Anh hùng Bắc cương (từ hồi 21)
CDDLT 14.01.2005 17:50:57 (permalink)
Hồi thứ tám mươi mốt


Viên giác đốn giáo


Bọn Nhật-hồ nghe Triệu Thành nói, đều bật lên tiếng ồ. Đại-Bằng hỏi Thiếu-Mai:
- Phải chăng cô nương là con gái Hồng-Sơn đại phu?
- Quả đúng như thế.
Trung sứ giả Dương Đắc nói với Đại-Bằng:
- Bang chủ, chúng ta chẳng nên gây thù chuốc oán với võ lâm Đại-Việt. Hồng-Sơn đại phu ân đức trải khắp thiên hạ. Ông lại là một trong Đại-Việt ngũ long, võ công kinh thế hãi tục. Thuộc hạ nghe nói, trong đại hội Thăng-long mới đây, ông chỉ đánh có ba chưởng, khiến Nhật-Hồ lão nhân phải lùi bước.
Đại-Bằng hừ một tiếng:
- Dương đệ nói lạ. Hồng-Sơn đại phu không thể hơn võ lâm Đại-Việt. Võ lâm Đại-Việt không hơn hoàng đế Đại-Việt. Hoàng-đế Đại-Việt, lại không thể so sánh với Hoàng-đế nhà Tống. Chúng ta giết tên Triệu Thành, coi như khai chiến với triều Tống. Đến triều Tống ta còn không sợ; huống hồ gã Hồng-Sơn? Ta quyềt định: Nếu y thị nhập bản bang, ta tha cho. Bằng không ta giết luôn.
Thiếu-Mai thấy trên trời, có đôi chim ưng bay lượn. Biết ít nhất có người Khu-mật viện phục quanh đây, nàmg nghĩ thầm:
- Người ném ám khí đánh văng kiếm tên giáo chúng bang Nhật-hồ, ắt hẳn của Khu-mật viện Đại-Việt. Ta yên tâm, vì bất cứ rủi ro nào của ta, Khu-mật viện cũng giải tỏa được.
Tự tin vào Khu-mật viện Đại-Việt, nàng cười dòn tan:
- Tên Đặng kia! Mi có giỏi cứ chạm đến sợi tóc của ta đi! Bố ta sẽ tận diệt bọn mi đến con gà, con chó cũng không tha.
Đại-Bằng cười nhạt:
- Con nha đầu này! Chết đến gáy rồi mà con đem ông, cha ra đe dọa. Được, ta cho mi được nguyện.
Y hất hàm ra lệnh:
- Chu Bắc-sứ, giết tên Triệu Thành trước.
Triệu Thành than thầm:
- Không ngờ mạng ta cùng ở đây. Ta nhất tâm, nhất trí gìn giữ công nghiệp tổ tiên, tung hoành thiên hạ. Thế mà đêm nay chết tại hoang sơn này vào tay bọn Nhật-hồ dơ bẩn. Có điều ta không hiểu bọn Đại-Bằng tuân chỉ Lưu hậu giết ta, hay chính y khống chế Lưu hậu, rồi Lưu hậu yêu sách giết ta?
Thanh kiếm vung lên, lấp lánh dưới ánh trăng.
Thình lình, có tiếng phần phật, rồi một người từ bụi cỏ vọt lên cao, rơi xuống giữa đầu Chu Sát. Y kinh hoàng, y thu kiếm về, nhảy lùi liền bốn bước.
Người kia còn ở trên không đã phóng chỉ tấn công. Chỉ phong rít lên vi vu. Chu Sát vung kiếm đỡ. Chỉ thứ nhất chạm vào kiếm, làm tay y tê chồn. Chỉ thứ nhì choang một tiếng, kiếm của y bị gẫy làm ba bốn đoạn bay trên không, lấp lánh dưới ánh trăng.
Người ấy phóng chỉ thứ ba trúng miếng hộ tâm kính ở ngực y đến choảng. Y giật bắn người lên nhảy lùi liền bốn bước nữa.
Đến đây, người kia rơi xuống cạnh Triệu Thành, y vung tay một cái, Triệu Thành bật lên khỏi mặt đất. Ở trên cao, Triệu Thành thoáng thấy mùi thơm như hoa sen, rồi chân tay cử động được. Y lộn một vòng, đáp xuống đất, trước sự kinh hoàng của mọi người.
Bang chúng Nhật-Hồ kinh ngạc:
- Người này dùng thần công gì, mà giải được Ma-tý phấn của bản bang?
Chu Sát cười sằng sặc hỏi người kia:
- Thiên đường có nẻo mi không đến. Địa ngục không đàng đẫn xác vào. Mi ném ám khí cứu tên Dư Tĩnh, ta không thèm tìm, bầy ra kế giết tên Triệu Thành để mi phải xuất hiện. Mi là ai? Tại sao lại can thiệp vào việc của bang Nhật-Hồ chúng ta? Hãy khai đi rồi chết.
Tuy miệng nói vậy để chữa thẹn. Nhưng chân tay y vẫn còn run run. Tiếng nói chưa tự nhiên.
Người kia hướng Lê Thiếu-Mai:
- Lê cô nương. Tôi không biết nói tiếng Tầu. Mong cô nương dịch cho.
Thiếu-Mai dịch lại. Người kia chỉ vào mặt Đặng Đại-Bằng:
- Người ném ám khí cứu Dư Tĩnh không phải ta. Mi giết quan chức triều Tống mặc mi, ta không lý gì tới. Song có ba lý do bắt buộc ta phải can thiệp vào vụ này. Lý do thứ nhất, mi nói lời khinh bạc võ lâm Đại-Việt, đương nhiên trong đó có sư phụ ta, có bố ta. Lý do thứ nhì mi khinh khi hoàng-đế Đại-Việt của ta, tội đó càng không thể tha thứ. Lý do thứ ba, ta là con dân Đại-Việt, không để cho bọn Nhật-Hồ giết người trên lãnh thổ tộc Việt.
Thiếu-Mai lại dịch.
Lập tức cả bọn bang chúng đồng cười lên sằng sặc, huýt sáo, chửi rủa. Đặng Đại-Bằng phất tay ra hiệu im lặng:
- Thiếu niên kia! Mi tên gì ? Ta thấy mi còn trẻ, chưa muốn giết mi. Bây giờ ta cho mi một cơ hội.
- Ta tên gì, mi không được phép hỏi. Còn mi nói cơ hội. Thế cơ hội gì?
- Nếu mi thắng được một trong ngũ sứ của ta. Ta tha cho mi đi. Bằng mi bại, mi phải nhập bản bang.
Người kia cười:
- Đặng bang chủ. Gì chứ đấu võ, ta sẵn sàng. Mi chỉ định ai đấu với ta đi.
Đại-Bằng chỉ Dương Đắc:
- Trung sứ dạy dỗ y mấy chiêu.
Người kia lột khăn che, lộ ra khuôn mặt rất trẻ. Mỹ-Linh hỏi Thiệu-Thái:
- Anh có nhớ người này là ai không?
- Không!
- Anh là Trần Thông-Mai, anh của thím Thanh-Mai. Ảnh kết huynh đệ với em cùng Kim-Thành, Trường-Ninh. Không biết anh ấy có thắng được tên Trung sứ không. Ban nãy tên Tây-phương sứ giả Bành Đức chỉ đánh có một chưởng, Đỗ phu nhân bị bại. Huống hồ võ công tên này cao hơn Bành Đức nhiều.
Bốn người vây xung quanh Triệu Thành rời chỗ ra xa.
Dương Đắc tới trước mặt Thông-Mai, y vận công, rồi hất hàm:
- Tên ôn con kia! Xuất chiêu đi.
Thông-Mai vận khí, tay phát Thiên-vương chưởng. Chưởng phong như có như không. Dương Đắc thấy chưởng kỳ lạ, y vung tay đỡ. Y đỡ vào quãng không. Thông-Mai đã chuyển chưởng lên trời, rồi nhảy lùi ba bước, đẩy vào người Thiếu-Mai đang nằm đưới đất. Thiếu-Mai bị trúng độc, không cử động được. Thấy Thông-Mai hướng chưởng vào người nàng. Trong chưởng có mùi thơm như hương sen, rồi chân tay linh hoạt như thường. Biết là thuốc giải độc. Nàng vọt người dậy, đứng bên Triệu Thành.
Dương Đắc đỡ hụt của Thông-Mai một chưởng, y nổi giận phóng chưởng tấn công chàng. Trong chưởng có mùi tanh hôi khủng khiếp. Đỗ Lệ-Thanh cũng đã nhận ra Thông-Mai. Mụ nhắc chàng:
- Trần công tử! Phải cẩn thận, Chu-sa ngũ độc chưởng đấy.
Thông-Mai vọt người lên cao tránh chưởng của Dương Đắc, ở trên cao, chàng phóng xuống chiêu Thiên-vương chưởng. Hai chưởng chạm nhau đến binh một tiếng. Thông-Mai lại vọt lên cao hơn nữa.
Thời vua Hùng, làng Phù-Đổng phát sinh một nhân tài võ học kỹ vĩ nhất Lĩnh-Nam. Người đương thời không biết ngài học võ với ai, học từ bao giờ. Chỉ biết ngài trầm ngâm cả ngày không nói với một câu. Vì vậy người ta đồn rằng ngài câm.
Khi triều Ân bên Trung-quốc mang quân xâm lược. Quân triều đình bị thua liền bốn trận. Giặc Ân vượt sông Trường-giang, tiến xuống Nam như vũ bão. Chúng thừa thế vựợt qua núi Ngũ-lĩnh đe dọa thủ đô Phong-châu. Vua tuyên chiếu cầu hiền rằng: Nếu ai đuổi được giặc, sẽ phong cho làm vua vùng núi Ngũ-lĩnh.
Bấy giờ, ngài mới ứng nghĩa xin đánh giặc. Ngài ăn rất khoẻ, bằng năm, sáu người thường. Ngài dùng một thứ võ công kỳ lạ, thắng khắp anh hùng thiên hạ, được vua phong làm Nguyên-soái cầm quân đánh giặc. Ngay trận đầu ngài đã giết chết tướng Ân. Sau đó dùng hoả công đốt quân Ân, không một người sống sót về Bắc.
Hết giặc, vua ban thưởng, phong chức tước gì ngài cũng không nhận. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ sống ngài, phong làm Thiên-vương.
Ngài lên núi Sài-sơn qui ẩn, mở trường dạy học. Nhân ngài cỡi con ngựa đỏ như máu. Vì vậy, sau này dân chúng huyền thoại đi rằng từ lúc ra đời, ngài câm. Cho đến năm bẩy tuổi, vua cầu hiền đánh giặc Ân, ngài vươn vai một cái, lớn bằng người thường, rồi ăn một lúc hết mấy nồi cơm lớn, xin vua đúc giáo dài, cùng ngựa sắt, xung trận.
Đệ tử đời sau của ngài, qui tụ thành phái Sài-sơn. Trong những võ công ngài còn lưu truyền, có bộ Thiên-vương chưởng. Khi chưởng phát ra, như có như không, nhưng bao gồm sát thủ kỳ diệu vô song. Chưởng này đến thời vua Trưng, chưởng môn là Nam-hải nữ hiệp chỉ còn nhớ được mười tám trong bẩy mươi hai. Sau Bắc-bình vương Đào Kỳ, tìm ra bộ Văn-lang vũ kinh, trao cho bà. Phái Sài-sơn mới có trọn vẹn .
Trải gần nghìn năm Bắc thuộc, pho chưởng này, hiện Hồng-Sơn đại phu chỉ được truyền có hơn hai mươi chiêu. Nhưng ông là thiên tài võ học. Ông sáng chế, bổ khuyết những chiêu còn thiếu, mà thành anh hùng vô địch. Vì vậy Lê Ba, tuy là sư thúc, mà võ công thua ông. Lê tưởng võ công ông cao, vì giữ bí quyết Thiên vương mật dụ. Y dùng hết tâm não giúp ông trở thành chưởng môn phái Sài-sơn, rồi yêu cầu ông cho xem Thiên-vương mật dụ. Nhưng ông tuân lời di chúc tổ tiên, không cho y coi. Y khống chế phu nhân bằng Chu-sa độc chưởng. Bà cũng chịu chết, y không toại nguyện.
Bây giờ Thiếu-Mai thấy Thông-Mai xử dụng Thiên-vương chưởng kỳ diệu muốn hơn bố mình. Nàng kinh ngạc đến đờ người ra.
Dương Đắc giao một chưởng với Thông-Mai, y kinh hãi nghĩ:
- Tên ôn con này, tuổi chưa quá hai mươi lăm, mà sao công lực đến dường này?
Y lại xuất chưởng tấn công. Áp lực chưởng của hai người cực kỳ trầm trọng. Thiếu-Mai nói sẽ vào tai Triệu Thành:
- Không hiểu Trần sư huynh học ở đâu được Thiên-vương chưởng của phái Sài-sơn. Chưởng lực anh ấy cao không kém gì bố em. Trong khi phát chưởng, anh ấy bóp vỡ một viên thuốc giải Chu-sa ma-tý độc của bang Nhật-Hồ, vì vậy đại ca với em đang tê liệt, chân tay hoạt động được như thường.
Triệu Thành chỉ cho Thiếu-Mai:
- Võ công tên Dương Đắc này thực không tầm thường, có lẽ cao hơn bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo Đại-Việt.
Trong khi ấy một toán người từ xa mới tới. Đặng Đại-Bằng hô lớn:
- Ngừng tay!
Dương Đắc nhảy lui lại. Giữa lúc đó Thông-Mai đã phát ra một Thiên-vương chưởng. Chàng không thu chưởng về, mà nhảy lùi liền bốn bước, hầu giảm hết áp lực, rồi hướng vào chỗ Minh-Thiên, Đông-Sơn lão nhân nằm.
Bình, bình hai tiếng. Minh-Thiên, Đông-Sơn lão nhân bật người lên cao. Ở trên cao, hai người thấy chân tay hoạt động được như thường. Cả hai đáp xuống cạnh Triệu Thành.
Đại-Bằng thấy nhóm mới đến có tám người. Y không coi vào đâu, lên tiếng hỏi:
- Các người là ai? Tại sao lại can thiệp vào việc của chúng ta?
Người cầm đầu chắp tay xá một xá:
- Đệ tử phái Tiêu-sơn nước Đại-Việt, họ Lý tên Long-Bồ xin tham kiến bang chủ Nhật-hồ Trung-Quốc.
Lập tức bang chúng Nhật-hồ đồng phát ra tiếng kinh ngạc:
- Úi chà
- Ối trời ơi.
- Suýt!
Người mới đến chính là Khai-Quốc vương. Mỹ-Linh thấy đi cạnh ông còn có Thanh-Mai, Bảo-Hòa, cùng năm ngư nhân. Nàng kinh ngạc:
- Không biết năm ngư nhân là ai, mà lại đi theo chú hai?
Đặng Đại-Bằng đáp lễ:
- Đặng mỗ ở Trung-nguyên, nghe võ lâm Hoa-Việt đồn rằng ai chưa gặp Khai-Quốc vương, đừng vội xưng anh hùng. Lại nữa đại hội Thăng-long vừa rồi, người được anh hùng Lưỡng-Quảng, Đại-lý, Đại-Việt, Chiêm-thành, Chân-lập, Lão-qua, Xiêm-la tôn lên làm thủ lĩnh. Tưởng Lý Long-Bồ ba đầu sáu tay thế nào, thì ra cũng tầm thường thôi.
Bảo-Hòa lắc đầu:
- Đặng bang chủ! Bang chủ có nghe lầm không? Cậu hai của tiểu nữ chỉ nhân danh đệ tử đời thứ nhì phái Tiêu-sơn tham kiến bang chủ, chứ không nhân danh vua, quan gì cả.
- Vậy cậu người, với các người hãy đi chỗ khác, không nên can thiệp vào việc của ta mà mang họa.
Bảo-Hòa chỉ vào bọn Triệu Thành:
- Bang chủ nên biết Bình-Nam vương-gia tuân chỉ Thiên-Thánh hoàng-đế đi sứ Đại-Việt. Bang chủ cũng đừng quên đây thuộc lãnh địa tộc Việt. Khai-Quốc vương hiện lĩnh chức Phụ-quốc thái-úy, người không thể để cho bất cứ ai phạm đến sứ đoàn trên đất Việt. Vì vậy người mới nhờ Trần công tử can thiệp, không để quý bang hại Bình-Nam vương gia cũng như Dư an phủ sứ.
Đặng Đại-Bằng hừ một tiếng:
- Đây thuộc Quảng-Đông lộ, rõ ràng nằm trên lãnh địa Trung-quốc, nào có thuộc lãnh địa Đại-Việt. Khai-Quốc vương không có tư cách gì can thiệp vào.
Giọng nói của y đã có vẻ khách khí.
Bảo-Hoà cau mặt lại, lắc đầu:
- Đặng bang chủ lẩm cẩm quá đi. Chính người vừa nói rằng anh hùng tôn Khai-Quốc vương làm thủ lĩnh Lưỡng-Quảng, thế mà người lại quên ư? Đã là thủ lĩnh, đương nhiên phải có thẩm quyền cùng trách nhiệm chứ?
- Anh hùng tám nước tôn y lên làm thủ lĩnh, chứ không phải trời sai y xuống làm vua.
Thiếu-Mai nghĩ thầm:
- Mình nghe nói, Đặng Đại-Bằng là con người siêu việt, văn võ toàn tài. Thế mà hôm nay đây y cũng không dám bắt bẻ việc anh hùng tôn Khai-Quốc vương làm thủ lĩnh. Đã vậy ta mượn cuộc tiếp xúc này, nêu chính nghĩa tộc Việt cho mọi người biết.
Nàng bước ra, xá một xá:
- Đặng bang chủ, người vốn là một danh sĩ, tài trí trùm hoàn vũ, mà lý luận như vậy ư? Phàm các bậc đế vương dựng nghiệp, bao giờ cũng ứng lòng dân mà hành sự. Ứng long dân tức hợp ý trời vậy!
Chu Sát cười khẩy:
- Dân là dân, trời là trời. Lòng dân ý trời đâu phải là một. Lý luận của cô nương là lối lý luận của Nam-man, không phải của bậc trí Trung-nguyên ta. Ta không nghe.
Thiếu-Mai tuy được Hồng-Sơn đại phu dạy dỗ chu đáo. Nhưng ông vốn chống Trung-quốc, nên kiến thức Trung-quốc ông dạy nàng không làm bao. Bây giờ phải đối đầu với những con người siêu việt bậc nhất đất Tống, nàng phân vân chưa biết phải nói sao, bắt đầu từ đâu, thì tiếng Mỹ-Linh rót vào tai nàng:
- Chị Thiếu-Mai! Mỹ-Linh đây. Em theo dõi tất cả biến chuyển tại đây. Chị cứ theo lời em nhắc, đối phó với bọn này. Chị đừng quên tên Đặng Đại-Bằng, Chu Sát, Dương Đắc đều xuất thân danh sĩ, chuyên nhai văn nhấm chữ, rất khó đối phó. Nào, chị nói đi.
Rồi nàng rót vào tai Thiếu-Mai:
- Chu sứ! Được! Tôi xin vì Chu sứ, mà lý luận trên cơ sở thánh nhân Trung-nguyên. Chu sứ nên biết rằng theo tư-tưởng-gia Trung-nguyên thì Cha là trời của con. Trời là trời của cha. Không có trời mà sinh ra là việc chưa từng có vậy.
Hải Thanh lắc đầu:
- Bịa đặt. Bịa đặt ngây ngô.
Thiếu-Mai hỏi Dư Tĩnh:
- Dư an phủ sứ. Tiên sinh cho biết ý tưởng tiểu nữ vừa trình bầy xuất phát từ đâu đi. Hải hữu-hộ pháp không tin đấy.
Dư Tĩnh đáp:
- Câu đó, Lê cô nương dẫn trong sách Thuận-mệnh của Đổng Trọng-Thư đời Hán. Nguyên văn như sau "Phụ giả, tử chi thiên dã. Thiên giả, phụ chi thiên dã. Vô thiên nhi sinh, vị chi hữu dã".
Chu Sát lắc đầu:
- Tư tưởng gì mà lẩm cẩm vậy. Ông trời xa xôi thế kia, mà bảo rằng đẻ ra người, thực ngây ngô qúa.
Thiếu-Mai biết Chu Sát bắt đầu yếu thế, nàng nghe Mỹ-Linh nhắc, tiếp:
- Đổng còn nói rõ Trời, người tương thông. Nguyên văn "Thiên nhân tương dữ". Có nghiã người bẩm thụ được tính của trời. Cho nên đạo trời, chính là đạo người. Quan niệm đó đâu phải đến Đổng mới có? Trong kinh Thi có câu: Trời sinh ra dân, có hình phép, dân giữ tính thường, muốn có đức tốt. Nguyên văn như sau:

Thiên sinh chi dân,
Hữu vật, hữu tắc.
Dân chi bỉnh di,
Hiếu thị ý đức .


Chữ dân trong câu trên giống như chữ nhân trong Ngũ-kinh. Vì người bẩm thụ tính trời, nên trời và người quan hệ với nhau, mà người phải lấy phép tắc làm khuôn mẫu. Phải coi thiên đạo là nhân đạo. Phải ăn ở cho hợp với đạo trời. Đức thánh Khổng ít bàn về trời. Song ngài cũng nhận được rằng trời là đấng chủ tể của vũ trụ, xếp đặt mọi việc, và có luật thiên nhiên, mà người phải theo.
Nàng hỏi Đặng Đại-Bằng:
- Đặng bang chủ. Có đúng thế không?
Đặng Đại-Bằng tuy có kiến thức siêu việt, nhưng y chưa ra khỏi Trung-quốc. Y coi Đại-Việt chỉ là Giao-chỉ man di mọi rợ. Không ngờ hôm nay, y gặp một thiếu nữ lý luận đanh thép, thông kinh điển Trung-quốc. Nghe Thiếu-Mai hỏi, y gật đầu.
Mỹ-Linh lại rót vào tai Thiếu-Mai. Thiếu-Mai tiếp:
- Kìa Lão-tử. Ông không hoàn toàn chủ trương Thiên nhân tương dữ, nhưng ông nghĩ rằng Người bắt chước đất. Đất bắt chước trời. Mặc-tử tin trời mạnh hơn. Ông cho rằng trời là đấng tối cao, có uy quyền, như gia trưởng trong nhà, như vua trong nước. Người phải thuận ý trời, như con thuận ý cha, dân thuận ý vua. Sau Khổng, Lão, Mặc đến Mạnh-Tử, ông giảng ý nghĩa thiên nhân tương dữ rõ ràng hơn:
...Phát huy cùng cực cái tâm mình, thì biết được cái tính của mình. Biết được cái tính của mình, thì biết được trời.
Nàng hỏi Dư Tĩnh:
- Dư tiên sinh, nguyên văn thế nào, tiểu nữ quên mất rồi. Dường như sách Trung-dung cũng có nói đến điều này thì phải.
Dư Tĩnh nghĩ thầm:
- Cô này đã dẫn được, giải được, không lẽ không thuộc nguyên văn? Chẳng qua, cô mượn mình làm chứng mà thôi.
Nghĩ vậy y trả lời:
- Ý trên, lấy trong thiên Tận-tâm, sách Mạnh-Tử, nguyên văn như sau "Tận kỳ tâm giả, tri kỳ tính dã. Tri kỳ tính, tắc tri thiên mệnh". Còn sách Trung-dung ư? Có, nói như sau:
"...Thiên mệnh chi vị tính. Xuất tính chi vị đạo. Tu đạo chi vị giáo".
Ghi chú
Nghĩa là: Mệnh trời ban cho là tính, thuận tính gọi là đạo. Sửa đạo cho hợp gọi là giáo.
Lê Thiếu-Mai lại nhắc lời Mỹ-Linh:
- Đặng giáo chủ. Lê sứ! Xét như thế dù Hoa, dù Việt, thì ý dân là ý trời. Khai-Quốc vương được anh hùng tôn lên làm vua tộc Việt tức thuận lòng trời, ứng lòng người vậy.
Chu Sát tự hào mình người nhai văn, nhấm chữ, giỏi nhất Trung-nguyên, chỉ vì khinh địch, bị Mỹ-Linh bẻ gẫy. Y đánh trống lảng, hướng vào Triệu Thành:
- Bình-Nam vương gia, Vương-gia thân làm Phụ-chính đại thần. Vương-gia hiện diện ở đây, mà để cho bọn Nam-man nhận Lưỡng-Quảng làm lãnh thổ Đại-Việt, còn ra thể thống gì nữa. Vương-gia chỉ ngồi dưới Thiên-Thánh hoàng-đế, uy trùm Hoa-hạ, vũ trấn man di, mà phải nhờ bọn Nam-man che chở, rồi cúi đầu nhường đất Lưỡng-Quảng cho chúng ư?
Ngư nhân mũ đỏ cười khành khạch, y rung tay một cái, cần câu có một chùm những hạt chì chụp lên đầu Chu Sát. Chu Sát vung tay đỡ, nhưng y vẫn bị hai viên chì trúng người. Một viên trúng huyệt Hạ-quan ở gần mang tai, một viên trúng cùi chỏ. Tay y tê liệt, miệng bế, không mở ra được nữa. Ngư nhân lạng người tới tát cho y hai cái:
- Ta cho mi hai cái bạt tai, để chừa thói hỗn láo, dám gọi chúng ta bằng danh Nam-man.
Mọi người kinh hãi, không hiểu võ công ngư nhân dùng là võ công gì, mà chỉ một chiêu khiến Chu Sát tê liệt toàn người.
Ngư nhân mũ đỏ tiếp:
- Hoa hay Việt, trước đây đều là con cháu vua Thần-nông. Nam, Bắc cùng huyết tộc. Chỉ vì bọn tham tàn như mi, mới khiến Hoa, Việt có chiến tranh. Trọn đời, ta ghét nhất những đứa phân chia gây thù hận Hoa, Việt.
Y cười nhạt:
- Chu Bắc-sứ! Có phải Chu Bắc-sứ nói rằng người xin quy phục Tống triều chăng?
Chu Sát nghe ngư nhân mũ đỏ hỏi, y nổi giận cành hông, định há mồm mà há không được, thành ra giống như y gật đầu.
Ngư nhân mũ đỏ tiếp:
- Bắc sứ cải tà qui chính như vậy thực phải. Khổng-tử nói: Hữu quá tắc cải. Nhà Phật dạy "Khổ hải vô bờ, hồi đầu thị ngạn". Chu sứ qui phục triều đình, thực phúc cho dân Trung-quốc biết mấy!
Ngư nhân mũ đỏ nói với Triệu Thành:
- Vương-gia! Bắc-sứ xin quy phục, vậy Vương-gia cho Bắc-sứ một chức quan, để ấm mồ tổ tiên đi chứ?
Triệu Thành đã bị năm ngư nhân phá phách suốt mấy ngày. Y hiểu năm ngư nhân không hề ác ý với y. Huống hồ bây giờ chúng đi với Khai-Quốc vương, cứu y khỏi tai nạn. Cho nên y cũng hùa theo ngư nhân:
- Dưới tay danh tướng, ắt có cường binh. Thiếu hiệp là tùy tùng Khai-Quốc vương có khác, thông tuệ dị thường.
Y nói với Chu Sát:
- Chu huynh, bằng vào võ công, cô-gia sẽ tâu lên Thiên-tử, phong cho Chu huynh làm Chiêu-thảo-sứ trấn ngự biên cương.
Chu Sát bị đánh bế hàm, nói không được, lại bị ngư nhân, rồi Triệu Thành trêu chọc. Y tức muốn điên lên được.
Ngư nhân mũ đỏ nói:
- Chu Chiêu-thảo sứ. Mừng Chiêu-thảo sứ thoát khỏi vũng lầy, về làm tôi triều đình. Tuy Chu tướng-quân đã quy phục triều đình, song vấn đề tướng-quân nêu ra thực không đúng. Thân quận-chúa vừa nói Lưỡng-Quảng thuộc lãnh địa tộc Việt, chứ có nói thuộc Đại-Việt đâu? Chu tướng-quân phải hiểu rằng tộc Việt với Đại-Việt khác xa lắm. Cho nên Bình-Nam vương gia mới không nói gì, chứ người đâu có nhường đất cho Đại-Việt?
Dương Đắc chỉ mặt ngư nhân mũ đỏ:
- Ban nãy người dùng yêu pháp bắt Lưu tứ đệ của ta đi. Bây giờ mi lại hại tam đệ. Lại đây, lại đây, chúng ta đấu với nhau trăm chưởng.
Thông-Mai bước ra cười khanh khách:
- Tên họ Đặng kia. Vừa rồi mi to mồm khinh khi võ lâm Đại-Việt. Để ta tiếp tục đấu với tên Dương Đắc cho xong lời ước. Nào!
Thông-Mai vung chưởng tấn công. Dương Đắc cười nhạt:
- Ta há sợ mi sao?
Y vung chưởng đỡ, bình một tiếng, Thông-Mai lui một bước. Tuy thắng thế, mà Dương Đắc cảm thấy như có gì bất ổn ở trong chưởng của đối phương. Y tấn công tiếp chưởng nữa. Thông-Mai đỡ, lui về sau ba bước, chàng đếm:
- Hai.
Dương Đắc lại tấn công. Mỗi chiêu y phát ra, Thông-Mai lùi một bước, miệng đếm. Tay y lại cảm thấy nặng chĩu thêm lên . Đến chiêu thứ mười, Thông-Mai nhảy lui lại, phất tay:
- Mi chết rồi, ta không đấu với mi nữa.
Dương Đắc cảm thấy tay nặng nề, y đưa lên xem: Hai bàn tay y tím ngắt như người bị trúng Chu-sa độc chưởng. Thình lình y kêu lên tiếng ối rồi hét lên be be như con dê.
Đại-Bằng móc trong bọc ra viên thuốc, nhét vào miệng Dương Đắc. Dương Đắc bớt đau, y ngồi xuống vận công. Đại-Bằng hất hàm hỏi:
- Vị thiếu niên kia, thì ra người cũng biết xử dụng Hồng-thiết độc công đấy. Ngươi là đệ tử của cao nhân nào, mà ta mắt kém, không nhìn ra.
Thông-Mai lắc đầu:
- Ta họ Trần tên Thông-Mai. Võ công của ta do bố ta truyền dạy. Phái Đông-a thuộc danh môn chính phái, đến xử dụng ám khí có chất độc còn bị cấm, huống hồ độc chưởng. Vừa rồi, Dương trung sứ dùng độc chưởng tấn công ta. Ta chỉ nhân đó đẩy trả về y mà thôi.
Tả hộ pháp Phong Hoa nói với Đặng Đại-Bằng:
- Bang chủ! Gã này là tên Trần Thông Mai, con cả của Trần Tự An, chưởng môn phái Đông-a bên Đại-Việt. Trước đây gã bỏ đi tu, cầu phúc cho mẹ. Gã mới hoàn tục.
Từ Đặng Đại-Bằng cho đến bang chúng đều bật lên tiếng úi chà, rồi ối, rồi ái chu cha.
Nguyên vì danh tiếng phái Đông-a, cùng Trần Tự-An vang rền khắp Hoa, Việt.
Hữu hộ pháp Hải Thanh hỏi:
- Trần đại công tử! Ta nghe võ lâm truyền tụng rằng họ không sợ Thiên-Lôi, cũng chẳng ngán Hà-Bá, mà không dám gây hấn với phái Đông-a. Có đúng thế không? Ta lại nghe nói đại-hiệp Tự-An võ công kinh thế hãi tục, tính cao ngạo, bác học đa năng, thường ôm gối ngồi cao. Thế mà đại công-tử lại lăn mình vào làm tùy tùng cho Lý Long-Bồ. Tiếc ơi là tiếc!
Lê Thiếu-Mai dịch lại. Thông-Mai định trả lời, Bảo-Hòa bước ra chắp tay xá Hải Thanh:
- Hải phu nhân! Tiểu nữ nghe phu nhân thuộc loại kiến thức cao đệ nhất Trung-nguyên, cớ sao kiến giải sự việc như thế? Đại hiệp Tự-An tài ba gì chăng nữa, cũng thuộc hàng sĩ phu Đại-Việt, có trách nhiệm với sự hưng vong của đất nước. Đại hiệp không ưa công danh, do tính thích tiêu dao tự tại. Chứ đâu phải không thích công danh, mà buông tay hết cả.
Nàng chỉ Thông-Mai:
- Còn Trần đại-công tử có mặt tại đây hôm nay, không phải làm tùy tùng cho Khai-Quốc vương, mà theo giúp muội phu, giữ đại nghĩa thiên hạ.
Hải Thanh ngơ ngác:
- Muội phu?
Bảo-Hòa chỉ Thanh-Mai:
- Khai-Quốc vương phi, chính là em gái của Trần đại-công tử. Bình sinh Trần đại-công tử cực kỳ sủng ai Khai-Quốc vương-phi. Nên khi nghe vương-phi theo vương gia đi sứ Đại-Tống, Trần đại-công tử cùng đi để giúp em gái.
Thông-Mai móc ba viên thuốc giải độc bóp vỡ tan ra, rồi bước đến bên Dư Tĩnh, Vương Duy-Chính, Địch Thanh. Chàng vung tay phóng ra ba Thiên-vương chưởng. Bình, bình, bình, chân tay ba người cử động được, vội đứng dậy, đến bên Triệu Thành.
Địch Thanh chỉ mặt Đặng Đại-Bằng:
- Bọn Nhật-Hồ nhà mi chỉ giỏi dùng độc ám toán. Vương gia ta lấy lượng cả bao dung người, mà người nhân đó dùng độc hại chúng ta. Lại đây, ta đập mi nát thây ra mới được.
Đại-Bằng cười:
- Chúa tôi mi mới nếm chút Chu-sa ma-tý phấn, mà đã ngã lổng chổng rồi. Ta còn nhiều thứ thuốc khác, mi muốn nếm cứ lại đây.
Nghe Đại-Bằng nói, trên từ Triệu Thành cho tới Địch Thanh đều ớn da gà. Họ không biết phải đối phó sao cho phải bây giờ. Đánh thì lại ngại độc chưởng. Mà lui, thì còn gì danh dự Khu-mật viện Đại-Tống.
Khai-Quốc vương hướng Triệu Thành:
- Vương-gia! Hôm nay tiểu vương làm chủ, Vương-gia làm khách. Bọn Nhật-Hồ phạm đại giá Vương-gia, trăm lỗi đều do anh em tiểu-vương cả. Xin Vương-gia để tiểu-vương dẹp đám tà ma này.
Triệu Thành đang lưỡng lự chưa biết giải quyết sao, thì Khai-Quốc vương nhảy ra lãnh dùm. Y mừng quá:
- Đa tạ vương gia.
Nói xong y chợt tỉnh ngộ:
- Mình đáng chết thực. Tên Long-Bồ nói vậy có nghĩa đất Lưỡng-Quảng thuộc lãnh địa của y. Mình đồng ý, chẳng hóa ra công nhận chủ quyền của y ư?
Nhưng đã trót. Vả lại dù y muốn ra tranh phong với bọn Nhật-hồ, e chỉ mất mạng vô ích. Y đành im lặng.
Khai-Quốc vương hướng vào Đặng Đại-Bằng cùng đám bang chúng:
- Cô-gia nhắc lại, các vị vốn thuộc dân Tống. Hiện nay trên có thánh thiên-tử trị vì. Các vị không bảo nhau làm lợi cho nước, cũng đừng làm hại. Bình-Nam vương lấy lượng cả thu dụng các vị, mở cho các vị đường sống, rõ ràng hành vi của đấng tể thần. Thế mà các vị lấy ơn làm oán tung phấn độc hại người.
Vương nghiêm giọng:
- Đây thuộc lãnh địa tộc Việt. Cô-gia theo gương Bình-Nam vương-gia. Cô-gia cho các vị suy nghĩ một lúc. Ai về quy phục Tống triều, sẽ được giải Chu-sa ngũ độc chưởng vĩnh viễn ngay tại đây. Bằng chống lại, sẽ bị bắt giải lên quan nha chiếu luật xử tội.
Phong Hoa suy nghĩ một lúc rồi hỏi Khai-Quốc vương:
- Họ Phong này nghe nói, trong kỳ đại hội Thăng-long vừa rồi, Hồng-thiết giáo Đại-Việt đã giải tán, thành lập Lạc-long giáo. Tân giáo chủ, một thiếu niên, võ công vô song, vốn là đệ tử Phật Di-Lặc, nên trị tuyệt Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng cho giáo chúng. Không biết có đúng không?
Khai-Quốc vương hướng về chỗ Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nằm vẫy tay:
- Hai cháu ra đây!
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đứng dậy, sửa quần áo ngay ngắn, đến trước Khai-Quốc vương quỳ gối hành đại lễ:
- Cháu xin bái kiến thúc phụ.
- Cháu xin bái kiến cữu phụ.
Vương chỉ vào đám Triệu Thành:
- Cháu hãy giải độc cho các vị đây đi.
Thiệu-Thái đến trước Triệu Thành, chàng chắp tay nói:
- Vương gia! Trần đại ca đã phóng thuốc giải Chu-sa ma-tý cho Vương-gia. Tuy vậy độc chất còn nhiều trong cơ thể. Xin Vương-gia ngồi xuống, để tiểu sinh khu trục ra.
Triệu Thành ngồi xếp chân. Thiệu-Thái vung tay phẩy nhẹ lên đầu Triệu Thành. Lập tức trên người y toả ra mùi hôi rất khó chịu. Triệu Thành cảm thấy khoan khoái khác thường.
Nguyên Thành xuất thân đệ tử phái Thiếu-lâm, luyện tập Thiền-công từ nhỏ. Từ hôm sang Đại-Việt, trước sau bị phóng vào người bốn năm lần Chu-sa độc, nên giữa Phật tính bị pha lẫn ma tính, trong người thường hay bứt rứt. Bây giờ nhờ Thiệu-Thái dùng Thiền-công đẩy độc tố ra, trong người Thành chỉ còn lại Phật tính. Y cảm thấy tâm mở ra, cực kỳ sảng khoái.
Thiệu-Thái chắp tay hướng Minh-Thiên:
- Đại sư. Đệ tử xin gỡ nghiệp cho đại sư.
Minh-Thiên mỉm cười:
- Đa tạ Thân Giáo-chủ.
Thiệu-Thái lại vung tay lên. Minh-Thiên rùng mình một cái. Ông ngồi xuống vận công đẩy độc tố ra ngoài.
Thiệu-Thái đến trước Phạm Trọng-Yêm:
- Phạm Khu-mật sứ. Khu-mật sứ vừa bị trúng Chu-sa độc phấn trên soái thuyền, vừa rồi lại bị trúng Chu-sa ma-tý phấn. Tiểu bối xin trị cho tiền bối.
- Đa tạ giáo chủ.
Thiệu-Thái chĩa ngón tay phóng vào huyệt Đại-trùy, Bách-hội của Phạm Trọng-Yêm. Y rùng mình một cái, người toát mồ hôi ra như tắm.
Sau khi trị xong cho đám Triệu Thành. Thiệu-Thái tới trước Dương Đắc:
- Dương trung sứ. Trung sứ thụ lĩnh Chu-sa ngũ độc chưởng lâu ngày. Ban nãy bị Trần công tử đẩy ngược chất độc về người trung-sứ. Nếu Trung-sứ chịu quy phục triều đình. Hậu bối xin trị hết hai thứ nọc độc cho Trung-sứ.
Dương Đắc đến trước Triệu Thành lạy phục xuống đất:
- Thần nguyện quy phục. Mong Vương-gia thu nhận.
Triệu Thành nói với Thiệu-Thái:
- Thân giáo chủ. Xin giáo chủ trị cho Dương huynh.
Thiệu-Thái vung tay lên, một chưởng như gió thoảng qua, mũi Dương Đắc đổ máu xối xả. Máu đổ đến đâu, mặt y tươi đến đó. Một lát, máu khô. Y vận khí, thấy lưu thông như thường. Biết Chu-sa ngũ độc đã trục ra hết. Y cúi đầu tạ Thiệu-Thái:
- Đa tạ Giáo-chủ.
Y đến trước Đặng Đại-Bằng chắp tay xá:
- Đặng đại-ca. Chúng ta sở dĩ họp nhau tái lập bản bang chẳng qua bị triều đình truy lùng, hơn nữa bị Chu-sa ngũ độc chưởng hành hạ. Bây giờ triều đình ân xá, ngũ độc được trị. Đệ xin ra khỏi bản bang, nên đến từ biệt đại ca.
Khi bang Nhật-hồ bị triều Tống đem quân đến tiêu diệt. Tất cả các cao thủ đều bị giết. Đặng Đại-Bằng đi vắng, nên thoát nạn. Y trốn tránh ít lâu, rồi từ từ qui tụ bang chúng, tái lập bang. Gần đây, y cho một nữ bang chúng đột nhập hoàng cung Tống, trở thành một phi tần của Thiên-Thánh hoàng-đế. Phi tần này khống chế Lưu hậu. Không ngờ Lưu hậu lại khống chế ngược lại, bà thu dụng nhiều cao thủ bang Nhật-hồ, phong chức tước cho. Vì vậy thế lực của bang lại nổi lên.
Người phi tần nhờ Lưu hậu phải cung cấp hết những tin tức về kho tàng Tần-Hán. Lưu hậu đòi Khu-mật viện tấu trình, rồi ba trao cho bang Nhật-hồ. Mụ cung cấp bản đồ giả cho chúng.
Lưu hậu nghĩ rằng trong các phe phái tranh dành kho tàng, bang Nhật-hồ, cũng như Triệu Thành thuộc thành phần có thực lực nhất. Mụ đang tìm cách tiêu diệt hai mầm mống này. Bây giờ bang Nhật-hồ tự đưa đầu vào bẫy. Mụ tìm cách cho bọn Nhật-hồ với Triệu Thành chém giết nhau. Mụ ở giữa thủ lợi.
Được bản đồ giả, Đặng tưởng thực, hăm hở suất lĩnh bang chúng đi Quảng-Đông, mưu đào lên. Y vốn có chí lớn, định rằng nếu đào được kho tàng. Y tung ra kiến thiết bang chúng, mua chuộc quan lại, rồi cướp ngôi vua.
Y tưởng với lực lượng bang Nhật-hồ xử dụng hàng trăm thứ độc khác nhau. Y khống chế dễ dàng các bang hội, võ phái đoạt kho tàng. Trở ngại nhất của của y là Bình-Nam vương Triệu Nguyên-Nghiễm, cải danh Triệu Thành. Vì Nguyên-Nghiễm thống lĩnh các cao thủ Khu-mật viện, lại nắm binh quyền trong tay.
Về phía Lưu hậu, khi mụ thấy bọn Nhật-hồ đi Quảng-Đông, mụ vội vã sai ngựa lưu tinh truyền chỉ cho Triệu Thành phải đi Quảng-Đông đào kho tàng. Mục đích cho trai, cò đại chiến.
Bọn Nhật-hồ bầy mưu dẫn dụ cho Triệu Thành cùng tùy tòng đến hoang sơn, rồi giết đi. Thành công trong tầm tay. Thình lình nhóm Việt xuất hiện. Bọn y bị thất bại liên tiếp. Bây giờ Khai-Quốc vương còn sai Thiệu-Thái giải độc cho bang chúng. Như vậy bang Nhật-hồ có cơ tan rã. Bao nhiêu mưu đồ thành một trường hư ảo.
Y nghĩ rất nhanh:
- Ta phải giết tên Dương Đắc này. Mới mong bang chúng kinh hãi.
Y vờ vỗ vai Dương Đắc:
- Dương đệ không nên đa lễ.
Thình lình y vỗ lên đầu Dương Đắc một chưởng. Dương Đắc tuyệt không ngờ Đặng ra tay ám toán, y không đỡ kịp. Bộp một tiếng, đầu y vỡ đôi, mắt lòi ra ngoài, rồi gục xuống.
Diễn biến xẩy ra đột ngột. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái muốn ra tay cứu trợ, mà không kịp.
Bảo-Hoà nổi lôi đình. Nàng chỉ mặt Đặng Đại-Bằng:
- Tên ăn cướp kia. Mi tàn độc không còn chỗ nói. Hãy đỡ chưởng của ta.
Nàng phóng ra liền hai chiêu Phục-ngưu thần chưởng. Đại-Bằng vung tay đỡ. Bình, bình. Y thấy trong chưởng của Bảo-Hoà vừa âm, vừa dương hỗn hợp rất kỳ lạ. Máu huyết trong người y chạy tán loạn.
Đại-Bằng cười nhạt:
- Con lỏi kia, mi bị trúng độc của ta rồi. Mau quỳ xuống bái ta làm sư phụ. Ta sẽ ban thuốc giải cho.
Còn Bảo-Hòa, nàng thấy chân khí chạy hỗn loạn, cánh tay tê dại. Nàng thấy nội lực gã họ Đặng hơi giống Địch Thanh. Một thứ nội lực chính đại quang minh chứ không phải tà môn. Bất giác nàng đưa mắt nhìn Đông-Sơn lão nhân như ngụ ý muốn hỏi nguyên do. Thình lình nàng cảm thấy miệng đắng, mắt hoa đầu váng.
Biết bị trúng độc, nàng hướng Thiệu-Thái:
- Anh!
Từ nhỏ, Thiệu-Thái cực kỳ sủng ái Bảo-Hòa. Có thể nói, chàng thương em còn hơn thương thân mình. Thấy em bị trúng độc thủ của Đại-Bằng.
Thiệu-Thái cực kỳ phẫn nộ:
- Tên họ Đặng kia! Hôm nay ta phải giết mi, để trừ cho võ lâm một con rắn độc.
Chàng hít hơi, phát chiêu Phản-bản hoàn nguyên trong pho Mục-ngưu thiền chưởng. Chưởng phong mạnh như nghiêng trời lệch đất. Đại-Bằng thấy chiêu chưởng kỳ dị. Y tung ra một độc chưởng. Bình. Đại-Bằng lảo đảo lui lại bốn bước liền, lưng y chạm vào một gốc cây lớn. Khí huyết trong người y chạy nhộn nhạo cực kỳ khó chịu.
Tất cả đám Nhật-hồ có mặt đều kinh hãy kêu lên:
- Ái chà.
- Ối.
- Chà chà.
Vì Đại-Bằng hiện là cao thủ số một số hai Trung-nguyên. Năm trước, thủ tọa La-hán đường chùa Thiếu-lâm đấu với y còn bị bại. Mà nay, y chỉ đỡ một chưởng của Thiệu-Thái, đã ra nông nỗi.
Kinh hãi, Đại-Bằng rút kiếm ra đẩy vào ngực Thiệu-Thái một chiêu thần tốc. Chàng vọt người lên cao tránh. Đại-Bằng xỉa kiếm lên không, mong kết liễu tính mệnh chàng. Thiệu-Thái đánh xuống chiêu Kiến-tích dã ngưu. Chưởng phong bao trùm người Đại-Bằng, đẩy kiếm của Bằng lệch sang một bên.
Mỹ-Linh vọt mình tới trước Thiệu-Thái, nàng rút kiếm chĩa vào ngực Đại-Bằng. Đại-Bằng đang chiết chiêu với Thiệu-Thái, thình lình một thiếu nữ diễm lệ nhảy vào can thiệp. Chiêu đầu tiên cực kỳ thô kệch. Y kinh ngạc, tự hỏi:
- Con nhỏ này muốn tử tử chăng?
Y dùng hai ngón tay, định kẹp sống kiếm Mỹ-Linh. Thình lình kiếm Mỹ-Linh bật đến véo một tiếng chĩa vào vai trái y. Kinh hoảng, y bật ngửa người ra sau, lộn đi liền ba vòng tránh khỏi. Y vừa chạm chân xuống đất, thì cảm thấy cổ đau nhói. Kiếm Mỹ-Linh thủy chung vẫn chĩa vào huyệt Nhân-nghinh. Y thụt người xuống, rồi vọt lên cao. Mũi kiếm Mỹ-Linh như dính với cổ y, cũng hạ xuống, vọt lên. Hai người cùng đáp xuống.
Lòng Đại-Bằng nguội như tro tàn. Y biết đối thủ không muốn giết mình, nhưng vẫn nói cứng:
- Mi đánh trộm, như vậy không kể.
Mỹ-Linh thu kiếm về, định ra chiêu tiếp, thì Đông-Sơn lão nhân nhảy đến, chắn giữa Đại-Bằng và nàng. Lão chắp tay:
- Tên này thiếu bần đạo món nợ lớn từ lâu. Xin công chúa ban cho bần đạo được đòi y.
Mỹ-Linh nhảy lùi lại. Đông-Sơn lão nhân chỉ Đặng Đại-Bằng:
- Đặng huynh, người nhớ ta chăng?
Đại-Bằng cười nhạt:
- Ta biết hiện mi làm chó săn cho bọn Tống.
Đông-Sơn lão nhân hướng vào đám bang chúng nói lớn:
- Thưa các anh hùng thiên hạ. Tên Đại-Bằng này, trước đây là đệ tử phái Hoa-sơn. Sau y quy phục bang Nhật-Hồ, rồi nhẫn tâm đánh thuốc độc, giết sư phụ. Vì vậy hôm nay, bần đạo xin vì phái Hoa-sơn thanh lý môn hộ.
Nói rồi ông lột miếng da hai bên má ra, khuôn mặt đang từ bầu biến ra dài. Đặng Đại-Bằng cười nhạt:
- Sư đệ đó sao? Người vẫn còn sống ư?
- Dĩ nhiên ta còn sống, để đòi nợ mi.
Đông-Sơn lão nhân vung kiếm lên. Ánh kiếm như chớp lóe trong đêm. Đại-Bằng trả lại một chiêu.
Dưới bóng trăng, hai người cùng thuộc kiếm thuật danh gia, cùng một môn hộ, họ tung kiếm đấu với nhau. Ánh kiếm như hai quả cầu bạc lẫn lấp lánh. Không ai còn phân biệt được Đông-Sơn với Đại-Bằng.
Mọi người gần như nín thở theo dõi hai kiếm khách số một Trung-quốc tranh tài. Trải hơn năm trăm hiệp, Đông-Sơn lão nhân bắt đầu hơi yếu thế. Bởi Đại-Bằng cũng học Hoa-sơn kiếm pháp như Đông-sơn lão nhân. Nhưng y luyện thêm Hồng-thiết công, nên công lực y cao hơn ông nhiều.
Triệu Thành đến bên Mỹ-Linh, y hỏi:
- Công chúa! Công chúa là đệ nhất kiếm pháp Nam-thiên, mong công chúa chỉ cho Đông-Sơn lão nhân thắng tên Đại-Bằng.
Mỹ-Linh chợt nhớ lại trước đây Thiệu-Thái đấu với Nhật-Hồ bất phân thắng bại, Minh-Không quốc sư bảo nàng tụng kinh Thủ-lăng nghiêm. Cứ sau mỗi câu tụng, ma tính trong người Nhật-Hồ giảm dần. Cuối cùng lão bại.
Nàng đến bên Minh-Thiên:
- Đại sư! Xin đại sư cùng đệ tử tụng bài chú kinh Thủ-lăng-nghiêm kinh hầu giúp Đông-Sơn lão nhân một tay.
Minh-Thiên hiểu ý Mỹ-Linh, ông nói nhỏ:
- Đối với Nhật-Hồ lão nhân, toàn thể võ công của ông đều thuộc tà ma ngoại đạo, tụng Thủ-lăng nghiêm mới có hiệu quả. Còn võ công Đặng Đại-Bằng nửa chính, nửa tà, tung kinh Thủ-lăng nghiêm không ích gì. Y... y giết sư phụ, ác nghiệp chồng cao hơn núi. Muốn y hối lỗi, ta phải tụng kinh Viên-giác.
Mỹ-Linh đã nghe sư phụ Huệ-Sinh nhắc đến kinh Viên-giác nhiều lần. Nàng chỉ hiểu lờ mờ rằng đây thuộc kinh Đại-thừa, chứ nàng chưa từng tụng qua. Nàng hỏi:
- Đại sư! Đệ tử chưa từng tụng kinh Viên-giác, không hiểu ý nghĩa mầu nhiệm, mong đại sư đừng tiếc công chỉ dạy.
Ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên ở hoang sơn, chỉ nghe Mỹ-Linh nói mấy câu, Minh-Thiên cũng nhận ra cô Công-chúa này được giảng dạy rất kỹ về Phật-pháp. Ông theo Bình-Nam vương sang Đại-Việt, rõ ràng với ý định chống triều Lý. Thế mà Mỹ-Linh hiểu hoàn cảnh của ông, không hận thù, một điều xưng đệ tử, hai điều xưng đệ tử. Bây giờ nàng hỏi về kinh Viên-giác, ông giảng:
- Kinh Viên-giác là kinh Đại-thừa thuộc Đốn-giáo. Kinh này Phật Thích-ca nói về cái nhân địa, pháp hạnh thanh tịnh của đức Như-Lai lúc tối sơ phát khởi, cùng nói về những vị đại thừa bồ tát, phát tâm thanh tịnh, xa lìa mọi bệnh, khiến chúng sinh đời mai đây khi cầu đại thừa, không mắc tà kiến.
Lời giảng của Minh-Thiên sang sảng, khiến mọi người đều nghe rõ. Ông kết luận:
- Trong kinh, đức Thích-Ca giảng giải thực nhiều, nhưng thu lại chỉ có bài kệ sau. Xin thí chủ nghe cho rõ:
Ông đọc lớn:

