thủ Long-biên. Lúc biết thế nước suy vi, không giữ nổi thành nữa, vương cùng Vương-phi bàn nhau giao con cùng bộ Lĩnh-Nam vũ kinh cho vợ chồng sư đệ Sún-Rỗ. Vương phi ghé tai Sún Rỗ nói cho biết nơi chôn cất kho tàng Âu-Việt.
          Sún-Rỗ, Sa-Giang khắc bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, Dụng-binh yếu chỉ vào hầm đá dưới đền thờ Nhâm Diệm, Tích Quang. Cả hai đã di chúc cho con cháu mình, cùng con của Bắc-bình vương là Đào Tử-Khâm, Đào Tường-Qui. Trong giòng dõi họ Đào đều giữ bí mật về hầm đá. Nhưng đến đời thứ mười tám, người trưởng tộc chết bất đắc kỳ tử, thành ra bí mật hầm đá trở thành tuyệt tích.
          Suốt nghìn năm qua, võ lâm Lĩnh-Nam cho rằng bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, Dụng-binh yếu chỉ cùng kho tàng Âu-Việt chỉ là huyền thoại. Cho đến hôm Mỹ-Linh, Bảo-Hoà, Thanh-Mai lọt vào hầm đá. Mỹ-Linh học thuộc hết các bia. Nhưng nàng tuyệt không thấy ghi chép nơi chôn cất kho tàng Âu-Việt kia.
          Tại đại hội võ lâm ở Lộc-hà. Sư thái Tịnh-Tuệ truyền chức chưởng môn cho Mỹ-Linh, trao tay nàng một cuốn sách dày. Bà thuật cho nàng biết rằng sách chép ba phần khác nhau. Phần thứ nhất tiểu sử các vị chưởng môn tiền nhiệm. Phần thứ nhì ghi chú tất cả bí quyết võ công. Phần thứ ba chép về bí mật kho tàng thời Tần-Hán, Âu-Việt. Cả ba phần đều chép bằng thuật ngữ đặc biệt, gồm tới ba trăm tiếng. Bà đọc vào tai nàng bài quyết, giải thích những thuật ngữ đó.
          Đúng ra Mỹ-Linh nói rõ thêm những điều nàng biết về hai kho tàng trên. Nhưng nàng tự nghĩ:
          - Mấy ông trưởng lão Hồng-thiết này xảo quyệt vô cùng. Mình không nên nói hết, để xem họ trình bầy có đúng như bí mật mình có không?
          Nàng hỏi:
          - Đấy, những điều tôi nghe Vương mẫu thuật về kho tàng Tần-Hán, Âu-Việt giống như truyện cổ tích. Không ngờ lại là sự thực. Hồng-thiết giáo đã nhiều năm sưu tầm, hẳn trưởng lão tìm ra được nơi cất hai kho tàng đó.
          Lê Đức thấy Mỹ-Linh ngây thơ, y tưởng thực. Y tiếp:
          - Vua Trưng thành đại nghiệp, ngài sai công chúa Yên-Lãng Trần Năng lên đào kho tàng Tần-Hán mang về Giao-chỉ. Khi đoàn chuyên chở đến Khúc-giang thì gặp đoàn cao thủ của Mã thái hậu đánh cướp. Công chúa Yên-Lãng vội sai chôn vào một hang núi, rồi lấp cửa hang lại. Nay kho tàng ấy ở trong vùng Quảng-Đông. Vì vậy thuộc hạ tổ chức giáo chúng ở đây rất chặt. Anh em đã bới từng hốc đá, từng gốc cây, cuối cùng đã tìm ra manh mối, chỉ còn chờ lệnh giáo chủ, sẽ cho khai quật.
          Mỹ-Linh thấy Lê Đức có đôi chút thực thà. Nàng hỏi:
          - Dường như truyện kho tàng Tần-Hán chôn tại Khúc-giang ai cũng biết. Tại sao mấy nghìn năm nay, người ta phải chờ đúng ngày rằm, giờ Tý, tháng mười một, năm Đinh-Mão mới đổ xô nhau tìm kiếm? Có gì lạ không?
          Lê Đức trả lời bằng cái lắc đầu:
          - Thuộc hạ phụ trách vụ này trên năm mươi năm qua, nghĩ đến nát óc mà không ra. Chỉ biết truyền thuyết nói: Cứ sáu mươi năm, tức một hoa giáp, nhằm ngày rằm, giờ Tý, tháng mười một, năm Đinh-Mão, cửa hang chôn cất mới mở ra một lần mà thôi. Nếu năm nay, không ai tìm ra, phải sáu mươi năm nữa mới trở lại tìm được.
          Y ngừng lại một lúc, rồi đưa mắt nhìn Bảo-Hòa, Mỹ-Linh:
          - Kho tàng Âu-Việt hiện chôn trên núi Tản-viên. Nhưng núi Tản lớn như thế, biết đâu mà tìm. Từ xưa đến giờ, phái Tản-viên, Mê-linh cùng giữ bí mật nơi chôn cất. Nếu hai phái hợp lại với nhau thì tìm ra. Song hai chưởng môn chưa bao giờ đồng ý về việc: Đào lên, ai sẽ được hưởng. Vì vậy kho tàng vẫn nằm trong lòng núi. Nay công chúa Bình-Dương lĩnh chưởng môn phái Mê-linh. Quận chúa Bảo-Hòa lĩnh chưởng môn phái Tản-viên vốn cùng huyết tộc. Xin hai vị mau hợp nhau, đào lên.
          Mỹ-Linh lắc đầu:
          - Kho tàng Âu-Việt không phải của phái Mê-linh hay Tản-viên, mà thuộc về con dân tộc Việt. Tôi nghĩ chỉ đại hội võ lâm mới có quyền quyết định mà thôi.
