TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM
van79_bc 28.08.2008 17:42:57 (permalink)
                                    CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
                                                                    NGUYỄN TUÂN
 
     Nhận được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, Viên quan coi ngục quay lại hỏi thầy thơ lại giúp việc trong đề lao :
     - Này , thầy bát, cứ công văn này, thì chúng ta sắp nhận được sáu tên tù phải chết chém. Trong đó tôi nhân thấy tên đứng đầu bọn phản nghịch là Huấn Cao. Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao ! hay là người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn ca tụng cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?
Thầy thơ laị xin phép đọc công văn.
     - Dạ, bẩm chính y đó. Dạ bẩm, có chuyện chi vậy?
     - Không, tôi ngh eten quen quen và thấy nhiều người nhắc nhỏm đến cái tên đó luôn, thì tôi cũng hỏi thế thôi. Thôi cho thầy lui. À, nhưng mà thong thả. Thầy bảo ngục tốt nó quét dọn lại cái buồng cuối cùng. Có việc dùng đến. Thầy liệu cái buông giam đó có cầm giữ nổi một tên tù có tiếng là nguy hiểm không? Thầy có nghe thấy người ta đồn Huấn Cao, ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục nữa không?
     - Dạ bẩm, thế ra y văn võ đều có tài cả. Chà chà !
     - Ờ, cũng gần như vậy. Sao thầy lại chặc lưỡi?
     - Tôi thấy những người có taif thế mà đi làm giặc thì đáng buồn lắm. Dạ bẩm, giả thử tôi là đao phủ, phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thương tiếc.
     - Chuyện triều đình quốc gia, ta biết chi mà bàn bạc cho thêm lời. Nhỡ ra lại vạ miệng thì kkhốn. Thôi thầy lui về mà trông nom việc dứơi trại giam. Mai, chúng ta phải dậy sớm để cho ó mặt ở trại trước khi lính tỉnh trao tù cho mình lĩnh nhận. Đêm nay, thầy bắt thêm lính canh. Mỗi chòi canh, đều đặt hai tên. Hễ chòi nào bỏ canh, hễ mỗi vọng canh ngủ quên không đánh kẻng, đánh kẻng, đánh mõ thầy nhớ biên cho rõ, cho đúng để mai tôi phạt nặng. Chớ cho mấy tên thập thò nó đánh bạc nghe !Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở giá gươm, phe phẩy roi, đi xuống phía trại giam tối om. Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhợt màu vàng son, một cây đèn leo lóet rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi. Ngục quan ngồi bóp thái dương một cách băn khoăn. Tiếng kiểng và mõ rất đều đặn, rất thưa thớt. Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, văng vẳng từ làng xa đưa lại mấy tiếng chó cắn ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen và thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống chân trời không định.
     Tiếng dội chó suả ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng mõ canh nổi lên nhiều nhiều. Bấy nhiêu âm thanh phức tạp bay lên cao dần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ.
     Nơi góc án thư vàng đã nhọt, son đã mờ, đĩa dầu sở trên cây đèn nến vợi dần mực tầu. Hai ngọn bấc lép bép nổ, làm rụng tàn đèn xuống tập giấy bản, có dấu son bên ty Niết. Viên quan coi ngục ngấc đầu, lấy que hương khêu thêm một côn bấc. ba cái tim bấc được chụm nhau lại, cháy bùng to lên, soi tỏ mặt người ngồi đấy.
     Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.
     Ông trời hay chôi ác đày ải những cái thuần túy vào giữa một đống cặn bã. Và những người có tâm điền tốt và thẳng thắn, lại phải ăn đởi kiếp với lũ quay quắt.
     Ngục quan lấy làm nghĩ ngợivề câu nói ban chiều của thầy thơ lại "- Có lẽ lão bát, này cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết yêu mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình. Ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao, ta muosn cho ông ta đỡ cực khổ trong mấy ngày cuối cùng còn lại, nhưng chỉ sợ tên bát phẩm thơ lại này đem cáo giác với quan trên thì ta xem khó mà ở yên. Để mai ta dò ý tứ hắn xem sao rồi sẽ liệu".
     Sớm hôm sau, lính tỉnh dẫn đến cửa ngục thất sáu tên tù mà công văn chiều hôm qua, đã báo trước cho  ngục quan rõ tên tuổi,làng xóm và tội hình. Sáu phạm nhân đèu mang chung một chiếc gông dài đến tám thước. Cái thang gỗ lim nặng, đóng khung lấy sáu cái cổ phiến lọan, nếu đem ra cân, cũng phải nặng đến bảy tám tạ. Thật là một cái gông xứng đáng với tội án sáu tên tử tù. Màu gỗ thân gông đã cũ và mồ hôi cổ và tay kẻ phải đeo nó đã phủ lên một nứơc sơn bóng nhóang. Những đoạn gông đã bóng thì lóang như có người đánh lá chuối khô. Nhữg đoạn không bóng thì lại xỉn lại những chất ghéy đen sánh. Trong khi chờ đợi cửa ngục mở rộng, Huấn Cao đứng đầu gông, quay cổ lại bảp mấy bạn tù
     - Rệp cắn tôi, đỏ cả cổ lên rồi. Phải rỗ gông đi.
     Sáu người đều quì cả xuống đất, hai tay ôm lấy thành gông, đầu cúi cả về phía. Một tên áp giải đùa một câu :
     - Các người chả phải tập nữa. Mai mốt chi đây sẽ có người sành sỏi dẫn các người ra làm trò ở pháp trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. Đứng dậy không ông lại phết cho mấy hèo bây giờ.
     Huấn Cao lãnh đạm, không thèm chấp chỉ trút mũi gông nặng xuống thềm đá tảng, khom mình thúc mạnh đầu thành gông xuống đất đánh thuỳnh một cái. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau làm hộ nhăn mặt. Một trận mưa rệp đã làm nền đá xanh nhạt lấm tấm những điểm nâu đen.
     Cánh cửa đề lao mở rộng.
     Sáu người né mình tiến vào như một hiệp thợ ngõa, thận trọng khiêng cái thang gỗ đặt ngang trên vai.
     Trái với phong tục nhận tù như mọi ngày, hôm nay viên quan coi ngục nhìn sáu tên tù mới vào với cặp mắt hiền lành. Lòng kiêng nể, tuy y cố ý giữ kín đáo mà cũng đã quá rõ rồi. Khi kiểm điểm phạm nhân, ngục quan lại còn biệt nhỡn đối với riêng Huấn Cao. Bọn lính lấy làm lạ, đều nhắc lại :
     - Bẩm thầy, tên ấy chính là chủ xướng. Xin thầy để tâm cho, hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn.
     Mấy tên lính, khi nói chữ "để tâm" có ý nhắc viên quan coi ngục còn chờ đợi gì mà không giở những mánh khóe hành hạ thường lệ ra. Ngục quan chỉ điềm đạm:
     Ta biết rồi, việc quan ta đã có phép nứơc. Các chú chớ có nhiều lời.
     Bọn lính giản cả ra nhìn nhau và không hiểu. sáu tên tử tù hơi ngạc nhiên về thái độ quản ngục.
     Suốt nửa tháng ở trong buồn tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một người tho lại gầy gò, đem rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bửa cơm tù. Mỗi lúc dâng rượu với đồ nhắm, người thơ lại lễ phép nói một câu:
     - Thầy quản chúng tôi biếu ngài ít quà mọn này để dùng cho ấm bụng. Ở trong buồng đây lạnh lắm.
     Ông Húân Cao vấn thản nhiên nhận rượu thịt coi như mình có quyền hưởng thụ những thực phẩm đó. Rồi đến một hôm, quản ngục mở khóa cửa buồng kín, khép nép hỏi ông Huấn:
     Đối với những người như ngài, phép nước ngặt lắm. Nhưng biết ngài là một người có nghĩa khí, tôi muốn châm chước ít nhiều. Miễn là ngài đừng làm quá. Sợ đến tai lính tráng họ biếtthì phiền lụy cho tôi nhiều lắm. Vậy ngài muốn gì xin cho tôi biết. Tôi sẽ liệu.
     Ông đã trả lời quản ngục:
     Người hỏi ta múôn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà người đừng có tới quấy rầy ta.
     KHi nói câu mà ông cố ý làm ra khinh bạc đến điều, ông Huấn đã đợi trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục. Nhưng đến cái cảnh chết chém, ông còn chảng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này. Ngục quan đã làm cho ông Huấn bực mình thêm khi nghe xong câu trả lời, y chỉ nhã nhặn lui ra với một câu: " Tôi xin lĩnh ý". Và từ hôm ấy, cơm rượu lại đưa đến đều và có phần hậu hơn trứơc nữa; duy chỉ có y là không để chân vào buồng giam ông Huấn. Ông Huấn càng ngạc nhiên nhiều, năm bạn thân của ông cũng đều được biệt đãi như thế cả.
     Có nhiều đêm, ngoài việc nghĩ đến chí lớn không thành, ông Huấn Cao còn phải bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của quản ngục. " Hay là y muốn dò đến những điều bí mật của ta?" " không, không phải thế, vì bao nhiêu điều quan trọng ta đã khai bên ty Niết cả rồi, còn gì nữa mà dò cho thêm bận."
     Trong đề lao, ngày đêm của tử tù đợi phút cuối cùng vẫn dài như nghìn năm ở ngoài. Viên quản ngục không lấy làm óan thù thái độ khinh bạc của ông Huấn. Y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nứơc, đến trên đầu người ta, người ta cũng chẳng biết có ai nữa huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù.
     Viên quản ngục hy vọng một ngày rất gần đây ông Huấn sẽ dịu bớt tính nết thì y sẽ nhờ ông viết cho mấy chữ trên chục vuông lụa trắng đã mua sẵn và can lại. Thế là y mãn nguyện.
     Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quản ngục này coi là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết, chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm. Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báo trên đời. Viên quả ngục khổ tam nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin chữ. Không can đảm giáp mặt lạimột người cách xa y hàng bao nhiêu thế kỷ tài học, y chỉ lo mai mốt đây ông Huấn bị hành hình thì cái thèm muốn kia chỉ là ảo mộng...
     Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục tái nhợt khi tiếp đọc công văn. Quan hình bộ Thượng Thư trong Kinh bắt giải ông Huấn Cao và đông chí vào Kinh... Pháp trường lập ở trong ấy kia. Và ngày mai, sớm tinh mơ sẽ có người đến lĩnh tù.
     Viên quản ngục vốn đã tin được thầy thơ lại cho lính gọi lên kể rõ tâm sự mình. Thầy thơ lại cảm động nghe xong câu chuyện, nói được một câu: " Dạ bẩm,,ngài cứ yên tâm đã có tôi". Rồi ù té chạy ngay xuống phía trạii giam ông Huấ. Thầy đấm cửa buồng giam thùm thùm, hớt hơ hớt hải kể cho tử tù nghe rõ nỗi lòng viên quản ngục, và ngập ngừng báo luôn tin buồn cho ông Huấn biết về việc về Kinh chịu án tử hình. Ông Huấn Cao trầm ngâm rồi mỉm cười:
     - Ngươi về bảo với chủ ngươi, tối nay kúc nào lính canh tại về nghỉ thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc xuống đây rồi ta cho chữ. Chữ ta thì quý thực, ta không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết bao giờ. Nhất sinh ta cũng chỉ mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi. Ta rất cảm kích tấm lòng biệt nhãn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy.Thiếu chút nữa bta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.
     Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong buông tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột và gián.
     Trong một không khí tỏa như đám cháy, ánh sáng đỏ ngòm của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên trên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt làm họ dụi mắt lai lịa. Một tên tù cổ đeo gông, chân vứơng xiềng đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Tên tù viết xong một chữ, tên quản ngục lại khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phíên lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khỏan, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng thẳng dậy và đĩnh đạc bảo:
     - Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chỗ ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn rõ ràng như thế. Thoi mực kiếm được ở đâu tốt và thơm lắm. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?... Ta bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về quê mà ở đã , rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.
     Lửa đóm cháy rừng rực, lúc lụi tàn lửa rụng xuống nền đất phòng giam tiếng lửa tắt nghe sèo séo.
     Ba người nhìn bức chàm, rồi lại nhìn nhau.
     Ngục quản cảm động, vái tên tù một vái và nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẻ miệng làm cho nghẹn ngào.
     - Xin bái lĩnh.
                                                  NGUYỄN TUÂN
 
 
 
#1
    van79_bc 30.08.2008 23:17:53 (permalink)
                                                            GIÔNG TỐ
                                                           VŨ TRỌNG PHỤNG
     
                                                                   CHƯƠNG I
     
         Mặt trăng rất to và rất tròn, chiếu vằng vặc... cánh đồng lúa chín như một tấm thảm vàng, con đường quan lộ giải nhựa như một con rắn bóng và nhễ nhại, nằm uốn khúc trên tấm thảm ấy. Những làng mạc xa xa hiện ra những nét vẽ thẳng đen sì.
         Đó là vào tháng mười , năm 1932.
         Giữa lúc đêm khuya tịch mịch ấy, trên côn đường quan lộ mà thỉnh thoảng mới có một vài cây xoan không lá khẳng khiu và tiều tụy như thứ cây trong những bức họa về "cảnh chết", một thứ xe hòm phăng phăng chạy hết tốc lực, hai thân xe chỉ là một cái chấm đen bóng, còn hai ngọn đèn sáng quắc chiếu dài hàng nửa cây số thì như hai cái tên vun vút bay dưới ánh trăng...
         Xe đương phăng phăng chạy thì đến gần một chỗ ngoặt mà bên đường có một lớp quán gạch và một cây đa cổ thụ, bỗng dần chậm lại, rồi đứng hẳn.
         Khi xe đã đứng dừng lại lâu rồi, người ta còn thấy sự cố sức của người tài xế mở máy sình sịch mấy lần nữa mà xe vẫn không nhúc nhích được một ly. Rồi thì từ xe bước xuống, hai người tài xế hấp tấp ra mũi xe lật miếng sắt che máy ra, loay hoay kiểm điểm bộ máy. Trong khi hai người chưa tìm được cớ xe chết máy vì lẽ gì, thì từ trong hòm kính thấy đưa ra một câu hỏi gắt rất ngắn nhưng cũng đủ làm cho cả hai run lập cập:
         - Thế nào?
         Vài phút im lặng, rồi người tài xế chính ấp úng đáp :
         - Bẩm quan, con đã thấy rồi cái ống cao su dẫn ét-xăng có một đọan nát nhũn đến nỗi xăng chảy cả ra ngoài nhưng mà xuống không thoát.
         -...! sao không liệu mà thay ngay vào các chuyến chữa hôm nọ đi?
         Dứt lời " chửi" quan bước xuống xe và sập cửa rất mạnh để tỏ ý giận dữ. Đó là một người tuổi gần 50, thân thể vạm vỡ, hơi lùn, trước mặt có cặp kính trắng gọng vàng, trên môi có một ít râu lún phún kiểu tây, cái mũ dạ đen hình quả dưa, cái áo đen bóng một khuy, cái quần đen sọc trắng, đôi giày láng mũi nhọn và bóng lộn, làm cho lão có cái vẻ sang trọng mà quê kệch, cái vẻ rất khó tả của những anh trọc phú học làm văn minh...
         Tài xế chính và phụ cả hai đều sợ hãi lắm, cứ việc châu đầu vào cái hòm máy, lúc đánh diêm soi, lúc sờ soạn như sẩm tìm gậy chứ không dám quay lại nhìn đến ông chủ lúc ấy đứng dạng háng giữa đường, hai tay khoanh trước ngực, đầu hơi cúi xuống phía trứơc mặt, Cặp mắt gườm gườm như hứa một sự trừng trị đáng sợ. Bị chủ mắng, tài xế chính khẽ quát người phụ:
          - Cầm lấy cái mùi xoa này, buộc nối vào hai đầu dây cao su ! Mau lên ! Mà quấn rõ chặt cho nó thật kín chứ !
         Rồi người  tài xế chính lại ngồi mở máy thử. Cái xe kêu sình sịch một lúc lâu rồi lại thôi. Mấy bận đều thế cả, hai người càng hấp tấp bao nhiêu, càng gia công vất vả bao nhiêu thì cái xe càng bướng bỉnh, càng ỳ ra bấy nhiêu. Lão chủ cười nhạt mà rằng:
       - Tội chúng mày đáng chết cả đó, các con ạ.
         Hai anh em làm công đưa mắt nhìn nhau lo sợ chứ không nói gì. Lão chủ lại tiếp:
         - Chúng mày để ông ngủ đường thì rồi khốn cả đó!
         - Lạy quan, chẳng may như thế này, quan thương cho.
         Tài xế chính van lơn như vậy rồi lại ra hiệu ngầm cho người phụ việc mình cứ việc vờ vịt loay hoay chữa một cách vô công hiệu cái bộ máy hầu như không thể chửa được ấy.
         Lão chủ hỏi:
         - Thế còn bao nhiêu cây nữa đến Hà Nội?
         Anh lái phụ nhanh nhảu thưa:
         - Bẩm chỉ còn độ bốn mươi cây.
         - Hừ!
    Lão chỉ hừ một cái rồi đi đi lại lại trên đường bực tức cự điểm.
    Nguyên lão ta là một ông đồn điền giàu có đã khét tiếng miền trung thổ, bửa nay đương đêm khuya về thủ đô là vì muốn để sáng sớm hôm sau có đủ thời gian đến một cửa hiệu kim hoàn mua một thứ hàng quý giá để mừng một ông tổng đốc được đệ nhị đẳng bắc đẩu bội tinh, cho nên khi thấy xe bị liệt máy như thế ở giữa đường, đương đêm khuya không biết cầu cứu vào đâu nữa, thì lão băn khoăn và bực tức, băn khoăn về nỗi sợ đến mừng chậm hơn những người khác thì mất vẻ long trọng, và bực tức về nỗi từ khi lão ta giàu có đến phú gia địch quốc, từ một anh cai phu mỏ lên đến bực nhân dân đại biểu, thì chưa hề có một sự gì trái ý mà lão lại phải chịu. Lần nàylà lần đầu lão phải chịu thua cái máy xe hơi.