Phổ-Hiền, nhữ đương tri,
Nhất thiết chư chúng sinh.
Vô thủy huyễn vô minh,
Giai tùng chư Như-Lai.
Viên-giác tâm kiến lập.
Do như hư không hoa.
Y không nhi hữu tướng,
Không hoa nhược phục diệt,
Hư không bản bất động.



Minh-Thiên ngừng lại, thấy tất cả mọi người, dường như chú ý lời ông giảng hơn là cuộc chém giết giữa hai kiếm khách. Thanh-Mai, Bảo-Hòa cùng lắc đầu, tỏ vẻ không hiểu. Mỹ-Linh dịch sang tiếng Việt:

Phổ-Hiền, người phải biết!
Tất cả mọi chúng sinh,
Vô thủy, huyễn vô minh,
Từ nơi chư Như-Lai.
Viên giác tâm kiến lập.
Cũng như hư không hoa,
Do không, lại có tướng.
Nếu không hoa diệt hết,
Hư không vốn vô động.


Bảo-Hoà gật đầu:
- Ý đức Thích-ca muốn nói: Tất cả chúng sinh, có bao nhiêu huyễn hoá cũng đều ở trong tâm Như-Lai viên giác diệu mà sinh ra, cũng như hoa ở hư không, từ trong hư không mà sinh ra, hoa kia tuy diệt, hư không không sao mất đi.
Minh-Thiên cười rất tươi:
- Quận chúa giác ngộ thực mau.
Trong khi Minh-Thiên đối đáp với Bảo-Hòa, Mỹ-Linh, lời lời đều lọt vào tai Đặng Đại-Bằng. Y vốn thông minh tuyệt đỉnh, nên hiểu hết.
Trước đây y được cao nhân phái Hoa-sơn truyền bản lĩnh chính phái, vào hàng đệ nhất. Sau vì ham danh vọng, y bỏ theo bang Nhật-Hồ, rồi luyện Hồng-thiết công. Vì vậy trong người y vốn tiềm tàng chính khí. Chỉ vì chính khí bị ma tính Hồng-thiết che lấp, nên hóa ra người tàn độc. Nay nhờ lời kinh nhập tâm, ma tính từ từ giảm. Phật tính bừng sáng chói. Cũng vì thế, ma công Hồng-thiết rời xa người y. Những chiêu kiếm của y dần dần đi đúng Hoa-sơn kiếm pháp.
Minh-Thiên đọc tiếp:

Huyễn tùng chư giác sinh,
Huyễn diệt, giác viên mãn.
Giác tâm bất động cố.
Nhược bi chư bồ tát.
Cập mạt, thế chúng sinh.
Thường ưng viễn ly huyễn.
Chư huyễn tất giai ly,
Nhược mộc trung sinh hỏa,
Mộc tận, hỏa hoàn diệt.
Giác tắc vô tiệm thứ,
Phương tiện, diệc như thị


Mỹ-Linh dịch sang tiếng Việt cho Thiệu-Thái nghe:

Huyễn từ giác mà sinh,
Huyễn diệt, ác đầy tròn.
Giác tâm không động chuyển.
Nếu như các bồ tát,
Cùng chúng sinh thời mạt,
Phải nên lìa xa huyễn,
Tất cả huyễn đều ly.
Như trong gỗ sinh lửa,
Gỗ hết, lửa hoàn diệt.
Giác thì không tiệm thứ,
Phương tiện cũng như thế.


Ghi chú
Bài kệ này, chúng tôi ghi lại theo bản của Thái-hư đại sư, do hòa thượng Thích Trung-Quán dịch, chú giải, Phật-học viện quốc tế, California Hoa-kỳ xuất bản, Phật-lịch 2528 (1984), trang 37.

Đặng Đại-Bằng đang tung những chiêu kiếm thần tốc mong hạ đối phương, nghe đến câu Giác thì không tiệm thứ y nghĩ thầm:
- Chúng sinh đều mê muội! Ai tỉnh đây? Ta tỉnh rồi, còn ở trong Hồng-thiết giáo làm chi?
Trong tâm y, hình ảnh thời thơ ấu sống lại: Y xuất thân con nhà danh gia, được thu làm đệ tử Hoa-Sơn cùng bốn người bạn. Tất cả năm người, sau đều nổi danh Hoa-sơn ngũ thần kiếm. Thế nhưng, tham vọng muốn làm vua, y nhập bang Nhật-Hồ, được bang trưởng tin yêu. Sau bang trưởng qua đời, nhà Tống cướp ngôi nhà Chu. Bang bị tận diệt. Uất khí bốc dậy, y tụ tập huynh đệ tái lập. Trong mấy chục năm qua, bang chúng giết người hàng muôn hàng ức, biết bao nhiêu mà kể. Bây giờ, tuổi già, y mới hơi động lòng hối hận.
Nghĩ đến đó, ma chướng thoát ra hết. Độc chất Chu-sa cũng theo ý nghĩ ra ngoài. Trí óc y như tê đại, chiêu số chậm dần, chậm dần. Cuối cùng y ném kiếm, ngồi chắp tay đọc lại bài kệ của kinh Viên-giác. Độc chất tiết ra càng mạnh, mùi tanh hôi nồng nặc.
Minh-Thiên vẫy tay ra hiệu cho mọi người im lặng, để Đặng Đại-Bằng vận công. Ông nháy Mỹ-Linh, rồi cả hai cất cao giọng đọc bài kinh Bát-nhã:

Quán-tự-tại bồ tát,
Hành thâm Bát-nha ba la mật đa thời,
Chiếu kiến ngũ uẩn giai không,
Độ nhất thiết khổ ách.. .


Sau khi Minh-Thiên, Mỹ-Linh đọc hết bài kinh Bát-nhã, chất độc trong người Đặng Đại-Bằng thoát ra hết. Y cảm thấy người nhẹ nhõm vô cùng. Biết mình đã rời cái ách Chu-sa ngũ độc chưởng suốt mấy chục năm nay hành hạ, tàn phá cơ thể. Y đến trước Mỹ-Linh, Minh-Thiên chắp tay:
- Đa tạ đại sư, cùng Công-chúa giác ngộ cho.
Minh-Thiên nắm tay y:
- Mừng cho bang chủ, thoát nghiệp Hồng-thiết ma kinh.
Y quỳ gối trước Đông-Sơn lão nhân:
- Sư đệ! Ta tội lỗi quá nhiều. Sư đệ mau giết ta đi, để tiêu trừ nghiệp quả ta đã gây ra.
Đông-Sơn lão nhân lùi lại. Ông ngửa mặt nhìn trời:
- Đại ca giác ngộ, bao nhiêu tội ác cùng ma nghiệp theo đó mà tiêu trừ. Thực phúc đức cho chúng sinh.
Đại-Bằng quay lại nói với đám giáo chúng:
- Chư vị huynh đệ! Mấy chục năm nay, ta bị ma kinh Hồng-thiết làm mất nhân tính, đi vào đường tà, giết người không gớm tay, lại còn cho là có công với thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh. Ôi, mấy chục năm máu ngập sông, xương cao bằng núi, nói sao cho hết. Hôm nay, nhờ phép Phật ta thoát được ma chướng, mừng biết bao.
Y ngừng lại một lát, tiếp:
- Bây giờ ta quyết định vẫn giữ nguyên anh em trong bang, còn lại thay đổi tất cả. Anh em nghĩ xem, ta nên đổi tên bang sao cho hợp đạo lý.
Đỗ Lệ-Thanh bước ra nói:
- Sư huynh! Bên Đại-Việt, đã đổi Hồng-thiết giáo thành Lạc-long giáo. Vua Lạc-long lập ra nước Văn-lang. Bên Trung-nguyên vua Hoàng-đế lập ra Hoa-hạ. Vậy, chúng ta cũng nên theo gương, đổi tên bang thành Hoàng-đế.
Bang chúng vỗ tay reo hò vui mừng, nhảy nhót.
Đỗ Lệ-Thanh tiếp:
- Đa số anh em bản bang đều biết y lý. Bang ta nhất định lấy y đạo làm chính, võ đạo làm phụ. Chúng ta đeo bầu đi khắp nơi, cứu dân độ thế. Chỉ ít lâu sau, người người đều trọng ơn đức chúng ta.
Minh-Thiên góp ý:
- A-Di Đà-Phật! Phúc đức quá. Đỗ phu nhân đã được ở chung trong hang với hai vị Bồ-tát, nên hạnh nảy sinh, đưa ra ý kiến đẹp biết bao!
Mụ quay lại nói với Thiệu-Thái:
- Chủ nhân, tiểu tỳ lớn gan, dám xin chủ nhân trị Chu-sa độc chưởng cho tất cả anh em ở đây.
Thiệu-Thái vui vẻ:
- Chỉ nguyên việc quý bang đổi đường lối từ sát đạo sang y đạo, tại hạ xin tình nguyện trị cho tất cả quý anh em. Chúng ta đều là con cháu vua Phục-Hy, Thần-Nông. Sau tuy phân Hoa, Việt, nhưng đi cùng giòng máu.
Chàng vung tay lên, vù một chưởng, hướng Tây-phương sứ giả Bành Đức. Người y bật dậy, máu ở đầu ngón chân, ngón tay ri rỉ chảy ra. Bao nhiêu cái đau đớn biến mất. Y hướng Thiệu-Thái hành lễ:
- Đa tạ giáo chủ giải nạn.
Phải mất hơn giờ, Thiệu-Thái mới trị hết cho đám bang chúng có mặt.
Đặng Đại-Bằng đến trước Khai-Quốc vương, tay chỉ vào năm ngư nhân:
- Vương gia! Hồi chiều, năm vị huynh đệ đây, bắt sống Đông-phương sứ giả Lưu Đại của bản bang. Mong Vương-gia ân xá cho tứ đệ về.
Ngư nhân mũ đỏ cười lớn:
- Anh em tại hạ nào có bắt cóc Lưu huynh đâu? Chẳng qua mấy hôm nay, bọn tại hạ trêu chọc tứ sư huynh suốt ngày, suốt đêm, mà tứ sư huynh vẫn tha thứ. Vì vậy anh em tại hạ mời tứ huynh theo, để nhờ con lợn trị Chu-sa ngũ độc cho. Không ngờ bị Trung-sứ rượt quá, nên đến giờ cũng chưa trị cho tứ huynh được.
Y gọi lớn:
- Tứ huynh ơi! Tứ huynh à!
Đâu có, có tiếng cọp gầm, rồi con Sơn-Sơn chở Lưu Đại từ xa chạy đến. Lưu Đại nhảy xuống lưng hùm, nói với Đặng-đại-Bằng:
- Bang chủ. Năm vị thiếu hiệp đem đệ rời khỏi đây, đãi uống rượu, ăn thịt, rồi bảo rằng sẽ mời con lợn chữa bệnh cho thuộc hạ. Không biết sự thực ra sao, nhưng năm thiếu hiệp tử tế với đệ vô cùng.
Ngư nhân mũ đỏ ngửa mặt lên trời:
- Ông ỉn ơi!
Thiệu-Thái phì cười:
- Ơi!
Bang chúng Nhật-Hồ Trung-quốc không biết tiếng Việt, nên họ tưởng ngư nhân mũ đỏ cầu khẩn Thiệu-Thái trị bệnh chu Lưu Đại. Chỉ bọn Triệu Thành là biết ngư nhân đùa Thiệu-Thái.
Thiệu-Thái bước xéo một bước, vung tay vỗ lên đầu Lưu Đại, bộp một tiếng, chỗ huyệt Thái-dương Lưu Đại vỡ tung ra, máu chảy xối xả. Máu chảy đến đâu, Lưu Đại cảm thấy nhẹ nhàng đến đó. Sau khi máu ngừng chảy, y đến trước Thiệu-Thái hành lễ:
- Đa tạ Giáo-chủ giải ách.
Đặng Đại-Bằng nói với Thiệu-Thái:
- Đúng ra giờ này, bản bang đại hội ở đỉnh Tuyệt-phong. Bây giờ thay đổi hết. Tại hạ bạo gan, dám xin Giáo-chủ cho triệu tập anh em ở đây, để xin giải nghiệp cho.
Thiệu-Thái gật đầu.
Đặng-đại-Bằng cầm cây pháo thăng thiên đốt, tung lên cao. Chiếc pháo nổ đùng một tiếng rồi toả ra ngôi sao đỏ chói.
Để mặc cho Thiệu-Thái, Đỗ Lệ-Thanh với đám bang chúng Nhật-hồ. Khai-Quốc vương cùng Bình-Nam vương nắm tay nhau, lại ngồi trên một tảng đá lớn. Cạnh Bình-Nam vương có Minh-Thiên, Thiếu-Mai, Đông-Sơn lão nhân, đứng hầu có Dư Tĩnh, Vương Duy-Chính, Địch Thanh. Cạnh Khai-Quốc vương có Thanh-Mai, Thông-Mai. Đứng hầu có Mỹ-Linh, Bảo-Hoà, và năm ngư nhân.
Minh-Thiên lên tiếng trước:
- Trong thời gian lênh đênh trên mặt biển, hiểu mệnh trời, biết lòng người. Chủ nhân của bần tăng ước mong gặp vương gia, để bàn đại sự.
Khai-Quốc vương mỉm cười, nói với Mỹ-Linh:
- Con mời Ngô tiểu thư ra tham kiến Bình-Nam vương gia đi.
Ngô Cẩm-Thi từ bụi cỏ đứng dậy. Nàng e thẹn hành lễ với mọi người. Thanh-Mai cầm tay nàng:
- Ngô tiểu thư tuổi nhỏ, mà công lực thực kinh nhân. Hồi nãy tiểu thư ném cái châm cài đầu, làm văng kiếm cứu Dư an phủ sứ bằng chiêu số gì, mà muội muội không nhìn ra.
Ngô Cẩm-Thi e thẹn:
- Chút xảo thuật, không đáng làm trò cười cho các vị.
Mỹ-Linh giới thiệu Ngô Cẩm-Thi.
Dư Tĩnh quỳ gối trước Triệu Thành:
- Vương gia! Tiểu nhân xin Vương-gia ban cho đặc ân, với đặc ân đó, tiểu nhân sẽ có thêm uy tín theo hầu Vương-gia.
Triệu Thành đỡ Dư Tĩnh đậy:
- Dư an phủ sứ cứ nói.
- Trước đây, mang quân vây bắt song thân, cùng họ hàng Ngô tiểu thư là tiểu nhân. Thế mà vừa rồi, chính Ngô tiểu-thư ném châm cứu tiểu nhân. Lòng dạ tiểu thư thực như trời như biển. Hiện song thân tiểu thư bị giam ở Biện-kinh. Tiểu nhân xin Vương-gia ân xá cho hai vị trở về Quảng-Đông.
- Ngày mai Cô-gia sẽ cho chạy ngựa lưu tinh về kinh, đưa thân thuộc Ngô tiểu-thư về đây ngay. Mời tiểu-thư an tọa.
Ngô Cẩm-Thi chỉ vào ngôi nhà mình:
- Tệ xá không xa, mong đại giá nhị vị vương gia đến đó xơi chung trà.
Khai-Quốc vương, Bình-Nam vương nắm tay nhau theo Ngô Cẩm-Thi. Tùy tùng lục tục theo sau. Vào nhà, an ngôi chủ khách. Tỳ nữ pha trà.
Bình-Nam vương nhìn năm ngư nhân hỏi Khai-Quốc vương:
- Vương gia, những người của Vương-gia tại đây có tin được không? Vì chúng ta sắp bàn đại sự an nguy thiên hạ.
- Tất cả đều tin được.
Ngư nhân mũ đỏ hướng Địch Thanh:
- Địch trạng-nguyên! Hai chúng ta cùng lên mái nhà canh chừng. Đường có mạch, bức vách có tai. Quốc gia đại sự mà để người ngoài nghe được, thì không hay đâu.
Địch Thanh khâm phục ngư nhân mũ đỏ cảnh giác. Hai người ra khỏi nhà, vọt lên mái đi tuần một vòng, rồi ngồi trên nóc... nhìn trăng.
Trong nhà, nhị Vương đã uống hai chung trà.
Khai-Quốc vương mở đầu:
- Vương gia! Các vị! Đêm nay, chúng ta lĩnh nhiệm vụ kẻ sĩ, đem hết tâm huyết ra luận bàn, tìm lấy đường đi tốt đẹp, nhân đạo, hạnh phúc nhất cho hai đại tộc Việt, Hán.


<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.01.2005 06:20:31 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 18.01.2005 18:05:16 (permalink)
    Hồi thứ tám mươi hai


    Chia hai thiên hạ.