          Thiệu-Thái đưa mắt hỏi Thanh-Mai:
          - Quảng-Đông vốn thuộc đất cũ của tộc Việt. Chúng ta cần tìm kho tàng Tần-Hán đào lên đem về bán đi, hầu kiến thiết Đại-Việt. Xin mợ cho biết chúng ta phải làm gì?
          Thanh-Mai suy nghĩ một lúc rồi tiếp:
          - Việc này triều đình Đại-Việt không thể dính vào. Chúng ta lấy cớ đi hành hương đền thờ công chúa Thánh-Thiên, Gia-Hưng ở Quảng-Đông, rồi nhân đó tìm kho tàng, mới không bị lộ. Tôi nghĩ giáo chủ nên đích thân cầm đầu. Tôi với Bảo-Hòa lĩnh chức tả, hữu hộ pháp đương nhiên phải tháp tùng. Ta mời thêm người của Khu-mật viện, của năm đại môn phái phái Mê-linh, Đông-a, Sài-sơn, Tiêu-sơn, làm như toàn thể võ lâm Lĩnh-Nam đi hành hương. Còn bản giáo ai đi, ai ở xin giáo chủ định liệu.
          Thiệu-Thái gật đầu:
          - Vậy thế này. Bản giáo mới cải tổ toàn diện. Các vị trưởng lão cao niên nên đi thăm, tổ chức lại cơ sở ở các trấn, các huyện, ban bố đường lối mới đến giáo chúng. Trưởng lão Đặng Trường đi vùng Thiên-trường, Trường-yên, Thăng-long. Trưởng lão Hoàng Văn phụ trách giáo chúng bên Xiêm-la, Lão-qua, Chân-lạp, Chiêm-thành. Trưởng lão Xích-Thập đi vùng Bắc Thăng-long tới biên giới Trung-quốc. Trưởng lão Ngô Bách-Vân đến vùng Thanh-hoá, Nghệ-an. Trưởng lão Đào Nhị-Bách phụ trách vùng Đại-lý. Trưởng-lão Đào Tam-Bách phụ trách vùng Quảng-Tây. Còn trưởng lão Lê Đức, Đào Nhất-Bách tháp tùng bản nhân.
          Một giáo chúng vào kính cẩn hành lễ với Mỹ-Linh:
          - Khải tấu Công-chúa. Có chỉ dụ của Khai-Thiên vương gửi cho Công-chúa.
          Y trình ra phong thư. Mỹ-Linh sửa y phục ngay ngắn, cung kính xé bao thư ra đọc. Liếc qua, nàng bỏ thư vào túi, nói với Thiệu-Thái:
          - Phụ vương gọi em về khẩn cấp có truyện riêng. Trong thư người nói chỉ mình em về, không muốn cho bất cứ ai theo.
          Mỹ-Linh lên ngựa hướng thành Thăng-long. Ngựa phi như gió, lát sau, nàng đã về tới vương phủ. Viên thị vệ canh cổng thấy nàng, cúi rạp người xuống hành lễ. Gặp thị nữ hầu hạ nàng hồi nhỏ, nét mặt tỏ ra lo âu. Nàng hỏi:
          - Phụ vương hiện ở đâu?
          - Tâu Công-chúa, Vương-gia ở thư phòng. Công chúa về mau, nhà có sự.
          - Cái gì đã xẩy ra?
          - Vương-phi bỏ đi mất từ sáng đến giờ.
          Nghe tin dữ, Mỹ-Linh gia tăng cước lực. Bước vào thư phòng, thấy nét mặt phụ vương đăm chiêu ủ rũ. Nàng cúi đầu hành đại lễ. Khai-Thiên vương chỉ ghế:
          - Con ngồi đó!
          Mỹ-Linh ngồi xuống. Không khí trong phòng thực lạnh lẽo. Một lúc sau Vương mới ngửng lên nhìn con:
          - Vương mẫu con bị Hồng-thiết giáo đánh Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng đau đớn, rồi mê đi. Ta tưởng chết, đem chôn. Nào ngờ chúng giam Vương-mẫu con lại mưu đồ hại ta. Hôm rồi con với Thiệu-Thái cứu Vương-mẫu đem về. Đúng lý ra ta cật vấn để hiểu rõ ngọn ngành. Nhưng chú hai bảo rằng Vương-mẫu trải qua mấy năm bị giam cầm, tinh thần thất thường. Người yêu cầu ta không nên nhắc tới việc này. Vì vậy ta không hỏi đến. Mặc dầu trong lòng ta đầy nghi vấn.
          Vương móc trong bọc ra tờ giấy:
          - Hôm đại hội, ta mới biết vợ Trần Tự-An, Lê Long-Mang và Vương-phi Đông-Chinh vương bị Hồng-thiết giáo bắt giam dưới hầm dùng làm cây thuốc. Vì vậy Chu Vân-Nga, Cao Huyền-Nga, Vũ Thiếu-Nhung chưa muốn tự tử, chẳng qua họ chờ dịp trả thù. Chu Vân-Nga, Cao Huyền-Nga, Vũ Thiếu-Nhung nhân lúc chúng đấu nội lực, lên đài nói lời dâm đãng để hại chúng, dù biết rằng sẽ bị chúng giết. Ngay khi đó ta đoán Vương-mẫu con cũng như Vũ Thiếu-Nhung ắt cùng một hoàn cảnh. Có đúng thế không?