         Láo đi đi lại lại như cuồng chân, như con hổ trong củi sắt, nghĩ đến những cái má hồng mơn mởn, những cánh tay trứng như ngà như ngọc cuả mấy cô đào ở Hà Nội... nếu tài xế của lão đã biêt lo liệu từ trước cho cái xe lúc nào cũng lành lặn hoàn toàn. Vậy mà bây giờ lão phải thơ thẩn giữa nơi đồng không mông quạnh, ngắm trăng suông, nhìn sương tỏa, nghe giun kêu dế khóc bên cạnh những tiếng búa gõ vào sắt cành cạch, những tiếng sình sịch của một cái xe hơi khó tính cứ muốn chạy rồi lại thôi...
         - Tao cho chúng mày nửa giờ nữa đấy!
         Nói rồi, lão nhắm phía cây đa mà đi thẳng trên một con đường nhỏ qua cánh đồng, đi dạo chơi cho tiêu diệt thì giờ cũng không có mục đích gì khác...
         Mặt trăng lúc này bị mảng mây to lướt qua cho đi thành thử trời đất tối xầm hẳn lại. Sương xuống dầy qúa làm ướt cả áo của lão. Giữa cánh đồng thấy tản mạn những cục lửa xanh đỏ trên mặt đất lúc cháy lúc tắt, như ma trơi. Tiếng côn trùng tỉ tê, ri rỉ, làm cho lão ta bắt đầu cảm thấy sự im lặng, hiểu rõ được ý nghĩa sự vắng tanh và thôi cũng không nện mạnh gót giày xuống đường lộp cộp nữa. Hai tay đút túi quần, lão cúi đầu xuống mà đi, có cẻ ngẫm nghĩ như một nhà triết học... Chợt thấy về trước mặt có tiếng cười khúc khích... Lão ngẩng mặt lên, bốn năm đống rạ lù lù tiến đến... Thì ra một gánh thợ cấy đi gánh rạ đêm. Ngần ấy người cười nói chuyện trò vui vẻ lắm.
         Lão đứng tránh ra một bên.
         Những đống rạ cũng lù lù tiến đến
         Đám mây to đã buông tha mặt trăng ra rồi.Trời đất lại sáng quang vì cái ánh trăng lạnh lẽo
         Bọn thợ cấy thấy có một người ăn mặt tây đứng đấy thì thôi không chuyện trò gì với nhau nữa, chỉ len lén rón rén đi qua. Bà lão già đi đầu khẽ thưa:
         -Quan lớn làm ơn nánh cho chúng con đi một thí
         Lão bèn làm ra cái bộ thương người mà hỏi cả lũ:
         -Các ngươi đi làm đồng khuya nhỉ? Mùa màng có khá không?
         Một người trong bọn đáp một câu oán hận:
         -Bẩm quan, lúa bị sâu cắn ráo cả, không đủ tiền thuế ạ.
         Bà lão già đi đầu qua rồi thì đến một mụ trông bẩn thỉu. Mụ thứ ba trông cũng xấu xí. Người gánh cái gánh rạ thứ tư là một ông lão râu đã bạc, cái đầu trọc quấn trong miếng vải nâu trông như một cái mõ nhà chùa, gánh thứ năm thì do một cô ả mà quần áo trông gọn ghẽ hơn hết thẩy.
         Lão trố mắt nhìn... Cô ả gánh rạ hơi cúi nghiêng mặt để đưa mắt nhìn trộm. Ánh sáng trăng tuy leo lét song cũng đủ khiến cho hai con mắt rất tinh tường của nhà điền chủ nom thấy rõ hai cái má phúng phính, một cặp môi nhỏ và dầy, cái cằm tròn trĩnh và hơi lẹm trong cái vành khăn mỏ quạ láng thâm. Khi cô ả gánh rạ đi qua, nghĩa là cái mặt đã khuất sau đống rạ tròn, nhà điền chủ lại trông theo cái váy nâu cũn cỡn do một đường lạt khíu giữa cho nó chẽn đến nữa đùi, một bộ đùi phốp pháp trắng nõn, trông rất đáng yêu; mặc lồng từ bụng chân đến bàn chân đều có một lớp bùn trắng, mỏng, khô đóng lại, đã nứt ra thành từng miếng nhỏ, sắp rơi xuống...
          Nhà tư bản đứng trông cái bộ đùi thôn nữ ấy một cách tần ngần trong đến vài phút, đoạn như định thần lại, thoăn thoắt bước theo mà nói bằng một giọng rất ân cần:
         - Này chị, gánh cái gánh lại chỗ xe ôtô kia tôi mua một ít cho.
         Thấy lời nói lạ tai ấy, chị nhà quê đứng lại phân vân khiến cho cả bọn thợ gặt cũng dừng lại, nửa tin nửa ngờ.
         Lão này nhanh nhẩu dùng đến cái giọng hách dịch:
         -Xe nổ lốp, người ta phải mua rạ để nhồi vào bánh, mà có sẳn rạ lại không bán hay sao? A- lê mau lên gánh lại, quan lớn trả tiền cho một nửa gánh! Còn các bà già kia có muốn chờ thì cứ đi đủng đỉnh lại một tí, chị ấy đem lại chỗ xe kia đây thôi.
         Nói xong lão khôn ngoan bứơc nhanh về chỗ cái xe. Bọn thợ gặt cũng đũng đỉnh lên đến đường cái quan thì đặt gánh, ngồi phệt xuống đất, cẳng xoạc ra và hai tay bó làm một. Còn chị nhà quê ngây thơ thì thoăn thoắt gánh gánh rạ thẳng tiến đến cái xe hơi trong đó quan đã chễm chệ lên ngồi và bật đèn sáng quắt lên rồi.
         Hai anh tài xế quay lại ngừng tay nhìn ông chủ như có ý đợi lệnh gì thì lão chủ quát:
         -Chúng mày nhẩn người ra làm gì thế?Chúng mày định để ông ngủ đêm trên xe này phải không?
         Thế là cả hai lại quay đầu vào bộ máy . Một anh vẫn còn có gan khẽ nói:
         -Bẩm quan, con đã cắt được một đoạn dây chỗ khác để thay vào đây rồi, chậm lắm thì cũng chỉ nửa giờ nữa là xe chạy đựơc.
         Lời ông chủ:
         -Ông cho chúng mày một giờ nữa!
         Nói xong, lão chủ quay lại sau lưng nhìn qua miếng kính hậu ở hòm xe thì thấy bọn thợ gặt đặt gánh ngồi chờ ở chỗ cách xa ôtô những ba mươi bước, còn cô bán rạ thì đã đến đứng bên cửa xe.
         - Thưa quan, quan dùng hết cả gánh hay độ bao nhiêu để con tháo...
         - À, con bán cho quan lớn một bên nhé! Tháo đi rồi quan cho tiền.
         Trong lúc cô ả lúi húi tháo một bên gánh thì nhà điền chủ ló đầu ra, đôi mắt phong tìn ngắm nghiá không chớp...
         - Bẩm con gạt rạ ở bên đường đó ạ.
         - Ừ, để rồi quan cho tiền.
         Vờ tìm cái ví da trong túi áo, nhà điền chủ mắt vẫn lẳng lơ nhìn chị nhà quê cho mãi đến khi cầm cái ví trong tay rồi mà vẫn không lấy tiền ra lại vội hỏi:
         - Con tính bao nhiêu?
         - Bẩm quan chả mấy tí, quan cho mấy xu cũng được ạ.
         - Được lắm! Con ngoan lắm, để ta thưởng cho nhiều tiền! Con hãy lên xe này để quan đóng cửa không rét quan... Ta đang đếm tiền đây.
         Chị nhà quê nhìn đến những đệm da đẹp đẽ, những chỗ kền mạ bóng nhóang, con cúpbê Nhật hay hay treo bên miếng kính,ngọn đèn đỏ sáng chói lọi lên nóc xe,thấy nó sạch sẽ quá,sang trọng quá,không dám bước lên. Nhưng mà quan đã vói ra định đóng cửa xe, chị đành liều mà bước lên vậy.Quan đóng cửa đánh sập một cái rồi lại hỏi:
         -Thế con làm vất vả như thế thì mỗi ngày được bao nhiêu?
         -Bẩm chỉ được sáu xu và hai bát gạo
         -Khổ nhỉ?Thế để quan cho năm đồng con may áo mặc Tết nhé!Đây này, năm cái giấy bạc một đồng đấy, con đem về nhà mua nhiêu mua xã cho chồng.
         -Con xin quan lớn, cảm ơn quan lớn.
         -À, nhưng mà con đã có chồng rồi hay chưa?
         Chị nhà quê cúi mặt không đáp, buộc tiền vào thắt lưng xong đứng lên:
         -Thôi lạy quan, quan cho xuống kẻo họ đợi.
         -Ấy khoan đã!Mặt con tái đi thế kia khéo không thì trúng phong rồi đó, để quan lấy cho một tị dầu trong này mà bôi rồi thì về.
         Nhà điền chủ nói xong lấy ở áo ra một lọ gì nho nhỏ , để đầu ngón tay vào miệng lọ lắc một cái, rồi quờ vào trán chị nhà quê. Chị này cứ để yên, và co ro khép đôi đùi lại , kéo cái váy xuống...
         - Giời ơi! con lạy ông, ông buông con ra! ...
         Giọng quan vẫn ngọt ngào:
         - Con im , không đựơc cữơng...
         - Giời ơi, lạy ông , ông đừng làm hại một đời tôi!
         - Im ngay, quan sẽ cho nhiều tiền...
         - Bỏ ra! Ái!
         - Im cho ngoan nào...
         - Ối giời đất ơi, ối làng nứơc....
    ...........................................................
         Hai anh em nhà tài xế khôn ngoan và trung thành muốn át những tiếng ấy, cứ việc gõ búa thình thình vào một bộ phận nào đó trong động cơ.
    ...........................................................
    Mãi đến lúc ông chủ điền ngồi lên bật đèn, chị nhà quê vẫn nằm trong xe, hai tay bưng mặt, ngất đi. lão này cúi xuống hôn một cái hôn cuối cùng, lôi cái váy xuống, nhắc chị nhà quê ngồi dậy, mở cửa mà đẩy người ta xuống...
         - Thôi, con về mau lên không họ chờ.
         Chị nhà quê bị đun ra thì ngồi phịch xuống đất, vẫn rũ người ra khóc: "Ối cha mẹ ơi! Ối cha mẹ...". Lão này thản nhiên đóng sập cửa lại.
         Rồi quát to:
         - Xong chưa?
         Hai anh tài xế cuống quýt gõ một hồi nửa, rồi anh phụ trèo lên mở thử máy. Chợt có tiếng kêu ghê gớm của một lũ người cung kêu lên một lượt:
         - Ối làng nước ơi! Ối làng nước ơi! Người ta giết người!
         Nhà điền chủ quay lại nhìn thì đó là mấy người đàn bà đứng cách xa xe, nhưng nà chỉ kêu chóang lên thôi chứ không dám bén mảng đến.
         Còn chị nhà quê vừa mất tân tíêt thì vẫn ngồi sệt dưới đất, bên cạnh đống rạ mà kêu, mà rên...
         Động cơ xe hơi nổ sình sình.
         Đằng xa thấy một hồi tù và rúc lên.
         Cánh cửa sập một cái, anh ét lên nốt xe...
         Ở xa có tiếng lào xào: "-Ta hay Tây? Ta hay Tây" Nhà điền chủ quay lại lần nữa thì đó là một bọn người có tay thước, áo tơi, quần xắn gọn, ý chừng là bọn tuần.
         Xe bắt đầu từ từ chạy...
         Trước hai vệt ánh sáng của đèn pha hiện ra một người tay áo cộc, mũ khách bít kín tay, giày trắng đé cao su, đứng giữa đường giơ hai tay ra chắn xe, ra hiệu bắt dừng lại.
         Anh tài xế ngừng đà xe quay nhìn chủ. Lão này điềm nhiên phán:
         - Cứ mở hết máy, tội vạ đâu tao chịu!
         Thế là chíêc xe hơi cứ nhằm cái bóng người đứng giang tay  mà đâm thẳng, theo cái tốc lực sáu mươi cây số một giờ.

                                                                    CHƯƠNG II
         Trong cái gian nhà tranh ba gian của ông đồ Uẩn hôm ấy có đông nghịt những khách khứa. Ngoài số thân bằng cố hữu đến hỏi thăm cô Mịch vị nạn đêm trước có cả bọn lý dịch trong làng đến thúc giục ônog đồ thảo đơn kiện lên trình quan trên. Bà đồ phải nghỉ việc đồng áng để ở nhà bếp nước thiết khách. Mấy bà già, mấy cô con gái ở hàng xóm cũng cũng sang làm giúp y như nhà có giỗ tổ vậy. Còn cô Mịch thì cứ nằm ốm liệt giường, song bọn con giai trong làng cứ há mồm ra mà cười sau khi đồn đại nhau rằng thấy co bé ấy làm ra thế cho đỡ ngượng đó mà thôi. Bà đồ Uẩn đặt lên chiếu một mâm đầy những thịt cá rồi ông đồ xoa tay nói: "Bẩm các cụ thương tôi lại hỏi thăm cháu và lo việc cho thế này, thật cảm kích quá, vậy xin mời các cụ dùng cơm ngay đây cho tiện để con lên quan kẻo cụ nào cũng lại phải về nhà thì lích thích quá". Chữ "các cụ" đây là ông chỉ ông chánh hội, ông phó hội, ông lý trưởng, ông phó lý, nghĩa là mấy ông tuổi mới độ bốn mươi cả mà thôi chứ không ai già nua tuổi tác gì, song ông đồ Uẩn dùng lối xưng hô ấy là bởi cái tập quán ở chốn hương thôn. Bốn ông này đã ngồi chễm chẹ bốn góc giường, nhưng chưa muốn cầm đũa vội, còn ra ý đợi ông trương tuần, một anh em đồng tông với...khổ chủ, lúc ấy lên huyện trình quan, ông đồ nài:
         - Mời bốn vị chánh phó cứ việc cho, rồi chú cháu thì về ăn với tôi cũng được.
         Bốn ông kia còn dùng dằng may sao đã thấy một giọng oang oắc từ cổng tre.
         - Thôi, cứ việc kiện đi là được!
         Đó là ông trương tuần đã về. Mọi người xúm lại hỏi han, ồn ào đến nỗi không còn ai nghe hiểu ai muốn nói gì nữa.
         Ông trương tuần lên họp cỗ, rồi sau một hồi mời mọc nhau lào xào, mới kịp nói rành rọt cho cả nhà nghe:
         - Tôi vào hầu cụ lại, kể hết đầu đuôi thì cụ vội thưa lên quan, và quan bảo bây giờ bác đồ tôi có thể đệ đơn lên kiện kẻ vô danh, mà riêng thì thay mặt cho cả làng mà rất có thể kiện cái ông chủ nào đó ở chỗ chiếc ôtô ấy sao thấy hiệu lại không dừng. Quan bác cứ làm đơn cho rành mạch thì có thể vịn vào cớ xúyt xe đè phải người mà buộc chủ xe vào tội mưu sát được. Quan huyện là người tân học, xem ra ý sốt sắng về việc này lắm, chắc thế nào quan cũng xét xử rất công minh.
         Ông chánh hội vỗ đùi rất mạnh, múa tay nói:
        - Cái kiện này thế nào cũng phải được! Vì rằng điều can hệ là biết số xe thì nom thấy rồi, có phải không ông Trương?
         Ông trương ngần ngừ mà rằng :
         - Nhớ thoang thoáng thôi ạ. Lúc ấy tôi cũng hốt hỏang lắm, không biết là số xe thì: hai vạn bốn nghìn tám trăm bảy mươi nhăm.
         Ông lý trưởng trầm tỉnh làm ra mình hiểu pháp luật:
         - Mình có nhớ đích xác thì hãy khai số xe. Bằng mơ hồ thì thà kiện kẻ vo danh còn hơn, kẻo không lại nhỡ trùng số xe của một người nào khác rồi thì khốn cả đấy.
         Nhưng ông phó hội tức khắc nổi giận mà rằng:
         - Việc gì mà khốn cả? Ông bảo việc gì mà khốn cả? Tôi thì tôi tưởng nếu ông trương đã nhìn thấy như thế thì cứ việc khai trọng đơn cả hai số xe mà không ra đích xác là số nào! Có phải thế không, hở các cụ? Ta chỉ nhầm mà không rõ là con số bảy hay số một mà thôi! Ta cứ việc khai như thế để nhà chức trách tiện việc điều tra chứ việc gì mà sợ!
         Ông phó lý ngăn lại:
        - Thôi đi, ngộ nhỡ quan trên khiển trách ông trương làm sao đi tuần mà gặp việc như thế, có một hàng số xe cũng không nhớ, thì có phải khổ cả không? Cái điều ấy ta phải suy nghĩ lắm mới được.
         Nói rồi thì ông này từ tốn rót đầy năm cốc rượu. Năm ông mời nhau, ngửa cổ nốc một hơi cạn, đoạn ông chánh hội xắn tay áo, giơ một quả đấm lên trên trần nhà hăng hái nói:
         - Thôi các ông không phải bàn ra tán vào! Nói lắm chỉ nát chuyện! Ông trương lúc ấy mà không nhanh chân chạy né sang một bên đường thì mất mạng rồi, tất nhiên đến quan thống sứ đi nữa cũng không nỡ nào bắt ông ta phải nhớ kỹ số xe... Vậy thì ta cứ kiện! Mà thằng chánh này không kiện nổi cái thằng cha dâm ác nào đó thì thằng chánh này đem mẹ nó triện đồng mà lên trả lại quan trên.
         Mấy chục người quây quần nhau trong gian nhà ai cũng tái mặt đi vì kính phục, không ai dám nói gì nữa. Ông chánh đứng lên, cao lênh khênh giữa đường lại múa tay mà rằng:
         - Không thì nhục lắm! Xấu hổ lắm! Mà nhục cho cả làng! Nhục cho cả làng này, các cụ đã biết chưa?
         Cử chỉ ấy làm cho ông đồ Uẩn cũng đâm ra sợ xanh mặt. Ông đồ ngăn một cách vô lý thế này:
         - Thôi, cụ chánh! Xin cụ đừng nóng nảy quá thế. Việc đã xảy ra rồi, ta cứ bình tĩnh mà nghĩ đến việc viết đơn thảo kiện rồi sửa soạn vào quan.