    Thanh-Mai thấy Phạm Trọng-Yêm ngồi bên Triệu Thành. Nàng nhìn y, tủm tỉm cười. Phạm Trọng-Yêm hỏi:
    - Vương-phi! Chẳng hay Vương-phi có điều chi muốn dạy bảo?
    Thanh-Mai lắc đầu:
    - Hy-Văn tiên sinh hiện quản Khu-mật viện, là túi khôn của Trung-quốc. Tôi làm sao mà dạy tiên sinh? Có điều hôm nay, kỷ niệm ngày thông cảm giữa Bình-Nam vương-gia với Khai-Quốc vương. Tôi muốn tặng tiên sinh món quà.
    Nàng xuất trong bọc cái túi gấm để trước mặt, rồi từ từ mở miệng túi. Nàng móc ra tập sách nhỏ. Trên bìa có mấy chữ, nét rất hoa mỹ Hy-văn thi tập. Hy-Văn là tên tự của Phạm Trọng-Yêm. Lạ thay y nhìn thấy tập sách, mặt y tái mét. Triệu Thành, Minh-Thiên, Dư Tĩnh ngơ ngác nhìn Phạm Trọng-Yêm, tự hỏi:
    - Phạm Trọng-Yêm vốn sính thơ. Đi đâu y cũng mang theo tập sách nhỏ. Khi có hứng, làm thơ, rồi chép vào. Không hiểu sao tập thơ này lại nằm trong tay Thanh-Mai?
    Phạm Trọng-Yêm kinh sợ cũng phải. Bởi năm trước đây, khi được Vệ-vương Đinh Toàn trao cho Triệu Thành chiếc áo của vua Đinh chép bí mật hầm đá, cất dấu thư tịch thời Lĩnh-Nam. Y thiết kế cho Triệu Thành rằng dù đền thờ Tương-liệt đại vương không hề có kinh thư, nhưng ta cứ bầy ra việc Tung-sơn tam kiệt trộm sách. Sau đó chính y giả làm gian nhân cướp kinh thư đó đi. Như vậy võ lâm thiên hạ không còn rình rập ở vùng Thanh-hoá nữa. Trong lúc y cướp sách giả từ tay Trung-sơn tam kiệt, rồi trở về chỗ trú ngụ. Y thấy trên hành lý có chữ Trần-Kiệt phái Đông-a bái kiến. Y kinh sợ tự chửi thầm:
    - Thế là bao nhiêu mưu kế bị phái Đông-a khám phá ra hết rồi.
    Y tìm Triệu Thành, thuật cho chủ biết, rồi thiết kế mới: Bầy ra vụ Đàm An-Hoà khám đền thờ Tương-liệt đại vương. Tôn Trung-Luận trao di thư giả cho Triệu Thành. Chính y phá nóc đền cướp lại, rồi vờ bắt sống Triệu Thành. Đến chỗ vắng, y bỏ Triệu Thành xuống giữa đồng, rồi trở về chỗ ẩn thân. Khi đi đường, y bị một nông phu chạm vào người. Đêm hôm đó, khám phá ra thi tập bị mất cắp. Y cứ tưởng bị lạc mất. Nào ngờ lại nằm trong tay Thanh-Mai.
    Thanh-Mai cười rất tươi:
    - Hy-Văn tiên sinh! Phụ thân tôi tuy làm chưởng môn thực. Mà người lại không phải sư phụ của tôi. Sư phụ của tôi chính là ngũ sư thúc Trần Kiệt. Hôm vu qui, ngũ sư thúc tặng cho tôi tập thơ, dạy rằng sau này sang Trung-nguyên gặp Phạm sứ, trao trả Phạm sứ, chắc Phạm sứ thích lắm.
    Phạm Trọng-Yêm cảm thấy rùng mình, tự nghĩ:
    - Bấy lâu nay mình bị Khu-mật viện Đại-Việt, rồi phái Đông-a theo dõi, biết hết hành tung, mà nào có hay. Mình với Vương-gia còn sống về đến đây cũng may lắm rồi.
    Y đứng dậy tiếp thi tập:
    - Đa tạ Vương-phi ban thưởng.
    Khai-Quốc vương trịnh trọng nói:
    - Bình-Nam vương-gia! Chúng ta tuy tuổi tác có khác nhau, nguồn gốc cơ thể, tiếng nói bất đồng. Nhưng hiện chúng ta đều có trách nhiệm sao cho hai tộc Hán, Việt được hạnh phúc.
    Triệu Thành thấy Khai-Quốc vương nói thẳng ngay vào vấn đề. Y tự nhủ:
    - Bên kia lấy lòng thành đối đãi với ta. Ta chẳng nên xảo trá.
    Nghĩ vậy y nói:
    - Chúng ta có mấy vấn đề cần phải giải quyết. Một là tình giao hảo giữa Tống, Việt. Hai là kho tàng Tần-Hán.
    Khai-Quốc vương lắc đầu:
    - Theo thiển ý, chúng ta có tới ba vấn đề. Hai vấn đề Vương gia vừa nói, chỉ là phụ. Vấn thế chính mới quan trọng.
    - Xin vương gia cho biết vấn đề chính là gì?
    - Đó là vấn đề chính danh.
    - Chính danh?
    - Phải! Học trò hỏi Khổng-tử rằng: Nếu thầy được vua trao quyền cho, thấy làm gì trước? Khổng-tử đáp: Phải chính danh. Tôi dám hỏi Vương-gia. Hiện Vương-gia cầm đại quyền, nhưng trong triều gian đảng của Lưu hậu rất nhiều. Chính bọn Đặng Đại-Bằng chẳng mưu ám toán Vương-gia do chỉ dụ của Lưu hậu đó ư? Nay, sau chuyến Nam du, uy tín Vương-gia trùm hoàn vũ. Võ lâm, anh hùng, sĩ dân đều hướng về vương gia. Vì vậy Lưu hậu mưu hại Vương-gia, lẽ đương nhiên.
    Triệu Thành gật đầu:
    - Vấn đề chính danh phải ra sao?
    - Khắp thần dân Tống, ai cũng biết Vương-gia được phụ-hoàng cực kỳ sủng ái. Song đương thời sau khi Sở-Vương rồi Chiêu-Thành thái tử bị hại, Vương-gia không muốn lên làm vua. Thế nhưng Vương-gia lại nhất tâm nhất trí phò trợ cho Thiên-Thánh hoàng-đế. Thế nhưng... Lưu hậu muốn hại Vương-gia, sai Vương-gia đi sứ. Ý bà muốn mượn võ lâm Đại-Việt giết vương gia. Thế nhưng...
    Vương chỉ vào Minh-Thiên, Phạm Trọng-Yêm:
    - Một là nhờ thiên mệnh, hai là nhờ anh linh các bậc Tiên-hoàng, ba là nhờ các vị đây phò tá, Vương-gia không những thoát cạm bẫy của Lưu hậu, mà còn kết thân được với võ lâm Đại-Việt. Với uy tín của Vương-gia, nay mai trở về triều sẽ có hai vấn đề xẩy ra.
    - ??
    - Nếu Lưu hậu không ngoan, bà sẽ để Vương-gia cầm quyền như cũ. Tống kết thân với tộc Việt. Mặt Nam yên. Tống quay mặt lên Bắc đối phó với Tây-hạ, Thổ-phồn, Khiết-đan. Trong nước trải qua thời thái bình thịnh trị. Vương-gia trở thành Y Doãn, Chu-công, Trương Lương, Khổng-Minh. Nhưng e khó thành, vì bà muốn cướp ngôi Tống lập ra Thiên-hạ Hồng-thiết giáo.
    Phạm Trọng-Yêm gật đầu tỏ ý khâm phục lý luận của Khai-Quốc vương. Y nhận thấy vị Vương Đại-Việt này kiến thức, suy nghĩ giống hệt như y. Y đâu biết rằng khi từ chiến hạm vào bờ, y hiến kế cho Triệu Thành bị Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nghe hết. Hai người đã sai chim ưng truyền tin về cho Khai-Quốc vương.
    Khai-Quốc vương biết Yêm mới thực sự là người hiến kế cho Triệu Thành. Vương thấy lý luận của Yêm tỏ ra người quân tử, lại rất hợp với tình thế Đại-Việt. Vì vậy nay vương dựa theo đó bàn với Thành. Ắt Thành nghe theo.
    Quả nhiên nghe vương bàn, Triệu Thành đưa mắt nhìn Phạm Trọng-Yêm, rồi hỏi:
    - Xin vương tiếp cho.
    - Nếu Lưu hậu ngu đần, bà sẽ tìm cách chèn ép Vương. Hiện binh quyền trong tay, lại được nhân sĩ, võ lâm qui phục. Vương chẳng cần chống đối bà làm gì, cứ khuất thân cầu hiền, trọng đãi võ lâm, phủ dụ sĩ tốt. Bên ngoài chúng tôi lại chỉ biết có Vương-gia. Bấy giờ Lưu hậu có định gây khó dễ, Vương-gia chẳng muốn, người ta cũng tru diệt bà.
    Khai-Quốc vương nhìn thẳng vào mặt Triệu Thành:
    - Có điều vương gia chẳng muốn làm vua. Trong khi Lưu hậu muốn hại vương. Lưu hậu có điều cơ mật cực kỳ. Nếu Vương-gia muốn, chúng ta cùng đem bí mật ấy ra công bố cho sĩ dân thiên hạ, ắt Lưu hậu phải rút về hậu cung.
    Triệu Thành nhìn Minh-Thiên:
    - Tôi không muốn dùng binh biến, mà chỉ muốn tỉa bọn võ quan như Tào Lợi-Dụng, Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản cùng mười trưởng lão bang Nhật-hồ mà thôi. Tuy nhiên... nếu như vương gia giúp, thì Tống-Việt có thể trải qua thời gian dài thanh bình.
    Thanh-Mai mỉm cười:
    - Chúng ta đã có loại thần công trị Nhật-Hồ lão nhân được thì cũng trị bọn chân tay Lưu hậu được.
    Triệu Thành thở phào một tiếng:
    - Theo vương phi, ta nên trị bọn nào trước?
    - Ta cần trị từ dưới trị lên. Mười trưởng lão trực tiếp chỉ huy mười đội thị vệ. Ta trừ bọn chúng trước, cử người vào thay thế. Sau đó trị Sử-vạn, Khiếu. Cuối cùng tới Đào, Chu.
    Triệu Thành, Phạm Trọng-Yêm đều gật đầu công nhận là đúng. Phạm Trọng-Yêm tiếp lời:
    - Vấn đề chính danh đã xong. Bây giờ chúng ta vì trăm họ Tống, Việt, thiết kế sao cho thái bình.
    Bảo-Hoà cười:
    - Vấn đề thứ nhất xong, đương nhiên vấn đề thứ hai đâu cần bàn tới. Hy-Văn tiên sinh bất tất phải đề ra nữa.
    Phạm Trọng-Yêm gật đầu:
    - Quả như lời quận chúa dạy.
    Dư Tĩnh ngơ ngác:
    - Tại sao vậy?
    Bảo-Hòa mỉm cười:
    - Khi danh đã chính, đại quyền ở trong tay Bình-Nam vương-gia. Chỉ cần Bình-Nam vương-gia ban bố chính sách rằng Hán, Việt cùng là anh em. Các nước của Việt tộc như Đại-lý, Chiêm-thành, Chân-lạp, Xiêm-la, Lão-qua đều thuộc Đại-Việt. Tuyệt đối cấm tướng sĩ, biên cương đại thần gây hấn với Đại-Việt. Phương Nam đương nhiên có thái bình.
    Phạm Trọng-Yêm đưa mắt cho Triệu Thành, rồi hỏi:
    - Coi như hai vấn đề đầu đã xong. Còn vấn đề kho tàng Tần-Hán.
    Khai-Quốc vương nheo mắt cười:
    - Phạm sứ khéo đùa thì thôi. Kho tàng Tần-Hán, vốn gốc từ Trung-quốc, nay lại cất dấu ở cố địa tộc Việt, nhưng thuộc lãnh thổ Trung-quốc, đương nhiên của Đại-Tống, lẫn Đại-Việt. Cô gia sang đây quả có ý tìm thực. Song tìm như theo bóng tìm chim, theo tăm tìm cá. E kho tàng không có thực.
    Triệu Thành tỏ ra tự tin:
    - Vậy bây giờ như thế này: Trước kia Đại-Tống sang Đại-Việt tìm bản đồ. Đại-Việt đại xá cho. Ngược lại Đại-Việt sang đây tìm, Đại-Tống cũng không buồn. Ví dù như Việt tìm ra rồi, coi như Tống chậm bước. Kể từ giờ phút này, Việt nên giúp Tống tìm. Sau ngày mười tám, nếu tìm không ra, Tống bỏ cuộc. Bấy giờ mặc ý Việt làm gì thì làm.
    Khai-Quốc vương nắm tay Triệu Thành:
    - Bên Việt xin đặt các cao thủ dưới quyền Bình-Nam vương từ giờ khắc này cho đến hết ngày mười tám.
    Vương cười nói ỡm ờ:
    - Lỡ ra kho tàng bị người nào đó mang đi mất rồi, các vị tính sao?
    - Thà vậy còn hơn cứ đêm tưởng, ngày mơ, bỏ thương, vương tội.
    Triệu Thành, Phạm Trọng-Yêm nghe Khai-Quốc vương nói, mà y tưởng như tai ù đi. Vì không bao giờ họ nghĩ tới Khai-Quốc vương có thể nhường cho họ dễ dàng như vậy.
    Dư Tĩnh cẩn thận hơn:
    - Vương gia hứa chắc như vậy?
    - Cô gia xin hứa.
    Dư Tĩnh hướng vào Mỹ-Linh lắc đầu:
    - Công chúa! Mấy hôm nay chúng tôi thấy giáo chủ Lạc-long giáo cùng lực lượng võ lâm Đại-Việt tụ về đây khá đông đảo. Họ không tìm kho tàng thì làm gì vậy?
    Mỹ-Linh cau mày:
    - Dư an-phủ sứ có quên không? Tôi được lệnh cô mẫu tức vua Bà Bắc-biên sai đi cùng anh Thiệu-Thái đón chân mệnh Thiên-tử. Nào ngờ chân mệnh chính thị Vương-gia. Vương gia truyền chúng tôi theo hầu. Khi ở dưới thuyền, Vương-gia được Hy-Văn tiên sinh đón đi. Anh em chúng tôi tưởng Vương-gia bị bắt cóc, vội xuống mủng, nghìn dặm tìm chúa. Rồi ban nãy, chúng tôi núp ở bụi cỏ, cứu giá kịp thời. Chứ chúng tôi đâu có chủ tâm tranh kho tàng?
    Triệu Thành nghe Mỹ-Linh nói, mặt y hiện lên vẻ hân hoan không bút nào tả xiết. Y điểm lại việc Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cứu giá, rồi khuất phục bang Nhật-hồ cho y. Lòng y tràn đầy thiện cảm với nàng.
    Mỹ-Linh tiếp:
    - Khi chúng tôi đến đây, anh Thiệu-Thái truyền lệnh cho giáo chúng Lạc-long giáo từ nay nhất nhất chỉ tuân chỉ Vương-gia. Khi giáo chúng thấy Giáo-chủ tới, họ tụ về xin trị Chu-sa độc tố. Chứ anh Thiệu-Thái đâu có truyền lệnh cho họ tranh kho tàng?
    Khai-Quốc vương dơ tay ra hiệu cho Dư Tĩnh, Mỹ-Linh im lặng:
    - Dư an phủ sứ! Theo tôi nghĩ, kho tàng Tần-Hán chắc không có. Cô gia ngờ rằng người xưa truyền ngôn với ngụ ý gì đó, mà chúng ta chưa hiểu. Bây giờ thế này...
    Vương ngừng lại một lúc rồi cầm tay Bình-Nam vương:
    - Giữa chúng ta, trước kia có chỗ hiểu lầm. Bên Đại-Việt chúng tôi đi bước trước: Giải Chu-sa độc chưởng cho Vương-gia cùng quý vị. Lại vừa rồi, chúng tôi ra tay cứu Vương-gia cùng quý vị khỏi bị bọn Nhật-hồ thảm sát. Cuối cùng thu phục bang Nhật-hồ từ Lưu hậu về với Vương-gia. Như vậy, chúng tôi tỏ thiện chí nhiều rồi.
    Phạm Trọng-Yêm đứng dậy chắp tay xá Khai-Quốc vương:
    - Anh em bên chúng tôi không bao giờ quên ân đức Vương-gia, cùng các vị. Tuy nhiên, Vương-gia cứu chúng tôi là cá nhân. Chúng tôi không thể vì cá nhân, mà bỏ đại cuộc.
    Thanh-Mai gật đầu:
    - Hy-Văn tiên sinh thực xứng đáng nhân tài lỗi lạc Đại-Tống. Tiên sinh khỏi cần rào trước, đón sau. Chúng tôi xin đề nghị thế này: Dù Vương-gia lên ngôi cửu ngũ, dù Vương-gia giữ trọng quyền, xin Vương-gia dùng uy tín mình, đừng để triều đình, biên cương trọng thần gây hấn với Đại-Việt. Sao cho Hoa, Việt sống những ngày thanh bình.
    Minh-Thiên chắp tay:
    - A-Di Đà-Phật.
    Khai-Quốc vương tiếp lời Thanh-Mai:
    - Ngược lại về phía Đại-Việt chúng tôi cũng làm tương tự.
    Bình-Nam vương nhìn Phạm Trọng-Yêm, Minh-Thiên, rồi gật đầu:
    - Tôi xin hứa như vậy.
    Bảo-Hoà nhìn lên trời, nói bâng quơ:
    - Hai anh tài, cùng vì quốc sự. Gốc cơ thể cùng từ vua Thần-Nông. Không biết ai là anh, ai là em?
    Dư Tĩnh sợ bên Đại-Việt chiếm tiên cơ, y nói:
    - Dĩ nhiên Bình-Nam vương-gia là anh.
    Y tưởng bên Đại-Việt sẽ lên tiếng chống đối. Nào ngờ Khai-Quốc vương vỗ vai y:
    - An phủ sứ nói vậy thực phải. Bình-Nam vương-gia là anh. Cô-gia là em.
    Phía bên Tống nghe Khai-Quốc vương nói đều kinh ngạc, mở to mắt nhìn vương.
    Từ Triệu Thành cho tới Dư Tĩnh, Vương Duy-Chính cho đều không hiểu cũng phải. Bởi Khai-Quốc vương là học trò của cao tăng đắc đạo. Tuy Vương chưa thụ giới, chứ sự thực Phật pháp rất uyên thâm. Cho nên đối với vương, anh hay em cũng vậy, chẳng có gì khác lạ cả. Điều quan trọng là lấy nghĩa đãi nhau.
    Thanh-Mai hỏi Vương Duy-Chính:
    - Vương chuyển-vận sứ! Vương có biết tại sao Bình-Nam vương gia là anh, còn phu quân tôi lại là em không?
    - Tại vì Tống lớn. Việt nhỏ.
    - Vương đại nhân lầm rồi. Vương đại nhân nên nhớ rằng, vua Thần-Nông sinh ra hai con. Ngài phong cho con lớn là vua Đế-Nghi làm vua phương Bắc, nay thành Trung-nguyên. Ngài phong cho con nhỏ là Lộc-Tục làm vua phương Nam, nay thành Đại-Việt. Vì vậy nay Bình-Nam vương làm chúa phương Bắc đương nhiên ở vai anh. Khai-Quốc vương làm chúa phương Nam, đương nhiên làm em. Lý do thứ nhì, xét về tuổi tác, Bình-Nam vương lớn hơn Khai-Quốc vương đến mười hai tuổi, xứng đáng làm anh cả, chứ đừng nói là anh.
    Đông-Sơn lão nhân đứng dậy chắp tay hướng hai vương:
    - Bần đạo lớn mật, dám xin đề nghị một điều.
    Từ khi mới gặp, Khai-Quốc vương thấy Đông-Sơn lão nhân, Minh-Thiên tuy bị võ lâm Đại-Việt đánh bại, mà cả hai luôn bàn nhiều điều có lợi cho tình hoà hảo Hoa, Việt. Nay lão muốn đề nghị, Vương vui lòng:
    - Xin đạo sư chỉ dạy.
    - Vương gia quá lời. Bần đạo nghĩ, sao hai Vương không kết làm anh em, có phải phúc cho hai tộc Hoa, Việt không?
    Mọi người đều vỗ tay hoan hô.
    Bình-Nam vương nắm tay Khai-Quốc vương:
    - Thiên duyên chúng ta gặp nhau. Lời của Đông-Sơn đạo sư thực phải.
    Ngô Cẩm-Thi sai bầy bàn thờ Phục-Hy, Thần-Nông, Nữ-Oa. Hương khói nghi ngút. Hai Vương cùng quỳ xuống khấn:
    - Hôm nay, ngày mười ba tháng mười một, năm Nhâm-Tý, bên Đại-Tống, niên hiệu Thiên-Thánh thứ năm. Bên Đại-Việt, niên hiệu Thuận-Thiên thứ mười tám. Triệu Nguyên-Nghiễm, Lý Long-Bồ xin thề trước liệt tổ Phục-Hy, Thần-Nông, thái mẫu Nữ-Oa rằng: Cả hai xin dùng hết sức mình tránh gây chiến tranh giữa hai nước. Cả hai cùng kết làm anh em. Ai bội phản lời ước này, sẽ chết dưới muôn nghìn gươm đao.
    Hai người hướng vào nhau, lạy bốn lạy. Khai-Quốc vương kêu:
    - Đại ca.
    Bình-Nam vương gọi:
    - Nhị đệ.
    Tùy tùng hai bên đều dơ tay thề theo.
    Thanh-Mai tiếp:
    - Về vấn đề kho tàng, kể từ nay bên Đại-Việt không tranh dành. Trái lại, bên Đại-Việt sẵn sàng giúp đại ca tìm kiếm. Tiểu muội nhắc lại, kể từ ngày hôm nay. Đại-Việt chỉ tìm kiếm khi Tống bỏ cuộc.
    Triệu Thành gật đầu:
    - Đa tạ nhị muội.
    Phạm Trọng-Yêm thành thực:
    - Bên phía Khai-Quốc vương, dường như không gặp khó khăn gì. Ngược lại bên Bình-Nam vương có nhiều vấn đề nan giải. Mong bên Đại-Việt trợ giúp.
    Thanh-Mai mỉm cười:
    - Việc của Bình-Nam vương là việc của Khai-Quốc vương. Hy-Văn tiên sinh đừng ngại ngùng. Xin cứ nói ra.
    Triệu Thành đưa mắt nhìn Mỹ-Linh:
    - Dường như Lưu hậu giữ chức vụ gì tối cao trong bang Nhật-hồ Trung-nguyên. Vì vậy bà có hành tung rất bí mật. Theo cô-gia nghĩ có lẽ bà bị kiềm chế bằng Chu-sa độc chưởng. Xin Công-chúa nói với Thân thế-tử trị cho Lưu hậu. Khi trị bệnh cho bà, công-chúa ra điều kiện Lưu hậu phải rút lui khỏi chính trường.
    Mỹ-Linh đưa mắt nhìn chú, hỏi ý kiến. Khai-Quốc vương gật đầu:
    - Đại ca! Đại ca thử nghĩ xem, có nên trị cho bà không? Bởi trị cho bà rồi, bà trở mặt thì sao? Không lẽ bấy giờ chúng ta lại dùng Nhật-hồ độc chưởng đánh bà? Đại ca cũng như đệ, đều theo học những thiền sư đạo cao, đức trọng, đâu có thể làm việc đó?
    - Ý nhị đệ thế nào?
    - Thôi thế này vậy: Đệ ở xa, không hiểu nhiều về Trung-nguyên. Đệ cho Mỹ-Linh, Thiệu-Thái theo giúp Vương huynh. Vương huynh coi chúng như con cháu, tùy nghi sai bảo.
    Nghe Khai-Quốc vương nói, Triệu Thành mừng qúa. Vương nắm tay Khai-Quốc vương gật mạnh, tỏ vẻ cảm ơn. Vương hỏi lại Khai-Quốc vương:
    - Dường như hiền đệ trên đường đi sứ Tống triều thì phải?
    - Đúng thế. Khi tới biên thùy được đại thần trong kinh ra đón với đoàn thị vệ. Đệ nhận thấy trong đoàn thị vệ có mười trưởng lão bang Nhật-hồ. Võ công họ thực cao thâm không biết đâu mà lường. Thế rồi khi đi đường bang Trường-giang xuất hiện. Trường-giang song quỷ chỉ đánh mấy chiêu đã bắt hết các trưởng lão bang Nhật-hồ đi.
    Phạm Trọng-Yêm kinh ngạc, mở to mắt ra:
    - Có việc đó ư?
    - Hơn thế nữa, bang Trường-giang bắt cả đại thần phụ trách tiếp sứ, cùng đoàn thị vệ. Cuối cùng họ bắt sứ đoàn dẫn đi tìm kho tàng.
    Triệu Thành cười:
    - Chắc họ bị đánh cho thua chạy dài.
    - Không, khi nhập Tống cảnh, đệ ra lệnh cho Thanh-Mai cùng năm trẻ tuyệt đối không được xử đụng võ công trên đất Trung-nguyên. Vì vậy đệ để cho họ bắt.
    Phạm Trọng-Yêm than:
    - Sự việc như thế này: Lưu hậu bị bang Nhật-hồ khống chế. Bà nhận mười trưởng lão giả làm thị vệ, hầu thi hành mạng lệnh của bà. Trong bang chỉ có bang trưởng, Tả, Hữu hộ giáo, ngũ sứ biết việc đó. Ngược lại Trường-giang song quái lại âm thầm qui phục Lưu hậu. Vì vậy Lưu hậu bầy ra trò cho bang Trường-giang bắt mười trưởng lão bang Nhật-hồ, ra cái điều triều đình đã hộ tống bằng lực lượng lớn, mà vẫn không bảo vệ được sứ đoàn. Trong khi đó bọn Trường-giang bắt sứ đoàn đi tìm kho tàng cho bà. Còn lực lượng bang Nhật-hồ đi đào kho tàng là hư.
    Phạm Trọng-Yêm đề nghị với Khai-Quốc vương:
    - Bây giờ xin Vương-gia cùng các vị nhập với sứ đoàn của Bình-Nam vương đi Biện-kinh. Hiện Lưu hậu thu dụng khá nhiều võ lâm cao thủ. Trong cuộc tranh tài Biện-kinh, người phía Đại-Việt trổ thần oai, tỉa bớt vây cánh của bà. Như vậy vừa tỏ cho bọn chủ xâm chiếm Đại-Việt kinh sợ, lại trợ giúp uy thế cho Vương-gia của chúng tôi.
    Trời dần sáng. Nắng ban mai chói chang trên núi rừng vàng úa. Ngô Cẩm-Thi mời mọi người đi nghỉ. Qua một đêm mệt mỏi, ai nấy lăn ra ngủ.
    Đến gần trưa, Thiệu-Thái, Đặng Đại-Bằng trở về ngôi dinh thự họ Ngô. Thiệu-Thái thấy năm ngư nhân ngồi với nhau một chỗ.
    Chàng nghĩ thầm:
    - Thì ra năm ngư nhân này vốn người nhà. Họ đi cùng với cậu mợ hai, hẳn không có ác ý gì với Lạc-long giáo.
    Chàng cùng Mỹ-Linh đến gần, chắp tay xá:
    - Năm vị huynh đệ! Hai vị trưởng lão của chúng tôi có chỗ vô phép với năm vị, bị năm vị bắt đi. Mong năm vị đại xá cho.
    Ngư nhân mũ đỏ cười khúc khích, y cầm chân ngư nhân mũ trắng giật mạnh. Chân đứt làm hai. Thiệu-Thái kinh ngạc nhìn lại: Thì ra đó chỉ là đôi guốc cao nghệu.
    Mỹ-Linh chửi thầm:
    - Mình đáng chết thực. Đám ngư nhân này toàn trẻ con. Chúng làm chân gỗ cao đi vào. Thành ra mình cứ tưởng rằng chúng dị hình: Mình ngắn, chân dài. Quái, chúng còn trẻ con, mà sao võ công kỳ diệu đến không tưởng tượng nổi.
    Cả năm ngư nhân cùng cười hô hố. Họ thè lưỡi nhát Mỹ-Linh. Mỹ-Linh nổi giận rút kiếm ra. Ánh kiếm loé lên, chân giả năm ngư nhân đều bị tiện đứt.
    Nàng uất nhất là ngư nhân mũ đỏ, bởi từ đầu tới cuối, nàng bị y trêu nhiều nhất. Kiếm vung lên, ngư nhân mũ đỏ đứng im không tránh. Mặt nạ rơi xuống. Mỹ-Linh á lên một tiếng.
    Y chính là Trần Tự-Mai.
    Nàng nổi giận:
    - Được lắm! Thì ra cậu. Suốt mấy ngày cậu trêu chị như thế đấy.
    Tự-Mai thè lưỡi ra nhát Mỹ-Linh. Mấy hôm nay, uất ức vì bị ngư nhân trêu chọc, làm nàng phải lo nghĩ, lao đao vất vả. Bây giờ nảy ra y chính là cậu em mà nàng yêu quý như yêu chính mình.
    Nổi giận, nàng vung kiếm lên hướng ngư nhân mũ trắng. Mặt nạ rơi xuống.
    Y chính là Tôn Đản.
    Nàng lia kiếm liên tiếp, hiện ra ngư nhân mũ đen là Lê Thuận-Tông. Ngư nhân mũ xanh là Hà Thiện-Lãm. Ngư nhân mũ vàng là Lê Văn.
    Cả năm bao vây nàng, thè lưỡi ra nhát. Mỹ-Linh uất quá, nàng quẳng kiếm xuống đất, chạy tới bờ suối bưng mặt khóc. Tự-Mai, Tôn Đản đuổi theo. Mỗi đứa cầm một cánh tay nàng, đưa lên miệng cắn bàn tay.
    Cả năm đứa xúm vào đấm lưng, bóp chân tay cho nàng.
    Trời sinh ra tâm tính Mỹ-Linh thuần hậu, lại thấm nhuần đạo Phật, vì vậy giận đấy, rồi lại bỏ qua. Nàng nắm tai Tôn Đản, Tự-Mai kéo thực mạnh, rồi cười:
    - Hai thằng này cầm đầu, chứ Thuận-Tông, Thiện-Lãm, Lê Văn cho ăn kẹo cũng không dám trêu bà chị.
    Tự-Mai chĩa ngón tay điểm một cái vào cùi chỏ Mỹ-Linh. Hai cánh tay nàng tê liệt. Nàng rùng mình hỏi:
    - Võ công này của các em, gọi là võ công gì vậy?
    Tự-Mai bóp sẽ tay Mỹ-Linh một cái, tay nàng hết tê. Nó cười:
    - Gọi là điểm huyệt.
    - Các em học ở đâu vậy?
    - Anh cả, chị Thanh-Mai với bọn em mới chế ra đấy thôi.
    Mỹ-Linh vẫy tay kéo năm cậu em phá trời lại gần, rồi hỏi:
    - Phép điểm huyệt như thế nào? Mau nói cho chị nghe. Bằng không thì ốm đòn.
    Tự-Mai quay lưng lại phía Mỹ-Linh:
    - Chị ngon quá ta! Muốn hỏi người ta, mà lại hăm dọa ư? Không nói. Nhất định không nói.
    Mỹ-Linh đấu dịu:
    - Thôi Tự-Mai ngoan như con hùm, Tự-Mai dễ thương như con gấu chó. Tự-Mai dịu dàng như con đười ươi. Tự-Mai nói cho chị nghe đi.
    - Chị phải đấm lưng cho em, em mới nói.
    Mỹ-Linh nắm hai tay đấm lưng cho Tự-Mai. Trong khi đó Thuận-Tông, Thiện-Lãm đấm lưng cho nàng. Tôn Đản, Lê Văn hái hoa cúc dại kết lại thành vòng đeo lên cổ Mỹ-Linh.
    Tự-Mai khoan thai kể.
    Đoạn trên kể hành trạng của Thiệu-Thái, Mỹ-Linh khởi hành từ Thăng-long. Vậy cũng trong thời gian đó Khai-Quốc vương, Vương-phi và 5 trẻ làm gì? Xin đọc đoạn dưới.
    Sau hôm đại hội Thăng-long, Thuận-Thiên hoàng-đế cử lễ cưới linh đình cho Khai-Quốc vương với Thanh-Mai. Thanh-Mai được phong Vương phi ngay từ lúc làm lễ bái Quốc-tổ, Quốc-mẫu.
    Mọi việc xong xuôi, Thuận-Thiên hoàng-đế, thể theo ý kiến Trần Tự-An, để Khai-Quốc vương đi sứ Trung-quốc hầu kết thân với nhân sĩ, võ lâm Tống. Bằng mọi giá phải cho họ biết Đại-Việt vốn yêu hoà bình. Tống, Việt có cùng tổ tiên, không thể tiếp tục gây chiến. Đối với bọn chủ chiến quá khích, cần sao để họ hiểu tộc Việt không thiếu nhân tài. Nếu họ muốn gây ác cảm với ta, ta há sợ sao?
    Phía Khai-Quốc vương, Tạ-Sơn đã cho Mỹ-Linh, Thiệu-Thái thi hành một phần kế hoạch, bám sát Triệu Thành. Bảo-Hòa, Thông-Mai lên Bắc-biên, thống nhất 207 khê động, sau đó sang Lưỡng-Quảng, cùng đi tìm kho tàng. Vương phối trí Lê Ngọc-Phách, Lê Thiếu-Mai để cho Tống bắt cóc. Hầu thi hành một phần kế hoạch khác.
    Vương lại sai hai bang trưởng bang Hồng-hà Sử Anh, bang Đường-lang Tào Minh, thi hành phần khác kế hoạch.
    Sau khi phối trí xong, vương truyền trao việc Khu-mật viện cho sư phụ Huệ-Sinh, thêm quốc trượng Trần Tự-An làm cố vấn. Tạ Sơn trực tiếp điều khiển. Tổng trấn Trường-yên cho Ngô An-Ngữ. Việc thống lĩnh mười đạo quân cho Lê Phụng-Hiểu, Lý Nhân-Nghiã, Dương Bình, Quách Thịnh. Vương dẫn Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm lên đường Bắc-du.
    Trong khi dự lễ cưới Khai-Quốc vương, Hồng-Sơn đại phu, với tư cách người đỡ đầu cho Vương, cùng phu nhân Lâm Huệ-Phương về ngồi ghế chủ vị. Lê Văn cùng ngang tuổi với đám Tôn Đản. Gặp nhau, thân nhau ngay. Thế là Thuận-Thiên cửu hùng thành thập hùng.
    Khai-Quốc vương cùng Vương-phi lên đường. Tùy tùng chỉ có năm ông mãnh Tôn Đản, Tự-Mai, Thiện-Lãm, Thuận-Tông, Lê Văn. Vương định khi đến Bắc-biên, họp với vua bà là công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hoà, phò mã Thân Thừa-Quý. Rồi mới sang Tống, Đại-lý. Vương đem theo năm cặp chim ưng làm phương tiện liên lạc.
    Thủ đô Bắc-biên đóng ở động Giáp. Khi còn cách xa động Giáp hơn mười dặm, đôi chim ưng bay trên trời kêu lên mấy tiếng vui hoà.
    Tự-Mai chỉ lên trời nói lớn:
    - Kìa đoàn chim ưng Bắc-biên đang tiếp đón chúng ta kìa.
    Mọi người nhìn lên trời, quả có năm đoàn chim ưng đang bay tới. Năm đôi chim ưng gặp bạn, lập tức kêu mấy tiếng chào đón, rồi bay trở lại. Tự-Mai ngửa mặt lên trời đếm. Nó la lớn:
    - Có năm đoàn, mỗi đoàn mười con.
    Đoàn chim ưng lượn một vòng trên đầu phái đoàn, rồi cùng ca hót nhịp nhàng.
    Vương nói với Thanh-Mai:
    - Bà chị hai dàn quân đón chúng mình đấy.
    Thanh-Mai vốn kính phục bà chị chồng từ lâu. Lòng nàng rộn lên, vì sắp gặp vua Bà Bắc-biên. Nàng chỉ về phía trước:
    - Kìa, chị hai tới kìa.
    Vua Bà cỡi trên bành voi trắng. Có tàn vàng che. Thân phò-mã cỡi ngựa ô đi cạnh. Phía sau, một đoàn hổ, báo, voi, đười ươi, chó sói, hàng lối ngay thẳng.
    Khác với Khai-Thiên vương thích lễ nghi, kiểu cách. Khai-Quốc vương giản dị, đơn sơ. Vương hỏi chị:
    - Cú rừng với Thanh-Trúc về chưa?
    - Về rồi. Không biết cậu sai chúng làm gì. Chị hỏi, chúng chỉ lắc đầu. Chúng mệt quá đi không nổi, vừa tới nhà cả hai lăn ra ngủ như chết. Vừa rồi có tin cậu mợ tới, cho đánh thức. Chúng vẫn nằm trèo queo ra ngủ.
    Nghe chị kể, Vương bật cười:
    - Chúng mệt thực chứ không phải mệt giả đâu. Hai đứa lê được về đến đây, em cho rằng may lắm rồi.
    Phò mã Thân Thừa-Quý ghé tai Vương hỏi:
    - Cậu định sao về Thiệu-Thái, Mỹ-Linh cùng Thiệu-Cực với Thanh-Trúc. Chúng ngang tuổi nhau, lại cùng một chí hướng. Cậu thả chúng đi với nhau như vậy, ắt chúng có tình ý. Mà có tình ý, liệu cậu chu toàn cho chúng được không?
    - Sao lại không? Anh chị phải hiểu rằng tuổi chúng còn nhỏ, mà hành sự mẫn cán như thế, không phải do tài năng, mà do sự cố gắng hiệp đồng lứa đôi. Một Thiệu-Thái thành công năm, một Mỹ-Linh thành công năm. Hai đứa hợp lại kết quả không phải năm với năm là mười, mà thành hai mươi lăm. Em mong cho chúng thương yêu nhau còn không được.
    - Cậu chấp thuận tình trạng trai gái tương thuận không cần cha mẹ sao? Luật nước rất nghiêm.
    Thời bấy giờ trai gái tuyệt đối không được gần nhau. Việc hôn nhân, cha mẹ hoàn toàn định đoạt, con cái chí được hỏi ý kiến mà thôi. Dân chúng đã vậy. Huống hồ Mỹ-Linh, Thiệu-Thái ở vai Công-chúa, Thế-tử, mà phạm tội, e khó châm chước.
    - Chúng đâu có phạm luật nước? Em được phu- hoàng ủy quyền coi Khu-mật viện. Khi chúng tuân lệnh em tức tuân chỉ phụ-hoàng. Trong khi ban lệnh, em đã dự trù trường hợp này xẩy ra rồi. Như thế chúng thương yêu nhau, cũng do tuân chỉ mà thành.
    - Liệu cậu cả có đồng ý không?
    - Không đồng ý cũng phải đồng ý. Ông ấy đem Mỹ-Linh cho em làm con. Như vậy em toàn quyền gả chồng. Rể em chọn là Thiệu-Thái. Còn Thiệu-Cực với Thanh-Trúc, chính em tìm cách ghép lại đấy chứ. Thân phụ Thanh-Trúc trao nó cho em. Em định liệu hết.
    Vào kim trướng dinh tổng trấn Bắc-biên. Các quan văn võ của triều đình Bắc-biên tề tựu đầy đủ.
    Lễ nghi tất.
    Triều đình Bắc-biên không tổ chức như triều Lý, triều Tống, mà giữ nguyên như triều đình Lĩnh-Nam. Trước hết trên có vua Bà, rồi tới tam công gồm tư đồ, tư không, tư mã. Dưới có lục vị thượng thư. Triều đình thống lĩnh 207 khê động, coi như 207 nước nhỏ. Mỗi khê động có tổ chức riêng biệt.
    Nguồn gốc khê động do di sản thời Lĩnh-Nam còn lại. Thời vua Hùng phong cho một trăm con cai trị trăm vùng khác nhau, bao quát từ phía Nam núi Ngũ-lĩnh xuống tận cùng biển Nam-hải. Ngày nay gồm Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-Nam bên Trung-quốc. Toàn bộ lãnh thổ Việt-nam, Thái-lan, Cao-miên, Ai-lao hiện tại. Sau đó các Hoàng-tử lại cắt lãnh thổ mình thành nhiều mảnh nhỏ phong cho con cháu. Mỗi mảnh đó, do một lạc hầu cai trị, theo chế độ cha truyền con nối. Khi vua Trưng thành đại nghiệp, vẫn duy trì chế độ đó.
    Mã Viện chiếm được Lĩnh-Nam, y bãi bỏ chế độ lạc hầu, lạc tướng, vì đó là nguồn gốc duy trì tinh thần tộc Việt. Nhưng Viện chỉ thành công ở vùng đồng bằng. Còn vùng núi non, các lạc hầu vẫn biên thùy một cõi. Truyền đến đời Lý, còn 207 lạc ấp, sử gọi là khê động, nằm trấn biên giới phía Bắc Đại-Việt. Đây là thành trì bảo vệ biên giới Hoa-Việt trong hơn nghìn năm Bắc thuộc không bị đồng hoá.
    Các khê động vẫn giữ tinh thần cũ, họp nhau, tôn một phụ nữ làm vua. Thời vua Đinh, Lê vẫn tôn trọng, không đổi. Khi vua Lý Thái-Tổ lên ngôi, phong con gái thứ nhì làm:
    Lĩnh-Nam bảo quốc hoà dân công chúa gọi tắt bằng danh xưng công chúa Bảo-Hoà, gả cho Thân Thừa-Quý. Công chúa dùng đức, thống nhất khê động, được tôn làm vua Bà Bắc-biên.
    Về quân đội, Bắc-biên có hai loại. Một là quân của các động chủ, lạc hầu. Loại quân này, vừa làm ruộng, vừa tuần phòng trộm cắp. Hai là quân của Bắc-biên, có năm đạo mang tên Tiền-đạo, Tả-đạo, Hữu-đạo, Trung-đạo và Hậu-đạo. Mỗi đạo có bẩy ngàn hai trăm người. Đơn vị nhỏ nhất là một Thập, gồm mười người. Ba thập Bộ, một thập Kị, một thập Thú thành một Lượng. Ba lượng Bộ, một lượng Nỏ thành một Đội. Mỗi đội có hai trăm người. Một Lữ có ba đội Bộ, một đội Kị, một đội Thú. Cộng tám trăm người. Một Sư có ba Lữ. Một Đạo có ba Sư. Ngoài ra còn ba Thủy-đội, và đạo Tế-tác hơn nghìn người. Tổng cộng năm vạn.
    Trong đại sảnh đường, hơn 207 Động-chủ khê động đều tề tựu, chờ đón Vương.
    Vương ngỏ lời chào mừng các Động-chủ rồi nói:
    - Lãnh thổ tộc Việt hiện giờ chia làm nhiều khu vực khác nhau. Thuộc hẳn Tống như Quảng-nam lộ. Quảng-nam lộ chia làm hai khu vực Quảng-nam Tây-lộ, Quảng-nam Đông-lộ. Thường gọi tắt bằng Quảng-Tây, Quảng-Đông. Tây-Bắc Quảng-nam lộ thuộc Đàm-châu, khu vực đất linh phát tích tộc Việt cũ, tức Trường-sa, hồ Động-đình. Sau gần nghìn năm Bắc thuộc, tộc Việt tại đây đã nhiều lần nổi lên dành tự chủ được một thời gian, rồi bị xâm chiếm.
    Vương ngừng lại cho cử tọa theo kịp, rồi tiếp:
    - Khu phía Tây, tức lãnh thổ Tượng-quận cũ. Người Việt nổi lên thành lập nước Đại-lý, trải mấy trăm năm. Họ Đoàn được tôn lên làm vua. Các vua đời trước, đã nhiều công liên lạc tộc Việt tại những vùng khác, mong thống nhất, mà chưa đạt được. Phía Nam gồm hai nước Chiêm-thành, Chân-lạp. Thời Triệu Đà chiếm Âu-lạc, các Lạc-hầu phía Nam Nhật-Nam dựa vào núi non hiểm trở, hùng cứ một phương, rồi thành lập hai nước.
    ... Cho đến thời Lĩnh-Nam, vua Trưng thành đại nghiệp, cử sứ vào bàn việc thống nhất. Vua Chiêm từ chối, vì nghĩ rằng mình vốn nhỏ bé, thống nhất sẽ bị Lĩnh-Nam khống chế. Chiêm-vương còn đem quân giúp Hán đánh phía sau Lĩnh-Nam, bị anh hùng Lại Thế-Cường, Trương Thủy-Hải, Trương Đằng-Giang đánh bại. Chân-lạp ở phía Nam Chiêm-quốc, thành ra không thể thống nhất với Lĩnh-Nam.
    Vương đưa mắt nhìn bộ tộc Thái, rồi tiếp:
    - Tộc Việt giữ được nguyên thủy tính hiền hoà phải kể giòng Thái, hậu duệ của ngài Lang-Tiêu, tổ bánh chưng, bánh dày. Giòng Thái hiện chiếm đa số ở Đại-lý, và bao trùm vùng Lão-qua, Xiêm-la. Các nơi ấy, thành lập hai nước khác nhau. Tuy hai nước khác, song họ vẫn là con rồng cháu tiên như chúng ta.
    Vương nhìn phò mã Thân Thừa-Quý:
    - Lạc hầu, Lạc tướng các nơi đều đã biến mất, để thành quốc-gia. Duy khu vực Bắc-biên ta, vẫn duy trì được Lạc-hầu, nay gọi bằng danh xưng khê động. Bây giờ tôi muốn biết rõ tình hình 207 khê động ra sao?
    Thân Thừa-Quý vẫy tay ra hiệu. Hai viên quan đem ra cuộn trục lớn, treo lên trên tường. Trục lụa mở ra, trên vẽ tấm bản đồ Bắc-biên lớn hơn cái chiếu.
    Ông chỉ lên bản đồ:
    - Bắc-biên bao gồm toàn thể khu rừng núi phía Bắc Đại-Việt. Kể từ bể, Bắc giáp châu Khâm thuộc Quảng-Tây lộ, chạy dài sang Tây thuộc châu Ung, rồi tới Đại-lý. Như vậy biên giới Bắc-biên hai phần giáp Tống, một phần giáp Đại-lý. Phần giáp Tống hoàn toàn thuộc Quảng-Tây lộ.
    Trong năm thiếu niên theo Khai-Quốc vương, Lê Thuận-Tông vốn tính thâm trầm nhất. Trong những ngày ở Thăng-long, nó ăn ở ngay trong Khu-mật viện, ngày đêm đọc các tấu chương về Bắc-biên.
    Nó dơ tay xin hỏi:
    - Thưa Phò-mã! Trước kia Đại-lý, Quảng-Tây đều thuộc lãnh thổ mình. Thời vua Trưng, từ Tả-giang, Hữu-giang trở xuống thuộc Giao-chỉ. Sự phân chia biên giới hiện thời do đâu mà có. Có từ bao giờ? Mà đến nỗi biên giới Đại-Việt phải lùi xuống Nam đến hơn hai trăm dặm như vậy?
    Mọi người trố mắt nhìn đứa trẻ tuổi mười lăm, mười sáu, mà có câu hỏi thực sâu sa.
    Thân Thừa-Quý đáp:
    - Cháu hãy nhìn hai con sông Tả-giang, Hữu-giang. Từ biên giới Hoa-Việt đến đây thuộc đồng bằng. Thời vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng thuộc Giao-chỉ. Sau khi Mã Viện chiếm Lĩnh-Nam, y vẫn duy trì biên giới đó.
    Thuận-Tông hỏi tiếp:
    - Cháu có thắc mắc nữa. Từ khi Tống lên ngôi, họ thường sai sứ sang tìm di tích cột đồng trụ trên lãnh thổ Đại-Việt. Mà hồi Mã Viện chiếm Lĩnh-Nam. Y trồng một cây đồng trụ ở biên giới Quế-lâm và Giao-chỉ. Bấy giờ biên giới là sông Hữu-giang. Vậy muốn tìm cột đồng trụ, phải tìm ở khu này, chứ có đâu ở mãi vùng biên giới hiện tại?
    Suy luận của Lê Thuận-Tông làm cả đại sảnh đường đều mở to mắt ra kinh ngạc. Chính Khai-Quốc vương cũng tự chửi thầm:
    - Người xưa nói rằng: Lời trẻ con ứng như thần ứng không sai. Ừ nhỉ, bao lần sứ Tống sang kiếm truyện đòi tìm cột đồng trụ, hầu định biên giới Hoa-Việt, mà cả triều đình không tìm ra lẽ từ chối. Bây giờ Thuận-Tông mới khai sáng ra. Lần sau họ sang, đuổi họ về vùng Tả-giang mà tìm.
    Thân Thừa-Quý tiếp:
    - Biên giới hiện tại bắt đầu từ thời vua Ngô. Trước đó, Hoa-Việt không có biên giới. Vì tất cả đều thuộc Hoa, thì phân ra làm gì? Khi vua Ngô đánh đuổi Nam-Hán, chúng chạy về Bắc, vượt qua núi non hiểm trở thì ngừng lại. Vua Ngô muốn đem quân truy kích lên Tả-giang, nhưng đem quân qua rừng núi, rất khó khăn. Trong khi vùng Tả-giang thuộc đồng bằng thông với lãnh thổ Nam-Hán. Quân Nam-Hán dễ dàng tấn công ta. Vì vậy từ đó về sau biên giới Hoa-Việt lấy vùng núi non làm ranh giới.
    Ông chỉ lên bản đồ tiếp:
    - Ta có 207 khê động. Tất cả thuộc Việt tộc. Thường mỗi trại do một họ sinh sống. Nhưng những khê động gần Tống, thường bị quan Tống uy hiếp, nên trại trưởng theo Tống. Quanh những khê động này, Tống cho đồn quân đề phòng. Đây, kể từ biển, các động Hợp-phố, Như-tích, Để-trạo bị Khâm-châu khống chế, thành ra thuộc Tống. Còn trại Vĩnh-an, thuộc Việt. Đau một điều cả bốn trại đều thuộc họ Hoàng. Do Hoàng Lư thống lĩnh. Họ Hoàng rất trung thành với Đại-Việt. Kế tiếp trại Thiên-long, Cổ-vạn, Tư-minh bị Ung-châu khống chế. Mà những trại đó, cũng như những châu bên Đại-Việt như Tô-mậu, Na-dương, Đình-lập, An-châu đều do họ Vi sinh sống. Thủ lĩnh hiện thời là Vi Thủ-Đan. Hôm nay Vi huynh có về đây họp, xin Vi huynh trình bầy với Khai-Quốc vương.
    Một trung niên nam tử, thân thể hùng vĩ đứng dậy hành lễ với cử tọa, rồi nói:
    - Họ Vi chúng tôi đời đời sống trong vùng bẩy châu Thiên-long, Cổ-vạn, Tư-minh, Tô-mậu, Na-dương, Đình-lập, An-châu. Bốn châu sau thuộc Đại-Việt, vì vậy chúng tôi tổ chức thống nhất thành châu Tô-mậu, cai quản ba động Na-dương, Đình-lập, An-châu. Còn ba động Thiên-long, Cổ-vạn, Tư-minh thuộc Tống, họ chia rẽ, không cho thống nhất. Đã vậy họ bắt học tiếng Quảng, không cho học, nói tiếng Việt. Vì vậy lâu ngày, ba châu này gần như thành người Hoa cả.
    Khai-Quốc vương hỏi:
    - Tôi nghe thủ lĩnh bốn châu Vĩnh-bình, Tây-bình, Lộc-châu thuộc Ung-châu bên Tống, mà nhất định chống Tống. Việc đó ra sao?
    Một trung niên nam tử, dáng người như thư sinh đứng dậy hành lễ:
    - Thần Vi Đại-An xin tham kiến Vương-gia. Đúng như Vương-gia phán. Quan nhà Tống không cho thần thống nhất bốn châu thuộc quyền. Thần nhất định cãi, tổ chức thống nhất quân đội, giáo dục, thương mại. Cho nên hiện quan Tống đang đe dọa. Mong Vương-gia định liệu cho.
    Khai-Quốc vương vừa dứt lời, cử tọa vỗ tay vang dội. Vương tiếp:
    - Bốn châu của Vi Đại-An tiếp giáp với Lạng-châu, Quang-lang, Môn-văn, Vạn-nhai của Đại-Việt. Bốn châu này hiện do ai thống lĩnh?
    Thân Thừa-Quý chỉ vào một người mặt đen như nhọ chảo, nhưng giống ông như hai giọt nước. Ai trông thấy cũng biết là hai anh em:
    - Thống lĩnh bốn châu này là chú Thân Thừa-Phú. Chú Phú hiện lĩnh chức Binh-bộ thượng-thư Bắc-biên.
    Thân Thừa-Phú đứng dậy hành lễ.
    Khai-Quốc vương hỏi vua Bà Bắc-biên:
    - Em nghĩ anh Phú lĩnh chức Binh-bộ thượng-thư quá bận rộn. Vậy ta cho thống nhất năm châu của anh với bốn châu của Vi Đại-An làm một, trao cho Vi Đại-An cai quản. Như vậy thử xem quan Tống có dám gây sự không? Nếu họ gây, anh Phú lấy cớ bảo vệ đất mình, mang đại quân ra chống.
    Nùng Dân-Phú chỉ lên bản đồ:
    - Họ Nùng của thần sinh sống trong châu Thất-nguyên bên Đại-Việt gồm bẩy mươi động. Châu Thái-bình gồm ba mươi sáu động thuộc Ung-châu nhà Tống. Do vậy mới có nạn chia ra Nùng Việt, Nùng Tống. Lại còn nạn Nùng Quảng-nguyên, Tư-lãng nữa.
    Khai-Quốc vương kinh ngạc:
    - Tại sao còn có nạn ấy?
    Thân Thừa-Quý đáp:
    - Họ Nùng rất lớn, còn sống ở vùng Quảng-nguyên, Tư-lãng, Thượng-dung, Hạ-dung. Bốn châu này thống thuộc Lưu Nguyên. Lưu Nguyên tuy người Việt, nhưng được Tống phong chức. Lão cai trị ba châu Hoành-sơn, Ôn-nhuận, Qui-hoá. Nghiã là y cai trị bốn châu thuộc Việt, ba châu thuộc Tống. Trong bốn châu đó họ Nùng sinh sống. Ba châu sau họ Lưu sinh sống. Hiện y bị đau nặng. Theo luật lệ, y cho tổ chức đấu võ, tuyển người thay thế.
    - Thể lệ tuyển như thế nào?
    - Tất cả thiếu niên tuổi từ mười hai, tới mười bẩy, con cháu của dân chúng trong 207 khê động đều được tham dự.


