Anh hùng Bắc cương (từ hồi 26)
CDDLT 18.01.2005 18:12:48 (permalink)
Hồi thứ tám mươi sáu
Cây thuốc nở hoa



Đào Tam-Bách chắp tay hành lễ:
- Thiếu hiệp, cô nương. Các vị là ai, giá lâm núi Tản-viên có việc gì? Tại sao lại ra tay đánh người trong tổ đình này?
Nam nhún vui, ngửa hai tay lên trước mặt:
- Ta tên Trần Đông-Thiên. Còn đây em gái ta tên Trần Quỳnh-Hoa. Chúng ta đều là đệ tử của Tây-phương giáo chủ Hồng-thiết giáo. Chúng ta được sắc chỉ của Tây-phương giáo chủ Hồng-thiết giáo về đây thi hành sứ mạng.
Giọng nói của y lơ lớ, ấm ớ rất khó chịu.
Nghe đến tên Đông-Thiên, Quỳnh-Hoa, hai trẻ Tôn Đản, Tự-Mai đưa mắt nhìn nhau, như cùng một ý nghĩ:
- Cái tên Đông-Thiên, Quỳnh-Hoa nghe quen thuộc quá!
Chợt Tôn Đản tiến lên chắp tay vái dài:
- Thì ra hai vị trước đây do trưởng lão Lê Ba gửi sang Tây-phương du học, được giáo chủ Hồng-thiết giáo Tây-phương Bạch-Lạp thu làm đệ tử. Tại hạ nghe nói dường như hai vị là chỗ rất thân ái với Nhật-Hồ lão nhân phải không?
Hơn năm trước, Thuận-thiên cửu hùng về Thăng-long, được Khu-mật viện cho biết: Đương thời Nhật-Hồ lão nhân dùng rất nhiều người làm cây thuốc luyện công. Hồi còn theo học với sư phụ Xích-trà-Luyện, lão đã cưới một cô gái Tây-vực tên Tam Vi Anh. Lúc trở về Trung-thổ, lão lại lấy một cô gái Trung-nguyên. Khi gặp vợ của Lê Lục Vũ tên Minh-Hợp, lão cướp luôn. Sau Minh-Hợp bị quan quân giết, lão lấy một đệ tử tên Nguyễn Tuyết-Minh. Chính lão đưa Tuyết-Minh lên làm Bắc-sứ tại hội đồng giáo vụ trung ương. Sau trở về Đại-Việt lão được cống hiến nhiếu cây thuốc luyện công. Trong hàng trăm cây thuốc ấy, có một người lão rất sủng ái, sinh ra hai con. Trai, lão đặt tên Trần Đông-Thiên. Gái tên Trần Quỳnh-Hoa.
Bấy giờ Tư-Mai có đặt câu hỏi: Tại sao lão họ Nguyễn, mà lại cho con mang họ Trần. Tạ Sơn trả lời: Cũng như Hồng-thiết giáo Tây-phương. Mỗi đệ tử Hồng-thiết giáo Đại-Việt đều mang nhiều tên, nhiều họ khác nhau, với ngụ ý rằng trăm họ, nghìn tên, chung quy vẫn phải hướng về Hồng-thiết giáo. Họ Trần, họ Hồ, họ Nguyễn, họ Đặng, đều không đáng quan tâm.
Nhưng những cây thuốc Nhật-Hồ lão nhân sủng ái, Lê Ba cũng xử dụng luôn. Nên chính cây thuốc cũng không biết hai trẻ sinh ra là con của ai.
Lê Ba rất chủ quan. Y tin hai trẻ do y sinh ra, y biết sư phụ mình vốn háo danh, ích kỷ, chỉ muốn một mình đứng trên thiên hạ, như ánh sáng mặt trời, tương lai y khó tranh ngôi giáo chủ. Vì vậy y cứ giả bộ coi Đông-Thiên, Quỳnh-Hoa do Nhật-Hồ lão nhân sinh ra. Y nhất tâm sủng ái hai trẻ, làm Nhật-Hồ cảm động, tin tưởng y tuyệt đối. Cho nên lão vốn thuộc loại sư tổ sảo quyệt, mà bị y bắt giam ở dưới hầm Cổ-loa.