        Một người hỏi:
        - À, thế nhưng quan truyền thế nào? Quan có bảo gì ông Trương đấy không?
         Ông trương hớn hở đáp một cách sung sướng:
         - Có lắm chứ! Quan bảo tôi rằng: muốn kiện hay không thì tùy, nhưng mà cứ bảo thằng chánh hội với thằng lý trưởng lên đây tao bảo. Quan lại bảo thêm phải giữ cẩn thận năm cái giấy bạc một đồng mà lão chủ xe ấy đưa cho con Mịch thì mới có tang chứng được. À, bác đồ, thế cái tiền ấy đâu? Đừng có tiêu đi mất đấy nhé! 
         - Không, tuy nhà tôi lúc nào cũng túng thật, nhưng mà ai lại tiêu như thế?
         Giữa lúc ấy, bà đồ Uẩn ở trong phòng con gái ra, xưng mặt lên mà cự ông trương tuần:
         - này, tôi xin ông! ông khinh bỉ nhà tôi vừa vừa chứ. Tôi nghèo thật đấy, nhưng không khi nào lại khónn nạn đến như thế đâu! Tôi chưa đến lúc phải cho con gái tôi đi làm đĩ! Dù sao đi nữa thì con giai tôi cũng vẫn gửi cho tôi mỗi tháng một số tiền...
         Ông thầy đồ nhảy trên đất như giẫm phải đống kiến lửa, tru tréo:
        - Thôi đi, tôi xin con gái già! Con gái già đừng có thêm điều đẻ chuyện, không có mà tôi điên tíêt lên bây giờ đấy!
         Từ buồng bên cạnh cũng nghe giọng của cô Mịch:
         - Khổ lắm u ơi! Còn sung sướng gì mà u còn phải lắm nhời lắm điều như thế nữa!
         Ấy thế là ồn ào lên một hồi. Mỗi người thêm vào một lời thành thử nhà như là có cuộc loạn đả.
         Sau nữa giờ vỡ chợ, kẻ khuyên can kại to tiếng hơn kẻ gây sự, hàng chục cái mồm đàn ông và đàn bà, già và trẻ, phân bè kéo đảng nhau, ông chánh hội phải vớ lấy một cái gậy mà rằng:
         - Thôi cả đấy nhé! Cấm không ai được nói nửa nhời đấy, kẻo không có mà thằng này phang cho cả một lượt chứ chẳng từ ai đâu! Lại không biết người ta bận à? Lại không biết người ta chỉ chốc nữa là phải lên quan à? Cút đi cho các cụ làmg vịêc!
         Sau câu hét oai quyền ấy, lại nghe thấy tiếng "lên quan", thì không một ai dám nói gì nữa. Quá nữa người làng len lét ra về. Bà đồ vào phòng con gái, lặng im. Sáu người kia dọn giường dọn bàn rồi ông đồ nằm bò ra thảo đơn kiện.
         Ông lý trưởng nói:
         - Cái kiện này to lắm! Tôi không được mục kích nên không dám chắc như mà cứ theo như lời bác Trương nói thì dễ thường chủ xe là lão nghị Hách ở tỉnh miền trên ấy chứ chẳng phải ai xa lạ đâu!
         - Thằng cha có hai chục con vợ lẽ trong đồn điền ấy à?
         - Phải.
         - Cái thằng cha bỏ bã rượu vào ruộng lương dân rồi báo nhà đoan và, chỉ bởi một thủ đoạn ấy đã tậu được ba trăm mẫu ruộng rất rẻ tiền ấy à?
         - Chính thế.
         - Cái thằng cha độc ác đánh chết người làm rồi vứt xác người ta xuống giếng mà khai người ta tự vẫn ấy à?
         - Nó đấy.
         - Thế sao? Thế thì phải kiện cho nó bỏ mẹ nó đi chứ?
         Ông lý bình tĩnh đáp ông chánh:
         - Nào biết là rồi nó bỏ mẹ hay chúng mình bỏ mẹ!
         Ông vứt bút xuống chiếu, ngồi lên mà rằng:
         - Ông nói đến chó cũng không nghe được!
         Ông lý vãn bình tĩnh một cách khả ố:
         - Chó không nghe được nhưng tôi nghe được! đây này nhé: lão nghị ấy có năm trăm mẫu đồn điền trên tỉnh này, một cái mỏ than ở Quảng Yên này, ba chục noc nhà tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng này, bạc nhà nó cứ gọi là gà ăn không hết, vậy ông có đủ tiền mà chọi nhau với nó không? Vô phúc thì đáo tụng đình ông ạ.
         Ông phó hội cự ông lý:
         - Chả nhẽ nó hiếp... con gái làng mà lại không kiện à? Sao ông cứ bàn ngang thế?
         - Tôi không bàn ngang mà cũng không ngăn trở gì ai cả. Ai có tiền có sức thì cứ việc theo kiện. Nhưng tôi mong rằng cứ để mình ông đồ kiện về con gái ông ấy bị hiếp mà thôi.
         Ông chánh ngồi ngay ngắn lên mà rằng:
         - À, thế mà lúc nãy, ông cứ tự do ngồi vào đánh chén! ông tưởng cụ đồ làm bửa rượu ấy để cho ông ăn không đấy à? Ông phải biết cái nghĩa lý của mâm rượu ấy mới được chứ!
         - Thôi, ông say rồi, tôi không dám nói nữa.
         - Ông bảo ai say? ông bảo ai say?
         - Kìa, chết chửa kìa! Sao lại thế, hai ông?
         - Tôi chỉ muốn bảo một mình ông đồ đi kiện thôi cũng đủ, chứ không việc gì mà phải có lá đơn của cả làng cũng đứng kiện. Trương tuần không chết chẹt thì không việc gì đến làng mà cả làng phải đứng kiện. Tự nhiên trêu người ta để rồi người ta thù cho cả lũ thì khốn cho cả lũ ấy à?
         - Thế ông có biết quan truyền ra xao không?
         - Mặc, tôi quyết không ký vào đơn.
         - Ông mặc thì kệ ông! Đây có bốn người ký rồi. Chánh hội, phó hội, phó lý, trương tuần ký cả rồi. Còn ông là lý trưởng mà không ký thì cũng không ai cần. Ông là đồ hèn nhát! Ông không muốn lên quan thì ông về đi!
         Tuy thế, ông lý trưởng cũng không về. Ông cứ ngồi nguyên chỗ, chờ cho đến nửa giờ, sau khi hai lá đơn kiện thảo xong rồi thì ông cũng ký. Mọi người đều được bằng lòng thì lại đến lượt bà đồ Uẩn ra ngăn:
         - Thôi, các cụ ạ. Nào biết rồi có ăn thua chuyện gì không mà kiện với tụng, rồi nay quan gọi, mai quan gọi, chỉ tổ mất cả công việc làm ăn. Phương ngôn đã có câu: vô phúc đáo tụng tình.
         Ông đồ phải làm ầm ĩ lên một hồi nữa, rồi người ta mới quyết định kéo nhau lên quan.
         Làng Quỳnh Thôn cách huyện ly chừng mười cây số. Bà đồ Uẩn phải mở cái hòm khóa lấy nốt ban đông bạc chỉnha trao cho ông đồ. Đó là cả vốn liếng của một cái gia đình, của một thầy đồ có dứơi cái roi mây của mình đúng sáu đứa trẻ thuộc hạng nửa người nửa ngợm nửa đười ươi. Tiền xe pháo mà thừa thì chẳng kể chứ nếu lại ăn hết vào đâu mà ăn cho đến Tết Nguyên đán.
         Thị Mịch đã phải gắng gượng ngồi dậy...
         Đến lúc thấy mẹ thúc giục, cô bé phải mặc đến cái áo bông, cái quần thâm chỉ là những cái để dành riêng cho ngày đình đám. Cô Mịch tuy nghe thấy bảo lên để quan khám nhưng chưa hiểu khám là thế nào. Cho nên cô cứ việc theo mẹ ra đi.
         Cả bọn lôi thôi lốc thốc kéo nhau ra khỏi làng. Trước những cặp mắt toét mà còn tò mò của bọn giai làng, trước những cái mồm cười rất khả ố, cô Mịch cúi gằm mặt xuống đất, vịn vào tay mẹ mà đi. Còn bà đồ thì coi bộ đăm đăm chiêu chiêu của một tín đồ đạo Gia Tô đi vào cái hàng sẽ giẫm lên cây thập tự hoặc sẽ bị chết chém ở thời vua Minh Mệnh vậy.
         Qua một cánh đòng ngót hai cây số mới thấy đường cái quan. Lên chỗ một cái quán mái gianh rồi ông chánh hội mời cả bọn nghĩ chân để cho một anh phu xe đi gọi thêm mấy cái xe khác nữa đến cho đủ.
         Tám người còn ngồi chờ thì thấy từ xa tiến đến một thiếu niên áo sa tanh, giầy ban, khăn lượt, áo dạ khóac ngoài, trông sang trọng lắm. Thiếu niên tiến đến chỗ tám người, nghiêng đầu mà chào cả lũ mà rằng:
         - Tôi hỏi các ông có phải làng có ông đồ Uẩn dạy học thì chính là cái rặng tre đây kia rồi, phải không ạ?
         - Phải đấy, nhưng mà ngài tìm ai trong làng?
         Lời ông đồ hỏi:
         - Tôi muốn tìm chính ông đồ.
    - Để có việc gì thế ạ?

         - Nguyên tôi là phóng viên một nhà báo...
         - Bẩm thế sao nữa ạ?
         - Tôi thấy đồn đêm hôm qua hình như có một việc chẳng may xảy ra cho con gái ông đồ.
         - Thế ngài ở báo nào vậy?
         - Tôi giúp việc cho tờ báo tên là Lưỡng Kỳ, nghĩa là một tờ báo hằng ngày to nhất Đông Dương.
         Ông chánh hội sốt ruột nói phăng ngay:
         - các ông nhà báo hỏi chuyện bác để lấy tin chứ còn làm gì nữa! Ông nhận quách đi cho có được không! Chính ông đồ Uẩn đấy ngài ạ. Chúng tôi là lý dịch trong làng cùng ông ấy đi lên quan đây.
    Thiếu niên nghiêm giọng:
         - Nếu việc là đích xác thì chúng tôi xin hết sức công kích kẻ làm bậy, mà bênh vực người yếu thế, mặc lòng kẻ làm bậy là người quyền thế như thế nào.
         Giữa lúc ấy anh phu xe đã đi gọi thêm được hai chíêc xe.
         Ông đồ Uẩn hỏi thiếu nien :
         - Thế ngài là người ở Hà Nội về hay là người vùng này?
         - Tôi là con ông chủ ty rượu  ở ngay huyện.
         - Ô, thế thì hay lắm, mời ngài lên xe về huyện, chúng ta có thể trò chuyện ở dộc đường.
              Tất cả ba xe mà những chín người. Anh phu chỉ gọi về được có thế thôi, cả bọn đành phải ba người ngồi một xe. cái xe cuối cùng kéo ông đồ, bà đồ và cô Mịch.
         Cái đám rước ngọan mục ấy bắt đầu khởi hành. Ba anh phu xe cắm cổ kéo... Cùng đường, người ta thấy ông chánh hội và nhà víêt báo là hai người có giọng hùng hồn, hết lòng vì nước vì dân. Sau một giờ đồng hồ thì đến huyện.
         Huyện Cúc Lâm vào chốn ấy quang cảnh cũng như hai trăm ngàn huyện khác. Ở một phố kéo dài hai bên đường quan lộ, huyện có nhà bưu điện, nhà thương, nhà đoan và một nhà lô cát. Phố xá lơ thơ một ít nhà gạnh hai tầng giữa những cái nhà gianh.
         Đến cửa huyện, bốn tay lý dịch nói gì với bác lính khố xanh để cho bác này chạy vào một lúc rồi chạy ra bảo:
         - Quan cho vào cả!
         Quan huyện còn trẻ  lắm, trông chỉ mới  ngoài hai mươi tuổi thôi, đương ngồi cặm cụi viết.
         Bốn ông lý dịch vừa phủ phục xuống đất, quan đã giơ tay ngăn:
         - Thôi, ta than cho!
         Viên đề lại rón rén để ai lá đơn trên bàn. Quan cúi xuống độc đơn. Sự im lặng trong huyện đường khiến cho quan càng oai vệ lắm. Bỗng quan ngừng lại, hất hàm bảo một tên lính lệ.
         - Dắt hai người đàn bà kia sang nhà thương để quan đốc khám nghiệm!
         Tên lính lệ ra hiệu cho bà đồ và cô Mịch lại quay ra để theo gót mình.
    Quan xem đơn một lúc rồi ngẩng lên hỏi:
         - Thế thầy lý dịch phải gọi ba bà già với ông cụ gánh rạ ấy lên đây lý vào đơn mà làm chứng nhé? Chiều ngày mai thì lên cả đây, hiểu chưa?
         Bọn lý dịch dạ vang huyện đường. Vừa lúc này thì thấy viên cai lệ từ ngoài nhanh nhẹn lẻn đi vào, để lên bàn giấy quan một tấm danh thiếp.
                                                                      TẠ ĐÌNH HÁCH
                                                             Bắc kỳ Nhân dân Đại biểu  
         Quan trầm ngâm một lát, hỏi:
         - Trong bọn này ai là trương tuần Quỳnh Thôn?
         Bác trương xích ra, kêu:
         - Bẩm con.
         Quan khẽ bảo:
         - Thử vờ ra xem có phải chính cái ô tô ấy không, rồi lại vào đây.
         Bác trương ra cửa huyện đường một lát rồi quay vào, kêu lên:
         - Bẩm quan lớn chính đấy ạ.
         Quan phán:
         - Lệ đâu! dắt bọn này ra qua cửa sau huyện mà cho về. Lý dịch thì rồi chiều mai phải viện đủ chứng tá đến. Còn anh cai thì ra bảo rằng quan tôi cho vào.
         Ba phút sau, khi bọn ông đồ Uẩn đã tháo ra thì quan huyện chỉ thấy một người đàn bà, một mỹ nhân nữa, quần áo tân thời, sang trọng bệ vệ, bước vào, cười nói rất tự nhiên mà rằng:
         - Lạy quan lớn ạ! Chúng tôi phải dùng thiếp của ông nghị tôi thì chắc quan mới cho vào ngay. Vậy xin lỗi quan lớn nhé! Tôi thay mặt ông nghị Hách tôi đến thưa với quan lớn một chuyện riêng... Thế ngài có bằng lòng tiếp tôi không        
                                                        CHƯƠNG III    
               Cái ấp của nhà triệu phú Tạ Đình Hách thật là đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh của quan Công sứ cũng không to tát bằng. Ấp ở cách tỉnh lỵ năm cây số, làm trên ruột ngọn đồi cao một trăm thước, diện tích độ chừng mười mẫu ta. Chung quanh ấp nghĩa là sườn đồi thì trồng toàn một giống cà phê, khiến cho khách bộ hành từ dằng xa đã thấy một quả núi nhỏ xanh đen mà trên ngọn là ba tòa nhà tây, tòa giữa thì ba tầng, hai tòa bên thì hai tầng, trông kiên cố và oai nghiêm như một trại binh vậy.Điểm lơ thơ bên cạnh những tòa nhà ấy là những cây gạo, cây muỗn cổ thụ, những cây ngô đồng và những cây thông. Chung quanh ba tòa nhà có vườn hoa thì là một vòng tròn rào găng, cao tới hai đầu người và dày độ hai thước. Cổng chính của ấp, xây bằng xi măng cốt sắt, là một cái thể môn theo kiểu của Nhật Bản trên có đề bốn chữ tỏ rỏ cái linh hồn ông chủ: Tiểu vạn trường thành. Từ cổng ấp, nghĩa là từ lưng chừng đồi mà xuống đến đường quan lộ, thì có một con đường nhỏ cũng giải đá và đổ nhựa kỹ càng như đường thuộc địa.
         Trong ấp cái gì cũng ngăn nắp lắm. Trước cái tòa nhà ba tầng mà người ta phải leo lên bằng mười sáu bực thềm đá thì là cái sân rộng giải cuội, có những luống hoa bọc cỏ tóc tiên, có một cái bể tròn xây nền xi măng, sâu ba thước mà chung quanh là một đường lan can gỗ chạm và sơn son thiếp vàng. trong bể thả sen, vì bể lúc nào cũng nhiều nước. Ba đường mái kẽm bắt chung quanh mái ba tòa nhà rồi  ăn ngầm dưới lớp cuội ở sân dẫn nước mưa vào bể. Chung quanh bể là một lượt liễu yểu điệu như những thiếu nữ đứng xõa tóc châu đầu nhìn xuống mặt nước. Cách ba gốc liễu một, lại có những cái ghế đá như ở những công viên. Cách năm gốc một là có một chuồng chim đầy những con chim vành khuyên, ri ca bay ở trên để cho đôi trĩ lông đuôi dài lê thê từ tốn đi lại ở dưới. Những luống hoa đều đắp theo những hình về kỷ hà học : tròn, bán nguyệt, lục lăng. Nhữnng cây hoa tây, ta và tàu trong những luống hoa đều trồng theo những hình chữ hỉ, chữ thọ hoặc T. Đ. H là những đầu về tên và họ nhà đại phú. Những cái đôn sứ hình trống, hình triện, hình voi phục bầy rải rác trong cái sân trước cũng đã vào số hai trăm.
         Sau tòa nhà ba tầng là sân cỏ có lóang thoáng những cây cau và thông. Giữa sân là một cái nhà kèn các tỉnh, mái bằng đá đen trên tám cái cột, hình bát giác, trên nóc có ba chữ Hán: Nghinh phong đình... Trong Nghinh phong đình sẵn có bàn ghế để chủ nhân giải khát với khách khứa vào những ngày hè nóng nực.
         Từ cái sân này đi mãi vào năm trăm thước nữa đến một khu bốn gian nhà gạch một tầng xây bên cạnh một cái sân tròn rào bằng lưới thép, bên trong inh ỏi những tiếng gà Nhật Bản, gà Tây... Bốn gian nhà ấy là chỗ nuôi lợn, bò, dê, thỏ và là chỗ ở của những anh bếp, thợ vườn. Từ kkhu nay lại đi hai trăm thước nữa thì đến một nơi cây cối um tùm phảng phất như lăng. Giữa đám lá xanh rậm rạp ấy nhoi lên một cái sinh phần bằng cẩm thạch, lối bày trí và kiến trúc theo kiểu Xiêm la, để mai này chủ nhân gửi nắm xương tàn.
