Anh hùng Bắc cương (từ hồi 16)
CDDLT 13.01.2005 18:41:01 (permalink)
Hồi thứ bẩy mươi sáu


Quân tử lập ngôn.



Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cùng tự hỏi:
- Không biết tên này lý lịch ra sao? Võ công của y có lẽ không kém gì bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo. Hôm trước y giả làm người ngoài, cướp quyển phổ tượng Tương-liệt đại vương. Rồi lại bắt cóc Triệu Thành để đánh lừa mọi người khi Tôn Trung-Luận trao Võ-kinh giả cho Thành. Âm mưu của y giả làm người đối nghịch với Triệu Thành, chỉ có sư bá Trần Tự-An nhìn ra. Bây giờ y đội tên Lý Cương ẩn dưới soái hạm, cùng với Triệu Thành dàn cảnh. Dường như Triệu Thành kính trọng y ngang với Minh-Thiên chứ không phải tầm thường.
Lý Cương tiếp:
- Khi đức Thái-tông còn tại thế, người muốn nhường ngôi cho Vương-gia, mà Vương-gia từ chối, nên vua Chân-tông mới được ngồi vào long ỷ. Ai cũng phục Vương-gia là người không ham phú qúi. Vua Chân-Tông tin tưởng Vương-gia, trao Thái-tử cho Vương-gia dạy dỗ. Nay Thiên-Thánh hoàng-đế vừa là cháu, vừa là đệ tử đã phong chức tước cho Vương-gia đến ngôi cực phẩm, thì Vương-gia không làm vua cũng như làm vua. Mệnh trời đã vào tay Vương-gia rồi. Vương gia lên ngôi vua làm gì, để mất cái đức chẳng hóa ra bán bò tậu ễnh ương ư?
Nguyên-Nghiễm nghe xong, y đập bàn một cái:
- Không có sư đệ, thì ta tự làm hỏng tất cả công trình bấy lâu.
Y đứng dậy ôm lấy Lý Cương:
- Đa tạ sư đệ. Bây giờ sư đệ nói về ba khoản đó đi.
- Khoản thứ nhất, Vương-gia đào ngay kho tàng, rồi đem cất đi. Có vàng trong tay, Vương-gia tha hồ ban thưởng cho võ lâm, Nho sĩ. Họ thấy ở Vương-gia một vị vương tước hào phóng. Ngay cả đối với bọn cung nga, thái giám, cận vệ. Đấy là cách mua nhân tâm. Dù đối với loại giầu có, nhưng giầu là một truyện, được Vương-gia ban thưởng cho một đồng, họ cũng hãnh diện vô cùng.
Mỹ-Linh khen thầm:
- Tên này thiết kế hay thực. Chú hai mình trước đây tư gia có bao nhiêu, tặng anh hùng thiên hạ hết. Vì vậy mà thu phục được nhân tâm. Có điều chú hai tặng người, không phải chủ tâm mua chuộc. Anh hùng qui tâm cũng không hoàn toàn vì tiền bạc.
Lý Cương tiếp:
- Nếu như truyện kho tàng chỉ là huyền thoại, cũng không sao. Vương-gia bỏ hết của cải ra, để rồi nhân tâm thiên hạ theo Vương-gia. Thì vàng bạc, đất đai trong thiên hạ, chỗ nào không phải của Vương-gia.
Triệu Thành gật đầu:
- Sư đệ trí lự tuyệt vời. Thế còn khoản thứ nhì?
- Khoản thứ nhì, khó mà dễ. Hiện triều đình đang bàn truyện thôn tính Giao-chỉ, Tây-hạ, Đại-lý, Thổ-phồn, Tây-liêu. Sĩ dân các nơi đó đâu chịu ngồi yên để bị mất nước? Họ cũng cử người đến Đại-Tống làm tế tác. Nếu như trong triều, ai bàn truyện chống chinh phạt. Tế tác trong bóng tối sẽ ngầm trợ giúp người đó. Ai bàn truyện thôn tính, họ ngầm phá hại người đó. Vừa rồi Lưu hậu cử Vương-gia đi sứ Đại-Việt. Với ý đồ dùng người Việt hại Vương-gia. Vô tình Vương-gia sang đến nơi, làm ồn ào lên. Dù muốn, dù không, võ lâm, nhân sĩ Đại-Việt cũng nhìn Vương-gia bằng con mắt căm thù.
Triệu Thành nghĩ lại hơn năm qua, dọc ngang bên Đại-Việt, gây không biết bao nhiêu oán hờn mà kể. Y nói:
- Sư đệ hiểu cho, khi đi sứ Đại-Việt ta đâu đã nghĩ tới...
- Đệ biết chứ. Bây giờ ta tìm cách nối lại cảm tình với họ. Không những với Đại-Việt, mà với tất cả các nước khác. Điều này dễ thôi. Vương gia gửi mệnh lệnh cho tất cả biên cương đại thần, tướng sĩ, răn dạy họ tuyệt đối không được gây hấn với lân bang. Ngược lại phải mềm mỏng, cư xử với lân bang như anh em. Nơi nào Vương-gia tới được, thân đi tới. Hạ mình tiếp xúc, thù tạc với quan lại, tướng binh của các nước. Điều này khiến Nho thần trong triều, cũng như lân bang hướng về Vương-gia, coi Vương-gia như Chu-Công đời xưa.
Triệu Thành gật đầu, vỗ lên lưng Lý Cương:
- Tiếc rằng khi ta đi sứ, tìm không thấy sư đệ đâu. Ta đành đi một mình. Nay mới ra nông nỗi. Xin sư đệ tiếp.
- Đối với Đại-Việt rất dễ. Như vương gia thấy, tộc Việt hiện phân ra làm tám khu vực. Quảng-Đông, Quảng-Tây hiện thuộc Tống. Đại-lý, Giao-chỉ, là hai nước lớn. Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la, là bốn nước nhỏ. Vừa rồi tộc Việt đồng tôn Lý Long-Bồ làm Thiên-tử. Đó là phép cử hiền đời Nghiêu, Thuấn, Vũ bên Trung-quốc. Bồ vẫn để cha làm Vua. Võ lâm Đại-Việt cực đông, hầu hết hướng về Long-Bồ. Vậy Vương-gia cần kết thân với y.
Triệu Thành vỗ đùi đánh đét một cái:
- Điều này chắc chắn ta làm được, dễ dàng là khác. Bồ vốn có chí khí anh hùng. Y không thù ta gì cả. Hơn nữa hiện hai người cực thân với y là Bình-Dương, Thiệu-Thái đang theo ta trên chiến hạm. Ta dùng hai người này làm cây cầu.
Nói rồi y kể truyện vua Bà Bắc-biên sai Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đem rượu đi đón mình ra sao. Lý Cương cười:
- Có thể sự thực như thế. Cũng có thể họ nhìn thấy tư cách anh hùng của Vương-gia, nên bầy ra truyện ấy để làm hòa với Vương-gia.
Triệu Thành gật gù:
- Còn khoản thứ ba?
- Khoản này rất khó. Vương-gia về triều, cần tỏ ra cực kỳ trung thành với Hoàng-đế với Lưu-hậu. Việc gì Vương-gia cũng cáng đáng. Hễ triều thần có ai bị trách phạt, Vương-gia đều khẩn khoản xin ân xá. Quần thần cho rằng Vương-gia rộng lượng. Đến trình độ đó, nhân tâm hướng về Vương-gia hết rồi. Chắc chắn Lưu hậu sẽ tìm cách hại Vương-gia. Bấy giờ Vương-gia hô một tiếng, anh hùng, sĩ dân theo Vương-gia hết như xưa kia dân không theo con vua Nghiêu, mà theo về vua Thuấn. Vương-gia cô lập bà ta dễ dàng.
Triệu Thành trầm tư một lúc, rồi lắc đầu, mà không nói gì. Lý Cương tiếp:
- Chắc Vương-gia đang lo nghĩ về thế lực của Lưu-hậu, e khó thực hiện chăng?
- Đúng vậy. Bà có nhiều cao thủ nằm ngay trong Hoàng-thành.
Lý Cương ngồi ngay ngắn lại:
- Lưu-hậu chỉ mạnh ở Biện-kinh, chứ đối với các nước xung quanh, với các châu lại rất yếu. Mà Lưu-hậu mạnh nhờ thế lực nào? Bàn chung bà chỉ có năm người: Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ, Khiếu Tam Bản, Sử-vạn Na-vượng và Tào Lợi-Dụng. Cả năm người này đều thuộc Hồng-thiết giáo. Mà Hồng-thiết giáo là kẻ thù của bản triều. Loại chúng ra đâu khó?
Triệu Thành lắc đầu:
- Sư đệ không biết đó thôi. Lưu hậu mưu cùng ta mưu chiếm Nam-phương, rồi bà giả tin tưởng, trao cho ta quyết định mọi sự, rồi sai ta đi sứ, với ba điều lợi cho bà. Một là bà muốn mượn tay võ lâm Đại-Việt giết ta, nếu ta có thoát khỏi họ cũng thù oán ta. Hai là ta thành công, thì cũng gây thù chuốc oán với các nước thuộc tộc Việt. Ba là trong khi ta vắng nhà, bà thay đổi hết những chức quan về thị vệ, ngự lâm quân. Lúc ta trở về sẽ trở thành cô thế.
Lý Cương hỏi:
- Thế vương gia đối phó ra sao?
- Sư phụ với Đông-Sơn đạo sư đã bàn với ta, nên tương kế tựu kế. Ta vờ vui vẻ lên đường. Khi qua Quảng-Tây mang theo Dư Tĩnh là cháu Lưu-hậu. Việc gì ta cũng bàn với Dư. Vì vậy Lưu-hậu không đề phòng, Dư dùng hệ thống tế tác đặc biệt, mật gửi tấu chương về cho Lưu-hậu. Vì vậy Lưu-hậu không đề phòng ta.
Lý Cương hỏi:
- Việc Ngô Tích chắc cũng do Vương-gia bầy ra để lừa Lưu-hậu.
- Đúng thế. Dư Tĩnh bàn với ta: Nhân gái Việt đẹp, bầy ra vụ Ngô mê gái, hầu có người nằm trong lòng Khu-mật-viện Đại-Việt, thông tin cho mình. Dư ngu thực. Giữa ta với Ngô có tình sư huynh sư đệ, lại đồng môn, mà Dư không biết đến lẽ đó. Bề ngoài ta bàn với Dư, Ngô diễn màn kịch tại Vạn-thảo sơn-trang. Nhưng thực sự ta nhờ Ngô khi về với Đại-Việt, tìm cách gặp riêng Lý Long-Bồ, chuyển đề nghị liên minh ta với Bồ.
Lý Cương gật đầu:
- Trí lực Vương-gia không tầm thường. Thế Bồ đã giúp mình được gì rồi?
- Bồ cho con gái Hồng-Sơn đại phu cùng với Lê Ngọc-Phách chuyển cho ta một kế hoạch loại Lưu-hậu. Lê tiểu thư, Ngọc-Phách cùng ta gặp nhau ở hạm đội Động-đình, mà Dư tưởng rằng ta bắt hai người ấy dịch sách thực. Này sư đệ, nếu người là ta, người sẽ loại Lưu-hậu bằng cách nào?
- Lưu-hậu là người của Hồng-thiết giáo tiềm ẩn trong cung, mưu cướp ngôi, rồi cùng Nhật-Hồ lão nhân lập ra Thiên-hạ Hồng-thiết. Chỉ cần sao lộ ra việc này, anh hùng thiên hạ xúm vào hạ bà ngay.
Nguyên-Nghiễm cười:
- Sư đệ hay thực. Bồ sai Bình-Dương, Thiệu-Thái theo ta, khuyên ta cướp ngôi vua, như vậy Dư Tĩnh sẽ tâu về triều. Lưu-hậu nắm được cớ hại ta. Bà trở thành kiêu căng, không úy kị gì nữa. Bà phong chức tước cho đám bộ hạ Hồng-thiết. Như vậy bà công nhiên khai chiến với cả triều đình. Chúng ta lấy Nho trị dân, bà dùng Hồng-thiết. Thế là cả thiên hạ chống bà.
- Bà đã phong chức tước cho những ai?
- Tôn Đức-Khắc đang từ chức vụ tổng-quản Thị-vệ, tước hầu, bà thăng lên:
Thái-sư thiếu phó, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, Kinh-hồ Tiết-độ sứ, Tổng-lĩnh thị-vệ, cùng Ngự-lâm quân, tước Ngô-quốc công. Lê Lục-Vũ đang từ Tổng-lĩnh Ngự-lâm quân, tước hầu, thăng lên Thái-tử thiếu bảo, Nam-thiên kinh lược sứ, Tả-vệ thượng tướng quân, Việt-quốc công.
Lý Cương kinh hãi:
- Chà! Bà ta lộng hành qúa đáng.
- Chưa hết bà phong cho Sử-vạn Na-vượng được thăng lên làm Hoài-hóa đại tướng quân, Nam-thiên tiết độ sứ, Tổng-lĩnh thị vệ. Khiếu-tam-Bản được thăng Thái-tử thiếu-sư, Tả-kiêu vệ thượng tướng quân, Nam-thiên tiết độ sứ, Tổng-lĩnh ngự-lâm quân. Ngoài ra còn mười trưởng lão bang Nhật-hồ Trung-quốc được phong Nhập-nội đô tri, mỗi người coi một đội Thị-vệ.
Lý Cương hỏi:
- Lý Long-Bồ biết việc này chưa?
- Chính y báo cho ta biết, vì vậy y cùng ta thiết kế tỷ mỉ loại Lưu-hậu rồi.
Đến đó hai người nói nhỏ quá, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái không nghe rõ.
Một lát Triệu Thành ôm lấy lưng Lý Cương:
- Trời đem sư đệ cho ta. Còn việc thi võ Biện-kinh kỳ này. Ta phải làm gì?
- Vương-gia mở rộng cửa, khoản đãi võ lâm. Người trúng cách, Vương-gia đặc ân khen thưởng, nói lời nhỏ nhẹ phủ dụ. Người không trúng cách, Vương-gia cũng xét xem ai có tài, lục dụng. Hoá ra họ trở thành chân tay Vương-gia hết.
Nguyên-Nghiễm mở cửa gọi Đinh Toàn vào. Lý Cương nói:
- Còn Vệ-vương, dù sao cũng có chút lòng hướng về Thiên-triều. Vương-gia nói một tiếng với Lý Long-Bồ, cắt cho khoảng đất vùng Trường-yên làm nơi thờ tiên vương Đinh triều. Như vậy, sĩ dân Giao-chỉ ai cũng phục Vương-gia cả.
Đinh Toàn đứng lên chắp tay hướng Lý Cương:
- Đa tạ tiên sinh quan hoài.
Lý Cương chỉ Hồ Dương-Bá:
- Còn Hồ huynh đây, suốt bao năm sang Giao-chỉ tiềm ẩn, công lao không nhỏ. Vậy Vương-gia trở về triều, tâu phong xứng đáng cho Hồ huynh cùng phu nhân. Vương-gia xin Hoàng-thượng ban chỉ đại xá cho dư đảng, con cháu của bang Nhật-Hồ Trung-quốc, để họ có dịp đem tài ra lập công.
Mỹ-Linh nghĩ thầm:
- Không biết người này là ai? Tên thực là gì? Cứ nghe lời biện luận như sông trôi nước chảy, lý luận xác đáng đứng đạo quân tử. Như vậy ngoài võ công, y còn có kiến văn quảng bác. Ta e rằng tài y bỏ xa bọn Dư Tĩnh, Vương Duy-Chính. Những điều y cố vấn cho Triệu Thành rõ ra bậc chính nhân quân tử. Nếu sự thực Triệu Thành nghe lời y, dân Trung-nguyên cũng như các nước xung quanh ắt trải qua một thời kỳ hoà bình, thịnh trị. Như vậy, Triệu Thành sẽ có sự nghiệp Chu-Công thực, chứ không phải như mình với Thiếu-Mai vẽ ra bức ảnh phù ảo cho y.

Đến đó Lý Cương hô dọn tiệc, để mọi người ăn uống.

Mỹ-Linh, Thiệu-Thái sẽ rời khỏi nóc nhà. Hai người trở lại bãi biển, trời vừa sáng. Cái mủng với bốn thủy thủ vẫn còn chờ tại đó. Bây giờ có thêm Đỗ Lệ-Thanh. Thấy Thiệu-Thái, Mỹ-Linh về, Đỗ Lệ-Thanh mừng mừng, tủi tủi. Bà nắm lấy tay Thiệu-Thái:
- Chủ nhân đã về. Chủ nhân với công chúa đi đêm, làm lão tỳ lo lắng vô cùng.
Thiệu-Thái cảm động:
- Phu nhân xứng đáng một phụ nữ Trung-quốc. Lòng dạ phu nhân thực không gì quý bằng.
Mỹ-Linh dặn dò thủy thủ mấy câu, để y về nói lại với Minh-Thiên, Dực-Thánh vương. Rồi ba người trở lại ngôi tiểu thành. Thiệu-Thái bàn:
- Chúng ta phải làm gì?
- Bây giờ ta vào chợ kiếm cái gì ăn uống đã. Sau đó theo dõi bọn Triệu Thành. Chắc chắn sau khi đào kho tàng, dù có, dù không, y cũng sẽ đi về biên giới Hoa-Việt, để gặp chú hai. Ta phải cho chú hai biết hết tình hình, để người định liệu nới được.
Đỗ Lệ-Thanh cầm tay Mỹ-Linh, bà run run, nước mắt đầm đìa:
- Công chúa! Tiểu tỳ cầu mong công chúa chủ trì công đạo cho vụ Nguyên-Hạnh với Cao Thạch-Phụng.
Mỹ-Linh thở dài:
- Đỗ phu nhân! Từ hôm Đỗ phu nhân về Thăng-long với tôi. Tôi truyền cho Đỗ phu nhân khá nhiều về Vô-ngã tướng Thiền-công. Tôi nghĩ bây giờ phu nhân có thể chính mình ra tay đòi nợ Cao Thạch-Phụng được rồi. Không biết phu nhân nghĩ sao?
Đỗ Lệ-Thanh tỉnh ngộ:
- Đa tạ công chúa! Tiểu tỳ quên mất điều đó.
Ba người vào chợ, tìm một quán ăn. Mỹ-Linh uốn cong lưỡi lên nói tiếng Quảng, nhờ tửu bảo mua dùm mấy bộ quần áo thôn quê cùng ba con ngựa.
Ăn xong, ba người trở lại tiểu thành, thấy cặp chim ưng bay khá xa với thị trấn. Như vậy bọn Triệu Thành đã lên đường rồi.

Ba người ngắm hướng đôi chim ưng mà đi. Mỹ-Linh móc trong bọc ra ba cái thẻ bài. Nàng đưa cho Thiệu-Thái, Đỗ Lệ-Thanh, mỗi người một cái:
- Anh nhớ nhé. Anh có tên Thái Thân. Em tên Đỗ Linh. Đỗ phu nhân Lý Lệ. Chúng ta ở trại Như-hồng, thuộc biên thùy Trung-quốc, Giao-chỉ, sang đây tìm thầy học thuốc nhé. Lỡ chạm trán bọn Triệu Thành, chúng ta thản nhiên nói: Vì cần bảo vệ chân mệnh Thiên-tử, nên chúng ta vượt biển tìm y. Như vậy y càng cảm động.
Thời bấy giờ vùng Quảng-Đông dân chúng còn nói tiếng Việt khá nhiều. Dù tiếng Việt của họ không còn nguyên thủy, mà pha phân nửa tiếng Hán. Nguyên, trong thời cuối đời Đường, nhân loạn lạc, anh hùng vùng Nam-hải thời Lĩnh-Nam, tức Phúc-Kiến, Quảng-Đông, Quảng-Tây nổi lên lập lại nước Ngô-Việt. Sau Ngô-Việt bị chia làm hai. Phía Nam thành Nam-Hán, phía Bắc vẫn giữ tên Ngô-Việt. Ngô-Việt bị Tống thôn tính. Vì vậy dân chúng trong vùng này vẫn tự nhận mình người Việt hoặc người Hoa gốc Việt.
Đi đến chiều, mới tới Khúc-giang. Ba người xuống ngựa, dạo trong phố chợ. Mỹ-Linh hỏi Thiệu-Thái:
- Anh có biết Khúc-giang trước đây sản xuất ra nhiều anh tài cho tộc Việt mình không?
- Anh không nhớ. Mỹ-Linh kể cho anh nghe đi!
- Ừ em kể. Thời Âu-lạc, tể tướng Trần Tự-Minh giúp vua An-Dương cai trị nước. Ngài được phong tước Phương-chính hầu. Khi Tần Thủy-Hoàng sai Đồ Thư đem năm mươi vạn quân sang đánh. Vua An-Dương thấy đất mình rộng, dân mình thưa, mới truyền rút về phương Nam. Đồ Thư lập ra ba quận Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận. Giòng dõi Phương-chính hầu không chịu bỏ đất tổ, lui về thủ ở vùng Khúc-giang. Đồ Thư chết rồi, Triệu Đà thay thế. Mấy lần y đem quân vào đánh, đều bị thua. Y đành để vùng này cho giòng dõi họ Trần cai trị như một tiểu quốc riêng.
- Rồi sau ra sao?
- Đến đời thứ tám, thì chi hai, chi ba là Trần Phương-Đức, Trần Đại-Sinh mới di cư xuống Giao-chỉ lập nghiệp.
- Anh biết rồi! Trần Đại-Sinh sau thành Khất-đại phu. Còn ngài Trần Phương-Đức sinh ra Nam-thành vương Trần Minh-Công, Nam-hải nữ hiệp Trần Thị Phương-Châu, Tiên-yên nữ hiệp Trần Thị Phương-Chi, Thiên-trường đại hiệp Trần Quốc-Hương.
- Tuy vậy ngành trưởng vẫn sống ở Khúc-giang. Đời thứ chín nảy ra sáu vị đại anh hùng nữa.
- Ai nhỉ? Anh chỉ nghe nói tới năm vị tức Khúc-giang ngũ hiệp. Năm vị tuân chỉ vua Trưng khởi nghĩa ở Nam-hải. Sau vua Trưng phong cho làm Nam-hải vương. Còn người thứ sáu tên gì?
- Anh quên mất ngài Trần Tự-Sơn tức Nghiêm-Tử-Lăng à?
- Ừ nhỉ!
- Em đọc sách thấy nói tại Khúc-giang hiện vẫn còn mộ của Khúc-giang ngũ hiệp. Trên bờ sông có mộ phần, cùng đền thờ của Nam-hải nữ hiệp, với phu nhân của anh hùng Chu Bá.
- Có phải hai bà tử trận trong khi đánh chiếm vùng Nam-hải không?
- Gần như vậy. Sau khi vua Trưng thành đại nghiệp, sắc phong Nam-hải nữ hiệp làm Lĩnh-Nam tuyên từ, huệ đức, Nam-hải công chúa.
Phong bà Lê Thị Hảo làm Lĩnh-Nam, ninh tĩnh, chí minh, Hoà-huệ công chúa. Chúng ta phải tới đền thờ dâng hương mới được.
Chợt có tiếng nói rất rõ ràng đâu đó vọng lại:
- Đang làm việc vá trời, dấu thân phận còn không xong, lại đi dâng hương, chẳng hóa lậy ông tôi ở bụi này ư?
Mỹ-Linh kinh hoảng nhìn xung quanh, tuyệt không có người nào lạ. Chỉ có năm người mặc quần áo nâu theo lối ngư nhân. Mỗi người cầm một xâu cá, đang len lỏi đi cạnh nàng. Họ trang phục giống nhau, chỉ khác nhau ở mầu mũ. Năm người đội mũ mầu trắng, đen, xanh, đỏ, vàng. Một ngư ngân méo miệng trêu nàng.
Nàng nhìn kỹ lại: Năm ngư nhân hình dạng rất kỳ lạ, thân hình ngắn, trong khi chân dài, mà cao. Ngư nhân mũ đỏ nói bâng quơ bằng tiếng Việt:
- Cho lợn ăn ngay đi. Lợn đói rồi. Bằng không nó ủn ỉn bây giờ.
Nói rồi y méo miệng trêu nàng. Nàng định lên tiếng hỏi, cả năm đã biến mất trong đám đông.
Đỗ Lệ-Thanh kinh hãi:
- Chúng ta âm thầm tới đây, trời không biết, quỷ không hay. Sao năm ngư nhân đã nhận diện được. Tiểu tỳ thấy lưng họ quen quá, mà không biết đã gặp ở đâu? Có thể nào Khu-mật viện sai họ theo giúp mình chăng?
Mỹ-Linh tỏ ý lo lắng:
- Không lẽ! Khu-mật viện làm sao theo chúng ta được?
Bụng đã đói, nàng để ý thấy phía trước có một người đàn ông gánh một gánh mì, khói bốc lên nghi ngút. Da mặt người này dăn deo, rất khó đoán tuổi. Mỹ-Linh dừng chân trước gánh mì. Nàng nói:
- Ông cho chúng tôi bốn bát mì.
Ông lão bán mì hỏi lại:
- Lão có ba loại mì. Mì chay, mì vịt và mì tôm. Cô nương dùng mì nào?
Thiệu-Thái trông thấy mấy con tôm đỏ hỏn đẹp mắt, chàng nói:
- Ông cho tôi hai bát mì tôm. Một bát mì vịt cho vị sư tỷ, một bát mì chay cho em tôi.
Ông lão bán mì cười:
- Cậu ăn khoẻ thực, khoẻ hơn lợn chắc, ăn những hai bát mì tôm.
Thiệu-Thái thấy trong khi làm mì, ông lão dùng muổng nhúng mì vào nước sôi, rồi rung tay một cái, dắt mì bay lên rơi vào giữa bát. Chàng kinh ngạc:
- Lão bán mì này nội công không tầm thường. Có lẽ lão cùng bọn với năm ngư nhân cũng nên.
Mỹ-Linh cũng đã nhận ra cái khác lạ của lão bán mì. Ăn xong, nàng móc tiền hỏi lão:
- Bao nhiêu tiền bốn bát mì?
Lão trả lời rất sẽ:
- Tôi có năm đồng. Tôi cần một đồng hay hai đồng.
Thiệu-Thái giật mình. Vì đó là thuật ngữ của Hồng-thiết giáo, nay cải thành Lạc-long giáo. Khi hai giáo chúng gặp nhau, họ thường dùng thuật ngữ để tự giới thiệu. Lão nói có năm đồng tức lão đứng hàng thứ năm trong giáo. Thứ nhất giáo chủ. Thứ nhì trưởng lão. Thứ ba chưởng quản một vùng. Thứ tư chưởng quản một quận. Thứ năm chưởng quản một huyện. Lão nói cần một đồng hay hai đồng, có nghĩa lão đi đón giáo chủ cùng trưởng lão.
Mỹ-Linh nói nhỏ:
- Anh tôi có một đồng. Tôi có hai đồng.
Ông ta chỉ về phía bờ sông:
- Có con đò, trên nóc kéo giải vải đỏ. Xin cô cậu xuống đó.
Mỹ-Linh làm bộ trả tiền ông bán mì, rồi ba người dắt ngựa đi về phía bờ sông.
Khi mới nhận chức giáo chủ Lạc-long giáo, Thiệu-Thái được biết giáo chúng vùng Quảng-Đông, Quảng-Tây rất đông, rất mạnh.

Nguyên Hồng-thiết giáo tuy tàn bạo, ác độc, nhưng họ vẫn qui tụ những phần tử yêu nước. Vùng Lưỡng-Quảng thuộc Ngô-Việt, mới bị mất nước, nên dân chúng theo Hồng-thiết giáo rất đông, mong khôi phục trở lại. Khi đi, Thiệu-Thái đã lệnh cho trưởng lão Lê Đức, Nhất-Bách đến Quảng-Đông, cùng giáo chúng chuẩn bị đào kho tàng. Có lẽ hai người lệnh giáo chúng khắp nơi chờ đón chàng.
Tới bờ sông. Có ba đứa nhỏ đon đả chạy ra cầm lấy cương ngựa:
- Cô cậu đi chơi sông hẳn? Để cháu giữ ngựa cho.
Mỹ-Linh trao cương ngựa cho chúng, rồi bước xuống con đò, trên có giải vải đỏ. Hai người vừa leo qua cây ván làm cầu, cánh cửa đò đã mở rộng. Thiệu-Thái chui vào trước. Mỹ-Linh, Lệ-Thanh chui vào sau. Cánh cửa đóng lại. Bên trong, Lê Đức, Đào Nhất-Bách khom lưng hành lễ:
- Suốt hơn tháng qua, bọn thuộc hạ không được tin giáo chủ cùng công chúa, sau phái anh em đi khắp nơi tìm kiếm. Hay đâu hôm qua, một anh em đã thấy giáo chủ. Y sai ngựa về báo cho thuộc hạ biết. Vì vậy hôm nay anh em thuộc hạ đón chờ giáo chủ ở đây.
Thuyền từ từ rời bến.
Lê Đức hỏi:
- Ngoài giáo chủ, công chúa với Đỗ phu nhân, mình còn ai nữa không?
- Kể ra còn nhiều, nhưng không biết bao giờ đến. Tình hình kho tàng ra sao?
- Bọn thuộc hạ đã tìm ra manh mối. Nhưng từ đêm qua đến giờ, thiết kị, giáp binh kéo đến đóng khắp nơi. Dường như bọn Tống cũng biết chỗ chôn dấu, nên đến tìm kiếm. Hôm nay đã là ngày hai mươi tháng mười. Chỉ còn gần tháng nữa tới ngày rằm tháng mười một. Đúng ngày ấy, giờ Tý cửa hang mở. Nếu ta không biết cửa hang ở đâu, phải sáu mươi năm sau, cửa hang mới mở lại lần nữa.
Mỹ-Linh cười:
- Trưởng lão đừng sợ. Những phe phái kia họ không tìm ra đâu. Ta đợi họ tìm chán, rút quân đi, rồi ta mới đào lên cũng chưa muộn.
Nàng định tường thuật chi tiết những gì xẩy ra trong hơn tháng trên biển. Nhưng chợt động tâm cơ, nàng nghĩ lại:
- Đào Nhất-Bách, khả dĩ tin được. Duy Lê Đức, ta không thể kể hết cho y nghe.
Nàng nói:
- Trưởng lão lệnh cho giáo chúng ẩn thân hết. Mặc Tống làm gì thì làm. Đợi họ rút, ta mới ra tay. Tình hình biến đổi hoàn toàn. Khai-Quốc vương hiện đang trên đường sang Biện-kinh. Bình-Nam vương Triệu Thành đổi hẳn thái độ. Họ tìm cách thân thiện với ta. Vậy trưởng lão lệnh toàn giáo chúng bất động, cho tới khi có lệnh mới.
Thiệu-Thái tiếp:
- Hiện Bình-Nam vương Triệu Thành đang có mặt trong vùng này. Ngày một ngày hai, chúng tôi sẽ xuất hiện, đi cạnh họ. Các vị đừng ngạc nhiên. Nếu cần, các vị cũng nên xuất hiện, tỏ ý tuân phục y, và chống Lưu hậu.
Lê Đức cực kỳ thông minh. Y hiểu liền:
- Có phải ta khích y cướp ngôi vua Tống không?
Mỹ-Linh gật đầu:
- Gần như vậy. À, Lê trưởng lão, người nghe nhiều, hiểu rộng, có biết cạnh Triệu Thành còn một người trẻ tuổi, y xưng tên Lý Cương. Triệu Thành gọi y bằng sư đệ. Thân thế y ra sao?
- Y không phải họ Lý đâu. Tên thực y là Phạm Trọng-Yêm, người đất Ngô-huyện, sinh năm Kỷ-Sửu (989) nhằm niên hiệu Đoan-củng thứ nhì đời Tống Thái-tông. Tương đương với bên Đại-Việt niên hiệu Hưng-thống nguyên niên đời vua Lê Đại-Hành. Nhà nghèo, chăm học, thông minh, nghe nhiều, hiểu rộng. Đậu tiến sĩ niên hiệu Đại-trung Tường-phù đời Tống Chân-tông. Khi Chân-tông băng, Lưu-hậu cầm quyền, y được cử coi phủ Khai-phong, tức như bên Đại-Việt chức tổng trấn Thăng-long. Gần đây chuyển qua coi Khu-mật viện. Chức tước của y như sau : Tham tri chính sự, đồng bình chương sự, Khu-mật viện phó sứ.
Thiệu-Thái hỏi Mỹ-Linh:
- Chức tước ấy có lớn không?
- Tham-tri chính sự là phó tể tướng. Tống triều có tả, hữu tể tướng và sáu tới mười hai phó tể tướng. Đồng-bình chương sự, là coi về văn.
- À, y còn trẻ mà đã làm lớn. Tại sao y gọi Triệu Thành bằng sư huynh?
- Nguyên do thế này. Triệu Thành là đệ tử Minh-Thiên đại sư. Phạm Trọng-Yêm đệ tử Minh-Sơn đại sư. Minh-Thiên là sư huynh Minh-Thiên. Võ công Trọng-Yêm cực kỳ cao thâm. Y đấu với Địch-Thanh trên bốn trăm chiêu, bất phân thắng bại.
Mỹ-Linh kinh ngạc:
- Văn y đậu tiến sĩ. Võ y cao vào bậc nhất. So sánh y với Dư Tĩnh, Vương Duy-Chính ra sao?
- Tài y như mặt trăng mặt trời. Dư, Vương chỉ có thể ví với đom đóm mà thôi. Dư, Vương thuộc thứ thư lại, thứ chỉ biết thuận theo ý chủ. Còn Phạm có cái trông rộng, nhìn xa, tư tưởng bao la bát ngát. Trong lòng y lại hàm chứa tinh thần Nho gia, không thích gây chiến với lân bang.
- Hèn gì, y lý luận đâu ra đấy. Tôi thấy Triệu Thành nể y muốn hơn Minh-Thiên đại sư.
- Công chúa nói đúng. Khi tiếp xúc với y phải cẩn thận. Y thuộc loại cực kỳ thông minh, lại tinh minh mẫn cán số một, số hai triều Tống. Hiện y giữ chức Khu-mật viện sứ. Tương đương với chức vụ của Tạ Sơn ở Đại-Việt.
Đào Nhất-Bách tiếp:
- Trong trấn Khúc-giang hiện còn có người của Liêu, Cao-ly, Tây-hạ. Họ cũng tới tìm kho tàng. Không hiểu sao họ cũng có bản đồ, biết chi tiết nà mò tới đây.
Mỹ-Linh cau mày suy nghĩ, rồi gật đầu:
- Khó hiểu quá. Ta cứ đứng ngoài nhìn họ tranh dành. Vậy thế này, Đào trưởng lão cho anh em dàn ra chờ người của các đại môn phái Đại-Việt tới đây, thông báo cho họ biết tình hình, cùng lo chỗ cho họ ẩn thân, bằng không Phạm Trọng-Yêm tung quân bắt hết e phiền phức lắm.
Nhất-Bách than thở:
- Giáo chúng muốn ẩn thân, nhưng khó quá. Trong vòng một tháng qua, trấn Khúc-giang nảy ra nhiều kì nhân, dị sĩ, làm lắm truyện lạ đời. Sau mỗi vụ như vậy, võ lâm các nơi ẩn thân lại bị lộ hình tích rồi bị quan quân vây bắt đi.
Mỹ-Linh kinh ngạc:
- Đại khái những vụ ấy ra sao?
- Đầu tiên năm cô gái xuất hiện phá đền thờ Mã Viện. Rồi năm đạo sĩ cướp hai chiến thuyền chở lương thực cho thiết kị, đem phát chẩn cho dân chúng. Lại nữa, trộm vào công khố lấy trộm vàng, còn cạo trọc đầu tướng chỉ huy thiết kị. Trấn này muốn nổ tung ra về những vụ đó.
Thiệu-Thái hỏi Đào Nhất-Bách:
- Đào trưởng lão. Trưởng lão có biết phần mộ của Khúc-giang ngũ hiệp cùng đền thờ hai vị nữ anh hùng Lĩnh-Nam ở đâu không?
Nhất-Bách cung kính đáp:
- Khải bẩm giáo chủ, phần mộ Khúc-giang ngũ hiệp hiện nằm trên núi Ô-thạch. Còn đền thờ Nam-hải nữ hiệp ở Sa-khẩu. Ô thạch ít người lai vãng, chứ Sa-khẩu thì quanh năm dân chúng kéo về lễ bái đông nghẹt. Nhất là từ mấy hôm nay thuộc ngày rằm.
Mỹ-Linh đề nghị:
- Theo ý trưởng lão, chúng tôi phải trang phục thế nào, khi đi hành hương hai di tích trên?
- Hiện vùng này dân chúng trang phục phân nửa theo Tống, phân nửa theo Việt. Tiếng nói cũng pha trộn lẫn lộn. Thuộc hạ nghĩ giáo chủ cùng công chúa cứ trang phục như người Việt, nói tiếng Việt tiện hơn. Còn Đỗ phu nhân, vốn người Hoa, trang phục sao cũng được.
Đào Nhất-Bách nói:
- Bây giờ thế này, giáo chủ cùng công chúa trang phục thành hai anh em cô cậu con nhà giầu. Còn thuộc hạ với Đỗ phu nhân giả làm tùy tùng mang lễ vật theo. Bây giờ chúng ta thăm Ô-thạch. Tối lễ đền Sa-khẩu.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái vào khoang thuyền thay quần áo. Bấy giờ trời vào tiết tháng mười một, gió rú lên từng cơn qua song cửa, qua lá cây úa, hơi lạnh len lỏi trong gió. Mỹ-Linh mặc quần áo lụa trắng, dây lưng mầu tím, khăn choàng cổ cũng mầu tím viền vàng. Bên ngoài nàng khoác chiếc áo xanh lá cây lợt. Thiệu-Thái mặc bộ quần áo mầu nâu sẫm. Cả hai đeo kiếm, rồi cùng Đào, Đỗ vào chợ. Đào-nhất-Bách thông thuộc đường lối. Y mua sắm nào hoa, nào quả, nào gà, nào lợn, rồi mượn người chất lên xe, chở theo.