Lê Ba gửi Đông-Thiên, Quỳnh-Hoa sang Tây-vực du học. Hy vọng sau này nhờ thế lực của sư phụ, hai con y trở thành giáo chủ. Nhật-Hồ lão nhân tán thành ngay tức khắc.
Năm trước, giáo-chủ Tây-phương Hồng-thiết giáo Bách-Lạp nghe tin võ lâm Đại-Việt đại hội Lộc-hà, định ngôi vua. Trong khi đó, y được tin Nhật-Hồ lão nhân qua đời đã hai mươi năm, ngôi giáo chủ bỏ trống. Bách-Lạp vội cho Đông-Thiên, Quỳnh-Hoa trở về tranh ngôi vua.
Hai thiếu niên lớ ngớ không thông thế tục, về tới Bắc-biên, bị sa lưới Khu-mật viện. Do chiếu chỉ ân xá của Thuận-Thiên hoàng đế sau ngày giỗ Bắc-bình vương, cả hai được thả ra. Bây giờ cả hai xuất hiện tại đây.
Đám người Hoa-sơn hoàn toàn không biết gì về anh em Đông-Thiên. Còn đệ tử Tản-viên nghe đến tên hai người này, họ đều mở to mắt ra nhìn.
Đào Nhị-Bách hỏi:
- Nhị vị tới tổng đàn bản phái, mà không thông báo trước, nên anh em tại hạ khiếm lễ số. Mong nhị vị khoan thứ.
Lời nói của Nhị-Bách mang nhiều trách móc hơn lễ độ. Nhưng anh em Đông-Thiên sống với rợ Tây-vực quen rồi, nên chúng lại cho rằng Nhị-Bách nói thực.
Quỳnh-Hoa lắc đầu:
- Chúng ta không chấp đâu! Ta chả cần các người phải tiếp đón.
Bỗng Trí-Thành kêu thét lên be be. Mọi người nhìn lại: Tay mụ sưng vù, đỏ lòm.
Đào Nhị-Bách la lớn:
- Nhật-hồ độc chưởng.
Đông-Thiên lắc đầu:
- Không phải thế đâu! Ta dùng Hồng-thiết ngũ độc chưởng. Chứ không biết Nhật-hồ độc chưởng là gì cả.
Đám Hoa-sơn kinh ngạc nhìn nhau. Họ cùng rút kiếm bao vây lấy anh em Đông-Thiên. Bắc-Sơn lão nhân không hổ cao nhân đại môn phái Trung-quốc. Ông vẫy tay cho đồng môn lui lại, nói:
- Chúng ta bị gian nhân đánh lừa, vô lễ với phái Tản-viên, với võ lâm Đại-Việt, chưa biết làm cách nào giải được. Bây giờ lại dụng võ giữa từ đường thánh Tản thực còn gì vô lễ hơn. Đây thuộc tổng đường phái Tản-viên. Chúng ta bị ám toán như thế này, cứ để phái Tản-viên phát lạc.
Ông hỏi Đào Nhị-Bách:
- Đào nhị hiệp. Tôi nghe Đào nhị hiệp trước đây từng theo Hồng-thiết giáo. Xin nhị hiệp giải cho biết Hồng-thiết ngũ độc với Nhật-hồ độc chưởng khác nhau thế nào?
Đào Nhị-Bách đáp:
- Hai loại độc chưởng này vốn cùng nguồn gốc. Tất cả đều xuất phát từ Hồng-thiết kinh. Khởi đầu, Mã-Mặc, Lệ-Anh cùng nhau nghiên cứu tất cả độc chất thiên hạ, cùng cách hạ độc, phương thức chữa chép vào Hồng-thiết kinh. Sau hai người tiến xa một nước, đem năm thứ độc khắc chế nhau luyện công, luyện chưởng. Người bị trúng chưởng bị năm thứ độc nhập cơ thể thay nhau công phá đau đớn chết đi sống lại. Sau bốn mươi chín ngày, như ngọn đèn hết dầu, rồi chết. Chưởng này mang tên Hồng-thiết ngũ độc chưởng.