         Xem lối ăn ở như vậy thì thật là đế vương. Là vì riêng cái tòa nhà ba tầng ở giữa ấp thì tầng dưới là phòng khách, tầng góc nhì là phòng ăn, mà gác ba mới là chỗ làm việc và phòng nghỉ của nhà tư bản. Còn hai tòa nhà hai tầng ở hai bên thì một là để cho gia đình họ mạc hoặc các bạn thân đến ở, và một nữa là nhà thờ, những phòng ngủ đồ đạc rất sang trọng nhưng mà chỉ để phòng xa... Thành thử bọn gia nhân gồm có người quản gia, tài xế, bồi, thư ký ấp... đều được  mặc sức tung hoành như những người nhà của ông chủ.
         Tóm lại, một câu thì ấp Tiểu vạn trường thành là một tòa lâu đài hẳn hoi, vì cách ăn ở của chủ nhân khiến ta phải tưởng tượng đến cách ăn ở của những vị công hầu khanh tướng trong những tiểu thuyết Tàu vậy.
         Buổi sáng hôm ấy, mười một cô nàng hầu của nhà triệu phú không phải đi coi đồn điền. Bốn hôm trước Tạ Đình Hách, trước khi ra đi, và lúc đêm khuya, có nói với mấy người rằng sẽ không có mặt ở ấp độ một tuần lễ, vì sau khi về Hà Nội mừng ông bạn tổng đốc thì sẽ xuống Hải Phòng có việc với bà Cả rồi tiện đường sẽ đi thăm mỏ ở Quảng Yên. Vậy mà mới sáng hôm nay lại có một bức điện tín đánh về rằng nội chiều nay thì "quan" về, nên chỉ mười một cô ả kia là được ở nhà sửa soạn hầu hạ một ông chồng mà họ khiếp sợ như một vị bạo chúa. Vì chưng mỗi người đều có một cái tiểu sử về nhân duyên kỳ lạ và đặc biệt cả, nên ai cũng hiểu rõ cái địa vị của mình thật chả khác địa vị của một cung phi. Thôi thì ai cũng hết sức tự tô lục chuốt hồng, chiều chuộng nịnh hót đức lang quân, ngõ hầu được vời luôn thì đã đủ là hân hạnh. Ngày thì họ là những tay quản gia đồn điền của ông chủ. Đêm đến họ là vợ... Mà những ngày chẳng may mà bà Cả ở Cảng về thăm thì họ chỉ là những người đi hái chè, đi giồng cà phê, lương mỗi ngày mỗi người được 15 xu. Cách cư xử và ăn ở của họ thật giống cái đời của những cô ả đào. 
         Trong số mười một cô ấy, có tám cô là gái quê một trăm phần trăm và ba cô là gái giang hồ lượm lặt sau mấy cuộc dạ yến ở Hà Nội, Nam Định hoặc Hải Phòng của nhà tư bản. Có mười cô được nhà tư bản đặt tên cho là: Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh , Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Còn một mụ, trạc độ 40 tuổi, giám đốc bọn ấy và giữ thìa khóa két trong nhà, chi lương cho thợ gặt và gia nhân, nghĩa là người được ông chủ điền tin cậy nhất, thì vẫn giữ nguyên tên cũ là cô Kiểm. Nguyên xưa kia cô này đã lấy một ông tây Kiểm lâm. Một đêm, ông nghị Hách xuống Cảng, trong một lúc rỗi việc, đã đến một khách sạn thuê buồng. Thằng bồi săm gọi đến Liểm lâm phu nhân. Thế rồi thì... ít lâu sau, cô Kiểm về làm cô nàng hầu cả cả quan nghị.
         - Gớm chửa kìa! Các bà lớn còn ườn xác ra mãi thế! Dậy đi thôi chứ! Quan cũng sắp về rồi đấy.
         Tay cầm một chùm thìa khóa, tóc vấn trần, chân đi dép dừa quai nhung, co ro trong một cái áo len rất đẹp, cô Kiểm nói đỏng như vậy rồi đứng sừng sửng trước cửa phòng, một cái phòng rộng rãi có kê tám cái giường tây gỗ, chăn màn đủ cả như trong một cái phòng hộ sinh. Lúc ấy, cũng chỉ còn vài ba cô nằm ngủ li bì thôi, song cái tinhhs nói chùm nói lớp là thói quen của cô Kiểm. Tức thì cô Tín vùng dậy, sang cái giường bên cạnh đập vào những đống chăn bông bồm bộp mà rằng :
         - Các chị ơi, quá ngọ rồi quan cũng sắp về rồi dậy đi, mau lên!
    Lúc ấy, cô Quí, cô Ninh, cô Nhân đã ngồi trước bàn, kẻ chải đàu, kẻ đánh phấn. Còn cô Phú, cô Thọ, cô Tríthì vẫn uể oải trong chăn với mấy tờ báo, mấy cuốn truyện ngôn tình. Riêng có cô Lễ, một cô trong mặt ngây thơ có cái vẻ đẹp nâu sồng thì ngồi riêng biệt một cái bàn và đương học: e o eo, êu êu, iu iu....

         Thấy có người gọi , cô Khang và cô Nghĩa tung chăn ngồi lên ngáp dài mà rằng: "Hôm nay có phải làm lụng gì đâu mà phải dậy sớm?".
         Cô Kiểm lạnh lùng:
         - Thưa hai bà lớn, cũng không sớm là mấy nữa đâu ạ.
         Nghe thấy vậy, hai cô ngồi nhỏm lên. Mười lăm phút sau , cảnh tượng trong phòng đổi hẳn. Đó là những cái quần trắng, áo di lê, áo len, khăn nhung, thắt lưng hoa đào và những dép quai nhung hoạt động trong phòng trướpc những tủ áo, bàn rửa mặt, không khí một nhà ả đào, lúc đã đến giờ trang điểm, đợi khách làng chơi. Nếu mà chủ nhân mà có ở nhà thì dù sao cũng phải sẵn có đàn bà để chủ nhân ông sai bảo việc vặt hoặc ngứa mồm thì hôn một cái, ngứa tay thì sờ soạng một cái, cấu véo một cái...
         Cô Kiểm lại đứng bên cô Lễ, khẽ hỏi:
         - Thế nào, mấy hôm nay em có được sạch sẽ không?
         Cô Lễ len lét thưa:
         - Dạ, sạch sẽ lắm ạ!
         - Thế có nhớ đến hộp táo tàu đáy hay là không?
         ...
         Chợt có tiếng động cơ xe hơi , trước còn văng vẳng, sau thấy mỗi phút một rõ dần. Một hồi còi điện như tiếng lợn hét, rúc vang lên. Cả phòng nhao nhao.
         - Quan về! Xe quan đã về thật.
         Một số đông các cô, những cô quần chủng áo dài rồi xô nhau chạy ra hành lang, nhìn xuống sân. Một cô kêu lên:
          - Không phải xe ông. À, à! Xe cậu cả! Cậu cả Tú lên chơi chúng mày ạ.
         Một cô khác reo:
         - Cậu lên chơi đấy à? Thế có ông ở trong xe không?Ồ cậu Tú lên chơi! Chúng ta ra đón đón đi, các chị ơi!
         Nói rồi thì, trừ cô Lễ là chưa hiểu phong tục trong nhà nên ngồi lại, cả lũ kéo nhau xuống. Cô Kiểm, trong tay vẫn có chumf thìa khóa, đi đầu. Cô đến ngay bên xe và trước khi người thiếu niên xuống xe, đã kính cẩn vái dài một cái.
         - Lạy cậu ạ! cậu mới lên chơi.
         - Không dám, chào các cô. Ông hiện ở nhà nào bây giờ?
         - Bẩm cậu, quan ông chưa về. Nhưng mà cũng sắp về rồi đấy ạ. Đã có tê- lê- gam báo là trưa hôm nay thì quan ông về.
         Thiếu niên bước xuống xe. Đó là một người nhỏ nhán, trắng trẻo rất đẹp giai nhưng chỉ tiếc lỗi lại hơi có vẻ đàn bà. Quần áo tây rất lịch sự. Nét mặt như đương có sự gì không vui. Cô Kiểm đon dả:
         - Xin mời cậu Tú sang bên tòa nhà trái này kia ạ.
         Thiếu niên lừ lừ theo. Đến phòng khkách quay lại nói với cô Kiểm:
         - Cô để tôi ngồi một mình. Không ai phải tíêp tôi cả.
         - Bẩm, để liệu mời cậu xơi cơm trưa với quan ông chứ? Thế...
         Một câu đáp gắt gỏng cắt lời đon đả ấy:
         - Vâng !
         CôKiểm và cả bọn bẽn lẽn kéo nhau vào phòng thì thiếu niên vào ngồi ở phòng khách, lấy một tờ báo Lưỡng Kỳ ra, cắm mặt xuống xem, không biết lượt này đã là lượt thứ mấy.
    THỜI SỰ CÁC TỈNH    
    Phải chăng là một vụ cưỡng dâm?
         CÚC LÂM (tin điện thoại) - Quan huyện Cúc Lâm có chấp nhận một lá đơn của một ông đồ ở làng Quỳnh Thôn kiện một nhà tai to mặt lớn kia về tội cưỡng dâm con gái ông ta. Theo cuộc điều tra của đặc phái viên bản báo thì thị M...Con gái của oong đồ, đêm ấy đi gặt rạ cùng với mấy người làng đã bị nhà tai to mặt lớn (?) kia gọi đến chỗ xe hơi hòm của ông rồi thị bị cưỡng dâm. Sau cuộc cẩu hợp, con dê già kia vứt cho cô bé đáng thương năm cái giấy bạc một đoòng, ý chừng đền bù cho cả một cuộc đời bị làm hại. Cô bé lúc ấy vì ngộ phải gió độc nên đã ốm trầm trọng. Tuần tráng thất tiếng kêu rên có chạy ra toan bắt, song con dê già phóng xe đi thẳng! Thật là một việc rất dã man. Nghe đâu con dê già kia sẽ chẳng bao lâu bị truy tố trước pháp luật, vì tuần táng có trông thấy số xe. Bản báo chờ cuộc điều tra của nhà chức trách rồi sẽ nêu lên đây cái tên tuổi đáng lưu truyền sử xanh của con dê già ấy. Hiện giờ cô bé bị hiếp đã đựơc điều dưỡng tại nhà thương , và được tin bản báo sẽ dăng tiếp.
         Đọc xong, thiếu niên lấy khăn tay ra lau mấy giọt mồ hôi tren trán. Vừa lú ấy lại thấy tiếng còi xe hơi vang động lên. Thiếu niên vội cất tờ báo vào túi áo, đứng lên chấp tay sau lưng. Lão Tạ Đình Hách xuống xe bước vào nhà.
         - Ô! Anh đấy à? Anh ơi thầy mong nhớ mày quá! Mày lên đây chơi thì ở cho lâu nhé? Thế nào, cái trường tư mày có đông học trò không? Độ rày mày có nhận được thư của đẻ mày không? Mày có xuống Hải Phòng đấy không? Giời ơi, tao sướng quá ! Tao vừa đi Hà Nộivà có lại tìm mày mấy lượt đều không gặp. Thế mày ở đây nghĩ vài hôm nhé?
         - Không, thưa ông , tôi không phải lên đây để chơi...
         Cha thấy con lãnh đạm như vậy thì đứng tưng hửng. Mãi một lúc mới hỏi:
         - Thế mày lên đây có việc gì?
         Con rút tờ báo, lạnh lùng giơ cho cha:
         - Xin ông hãy độc xem người ta nói gì ông đây!
         Lão Hách chỉ đọc ba phút đã vứt tờ báo xuống đất, ra ý giận dữ:
         - Những thằng làm báo là những thằng nói láo. Mà mày cũng đi tin...
         Nhưng người con lão giơ tay ngăn và bình tĩnh nói một cách đáng sợ:
         - Không, thưa ông! Người ta đã nói thật! là vì ngôài cuộc điều tra của nhà báo, còn có cuộc điều tra của tôi, thằng con ông! Sau cái việc bậy bạ ấy, ông còn phái con đào Lan về toan hối lộ lão huyện, nhưng màv ông đã thất bại. Ông có biết rằng nhiều người thù oán ông lắm rồi không? Ông có biết là dư luận rất xôn xao về việc này không? Ông muốn từ tôi thì xin cứ từ, nhưng mà để cho tôi nói vài lời đã! Tôi đã đến lúc không nín được rồi.
         - Không, tao chẳng hiếp ai, cưỡng ai. Lúc xe ăng ban, tao buồn, gọi nó lại(...)* Tao đã trả nó năm đồng(...)* 
         - (...)* Thưa ông, nó đã nhận được giấy nhận thực bị ông làm mấy tân.
         - Thật quả tao không ngờ nó lại là gái tân...
         - Thưa ông, ông là cha tôi, điều đó lúc nào tôi cũng nhớ lắm. Tôi chịu ơn ông đã nhiều lắm, nhưng mà ông đã làm nhiều điều bỉ ổi lắm. Ông đẻ ra tôi thì ông có quỳên cho tôi sống hoặc bắt tôi chết... Thưa ông, xin ông cho tôi chết. Ông giết tôi đi!
         Nhà đại phú cúi đầu hổ thẹn hồi lâu... Sau cùng ngẩng lên, cái mặt vẫn trân trân...
         - Ô hay! sao mày dở hơi thế? Thì tao mua con bé ấy làm hầu là cùng chứ gì?
    _________________________________________
        (...)* : bị kiểm duyệt cắt bỏ
         
                                                                             CHƯƠNG IV
          Người bồi chạy lên gác một lúc rồi xuống bảo vơí ông nghị Hách: "Cụ lớn cho phép quan cứ lên". Khi lão này vào thì quan công sứ đương ngồi làm việc ở bên bàn giấy, bên cạnh một cái lò sưởi đầy những củi và đỏ rực những lửa.
         Quan là một người đã cao tuổi, ở thuộc địa trên ba mươi năm, đã được lòng dân không phải vì một chính sách giả dối, không pphải vì những bài diễn văn giả dối kêu vang và rỗng tuếch, không phải vì đã đem những giọt nứơc mắt cá sấu ra huyễn hoặc lừa dối dân ngu, nhưng bởi chính quan là một bậc hiền nhân quân tử, rất ít có ở đời. Ngoài những giờ bận việc cai trị, quan thường đọc sách,viết văn. Vì rất giỏi chữ Hán, quan đã xuất bản được một quyển sách khảo cứu về cách dùng binh của Trần Hưng Đạo. Do lẽ đó, quan công sứ nói tiếng An Nam cũng thạo và cũng dễ nghe.
         Cái lòng nhân từ của quan thì hầu như thành một câu cách ngôn đã truyền tụng. Những người tri thức, cả những nhà viết báo rất hoài nghi cũng phải nhận ngài là người hiếm có, sống ở thuộc địa đã nửa đời người mà vẫn giữ được những quan niệm về sự tự do cá nhân rất rộng rãi, vẫn biểu lộ được cái tinh thần đáng trọng của hạng trí thức nứơc Pháp chứ không nhiễm phỉa tính nết của phái thực dân bằng rùi khui.
         Một buổi kia, có việc ra nhà dây thép, quan cứ cuốc bộ mà lử khử đi như những người tây thường. Qua một phố nọ có một trường tư thục một lũ trò em đùa nghịch đá bóng làm cho quả bóng trúng đánh bốp một cái vào ngục quan. Một vệt bùn to tướng in ngay vào ve áo, chỗ có cái cuống mề đay Bắc Đẩu. Quan vào trường. Viên đốc học trường tư sợ tái mặt như mọi người phải lo sợ vào một trường hợp như thế. Nhưng mà quan công sứ cứ khoan thai cầm khăn mặt bông mà phủi áo, rửa tay vào chậu nước rồi ôn tồn bảo viên đốc: "Ông phải bảo học trò của ông ra cái bãi cỏ ở cạnh chợ mà đá bóng, chứ thể thao ở giữa phố như thế thì rồi có những tai nạn xe cộ xảy ra".
         Một lần khác, xe hơi của quan vừa ở thủ đô về, người tài xế đương lái vòng để vào sân tòa sứ, thì có một mụ nhà quê tay cầm một lá đơn đến quỳ ngay trước xe. Mấy anh lính khố xanh toan giơ cao cái roi mây thì quan công sữ ra hiệu ngăn lại, hỏi:... "Đơn kêu của bà có rõ ràng không?". Người đàn bà kêu lải nhải một hồi thì quan truyền. "Thôi, cứ về rồi quan xét xử". Nguyên do đó là một mụ đi mò cua bắt ốc, bị làng bắt vạ vì chưa hết tang chồng mà đã có mang. Theo như trong đơn thì mụ đã bị một bọn bô lão trong làng lôi những hủ tục ra để hành hạ mụ, chứ thật ra, mụ đã hết tang từ mấy tháng trước khi có mang. Ấy thế là quan viết thư trả lời cái mụ mò cua ấy rằng: "Thưa bà, bản chức đã xét đơn của bà rồi. Nếu bà còn có tang ông ấy thì theo luật Gia Long, có chửa như vậy là có lỗi. Còn nếu bà đã đoạn tang rồi thì không ai được phép bắt vạ bà, nếu bà viện đủ chứng cớ là đã hết tang thì cứ lên tòa mà trình bày, bản chức sẽ trị tội những kẻ nhũng lạm". Một bức thư của vị quan đầu tỉnh mà lại có cái luận điệu lễ phép với một mụ mò cua đến bực ấy, đã làm cho các quan tổng đốc, bố chánh, tri phủ phải nhăn mặt lại. Rồi bọn bô lão trong làng sợ hãi đến hết vía mà đền lại cái vạ. Hai chuyện này đã đủ là chứng cớ rằng quan công sứ tỉnh có nghị Hách hồi ấy là người dễ dàng biết bao nhiêu.