          Mỹ-Linh khẽ gật đầu. Khai-Thiên vương lầm lì:
          - Vân-Nga, Huyền-Nga tìm cách trả thù, rồi chết để tạ lòng chồng, chứng tỏ họ bị cưỡng ép, nhưng không tự tử để bảo toàn danh tiết. Nay tìm cái chết hầu tự xử tội mình. Như vậy mới phải đạo lý. Vũ Thiếu-Nhung tự tử để đền tội.
          Vương thở dài:
          - Sau đại hội trở về, ta cật vấn Vương-mẫu. Người chỉ khóc. Đêm qua người bỏ đi mất, để lại cho ta mấy lời tạ từ rất tối nghĩa. Con đọc để biết.
          Mỹ-Linh cầm tờ giấy đọc:

          Vương gia.
          Thiếp được vương gia cực kỳ sủng ái, có với nhau bốn mặt con. Chẳng may số kiếp thiếp chẳng ra gì, mới xẩy ra vụ Hoàng Văn đánh thiếp một Chu-sa độc chưởng, rồi đem giam xuống hầm.
          Nghĩ mình ô uế, không còn muốn sống nữa. Tuy nhiên tình mẫu tử khó dứt. Thiếp theo Mỹ-Linh về nhìn các con lần cuối rồi ra đi. Dù phụ hoàng đã ban chỉ ân xá, thiếp quyết tìm bọn Hồng-thiết trả thù. Trả được rồi thiếp sẽ tự xử. Trả không được, thiếp bị chúng giết, coi như thiếp đền tội.
          Khóc hết nước mắt, mong Vương-gia bảo trọng.
          Triệu Liên-Hương.


          Khai-Thiên vương tiếp tờ giấy hỏi:
          - Con phải kể hết sự thực cho ta nghe về việc này.
          Mỹ-Linh biết không đừng được. Nàng thuật lại diễn tiến những gì thấy ở nhà Hoàng Văn, dưới hầm Cổ-loa, cùng tại Ngọc-thụy một lượt. Vương nghe xong đập tay xuống bàn:
          - Dù ta có là Bồ-tát cũng không thể tha thứ cho tên Hoàng Văn. Vương mẫu con càng đáng trách. Khi bị chúng làm nhục, phải tự tử ngay, để bảo toàn danh tiết, chứ có đâu sống với chúng như thú vật? Ta thực không ngờ trong bẩy Vương-phi, ta sủng ái Vương-mẫu con đặc biệt. Thế mà lâm sự Vương-mẫu con lại không có chút danh tiết nào.
          Mỹ-Linh quỳ xuống:
          - Phụ vương! Bất cứ ai trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng cũng bị đau đớn đến chết đi sống lại. Sau bốn mươi chín ngày, kiệt lực ngất đi, rồi được cứu tỉnh, lương tri mất hết. Vì vậy không phải riêng Vương-mẫu, mà tất cả những người khác đều mơ mơ màng màng, đâu còn biết gì đến luân lý, đạo đức nữa mà tự tử? Xin phụ vương xét lại.
          Vương gật đầu:
          - Ta không tin như thế. Thôi được! Con thử nghĩ xem Vương-mẫu con đi đâu?
          - Cứ như thư này, người đi tìm Hoàng Văn, giết y để trả thù. Với võ công của Vương-mẫu, con e không thể đến gần y, chứ đừng nói giết hắn. Xin phụ vương cho con đi tìm người ngay, để tránh nguy hiểm.
          Khai-Thiên vương hỏi:
          - Thiệu-Thái đâu rồi? Ta không ngờ ta đẻ ra con. Mà con cùng Thiệu-Thái, Bảo-Hòa kết đảng với chú hai, dành ngôi trừ quân của ta. Con thử nghĩ xem, mai này phụ hoàng băng hà. Chú hai đương nhiên làm Vua. Ta là anh, mà phải cúi đầu quỳ lạy xưng thần, thực nhục biết bao?
          Mỹ-Linh biết trong lòng phụ-vương đang cực kỳ phẫn hận. Nàng muốn phân trần rằng chú hai đâu có tranh dành ngôi Vua? Chẳng qua hoàn cảnh đưa đến mà thôi. Nhưng nàng biết mình càng phân trần, e phụ vương càng nổi lôi đình. Vì vậy nàng cúi đầu im lặng.
          Vương vỗ hai tay vào nhau:
          - Kể từ nay, ta cấm chỉ con gần thằng Thiệu-Thái. Nếu trái lời, ta chém đầu cả hai đứa. Thôi, con hãy đi tìm Vương-mẫu cho mau. Dù thấy, dù không, chiều nay cũng phải về đây. Thôi con ra!
          Mỹ-Linh cúi lạy, rồi ra ngoài. Lòng nàng se lại. Nào truyện Vương-mẫu, nào truyện duyên tình. Gặp hai em Kim-Thành, Trường-Ninh đang chơi với Nhật-Tôn. Nhật-Tôn thấy Mỹ-Linh , nó chạy lại ôm lấy nàng, rồi oà lên khóc:
          - Chị Mỹ-Linh! Mẹ đâu rồi? Mẹ lại chết nữa rồi phải không?
          Mỹ-Linh bế bổng em lên. Nàng xoa đầu nó:
          - Không, mẹ không chết đâu. Lát mẹ sẽ về với em.
          Nhật-Tôn nín ngay. Nhưng nó vẫn ôm lấy cổ Mỹ-Linh:
          - Chị Mỹ-Linh! Chị đừng bỏ em nghe. Em sợ lắm. Em muốn ở cạnh chị.