Bốn người đi về phía Bắc. Rời khỏi trấn Khúc-giang, một cảnh trí như tranh vẽ làm Mỹ-Linh cảm thấy trong lòng khoan khoái: Bấy giờ vào cuối Thu, lá rừng núi biến thành một mầu vàng đỏ ối. Hai bên đường, hoa cúc hoang nở rực rỡ. Xa xa, trên sông, những con chim âu mầu trắng bay lượn nhịp nhàng.
Nhất-Bách chỉ vào ngọn núi phía trước:
- Kia là núi Ô-thạch.
Mỹ-Linh nhìn theo: Ngọn núi có hình dạnh giống như con quạ. Đầu quạ hướng ra sông. Hai cánh toả ra giải đồng rộng bao la. Đuôi cong dựa vào hòn núi dốc thẳng đứng.
Nhất-Bách chỉ vào mấy điểm trắng trên đầu quạ:
- Mấy điểm trắng kia là lăng mộ của Khúc-giang ngũ hùng.
Thiệu-Thái thắc mắc:
- Mỹ-Linh này! Anh đọc sử thấy nói Khúc-giang ngũ hùng bị đánh thuốc độc giữa lúc Lưu Long mang đại quân công Nam-hải. Đệ tử đem thi hài táng vào nơi bí mật. Vì vậy tin này về triều đình Lĩnh-Nam, tể tướng Nguyễn Phương-Dung không tin năm vị bị đầu độc. Thế sao bây giờ lại có lăng mộ ở đây?

Mỹ-Linh chợt nhớ tới một bản tấu trình về kho tàng Tần-Hán, Âu-Việt tại Khu-mật viện Đại-Việt. Trong bản phúc trình đó có nói: Sự thực Khúc-giang ngũ hùng thấy thế không giữ nổi Nam-hải. Năm ông cùng đệ tử mai danh ẩn tích. Dối rằng bị đầu độc chết. Bình-Ngô đại tướng quân tổng trấn Nam-hải là công chúa Thánh-Thiên cũng được lệnh rút về Giao-chỉ. Công chúa truyền xây năm ngôi mộ giả. Trong năm ngôi mộ này có nhiều kí hiệu để tìm ra chỗ dấu kho tàng. Trước khi khởi hành cùng Thiệu-Thái, Khai-Quốc vương sai Đỗ-lệ-Thanh chuyển cho nàng một mật lệnh. Nàng học thuộc rồi đốt đi. Trong mật lệnh đó dặn nàng phải chiếu những điều cơ mật trong tập di thư dành cho chưởng môn phái Mê-linh, cùng kí hiệu trên lăng Khúc-giang ngũ hùng, hầu tìm kho tàng.
Những bí ẩn đó, đến Thiệu-Thái, nàng cũng không cho biết. Bây giờ, sắp đến lăng Khúc-giang ngũ-hùng, lòng nàng rộn lên những cảm giác khó tả.

Ngựa bắt đầu theo con đường thoai thoải leo núi. Con đường vòng vèo như ruột dê. Núi Ô-thạch không cao lắm. Thoáng cái đã tới đỉnh. Đỉnh có khu vực bằng phẳng ước khoảng năm sáu mẫu, trồng toàn một loại thông hàng lối ngay thẳng. Chính giữa, năm ngôi mộ xây theo đội hình đặc biệt: Hai ngôi hai bên. Một ngôi ở giữa. Mộ xây bằng đá ong, nhưng lại quét vôi mầu trắng. Phía trước một bàn thờ cũng bằng đá ong cao khoảng bằng ngực một người trung bình. Trên bàn thờ, năm bát hương bằng đá, khắc hình rất tinh vi.

Thiệu-Thái, Mỹ-Linh, Đào Nhất-Bách cùng bẻ cành thông quét bàn thờ thực sạch sẽ. Mỹ-Linh truyền người gánh thuê đem phẩm vật cúng bầy ra. Đỗ Lệ-Thanh đánh lửa đốt hương, nến lên.
Thiệu-Thái, Mỹ-Linh quỳ gối trước. Đào, Đỗ quỳ phía sau, lễ đủ tám lễ. Mỹ-Linh khấn:
- Đệ tử Lý-Mỹ-Linh, tước phong công chúa Bình-Dương của Đại-Việt, biểu huynh Thân Thiệu-Thái giáo chủ Lạc-Long giáo, trưởng lão Đào Nhất-Bách, cùng với lương y Đỗ Lệ-Thanh. Hôm nay nhân bọn đệ tử qua Khúc-giang, tưởng nhớ anh linh năm đại vương xưa, hùng khí trùm hoàn vũ, trấn Nam-hải, bảo vệ đất tổ... đệ tử dâng chút lễ mọn. Tại thiên chi linh, xin năm vị đại vương cùng về hưởng, phù hộ cho tộc Việt mau thống nhất.
Lễ tất, Mỹ-Linh đứng dậy rót rượu, đùng đao chặt gà, lợn bầy ra đĩa.
Đứng nhìn, nàng để ý thấy năm ngôi xây theo năm hình khác nhau. Ngôi chính giữa hình như cái bát úp. Ngôi hai ngôi bên phải, một hình chữ nhật, một hình vuông. Hai ngôi bên trái, một hình giống như trái xoan, một lại hình năm cạnh.
Thiệu-Thái cũng đã thấy cái khác biệt đó. Chàng hỏi Mỹ-Linh:
- Em thử đoán xem. Trong năm ngôi này, ngôi nào của ngài Nhất-gia? Ngôi nào của ngài Nhị, Tam, Tứ, Ngũ-gia?
Đào Nhất-Bách góp ý:
- Theo ý thuộc hạ, có lẽ người xưa xây mộ không đề danh hiệu các ngài, mà xây năm ngôi mộ năm dạng, ứng với biểu hiệu đương thời mỗi ngài. Nay thời gian qua lâu, không còn ai nhớ được nữa.
Trong khi Thiệu-Thái, Đào Nhất-Bách cùng Đỗ Lệ-Thanh phỏng đoán này nọ, Mỹ-Linh cố moi óc tìm hiểu xem năm hình này ngụ ý gì? Nhưng càng nghĩ càng thấy không có căn cứ nào cả. Nàng tự nhủ:
- Cứ như trong mật thư của phái Mê-linh ghi chú, thì sau khi thành đại nghiệp, vua Trưng sai công chúa Yên-lãng Trần Năng cùng Nghi-hoà công chúa Trần Quế-Hoa, Trần Quỳnh-Hoa lên hồ Động-đình đào kho tàng Tần-Hán mang về. Khi tới Khúc-giang, gặp đoàn cao thủ của Mã thái hậu đuổi rất gắt. Công chúa Yên-lãng cho chôn vào một chỗ bí mật. Niên hiệu vua Trưng thứ ba, khi biết thế nước chông chênh. Vua Trưng sai sứ lên truyền lệnh cho Khúc-giang ngũ hùng cùng công chúa Thánh-Thiên đào kho tàng Tần-Hán mang về Giao-chỉ. Sứ giả tới Nam-hải đúng lúc Khúc-giang ngũ hùng bị đánh thuốc độc chết. Công chúa Thánh-Thiên bị đại quân Lưu Long vây gấp, người đành giả xây mộ cho Khúc-giang ngũ hùng, mượn mộ ghi khắc chi tiết nơi chôn cất kho tàng. Cho nên hơn nghìn năm qua, ai cũng tưởng mộ năm ngài, nhưng thực sự lại ghi dấu vết mà thôi.
Hương đã tàn, nàng bảo Thiệu-Thái:
- Anh hạ lễ xuống, cùng Đỗ phu nhân, Đào trưởng lão thụ lộc đi. Em ăn chay, cho em mấy quả chuối được rồi.
Nàng lấy nải chuối, ngồi riêng ra một tảng đá suy nghĩ. Tần ngần nàng mở bọc đem bộ Dụng binh yếu chỉ ra đọc. Trong trí óc, nàng nhớ lại một truyện: Hồi ở Thăng-long, mới tìm được bộ binh thư này, Khai-Quốc vương với nàng đem ra nghiên cứu. Cả hai đã vướng phải một đoạn, mà không sao hiểu được. Nàng nhớ mang máng rằng dường như trong đó có nói tới hình dạng năm ngôi mộ.
Nàng mở ra đọc. Không khó nhọc, nàng tìm ra đoạn ấy ngay:

" Khi ta viết đến chương cuối bộ binh thư này, là lúc được chỉ dụ vua Trưng phải rút khỏi Nam-hải. Ta cho người liên lạc với Khúc-giang ngũ hùng để bàn kế lui quân. Thì, ôi thôi, năm vị đều bị đầu độc. Ta thân tới Khúc-giang tế năm vị, đệ tử cho biết gia đình năm vị đem xác chôn một nơi cực mật. Ta nhân đó xây mộ cho người.

Xây mộ xong, ta khấn năm vị hãy phù hộ cho tộc Việt bền vững, giầu có hơn nhà Chu, nhà Tần, nhà Hán. Con cháu sinh sản tròn, vuông dưới ánh mặt trời, luôn tươi như soan năm cánh..."


Khúc mắc ở câu cuối. Hồi ấy đọc đoạn này, Khai-Quốc vương cho rằng lối hành văn sáo ngữ, cùng lời chúc tụng của tổ tiên xưa như thế. Nên cả hai chú cháu bỏ qua. Bây giờ nhìn hình dạng năm ngôi mộ giả, nàng thấy có liên quan tới bài tựa này.

Chợt tia sáng loé lên:
- Phải rồi, trong bài nói bền vững giầu có hơn Chu, Tần, Hán tức kho tàng từ đời Chu qua đời Tần, đời Hán. Đào được kho tàng lên ắt giầu có xúc tích. Còn câu dưới có đủ hình năm ngôi mộ: tròn, vuông. Ánh sáng mặt trời là gì nhỉ? Mặt trời tức Nhật tương ứng với hình chữ nhật. Tươi như hoa soan, tức hình trái soan. Năm cánh tức hình ngôi mộ năm cạnh kia.
Nàng lại nghĩ:
- Như vậy, ta hiểu rõ ý nghĩa hình dạng năm ngôi mộ rồi. Thế nhưng hình dạng khác nhau để chỉ gì? Tròn, vuông, chữ nhật, trái soan, năm cạnh. Nếu theo thứ tự, mộ ngài Nhất-Gia hình tròn. Ngài Nhị-Gia hình vuông, ngài Tam-Gia hình chữ nhật, ngài Tứ-Gia hình trái soan, ngài Ngũ-Gia hình năm cạnh.
Nghĩ mãi không ra, nàng gấp bộ kinh thư bỏ vào bọc. Bên kia, Thiệu-Thái cùng Đào Nhất-Bách ăn uống đã xong.
Trời về chiều. Gió lạnh thổi nhè nhẹ qua những cây thông, bật thành tiếng reo vi vu. Những đàn cò đi ăn bắt đầu đo cánh bay về tổ.
Mỹ-Linh vẫy tay, cùng mọi người lên ngựa.
Thình lình Đào Nhất-Bách lên tiếng:
- Chúng tôi cùng nhau tế lăng bậc tiền bối. Người là ai, mà lại rình rập? Có mau xuất hiện không?
Nói rồi y phi thân vào bụi cỏ gần đó, chụp lưng một người nhấc bổng lên. Thì ra một lão già. Lão kêu réo ầm lên:
- Tôi nằm đây chờ các người cúng xong, sẽ ra lấy lộc ăn. Các người keo kiệt mang đi hết rồi, còn hành tội tôi ư?
Người khuân vác mướn nói với Đào Nhất-Bách:
- Quan khách không nên mạnh tay với người này. Y vốn làm nghề quét chợ. Lão tên Luyện. Từ trước đến nay trẻ con, ăn mày thường rình rập quanh lăng, đợi khách tới cúng. Khi khách vừa đi khỏi, chúng ùa ra hạ lễ xuống ăn. Lệ này thành quen.
Đào Nhất-Bách vội buông lão xuống, miệng nói:
- Xin lỗi.
Rồi y bảo người khuân vác trao cho lão già đó phân nửa con lợn luộc, cùng với xôi, hoa quả. Lão Luyện cảm ơn rối rít, mở tay nải ra đựng lộc.
Đỗ Lệ-Thanh móc túi trao cho Luyện một xâu tiền rối bảo:
- Tôi ở bên bờ sông gần chợ. Nếu lão cần tiền, thực phẩm, tới đó, tôi sẵn sàng tặng cho chút ít mà tiêu.
Lão Luyện cúi rạp người cảm tạ, hai tay lĩnh tiền bỏ vào túi.
Mỹ-Linh móc bạc trả công cho người khuân vác, rồi bốn người lên ngựa trở về trấn. Con thuyền của Lạc-long giáo thuộc đạo Quảng-Đông vẫn đậu ở bến chờ đợi. Bốn người xuống thuyền. Thuyền rời bến ra giữa sông.
Mỹ-Linh vỗ vai Đỗ Lệ-Thanh:
- Đỗ phu nhân tinh ý thực. Đêm nay tên Luyện kia thế nào cũng phải tìm phu nhân lậy dập trán ra xin tạ tội.
Đào Nhất-Bách kinh ngạc:
- Công chúa dạy sao?
- Cái tên Luyện kia nếu không là người của Khu-mật viện Tống, ắt của môn phái, bang hội hoặc nước nào, tiềm ẩn làm người quét chợ. Y rình rập quanh lăng Ngũ-hùng đã lâu. Võ công y cực cao thâm, mà định lực của y cũng không tầm thường. Y bị Đào trưởng lão nhắc lên, mà tuyệt không có phản ứng.
Thiệu-Thái đờ người ra:
- Mỹ-Linh, sao em biết võ công y cao?
- Khi y bị nhắc lên, cổ áo co lại, lộ ra làn da lưng trắng mịn, khác hẳn với da mặt dăn deo khó coi. Rõ ràng y còn trẻ. Lúc y lĩnh lộc, gồm nửa con lợn với xôi chuối đâu có nhẹ? Thế mà y quảy lên vai, chỉ dùng ngón tay út móc vào tay nải.
Nàng hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
- Chắc phu nhân nhận ra y trá hình làm ma, làm quỷ, phu nhân phóng thuốc vào xâu tiền rồi cho y. Y ngu thực, không nghi ngờ gì tiếp lấy. Đêm nay y lên cơn đau đớn cho biết thân.
Mỹ-Linh để Thiệu-Thái bàn luận việc Lạc-long giáo. Nàng xin vào trong khoang thuyền nghỉ. Viên thuyền trưởng dành cho nàng một khoang, trang trí cực kỳ thanh nhã. Trên cái án thư, đặt chiếc đỉnh, đốt trầm hương bay nghi ngút.
Mỹ-Linh đóng cửa khoang. Nàng quan sát quanh khoang thuyền xem có kẽ hở nào khả dĩ người ta dòm trộm không. Khi biết chắc hoàn toàn an ninh, nàng mở tập sách mật của phái Mê-linh, do sư thái Tịnh-Tuệ trao cho hôm truyền chức chưởng môn. Tập sách này nàng đọc gần như thuộc lòng. Nhưng bên trong có nhiều điều chưa thấu đáo.
Phần thứ nhất chép lịch sử các phái võ thời Lĩnh-Nam, từ khi vua Trưng tuẫn quốc cho tới thời Đinh. Phần thứ nhì chép diễn tiến sự thống nhất phái Long-biên, Hoa-lư, Cửu-chân thành phái Mê-linh. Phần thứ ba chép các biến cố của phái Mê-linh từ khi thành lập cho đến khi sư thái Tịnh-Tuệ nhận chức chưởng môn.

Mỗi lần cầm tập sách ra, lòng nàng lại nao nao bồn chồn:
- Sư thái Tịnh-Tuệ tin tưởng Vương-mẫu mình lắm, bà mới dành cho ưu ái được sao chép mật thư này. Nhìn nét chữ hoa mỹ bay bướm, mình cũng biết vương mẫu có hoa tay. Cũng chính vì vậy, mà bọn Tống bắt cóc vương mẫu mình, hầu so sánh tuồng chữ. Không biết bọn Tống Triệu Thành hay Lưu hậu bắt cóc Vương-mẫu mình?
Chợt nàng bật cười:
- Mình thực lẩm cẩm. Rõ ràng bọn Lưu hậu bắt Vương mẫu rồi, còn gì nữa mà nghi ngờ? Nếu bọn Triệu Thành bắt, ắt chúng giam bà trên chiến hạm, mình đã thấy rồi. Vả lại nếu y bắt được Vương-mẫu mình, đâu cần bủa lưới bắt Lê Thiếu-Mai với thầy đồ Ngọc-Phách để dịch sách.
Nàng đọc sang phần thứ tư, chép lịch sử kho tàng Tần-Hán, Âu-Việt. Kho tàng Âu-Việt hiện chôn ở vùng quanh núi vua Bà, sách chép bằng chữ Khoa-đẩu, lại toàn bằng hơn ba trăm thuật ngữ. Hôm sư thái Tịnh-Tuệ truyền chức chưởng môn, đã đọc cho nàng. Vì vậy bất cứ ai đọc phần này cũng không hiểu nổi. Duy người biết thuật ngữ đó mới mò ra được. Nàng nghĩ thầm:
- Kỳ này về Đại-Việt, mình triệu tập hết các đại môn phái, rồi sai đào lên, bỏ vào công khố Đại-Việt.
Phần thứ năm chép lịch sử kho tàng Tần-Hán, cùng chỉ chỗ cất. Phần này nàng hiểu lờ mờ. Nhất là trong đó có đoạn thơ không ra thơ, văn chẳng ra văn:

Tự cổ Ân, Chu trị thiên hạ,
Vàng ngọc, bốn phương tụ tập về.



<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.01.2005 04:39:00 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 13.01.2005 18:42:27 (permalink)
    Hồi thứ bẩy mươi bẩy


    Kỳ nhân dị sĩ



    Nàng tự giảng:
    - Hai câu có nghĩa từ Ân tới Chu cai trị Trung-nguyên, vàng ngọc súc tích. Hai câu này không có gì lạ.
    Nàng đọc xuống hai câu dưới:
    Trung-nguyên thống nhất, A-phòng cháy.
    Đuổi hươu, Đông thành, Tây ra đi.
    - Phải rồi hai câu này ý nói Tần thống nhất thiên hạ, rồi bị Hạng-Vũ diệt, đốt cháy cung A-phòng. Bấy giờ anh hùng thiên hạ nổi lên tranh nhau giang sơn, ví như đuổi con hươu. Đông tức Hạng Vũ. Lưu Bang lập nhà Tây Hán tức Tây. Như vậy câu sau ý nói Hạng Vũ thắng Lưu Bang.
    Nàng đọc hai câu tiếp:
    Đại phong một trận, anh hùng tận,
    Châu bảo Vị-ương, lửa bốn bề.
    - Sau khi Lưu Bang thắng Hạng Vũ, trở về quê làm bài thơ Đại-phong. Lưu đem châu bảo thời Ân, Chu, Tần cất ở điện Vị-ương. Rồi cuối đời Tây Hán, Vương Mãng làm phản. Y đốt cháy điện Vị-ương.
    Nàng đọc tiếp:

    Động-đình, Yên-Lãng, Nghi-Hòa đến.
    Khúc-giang, sóng dậy, muôn đời ghi.


    Mỹ-Linh nghĩ thầm:
    - Đoạn này ý nói công chúa Yên-Lãng Trần Năng và hai công chúa Nghi-hoà Trần Quế-Hoa, Trần Quỳnh-Hoa đào kho tàng ở hồ Động-đình lên, rồi chở về Khúc-giang. Nhưng chữ sóng dậy với muôn đời ghi ý chỉ gì?
    Nàng chợt nghĩ đến những thuật ngữ:
    - Sóng nghĩa là núi cao. Dậy nghĩa là hang sâu. Muôn là mười vạn. Một vạn trong thuật ngữ là một trăm. Vậy muôn thành con số một nghìn. Cả hai câu này ý nói: trong núi cao nhất, có hang sâu. Còn một nghìn là gì nhỉ?
    Nàng mở bản đồ vùng Khúc-Giang ra. Này sông, này núi, trùng điệp. Nhìn một lượt nàng nghĩ thầm:
    - Ta phải tìm núi nào cao nhất mới được!
    Không khó khăn, nàng tìm ra giữa thung lũng gần núi Ô-thạch có ngọn Tuyệt-phong cao nhất. Nàng nhủ thầm:
    - Ta phải thám thính ngọn Tuyệt-phong xem sao.
    Đến đấy mệt mỏi, nàng bỏ sách vào bọc, mở cửa ra ngoài, ngồi nghe Thiệu-Thái, Lê Đức bàn truyện Lạc-long giáo.
    Chợt một giáo đồ giữ trọng trách gác đầu thuyền vào cúi rạp người xuống trình với Lê Đức:
    - Trình trưởng lão. Bên ngoài có một con thuyền nhỏ. Trên thuyền chứa bốn người. Ba người nằm ngủ, không rõ mặt. Một người đội nón buông câu. Thuyền đậu sát thuyền ta. Thuộc hạ đuổi, mà hắn không chịu đi. Xin trưởng lão định liệu.
    Thiệu-Thái bảo y:
    - Tuyệt đối tránh đụng chạm. Chúng ta đang ẩn thân. Tôi với Lê trưởng lão ra ngoài xem sao.
    Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Lê Đức ra đầu thuyền quan sát. Con thuyền mui che một nửa. Trong lòng thuyền trải chiếu, có ba người cuộn chăn nằm ngủ gáy khò khò. Còn một người ngồi buông câu. Cái nón che mất mặt, không hiểu y già hay trẻ.
    Một giáo chúng nói:
    - Này thuyền ai kia, lui ra chỗ khác. Tại sao lại cứ sán đến bên thuyền ta mà câu?
    Người câu im lặng không trả lời. Y móc trong bọc ra một ống tiêu để lên miệng thổi. Tiếng tiêu véo von vọng đi rất ra. Hết bài tiêu, y cất cao giọng ngâm:

    Thương-lang chi thủy thanh hề,
    Khả dĩ trạc ngã anh.
    Thương-lang chi thủy trọc hề,
    Khả dĩ trạc ngã túc.


    Ngâm xong, y ngâm sang tiếng Việt:

    Sông Thương nước chảy trong veo,
    Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta.
    Sông Thương nước chảy phù sa,
    Thì ta lội xuống để mà rửa chân.