         Đêm nay, ngồi làm việc, hai chân quan đi giày rạ đen mà cổ quan quấn một cái khăn quàng dày sụ, lông chiên tua tủa bịt đến cả cằm. Bộ râu bạc ba chòm và cái trán hói đến bóng lộn của quan khiến ngài có vẻ đường bệ oai nghiêm lắm.
         Nghị Hách mặc bộ áo trào vào ngày đại tiệc, cũng chấp tay vái dài lưng thật khom mà rằng:
         - Bẩm lạy cụ lớn ạ!
        Quan công sứ đặt bút xuống bàn, giơ tay đón:
         - Chào ông nghị. Ông đến thăm tôi hay có việc gì can hệ? Ông nghị ngồi đây... Tôi đương viết một bài triết lý về Đông Phương cho một tờ báo ở Ba Lê đây... Ông nghị có rét không? Tôi bây giờ yếu lắm, không có sức chống rét nữa. Ông nghị uống nước chè hay rượu mạnh nhé?
         - Bẩm vâng. Con xin uống hầu cụ lớn một cốc. Cảm ơn cụ lớn lắm.
         - À, thế ông nghị có việc gì cần tôi giúp đấy chứ!
         - Bẩm cụ lớn, không ạ. Bẩm chúng con thấy cụ lớn cũng dễ dàng, lại hay tiếp người bản xứ cho nên con sang thăm và hầu chuyện và xem cụ lớn có điều gì chỉ bảo không, thế thôi ạ.
         Quan công sứ bấm cái chuông điện. Người bòi ló vào.
         - Đem cho tôi khai rượu Anis lên nhé! Bà lớn đi nghĩ chưa? Này bồi, hôm nay mày để con Toby cắn chết mất một con gà sống thiến, như thế là tôi không bằng lòng đâu. Nó là con chó săn thì lúc nào cũng phải xích nó lại. Nếu mày cứ quên lời tôi bảo thì rồi tôi sẽ nói với bà lớn không thưởng mày nhiều tiền tiêu tết nữa!
         Người bồi chịu quở rồi lẳng lặng quay ra. Năm phút sau đem một cái khay có một chai, hai cốc lặng lẽ để ở bàn. Chờ khi người bồi xuống rồi, nghị Hách mới nói:
         - Bẩm cụ lớn, thế cụ lớn bà độ này vẫn khỏe mạnh đấy chứ ạ?
         QUan công sứ gật gù mà rằng:
         - Ồ ồ! Vợ tôi yếu lắm, ông nghị ạ. Vợ tôi cứ muốn đòi về nghĩ ở Nice. Có lẽ ít lâu nữa thì tôi phải để vợ tôi về nghĩ một mình, sáu tháng rồi lại sang.
         - Bẩm cụ lớn, như vậy thì tốn kém nhiều tiền lắm.
         - Chính thế đấy, ông nghị ạ. Bây giờ ai cũng nên tiết kiệm. Phủ toàn quyền đã có tờ thông tưồch các quan phải dè dặt chi tiêu, theo chính sách tiết kiệm. Vì rằng cái nạn khủng hoảng kinh tế mỗi ngày một nặng thêm...
         - Bẩm do đó mà mới có những việc như ở Hà Tĩnh, Nghệ An vừa rồi, chắc cụ lớn có để ý.
         Quan công sứ uống một hớp rượu rồi nói rằng:
         - Phải, giữa lúc kinh tế thế này, cái nghề cai trị dân thật là khó khăn...
         - Bẩm... như cụ lớn đã cai trị tỉnh nào thì quyết không bao giờ đan lại như thế. Cụ lớn thương dân lắm.
         - Dân họ cũng hiểu cho tôi đấy chứ?
         - Bẩm vâng, lòng thương dân của cụ lớn thì không ai là không cảm phục. Nhưng mà còn những tay phiến lọan chúng xui giục.
         - Vừa rồi, xem đầm ở đây phải bắt bớ mấy vụ là vì có mấy tay ở nơi khác lại trốn tránh ở đây mà thôi. Chứ tôi tin rằng dưới quyền cai trị của tôi, không một ai làm lọan cả.
    - Bẩm cụ lớn, cái ấy thì đã đành. Nhưng mà có nhiều cái người ta không thể ngờ trước được.
         Quan công sứ gật gù hồi lâu mà rằng:
         - Chính phủ bảo hộ lo thế nào cho dân khỏi đói thì không sợ gì nữa.
         - Bẩm cụ lớn, chính thế đấy ạ. Nhưng bọn nghiệp chủ chúng con dạo này thật lấy làm khổ sở vì cái phong trào cộng sản. Trong cái mỏ ở Quảng Yên của con vừa rồi súyt nữa thì có nạn phu đình công. Mà ngay ở đồn điền của con trên tỉnh này thì nông dân ít lâu nay con thấy hộ trở nên bứơng bỉnh lắm.
         - Tôi vẫn biết thế. Nhưng cái đó không hề gì. Nếu ông nghị cũng biết đãi nông dân và tá điền cho pahỉ chăng thì không bao giờ phải lo ngại gì nữa. Tôi quyết rằng dân dưới quyền tôi, họ không đói khổ thì không khi nào họ làm sằng.
         - Bẩm con thì con thấy rằng phong trào ấy đã bắt đầu lan đến tỉnh ta.
         Quan công sứ giật nảy mình lên, trợn mắt hỏi:
         - Đã lan đến tỉnh ta, ông bảo!
         - Bẩm cụ lớn, hình như thế.
         - Có cái gì chứng cớ không?
         - Bẩm, tòan dân tỉnh này đã bắt đầu nói xấu và vu oan cho con. Bẩm cụ lớn, chắc là họ chỉ nhắm mắt nghe theo bọn phiến lọan chúng mớm nhời mà thôi. Họ vu cho con là giết người, là hiếp tróc đàn bà con gái, là bóp hầu bóp cổ bọn dân nghèo, thôi thì đủ những tội ác. Họ hết sức gieo cái mầm thù ghét người giàu có cho lan rộng trong đám cùng dân. Kể ngay bọn tá điền làm việc trong đồn điền của con thì chúng cũng đã bắt đầu đòi tăng lương, ấy là lương con phát cho chúng cũng đã cao lắm. Bẩm cụ lớn, con thấy cái phong trào ấy sắp lan đến tỉnh ta. Vậy con xin lấy cái tư cách một người dân biểu mà trình báo để cụ lớn tiện đường cai trị cho tỉnh yên ổn.
         - Ông nghị đã làm phải lắm. Ông nghị nhận đây những lời khen của tôi nhé?Đê tôi phải thông báo co ông giám binh. Ông nghị cứ yên tâm, chính phủ bẩo hộ bao giờ cũng có trách nhiệm giữ cuộc trị an, bảo toàn tính mệnh và tài sản cho dân, trừng trị kẻ phiến loạn.
         - Bẩm lạy cụ lớn, con ngồi cũng đã lâu, vậy xin phép cáo từ để cụ lớn còn làm việc.
         - Phải, chòa ông nghị! Chúc ông nghị ngủ ngon.
         - Bẩm lạy cụ lớn.
         Giữa lúc ấy đồng hồ đánh chín tiếng bong bong. Nghị Hách bước xuống thang còn nghe thấy quan công sứ mắng người bồi: "Sao mày không chất củi vào? Tao còn làm việc khuya, mày lười như thế, tôi không bằng lòng chút nào cả." Người phụ bồi tiễn nghị Hách ra cửa dinh một cách sợ hãi. Khi bứơc lên xe hơi, ông nghị lại được bác lính khố xanh nghiêm nghị bồng súng lên đánh thích một cái để chào.
         Xe hơi xình xịch chạy đi, nhà tư bản bảo người tài xế: "Đến dinh ông tổng đốc". Năm phút sau, xe đã đỗ trước một cái tam quan. Lại một người lính bồng súng lên chào cho xe hơi tiến thẳng qua sân vào tới bực đá. Nghị Hách chưa kịp nói gì thì một bác lính đã chạy tọt vào rồi chạy tọt ra: "Bẩm mời quan lớn vào, cụ lớn còn thức đấy ạ" .
         Lúc nghị Hách đến phòng khách thì vừa thấy cụ lớn bà vội ngồi dậy tay cầm một cái tráp mà chạy tọt vào nhà trong. còn cụ lớn ông thì đương ngồi ở sập.
         - Bẩm lạy cụ lớn ạ.
         - Không dám, lạy quan lớn, quan lớn có việc gì cần mà đến chơi khuya thế?
         - Bẩm cụ lớn, chúng tôi sang xem cụ lớn có thiếu chân tổ tôm nào...
         - Quan lớn ngồi chơi. Độ này chẳng ai đánh chác gì cả. Quan bố thì khó ở, bà lục lộ thì thích đồng bóng, gọi họp rõ khó quá. Độ này quan lớn mạnh khỏe chứ? Lính đâu! pha trà đi mày.
         Phòng bbên cạnh có tiếng dạ dậm vang lên. Nghị Hách ngồi lên sập, kéo mình về cái đíêu ống rồi nói nhỏ:
         - Thế nào, cuk lớn vừa rồi có gặp quan tuần Hà tôi tại nhà cụ thượng đấy không? Cụ lớn có đã động gì về việc ấy giúp tôi không?
         - Có, có! Chú nó lấy làm vui lòng lắm.
        - Thật vậy ư? Quan tuần Hà vui lòng nữa kia ư? Liệu cụ lớn xem rồi việc ấy có thành đựơc không?
         - Chết chửa, làm gì mà không thành? Quan lớn thông gia với chú tuần nó thì môn đăng hộ đối lắm rồi, mà cậu Tú Anh kết đôi với con cháu Nga nó kết bạn với nhau thì còn đôi nào đẹp hơn bằng nữa?
         - Bẩm, thế trăm điều xin trông cậy vào cụ lớn.
         Cụ tổng đốc cười khà khà mà rằng:
         - Chỗ tôi với quan lớn thì còn ngại gì? " Trăm điều hãy cứ trông vào một ta!".
         - Ha ha ha ! vâng! Đa tạ cụ lớn vạn bội !Mà tôi muốn việc chóng xong.
         - Được rồi muốn chóng xong thì chóng xong.
         Từ đây trở đi, mặt nghị Hách lộ vẻ buồn khó tả . Đến một khắc, cứ trầm ngâm nghĩ ngợi, quên cả đáp lời ông tổng đốc.
         - Kìa, sao quan lớn như có gì buồn bực thế? Cái tin mừng như thế không đủ làm cho quan lớn vui lên một chút nhỉ?
         Nghị Hách hoảng hốt cười chữa mà rằng:
         - Xin lỗi cụ lớn, tôi đang nghĩ đến việc quan huyện Cúc Lâm múôn kiếm chuyện với tôi đấy ạ. Ông ta vẫn có hiềm khích gì với tôi không biết mà mới đây đã xui dân đi kiện tôi. xem ra quan huyện là người tân học cho nên chính sách cai trị  sai lầm lắm.
         - Ồ lạ! Thằng huyện Cúc Lâm gây sự với quan lớn? Để tôi bảo nó, được!
         - Ông ta cậy mình đỗ luật khoa tiến sĩ nên hợm hĩnh đến nỗi làm hỏng cả mọi trật tự của quan trường.
         Cụ lớn tổng đốc nghe đến đó rồi lại nghĩ đến cái bước làm quan tắt của mình thì sa sầm nét mặt xuống...
         - Cái thằng ấy láo thế à? Để rồi tôi trị cho nó một trận. Nó lại không biết là quan lớn sẽ là thông gia với em ruột tôi hay sao?
         - Vâng, tôi chỉ mong ông huyện Cúc Lâm bíêt cho như thế.
         - Được ạ!
         - Thôi đã khuya...
         - Ấy, ngồi chơi đã !
         - Bẩm để cụ lớn đi nghĩ... Bẩm lạy cụ lớn.
         - Không dám, lạy quan lớn ạ.
         Một hồi gót giày, rồi tiếng nổ của động cơ xe hơi. Chiếc xe chạy giật lùi, lùi một vòng rồi từ dinh quan tổng đốc chạy phăng phăng ra, lại một cái bồng súng của khố xanh đứng gác.
         Mười phút sau, cái xe ấy lên đến cái đốc cổng Tiểu vạn trường thành.
         Trong ấp, gia nhân đã ngũ gần hết, trừ trên một tầng gác tòa nhà trái là còn tưng bừng ánh đèn măng song. Nghị Hách cho tài xế đánh xe vào nhà chứa xe, đoạn một mình cuốc bộ xuống khu nhà cạnh cái sân gà vịt. Đêm đã khuya, những cây đèn trong ấp đã cạn bấc, lụt dầu nên hiện ra những cục lửa đỏ ối,ở hai bên lối đi. Mặt trăng mới chênh chếch bắt đầu lên, nên trời đất còn tối mù mịt.
         Gần đến gian nhà nhỏ thì ông chủ nện mạnh gót giày. Một bóng người ló ra thì ông chủ hỏi:
         - Xong chưa?
         Một giọng ồ ồ đáp lại:
         - Bẩm xong đã lâu, rứơc quan vào xem.
         - Chúng nó ngủ cả chưa?
         - Bẩm không còn đứa nào bíêt trời đất là gì nữa. Con chờ quan mãi.
         Ông chủ vào nhà. Cánh cửa bị đóng lại. Ngọ đèn đàu đựơc khêu to thì chiếu thẳng vào một cái mặt đáng sợ, đôi lông mày rậm mà chạy tuột xuống đuôi mắt, cái cằm to tướng dưới má nổi bành bạnh và một bên má có một cái sẹo chạy dài ngang qua. Người có cái mặt hung ác ấy cầm đèn từ bàn ra soi vào cái giường.
         - Khô chưa ?
         - Khô đã lâu.
         - Độ 2 giờ đêm hãy đi, mà nhớ những lời ta dặn đó...
        - Bẩm vâng, nhưng mà hiện thì con run lắm, sợ lắm.
         - Có thế thôi mà run cái gì? Cố đi ta sẽ có thưởng.
         - Bẩm vâng.
         - Một ít ở huyện. Một ít ở phòng hội đồng làng Quỳnh thôn.
         - Bẩm vâng.
         Ông chủ lẳng lặng ra khỏi gian nhà, đi qua cái vườn tối tăm rồi về cái phong gác có một mâm cỗ linh đình và mười một người đàn bà ngồi chờ đợi.
                                                                                CHƯƠNG V
         Vì xây trên một ngọn đồi ở vào cái địa thế rất lợi nên những ô cửa sổ của nhà thương mở ra một vùng phong cảnh rất ngoạn mục. Người bệnh cứ trông những nóc nhà mái ngói mái gianh chen chúc nhau ở hai đường, bên những vòm cây chi chít, hoặc là chỗ thì chợ, chỗ thì trường thì trường học, chỗ thì cửa huyện có một cái chòi cỗ lỗ lúc nào cũng đội một lá cờ ba sắc bay phấp phới; đây, một dãy nương khoai; kia, năm bảy ngọn soan; lại thêm túm năm túm ba những người gồng gánh họp chợ chỉ to bằng cái đầu tăm, nên chi họ cũng có lúc có những phút cao hứng quên khuấy bệnh trạng của mình để hưởng một sự họ mới khám phá ra được: ngắm cảnh thiên nhiên. Mấy phòng nhà thương cao ráo sáng sủa những lúc trên trời có mây trắng thì thì nhà thương hiện ra trong cái tưng bừng mà những khi mây trời ảm đạm mịt mù thì cũng không đến nỗi thiếu sắc sơn xanh có nệm màu trắng xóa, mà nhìn qua khung cửa kính, lại thêm ngoài hiên lác đác bay những chiếc lá vàng, kẻ có bệnh cũng thấy sự di dưỡng của tinh thần, quên những vết thương trong thân thể, có thể để hết khối óc vào mọi sự mơ màng, suy nghĩ triết lý nữa, nghĩa là vào những thời khắc vốn chỉ để dành cho hạng thợ văn chương. Bệnh nhân hồi ấy đa số vốn là vợ các ngài viên chức đến đẻ, đến chữa một cái răng sâu, một cái hạch, một cái mụn nhỏ trên đầu chẳng hạn, nên trong nhà thương, người ta chỉ thây những bà quần áo sạch như cái đũa Nhật Bản, lẹp kẹp đôi guốc, nũng nịu vì những đôi bít tất bông, tùm hụp trong những cái khăn vuông họăc ra cửa sổ ngắm những cảnh chợ búa làng mạc dưới dồi hoặc nằm trong chăn để đọc một tờ báo, một cuốn tiểu thuyết. Những lúc ấy là những lúc quý hóa để họ lục tìm trong ký ức những kỷ niệm hoặc vui bvẻ hoặc đau đớn rồi kiếm lấy những phương châm xử thế, là những lúc họ kiểm sóat cuộc đời.
         Cô Mịch cũng nằm dưỡng bệnh như họ, cũng suy nghĩ như họ.
         Mười tám tuổi đầu, cô cũng còn ngây thơ khờ dại như gái mới mười lăm. Cô không biết đời là gì cả. Cô thấy đời là sự nghèo khổ và sự nhẫn nhục của cha mẹ, là sự siêng năng làm ăn của cô mà thôi. Nhưng dẫu nghèo khổ thì cha cô cũng là một ông đồ. mà trong một làng mà cả người làng chưa ai trông thấy một lọ nứơc hoa, chưa ai nghe thấy một cái máy hát thì một ông đồ cũng đã là một cái danh giá. Ông đồ có sáu đứa học từ 8 đến 12 tuổi, đứa nào cũng để chỏm, vẫn hàng ngày đến nằm bò nhoài trên phản để nhai chữ, thường đem đến khoe thầy và cho mực tàu giấy bản nhiều thứ mắc hơn là sự thông minh. Còn bà đồ thì lúc nào cũng phải gắt lên với ông đồ, mặc lòng bfa thức khuya dậy sớm, khâu thuê, cấy mướn để giữ vững gia đình cung như hầu hết các bà đức phụ nhà quê.
         ANh cô, một thiếu niên có một ít chữ tây, thì làm nghề vẽ truyền thần ở (...) những tỉnh Hà Nội. Cho nên cái số mỗi đứa học trò hai thúng gạo hoặc đỗ với số tiền là 5 đồng bạc của con giai cả mỗi tháng gửi về khiến ông đồ thấy quần áo chóng rách, thấy tóc trên đầu chóng bạc mà cuộc đời thì chỉ là một chuỗi ngày liên tiếp rất nặng nề, sờ vào túi thì ngày nào cũng túng tiền, sờ lên cằm lên mép thì thấy rất phong lưu những râu và ria.