    <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.01.2005 10:31:13 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 18.01.2005 18:07:01 (permalink)
      Hồi thứ tám mươi ba


      Chính sách Bắc-cương



      Tự-Mai ngồi im từ nãy đến giờ. Chợt nó hỏi:
      - Phò mã! Bao giờ tuyển võ đài?
      - Chỉ còn hai tháng nữa?
      - Theo Phò-mã, kỳ này những ai hy vọng thắng cuộc?
      - Khó biết lắm. Có ít nhất mười người ghi danh. Còn phải chờ đến giờ chót.
      Thân Thiệu-Cực chỉ vào Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm hỏi vua Bà Bắc-biên:
      - Mạ mạ! Hai em này được mạ mạ nhận làm con nuôi. Vậy chúng có thể tranh võ đài làm châu trưởng không?
      Thiệu-Cực khác hẳn Thiệu-Thái. Thiệu-Thái chậm chạp, mô phạm, đạo mạo. Ngược lại Thiệu-Cực tinh khôn linh lợi, phàm hành sự không câu nệ tiểu tiết, miễn thành công thì thôi. Thường ngày chàng gọi bọn Tôn Đản, Tự-Mai, Thuận-Tông, Thiện-Lãm, Lê Văn bằng danh tự: Năm thằng giặc trời, năm ông mãnh, năm ông thiên lôi. Nhưng đôi khi làm việc, chàng gọi chúng bằng em, rất ngọt ngào.
      Câu hỏi của Thiệu-Cực làm mọi người tỉnh ngộ:
      - Ừ nhỉ? Tại sao không cho hai đứa này tham dự?
      Thân Thừa-Quý tiếp:
      - Còn nữa, châu Bảo-lạc bên Đại-Việt, giáp với châu Lôi-hoả, Đặc-ma bên Tống. Cả ba châu hiện do họ Hoàng thống lĩnh. Thành ra họ Hoàng chân trong chân ngoài, nửa Tống, nửa Việt. Vì vậy Hoàng Sùng-Anh muốn rút lui. Y cũng tổ chức võ đài vào cùng ngày, tuyển người thay thế.
      Khai-Quốc vương quyết định:
      - Tất cả 207 khê động đều thuộc Đại-Việt. Chúng ta không thể để cho bọn biên thần nhà Tống làm lộng. Hôm nay, tôi quyết định như thế này.
      Mọi người im lặng, nghe vương ban chỉ dụ.
      Vương tiếp:
      - Chúng ta có bẩy điều cần ghi nhớ.
      Vương chỉ Hoàng Lư:
      - Thứ nhất. Các châu bị Tống khống chế như Hợp-phố, Như-tích, Để-trạo thuộc Khâm châu, cùng các châu Vĩnh-an, Triều-dương, Miếu-sơn thống nhất làm một. Xin Hoàng huynh thống lĩnh cho.
      Hoàng Lưu đứng dậy chắp tay lĩnh mệnh.
      - Thứ nhì. Các châu Thiên-long, Cổ-vạn, Tư-minh bị Ung châu khống chế hợp với các châu Tô-mậu, Na-dương, Đình-lập, An-châu bên Đại-Việt, thống nhất làm một. Xin Vi Thủ-Đan huynh thống lĩnh cho.
      Vi Thủ-Đan đứng dậy lĩnh mệnh.
      - Thứ ba. Các châu thuộc Tống khống chế như Vình-bình, Tây-bình, Lộc-châu, Tư-lăng trước do Vi Đại-An thống lĩnh. Các châu trên tiếp giáp với Lạng-châu, Quang-lang, Môn-văn, Vạn-nhai, trước do Thân Thừa-Phú thống lĩnh. Nay thống nhất tám châu, do Vi Đại-An thống lĩnh, Thân Thừa-Phú làm phó.
      Tài, đức, võ công Vi Đại-An thua Thân Thừa-Phú xa. Dân chúng, tài nguyên của bốn châu thuộc y không thể so sánh với bốn châu của Thừa-Phú. Nay y được coi cả tám châu, được đặt lên trên Thừa-Phú, y mừng vô vùng, vội chắp tay tạ Khai-Quốc vương.
      Trong khi đó, Thừa-Phú lại hiểu rằng:
      - Mình cầm quân toàn vùng Bắc-biên, mà thống nhất đất mình với Đại-An, có khác gì đem đất y cho mình?
      Vì vậy Thừa-Phú vui mừng hiện lên nét mặt.
      - Thứ tư. Châu Quảng-nguyên, Tư-lãng, Thượng-dung, Hạ-dung, Thất-nguyên, Ân-tình thuộc Đại-Việt thống nhất với châu Thái-bình do Tống khống chế trao cho lão sư Nùng Dân-Phú thủ lĩnh.
      Nùng Dân-Phú cung tay hành lễ.
      Khai-Quốc vương tiếp:
      - Thứ năm. Ai muốn kết tội Lưu Nguyên thế nào thì kết. Cô-gia quyết định đem các châu bị Tống khống chế là Hoành-sơn, Ôn-nhuận, Qui-hoá, Lôi-hoả, Đặc-ma thống nhất với châu Bảo-lạc bên Đại-Việt, trao cho Lưu Nguyên thống lĩnh.
      - Thứ sáu. Đối với triều Tống, ta hoàn toàn mềm dẻo, tiến cống, dùng hậu lễ, lời khiêm tốn, để giữ hoà hiếu. Còn đối với bọn biên thần hung hăng. Một mặt ta thẳng tay dùng sức mạnh khiến chúng ghê sợ. Mỗi khi một viên quan mới tới, cần điều tra tính tình y ra sao? Quê quán ở đâu? Nếu trị chúng tại biên giới khó khăn, ta sai người về kinh phao vu chúng ăn hối lộ, để các quan trong triều dèm pha chúng.
      Tôn Đản dưa tay xin nói. Vương hỏi:
      - Em có ý kiến gì?
      - Đối với bọn kinh tởm này, chúng ta có nên cho người vào thành ám sát vợ con chúng hay không? Có nên cho người về quê chúng đào mồ cuốc mả cùng giết cha mẹ chúng hay không?
      Khai-Quốc vương cúi đầu suy nghĩ. Chợt vương ngửng đầu dậy, tỏ vẻ cương quyết:
      - Ta lấy võ đạo thời Lĩnh-Nam: Cái thân còn không tiếc. Tiếc chi cái tiếng vô danh hão. Nếu cần, ta làm bất cứ việc gì, miễn giữ được nước.
      Cử toạ vỗ tay rung động hội trường.
      Vương tiếp:
      - Thứ bẩy. Mọi việc, đều đo triều đình Bắc-biên tự quyết. Trừ những gì quá sức, mới phải tấu về Thăng-long.
      Vua Bà Bắc-biên đứng lên nói:
      - Các Khê-động của ta nằm suốt một giải phía Tây-Nam Quảng-Tây lộ đều bị Tống chiêu dụ, đe dọa mà theo họ. Trong thời gian qua, chúng ta đã mất 57 khê động. Con dun đạp mãi cái đầu phải quằn. Ta không thể chịu được nữa. Với bẩy điểm Khai-Quốc vương ban ra, tôi quyết định như thế này.
      Mọi người hồi hộp, im lặng theo dõi.
      - Tư-mã Bắc-biên Thân Thừa-Phú điều Tiền-đạo yểm trợ Động-chủ châu-mục Hoàng Lư. Châu mục Hoàng Lư cho mời tất cả thủ lĩnh khê động thuộc Tống, Việt tới họp, ban bố chính sách, yêu cầu động Hiệp-phố, Như-tích, Để-trạo về với Đại-Việt. Ai không tuân, ta cho quân tiến vào, truất phế động chủ xuống, lập người khác lên thay.
      Hoàng Lư hỏi:
      - Nếu quân Tống đóng gần đó can thiệp thì sao?
      - Động chủ khỏi lo. Việc xâm lấn mình do bọn hiếu chiến trong triều Tống. Đứng đầu là Lưu hậu với Tào Lợi-Dụng, Trương Sĩ-Tổn, Lý Điệt, Vương Tùy, Lý Ty, Vương Đức-Dụng. Vì vậy bất cứ việc gì biên quan cũng phải tấu về cho An-vũ sứ Quảng-Tây. An-vũ sứ Quảng-Tây chuyển về triều. Triều đình nghị sự xong rồi ban lệnh. Tấu chương đi, lệnh trở về ít nhất bốn tháng. Trong bốn tháng đó, biên quan Tống muốn dùng vũ lực thì ta đã tổ chức xong nội trị các khê động mới chiếm lại. Họ muốn can thiệp phải dùng trọng binh. Với chức An-vũ sứ, họ không đủ khả năng. Vả nếu biên thần Tống làm liều xua quân can thiệp, thì cánh Tiền-đạo của ta sẽ phản ứng.
      Bà ngừng lại suy nghĩ, rồi tiếp:
      - Thiệu-Cực điều Tả-đạo đến đóng tại phía Nam châu Thiên-long, Cổ-vạn, Tư-minh, yểm trợ cho châu mục Vi Thủ-Đan. Châu-mục Vi Thủ-Đan cũng làm tương tự như châu mục Hoàng Lư.
      Bà chỉ lên bản đồ:
      - Khu Thái-bình, tôi nghĩ lão sư Nùng Dân-Phú dư sức ép châu trưởng trở về với Đại-Việt. Chỉ có khu Vình-bình, Tây-bình, Tư-lăng hơi khó. Tôi đã sai Thân Bảo-Hòa cùng Trần Thông-Mai tiến quân vào từ hôm qua. Mọi việc tốt đẹp.
      Nùng Dân-Phú thắc mắc:
      - Tôi mới nhận được tin lạ, rất quan trọng, xin tâu cùng vua Bà.
      - Xin lão sư cứ nói.
      - Từ hơn tháng nay một số biên quan Tống gặp không biết bao nhiêu tai bay vạ gió. Kẻ tự nhiên trúng độc lăn ra chết, người thì bị ám sát. Cũng có kẻ con bị giết, vợ bị bắt cóc đi. Lại có kẻ nhà cửa ở quê quán bị cháy rụi. Mà những viên quan đó đa số thuộc phe Lưu hậu, chủ chiếm Đại-Việt. Như viên tướng chỉ huy trại Thái-bình của Tống không hiểu tại sao bị gian nhân ám sát ngay tại trại quân. Y bị chưởng lực cực kỳ bá đạo đánh, cơ thể còn nguyên, trong khi tạng phủ nát nhừ. Tướng chỉ huy trại Hợp-phố cũng bị ám sát bằng chưởng lực, xương bị nát ra như bột. Hai tướng này đều thuộc phe chủ xâm lăng ta. Quân sĩ trong hai đồn đều cho rằng gian nhân do An-vũ sứ Quảng-Tây sai giết, để cử người thân thay thế.
      Khai-Quốc vương gật đầu:
      - Họ giết lẫn nhau như vậy càng hay cho ta.
      Dưới chỗ ngồi, Lê Văn hỏi sẽ Tự-Mai:
      - Anh nghĩ sao?
      - Chú khờ qúa. Chưởng lực bá đạo như vậy chỉ bà Bảo-Hòa mới có. Tuy hôm nay anh cả mới quyết định về chính sách Bắc-cương, mà thực ra anh đã cho bà Bảo-Hòa với ông Thông-Mai thi hành trước rồi. Tôi sợ giờ này tất cả các biên thần chủ xâm lăng Đại-Việt không bị bị giết chết, thì vợ con cũng bất toàn.
      Lê Văn lắc đầu:
      - Hơi ác.
      - Đối với bọn cướp nước, ác gì mình cũng phải làm.
      Buổi họp chấm dứt, theo thông lệ vua Bà Bắc-biên hỏi cử tọa:
      - Ai có cao kiến gì khác không?
      Tự-Mai đứng dậy xin phát biểu.
      Các thủ lĩnh Bắc-biên đến họp, họ hơi ngạc nhiên khi thấy năm đứa trẻ từ Thăng-long lên cũng được ngồi tham dự. Hỏi ra được biết chúng là em kết nghĩa của Khai-Quốc vương với Vương-phi. Họ cho rằng nhờ thế Vương, đám trẻ được nâng lên. Nào ngờ trong khi họp, chúng kiến giải sự việc minh mẫn, phát trình bày có căn bản vững chắc, lý luận mạch lạc. Bây giờ thấy Tự-Mai phát biểu ý kiến, họ lắng tai nghe.
      Vua Bà Bắc-biên hỏi:
      - Trần công tử có cao kiến gì?
      - Hồi nãy Khai-Quốc vương đang ban chỉ dụ, cháu không dám xen vào. Bây giờ cháu xin đưa ra một số chi tiết về chính sách của ta đối với Tống. Ý kiến này chỉ phụ với ý kiến của Vương mà thôi.
      Đa số thủ lĩnh Bắc-biên đều đã dự đại hội đại hội Thăng-long, họ đã thấy võ công Tự-Mai rất cao cường, lại can đảm, mưu trí khác thường. Vì vậy họ đều lắng tai nghe.
      Tự-Mai nói thực lớn:
      - Nhiều người trong chúng ta thường coi người Hoa như những kẻ thù truyền kiếp. Nhất là gần đây, Hồng-thiết giáo nêu khẩu hiệu bài Hoa. Hễ đi đến đâu có người Hoa, lập tức thẳng tay chém giết. Bọn du thủ du thực nhân đó đốt nhà cướp của Hoa-kiều thực tàn nhẫn vô cùng. Họ không cần biết đến người Hoa phải tha phương cầu thực, sang kiều ngụ ở bên ta chẳng qua vì phải trốn tránh bọn vua quan tàn ác. Họ chăm chỉ làm việc, nên ít lâu sau trở thành giầu có. Hồng-thiết giáo thù hận họ về việc này. Ngu! Thực ngu hết chỗ nói. Họ làm việc, xây nhà, phá rừng tuy tư hữu của họ. Nhưng tài sản ấy có phải của Tống đâu? Chung qui vẫn của Việt mình. Rút cục, họ chỉ ăn ngày có hai bữa cơm. Giết họ thực ngu!
      Hầu như cả hội trường đều phát ra tiếng ồ, rồi tiếng huýt sáo phản đối:
      - Giết. Phải giết hết bọn chệt, bọn Tàu-ô, bọn Xạ-phang, bọn ghẻ Tầu. Giết không tha một đứa.
      Vua Bà Bắc-biên xua tay ra hiệu cho mọi người im lặng:
      - Hãy để Trần công tử nói hết đã.
      Tự-Mai vốn giống bố về lòng can đảm, tính ngang tàng. Nó nói lớn hơn:
      - Tôi ở miền xuôi, thường nghe đồn rằng, mỗi khi quân Tống vượt biên sang cướp phá. Các Động-chủ, Châu-trưởng lại xua quân sang giết người, đốt nhà, cướp của để trả đũa. Người nào càng làm mạnh, càng chém giết trả thù nhiều, càng được các động chủ, châu trưởng khác kính phục. Có đúng thế không?
      - Đúng thế!
      - Như vậy là lấy bạo tàn thay bạo tàn, trái ngược với chủ đạo tộc Việt.
      Nùng Dân-Phú cười nhạt:
      - Trái đạo là thế nào! Từ trước đến giờ, bọn biên trấn chúng tôi lấy đường lối ấy làm phương châm bảo quốc. Công tử cho rằng sai ư? Chúng tôi xin rửa tai nghe công tử dậy bảo.
      Vi Đại-An cũng nói:
      - Như vậy ý Trần công tử muốn chúng tôi cứ ngồi nhìn quân Tống sang cướp của, giết người, hiếp đàn bà con gái, rồi đưa cổ cho chúng chặt đầu bêu lên cây, phơi gan ruột ra cho quạ mổ, cho thú ăn thịt chắc?
      Mọi người vỗ tay vang dội.
      Tự-Mai thấy người người phản đối. Nó càng thêm can đảm, tự nhủ thầm:
      - Hôm nay ta mà không giảng giải rõ chủ đạo tộc Việt cho những người này, e rằng Đại-Việt sau hơn trăm năm nữa, không còn.
      Nó dơ tay vẫy mọi người:
      - Xin các vị bớt nóng nảy.
      Mọi người im lặng trở lại.
      Tự-Mai vận nội lực nói thực lớn:
      - Trước khi nói về chủ đạo tộc Việt. Tôi xin bàn về việc quân Tống sang cướp phá đã. Tôi đã ăn ngủ tại Khu-mật viện gần năm nay. Bao nhiêu tin tức về triều Tống, tin tức Nam-biên đại thần trấn vùng Lưỡng-Quảng, cùng quân sĩ của họ, tôi theo dõi rất kỹ. Tôi cũng nghiên cứu kỹ tấu chương của họ gửi về triều, cùng chỉ dụ của triều đình ban xuống cho biên thần. Tôi lại cũng đọc chỉ dụ bản triều gửi cho quý vị, cũng như tấu chương của quý vị gửi về. Tôi tìm ra được một khiếm khuyết lớn của chúng ta trong chính sách Bắc-biên.
      Thanh-Mai thấy em lý luận vững chắc,
      nhưng nàng có cảm tưởng nó sẽ bác bỏ bẩy chỉ dụ của chồng. Nàng ngồi nghe mà trong lòng lo lắng.
      Tự-Mai tiếp:
      - Trước kia tôi không rõ. Tôi chỉ kể từ khi Hoàng-thượng lên ngôi. Tính đến nay trải mười tám năm. Trong mười tám năm có sáu mươi sáu lần quân Tống vào cướp phá. Trong sáu mươi sáu lần đó, ba mươi hai lần do các Trại-chủ, Động-chủ Tống có hiềm khích với trại chủ, châu trưởng bên Việt. Nguyên do, đôi khi chỉ vì con chó chạy lạc, con bò ăn lúa của nhau mà ra. Thảng hoặc, con em chơi với nhau rồi cãi cọ, đưa đến đánh nhau. Phụ huynh hai bên không biết răn đe con, đem quân đánh giết loạn lên. Đây thuộc lỗi hai bên.
      Các Động-chủ, Châu-trưởng thấy điều Tự-Mai nói không sai chút nào. Họ nhìn nhau, có vẻ ngượng ngập. Tự-Mai biết đã giảm được khí thế hùng hổ của họ. Nó tiếp:
      - Trong hai mươi bốn lần còn lại, có mười bẩy lần do võ quan Tống dung dưỡng quân sĩ ăn cướp. Biên thần đã trách phạt người chỉ huy. Nhưng họ tấu về triều rằng quân ta sang cướp, binh Tống phải đánh đuổi. Đây hoàn toàn lỗi về phía Tống. Chỉ có bẩy lần, biên thần Tống đa sự, đem quân vào đất Việt thu thuế, bị chúng ta đánh đuổi. Bẩy lần đó mới đúng lỗi về Tống.
      Nó thở dài:
      - Nếu các vị khéo léo đôi chút, tôi nghĩ giờ này Tống không dám có ảo vọng chiếm Đại-Việt.
      Vi Thủ-An hỏi:
      - Công tử bảo khéo léo. Thế nào là khéo léo?
      - Các vị nên chia Trung-nguyên làm ba loại người. Một là triều đình. Hai là Biên-thần. Ba là dân chúng. Từ trước đến giờ, chủ trương xâm chiếm Đại-Việt ta, hoàn toàn do triều đình Trung-nguyên, hoặc biên thần, chứ dân Hoa, không bao giờ có ý đó. Vì họ đâu ngu dại gì mà lăn mình vào chỗ chết, hoặc bỏ nhà theo quân làm phu khuân vác? Từ Tần Thủy-Hoàng đánh Âu-lạc do tham vọng thống nhất Thiên-hạ, đến Quang-Vũ diệt Lĩnh-Nam vì sợ Lĩnh-Nam mạnh, quay lên chiếm Trung-nguyên. Tống đánh ta, do đám quan lại hiếu sự mà ra. Từ sau trận Chi-lăng, tất cả những rắc rối ở Bắc-biên, đều do biên thần Tống hiếu sự. Có đúng thế không?
      Phò mã Thân Thừa-Quý rất cảm tình với phái Đông-a, với Tự-Mai. Ông hỏi:
      - Xin công tử cho biết, bằng chủ đạo tộc Việt, ta phải ứng phó ra sao?
      - Thưa phò mã, Khai-Quốc vương đã ban chỉ dụ rồi. Đối với triều Tống, ta cần mạnh. Mạnh để cho cái ông con trời trong đầu vua quan Tống phải kinh sợ. Ta lại dùng nhu, tuế cống đầy đủ, lời lẽ nhũn nhặn. Như vậy có nghĩa: Ông với tôi là anh em. Ông để tôi yên, ông có bạn tốt ở phương Nam. Ông muốn gây sự, ông sẽ có kẻ thù đủ sức mạnh đối phó với ông.
      Nó nói lớn hơn:
      - Đối với biên thần Tống, như Khai-Quốc vương ban chỉ dụ. Ta chia họ làm hai. Những người chịu để ta yên, ta hậu lễ, lời hòa, giao hảo với họ. Còn đối với bọn hiếu sự gây truyện, ta thẳng tay. Họ cho quân lấn đất, cướp phá, ta phản công thực mạnh. Chúng đánh một chiêu, ta đánh mười chiêu. Chúng bắn một mũi tên, ta bắn trăm mũi. Ta cho cao thủ nhập thành giết họ, giết cả vợ con, tôi tớ, chó mèo, gà vịt. Ta cho người về quê, giết bố mẹ họ hàng, đào mồ cuốc mả lên. Như vậy mỗi khi một biên quan Tống tới trấn nhậm, họ thấy gương trước mà kinh sợ. Nhưng...
      Nó im lặng để mọi người chờ đợi, rồi tiếp:
      - Tuyệt đối không đụng chạm đến dân chúng. Dân chúng vô tội. Vả dân Nam-biên Tống đều thuộc tộc Việt cả. Ta không thể tàn sát họ. Tàn sát họ trái với chủ đạo tộc Việt.
      Vi Thủ-An hỏi:
      - Đối với những vụ các khê động thuộc Tống vào cướp phá, chúng tôi phải đối phó ra sao?
      Tự-Mai chỉ vào bản đồ biên cương Tống-Việt:
      - Bỏ vấn đề Bắc-biên xưa của ta tới hồ Động-đình. Chỉ kể biên giới thuộc Giao-chỉ cũ thôi. Biên giới Giao-chỉ tới Quế-lâm, kể từ sông Tả-giang trở xuống. Sau vua Ngô dựng lại tự chủ, ngài chỉ giữ được vùng núi rừng, khê động phía Bắc. Còn vùng đồng bằng từ các khê động tới Tả-giang trống trải, không giữ được. Thế nhưng từ đó tới giờ, Tống cho người đến các khê động đe dọa, dụ dỗ. Ngày nay phân nửa khê động theo Tống. Họ theo Tống là bất đắc dĩ, chứ bản tâm họ nào muốn bỏ tộc Việt, theo tộc Hán? Các vị có đồng ý với tôi rằng dân chúng từ hồ Động-đình tới Bắc-biên này, tuy thuộc Tống. Có nơi nói tiếng Hán, có nơi nói tiếng Việt. Nhưng họ đều là người Việt không?
      - Đúng thế!
      - Quả vậy!
      - Họ là người Việt. Thế nhưng mỗi khi có va chạm với quan quân Tống, các vị xua quân qua cướp phá, chém giết họ. Vậy có phải các vị chém giết đồng bào, chém giết người Việt, trái hẳn chủ đạo tộc Việt không? Các vị chém giết họ. Họ trút oán lên đầu các vị. Họ càng phải trung thành với quan quân Tống. Họ xích lại gần Tống để được bảo vệ. Trong khi đó quan quân Tống khoan khoái trong lòng: Bọn Việt chúng bay cứ chém giết nhau đi, thù hận nhau đi. Ta ngồi cao ôm gối sung sướng.
      Hội trường im lặng, không một tiếng động. Tự-Mai tiếp:
      - Đối với các cuộc đụng chạm giữa các khê động. Tôi xin các vị nhịn nhục, dùng ôn hòa giải quyết với nhau. Chứ các vị cứ chém giết nhau, phân ra khê động Tống, khê động Việt. Thực sự đều là người Việt, còn gì đau lòng hơn? Cứ đà này, dần dà nay mất một khê động, mai mất một khê động. Ít năm sau, 207 khê động thuộc Tống cả. Bấy giờ họ chỉ cần một đạo quân, có thể vào Thăng-long. Họa vong quốc lại đến, lần này không thể phục hồi được nữa.
      Vua Bà Bắc-biên hướng Tự-Mai:
      - Đa tạ Trần công tử đã dùng chủ đạo tộc Việt giảng giải, chỉ cho rõ đường lối giải quyết xung đột với Tống. Kể từ nay, tôi xin các vị lấy lời Trần công tử làm khuôn mẫu trong việc biên phòng.
      Cho đến nay, trải hơn nghìn năm, người sau đọc sử Tống, Lý đều không hiểu nổi chính sách Bắc-biên của Đại-Việt. Vì về phương diện ngoại giao, triều Lý tiến cống rất hậu. Sứ thần sang Tống gồm toàn người văn mô vũ lược, lời lẽ mềm dẻo, lễ cống hậu hĩnh. Trong khi các quan biên trấn Đại-Việt tỏ ra cực kỳ cương quyết. Hơi có đụng chạm, quân Việt phản ứng khốc liệt.

      Chỉ độc giả Anh-hùng Bắc-cương biết rõ sách lược đó do ai thiết lập. Thiết lập trong trường hợp nào.