          Mỹ-Linh thấy Nhật-Tôn có linh tính, cảm biết trước một sự việc không lành. Nàng vẫy Kim-Thành, Trường-Ninh vào khuê phòng, đóng cửa lại, rồi hỏi:
          - Chị thực đoảng. Là con lớn nhất trong nhà, mà không thường trực ở vương phủ. Tình hình mấy hôm nay ra sao?
          Kim-Thành kể:
          - Sau đêm chị đánh bại Hoàng Văn, rồi Vương mẫu sống lại, các bà Phi đổi hẳn thái độ với chúng em. Mọi khi Đinh-phi gây sự với bọn em không ngừng, bây giờ bà ấy ngọt với em như mía lùi. Mai-phi, Vương-phi mọi khi hay gây sự với Đinh-phi, bây giờ trầm ngâm cả ngày không nói.
          - Còn chị em Hồng-Phúc?
          - Bọn chúng sợ chúng em như sợ cọp. Nhưng chỉ được mấy ngày. Hôm qua nó đổi hẳn thái độ, hỗn láo với chúng em. Nó theo sát Vương-mẫu như bóng với hình. Tối đến, nó vào phòng Vương-mẫu, đóng cửa lại, rồi hai người nói với nhau truyện gì không rõ. Đến gần nửa đêm nó mới ra.
          Trường-Ninh tiếp:
          - Sau đó bọn em xin vào thăm Vương-mẫu, người khóc, bảo rằng không được khỏe. Sáng nay, khám phá ra vụ Vương-mẫu bỏ đi, để thư lại cho phụ vương.
          Kim-Thành hỏi Mỹ-Linh:
          - Chị thử nghĩ xem, có thể nào Hồng-Phúc liên quan đến vụ ra đi của Vương-mẫu không?
          - Chị ngờ rằng có!
          Mỹ-Linh chú ý thấy ngoài cửa sổ có người núp nghe trộm. Vì y quy tức, nên hơi thở như tơ. Tuy vậy nàng cũng nhận ra. Thình lình nàng lên tiếng:
          - Chị em chúng tôi đang nói truyện riêng. Người là ai, mà lại núp nghe trộm?
          Nói rồi nàng cầm cái nghiên mực trước mặt liệng ra cửa sổ. Nàng vận dương kình. Cái nghiên mực kêu rít lên, hướng vào một người mặc theo lối nông dân, đầu trùm khăn kín, chỉ để hở đôi mắt sáng như sao.
          Người này thấy bị lộ hình tích, vùng bỏ chạy. Nhưng cái nghiên đã bay tới lưng y. Y vọt người lên cao tránh khỏi. Cái nghiên trúng vào con lân bằng đá trong vườn hoa. Bốp một tiếng, đầu con lân vỡ tan ra cùng với cái nghiên.
          Mỹ-Linh vọt người theo. Nàng dùng một thức cầm long công của phái Tiêu-sơn chụp vai người kia. Người kia trầm người xuống tránh khỏi. Tay y vung chưởng phản công. Chưởng phong của y cực kỳ trầm trọng. Mỹ-Linh gạt tay đỡ. Nàng nhận ra chiêu Thiên-vương chưởng của phái Sài-sơn tên gọi Lôi đả Ân-tặc. Bộp một tiếng, nàng cảm thấy cánh tay tê rần, vội nhảy lùi một bước. Trong khi người kia cũng lùi lại, đứng nhìn nàng.
          Qua một chiêu, Mỹ-Linh nhận thấy võ công đối phương rất cao thâm. Có lẽ ngang với Đại-Việt ngũ long, hơn bọn trưởng lão của Hồng-thiết giáo nhiều. Nàng nghĩ rất nhanh:
          - Với võ công người này, thực tìm lai lịch cũng không khó.
          Nàng tỏ vẻ khách khí:
          - Tôn giá là ai? Giá lâm vương-phủ có việc gì? Cứ như thân thủ cùng bản lĩnh tôn giá thực hiếm có trên đời. Xin tôn giá bỏ khăn che mặt ra được không?
          Người ấy không nói, không rằng, vẫy tay cho Trường-Ninh, Kim-Thành lùi lại, rồi thủ thế như muốn phát chiêu. Mỹ-Linh mỉm cười:
          - Tôn giá muốn khảo nghiệm võ công ta ư? Được! Xin mời.
          Người ấy không nhân nhượng phát chưởng tấn công Mỹ-Linh. Mỹ-Linh lùi một bước, vận Vô-ngã tướng Thiền-công, phát chiêu Tiêu-sơn tượng đầu chưởng. Bình một tiếng lớn. Mỹ-Linh bật lui liền hai bước. Người kia cũng lùi lại, phát ra tiếng kêu:
          - Ái chà!
          Qua một chiêu, Mỹ-Linh thấy nội lực của người ấy rất ảo diệu. Một phần hơi giống Đông-a, một phần hơi giống Tiêu-sơn, lại có một phần giống Cửu-chân. Nàng vẫy tay:
          - Thôi, một chiêu, biết nhau như vậy cũng đủ rồi. Mời tôn giá vào chơi, chúng ta cùng đàm đạo.
          Thời bấy giờ Nho-giáo tương đối đã có chỗ đứng trong xã hội, luân lý, luật pháp rất khắt khe với phụ nữ. Mỹ-Linh được phong Công-chúa, đúng ra nàng phải ở khuê phòng. Hàng ngày chỉ được tiếp xúc với cung nữ, hoặc thái giám. Vì theo Khai-Quốc vương, nàng ra ngoài, thuộc trường hợp hãn hữu. Bây giờ một thích khách lạ, mà nàng dám lên tiếng mời vào nhà chơi, thực vượt ra khỏi ý nghĩ của Kim-Thành, Trường-Ninh.