    Rồi y lại cầm tiêu thổi. Lần mày y thổi bản Động-đình ca.
    Tên giáo chúng cầm cây sào gõ vào nón ngư nhân. Y ngửa mặt nhìn lên, rồi nói một mình:
    - Trời đất ôi! Xưa Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung khi còn làm nghề nặn nồi bán, bị bọn ngu xuẩn kẻ chợ khinh khi. Lúc chưa đạt vận Khương thái công, Hàn Tín đi câu cá, chúng nhân người trần mắt thịt coi thường. Nay ta câu cá trên sông, cũng bị bọn trôi sông dạt chợ khuấy phá. Hỡi ôi! Thiên hạ đều người trần mắt thịt cả.
    Tuy nói vậy, mà y vẫn không di chuyển, cứ ngồi câu, bất kể đến tên giáo chúng. Y nói một mình:
    - Hai con thuyền cùng đậu trên sông. Ta không hỏi tội người tại sao người đậu thuyền bên ta, người cũng đừng trách sao ta đậu thuyền cạnh ngươi mới phải chứ?
    Lê Đức nói nhỏ với Mỹ-Linh:
    -- Tiếng người này dường như còn trẻ. Y cố ý gây sự với ta. Vậy ta lui thuyền ra chỗ khác.
    Mỹ-Linh nhận thấy dáng người này rất quen, mà nàng không nhớ đã gặp ở đâu.
    Nàng ra lệnh:
    - Anh em dời thuyền xuống khúc dưới kia vậy.
    Thuyền phu nhổ sào, cho thuyền di chuyển về phía trước. Con thuyền của ngư nhân cũng trôi theo song song. Bỗng con thuyền lớn lao vào phía bờ bên kia sông, là một bãi hoang.
    Lê Đức kinh hãi hỏi:
    - Ta bảo cho thuyền đi thẳng, tại sao lại áp vào bãi này.
    Tài công kêu lên:
    - Trình lão gia, bánh lái mắc kẹt, nên thuyền đâm vào bờ.
    Lê Đức chạy vào cầm lái, lái thử, thì thuyền lại trôi ra giữa sông. Y mắng tài công:
    - Bánh lái hỏng đâu?
    Tài công cầm lấy tay lái, quả nhiên bánh lái không kẹt. Thuyền trôi dần theo giòng. Tới hạ lưu, thuyền phu cho cắm sào. Lê Đức nhìn ra, thủy chung con thuyền nhỏ vẫn đậu song song với thuyền mình, không tới trước, không lui một bước. Y nhìn rõ ngư nhân đang kéo một sợi dây dài cuộn thành đống nhỏ bên cạnh.
    Lê Đức tỉnh ngộ:
    - Mình đáng chết thực. Ngư nhân tung dây cột bánh lái, làm tài công tưởng bánh lái kẹt. Khi mình cầm lái, y buông dây, mình không rõ, chửi oan tài công.
    Thuyền phu ngó xuống con thuyền nhỏ chửi:
    - Này anh ngư nhân kia. Tại sao anh cứ theo ta mãi vậy?
    Ngư nhân cũng không vừa:
    - Này các người. Các người ỷ có thuyền lớn, theo sau thuyền ta mãi, làm sao ta câu được cá. Các người có lui ra chỗ khác không?
    Biết bị khiêu khích, Lê Đức ra hiệu cho thuyền phu. Thuyền phu cầm cây sào chọc vào đầu ngư nhân. Ngư nhân chụp cây sào bật mạnh một cái. Thuyền phu bay vù lên cao, rồi rơi tòm xuống nước. Y lóp ngóp bơi lại mạn thuyền, bám dây leo lên.
    Lê Đức bật lên tiếng ủa kinh ngạc. Y ra hiệu. Một thuyền phu khác cầm cây chèo đập vào đầu ngư nhân. Ngư nhân bắt lấy cây chèo, rồi kẹp giữa hai đầu gối. Thuyền phu giật mạnh, mà cây chèo như đóng đinh vào cột không nhúc nhích.
    Hai ba giáo chúng cùng chạy lại giật cây chèo, mà thủy chung không chuyển động. Trong khi ngư nhân vẫn ngồi nhàn nhã. Tuyệt ở chỗ, hai đầu gối y bất động, hai tay y cầm ống tiêu để lên miệng thổi. Dù hai thuyền phu giật chèo, mà bản nhạc vẫn véo von không đứt quãng.
    Đào Nhất-Bách bước tới cầm lấy cây chèo. Y vận sức giật mạnh. Cây chèo bật lên. Y với với giáo chúng thuyền phu ngã bổ ngửa trên sàn trông thực thảm não.
    Mỹ-Linh kinh ngạc không ít. Võ công của Đào Nhất-Bách không thua Lê Đức làm bao. Ngặt vì y dùng sức mạnh. Ngư nhân thuận thế truyền thêm lực vào, thành ra Đào bị hai kình lực hợp lại, đến nỗi không giữ được thăng bằng.
    Đào Nhất-Bách mất bình tĩnh. Y vọt người lên cao, nhảy xuống con thuyền nhỏ. Tay phóng chưởng tấn công. Ngư nhân cười nhạt, chiã cần câu lên trời. Mọi người kinh hãi la lớn, vì Nhất-Bách rơi xuống, ắt bị cần câu đâm thủng ngực.
    Diễn biến xẩy ra đột ngọt, dù Mỹ-Linh, dù Lê-Đức có ra tay can thiệp cũng không kịp. Nàng chi còn biết kêu lên:
    - Xin dung tình.
    Ngư nhân rung động tay một cái, dây câu cuốn lấy thân hình Nhất-Bách. Cần câu gật mạnh, Nhất-Bách rơi xuống giữa thuyền nhỏ. Lạ một điều, y rơi không mạnh, mà sao lọt vào giữa lòng thuyền, rồi nằm bất động, không nói không rằng, trong khi mắt vẫn mở trừng trừng.
    Ngư nhân cười dòn:
    - Được con cá hồng này lớn quá. Đem vào chợ xẻ thịt bán lấy tiền uống rượu.
    Đến đây, y giật mạnh sợi dây bên hông một cái. Cánh buồm kéo lên, con thuyền nhỏ chạy vun vút về hạ lưu.
    Lê Đức hô lớn:
    - Mau cho thuyền đuổi theo.
    Khi thuyền nhổ sào chèo đi, thì con thuyền nhỏ đã mất hút ở cuối giòng sông.
    Lê Đức lệnh cho thuyền ghé bờ. Y cầm tù và thổi lên một hồi. Lát sau có ba kị mã chạy tới. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Lê Đức lên ngựa phi dọc theo bờ sông đuổi con thuyền nhỏ. Trong khi dưới nước, con thuyền lớn cũng chèo theo.
    Không mất nhiều thời gian, Mỹ-Linh thấy con thuyền nhỏ cắm sào giữa sông. Bốn người nằm trong thuyền đã ngồi dậy. Năm người đang ngồi ăn cơm, thản nhiên như không có gì xẩy ra.
    Mỹ-Linh dừng ngựa lên tiếng:
    - Này! Mấy vị hảo hán kia. Người anh em ta không biết núi Thái-sơn, trót mạo phạm. Mấy vị hãy rộng lượng tha cho y một phen.
    Ngư nhân ngồi câu ban nãy để tay lên tai làm như lắng nghe:
    - Tiếng ai nói trên bờ vậy kìa?
    Một ngư nhân khác tiếp:
    - Dường như tiếng con gái. Cô này chắc đẹp lắm, tiếng trong, ngọt như cam thảo.
    Mỹ-Linh nhắc lại câu nói ban nãy. Ngư nhân vẫn để tay vào tai:
    - Cô nương nói sao? Cô nương muốn mua cá ư?
    Mỹ-Linh bực mình:
    - Không phải muốn mua cá, mà muốn chuộc lỗi.
    - Cô nói cái gì? Trời ơi, tự nhiên tai tôi điếc đặc mất rồi. Cô muốn mua chão chuộc rán mỡ hay nấu rọc mùng ăn hả? Tôi chỉ câu được con cá hồng thôi. Cô nương muốn mua bao nhiêu cân, tôi xẻ ra bán cho. Mỗi cân một chỉ bạc.
    Mỹ-Linh biết ngư nhân giả vờ:
    - Này hảo hán, người bắt anh em của ta để làm gì? Y có đôi chút mạo phạm với người. Ta xin người lượng thứ cho.
    Ngư nhân vẫn để tay vào tai:
    - Cô nương nói sao? Cô nương muốn mua lươn ăn à? Tại hạ chỉ câu được con ngư nhân mà thôi.
    Phía sau con thuyền của Lạc-long giáo đã đuổi kịp. Thuyền lớn kè mạn thuyền nhỏ. Chợt con thuyền nhỏ quay một vòng chạy ngược trở lại, buồm căng no, thuyền như bay trên mặt nước. Giáo chúng trên thuyền lớn chỉ còn biết la hoảng.
    Mỹ-Linh, Lê Đức cho ngựa chạy theo. Con thuyền nhỏ táp vào bờ bên kia, rồi ngư nhân cùng bốn người đồng hành vác Đào Nhất-Bách lên bờ, chạy mất dạng.
    Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Lê Đức cùng xuống thuyền. Đỗ Lệ-Thanh hỏi Lê Đức:
    - Lê trưởng lão. Tôi thấy dường như mấy ngư nhân này còn rất trẻ. Họ không có ác ý với bọn mình . Võ công của ngư nhân rất kỳ ảo.
    Lê Đức phiêu bạt giang hồ cả đời người, thừa kinh nghiệm, y nói:
    - Cái giật sào, hất giáo chúng xuống sông là biến chiêu Kình ngư qúa hải thuộc võ công Cửu-chân. Hai chân kẹp chặt sào, giống nội công Đông-a hay Tiêu-sơn. Khi chĩa cần câu lên, là chiêu Phong suy hoa lạc thuộc kiếm pháp Mê-linh. Lúc giật cần câu bắt Nhất-Bách chính là chiêu Thiên vương xung thiên trong Thiên-vương trượng pháp phái Sài-sơn. Tóm lại, võ công ngư nhân là võ công Đại-Việt.
    Mỹ-Linh gật đầu:
    - Lê trưởng lão nói đúng. Duy chiêu số gì, mà cái phao đập vào phía sau cổ Nhất-Bách, đến nỗi y bất động, tôi chưa hề nghe qua. Bây giờ chúng ta phải đuổi theo bốn người này cứu Đào trưởng lão.
    Lê Đức ngơ ngác:
    - Trời đất rộng bao la, biết họ đi phương nào mà đuổi. Hơn nữa chúng ta đang ở trên đất Tống. Quanh vùng này người của Khu-mật viện Tống nhiều như kiến . Chúng ta cứ thủng thẳng, sẽ truy tìm sau.
    Chợt Thiệu-Thái nhìn lên không, thấy đôi chim ưng theo dõi Triệu Thành đang bay lượn gần ngay bờ sông. Chàng hỏi Mỹ-Linh:
    - Này biểu muội! Em thử đoán, sau khi Triệu Thành với bọn mình rời soái thuyền, tình trạng mấy người đó ra sao?
    Mỹ-Linh lắc đầu:
    - Khó đoán được lắm. Em chỉ biết một điều, những người bị Đỗ phu nhân phóng độc, không biết Lê tiểu thư có cứu được họ không?
    Đỗ Lệ-Thanh gật đầu:
    - Nếu Hồng-Sơn đại phu hiện diện thì cứu được. Tuy nhiên, dù không trị, trong vòng ba năm họ cũng không đến nỗi thiệt mạng. Khi rời thuyền, tiểu tỳ trao cho Đoàn đề đốc chai rượu, gói trong một bao kín, thác rằng đó là mật kế của công chúa. Sau khi bọn Minh-Thiên lên bờ, thuyền trên đường về Đại-Việt hãy mở ra. Trong đó thần có bức thư, nói cho biết rượu có pha thuốc giải.
    Thiệu-Thái nhăn mặt:
    - Vậy bọn Dư Tĩnh, Địch Thanh, Quách Quỳ phải chịu đau mãi hay sao? Tôi nghĩ chúng ta nên tìm chúng, rồi cho thuốc giải, hơn là để chúng đau như vậy.
    Đỗ Lệ-Thanh biết ông chủ của mình lòng dạ lương thuần. Bà cung kính:
    - Sau việc ở đây, tiểu tỳ cũng sẽ theo chủ nhân đi Biện-kinh. Tới nơi, tiểu tỳ tìm cách trao thuốc giải cho họ.
    Thuyền đã trở về bến chợ. Mỹ-Linh bảo Đỗ Lệ-Thanh:
    - Phu nhân với tôi lên bờ, chờ tên Luyện xem y có đến không?
    Thiệu-Thái tường thuật vụ tên Luyện giả người coi chợ cho Lê Đức nghe. Y nhăn mặt ngẫm nghĩ:
    - Tại trấn này, giáo chúng của mình có hàng nghìn. Tai mắt khắp nơi. Công chúa để thuộc hạ dọ hỏi tin tức y trước khi lên bờ gặp y.
    Lê Đức gõ vào mạn thuyền ba tiếng. Một giáo chúng vào khoanh tay chờ lệnh. Y nói:
    - Phiền chú lên mời đạo trưởng đạo Quảng-Đông xuống hầu giáo chủ.
    Tên giáo chúng thưa:
    - Trình trưởng lão, đạo trưởng Chu Tấn đã xuống thuyền chờ đón giáo chủ từ hôm qua. Vì chưa có lệnh giáo chủ, nên chưa dám xuất hiện.
    - Thuyền của đạo trưởng ở đâu?
    Tên giáo chúng chỉ sang con thuyền cực lớn đậu ngay trên bến:
    - Thưa con thuyền kia.
    - Mời đạo trưởng sang ngay.
    - Thưa đạo trưởng bị lên cơn đau đớn cực kỳ, thành ra không ngồi dậy được.
    Thiệu-Thái chợt nhớ lại hôm đại hội, còn thiếu chưởng quản đạo Quảng-Đông không về dự, thành ra chưa được giải Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Chàng vội đứng lên:
    - Chúng ta sang đấy trị cho Chu huynh.
    Lê Đức vẫy tay, thuyền phu nhổ sào, đẩy con thuyền sang sông, cặp vào con thuyền lớn. Lê Đức nhảy sang trước. Thiệu-Thái, Mỹ-Linh nhảy sang sau. Một viên giáo chúng mở cửa thuyền khoanh tay:
    - Thuộc hạ quản huyện đạo Khúc-giang, Thân Minh xin tham kiến giáo chủ cùng trưởng lão.
    Thiệu-Thái vẫy tay:
    - Miễn lễ. Phiền Thân huynh đệ đưa tôi vào thăm Chu đạo trưởng.
    Thân Minh cúi đầu đi trước. Tới một khoang thuyền lớn, y nói vọng vào:
    - Giáo chủ giá lâm.
    Cánh cửa mở rộng. Bên trong có ba nữ giáo đồ quỳ gối hành lễ. Cạnh đó, một người râo tóc bạc phơ đang nằm thoi thóp thở. Thiệu-Thái vẫy tay cho Đỗ Lệ-Thanh:
    - Phiền phu nhân thăm mạch Chu đạo trưởng dùm.
    Đỗ Lệ-Thanh cầm tay Chu Tấn bắt mạch. Lát sau bà nói:
    - Trình giáo chủ bệnh của Chu đạo trưởng không có gì đáng ngại. Chỉ vì quá một năm, không nhận được thuốc giải, thành ra độc chất hành hạ mà thôi.
    Thiệu-Thái vận khí, vung chưởng vỗ vào đầu Chu Tấn một cái như gió thoảng. Chu Tấn đang rên rỉ, đau đớn. Y kêu lên tiếng kêu ối rồi ngồi bật dậy. Máu mũi y chảy ra xối xả. Một nữ giáo chúng vội trao cho y chiếc khăn lớn. Lạ thay, máu chảy đến đâu, da mặt Chu-Tấn hồng hào tới đó. Khoảng nhai dập miếng trầu, máu không chảy nữa.
    Chu Tấn quỳ gối hướng Thiệu-Thái:
    - Đa tạ giáo chủ cứu mạng.
    Đỗ Lệ-Thanh cầm bút ghi một thang thuốc trao cho nữ giáo đồ:
    - Đúng ra, Chu huynh bị Chu-sa độc chưởng hành hạ, giáo chủ dùng thần công trị, thì khỏi hẳn. Ngặt vì, quá hạn một năm, không thuốc giải, nên Chu huynh đau liệt dường hơn tháng. Vì vậy cần uống thuốc bổ dưỡng. Phiền cô nương ra chợ cắt cho ba thang thuốc. Đem về, mỗi thang dùng mười bát nước, nấu còn hai bát, trao cho Chu huynh uống. Mỗi ngày một thang.
    Chu Tấn cung kính hướng Thiệu-Thái:
    - Trước kia bọn thuộc hạ đi đâu cũng bị người ta khinh khiến là bọn tà ma ngoại đạo. Từ khi giáo chủ lên ngôi, công bố đường lối mới, cải danh thành Lạc-long giáo. Bọn thuộc hạ trở thành những người được hương đảng kính trọng. Tuy nhiên, sau đó thuộc hạ lên đường về Thăng-long tìm giáo chủ để xin trục độc chưởng, giáo chủ lại vắng nhà. Thuộc hạ trở về đây, bị lên cơn suốt hai tháng qua, tưởng đâu sẽ chết. Không ngờ hôm nay giáo chủ quang lâm giải ách cho.
    Thiệu-Thái an ủi y:
    - Sau đại hội, tôi phải lên đường khẩn, thi hành quốc sự. Hôm nay mới tới đây thăm anh em. Tôi có điều muốn hỏi Chu huynh.
    - Xin chờ chỉ dụ giáo chủ.
    - Hôm nay, khi lễ lăng Khúc-giang ngũ hùng, tôi gặp một người có hành vi kỳ bí. Y tên Luyện. Chu huynh có biết lai lịch y không?
    Chu Tấn gật đầu:
    - Trình giáo chủ, y họ La tên Luyện, gốc người Việt ở vùng Trường-yên. Trước thuộc giáo đồ bản giáo, giữ chức đạo trưởng huyện Nam-hải. Khi bản giáo cải danh thành Lạc-long giáo, y cùng một số người không phục, xin tách rời ra, vẫn giữ nguyên cơ sở, tự gọi tên là Hồng-thiết giáo Quảng-Đông. Y thường rình rập những người tế lăng Khúc-giang ngũ hùng cùng đền thờ hai vị công chúa thời Lĩnh-Nam.
    - Chu huynh có biết y rình với mục đích gì không?
    - Dường như y theo về bang Nhật-hồ Trung-quốc. Thuộc hạ cho người theo dõi, được biết y rình những người lễ đền với lăng, để tìm di tích kho tàng Tần-Hán.
    Lê Đức hỏi:
    - Y có liên hệ gì với Khu-mật viện Tống không?
    - Không.
    Lê Đức trầm tư nhìn lên bờ, rồi thuật lại vụ Đỗ Lệ-Thanh tung phấn độc vào người La Luyện cho Chu Tấn nghe. Chu Tấn vỗ tay reo lên:
    - Như vậy thực hay biết bao. Dù muốn dù không y cũng phải xuất hiện, gặp Đỗ phu nhân, hầu xin thuốc giải. Bấy giờ ta muốn vo tròn, bóp méo thế nào y cũng phải chịu.
    Thiệu-Thái không đồng ý:
    - Xuất hiện dĩ nhiên y phải xuất hiện. Song đây thuộc đất nước người. Ta chẳng nên mua thù chuốc oán với bang Nhật-hồ Trung-quốc. Chu huynh! Chu huynh có biết tình hình bang Nhật-hồ Trung-quốc gần đây ra sao không?
    Chu Tấn đáp:
    - Thưa giáo chủ. Từ đời vua Tống Thái-Tông, đem quân vào diệt tổng đường cuối cùng của bang Nhật-hồ. Các cao thủ của bang này gần như bị tiêu diệt hết. Chỉ có ba trưởng lão. Một tên tên Đặng Đại-Bằng hiện làm bang chủ. Hai người nữa tên Phương Hổ, Phương Báo. Hai người này tách ra cùng năm người nữa xưng Trường-giang thất hùng. Họ lập ra bang Trường-giang. Ngoài ra còn con gái chưởng môn tên Đỗ Lệ-Thanh, cùng con rể tên Hồ Dương-Bá cùng một số cao thủ bị bắt giải về kinh.
    Chu nói đến đây, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đưa mắt nhìn Đỗ Lệ-Thanh một cái, rồi hỏi:
    - Sau truyện ra sao?
    - Hồ Dương-Bá cùng vợ xin Tống triều ân xá cho thân thuộc. Hai người nguyện làm bất cứ điều gì cho Tống triều để chuộc tội. Dù sao Thái-tổ nhà Tống cũng là thần tử của triều Chu, từng là thuộc hạ của họ Đỗ. Vì vậy triều đình không nỡ tuyệt tình với người cố cựu. Bấy giờ Khu-mật viện nhà Tống đang mang cái hận bị Đại-Việt đánh ở Chi-lăng, Bạch-đằng, mới đưa ý kiến chấp nhận lời xin của Đỗ Lệ-Thanh cùng Hồ Dương-Bá. Tống triều cho Hồ Dương-Bá cùng Đỗ Lệ-Thanh sang Đại-Việt, tiềm ẩn, gây thế lực, chờ một mai quân Tống sang sẽ làm nội ứng.
    Chu Tấn nhìn sang bên kia sông, như tìm kiếm ai, rồi tiếp:
    - Trong khi đó Đặng Đại-Bằng đi khắp nơi tụ tập dư đảng của Hồng-thiết giáo, lập lại bang Nhật-Hồ. Nhưng bang không mạnh, vì họ chỉ biết đánh người, gieo độc chất, rồi cho uống thuốc giải hằng năm. Còn bang chủ lại không biết xử dụng Hồng-thiết mật công, hầu giải độc vĩnh viễn cho đệ tử. Gần đây, họ chế ra phấn độc Chu-sa, tuy không lợi hại bằng Chu-sa độc chưởng, nhưng ai cũng xử dụng được. Họ đã gieo vào người Lưu thái hậu. Họ tưởng rằng sẽ khống chế được Lưu hậu. Không ngờ Lưu hậu lại có tay sai làm trưởng lão Hồng-thiết giáo Đại-Việt, cung cấp thuốc giải cho bà.
    Thiệu-Thái, Mỹ-Linh đưa mắt nhìn Lê Đức, như cùng nói:
    - Không biết Đàm Can hay Hoàng Văn đã làm việc này?
    Chu-Tấn thấy ba người nhìn nhau, y biết thượng cấp có điều gì bí mật, nhưng y không dám hỏi. Y tiếp:
    - Đặng Đại-Bằng cho người sang Đại-Việt tìm Đỗ Lệ-Thanh, Hồ Dương-Bá. Nhưng tuyệt vô âm tín.
    Đỗ Lệ-Thanh hỏi Chu Tấn:
    - Chu đạo trưởng có biết những người sống sót của họ Đỗ hiện giờ ra sao không?
    - Không! Tôi chỉ nghe lờ mờ rằng họ sống yên ổn ở Biện-kinh.
    Đỗ Lệ-Thanh nắm lấy tay Thiệu-Thái:
    - Chủ nhân! Người Việt có câu Cáo chết
    ba năm, quay đầu về núi. Tiểu tỳ xa nhà hơn bốn chục năm có dư. Nay tiểu tỳ dám xin chủ nhân cho tiểu tỳ về Biện-kinh thăm nhà một chuyến.
    Thiệu-Thái an ủi bà:
    - Phu nhân yên tâm. Sau việc ở đây, tôi phải đi Biện-kinh. Bấy giờ sẽ cùng giúp phu nhân tìm thân nhân. Tôi có ơn với Triệu Thành, tôi xin y cho phu nhân đem toàn gia sang Bắc-biên hay Thăng-long sống.
    Từ lúc Lê Đức tôn Thiệu-Thái làm giáo chủ. Y thấy lúc nào Đỗ Lệ-Thanh cũng đi theo chàng. Y cho rằng bà là lão bộc nuôi chàng từ nhỏ. Tuyệt đối y không biết bà gốc tích ra sao. Bây giờ nghe bà với Thiệu-Thái đối thoại, y không khỏi ngỡ ngàng. Tuy nhiên y không dám tò mò vào truyện gia đình chàng.
    Bọn giáo chúng bưng thuốc vào trao cho Chu Tấn. Y bưng uống một hơi sạch, rồi hỏi Thiệu-Thái:
    - Thuộc hạ nghe giáo chủ muốn hành hương đền Sa-khẩu. Vậy khi nào khỏe mạnh thuộc hạ xin tháp tùng, dẫn đường.
    Mỹ-Linh thấy Đỗ Lệ-Thanh có vẻ không muốn đi thăm Sa-khẩu. Nàng hỏi:
    - Phu nhân không đi cùng chúng tôi ư?
    - Tiểu tỳ có hơi khó ở. Xin công chúa miễn cho phải theo hầu.
    Chu Tấn truyền dọn cơm ăn. Ăn xong y nói:
    - Xin giáo chủ cùng công chúa nghỉ ít ngày, rồi thuộc hạ xin dẫn giáo chủ, công chúa cùng Lê trưởng lão lên đường. Chúng ta dùng một con thuyền nhỏ đến Sa-khẩu, hơn đi đường bộ bằng ngựa.
    Ít lâu sau, Thiệu-Thái, Mỹ-Linh thấy Chu Tấn đã bình phục. Hai người bàn truyện đi hành hương Sa-khẩu.
    Chu Tấn ra ngoài. Y cầm cây cờ xanh phất một cái. Lập tức từ bên kia sông, một con thuyền bậc trung nhổ sào, chèo sang bên này. Thuyền ghé vào thuyền lớn. Chu Tấn nhảy sang trước. Thiệu-Thái, Mỹ-Linh, Lê Đức nhảy theo. Bốn giáo chúng chèo thuyền cúi gập người xuống hành lễ.
    Chu Tấn mở của khoang thuyền, mời ba người vào. Trong thuyền trang trí rất thanh nhã. Hai bên có hai hàng ghế bọc gấm mầu hồng. Ở giữa kê một cái bàn sơn son thiếp vàng. Vách thuyền treo những bức trướng lụa, trên vẽ tranh về Phù-Đổng thiên vương đánh giặc Ân, bà Triệu đánh Ngô, Ngô vương đánh Tống.
    Thuyền nhổ sào. Buồm kéo lên. Thuyền từ từ hướng về phía Bắc. Chu Tấn nói:
    - Từ đây đến Sa-khẩu ước hơn nửa giờ. Hôm nay ngày rằm, dân chúng các nơi đến lễ đông lắm. Vì vội quá thuộc hạ không kịp biện lễ. Cứ tới cổng đền, thuộc hạ mua sắm cũng vừa.
    Thình lình có tiếng tiêu véo von vọng lại. Mỹ-Linh nhận ra người ta tấu bản Động-đình ca. Tiếng tiêu phát ra từ một con thuyền nhỏ, đang vượt qua thuyền mình. Khi con thuyền vừa vựơt qua, Mỹ-Linh thấy rõ ràng trên thuyền có bốn ngư nhân đã bắt sống Đào Nhất-Bách. Nàng chỉ cho Lê Đức. Lê Đức hô thuyền phu:
    - Mau đuổi theo con thuyền kia thực gấp.
    Bốn thuyền phu ra sức chèo phụ với buồm. Con thuyền lao đi vun vút. Nhưng con thuyền nhỏ phía trước càng lao nhanh hơn. Đuổi được một lát, Mỹ-Linh nhận ra rằng, thuyền nhỏ của ngư nhân dường như cố ý trêu ghẹo mình. Vì thuyền Chu Tấn bơi nhanh, thuyền phía trước cũng bơi nhanh. Thuyền Chu Tấn bơi chậm, thuyền phía trước cũng bơi chậm.
    Chu Tấn chạy ra ngoài, rút thêm mái chèo. Y chèo phụ với thuyền phu. Thuyền vọt lên như lao. Trong khoảng nhai dập miếng trầu, thuyền Chu Tấn gần đuổi kịp thuyền phía trước. Một ngư nhân quay lại để ngón tay cái lên mũi nheo mắt cười như trêu ghẹo.
    Chu Tấn nói với Lê Đức:
    - Xin trưởng lão đứng trên mũi thuyền chờ sẵn. Đợi thuộc hạ chèo mạnh mấy cái nữa, hãy nhảy qua.
    Nói rồi y gồng tay chèo mấy cái. Hai thuyền chỉ còn cách nhau một trượng. Lê Đức nhảy vọt qua.
    Nhanh như chớp, từ trên thuyền trước hai cái cần câu vung lên. Lê Đức còn lơ lửng trên không định dơ tay bắt. Y nghe thấy hai tiếng véo, véo. Rồi như hai cục sỏi, một trúng mông y, một trúng vai y. Y cảm thấy toàn thân tê liệt, kình lực mất hết. Y rơi xuống thuyền trước đến rầm một cái.
    Thiệu-Thái nhanh mắt nhìn rõ: Hai cần câu vung lên, hai cái phao trúng mông chỗ huyệt Hoàn-khiêu, trúng vai chỗ huyệt Thiên-tông. Vì vậy Lê Đức hoàn toàn bị tê liệt như khúc gỗ. Chàng kinh hãi:
    - Võ công gì mà kỳ lạ? Tại sao hai cái phao đụng vào người, mà Lê Đức như tê liệt? Đúng ra võ công Lê Đức cao thâm khôn lường. Song có điều trong đêm tối y không nhìn thấy hai cái phao, với hai sợi dây câu. Vì vậy y mới thất bại.
    Giữa lúc đó từ thuyền trước bay lại mấy viên sỏi kình lưc cực mạnh kêu lên tiếng vi vu. Thiệu-Thái vung tay bắt được hai viên. Còn một viên trúng sợi dây buồm. Sợi dây đứt đánh phựt một cái. Con thuyền Chu Tấn quay ngang, rồi trôi chậm lại.
    Trên thuyền trước vang lên tiếng cười:
    - Ồ, lại được con cá tự nhiên nhảy vào thuyền mình.
    Tiếng nói vừa dứt, thuyền vượt sông về phía trước mất dạng.
    Mỹ-Linh hô nối lại dây buồm, rồi đuổi theo.
    Thiệu-Thái kinh hãi:
    - Võ công ngư nhân thực kỳ lạ. Y vận công búng sỏi bằng âm kình làm đứt được dây buồm, hơi giống Vô-ngã tướng thiền công của mình. Không biết bọn này là ai?
    Thuyền đi được một quãng, từ phía thượng lưu, chỗ con sông hẹp lại, hiện ra hai con thuyền cực lớn đậu giữa giòng ngăn mất lối đi. Chu Tấn kinh hoàng, hô lớn:
    - Thuyền nào kia, làm ơn lách sang bên cạnh, nhường chỗ cho chúng tôi qua được không?
    Có tiếng đáp lại:
    - Mong anh em thông cảm. Tháng này, tiết trời khô khan, nước sông nông. Thuyền chúng tôi chở nặng, khẳm quá, mắc cạn, không nhúc nhích được.
    Mỹ-Linh nhìn lại: Quả nhiên người ta đang xếp hàng, truyền tay nhau chuyển hàng lên bờ, hầu thuyền khỏi mắc cạn. Nàng nghĩ thầm:
    - Bốn ngư nhân hành động như đùa bỡn, mà thực ra có tính toán. Họ chuẩn bị bắt Lê Đức, rồi bỏ chạy qua lối này. Thuyền họ nhỏ, lách qua được. Thuyền mình lớn hơn, không lối đi.
    Chu Tấn chỉ vào mỏm sông phía trước:
    - Chỗ có nhiều ánh sáng đèn đuốc kia là đền Sa-khẩu.
    Thiệu-Thái, Mỹ-Linh nhìn theo: Trên mỏm sông, một ngôi đền lờ mờ hiện trong đêm, với ánh đèn như sao sa.
    Thiệu-Thái hỏi Mỹ-Linh:
    - Làm sao bây giờ?
    Mỹ-Linh thở dài:
    - Bốn ngư nhân bắt Lê Đức, Đào Nhất-Bách, hẳn có chủ ý, kế hoạch. Nhất định họ sẽ trở lại. Chúng ta không cần tìm làm gì. Bây giờ ta ghé bờ, lên bộ đi lễ vậy.
    Thiệu-Thái nói với Chu Tấn:
    - Chu huynh! Từ hôm tôi tới trấn này, có linh cảm thấy một màn bí mật bao trùm xung quanh, mà như người đi đêm không hiểu tai sao?
    Chu Tấn cũng nghiệm thấy vậy. Y vò đầu bứt trán:
    - Thuộc hạ bị bệnh hơn tháng nay. Việc bản giáo do anh em thay thế. Thuộc hạ vừa mới tỉnh, chưa hỏi tự sự, nên khó có thể đoán bọn này là ai. Chứ từ xưa đến giờ, trong các bang hội, môn phái ở đây, Hồng-thiết giáo mình vẫn mạnh nhất. Dù An-vũ sứ, dù Chuyển-vận sứ, dù khu mật viện Quảng-Đông lộ nghe đến bản giáo cũng không dám gây hấn, huống hồ các bang hội, môn phái. Từ sáng đến giờ bọn này hoành hành không còn úy kị gì nữa. Chúng nghiên cứu ta kỹ, rồi mới ra tay, như vậy hẳn chúng biết có sự hiện diện của giáo chủ. Đã biết giáo chủ ở đây, mà còn phá phách đùa bỡn, tức chúng mặc nhiên tuyên chiến rồi. Được, thuộc hạ lập tức triệu tập anh em, tìm hiểu chúng, rồi ta sẽ ra tay cũng không muộn.
    Thiệu-Thái an ủi Chu Tấn:
    - Chu huynh đừng vội nóng. Có phải chúng ta yếu thế, bất lực đâu? Chẳng qua chúng ta sợ ném chuột vỡ đồ mà thôi. Vì tại đây đang có Bình-Nam vương nhà Đại-Tống cùng Chuyển vận-sứ, An-vũ sứ Quảng-Đông lộ, khu-mật viện sứ cùng với mấy vạn thiết kị. Nếu chúng ta hội họp e gặp khó khăn. Tốt hơn hết, Chu huynh ra lệnh cho anh em tìm hiểu gốc gác chúng, rồi ta hãy ra tay cũng không muộn.
    Vừa lúc đó, phía trước có tiếng reo hò. Thì ra hai con thuyền mắc cạn đã đi được. Phải khó nhọc lắm, họ mới di chuyển khỏi quãng sông chật hẹp, rồi lách sang một bên, cho thuyền Chu Tấn đi.
    Chu Tấn bàn:
    - Tới đền Sa-khẩu, xin Giáo chủ cùng Công-chúa đi lễ. Tiểu nhân lên bờ, gặp anh em, truyền lệnh cho họ tìm ra kẻ bắt hai trưởng lão.
    Mỹ-Linh dặn Chu Tấn:
    - Dù kẻ địch thế nào chăng nữa, Chu huynh cũng không được giao chiến. Chờ bọn tôi đã.
    Chu Tấn vâng dạ lĩnh mệnh.
    Thuyền đến mỏn Sa-khẩu. Dọc bến sông, thuyền đậu như bát úp. Phải khó nhọc lắm, Chu Tấn mới tìm được chỗ đậu. Thiệu-Thái, Mỹ-Linh lên bờ. Một nữ giáo chúng tên Sương được lệnh theo hầu. Mỹ-Linh tới gian hàng bán lễ vật. Nàng mua hương, hoa, quả, trao cho Sương mang, rồi theo làn sóng người đi vào đền.
    Đền làm quay mặt về hướng Nam. Vào qua cổng, toả ra hai con đường bọc lấy một hồ sen hình bán nguyệt. Giữa hồ sen có gò. Trên gò một cây cờ Lĩnh-Nam cực lớn, bay phất phới.
    Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nhận ra cây cờ đó là cờ thời vua Trưng. Vòng qua bờ hồ trước đền, có cái sân lát đá xanh.
    Trong sân, một bên có cây đa, một bên có cây đề cao chót vót, ước hơn mười trượng, gió thổi vào lá reo lên những tiếng ào ào.
    Sau sân tới đền. Đền không lớn lắm. Phải bước lên chín bậc mới đến hành lang. Hành lang lát gạch đỏ.
    Có hai thiếu nữ mặc áo vàng, chạy ra tiếp rước. Quen thuộc, hai cô đỡ lấy mâm lễ vật, đon đả mời Mỹ-Linh, Thiệu-Thái. Một thiếu nữ hỏi bằng tiếng Việt:
    - Quý khách từ Đại-Việt sang lễ Công-chúa, hay thuộc tử đệ võ phái thời Lĩnh-Nam?
    Thiệu-Thái hỏi:
    - Sao cô biết chúng tôi người Việt?
    Thiếu nữ mỉm cười:
    - Tại em thấy anh chị trang phục theo lối Việt. Vì anh chị đeo kiếm, nên em mới hỏi anh chị chỉ đi lễ hay tử đệ võ phái hành hương.
    Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cực kỳ tôn kính anh hùng thời vua Bà. Vì vậy, trước đền thờ hai ngài, Mỹ-Linh không dám nói dối. Nàng đáp:
    - Chúng tôi vừa hành hương như thập phương, lại vừa thuộc hàng con em đệ tử. Chị ơi! Đi lễ, ai cũng như ai. Sao phải phân ra làm hai loại như vậy?
    Cô gái cười:
    - Nếu chị thuộc thập phương, chỉ lễ, rồi về. Còn con em đệ tử, sẽ được mời vào hậu đường chiêm ngưỡng tượng hai công chúa rồi được mời ở lại đền chơi mấy ngày.
    Thiệu-Thái thấy thể lệ tiếp đón, chàng vui vẻ:
    - Lỡ ra, thập phương muốn chiêm ngưỡng tượng hai công chúa, họ nói dối là con em, tử đệ thì sao?
    Cô gái cười rất tươi:
    - Khi người ta không tin hai Công-chúa, hỏi người ta đi lễ làm gì? Còn đã tin, ai dám nói dối?
    Thiệu-Thái gật đầu công nhận lời cô gái đúng. Hai người được dẫn tới chính điện. Sáu bàn thờ rất lớn, trên bầy đầy lễ vật. Phía sau bàn thờ, một chiếc màn bằng gấm đỏ, trên thêu hai con rồng chầu. Đỉnh hương bốc khỏi nghi ngút.
    Thiệu-Thái bảo Sương:
    - Cô nương cứ ra bờ sông chờ chúng tôi.
    Sương vâng dạ lui gót.
    Thiệu-Thái, Mỹ-Linh quỳ gối lễ. Mỹ-Linh khấn:
    - Tấu lạy nhị vị Công-chúa điện hạ. Đệ tử tên Lý Mỹ-Linh, tước phong công-chúa Bình-Dương, hiện làm chưởng môn phái Mê-linh. Nhân quốc sự, đệ tử qua đây, xin cúi đầu kính lễ nhị vị Công-chúa điện hạ. Cầu nhị vị Công-chúa điện hạ phù hộ cho đệ tử tìm thấy kho tàng thời Tần-Hán, hầu đem về xây dựng nước giầu dân mạnh.
    Nàng lạy thêm bốn lạy rồi đứng đậy. Cô gái hướng dẫn hai người vào nhà ngang. Ban trị sự đền ân cần tiếp đón. Một phụ nữ lớn tuổi mang sổ quyên giáo ra. Thập phương kẻ cúng trăm đồng, người cúng một quan.
    Vòng đến trước Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, liếc nhìn thanh gươm hai người đeo bên hông. Bà đưa mắt cho một lão già râu tóc bạc phơ. Lão đến trước hai người cúi đầu hành lễ:
    - Phải chăng cô nương họ Lý. Còn công tử họ Thân?
    Mỹ-Linh kinh ngạc:
    - Sao tiên sinh biết rõ thế?
    Lão cung kính nói:
    - Cách đây mấy ngày, nhị vị công chúa báo mộng rằng sắp có một gái họ Lý khuê danh Mỹ-Linh, một trai họ Thân tên Thiệu-Thái. Cả hai thuộc hàng con em đệ tử của nhị vị công chúa. Nhị vị công chúa dặn chúng tôi phải chờ đợi hầu tiếp đón chu đáo.
    Ông mời hai người vào một phòng khách, trang trí thanh nhã, cung cung kính kính mời ngồi. Cả ban trị sự gồm mười người đều có mặt. Họ đưa mắt cho nhau, rồi cùng quỳ gối hành đại lễ. Lão già nói:
    - Bọn chúng tôi, gồm mười người, trong ban trị sự đền, được nhị vị công chúa báo mộng rằng hai vị thuộc con em đệ tử hai ngài. Sau này hai vị sẽ làm những truyện kinh thiên động địa. Sự nghiệp còn hơn nhị vị Công-chúa. Nếu hai vị sai bảo gì, chúng tôi phải tuyệt đối tuân hành. Vì vậy, chúng tôi xin kính cẩn cúi đầu nhận sự sai bảo của hai vị.
    Mỹ-Linh, vội nói lời miễn lễ, ân cần mời ban trị sự ngồi. Họ thay nhau giới thiệu:
    - Trưởng ban trị sự họ Trần tên Cương. Phó Trần Yên. Thủ quĩ Trần Sơn.
    Mỹ-Linh thấy cả mười người đều họ Trần. Nàng ngạc nhiên hỏi:
    - Tại sao ban trị sự đều họ Trần?
    Trần Cương đáp:
    - Nguyên đất này, xưa được phong cho Phương-chính hầu Trần Tự-Minh. Sau này con cháu người lập nghiệp khắp vùng. Hồi Khúc-giang ngũ hùng làm vua Nam-hải, ban luật rằng chỉ người họ Trần mới được bầu vào ban trị sự đền.
    Mỹ-Linh cầm sổ quyên giáo. Nàng viết: Lý-Mỹ-Linh. Thân-thiệu-Thái kính cẩn dâng mười nén vàng, để tu bổ đền.
    Thời bấy giờ, một nén vàng nặng mười lượng. Mỗi lượng vàng ăn một trăm lượng bạc. Mỗi lượng bạc ăn mười quan tiền. Thành ra số vàng Mỹ-Linh cúng tới mười vạn quan tiền. Với số tiền này, có thể xây được bốn ngôi đền lớn hơn đền hiện tại.
    Ban trị sự được hai Công-chúa báo mộng, những tưởng Mỹ-Linh, Thiệu-Thái thuộc giới võ lâm, giầu có. Nếu cúng, cao nhất một quan là cùng. Nào ngờ hai người cúng số vàng quá lớn. Họ mở to mắt ra, không nói lên lời.
    Khi khởi hành, Mỹ-Linh đã có chủ tâm:
    - Nếu ông nội, hay phụ vương, hay thúc phụ chính thức sai người sang tu bổ đền thờ hai vị anh hùng thời Lĩnh-Nam, ắt triều Tống cho rằng Đại-Việt mưu đồ gì, e khó khăn cho việc thờ cúng. Âu ta mượn cớ hành hương, cúng vào quĩ. Như vậy không ai nói gì được.
    Nàng mở bọc lấy ra mười nén vàng, sáng chói. Trên nén vàng đều có khắc chữ Thiên-thánh nguyên niên. Trần Cương cầm thỏi vàng lên coi, rồi nói:
    - Thực may mắn! Cô nương cúng vàng đại Tống. Chứ nếu vàng Đại-Việt, bọn lão hủ phải nấu ra ngay, bằng không e rắc rối to.
    Mỹ-Linh cũng sợ khó khăn cho ban trị sự. Nàng viết thêm bằng chữ Hán: Số vàng mười nén này, trăm họ góp lại. Chúng tôi thay mặt kính dâng. Viết xong nàng nghĩ:
    - Ta bảo vàng của trăm họ cũng đúng. Vì vàng này vốn của Triệu Thành đền cho người bị Lý Tự phóng ám tiễn giết chết trong đại hội giỗ Lệ-Hải bà vương. Số vàng bồi thường, một phần phủ tuất gia đình nạn nhân. Một phần xung vào công khố Đại-Việt. Hôm ra đi, chú hai dặn ta mang vàng Tống chi dùng, để khỏi bị lộ chân tướng. Bây giờ ta mới biết việc phòng trước quả thực thuận tiện.
    Ban trị sự thấy Mỹ-Linh thêm vào mấy chữ, họ nhìn nhau, như cùng thông cảm về sự tinh tế của nàng. Trần Cương chỉ vào một bà lão đầu bạc như cước:
    - Đây bà Trần Thị-Như. Bà đã trai giới ba ngày để hướng dẫn hai vị vào hậu điện diện kiến nhị vị Công-chúa điện hạ.


    <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.01.2005 04:41:10 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 13.01.2005 18:44:08 (permalink)
      Hồi thứ bẩy mươi tám


      U cốc giai nhân



      Bà Như đi trước dẫn đường. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái theo sau, vào hậu điện đền. Phía sau hậu điện, hai ngôi tượng trong tư thế đứng. Một, mặt phúc hậu, mặc áo lụa mầu xanh, quần đen, dây lưng vàng, khăn choàng cổ cũng mầu vàng. Mỹ-Linh đọc sách nhiều, nàng biết đó là tượng của Nam-hải nữ hiệp Trần-thị Phương-Châu. Một tượng khuôn mặt thanh tú, mặc áo mầu hồng nhạt, dây lưng mầu xanh, cổ choàng khăn xanh. Nàng biết đây là công-chúa Lê Thị-Hảo, con gái Lê Đạo-Sinh.
      Hai người kính cẩn quỳ gối lễ ba lễ nữa, rồi ngắm nghía.
      Thiệu-Thái hỏi:
      - Lão bà! Tượng nhị vị công-chúa đúc từ bao giờ vậy?
      - Theo truyền thuyết, sau khi thành đại nghiệp. Vua Trưng ban sắc phong hai ngài, truyền xây đền thờ, cùng đúc tượng. Người đúc tượng là công chúa Yên-Lãng Trần Năng cùng Thiên-ưng lục tướng.
      Mỹ-Linh cúi đầu lạy một lạy, rồi cầm thanh kiếm đeo bên hông Nam-hải nữ hiệp lên xem. Thanh kiếm hơi dài, khá trầm trọng, đúng là kiếm phái Sài-sơn. Nàng chú ý đến bao kiếm, chạm trổ khá tinh vi. Trên bao có khắc chữ Khoa-đẩu chằng chịt. Bỗng trống ngực nàng đập mạnh, vì có mấy câu thơ:

      Vuông rồi mặt trời.
      Soan rồi năm cạnh.
      Tròn gặp tượng ta.