      Hôm đó Vương dự tiệc đãi động chủ 207 khê động.
      Tối trở về cung vua Bà Bắc-biên. Thanh-Mai hỏi Thiệu-Cực:
      - Cháu cầm lực lượng Tế-tác Bắc-biên. Cháu cho mợ biết rõ hơn về việc tuyển người thống lĩnh thay thế Lưu Nguyên cùng Hoàng Sùng-Anh.
      Thiệu-Cực đưa mắt hỏi mẹ. Công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hoà nói:
      - Mợ có ý định gì về việc này chăng?
      - Em nghĩ, hai đứa trẻ Thuận-Tông, Thiện-Lãm, chị truyền lệnh đưa về Thăng-Long nuôi cho ăn học. Phí tổn do chị đài thọ. Chúng nghiễm nhiên trở thành con chị. Là con chị, chúng có toàn quyền dự cuộc tranh tài, tuyển người thống lĩnh thay thế Lưu Nguyên cùng Hoàng Sùng-Anh.
      Vua Bà Bắc-biên đưa mắt hỏi Thuận-Tông, Thiện-Lãm:
      - Các con học võ đến đâu rồi? Mạ mạ nghe Lãm được đạo sư Nùng-Sơn tử thu làm đồ đệ. Thuận-Tông được Thái-cô Tịnh-Huyền dạy dỗ. Lâu nay mạ mạ không có thời giờ gần các con để hỏi cho rõ.
      Hà Thiện-Lãm thấy mẹ nuôi cực kỳ oai phong, nhưng bà lại ôn nhu với nó còn hơn mẹ đẻ. Nó cảm động lắm:
      - Sư phụ dạy con căn bản nội công Tản-viên, cùng tất cả quyền cước. Sau này chị Bảo-Hoà dạy con Phục-ngưu thần chưởng. Gần đây con được anh Tự-Mai dạy con quyền pháp Đông-a cùng nội công Đông-a.
      Thuận-Tông đáp:
      - Con được sư phụ dạy võ công Mê-linh. Người dạy cả tiễn thuật phái Hoa-lư xưa nữa. Gần đây anh Đản dạy con võ công Cửu-chân. Chị Mỹ-Linh dạy kiếm thuật.
      Phò mã Thân Thừa-Quý gật đầu:
      - Hay lắm. Các con áp dụng đúng cổ nhân dạy Học thầy không tầy học bạn. Ở Bắc-biên này, thiếu niên ngang tuổi với các con đều luyện võ. Võ công của họ có hai loại. Một là của phái Tây-vu. Hai là của Trung-quốc. Thế này, nếu đối thủ xử dụng võ công Trung-quốc, để cho Thuận-Tông xuất hiện. Vì võ công Tông thuộc phái Mê-linh, khắc chế võ công Trung-quốc. Còn họ xử dụng võ công Tây-vu, để Thiện-Lãm xuất thủ. Vì võ công Tản-viên ưu thắng nhất trong các võ công Đại-Việt. Ngày mai, hết hạn ghi danh tranh tài. Vậy Thiệu-Cực dẫn hai em đi ghi danh ngay mới kịp.
      Vua Bà Bắc-biên hỏi Tự-Mai:
      - Trần công tử. Hôm đại hội Thăng-long, tôi được chứng kiến võ công của công tử không phải tầm thường. Vậy công tử thử giảo nghiệm võ công Thiện-Lãm, Thuận-Tông xem công lực chúng đến đâu rồi.
      Bà nói với Thanh-Mai:
      - Trong chúng ta đây, võ công em cao nhất. Phụ thân em nổi tiếng bác học, võ học Đại-Việt em hiểu hết. Vậy em điều khiển cuộc khảo nghiệm này dùm chị.
      Thanh-Mai vâng dạ lĩnh mệnh.
      Bà nói với Tự-Mai:
      - Trần công tử. Công tử khảo nghiệm Thiện-Lãm trước cho.
      Từ lúc đến Bắc-biên, Tự-Mai phải ngồi cấm khẩu. Vì khi nói, nó không biết xưng hô với vua Bà Bắc-biên ra sao. So với Thiệu-Thái, Bảo-Hoà, nó thuộc hàng con cháu. So với Thanh-Mai, nó thuộc vai em. Bây giờ bị vua Bà Bắc-biên hỏi, nó luống cuống không biết xưng hô thế nào?
      Thanh-Mai hiểu em mình là con két. Bất cứ hình phạt nào nó cũng không sợ. Nó chỉ ngán bị phạt ngồi tĩnh tâm. Khi tới Bắc-biên, thấy em ngồi im, nàng đã đoán ra cái khó khăn của nó trong cách xưng hô. Nàng nghĩ thần:
      - Càng tốt. Như vậy nó khỏi xạo, nhức đầu.
      Bây giờ thấy em luống cuống, nàng gỡ rối cho nó:
      - Tự phải coi mình ngang vai với anh Thiệu-Thái. Chứ không được trèo cao!
      Được chị giải thoát, Tự-Mai khoan khoái. Nó vẫy Thuận-Tông, Thiện-Lãm:
      - Nào bây giờ Lãm đấu với anh trước.
      Tự-Mai, Thiện-Lãm hướng vào cử toạ hành lễ rồi đứng thủ thế.
      Thanh-Mai hô:
      - Xuất thủ!
      Thiện-Lãm lùi một bước, nó xuất chiêu Ác ngưu nan độ tấn công. Tự-Mai chuyển thân dùng Đông-a chưởng pháp đỡ. Bộp một tiếng. Thiện-Lãm bật lui ba bước. Khí huyết đảo lộn. Nó biết Tự-Mai mới xử dụng có ba thành công lực. Bằng không nó đã bị bật tung lên cao rồi. Tự-Mai tấn công liền ba chưởng.
      Đến đó, có thân binh hành lễ với vua Bà Bắc-biên:
      - Khải tấu vua Bà. Có một vị ni sư pháp danh Tịnh-Huyền xin cầu kiến.
      Từ vua Bà Bắc-biên, Thân phò-mã cho tới Khai-Quốc vương, đều thất kinh. Thanh-Mai hô lên:
      - Ngừng tay!.
      Rồi nàng vẫy chúng theo vua Bà ra tiếp cô mẫu Tịnh-Huyền. Tới cổng thành, vua Bà hô lớn:
      - Thần nhi xin tham kiến cô mẫu.
      Sư thái Tịnh-Huyền vẫy tay không cho mọi người hành đại lễ. Bà tiến lên nắm tay vua Bà Bắc-biên, Thân phò-mã rồi hướng Khai-Quốc vương:
      - Ta biết các con đang hội họp, nên dẫn Kim-Thành, Trường-Ninh ngao du cho rộng kiến thức.
      Phía sau sư thái, Quận-chúa Kim-Thành, Trường-Ninh tiến lên hành lễ với vua Bà Bắc-biên, Thân phò-mã, Khai-Quốc vương, cùng Vương-phi Thanh-Mai.
      Tịnh-Huyền vuốt tóc phò mã Thân Thừa-Quý như mẹ vuốt tóc con, dù ông tuổi đã bốn mươi:
      - Song thân con đâu? Cô muốn gặp.
      Thân phò-mã kính cẩn:
      - Hôm trước đây, có thư của quyền chưởng môn phái Tản-viên báo cho biết: Lực lượng phái Hoa-sơn do Hoa-sơn tứ lão cầm đầu, sẽ viếng thăm tổng đàn phái Tản-viên, cùng lễ thánh Sơn-Tinh. Sau đó tới đây lễ Hồ tiên cô cùng chư thánh Tây-vu. Vì vậy song thân con lên tận biên giới đón cho phải đạo võ lâm với nhau.
      Tịnh-Huyền hỏi lại:
      - Từ trước đến giờ, võ lâm Trung-quốc có tới hành hương như vậy bao giờ chưa?
      - Thưa cô-mẫu, rất thường. Năm trước phái Nga-mi, rồi phái Không-động. Ngược lại võ lâm Đại-Việt cũng thường hành hương tổng đàn các võ phái Trung-nguyên.
      Thanh-Mai thấy quầng mắt Kim-Thành, Trường-Ninh hơi thâm. Biết chúng đang lo nghĩ về việc vương phi Khai-Thiên mất tích. Nàng tiến lên nắm tay hai cháu:
      - Hai cháu đừng lo. Vương mẫu hai cháu hiện rất an toàn. Với võ công Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đi bên cạnh bà, không dễ gì ai hại nổi Vương-mẫu đâu.
      Thân phò-mã trình bầy với sư thái Tịnh-Huyền về mọi việc đang diễn ra.
      Bà mỉm cười:
      - Được đấy. Nào Tự-Mai tiếp tục khảo nghiệm võ công Thiện-Lãm, Thuận-Tông.
      Tự-Mai lại phát chiêu tấn công Hà Thiện-Lãm. Thiện-Lãm ung dung trả đòn. Đấu được trên năm mươi hiệp, Thanh-Mai hô:
      - Ngừng tay!
      Hai người lui lại hành lễ, rồi về chỗ ngồi. Thanh-Mai đưa mắt nhìn vua Bà:
      - Chị thấy thế nào?
      - Võ công Thiện-Lãm tiến mau thực. Hiện khắp vùng này khó kiếm ra đối thủ của chúng. Có điều khê động của mình vốn hỗn tạp vừa Hoa, vừa Việt. Chị sợ biên thần nhà Tống sẽ sai người của họ len lỏi vào tranh dành. Để hỏi Thiệu-Cực mới rõ được.
      Thân Thiệu-Cực đứng hầu phía sau. Chàng cung kính hành lễ, rồi đáp:
      - Thưa mợ, tin tế tác của mình ghi nhận, Tống cho sáu thiếu niên trà trộn vào tranh tài.
      Khai-Quốc vương hỏi:
      - Sáu người đó gốc tích ra sao?
      -- Thưa cậu, hai người xuất thân phái Thiếu-Lâm tên Đào Bật, Quách Quỳ. Tuổi chúng khoảng mười sáu, mười bẩy. Võ công chúng thuộc loại hiếm có. Chúng do Khu-mật viện sai xuống.
      Nghe đến tên Quách Quỳ, bọn Tự-Mai đưa mắt nhìn nhau, cùng gật đầu.
      - Hai người kế tiếp tên Khúc Chẩn, Triệu Tiết, do biên thần Vương Duy-Chính đưa ra. Chúng thuộc phái Hoa-sơn. Võ công chúng tương đương với bọn Quách Quỳ. Hai người nữa tên Yên Đạt, Tu Kỷ, chúng thuộc phái Võ-đang. Hai tên này do Lưu-hậu sai xuống.
      Khai-Quốc vương hỏi vua Bà Bắc-biên:
      - Chị nghĩ sao?
      - Theo chị biết ba toán của Lưu hậu, biên thần cùng Khu-mật viện không biết nhau. Vì vậy ta phải tính kế sao cho tụi chúng chém giết lẫn nhau. Khi chúng mệt mỏi, cho người bên mình xuất hiện, mới hy vọng thắng thế. Thôi! Ta khảo nghiệm võ công Thuận-Tông đã.
      Thanh-Mai bảo Thuận-Tông:
      - Đến lượt em. Em xuất chiêu đi.
      Lê Thuận-Tông hành lễ rồi đứng đối diện với Tự-Mai. Thanh-Mai hô:
      - Xuất chiêu!
      Thuận-Tông phát chiêu Loa-thành nguyệt ảo trong Cửu-chân chưởng pháp tấn công trước. Tự-Mai nhảy lui tránh. Nó trả bằng một chiêu võ công Thiếu-Lâm. Nó đánh cầm chừng, mục đích cho sư đệ hiển lộ hết bản lĩnh. Được trên trăm chiêu. Thanh-Mai hô:
      - Ngừng tay!
      Hai người lùi lại, hành lễ rồi về chỗ.
      Thanh-Mai hỏi vua Bà:
      - Chị xem bản lĩnh hai đứa như vậy có đủ không?
      - Hiệm trên vùng Bắc-biên, các thiếu niên ngang tuổi với chúng, không ai vượt nổi chúng. Tuy nhiên ngoài vòm trời này, còn vòm trời khác. Khó có thể đoán nổi.
      Khai-Quốc vương gọi Thiệu-Cực, Thanh-Trúc lại gần, ban chỉ dụ:
      - Việc phái Hoa-sơn hành hương tổng đàn phái Tây-vu, Tản-viên. Ý cháu thế nào?
      Thiệu-Cực nghe cậu hỏi, mắt chàng sáng lên:
      - Ông nội với mạ mạ cho rằng lẽ thường. Còn con. Con cầm đầu Khu-mật viên Bắc-biên con nghĩ khác. Phái Hoa-sơn đã chuẩn bị cho hai thiếu niên tranh chức động trưởng của ta. Như vậy họ đương nhiên đối đầu với Đại-Việt. Việc hành hương này, chỉ với mục đích dọ thám tình hình mà thôi.
      - Đúng thế. Cháu mượn cớ dẫn năm ông mãnh cùng Kim-Thành, Trường-Ninh vãng cảnh, rồi thăm thú tình hình Tản-lĩnh xem sao. Trước khi đến đây, cậu sai chim ưng đem thư lên Tản-lĩnh triệu Đào Nhị, Tam-Bách đến hội, mà giờ này họ chưa tới. Cậu nghĩ núi Tản có sự.
      Thiệu-Cực vâng lệnh Khai-Quốc vương, chàng gọi một số thuộc hạ dặn dò, rồi giả bộ rủ đám trẻ dạo chơi.
      Sáng hôm sau. Trong đám trẻ, Thiệu-Cực, Thanh-Trúc lớn tuổi hơn hết. Hai người dẫn năm ông mãnh Đản, Mai, Lãm, Tông, Văn cùng Kim-Thành, Trường-Ninh dạo chơi khắp suối rừng vùng Lạng-châu.
      Thiện-Lãm, Thuận-Tông trước đây đã được Mỹ-Linh cho ăn cỗ Trung-thu với Kim-Thành, Trường-Ninh. Tuy cả bốn tuổi chưa ai quá mười bẩy, nhưng trong lòng họ đã sớm nảy ra mối nhu tình nhẹ nhàng. Thế rồi từ đấy đến giờ, cả bốn không có dịp gặp nhau. Bây giờ họ được tự do truyện trò, hỏi còn gì hạnh phúc hơn?
      Tôn Đản, Tự-Mai, có lần kể về mối tình chớm nở giữa Thiện-Lãm với Trường-Ninh; Thuận-Tông với Kim-Thành cho Thiệu-Cực, Thanh-Trúc nghe. Vì vậy Thiệu-Cực chia cho Thuận-Tông, Kim-Thành đi chung một voi. Thiện-Lãm, Trường-Ninh đi chung một voi. Bẩy người đi trên bốn voi.
      Thiện-Lãm, Thuận-Tông gì mà không hiểu hảo ý của Thiệu-Cực. Cả hai nguyện thầm trong lòng:
      - Hôm trước trong lòng chị Mỹ-Linh nở ra bông sen tươi hồng, ban cho mình ngồi ăn cỗ với Kim-Thành, Trường-Ninh. Bây giờ tới anh Thiệu-Cực. Mình đã niệm Nam mô Mỹ-Linh bồ tát. Bọn mình là những đứa trẻ rắn mặt thôn dã. Chỉ vì nhờ phụ huynh dạy kỹ lưỡng về chủ đạo tộc Việt, rồi gặp kỳ duyên, cùng nhau lo quốc sự. Bây giờ được gần công-chúa cao quý biết bao.
      Bất giác nó đưa mắt nhìn Thiệu-Cực, trong lòng thấm niềm biết ơn sâu sa vô kể. Sáu mắt giao nhau. Thiệu-Cực như đọc được tâm tư hai đứa em. Chàng cười, nói bâng quơ:
      - Anh hùng đâu quản xuất thân. Ông ngọai anh khởi đầu làm người chăn trâu cho chùa để kiếm miếng ăn.
      Lãm, Tông kính cẩn:
      - Đa tạ đại ca chỉ dạy.
      Bàn về võ công, Thiệu-Cực không cao. Nhưng chàng là người tinh minh mẫn cán, thông minh tuyệt thế. Lại nữa, thay bố mẹ cầm đầu hệ thống tế tác Bắc-biên, nơi Tống, Việt xẩy ra cuộc tranh dành ảnh hưởng 207 khê động. Có thể nói, hôm nay khê động này còn trung thành với Việt. Hôm sau bừng mắt dậy, đã biến ra của Tống. Hoá cho nên chàng thành người cẩn thận, tinh tế vô cùng. Dù đi chơi, chàng cũng mang theo đàn chim ưng tuần tiễu trên trời, cùng cặp chó sói phòng gian nhân hãm hại.
      Vừa đi trên voi, chàng vừa chỉ suối, đồi giảng giải cho các em nghe. Thỉnh thoảng chàng nhìn lên trời quan sát động tĩnh của đàn chim ưng bay tuần phòng. Chàng chỉ lên đỉnh ngọn núi cao chót vót:
      - Các em hãy nhìn: Trước mặt chúng ta có ngọn núi Tản-viên. Núi này chưa từng ai lên nổi. Xung quanh núi Tản-viên có bốn ngọn núi chầu vào, đều mang tên núi vua Bà.
      Trường-Ninh ngước mắt nhìn lên. Trước mặt nàng, một ngọn núi cao chót vót, hình dáng như cái bát úp. Đỉnh thóp lại, rồi phình ra, vượt lên cao, giống như trái bầu. Đỉnh núi, mây trắng che khuất, mờ mờ không nhìn rõ. Nàng hỏi Thiệu-Cực:
      - Hồi còn bé, vương mẫu kể cho em nghe rằng: Đời vua Hùng thứ tám mươi tám, có công chúa Mỵ-Nương xinh đẹp vô cùng. Vua truyền võ lâm thiên hạ tới đấu võ tuyển phò mã. Cuối cùng có hai võ sư thắng khắp anh hùng. Một người làm nghề đốn củi. Một người làm nghề câu cá. Vua truyền hai người đấu với nhau. Đấu đến hơn nghìn hiệp, vẫn bất phân thắng bại. Vua sợ đấu nữa, ắt có một người chết, khiến đất nước mất một anh tài. Vua truyền ai mang lễ vật tới trước, vua gả công chúa cho.
      Nghe truyện ngồ ngộ, Thuận-Tông hỏi:
      - Lễ vua đòi gồm những gì?
      - Một đôi voi trắng, một đôi cá sấu lớn. Mười con ngựa câu lông đỏ, mười con rùa to. Năm hũ rượu, phải là thứ rượu có tăm bốc lên.
      - Vua cũng công bằng đấy chứ? Ngài đòi vừa thú rừng vừa hải sản, cho ông câu, ông tiều có dịp thi thố tài năng. Thế ai đem lễ tới trước?
      - Ông tiều! Chỉ mấy ngày sau, ông tiều nộp đủ lễ số. Vua truyền gả Công-chúa cho. Ông tiều mang Công-chúa lên núi Tản-viên hưởng thanh phúc. Khi ông ngư kiếm đủ lễ vật đem tới, đã trễ mười ngày. Ông ngư nổi giận, đi thuyền dọc sông tới đây tìm ông tiều. Hai bên đại chiến hơn tháng. Ông tiều dẫn Công-chúa lên đỉnh núi ở. Từ đấy về sau, mỗi năm, mùa nước lớn, ông ngư tìm ông tiều trả hận. Vì vậy dân chúng đồn ông ngư dâng nước lên đánh ông tiều, làm dân chúng bị lụt.
      Thuận-Tông hỏi tiếp:
      - Thế ông ngư, ông tiều tên gì?
      - Không ai biết. Vì ông ngư ở dưới sông, dân chúng đặt cho ông tên Thủy-Tinh. Ông tiều ở núi, được đặt tên Sơn-Tinh. Ông Thủy-Tinh ra sao, không ai rõ. Còn ông Sơn-Tinh thu đệ tử lập ra phái Tản-viên.
      Lê Văn nhìn lên núi, nó chau mày lại hỏi Thiệu-Cực:
      - Đỉnh núi thắt thế kia, bố ai lên cho được. Làm cách nào cụ Sơn-Tinh đưa Công-chúa tới đỉnh nổi? Không lẽ cụ biết bay?
      Thiệu-Cực nháy mắt cười:
      - Có nhiều đường lên theo hang bí mật. Hang xuyên trong lòng núi lên đỉnh. Xưa kia, chỉ chưởng môn phải Tản-Viên mới biết hết những hang, đường mà thôi. Sau núi bị Đỗ Xích-Thập mưu chiếm ngụ. Chưởng môn Đặng Đại-Khê chống trả biết bao lần. Từ khi mạ mạ về đây, ông trao múi cho mạ mạ. Mạ mạ phái đạo quân hơn trăm con hổ canh giữ, Xích-Thập mới bỏ ý định chiếm. Từ sau đại hội Thăng-long, Xích-Thập qui phục anh Thiệu-Thái. Mạ mạ truyền trả núi lại cho phái Tản-viên. Bảo-Hoà làm chưởng môn, nhưng vì quốc sự, trao cho Đào Nhị, Đào Tam-Bách trông coi.
      Trường-Ninh đề nghị:
      - Anh Thiệu-Cực à! Anh dẫn bọn em lên núi lễ thánh Tản-viên đi.
      Trường-Ninh vốn dịu dàng, lời nói của nàng ngọt ngào nhu mì, ai nghe cũng phải động lòng. Thiệu-Cực gật đầu:
      - Ừ, anh sẽ đưa các em lên lễ tổ sư phái Tản-viên. Nhất là Thiện-Lãm. Chú được đạo sư Nùng-Sơn tử thu làm đồ đệ, chú đã lên tổng đàn bái tổ lần nào chưa?
      - Có, sư phụ dẫn em lên hai lần tất cả. Người nói, có nhiều đường lên lắm. Tất cả đều phải thông qua hang đá rất hiểm trở. Tản-viên là nơi chôn cất kho tàng Âu-Việt, vì vậy, những con đường này đều có cạm bẫy. Không được người trong phái dẫn lên, e bị đá đè chết.
      Nó nhấn mạnh:
      - Sư phụ nói: Người ngoài muốn lên lễ thánh Tản phải xin phép. Chị Bảo-Hòa đang cùng anh Thông-Mai bận quốc sự vắng nhà. Trên đỉnh do anh em họ Đào thay thế chưởng quản. Tuy anh là anh chị Bảo-Hòa, song em nghĩ, anh cũng nên viết thư sai chim ưng đem lên xin phép cho phải đạo.
      Cả bọn ngửa mặt nhìn lên. Đỉnh núi ẩn hiện trong làn mây trắng. Thiệu-Cực viết mấy chữ vào tờ giấy, bỏ vào ống tre dưới chân chim ưng, rồi sai đi. Đôi chim ưng tung cánh biến vào đám mây trắng trên bầu trời xanh.
      Chợt nhớ ra điều gì, Tự-Mai hỏi Lê Văn:
      - Này chú mười. Hôm trước bố anh nói, dường như tháng này Đại-Việt ngũ long họp nhau trên Tản-lĩnh bàn việc đào kho tàng. Chú có nghe bác nói họp ngày nào không?
      - Không! Từ sau đại hội Thăng-long, bố bảo việc đất nước bố trao cho anh cả, việc nhà giao cho anh Hoàng Giang. Còn em, em lớn rồi, bố không cần quản chế nữa. Bố dắt bà Huệ-Phương ngao du tứ phương, trị bệnh cho thiên hạ. Em đâu có gần mà nghe bố nói?
      Thiệu-Cực nhớ ra điều gì, chàng hỏi Tự-Mai:
      - À anh quên hỏi, cuộc thi võ của triều đình vừa rồi, những ai trúng cách. Họ được bổ vào chức vụ gì?
      - Trước khi thi, bố em đề nghị rằng: Thi cử là gì? Là giúp cho nhân tài thôn dã, núi rừng có dịp xuất hiện, góp công bảo vệ đất nước. Vì vậy phàm đệ tử danh môn, tài đương nhiên có. Khi đất nước hữu sự, bổn phận phải cầm gươm, vì vậy không nên dự thi. Thành ra những người trúng tuyển, toàn khuôn mặt mới không à. Đa số họ thuộc Lạc-long giáo.
      Thuận-Tông sướng quá reo:
      - Ý kiến Trần sư bá thực tuyệt. Như bọn anh em mình, chả cần thi cử, cũng chẳng cần chức tước. Ấy vậy mà nước có sự, e bọn mình đứng lên trước.
      Kim-Thành đưa mắt nhìn Thuận-Tông:
      - Tông này, nước chưa có sự, mà chúng mình đã phải làm rồi. Đạo lý tộc Việt mình hay đấy
      chứ.
      - Thế võ công những người trúng cách có khá không?
      Thiệu-Cực vỗ vai Lê Văn hỏi. Lê Văn xịu mặt xuống:
      - Sau đại hội Lộc-hà, em với Tự-Mai phải theo linh cữu mẫu thân về quê, nên không được chứng kiến. Kim-Thành, Trường-Ninh chắc biết rõ hơn.
      Thấy nét mặt Tự-Mai, Lê Văn buồn man mác, Trường-Ninh quên mất việc nam nữ thụ thụ bất tương thân. Nàng cầm tay hai người:
      - Các anh buồn mà chi. Mỗi người trong chúng ta sinh ra vốn đã có cái nghiệp quả từ muôn vàn kiếp trước kết lại. Hai bác qua đời tuy thảm thiết. Thế nhưng còn hơn sống. Chúng mình sống chưa chắc đã sướng hơn người chết.
      Thấy vẻ buồn chưa dứt hẳn trên mặt hai người. Nàng nói lảng:
      - Để em thuật cho các anh nghe về cuộc tuyển võ.
      Thanh-Trúc hiểu ý Trường-Ninh, nàng xen vào:
      - Ừ, hôm ấy Kim-Thành, Trường-Ninh đứng hầu bên Hoàng-thượng, ắt biết hết chi tiết. Kim-Thành thuật đi.
      Kim-Thành khoan thai kể:
      - Kỳ này giám khảo không giống các kỳ trước. Theo như luật định, giám khảo có ba người. Một là do Quốc-sư đề cử. Hai là do Thái-úy tổng đốc binh mã đề cử. Ba là do môn phái đứng tổ chức đề cử, tức phái Mê-Linh. Năm nay chính ông nội xin cải tổ. Ông nội cho rằng cần có những võ lâm tộc Việt làm giáo khảo. Vì những vị đó mới hiểu dân tình, binh tình. Ông nội nhờ Đại-Việt ngũ long cử giám khảo.
      Tự-Mai tán thành:
      - Có ra ngoài mới biết dân tình. Thế Đại-Việt ngũ long cử ai?
      - Các ngài họp, rồi mời Đoàn vương-gia nước Đại-lý làm chánh chủ khảo. Phó chủ khảo có ba vị. Chấm về nội lực, cụ Sử Anh được mời vào chức vụ này. Một vị chấm về chiêu số, Hoàng-thúc Rát Ta Na phái Tha-nôm được mời. Một vị hỏi về võ đạo, chủ đạo tộc Việt. Đến đây Đại-Việt ngũ long bất đồng ý kiến.
      Thiện-Lãm kinh ngạc:
      - Ủa, tôi nghe từ sau đại hội Lộc-hà, Ngũ-long nhất nhất thuận nhau lắm kia mà?
      Trường-Ninh cười rất tươi, ánh mắt nàng như sương mờ đẹp vô cùng:
      - Nguyên do, bốn vị đề cử một người. Hồng-Sơn đại phu lại không chống, cũng không thuận.
      Thiệu-Cực hỏi:
      - Lê sư bá có nêu lý do tại sao không?
      Trường-Ninh mỉm cười rung đôi vai gầy:
      - Vì người được đề cử là bà Lâm Huệ-Phương.
      - À thì ra thế!
      Tự-Mai đã quên đi chốc lát thảm cảnh mẹ chết, nó buột miệng: Tôi nghĩ võ đạo, chủ đạo tộc Việt của bà đến sư bá Hồng-Sơn với bố tôi cũng không theo kịp.
      Trường-Ninh tiếp:
      - Số tuyển sinh dự trù một trăm. Thí sinh trước do các đại môn phái đề cử. Ngoài ra dành hai mươi chỗ cho thí sinh tự do. Những thí sinh này phải dự cuộc sơ tuyển ở bộ binh. Sau bà Huệ-Phương tâu rằng: Lệ thí vốn ban bố trước đại hội Lộc-hà. Trong lệ cấm một số người không được dự vì phạm tội. Nay ông nội mới ban lệnh ân xá trong đại hội Lộc-hà, vì vậy cho ghi danh lại. Ai cũng được dự thi hết.
      Nàng nhìn Lê Văn rồi tiếp:
      - Bà còn nêu lý do: Trước, ông nội tuy làm vua, chỉ được thiên hạ quy phục chưa quá một nửa. Vì một nửa còn hướng về họ Lê, họ Đinh, về Hồng-thiết giáo. Nay tất cả đều một lòng. Vì vậy xin nâng số tuyển lên thành trăm rưởi. Ông nội đồng ý tăng lên ba trăm. Lê-Văn nghĩ sao?
      - Còn sao nữa? Như vậy nhân tài thảo dã đều không bỏ phí cuộc đời với cỏ cây. Thuận-Thiên hoàng-đế thua bố tôi về võ công, về y học. Nhưng về việc trị dân, ngài bỏ xa bố tôi đã đành. Tôi e vua Trưng sống lại cũng phải khen ngợi.
      Kim-Thành tiếp:
      - Sau khi tuyển xong. Những người trúng cách được đưa đến lễ tạ Quốc-tổ, Quốc-mẫu, rồi đến điện Càn-nguyên bái yết ông nội. Ông nội ban mũ áo, vàng bạc, rồi ban yến. Sau đó họ phải đến lễ ở đền thờ vua Trưng, Bắc-bình vương. Cuối cùng họ được nghỉ về quê tế cáo tổ tiên, tạ ơn sư phụ, bố mẹ, trong một tháng. Lệnh binh-bộ ban ra, sau một tháng, họ phải tụ về điện Giảng-võ học phép hành binh, bố trận, cùng luật lệ, rồi mới tùy theo tài bổ dụng.
      Lê Văn suýt xoa:
      - Từ khi dựng nước đến giờ, nay mới có thể lệ thi cử hay như vậy. Xét cho cùng, sở dĩ Thuận-Thiên hoàng-đế thành công, chẳng qua ngài có đức, biết trọng ý kiến người hiền, nhất là biết lấy chủ đạo tộc Việt làm căn bản.
      Thiện-Lãm hỏi:
      - Chú mười à! Chú được sư bá dạy thực kỹ, chú nắm vững đạo lý dân tộc. Chú giảng cho bọn này nguyên lý mà chú khen Thuận-Thiên hoàng đế biết giữ chủ đạo tộc Việt đi.
      Lê Văn sửa quần áo ngay ngắn lại rồi trịnh trọng nói:
      - Bên Tống, lấy Nho làm chủ đạo. Vua với đại thần là tất cả. Vua ban chỉ, đại thần cúi đầu tuân theo. Đại thần tâu gì, vua không thích cứ thẳng tay gạt bỏ. Một vài đại thần triều Lý cũng chủ trương theo Tống. Thuận-Thiên hoàng-đế không thế, ngài lắng nghe mọi giới phát biểu ý kiến. Nào các thiền sư Tiêu-sơn. Nào võ lâm thiên hạ. Nào quan trấn ở biên cương. Cho chí đến một người phụ nữ trẻ như dưỡng mẫu tôi. Đúng như Thiên-địa kinh của tộc Việt chép: "...Làm vua không phải ngồi trên đầu trăm họ. Không phải để ban phúc giáng họa khắp dân. Khi ngồi vào ngôi vua, việc đầu tiên, lắng tai nghe người hiền. Rồi sao cho trăm họ yên vui hạnh phúc...".
      Nó ngừng lại cho mọi người theo kịp, rồi tiếp:
      - Sau khi trúng tuyển, các thí sinh phải đến lễ tiến trình ở đền thờ Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Việc này có nghĩa: Từ nay các người không còn là dân dã nữa. Các người là của quốc dân, phải gánh vác trọng trách sơn hà. Về việc về quê bái yết sư phụ, tạ ơn tổ tiên, phụ mẫu, mục đích khuyến khích hương đảng thi nhau dạy dỗ con em, để được hưởng vinh hạnh.
      Thiệu-Cực hỏi Kim-Thành:
      - Anh có thấy một số người đỗ đạt gốc Bắc-biên vinh qui. Dân trong khê động nghe tin con em mình trúng cách. Họ góp tiền làm tiệc linh đình lắm. Có khê động hai bố con dự thi. Bố đậu thấp, con đậu cao mới vui. Thế trong cuộc thi có truyện vui buồn gì không?
      - Nhiều lắm. Có ba tường hợp gái giả trai, sau khi trúng tuyển, bà Huệ-Phương mật tâu với ông. Ông không trị tội, mà bổ làm quan dạy ở Quốc-tử giám cùng cung nữ học tập. Lại có nhiều người Khê-động không biết nói tiếng Việt, họ nói tiếng Thái, tiếng Mường, tiếng Mèo, tiếng Ra-đê. Bà Huệ-Phương phải nhờ cô hai kiếm người thông dịch. Ông nội thích mấy thí sinh này lắm. Người đậu đã đành, người không đậu cũng được bổ làm quan.
      Chờ mãi không thấy hai chim ưng trở về. Tự-Mai hỏi Thiệu-Cực:
      - Anh thử sai chim ưng lên dò thám xem. Biết đâu trên ấy chẳng có bọn khác đến ở? Em nghi bọn Hoa-sơn đến bái kiến ắt có dã tâm.
      - Tại sao?
      - Vì như anh trình bầy, trong kỳ tranh tài động chủ, có Khúc Chẩn, Triệu Tiết thuộc phái Hoa-sơn. Vì vậy bọn Hoa-sơn đi dọn đường trước chăng?
      Thiệu-Cực gật đầu:
      - Tự-Mai tinh tế hơn anh.
      Chàng hú hột hồi dài. Mười con chim ưng đang bay trên trời từ từ đáp xuống các ngọn cây xung quanh. Thiệu-Cực huýt sáo, chỉ trỏ một lát. Năm chim ưng cất cánh bay bổng lên làn mây. Còn năm con bay lượn tuần phòng.
      Kim-Thành hỏi:
      - Anh đã lên đỉnh núi bao giờ chưa?
      - Chưa! Vì đỉnh núi thuộc tổng đàn phái Tản-viên. Luật phái này cấm không cho người ngoài lên đó. Chỉ đệ tử mới có quyền lên. Cho nên dù gan bằng trời anh cũng không dám tò mò.
      Chờ một lát không thấy năm chim ưng trở lại. Tôn Đản nhắc Thiệu-Cực:
      - Anh Cực! Từ đây lên đến đỉnh núi tuy cao thực. Song không lẽ chim ưng bay lâu như vậy?
      Thiệu-Cực cũng sốt ruột, chàng lại sai hai chim ưng nữa bay lên. Không phải đợi lâu. Hai con ưng bay xuống. Chúng kêu lên những tiếng dài, thê lương. Thiệu-Cực kinh hãi nói:
      - Như vậy năm chim ưng trước lành ít, dữ nhiều.
      Chàng cầm tù và rúc lên ba hồi dài. Lát sau, một đàn hơn trăm chim ưng bay đến. Chàng chỉ trỏ lên núi nói với chúng. Chúng cùng cất cánh bay lên cao tuyệt mù.
      Thanh-Trúc giải thích:
      - Anh Cực sai cả đoàn chim ưng lên cứu viện toán trước đấy.
      Ước khoảng ăn xong bữa cơm, đàn chim ưng bay trở xuống với những con bị mất tích lúc đầu. Chúng kêu lên nhiều tiếng khẩn cấp.
      Tự-Mai đề nghị:
      - Anh Cực à! Em nghĩ trên núi có cái gì kỳ quái. Chúng ta phải lên dò thám cho biết rõ tình hình.
      Thiệu-Cực đề nghị:
      - Ở đây võ công Tự-Mai, Tôn Đản với Lê Văn cao nhất. Ba người theo anh leo núi. Còn các em ở lại với Thanh-Trúc.
      Tôn Đản đã từng đi ra ngoài, nhiều kinh nghiệm. Nó đề nghị:
      - Có lẽ tất cả trở về nhà trước, báo cho anh cả biết rõ việc chúng mình làm thì hay hơn.
      Thanh-Trúc tán thành:
      - Đúng vậy.
      Thiệu-Cực chỉ vào ngọn suối đang chảy từ trên đỉnh xuống:
      - Chúng ta leo theo ngọn suối mà lên núi.
      Tự-Mai, Lê Văn xuất thân võ học danh gia, được huấn luyện cực kỳ chu đáo. Vì vậy bản lĩnh cao thâm không kém gì một cao thủ. Còn Thiệu-Cực, tuy có luyện tập, nhưng bản lĩnh không làm bao. Tôn Đản đã ở trong động Xuân-đài với Lý Long, Tự-Mai, được học di thư chân truyền. Nhưng thời gian luyện tập chưa có, thành ra bản lĩnh cũng chưa tới chỗ siêu việt.
      Bốn người leo núi thoăn thoắt. Thiệu-Cực tuy chưa lên đỉnh Tản-viên bao giờ. Song nghiên cứu bản đồ rất kỹ, nên chàng dẫn đầu cả bọn. Vừa leo, chàng vừa quan sát mấy con chim ưng tuần tiễu, để phòng bị ám toán.
      Leo được nửa chừng, Thiệu-Cực bắt đầu thở dốc. Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn phải ngừng lại chờ. Tự-Mai hỏi:
      - Anh Cực này. Đường chúng mình leo là đường tắt. Dường như còn đường chính lên nữa phải không?
      Thiệu-Cực vừa thở vừa đáp:
      - Đúng vậy. Đường chính có thể dùng trâu, voi lên được, nhưng ngoằn ngèo khúc khủy quanh co, xa lắm. Tuy vậy tới chỗ phình ra, cũng phải theo đường hang. Đường chúng ta lên này, lát nữa có hang ngầm tới đỉnh, ít người biết. Ngay cả hồi Đỗ Xích-Thập trấn tại đây y cũng chẳng tường. Cửa hang bị lấp đá kín, chỉ để hở một lỗ nhỏ thông hơi. Ta phải khuân đá, mở cửa hầm, mới ra được.
      Thình lình chim ưng dẫn đường kêu ré lên, rồi đâm bổ vào hốc đá trước mặt. Thiệu-Cực nói
      nhỏ:
      - Coi chừng trước mặt có người. Không biết tiều phu, hay đệ tử phái Tản-viên.
      Tự-Mai tung mình lên phía trước. Một hình ảnh làm nó mở to mắt ra: Trên cành cây mọc ngang, treo lủng lẳng một người đàn bà. Nó gọi Lê-Văn:
      - Văn đệ, lên đây mau. Mau, mau, mau.
      Tiếng mau cuối cùng vừa dứt thì Lê Văn đã lên tới nơi. Nó rút kiếm đưa một nhát, dây dứt, thiếu phụ rơi xuống. Nó dùng tay trái đỡ lấy nạn nhân, rồi đặt xuống bãi cỏ bằng phẳng. Không tỵ hiềm nam nữ, tay phải nó để lên ngực nạn nhân, tay trái bắt mạch.
      Thiệu-Cực hỏi:
      - Có hy vọng gì không?
      - Người còn nóng, nhưng mạch hết nhảy rồi. Để em dùng kim châm cứu xem... may chăng.
      Nó mở bọc lấy cái hộp bằng bạc ra. Trong hộp đầy kim. Nó cầm lấy một cây rồi bảo Tự-Mai:
      - Công lực Tự-Mai cao, hãy để tay lên huyệt Đản-trung rồi dồn chân khí vào.
      Tự-Mai vận khí, xòe bàn tay rồi để lên huyệt Đản-trung nạn nhân. Nó dồn chân khí ra. Trong khi đó Lê Văn châm vào huyệt Nhân-trung thiếu phụ. Thiếu phụ mở mắt, rồi bật lên tiếng khóc. Máu theo tiếng khóc tràn ra mũi, miệng.
      Tự-Mai nhận ra thiếu phụ, nó nói với Thiệu-Cực:
      - Anh Cú rừng! Bà này người trang Thiên-trường nhà em. Chị ta là con của thầy lang Trần Tấn-Cang và con điếm già Anh-Tần.
      Lời nói của Tự-Mai làm Thiệu-Cực suy nghĩ:
      - Từ Thiên-trường lên đây đường xa diệu vợi, thân gái dặm trường mà bà dám ra đi là một điều đáng chú ý. Hai là tại sao bà ta lại leo lên sườn núi này mà treo cổ tự tử?
      Lê Văn dùng châm cứu trị cho nạn nhân, lát sau máu đã ngừng chảy. Nó để bà ngồi tựa lưng vào tảng đá. Thiếu phụ gọi Tự-Mai:
      - Trần công tử! Người cũng có ở đây sao?
      - Tôi cũng đang muốn hỏi lại cô câu này: Tại sao cô lại tự ải?
      Hai giòng lệ thiếu phụ tuôn dài trên má. Bà ta móc trong bọc ra bức thư trao cho Tự-Mai:
      - Tôi không muốn sống nữa, mà dù có muốn sống cũng không nổi. Vì tôi đã bị bọn Hồng-thiết giáo hạ độc. Trần công tử! Đây là thư tuyệt mệnh của tôi, nhờ công tử mang về trao cho bố tôi. Như vậy, sau khi chết tôi mới yên tâm.
      Tự-Mai tiếp lấy thư bỏ vào túi. Nó định hỏi mấy câu, thì thình lình thiếu phụ rút trong bọc ra con dao, tự đâm vào ngực. Lê Văn, Tự-Mai tuy võ công cao, nhưng bà ta ra tay đột ngột. Cả hai đều chỉ biết kêu lên tiếng ngăn cản:
      - Không nên.
      Nhưng đã trễ. Lê Văn chạy lại bắt mạch. Nó lắc đầu:
      - Dao đâm trúng tim. Lần này bà ta chết rồi.
      Thiệu-Cực bảo Tự-Mai:
      - Em lấy thư tuyệt mệnh đọc lên xem tại sao bà ta lại cố đi tìm cái chết.
      Tự-Mai trao thư cho Lê Văn. Lê Văn đọc:
      Kính đệ thư này lên phụ thân là Trần y sư, trang Thiên-trường.
      Lê Văn đọc tiếp:
      Bố ơi, khi bố nhận được thư này thì con đã chết từ lâu rồi. Con chết ở trên sườn núi Tản-lĩnh vùng Bắc-cương.
      Con sinh ra làm con một danh y, lòng dạ nhân từ, như vậy thực còn gì sung sướng bằng. Nhưng tại sao mẹ con không phải là một người bình thường? Tại sao mẹ con lại đi làm những chuyện điếm nhục cho bố, cho ông bà ngoại, cho tổ tiên?
      Khi con mới có trí khôn, thì mẹ bỏ bố, bỏ anh chị em con để theo Hồng-thiết giáo, rồi lại lập hội giao hoan tập thể, tự hiến thân làm điếm thí cho thiên hạ. Thế mà khi con lấy chồng, bố vẫn khuyên con, mỗi tháng đôi lần dẫn chồng đến thăm mẹ. Con tuân lời bố. Bố có biết đâu nỗi đau khổ đứt ruột cho con, mỗi khi đến thăm mẹ không? Trong nhà mẹ lúc nào cũng đầy bọn trốn chúa lộn chồng quần tụ nhau nói truyện dâm đãng kinh tởm.
      Con có đưa lời khuyên can mẹ. Không những mẹ không nghe, mà còn khuyên con nhập hội Vu-sơn, hành dâm tập thể.
      Gần đây, con thấy mẹ hay đến nhà con trong những lần con đi vắng. Một vài lần không sao, sau gần như thành lệ. Vì vậy con phải tìm hiểu cho ra lẽ. Một lần con giả đi xa, rồi quay trở về ẩn ở trong vườn. Quả nhiên chỉ lát sau, mẹ đến. Chồng con đón mẹ, rồi đóng kín cửa lại. Chờ một lát không thấy mẹ ra, con theo lối bếp vào nhà, thì... hỡi ôi! Mẹ với chồng con trần truồng, đang hành dâm trên giường. Kinh tởm qúa, con hét lên: "Mẹ ơi ! Kinh tởm, kinh tởm".
      Chồng con nghe tiếng hét, hơi có vẻ luống cuống. Nhưng mẹ con vòng tay ra ôm chặt lấy nó rồi nói: Kệ , việc ta ta cứ làm.
      Rồi hai người tiếp tục hành dâm. Con ngồi chết lặng trước cảnh đó. Bố ơi, không biết bố có tưởng tượng nỗi cái đau đớn của con khi ấy không bố. Mãn cuộc, mẹ xỉa xói vào mặt con mà chửi bới rằng con theo bố, tin những gì thằng Thích, thằng Khổng, thằng Mạnh nói.
      Sau hôm ấy chồng con với mẹ biến mất. Con dò hỏi được biết mẹ với chồng con lên Bắc-cương. Con quyết định lấy cái chết để thức tỉnh hai người. Con dự định sẽ dùng dao đâm vào ngực chết trước mặt mẹ để mẹ hồi tâm. Không quản đường đất xa xôi, con lên đường đi Bắc-cương. Thực không uổng công, con đã gặp mẹ giữa lúc mẹ đang hành dâm với một tên Hồng-thiết giáo Tây-vực lông lá như vượn.
      Một bọn khác ngồi xung quanh vừa xem vừa uống rượu. Con nhìn cảnh tượng mà kinh khiếp trong lòng, rồi không giữ được, con bỏ chạy.
      Bọn Hồng-thiết giáo Tây-vực đuổi theo, bắt được con. Mẹ không một lời can ngăn chúng thì chớ, lại còn khuyên con nên tình nguyện làm cây thuốc cho chúng. Suốt đêm hôm ấy con bị bốn tên mọi lông lá hãm hiếp đến ngất đi. Khi con tỉnh dậy thì mẹ với bọn chúng đã đi mất. Biết rằng con có tự tử trước mặt một bà mẹ dâm dãng hơn thú vật để mong tìm lấy cái hồi tâm cũng vô ích. Con đành viết thư này cho bố, rồi mượn dây lưng tự kết liễu đời mình.
      Con biết chết như thế này là bất hiếu với bố. Nhưng bố ơi, dù con có sống cũng thành điên khùng, càng làm cho bố thêm đau lòng mà thôi. Con mong bố hãy tha hết tội lỗi cho con...»
      Thiệu-Cực nghiến răng:
      - Con điếm già Anh-Tần chắc chỉ luẩn quẩn quanh Bắc-cương này chứ không xa đâu. Việc ở đây xong, hai em sẽ cùng anh bắt nó đem cho voi dày, ngựa xé để răn chúng.
      Ba người lấy củi chất thành đống, để xác nạn nhân lên, rồi châm lửa đốt. Phút chốc lửa chảy đỏ rực. Tự-Mai lẩm nhẩm đọc kinh vãnh sinh.
      Ba người tiếp tục leo núi. Leo được quãng nữa. Bỗng có tiếng quát:
      - Ba đứa trẻ kia, đứng lại.
      Hai người từ sau mỏm đá, tay cầm vũ khí bước ra. Một người béo tròn. Một người hình dạng kỳ dị: Râu tóc đỏ hoe, mũi cao, mắt xanh to. Cả hai chặn mất lối đi.
      Thiệu-Cực hỏi:
      - Phải chăng hai vị thuộc phái Tản-viên?
      Người to béo lắc đầu:
      - Không phải! Ta là đạo trưởng Thiên-trường thuộc Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Họ Vũ tên Huy.
      Y chỉ vào người dị hình:
      - Vị đại huynh đây đại danh Ma-Lăng thuộc Hồng-thiết giáo Tây-vực. Chúng ta được lệnh trấn đây, không cho bất cứ ai lên núi.
      Tự-Mai kinh ngạc:
      - Dường như các vị chưa biết thay đổi lớn trong quý giáo thì phải. Nhật-Hồ giáo chủ ngộ đạo, đi tu rồi. Hồng-thiết giáo đổi tên thành Lạc-long giáo, do tân giáo chủ Thân Thiệu-Thái thống lĩnh.
      Vũ Huy cười nhạt:
      - Chú bé chỉ biết một mà không biết hai. Truyện mới xẩy ra đây. Giáo chủ Hồng-thiết giáo Tây-thiên cử Ngũ-sứ sang Đông-phương kinh lược. Lão nhân gia cách chức tên Thiệu-Thái, phong đệ tử người là Trần Đông-Thiên làm giáo chủ. Tân giáo chủ giá lâm Tản-lĩnh. Người truyền chúng ta trấn nơi này.
      Cả bọn kinh hoàng đưa mắt nhìn nhau. Thiệu-Cực không hiểu những gì xẩy ra. Tuy vậy, chàng cũng nói:
      - Truyện quý giáo, bản chức không biết. Bản chức hiện là mệnh quan triều đình Bắc-biên lĩnh Khu-mật viện sứ. Bản chức tuần phòng lãnh thổ qua đây. Các người phải tránh đường mau.
      Vũ Huy nói một tràng tiếng ộp ệp với Ma-Lăng. Ma-Lăng cũng đáp lại một tràng tiếng ốp ệp. Vũ Huy khoa đao lên:
      - Vị nhân huynh này nói: Người chỉ biết lệnh trên, chứ không biết gì tới Bắc-biên. Các người không lui thì đừng trách chúng ta tàn độc.
      Ma-Lăng, Vũ Huy cùng vần viên đá lớn. Viên đá lăn xuống với tốc độ kinh khủng. Bốn người vọt mình lên tránh khỏi. Thiệu-Cực ra lệnh:
      - Kiềm chế chúng.
      Tự-Mai tung mình lên cao. Nhấp nhô mấy cái, nó đã đến bên Vũ Huy. Vũ Huy vung đao chém nó. Nó vung tay, kẹp sống đao cứng ngắt. Vũ-Huy hết sức gỡ ra. Nhưng đao như đóng vào cột không nhúc nhích.
      Ma-Lăng cầm búa sắt bổ vào đầu Tự-Mai. Lê Văn rút kiếm gạt búa. Choảng một tiếng, búa văng lên không. Người Ma-Lăng ngã ngửa về sau, đầu va vào tảng đá đến bốp một cái. Nó dí kiếm vào cổ y, nhưng không thấy y động đậy. Nó nhìn lại: Đầu y vỡ đôi, máu tuôn xối xả. Y chết rồi.
      Tự-Mai đoạt đao của Vũ Huy. Tay nó đè lên vai y. Y vận công chống lại, nhưng không nổi. Y từ từ cúi xuống, như người quỳ gối. Tự-Mai sợ kình lực mạnh quá có thể khiến y chết. Nó vội buông tay ra. Không ngờ giữa lúc đó, Huy cố vận sức đứng dậy. Thành ra người y vọt lên cao, rơi xuống tảng đá nhọn. Bộp một tiếng, y dẫy mấy cái, rồi nằm im.
      Thiệu-Cực chạy lại bắt mạch. Mạch y không còn nhảy, xương sống y bị gẫy. Y chết từ bao giờ.
      Tự-Mai hỏi Thiệu-Cực:
      - Anh nghĩ xem, cái gì đang xẩy ra trên
      Tản-lĩnh?
      - Khó hiểu! Chúng ta cứ leo lên, rồi tùy cơ ứng biến.
      Leo được hơn trăm trượng, Thiệu-Cực chỉ vào hốc đá:
      - Sau hốc đá kia, có hang ngầm lên đỉnh núi. Để anh cho chó sói đi trước dẫn đường.
      Tôn Đản nhìn những viên đá xếp lại thành đống, che khuất cửa hang. Nó than:
      - Bí mật thế này. Ai mà biết được!
      Bốn anh em xúm vào khuân đá, lát sau, hiện ra một cửa hang. Thiệu-Cực vẫy tay gọi hai con sói, chàng hú lên một tiếng, chỉ vào hang đá. Cặp sói rừng chui vào trước. Lát sau, một con trở ra vẫy đuôi. Thiệu-Cực vui mừng:
      - Vô sự. Chúng ta vào thôi.
      Thiệu-Cực móc trong bọc ra bó bổi. Chàng lấy một thanh, châm lửa đốt, rồi dẫn đầu.
      Đường trong hang không dốc cho lắm, nhưng gồ ghề khó đi. Bốn người vừa đi, vừa nói truyện. Thình lình một con sói chạy ngược trở lại, chúi mõm xuống đất gật đầu. Thiệu-Cực nghiêm trọng:
      - Sắp tới đỉnh rồi. Trên đỉnh có gì kỳ quái lắm, nên sói báo cho mình biềt trước.
      Chàng dặn nhỏ:
      - Các em nhớ nhé, bất cứ gặp chuyện gì, cũng không được dụng võ.