          Người bịt mặt tần ngần một tý, rồi theo Mỹ-Linh vào trong nhà khách. Mỹ-Linh sai cung nữ pha trà, nàng khoan thai hỏi:
          - Xin tôn giá cho biết cao danh quý tính.
          Biết không đừng được, người ấy lột mũ, bỏ khăn ra. Mỹ-Linh bật lên tiếng à, người ấy là Trần Thông-Mai, anh của Thanh-Mai, Tự-Mai.
          - Thì ra Trần đại-công tử. Chắc công tử biết tôi với chị Thanh-Mai cùng Tự-Mai kết huynh đệ rồi phải không? Chúng ta như con cùng nhà. Công tử giá lâm có điều chi dạy bảo? Tại sao phải núp ngoài cửa sổ?
          Thông-Mai không mặc quần áo Như-Lai như hôm đại hội. Chàng mặc thường phục của nông dân. Chàng ngồi ngay ngắn lại, rồi nói:
          - Hôm đại hội võ lâm, công chúa mới thấy tôi lần đầu. Nhưng tôi đã thấy công chúa nhiều lần. Tôi gặp công chúa ngay từ hôm giỗ Lệ-Hải bà vương. Từ đấy, tôi theo sát Công-chúa, cùng Thanh-Mai, Bảo-Hoà. Tất cả mọi việc Công-chúa với Thanh-Mai làm, tôi đều biết hết.
          - Thế công-tử có đến Vạn-thảo sơn trang không?
          - Có. Vì Công-chúa cùng Thanh-Mai đi đâu cũng bị bọn gian tế của Tống theo dõi. Khu-mật viện tuy có nhiều người, biết mọi hoạt động của bọn Triệu Thành, nhưng không ngờ đến việc chính bọn Triệu Thành lại bị bọn Tống của Lưu hậu rình rập. Chúng theo Công-chúa, đến Khu-mật viện cũng không hay. Trong khi chúng bị tôi theo dõi... Hôm nay, tôi đến đây để nói với Công-chúa một việc.
          - Xin công tử dạy cho.
          Thông-Mai tỏ vẻ bẽn lẽn:
          - Truyện của tôi với Bảo-Hòa.
          Mỹ-Linh sống gần Bảo-Hòa hơn năm qua. Nàng đã biết mối tình của bà chị họ với »tiểu hoà thượng» này. Nghe Thông-Mai nói, Mỹ-Linh mỉm cười rất tươi:
          - Tiểu sư phụ. Người không làm hòa thượng nữa ư?
          Bị Mỹ-Linh trêu, Thông-Mai trở nên dụt dè:
          - Công-chúa hiểu cho. Phật giáo có muôn vàn pháp môn. Khi tôi xin thọ giới, đã khấn rằng: Do mẫu thân bị nghiệp quả biết bao kiếp trước. Vì vậy tôi tu cho đến khi gặp lại người. Dù đưới tuyền đài. Nay tôi gặp lại thân mẫu, nên xin trở về trần.
          Kim-Thành đã nghe nói nhiều về duyên tình của nhà sư bí mật với Bảo-Hòa. Sau đại hội Lộc-hà, nhà sư bí mật hiển lộ thành Trần Thông-Mai. Nàng xen vào hỏi:
          - Trần công tử này! Thế tình cảm giữa công tử với chị Bảo-Hòa nảy ra từ lúc nào? Hoa tình nở trong lòng ai trước?
          - Về phía Bảo-Hòa tôi không rõ. Hồi đầu, tôi lên Bắc-biên theo dõi hành tung Lê Ba. Vì tôi nghi chính y hãm hại mẫu thân tôi. Trong khi đó, tôi bắt gặp nào Xích-Thập, nào Hoàng Văn mật nghị với bọn Tống. Trong bóng tối, tôi biết Bảo-Hòa, Thiệu-Cực cũng theo dõi họ.
          Chàng ngừng lại thở dài:
          - Bảo-Hòa gặp tôi, trêu ghẹo tôi đủ thứ, tôi không giận mà còn cảm thấy thích thú. Cho đến khi.... Cho đến khi Bảo-Hòa nói : Về thưa với mạ mạ hỏi tôi làm chồng. Trong lòng tôi trấn động.
          Kim-Thành cười hớn hở:
          - Hoa tình nở từ đó phải không?
          - Đúng thế.
          Kim-Thành hỏi tiếp:
          - Lúc công tử cứu chị Bảo-Hòa ở Thanh-hóa. Công-tử ôm chị ấy trong tay. Thế mà chân tay không run ư?
          - Run chứ. Người tôi như tê liệt vậy. Cũng từ ngày đó, Bảo-Hòa đi đâu, tôi theo sát như bóng với hình.
          Mỹ-Linh không muốn em khai thác truyện thầm kín của Thông-Mai, nàng hỏi sang truyện khác:
          - Duyên cớ nào, công-tử lại học trọn bộ Thiên-vương chưởng?
          Thông-Mai được Mỹ-Linh cứu thoát khỏi vòng vây Kim-Thành. Chàng mừng quá:
          -- Tôi theo dõi Lê Ba. Lê Ba lấy trộm Thiên-vương mật dụ chép lại dấu một chỗ. Nhưng y chỉ có bài quyết, mật ngữ, mà không có phần chép chiêu số, nên luyện không thành. Tôi trộm tập sách của y. Cho đến hôm vào hầm đá, tôi sao toàn bộ võ kinh thời Lĩnh-Nam. Tính tò mò, tôi luyện thử, cũng không thành công. Giữa lúc đó, một người xuất hiện. Người ấy nói rằng nếu tôi muốn luyện hết võ công Sài-sơn người ấy truyền cho. Nhưng tôi phải nhận lời giết một tên ác bá.