        Còn người chồng sắp cưới của cô Mịch?
         Người này thì may được cái đối với cô vốn không là xa lạ. Đó là người anh họ rất xa về bên ngoại. Hai mươi nhăm tuổi, mặt mũi cũng nhẹ nhõm, cử chỉ ngôn ngữ cũng dễ thương. Anh ấy đã sang chơi chú họ vài ba lần. Những lần sang, cô Mịch đã phải nghĩ việc đồng áng để vặt lông gà, mổ cá chép, thái ngọn măng. Cô không ngờ anh họ lại yêu cô, nên khi thấy bố mẹ nói chuyện cho nghe, cô cũng lấy làm lạ. Co lạ một lúc rồi gật đầu nhận lời. Vì rằng cô đã so sánh mình với người cùng mình muốn kết bạn trăm năm. Anh ấy, sánh với người làng là người có học, lại được ở nhà gọi là anh ký. Hình như anh ấy cũng đọc nhiều sách nữa, vì làm thầy ký chi một trường tư thục ở kinh đô. Anh ấy không làm dáng khinh người, nói ít, lại hay đỏ mặt như đàn bà nữa. Số lương anh ấy tuy ít ỏi nhưng cũng đủ nuôi vợ con. Thế là Mịch bằng lòng. Rồi Mịch cũng đem lòng yêu nữa. Việc dạm hỏi do anh ruột Mịch nói hộ lên bề trên. Bà đồ Uẩn nói rõ to một câu: Ừ! Ông đồ cũng gật đầu. Thế là một cuộc tình duyên được công nhận, một đôi trai gái được mãn nguyện.
         Mịch nghĩ đến mình thì cũng thấy xứng lứa vừa đôi. Tuy nghèo nhưng Mịch lại đẹp. hai má lúc nào cũng đỏ ửng như say trầu, hàm răng đen lay láy hạt huyền hẳn hoi. Những khi soi bóng trông gương , Mịch thấy mặt mũi mình cũng nhẹ nhõm, mà đôi mắt mình thì là đôi mắt con nhà lương thiện. Cái cặp mắt ấy, người ngoài ai trông thấy thì cũng phải khen là ngây thơ hay là dễ hư hay là dễ bụng nghe , là lạc quan,là dễ tin đời. Mà quả thật như vậy. Vì rằng không bao giờ Mịch tưởng tượng được rằng lại có thể có một người bằng tuổi bố mình, lại giàu có sang trọng nữa, mà lại lừa mình để làm một việc xấu hổ trong một cái xe tu-bin. Lúc có người ở đằng trứơc và người ở đằng sau xe nữa.
         Mịch nghĩ đến lúc ấy thì mặt lại đỏ bừng lên, tự mình cũng đủ thẹn vơí mình. Cô nghĩ đến những câu chế nhạo của bọn giai làng vô giáo dục. Từ khi ấy, cô sợ nhất là cái xe ôtô. Mỗi lần trông thấy một cái xe ôtô là lại giật mình đánh thót một cái. Vì cô rất yêu chồng. Người chồng, sắp cưới ấy, theo lời mẹ cô kể lại, sẽ lên tận nơi thăm cô. Cái tinh thần nhà nho của một ông đồ đã khiến ông đồ báo cái tai họa ấy ngay cho chàng rể một cách quả quyết. Trời hại ông và con ông chứ không phải ông hay là con gái ông gây ra. Ông sẽ cho hai đứa được trò chuyện với nhau, mặc lòng ông đã hiểu trước rằng cho con rể như thế thì con gái sẽ thẹn. Mà nếu chàng rể chưa thực thụ ấy có vịn vào cái cớ tân tiết để bỏ Mịch thì, thôi, ông cũng đành ở với Trời. Bao giờ thì ông cũng chỉ ở với Trời, mặc lòng Trời chẳng bao giờ tử tế gì với ông. Xa ra ! Những áci dư luận khốn nạn của hạng người nông nổi. Việc âý không là việc giấu giếm được. Có bổn phận thông báo, ông cứ việc làm...
          Thị Mịch rùng mình nghĩ đến cái phút mà người chồng sắp cưới sẽ đến. Anh ấy sẽ đến! Mà chỉ nội trong hôm nay thôi.
         Mịch bàng hoàng, run sợ, kéo cái chăn trắng trùm kín đầu. Cô nghĩ đến đêm ấy , lúc cô ngây thơ dại dột mà bước vào để cho kẻ khốn nạn được thể khép gọn nagy cửa xe. Cô nghĩ đến lúc cô tham tiền, thấy nói đến số tiền năm đồng nên cứ để cvho kẻ khốn nạn dung lọ dầu làm cớ để sờ vào trán cô, cổ cô, ngực cô. Rồi Mịch lại nghĩ đến kúc bị quan đốc- tờ bắt... lên nằm dài tô hô trên cái bàn đá. Sự tò mò đã vào hùa với sự dăm dục của loài người mà đập tan nát tất cả cái ý nhị thẹn thùng kín đáo của một cô gái quê ngây thưo. Để đến nỗi như thế, vì lẽ gì? Vì tham tiền, vì dại dột bước chân lên ôtô. Vì ngây thơ để cho con dê già bôi dầu vào trán, vào cổ...
         "Trời đất ơi, thì ả vì mình daih dột và tham lam!" Mịch nói một mình trong chăn, qua hai hàng lệ ràn rụa. Mịch sụt sùi, Mịch khóc nức nở. Mịch hối hận lắm, không còn mặt mũi nào nữa mà trông thấy người yêu. "Nếu anh ấy hiểu cho, thương cho, thì chẳng nói làm gì. Nhưng anh ấy do thế mà giảm lòng yêu hoặc lại nỡ rẻ rúng mình thì còn gì nữa? Mà nếu bị coi rẻ thì đó chẳng phải là lỗi tại mình, cái lỗi thấy tiền híp mắt lại mà ra đó ư? Trời ơi nhục!"
         Thị Mịch thổn thức hàng giờ. Chung quanh những bệnh nhân tòa là bà ký, bà thông, chẳng ai thèm hỏi đến Mịch. Có u thì u đã phải về vì hình như ở làng lại vừa có chuyện gì xảy ra...
         Nghĩ đến cái nghèo của bố mẹ, cái ý muốn bán gánh rạ để cho mẹ đỡ đầu tắt mặt tối nó gây ra việc bị hiếp... Mịch tủi thân , giận đời, chỉ muốn chết. Cô tưởng rằng ở đời cứ việc ăn ở cho hiếu thuận, làm ăn cho chăm chỉ, thấy ai túng thiếu thì không dè dặt cởi ngay hầu bao đưa ra cái đồng hào đã để dành trong mười ngày và không ngồi lê bắt chấy kháo chuyện nhà người , thế là đủ lắm. Bị hiếp chưa bao giờ Mịch ngờ lại có khi... Trong cơn đau khổ, cô thấy mình hồng nhan bạc mệnh, thấy đời là độc ác vô cùng, thấy chị em bạn gái trong làng là tồi tệ, thấy bố mẹ không đủ sức chống chọi, thấy Trời và Phật là những đồ thong manh.
         Michj không còn hy vọng gì nữa, không còn tín ngưỡng gì nữa.
         Thế là Mịch ngồi nhỏm dậy, dụi mãi cặp mắt đỏ hoe và bàng hoàng nhìn quanh... Thiên hạ kẻ nằm người ngồi , mỗi người đều là một thế giới riêng khiến cho Mịch lại càng cảm thấy mình là cô độc,lại càng lẻ loi, lại càng chơ vơ, lại càng một thân một mình trong cái đông người ấy.
         Lúc ấy đã quá trưa. Giờ yên nghĩ của kẻ bệnh. Giờ mà các cô hoặc các thầy khán hộ được ngủ tạm một giấc tại nhà mình. Giờ mà quan đốc không có mặt ở nhà thương vắng ngắt.
         Mịch lẳng lặng xuống đất, giẫm chân khong ra hiên. Cô đưa mắt khắp vườn tìm một cây nào có thể có một cành cao hưon đầu người được. Rõ khổ! Có cây ổi đấy nhưng mà hàng rào dâm bụt thưa thớt quá, người ngoài có thể nom vào được. Mich đứng thừ người. Rồi Mịch lại đi, đi thẳng vào gian nhà con là chỗ chuồng tiêu. Mịch mở cửa nhìn lên trần, thấy một góc tường có một ống máng bằng kẽm lại quay về phòng len lét nhìn quanh rồi nhắc theo một cái ghế đẩu nhỏ đem vào chuồng tiêu...
         Cánh cửa bị khóa bên trong.
         Hai con mối trên tương nom thấy người đàn bà trèo lên ghế đẩu, cởi cái thắt lưng đuỗi ra, chòng lọng hai đầu, quấn quanh cái ống kẽm...
         - Lạy thầy, lạy đẻ tha thứ cho con. Con đành cam tội bất hiếu.
         Giữa lúc ấy, trong phòng vẫn là sự im lặng uể oải của những bệnh nhân. Thốt nhiên có một hồi guốc lẹp kẹp vang lên, thầy khán hộ đi trước để cho một thiếu niên y phục nhũn nhặn vừa ngơ nágc theo sau vừa nhận một tràng những câu lầu nhầu gắt gỏng : "Cậu phải biết như thế này là rộng rãi cho cậu lắm. Lẽ ra phải đợi chốc nữa xin phép quan đốc mới được vào. Người ta đã lại cho mà không biết điều, còn giục ồn lên như bố người ta vậy!".
         Thiếu niên dịu dàng chối cãi:
         - Bẩm vì chúng tôi ở tận Hà Nội lên, chỉ được có ít thời giờ, phiền ông làm phúc hộ.
         Người khán hộ đến bên giường cô Mịch hỏi trống một câu:
         - Ô hay! Cái cô nằm giường này đâu mất rồi?
         Tuy lời hỏi là trống không, buông sõng, song cũng năm bảy cái miệng đàn bà nhanh nhảu nói đón:
         - Ấy , cô ta vừa ở đây mà ! Hay là ra đằng sau chăng?
         Một người khác cũng vu vơ thêm:
         - Cô ta đi đâu dễ đếnnữa giờ rồi... Ra đằng sau gì mà lại lâu thê!
         Người khán hộ ra cửa sổ trông ra vườn rồi lại quay trở lại hành lang nhìn trước nhìn sau. Quanh quẩn không thấy gì lạ, quay vào bảo người thiếu niên:
         - Cứ ngồi đấy mà đợi.
         Nhưng một bà phán nói "
         - Lúc nãy cô ả có đem theo. Như vậy chắc là ra vườn ngồi chơi mát ngoài vườn.
        Người khán hộ rít lên:
         - Ra vườn? ra vườn rồi à? Ồ lạ! Ai cho cái con nỡm ấy ra vườn? cái con nỡm ấy lại không nhớ lời dặn của quan đốc là phải kiêng gió máy hay sao?
         Nói xong, người khán hộ tất tả chạy đi, làm một vòng quanh cả cái khu nhà thương rộng rãi. Thiếu niên ngồi xuống giường ra ý mệt mỏi, chống tay lên trán, thừ người ra. Hai tai thiếu niên phải nghe đầy những câu của bọn bệnh nhân bình phẩm người yêu của mình , những là: nhà quê, đù đờ, ngẩn ngơ, dại dột, quê kệch, thôi thì đủ trăm thứ. Những người bình phẩm vô tình ấy không ngờ rằng người lại thăm cô Mịch chính là chồng sắp cưới của cô nên họ đã vô tình mà thành ra những người xấu bụng có tính gièm pha.
         Chợt thấy người khán hộ tái mặt chạy vào rầm rộ kêu lên một câu: "Bỏ mẹ! Lại có chuyện chẳng lành rồi", và vớ lấy một chiếc ghế đẩu cắm đầu chạy ra. Hết thảy những người trong nhà thương hoảng cả lên tung chăn nhảy xuống đất. Có một bà thông, vì không thấy dép, cứ để nguyên đôi bít tất giẫm phăng xuống đất, chạy theo người khán hộ. Rồi thì là những tiếng ghế đẩu phạng vào cửa chuồng tiêu thình lình...
         Cửa bật tung ra, hơn chục người đứng xem cùng một tiếng rú kinh khủng. Người khán hộ bắc ghế đẩu đã đổ lăn cạnh chỗ thị Mịch thắt cổ, trèo lên đỡ người khốn nạn, một tay tháo chiếc thắt lưng... Rồi ẵm phăng cô Mịch vào phòng nhà thương, vừa đi vừa nói rõ to: " cái nhà xí ấy có ma ấy mà! Năm ngoái cũng đã có một người thắt cổ chết, bà nào làm ơn réo ngay hộ tôi một cô khán hộ đi!". Giữa những câu nói đi nói lại xôn xao, người khán hộ cứ thản nhiên cởi khuy áo, cởi cả giải cổ yếm, cởi cả giải rút quần cô Mịch. Vừa lúc ấy, cô khán hộ đã bưng một chậu nước lạnh có một cái khăn bông vào. Người ta đập cái khăn bông ướt vào mặt cô bé lúc ấy không biết sống hay chết.
         Người ta lại để một ít bông trên mũi cô. Rồi cô khán hộ trèo lên giường, quỳ phía dưới chân cô gái quê, đẩy hai chân cho cô duỗi thẳng ra, rồi lịa co lại... Thầy khán hộ thì lên ngồi cạnh đầu, lôi hai tay bệnh nhân cho thẳng lên trời, lại đặt xuống giường, lại lôi lên y như bắt tập thể thao.
         Giữa cái lúc bi thương cũng có vài người đàn bà cho cái trò ấy là lạ mắt, là ngộ nghĩnh, mà há hốc mồm ra cười.
         Khi thấy hai rúm bông trên  lỗ mũi cô Mịch như có bị lay động một chút, cả hai người khán hộ mới nhảy xuống đất cùng reo lên một câu: "May quá!". Người ta bôi một ít thuốc đỏ sẫm vò cổ cô bé nhà quê, cái cổ đã có một ngấn thắt lưng. Dần dần Mịch mở mắt ra, ngơ ngác nhìn mọi người. Hai con mắt dại như mắt trẻ mới đẻ vậy.
         Thiếu niên từ nãy cứ ngồi dưới chân giường bưng trán, bây giờ mới dõng dạc mà nói với cả lũ ấy :
         - Thưa các bà , cô bé này là vợ sắp cưới của tôi. Nó bị tai nạn ra sao, chắc chắn các bà cũng đã rõ. Tôi  ở Hà Nội vừa lên thì thấy cơ sự dường này.Thật là nhwxng sự xét đánh ngang tai tôi. Mà nó sống sót, vậy xin các bà hãy làm ơn lui gót để cho vợ chồng chúng tôi có thể được cùng nhau trò chuyện riêng vài phút, và tôi xin rất cảm tạ sự săn sóc của các bà.
         Thấy người chồng của cô gái quê ngu đần, dại dột, ngờ nghệch ấy, mà lại có giọng ăn nói cứng cỏi đến như thế, ai cũng lấy làm ngạc nhiên. Người ta bèn gật gù rủ nhau sang phòng khán hộ hỏi về cái chết của người đàn bà thắt cổ chết trước kia ra làm sao, để sợ hãi với nhau cho đỡ buồn.
         Khi gian phòng chỉ còn có hai người, Mịch hổn hển khẽ nói:
         - Anh Long ơi, tôi xin lỗi anh...
         Long cúi xuống, ứa nước mắt hỏi:
         - Mịch ơi, sao lại đến nông nỗi thế? Mịch không nghĩ đến công cha nghĩa mẹ nữa à? Mịch không nghĩ đến người chồng của Mịch rất yêu thương Mịch, có thể chết được nếu Mịch chết à?
         - Lạy anh, anh tha cho, tôi xấu hổ quá.
         - Sao lại nghĩ lẩn thẩn như thế?
         - Thưa anh, tôi không dám nhìn mặt anh nữa.
         - Thôi đi, đừng nói dở như vậy mà anh lại càng thêm buồn.
         - Tôi chỉ sợ vì những sự bất hạnh của tôi, mà anh đem lòng rẻ rúng tôi. Cho nên tôi tủi thân , tôi giận đời, tôi chỉ muốn chết đi cho rãnh.
         - Có phải lỗi tại Mịch đâu mà anh rẻ rúng Mịch được?
         - Xin anh cam đoan là thương hại tôi mãi mãi đi! Anh Long ơi, nếu bao giờ anh mất lòng thương tôi thì tôi sẽ phải chết mất anh ạ. Tôi khổ sở lắm, chán đời lắm anh ạ.
         - Anh cam đoan vẫn yêu quý Mịch như trước, yêu quý mãi mãi, yêu quý suốt đời. Anh lại cam đoan là sẽ rửa thù cho Mịch nữa, vì rằng cái nhục của Mịch tức là một vết nhị trên trán anh. Rồi thì anh cũng phải làm thế nào rửa cho sạch cái vết nhọ ấy thì mới có thể trông thấy mọi người được. Thôi đi, đừng khóc nữa.
         - Chúng ta nghèo hèn lắm, làm gì được?
         - Nó dung tiền bạc và thế lực thì ta sẽ dùng mưu sâu. Anh đã nói Mịch sẽ trả được thù thì rồi thế nào Mịch cũng rửa được thù. Anh làm công cho con giai lão nghị ấy , chuyện gì anh cũng có thể hiểu biết được. Mà con lão chỉ biết là chủ anh chứ không biết rằng người con gái mà thằng bố nó đã hiếp lại là vợ chưa cưới của anh. Như vậy thì cũng không khó Mịch ạ. Thế hôm nào hết hạn nhà thương mà về được nhà?
         - Hình như còn ngày mai nữa thôi.
         - Mịch nên xin về ngày hôm nay thì hơn.
         - Vâng, để rồi tôi xin.
         Hai người cầm tay nhau , nhìn nhau một cách rất đỗi yêu thương. Sự căm hờn chung làm cho cả hai đã lẳng lặng và sự lẳng lặng thề thốt với nhau lại ý nhị hơn cả bằng lời nói nữa. Dẫu sao , họ cũng thấy một vẻ sung sướng riêng trong những cơntai họa tài đình.