      Nàng tự hỏi:
      - Cái gì đây? Mấy câu chú này, rõ ràng ứng với năm ngôi mộ trên núi Ô-thạch. Ta cứ học thuộc rồi tính sau.
      Nàng nhìn kỹ hình khắc: Rõ ràng có năm hình, giống như năm ngôi mộ Khúc-giang ngũ hiệp. Phía trước có nhiều hòn núi. Một ngọn cao nhất nhô lên. Từ giữa đỉnh một mũi tên chỉ xuống. Đầu mũi tên có chữ nghìn. Nàng nhủ thầm:
      - Vậy, kho tàng hẳn phải kể từ đỉnh núi cao nhất, lui xuống chân một nghìn thước hay trượng. Ta cứ đến đó mò xem, mới hy vọng tìm ra.
      Một tia sáng lóe lên:
      - Tại sao phải ngày rằm tháng mười một, giờ Tý, năm Đinh-Mão cửa hang mới mở? Tháng mười một năm Đinh-Mão tức tháng Nhâm-Tý. Nhâm-Tý tức con chuột đen. Đinh-Mão tức con mèo mầu đỏ. Trong bảng mật ngữ có ghi: Chuột đen là cửa vào. Mèo đỏ là cửa ra. Ngày rằm tức con số mười lăm. Mười lăm gồm mười và năm. Trong thuật ngữ mười để chỉ nguy hiểm. Năm để chỉ những gì thuộc về năm đều phải tránh.
      Trống ngực nàng đập mạnh, chân tay run lên bần bật:
      - Vậy ta hiểu rồi. Nơi chôn kho tàng nằm trên ngọn Tuyệt-phong. Ngọn Tuyệt-phong có con đường vòng vèo như ruột dê từ chân núi đi lên gồm hơn hai nghìn bậc. Đến bậc thứ một nghìn có cửa vào. Sau khi vào, sẽ ra bằng cửa thông với bờ sông. Cấm chỉ đi trở lại, e nguy hiểm. Trong hang ắt có cơ quan, hễ chỗ nào liên quan tới số năm, phải tránh.
      Nàng thở phào:
      - Vậy khi nào đào kho tàng mà không được, việc gì phải đợi ngày rằm tháng mười một giờ Tý năm Đinh-Mão?
      Thiệu-Thái thấy thần sắc Mỹ-Linh kỳ lạ, chàng cho rằng nàng cảm động khi cầm di vật của anh hùng muôn năm cũ.
      Nàng cất kiếm vào giá, rồi cùng bà Như, Thiệu-Thái trở ra. Ban trị sự mời hai người thụ lộc. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái không chối. Hai người ngồi ăn cơm với họ.
      Thấy trời về khuya. Mỹ-Linh đứng lên từ tạ:
      - Chúng tôi xin kiếu. Có thể mấy hôm nữa, chúng tôi trở lại tạ nhị vị Công-chúa, rồi hầu truyện cùng chư vị.
      Ban trị sự tiễn hai người ra tới cổng. Tới bờ sông, chỗ đậu thuyền, thiếu nữ theo hầu đang đứng chờ. Mỹ-Linh không thấy thuyền đâu, nàng hỏi:
      - Sương ơi! Thuyền di chuyển rồi sao?
      Sương chỉ sang bên kia bờ sông:
      - Khi thuộc hạ ra đây, thấy thuyền mình đậu bên kia sông. Thuộc hạ gọi thế nào, họ cũng không chịu qua.
      Thiệu-Thái chợt nghe tiếng tiêu từ con thuyền vọng qua, rõ ràng bản Động-đình ca. Chàng đưa mắt nhìn Mỹ-Linh:
      - Dường như có sự biến rồi thì phải.
      Trên con thuyền của Chu Tấn, rõ ràng bốn ngư nhân đang ngồi ngất ngưởng ăn uống, cười đùa. Mỹ-Linh bảo Thiệu-Thái:
      - Như vậy thuyền bị bốn ngư nhân cướp mất rồi. Dường như họ muốn trêu mình chứ không có ác ý. Trông lưng bốn người quen quá, mà không biết em đã gặp ở đâu!
      Chợt Mỹ-Linh thấy trong bụi hoa gần đó có tiếng sột soạt. Nàng vội rút kiếm, cùng Thiệu-Thái tiến lại: Dưới bụi hoa, bốn thuyền phu giáo chúng đều ngồi bất động, mắt mở, mà chân tay cứng đơ.
      Thiệu-Thái nhấc từng người ra một. Người nào cũng bất động. Mỹ-Linh hỏi:
      - Cái gì đã xẩy ra?
      Bốn người im lặng, mắt chớp chớp liên tiếp. Mỹ-Linh hỏi:
      - Rõ ràng họ tỉnh, chứ không phải bị đánh thuốc mê. Tại sao không ai nói, không ai cử động được?
      Thiệu-Thái dùng tay chà bóp cho một người. Sau khi chà lần thứ nhì, người đó bật lên tiếng ái rồi cử động được.
      Việc đầu tiên y chửi tục:
      - Tổ bà nó.
      Y định văng tục nữa, nhưng chợt nhớ lại trước mặt giáo chủ, nên vội ngậm miệng lại.
      Mỹ-Linh hỏi:
      - Cái gì đã xẩy ra?
      - Thưa công chúa! Bọn thuộc hạ đang ngồi trên thuyền. Bỗng có người từ trên bờ nhảy xuống. Y dùng tay chọc vào sau cổ bọn thuộc hạ. Lập tức bọn thuộc hạ không nói được nữa. Họ lại nắm vào tay bọn thuộc hạ. Thế là cả bốn tê liệt hoàn toàn.
      Thiệu-Thái đã chà xát cho ba người kia cử động được. Mỹ-Linh hỏi:
      - Chúng chọc vào chỗ nào?
      Theo vết tay thuyền phu chỉ. Mỹ-Linh kinh hãi:
      - Họ đều bị chọc vào huyệt Á-môn với Nội-quan. Không hiểu võ công bọn ngư nhân thế nào, mà chọc vào huyệt Á-môn khiến không nói được. Rồi bóp huyệt Nội-quan khiến toàn thân tê liệt?
      Thiệu-Thái cũng nhận thấy vậy:
      - Đào, Lê trưởng lão võ công cao biết mấy, thế mà chỉ bị cái phao đánh vào huyệt Đại-trùy, Hoàn-khiêu, đến nỗi tê liệt.
      Bốn giáo chúng thuyền phu uất ức ra mặt. Một người nói với Thiệu-Thái:
      - Xin giáo chủ để bọn thuộc hạ lặn xuống sông đục thuyền, cho đám kia trở thành tôm cá hết.
      Mỹ-Linh nói nhỏ:
      - Các vị đại ca có thấy cuộn dây treo phía hông phải thuyền không? Bây giờ, một vị lặn xuống gỡ cuộn dây, rồi buộc vào bánh lái, sau đó ròng dây qua bên này. Giáo chủ sẽ dùng thần công kéo thuyền qua, đét vào đít cho bọn kia mấy cái.
      Một giáo chúng vâng dạ, trườn xuống sông. Y lặn dưới nước, sẽ nhô đầu lên, tay gỡ cuộn dây. Bốn ngư nhân ăn uống trên thuyền tuyệt không đề phòng. Viên giáo chúng buộc dây vào bánh lái, rồi lặn dưới nước, ròng sang bên này bờ.
      Thiệu-Thái mừng rỡ, núp vào bụi cây cầm dây chờ đợi. Mỹ-Linh vận sức vào đơn điền, nói lớn:
      - Này mấy bạn ngư nhân. Mấy bạn bắt của ta hai người, lại cướp thuyền của ta. Như vậy chẳng hoá ra trộm cướp ư?
      Một ngư nhân nói:
      - Cô nương nói lạ. Chúng ta làm nghề đánh cá trên sông. Tự nhiên hai con nhân ngư nhảy vào thuyền ta. Chứ ta bắt hồi nào. Còn thuyền này ư? Thuyền này cũng của ta, các người chiếm lĩnh. Ta chỉ đòi lại mà thôi.
      Mỹ-Linh ra hiệu cho Thiệu-Thái, rồi nói:
      - Ta muốn mời bốn vị qua đây chơi, nên chăng?
      - Bên đó có gì thú vị đâu mà chơi? Có ngựa phi mới thú. Hoặc có trâu cỡi nhàn du nên thơ, chúng ta mới qua. Chứ qua chơi với lợn, chúng ta không thích.
      Nghe ngư nhân nói, Mỹ-Linh yên tâm. Vì chỉ người rất thân trong nhà mới biết danh hiệu lợn của Thiệu-Thái. Nàng hất hàm. Thiệu-Thái chuyển động thần lực kéo mạnh. Con thuyền rung rinh, chao đi một cái. Cây sào cắm dưới nước bị bật lên. Thuyền từ từ sang bên này sông.
      Bốn ngư nhân la hoảng. Họ vội đứng đậy quan sát. Thấy rõ thuyền bị kéo bởi sợi dây lớn, một người cầm cần câu vung lên. Véo một tiếng, sợi dây đứt đôi. Thiệu-Thái mất thăng bằng suýt ngã. Một ngư nhân cầm sào chống lại. Con thuyền ngừng ở giữa dòng sông.
      Một ngư nhân cười lớn:
      - Sao ông ỉn muốn đi thuyền à? Được ta trả thuyền cho đấy.
      Ngư nhân chống sào một cái, con thuyền cập bờ bên kia. Bốn người lên bờ, rồi cùng đẩy thuyền. Con thuyền chao đi, trôi sang bên này sông.
      Mỹ-Linh rút kiếm thủ sẵn, đề phòng, rồi nhảy xuống thuyền trước. Thiệu-Thái nhảy xuống sau. Bốn giáo chúng thuyền phu, cùng Sương xuống theo. Họ xem xét thuyền một lượt, rồi nói với Thiệu-Thái:
      - Đồ đạc còn nguyên, không mất thức gì cả.
      Mỹ-Linh thấy bốn ngư nhân đi chưa xa. Nàng truyền thuyền phu đẩy sang bên kia sông. Nàng nói với Sương:
      - Em cùng bốn anh đây về trước. Chúng tôi về sau.
      Nói rồi hai người dùng khinh công theo bốn ngư nhân. Bốn ngư nhân như không biết có người đuổi, thủng thẳng đi. Phút chốc Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đã đuổi kịp. Mỹ-Linh nói:
      - Bốn vị đi chơi vui nhỉ. Cho anh em tại hạ nhập bọn được chăng?
      Bốn ngư nhân quát lên một tiếng, rồi chia làm bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc mà chạy. Thiệu-Thái hỏi Mỹ-Linh:
      - Chúng ta đuổi theo ai?
      Mỹ-Linh chỉ vào hướng ngư nhân mũ đỏ ngồi câu cá, bắt sống Đào Nhất-Bách:
      - Chúng ta theo người kia.
      Ngư nhân mũ đỏ hướng về phía chân núi mà chạy. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đuổi theo. Khinh công ngư nhân thực không tầm thường. Mỹ-Linh đã vận hết công lực, mà thủy chung vẫn không bắt được.
      Tới chân núi, bóng ngư nhân mất tích, dưới ánh trăng sáng hiện ra cảnh rừng núi u tịch.
      Mỹ-Linh, Thiệu-Thái trở về thuyền. Tới bến, nàng viết thư, sai chim ưng chuyển cho Khai-Quốc vương. Nàng nghĩ thầm:
      - Không ngờ có di thư, có mật ngữ, mà mình còn phải nhờ thăm lăng mộ, cùng đền thờ, mới tìm ra.
      Mười hôm sau, chim ưng đem thư Khai-Quốc vương về. Trong thư vương ra lệnh cho Thiệu-Thái, Mỹ-Linh không cần giữ kín thân thế. Nửa kín, nửa hở bằng cách du ngoạn, ăn uống, mua sắm.
      Từ lúc đến Khúc-giang, Mỹ-Linh bị giam trên thuyền, nàng cảm thấy chán nản như bị tù. Nay được lệnh hơi lạ đời, nhưng nàng mừng lắm, cùng Thiệu-Thái ngao du khắp nơi.
      Cho đến ngày mười ba, tháng mười một, Mỹ-Linh kinh ngạc:
      - Chỉ còn một ngày nữa, anh hùng các nơi tụ về. Chúng ta phải tìm Triệu-Thành xin đi hộ vệ y, để xem cuộc long tranh, hổ đấu giữa Khu-mật viện Tống do Triệu Thành cầm đầu, và bang Nhật-Hồ Trung-quốc do Lưu hậu đứng sau. Mà sao không thấy bóng dáng chú hai đâu kìa?
      - Có khi cậu tới lâu rồi, mà ta không biết đấy thôi. Ta lại lên bờ ăn tối đi.
      - Ăn thì ăn. Món Quảng hơi giống món Việt, ăn được lắm.
      Trời chập choạng tối, hai người lên bờ, đạo chơi. Mỹ-Linh chỉ vào tửu lầu bên sông:
      - Chúng ta vào kia ăn đi.
      Thình lình có tiếng hát đâu đó vọng lại:

      Hò la hò lảy,
      Con gái bẩy nghề.
      Ngồi lê là một.
      Dựa cột là hai.
      Nói dai là ba.
      Ăn qùa là bốn.
      Trốn việc là năm.
      Hay nằm là sáu.
      Hay cáu là bẩy.


      Rồi có tiếng nói:
      - Không biết cô ta có mấy nghề trong bẩy vậy kìa?
      Mỹ-Linh nhìn lại, thì ra ngư nhân mũ đỏ. Y để tay lên mũi trêu nàng:
      - Cô nương có mua cá không? Tôi bán cho.
      Nói dứt lời y bỏ chạy về phía chân núi Tuyệt-phong. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái lập tức đuổi theo thực gấp.
      Ngư nhân đã tới chân núi. Dường như quen thuộc đường lối, y vọt mình lên triền dốc. Mỹ-Linh cũng theo bén gót. Tới đỉnh thứ nhất, ngư nhân đổ đồi. Mỹ-Linh ngừng lại trên đỉnh quan sát: Phía sau ngọn núi, còn một ngọn cao hơn. Giữa hai ngọn núi, là thung lũng, có suối chảy trắng xoá. Dưới ánh trăng, nước suối như muôn ngàn khối vàng chen chúc, đổ chồng lên nhau.
      Mỹ-Linh nhủ thầm:
      -- À ngọn cao nhất kia là Tuyệt-phong, nơi chôn cất kho tàng đây. Ta nhân dịp này dò thám xem. Đợi khi chú hai tới, e lâu qúa.
      Ngư nhân thấy Mỹ-Linh dừng lại quan sát địa thế. Y cũng dừng lại chờ. Mỹ-Linh bực mình, vì bị trêu chọc, nàng hăm hở đuổi theo.
      Tới con suối, ngư nhân lội tràn qua, hướng một căn nhà trên triền núi cao chạy tới. Mỹ-Linh tự nhủ:
      - Dù người đi đâu, ta cũng dám theo đến cùng. Ta há sợ cạm bẫy ư?
      Ngư nhân tới căn nhà, thì mất hút. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái chạy đến gần quan sát: Đây là ngôi nhà kiến trúc rất đặc biệt. Nửa dưới xây bằng đá mầu hồng nhạt. Nửa trên làm bằng gỗ quý. Mái lợp ngói xanh.
      Nhà có hai tầng chia làm hai lớp. Lớp trên, một tầng bốn mái cong. Trên nóc có hình con rồng uốn khúc mầu đỏ, đên cạnh, con chim âu mầu trắng. Xung quanh có lan can sơn son thiếp vàng. Mỗi hướng có ba cửa thông với lan can. Một cửa lớn, hình chữ nhật. Hai cửa nhỏ hình tròn.
      Tầng dưới bốn mái cong , cũng ngói xanh. Thềm nhà cao chín bậc, đều bằng đá. Hàng hiên có những cây cột gỗ lớn bằng người ôm chạm trổ tinh vi. Bốn hướng đều có ba cửa thông ra ngoài, một cửa lớn, hai cửa nhỏ, sơn son đỏ chói.
      Nàng ngắm nhìn ngôi nhà, kiến trúc giống hệt điệm Long-thụy trong Hoàng-thành Thăng-long.
      Nhà bao bọc bởi một hàng rào bằng trúc, cắt xén cực kỳ tinh vi. Cổng bằng tre kết lại. Trên cổng, những dây hoa leo chằng chịt. Trong vườn, trồng rất nhiều cây cảnh. Giữa sân, có chiếc bể cạn. Trong bể, một hòn giả sơn trồng trúc.
      Đâu đó vẳng tiếng đàn thoang thoảng như có, như không, một giọng hát trong nhẹ bay ra.
      Mỹ-Linh đưa mắt cho Thiệu-Thái, rồi nàng nói:
      - Ngư nhân chạy vào đây, ắt biết chúng ta theo dõi. Vậy chúng ta không nên ẩn náu, mà đường đường chính chính gõ cửa. Rõ ràng y dẫn dụ chúng ta tới. Tuy vậy, với ngôi nhà kiến trúc này, thân phận y không nhỏ. Y lại không có ác ý với ta. Ta chẳng nên vô phép.
      Nàng cầm dây giật chuông. Từ phía trong, một người mặc quần áo theo kiểu nô bộc ra mở cổng. Y cung kính chắp tay nói bằng tiếng Quảng:
      - Kính chào quý khách. Quý khách ghé trang trại chúng tôi có mục đích gì? Xin quý khách cho biết cao danh, quý tính. Chúng tôi vào báo với chủ nhân.
      Mỹ-Linh không biết hành tung đã bị lộ hay chưa. Nàng nói bằng tiếng Biện-kinh:
      - Anh tôi tên Thái Thân, tôi tên Đỗ Lệ. Chúng tôi từ Đại-Việt sang đây, xin yết kiến trang chủ có việc riêng khẩn cấp.
      Lão nô bộc vào nhà một lúc, rồi mở tung cửa chính, ra cúi rạp người xuống:
      - Chủ nhân chúng tôi xin thỉnh hai vị vào.
      Mỹ-Linh, Thiệu-Thái vừa bước vào đến sân, tiếng đàn im bặt, có tiếng nói vọng ra:
      - Tại sao âm ba đang đều, lại trong, rồi lên cao thế này? Hẳn có quý khách giá lâm đây.
      Từ trong cánh cửa, một thiếu nữ mặc áo trắng, xiêm tím, khoan thai bước ra. Nàng xuống đến bậc thềm thứ năm chờ khách. Đợi Mỹ-Linh, Thiệu-Thái lên tới bậc thứ năm, nàng mới chắp hai tay hành lễ:
      - Kẻ thô lậu ở chốn rừng hoang. Đêm nay hân hạnh được tiếp nhị vị từ xa chiếu cố. Xin mời.
      Lễ nghi cổ của Đại-Việt, kể từ đời vua Hùng thứ chín áp dụng đối với khách lạ, hoặc ngang vai như sau: Khi khách tới thăm nhà. Chủ nhà không được ngồi chờ, cũng không thể ra cổng đón, mà phải áp dụng phân đình giao bái. Nghĩa là nếu có sân, phải rảo bước tới giữa sân chờ sẵn. Khi khách vào ngang với mình, chủ hành lễ trước. Khách đáp lại sau. Nếu nhà có bậc thềm, tới bậc giữa chờ.
      Thiếu nữ đưa bàn tay búp măng trắng hồng, trong áo lụa trắng chỉ vào phòng khách:
      - Xin mời quý vị.
      Mỹ-Linh, Thiệu Thái sóng vai vào nhà. Mỹ-Linh lại ngạc nhiên nữa, vì bên trong, trần thiết giống y như điện Long-thụy. Giữa phòng, một cái bàn dài ước hai trượng (4 mét ngày nay), rộng ước trượng rưỡi. Theo chiều dài, mỗi bên để chín cái ghế theo tư thế đối diện nhau.
      Trên bàn, một đỉnh hương bằng đồng đen, trầm bốc khói nghi ngút. Cạnh đỉnh, bên trái một chồng sách cao. Trong chồng sách, có cuốn trên gáy in hàng chữ Khoa-đẩu Thiên-địa kinh. Bên phải một cái nghiên, một ống bút. Có ba bút Trung-quốc và một bút Đại-Việt để viết chữ Khoa-đẩu.
      Mỹ-Linh nghĩ thầm:
      - Thiên địa kinh được viết từ thời vua Hùng thứ năm, nói về tương quan giữa người với trời, cùng vạn vật, thực tế vô cùng. Nó bao gồm cả Luận-ngữ, Mạnh-tử, Mặc-tử, Tuân-tử. Cho nên người xưa nói: Thiên địa kinh đi trước Khổng, Mạnh, Mặc, Tuân đến hơn nghìn năm. Nhiều người còn cho rằng bốn đại hiền triết Trung-quốc đã nhân Thiên-địa kinh, rồi diễn giải ra. Nữ lang này đọc được Thiên-địa kinh ắt kiến thức không tầm thường.
      Nữ lang chỉ vào cái ghế chạm rồng, khảm xà cừ lóng lánh mời Mỹ-Linh. Mỹ-Linh ngồi xuống.
      Nàng lại trỏ vào cái ghế chạm hổ mời Thiệu-Thái.
      Bấy giờ Mỹ-Linh mới để ý đến nữ lang. Nàng tuổi khoảng mười sáu mười bẩy. Mái tóc óng ánh, buông xoã xuống ngang vai. Trên đầu, nàng cài con phượng bằng ngọc xanh. Hai mắt dát kim cương. Từ dáng người, khuôn mặt, hai vai, bàn chân đẹp tuyệt.
      Thiệu-Thái than thầm:
      - Mình đã thấy vẻ đẹp quyến rũ của Lâm Huệ-Phương, vẻ đẹp u tĩnh của Đào Hà-Thanh, vẻ đẹp tươi thắm của Mỹ-Linh. Bây giờ đến vẻ đẹp mờ mờ nhân ảnh của nữ lang này nữa là bốn.
      Một nữ tỳ bưng nước ra mời.
      Nữ lang hỏi:
      - Không biết hai vị đi chơi đâu giữa đêm trăng đẹp, mà lạc lối vào đây?
      Mỹ-Linh nghĩ thầm:
      - Nếu không tận mắt thấy ngư nhân bắt hai trưởng lão Lạc-long giáo, võ công kinh thiên động địa, rồi lại cướp thuyền của mình, hẳn bị nàng đánh lừa rồi. Ban nãy, rõ ràng ngư nhân chạy vào đây, mà nàng vờ như không biết.
      Mỹ-Linh nói thực:
      - Anh em tại hạ đuổi theo một người. Người đó chạy vào trang này, nên quấy nhiễu cô nương. Xin cô nương cho gặp y, và thứ lỗi làm mất sự yên tĩnh của cô nương.
      Thiếu nữ cau mày:
      - Cô nương đuổi theo một người ư? Ai thế? Tại sao cô nương lại đuổi theo?
      Thiệu-Thái xen vào:
      - Thưa cô nương, từ sáng đến giờ, có bốn ngư nhân theo đuổi, phá phách anh em tại hạ. Họ bắt đi mất hai người anh em của bọn tại hạ. Vì vậy anh em tại hạ phải đuổi theo.
      Nữ lang bảo tỳ nữ:
      - Người gọi lão Chí vào cho ta hỏi.
      Nữ tỳ ra ngoài, một lát lão bộc vào thõng tay đứng chờ lệnh. Thiếu nữ hỏi:
      - Này lão Chí. Có ai chạy vào đây không?
      Lão Chí đáp:
      - Thưa cô nương tiểu nhân không rõ nữa.
      Đến đó bỗng có tiếng cười khành khạch bên ngoài, rồi tiếng ngư nhân vọng vào:
      - Thưa cô nương, tại hạ bị con lợn với con nhí đuổi theo. Tại hạ đói quá vào bếp cô nương kiếm cái gì ăn. Con lợn với con nhí tưởng tại hạ là người quý trang, nên vào đây phá rối sự yên tĩnh của cô nương.
      Tiếng nói dứt, một người xồng xộc chạy vào. Y chính là ngư nhân mũ đỏ. Không khách sáo, ngư nhân mũ đỏ ngồi xuống ghế, tay cầm con gà quay đưa lên miệng cắn ăn.
      Thiệu-Thái đưa mắt nhìn: Da mặt ngư nhân cực kỳ xấu xa, khó có thể đoán y bao nhiêu tuổi. Thân hình y nhỏ, ngắn, trong khi chân lại cao, không tương xứng tý nào cả.
      Nữ tỳ kêu lên:
      - Thì ra người. Suốt mấy ngày qua, ta làm không biết bao nhiêu thức ăn ngon, bị mất trộm, ta không hiểu tại sao. Bây giờ mới biết người ăn vụng.
      Ngư nhân cười:
      - Ai bảo cô nương làm thức ăn ngon để người ta phải thèm. Sáng hôm kia ta ăn trộm con gà dồi nấm hấp ngũ vị hương. Buổi chiều ta lấy con cá chưng thập cẩm. Trưa hôm qua, ta lấy có điã đùi ếch chiên, cùng bát canh thập cẩm. Tối, người chưng cá ngon quá, ta lấy cả con cá to. Sáng nay ta không lấy gì.
      Y móc trong túi moi một nén vàng. Mỹ-Linh nhận ra nén vàng của mình. Bất giác nàng sờ tay vào túi, nén vàng không cánh mà bay! Nàng kinh hoàng:
      - Nội công mình tiến đến chỗ ít ai bằng. Không hiểu bằng cách nào ngư nhân móc túi trộm được nén vàng?
      Điểm lại, nàng mang theo hai mươi nén vàng. Khi vào đền Sa-khẩu, lấy ra mười nén cúng. Còn lại nàng bỏ một nén vào túi để tiêu. Chín nén, cất vào bọc. Sau đó nàng ngồi ăn uống với ban trị sự, tuyệt không ai lại bên nàng, mà móc được vàng. Từ đền Sa-khẩu ra sông, nàng đi lẫn vào đám đông... Chợt nàng lóe lên tia sáng. Trong khi đi lẫn đám đông, có mấy người chạm vào nàng. Chắc ngư nhân hoá trang, móc túi lấy vàng.
      Ngư nhân tung nén vàng lên. Nén vàng bay đến trước mặt nữ tỳ, rồi rơi tọt vào túi nàng như ta cầm nhét vào vậy. Y cười:
      - Cô nương! Ta trả tiền thức ăn cho cô nương.
      Nữ tỳ móc nén vàng ném vào ngư nhân, kình lực rít lên đến véo một tiếng. Ngư nhân vung tay một cái, nén vàng bay trở về tỳ nữ. Lần này nén vàng không chui vào túi, mà rơi xuống cái kỷ trước mặt nàng. Nén vàng nặng như vậy, mà không một tiếng động.
      Nữ lang nói nhỏ nhẹ:
      - Cao nhân tặng vàng của Đại-Tống, tức lộc đến cửa. Ta chẳng nên từ chối, e phụ lòng người.
      Nữ tỳ cầm nén vàng cất vào túi.
      Thiếu nữ áo trắng nói với ngư nhân:
      - Thiếu hiệp. Chiêu khoanh tay vừa rồi dường như thuộc chưởng pháp Đông-a biến hóa ra. Phải chăng thiếu hiệp là đệ tử của một trong Thiên-trường ngũ kiệt?
      Mỹ-Linh chửi thầm:
      - Người này còn trẻ. Mình không nhận ra võ công y. Trong khi nữ lang đã thấy rõ. Nữ lang quả kinh lịch hơn mình nhiều.
      Nghe nữ lang hỏi, ngư nhân cười hề hề lắc đầu:
      - Tại hạ không phải học trò của Thiên-trường ngũ kiệt.
      Thiệu-Thái xuất thế cầm long công chụp ngư nhân. Trái với sự phỏng đoán của mọi người. Ngư nhân thản nhiên để chàng túm lấy. Y cười khành khạch:
      - Con lợn dám dụng võ, mà không sợ bị cô nương đây trách phạt ư? Người có biết như vậy là thổi tiêu trước nhà Trương Chi, múa kiếm trước cửa Vạn-tín hầu, dương cung trước mặt Cao-cảnh hầu không?
      Nghe ngư nhân ví von, Mỹ-Linh tự nhủ:
      - Ngư nhân này quả thực thuộc loại giáo dục rất căn bản. Từ xưa đến giờ, mỗi khi so sánh, ví von, người Việt thường có hai loại. Một loại ra cái điều ta đây thông sử Trung-quốc. Hơi tý đem điển cố Trung-quốc ra để khoe kiến thức. Một loại lại viện lịch sử Việt ra, tỏ rằng mình không thiếu gì kỳ tích, hồng điển. Như vừa rồi, nếu loại người vong bản sẽ ví: Đọc Hiếu-kinh trước nhà Khổng-tử, múa búa trước cửa Lỗ-Ban. Thiếu niên này lại ví thổi tiêu trước nhà Trương Chi, múa kiếm trước cửa Vạn-Tín hầu và dương cung trước mặt Cao-Cảnh hầu. Như vậy kiến thức y không tầm thường. Ta phải hoà giải với y hơn là gây ác cảm.
      Thiệu-Thái bỏ ra ngoài lời đe dọa của ngư nhân, chàng nói:
      - Mi phải thả hai người bạn ta ra ngay. Bằng không ta bóp chết mi.
      - Bóp chết? Mi tưởng bóp chết người dễ lắm ư? Mi bóp chết ta, thì liệu mi có tìm ra hai con cá hồng ở đâu không? Ta nói cho mi biết, mi có mười con cá, ta bắt hết rồi, mi chẳng còn gì nữa.
      Thiệu-Thái vốn chậm chạp, chàng hỏi vặn:
      - Thế người của ta đâu?
      - Ta định xẻ ra từng cân đem bán. Người có mua ta bán cho ít cân. Cá hồng kho lẫn với thịt lợn ỉn ngon đáo để.
      Thiệu-Thái thấy các ngư nhân hay đem tiếng lợn ra nhạo chàng, như vậy có lẽ là người thân. Chàng chưa biết đối đáp ra sao.
      Ngư nhân hỏi thiếu nữ:
      - Cô nương! Võ công tôi không dở. Bản lĩnh tôi không hèn. Vì ở trong quý trang, tôi không dám xử dụng võ công, nên bị con lợn chụp được. Xin cô nương xử cho vụ này.
      Thiếu nữ bảo Thiệu-Thái:
      - Mong công tử buông vị huynh đệ này ra cho.
      Thiệu-Thái đành bỏ ngư nhân xuống đất. Ngư nhân cười khành khạch:
      - Ngu như lợn!
      Thình lình y lạng người một cái, vọt ra cửa biến vào đêm tối. Mỹ-Linh tung người đuổi theo. Ra khỏi trang, nàng thấy bóng trắng đang chặn trước mặt ngư nhân, làm y chạy không được. Nhìn kỹ, thì ra nữ lang. Nữ lang nhỏ nhẹ:
      - Mời huynh đệ vào nhà chơi đã. Mới đến, sao vội đi lắm vậy.
      Mỹ-Linh tự nghĩ:
      - Thực ngoài gầm trời này, còn gầm trời khác. Ta những tưởng khinh công mình tuyệt hảo. Không ngờ khinh công nữ lang còn cao hơn.
      Ngư nhân biết không đừng được. Y nhăn mặt, rồi sóng đôi với nữ lang vào nhà. Mỹ-Linh cũng vào theo. Vừa vào trong, nàng đã bật lên tiếng kêu lớn. Vì trong nhà, đã có mặt đủ ba ngư nhân nữa.
      Nữ lang thản nhiên như không có truyện gì xẩy ra. Nàng truyền nữ tỳ kéo ghế mời mọi người ngồi, rồi nhỏ nhẹ nói với bốn ngư nhân:
      - Các vị huynh đệ còn nhỏ tuổi, mà võ công đã đến trình độ này, thực trọn đời tôi chưa từng thấy. Suốt hơn nửa tháng nay, bốn vị quấy phá khắp trấn Khúc-giang, vẫn chưa cho rằng đủ ư, mà còn chọc giận hai vị đây làm chi?
      Mỹ-Linh để ý, bốn ngư nhân đều có hình thù kỳ dị: Thân hình nhỏ, ngắn, trong khi chân dài. Cả bốn ngư nhân da mặt đều cực kỳ xấu ra. Bốn người mặc cùng thứ quần áo, cùng một mầu nâu. Họ chỉ khác nhau ở điểm đội bốn chiếc mũ bốn mầu trắng, đen, xanh, đỏ. Ngư nhân tung dây bắt Đào Nhất-Bách cùng Lê Đức đội mũ mầu đỏ.
      Ngư nhân đội mũ mầu trắng nói với nữ lang:
      - Cô nương! Cô nương thực thần thông. Cô nương chỉ ở trong trang, thế mà biết hết việc làm của anh em tại hạ.
      Nữ lang mỉm cười, nhe hàm răng trắng bóng, đều như bắp:
      - Tiểu huynh đệ đừng quá khen. Cho đến hôm nay tại hạ cũng không biết bốn vị đến đây ngày nào. Chỉ biết rằng bốn vị xuất hiện ngày mồng một.
      Nàng chỉ ngư nhân mũ trắng:
      - Các vị có năm người phải không? Dường như các vị có nhiệm vụ trông coi, canh gác ở đâu đó, nên thường chỉ có bốn vị phá phách. Trong năm vị, ta thấy huynh đệ ít phá nhất, lại thâm trầm. Dường như huynh đệ cầm đầu thì phải. Phá nhất là vị này.