          Kim-Thành gật đầu:
          - Y chính là Lê Ba phải không?
          - Đúng vậy. Người ấy cho tôi biết Thiên-vương mật dụ mà Lê Ba có trong tay, rồi bị tôi ăn trộm lại là sách giả. Vì vậy tôi luyện mà không kết quả. Sách thực, thì các chưởng môn truyền khẩu cho nhau mà thôi. Tôi được người truyền mật dụ thực cho, luyện thành võ công Sài-sơn.
          - Người đó là ai vậy?
          - Là sư huynh của Lê Ba.
          Kim-Thành hỏi tiếp:
          - Hôm trước nghe Thuận-Tông, Thiện-Lãm kể, dường như công tử giết cả nhà tên Đặng Đức-Kềnh. Vì ngay tại phạm trường có cái nón tu lờ của công tử. Ai cũng bảo công-tử tàn nhẫn quá đáng.
          Thông-Mai cau mặt:
          - Đúng! Chính tôi đã ra tay. Tên đầu bò liếm, mắt cá chuối này phát thệ không bao giờ phạm tội với bà Phượng-Ánh. Thế rồi tôi đi, nó lại đánh bà. Hỏi sao tôi không tính toán cho sạch sổ? Nói quả thực tôi ra tay có hơi tàn bạo. Song theo Khổng-tử: Sát nhất nhân vạn nhân cụ. Có vậy, bọn đầu trâu mặt ngựa theo con điếm già Anh-Tần mới ngán tôi.
          Mỹ-Linh biết Thông-Mai đến đây vì truyện Bảo-Hòa:
          - Chuyện công tử với Bảo-Hòa, công tử tính sao?
          Thông-Mai thở dài:
          - Chính vì vậy, tôi mới phải nhờ Công-chúa giúp cho một tay.
          Mỹ-Linh vốn cực kỳ thông minh. Nàng nhìn ra cái khó khăn của Thông-Mai:
          - Công tử với chị Bảo-Hòa đã hẹn ước với nhau rồi chăng?
          Thông-Mai nhanh nhẹn gật đầu. Kim-Thành mỉm cười:
          - Hơi khó đấy. Cô tôi đã hứa gả Bảo-Hòa cho Hưng Long. Việc này có ông nội tôi chủ trương. Tuy vậy công-tử có mấy cái lọng che cho, còn sợ gì. Cứ làm tới đi.
          - Quận chúa bảo lọng đó gồm những ai?
          - Thứ nhất thím hai Thanh-Mai. Nhất định thím phải giúp công tử. Ông nội với chú hai cưc kỳ sủng ái thím Thanh-Mai. Như vậy nhiều hy vọng lắm. Lại nữa theo dân gian, đổi hột, lấy hạt thím Thanh-Mai làm Vương-phi phủ Khai-Thiên, đổi lấy Bảo-Hòa làm dâu Đông-a. Đẹp lắm chứ. Công tử vốn thông minh chắc biết điều đó rồi. Việc công tử tới đây, mục đích nhờ bà Mỹ-Linh nhà tôi nói với Thái-cô. Thái-cô ngỏ lời một tiếng, chú Thừa-Quý với cô tôi hẳn răm rắp nghe theo. Có đúng thế không?
          Thông-Mai giật mình, không ngờ Kim-Thành thông minh đâu kém Mỹ-Linh, đoán được ý chàng. Chàng lái sang truyện khác:
          - Công-chúa có biết, hiện Vương-mẫu ở đâu? Tình trạng ra sao không?
          Nghe nói đến mẹ. Mỹ-Linh run lên:
          - Tôi cầu xin công tử cho biết thêm tin tức Vương-mẫu. Tôi nguyện không quên ơn.
          - Công-chúa cần phải phân biệt hai loại gian tế của Tống. Một loại do Triệu Thành sai sang, hoặc thu dụng. Một loại do Lưu hậu quản trị. Bọn do Triệu Thành, Khai-Quốc vương đã biết hết. Còn bọn do Lưu hậu trực tiếp điều khiển, dường như Khu-mật viện chưa biết gì!
          Mỹ-Linh rùng mình:
          - Lời công tử khiến tôi như người mù được mở mắt. Bọn Nguyên-Hạnh, Đỗ Xích-Thập, Hoàng Liên, Nùng Dân-Phú, Chế Ma Thanh, Phủ Văn do Triệu Thành điều động, đều đã bị phá tan. Còn bọn do Lưu hậu là ???
          - Đàm Can cùng đám con cái y. Trong triều còn Dực-Thánh vương, Hoàng Văn cùng một số chúa khê động Bắc-biên nữa. Trong khi đó Khu-mật viện lại cho rằng bọn này cũng của Triệu Thành.
          - Như vậy Triệu Thành bị Lưu hậu nghi ngờ ư?
          - Đúng thế!
          Kim-Thành rất chú tâm đến việc Vương-mẫu ra đi, nàng hỏi:
          - Theo như công tử nói, Vương-mẫu của tôi bị hại, không do Hồng-thiết giáo, mà do bọn Tống gây ra?
          Thông-Mai gật đầu:
          - Đúng như Quận-chúa đoán. Tôi nghĩ Khu-mật viện chỉ biết những kế hoạch do bọn Triệu Thành phá mình, chứ không biết rõ chủ trương của Lưu hậu.
          Kim-Thành cực kỳ tôn kính Khai-Quốc vương, nàng hỏi lại:
          - Chẳng lẽ chú hai tôi cũng không biết ư?