         Nhưng chẳng may bà đồ Uẩn phá tan ngay mất cái phút hiếm có ấy. Bà bước vào nói rầm lên rằng:
         - Quái lạ thật! Một ít giấy in chữ tím với hai mảnh vải tây đỏ thì làm cái gì mà quan cũng về bắt khám xét cả làng là nghĩa làm sao? sao lại gọi là đồ quốc cấm?
         Long đứng lên kêu:
         - Thôi chết rồi!
         Mịch hỏi:
         - Làm sao hở u? Làm sao hở anh Long?
         Bà đồ nói tiếp:
         - Mấy trăm tờ giấy với hai miếng vải tây đỏ không biết đứa nào vất vào làng mà quan huyện cũng về khám lungc tung cả lên.
         - Có bắt ai đi không?
         - Quan nói với ông đồn bảo ông chánh hội với ông lý trưởng lên xe tu-bin về huyện.
         Đáp xong, bà đồ ngẩn người ra nhìn con rể, miệng tròn như chữ O.
                                                                     CHƯƠNG VI
         Buổi chiều hôm ấy, nhân dân huyện Cúc Lâm nhôn nhao đồn đại nhau rằng có một vị quan to nào đã về thăm huyện. Người nói đó là quan công sứ về hiểu dụ. Kẻ kêu đó là quan thống sứ về kinh lí. Lại có kẻ cam đoan đó chỉ là mộot quan nghị người Nam. Người ta chỉ thoáng trông một chiếc xe hơi hòm nghênh ngang tiến đến cửa huyện, rồi một người to nhớn, quần áo tây màu đen bước xuống chạy tọt vào huyện... Lúc xuống xe, ông chủ xe đã được người tài xế quần áo dạ tím, mũ lưỡi trai, xuống từ trước để mở cửa xe. Người ta chỉ thấy cái hình thức uy nghi ấy mà thôi chứ không rõ mặt mũi ông chủ xe như thế nào. Cho nên có những lời đồn đại huyên thuyên kể trên.
          Chính thật ra, đó là nghị Hách, vì ông tri huyện Cúc Lâm có giấy gọi. Công cuộc điều tra của một ông huyện sở tại hình như đã kết liễu. Nhưng mà giấy gọi chỉ dùng một giọng dè dặt, gọi kẻ bị nghi là can phạm lên huyện nói chuyện chứ khkông phải là trát bắt lên.
         Chẳng thèm đợi lệnh , cũng không báo cho lính nữa, nghị Hách cứ xồng xộc chạy thẳng vào huyện đường. lúc ấy, trước bàn giấy quan huyện có hai người nhà quê, y phục ra lối tổng lý. Ông huyện phán:
         - Các thầy cứ về. Phải bảo tuần tráng canh phòng cho cẩn mật để chờ có trát nữa thì tức khắc phải lên ngay.
         Hai người nhà quê dạ lui ra. Ông huyện truyền lệnh kéo ghế mời nghị Hách ngồi.
         - Bẩm, quan lớn có giấy gọi chúng tôi về việc gì thế ạ?
         - À, nguyên vừa rồi có hai lá đơn kiện ông chủ một chiếc xe hơi có làm một việc nài hoa ép liễu. Tôi là quan sở tại, tôi có phận sự mở cuộc điều tra. Cho nên có giấy gọi ngài.
         - Bẩm, chúng tôi xin chờ lệnh quan lớn.
         Quan huyện quay tìm một tập bìa vàng trong đống giấy má, lấy ra để trước mặt, giở từng tờ một và hỏi nghị Hách:
         - Hôm mười sáu ta vừa rồi, vào lúc đã khuya hình như ngài có đáp xe hơi về Hà thành?
         Nghị Hách để tay lên trán, làm ra vẻ nghĩ ngợi hồi lâu rồi đáp:
         - Bẩm vâng.
         - Xe hơi của ngài số 2 vạn 4 nghìn 8 trăm bảy mươi nhăm có phải không?
         - Bẩm không phải. Mười nhăm chứ không phải bảy mươi nhăm.
         - Được ạ. Tôi đã cho hỏi người gác ba đen cầu Đọ thì đêm hôm 16, có một chiếc xe hơi hòm số 2 vạn 4 nghìn 8 trăm mười lăm chỵa qua.
         - Bẩm thế sao nữa ạ?
         - Không có gì nữa ạ. Cảm ơn ngài, ngài có thể về được rồi.
         - Quan lớn cho chúng tôi về?
         - Vâng.
         - Thưa ngài, thế bên nguyên đơn kiện tôi ra làm sao?
         - Ấy họ đại khái như ngài...đã bíêt.
         Lạnh lùng viên tri huyện đứng lên.
         Nghị Hách cũng cười nhạt đứng lên cầm lấy cái mũ quả dưa, mặt bẽn lẽn...
         - Bẩm quan lớn, ngài muốn trị tôi thẳng tay đó hay sao?
         Ông huyện cười xã giao mà rằng:
         - Trị ngài à? Tại sao lại thế nhỉ? Tôi tưởng tôi với ngài, chúng ta không có điều gì thù hằn thì phải.
         - Bẩm, vậy mà cái thái độ của quan lớn lạnh lùng đến nỗi chúng tôi phải có ý nghĩ ấy.
         - Đó là ngài nhầm!
         - Thưa quan lớn, đến quan tổng đốc và công sứ tỉnh nhà cũng không nỡ xử với tôi như thế.
         Ông huyện trẻ tuổi giơ tay ngăn mà rằng:
         - Bản chức đã bíêt! Ngài là một người giàu có, nhiều thế lực. Chỉ vì thế mà bản chức phải lãnh đạm...
         - Bẩm quan lớn, hay ngài xử hòa cho chúng tôi?
         - Việc này tôi cũng nghĩ thế đấy. Nhưng mà về sau, tôi lại nghĩ rằng để quan lớn tỉnh xử hòa thì hơn. Là vì cái quyền hạn của chúng tôi hẹp hòi lắm. Có việc gì xảy ra, chúng tôi chỉ được nở cuộc điều tra rồi bẩm lên quan trên mà thôi. Mà một vụ kiện hiếp dâm lại thuộc về luật hình.
         Nghị Hách đỏ mặt, ấp úng:
         - Thưa ngài, thế trong đơn họ kiện tôi là hiếp dâm?
         - Tôi cso làm biên bản đâu? đấy ngài xem, nếu có biên bản, tôi đã mời ngài phải ký một chữ chứ?
         Hai người nói đến đấy thì đứng cúi đầu trứơc bàn giấy, mỗi người bận về một ý nghĩ. Nghị Hách thì chưa bíêt nên nói ra sao cho khéo léo, còn ông huyện thì cũng đứng im là vì muốn tống khứ nghị Hách đi đi, vì ngài còn bận lên tỉnh. Hồi lâu, nghị Hách nói:
         - Thưa ngài, sự thật thì không như trong đơnkiện. Bên nguyên đơn đã vu cáo.
         - Làm sao ạ?
         - bảo là hiếp dâm thì thật là vu oan. Thưa ngài, lúc ấy xe hơi của chúng tôi liệt máy, phải chữa trong hai ba tiếng đồng hồ. Giữa lúc tôi buồn, thình lình con bé ấy dẫn xác đến. Ngài cũng thừa biết cho dẫu là người tai to mặt nhớn đến thế nào đi nữa thì cũng phải có lúc giăng gió một chút, cái ấy là trời sinh ra. Toi hỏi con bé, nó đã bằng lòng... nó cũng như là một đứa gaing hồ, mà cái việc xằng bậy của tôi cũng chỉ là của một người khônghoàn toàn đứng đắn mà đi chơi bậy đêm mà thôi.
         Ông huyện lại quay về sau bàn giấy, giở cái bìa vàng ra mà rằng:
         - Đây là giấy nhận thực của viện Y sĩ, giấy nhận thực cho thị Mịch... là...
         Nghị Hách cúi xuống xem rồi nói:
         - Giấy này cũng không đủ buộc tội đâu. Quan lớn xem lại mà xem!...Nhận thấy rằng con bé ấy mất tân (constate que la dite fille à perdu savirginité... )dòng chữ ấy vô nghĩa.Lúc khám thì viên y sĩ thấy rằng đã mất tân! Câu vu vơ ấy đủ cho thầy kiện chúng tôi cãi rằng có thể người con gái đã mất tân từ trước khi gặp tôi kia rồi. Bẩm quan lớn, nếu việc xảy ra to thì tôi sẽ chống án lên thượng thẩm, mà bên nguyên đơn thì không thể chạy thầy kiện như tôi.Bẩm quan lớn, nén bạc đâm toạc tờ giấy, ngài nên bảo nguyên đơn giải hòa.
         - Người ta chưa nói gì đến việc xin bồi thường, chỉ nói là xin trị kẻ có tội để rửa nhục cho người con gái mà thôi.
         - Bẩm quan lớn, chúng tôi xin nói thật rằng chúng tôi không thua cái kiện này đâu.Nghĩa là việc lên đến quan sứ thì chúng tôi chỉ hơi phiền lòng mà thôi, chứ thua thì không có thế. Vậy mong quan lớn gọi nguyên đơn lên bảo là nên giải hòa.
         - Bản chức cứ biết bẩm tỉnh đã.
         Nghị Hách đứng thừ người ra hồi lâu rồi nói rằng:
         - Thưa quan lớn, cánh đây ít lâu, tôi có sai người nhà lên điều đình một việc với quan lớn...
         - Cái đó tôi có biết.Người đàn bà ấy cũng đã khôn khéo lắm lắm, song tôi không thể làm vui lòng ngài được.
         Rồi ông huyện lảng chuyện bằng cách phán cho tên lính lệ:
         - Bảo xà-ích đáng cái xe ngựa ra để tao lên tỉnh đi mày.
         Tên lính lệ dai một rồi chạy thụt vào cửa sau, nghị Hách lại nói:
         - Quan lớn tiết kiệm quá nhỉ? Sao ngià lại chưa tậu ôtô?
         - Tôi không có nhiều tiền như những ông quan khác.
         - Bẩm quan lớn, ngài thử trông cái xe của tôi đây kia xem.
         Ông huyện quay nhìn ra chỗ cái xe hòm, hỏi lại:
         - Làm sao?
         - Nếu chính quan lớn mua giúp cho thì tôi xin để lại bằng một giá rất rẻ.
         - Nếu quan lớn dùng đến thì tôi chỉ xin lấy hai trăm thôi. Lúc mới mua giá nó ba nghìn tám đấy ạ. Một chiếc xe hiệu Avion Voisin...
         -...
         - Nhưng mà trong giấy thì cứ biên là quan lớn mua lại những hai nghìn.
         -...
         - Bẩm quan lớn, hay là ngài đi thử một chốc? Để chúng tôi cầm hầu ngài lên tỉnh, rồi xong việc quan lại cầm hầu ngài về huyện? Nếu quan lớn muốn đi thử thì để bảo xà-ích thôi đừng gióng ngựa nữa.
         Ông huyện đứng nghĩ một lát mỉm cười nói:
         - Vì việc tôi cần lên tỉnh sớm nên tôi bằng lòng đi xe hơi của ông, thế thôi. Còn tậu lại thì không, dù là ông chỉ để lại cho tôi bằng một đồng bạc. Nếu tôi định bụng kiếm chác gì ông, thì từ hôm nọ, tôi đã nhận lời với người đàn bà mà ông đã phái lên điều đình rồi còn gì!
         Thế là ông huyện để cho nghị Hách bẽn lẽn mà dẫn mình ra xe. Cùng theo lên xe của nghị Hách với ông huyện còn có cả một bác lính cơ tay ôm cặp công văn dày một tấc nữa.
         Xe chạy độ mười phút thì đã tới tỉnh lỵ.
         Ông huyện vào phòng giấy quan tổng đốc, còn nghị Hách thì đi đi lại lại ngoài sân tòa án. Lúc vào, vừa khép cửa, ông huyện đã thấy quan tổng đốc hỏi:
         - À thầy huyện! Thế việc truyền đơn cờ đỏ ở làng Quỳnh thôn ra làm sao?
         Ông huyện khoan thai thưa lên:
         - Bẩm cụ lớn, trong biên bản tôi đã có trình rõ ràng lắm.
         - Thế vụ thuế tháng mười này thế nào?
         - Bẩm, thu được đủ cả.
         - Thầy huyện chỉ bẩm lên có thế?
         - Bẩm, còn việc một thầy đồ với lý dịch làng Quỳnh thôn kiện một người về tội hiếp dâm.
         - Hiếp dâm? Đầu đuôi như thế nào?
         - Bẩm cụ lớn, biên bản tuy vắn tắc nhưng đủ rõ ràng lắm.
         Quan tổng đốc cúi xuống tập bìa vàng. Nét mặt quan luôn luôn thay đổi. Maud da mặt lúc tái đi, lúc lại đỏ bừng lên. Sau nữa tiếng đồng hồ, quan ngẩng lên nhìn viên tri huyện, tiếng đồng sang sảng:
         - Này, thầy huyện! Thầy ở Ba Lê đã đỗ luật khoa tiến sĩ...
         Biết là có chuyện, ông huỵên ngẫm nghĩ một lúc rồi cứng cỏi đáp:
         - Bẩm vâng, quả có thế thật!
         - Ở bên Tây, thầy đã diễn thuyết và biểu tình với ông văn sĩ Romain Rolland về việc chính trị phạm Đông Dương?
         - Bẩm vâng!
         - Cho nên thầy không bíêt mở cuộc điều tra, cho nên thầy không đủ tư cách làm một viên tri huyện!
         Quan tổng đốc nói đến đấy thì đứng lên, tay khoanh trứơc ngực. Ông huyện đỏ mặt lên. Nhưng vẫn khoan thai mà thưa rằng:
         - Bẩm chúng tôi có lỗi gì ạ?
         Quan tổng đốc chân tay run lên bần bật, hai bên má như bị hai cái gân tai ác giật lấy giật để, làm một hồi dài:
         - Cứ riêng về việc truyền đơn của làng Quỳnh thôn cũng đủ tỏ ra thầy làm quan mà không bíêt luật. Dù là chưa tìm thấy kẻ làm việc ấy, thì thầy cũng phải biết giam bọn lý dịch cái làng ấy lại chứ? Thầy không nhớ trong hình luật có khỏan buộc lý dịch mỗi làng phải chịu trách nhiệm về mỗi việc rối cuộc trị an xảy ra trong làng hay sao? Thầy lấy cớ gì mà để yên cho chúng? Sao thầy làm bậy bạ thế?
         - Bẩm cụ lớn, chúng tôi đã xét kỹ rằng dân huỵen tôi còn ngu dốt lắm, không thể làm những việc ấy được, mà làng Quỳnh thôn lại là một làng còn ngu dốt hơn hết. Đó chỉ là jẻ nào ở nơi xa đến làm vịêc ấy mà thôi. Đã biết mà còn bắt, sợ oan cho dân sự.
         - Thầy đừng nói là biết ! Cái lão đồ làng Quỳnh thôn dám dạy 6 đứa trẻ mà không xin phép mở trường như vậy là sai nghị định nhà nước, là phải bắt tống giam, vậy mà thầy không hiểu một tí gì cả! Ông đồn về khám, khi qua nhà lão đồ, đếm được sáu đứa học trò đã có phàn nàn việc ấy lên quan sứ rồi. Như vậy là sao nhãng?
         - Bẩm lúc khám cả làng thì công việc ồ ạt, nếu vậy thì tôi trót sơ ý.
         - Thầy sơ ý như thế thì dân nó nổi loạn à? Đã làm tri huyện thì nội trong huyện, nhà nào có mấy con gà thì thầy cũng phải biết mới được.
         - Bẩm cụ lớn , tôi xin cam chịu lỗi.
         - Lại còn áci việc bẩn thỉu, cái việc hiếp dâm này nữa. Thầy phải biết rằng ngoài cái sổ thám tử cảu thầy lại còn có thám tử của tòa sứ nữa, dưới quyền của tôi, cũng mở cuộc điều tra! Cái dân dưới quyền thầy vì nhiễu phải tư tưởng phản nghịch, vì cái nhu nhược của thầy, có lẽ vì cả những tư tưởng của thầy có ở Ba Lê mà thầy đem theo về đây nữa, đã hùa vào nhau căm hờn những người giàu có, bảo người ta là tư bản thì là xấu xa lắm, rồi vu oan giá họa cho người ta. Thầy làm quan như thế là ngu! Đây này, thị Mịch kèm theo cái số tiền 5 đồng trong đơn kiện là nghĩa lý gì? Người ta hiếp dâm nó mà nó lại nhận tiền à? Lý luật thầy để đâu mà thầy cai trị dân như thế? Thầy phải bắt giam con bé ấy lại mà gửi về nhà Lục sì Hà Nội chứ? Thầy làm quan như vậy là làm lọan! Để tôi trình lên quan đổi thầy đi Sơn La để cho thầy bíêt thân mới được. Quan sứ cũng không bằng lòng thầy!
        Ông huyện cúi dầu 15 phút rồi ngẩng lên cười nhạt, nói:
         - Bẩm cụ lớn, tôi tưởng ra làm quan được thì tôi làm được một việc ích nước lợi dân! Bây giờ như thế này, tôi mới biết là tôi đã nhầm...
         - À thầy huyện! Thầy dám khách cự người bề trên như thế à?
         - Cụ lớn cho tôi nói nốt. Vâng quả là tôi có nhiều tư tưởng không hợp với chế độ cũ. Bẩm cụ lớn, nhưng mà không phải tự tôi đi chạy chọt cái tri huyện.
         - Thầy như vậy là hại dân, hại nước! Thầy không chịu hòa giải một việc nhỏ mọn như thế, vậy thầy thấy người ta có máu mặt thầy xoay à?
         - Bẩm cụ lớn, nhà nước không cần phải đổi tôi đi xa! Dù tôi không đi làm quan thì tôi cũng không chết đói ạ. Bẩm cụ lớn, chẳng phải nói khoe gì, quan thầy của tôi trong đảng xã hội nay mai có sang nhận chức tòan quyền thì lúc ấy tôi lại sẽ làm quan cũng không muộn ạ. Mà nếu có phải làm quan, tôi sẽ cũng không làm quan huyện nữa.. Tôi xin cam đoan trước với cụ lớn như thế. Thế thì xin cụ lớn biết cho là ngay bây giờ, phải, ngay bây giờ, tôi xin có lời trả lại cái tri huyện cho nhà nước! Ngày mai thì sẽ có đơn từ chức của tôi hẳn hoi.