      <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.01.2005 10:38:35 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 18.01.2005 18:08:59 (permalink)
        Hồi thứ tám mươi tư


        Trên đỉnh Tản-viên




        Lê Văn chỉ vào túi mình:
        - Em mang theo rất nhiều Hàn-ngọc đan. Để em đi trước. Gặp chuyện gì bất trắc, em dùng thuốc tự vệ hay hơn là dụng võ.
        Nó lách người lên đầu. Tiếp theo Tự-Mai.
        - Cẩn thận dò từng bước!
        Thiệu-Cực dặn các em:
        - Đường lên đỉnh núi Tản-viên có đến ba ngách khác nhau. Con đường này rất bí mật, chỉ chưởng môn phái Tản-viên mới biết mà thôi. Hôm trước Bảo-Hoà chỉ cho anh.
        Bốn người tiếp tục theo những bậc thang, leo lên. Lát sau, có ánh sáng lùa vào. Rồi tiếng ào ào như thác nước chảy phía bên ngoài. Mùi ẩm ướt xông lên rất khó chịu. Những giọt nước từ vách đá rơi xuống lách tách. Vách đá đầy những hình kỳ dị nghìn hình vạn trạng. Ánh sáng ngọn bổi chiếu trên thạch nhũ phản chiếu long lanh như đêm trăng đầy sao.
        Đi thêm đoạn nữa, Lê Văn dừng bước, nó quay lại hỏi Thiệu-Cực:
        - Hang cùng rồi. Phía trước chỉ có một lỗ, con mèo may mới chui lọt. Đỉnh núi này cao nhất vùng, tại sao còn có tiếng thác nước chảy. Kể cũng lạ?
        Thiệu-Cực cầm bổi lên soi. Chàng nhớ ra điều gì:
        - Phải rồi, cửa hang mật thông với đỉnh núi. Phía trước khoảng ba trượng có cây đề, lớn ước năm người ôm. Nó như tấm mành mành che khuất, nên dù người sống trên Tản-lĩnh cũng khó mà biết rằng sau gốc bồ đề có đường hầm. Tiếng ào ào vọng vào chắc không phải tiếng thác, mà là tiếng gió thổi làm lá bồ đề bật thành tiếng reo đấy thôi. Cửa này bị lấp mất lối. Phải gỡ mấy tảng đá mới ra được.
        Quả đúng như Thiệu-Cực nói, cửa hang được lấp bởi những tảng đá khá lớn. Lê Văn gỡ tảng thứ nhất không khó khăn gì. Nó gỡ tảng thứ nhì, rồi ba. Đến tảng thứ mười tám, thì mở ra cửa lớn. Không khí trong lành lùa vào hang. Mấy anh em cảm thấy dễ chịu, họ hít một hơi dài, cùng bật lên tiếng hoan hô. Gốc cây bồ đề to ước ba người ôm như tấm mành che cửa, thành ra đứng trong hang không nhìn thấy bên ngoài.
        Lê Văn tung mình toan chui ra khỏi hang. Thiệu-Cực túm áo nó kéo lại:
        - Khoan! Để hai con sói ra trước dò đường đã.
        Chàng huýt sáo một tiếng. Hai con sói vọt mình tiến lên. Nó ngừng lại ở cửa hang đánh hơi mấy cái rồi chui ra, biến mình vào trong đám mây trắng mờ mờ bên ngoài. Lát sau chúng trở lại vẫy đuôi mừng.
        Biết vô sự, Lê Văn lách mình ra trước. Nó núp vào gốc cây cổ thụ quan sát: Đỉnh núi có khu đất bằng phẳng ước hơn ba mẫu. Giữa khoảnh đất, toạ lạc căn nhà. Nửa dưới bằng đá xếp lại. Nửa trên bằng gỗ hun khói đen. Xung quanh, một vườn hoa, với hàng trăm thứ hoa thơm cỏ lạ, mầu sắc sặc sỡ.
        Chợt nó rùng mình rên:
        - Lạnh quá.
        Mây trắng bàng bạc trôi, che lấp Tản-lĩnh. Thành ra khó có thể thấy toàn bộ xung quanh.
        Nó dơ tay lại sau vẫy mấy cái. Thiệu-Cực cùng Tự-Mai, Tôn Đản ra theo.
        Thình lình có tiếng quát tháo, rồi tiếng vũ khí chạm nhau kêu loảng xoảng đâu đó vọng lại.
        Tự-Mai đoán:
        - Dường như có cuộc giao tranh thì phải. Không biết ai với ai đang đấu chiến?
        Gió đưa mùi hôi nồng nặc xông ra, rồi có tiếng gầm gừ. Hai con cọp mun nhe răng tiến lại. Lê Văn, Tự-Mai vận công, chuẩn bị đả hổ. Bỗng Thiệu-Cực cũng gầm gừ như hổ mấy tiếng. Hai con hổ nghe tiếng Thiệu-Cực, chúng ngừng lại quan sát. Khi nhìn thấy chàng, chúng lao mình đến, vẫy đuôi mừng như chó. Thiệu-Cực ôm đầu chúng, tỏ vẻ thân ái.
        Tự-Mai hỏi:
        - Cọp này quen với anh chăng?
        - Đúng thế. Chúng thuộc đội hổ binh canh núi Tản-viên. Hơn năm trước bị mất tích. Anh cho rằng chúng đi lạc vào rừng, không ngờ chúng lại ở đây.
        Tôn Đản xua tay:
        - Em nghi chúng bị người ta bắt trộm e đúng hơn! Anh hỏi chúng xem!
        - Hỏi vấn đề khó khăn như vậy, chúng không biết trả lời đâu. Vả hùm này khôn hơn người. Người ta có thể giết chúng, chứ không bắt được đâu. Chúng ta cần dò la xem, sự thể ra sao?
        Chợt chàng à lên một tiếng lớn:
        - Phải rồi, không ai bắt chúng cả. Nguyên hai con hổ này luôn theo bên cạnh Bảo-Hoà. Hồi Bảo-Hoà lên làm chưởng môn phái Tản-viên, chắc dẫn chúng theo. Nay, hẳn vì vắng Bảo-Hoà, chúng đánh hơi lên đây tìm chủ mà thôi.
        Lại có tiếng reo hò, rồi tiếng vũ khí chạm nhau.
        Thiệu-Cực vẫy tay chỉ vào ngôi nhà ra lệnh cho con sói. Nó băng mình tới. Chàng bảo các em:
        - Anh với Tự-Mai thám thính bên trái căn nhà. Đản với Lê Văn thám thính bên phải. Tuyệt đối không nên dụng võ. Trên trời ta có chim ưng tuần phòng. Nó luôn lao xuống phía sau căn nhà. Vậy tại đó ắt có sự gì kỳ quái chứ không bình thường đâu. Phải cẩn thận. Để anh bảo cặp hùm đi hộ vệ.
        Lê Văn, Tôn Đản men theo những bụi hoa, lần đến phía phải căn nhà. Căn nhà khá đồ sộ. Nửa dưới xây bằng những tảng đá xanh xếp vào nhau, khít khao đến độ mới nhìn qua, tưởng như một vách thiên tạo. Cửa chính rộng đến hơn hai trượng. Cánh cửa mở rộng. Trên cánh cửa, tạc hình nổi. Liếc qua Tôn Đản thấy nhiều hình người, hình trâu, sống động như thực. Các cửa sổ mở rộng.
        Nó nghĩ thầm:
        - Bố ta thường nói: Tổ sư Sơn-Tinh xuất thân nông dân, cùng tiều phu. Nay cứ nhìn hình này thì rõ. Không biết cửa chạm trổ từ bao giờ, mà nét đẹp đến thế kia? Làm sao mang gỗ lim, gỗ gụ từ dưới lên đây xây cất? Đỉnh núi cao quá, mây che khuất, người dân đứng dưới nhìn, khi thấy ngôi nhà, khi không. Vì vậy ca dao bình dân nói rằng đỉnh núi Tản có thành do tiên xây là thế. Hôm nay mình mới được biết sự thực.
        Nó nhớ lại lời Hồng-Sơn đại phu nói:
        - Tản-lĩnh là nơi linh thiêng nhất Lĩnh-Nam. Xưa Cao Biền đi khắp non cùng, thủy tận ếm, phá hết các thế đất linh. Chỉ có hai nơi y không làm nổi. Một là thế đất Cổ-pháp được phái Tiêu-sơn bảo vệ, sau táng tổ tiên họ Lý. Do vậy họ Lý lên làm vua trong hơn hai trăm năm. Còn thần Tản-viên nức tiếng linh. Cao Biền yểm không xong, hút nữa bỏ mạng.
        Quan sát tầng trên bằng gỗ gụ đen bóng. Mái lợp ngói tráng men xanh. Lê Văn nói nhỏ:
        - Bố em thường nói: Căn nhà trên đỉnh núi Tản do tổ sư Sơn-Tinh dùng biết bao tâm huyết cùng đệ tử kiến tạo. Lúc đầu ngài cùng công chúa Mỵ-Nương hưởng thanh phúc. Sau khi ngài qua đời, đệ tử dùng làm tổng đàn thờ cúng người. Căn nhà này trải qua hơn nghìn năm, không biết đã phải tu bổ bao nhiêu lần, mà vẫn con đẹp thế này?
        Có tiếng nói vọng ra. Hai đứa trẻ vội tới sát cửa sổ, ghé mắt nhìn vào. Trong căn phòng lớn, trang trí cực kỳ uy nghiêm. Giữa phòng, một pho tượng lớn, bằng đồng đen bóng loáng. Pho tượng tạc hình một tiều phu ngồi bên con trâu trong tư thế nằm. Người tiều phu tay cầm búa, tay để lên u trâu, chân duỗi, chân co.
        Không ai bảo ai, hai trẻ đều biết đó là tượng thánh Tản. Chúng đưa mắt quan sát, lòng đầy tự hào:
        - Đất Việt mình quả thực địa linh. Nơi nơi đều có linh thần bảo quốc. Thánh Tản ngự trên này, ngài phóng tầm mắt nhìn khắp Hoa-Nam, nhất cử nhất động của Bắc phương ngài đều thấy rõ.
        Lại có tiếng reo:
        - Lão già Đặng Đại-Khê kia! Mi chịu thua đi thôi! Hay mi muốn lão gia hóa kiếp cho mi.
        Tiếng nói ấm ớ, tỏ ra không phải do người Việt phát âm. Tự-Mai, Thiệu-Cực cũng đã đến bên Tôn Đản, Lê Văn. Tự-Mai chỉ phía sau căn nhà:
        - Dường như Đặng sư bá đang giao chiến với ai! Không biết bọn ấy thuộc loại người nào, mà dám buông lời nhục mạ Đặng sư bá.
        Bốn người vòng ra phía sau. Quả nhiên trên khoảng đất bằng phẳng, dùng làm sân luyện võ. Trong sân chia ra hai nhóm người đứng đối diện nhau. Mỗi nhóm đều có tăng, tục, nam, nữ. Họ đeo nhiều thứ vũ khí kỳ dị. Tự-Mai, Tôn Đản, Lê Văn nhận ra một nhóm thuộc phái Tản-viên. Trong nhóm, có Đào Nhị-Bách, Đào Tam-Bách. Phân nửa đám đệ tử Tản-viên đã tham dự đại hội Lộc-hà, nên chúng quen mặt. Họ cũng nhận ra chúng. Còn nhóm kia trang phục theo người Tống. Giữa đám Tống, hai người mặc quần áo Việt. Đó là mụ già Anh-Tần, hội trưởng hội Vu-sơn vùng Yến-vĩ sương-sen. Cạnh mụ, một tên nữa, làm Tự-Mai, Tôn Đản nhìn nhau cười, chính thị gã Nguyễn Qúy-Toàn.
        Lạ một điều, giữa đám võ lâm Tống, có một người mặc theo lối quan lại.
        Hai nhóm người chăm chú theo dõi trận đấu giữa sân. Hai đối thủ đang vận công đấu nội lực. Tự-Mai nhận ra một người chính là Đặng Đại-Khê. Một người nữa tuổi cũng khá già, râu tóc bạc phơ, oai phong lẫm lẫm, nó không biết rõ căn cước.
        Mọi người chú tâm đến trận đấu, nên bốn đứa trẻ đến, mà không ai chú ý.
        Bọn Tự-Mai đứng vào với phái Tản-viên.
        Đặng Đại-Khê hiển uy thần lực, mặt đỏ như uống rượu. Còn lão già kia, râu tóc dựng đứng. Trên đầu lão có khói bốc lên.
        Một mụ già trong nhóm Tống quát lên the thé:
        - Lão Đặng Đại-Khê kia! Người không phải đối thủ của Nam-Sơn lão nhân phái Hoa-sơn đâu. Mi mau quỳ gối xin hàng, lão nhân gia sẽ thu làm đệ tử.
        Mụ vừa dứt lời, chính Nam-Sơn lão nhân lùi liền hai bước. Vì vậy, mụ ngậm mồm, không nói thêm gì nữa.
        Qua một vài khắc, thình lình Đặng Đại-Khê lùi liền ba bước. Rồi tay trái chĩa thẳng vào mặt Nam-Sơn lão nhân điểm một chỉ. Nam-Sơn lão nhân thấy chỉ của Đại-Khê chĩa vào ngực, y kinh hoảng, nội lực yếu đi. Tay trái y từ tư đưa ra gạt chỉ của Đại-Khê. Chỉ của Đại-Khê trúng giữa cườm tay lão. Lão choáng váng bật lui, rồi oẹ một tiếng, miệng phun máu có vòi, người lộn đi ba vòng, nằm bất động.
        Một người trong nhóm đối diện chạy ra bồng lão về. Một người khác, tuổi khoảng năm mươi bước ra hướng Đại-Khê xá một xá:
        - Đặng tiên sinh quả xứng danh đứng trong Đại-Việt ngũ-long, một lúc đả bại Bắc-Sơn, Nam-Sơn trong Hoa-sơn tứ lão. Lão phu Tây-Sơn, xin Đặng đại hiệp chỉ điểm cho mấy cao chiêu.
        Đặng Đại-Khê dường như mệt mỏi quá rồi. Lão lảo đảo muốn ngã. Tuy vậy lão vẫn cất tiếng nói rất hùng dũng:
        - Bình thường Đặng Đại-Khê này có coi bọn Hoa-Sơn tứ lão ra cái gì đâu? Chẳng qua hôm nay, một mình ta phải đấu với ba người bên Hoa-Sơn các ngươi, nên sức cùng lực kiệt mà thôi. Lại đây, lại đây, chúng ta đấu nữa.
        Đám đệ tử Tản-viên nhận ra Tự-Mai, Tôn Đản, Lê Văn.
        Tôn Đản hỏi Đào Nhị-Bách:
        - Đào trưởng lão. Tôi nghe nói anh Thiệu-Thái cử trưởng lão đi Đại-lý, lo sắp xếp lại Lạc-long giáo. Tại sao trưởng lão cũng hiện diện ở đây? Kìa cả trưởng lão Tam-Bách nữa, người chẳng được cử đi Quảng-Tây sao? Bọn Hoa-sơn đến làm gì vậy? Lý do nào có cuộc đấu này?
        - Khoảng hơn tháng trước, tôi vừa chỉnh đốn xong việc bản giáo ở Đại-lý thì nhận được thư của sư tỷ chưởng môn Bảo-Hoà cho biết các biên thần nhà Tồng đang có âm mưu bất lợi cho bản môn. Vì vậy người truyền lệnh tôi tạm lĩnh quyền chưởng môn. Tam đệ cũng nhận được thư, phải rời Quảng-Tây về tổng đàn gấp.
        Y nghiến răng:
        - Tôi về tới nơi, nhận được thư của chưởng môn phái Hoa-sơn, tên Bắc-Sơn lão nhân xin bái sơn vào ngày hôm nay. Trong thư nói rõ, nhân đệ tử Hoa-sơn Nam du, nên ghé thăm tổng đàn phái Tản-viên. Vì chưởng môn, sư tỷ Bảo-Hoà vắng mặt, tôi phải thay thế, chuẩn bị tiếp khách. Tôi cho triệu tập một số anh em tới tổng đàn nghênh tiếp võ lâm đồng đạo.
        Tam-Bách tiếp lời anh:
        - Bọn Hoa-sơn hẹn giờ Ngọ tới chân núi. Sư huynh cho người xuống tiếp lên. Không ngờ giờ Tỵ, chúng tôi ăn cơm, đều bị trúng độc, chân tay mất hết lực. Rồi thình lình bọn này xuất hiện. Chúng được cầm đầu bởi Hoa-sơn tứ lão, cùng thất hùng.
        Tôn Đản ngắt lời:
        -- Phái Hoa-sơn có tứ lão. Nhưng Đông-Sơn lão nhân cùng đệ tử Dư Tĩnh, Địch Thanh đang theo Bình-Nam vương Triệu Thành. Có đâu lão cũng ở đây?
        - Đúng thế. Chúng nêu danh Hoa-sơn tứ lão, nhưng chỉ có tam lão. Còn thất hùng đủ mặt. Mụ già đầu bạc kia tên Chu Chiếu-Anh. Đạo cô áo trắng tên Vương Lệ-Ngọc. Mụ béo ị tên Giáp Kim-Quy. Sư ni kia tên Trí-Thành. Gã đạo sĩ già tên Du-Minh tử. Gã cao nghệu tên Ngô Nam. Cuối cùng hoà thượng trẻ tên Vạn-Quang.
        Đào Tam-Bách thở hổn hển, tiếp:
        - Cái gã văn quan đi theo, xuất trong bọc ra cuốn trục, bảo rằng đó là sắc chỉ của Thiên-Thánh hoàng đế nhà Tống truyền cắt một giải núi Tản-viên, núi vua Bà ban cho phái Hoa-sơn. Y hô chúng tôi quỳ xuống tiếp chỉ. Dù chân tay vô lực, nhưng chúng tôi đâu hèn? Chúng tôi nhất định không quỳ, cũng chẳng tiếp chỉ. Bọn chúng định giết hết anh em, cùng thiêu hủy bài vị bẩy mươi đời liệt tổ bản phái. Giữa lúc đó Đặng lão gia xuất hiện. Chúng thách bản phái đấu ba trận. Nếu bản phái thắng, chúng sẽ bỏ đi. Bằng bại, đệ tử bản phái phải qui đầu theo phái Hoa-sơn.
        Y thở dài:
        - Chúng tôi bị tê liệt, mất hết lực, đấu sao được? Vì vậy Đặng lão gia phải cáng đáng hết. Lão gia đã thắng Bắc-Sơn, Nam-Sơn. Bây giờ tên Tây-Sơn ra thách đấu.
        Nghe thuật, Lê Văn nói với Tự-Mai:
        - Bố em thường nói, Hoa-Sơn tứ lão võ công vô địch thiên hạ. Người từng chiết chiêu với Bắc-Sơn lão nhân liên tiếp hai mươi chưởng, bất phân thắng bại. Hôm đại hội Lộc-Hà, chị Mỹ-Linh tuy xử dụng Long-biên kiếm pháp, phải khó khăn lắm mới thắng được Đông-Sơn lão nhân. Thế mà hôm nay, Đặng sư bá thắng Bắc-Sơn rồi Nam-Sơn lão nhân, mà vẫn còn sức đấu. Như vậy ắt có điều gì bí ẩn chứ không sai.
        Tự-Mai cũng nhận thấy thế. Nó biết công lực của Đặng Đại-Khê tuy cao, nhưng thua sút bố nó một chút, sao đủ sức thắng hai lão Hoa-sơn dễ dàng?
        Ngoài sân, Đặng Đại-Khê lảo đảo muốn ngã. Tự-Mai kinh hãi nghĩ:
        - Đặng sư bá thực xứng đáng một trong Đại-Việt ngũ long. Hoa-sơn tứ lão, võ công vô địch Trung-nguyên, mà sư bá hạ được hai tên. Bây giờ đến tên thứ ba, coi chừng người kiệt lực rồi.
        Tôn Đản bước ra quát lớn:
        - Khoan! Các người đường đường danh môn chính phái Trung-nguyên. Hoa-sơn tứ lão nức tiếng thiên hạ. Gần đây đệ tử của Đông-Sơn lão nhân tên Địch Thanh, đoạt chức võ trạng Biện-kinh. Thế mà các người dùng thủ đoạn hèn hạ đánh thuốc độc hại người, rồi dùng xa luân chiến. Võ đạo Trung-nguyên sao mà tàn tệ như vậy?
        Đám đệ tử Hoa-sơn tưởng bọn Tôn Đản là đệ tử Tản-viên. Chúng trố mắt nhìn, tự hỏi:
        - Bốn thằng ôn vật này chắc mới tới. Khắp các ngả lên đây, ta cho canh gác cẩn thận. Làm sao chúng lên được? Không chừng đám đệ tử canh gác bị giết hết cũng nên?
        Mụ già Chu Chiếu-Anh đưa mắt cho đồng bọn. Lập tức năm tên chạy ra các ngả thám thính. Thiệu-Cực hú lên một tiếng dài liên miên bất tận. Đoàn chim ưng trên trời lập tức bay đi.
        Tự-Mai cười thầm:
        - Anh Cực ghê thực. Anh sai chim ưng đi cầu viện chắc!
        Đạo cô Vương Lệ-Ngọc quát lên the thé:
        - Nếu lão Đặng-đại-Khê sức cùng lực kiệt. Y chỉ việc lên tiếng van xin, rập đầu qui phục bản phái, nguyện dâng núi Tản-viên cho chúng ta. Chúng ta cũng sinh phúc tha cho đám đồ tử, đồ tôn của lão.
        Đặng Đại-Khê cười nhạt:
        - Tây-Sơn lão nhân. Lại đây! Lại đây! Chúng ta sẵn sàng...
        Đến đó, ông oẹ một tiếng, miệng phun ra một búng máu tươi.
        Lê Văn chạy lại cầm mạch cho ông. Nó móc trong túi ra bình thuốc, bỏ vào miệng ông ba viên:
        - Sư bá nuốt vào, vận sức cho thuốc tan ra mau.
        Đặng Đại-Khê đang nguy nan, thấy Lê Văn, Tự-Mai, tinh thần ông phấn chấn lên. Ông hỏi:
        - Tại sao hai cháu lại có mặt ở đây? Phụ thân cháu đâu?
        Lê Văn ít kinh lịch gang hồ. Nó định trả lời Hồng-Sơn đại phu, Trần Tự-An hiện ở Thăng-long. Tự-Mai biết thế, nhanh miệng đáp ngay:
        - Thưa sư bá! Bố cháu với bốn sư thúc hiện ở dưới chân núi. Người sai cháu lên báo tin cho sư bá trước, rồi bái sơn sau. Chúng cháu tới nơi gặp truyện này. Hiện anh Thiệu-Cực đã sai chim ưng đi mời bố cháu cùng các sư thúc rồi.
        Tây-Sơn lão nhân quay lại hỏi hòa thượng Vạn-Quang về bọn Tự-Mai. Vạn-Quang nói thầm vào tai lão mấy câu. Mặt lão tái nhợt, hỏi Lê Văn:
        - Tiểu huynh đệ! Phải chăng tiểu huynh đệ là con của Hồng-sơn đại phu, chưởng môn phái Sài-sơn?
        - Tiểu bối xấu hổ, vì chưa học được một phần thủ thuật của cha mình.
        Nó chỉ vào cả bọn giới thiệu. Khi nghe đến Trần Tự-Mai, mặt Tây-Sơn lão nhân co dúm lại thực khó coi. Lão hỏi nó:
        - Trần nhị công tử! Lệnh tôn sao chưa xuất hiện?
        Tự-Mai cười nhạt:
        - Phụ thân tôi đang bố trí sư huynh, sư đệ dưới rồi mới lên.
        Mụ Anh-Tần bước ra nói với Tây-Sơn lão nhân:
        - Lão tiên sinh! Thằng này nói láo. Hôm qua tôi từ Yến-vĩ sương sen lên đây, được tin Tự-An cùng bốn sư đệ sang Lão-qua, rồi tới Xiêm-la, để hội kiến với chưởng môn Vạn-tượng, Pha-nôm. Dù y có cánh cũng không bay về đây kịp.
        Gã cao nghệu Ngô Nam nói với Tự-Mai:
        - Trần công tử! Bản phái được sắc chỉ thiên tử cắt năm ngọn núi phong cho phái Hoa-sơn. Vì vậy chúng tôi đến đây tiếp nhận. Việc này không liên hệ gì với phái Đông-a. Dù Thiên-trường ngũ kiệt hiện diện đây, cũng phải tuân phép nước. Mong công tử đừng can thiệp vào, e không lợi.
        Y chỉ vào gã văn quan:
        - Vị này họ Hoa tên Trung, xuất thân tiến sĩ, hiện lĩnh chức Lễ-bộ thị lang kiêm Khu-mật viện phó sứ Thiên-triều. Hoa đại nhân được Thiên-tử sai đi sứ, tuyên chỉ cho bản phái.
        Một đám mây trắng trôi qua, khiến mọi người như bơi trên trời. Ánh nắng chiếu qua làn mây, hoá thành mầu tím, đẹp vô cùng.
        Tôn Đản hỏi:
        - Sắc chỉ? Sắc chỉ đâu, xin cho chúng tôi xem! Chứ nói như vậy ai mà tin được?
        Gã văn quan khoan thai bước ra, đứng đối diện với Tôn Đản. Tay gã chìa ra cuốn trục:
        - Thằng nhãi Nam-man kia! Mi không đủ bất cứ tư cách gì bàn vào truyện này. Đến tên Lý Công-Uẩn, vua của mi, thấy thánh chỉ cũng phải khom lưng quỳ gối. Mi... Mi... Một đứa chưa ráo máu đầu, mà dám hạch hỏi ư?
        Vì liên hệ hai đời với triều Lê, nên Trần Tự-An không mấy ưa Thuận-Thiên hoàng-đế. Ngược lại Tự-Mai đi ra ngoài, tiếp xúc với nông dân, nơi nào nó cũng nghe người ta ca tụng ngài nhân từ, tha thuế cho dân, ăn tiêu dè sẻn, xứng đáng con nuôi Bồ-tát Lý Khánh-Vân, đệ tử Bồ-tát Vạn-Hạnh.
        Nay nghe người ta nhục mạ giòng giống Việt, nhục mạ ngài. Nó chịu không nổi, nó quên mất lời dặn của Thiệu-Cực, không được dùng võ. Thấp thoáng một cái, Tự-Mai lạng người tới trước Tôn Đản. Tay nó xuất chiêu. Bốp, bốp. Gã quan văn bị hai cái tát, ngã lộn xuống đất.
        Nó chỉ mặt gã:
        - Đất có chủ, nước có vua. Ta sống trên đất Việt, ta làm chủ đất. Thuận-Thiên hoàng-đế làm vua Đại-Việt. Còn mi, một tên quan quèn, dám nhục mạ ta là Nam-man ư? Dám gọi tên vua ta ra mà đùa cợt ư?
        Mụ già béo ị Giáp Kim-Quy chỉ mặt Tự-Mai mắng:
        - Thằng Nam-man con kia. Mi là ai mà giám ra đây đòi đối chất với chúng ta? Mi tưởng mang cái danh hão Trần Tự-An của cha mi ra làm con ngáo ộp dọa thiên hạ ư? Dù cha, chú mi có mặt ở đây, ta cũng không coi ra gì cả. Mi dám hành hung mệnh quan Thiêu-triều ư?
        Mụ quay lại chỉ một thiếu niên đứng sau:
        - Triệu Tiết! Mi dạy dỗ nó, để nó biết nước có luật, người có bậc.
        Một thiếu niên, tuổi khoảng mười sáu, mười bẩy dạ một tiếng rồi bước ra khỏi hàng đệ tử. Y chắp tay hướng Tự-Mai:
        - Trần công tử! Tiểu đệ muốn lĩnh giáo võ công phái Đông-a. Xin công tử đừng tiếc công dạy cho mấy cao chiêu .
        Tự-Mai nghe đến tên Triệu Tiết, nó chợt nhớ lại lời Thiệu-Cực nói rằng: Biên thần nhà Tống định cho hai thiếu niên tên Triệu Tiết, Khúc Chẩn thuộc phái Hoa-sơn sang tranh chức thủ lĩnh Phong-châu, Thượng-oai. Vậy chắc là thiếu niên này đây. Nó nghĩ thầm:
        - Ta đánh cầm chừng, thăm dò bản lĩnh của chúng xem sao!
        Nó chắp tay đáp lễ:
        - Không dám! Đây thuộc Đại-Việt. Triệu huynh là khách. Tôi là chủ. Chủ phải nhường khách. Xin Triệu huynh ra chiêu cho.
        Triệu Tiết đánh thẳng một quyền vào ngực Tự-Mai, giống như hành lễ.
        Tự-Mai vội trầm người xuống, phát chiêu Phong suy Đông-hải đỡ. Binh một tiếng. Triệu Tiết lảo đảo lui lại, khí huyết đảo lộn, tai phát ra tiếng vo vo không ngừng.
        Còn Tự-Mai, nó cảm thấy tay hơi ê ẩm. Nó quan sát kỹ Triệu Tiết, thấy đó là một thiếu niên tầm vóc ngang với nó, công lực mạnh hơn Quách Quỳ nhiều.
        Nó nghĩ thầm:
        - Ta tưởng trong các thiếu niên ngang tuổi, chỉ có Lê Văn khả dĩ so sánh với ta. Không ngờ tên Triệu Tiết này cõ công nào có thua sút ta làm bao. Ta thử đấu với y xem sao?
        Nghĩ vậy, nó chắp tay xá Triệu Tiết:
        - Trần Tự-Mai phái Đông-a, rất mong được lĩnh giáo võ công Hoa-sơn của Triệu huynh. Không biết Triệu huynh là đệ tử của cao nhân nào trong phái Hoa-sơn.
        Không hổ đệ tử danh gia, Triệu Tiết chỉ vào Bắc-Sơn lão nhân. Y nói bằng tiếng Việt.
        - Không dám! Người chính là sư phụ của tại hạ.
        Tự-Mai chửi thầm:
        - Bọn biên thần Nam-phương nhà Tống ghê thực. Chúng chuẩn bị cho bọn này học tiếng Việt, hầu dễ trà trộn. Được, ta há sợ chúng sao?
        Triệu Tiết xuống tấn, chắp hai tay vào nhau đưa về trước, ra chiêu Hoa-sơn thám hoa giống như hành lễ. Tự-Mai chắp tay đáp lại bằng chiêu Nộ lãng Đông lưu một chiêu dùng để đáp lễ đối thủ.
        Trong khi nó nghĩ thầm:
        - Ta chỉ dùng võ công Đông-a, không dùng lối phát lực bằng kinh mạch, cũng không vận thần công Yên-lãng xem sao.
        Triệu Tiết phát liền ba chưởng, thành một dây tấn công Tự-Mai. Tự-Mai muốn dò bản lãnh đối thủ. Nó phản công cầm chừng.