      Nàng chỉ ngư nhân mũ đỏ.
      Nàng cười, ánh mắt chiếu ra tia sáng long lanh, nhưng đầy nhu tình:
      - Các vị xuất hiện đầu tiên ngày mùng một. Có đúng thế không?
      Ngư nhân mũ trắng kinh ngạc:
      - Cô nương ở trong khu rừng u-tĩnh thế này, mà anh em tại hạ làm gì cô nương cũng biết hết. Cô nương thực thần thông.
      Nữ lang bảo tỳ nữ:
      - Tiểu-Thúy, người thuật truyện ngày mồng một đi, xem có đúng không?
      Tỳ nữ chỉ vào ngư nhân mũ trắng:
      - Tiểu huynh đệ, phải chăng người lớn hơn hết trong bốn anh em? Phục-ba tướng quân Mã Viện tuân lệnh vua Quang-Vũ, bình được Lĩnh-Nam. Công lao thực lớn vô cùng. Cho nên Lưu thái hậu truyền quan chuyển vận sứ Quảng-Đông lộ xuất công nho xây đền thờ. Trong đền, tạc pho tượng Phục-ba tướng quân, một tay cầm kiếm, một tay nắm tóc Trưng-Trắc giật, chân đạp lên người bà. Đền xây xong từ hơn tháng nay. Hôm mồng một vừa rồi, quan Kinh-lược an-phủ sứ Quảng-Đông Dư Tĩnh thân đến khánh thành. Tất cả các quan văn vũ, Phủ, Huyện, Tướng quân, Đề-đốc, cùng bang hội, võ phái đều tề tựu.
      Nói đến đây Tiểu-Thúy mỉm cười:
      - Sau khi tế xong, quan Chuyển-vận sứ tiến đến mở khăn lụa trùm tượng ra, thì tượng Trưng Trắc không thấy, mà chỉ thấy tượng Phục-Ba tướng quân, nhưng đầu bị cắt mất, thay vào đó bằng cái đầu trâu máu me kinh tởm.
      Mỹ-Linh, Thiệu-Thái bật lên tiếng cười. Ác cảm với bốn ngư nhân bớt đi. Tiểu-Thúy tiếp:
      - Quan Chuyển-vận sứ nổi giận hét be be. Thình lình bốn vị xuất hiện, trang phục giả gái. Bốn huynh đệ cùng mở ra bốn cái bầu. Trong bầu toàn cào cào, với phân. Cào cào bay tứ tung trong đền, hôi thối không chịu được. Các quan võ xúm vào bắt bốn cô gái. Bốn cô đục tung mái đền, nhảy lên nóc. Ở trên nóc đền, bôn cô ném xuống không biết bao nhiêu bột đen. Bột này làm quan khách, dân chúng cay mắt, bỏ chạy tán loạn.
      Tiểu-Thúy nghiêm nghị:
      - Bốn cô gái đó, chính là bốn vị huynh đệ.
      Bốn ngư nhân nhìn nhau cười khúc khích. Tiểu-Thúy tiếp:
      - Ngày mùng hai, bốn huynh đệ giả làm bốn đạo sĩ người Việt, lái hai con thuyền cực lớn đến bến Khúc-giang. Trên thuyền chở đầy gạo, cá, vải. Bốn huynh đệ đem loa gọi dân nghèo phát chẩn. Nguyên hai con thuyền đó từ Hổ-môn chở lương thực cho đạo quân mơí tới đồn trú. Bốn huynh đệ dùng thứ võ công gì làm lính thủy tê liệt chân tay rồi bỏ vào khoang. Sau đó phân phát cho dân.
      Mỹ-Linh gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Tiểu-Thúy tiếp:
      - Sau đó bốn huynh đệ đi chặt đầu tất cả tượng trong những đền thờ các tướng soái từng đem quân đánh Đại-Việt, rồi phóng hoả. Đến bang Nhật-hồ, võ lâm nghe đến đều kinh hồn táng đởm, thế mà bốn huynh đệ cũng trêu chọc ngũ sứ của bang này đến thất điên bát đảo. Ôi! Gan bốn huynh đệ lớn quá. Ta xin có lời khâm phục. Hôm kia bốn huynh đệ ăn trộm gói hành lý của Khu-mật viện sứ Phạm Trọng-Yêm. Còn từ qua đến giờ các huynh đệ đến đây ăn vụng, cùng phá phách hai vị này.
      Nữ lang nghiêm nét mặt nói:
      - Bốn huynh đệ phá quá, không ai chịu nổi nữa. Tại hạ muốn được coi chân tướng các vị, không biết có được không?
      Ngư nhân mũ đỏ lắc đầu:
      - Cho cô nương thấy bộ mặt xấu xa của anh em tại hạ thì được. Chứ cho ông ỉn kia coi e không ổn.
      Nữ lang đứng lên, chỉ vào Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, rồi cười:
      - Trước kia hai vị đây đi tìm bốn vị huynh đệ. Nay tại hạ e bốn vị phải tìm hai vị này. Người Quảng-Đông lộ chúng tôi có câu Đùa với quỷ thì nên. Gần bên Hồng-thiết thì chết. Từ qua đến giờ, các vị đùa dỡn với Lạc-long giáo chủ, trêu cợt đủ điều, song các vị vẫn ở xa. Từ nãy đến giờ, các vị ngồi bên cạnh, lại ngang ngược gọi một điều lợn, hai điều ông ỉn, mà không đề phòng.
      Bốn ngư nhân nhìn nhau cùng cười. Nữ lang chỉ ngư nhân mũ đỏ:
      - Vị huynh đệ này, bị Lạc-long giáo chủ nhắc lên. Trong khi nhắc, giáo chủ đã nhả vào người huynh đệ ít Chu-sa ngũ độc. Bây giờ xem các vị có phải cầu khẩn giáo chủ giải độc cho không nào?
      Ngư nhân mũ đỏ cười:
      - Cô nương đừng lo. Trong người tại hạ có con rắn độc. Hễ ai phóng độc vào người, nó ăn ngay độc tố đi. Tại hạ vẫn khoẻ như thường. Chu-sa độc của ông ỉn này không làm gì được tại hạ đâu!
      Nó đưa tay cho mọi người coi. Từ Thiệu-Thái đến Mỹ-Linh, nữ lang đều kinh ngạc. Nội công Thiệu-Thái đâu có tầm thường, thế mà chàng nhả độc chưởng vào người y, mà không làm gì được.
      Ngư nhân mũ đỏ thè lưỡi ra nhát Thiệu-Thái.
      Thình lình bốn ngư nhân cùng phát chưởng tấn công. Ngư nhân mũ đỏ tấn công Thiệu-Thái. Ngư nhân mũ trắng tấn công Mỹ-Linh. Ngư nhân mũ đen tấn công nữ lang. Ngư nhân mũ xanh tấn công Tiểu-Thúy. Bốn người đều vung chưởng đỡ. Bình, bình, bình, bình. Áp lực chưởng, làm đèn trong phòng tắt hết. Khi Tiểu-Thúy đốt được đèn lên, bốn ngư nhân đã mất tích.
      Nữ lang lắc đầu, tỏ vẻ tha thứ:
      - Phá quá! Không chịu nổi nữa rồi.
      Nàng nói một mình:
      - Quái sao bốn ông mãnh này võ công lại không giống nhau hề! Ngư nhân mũ đỏ xử dụng chiêu Đông-hải lưu phong của phái Đông-a. Ngư nhân mũ trắng xử dụng chiêu Loa thành nguyệt ảo của phái Cửu-chân. Ngư nhân mũ đen xử dụng chiêu Ác ngưu nan độ của phái Tản-viên. Còn ngư nhân mũ xanh xử dụng chiêu Mê-linh dạ võng của phái Mê-linh.
      Thiệu-Thái, Mỹ-Linh nhận ra nữ lang cực kỳ bác học. Tuy ẩn trong thâm sơn, mà nàng biết hết chiêu số võ công Đại-Việt.
      Mỹ-Linh hỏi lại nữ lang:
      - Cô nương thực tinh tế. Anh em tại hạ giả trang thế này, mà cô nương cũng biết rõ được chân tướng. Cô nương lợi hại thực.
      Nữ lang mỉm cười:
      - Các bang hội trong trấn này, mạnh nhất phải kể Hồng-thiết giáo. Chưởng quản đạo Quảng-Đông Chu Tấn bị Chu-sa độc chưởng hành, mê man mấy tháng. Nay tự nhiên đi đứng như thường... thì ngoài Giáo-chủ, hỏi ai có thể giải nổi chưởng độc này? Cho nên tại hạ biết đại giá Giáo-chủ giá lâm. Ban nãy Giáo-chủ ra chiêu cầm nã, bắt ngư nhân, thoáng nhìn, tại hạ cũng biết đó là chiêu Chu-sa chưởng. Vì vậy đoán già mà thôi.
      Nữ lang hỏi Tiểu-Thúy:
      - Người có biết bốn ngư nhân này trú ngụ ở đâu không?
      Tiểu-Thúy lắc đầu:
      - Tiểu tỳ không biết. Hôm qua họ đến lấy trộm đồ ăn, khi ra suối ăn với nhau. Một trong bốn người nói: Chúng mình quậy phá vậy đủ rồi. Mai này Liên-Hoa tới, phải chấm dứt. Nghĩ cũng buồn.
      Dường như bốn thiếu niên có một người bề trên nào đó uy nghiêm, khiến họ không dám đùa phá nữa.
      Mỹ-Linh hỏi nữ lang:
      - Cô nương có muốn gặp bốn ngư nhân, cùng người trên của họ không?
      - Công chúa biết chỗ ở của họ ư?
      - Vâng. Nếu cô nương muốn chúng ta cùng đi.
      Qua biến cố vừa rồi, nếu như người khác, ắt đã nổi lôi đình với bốn ngư nhân. Mỹ-Linh tuy nhỏ tuổi, song nàng được học Thiền từ nhỏ, tâm tính trung hậu. Qua một vài hành động của bốn ngư nhân, nàng biết ngay họ thuộc loại đồng đạo, trêu ghẹo nàng với Thiệu-Thái, chỉ để mà trêu.
      Đối với nữ lang, nàng cũng không hỏi hỏi căn cước, tên, họ, mà lờ đi, để giữ phong độ của Công-chúa, mẫu nghi trăm họ. Hơn nữa, nàng còn là một Chưởng-môn nhân phái Mê-linh.
      Nữ lang nai nịt quần áo gọn gàng, đeo thanh kiếm vào lưng, rồi cười:
      - Công-chúa! Công-chúa không thắc mắc gì về tôi ư?
      - Thắc mắc ư? Chúng ta lấy tình người ở với nhau được rồi. Giữa đêm khuya, trăng đẹp thế này, anh em tại hạ tới phá sự yên tĩnh của tỷ tỷ. Tỷ tỷ không phiền trách cũng may lắm, đâu dám hỏi han gì nữa?
      Nữ lang ngước mắt nhìn trời, rồi nói:
      - Tôi họ Ngô, thuộc giòng dõi Ngô đại vương của tộc Việt.
      Thiệu-Thái kinh ngạc:
      - Có phải ngài húy Quyền, từng phá quân Nam-Hán trên sông Bạch-đằng, vang danh một thời không?
      - Vâng.
      Mỹ-Linh, Thiệu-Thái thuộc lớp thiếu niên sinh trưởng trong nhung lụa, được giáo dục cực kỳ chu đáo về tinh thần yêu nước, yêu tộc Việt. Hơn nữa tinh thần đó nằm trong hào quang của đức đại từ, đại bi nhà Phật. Vì hoàn cảnh, do Khai-Quốc vương tung ra đời, nhận trọng trách bảo quốc. Hoá cho nên, tuổi hai người tuy còn nhỏ, mà đã có cái nhìn rất sâu xa, rất rộng về tinh thần tộc Việt.
      Nay, giữa chốn rừng hoang vu, trong đêm trăng sáng, vì đuổi theo ngư nhân, cứu Đào Nhất-Bách, cùng Lê Đức, họ gặp nữ lang. Mỹ-Linh tạm quên mình là Công-chúa thiên kim, Chưởng môn phái Mê-linh, mà chỉ giữ lại con người vô thường, nhún nhường. Nếu khi gặp nữ lang, Mỹ-Linh tra hỏi tên họ, nguồn gốc, ắt nữ lang không trả lời. Thảng hoặc có trả lời cũng nói sai sự thực. Không chừng còn gây ra bất hoà nữa.
      Đây là lần thứ nhì Mỹ-Linh thành công, nhờ tâm tính thuần hậu này. Lần đầu tiên, gặp Đỗ Lệ-Thanh. Đường đường là Công-chúa mà biết Đỗ cùng chồng sang Đại-Việt trường kỳ gian tế, khi khám phá ra, Mỹ-Linh không chặt đầu, ắt cũng truyền bắt giam, tra xét. Nàng lờ đi, không nghi ngờ, không cật vấn. Vì vậy chính Đỗ cảm động, tự cung khai, rồi trở thành người nữ tỳ trung thành.
      Khi vào trong nhà, thấy nữ lang biết hết tung tích, cùng hành trạng của mình, Mỹ-Linh vẫn bình tĩnh, coi như sự thường. Nữ lang chờ đợi Mỹ-Linh hỏi về nàng. Mà tuyệt nhiên Mỹ-Linh lờ đi, còn tỏ ra thân cận. Vì vậy, chính nữ lang tự thố lộ tâm tư ra.
      Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nghe Chu An-Bình, Đỗ Lệ-Thanh đối đáp, hai người tỉnh ngộ:
      - Hôm gặp Đỗ phu nhân, mình thấy bà chỉ biết xử dụng Chu-sa ngũ độc chưởng. Sau tự nhiên thấy bà biết phóng độc phấn như bọn Chu An-Bình, mình không thắc mắc gì. Thì ra hôm đệ tử Thiên-trường trộm được tài liệu, thư tín trong thuyền Đại-lý, Thanh-Mai thấy có tập chép kỷ yếu về bang Nhật-hồ Trung-nguyên, trao cho Đỗ phu nhân. Đỗ phu nhân theo đó chế ra phấn độc. Mụ móc trong bọc ống trúc nhỏ, rồi mở nắp, kéo một tờ giấy, miệng cười khành khạch:
      - Cái này là cái gì đây. Chu An-Bình nhận ra tờ chiếu của Lưu hậu, y đánh trống lảng:
      - Chúng ta đều học Hồng-thiết kinh. Hồng-thiết kinh dạy rằng: Lật lừa, xảo trá, nói rồi chối, giết cha mẹ, hại thầy bạn... thuộc bản chất của giáo chúng mà! Sư tỷ quên sao? Sư tỷ ơi! Sư tỷ hãy vì bản bang, trao Hồng-thiết tâm pháp cho tiểu đệ, đem về trình đại ca, hầu làm rạng danh bản bang. Đỗ Lệ-Thanh lắc đầu:
      - Ta bị giam hơn mười năm, nhục nhã có thừa. Sau nhờ Thân thế tử cùng công chúa Bình-Dương cứu ta ra. Hai vị lại dùng lễ đối đãi với ta bằng tất cả tấm lòng thương mến, kính yêu. Ta... ta đã quyết tâm theo người đến chết. Sư đệ! Người về nói với Đặng đại ca rằng Đỗ Lệ-Thanh chết rồi. Nay được tái sinh, làm con dân họ Thân, họ Lý. Ta nguyện không làm lợi cho bản bang, cũng không làm hại bản bang. Thôi, người đi đi. Lời nói của Đỗ Lệ-Thanh làm Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cùng cảm động:
      - Đỗ phu nhân thực là người trung hậu, không phụ lòng chúng ta trọng đãi bấy lâu. Bỗng có tiếng cười ha hả, rồi bốn phía xuất hiện bốn người, quần áo vàng, trắng, đen, xanh, vây Đỗ Lệ-Thanh vào giữa. Đỗ Lệ-Thanh hơi chột dạ, song mụ vẫn cương quyết:
      - Hay lắm, Chu sư đệ, thì ra người là một trong ngũ vị sứ giả bản bang. Từ hôm mới gặp người, ta thấy người luôn mặc quần áo mầu đỏ, ta tưởng chẳng qua sự thường. Nào ngờ người lên tới chức Nam-phương sứ giả. Hay lắm, Ngũ-sứ cứ tấn công đi. Ta há sợ sao? Người mặc quần áo vàng cười nhạt:
      - Đỗ sư muội, bất cứ người nào chống lại lệnh bang chủ đều bị xử tử hình. Từ nãy đến giờ, Chu sư đệ truyền lệnh của bang chủ, sư muội không những không tuân, còn nói lời mạt sát vô lễ. Song nghĩ tình sư muội là con gái bang chủ tiền nhiệm, chúng ta có chỗ châm trước. Sư muội mau đem Hồng-thiết tâm pháp trao cho chúng ta. Đỗ Lệ-Thanh vẫn bướng:
      - Ngũ sứ muốn, cứ xuất chiêu. Các người có giỏi, hãy giết ra đi. Ta chết rồi, vĩnh viễn không bao giờ các người tìm ra Hồng-thiết tâm pháp nữa. Trung-ương sứ giả tức người mặc quần áo vàng cười nhạt:
      - Điều đó đâu có khó gì? Nam-phương sứ giả Chu hiền đệ hãy lĩnh giáo võ công của Đỗ sư muội đi! Suốt thời gian qua, Thiệu-Thái sống cạnh Đỗ Lệ-Thanh. Trên xưng hô, một bên là chủ, một bên là tớ. Trên thực tế, chàng đối xử với bà như một người cô, người dì. Bà chăm sóc chàng từng ly từng tý. Bà lại cố vấn cho chàng với Mỹ-Linh. Bây giờ thấy bà bị năm người uy hiếp, chàng định nhảy ra đánh đuổi chúng đi. Nhưng Mỹ-Linh ra hiệu bảo chàng cứ chờ xem sao đã. Chu An-Bình phóng chưởng tấn công Đỗ Lệ-Thanh. Chưởng của y cực kỳ hùng hậu. Mỹ-Linh kinh ngạc không ít, vì nàng đã thấy y đấu với hai nhà sư Trí-Nhật, Trí-Nguyệt, bản lĩnh của y tuy cao, nhưng không thể đạt tới trình độ này. Đỗ Lệ-Thanh lùi một bước, phóng ra chiêu Kình-ngư quá hải, trong Cửu-chân chưởng pháp. Mỹ-Linh thấy chưởng lực của bà tinh diệu, nàng khen thầm:
      - Đỗ phu nhân quả là thiên tài. Hôm nọ, mình thấy Tôn Đản dạy bà pho Thiết-kình phi chưởng, mình không chú ý lắm. Bây giờ nhìn bà xuất thủ thực không thua bất cứ đệ tử nào của bản môn. Chu An-Bình không biết tính chất khắc chế của chưởng Cửu-chân. Y tiến lên một bước, tăng sức mạnh cho chiêu thức của mình. Bình một tiếng. Đỗ Lệ-Thanh lui liền ba bước. Trong khi Chu An-Bình đứng nguyên. Trên nét mặt của y hiện ra vẻ kinh hãi. Trong khi Đỗ Lệ-Thanh phát chiêu ra tay trái, chuyển sang chiêu Đông-hải lưu phong của phái Đông-a do Tự-Mai dạy bà. Chu An-Bình thấy chiêu đầu của Đỗ Lệ-Thanh hung dữ, khắc chế với chiêu số, cùng nội công của y. Y chưa hết kinh hoàng, thì chiêu thứ nhì đã ập tới. Y tưởng đâu chiêu này cũng như chiêu trước. Y vội xuất Chu-sa độc chưởng phản công. Chưởng của y phát ra có mùi hôi tanh khủng khiếp. Hai chưởng chạm nhau bình một tiếng. Đỗ Lệ-Thanh vẫn lùi hai bước để bảo vệ thế tấn. Trong khi Chu An-Bình kinh hãi tự hỏi:
      - Chiêu vừa rồi là chiêu gì, mà kình lực như có như không. Độc công của mình cao hơn mụ nhiều, mà dường như mụ không hề hấn gì. Trong khi tay mình cảm thấy nặng chĩu. Kỳ thực? Trong khi y tần ngần, Lệ-Thanh tấn công tiếp bằng hai chiêu Cửu-chân, khiến Chu An-Bình phải lùi liền hai bước, tránh né, rồi y trả lại bằng hai chiêu Chu-sa độc chưởng cực kỳ hùng hậu. Đỗ Lệ-Thanh xuất hai chiêu Phong hồi hải để rồi chuyển sang chiêu Cuồng phong lộ lãng cũng của phái Đông-a. Sau khi hai chưởng giao nhau, tay Chu An-Bình càng thêm nặng chĩu. Mỹ-Linh nói thầm vào tai Thiệu-Thái:
      - Chỉ một chiêu nữa, tên An-Bình ắt lạc bại.
      - Tại sao?
      - Đỗ phu nhân áp dụng phương pháp của sư bá Trần Tự-An, đẩy chất độc về người y. Đến đây Chu An-Bình đánh ra một chưởng với tất cả bình sinh công lực. Trái với những chiêu trước, Đỗ Lệ-Thanh lùi lại. Lần này bà tiến lên ba bước, đẩy cả hai chưởng về trước, đó là chiêu Đông ba hợp bích của phái Đông-a. Vù một tiếng, bốn chưởng chạm nhau. Đỗ Lệ-Thanh bắn vọt lên không. Ở trên không, bà lộn liền ba vòng, rồi đáp xuống an nhàn. Trong Khi An-Bình lảo đảo lùi lại. Trưng-ương sứ giả hỏi An-Bình:
      - Ngũ đệ! Cái gì vậy? An-Bình im lặng không trả lời. Vì sau chiêu vừa rồi, y thấy trong ngực như nghẹn thở. Y cố nín hơi. Song chỉ được một vài khắc, y oẹ một tiếng, miệng phun máu xối xả. Biết sự bất ổn, y ngồi xuống xếp chân, nghiến răng vận công. Tây-phương sứ giả, tức gã áo trắng, tiến đến bắt mạch cho An-Bình. Mặt y tỏ ra nét kinh sợ. Y hất hàm hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
      - Đỗ sư muội! Người sang Giao-chỉ, học võ công tà môn hại huynh đệ trong bang ư? Đỗ Lệ-Thanh cười nhạt:
      - Khi rời Trung-nguyên, ta mới chỉ là cô gái hai mươi tuổi. Võ công, nội lực đều tầm thường. Vì thế trong khi ở Đại-Việt ta phải học thêm võ công Lĩnh-Nam. Vừa rồi An-Bình dùng võ công thượng thừa trấn bang tấn công ta. Nếu ta dùng võ công bản bang chống lại, có khác gì trứng chọi với đá? Buộc lòng ta phải dùng võ công Lĩnh-Nam tự vệ. Thình lình An-Bình ối lên một tiếng, rồi y run run như người bị lạnh. Trung-ương sứ giả chạy lại hỏi:
      - Ngũ đệ! Sao vậy?
      - Bị trúng Chu-sa độc chưởng. Trưng-ương sứ giả nhăn mặt, tự nghĩ:
      - Bản lĩnh độc công Đỗ Lệ-Thanh không làm bao, sao y thị có thể truyền vào người An-Bình? Y hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
      - Đỗ muội! Người dùng độc chưởng đánh sứ giả của bang chủ, người có biết hậu quả sẽ như thế nào không? Đỗ Lệ-Thanh cười nhạt:
      - Trung-ương sứ giả của bản bang mà sao hồ đồ lắm vậy? Võ công Lĩnh-Nam, hầu hết đều đường đường chính chính. Họ làm gì biết độc chưởng mà dạy muội? Vừa rồi ngũ đệ dùng độc chưởng hại ta. Ta chống trả, rồi đẩy những gì ngũ đệ đánh ta vào người y mà thôi. Gã áo vàng bảo gã áo trắng:
      - Nhị đệ! Người lĩnh giáo mấy chiêu của Đỗ sư muội đi. Đỗ Lệ-Thanh nói mát:
      - Từ khi bản bang thành lập đến giờ, Ngũ-sứ được luyện độc công tới trình độ cao nhất, sờ vào tay bất cứ ai, người đó cũng mất mạng. Khi thừa lệnh bang chủ đi thanh trừng phản đồ, chỉ một chiêu, phản đồ mất mạng. Thế mà sao bây giờ Ngũ-sứ lại đau đớn thế kia? Phải chăng giáo chủ không còn xứng đáng nữa? Gã áo trắng không nói không rằng, y phát chưởng tấn công. Mỹ-Linh nhận ra chưởng của y là Võ-đang chưởng. Nàng nhủ thầm:
      - Trong các môn phái Trung-nguyên, võ công Võ-đang thiên về âm nhu, lấy Dịch-kinh làm căn bản, biến hoá khôn lường. Không biết Đỗ phu nhân có chống lại được không? Đỗ Lệ-Thanh thấy chưởng của y chưa tới, mà bà muốn ngộp thở. Bà phát chiêu Phục-ngưu thần chưởng, mà Bảo-Hoà dạy bà. Bình một tiếng, người bà bay vọt về sau đến hơn trượng. Toàn thân bà như tê dại. Tây-phương sứ giả như không muốn ra tay vội. Y đứng chờ cho Đỗ Lệ-Thanh phục hồi công lực rồi mới đánh tiếp. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nhìn nhau, như cùng muốn nói:
      - Công lực tên này không thua Đại-Việt ngũ long làm bao. Đỗ Lệ-Thanh từ từ đứng dậy. Mụ biết muôn ngàn lần mình không phải đối thủ của đệ nhị sứ giả bản bang. Mụ cười nhạt:
      - Tây phương sứ giả xuất thân nhân vật thứ nhì sau chưởng môn Võ-đang có khác, công lực quả tuyệt vời. Nhưng, ta nhất định không khai bí quyết luyện Hồng-thiết mật công. Thử xem người có giết được ta không? Tây-phương sứ giả cười nhạt:
      - Sư muội! Sư muội không khai, ta cũng chẳng ép. Ta mời sư muội theo chúng ta đến ra mắt Đặng bang chủ một lần.
      - Ta không đi. Tây-phương sứ giả tung ra một cái gói. Gói là tấm lụa. Lạ thay tấm lục cuộn tròn Đỗ Lệ-Thanh lại. Y lại ném ra sợi dây trong tay . Sợi dây cuốn tròn Đỗ Lệ-Thanh. Y giật tay một cái, Đỗ Lệ-Thanh bay bổng lên cao. Y cười:
      - Ta bọc sư muội bằng vải nhung thế này chắc không ai phản đối. Thình lình có tiếng nói ngay bên cạnh:
      - Ta phản đối! Rồi một người cầm cái cần câu vung lên veo véo. Sợi dây cuốn Đỗ Lệ-Thanh đứt rời ra. Mụ rơi từ tay Tây-phương sứ giả xuống đất. Trong khi đó cần câu rung liên tiếp, cái phao đập vun vút vào người Tây-phương sứ giả, khiến y phải nhảy lùi lại. Bốn người đồng xuất hiện đứng xung quanh Đỗ Lệ-Thanh. Họ chính là bốn ngư nhân. Trung-ương sứ giả nạt lớn:
      - Bốn tên ôn vật kia! Suốt mấy hôm nay, bọn mi phá chúng ta không biết bao nhiêu mà kể. Hôm nay ta cho bọn mi về chầu ông bà ông vải. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cho đến Ngũ-sứ, Ngô Cẩm-Thi đều giật mình kinh hãi, vì bản lĩnh họ đâu có tầm thường, mà bốn ngư nhân đến hồi nào, họ không khám phá ra. Mỹ-Linh nhìn lên trời: Đôi chim ưng vẫn bay lững lờ, mà sao bốn ngư nhân xuất hiện, chúng không báo cho nàng biết? Đỗ Lệ-Thanh đứng dậy, mụ đã phục hồi công lực. Ngư nhân mũ đỏ cười khành khạch:
      - Năm vị là Ngũ-sứ của bang Nhật-hồ Trung-quốc, mà sao hồ đồ quá vậy? Anh em tại hạ dù gan to bằng trời cũng không dám vuốt râu hùm. Chẳng hay anh em tại hạ đã làm gì để Ngũ-sứ phải nổi giận? Bắc-phương sứ giả chỉ mặt ngư nhân mũ trắng:
      - Cách đây ba ngày, ta đang ngồi ăn uống ở tửu lầu Thái-bình, thì tên khốn kiếp kia vờ đến hỏi thăm đường, rồi thừa cơ bỏ mấy miếng cứt trâu vào bát canh nấu nấm hương. Sau đó y bỏ đi. Ta... ta vô tình gắp lên ăn, hôi thối chịu không được. Ngư nhân mũ trắng cười khúc khích:
      - Bản lĩnh Bắc-phương sứ giả cao thâm biết chừng nào, mà tôi bỏ phân trâu vào bát canh lại không biết, thực một kỳ tích thiên hạ. Tôi nghĩ, có lẽ người thích ăn phân trâu để luyện độc công e đúng hơn. Cả bốn ngư nhân đều cười ồ lên. Bắc-phương sứ giả chỉ vào ngư nhân mũ xanh:
      - Ta biết bọn oắt con nhà mi ắt có người lớn đứng sau nên chưa muốn ra tay. Tiếp theo Đông-phương sứ giả, tứ đệ của ta trong khi cỡi ngựa vào trấn, chính mi vờ chen lấn, rồi vuốt tay vào mông ngựa, sau đó bỏ đi. Con ngựa của tứ đệ thình lình phi nước đại. Tứ đệ giật cương thế nào cũng không được. Con ngựa phi như điên như khùng, cuối cùng kiệt lực, nó ngã lăn ra. Tứ đệ xem lại, thì ra mi đã đâm vào mông nó một cái kim. Đầu kim tẩm thuốc độc, khiến con ngựa ngứa quá, chịu không nổi nên phi nước đại. Bốn ngư nhân cười ồ lên. Ngư nhân mũ xanh thè lưỡi ra nhát:
      - Sứ giả nói lạ. Luật vua Hùng, vua Trưng định rằng, buộc tội phải có chứng. Bản lĩnh Đông-phương sứ giả biết dường nào, mà tôi châm kim vào đít ngựa, đến nỗi không biết. Hỏi ai tin được nhỉ? Trung-ương sứ giả mặt hầm hầm chỉ ngư nhân mũ đen:
      - Tên khốn kiếp kia! Cách đây bốn ngày, ta đang ngồi ăn ở tửu lầu Đông-phong, mi mang đến tấm biển, cùng một chậu cúc cực lớn. Trên tấm biển có nhiều chữ kỳ dị, thách đố ai đọc được, mi sẽ biếu chậu cúc. Ta vô tình vì tính hiếu kỳ, đứng dậy quan sát cho kỹ. Không ngờ lúc ngồi xuống, thì trên ghế, ai đã để một miếng gỗ, với ba cái kim chổng ngược. Ta ngồi xuống, bị kim đâm đau thấu tâm can. Ta đoán chắc mi với tên để kim cùng bàn kế hại ta. Ngư nhân mũ đen cười khành khách:
      - Trời đất ôi! Oan ôi là oan. Tôi có ba đầu sáu tay đâu mà đi trêu vị chánh sứ của bang Nhật-hồ. Tôi quả có mang bảng, mang cúc đi thách thiên hạ thực. Còn ai bỏ kim vào ghế hại chánh sứ tôi nào biết. Tây-phương sứ giả bảo bốn ngư nhân:
      - Bọn mi muốn sống, đừng can thiệp vào truyện bản bang. Bằng không ta bất chấp dư luận lớn hiếp nhỏ, mà giết chúng bay ngay tại đây. Ngư nhân mũ đỏ cười lớn:
      - Tôi cũng muốn xa lánh truyện của quý bang, ngặt vì chúng tôi là con dân Đại-Việt, quyết không để cho ai giết người vô cớ trên đất Việt. Bắc-phương sứ giả quát lên:
      - Đây thuộc Quảng-Đông lộ, lãnh thổ Đại-Tống. Bọn man mọi Việt mi không có quyền gì cả. Ngư nhân mũ đỏ lắc đầu:
      - Ông sứ giả dốt bỏ mẹ đi ý. Vùng này trước thuộc Văn-lang, sau thuộc Âu-lạc, rồi Lĩnh-Nam. Thuận-Thiên hoàng đế kế tục tổ tiên, cai trị thiên hạ, thì đất này thuộc Đại-Việt. Trung-ương sứ giả đưa mắt cho Đông-phương sứ giả:
      - Sư đệ cứ ra tay đi. Gã áo xanh vung tay phát chưởng. Chưởng của y hùng hậu hơn Chu An-Bình nhiều. Ngư nhân mũ đỏ lạng người đi tránh. Không biết bằng cách nào, y xê dịch người ra sau địch thủ, rồi chĩa tay điểm đến véo một chỉ vào cổ Đông-phương sứ giả. Lạ thay, Đông-phương sứ giả trúng một chỉ nhẹ nhàng, mà người lảo đảo ngã xuống. Ngư nhân mũ đỏ vác Đông-phương sứ giả lao mình chạy. Bốn ngư nhân còn lại đồng tung lên một nắm bột trắng bay mịt mờ. Ba sứ giả Trung-ương, Tây-phương, Bắc-phương sợ phấn độc, vội vung chưởng gạt, cùng nhảy lên cao tránh đám bụi. Khi bọn y ra khỏi vòng bụi, bốn ngư nhân đã biến vào đêm tối. Trung-ương sứ giả hô lớn:
      - Nhị đệ ở đây canh giữ ngũ đệ, cùng Đỗ muội. Tam đệ cùng ta mau đuổi theo chúng. Hai người vọt mình theo bốn ngư nhân.
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.01.2005 06:10:51 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 13.01.2005 18:45:57 (permalink)
        Hồi thứ bẩy mươi chín