         Quan tổng đốc ngẩn người ra hồi lâu rồi diụ giọng:
         - Thầy nói thật đấy à?
         - Bẩm cụ lớn, chúng tôi lại dám nói đùa thế à?
         - Ở đời này, không nên ương ngạnh quá thế, tôi bảo thật.
         - Bẩm, nào có phải tôi ương ngạnh! Chúng tôi hiểu rồi, vì đã làm tri huyện một năm rồi. Như cái việc híêp dâm này là do tài xế của ông nghị ấy về Hà thành, vào một tiệm thuốc phiện kháo chuyện, không may lại vớ phải một thằng con riêng của ông nghị ấy. Thằng con ấy, một đứa con vô lại muốn xoay tiền bố, cứ gào choáng mãi lên, kêu đòi thần công lý của quan sở tại, là tôi. Cho nên bây giờ sau khi bị cụ lớn khiển trách thế này, thì tôi lấy làm xấu hổ cho cái thần công lý của tôi lắm.
         - Nếu thế ra biên bản của thầy là đúng?
         - Thôi đựơc, cụ lớn bảo là sai thì nó là sai. Tôi cũng không cần cãi nữa, vì tôi đã xin từ chức rồi. Để tôi mở một phòng luật sư và một cơ quan ngôn luận bằng chữ tây, lúc ấy rồi tôi xin đáp lại cụ lớn và cái chế độ quan trường hiện nay. Thưa cụ  lớn, khi người ta không phải là kẻ vô học thì người ta muốn làm gì cũng được.
         Quan tổng đốc, ý chừng nghĩ đến cái bước làm quan tắt của mình, nên tái mặt đi, tức không nói được nữa.
         Lúc ông huỵên ra tới sân thì thấy nghị Hách đương nói với một thầy phán: " Nó kình địch với tôi thì tôi sẽ làm cho nó mất cái tri huyện!".
         Ông huyện tuy vậy cũng làm như không nghe tiếng và cứ gọi rõ to:
         - Kìa, quan lớn nghị! Ngài không đánh xe trả tôi về huyện à?
                                                                  CHƯƠNG VII
         Đến trước bàn giấy ông giám đốc Đại Việt học hiệu là Tú Anh, ông chủ rất trẻ tuổi của mình, Long mở quyển sổ lớn, cầm bút chì dò vào cột chữ số vừa đọc vừa nói:
         - Thưa ông, tính đến mồng 10 này thì số tiền học phí thu được cũng đã khá lắm. Năm thứ tư, học sinh trả hết cả. Năm thứ ba, năm thứ hai và thứ nhất chỉ độ mươi học sinh tất cả khất đến cuối tháng. Còn lớp nhất thì 25 học sinh thiếu tiền, lớp nhì 7 người. lớp ba 16 người. Còn lớp dự bị và lớp đồng ấu thì vì ông chưa ra lệnh giảm 10 hay 30 phần trăm nên chưa thu.
         - Mai thì thầy thu một lượt đi. Hạ cho các cô cậu ấy 30 phần trăm học phí. Còn cái bản thống kê của thư viện thì ra sao?
         Long lại giở một giấy đánh máy, nhìn vào rồi đáp:
         - Tháng này có hai trăm học sinh mượn sách của thư viện, trong số đó thì sáu phần mười đọc tiểu thuyết tình, bốn phần đọc truyện trinh thám, mà chỉ có hai phần mượn sách học mà thôi.
         - Thế số tiền học phí thu được bao nhiêu?
         - Bẩm tổng cộng năm trtăm sáu mươi tư đồng.
         Ông giám đốc thở dài một cái rồi bảo:
         - Thôi được, thầy lên mà ăn cơm.
         Long cúi chào rồi quay ra được mươi bước, thì ông chủ trẻ tuổi lại gọi lại:
         - À này, hay thầy hộ tôi một việc này đã nhé!
         - Vâng.
         - Thầy đừng ăn cơm nữa, lấy ở két một đồng bạc mà đi ăn hiệu. Nhưng mà trước khi ăn thì hãy lại cái tiệm thuốc phiện chú Sếch ở hàng Buồm hộ tôi một việc này đã.
         - Bẩm vâng.
         - Đây này, thôi thì chắc thầy cũng chẳng lạ gì cái việc bậy bạ của ông cụ nhà tôi mà vừa rồi tờ báo lưỡng Kỳ nó đăng tin lọan cả lên...
         Long làm bộ ngơ ngẩn mà rằng:
         - Bẩm việc gì thế ạ? Thưa ông, quả độ này tôi không độc báo.
         Ông chủ ấp úng:
         - Nguyên ông cụ nhà tôi... ông cụ nhà tôi... vừa rồi có làm một việc nài hoa ép liễu, kể cũng bậy bạ lắm. Thế rồi cái thằng con riêng của ông cụ , một thằng con mất dạy mà ông cụ không nhận nữa, không biết làm thế nào lịa rõ việc ấy... chẳng bíêt nó là đứa trông mồm trống miệng hay là vì nó thù ông cụ mà nó cứ rêu rao lên cho mọi người biết cái chuyện xấu hổ ấy. Hôm qua tôi có đến tiệm tìm nó thì lại không gặp, vậy bây giờ thầy lại tìm nó giúp tôi. Tên nó là thằng Vạn, nhưng mà thiên hạ cứ quen gọi là thằng Vạn Tóc Mai. Thầy tìm được nó rồi thì khẽ bảo với nó đại khái rằng tôi, Tú Anh, con trai trưởng cụ nghị Hách, nghĩa là anh em cùng cha khác mẹ với nó, muốn mời nó lại chơi để bảo nó rằng: Nó đừng rêu rao ông cụ nữa thì chính tôi, tôi sẽ xin với ông cụ cho nó được hẳn một cái nhà. Thầy nói thế rồi kéo ngay nó về đây cho tôi.
         - Vâng.
         - Thầy nên khôn khéo một chút nhé, thằng ấy nó vô nghĩa lắm.
         - Vâng, thế thì tôi chợt  nhớ ra chuyện ấy rồi. Chuyện xảy ra hình như cũng đã quá nửa tháng. Mà nghe đâu như cụ nghị nhà ta đã bỏ ra những năm trăm đền cho bố mẹ co gái quê vừa rồi cơ mà?
         - Cái gì? Ai bảo thầy thế?
         - Thiên hạ đồn nhau thế thì phải.
         Ông giám đốc thở dài một cái, mình tự nhủ mình: " không còn một ai là không biết nữa!". Rồi nói với người thư ký:
         - Không, đấy là họ đồn nhảm. Ông nghị nhà tôi sẽ cưới cô bé ấy làm vợ lẽ thì mới là đền bù được cho cả một đời bị hại của người ta.
         Long tái xanh mặt, vội quay nhìn ra phía khác rồi cúi xuống đất nhặt một cái đanh ghim để giấu đi sự xúc động rất mạnh đã hiện ra cả thần thái. Hồi lâu, chàng hỏi chủ:
         - Bẩm lấy làm vợ thì phải có phép cưới hẳn hoi?
         - Phải.
         - Mà lại có cả cụ nghị bà ưng thuận?
         - Cái đó đã hẳn. Lễ cưới sẽ rất trọng thể, rất linh đình.
         - Bẩm. chính cụ nghị ông muốn lấy người gái quê ngu đần ấy về làm thứ phòng mà ông không phản đối?
          - Sao tôi lại phản đối? Ấy là chính tôi, tôi bắt ép ông cụ nhà tôi phải xử sự như thế cho bõ với cái lúc càn bậy, chứ có phải ông cụ tôi muốn thế đâu!
          Long gượng cười mà rằng:
          - Thưa ông, tôi tưởng chẳng cần phải thế. Cứ đền cho họ vài trăm bạc họ muốn lấy ai thì lấy có được không?
         Ông chủ trẻ tuổi so vai nghiêm khắc mà nói rằng:
         - Thầy đừng nói càn!Cái tân tiết của một người con gái, dù là gái quê ngu đần, thì cũng là đáng quý lắm. Ông cụ ấy đã phá tân người ta, thì ông cụ ấy phải lấy hẳn người ta. Mà lấy làm bà hai hẳn hoi chứ không phải là mua về làm hầu như những người khác.
         Long xoa tay, lễ phép hỏi lại:
         - Bẩm xin ông tha lỗi cho, thế ngộ người ta không bằng lòng thì sao?
         - À, cái ấy có thể xảy ra được lắm, vì bố người ta cũng là nhà nho hẳn hoi, mà một nhà nho thì vẫn khí khái lắm. Nhưng mà tôi tưởng việc ấy rồi thành được. Là vì cái kiện theo đuổi còn dở dang thì chẳng may cho ông đồ lại bị quan đồn truy tố về tội không xin phép mà lại mở trường tư. Ông ta dạy sáu đứa trẻ con, nghĩa là sai nghị định. Hiện giờ thì ông đồi vẫn được toại ngoại hậu cứu, nhưng nay mai thì tòa án xét xử thì thế nào rồi cũng phải tù. Nếu phỉ tù thì tất cả cái gia đình ấy cần tiền, mà tôi bảo ông cụ nhà tôi đem nghìn bạc đến thì còn gì mà chả cưới được! Vừa lấy một người đã trót ngủ với mình làm chồng lại vừa có tiền chạy chọt cho bố thì có phải là một việc nhất cử lưỡng tiện không?
         - Bẩm thế đã bị bắt chưa ạ?
         - Chỉ thấy nói bị truy tố chứ bị bắt chưa thì không hiểu.
         Nghe đến đó, Long cúi đầu xuống, lo sợ, không thể giấu được nét mặt nữa. Chân và tay của chàng đều run bần bật lên. May sao ông chủ của Long ngắt chuyện mà giục chàng:
         - Ô hay, thầy đi ngay đi chứ?
         May quá, Long làm ra bộ hấp tấp chạy ra ngòai Đại Viện học hiệu. Chàng gọi xe, bước lên, bảo phu kéo đến phố hàng Buồm. Câu chuyện Tú Anh vừa hở kể lại khiến cho chnàg như cái đồng hồ đứt mấy giây tóc. Nhưng chnàg cứ phải cố giữ nét mặt điềm tĩnh cho khỏi hớ trong công cuộc dò la.
         Xe đỗ trước một hiệu phở nhỏ. Một ngọn đèn đất leo lóet chiếu vào một con gà, một miếng thịt bò, vài dây ớt đỏ với mấy cây rau cải làn, rau cần tây. Hiệu vắng vẻ như bãi sa mạc. Chủ hiệu, một chú khách đang ngồi ngủ gật, hút một cái điếu thuốc lá lào. Long nói:
         - Xin phép chú, tôi lên trên chú Sềnh.
         - Hẩy lớ!
         Long thoăn thoắt bước qua bốn cái cái bàn, một cái bếp, thì đến một chỗ tối om. Trong tối, hiện ra tỏ tỏ mờ mờ một dãy mười cái buồng, mỗi buồng có cái phản, mỗi phản có cái màn xếp che, mỗi màn xếp có treo một xâu cá mắm mực. Buồng nhau cũng cách nhau bằng một lần cót, buồng nào cũng có một cái hỏa lò bốc khói xanh mù. Tiếng trẻ con khóc, tiếng mỡ nổ lanh tanh trong sanh đồng, tiếng chó con bú mẹ un ủn, cắt nghĩa rằng trong chổ tối tăm ấy có mười gia đình hẳn hoi. Một thứ mùi tanh tanh rất khó tả bảo rằng mười gia đình ấy là gia đình khách trú.
         Long cứ vẫn bừa lên lớp bùn quánh giữa lối đi, không sợ bẩn đến gấu quần. Đến một cái thang gỗ nhỏ, chàng đứng lại, nhìn lên. Trên gác lụp xụp chỉ có một thứ ánh sáng héo hắt,thấy vang lên những tiếng ro ro, do những cái cổ họng anh hùng kéo thật khỏe.
         Long, vì là lần đầu tiên, nên rón rén lên thang. Vừa lên đến bậc nhất, đầu chàng vập phải cái rầm đáng bốp một cái. Cũng giữa lúc ấy có ngay một chuỗi cười vang lên. Tiếng cười lẫn lộn của cả ta, Tây đen, khách, Tây trắng. Long đứng lại, đỏ bừng mặt, nhưng không phải họ cười cái đụng đầu của chàng. Vì rằng sau chuỗi cười kỳ lạ và hỗn độn ấy, tức khắc có một giọng khàn khàn nói rất to:
         - Ồ, thật đấy mà! Cái thằng cha ấy nó đẻ ra moa chính là một phút điên rồ của xác thịt đấy! 
         - Ha ha ha ! hà hà hà!... hi hi hi!...
         - Cũng vì thế mà lúy bỏ ma me, để ma me nghèo, chết, rồi bây giờ lúy lại chực từ chối nốt cả moa! Các đằng ấy bảo vì lẽ gì tớ lại không rửa thù? Lúy đẻ ra moalúy chẳng bao giờ thèm nghĩ đến moa cả!... Cái tiếng dâm của nghị Hách thì đã lừng lẫy cả mấy tỉnh!
         Long nhìn vào thì người vừa nói những câu ấy là một thiếu niên mặt mũi võ vàng, hai bên tai có bộ tóc mai rất to, mặc áo gấm lam ngoài phủ một cái áo dạ vai vuông, cái đầu tóc hung hung đỏ và quăn quăn kê lên trên mông một thiếu phụ mặt bẹ những phấn mà môi lại tái nhợt, tóc búi cổ đeo kiềng, quần áo lối mới, cổ áo bánh bẻ, cũng có ba đờ suy đờ vin hẳn hoi. Trước mặt cặp ấy là hai thiếu niên áo quần cực kỳ sang trọng. Các phản khác đầy những nhân viên làng bẹp. Năm người Việt Nam, tám người khách trong số đó có hai ả Sam, một lính Tây tắng và ba lính Tây đen và mụ đầm gần già...
         Nói xong thiếu niên hôn vào đùi thiếu nữ đánh chụt một cái, vỗ về người yêu một hồi mà rằng:
         - Bây giờ ở trên đời này moa chỉ có ma Quỳ này là thân yêu ! Ô hay! Trô đi các ngài? tự tử bằng thuốc phiện là nhất, nhất nhất!
          Long đến bên cạnh, lễ phép hỏi:
          - Xin lỗi, ngài là ông Vạn có phải không?
         Vạn tóc mai méo sệch cái mồm, cả cười mà rằng:
         - Sao biết?
         Rồi điềm nhiên bẩo nhân tình:
         - Mình cứ việc đi trô cho thật đủ, cho thỏa thích. Chốc nữa chúng ta sẽ đi nhờn ở hiệu nem.
         Hai người quần áo lịch sự cùng nằm quanh cái tĩnh ấy đã ngồi lên dẹp chỗ cho Long. Vận tóc mai bây giờ mới lại hỏi:
         -Ừ, sao đằng ấy lại biết tên tớ? Đằng ấy muốn hỏi gì?
         Long ngồi xuống giường đáp:
         - Tôi là người làm của trường Đại Việt,nghĩa là của ông Anh. Ông ta sai tôi đến đây tìm ông mời ông lại chơi có việc cần.
         Cô ả nằm dưới đầu Vạn tóc mai đánh một câu:
         - Làm chó gì có việc cần! Cái thằng cha ấy hưởng gần hết gia tài của chúng tôi, bây giờ gọi đến chắc lại chỉ chuyện không tốt.
         Biểu đồng tình với nhân ngãi ở chỗ ấy, Vạn tóc mai cũng tiếp:
         - Có lẽ lắm.Nhất là mẹ nó xử với chúng mình thì càng tệ. Nghe đâu bà lớn với mấy cô chiêu ở Hải Phòng cũng đem cấi của của mình ra đồng bóng hết mà thôi.
         Rồi Vạn tóc mai giới thiệu cho Long biết hai người quần áo lịch sự:
         - Đây tôi giới thiệu cho Long biết hai ông này là hai tay nhà báo, một ông thì trợ bút của tờ báo Lưỡng Kỳ, một ông thì là chủ bút của tờ Cùng Dân. Hai ông này là những người anh hùng nghĩa hiệp, hết sức bài bác những việc vô nhân đạo, hết sức công kích những kẻ cậy thế lực kim tiền mà xử đểu với người không có xu. Các ông ấy đều đã công kích kịch liệt cái việc hiếp dâm vừa rồi của mon père! Nhưng mà,đằng ấy ạ... đằng ấy chỉ là kẻ làm công cho Tú Anh thôi, nên đằng ấy không biết chứ tớ thì tớ biết nhiều điều đểu giả của mom père lắm. Tớ sẽ nói hết tất cả những cái tội ác của lúy ở ngoài mỏ , ở trong xưởng máy, ở đồn điền...
         Ông chủ bút tờ Cùng Dân đưa đón:
         - Cứ kể ông cụ nghị ấy thì cũng quá thật. Có con mà lại không nhận con thì thật là phạm một tội đại ác. Mà khi ông cụ ấy sợ phải nuôi con như thế thì sao lại cứ dâm đãng quá sức... Tôi chắc ông cụ ấy rắc con trong thiên hạ cũng đã khá nhiều...
         Vạn tóc mai ngồi nhỏm dậy, sốt sắng mà rằng:
         - À, cái đó thì đã hẳn! Cái số con cái lúy rắc trong thiên hạ thì chắc là phải nhiều! Vì rằng lúc nào lúy cũng chỉ chăm chỉ cái việc bổ dưỡng thân thể bằng sâm, nhung, thuốc bổ, rượu sâm banh,...
         Nói đến đây, Vạn tóc mai lại méo sệch cái mồm ra mà cười. Những người nằm quanh những khay đèn ở những giường cạnh đấy cũng khúc khích cười thầm với nhau.
     
       
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.09.2008 16:34:56 bởi van79_bc >
    #2
      Chuyển nhanh đến:

      Thống kê hiện tại

      Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
      Kiểu:
      2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9