        Từ trước đến giờ, Tự-Mai toàn đấu với võ lâm Đại-Việt, chỉ một lần duy nhất nó đụng chạm với võ công Thiếu-Lâm qua trận đấu ngắn ngủi với Quách Quỳ. Hôm nay nó mới thấy võ công Hoa-sơn.
        Vừa đấu nó vừa nhớ lại lời Trần Tự-An:
        " Võ công Trung-nguyên chia làm hai. Một là những võ phái ra đời trước khi Bồ-Đề Đạt-Ma tới, gồm có Hoa-sơn, Không-động, Côn-luân, Liêu-Đông. Bốn phái này có nguồn gốc rất cổ. Tuy chiêu số, nội lực khác nhau, song vẫn cùng nguyên lý. Khi xưa Vạn-tín hầu Lý Thân đem đệ tử sang Hàm-dương đấu với võ sĩ Trung-thổ, người nhân đó thu thập hết kỳ chiêu cùng nguyên lý của họ, rồi về chế ra Long-biên kiếm pháp cùng Cửu-chân quyền pháp. Võ công Cửu-chân, kiếm pháp Long-biên hiện giờ phái Mê-linh còn lưu truyền. Vì vậy sau này, đấu với người các bốn phái nguồn gốc cổ, cứ dùng võ công Mê-linh, ắt toàn thắng..."
        Nhưng nó muốn thử dùng võ công Đông-a xem sao? Nghĩ thế nó dùng võ công Đông-a đánh cầm chừng. Sau hơn năm mươi hiệp, nó nghĩ thầm:
        - Tên Triệu Tiết xứng đáng thiếu niên anh tài, song không hơn Quách Quỳ làm bao.
        Thình lình Tự-Mai đổi hẳn chiến pháp. Nó vận công, dùng Đông-a chưởng pháp. Bình, bình, bình. Triệu Tiết bị ba chiêu như trời long đất lở. Cứ mỗi chiêu, nó bật lùi một bước. Tự-Mai tiến lên một bước. Đến chiêu thứ tư, Tự-Mai ra một chiêu Thiên vương chưởng do Lê Văn dạy nó. Binh một tiếng. Cả hai bật lui lại.
        Cả đám cao thủ Hoa-sơn lẫn Tản-viên đều kinh ngạc. Vì họ thấy Tự-Mai đang thắng thế, bỗng nhiên lại ngang với Triệu Tiết.
        Sau chiêu ấy, Tự-Mai nghĩ rất nhanh:
        - Ta hiểu rồi! Khi Triệu Đà đánh Âu-lạc. Y đã nghiên cứu võ ông Sài-sơn, tìm ra cách khắc chế. Sau y đem về dạy cho đệ tử cùng các tướng. Một trong các tướng, gốc đệ tử Hoa-sơn. Chính viên tướng này điều chỉnh lại chiêu số, võ công Hoa-sơn. Vì vậy võ công Hoa-sơn khắc chế võ công Sài-sơn. Ban nãy ta vận nội công, chiêu số Sài-sơn thành ra yếu đi. Bây giờ thử dùng chiêu số Sài-sơn, nhưng nội công Đông-a xem sao.
        Nó vận nội công Đông-a, rồi phát Thiên-vương chưởng. Binh. Nó vẫn đứng nguyên vị trí. Trong khi Triệu Tiết nhăn nhó tỏ ra đau đớn vô cùng. Chờ cho đối thủ vận công xong. Tự-Mai nói:
        - Triệu huynh! Đỡ này.
        Nó vận nội công Đông-a theo kinh mạch, dồn chân khí vào Đốc-mạch, đưa vào Thủ tam dương kinh, rồi phát một Thiên-vương chưởng nữa. Thiên-vương chưởng vốn dũng mãnh. Trong khi nội công Đông-a càng dũng mãnh hơn.
        Triệu Tiết không biết gì về Tự-Mai, vô tình nó xuất chiêu đỡ. Bình! Triệu Tiết bay bổng lên cao. Y rơi xuống ngay đầu Lê Văn. Lê Văn phẩy tay một cái, Triệu Tiết rơi xuống đúng chỗ cũ đến binh một tiếng. Nó nằm thẳng cẳng không ngồi dậy được.
        Tự-Mai thu chiêu chạy lại đỡ Triệu Tiết dậy:
        - Triệu huynh! Thế nào? Người phục chưa?
        Triệu Tiết bị trúng đòn. Nó giả vờ bị trọng thương chờ Tự-Mai tới đỡ, nó sẽ ra chiêu thình lình. Qủa nhiên Tự-Mai trúng kế. Tiết thấy Tự-Mai lên tiếng, chắc không đề phòng. Nó tấn công một chiêu như sét nổ vào ngực đối thủ, trong khi hai người đứng sát nhau. Tự-Mai không thể trở tay kịp.
        Mọi người kêu thét lên kinh hoảng:
        - Ngừng tay!
        - Đồ hèn hạ! Đánh lén ư?
        - Thu chiêu!
        Nhưng đã trễ. Chỉ thấy tiếng vù, rồi lách cách phát ra. Một thân hình bay bổng lên cao, rơi xuống giữa sân, nằm đứ đừ, không động đậy nữa.
        Mọi người nhìn kỹ, kẻ bị bắn tung lên cao là Triệu Tiết chứ không phải Tự-Mai.
        Nguyên hôm trước, nghe Thiệu-Cực nói rằng đám biên thần Tống định đưa Triệu Tiết, Khúc Chẩn ra đấu, tranh chức động trưởng Phong-châu, Thượng-oai. Vì vậy khi đấu với Tiết, Tự-Mai chỉ xử dụng công lực ngang với Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm, để so sánh, sau còn dạy sư đệ, hầu lâm trận không bị bỡ ngỡ.
        Bây giờ Triệu Tiết đánh trộm Tự-Mai, chân y đá vào bụng dưới nó, trúng huyệt Khí-hải. Như tên mang, Khí-hải là bể của khí. Chân Triệu Tiết đá trúng, thần công Yên-lãng hút hết nội lực y. Còn thần công Đông-a tòng tâm phản xạ chống lực đạo tấn công. Vì vậy Triệu Tiết mới bị thương nặng.
        Chu Chiếu-Anh chạy lại đỡ Triệu Tiết dậy. Tuy bị gẫy xương chân, xương tay, máu miệng ứa ra. Nhưng Tiết rất can đảm. Nó nghiến răng chịu đau:
        - Sư thúc an tâm. Đệ tử chưa chết đâu.
        Nói đến đó y ngất xỉu.
        Một thiếu nữ tuổi khoảng mười lăm, mười sáu đến bên Triệu Tiết bắt mạch cho y, rồi hỏi bằng một giọng cực kỳ thân thiết, rất quan tâm đến gã:
        - Sư thúc! Triệu sư huynh có sao không?
        Tự-Mai đoán đó là một nữ đệ tử nhỏ tuổi của phái Hoa-sơn. Không ngờ Chu Chiếu-Anh tỏ ra cực kỳ lễ độ với nàng:
        - Không sao cả, chỉ bị ngoại thương thôi.
        Thiếu nữ quát lên, bằng âm thanh trong như gió thoảng, tay chỉ vào mặt Tự-Mai:
        - Tên tiểu tử hôi thối ! Mi... mi đánh sư huynh ta thảm thiết thế kia! Ta... ta phải giết mi.
        Nàng quay lại vung chưởng tấn công Tự-Mai. Tự-Mai lui liền hai bước. Nàng đánh hụt.
        Tự-Mai quan sát kỹ: Đó là một thiếu nữ cực kỳ xinh đẹp. Đôi mắt sáng như sao, đôi lông mày sắc như dao cau, tỏa ra tia hàn quang như tuyết lạc mùa Đông. Da trắng tươi, đôi môi hồng mọng.
        Từ thủa nhỏ, Tự-Mai chỉ biết có chị gái. Nó cho rằng chị mình đẹp nhất thiên hạ. Sau này gặp Mỹ-Linh, rồi Bảo-Hòa, rồi Đào Hà-Thanh, rồi Lâm Huệ-Phương. Toàn những giai nhân bậc nhất Đại-Việt. Nhưng những người đó đều lớn hơn nó rất nhiều tuổi. Tình cảm của nó đối với những người ấy như con đối với mẹ, như em đối với chị.
        Hôm nay thình lình, một thiếu nữ người Tống, nhỏ hơn nó một vài tuổi. Dung nhan tươi như hoa lan mới nở ban mai. Mái tóc nàng buộc bằng sợi chỉ kim tuyến đỏ, đen óng mượt. Nàng xuất hiện thình lình mắng chửi nó. Tự nhiên nó cảm thấy luống cuống.
        Nó cố uốn giọng nói tiếng Hoa:
        - Tiểu cô nương! Tiểu cô nương phương danh quý tính là gì? Tại sao lại mắng mỏ tại hạ?
        Tôn Đản sống bên Tự-Mai từ lâu. Nó thấy cậu tiểu sư đệ thừa hưởng của đại hiệp Tự-An tính ngang tàng bậc nhất thế gian. Không hiểu sao hôm nay, bị người ta mạ lỵ, nó lại tỏ ra luống cuống, rồi đáp lại bằng lời lẽ mềm mỏng kỳ lạ?
        Thiếu nữ chỉ Triệu Tiết:
        - Mi có mau tạ lỗi với sư huynh ta không? Mi đánh sư huynh ta thế kia. Mi thực to gan!
        Tự-Mai phân trần:
        - Cô nương đứng lược trận hẳn đã thấy. Triệu huynh bị bại. Theo quy củ võ lâm, tại hạ định đỡ triệu huynh dậy. Nào ngờ Triệu huynh đánh trộm tại hạ, công lực tại hạ tự động phản ứng mới ra nông nỗi. Chứ tại hạ đâu có muốn đánh y?
        Thiếu nữ nhăn mặt:
        - Chung quy, bàn chân, bàn tay mi đã làm sư huynh ta đau đớn? Mi còn chối tội ư?
        Thấy thiếu nữ có dáng ngây thơ như Mỹ-Linh, buông lời cố chấp như Bảo-Hòa, ngang ngược như Thanh-Mai. Tự-Mai bật cười, mà không giận:
        - Triệu huynh đánh tại hạ, rồi bị phản ứng. Chân tay tại hạ đâu có chạm vào cơ thể người?
        Thiệu nữ hất hàm:
        - Ta không nói với mi nữa.
        Thiếu nữ rất quan tâm đến Triệu Tiết. Nàng đến bên y hỏi:
        - Sư huynh! Sư huynh có đau lắm không?
        Triệu Tiết cố gắng nói trong hơi thở khò khè:
        - Sư muội đừng lo lắng. Sư huynh không chết được đâu.
        Thiếu nữ bước đến trước mặt Tự-Mai:
        - Tên tiểu tử hôi thối kia! Ta phải giết mi, trả thù cho sư huynh ta.
        Nói rồi nàng tát Tự-Mai một cái. Tự-Mai thấy sắc diện thiếu nữ giận không ra giận, đùa không ra đùa. Nó nảy ra ý tưởng làm cho nàng vui vẻ. Nhân cái tát của thiếu nữ giống như người không biết võ. Nó muốn nàng tát trúng nên không tránh né.
        Bốp một tiếng, mọi người kinh ngạc đến đờ người ra. Rõ ràng họ thấy võ công Tự-Mai cực kỳ cao thâm, mà sao không tránh nổi cái tát tầm thường?
        Tuy Tự-Mai không vận công chống trả. Nhưng chân khí tự động phản ứng, làm thiếu nữ cảm thấy bàn tay đau nhức. Nàng ôm tay kêu:
        - Mi mi... lại làm ta đau rồi. Ta phải đánh mi ba cái tát nữa.
        Nàng vung tay tát Tự-Mai. Nó nhảy lùi lại ba bước. Thiếu nữ dậm chân:
        - Tại sao mi lại tránh né. Mi có đứng im không?
        Tự-Mai mỉm cười đứng im. Thiếu nữ vung tay tát. Chờ cho bàn tay nàng sắp tới má. Nó trầm người xuống. Nàng tát hụt.
        Thiếu nữ nhăn mặt:
        - Mi lại tránh rồi. Ta bảo mi đứng im mà!
        Nàng lại vung tay tát nữa. Nàng tưởng Tự-Mai trầm người tránh, nên lượn tay xuống thấp. Nào ngờ nó đứng im. Thành ra nàng tát trúng ngực nó đến binh một cái.
        Thiếu nữ xấu hổ, nhảy lui lại, chỉ mặt Tự-Mai:
        - Từ nay vĩnh viễn ta không nhìn mặt mi nữa.
        Nói rồi nàng bỏ chạy vào giữa đám đệ tử Hoa-sơn.
        Tự-Mai nhìn lại, mụ béo ị Giáp Kim-Quy buông tiếng khóc:
        - Triệu Tiết! Triệu Tiết! Con không thể chết được.
        Triệu Tiết nằm thẳng cẳng, mắt trợn ngược, coi bộ khó sống.
        Mụ chỉ vào mặt Tự-Mai:
        - Thằng ôn con kia! Tao phải giết mi để trả thù cho cháu tao.
        Miệng nói mụ xuất chưởng liền. Chưởng phong của mụ hùng hậu vô cùng. Tự-Mai không dám coi thường, nó lạng người sang trái ba bước tránh lực đạo chính, rồi vận thần công của công chúa Yên-lãng đủ mười thành công lực, đánh cắt ngang vào chưởng của mụ. Binh một tiếng, nó bật lui liền hai bước. Trong khi mụ Giáp Kim-Qui cảm thấy cánh tay tê chồn, công lực bị tan biến mất. Thuận tay, nó đẩy ra chiêu Đông-hải lưu phong bằng tất cả bình sinh công lực. Giáp Kim-Quy nổi giận, mụ xoay chưởng trở về đỡ chiêu của Tự-Mai. Bình một tiếng. Tự-Mai thấy chiêu số của mụ ác liệt, nó mượn đà nhảy lui liền ba bước để hóa giải lực đạo đối phương.
        Sau khi đáp xuống đất, nó cảm thấy chân khí trong người đầy ắp như muốn nổ tung ra. Nó vội áp dụng phương pháp qui liễm, mà nó với Lý Long, Tôn Đản học được của công chúa Yên-lãng trong động Xuân-đài. Lập tức chân khí tụ về đơn điền liền, rồi phân tán khắp cơ thể.
        Nó nghĩ thầm:
        - Từ ngày học thần công của công chúa Yên-lãng, ta chưa xử dụng lần nào. Vô tình hôm nay ta xử dụng, nên mụ Giáp này đánh ta thì bao nhiêu chân khí trên người mụ tràn vào người ta hết. Được ta tiếp tục xem kết quả ra sao.
        Nó nhìn đối thủ, thản nhiên như không hề hấn gì.
        Vì muốn trả thù cho sư điệt, Giáp Kim-Quy đánh Tự-Mai một chiêu bằng tất cả sức lực bình sinh. Mụ nghĩ rằng, phải sao, một chiêu giết chết Tự-Mai, bằng không Đặng Đại-Khê sẽ can thiệp. Không ngờ chưởng tuy phát ra như ý muốn, nhưng mụ cảm thấy kình lực giống nước sông đổ ra biển. Chân, tay, toàn thân như bị dần. Khí lực mất hết.
        Hiện diện, có đến hơn năm trăm người, không ai hiểu tại sao cả. Duy có Đặng Đại-Khê hiểu hết. Ông vốn bác học vô cùng. Ngay từ khi Tự-Mai vận công, phát chiêu đánh với Triệu Tiết, ông đã hiểu hết toan tính của nó. Cho đến khi nó tránh chưởng của Giáp Kim-Quy, rồi đánh thẳng vào người mụ.
        Ông khen thầm:
        - Ngày nọ Bảo-Hòa không ngớt khen Tự-Mai, Tôn Đản. Bây giờ mình mới thấy hai thiếu niên này tương lai hơn cha, chú nhiều. Đã vậy mình phải cho tụi Hoa-sơn thất bại với thần công của công chúa Yên-lãng hầu chúng bớt kiêu căng.
        Đặng Đại-Khê hiểu rõ Tự-Mai hơn ai hết. Bởi xưa kia, Trần Năng sau được phong công chúa Yên-lãng. Bà xuất thân phái Tản-viên, là ái đồ của đệ nhất cao nhân đương thời Trần Đại-Sinh chân truyền. Trong trận đánh đồi Vương-sơn phía Nam thànnh Trường-sa, công chúa được Tăng-giả Nan-đà truyền Vô-ngã tướng Thiền-công. Bà tổng hợp Thiền với nội công Tản-viên, thành thứ nội công mới, vì vậy bà thắng vợ chồng Xích Anh. Trong khi đánh thành Trường-sa, bà đấu nội lực với ba cao thủ đệ tử Lê Đạo-Sinh, thần công của bà hút hết nội lực của chúng. Sau khi bà tuẫn quốc thần công đó tuy lưu truyền, song đến đời chưởng môn trước Đại-Khê năm đời bị thất truyền. Trong phái chỉ còn lưu truyền bài mật quyết mà thôi.
        Lý Long, Tôn Đản, Tự-Mai tuy đọc bia của công chúa Yên-Lãng để lại, nhưng cả ba không biết mật quyết. Vì vậy tuy họ luyện thành, mà xử dụng không tinh diệu. Trong khi Đại-Khê biết xử dụng, lại không có yếu quyết luyện.
        Hôm đại hội Lộc-hà, nhìn thân pháp Tự-Mai, Đại-Khê biết nó có cơ duyên luyện thần công Yên-lãng, mà chưa học được mật quyết, thành ra không biết xử dụng, giống như người đói, ngồi bên đống gạo, không biết nấu cơm ăn. Sau đại hội, ông định gặp Tự-Mai, truyền mật quyết cho nó, mà chưa có dịp. Hôm nay, đang lúc sức cùng lực kiệt, phái Tản-viên sắp bị tận diệt, thì Tự-Mai cùng ba người bạn tới cứu viện.
        Ông thở dài:
        - Thực đáng thẹn, khi phải nhờ chúng trợ giúp.
        Ông nhắc Tự-Mai:
        " Thần-công Yên-Lãng vốn xuất thân từ Phật-gia. Phàm muốn xử dụng thần công Tản-viên này, phải buông lỏng hết chân khí, giống như cái hồ rỗng, rồi tấn công địch. Địch mạnh mặc địch mạnh. Chúng tấn công ta, giống như nước chảy ra biển."
        Hôm ở trong động Xuân-đài nó cũng như Lý Long, khi đọc đến câu: Khi gặp đối thủ công lực gấp bội, phải buông lỏng kình lực, xua đuổi lục tặc, chúng đánh ta, giống như tự tử. Cả hai đều không hiểu.
        Hôm nay, nghe Đại-Khê nhắc, Tự-Mai tỉnh ngộ. Chân khí tòng tâm lưu chuyển khắp người nó. Nó bật lên tiếng reo:
        - Ta hiểu rỗi. Ta hiểu rồi.
        Đặng Đại-Khê nghĩ:
        - Ta gài cái bẫy, để Tự-Mai dùng thần công Yên-lãng trị bọn này cho chúng biết võ học Lĩnh-Nam.
        Ông biết Giáp Kim-Qui muốn giết Tự-Mai mà không thành. Y thị có ba thần hổ thẹn vì ỷ lớn hiếp nhỏ, nên không dám đánh tiếp. Đặng Đại-Khê nghĩ thầm:
        - Ta phải buông lời chữa thẹn, cho mụ đánh nữa, hầu Tự-Mai hút hết công lực mụ.
        Ông xá Kim-Qui một xá:
        - Giáp nữ hiệp. Đa đạ nữ hiệp nhẹ tay với Tự-Mai.
        Ông nói với nó:
        - Giáp nữ hiệp chỉ muốn khảo nghiệm võ công cháu. Vậy cháu đừng nề hà gì, hãy hãy dùng tất cả bình sinh sở học, lĩnh giáo mấy chiêu nữa của Giáp tiền bối đi.
        Ông dùng Lăng-không truyền ngữ nói với Tự-Mai:
        - Vận thần công Yên-lãng bằng kinh mạch, xuất chiêu Ác-ngưu nan độ đánh mụ.
        Ác-ngưu nan độ là chiêu thuộc pho chưởng trấn môn của phái Tản-viên. Chiêu này đánh về trước như đẩy con trâu dữ cản đường. Vì vậy lực đạo trực chỉ. Tuy chiêu số mạnh, nhưng khi đấu phải ước lượng xem công lực mình mạnh hơn hay bằng đối thủ hãy xử dụng. Chiêu này tuyệt đối không thể, không nên dùng khi công lực đối thủ cao hơn, bởi khi công lực đối thủ cao hơn, kình lực đánh ngược lại thân mình, sẽ mất mạng. Nhưng người xử dụng thần công Yên-lãng, giống như mở cửa, đón nhận hết vàng ngọc của đối phương biếu mình.
        Tự-Mai được Bảo-Hoà dạy cho mười chiêu Phục-ngưu thần chưởng. Bây giờ thấy Đại-Khê khuyên như vậy, không nghĩ ngợi, nó xuất chiêu liền.
        Giáp Kim-Quy bị thất bại chiêu đầu, mụ cho rằng mình vận chưa hết công lực. Bây giờ mụ vận đủ bình sinh sở học, vung tay đỡ thẳng vào chưởng của nó. Bộp một tiếng. Hai chưởng dính liền vào nhau. Tự-Mai thấy chân khí đối phương theo Thủ-tam dương kinh tràn vào người. Nó chuyển về huyệt Mệnh-môn rồi đưa vào thận.
        Nếu Giáp Kim-Quy không vận hết công lực. Nếu Tự-Mai xuất chiêu khác, chân khí mụ rót vào người Tự-Mai như ấm nước rót vào bát, phải khoảng một nửa giờ mụ mới kiệt quệ. Đây Tự-Mai xuất chiêu Ác-ngưu nan độ, mở rộng Lục-kinh. Giống như một cái hồ. Còn Kim-Quy lại dồn chân khí ra hết, chẳng khác gì chậu nước hắt xuống hồ. Vì vậy khoảng mười tiếng đập tim, chân khí mụ hoàn toàn dồn vào người Tự-Mai. Mụ lảo đảo, ngã ngồi xuống.
        Đám người phái Hoa-sơn la hoảng. Vì võ công Giáp Kim-Qui đâu có thua Hoa-sơn tứ lão làm bao, thế mà bị một thiếu niên đánh hai chiêu, khiến mụ kiệt quệ, mất hết sức lực.
        Đạo cô Vương Lệ-Ngọc lạng người tới. Mụ xuất chiêu trong Hoa-sơn chưởng đánh thẳng vào mặt Tự-Mai, với ý định đẩy lui nó lại, rồi ôm Giáp Kim-Quy về.
        Tự-Mai vốn gan lỳ, lại can đảm. Ai nó cũng dám so tay hết. Ngày nọ, đại hội Lộc-hà ở Thăng-long, võ công còn kém bây giờ xa, mà nó còn dám so tay với Nhật-Hồ lão nhân, huống hồ vị đạo cô này.
        Thấy chưởng của mụ cực kỳ hùng hậu, có lẽ ngang với bọn trưởng lão Lạc-long giáo, nó vội hít một hơi chân khí vận Yên-lãng thần công vào Thủ-tam dương kinh, phát chiêu Ác-ngưu nan độ đỡ.
        Binh! Một tiếng. Người nó choáng váng, nhưng tay nó với Lệ-Ngọc dính liền nhau. Lần này, công lực nó, thêm công lực mới nhận được của Giáp-kim-Qui, nên hút mau hơn lần trước. Chỉ nửa khắc, Vương Lệ-Ngọc như người say rượu, ngã ngồi xuống.
        Sau khi thu nội lực của hai đại cao thủ, người Tự-Mai cảm thấy bứt rứt, căng thẳng, cực kỳ khó chịu. Đặng Đại-Khê nhắc nó:
        - Mau ngồi xuống, xếp chân thu liễm chân khí, trong khi trụ tâm đọc bài kinh Bát-nhã.
        Kinh Bát-nhã gốc từ Thiền-tông. Người theo đạo Phật, hoặc tập thiền đều thuộc nằm lòng. Phàm sau khi tụng kinh, tập thiền, đều đọc một lần, để lòng trong sáng. Công lực do đó trở về đơn điền. Tự-Mai là đệ tử của sư thái Tịnh-Huyền, một ni sư uyên thâm Phật-pháp, nên kinh Bát-nhã nó thuộc nằm lòng.
        Đám cao thủ Hoa-sơn kinh ngạc đến ngẩn người ra. Tất cả cùng tự hỏi:
        - Cho rằng thằng bé này, xuất thân danh môn. Lẽ nào cứ mỗi chiêu, hạ một đại cao thủ?
        Chu Chiếu-Anh, Trí-Thành đỡ Giáp, Vương về trận mình. Tây-Sơn lão nhân hỏi:
        - Vương muội! Cái gì đã xẩy ra?
        Vương Lệ-Ngọc thở hào hển như người kiệt sức:
        - Không rõ nữa. Kình lực mất hết. Trong người trống rỗng.
        Lê Văn rất quan tâm đến Tự-Mai. Nó đến bên anh, bắt mạch. Nhưng khi tay vừa chạm vào tay Tự-Mai, nó cảm thấy như bị người ta ngoạm một miếng đau thấu tâm can. Nó dụt tay lại á lên tiếng lớn.
        Đặng Đại-Khê bảo nó:
        - Tự-Mai không sao đâu. Cháu đừng lo.
        Thiếu nữ lại chạy ra chỉ mặt Tự-Mai:
        - Tiểu tử hôi thối kia! Mi mi lại làm hai vị sư thúc ta bị thương rồi. Mi to gan lớn mật thực. Ta phải chặt cái đầu củ chuối rẻ tiền của mi mới được.
        Nàng cười mà không phải cười, tay nàng rút kiếm đâm vào ngực Tự-Mai. Thấy thiếu nữ vô lý, nhưng Tự-Mai nhủ thầm:
        - Bố ta thường nói: Vua chúa, quan quyền cũng như người đẹp thường vô lý. Cái gì mình làm họ cũng bắt lỗi cả. Ta chẳng nên quan tâm làm gì.
        Nghĩ vậy nó đứng im, không tránh, đưa hai ngón tay kẹp cứng sống kiếm lại. Thiếu nữ thấy kiếm mình như đinh đóng cột, không nhúc nhích được. Nàng nổi giận, nhưng mặt vẫn như cười:
        - Mi lại định cướp kiếm của ta ư? Ta cho mi đó.
        Nàng buông kiếm nhảy lui lại. Tự-Mai cầm kiếm lên coi, chuôi kiếm có khắc chữ Hoa-sơn Triệu Thuận-Tường. Chuôi kiếm của nàng dát đầy ngọc, ngọc bích, kim cương, lại có hai tua bằng những sợi chỉ kết lại. Một tua mầu đỏ, một tua mầu xanh. Nó mỉm cười:
        - Cô này tên Thuận-Tường đây.
        Nó vung tay một cái, thanh kiếm bay vọt lên cao, phản chiếu ánh sáng lấp lánh như sao lạc, rồi chui tuột vào bao kiếm phía sau nàng. Nó chắp hai tay hướng nàng:
        - Triệu cô nương, xin hoàn trả kiếm cho cô nương.
        Mọi người vỗ tay hoan hô thủ pháp tuyệt vời của Tự-Mai. Thiếu nữ dậm chân tỏ vẻ bực tức:
        - Tên tiểu tử ngu dốt kia, mi thực đần độn hết chỗ nói. Mi... mi chẳng hiểu gì cả.
        Từ đầu đến cuối Tây-Sơn lão nhân không nói một lời. Bỗng lão ngửa mặt lên trời ngâm hai câu ca dao của người Việt:
        Yêu nhau cởi áo cho nhau,
        Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay.
        Tự-Mai nghe lão ngâm, nó tỉnh ngộ, nghĩ thầm:
        - Lão này học tiếng Việt bao giờ, mà biết cả câu ca dao tình tứ của người mình. Dường như lão muốn nhắn nhủ mình rằng Triệu cô nương yêu thương mình, muốn tặng kiếm cho mình, mà sợ sư phụ, sư thúc biết, nên phải giả bộ tức giận. Mình thực ngu quá, lại đem trả về, thực phụ lòng nàng. Trách nào nàng không giận. Nàng mắng mình cũng đáng.
        Nó chắp tay hướng Thuận-Tường:
        - Triệu cô nương. Tại hạ... tại hạ quả tình ngu dốt thực.
        - Như vậy cho mi mở mắt ra.
        Chu Chiếu-Anh xem mạch cho Vương Lệ-Ngọc, Giáp Kim-Qui rồi lên tiếng:
        - Trần công tử. Không ngờ phái Đông-a, nổi tiếng đạo đức, mà lại dùng công phu tà môn của bọn Liêu-Đông, làm tiêu hao công lực hai sư muội của ta!
        Tôn Đản bước ra, chắp tay xá Chu Chiếu-Anh:
        - Lão bà lầm rồi. Sư đệ của tại hạ đâu có đánh hai vị Vương, Giáp tiền bối? Chính hai vị đánh sư đệ của tại hạ, rồi bị thất bại. Bây giờ cả hai bên đều bị thương. Nội công mà sư đệ của tại hạ dùng vốn của tiền nhân phái Tản-viên. Vị tiền bối này đã hợp thần công Tản-viên với Thiền-công mà thành. Thần công Tản-viên với Thiền-công mà là tà môn, thì trên thế gian này, không có nội công nào quang minh chính đại nữa.
        Nhà sư Vạn-Quang chống thiền trượng bước ra:
        - Tiểu thí chủ. Xin tiểu thí chủ cho biết cao danh quý tính cùng sư thừa?
        Tôn Đản khởi học võ công với bố. Nhờ có cơ duyên, nó vào động Xuân-đài cùng Lý Long, Tự-Mai luyện võ công Cửu-chân. Sau này nó được Thiên-trường ngũ kiệt, rồi Thanh-Mai, Tự-Mai, Mỹ-Linh chỉ điểm cho, nhưng không ai là sư phụ nó. Vì vậy nó trả lời:
        - Tiểu sinh họ Tôn tên Đản, không có sư phụ.
        Câu trả lời của Tôn Đản vượt ra ngoài ý nghĩ mọi người. Chính Đặng Đại-Khê cũng kinh ngạc:
        - Hôm đại hội Thăng-long, rõ rằng thiếu niên này với Tự-Mai lên đài phá bọn Tống đến điên đầu lên. Võ công của nó đâu thua Tự-Mai, Lê Văn làm bao. Tại sao lại không có sư phụ?
        Vạn-Quang thấy Tôn Đản gọi Tự-Mai bằng sư đệ. Y cho rằng nó xuất thân từ phái Đông-a. Y muốn Tôn Đản xuất chiêu, để có thể biết nội công mà Tự-Mai dùng đánh bại hai sư tỷ của y. Y vẫy tay bảo một thiếu niên:
        - Khúc-Chẩn! Cháu hãy lĩnh giáo mấy cao chiêu của Tôn thiếu hiệp.
        Lời nói của y đầy khách sáo.

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.01.2005 10:40:02 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 18.01.2005 18:10:04 (permalink)
          Hồi thứ tám mươi lăm


          Tình Việt, duyên Hoa.




          Lại một thiếu niên ngang tuổi với Tôn Đản, Tự-Mai. Thân hình y to lớn kềnh càng, mặt non choẹt. Y tiến ra hành lễ với Tôn Đản:
          - Tại hạ Khúc Chẩn, đệ tử Hoa-sơn, xin Tôn huynh dạy cho mấy cao chiêu.
          Nghe Khúc nói tiếng Việt rành rẽ, không ngọng như Triệu Tiết. Tôn Đản kinh hãi:
          - Anh Thiệu-Cực nói biên thần Nam phương nhà Tống chọn hai thiếu niên Triệu Tiết, Khúc Chẩn tranh chức thống lĩnh châu Phong, Thượng-oai. Tiết bị Tự-Mai đả bại. Đã vậy ta thử dò la công lực Khúc thế nào, hầu giúp Thuận-Tông, Thiện-Lãm.
          Nó đáp lại bằng lời lẽ khách khí:
          - Rất mong Khúc huynh nhẹ tay cho.
          Khúc Chẩn bái tổ, rồi tấn công Tôn Đản bằng một hoành cước. Nếu như Tự-Mai, nó sẽ trầm người xuống để cước qua đầu, rồi trả lại bằng một hồi phong cước (đá giò lái).
          Tôn Đản học võ công Cửu-chân, chuyên phá võ công Trung-nguyên. Nó biết khi đối thủ dùng hoành cước, ắt chỗ yếu nhất là hông trái. Vì vậy nó dùng trực cước tung vào hông trái Khúc Chẩn. Cước nó ra sau, mà tới trước. Bộp một tiếng, Khúc Chẩn ngã lộn đi hai vòng.
          Tuy bị đau, Khúc Chẩn uốn cong người đứng dậy. Nó gườm gườm nhìn Tôn Đản. Tính toán cẩn thận, nó xuất chiêu Ưng-xà chưởng. Tay phải như móng ưng chụp vào mặt Tôn Đản. Tay trái mổ thẳng đến như con rắn. Vô tình để hở hạ bàn. Tôn Đản trầm người, quét một cước. Khúc Chẩn lại ngã lộn đi hai vòng nữa.
          Khúc Chẩn thấy công lực, chiêu số đối thủ thua mình. Song ra hai chiêu, đều bị phá vỡ nhục nhã. Nó ngây người quan sát Tôn Đản.
          Đám cao thủ Hoa-sơn cũng nhận thấy thế. Chu Chiếu-Anh nhắc nó:
          - Tấn công bằng liên hoàn cước.
          Khúc Chẩn tung mình tấn công bốn cước liền. Một thẳng, một ngang, một vòng, và một hồi phong. Tôn Đản lùi một nước, trả bằng bốn quyền khác nhau. Tuy bốn quyền không trúng đối thủ, nhưng từ nội công đến chiêu số đều khắc chế cước của Khúc Chẩn.
          Hai trẻ đấu với nhau được trăm chiêu. Ai quan sát cũng phải kinh ngạc. Một bên chiêu số kỳ diệu, biến hoá tinh vi. Một bên thô kệch, chậm chạp. Nhưng hễ khi Tôn Đản xuất chiêu, lại làm cho Khúc Chẩn luống cuống.
          Tự-Mai vận khí một lúc, người tỉnh táo, nó đứng dậy xem sư huynh đấu với Khúc Chẩn. Thấy sư huynh muốn thắng Khúc mà không được, nó dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai Tôn Đản:
          - Anh sáu! Hấp khí dẫn về đơn điền, rồi đưa ra huyệt Mệnh-môn. Chuyển từ Mệnh-môn lên Đại-trùy, phát lực ở Thủ-tam dương kinh.
          Nó nhắc đến đâu, Tôn Đản làm đến đó.
          Binh một tiếng, Khúc-Chẩn bị trúng một chiêu Cửu-chân. Người y bay tung lên cao, rơi xuống trước mặt nhà sư Vạn-Quang. Y cố ngóc đầu dậy, nhưng được nửa chừng, lại nằm vật ra.
          Chu Chiếu-Anh cười nhạt:
          - Tôn thiếu hiệp! Lão già này có lời muốn thỉnh thiếu hiệp.
          - Xin tiền bối cứ dạy.
          - Võ công mà thiếu hiệp xử dụng là võ công gì vậy? Lão già này mắt kém nhận không ra.
          Tôn Đản đáp cho qua truyện:
          - Tiểu bối đã dùng võ công cổ của thời Văn-lang.
          Chu Chiếu-Anh bảo nhà sư Vạn-Quang:
          - Sư đệ! Người hãy lĩnh giáo mấy cao chiêu của Tôn thiếu hiệp.
          Vạn-Quang hiểu ý sư tỷ sai mình ra đấu với Tôn Đản, không với mục đích thắng bại, mà với ý định tìm hiểu pho võ công khắc chế với võ công Hoa-sơn. Vì vậy y bước ra:
          - Tôn thí chủ! Xin mời.
          Tôn Đản biết muôn ngàn lần, nó không phải là đối thủ của một trong Hoa-sơn thất hùng. Tuy vậy bản tính can đảm, nó vẫn không lùi. Nó nghĩ thân phận Vạn-Quang, không bao giờ xuất chiêu trước, nên nó vận khí bằng kinh mạch, rồi phát chiêu Loa-thành nguyệt ảo tấn công.
          Vạn-Quang thấy chưởng pháp hung dữ, khắc chế với võ công của mình. Y ra một chiêu đỡ. Binh một tiếng, Tôn Đản bật lui hai bước. Trong khi cánh tay Vạn-Quang gần như tê liệt.
          Vạn-Quang lại xuất chưởng đánh Tôn Đản. Y đánh cầm chừng khoảng hơn trăm hiệp, thì đám cao thủ Hoa-sơn tìm ra rằng công lực Đản không có gì, song võ công của nó khắc chế võ công Hoa-sơn mà thôi.
          Tây-Sơn lão nhân dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai Vạn-Quang:
          - Sư đệ! Hãy bắt sống thằng nhỏ này, đem về tổng đàn, tra khảo bắt nó khai hết võ công. Chúng ta nhân đó sửa đổi chiêu thức, hầu khi gặp người trên nó, còn ứng phó được.
          Nghe sư huynh nói, Vạn-Quang tiến lên dùng ưng trảo chụp tay trái Tôn Đản. Nó vung tay phải đánh vào mặt đối thủ để tự giải thoát. Vạn-Quang lại bắt tay phải nó. Nó vận sức giật ra.
          Trong khi giật, nó thấy tay trái Vạn-Quang tiết ra kình lực âm nhu, tay phải tiết ra kình lực dương cương. Hai kình lực hỗ tương tấn công nó. Nó than thầm:
          - Cơ chừng hôm nay ta ắt chết tại Tản-lĩnh này. Nó vận hết bình sinh công lực ra chống lại, nhưng vô ích. Chân khí Vạn-Quang một bên âm, một bên dương thay nhau tấn công nó. Mặt nó đỏ lừ, lồng ngực muốn nổ tung. Nó muốn lên tiếng đầu hàng, nhưng vì tự ái dân tộc, nó nghiến răng chịu đau.
          Khoảng một khắc sau, nó không chống nổi nữa, chân khí Vạn-Quang tràn vào người nó một chút. Nó cảm thấy khoan khoái vô cùng, lực đạo sinh ra, nó vận công chống lại. Trong khi chống nó tự hỏi:
          - Chân khí Vạn-Quang đánh ta, đáng lý ta phải vỡ tạng phủ mà chết, chứ có đâu lại khoan khoái thế này?
          Nó chợt nhớ một truyện cũ, chép trong bia đá ở động Xuân-đài:

          Hồi thơ ấu, Bắc-bình vương Đào Kỳ bị hai vợ chồng Phong-Châu song quái dùng nội lực đánh vào hai tay khác nhau. Vương qui liễm chân khí của Vũ Hỷ bằng ba kinh dương, của Phương-Anh bằng ba kinh âm. Vì vậy, chân khí âm dương hợp lại trong người vương. Lát sau hai người kiệt lực.