        Dư âm Bạch-Đằng




        Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cùng chắp tay hành lễ:
        - Lý Mỹ-Linh, Thân Thiệu-Thái xin ra mắt hậu duệ của Ngô đại-vương. Mong tỷ tỷ thứ cho tội quấy rầy.
        Nữ lang đáp lễ, rồi chỉ về phía ngư nhân chạy:
        - Chúng ta mau đuổi theo.
        Mỹ-Linh mỉm cười, nhìn lên trời, đôi thần ưng bay lượn không xa làm bao:
        - Tỷ tỷ đừng sợ mất tích bốn người này. Họ vẫn ở phía trước kia, chưa đi xa đâu. Mà dù có xa, chúng ta cũng tìm cược. Khi họ muốn trêu chúng ta, thì chúng ta cứ ngồi đây, khắc họ tự dẫn thân tới.
        Nữ lang nhìn xuống suối, rồi lại mơ màng ngắm trăng:
        - Đêm thanh trắng sáng đẹp thế này, bỏ qua thực uổng. Vậy mời Công-chúa, Giáo-chủ xuống suối, chúng ta ngắm trăng hầu chờ bốn ngư nhân.
        Ba người chọn ba tảng đá bên giòng suối. Mỹ-Linh, nữ lang tháo dầy, ngâm chân xuống nước. Thiệu-Thái hỏi:
        - Tỷ tỷ! Tỷ tỷ khéo chọn khung cảnh u nhã này để ở, thực còn hơn tu tiên. Có điều, đường từ đây ra trấn hơi xa.
        Nữ lang ngửa mặt nhìn trăng, thở dài não nùng:
        - Giáo chủ đang bận quốc sự, thì muốn sống yên tĩnh. Còn ngược lại tôi đang ở trong hoàn cảnh cá chậu chim lồng, lại muốn thoát khỏi cảnh này. Sự thực, tôi nào có muốn giam mình trong rừng đâu. Chẳng qua do hoàn cảnh bất đắc dĩ mà thôi.
        Mỹ-Linh ngập ngừng:
        - Nghĩa là???
        - Tôi không tự làm chủ được, mà bị người ta kiềm chế.
        Mỹ-Linh muốn nữ lang tự mình nói ra, nên nàng đưa mắt cho Thiệu-Thái ngụ ý bảo chàng yên lặng. Quả nhiên nữ lang nhìn trăng một lúc rồi thở dài:
        - Để tôi thuật hoàn cảnh của mình cho giáo chủ cùng công chúa nghe.
        Nữ lang vục tay xuống suối. Nước bắn tung toé lên, như những thanh vàng óng ánh, rồi thuật:
        _Tôi họ Ngô tên Cẩm-Thi, thuộc giòng dõi Ngô vương tộc Việt. Tổ phụ tôi, nhân dẹp Kiều Công-Tiễn, phá Nam-Hán ở sông Bạch-Đằng, lập nền chính thống Đại Việt vào năm Kỷ-Hợi (939). Như các vị biết, tộc Việt bị nhà Đông Hán đem quân nghiêng nước sang đánh. Vua Trưng tuẫn quốc ở Cẩm-khê. Trải hai trăm lẻ năm năm sau, Triệu nương lại khởi binh ở Cửu-chân, bị Ngô dẹp. Từ đấy, tộc Việt chìm đắm trong đêm dài vô tận. Mãi hai trăm chín mươi sáu năm dài, vua Lý Nam-Đế mới khởi nghiệp, lập ra nhà tiền Lý vào năm Giáp-Tý (544). Đến năm Nhâm-Tuất (602) lại bị Tùy diệt. Rồi năm Nhâm-Tuất (722) Mai Hắc-Đế khởi binh, nhưng chỉ như tia lửa lóe lên trong đêm dài. Qua sáu mươi chín năm sau, Bố-Cái đại vương khởi binh vào năm Tân-Mùi (791), rồi cũng không được bao nhiêu năm. Nối tiếp, họ Khúc, họ Dương tuy có khởi binh, song vẫn chỉ là chức quan của Trung-quốc. Phải đợi đến cao tổ phụ tôi, mới thực sự tạo dựng một triều đại mới.
        Mỹ-Linh thuộc làu giai đoạn lịch sử này:
        - Cứ như quan thái sử bản triều chép, Ngô vương húy Quyền, tướng như sư tử, vai như gấu, lưng như hổ, uy mãnh không ai bì kịp. Vương xuất thân đệ tử của đại vương Dương Diên-Nghệ. Được Dương vương tuyển làm phò mã. Nhân Kiều Công-Tiễn ám sát Dương vương. Ngô vương dấy binh trả hận. Kiều Công-Tiễn sai sứ sang cầu cứu Nam-Hán. Nam-Hán sai Thái-tử Hoằng-Thao đem quân cứu Tiện. Ngô vương đại phá quân Nam-Hán ở sông Bạch-Đằng, giết Hoằng-Thao. Ngài lên ngôi vương, lập triều đình, đặt quan chức. Tộc Việt lại phục hưng thành một quốc gia có chính thống.
        Cẩm-Thi gật đầu:
        - Công-chúa bác học thực! Sau khi thành đại nghiệp, cao tổ tôi chỉ ở ngôi được sáu năm, rồi băng hà (945). Khi người hấp hối, có ủy thác con côi Xương-Ngập cho em vợ tên Dương Tam-Kha. Không ngờ Tam-Kha cướp ngôi của cháu. Xương-Ngập chạy trốn về Nam-sách. Sáu năm sau, tổ phụ tôi húy Xương-Văn đã lớn. Người xuất lĩnh quần thần đuổi Tam-Kha, được anh hùng tôn làm Nam-Tấn vương. Bấy giờ anh người tên Xương-Ngập xuất hiện. Người cho đón về. Hai anh em cùng coi triều chính.
        Nữ lang nhìn lên trời, như nhớ lại công đức tổ tiên, rồi tiếp:
        - Năm Ất-Sửu (965), tổ phụ tôi thấy thế nước suy vi, mà bên Trung-nguyên, nhà Tống thống nhất đất nước. Tôi không nhớ bấy giờ đã được mấy năm.
        Mỹ-Linh tính đốt ngón tay:
        - Bấy giờ bên Trung-quốc là niên hiệu Càn-đức thứ ba, đời vua Tống Thái-tổ.
        - Phải rồi! Tổ phụ tôi sai hai vị đại thần, cùng phụ thân tôi sang sứ nước Ngô-Việt, bàn nhau đào kho tàng Tần-Hán lên, làm phương tiện kiến quốc.
        Thiệu-Thái ngạc nhiên:
        - Kho tàng Tần-Hán ở Quảng-Đông, sao triều Ngô không đến Quảng-Đông đào lên, mà phải sai sứ sang Ngô-Việt?
        Nữ lang lắc đầu:
        - Giáo-chủ quên sử rồi! Quảng-Đông lộ, tức chỗ chúng ta ngồi đây, hồi đó thuộc nước Ngô-Việt, rồi Nam-Hán. Nguyên sau khi vua Trưng tuẫn quốc, hào kiệt Tượng-quận nổi lên lập ra nước Đại-lý. Hào kiệt Nam-hải, Quế-lâm lập ra Ngô-Việt. Hào kiệt Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-Nam lập ra Đại-Việt.
        Mỹ-Linh gật đầu:
        - Tôi nghe, khi Thái-tử của Nam-tấn vương cùng hai đại thần ra khỏi biên cương, ở nhà vương băng. Trong nước lâm tình trạng mười hai sứ quân. Rồi sau sử không nói rõ việc đào kho tàng đi đến đâu.
        Nữ lang buồn bã:
        - Vì ở Đại-Việt, Ngô triều mất, hai vị đại thần thấy nếu mình đem vụ kho tàng ra, không chừng bị triều Ngô-Việt hại là khác. Vì vậy hai vị, một văn, một võ đem phụ thân tôi tiềm ẩn ở trong thung lũng này, âm thầm tìm kho tàng. Nhưng... nhưng tìm kiếm nhiều lần, tốn biết bao tâm huyết, mà có kho tàng ở đâu?
        Thiệu-Thái hơi có vẻ tin lý luận của Ngô Cẩm-Thi:
        - Tại hạ cũng nghĩ như vậy. Dường như thời vua Trưng, ba vị tài trí nhất thời bấy giờ là Phương-Dung, Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa bàn nhau đặt ra câu truyện kho tàng với ngụ ý gì, trải qua gần nghìn năm, đời đời lưu truyền miệng, bị thất truyền chăng?
        Cẩm-Thi nhăn mặt:
        - Khổ một điều thời bấy giờ vua Trưng truyền chép Lĩnh-Nam vũ kinh, Dụng-binh yếu chỉ, mật dụ kho tàng chung với nhau. Có tất cả mười bản. Khi vua Trưng tuẫn quốc, không biết mười bản đó lưu truyền ở những địa phương nào, vào tay gia nào, phái nào. Mà hiện nay, bên Trung-nguyên từ Lưu hậu, Bình-Nam vương, cho đến bang Nhật-Hồ đều gửi người về tìm. Bên Đại-Việt, thì Lạc-long giáo, bên Chiêm-thành phái Phật-thệ cũng có người đến tìm. Ôi kho tàng ở đâu không biết, mà máu đổ thành sông, thành ao rồi! Chính phụ thân tôi, có bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, Dụng binh yếu chỉ cùng mật dụ kho tàng, mà khi giữ chức Phụ-quốc thái úy, đã đem hàng chục vạn binh tướng, lật từng viên đá, từng gốc cây tìm, nào có thấy?
        Mỹ-Linh tính đốt ngón tay, rồi nói:
        - Sử chép, Thái-tử của Nam-tấn vương húy Xương-Anh, mới mười lăm tuổi. Nếu người còn tại thế, năm nay đúng bẩy mươi bẩy tuổi. Như vậy tỷ tỷ là con của người?
        Ngô Cẩm-Thi gật đầu:
        - Hai vị cựu thần cho người về đón vợ con qua, rồi ẩn ở đây, dạy phụ thân tôi. Phụ thân tôi kết hôn với con gái vị quan võ. Tôi là con út của người. Tất cả ẩn nhẫn, chờ ngày hồi cố quốc, tái lập nền chính thống. Nhưng trong khi đó, ở Đại-Việt, vua Đinh dẹp mười hai sứ quân, rồi vua Lê kế sự nghiệp tổ tiên đánh Tống. Và gần đây, triều Lý đem nhân nghiã trị dân. Vì vậy, phụ thân tôi, cùng con cháu hai đại thần bỏ ý định về nước tranh ngôi vua. Vì làm như thế, chỉ giúp thêm cho Tống mang quân sang đánh, chẳng hoá ra chúng tôi cũng giống như Kiều Công-Tiễn hay sao?
        Thiệu-Thái ngắt lời:
        - Tôi nghe, Ngô vương vốn xuất thân phái Cửu-chân. Như vậy võ công cô nương là võ công Cửu-chân mới phải. Ban nãy cô nương xử dụng thế khinh thân đuổi theo ngư nhân lại thuộc phái Khúc-giang. Không biết bên trong còn có uẩn khúc gì không?
        - Giáo chủ minh mẫn thực. Cao tổ nhà tôi, Ngô vương tìm được bộ Lĩnh-Nam vũ kinh bản của phái Tản-viên. Nhân người thuộc đệ tử Cửu-chân, nên biết hết thuật ngữ phái này, do đó luyện thành. Khi tổ phụ tôi sai phụ thân tôi sang Ngô-Việt, người trao bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, cùng mật ngữ cho. Ngược lại vị võ quan theo phu thân tôi thuộc phái Khúc-giang, nên ông biiết mật ngữ phái này, rồi chiếu theo vũ kinh, luyện cũng thành. Tôi được phụ thân luyện cho võ công Cửu-chân, thân mẫu luyện cho võ công Khúc-giang.
        Cẩm-Thi tiếp:
        - Khi anh hùng hào kiệt tộc Việt khởi nghiệp từ Khúc-giang, tái lập nước Ngô-Việt, tôn họ Tiền lên làm vua. Phụ thân tôi cùng con cháu hai di thần Ngô triều, gạt bỏ hết những gì mưu tái lập sự nghiệp tổ tiên ở Đại-Việt. Tất cả cùng hào kiệt tộc Việt đứng dậy. Do đó triều đại Ngô-Việt tái lập. Phụ thân tôi được vua Ngô-Việt phong làm Tả tướng quốc, phụ quốc thái úy, quản Khu-mật viện, tước Khúc-giang vương. Con cháu hai vị cựu thần Ngô triều, một được phong Thái-phó, Đồng bình chương sự, tước Thường-sơn công, kiêm binh bộ thượng thư. Một được phong Thái-bảo, Bình-chương sự kiêm lại bộ thượng thư, tước Hành-sơn công.
        Mỹ-Linh gật đầu tỏ ra hiểu biết:
        - Giai đoạn này, quan thái sử bản triều có chép. Thì ra khi cầm gươm khởi nghĩa, Ngô bá bá không giữ tên cũ, mà đổi thành Ngô Quảng-Thiên. Còn con cháu hai vị đại thần, một tên Đào Tường-Phúc một tên Chu Bội-Sơn.
        - Đúng thế! triều Ngô-Việt thấy mình chiếm vùng Quế-lâm, Nam-hải thời Lĩnh-Nam, như vậy chỉ mới đòi được phần đất phía Bắc thời vua Trưng. Anh hùng Ngô-Việt muốn kết hợp với anh hùng Tượng-quận nay thành nước Đại-Lý. Anh hùng Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-Nam, nay thành Đại-Việt. Cả ba thống nhất, thì chúng ta sẽ trở lại nước hùng mạnh như thời Lĩnh-Nam.
        Thiệu-Thái suýt xoa:
        - Chí khí các bậc tiền nhân thực vĩ đại. Nếu như việc đó thành, chúng ta tiến tới thống nhất tộc Việt, tức nhóm Việt-Thường trốn lạnh vào Nam, nay thành Chiêm-thành, Chân-lạp, Xiêm-la, Lão-qua. Sau đó tạo hạnh phúc cho dân như thời vua Hùng, vua Trưng, thực là truyện thống khoái kim cổ... Tỷ tỷ! Sao việc đó lại bỏ dở?
        - Đâu có bỏ dở? Bấy giờ bên Đại-Việt vua Đinh mới thống nhất đất nước. Lòng người chưa yên, nội trị bấp bênh, kho lẫm trống rỗng, chỉ mong giữ vững cơ đồ cũng may lắm rồi. Cho nên khi sứ thần Ngô-Việt sang triều kiến. Vua Đinh hứa rằng nếu Tống xâm lăng Ngô-Việt, Đại-Việt sẽ đánh trở lên, để chia thế lực Tống. Còn bên Đại-lý Đoàn Tố-Thuận mới lên ngôi, tuổi còn trẻ. Trong triều lại thiếu người hùng tâm tráng trí, kết cuộc vẫn mong bảo vệ bờ cõi.
        Tuy biết rằng cuộc thống nhất tộc Việt của anh hùng Ngô-Việt không thành, nhưng Thiệu-Thái, Mỹ-Linh vẫn hồi họp theo dõi.
        Thiệu-Thái lắc đầu:
        - Như vậy thì đại cuộc hỏng mất rồi! Triều Tống vốn yếu hèn run sợ trước các nước phía Bắc, nên kỳ vọng vào những gì ở phương Nam. Họ thấy anh hùng Ngô-Việt sáng chói, tất dồn nỗ lực đánh Ngô-Việt trước. Ngô-Việt mới lập, quân chưa tinh, tướng chưa đủ kinh nghiệm, nội trị lỏng lẻo, quốc dụng thiếu thốn. E cự không lại.
        - Đúng thế. Bấy giờ là niên hiệu Thái-bình hưng quốc thứ ba đời Tống Thái-tông. Bên Đại-Việt, thuộc niên hiệu Thái-bình thứ chín của vua Đinh. Vua Đinh truất phế con trưởng là Nam-Việt vương Đinh Liễn, lập con thứ Hạng Lang làm Thái-tử. Nam-Việt vương giết Hạng Lang, rồi Đỗ Thích ám sát vua Đinh cùng Nam-Việt vương. Đúng lúc đó Tống đem đại binh đánh Ngô-Việt.
        Mỹ-Linh than:
        - Giặc ngoài luôn luôn để hàng nghìn mắt, hàng vạn tai nghe ngóng động tĩnh của mình. Hễ mình có biến cố bất lợi, lập tức họ đem quân qua. Tỷ tỷ! Tôi không thấy sử gia chép cuộc kháng chiến chống Tống của Ngô-Việt ra sao. Xin tỷ tỷ thuật chi tiết cho anh em chúng tôi được rõ.
        Cẩm-Thi thở dài:
        - Tống sai sứ sang triều Ngô-Việt, bắt phải tuân theo ba điều kiện:
        Một, bỏ quốc hiệu Ngô-Việt, đổi thành quận Giao-châu. Bỏ niên hiệu, chỉ dùng niên hiệu Tống.
        Hai là vua Ngô-Việt phải đến Biện-kinh triều kiến Tống đế, nhận sắc phong làm Ngô-Việt quận vương.
        Thứ ba, phải chịu binh dịch.
        Tống sẽ cử trọng binh xuống trấn đóng. Quân đội có sẵn đặt dưới quyền thống lĩnh của Khu-mật viện Tống triều.
        Thiệu-Thái nổi giận:
        - Như vậy có khác chi đầu hàng. Tôi chắc triều đình Ngô-Việt không chịu.
        Ngô Cẩm-Thi rơm rớm nước mắt:
        - Thế là trong triều Ngô-Việt chia làm hai phe. Phe chủ chiến gồm phụ thân tôi, cùng với Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn và các tướng thuộc con em đệ tử phái Khúc-giang. Phe chủ hoà gồm hầu hết các quan còn lại. Quan trọng nhất họ Tiền, đang ở ngôi vua, lại chủ hoà. Đa số đại thần chủ hoà gốc người Hoa.
        Mỹ-Linh ngồi bật dậy:
        - Các quan trong triều, nhiều người gốc Hoa lắm sao?
        - Ba phần tư!
        - Sao kỳ vậy?
        - Công-chúa hiểu cho. Ngay từ thời vua Trưng, cách đây gần nghìn năm, người Hoa đã chiếm phân nửa dân Nam-hải rồi. Huống hồ sau gần nghìn năm Bắc thuộc, số người Việt còn lại không làm bao. Người Hoa, người Việt ở vùng Lưỡng-Quảng coi Ngô-Việt cũng như Bắc-Hán, Nam-Đường... nghiã là người Hoa nổi lên chiếm giang sơn, chứ không phải do tộc Việt quật khởi... Sau ba ngày luận bàn, phụ thân tôi cùng hai vị sư thúc Đào, Chu, con em đệ tử Khúc-giang đồng từ chức, lui về ẩn trong thôn dã, để triều Ngô-Việt chịu sắc phong của Tống. Đại binh Tống tiến vào. Vua cùng đại thần ra đón. Tướng Tống cho phục binh bắt vua cùng đại thần Ngô-Việt đem về Biện-kinh. Mỗi người đều được phong chức tước thực lớn, nhưng không trao cho quyền bính. Các võ quan gốc Hán được xung vào đạo quân đánh vua Lê Đại-Hành, còn gốc người Việt được chuyển lên phía Bắc đánh Bắc-Hán.
        - Thế là hỏng đại cuộc. Dân chúng, quan lại các nơi chịu tuân phục ư?
        - Tống Thái-tông rất khôn ngoan. Phàm quan lại địa phương, văn võ đều được thăng một trật, vẫn cho giữ chức vụ cũ. Các quan Hán từ trước đến giờ đều nghĩ rằng họ làm quan với ông vua Việt ở một góc biên thùy, chẳng khác chi giặc cỏ. Nay họ được làm mệnh quan đại triều. Họ cầu mà không được.
        Mỹ-Linh thở dài:
        - Bấy giờ dường như tỷ tỷ chưa ra đời thì phải?
        - Đúng thế. Khi Tống chiếm Ngô-Việt, vua Thái-tông sai sứ đến đây mời phụ thân cùng Đào, Chu nhị thúc ra làm quan. Cả ba người đều từ chối, xin cho được yên vui với cỏ cây. Cả ba hứa làm những ngoan dân. Tống Thái-tông đang bận đánh Đại-Việt, Bắc-Hán. Trong triều có biến, giáng chức Tần-vương Đình-Mỹ. Bắc phải đối phó với Liêu cường thịnh, Tây-Hạ nhận sắc phong của Liêu. Vì vậy họ để cho phụ thân tôi được yên.
        Mỹ-Linh lắc đầu:
        - Hỏng! Cái thế ấy e lão bá nguy đến trong sớm tối. Hỏng! Hỏng to rồi!
        Ngô Cẩm-Thi kinh ngạc:
        - Công chúa đoán ra được ư?
        - Cũng dễ thôi. Bá bá cùng hai vị Đào, Chu chủ chiến, mà phải qui ẩn. Khi Ngô-Việt mất nước, ít ra phân nửa sĩ dân trong nước phẫn hận việc Tống trở mặt. Tất họ hướng về ba vị bá bá. Dù muốn dù không, ba vị lại mưu dựng lại nghiệp cũ. Phất cờ giữa giai đoạn thịnh trị của Tống, chẳng khác gì tự tử.
        Cẩm-Thi buồn rầu:
        - Đúng thế. Niên hiệu Càn-hưng nguyên niên đời vua Chân-tông nhà Tống, nhằm niên hiệu Thuận-Thiên thứ mười ba bên Đại-Việt (1022), vua Chân-tông băng. Thái tử còn nhỏ tuổi, vua di chiếu cho Lưu hoàng hậu quyền xử trị việc nước. Ủy cho hoàng đệ Triệu Nguyên-Nghiễm cải danh Triệu Thành cầm binh quyền. Lưu hậu cùng Bình-Nam vương Triệu Thành có nhiều tham vọng, nên cho chiêu mộ võ lâm thiên hạ. Phái nào theo, được trọng dụng. Phái nào chống, bị diệt vong.
        - Đối với phái Khúc-giang, Lưu hậu chiêu dụ hay Triệu Thành chiêu dụ?
        - Lưu hậu! Phụ thân cùng hai vị Đào, Chu sư thúc quyết liệt từ chối. Người tổ chức anh hùng đại hội, bàn truyện khởi binh. Giữa đại hội anh hùng ở Hổ-môn, bị nội phản. Tống đem quân vây bắt hết. Song thân cùng ba anh tôi bị đem về Biện-kinh. Công chúa có biết tại sao, với tội phản như vậy, mà triều Tống lại không giết song thân tôi?
        Mỹ-Linh chợt động tâm cơ:
        - Khi hai vị bị nội phản, ắt kẻ nội phản phải thân tín lắm. Đã thân tín, dĩ nhiên chúng biết các ngài có trong tay bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, Dụng-binh yếu chỉ cùng bản đồ kho tàng. Chúng chẳng dại gì mà giết các người. Chúng để các người cung khai cho chúng hết bí mật, rồi mới giết.
        Cẩm-Thi mặt nhợt nhạt:
        - Công chúa biết hết rồi ư?
        - Không, tôi đoán vậy thôi! Tôi đoán chắc các ngài không chịu khai. Vì khai ra, sẽ bị giết. Sau khi khai bị giết thì khai làm gì? Cứ để vậy, còn hy vọng sống. Hoặc giả bộ Lĩnh-Nam vũ kinh và Dụng-binh yếu chỉ đã mất rồi cũng nên.
        Thiệu-Thái hỏi:
        - Cô nương có biết kẻ nội phản là ai không? Chúng ta phải tìm chúng mà tru diệt, băm vằm ra từng mảnh cho hả dạ.
        Cẩm-Thi mơ màng nhìn trăng:
        - Kể bội phản thuộc hàng võ lâm cao thủ, tài trí vô song vào bậc nhất bậc nhì Hoa-Việt hiện nay. Nếu đủ bản lĩnh, phụ thân tôi đã tru diệt chúng rồi. Bản lĩnh người đâu có tầm thường, mà đành ôm hận bị quản chế ở Biện-kinh.
        Chợt mắt nàng chiếu ra tia hàn quang sáng chói:
        - Giáo chủ! Ừ nhỉ tại sao tôi không nhờ Giáo-chủ đứng ra chủ trì công đạo vụ này! Phải rồi, trong thiên hạ ngoài Lạc-long giáo, phái Đông-a, Tiêu-sơn, không ai có thể giải cái nghìn thu hận của gia phụ.
        Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đưa mắt nhìn nhau như cùng nói với nhau:
        - Võ công Cẩm-Thi đâu kém gì bọn trưởng lão Lạc-long giáo? Thế thì võ công Ngô Quảng-Thiên hẳn ghê gớm lắm. Cả hai chỉ bị ước thúc miệng, ngoài ra không hề bị canh coi gì cả. Tại sao hai người không âm thầm trốn về Đại-Việt. Tống triều có phái đại binh cũng không tìm ra được. Như vậy không chừng họ bị khống chế bằng Chu-sa ngũ độc chưởng cũng nên? Có thể kẻ nội phản thuộc bang Nhật-hồ Trung-quốc mới có thế lực đó.
        Mỹ-Linh tự nhủ:
        - Kẻ nội phản ắt là người Việt trong đám con em từ bên Đại-Việt qua. Nếu họ phản, tất dùng thuốc độc hại Ngô Quảng-Thiên. Chứ bản lĩnh của ông, khi bị vây, ông thừa sức trốn đi, âm thầm gây lại thế lực. Kẻ nội phản vì danh hay vì lợi? Nếu vì chút danh, thì sau đó hẳn được Tống triều phong chức tước lớn. Tại sao ta chưa từng nghe thấy có người Việt nào được Tống phong quan tước cả. Vậy ắt vì lợi. Mà lợi gì? Chắc chắn phải lớn lắm, mới khiến cho họ bán rẻ lương tâm như vậy.
        Mỹ-Linh ngồi bật dậy:
        - Kẻ nội phản mưu cướp bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, Dụng-binh yếu chỉ cùng bản đồ kho tàng ư? Chúng đánh thuốc mê Ngô bá bá, rồi cướp đi chăng?
        Ngô Cẩm-Thi giật bắn người dậy:
        - Đúng thế. Vì bản đồ kho tàng. Chứ hai bộ sách kia họ cũng có.
        Mỹ-Linh thở dài:
        - Con người ta dù thế nào chăng nữa, cũng không xa được cái nguồn gốc mình. Vua quan Tống, hành sự gì cũng qui về Nho. Triều đình Việt qui về chủ đạo tộc Việt. Những người học Hồng-thiết kinh dù ở dâu, dù ở hoàn cảnh nào họ cũng hành sự theo Hồng-thiết kinh: Không tín, chẳng nghĩa, vô tình, xảo quyệt, bạc ác. Có phải kẻ nội phản thuộc bang Nhật-hồ Trung-quốc không?
        Ngô Cẩm-Thi lắc đầu:
        - Không! Họ là người Việt.
        Thiệu-Thái kinh hoàng:
        - Họ là ai Không lẽ là Lê Ba, Vũ Nhất-Trụ?
        Ngô Cẩm-Thi lắc đầu:
        - Giáo chủ nghĩ kỹ một tý sẽ tìm ra ngay.
        Mỹ-Linh ngồi bật dậy:
        - Tôi tìm ra rồi! Họ là Tả, Hữu hộ pháp Hồng-thiết giáo Đại-Việt.
        Ngô Cẩm-Thi trả lời bằng cái gật đầu nhẹ nhàng.
        Thiệu-Thái chợt nhớ ra: Sau khi lên làm giáo chủ, chàng được Lê Đức trình bày cho biết tổ chức Hồng-thiết giáo. Trên cao nhất có giáo chủ. Kế đến tả, hữu hộ pháp. Thấp hơn nữa có ngũ sứ và mười trưởng lão. Khi Nhật-Hồ lão nhân lập Hồng-thiết giáo Đại-Việt, kết hợp với bẩy võ lâm cao thủ trẻ tuổi. Lão tự làm giáo chủ. Phong cho hai người tài kiêm văn võ làm tả, hữu hộ pháp. Năm người còn lại làm ngũ sứ. Tả, Hữu hộ pháp thống lĩnh giáo chúng tộc Việt từ hồ Động-đình xuống đến Bắc-biên. Tức lãnh thổ Lĩnh-Nam cũ thuộc Quế-lâm, Nam-hải. Ngũ-sứ thống lĩnh giáo chúng Đại-lý, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la. Mỗi người coi như làm giáo chủ một địa phận.
        Thiệu-Thái hỏi tên bẩy người, Lê Đức cho biết: Bẩy người đó tuy ngang tuổi với mười trưởng lão. Nhưng họ ở vai sư đệ Nhật-Hồ lão nhân, chứ không phải đệ tử lão. Họ được học Hồng-thiết tâm pháp, nên có thể giải độc Chu-sa vĩnh viễn. Nhật-Hồ lão nhân không cho đệ tử biết danh tính bẩy người này. Bẩy người hành sự rất kỳ bí. Lâu ngày gần như họ ly khai với Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Nhưng sau cùng Lê Đức cũng biết được. Tả, hữu hộ pháp tên Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn. Ngũ sứ là Nguyễn San, Bun-Thành, Khiếu Tam-Bản, Nguyễn Tuyết-Minh, Sử-vạn Na-vượng.
        Ngô Cẩm-Thi mơ màng nhìn trăng:
        - Họ chính là hai người thân tín nất của gia phụ, tức Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn.
        - Ái chà!
        - Nguyên Đào, Chu với gia phụ có mối liên hệ từ mấy đời, đem nhau từ Đại-Việt sang, cùng chung mưu thống nhất tộc Việt. Gia phụ chủ trương dùng chủ đạo tộc Việt, dựng lại nước như thời vua Trưng. Chu, Đào âm thầm theo Nhật-Hồ lão nhân, nhập Hồng-thiết giáo, rồi khuyến dụ gia phụ theo. Gia phụ cự tuyệt, vì như thế là đi vào đường tà ma, giết chủ đạo tộc Việt, thì còn mong gì tái lập Lĩnh-Nam nữa. Thế rồi hai vị Chu, Đào âm thầm hoạt động trong bóng tối. Cho tới lúc hội họp bàn khởi binh, thì hầu hết các hào kiệt trong buổi họp đều theo Hồng-thiết giáo. Họ muốn Hồng-thiết giáo đứng lên lãnh đạo cuộc khởi binh. Gia phụ chống đối. Thế là gây cuộc động thủ. Giữa lúc đôi bên đại chiến, thì thiết kị Tống xuất hiện. Đám Hồng-thiết hợp với binh Tống, nên phía hào kiệt lớp bị bắt, lớp bị giết. Song thân tôi bị trúng Chu-sa ngũ độc chưởng.
        Ngô Cẩm-Thi nghiến răng:
        - Thì ra Hồng-thiết giáo muốn độc quyền khởi binh. Họ không ngần ngại mượn tay Tống trừ khử hào kiệt Việt. Tống với Hồng-thiết ước hẹn nhau: Tống giúp Hồng-thiết giáo diệt hào kiệt. Ngược lại Hồng-thiết nhường cho Tống kho tàng. Vì vậy gia phụ, với tôi đều bị quản chế, mỗi năm họ phát cho một viên thuốc giải Chu-sa ngũ độc, cho đến khi gia phụ khai ra bản đồ kho tàng thì thôi.
        Thiệu-Thái như người mơ ngủ mới tỉnh. Chàng hỏi:
        - Sau khi diệt lão bá với hào kiệt. Tống quay ra diệt Hồng-thiết giáo của Chu, Đào. Vì vậy cho đến nay họ tuyệt tích giang hồ?
        - Đúng thế! Hai lão đổi họ, cải tên đi. Đào Tường-Phúc đổi tên thành Tôn Đức-Khắc. Chu Bội-Sơn đổi tên thành Lê Lục-Vũ. Cả hai theo Lưu hậu, ẩn hiện không chừng.
        Mỹ-Linh thấy Ngô Cẩm-Thi nói nàng bị trúng Chu-sa ngũ độc, rồi bị quản chế. Thế mà nay nàng biết Thiệu-Thái có thể trị độc cho nàng, mà nàng không cầu khẩn. Như vậy bên trong có ẩn dấu sự thực cũng nên. Vì vậy nàng dùng Lăng-không truyền ngữ nói với Thiệu-Thái cứ lờ vụ giải Chu-sa độc đi. Nếu sự thực nàng bị trúng độc này ắt sẽ cầu khẩn.
        Thiệu-Thái tội nghiệp cho Cẩm-Thi:
        - Tỷ tỷ ở trong thung lũng này gần mười năm nay ư?
        - Đúng thế. Hơn mười năm nay, tôi bị giam lỏng ở đây. Lưu hậu cho sứ giả nói rằng: Nếu tôi rời khỏi vùng Khúc-giang trong vòng ba ngày, lập tức song thân tôi ở Biện-kinh bị đem ra chặt đầu.
        Mỹ-Linh thở dài:
        - Lưu hậu gớm thực! Bà ta tra khảo hai vị tiền bối về kho tàng, về vũ kinh, về binh thư không được. Bà ta giả nhân, giả nghĩa tha cô nương sống trong thung lũng, rồi cho người theo dõi. Như vậy may mới tìm ra manh mối những thứ bà ta muốn.
        Cẩm-Thi nhìn trước, nhìn sau:
        - Không chừng chúng ta ngồi đây nói truyện với nhau, người của Lưu hậu rình rập nghe trộm cũng nên. Tôi chẳng biết gì về kho tàng, cũng không có vũ kinh, binh thư. Họ rình mò, cho họ rình mò.
        Mỹ-Linh thấy đôi chim ưng vẫn bay lượn bình thường. Nàng nói:
        - Bây giờ không có ai rình, nếu có lát nữa mới xẩy ra được.
        Thiệu-Thái hỏi:
        -_Tỷ tỷ chỉ ở trong thung lũng, mà sao biết hết truyện Đại-Việt, truyện ngư nhân ngoài trấn?
        Cẩm-Thi ngồi ngay ngắn lại:
        - Tôi bị giam lỏng thực. Tuy nhiên vẫn liên lạc với hào kiệt khắp vùng Quảng-Đông lộ, nên theo được tình hình Đại-Việt cũng như ngoài trấn. Đêm nay, thung lũng này sẽ có cuộc chém giết nhau đến máu thành sông mất.
        Mỹ-Linh kinh ngạc:
        - Phe nào với phe nào giết nhau vậy?
        - Nhiều lắm. Lát nữa có đại hội bang Nhật-hồ trên đỉnh Tuyệt-phong. Bang Nhật-hồ theo Lưu hậu. Rồi Định-vương Triệu Nguyên-Nghiễm ẩn tế dưới tên Bình-Nam vương Triệu-Thành. Phía Đại-Việt có Lạc-long giáo, Khu-mật viện cùng các đại môn phái. Nguyên hôm nay là ngày mười ba tháng mười một. Chỉ còn hai hôm nữa, đúng nửa đêm, cửa kho tàng mở. Vì vậy ai cũng tranh dành chiếm núi. Nhưng chiếm chỉ để mà chiếm. Núi lớn thế này, biết cửa ở đâu mà tìm?
        Chợt tiếng chim ưng ré trên không, rồi đâm bổ về phía bên kia suối. Mỹ-Linh nói sẽ:
        - Có người tới đó. Ta tạm nấp vào bụi hoa.
        Ba người nấp vào bụi hoa. Phía bên kia có ba người đang đuổi theo một người. Người chạy trước, rõ ràng là đàn bà. Mụ ta tới bờ suối, lội tràn sang. Ba người đuổi cũng lội suối theo.
        Người chạy trước, vừa sang bên này suối, Thiệu-Thái nhận ra mụ chính Đỗ Lệ-Thanh. Còn ba người đuổi theo, hai người đi đầu gồm Nguyên-Hạnh, Cao Thạch-Phụng, một người là Chu An-Bình.
        Thình lình Lệ-Thanh vấp vào hòn đá ngã chúi xuống. Ba người kia đuổi theo vừa kịp. Cao Thạch-Phụng dí kiếm vào cổ Đỗ Lệ-Thanh, miệng thị quát lên the thé:
        - Chung qui ta cũng bắt được người. Không ngờ hôm nay người lại chết dưới kiếm ta ở đây. Thôi, đừng có tiếc thương nữa!
        Đỗ Lệ-Thanh cười nhạt:
        - Con tiện nhân. Mi cứ giết ta đi. Ta há sợ chết sao?
        Mụ dơ kiếm lên, định chém xuống. Chu An-Bình vung kiếm gạt:
        - Túc-không Quan-âm! Không thể hạ sát người này được. Cần giữ y thị lại, vì y thị là người duy nhất còn thuộc Hồng thiết tâm pháp. Luyện Hồng-thiết tâm pháp, mới giải hoàn toàn Chu-sa ngũ độc chưởng. Cũng chính y thị giữ bí mật phép luyện thuốc giải tất cả độc tố trong Hồng-thiết kinh.
        Nguyên-Hạnh cúi xuống nắm cổ áo Đỗ Lệ-Thanh nhắc mụ lên khỏi suối. Tới bờ, y liệng mụ xuống đất. Đỗ Lệ-Thanh trở mình một cái, mụ phóng vào người Cao Thạch-Phụng một chưởng. Mỹ-Linh nhận ra chiêu chưởng đó thuộc chưởng Cửu-chân, nhưng xử dụng bằng nội lực âm nhu của phái Mê-linh mà nàng dạy mụ.
        Bình một cái, Cao Thạch-Phụng bay bổng ra xa, rơi xuống mỏm đá dưới sối. Nhanh như chớp, Đỗ Lệ-Thanh lạng người chĩa một chỉ vào ngực Nguyên-Hạnh. Nguyên-Hạnh không trở tay kịp, y bị trúng chỉ đến bộp một tiếng, người lảo đảo, ngã ngồi xuống đất.
        Đỗ Lệ-Thanh không nhân nhượng, mụ vọt người lên cao. Ở trên cao mụ đánh xuống một chưởng, trúng giữa ngực Cao Thạch-Phụng. Bình một tiếng, người Thạch-Phụng bay vọt lên bờ suối. Mụ trở mình một cái, đáp xuống yên lành.
        Mỹ-Linh kinh ngạc:
        - Không hiểu sao, mụ trúng hai chưởng của Đỗ phu nhân, nặng như vậy, mà dường như vô sự?
        Bỗng Thạch-Phụng ối một tiếng, người lảo đảo như say rượu. Rồi hai tiếng, ba tiếng ối liên tiếp. Người mụ đảo bên trái, nghiêng bên phải. Tiếp theo, mụ rú lên dài liên miên bất tuyệt, rung động cả rừng núi.
        Đỗ Lệ-Thanh ngửa mặt lên trời cười lên một tràng dài ghê rợn.
        - A, ha ha! Cái hận mười năm, nay ta mới trả được.
        Mụ quay lại Nguyên-Hạnh:
        - Hồ Dương-Bá! Mi tính sao đây?
        Nguyên-Hạnh run lẩy bẩy:
        - Sư muội! Sư muội tha cho sư huynh một phen. Từ nay, vợ chồng nối lại duyên xưa chẳng đẹp lắm ru?
        - Đẹp với không đẹp! Mi giam ta hơn mười năm trong Hồng-hương mật cốc còn đẹp nào bằng nữa?
        Mụ nghiến răng vung tay, vù vù hai tiếng như gió thoảng qua người Nguyên-Hạnh. Y rùng mình một cái, ngồi dậy:
        - Đa tạ sư muội.
        Tiếng muội vừa ra khỏi miệng, y lảo lảo, rồi hét lên be be như con dê bị chọc tiết.
        Mỹ-Linh, Thiệu-Thái thấy tình trạng y giống hệt Đỗ Xích-Thập, khi bị Trần Tự-An đẩy độc tố trở về cơ thể, hôm đại hội Thăng-long. Y hú lên lanh lảnh, nhảy chồm chồm như con khỉ đột.
        Đỗ Lệ-Thanh khoanh tay, ngồi trên tảng đá, mụ cười khoan khoái, nói với Chu An-Bình:
        - Sư đệ! Sư đệ coi trò chơi này có náo nhiệt không?
        Chu An-Bình hỏi:
        - Hôm đại hội Thăng-long, đệ ẩn thân trong đám quần chúng, thấy Nhật-Hồ, Nhất-Trụ, Xích-Thập dùng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng đánh người, bị người đẩy chất độc trở lại, thành điên loạn. Nhưng... Hồ sư huynh đâu có đánh sư tỷ, mà bị sư tỷ đẩy độc tố trở lại cơ thể?
        Đỗ Lệ-Thanh cười nhạt:
        - Không có gì lạ cả. Ta nhân học thuật của phái Đông-a, rồi biến chế đi. Phái Đông-a đẩy độc tố trở lại kẻ đánh mình, còn ta, ta phóng độc tố chạy ngược kinh mạch, kết qủa cũng như nhau. Cái đó gọi là di hoa, tiếp mộc.
        Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nghe mụ nói, cùng nghĩ như nhau:
        - Đỗ phu nhân thông tuệ khác thường. Từ võ công Đông-a, bà biến đổi thành thứ võ công mới, dễ luyện, dễ xử dụng hơn nhiều.
        Nguyên-Hạnh, Thạch-Phụng hò hét, hú, nhảy nhót một lúc, cả hai đã mệt nhừ. Đỗ Lệ-Thanh quay lại định kết liễu tính mệnh hai kẻ thù, thì từ phía bên kia suối, có tiếng nói lớn:
        - Mẹ! Mẹ tha cho bố một phen.
        Tiếp theo hai nhà sư vọt mình sang đỡ Nguyên-Hạnh dậy. Mỹ-Linh nhận ra Hạnh-Chân, Hạnh-Như ở chùa Sơn-tĩnh.
        Hạnh-Chân ôm Nguyên-Hạnh. Hạnh-Như ôm Thạch-Phụng, rồi chạy biến vào bóng đêm.
        Đỗ Lệ-Thanh hỏi Chu An-Bình:
        - Chu sư đệ! Người mặc quần áo đỏ, thì ra người được phong Nam-phương sứ giả trong Ngũ-sứ của bản bang. Người tính sao?
        Chu An-Bình chậm rãi trả lời:
        - Đại sư ca sai tiểu đệ muôn dặm sang Đại-Việt tìm sư tỷ. Tiểu đệ những tưởng sư tỷ lưu lạc đâu. Nào ngờ trong đại hội Lộc-hà, mới biết sư huynh chính thị Nguyên-Hạnh. Vợ Nguyên-Hạnh không phải sư tỷ, mà là còn đượi Thạch-Phụng. Trong đại hội, sư tỷ xuất hiện, đệ mới biết sư tỷ vẫn còn trên thế gian, hơn nữa làm người thân tín của công chúa Bình-Dương cùng giáo chủ Lạc-long giáo. Từ đấy, đệ theo dõi, mong tiếp xúc với sư tỷ. Hôm nay mới toại nguyện.
        Đỗ Lệ-Thanh thở dài thườn thượt:
        - Toại nguyện! Giá như ta bị Nguyên-Hạnh giết trên đài, hôm đại hội, hẳn người sung sướng Tạ ơn trời Phật, mụ sư tỷ chết đi cho rảnh mắt.
        Chu An-Bình cười lớn:
        - Sư tỷ khéo diểu tiểu đệ. Tiểu đệ lần mò được biết kế hoạch Bình-Nam vương vờ đi thuyền Đại-Việt, đợi khi đến Hổ-môn sẽ để Phạm Trọng-Yêm bắt sống, đem vào bờ, rồi tới đây tìm kho vàng. Tiểu đệ đoán chừng công chúa Bình-Dương cũng khám ra mưu ấy, chắc sẽ đến Khúc-giang. Công chúa Bình-Dương đến Khúc-giang, ắt sư tỷ cũng đến theo. Vì vậy đệ đến đây rình sẵn. May đâu gặp sư tỷ. Sư tỷ nghĩ coi, vừa rồi nếu đệ không phóng phấn độc vào người Cao Thạch-Phụng với Nguyên-Hạnh, liệu sư tỷ có thắng chúng dễ dàng vậy chăng?
        - Đúng thế. Đặng đại ca nghĩ rằng phải chi mình biết Hồng-thiết tâm pháp, giải trừ độc chất vĩnh viễn cho bà, khiến bà nhập bản bang. Bà dùng Chu-sa độc chưởng khống chế hết quần thần. Quần thần, phần sợ uy quyền, phần sợ Chu-sa độc chưởng, hỏi ai dám chống bà. Ta đứng trong bóng tối giúp bà nắm quyền bính. Bà sẽ trao hết quan chức cho anh em bản bang. Như thế trên thực tế là Tống triều, mà hoá ra bản bang cai trị Thiên-hạ.
        - Vì thế Đặng đại ca phái người đi tìm ta phải không? Trong tay người có chiếu chỉ của Lưu hậu. Khi người tìm thấy ta, dùng võ công khống chế. Nếu thắng ta, người bắt trao Hồng-thiết tâm pháp. Còn bại, người đưa chiếu chỉ cho vua Lý, nói ta là khâm phạm của Thiên-triều. Họ Lý phải bắt ta trao cho người mang về Trung-nguyên.
        Chu An-Bình nghe Đỗ Lệ-Thanh nói toẹt ra âm mưu của y. Mặt y tái đi như gà cắt tiết:
        - Sư tỷ nói quá, làm gì có truyện đó.
        Đỗ Lệ-Thanh cười nhạt. Mụ thuật lại tất cả những điều chú cháu An-Bình nói với nhau hôm ở trong rừng Trường-yên, cùng hành động của y khi giúp Đại-lý ... ra một lượt. Rồi mụ cười the thé:
        - Đặng Đại-Bằng bất quá là đệ tử của phụ thân ta. Đáng lẽ khi y quy tụ giáo chúng, phải cứu mẫu thân ta cùng anh em họ hàng ta ra khỏi Biện-kinh. Đây y để nguyên, không lý gì tới. Rồi bây giờ cần đến Hồng-thiết tâm pháp, y cho người đi tìm ta, bắt phải khai. Hừ! Đỗ Lệ-Thanh này đâu có dễ dàng để cho người khống chế? Người thử mở bọc, đưa mật chiếu của Lưu hậu ra mà coi. Người sẽ thấy một kỳ quan.
        Chu An-Bình nghe Đỗ Lệ-Thanh nói, chân tay y bủn rủn ra. Y định nhận tội, rồi cười trừ cho qua. Nhưng dù sao, y cũng là đệ tử Hồng-thiết giáo, xảo quyệt, ăn cháo đái bát, lưu manh vô tận.
        Y nghĩ thầm:
        - Ta cứ chối biệt vụ chiếu chỉ của Lưu hậu cho xong.
        Nghĩ vậy y cười khành khạch:
        - Sư tỷ lầm rồi. Hôm ấy, vì thấy có người của Hồng-hương thiếu niên phục gần đó, nên đệ bịa ra truyện chiếu chỉ của Lưu hậu để dọa chúng, chứ làm gì có truyện đó.
        Đỗ Lệ-Thanh nổi giận:
        - Mi còn chối ư? Trong khi mi đi trên thuyền với bọn Đại-lý. Khu-mật viện Đại-Việt cho người lên thuyền chúng trộm hết thư tín, giấy tờ, tài liệu. Trong đó có cả phép chế Chu-sa phấn độc, mà bản bang mới tìm ra, thay thế Chu-sa độc chưởng.
        Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nghe Chu An-Bình, Đỗ Lệ-Thanh đối đáp, hai người tỉnh ngộ:
        - Hôm gặp Đỗ phu nhân, mình thấy bà chỉ biết xử dụng Chu-sa ngũ độc chưởng. Sau tự nhiên thấy bà biết phóng độc phấn như bọn Chu An-Bình, mình không thắc mắc gì. Thì ra hôm đệ tử Thiên-trường trộm được tài liệu, thư tín trong thuyền Đại-lý, Thanh-Mai thấy có tập chép kỷ yếu về bang Nhật-hồ Trung-nguyên, trao cho Đỗ phu nhân. Đỗ phu nhân theo đó chế ra phấn độc.
        Mụ móc trong bọc ống trúc nhỏ, rồi mở nắp, kéo một tờ giấy, miệng cười khành khạch:
        - Cái này là cái gì đây.
        Chu An-Bình nhận ra tờ chiếu của Lưu hậu, y đánh trống lảng:
        - Chúng ta đều học Hồng-thiết kinh. Hồng-thiết kinh dạy rằng: Lật lừa, xảo trá, nói rồi chối, giết cha mẹ, hại thầy bạn... thuộc bản chất của giáo chúng mà! Sư tỷ quên sao? Sư tỷ ơi! Sư tỷ hãy vì bản bang, trao Hồng-thiết tâm pháp cho tiểu đệ, đem về trình đại ca, hầu làm rạng danh bản bang.
        Đỗ Lệ-Thanh lắc đầu:
        - Ta bị giam hơn mười năm, nhục nhã có thừa. Sau nhờ Thân thế tử cùng công chúa Bình-Dương cứu ta ra. Hai vị lại dùng lễ đối đãi với ta bằng tất cả tấm lòng thương mến, kính yêu. Ta... ta đã quyết tâm theo người đến chết. Sư đệ! Người về nói với Đặng đại ca rằng Đỗ Lệ-Thanh chết rồi. Nay được tái sinh, làm con dân họ Thân, họ Lý. Ta nguyện không làm lợi cho bản bang, cũng không làm hại bản bang. Thôi, người đi đi.
        Lời nói của Đỗ Lệ-Thanh làm Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cùng cảm động:
        - Đỗ phu nhân thực là người trung hậu, không phụ lòng chúng ta trọng đãi bấy lâu.
        Bỗng có tiếng cười ha hả, rồi bốn phía xuất hiện bốn người, quần áo vàng, trắng, đen, xanh, vây Đỗ Lệ-Thanh vào giữa. Đỗ Lệ-Thanh hơi chột dạ, song mụ vẫn cương quyết:
        - Hay lắm, Chu sư đệ, thì ra người là một trong ngũ vị sứ giả bản bang. Từ hôm mới gặp người, ta thấy người luôn mặc quần áo mầu đỏ, ta tưởng chẳng qua sự thường. Nào ngờ người lên tới chức Nam-phương sứ giả. Hay lắm, Ngũ-sứ cứ tấn công đi. Ta há sợ sao?
        Người mặc quần áo vàng cười nhạt:
        - Đỗ sư muội, bất cứ người nào chống lại lệnh bang chủ đều bị xử tử hình. Từ nãy đến giờ, Chu sư đệ truyền lệnh của bang chủ, sư muội không những không tuân, còn nói lời mạt sát vô lễ. Song nghĩ tình sư muội là con gái bang chủ tiền nhiệm, chúng ta có chỗ châm trước. Sư muội mau đem Hồng-thiết tâm pháp trao cho chúng ta.
        Đỗ Lệ-Thanh vẫn bướng:
        - Ngũ sứ muốn, cứ xuất chiêu. Các người có giỏi, hãy giết ra đi. Ta chết rồi, vĩnh viễn không bao giờ các người tìm ra Hồng-thiết tâm pháp nữa.
        Trung-ương sứ giả tức người mặc quần áo vàng cười nhạt:
        - Điều đó đâu có khó gì? Nam-phương sứ giả Chu hiền đệ hãy lĩnh giáo võ công của Đỗ sư muội đi!
        Suốt thời gian qua, Thiệu-Thái sống cạnh Đỗ Lệ-Thanh. Trên xưng hô, một bên là chủ, một bên là tớ. Trên thực tế, chàng đối xử với bà như một người cô, người dì. Bà chăm sóc chàng từng ly từng tý. Bà lại cố vấn cho chàng với Mỹ-Linh. Bây giờ thấy bà bị năm người uy hiếp, chàng định nhảy ra đánh đuổi chúng đi. Nhưng Mỹ-Linh ra hiệu bảo chàng cứ chờ xem sao đã.
        Chu An-Bình phóng chưởng tấn công Đỗ Lệ-Thanh. Chưởng của y cực kỳ hùng hậu. Mỹ-Linh kinh ngạc không ít, vì nàng đã thấy y đấu với hai nhà sư Trí-Nhật, Trí-Nguyệt, bản lĩnh của y tuy cao, nhưng không thể đạt tới trình độ này.
        Đỗ Lệ-Thanh lùi một bước, phóng ra chiêu Kình-ngư quá hải, trong Cửu-chân chưởng pháp. Mỹ-Linh thấy chưởng lực của bà tinh diệu, nàng khen thầm:
        - Đỗ phu nhân quả là thiên tài. Hôm nọ, mình thấy Tôn Đản dạy bà pho Thiết-kình phi chưởng, mình không chú ý lắm. Bây giờ nhìn bà xuất thủ thực không thua bất cứ đệ tử nào của bản môn.
        Chu An-Bình không biết tính chất khắc chế của chưởng Cửu-chân. Y tiến lên một bước, tăng sức mạnh cho chiêu thức của mình. Bình một tiếng. Đỗ Lệ-Thanh lui liền ba bước. Trong khi Chu An-Bình đứng nguyên. Trên nét mặt của y hiện ra vẻ kinh hãi. Trong khi Đỗ Lệ-Thanh phát chiêu ra tay trái, chuyển sang chiêu Đông-hải lưu phong của phái Đông-a do Tự-Mai dạy bà.
        Chu An-Bình thấy chiêu đầu của Đỗ Lệ-Thanh hung dữ, khắc chế với chiêu số, cùng nội công của y. Y chưa hết kinh hoàng, thì chiêu thứ nhì đã ập tới. Y tưởng đâu chiêu này cũng như chiêu trước. Y vội xuất Chu-sa độc chưởng phản công. Chưởng của y phát ra có mùi hôi tanh khủng khiếp. Hai chưởng chạm nhau bình một tiếng. Đỗ Lệ-Thanh vẫn lùi hai bước để bảo vệ thế tấn. Trong khi Chu An-Bình kinh hãi tự hỏi:
        - Chiêu vừa rồi là chiêu gì, mà kình lực như có như không. Độc công của mình cao hơn mụ nhiều, mà dường như mụ không hề hấn gì. Trong khi tay mình cảm thấy nặng chĩu. Kỳ thực?
        Trong khi y tần ngần, Lệ-Thanh tấn công tiếp bằng hai chiêu Cửu-chân, khiến Chu An-Bình phải lùi liền hai bước, tránh né, rồi y trả lại bằng hai chiêu Chu-sa độc chưởng cực kỳ hùng hậu. Đỗ Lệ-Thanh xuất hai chiêu Phong hồi hải để rồi chuyển sang chiêu Cuồng phong lộ lãng cũng của phái Đông-a. Sau khi hai chưởng giao nhau, tay Chu An-Bình càng thêm nặng chĩu.
        Mỹ-Linh nói thầm vào tai Thiệu-Thái:
        - Chỉ một chiêu nữa, tên An-Bình ắt lạc bại.
        - Tại sao?
        - Đỗ phu nhân áp dụng phương pháp của sư bá Trần Tự-An, đẩy chất độc về người y.
        Đến đây Chu An-Bình đánh ra một chưởng với tất cả bình sinh công lực. Trái với những chiêu trước, Đỗ Lệ-Thanh lùi lại. Lần này bà tiến lên ba bước, đẩy cả hai chưởng về trước, đó là chiêu Đông ba hợp bích của phái Đông-a. Vù một tiếng, bốn chưởng chạm nhau. Đỗ Lệ-Thanh bắn vọt lên không. Ở trên không, bà lộn liền ba vòng, rồi đáp xuống an nhàn. Trong Khi An-Bình lảo đảo lùi lại.
        Trưng-ương sứ giả hỏi An-Bình:
        - Ngũ đệ! Cái gì vậy?
        An-Bình im lặng không trả lời. Vì sau chiêu vừa rồi, y thấy trong ngực như nghẹn thở. Y cố nín hơi. Song chỉ được một vài khắc, y oẹ một tiếng, miệng phun máu xối xả. Biết sự bất ổn, y ngồi xuống xếp chân, nghiến răng vận công.
        Tây-phương sứ giả, tức gã áo trắng, tiến đến bắt mạch cho An-Bình. Mặt y tỏ ra nét kinh sợ. Y hất hàm hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
        - Đỗ sư muội! Người sang Giao-chỉ, học võ công tà môn hại huynh đệ trong bang ư?
        Đỗ Lệ-Thanh cười nhạt:
        - Khi rời Trung-nguyên, ta mới chỉ là cô gái hai mươi tuổi. Võ công, nội lực đều tầm thường. Vì thế trong khi ở Đại-Việt ta phải học thêm võ công Lĩnh-Nam. Vừa rồi An-Bình dùng võ công thượng thừa trấn bang tấn công ta. Nếu ta dùng võ công bản bang chống lại, có khác gì trứng chọi với đá? Buộc lòng ta phải dùng võ công Lĩnh-Nam tự vệ.
        Thình lình An-Bình ối lên một tiếng, rồi y run run như người bị lạnh. Trung-ương sứ giả chạy lại hỏi:
        - Ngũ đệ! Sao vậy?
        - Bị trúng Chu-sa độc chưởng.
        Trưng-ương sứ giả nhăn mặt, tự nghĩ:
        - Bản lĩnh độc công Đỗ Lệ-Thanh không làm bao, sao y thị có thể truyền vào người An-Bình?
        Y hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
        - Đỗ muội! Người dùng độc chưởng đánh sứ giả của bang chủ, người có biết hậu quả sẽ như thế nào không?
        Đỗ Lệ-Thanh cười nhạt:
        - Trung-ương sứ giả của bản bang mà sao hồ đồ lắm vậy? Võ công Lĩnh-Nam, hầu hết đều đường đường chính chính. Họ làm gì biết độc chưởng mà dạy muội? Vừa rồi ngũ đệ dùng độc chưởng hại ta. Ta chống trả, rồi đẩy những gì ngũ đệ đánh ta vào người y mà thôi.
        Gã áo vàng bảo gã áo trắng:
        - Nhị đệ! Người lĩnh giáo mấy chiêu của Đỗ sư muội đi.
        Đỗ Lệ-Thanh nói mát:
        - Từ khi bản bang thành lập đến giờ, Ngũ-sứ được luyện độc công tới trình độ cao nhất, sờ vào tay bất cứ ai, người đó cũng mất mạng. Khi thừa lệnh bang chủ đi thanh trừng phản đồ, chỉ một chiêu, phản đồ mất mạng. Thế mà sao bây giờ Ngũ-sứ lại đau đớn thế kia? Phải chăng giáo chủ không còn xứng đáng nữa?
        Gã áo trắng không nói không rằng, y phát chưởng tấn công. Mỹ-Linh nhận ra chưởng của y là Võ-đang chưởng. Nàng nhủ thầm:
        - Trong các môn phái Trung-nguyên, võ công Võ-đang thiên về âm nhu, lấy Dịch-kinh làm căn bản, biến hoá khôn lường. Không biết Đỗ phu nhân có chống lại được không?
        Đỗ Lệ-Thanh thấy chưởng của y chưa tới, mà bà muốn ngộp thở. Bà phát chiêu Phục-ngưu thần chưởng, mà Bảo-Hoà dạy bà. Bình một tiếng, người bà bay vọt về sau đến hơn trượng. Toàn thân bà như tê dại.
        Tây-phương sứ giả như không muốn ra tay vội. Y đứng chờ cho Đỗ Lệ-Thanh phục hồi công lực rồi mới đánh tiếp.
        Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nhìn nhau, như cùng muốn nói:
        - Công lực tên này không thua Đại-Việt ngũ long làm bao.
        Đỗ Lệ-Thanh từ từ đứng dậy. Mụ biết muôn ngàn lần mình không phải đối thủ của đệ nhị sứ giả bản bang. Mụ cười nhạt:
        - Tây phương sứ giả xuất thân nhân vật thứ nhì sau chưởng môn Võ-đang có khác, công lực quả tuyệt vời. Nhưng, ta nhất định không khai bí quyết luyện Hồng-thiết mật công. Thử xem người có giết được ta không?
        Tây-phương sứ giả cười nhạt:
        - Sư muội! Sư muội không khai, ta cũng chẳng ép. Ta mời sư muội theo chúng ta đến ra mắt Đặng bang chủ một lần.
        - Ta không đi.
        Tây-phương sứ giả tung ra một cái gói. Gói là tấm lụa. Lạ thay tấm lục cuộn tròn Đỗ Lệ-Thanh lại. Y lại ném ra sợi dây trong tay . Sợi dây cuốn tròn Đỗ Lệ-Thanh. Y giật tay một cái, Đỗ Lệ-Thanh bay bổng lên cao. Y cười:
        - Ta bọc sư muội bằng vải nhung thế này chắc không ai phản đối.
        Thình lình có tiếng nói ngay bên cạnh:
        - Ta phản đối!
        Rồi một người cầm cái cần câu vung lên veo véo. Sợi dây cuốn Đỗ Lệ-Thanh đứt rời ra. Mụ rơi từ tay Tây-phương sứ giả xuống đất. Trong khi đó cần câu rung liên tiếp, cái phao đập vun vút vào người Tây-phương sứ giả, khiến y phải nhảy lùi lại.
        Bốn người đồng xuất hiện đứng xung quanh Đỗ Lệ-Thanh. Họ chính là bốn ngư nhân.
        Trung-ương sứ giả nạt lớn:
        - Bốn tên ôn vật kia! Suốt mấy hôm nay, bọn mi phá chúng ta không biết bao nhiêu mà kể. Hôm nay ta cho bọn mi về chầu ông bà ông vải.
        Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cho đến Ngũ-sứ, Ngô Cẩm-Thi đều giật mình kinh hãi, vì bản lĩnh họ đâu có tầm thường, mà bốn ngư nhân đến hồi nào, họ không khám phá ra. Mỹ-Linh nhìn lên trời: Đôi chim ưng vẫn bay lững lờ, mà sao bốn ngư nhân xuất hiện, chúng không báo cho nàng biết?
        Đỗ Lệ-Thanh đứng dậy, mụ đã phục hồi công lực.
        Ngư nhân mũ đỏ cười khành khạch:
        - Năm vị là Ngũ-sứ của bang Nhật-hồ Trung-quốc, mà sao hồ đồ quá vậy? Anh em tại hạ dù gan to bằng trời cũng không dám vuốt râu hùm. Chẳng hay anh em tại hạ đã làm gì để Ngũ-sứ phải nổi giận?
        Bắc-phương sứ giả chỉ mặt ngư nhân mũ trắng:
        - Cách đây ba ngày, ta đang ngồi ăn uống ở tửu lầu Thái-bình, thì tên khốn kiếp kia vờ đến hỏi thăm đường, rồi thừa cơ bỏ mấy miếng cứt trâu vào bát canh nấu nấm hương. Sau đó y bỏ đi. Ta... ta vô tình gắp lên ăn, hôi thối chịu không được.
        Ngư nhân mũ trắng cười khúc khích:
        - Bản lĩnh Bắc-phương sứ giả cao thâm biết chừng nào, mà tôi bỏ phân trâu vào bát canh lại không biết, thực một kỳ tích thiên hạ. Tôi nghĩ, có lẽ người thích ăn phân trâu để luyện độc công e đúng hơn.
        Cả bốn ngư nhân đều cười ồ lên. Bắc-phương sứ giả chỉ vào ngư nhân mũ xanh:
        - Ta biết bọn oắt con nhà mi ắt có người lớn đứng sau nên chưa muốn ra tay. Tiếp theo Đông-phương sứ giả, tứ đệ của ta trong khi cỡi ngựa vào trấn, chính mi vờ chen lấn, rồi vuốt tay vào mông ngựa, sau đó bỏ đi. Con ngựa của tứ đệ thình lình phi nước đại. Tứ đệ giật cương thế nào cũng không được. Con ngựa phi như điên như khùng, cuối cùng kiệt lực, nó ngã lăn ra. Tứ đệ xem lại, thì ra mi đã đâm vào mông nó một cái kim. Đầu kim tẩm thuốc độc, khiến con ngựa ngứa quá, chịu không nổi nên phi nước đại.
        Bốn ngư nhân cười ồ lên. Ngư nhân mũ xanh thè lưỡi ra nhát:
        - Sứ giả nói lạ. Luật vua Hùng, vua Trưng định rằng, buộc tội phải có chứng. Bản lĩnh Đông-phương sứ giả biết dường nào, mà tôi châm kim vào đít ngựa, đến nỗi không biết. Hỏi ai tin được nhỉ?
        Trung-ương sứ giả mặt hầm hầm chỉ ngư nhân mũ đen:
        - Tên khốn kiếp kia! Cách đây bốn ngày, ta đang ngồi ăn ở tửu lầu Đông-phong, mi mang đến tấm biển, cùng một chậu cúc cực lớn. Trên tấm biển có nhiều chữ kỳ dị, thách đố ai đọc được, mi sẽ biếu chậu cúc. Ta vô tình vì tính hiếu kỳ, đứng dậy quan sát cho kỹ. Không ngờ lúc ngồi xuống, thì trên ghế, ai đã để một miếng gỗ, với ba cái kim chổng ngược. Ta ngồi xuống, bị kim đâm đau thấu tâm can. Ta đoán chắc mi với tên để kim cùng bàn kế hại ta.
        Ngư nhân mũ đen cười khành khách:
        - Trời đất ôi! Oan ôi là oan. Tôi có ba đầu sáu tay đâu mà đi trêu vị chánh sứ của bang Nhật-hồ. Tôi quả có mang bảng, mang cúc đi thách thiên hạ thực. Còn ai bỏ kim vào ghế hại chánh sứ tôi nào biết.
        Tây-phương sứ giả bảo bốn ngư nhân:
        - Bọn mi muốn sống, đừng can thiệp vào truyện bản bang. Bằng không ta bất chấp dư luận lớn hiếp nhỏ, mà giết chúng bay ngay tại đây.
        Ngư nhân mũ đỏ cười lớn:
        - Tôi cũng muốn xa lánh truyện của quý bang, ngặt vì chúng tôi là con dân Đại-Việt, quyết không để cho ai giết người vô cớ trên đất Việt.
        Bắc-phương sứ giả quát lên:
        - Đây thuộc Quảng-Đông lộ, lãnh thổ Đại-Tống. Bọn man mọi Việt mi không có quyền gì cả.
        Ngư nhân mũ đỏ lắc đầu:
        - Ông sứ giả dốt bỏ mẹ đi ý. Vùng này trước thuộc Văn-lang, sau thuộc Âu-lạc, rồi Lĩnh-Nam. Thuận-Thiên hoàng đế kế tục tổ tiên, cai trị thiên hạ, thì đất này thuộc Đại-Việt.
        Trung-ương sứ giả đưa mắt cho Đông-phương sứ giả:
        - Sư đệ cứ ra tay đi.
        Gã áo xanh vung tay phát chưởng. Chưởng của y hùng hậu hơn Chu An-Bình nhiều. Ngư nhân mũ đỏ lạng người đi tránh. Không biết bằng cách nào, y xê dịch người ra sau địch thủ, rồi chĩa tay điểm đến véo một chỉ vào cổ Đông-phương sứ giả. Lạ thay, Đông-phương sứ giả trúng một chỉ nhẹ nhàng, mà người lảo đảo ngã xuống. Ngư nhân mũ đỏ vác Đông-phương sứ giả lao mình chạy. Bốn ngư nhân còn lại đồng tung lên một nắm bột trắng bay mịt mờ.
        Ba sứ giả Trung-ương, Tây-phương, Bắc-phương sợ phấn độc, vội vung chưởng gạt, cùng nhảy lên cao tránh đám bụi. Khi bọn y ra khỏi vòng bụi, bốn ngư nhân đã biến vào đêm tối.
        Trung-ương sứ giả hô lớn:
        - Nhị đệ ở đây canh giữ ngũ đệ, cùng Đỗ muội. Tam đệ cùng ta mau đuổi theo chúng.
        Hai người vọt mình theo bốn ngư nhân.