          - Tôi nói Khu-mật viện không biết, chứ không nói Khai-Quốc vương không biết. Có lẽ Vương sợ trong Khu-mật viện có bọn gian tế của Đàm Can hoặc Dực-Thánh vương, vì vậy Vương giữ lại một bí mật.
          Mỹ-Linh đã tìm ra được một chút ánh sáng:
          - Tôi thử đoán xem có đúng không nghe. Lưu hậu ngồi ở Biện-kinh, vì vậy bà ta không biết rõ tình hình Đại-Việt. Bà nghĩ rằng chỉ cần đưa một người nào đó vô tài, bất đức lên làm Vua nước ta, hầu mặt Nam được yên, cũng đủ thỏa mãn rồi. Vì vậy bà ta móc nối với Dực-Thánh vương, hứa hẹn sẽ giúp ông khi ông phản nghịch cướp ngôi vua. Khi em cướp ngôi vua của anh, tất trong hoàng tộc chia hai phe chém giết nhau giống như hồi vua Lê Ngọa-triều. Cuối cùng một phe thắng lên làm vua, sĩ dân không phục, tinh lực hoàng tộc kiệt quệ. Bấy giờ bà ta đem quân sang đánh. Bọn Đàm Can, Hoàng Văn làm nội ứng bên trong, ắt thành công.
          - Gần đúng như công chúa nghĩ. Công chúa chỉ biết có một nửa kế hoạch của Lưu hậu. Một nửa nữa như sau: Bà ta lợi dụng Hoàng Văn, Đặng Trường khống chế hầu hết các Vương-phi, phu-nhân Thượng thư, tướng sĩ. Đợi khi khởi sự sẽ xui chồng nhập cuộc. Một nửa theo phe này, một nửa theo phe kia chém giết lẫn nhau. Phe nào cũng tưởng mình chém giết tận mạng đối thủ, coi như lập công với Lưu hậu. Nào ngờ cả hai cùng bị lừa.
          Mỹ-Linh kinh hoàng:
          - Lưu hậu thâm độc hơn Triệu Thành nhiều. Còn Triệu Thành, y đã từng ra ngoài, hiểu rõ tình hình hơn. Y biết rằng khống chế vua Đại-Việt cũng chưa đủ. Dù vua có tồi tệ, nhưng võ lâm đoàn kết như hồi Lê Hoàn, cũng thừa sức chống xâm lăng. Vì vậy y trực tiếp chia rẽ võ lâm bằng cách hứa giúp Hồng-Sơn đại phu hưng diệt, kế tuyệt. Trong khi đó y dùng bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo khống chế phu nhân chưởng môn phái Đông-a, Sài-sơn, cùng cài người vào phái Tản-viên, Mê-linh, Tiêu-sơn.
          - Xét cho kỹ, kế hoạch của Triệu Thành dễ thành công. Khi y thành công cai trị Đại-Việt không khó,. Vì các võ phái sau một hồi chém giết nhau, bấy giờ cao thủ chết hết. Bậc con cháu sẽ thù nghịch nhau, chém giết nhau đến kiếp nào mới thôi. Cũng may các tôn sư đã khám phá ra, hoá giải được.
          Trường-Ninh thở dài:
          - Như thế Đàm Can, Hoàng Văn, Đặng Trường cũng như Dực-Thánh vương chỉ bị khám phá một nửa. Nay họ bỏ Hồng-thiết giáo, theo Lạc-long giáo. Ai cũng tưởng họ hối cải. Nhưng sự thực họ vẫn âm thầm làm việc cho Lưu-hậu. Vương-mẫu tôi ra đi, hẳn có liên hệ đến bọn này?
          Thông-Mai gật đầu:
          - Đúng thế. Vương-phi bị Hồng-thiết giáo làm nhục, chỉ có Khai-Quốc vương với Thuận-Thiên cửu hùng biết. Điều ta cần phải soi sáng, như sau: Thế sao Đinh phi cùng quận chúa Hồng-Phúc cũng biết.
          Trường-Ninh lắc đầu:
          - Tôi không tin. Việc Vương-mẫu bị làm nhục, vừa rồi công tử nói tôi mới hay, sao Đinh-phi cùng Hồng-Phúc biết được?
          Thông-Mai bât lên tiếng cười lớn:
          - Thế mới lạ. Tối qua Hồng-Phúc vào phòng Vương-phi nói toẹt ra hết. Hồng-Phúc khuyên Vương-phi nên tự tử, hoặc ra đi, để bảo toàn cho vương gia cùng con cái. Quận chúa nên biết rằng nếu việc Vương phi bị làm nhục lộ ra, Vương-gia ắt bị đuổi khỏi hoàng thành về dân dã. Vì vậy Vương-phi mới ra đi.
          Mỹ-Linh vốn cực kỳ thông minh, nàng bật lên tiếng à rồi nói:
          - Vậy có thể chính Đinh-phi hay Hồng-Phúc bị Hoàng Văn khống chế. Hoàng Văn biết rằng trước đây y không chế Vương-mẫu, việc đã bại lộ, dùng Vương-mẫu không được nữa. Y phải tìm cách diệt Vương-mẫu, hầu Đinh phi chiếm ngôi Vương-phi. Y tiết lộ hết mọi việc cho Đinh-phi cùng Hồng-Phúc, mượn tay hai người hại Vương-mẫu. Hồng-Phúc nói rõ mọi sự, đưa đến Vương-mẫu tự tử. Như thế Hoàng Văn vẫn có người trong phủ Khai-Thiên làm gian tế cho y.