          Hôm ấy nó đọc thuộc khẩu quyết, nhờ Lý Long, Tôn Đản, mỗi người nắm một tay để nó thử. Quả nhiên thành công. Bây giờ Vạn-Quang dùng hai kình lực khác nhau, một âm, một nhu đánh nó. Tại sao nó không buông lỏng chân khí, để âm dương tự hợp lại trong đơn điền? Nó nghĩ đến đâu, chân khí tòng tâm buông lỏng. Chân khí Vạn-Quang như thác đổ dồn vào người nó.
          Nó vừa qui liễm khí, người Vạn-Quang run lên. Y thấy nội tức cuồn cuộn tiết ra, vội thu lại, nhưng không được. Khoảng nhai dập miếng trầu, Tôn Đản qui liễm được phân nửa chân khí của Vạn-Quang, sức hút càng thêm mạnh.
          Vạn-Quang định lên tiếng cầu cứu với các sư huynh, sư tỷ, mà y không dám mở miệng. Y biết chỉ cần nói một tiếng, y sẽ hộc máu ra chết liền.
          Đạo sĩ Du-Minh thấy sự lạ, vội tiến lên quan sát, nhưng y cũng không hiểu cái gì đang xẩy ra. Y cho rằng Vạn-Quang đấu nội lực với Tôn Đản. Y thấy dường như Vạn-Quang yếu thế, mà không dám ra tay, vì sợ mang tiếng hai người đánh một.
          Về phía Đặng Đại-Khê, Tự-Mai. Hai người chỉ liếc qua đã biết rõ tình hình. Ông nghĩ thầm:
          - Ta phải đánh lừa bọn khả ố này hầu Tôn Đản lấy hết nội lực cho bõ ghét.
          Biết Du Minh muốn nhập cuộc, ông nói với y:
          - Du đạo sư. Mong đạo sư can sư đệ, tha cho bậc tiểu bối Tôn Đản một phen.
          Du Minh được lời nhắc, như mở cờ trong bụng. Y nắm lấy hai vai Vạn-Quang. Hai vai là nơi Thủ-tam dương kinh chạy qua. Khi Du Minh chạm tay vào, nội lực y bị Vạn-Quang hút mất. Y rùng mình một cái, vận sức giật sư đệ ra. Song y không vận sức còn khá, y càng vận sức, nội tức càng tuôn ra mãnh liệt.
          Du-Minh kinh ngạc, chưa kịp phản ứng, thì nội tức như nước vỡ bờ truyền vào người Vạn-Quang rồi sang Tôn Đản mất. Hút khí của Vạn-Quang, Tôn Đản mất hơn khắc. Nay trong người nó thêm nội lực Vạn-Quang, nên hút của Du Minh chưa đầy nửa khắc, y đã kiệt quệ.
          Khoảng nhai dập miếng trầu, nội lực Du Minh, Vạn-Quang bị hút hết. Hai người lảo đảo, ngã ngồi xuống đất.
          Ngô Nam phóng mình tới tấn công Tôn Đản một chưởng. Thấy chưởng phong mãnh liệt, nó kinh hãi xuất chiêu Nguyệt ảo Loa-địa trong Cửu-chân chưởng pháp. Bình một tiếng Ngô Nam bật lui ba bước. Y lảo đảo, ọe một tiếng, máu miệng ri rỉ chảy ra.
          Tất cả quảng trường, chỉ Đại-Khê, Tự-Mai biết Tôn Đản đã thu nội lực của Du Minh, Vạn-Quang, nên nó phất nhẹ một chiêu cũng khiến Ngô Nam lạc bại.
          Bắc-Sơn lão nhân tuy bị trọng thương, nhưng đầu óc còn minh mẫn. Lão nghe nhiều biết rộng, nên hiểu hết mọi truyện.
          Lão than thầm:
          - Ta tưởng hơn nghìn năm trước Đào Kỳ, Trần Năng chết rồi thì thần công Yên-Lãng cùng qui pháp Âm-dương hỗ căn tuyệt tích. Không ngờ bọn này còn học được.
          Lão lớn tiếng:
          - Trần, Tôn thiếu hiệp. Lão phu cùng các sư muội, sư đệ thực hồ đồ. Trần công tử xử dụng thần công Yên-lãng. Tôn công tử xử dụng qui pháp âm-dương hỗ căn. Thành ra bốn người trong chúng tôi mất hết nội lực. Lại thêm Triệu Tiết, Khúc Chẩn bị thương nặng.
          Lão thở dài nói với Hoa Trung:
          - Hoa đại nhân. Toàn phái Hoa-sơn từ trên xuống dưới xin đa tạ hồng ân của Thiên-tử ban cho. Nhưng sự thể như ngài thấy. Đáng lẽ Tây-Sơn sư đệ lĩnh giáo cao chiêu của Đặng tiên sinh. Nay hai thiếu hiệp đánh bại sáu người bên lão phu. Hoa-sơn xin rút lui, không dám nhận núi Tản nữa.
          Lê Văn bước ra xá Tây-Sơn lão nhân:
          - Ở đây có Bắc, Nam-Sơn lão nhân cùng Triệu, Khúc nhị huynh bị trọng thương. Tiểu bối học được chút y thuật của phụ thân, xin trị cho các vị.
          Mụ Anh-Tần nói với Tây-Sơn lão nhân:
          - Lão tiên sinh đừng tin thằng lỏi sảo quyệt này. Tên Hồng-Sơn thường thề không trị bệnh cho ba loại người. Một là người Hoa, hai là họ Lý. Ba là nếu bệnh mà có người trị được, lão không rớ tới. Nếu để tên ôn con này trị bệnh, không chừng nó hại người của lão nhân đó.
          Lê Văn cười ha hả:
          - Con điếm già kia! Bố tao thề như thế chứ tao đâu có thề? Tao khác bố tao ở điểm: Ai bị bệnh cũng trị. Nếu người bị bệnh là kẻ thù, cần trị thực tận tâm hầu hóa giải.
          Bắc-Sơn lão nhân cười lớn:
          - Lê công tử. Năm nay lão đã trên bẩy mươi, có chết cũng thỏa nguyện rồi. Công tử trị cho lão trước đi.
          Lê Văn đến bên lão, tay nó mở hộp kim, rồi cởi áo lão ra: Lưng lão bị một vết bầm, in hình bàn tay. Nó biết lão bị trúng chưởng của Đặng Đại-Khê. Sau khi án tay vào vết tím, nó nói:
          - Không hề gì. Phục-ngưu thần chưởng là chưởng chính đại quang minh, trị dễ mà.
          Đầu tiên nó châm những huyệt quanh vết bầm, sau đó nó cầm cây kim ngắn nói:
          - Lão tiện sinh. Vì vết thương bao trùm khu huyệt Phế-du, Tâm-du, Cách-du, Tỳ-du, Vị-du. Tiểu bối đã châm huyệt áp thống rồi. Bây giờ cần châm huyệt thông kinh là huyệt Nhân-trung. Mong lão tiên sinh thứ lỗi.
          - Được, công tử cứ thẳng tay.
          Lê Văn châm vào huyệt Nhân-trung. Bắc-sơn lão nhân rùng mình một cái, lão khạc ra một bụm máu đen. Mặt lão đang tái mét, tươi hẳn lên.
          Lê Văn cầm hai cái kim nữa nói:
          - Tuy đã khai thông vết thương. Nhưng cần trị chung lồng ngực. Sau đây tiểu sinh châm hai huyệt Công-tôn, Nội-quan, tiên sinh sẽ hết đau liền.
          Quả như Lê Văn nói. Nó châm hai huyệt Công-tôn, Nội-quan, xoay kim một lát, Bắc-Sơn lão nhân tỏ vẻ khoan khoái:
          - Đa tạ Lê công tử. Vết thương đã lành rồi.
          Lê Văn lại trị cho Nam-Sơn lão nhân, rồi tới Triệu Tiết, Khúc Chẩn. Còn Vương Lệ-Ngọc, Giáp Kim-Quy, Du Minh, Vạn-Quang nó nói:
          - Ba vị này bị hút hết nội lực. Chỉ cần luyện trong sáu tháng, sẽ phục hồi.
          Nó đến bên Triệu Tiết, Khúc Chẩn án tay vào các vết thương, cầm mạch, rồi nói:
          - Triệu huynh bị gẫy xương chân. Khúc huynh bị gẫy xương tay. Nội tạng vô sự. Tôi bó xương cho hai đại huynh. Hai huynh cần tĩnh dưỡng trong ba bẩy hai mươi mốt ngày, lại xử dụng võ công được như thường.
          Nó móc trong bọc ra hộp cao, bôi lên vết thương, rồi dùng hai thanh tre kẹp vào chân gẫy, dùng vải cuộn lại. Nó móc trong bọc ra bốn viên thuốc, bỏ vào miệng mỗi người hai viên:
          - Đây là thuốc trấn thống. Hai vị hãy nuốt vào, cái đau đớn sẽ biến đi liền.
          Lê Văn chẩn mạch đám đệ tử Tản-viên:
          - Các vị này bị trúng độc Hủ cân, nhuyễn cốt của Hồng-thiết giáo. Loại này trị dễ. Song tiểu đệ không mang thuốc theo. Có lẽ phải nhờ Thân đại ca sai chim ưng mang thư về Vạn-thảo sơn trang xin thuốc. Từ đây vào Thanh-hóa, e mất một ngày đi, một ngày về. Như vậy nguy lắm. Đệ đành dùng châm cứu trị vậy. Xin các vị sư huynh, sư tỷ khuất thân chịu đau một tẹo.
          Đặng Đại-Khê cười:
          - Cháu cứ dùng kim. Thuốc đắng, rã tật. Chịu kim châm đau, mà khỏi bệnh là lẽ thường.
          Nguyên từ khi Nhật-Hồ lão nhân đưa Hồng-thiết giáo vào Đại-Việt. Đệ tử lão xử dụng hầu hết các phương thuốc trong Hồng-thiết kinh. Người bị trúng độc tới Vạn-thảo sơn trang xin điều trị. Hồng-Sơn đại phu chỉ nghiên cứu nửa ngày lại tìm ra phương thuốc chữa. Cho nên Lê Văn hỏi qua vài đệ tử phái Tản-Viên, nó đã tìm ra nguyên ủy của bệnh.
          Đặng Đại-Khê hỏi:
          - Cháu nói sao? Chúng ta bị trúng độc của Hồng-thiết giáo chứ không phải của phái Hoa-sơn à?
          Lê Văn biết người bạn của bố thuộc loại minh mẫn nhất Đại-Việt. Chỉ vì khi lên núi, thấy đệ tử của mình trúng độc, rồi phái Hoa-sơn tấn kích, nên ông chủ quan. Nó nói:
          - Thưa sư bá! Cháu dám đem đầu quả quyết rằng phái Hoa-sơn không hề đánh thuốc độc anh em phái Tản-viên. Ngược lại anh em phái Hoa-sơn cũng là nạn nhân của Hồng-thiết giáo.
          Đám đệ tử Hoa-sơn nghe Lê Văn nói, họ vỗ hay vang dội hết tràng này đến tràng khác.
          Lê Văn chắp tay hướng Đại-Khê:
          - Cháu xin trị bệnh cho các vị sư huynh, sư muội này trước, rồi hãy biện minh thủ phạm sau.
          Không đợi Đại-Khuê trả lời. Nó móc trong túi ra một hộp kim, rồi nói:
          - Cái thứ thuốc này thực kịch độc, thực nguy hai. Bởi chúng thuộc âm hàn. Nếu những ai luyện nội công âm nhu, e khó trục ra. Còn các vị đây luyên nội công dương cương của thánh Tản, chỉ cần châm hai huyệt Hiệp-cốc, Túc-tam-lý là đủ. Vì sao? Độc âm hàn nhập vào qua Thái-dương kinh, đã bị cản lại. Khi tới Dương-minh kinh, hoàn toàn vô hiệu. Nay chỉ cần dùng Hiệp-huyệt của Túc dương-minh vị kinh là Túc-tam-lý cùng Nguyên-huyệt của Thủ Dương-minh đại trường kinh, có thể đẩy ra được.
          Nó châm vào hai huyệt Túc-tam-lý, Hiệp-cốc của anh em họ Đào, rồi xoay kim. Sau hơn bốn mươi tiếng đập tim, mồ hôi Nhị, Tam-Bách vã ra. Hai người vận công, thấy kinh khí chuyển đều như thường. Hai người tạ ơn Lê Văn.
          Lê Văn tiếp tục trị cho những người khác.
          Một chim ưng trên trời đáp xuống tay Thiệu-Cực. Chàng mở ống tre dưới chân nó ra, lấy tờ giấy đọc. Đọc xong, chàng vo lại bỏ vào túi, rồi tung nó lên trời. Con chim ưng bay bổng lên cao, mất hút trong đám mây tím của buổi chiều hè.
          Thiệu-Cực vẫy cho Tôn Đản, Tự-Mai lui lại. Chàng móc trong túi ra cái quạt, phe phẩy mấy cái, rồi chắp tay hướng Tây-Sơn lão nhân:
          - Lão tiên sinh! Tiểu sinh họ Thân tên Thiệu-Cực, phụ trách Khu-mật viện Bắc-biên Đại-Việt, xin tham kiến tiên sinh. Rất mong tiên sinh dạy cho ít lời.
          Tây-Sơn lão nhân thấy một thanh niên da ngăm đen, dáng dấp như thư sinh, nói năng lễ độ. Lão đáp lễ, rồi gật đầu:
          -- Thì ra Thân thế tử, con thứ vua Bà Bắc-biên đấy. Không biết thế tử có điều chi thắc mắc?
          Thiệu-Cực quạt mấy cái, tiếp:
          - Dường như phái Hoa-sơn được sắc chỉ của Thiên-Thánh hoàng đế ban cho núi Tản cùng bốn núi vua Bà. Vì vậy lão tiên sinh đi tiếp nhận phải không?
          - Đúng thế. Không ngờ Đặng Đại-Khê vi chỉ chống lại. Y đánh hai trong Hoa-sơn tứ lão bị trọng thương. Tội thực đáng tru di tam tộc.
          Thiệu-Cực chắp tay xá một xá:
          - Lão tiên sinh ơi! Tiểu sinh thấy trung gian giữa Đặng tiên sinh với quý phái có chỗ hiểu lầm lớn. Tiểu sinh xin lão tiên sinh thứ lỗi tiểu sinh mới dám nói.
          - Thế tử cứ giải.
          - Lão tiên sinh thử đặt mình vào địa vị Đặng tiên sinh, mới thấy sự hiểu lầm to lớn biết dường nào? Thứ nhất Đặng tiên sinh không hề quen biết một người trong quý phái? Vậy lấy gì làm đảm bảo rằng các vị đây thuộc phái Hoa-sơn? Lại nữa dù Đặng tiên sinh có tin các vị thuộc phái Hoa-sơn chăng nữa, lấy gì bảo đảm sự chân thực của chiếu chỉ? Ai cũng có thể vẽ, in tấm giấy có hai con rồng chầu, rồi viết bản văn vào, nói rằng sắc chỉ của Thiên-tử?
          Chu Chiếu-Anh chỉ viên quan:
          - Vị đại nhân đây, từ Biện-kinh tới Hoa-sơn, tuyên chỉ của thiên tử. Như vậy còn sai thế nào được?
          Mụ chỉ thiếu nữ áo xanh :
          - Huống hồ Thuận-Tường đã nhận diện được Hoa đại nhân hiện giữ chức Lễ-bộ tham tri, kiêm Khu-mật viện phó sứ Thiên-triều.
          Bây giờ Tự-Mai mới biết thiếu nữ mắng y quả thực tên Thuận-Tường. Thuận-Tường ngước mắt nhìn lên, bắt gặp Tự-Mai đang nhìn mình. Nàng chỉ vào mặt nó:
          - Sao có người dễ ghét thế kia!
          Tự-Mai ngửa mặt lên trời cười:
          - Triệu cô nương! Nếu cô nương có điều chi không vừa ý, truyện sau đây xong, tại hạ xin mời cô nương dời gót ngọc dạo chơi thắng cảnh Đại-Việt, hầu tạ tội.
          Thuận-Tường hứ một tiếng:
          - Người định mời ta viếng cảnh nào?
          - Giang sơn Hoa, Việt, mỗi nơi đều có hoa thơm, có lạ tiêng biệt. Phàm nơi nào mình chưa bước chân tới, đều thành thắng cảnh. Tại hạ sẽ mời cô nương về Thiên-trường thăm núi Dục-thúy, xơi chả cá, gỏi cá, vào Thanh-hóa thăm Hồng-lĩnh xơi chuối hương, chim nướng.
          - Ta không đi! Ta ghét mặt người rồi. Khi nào ta hết ghét, sẽ nói truyện với người.
          Tự-Mai mỉm cười tha thứ. Nó định lên tiếng nói, thì bị tiếng Thiệu-Cực át đi:
          - Hãy coi như chiếu chỉ có thực đi. Song việc ban sắc chỉ không đúng luật lệ. Tỷ như chiếu chỉ đó tới triều đình Bắc-biên, tiểu sinh cũng không tin, không tuân, mà còn đem sứ giả ra chặt đầu là khác nữa.
          Thiệu-Cực phụ trách Khu-mật viện Bắc-biên, chàng đọc sách nhiều, lại chú tâm học tiếng Hoa. Vì vậy chàng nói như nước chảy, như mây trôi, lời lời nhẹ nhàng, khúc triết. Khiến bọn Hoa-sơn đều gật đầu công nhận lý luận của chàng.
          Gã thiếu niên Hoa-sơn tên Phùng Chí chỉ vào cuốn trục:
          - Nhưng sắc chỉ đây lại đúng sự thực!
          Thiệu-Cực xá Phùng Trí:
          - Phùng huynh thứ lỗi. Đệ công nhận đối với phái Hoa-sơn sắc chỉ đúng sự thực, chứ có dám nói sắc chỉ giả đâu? Chỉ một điều này, cũng đủ tin sắc chỉ có thực. Điều đó là: Hoa-sơn tứ lão, danh trấn Trung-nguyên. Đệ tử Đông-Sơn lão nhân như Dư Tĩnh, Địch Thanh, khiến ai nghe danh cũng cúi đầu khâm phục. Huống hồ tứ lão? Không lẽ danh tứ lão cao như vậy lại đi giả chiếu chỉ làm gì? Không lẽ phái Hoa-sơn nức danh Hoa-hạ lại đi tranh dành ngọn núi Tản-viên ở xứ thấp nhiệt này?
          Ở đời mấy ai tránh được ăn bánh phỉnh? Nhóm Hoa-sơn nghe Thiệu-Cực đề cao, sướng không bút nào tả siết. Họ cùng gật đầu tán thành lý luận của chàng. Biết cá đã cắn câu, Thiệu-Cực tiếp:
          - Đối với quý phái, chắc chắn chiếu chỉ là thực. Nhưng chỉ vì quá tin vào uy tín mình, nên quý phái đã không nghĩ đến sự suy xét của người khác.
          Tây-Sơn lão nhân gật đầu:
          - Có phải thế tử muốn nói đến việc ban chỉ chăng?
          - Đúng như tiên sinh dự đoán. Theo luật Đại-Tống, khi cắt năm ngọn núi phong cho phái Hoa-sơn, triều Tống phải sai sứ giả cùng chưởng môn phái này sang Đại-Việt, cáo với Thuận-Thiên hoàng-đế. Thuận-Thiên hoàng-đế sai sứ đi cùng sứ Tống lên triều đình Bắc-biên. Sau khi vua Bà Bắc-biên tiếp chỉ, một lần nữa sai sứ đi kèm sứ Đại-Tống, Đại-Việt lên đây tuyên chỉ. Hỏi ai dám chống?
          Trong Hoa-sơn tứ lão, Tây-Sơn lão nhân vốn người đọc sách, đỗ đại khoa, lão minh mẫn vô cùng. Khi Hoa Trung tới ban chỉ, đúng ra lão cũng nghi ngờ, vì không có người của An-phủ-sứ hay Chuyển-vận-sứ sở tại đi theo. Song chính đệ tử của sư huynh Bắc-Sơn lão nhân là Thuận-Tường nhận diện được Hoa Trung lĩnh chức Tham-tri bộ Lễ , Khu-mật viện phó sứ, dưới quyền Khu-mật viện sứ Phạm Trọng-Yêm. Nay nghe Thiệu-Cực biện minh, lão kinh hoàng:
          - Không khéo toàn phái Hoa-sơn phen nay bị mắc mưu người nào đó làm cho bại hoại danh tiếng cũng nên.
          Thiệu-Cực chỉ vào đám đệ tử Tản-viên:
          - Huống hồ các vị tới đây, giữa lúc toàn phái bị trúng độc. Đặng tiên sinh tin rằng các vị ám toán. Cho nên người dùng võ chống lại, đâu có gì lạ?
          Tây-Sơn lão nhân chỉ trời đất thề:
          - Lão phu xin thề trước trời đất. Nếu lão phu đánh thuốc độc các vị đây, cả phái tuyệt tử tuyệt tôn. Danh dự không bằng loài chó cái.
          Thiệu-Cực hướng vào Đặng Đại-Khê, với đám đệ tử Tản-viên:
          - Đặng tiên sinh! Chư vị huynh đệ! Tiểu bối thấy hai bên có chỗ hiểu lầm lớn. Vậy xin Đặng tiên sinh xoá bỏ những gì không đẹp đã xẩy ra, mà ngồi lại bàn cho ra lẽ. Không biết có nên chăng?
          Đặng Đại-Khê thấy toàn phái sắp sửa bị tận diệt, mà Thiệu-Cực xuất hiện, lý luận đanh thép, khiến bọn Hoa-sơn nghe theo. Ông mừng như bắt được vàng. Miệng mỉm cười, nói:
          - Ta... Ta hoàn toàn nghe lời thế tử.
          Thiệu-Cực nói với Đào Nhị-Bách, đệ tử quyền chưởng môn:
          - Khi đã biết hiểu lầm, ta cười xoà, trở thành bạn. Bây giờ huynh làm chủ, nên mời khách vào lễ thánh Tản-viên, rồi chúng ta uống rượu thảo luận với nhau thực chân thành, còn hơn đánh nhau vô ích.
          Đám đệ tử Tản-viên có nhiều người muốn thắc mắc, nhưng vì chân tay vô lực, được Thiệu-Cực cứu viện, nên họ đành theo đề nghị của chàng.
          Còn phía phái Hoa-sơn, họ cảm thấy bên trong vụ này có một vài điều khó hiểu, nên cũng đành theo đề nghị của Thiệu-Cực.
          Hai bên vào trong sảnh đường, ngồi đối diện với nhau.
          Tự-Mai ngạc nhiên vô cùng khi nó thấy Thuận-Tường được đặt ngồi ngang với Hoa-sơn tam lão, trên cả thất hùng. Nàng vẫn dùng đôi mắt sắc nhìn thẳng vào mặt nó.
          Lê Văn đưa mắt nhìn Bắc-Sơn, Nam-Sơn lão nhân. Nó thấy cả hai dường như ngoài vết thương nặng, còn bị trúng độc. Nó tiến tới bắt mạch hai lão.
          Nhóm Hoa-sơn, Tản-viên cùng im lặng theo dõi hành động của Lê Văn. Trán nó nhăn lại tỏ vẻ đăm chiêu.
          Đạo cô Vương Lệ-Ngọc hỏi dồn dập:
          - Thương thế có nặng lắm không?
          - Nặng thì không nặng. Song có điều nhị lão bị trúng độc.
          Thuận-Tường hỏi:
          - Sư phụ với sư thúc bị trúng độc sao?
          Lê Văn trả lời bằng cái gật đầu. Nó lật hai bàn tay Bắc, Nam-Sơn lão nhân lên. Bàn tay hai người xám lại như tay người chết.
          Vương Lệ-Ngọc chỉ Đặng-đại-Khê:
          - Không lẽ lão dùng độc chưởng hại sư huynh ta chăng?
          Lê Văn lắc đầu:
          - Đạo cô đừng hấp tấp, e vô lễ với Đặng sư bá. Đặng sư bá hiện là Thái-thượng chưởng môn phái Tản-viên. Phái Tản-viên được thành lập trải hơn nghìn năm, đường đường đanh môn, chính phái. Đến ám khí còn cấm dùng thuốc độc. Đặng sư bá có danh dự của một trong Đại-Việt ngũ-long, uy tín lớn biết mấy, có đâu dùng độc chưởng?
          Nó ngừng lại một lát rồi nói:
          - Khi thấy Đặng sư bá đánh ngã Hoa-sơn nhị lão, tôi biết bên trong có sự bất ổn.
          - Vì sao?
          - Tôi nghe Hoa-sơn tứ lão võ công ngang nhau. Tôi chưa biết mấy vị Bắc, Nam, Tây, nhưng đã biết bản lĩnh Đông-Sơn lão nhân. Bản lĩnh Đông-Sơn lão nhân có thua Đặng sư bá, cũng thua chút ít thôi. Cứ đó mà suy, dễ gì Đặng sư bá đả bại nhị lão? Thì ra nhị lão bị trúng độc.
          Lý luận của Lê Văn làm cả bọn Hoa-sơn đều thoả mãn ấm ức trong lòng. Chính ngay Đặng Đai-Khê cũng phải công nhận không sai. Ông nghĩ thầm:
          - Mình đấu với Bắc, Nam-Sơn lão nhân. Võ công, công lực chúng không thua mình làm bao. Thế mà lát sau, cả hai cùng bị thua mau chóng. Thì ra chúng cũng bị trúng độc. Nhưng ai núp trong bóng tối phóng độc vậy kìa?
          Lê Văn tới bên Đặng Đại-Khê, lật bàn tay ông lên coi. Nó hỏi:
          - Từ lúc sư bá lên đây, sư bá đã đấu chưởng với ai không?
          - Không. Có gì lạ chăng?
          - Cháu xem mạch Hoa-sơn nhị lão, thấy cả hai cùng bị trúng độc nặng từ trước. Vì vậy, nên khi đấu nội lực với sứ bá, hai lão tiên sinh mới dễ bị thương. Cháu nghĩ, kẻ bí mật kia bôi chất độc vào chỗ nào, khiến sư bá đụng phải, rồi mượn tay sư bá hại Hoa-sơn nhị lão.
          - Nhưng tại sao ta lại không bị trúng độc?
          Đặng Đại-Khê suy nghĩ một lúc, rồi bật lên tiếng kêu lớn:
          - Thôi! Ta hiểu rồi!
          Ông vẫy mọi người vào tổ đường, chỉ lên pho tượng thánh Tản-viên:
          - Hồi nãy, ta đến đây, thấy tượng tổ sư bị lệch. Ta vội xoay lại. Không lẽ trên tượng có thuốc độc?
          Lê Văn chạy tới quan sát tượng thánh Tản-viên, nó không thấy có gì lạ. Chợt Đại-Khê chỉ vào chỗ đầu gối tượng:
          - Cháu xem kìa!
          Lê Văn quan sát, quả nhiên đầu gối, vai tượng đều có lớp mỡ rất mỏng. Nó lấy chân nhang quệt lớp mỡ, đưa lên mũi ngửi, rồi nhăn mặt:
          - Đúng thế! Kẻ nào đó đã bôi thuốc độc vào tượng thánh.
          Mọi người nhìn nhau ngơ ngác, không ai hiểu gian tế thuộc loại người nào. Hơn nữa tổng đàn phái Tản-viên, e kẻ dám mò tới phải thuộc loại gan bằng trời.
          Thiệu-Cực cầm quạt phạch mấy cái, rồi nói:
          - Thưa ba vị tiên sinh, thưa Đặng sư bá. Tiểu sinh thử giải đoán nếu có gì vô lý, xin các vị đại xá cho.
          Không đợi mọi người trả lời, chàng tiếp:
          - Kẻ ngồi trong bóng tối này, thực tình không muốn hại phái Tản-viên, mà chỉ muốn hại phái Hoa-sơn.
          Một đệ tử Tản-viên không đồng ý:
          - Họ muốn hại phái Hoa-sơn sao lại đánh thuốc độc chúng ta, để Hoa-sơn chiếm núi?
          - Xin đại huynh cho tiểu đệ nói hết đã. Kẻ đánh thuốc độc thuộc loại có tài dụng dược rất cao. Đầu tiên, họ cho thuốc vào thức ăn, để anh em phái Tản-viên mất hết sức lực. Họ tính toán sao, đúng lúc phái Hoa-sơn thượng sơn. Đương nhiên phái Hoa-sơn tới tổng đàn phái Tản-viên dễ dàng. Huynh đệ phái Tản-viên dù không còn sức lực, cũng chống đối. Thế là toàn phái bị diệt trọn. Tin này đồn ra ngoài, võ lâm Đại-Việt công phẫn, tất cử đại binh đến đây chiếm lại Tản-lĩnh.
          Đám đệ tử Tản-viên đều gật đầu công nhận lý luận của Thiệu-Cực đúng.
          Chàng tiếp:
          - Chúng theo dõi, biết Đặng sư bá sắp lên đây. Vì vậy chúng bôi một loại thuốc độc mỡ vào tượng thánh Tản, rồi đẩy lệch sang một bên. Chúng tính toán rằng, khi về tới tổng đàn, Đặng sư bá ắt tới lễ thánh tổ. Khi lễ thánh tổ, Đặng sư bá thấy tượng bị lệch, người đâu có thời giờ suy nghĩ? Vội vàng đưa về vị trí cũ. Vô tình tay người bị dính chất độc.
          Đặng Đại-Khê gật đầu tán thành.
          Thiệu-Cực tiếp:
          - Sau khi Đặng sư bá xoay tượng thánh Tản rồi, người phải xử dụng võ công giao đấu với cao thủ phái Hoa-sơn. Các cao thủ Hoa-sơn bị trúng một loại độc dược khác từ trớc, tiềm tàng trong người. Khi đấu, vừa bị nội lực của Đặng sư bá đem theo mỡ độc theo kinh mạch ngấm vào người. Mỡ độc này, hợp với độc tố trong người, không làm cho các vị chết, mà chỉ làm cho công lực suy kiệt dần dần cho nên bị bại dễ dàng.
          Chàng nói chậm lại:
          - Thế nhưng gian nhân cũng tính toán sao cho Đặng sư bá thắng các cao thủ Hoa-sơn. Tuy thắng, chung cuộc vẫn bị hại, vì một người đấu với nhiều người. Thế là trên danh nghiã, phái Hoa-sơn ám toán diệt phái Tản-viên. Trong khi cao thủ Hoa-sơn bị chết hết. Tới lúc võ lâm Đại-Việt hành quân tái chiếm Tản-lĩnh, toàn quân phái Hoa-sơn bị diệt. Gian nhân không phải đánh một chiêu, diệt xóa sổ hai phái võ lớn nhất Hoa-Việt.
          Chàng ngơ ngẩn nhìn trời:
          - Sau khi hai đại môn phái bị xóa sổ. Võ lâm Đại-Việt, võ lâm Trung-quốc còn thù hận nhau, chiến tranh đời đời khó chấm dứt.
          Chu Chiếu-Anh hỏi lại:
          - Đặt vấn đề gian nhân mưu hại hai phái Tản-viên, Hoa-sơn. Vậy gian nhân ấy thuộc loại người nào? Họ hại hai phái võ để được lợi ích gì? Tôi không tin lý luận của thế tử.
          Mụ ngừng lại suy nghĩ rồi tiếp:
          - Nói rằng gian nhân bôi thuốc vào tượng thánh Tản-viên, để mượn tay Đặng Đại-Khê hại Hoa-sơn tam lão. Vậy khi tay y bị ngấm thuốc y phải bị hại trước chứ?
          Du Minh cũng nói:
          - Thân thế tử. Dù người hoa ngôn xảo ngữ đến đâu, hôm nay chúng ta cũng phải tiếp nhận ngọn núi này.
          Lê Văn không nói, không rằng, nó tới trước bàn thờ lạy bốn lạy, rồi xoa vào chỗ mỡ trên tượng thánh Tản-viên. Nói lùi lại phát chiêu Thiên-vương chưởng tấn công Chu Chiếu-Anh. Mụ thấy Lê Văn dám tấn công mình, mụ hơi kinh ngạc, phát chiêu đỡ.
          Binh một tiếng, Lê Văn bật lui liền ba bước. Trong khi lui, nó phát chiêu Thiên-vương chưởng nữa đánh vào hông phải mụ. Mụ vung tay gạt. Bộp một tiếng Lê Văn bật lui liền hai bước. Nó tấn công chiêu thứ ba, mụ già đỡ, nó chỉ lui có một bước.
          Mụ già cũng như mọi người đều nhận thấy thế. Nó tấn công đến chiêu thứ tư, không lùi lại nữa. Sang chiêu thứ năm, Chiếu-Anh bật lui một bước, mặt nhăn nhó tỏ vẻ đau đớn. Qua chiêu thứ sáu, mụ bật lui hai bước. Đến chiêu thứ bẩy mụ lùi liền ba bước. Mọi người kinh ngạc đến đờ người ra.
          Sau khi đánh đủ mười chiêu, nó lạng đến bên Thiệu-Cực, nói với chàng. Nó nói lớn, mục đích để mọi người cùng nghe:
          - Anh thấy không? Công lực em thua Chu lão tiền bối kia xa lắc xa lơ. Thế nhưng tay em có thuốc độc, tấn công bà. Chiêu đầu thuốc chạm da bà. Em bị đẩy lui ba bước. Chiêu hai, thuốc vào thịt. Công lực bà yếu đi, em lùi hai bước. Chiêu ba thuốc tràn ngập bàn tay, chân khí bà chỉ phát ra một nửa khiến em lùi một bước. Chiêu tư, thuốc ngấm tới cùi chỏ, công lực bà dường như còn một phần ba, ngang với em. Em không bị đẩy lui. Đến chiêu thứ năm, thuốc tới vai bà. Chân khí bà đâu còn gì? Vì vậy chính bà bị đẩy lui một bước. Em đánh tiếp liền năm chiêu, thuốc ngấm khắp người bà. Bây giờ bà như người kiệt lực vậy.
          Nó chỉ Bắc, Nam-Sơn lão nhân:
          - Hai tiên sinh thứ nghĩ xem. Đặng tiên sinh với bố tôi là bạn. Tôi phải khoe rằng một mình tiên sinh đả bại Hoa-sơn nhị lão, hầu làm rạng danh võ lâm Đại-Việt, chứ có đâu lại cố ý chứng minh Đặng sư bá thắng hai vị, vì do thuốc độc gian nhân bao giờ?
          Nó ngừng lại một lát, rồi tiếp:
          - Y đạo Lĩnh-Nam bắt phải chân thực với bệnh nhân. Vì tôi nhận lời trị bệnh cho hai lão tiên sinh, nên tôi phải nói thực ra mà thôi.
          Bắc-Sơn lão nhân gật đầu:
          - Lão phu ở Bắc xa xôi, cũng từng nghe y đạo Hồng-Sơn đại phu cùng chư đệ tử. Hôm nay thấy sự thực, mới biết rằng nghe chưa thể nào so sánh bằng thấy. Nhưng này Lê công tử. Tại sao Đặng tiên sinh cũng như công tử chạm vào thuốc mà không bị trúng độc. Trong khi các vị đánh chúng tôi, chúng tôi lại bị nạn?
          Lê Văn thở dài:
          - Anh Thiệu-Cực đã trình với lão tiên sinh rồi mà? Anh chẳng từng nói :Kẻ hại hai phái Tản-viên, Hoa-sơn có trình độ đầu độc rất cao. Không biết bằng cách nào, chúng bỏ một loại thuốc vào thức ăn. Loại thuốc này không hương, không vị, một mình nó, không làm hại cơ thể. Toàn thể đệ tử quý phái ăn vào, nào có hay. Nhưng khi các vị đấu với Đặng sư bá, với tiểu sinh, chất độc từ tay Đặng sư bá với tiểu sinh gặp chất độc trong người các vị. Hai thứ hợp với nhau sẽ làm cho khí huyết bế tắc. Nên lúc giao đấu thấy mình bị bại cứ cho rằng đối thủ mạnh. Nào ngờ?
          Thiệu-Cực quát lớn:
          - Các vị minh kiến! Từ chiếu chỉ của triều đình ban ra có hơi khác thường. Cách ban chiếu chỉ cũng không như luật định. Rồi anh em Tản-viên bị đầu độc. Tượng thánh bị bôi mỡ độc. Cho đến các đệ tử Hoa-sơn bị ăn phải độc chất. Rõ ràng tất cả đều do một bàn tay tạo ra.
          Bỗng chàng ngừng lại, vẫy tay gọi viên quan truyền chiếu chỉ hô lớn:
          - Hoa đại nhân. Xin đại nhân ngừng bước.
          Hoa Trung tung mình chạy. Lê Văn lạng người một cái, chặn trước y. Y tung hai quyền vào ngực nó. Nó vọt người lên cao như pháo thăng thiên. Ở trên cao nó đánh xuống một chưởng.
          Sư ni Trí-Thành, thấy chưởng Lê Văn hùng mạnh, mụ e Hoa Trung không chịu nổi, có thể mất mạng. Mụ vẫy tay y về trước, rồi biến chiêu đỡ chưởng của Lê Văn.
          Tây-Sơn lão nhân lạnh lùng ra lệnh:
          - Trí-Thành sư muội. Sư muội mời Hoa đại nhân ở lại cho ta.
          Trí-Thành ngăn trước Hoa Trung:
          -- Xin đại nhân dừng gót.
          Hoa-Trung đành theo mụ, trở vào nhà.
          Bắc-Sơn lão nhân hỏi Thuận-Tường bằng giọng ôn nhu, kính trọng:
          - Thuận-Tường! Phải chăng Hoa đại nhân là mệnh quan của triều đình?
          Thuận-Tường gật đầu:
          - Thưa sư phụ đúng thế, y giữ chức Tham-tri Lễ-bộ, kiêm Khu-mật viện phó sứ. Đệ tử đã gặp y nhiều lần.
          Nàng quay lại hỏi Hoa Trung như hỏi một người tôi tớ:
          - Hoa tiên sinh, có đúng thế không?
          Hoa Trung tỏ vẻ cực kỹ kính trọng, sợ hãi:
          - Vâng, tiểu nhân làm việc tại Khu-mật viện.
          Nàng hỏi:
          - Thông thường khi tuyên chiếu, mi phải đi với viên Chuyển-vận-sứ thuộc châu sở tại. Thế sao, mi tới thẳng Hoa-sơn?
          - Thưa... tiểu nhân quên.
          - Quên! Mi xuất thân tiến sĩ, làm quan tới Hàn-lâm thừa chỉ, rồi Khu-mật viện phó sứ. Tuổi mi lại không nhỏ. Sao có thể sơ xuất như thế? Sự thực ra sao mi phải nói thực.
          Tự-Mai nghe Thuận-Tường đối đáp với Bắc-Sơn lão nhân, với Hoa Trung. Nó càng nghi hoặc:
          - Triệu cô nương thân thế ra sao, mà được toàn phái Hoa-sơn kính trọng đã đành. Đến viên đại thần chức tới Khu-mật viện phó sứ cũng khúm núm trước nàng? Thực khó hiểu.
          Hoa Trung chưa kịp trả lời, Thiệu-Cực bỗng quay lại phía bàn thờ thánh Tản-Viên, chàng cười nhạt:
          - Cho đến giờ phút này, mà hai vị chưa chịu xuất hiện ư? Hai vị núp ở đây đã lâu, như vậy e mỏi cổ chết?
          Mọi người kinh ngạc, vì hiện diện có không biết bao nhiêu người nội lực cao thâm, mà hai người núp phía sau nghe trộm, không ai phát giác ra.
          Không có tiếng người đáp lại. Thuận-Tường vọt người tới phía sau bàn thờ. Thình lình một luồng chưởng phong hùng mạnh quạt vào mặt nàng. Nàng vung tay lên đỡ. Nhưng không kịp.
          Hoa-Sơn tam lão muốn ra tay cứu đệ tử, nhưng lại ngồi quá xa. Hơn nữa, trước mặt lão lại có bọn Hoa Trung, Chu Chiếu-Anh. Lão chỉ còn biết kêu lên:
          - Xin nhẹ tay!
          - Xin dung tình!
          Tự-Mai đứng gần ngay bên bệ thờ. Nó lao tới vòng tay trái ôm lấy Thuận-Tường, lăn mình xuống nền nhà. Tay phải xuất chiêu Phong ba hợp bích đỡ chưởng kia.
          Bình một tiếng. Chưởng đánh trúng nền nhà. Còn Tự-Mai đã ôm Thuận-Tường đứng dậy. Nó nhảy lui liền ba bước để hóa giải kình lực đối phương.
          Từ sau bàn thờ liệt tổ phái Tản-viên, một cặp nam nữ xuất hiện. Nam dùng chiêu võ đánh thẳng vào vai Tự-Mai. Tự-Mai vung tay đỡ. Binh một tiếng. Cả hai lảo đảo lùi lại. Mùi hôi tanh nồng nặc bốc ra làm mọi người buồn nôn.
          Nữ xuất chiêu tấn công Trí-Thành. Trí-Thành vung chương đỡ. Bình một tiếng, mụ bị đẩy lui ba nước. Nữ tiến lên đứng trước mặt Hoa Trung như bảo vệ cho gã. Thị quát lên the thé:
          - Ai đụng vào Hoa-Trung, ta giết chết liền.
          Đào Nhị-Bách hô lớn:
          - Chu-sa ngũ độc chưởng!
          Mọi người nhìn lại, cặp nam nữ, tuổi khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu. Thoáng nhìn, người ta cũng biết họ là anh em, vì khuôn mặt hơi giống nhau.
          Cả hai người đồng xuất chiêu hướng Tự-Mai, nam quát:
          - Buông đứa con gái ra mau.
          Tự-Mai phát chiêu Phong ba hợp bích, đẩy chưởng của nam vào nữ. Bùng một tiếng. Hai người cùng bật lui. Tự-Mai nhảy về sau liền ba bước. Tay nó ôm chặt Thuận-Tường. Ngực nàng ép sát ngực nó.
          Tự-Mai quát:
          - Hai vị là ai? Tại sao ám toán hại người?
          Thuận-Tường bị Tự-Mai ôm chặt. Nàng xấu hổ, kêu lên:
          - Mi... mi... đại ca ôm ta giữa chỗ đông thế này còn ra thể thống gì nữa! Có mau bỏ ta ra không?
          Tự-Mai vội buông Thuận-Tường xuống. Hương thơm trinh nữ làm cho nó cảm thấy ngây ngất.
          Từ nhỏ, Tự-Mai chỉ biết có chị gái. Sau này gặp Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, Thiếu-Mai, nhưng tất cả đối với nó giống người chị. Nó kính yêu như đối với Thanh-Mai. Lần đầu tiên, nó va chạm với một thiếu nữ xinh đẹp ngang tuổi. Một cảm giác kỳ lạ chạy khắp cơ thể nó.
          Về phần Thuận-Tường, tuy thoát chết nhưng bị một phen hú vía. Nàng run lên bần bật, lại ngồi bên Bắc-Sơn lão nhân, đưa mắt nhìn Tự-Mai. Nghĩ lại biến cố vừa rồi, nàng vừa kinh hãi, vừa thẹn thùng. Để xua đuổi ý nghĩ vẩn vơ, nàng hỏi Triệu Tiết:
          - Sư huynh! Sư huynh có đau không?
          Triệu Tiết chỉ bị ngoại thương. Y được Lê Văn bó xương, cho uống thuốc trấn thống, đau đớn không còn. Từ đầu đến cuối, bao nhiêu cử chỉ, lời nói giữa Tự-Mai, Thuận-Tường đều lọt vào mắt nó.
          Nguyên Triệu Tiết vốn xuất thân trong gia đình quyền quý. Nó được cho học cả văn lẫn võ. Về văn, nó theo học trường Quốc-tử giám ở Biện-kinh. Tương lai mở rộng. Về võ, nó được người đứng đầu phái Hoa-sơn, danh vang thiên hạ là Bắc-sơn lão nhân thu làm đệ tử. Trong các đệ tử của Bắc-Sơn nó sáng chói nhất, thường được sư phụ giao cho huấn luyện các sư đệ. Trong các sư đệ, sư muội, nó chú ý đến Thuận-Tường. Thuận-Tường với nó sống chung trên núi Hoa-sơn mấy năm. Tuy hai người chưa chính thức, song ai cũng coi như đôi trẻ sẽ được tác thành lứa đôi.
          Hôm nay, trong cuộc Nam du, Tiết tuân lệnh sư thúc, đấu với một thiếu niên Nam-man. Y bị đánh bại. Một liều ba bẩy cũng liều. Nhân đối thủ không chú ý. Y đánh trộm mong thủ thắng. Nào ngờ y bị nội công đối thủ phản ứng, chân tay gẫy.
          Lúc đầu Thuận-Tường bước ra mắng Tự-Mai bênh nó. Nó khoan khoái trong lòng. Nhưng rồi biến cố dồn dập xẩy ra, nó thấy Thuận-Tường bị Tự-Mai dùng ôn nhu chinh phục. Bây giờ nàng hút mất mạng, Tự-Mai ôm cứng nàng cứu thoát. Nhìn ngực nàng áp chặt vào ngực Tự-Mai, nó hận không ăn tươi nuốt sống được đối thủ. Nó phát ra tia hận thù nhìn Tự-Mai như con thú muốn nuốt mồi.
          Về Thuận-Tường, trước kia nàng vẫn coi Triệu-Tiết như người anh. Tình cảm của cô gái mới lớn, gặp cậu trai tự nhiên nảy nở. Hôm nay gặp Tự-Mai, vì tình đồng môn, nàng mắng nó, bênh sư huynh. Nào ngờ Tự-Mai vẫn nhũn nhặn ôn tồn trả lời không hề chấp nhặt. Vừa rồi Tự-Mai ôm chặt nàng vào người. Hai ngực áp vào nhau. Người nàng như tê dại đi không còn biết gì nữa. Tuy miệng la Tự-Mai, mà trong lòng nàng muốn nó cứ ôm nàng mãi, càng lâu càng tốt.
          Bây giờ Tự-Mai buông nàng ra, nghĩ lại thẹn thùng vô tả. Nàng phải săn sóc sư huynh để xua đuổi ý nghĩ làm rối loạn tâm tư. Nàng hỏi Triệu-Tiết mà không thấy nó trả lời. Bấy giờ nàng mới để ý thấy đôi mắt đầy hận thù của nó đang hướng vào Tự-Mai. Nàng than thầm:
          - Nguy quá! Sư huynh biết hết hững gì ta tỏ với gã họ Trần kia rồi.


          <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.01.2005 10:41:32 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9