        <bài viết được chỉnh sửa lúc 23.01.2005 06:09:55 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 13.01.2005 18:47:55 (permalink)
          Hồi thứ tám mươi


          Duyên Việt, tình Hoa



          Tây-phương sứ giả hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
          - Sư muội! Sư muội hại ngũ đệ thế này, ta e lát nữa đây gặp bang chủ, tính mệnh sư muội khó bảo toàn.
          Đỗ Lệ-Thanh hừ một tiếng:
          - Y làm bang chủ ư? Bang chủ phải biết xử dụng thần công trấn môn giải độc cho hắn. Còn y không biết, thì đừng nên dơ cái xấu ra cho thiên hạ cười.
          Tây phương sứ giả trói Đỗ Lệ-Thanh lại, bỏ vào gốc cây gần đó. Y cười nhạt:
          - Sư muội! Người hãy tạm ngồi đây, chờ đại ca về, chúng ta sẽ đi gặp bang chủ.
          Đỗ Lệ-Thanh biết mình có chống cự cũng vô ích, vì bản lĩnh độc công cũng như công lực kém địch thủ khá xa. Thôi thì nhắm mắt đưa chân, đến đâu hay đến đó.
          Bà ngửa mặt lên nhìn trời, trong ánh trăng đêm, bà thấy đôi chim ưng bay lượn trên đầu, biết rằng chúng sẽ đưa Mỹ-Linh, Thiệu-Thái tới. Bà mừng thầm, trong lòng không còn coi Tây-phương sứ giả ra gì cả. Bà cười khành khạch:
          - Ai sợ gã Đặng Đại-Bằng, chứ ta, ta không coi y vào đâu cả. Mi cứ gọi y đến đây đi xem y làm gì được ta?
          Tây phương sứ giả định lên tiếng quát tháo Đỗ Lệ-Thanh, thì từ phía trước, có một bọn đông người đi tới. Tây-phương sứ giả bảo Chu An-Bình:
          - Ngũ đệ mau núp vào bụi cây kia.
          Nhanh nhẹn y nhét giẻ vào miệng Đỗ Lệ-Thanh.
          Dưới bóng trăng, Mỹ-Linh nhận ra toán người đi tới gồm Triệu Thành, Phạm Trọng-Yêm, Đông-Sơn lão nhân, Địch Thanh, Dư Tĩnh, Vương Duy-Chính, Lê Thiếu-Mai. Thoáng một cái bọn họ đã đến.
          Chu An-Bình cũng trông thấy đám người Triệu Thành. Y vận sức chịu đau. Nhưng dù nghiến răng, y cũng bật lên tiếng rên nho nhỏ.
          Nội công Minh-Thiên cực cao. Ông chau mày, lắng tai nghe, rồi chỉ vào bụi cây nói:
          - Dường như có ai đau đớn núp trong bụi này?
          Vương Duy-Chính chạy lại. Y thấy Chu-an-Bình đang run rẩy. Y quan sát một lát, rồi thò tay túm cổ áo nhắc lên đem ra ngoài ánh trăng. Dư Tĩnh nhìn Chu An-Bình, bật kêu lên:
          - Thì ra mi! Tại sao mi ở đây?
          Minh-Thiên, Triệu Thành đều nhận ra Chu An-Bình đã giúp đám Đại-lý phóng chất độc hại bọn y hôm đi thuyền từ Thiên-trường về Thăng-long. Sau bọn y phải nhờ tên Hoàng Văn cung cấp thuốc giải cho, mới sống được đến ngày nay.
          Chu An-Bình đau đớn quá, chân tay y run lẩy bẩy, hàm răng đánh vào nhau lộp cộp. Y không trả lời được.
          Thình lình Vương Duy-Chính cảm thấy mắt hoa đầu váng, y lảo đảo rồi ngã lăn ra.
          Minh-Thiên hô lên:
          - Người tên này đầy chất độc, mau tránh xa.
          Nhưng đã trễ, Đông-Sơn lão nhân, Địch Thanh, Dư Tĩnh cũng lảo đảo rồi ngã xuống. Minh-Thiên vội ôm Triệu Thành nhảy vọt ra xa Chu An-Bình. Vô tình ông đứng ngay trước Tây-phương sứ giả. Ông nói với Phạm Trọng-Yêm:
          - Sư điệt, việc này là thế nào?
          Mỹ-Linh, Thiệu-Thái núp nhìn rõ mồn một chính gã Tây-phương sứ giả phóng chất độc vào bọn Triệu Thành.
          Phạm Trọng-Yêm chạy lại bên Triệu Thành như che chở cho chủ:
          - Dường như có người phóng thuốc độc. Chứ không phải thuốc độc từ gã này truyền ra.
          Y nói đến đây, chính y với Minh-Thiên cũng lảo đảo. Minh-Thiên đã phát giác ra chỗ Tây-phương sứ giả. Ông phát một Kim-cương chưởng đánh vào người y. Y thấy chưởng lực hùng hậu, vội vận sức đỡ. Bình một tiếng, y bay bổng về phía sau, ngã lăn đi hai vòng, miệng ứa máu. Trong khi đó Minh-Thiên với Phạm Trọng-Yêm cũng ngã xuống, mê man.
          Lê Thiếu-Mai rút kiếm cầm tay, rồi chạy lại gần chỗ gã Tây-phương sứ giả nằm. Nàng lên tiếng hỏi:
          - Các hạ là ai? Đêm khuya đến đây làm gì? Tại sao lại phóng độc hại bọn ta?
          Tên Tây-phương sứ giả nằm bất động. Thiếu-Mai móc trong bọc ra hai viên Ma-tuý hoàn, nàng phóng vào người y. Bộp, bộp hai tiếng, y hoàn toàn bị tê liệt. Nàng phóng hai viên Ma-túy hoàn vào người Chu An-Bình. An-Bình đã bớt đau. Nàng hỏi y:
          - Tên áo trắng kia là ai? Tại sao y lại hại chúng ta? Mi thuộc đồng bọn với y, tất có thuốc giải. Mi mau đưa thuốc giải ra, bằng không ta cho mỗi tên một kiếm.
          An-Bình lắc đầu:
          - Chúng tôi chỉ biết phóng chất độc, mà không biết cách trị. Muốn trị phải yết kiến bang chủ.
          Triệu Thành đồ chừng An-Bình nói thực. Y hỏi Thiếu-Mai:
          - Làm sao bây giờ? Chúng ta phải về trấn điều động binh mã tới đây bảo vệ người thân của mình, rồi đi bắt tên bang chủ Nhật-hồ tra hỏi thuốc giải.
          Y rút thanh kiếm đeo trên lưng, trao cho Thiếu-Mai:
          - Cô nương cầm thanh kiếm này, gặp An-vũ sứ Quảng-Đông hoặc bất cứ tướng soái nào, bảo có lệnh cô-gia, phải đem quân tới ngay.
          Thiếu-Mai định lên đường, thì bốn phía, bốn ngư nhân tiến lại. Triệu Thành thấy bốn ngư nhân, y tươi mặt lên:
          - Năm thiếu niên này từ Đại-Việt mới sang đây hơn tháng nay. Theo sư phụ cũng như Vương-duy-Chính, võ công chúng thuộc chính phái, song không phân biệt được phái nào. Khi thì Đông-a, khi thì Tản-viên, khi thì Sài-sơn, khi thì Mê-linh. Chúng chỉ chọc một ngón tay khiến Dư Tĩnh tê liệt hơn hai giờ. Võ công như thế thực ta chưa từng thấy qua. Phạm Trọng-Yêm nói: Rõ ràng chúng sang đây mục đích chiếm kho tàng. Thế mà sao chúng lại phá phách đến kinh thế hãi tục, để lộ chân tướng cho ta biết. Mà thực lạ, chúng tìm những cao thủ của Liêu, Tây-hạ, Cao-ly cùng bang Nhật-hồ mà trêu chọc, gần như chỉ rõ cho Khu-mật viện biết chỗ ở của họ, mà tóm hết. Vì vậy không nên bắt chúng. Để chúng có lợi hơn. Không chừng chúng là người nhà cũng nên. Mới đây chúng bắt cóc hai trưởng lão Lạc-Long giáo Đại-Việt. Như vậy chúng thuộc lực lượng đối đầu với triều Lý. Võ công chúng rất cao, có lẽ ngang Địch Thanh. Ta có thể nhờ chúng giúp đỡ may ra qua cơn khó khăn này.
          Nghĩ vậy y nói:
          - Bốn vị huynh đệ. Suốt hơn tháng nay, các huynh đệ trêu ghẹo cô gia, phá phách Khúc-giang như thế cũng đủ rồi. Bây giờ cô-gia gặp nạn, mong các huynh đệ giúp một tay.
          Ngư nhân mũ trắng hỏi:
          - Bình-Nam vương gia có biết bọn tôi là ai không mà muốn chúng tôi cứu nạn?
          Triệu Thành là người có hùng tâm, trí lự tuyệt vời bậc nhất triều Tống. Y hiểu mấy ngư
          nhân hơn ai hết:
          - Cô gia không biết chân tướng bốn vị. Song cô gia đoán các vị rất trẻ, giả trang làm người lớn, đùa cợt chúng nhân cho vui, chứ không hại ai. Hành sự bốn vị đường đường chính chính. Khắp trấn này ai cũng khen. Bốn huynh đệ phá cô gia, mà không ác ý, nên cô-gia biết bốn huynh đệ ít ra không phải kẻ thù của cô-gia.
          Ngư nhân mũ đen hỏi:
          - Sao Vương-gia biết chúng tôi còn trẻ?
          - Trời ơi! Mấy huynh đệ ơi! Phàm luyện võ tới trình độ như huynh đệ, cơ thể phải bình thường, không vẹo vọ, thiên lệch. Võ công bốn huynh đệ cực cao thâm, mà chân dài thoòng, so với thân hình không cân đối, ắt bốn huynh đệ làm đôi guốc cao, giả trang làm người lớn.
          Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nghe Triệu Thành nói, trong lòng than thầm:
          - Kinh nghiệm giang hồ mình kém Triệu Thành xa. Ừ, mình cứ tự hỏi tại sao bốn ngư nhân chân dài quá, không tương xứng với thân hình. Thì ra chúng là trẻ con. Nhưng xét trong toàn cõi Hoa-Việt, đám thiếu niên tài trí như bốn ngư nhân này e không nhiều.
          Triệu Thành tiếp:
          - Các vị có năm người. Còn người nữa đâu rồi?
          Ngư nhân mũ đỏ hỏi:
          - Sao Vương-gia biết chúng tối có năm người?
          - Sao ư? Các vị lớn nhỏ khác nhau. Trang phục cùng một loại, chỉ khác nhau có mầu mũ mà thôi. Tôi chắc các vị phải trông coi cái gì, thành ra khi phá phách thiên hạ chỉ có bốn, một ở nhà coi nhà. Vì vậy khắp trấn này ai cũng tưởng các vị có bốn.
          Ngư nhân mũ đỏ chỉ Thiếu-Mai:
          - Chúng tôi nuôi mấy con cọp, chúng đói quá, nên đi kiếm thịt cho chúng ăn. Bây giờ gặp Vương-gia với Lê cô nương, chúng tôi xin mời hai vị theo chúng tôi về cho cọp ăn.
          Miệng nói, y lạng người tới chụp Thiếu-Mai, trong khi ngư nhân mũ trắng tấn công Triệu Thành. Võ công Thiếu-Mai cao hơn Triệu Thành một bậc. Nàng lùi lại hai bước, xỉa tay vào mặt ngư nhân mũ đỏ. Ngư nhân mũ đỏ chĩa ngón tay vào huyệt Khúc-trì của Thiếu-Mai. Véo một tiếng, tay Thiếu-Mai trúng chỉ. Nàng lảo đảo, ngã ngồi xuống.
          Ngư nhân mũ trắng với Triệu Thành đấu được tới hiệp thứ bẩy, y bị trúng một quyền vào huyệt Trung-đô ở bắp chân. Y ngã ngồi xuống cạnh Thiếu-Mai.
          Ngư nhân mũ đỏ để tay lên miệng hú một tiếng dài liên miên bất tuyệt. Lát sau, có tiếng sột soạt, rồi một con hùm xám phi lại. Nhìn con hùm xám, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái suýt bật lên tiếng kêu lớn. Vì con hùm xám chính là con Sơn-Sơn của Bảo-Hoà.
          Thiệu-Thái nói nhỏ vào tai Mỹ-Linh:
          - Con Sơn-Sơn rất khó tính, nếu không có lệnh của Bảo-Hoà, không ai sai được nó. Vậy bốn ngư nhân ắt người thân với ta. Song chúng là ai? Tại sao chúng đều khàn tiếng như người già?
          Ngư nhân mũ đen hỏi Thiếu-Mai, Triệu-Thành:
          - Con Sơn-Sơn không thể xơi hai vị một lúc. Trong hai vị, phải có một vị chết. Một vị sống. Vậy vị nào tình nguyện cho nó xơi thịt đây?
          Triệu Thành xuống nước:
          - Tứ vị huynh đệ. Các vị muốn có thịt cho cọp ăn, sao không dùng mấy người kia?
          Tay y chỉ vào Tây-phương sứ giả với Chu-an-Bình.
          Ngư nhân mũ đen lắc đầu:
          - Bọn này thuộc bang Nhật-Hồ Trung-quốc, trong người đầy chất độc, con hùm này ăn vào ắt ngộ độc mà chết. Cũng như những người của các vị đều trúng độc cả. Ở đây chỉ có hai vị không trúng độc mà thôi.
          Triệu Thành năn nỉ:
          - Vậy thế này, các vị móc túi cô gia, lấy ít nén vàng, đem vào trấn mua mấy con trâu cho cọp ăn.
          Ngư nhân mũ trắng lắc đầu:
          - Thịt trâu sao ngon bằng thịt người. Thôi, Vương-gia không muốn chết thì thôi, để tôi cho con hùm ăn thịt cô nương kia vậy.
          Y hú lên một tiếng, con hùm tiến lại phía Thiếu-Mai. Triệu Thành la lớn:
          - Khoan! Cô-gia tình nguyện cho cọp ăn thịt, với điều kiện các vị không được làm khó dễ vị cô nương kia.
          Ngư nhân mũ trắng gật đầu:
          - Thế thì được.
          Y hú hai tiếng, tay chỉ vào Triệu Thành. Con hùm xám chạy lại bên Triệu Thành, nó gầm gừ mấy tiếng, rồi dùng hai chân cào cào lên người. Được cái nó cào nhẹ, nên Thành chưa bị thương. Miệng nó liếm lên người y.
          Triệu Thành ớn da gà, chân tay run run, miệng đánh vào nhau lập cập. Con hùm cứ ngửi ngửi, rồi thè lưỡi liếm mặt y. Y không còn hồn vía nào nữa.
          Thiếu-Mai la lớn:
          - Bốn người kia! Chúng ta với người không thù, không oán. Hà cớ bốn người muốn cho hùm ăn thịt chúng ta. Ta... ta yêu cầu người cho hùm ăn thịt ta, để Triệu vương gia sống.
          Ngư nhân mũ đỏ cười lớn:
          - Ta hỏi:
          - Ai muốn cho hùm ăn thịt?
          Triệu Thành, Thiếu-Mai cùng hô lớn:
          - Tôi!
          Ngư nhân mũ xanh bàn:
          - Này! Chúng ta chỉ ghét bọn ác độc, thích gây chiến chia rẽ tình Hoa-Việt. Mà đôi trai gái này, một Hoa, một Việt sẵn sàng hy sinh cho nhau. Chúng ta chẳng nên cho hùm ăn thịt. Nếu cho hùm ăn thịt họ, chẳng hoá ra chúng ta cũng ác độc như bọn Mã Viện xưa sao?
          Ngư nhân mũ đen cười lên hô hố:
          - Phải đấy! Này các bạn. Tại sao hai người này lại chịu hy sinh cho nhau? Lạ nhỉ, họ chẳng phải anh em, bà con.
          Ngư nhân mũ xanh như tự nói một mình:
          - Dường như họ là tình nhân thì phải?
          Y hỏi Triệu Thành:
          - Có phải hai vị là tình nhân của nhau không?
          Triệu Thành gật đầu.
          Ngư nhân mũ đỏ hỏi Triệu Thành:
          - Bình-Nam vương-gia! Nếu anh em tôi tha cho Vương-gia cùng cô gái đẹp này. Vương gia có cưới cô về làm vợ không?
          Triệu Thành lắc đầu:
          - Điều đó không bao giờ xẩy ra. Lê cô nương là thiếu nữ tài kiêm văn võ, lai có bàn tay tiên cứu trị muôn người. Ta... ta một Hán tử thô lỗ, tuổi gấp đôi cô... muôn ngàn lần ta không xứng.
          Ngư nhân mũ đỏ hỏi:
          - Giả như Lê cô nương đồng ý! Vương gia có cưới cô không?
          Triệu Thành liếc đôi mắt về phía Thiếu-Mai:
          - Đó là điều tôi mơ mà không bao giờ thành.
          Ngư nhân mũ trắng hỏi:
          - Triệu vương gia! Đằng nào vương gia với Lê cô nương cũng vào bụng hùm. Vậy vương gia hãy nói thực đi: Tại Biện-kinh vương gia không thiếu gì những tiểu thư khuê các, quận chúa xinh đẹp. Tại sao khi sang Đại-Việt vương gia lại say mê ái nữ của đại hiệp Tự-An với Hồng-Sơn đại phu?
          Triệu Thành xuất thần nhìn trăng thở dài:
          - Huynh đệ còn trẻ, khó có thể hiểu biết được ta. Tuy lát nữa đây ta vào bụng hổ, ta vẫn nói thực với huynh đệ, có sao đâu.
          Giọng y trở thành nhu hoài:
          - Ta sinh ra làm con một vị Hoàng-đế văn võ kiêm toàn.
          Ngư nhân mũ đỏ cắt lời y:
          - Phải rồi! Không văn võ kiêm toàn sao được, bởi khi người băng hà được tôn:
          Thái-tông, thần công, thánh đức, văn võ hoàng đế.
          Có điều người bị bọn biên cương đại thần sàm tấu, đem quân sang Đại-Việt, đến nỗi hơn hai mươi vạn quân bị vùi thân ở Chi-lăng. Cá trên sông Bạch-đằng hưởng trên mười vạn khối thịt.
          Triệu Thành nghe ngư nhân áo đỏ nói. Y không giận, trong lòng thầm nghĩ:
          - Ngôn ngữ của thiếu niên này rõ ràng không thù oán triều Tống mình như bọn Trần Tự-Mai, Tôn Đản. Nếu là Tự-Mai, Tôn Đản, chúng ắt mỉa mai phụ hoàng mình thiếu minh mẫn, thua trận nhục nhã. Đây y đổ cho biên cương đại thần, như vậy y không có ác ý. Không ác ý sao y lại cho hổ ăn thịt mình? Dù sắp chết mình cũng phải dò la tông tích y mới được.
          Nghĩ vậy y tiếp:
          - Tất cả con trai của phụ hoàng đều huấn luyện theo một khuôn khổ: Mười hai tuổi được phong vương, cho mở phủ đệ riêng, cưới cho mấy phi tần xinh đẹp. Riêng ta...
          Ngư nhân mũ đỏ cười:
          - Riêng Vương-gia không thế. Vương-gia không chịu cưới vợ, vì vậy vẫn ở trong cung cho đến hai mươi tuổi. Vương-gia là con thứ tám, nên có tên Nhị thập bát thái bảo.
          - Đúng thế. Ta thấy phụ-hoàng cưới vợ cho các anh, em ta... mà cho đến lúc cưới mới biết mặt. Họ đều thuộc khuê nữ, nhan sắc, nhưng họ chỉ biết quỳ lậy, dâng hiến. Chồng nói sao, vợ nghe vậy, vâng dạ. Ta không muốn thế. Ta muốn như Trịnh Ân, Trịnh thúc thúc, có vương phi Đào Tam-Xuân, cùng nhau ruổi ngựa, như đôi chim liền cánh. Tới năm hai mươi tuổi , ta vẫn không tìm ra người con gái như vậy, đành tuân lệnh phụ hoàng, cưới một con gái đại thần làm tỳ thiếp. Nàng phục tùng ta tuyệt đối, hầu hạ như nữ tỳ. Ta hoàn toàn không có hạnh phúc.
          Ngư nhân mũ đỏ cười lớn:
          - Cho đến khi sang Đại-Việt, Vương-gia gặp tiểu thư Thanh-Mai, Thiếu-Mai. Hai người không những chống đối vương gia bằng ngôn từ, mà còn phóng chưởng đánh Vương-gia. Vì vậy Vương-gia mới say mê, có đúng không?
          - Gần như vậy. Người đầu tiên ta gặp là Thanh-Mai. Nàng đẹp lồ lộ như hoa hải đường, kiến thức siêu phàm, nhất tâm nhất chí lo cho đại sự tộc Việt. Vì vậy ta ước mơ, rồi cảm nàng.
          - Cảm! Vương gia cảm nàng, mà để cho bọn tùy tùng Tung-sơn tam kiệt bắt nàng bỏ vào nhà ngục, rồi lại bắt giam dưới hầm đá, trói như trói trộm, rong đi khắp nơi.
          Triệu Thành thở dài:
          - Huynh đệ nhớ dùm, ta sang Đại-Việt vì sự nghiệp nghìn năm của nhà Đại-Tống. Cá nhân Triệu Thành có thể vì Trần cô nương mà chết. Nhưng vì sự nghiệp Đại-Tống ta có thể hy sinh tính mạng ta, cũng như Trần cô nương.
          Ngư nhân mũ đỏ gật đầu:
          - Ngôn từ của Vương-gia, đúng là ngôn từ của vua Quang-Vũ nhà Hán. Cũng vì lẽ đó, Vương-gia cho bắt giam Lê tiểu thư dưới hầm chiến hạm.
          - Đúng vậy! Để ta tiếp về vụ Trần cô nương. Lúc đầu ta mơ ước nàng. Về sau ta thấy nàng là ý trung nhân của một anh hùng tộc Việt. Từ đó ta bỏ ý định theo đuổi.
          - Vương-gia khen Khai-Quốc vương anh hùng. Tại sao Vương-gia còn nhục mạ người ở đại hội Lộc-hà?
          - Anh hùng mới biết anh hùng. Vì ta biết y anh hùng, nên phải tấn công y, chẳng qua cũng vì sự nghiệp của tổ tiên.
          - Thế rồi khi Vương-gia gặp Lê cô nương ở Vạn-thảo sơn trang, vương say đắm liền?
          - Không! Lần đầu tiên ta gặp Lê tiểu thư khi đang trên đường từ Vạn-hoa sơn trang bí mật theo dõi yểm hộ bọn Tung-sơn tam kiệt. Lê tiểu thư đánh bại Tung-sơn tam kiệt, ta thấy hết. Sau tiểu thư chất vấn ta ở Vạn-thảo sơn trang. Bấy giờ ta nhủ thầm: Nếu như chết ba lần để được nàng ta cũng mãn nguyện.
          - Chà vương gia đa tình quá nhỉ.
          - Bây giờ người hãy cho hùm ăn thịt ta đi. Ta chỉ xin người một điều.
          - Điều gì?
          - Sau khi ta chết rồi, người không được làm khó dễ Lê tiểu thư.
          Ngư nhân mũ trắng hỏi các bạn:
          - Cho hùm ăn thịt ai bây giờ?
          Ngư nhân mũ xanh lắc đầu:
          - Tao không ưa Triệu vương-gia, vì y chủ tâm xâm chiếm Đại-Việt. Thế nhưng y là đấng anh hùng, vì quốc sự mà làm điều đó. Bây giờ, y lại vì Lê tiểu thư, xin hy sinh cho nàng sống. Tao nghĩ chúng mình chẳng nên cho hùm ăn thịt Vương-gia.
          Ngư nhân mũ đỏ gật đầu:
          - Người Hoa, người Việt không thù ghét nhau. Thù ghét nhau chẳng qua ai cũng vì nước người ấy. Tình yêu không biên giới. Nếu ta cho hùm ăn thịt Vương-gia, chẳng hoá ra ta thuộc loại ác độc như Mã Viện, như Lưu hậu ư? Tao nghĩ thôi quách, mình đi mua lợn cho hùm ăn là hơn.
          Ngư nhân mũ trắng tiến tới, một tay xách Thiếu-Mai, một tay xích Triệu Thành chạy sang bên kia suối. Y đặt Triệu Thành dựa lưng vào phiến đá lớn, để Thiếu-Mai ngồi vào lòng Thành:
          - Chân, tay các vị bị anh em tại hạ làm tê liệt. Chỉ nội trong một giờ lại hoạt động như thường. Nếu bây giờ anh em tại hạ trị cho các vị khỏi tê chân. Các vị sẽ e thẹn. Chi bằng để hai vị tự do với nhau như thế này mới tuyệt. Anh em tại hạ đi gọi binh sĩ đến cho các vị. Chúc các vị hạnh phúc.
          Bốn người hú lên một tiếng, rồi vọt mình biến vào đêm tối.
          Bốn ngư nhân đi rồi, Thiếu-Mai mới thấy ngượng ngùng. Nàng muốn rời khỏi lòng Triệu Thành, ngặt vì chây tay tê liệt. Nàng nói với Thành:
          - Vương gia! Có cách nào... cách nào không chứ như thế này coi sao được.
          Tuy miệng nói thế, nhưng lần đầu tiên da thịt nàng chạm vào da thịt một thanh niên, cùng mùi khét khét của mồ hôi thanh niên nhập vào mũi nàng. Nàng muốn nằm im như vậy.
          Triệu Thành tuy đã có phi tần, thứ thiếp, nhưng họ chỉ là những kẻ dâng hiến, thực sự không chút thương yêu nào. Lần đầu tiên y thương yêu Thiếu-Mai, rồi trên đường từ Thăng-long sang Hổ-môn, hai người đi trên chiến thuyền, ngày đêm bên nhau. Thiếu-Mai càng tỏ ra thông thái, xa lánh, Thành càng say đắm đến mê mệt.
          Sau khi Thành diễn vở kịch cho Phạm Trọng-Yêm bắt cóc lên bờ, chiến thuyền vào cửa biển Hổ-môn, rồi lên bộ. Y bí mật sai người tìm Thiếu-Mai đến Khúc-giang, để cùng nhau bàn đại sự. Thiếu-Mai dường như cảm động trước thịnh tình của Thành. Nhưng Thành vẫn chưa tin tưởng mình thành công. Bây giờ, nhờ bốn ngư nhân, y mới biết Thiếu-Mai quả thương yêu y vô bờ bến.
          Triệu Thành nói với Thiếu-Mai:
          - Lê muội! Trọn đời Triệu Thành này không bao giờ quên được đêm nay. Cô nương... cô nương đã hy sinh chịu hùm ăn thịt, để cho huynh sống. Huynh nghĩ, dù chết đến ba lần cũng không xứng đáng với Lê muội.
          Thiếu-Mai thấy hai tay Thành ôm chặt lấy mình, nàng muốn cựa hầu rời khỏi vòng tay y mà không được. Nàng mơ mơ tỉnh tỉnh như trong giấc mộng:
          - Rõ ràng bốn ngư nhân này trêu cợt ta đây. Họ tính toán rất kỹ, nên làm tê hai chân Thành, để tay chàng hoạt động được. Còn ta, chúng làm tê cả hai tay. Việc dọa đem ta với chàng cho cọp ăn, chẳng qua để chúng ta tự thú nhận yêu nhau mà thôi.
          Thiếu-Mai thở dài:
          - Đường đi của chúng mình vừa xa, vừa gập ghềnh. Phụ thân em hận thù người Hoa đến xương đến tủy. Vì vậy người không nhận trị bệnh cho người Hoa. Như hôm đại ca tới sơn trang. Giả như đại ca tỏ thân thiện với họ Lý, không chừng người khởi binh. Chỉ vì đại ca tỏ ra sang Đại-Việt vì hưng diệt, kế tuyệt, nên phụ thân muội mới bỏ ý định khởi binh. Sau này, nhân thấy Khai-Quốc vương anh hùng, người tuyên bố truyền ngôi cho.
          - Chỉ vì biên cương trọng thần ham lập công, chúng tâu về triều láo lếu, thành ra khi mới sang Đại-Việt, huynh có thái độ mục hạ vô nhân. Nào cho Lý Tự giết người giữa lễ Lệ-Hải bà vương. Nào dùng độc dược hại Khai-Quốc vương. Nghĩ lại thái độ hống hách trong đại hội Lộc-hà huynh cảm thấy rùng mình. Bây giờ không biết huynh phải làm gì?
          - Khó thực. Như huynh thấy, nhà Đại-Tống của huynh, cực kỳ trọng Nho. Đạo Nho đặt chữ hiếu tối quan trọng. Phụ thân muội thù ghét người Hoa. Trong khi muội cùng huynh thân mật ở đây, như vậy muội đã trái lời phụ thân rồi. Huynh phải làm gì, để chuộc lại lỗi lầm trước chứ?
          - Muội bảo sao, huynh làm vậy.
          - Đại ca sang đất Việt hống hách như vậy. Muốn chuộc lỗi, chỉ cần đại ca làm một vài việc tiêu biểu, với tinh thần từ bi hỷ xả của Phật-giáo, người Việt mau sẽ quên đi lỗi lầm cũ.
          - Được, điều này huynh phải hỏi Phạm Trọng-Yêm xem y định thế nào?
          Bỗng Thiếu-Mai sụyt một tiếng, nói nhỏ:
          - Có nhiều tiếng chân người đang đi lại phía mình.
          Dưới ánh trăng, hai người thấy rõ một toán đông người đang đi từ khe suối băng qua chỗ bọn An-Bình. Triệu Thành than:
          - Nếu họ là quan binh, không sao. Còn họ là kẻ địch e nguy tai, bên mình có sư phụ, Đông-Sơn lão nhân, Địch Thanh, Dư Tĩnh, Vương Duy-Chính đang bị trúng độc nằm kia, ắt khó toàn tính mạng.
          Đám đông đến gần. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nhìn rõ, họ gồm nam, nữ, già, trẻ, tăng, tục, khoảng hơn trăm người. Thiệu-Thái nói nhỏ:
          - Bang Nhật-hồ Trung-quốc, vì họ chít khăn đỏ ở cổ.
          Trong bọn có cả Trung-ương, Bắc-phương sứ giả. Trung-ương sứ giả không thấy Tây-phương sứ giả với Chu An-Bình đâu, thì lên tiếng gọi:
          - Nhị đệ, ngũ đệ. Các người ở đâu?
          Chợt y thấy có nhiều người nằm la liệt, thì kêu lớn lên. Đám đông tản ra tìm kiếm, phút chốc họ gom tất cả mọi người lại. Chỉ có Chu An-Bình tỉnh táo, nhưng y đang run run vì đau đớn. Y đến trước một người lùn tịt, quỳ gối hành lễ:
          - Thuộc hạ tham kiến bang chủ.
          Người đó phất tay, một viên thuốc bay ra, trúng vào cổ An-Bình. Y rùng mình một cái, cơn đau biến mất. Y vái một vái:
          - Đa tạ bang chủ.
          Thiệu-Thái nghĩ thầm:
          - Thì ra lão già này tên Đặng Đại-Bằng, bang trưởng Nhật-hồ Trung-nguyên đây. Mình nghe bang Nhật-hồ Trung-nguyên, trên cao nhất có giáo chủ, rồi tả, hữu hộ pháp. Dưới nữa đến ngũ sứ. Cuối cùng mười trưởng lão, quản mười đạo của mười lộ. Xem chừng tên này bang bạnh không kém gì Nhật-Hồ lão nhân bên Đại-Việt.
          Một thiếu phụ hỏi Chu An-Bình:
          - Ngũ sứ, cái gì đã xẩy ra.
          An-Bình run lật bật:
          - Trình hữu sứ, Bình-Nam vương qua đây.
          Thiệu-Thái nghĩ thầm:
          - Mình nghe nói tả hộ pháp tên Phong Hoa. Hữu hộ pháp là nữ tên Hải Thanh, chắc mụ này đây.
          Nghe đến chữ Bình-Nam vương, cả bọn im lặng. An-Bình thuật lại mọi biến cố, rồi kết luận:
          - Chỉ duy Bình-Nam vương với con gái Hồng-Sơn đại phu bị bốn ngư nhân bắt đi mất, không biết tình trạng ra sao? Còn tất cả đều hiện diện tại đây.
          Hải Thanh ra lệnh:
          - Hãy trói bọn này lại, rồi bắn thuốc cho chúng tỉnh dậy.
          Đám Minh-Thiên bị trói hết, để ngồi bên nhau. Duy Đỗ Lệ-Thanh, được đưa đến trước mặt Đặng Đại-Bằng.
          Trung-ương sứ giả chỉ Đỗ Lệ-Thanh:
          - Thưa bang chủ, bọn thuộc hạ tuân lệnh giáo chủ yêu cầu Đỗ muội trao bí quyết luyện Hồng-thiết tâm pháp. Đỗ muội chống lại, đã đánh ngũ sứ bị thương, lại nói nhiều lời vô lễ.
          Đại-Bằng cười khành khạch:
          - Đỗ muội! Khi Đỗ muội sang Giao-chỉ rồi, ở nhà chúng ta kiến thiết lại bản bang. Anh em cử ta làm bang trưởng. Vì không biết Đỗ muội ở đâu, nên chúng ta không thông báo được. Chắc vì vậy Đỗ muội buồn ta phải không? Vừa rồi Tây-phương sứ giả Bành Đức, không biết mối liên hệ sâu sa của Đỗ muội với sư phụ, nên có hơi vô lễ. Ta là bang chủ, xin tạ lỗi với Đỗ muội.
          Y vung tay một cái, ánh kim lấp lánh, dây trói Đỗ Lệ-Thanh đứt hết.
          Đỗ Lệ-Thanh nói mát:
          - Tiểu muội ở phương trời xa xôi, bị giam cầm trong hang đá thừa sống, thiếu chết, thân tàn ma dại, đâu có tư cách gì mà buồn với vui.
          Đặng Đại-Bằng nói lớn:
          - Xưa, ta là đệ tử thứ nhì của sư phụ. Đại sư huynh tuẫn bang khi đại chiến quân Tống. Vì vậy, ta tạm lên cầm quyền bang chủ. Bây giờ trong bản bang, ta có vai vế cao nhất, sau đến Đỗ muội. Vì vậy tháng sau, trong đại hội, ta sẽ đề nghị anh em cử Đỗ muội làm phó bang chủ. Như vậy Đỗ muội bằng lòng chứ?
          Đỗ Lệ-Thanh chỉ Chu An-Bình:
          - Đặng đại ca! Thế truyện người sai An-Bình mang chiếu chỉ của Lưu hậu sang Giao-chỉ định hại tiểu muội, chắc cũng do lòng tốt của Đại ca cả đấy?
          Nói rồi bà thuật lại tất cả những gì chú cháu Chu An-Bình nói với nhau trong rừng Trường-yên. Chu An-Bình bị trúng độc, đau đến muốn ngất đi. Thế mà nghe mụ thuật, cơn đau tan biến, y sợ hãi chân tay run lẩy bẩy.
          Nguyên Đặng Đại-Bằng nghĩ rằng y âm thầm khống chế Lưu hậu chỉ một vài chức sắc cao cấp trong bang biết. Tất cả cùng thề chung rằng, kẻ nào tiết lộ cho người ngoài biết, phải xúm vào xử tử. Y lại sai mười trưởng lão giả làm thị vệ Hoàng-cung cho Lưu hậu xử dụng. Thành ra giang hồ không chỉ nghe tên mà không biết chân tướng chúng ra sao.
          Hồi chiều Đỗ Lệ-Thanh cật vấn ngũ sứ, An-Bình không lo sợ làm bao, vì ngũ sứ đều biết truyện này cả. Bây giờ Lệ-Thanh nói ra trước mặt giáo chúng, cùng một số cao thủ phủ Bình-Nam vương, coi như đại sự hỏng hết.
          Đặng Đại-Bằng đưa mắt nhìn Chu An-Bình:
          - Có truyện đó ư? Điều này phải tra xét lại. Sư muội, ta thề không liên hệ gì với Lưu hậu. Ta chỉ sai y đi tìm sư muội về làm phó bang chủ. Việc đó chắc An-Bình phản bang, theo Lưu hậu, mưu đồ riêng.
          Chu An-Bình nghe Đại-Bằng nói, y kinh hoàng:
          - Rõ ràng bang chủ trao chiếu chỉ cho mình, mà nay sao lại nói ngược như thế này?
          Song y đau quá, mồ hôi toát ra, nói không lên lời. Đặng Đại-Bằng lạng người đến, túm cổ áo An-Bình nhắc lên, để y ngồi giữa đám giáo chúng. An-Bình cúi mặt xuống như con cò phải mưa.
          Nguyên Chu An-Bình trúng độc của Đỗ Lệ-Thanh, y đau đớn cùng cực. Trong khi Đặng Đại-Bằng túm lấy Bình, y đã phóng vào người Bình một số độc phấn. Vì vậy Bình như người mê ngủ.
          Đại-Bằng hỏi An-Bình:
          - Chu Nam-sứ! Người phản bang sẽ bị tội gì, Nam-sứ biết rồi chứ?
          An-Bình mơ mơ màng màng cúi đầu xuống, không trả lời. Đại-Bằng cười nhạt:
          - Như vậy Chu sứ đã nhận tội. Hữu hộ giáo đâu, hãy đưa Nam-sứ về với thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh bằng ngũ xa hồng xà.
          Hải Thanh chắp tay:
          - Trình bang chủ, đạo Quảng-Đông không có ngũ xa hồng xà. Thuộc hạ xin bang chủ cho Nam-sứ được về thượng giới bằng đường khác.
          - Vậy hãy tước bỏ ngũ quan của Nam-sứ đi.
          Dương Đắc khoanh tay nói:
          - Theo luật lệ bản giáo, khi một chấp pháp cao cấp bị xử tử, họ phải được tước bỏ hết đau đớn trên người. Vì vậy thuộc hạ xin bang chủ ban cho thuốc giải đã.
          Đặng Đại-Bằng gật đầu. Dương Đắc chạy đến, bóp miệng Chu An-Bình, bỏ vào một viên thuốc. Khoảng nhai dập miếng trầu, thuốc ngấm, y mơ mơ màng màng không hiểu những gì đang xẩy ra xung quanh.
          Đại-Bằng sợ Bình nói toạc thủ đoạn của mình. Y ra lệnh:
          - Thi hành.
          Hai giáo chúng tuân lệnh ra đứng trước Chu An-Bình. Rất thành thạo, hai thanh kiếm vung lên, chân tay An-Bình bị đứt rời. Chu An-Bình đau đớn hét lên. Nhanh như chớp hai giáo chúng chấp pháp phóng kiếm đâm vào mắt An-Bình.
          Thấp thoáng bóng người lạng đến trước An-Bình, hai thanh kiếm của giáo chúng chấp pháp bị người kia đoạt mất. Mọi người nhìn lại thì ra Dương Đắc. Dương Đắc cung kính chắp tay:
          - Bang chủ. Sau khi sư phụ qua đời, chúng ta họp nhau lại, để tái lập bản bang. Tất cả đồng ý, lấy tình thương che chở cho nhau. Thế mà nay, ngũ đệ phạm tội, chưa có gì chắc chắn, bang chủ đã đem ra hành hình. Như vậy còn đâu lời thề cũ?
          Chu Sát, Bành Đức đứng bảo vệ bên cạnh cho Dương Đắc. Còn Dương Đắc, y chạy lại băng bó chân tay cho Chu An-Bình , rồi nói:
          - Ngũ đệ hiện bị thương nặng, cần đợi bình phục, thẩm vấn tỷ mỉ rồi mới có thế kết tội y. Nếu bang chủ không chấp thuận lời đệ nghị này, ngũ sứ xin mạn phép rút khỏi bản bang.
          Đặng Đại-Bằng nghĩ thầm:
          - Chỉ vì ta không có Hồng-thiết tâm pháp, nên bọn ngũ sứ bất phục. Đỗ Lệ-Thanh hiện diện ở đây. Ta cần lấy lòng thị, rồi luyện Hồng-thiết tâm pháp. Khi có tâm pháp trong tay ta, đứa nào dám chống? Ta cứ tạm lui vài bước, rồi kiếm cách loại ngũ sứ sau.
          Tả hộ giáo Phong Hoa nói:
          - Bang chủ, xin đợi về tổng đàn, chúng ta bàn truyện bản bang sau. Hiện, ở đây chúng ta bắt được mấy đại cao thủ của Bình-Nam vương. Xin bang chủ định liệu lẽ nào?
          Đặng Đại-Bằng cười:
          - Bắt thì cọp khó, thả thì cọp dễ. Ta hãy phóng Chu-sa độc chưởng vào người chúng, rồi cho chúng tỉnh dậy.
          Hữu hộ pháp Hải Thanh cười nhạt, mụ tiến lên vỗ vào đầu bọn Minh-Thiên mỗi người một chưởng nhẹ nhàng. Sau đó mụ bắn vào mỗi người một viên thuốc.
          Minh-Thiên có nội công cao nhất, ông rùng mình tỉnh trước, sau tới Đông-Sơn lão nhân. Cuối cùng Dư Tĩnh.
          Trung-ương sứ giả Dương Đắc hỏi Minh-Thiên:
          - Phải chăng đại sư pháp danh Minh-Thiên, thủ toạ Đạt-Ma đường chùa Thiếu-lâm?
          Minh-Thiên tuy bị trói, nhưng ông vẫn bình tĩnh:
          - Dương thí chủ lâu nay vẫn mạnh chứ? Nghe nói thí chủ nhập bang Nhật-hồ được cất nhắc lên chức Trung-ương sứ giả thì phải. Bần tăng giám hỏi Dương thí chủ, bần tăng có điều gì vô phép với quý bang đâu, mà quý bang đánh thuốc bần tăng, rồi trói như thế này?
          Ông nói đến đây, thì tiếng rên la của bọn Địch Thanh, Dư Tĩnh làm ông ngừng lại. Ông cũng cảm thấy đau đớn cùng cực.
          Đông-Sơn lão nhân hỏi Đặng Đại-Bằng:
          - Đặng bang chủ. Giữa chúng ta với bang chủ không thù, không oán, hà cớ bang chủ phóng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng vào người bọn bần đạo?
          Tả hộ pháp Phong Hoa cười nhạt:
          - Không những chúng tôi không thù oán các vị, mà còn yêu tài các vị là khác nữa. Vì yêu tài, chúng tôi bạo gan thỉnh quý vị nhập bản bang. Mong quý vị không từ chối.
          Trong đám tùy tùng của Triệu Thành, thì Địch Thanh còn trẻ nhất, chí khí ngang tàng. Y cười nhạt:
          - Đặng bang chủ. Tôi nghe người đầu tiên mang Hồng-thiết giáo vào Trung-quốc là Nhật-Hồ lão nhân, là người Việt. Người truyền cho sư đệ tức Đông-Nhật lão nhân Lưu Trí-Viễn. Lưu bang chủ anh hùng cái thế, lập ra nhà Hán. Bang chủ thứ nhì Quách Ngạn-Uy lập ra nhà Chu, truyền đến bang chủ thứ ba Sài Vinh, vũ dũng hơn đời, chúng nhân tôn phục vì tài vì đức. Nay Đặng bang chủ tái lập bang mới mục đích khôi phục đại nghiệp. Không biết có đúng không?
          Hữu hộ pháp Hải Thanh hãnh diện:
          - Địch thiếu hiệp thực không hổ với danh hiệu trạng nguyên. Kiến thức bao la thực.
          - Nếu bang chủ muốn nối tiếp sự nghiệp tiền nhân, nên dùng đức chinh phục nhân tâm, chứ có đâu nhân bọn tại hạ trúng độc mê man, phóng độc chưởng vào người rồi bắt quy phục? Như vậy tại hạ muôn ngàn lần không phục.
          Sự thực, hành tung bang chúng Nhật-Hồ rất bí mật, sở dĩ Địch Thanh biết chi tiết, do cuộc thám thính Đại-Việt vừa qua y thâu lượm được.
          Đặng Đại-Bằng cười nhạt:
          - Thì ra Địch trạng nguyên muốn khảo nghiệm võ công bọn ta đấy. Địch trạng nguyên ơi, ta sẽ cử một người lĩnh giáo võ công của trạng nguyên. Nếu y bại, ta để Địch trạng nguyên rời khỏi nơi đây. Còn như y thắng, Địch trạng nguyên nên nhập bản bang, cùng chúng ta dựng một nước Hồng-thiết giáo. Bắc-phương sứ giả, Bành Đức hiền đệ hãy lĩnh giáo mấy cao chiêu của Địch trạng nguyên.
          Y tin rằng Địch Thanh bị trúng độc, chân tay bải hoải, không thể thắng Bành Đức. Mà dù Địch Thanh giết Bành Đức, y đỡ đi được một cái gai.
          Y vung tay, một ám khí bay ra, trúng vào dây trói Địch Thanh. Dây trói đứt hết. Lúc đầu Địch Thanh cũng như bọn Minh-Thiên, bị độc tố Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng hành hạ. Nay cơn đau đã qua, công lực y phục hồi như thường. Tuy vậy vẫn còn hơi run run.
          Y lạng người một cái, đoạt được thanh kiếm của một bang chúng. Thanh kiếm lóe lên, dây trói từ Minh-Thiên đến Dư Tĩnh đều đứt hết. Bang chúng Nhật-Hồ la lớn. Bốn người vung kiếm tấn công Địch Thanh, để cản trở. Địch Thanh chuyển kiếm một vòng. Bốn tiếng loảng xoảng, bốn thanh kiếm bị gẫy tới chuôi.
          Vừa được tự do chân tay, Phạm Trọng-Yêm lạng người tới. Tay y vung chưởng tấn công Trung-ương sứ giả Dương Đắc bằng một Kim-cương chưởng. Dương Đắc lùi lại một bước vung chưởng đỡ. Y đỡ vào quãng không, vì Trọng-Yêm chuyển chưởng lực vào Đỗ Lệ-Thanh. Đỗ Lệ-Thanh không chống lại, người bà bay bổng lên, rơi xuống cạnh Đông-Sơn lão nhân nhẹ nhàng như tự ý nhảy tới vậy.
          Trọng-Yêm chắp tay hướng Dương Đắc.
          - Xin thất lễ với Dương trung sứ. Vì Đỗ phu nhân là thần tử nhà Tống. Tại hạ hiện lĩnh chức Khu-mật viện sứ, phải ra tay bảo vệ bà.
          Phong Hoa cười nhạt:
          - Ta không ngờ một trạng nguyên của Tống triều mà xảo trá như vậy. Tuy các người được thư thả, nhưng liệu các người có chịu nổi Chu-sa độc chưởng không? Ta nói cho biết, mỗi ngày các người lên cơn một lần. Sau bốn mươi chín ngày, da dộp lên mà chết.
          Địch Thanh đưa con mắt lạnh lùng nhìn bang chúng Nhật-Hồ một lượt:
          - Các vị đây chắc đều thuộc giới võ lâm tài trí, chẳng may bị bọn ma đầu phóng độc chưởng vào người mà phải nhắm mắt đưa chân theo chúng. Xưa, ba vị bang chủ tiền nhiệm học được Hồng-thiết tâm pháp, có thể giải vĩnh viễn chất độc trong người cho thuộc hạ. Nay gã bang chủ này không biết tâm pháp ấy, nên cũng phải uống thuốc giải mỗi năm.
          Y nói với Phạm Trọng-Yêm:
          - Xin Khu-mật sứ cho tiểu nhân mượn hộp thuốc giải.
          Địch Thanh đưa hộp thuốc cho bang chúng xem:
          - Thuốc giải đó, tại hạ cũng có.
          Y trao cho bọn Minh-Thiên mỗi người một viên. Sáu người bỏ thuốc vào miệng nuốt trửng, rồi vận công. Phút chốc cái đau đớn biến mất.
          Y trao bình thuốc trả Phạm Trọng-Yêm:
          - Các vị bang chúng Nhật-Hồ! Tại hạ có lời khuyên. Các vị hãy qui phục triều đình. Bình-Nam vương là người nhã lượng, cao trí, ắt trọng dụng các vị. Các vị được thênh thang mệnh quan, vinh dự cho tổ tiên. Nếu như các vị bị nọc độc chưởng, Phạm khu-mật sứ sẽ tặng thuốc giải cho các vị.
          Y chỉ Đỗ Lệ-Thanh:
          - Đỗ phu nhân đây thuộc lòng Hồng-thiết tâm pháp. Chỉ cần một người có nội công cao. Đỗ phu nhân truyền cho, ắt luyện thành. Thành rồi, sẽ giải vĩnh viễn độc chưởng cho các vị. Suốt mấy chục năm nay, Đỗ phu nhân vì triều đình, ẩn thân ở Đại-Việt. Kỳ này về kinh, ít ra được phong Công-chúa. Bổng lộc ba mươi năm, được ban cho một lúc. Phạm mỗ mong các vị suy nghĩ.
          Đặng Đại-Bằng cười nhạt:
          - Phạm Khu-mật sứ, người là nhân sĩ danh vang thiên hạ. Không biết lời người nói có tin được không? Nếu như Bình-Nam vương có lời hứa, bản nhân nguyện qui thuận triều đình. Tiếc rằng Bình-Nam vương không hiện diện tại đây. Chỉ sợ...
          Có tiếng nói khoan thai:
          - Cô gia hiện diện lâu rồi.
          Mọi người quay lại, thì ra Triệu Thành với Lê Thiếu-Mai đã đứng đó từ bao giờ.
          Nguyên, Thiếu-Mai với Triệu Thành bị ngư nhân đánh bằng võ công đặc biệt, chân tay tê liệt, nhưng chỉ nửa giờ sau lại cử động được như thường. Trong khi bang chúng Nhật-Hồ chú tâm vào việc xử tử Chu An-Bình, hai người đến gần mà không ai biết.
          Bình-Nam vương nói với Đặng Đại-Bằng:
          - Đặng bang chủ! Hay gì làm giặc? Hồi trước đây, triều đình mang quân chinh tiễu, vây bang Nhật-Hồ. Ai đầu hàng đều được thăng quan, tiến chức, trọng dụng. Chỉ người chống mới bị tội. Bấy giờ Đặng bang chủ vắng nhà, nghe lời người ta đồn đãi, tụ tập anh em, đi lại trên giang hồ, làm tội đã nhiều. Bây giờ cô-gia mong bang chủ cùng anh em qui phục triều đình. Cô gia hứa bảo tấu với Thiên-tử ban thiên ân cho bang chúng những điều sau.
          Y ngừng lại suy nghĩ, hỏi Phạm Trọng-Yêm:
          - Phạm sứ, triều đình nên ban những gì bây giờ?
          Phạm Trọng-Yêm cung kính:
          - Thưa vương gia! Gốc bang chúng đều ở vùng núi Trường-bạch. Từ mấy chục năm nay, bị triều đình truy nã, anh em phiêu bạt khắp nơi. Họ tuy giầu có, mà lòng tưởng nhớ cố hương nào nguôi. Kìa anh nhìn xem, bọn họ phóng độc chất vào mọi người. Chỉ sợ Đỗ Lệ-Thanh khám phá ra, cản trở thì nguy. Anh dùng Lăng-không truyền ngữ ra lệnh cho mụ không nên can thiệp vào truyện này. Mau, anh nói mau đi.
          Không kịp suy nghĩ xem tại sao phải hành động như vậy. Thiệu-Thái dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai Đỗ Lệ-Thanh:
          - Đỗ phu nhân. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đây. Phu nhân nhắm mắt, mặc bang Nhật-hồ phóng độc Bình-Nam vương. Anh em tôi ở đây từ chiều. An ninh của phu nhân chúng tôi lo hết.
          Quả đúng như Mỹ-Linh ước tính, Đỗ Lệ-Thanh nhìn rõ âm mưu Đặng Đại-Bằng. Mụ định lên tiếng tố giác. Nghe tiếng Thiệu-Thái nói, mụ im lặng, cười nhạt.
          Trong khi đám bang chúng xúm lại hành lễ với Triệu Thành, Minh-Thiên, người nọ xen lẫn với người kia, chúng phóng độc vào đám người của Triệu Thành.
          Sau khi hành lễ xong, bọn họ lui lại. Triệu Thành chưa kịp hỏi sao họ lui quá xa, thì Dư Tĩnh, Thiếu-Mai lảo đảo ngã ngồi xuống. Tiếp theo Triệu Thành.
          Minh-Thiên kinh hãi, chưa kịp phản ứng thì ông cũng ngã ngồi xuống.
          Khác với lần trước bang Nhật-Hồ phóng thuốc mê, lần này họ phóng thuốc nhuyễn cân. Mọi người tỉnh táo như thường. Chỉ chân tay không cử động được mà thôi.
          Phạm Trọng-Yêm cười nhạt:
          - Đặng bang chủ, Vương-gia tôi lấy lượng cả bao dung các vị, thế mà các vị lại đối xử như thế này ư?
          Đại-Bằng cười ha hả:
          - Lượng tiểu phi quân tử. Vô độc bất trượng phu. Đặng mỗ nghe Triệu Nguyên-Nghiễm tước phong Định-vương, cùng Phạm Trọng-Yêm quản Khu-mật viện triều Tống là hai đầu não lớn nhất Trung-nguyên. Không ngờ hôm nay lọt vào tay bang Nhật-Hồ.
          Triệu Thành cười nhạt:
          - Đại-Bằng, ta đã lọt vào tay người, người giết ta đi cho rồi. Ta mà có nhăn mặt, chau mày, không bằng loài cầm thú.
          Đặng Đại-Bằng cười ha hả:
          - Điều gì chứ điều đó thì dễ quá. Trước kia tiền nhân người là Triệu Khuông-Dẫn, nhân được lòng tin của Chu Thế-Tông ủy thác con côi, cướp sự nghiệp lập ra nhà Tống. Người có biết Chu Thế-Tông với bọn ta có liên hệ gì không?
          Triệu Thành chưa trả lời, y đã tiếp:
          - Người chính là bang chủ đời thứ ba bản bang, cũng là sư bá của chúng ta. Cướp sự nghiệp của bang chủ tiền nhiệm là Triệu Khuông-Dẫn. Đem quân tàn phá tổng đàn bản bang là Triệu Khuông-Nghiã. Hôm nay, trời xui đất khiến, chúng ta đòi được món nợ này.
          Y tiến lên moi trong bọc Triệu Thành ra cuốn sách. Một giáo bang chúng cầm đuốc soi cho y đọc. Y nhẩm đọc, rồi mặt tươi lên:
          - Người ta nói, trong thiên hạ chỉ có ba nơi biết chỗ cất kho tàng Tần-Hán. Một là Hồng-thiết giáo, hai là phái Mê-linh bên Đại-Việt. Ba là Khu-mật viện triều Tống qủa không sai.
          Y quay lại nhìn Triệu Thành:
          - Bình-Nam vương gia! Vương gia phao khắp nơi, từ Cao-ly, tới Tây-tạng, Tây-hạ, Tây-liêu, Đại-lý, rằng ngày rằm tháng mười một năm nay cửa kho tàng mở vào giờ Tý. Các nơi gia công tìm kiếm bản đồ cất kho tàng, rồi tụ về đây. Mấy hôm nay vương gia cho thiết kị vây bắt hết mọi đoàn. Thế là bao nhiêu bí mật về tay Vương-gia cả. Bây giờ bí mật lại vào tay ta. Ta chỉ việc tặng cho mỗi người trong Vương-gia một kiếm, rồi ngày mai đi đào. Châu báu dùng để trung hưng bản bang, chiếm lại thiên hạ. A ha!
          Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cười thầm:
          - Tên này lầm rồi. Gần nghìn năm qua, võ lâm thiên hạ đồn đại rằng ngày rằm tháng mười một, giờ Tý năm Đinh-Mão, cửa kho tàng mở. Còn việc thiết kị vây bắt các phái đoàn bởi năm ngư nhân phá phách, vì vậy đụng độ với họ. Thiết kị nhân đó mới biết chỗ ẩn mà bắt giam. Không biết ngư nhân của ai?
          Hải Thanh rút kiếm ra nói với Đại-Bằng:
          - Bang chủ! Trước tiên hãy giết hết bọn thủ hạ của Triệu Nguyên-Nghiễm cho y kinh hồn động phách đã, rồi hãy giết y.
          - Phải đấy, chúng ta giết tên Dư Tĩnh trước.
          Hải Thanh tiến đến trước Dư Tĩnh, cười nhạt:
          - Dư an-phủ sứ, người có gì cần nói không?
          Dư tỏ ra bình tĩnh:
          - Dư mỗ làm thần tử nhà Tống, ăn cơm, mặc áo của nhà Tống, được chết, để đền ơn trị ngộ Thiên-tử, điều cầu mà không được. Mỗ chỉ xin các vị dành cho mỗ mấy khắc thôi.
          - Được, chúng ta chậm một chút cũng không sao.
          Dư Tĩnh nói lớn:
          - Thần Dư Tĩnh, lĩnh hoàng ân, văn đậu tiến sĩ. Võ không hèn. Bấy lâu ăn cơm, mặc áo của Bệ-hạ, mà chưa làm được việc gì ích quốc lợi dân, hầu đền ơn tri ngô. Hôm nay, nguyện lấy cái chết để báo thiên ân.
          Y nói với Triệu Thành:
          - Vương gia, thần đi trước, xin chờ vương gia .
          Y bảo Đại-Bằng:
          - Người xuống tay đi thôi.
          Thanh kiếm vung lên, từ từ hướng đầu Dư Tĩnh hạ xuống. Bỗng một vật gì bay rất nhanh trúng vào thanh kiếm đến choang một tiếng. Kiếm bay tung ra xa.
          Không ai nhìn rõ vật đó từ đâu bay đến.
          Đặng Đại-Bằng la lớn:
          - Cao nhân phương nào xin xuất hiện!
          Không có tiếng trả lời.
          Đại-Bằng bảo Chu Sát:
          - Bắc-phương sứ giả. Sứ giả hãy xử tử tên Triệu Thành trước. Ta không lý gì đến bọn ẩn ẩn núp núp này nữa.
          Như quen thuộc, Dương Đắc, Bành Đức, Hải Thanh, Phong Hoa đứng vây bốn bên Triệu Thành. Chu Sát cầm kiếm chĩa vào người y:
          - Bình-Nam vương gia! Hôm nay Vương-gia trả nợ cho tổ tiên, không biết Vương-gia có điều gì muốn nói không?
          Triệu Thành thở dài:
          - Các người giết ta, vì thù oán ba đời. Ta chấp nhận. Còn Lê cô nương. Cô nương không phải người Hoa. Cô nương là con gái Hồng-Sơn đại phu ở Đại-Việt. Mỗ mong các vị không nên làm khó dễ nàng.
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 23.01.2005 06:12:11 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9