          Thông-Mai trả lời bằng cái gật đầu:
          - Phụ thân tôi đoán trước tất cả mọi kế hoạch của chúng, nên sai các đệ tử theo dõi rất kỹ bọn thủ hạ Đàm Can, Hoàng Văn, Đặng Trường cũng như Dực-Thánh vương. Tôi được lệnh theo dõi trong phủ Khai-Thiên. Không may bị Công-chúa khám phá ra tung tích.
          Mỹ-Linh cảm động:
          - Côi-sơn đại hiệp thực đáng bậc trí tuệ nhất thiên hạ. Người biết hết, vung tay trợ giúp. Này Trần đại công tử. Công tử có coi chúng tôi như Thanh-Mai không?
          - Dĩ nhiên tôi coi Công-chúa cùng hai Quận-chúa như Thanh-Mai.
          - Vậy công-tử cho chúng tôi gọi bằng đại ca, bằng anh như Thanh-Mai mới có thâm tình.
          Thông-Mai cười rất tươi:
          - Chà, tôi lại được ba cô em gái vừa thông minh, vừa đẹp như tiên nga, còn gì bằng nữa? Bây giờ chúng ta đi tìm Vương-mẫu.
          Kim-Thành hỏi:
          - Anh Thông-Mai này. Anh biết mẹ em đi đâu không?
          - Bà không đi đâu cả, mà về tổng đàn phái Mê-linh. Mỹ-Linh hiện làm chưởng môn, có thể dùng uy quyền, bắt phái này đưa bà ra.
          Có tiếng cung nữ nói vọng vào:
          - Hoàng thượng chỉ dụ mời công chúa vào điện Long-thụy hầu yến.
          Mỹ-Linh nhìn Thông-Mai mỉm cười:
          - Ông nội em thiết yến mời Thiên-trường ngũ kiệt với sự hiện diện của Thuận-Thiên cửu hùng. Anh có biết mục đích không?
          Thông-Mai gật đầu mỉm cười:
          - Mỹ-Linh được Khai-Quốc vương nhận làm con nuôi phải không? Sau yến này, Mỹ-Linh phải gọi Thanh-Mai bằng mẹ đấy nhá. Như vậy tôi đang là anh Mỹ-Linh bỗng chốc thành bác. Oai gớm!
          Mỹ-Linh nhận thấy các đệ tử Đông-a đều có tư thái giống nhau: Đa tài, đa năng, kiến thức quảng bác, tinh thần vị nghĩa cực cao. Nàng nghĩ đến Thanh-Mai thành mẹ mình, mà trong lòng khoan khoái. Nàng lắc đầu cười:
          - Chú em đã định trước. Ai giữ vai người ấy. Như chú em với em cùng theo học với thầy Huệ-Sinh, mà phận chú cháu không đổi. Chúng em cùng kết hợp thành Thuận-Thiên cửu hùng, chị Thanh-Mai gọi chú em bằng anh. Em gọi chị ấy bằng sư tỷ. Sau này, không biết chú em định cho em gọi chị Thanh-Mai bằng gì?
          Trường-Ninh hỏi Thông-Mai:
          - Anh Thông-Mai à! Ông nội em đãi yến phái Đông-a, vậy anh có đi dự không?
          - Đi chứ. Bố tôi truyền cho chúng tôi phải tề tựu ở trên con thuyền tại bến Ngự-long, rồi cùng lên đường vào cung. Thôi, tôi phải đi đây. Sau tiệc, chúng ta cùng đi Mê-linh tìm Vương-phi.
          Thấp thoáng một cái, Thông-Mai đã vọt qua cửa sổ biến mất.
          Mỹ-Linh bảo các em:
          - Chị đến Long-thụy bồi yến với ông. Các em ở nhà nhớ hầu hạ phụ vương cho chu đáo.
          Nàng sai cung nga thắng xe, rồi lên đường. Vì phủ Khai-Thiên ở ngoài Hoàng-thành, nên Mỹ-Linh phải vượt qua quãng đường khá xa để đến điện Long-thụy. Dọc đường, nàng để ý thấy tên phu xe hoàn toàn lạ mặt. Nàng hỏi:
          - Này anh! Anh tên gì? Đến Vương phủ được bao lâu rồi?
          Tên phu xe kính cẩn đáp:
          - Khải tấu công chúa, hạ thần họ Trịnh tên Thư, mới nhập phủ hơn hai tháng nay. Vì Công-chúa vắng nhà, nên thần chưa được diện kiến.
          Mỹ-Linh để ý thấy tên Thư có đôi mắt sáng lấp loáng, chứng tỏ nội công của y không tầm thường. Y đánh xe khác người thường. Người thường mỗi khi vung roi đánh ngựa, tay đưa về trước. Đây tay Thư bất động, y làm thế nào không biết, mà sợi dây da trên đầu roi vọt về trước, rồi tự động co lại. Rõ ràng y xử dụng nội công thượng thừa. Nàng nhủ thầm:
          - Giữa Đại-Việt với Tống đang có cuộc chiến tranh tế tác. Tên này không chừng làm gian tế của Tống cũng nên. Ta cứ im lặng, đề phòng mới được.
          Xe sắp vào đến cửa Phi-long, đáng lẽ chạy thẳng đến điện Long-thụy, lại rẽ sang cửa Tường-phù. Mỹ-Linh kinh ngạc. Nếu trước đây một năm nàng đã kinh hoàng la lớn lên. Nhưng bây giờ với võ công thâm hậu, nàng lại có chủ ý về tên Thư nên im lặng, không nói gì. Xe vượt qua điện Long-an, đến điện Giảng-võ ngừng lại.
          Mỹ-Linh chợt để ý đến sợi dây đỏ trên nút áo cổ của tên Thư. Nàng thở phào yên tâm, vì y là người của Khu-mật viện.

          <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.01.2005 01:45:50 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9