Trí-Thành run run hỏi:
- Có cách nào trị được không?
- Có! Hồng-thiết kinh chép cách chế thuốc giải. Bất cứ ai, sau khi trúng trúng Hồng-thiết ngũ độc chưởng, phải quỳ lạy, nhập Hồng-thiết giáo, sẽ được phát thuốc giải. Thuốc giải chỉ có hiệu lực một năm. Trong một năm đó nạn nhân phải tuyệt đối tuân hành mệnh lệnh của Hồng-thiết giáo, sẽ được phát thuốc giải tiếp. Bằng không thuốc bị cắt, chỉ có nước chết.
Y ngừng lại một chút cho cử toạ theo kịp, rồi tiếp:
- Nhật-Hồ lão nhân được giáo chủ đời thứ nhì Tây-vực tên Xích-trà-Luyện thu làm đệ tử. Lão về Trung-nguyên lập ra bang Nhật-hồ. Muốn tạo cho mình thế đứng độc lập với Hồng-thiết giáo Tây-dương, người biến đổi chưởng pháp đi, thành Chu-sa ngũ độc chưởng. Thuốc giải Chu-sa ngũ độc chưởng vừa trị được chưởng bang mình, mà cũng trị được Hồng-thiết ngũ độc chưởng. Ngược lại dùng thuốc giải Hồng-thiết ngũ độc chưởng lại không trị được Chu-sa ngũ độc chưởng.
Nghe nói đến bang Nhật-Hồ, toàn thể đám Hoa-sơn đều hiện lên mặt những nét kỳ dị, đăm chiêu. Vì từ lâu họ chỉ biết bang Nhật-hồ dùng Chu-sa ngũ độc chưởng, làm võ lâm Trung-quốc kinh tâm động phách. Họ nào ngờ bang Nhật-hồ phát xuất từ Hồng-thiết giáo Tây-vực.
Đào Nhị-Bách tiếp:
- Nhật-Hồ lão nhân truyền ngôi cho sư đệ, cũng là đệ tử của lão tên Lưu Trí-Viễn. Người trở về Đại-Việt lập ra Hồng-thiết giáo. Một lần nữa người biến đổi Chu-sa ngũ độc chưởng thành Nhật-hồ chu-sa ngũ độc chưởng. Chưởng này trộn nội công Hồng-thiết giáo với nội công Đại-Việt, có sức công hại mãnh liệt nhất. Vì vậy, dù dùng thuốc giải hàng năm, mà mỗi tháng cũng bị lên cơn đau đớn trong một ngày. Cái kinh khủng nhất, khi dùng thuốc giải Nhật-hồ chu-sa ngũ độc có thể giải được Chu-sa ngũ độc cùng Hồng-thiết ngũ độc. Ngược lại thuốc giải của hai loại chưởng kia đối với loại chưởng pháp này vô dụng.
Tây-Sơn lão nhân hỏi:
- Tôi nghe nói, muốn trị dứt các loại chưởng này, phải dùng Hồng-thiết mật công. Tại Trung-nguyên, từ khi bang chủ cuối cùng Đỗ Ngạn-Tiêu qua đời, thần công này tuyệt chủng. Bang chủ hiện thời Đặng Đại-Bằng nhiều lần sai sứ sang xin giáo chủ Hồng-thiết Tây-vực truyền cho. Nhưng đều bị từ chối. Một tin khác, nói rằng Đỗ Lệ-Thanh, con gái bang chủ cuối cùng còn giữ cuốn phổ chép mật công này. Mà y thị với chồng hiện ở bên Đại-Việt. Đại-Bằng đã phái nhiều cao thủ đi tìm, song dường như y thị chết rối, không còn người thừa kế. Sự thực ra sao?
Nhị-Bách chỉ vào Thân Thiệu-Cực:
- Bà ta còn sống. Bà đã truyền mật công này cho một kỳ nam tử, tâm địa lương thuần, học trò đức Bồ-tát Sùng-Phạm, cùng Di-Lặc Tôn-Phật. Vị kỳ nam tử đó là anh của Thân thế tử đây.
Tất cả đám đệ tử Hoa-sơn cùng bật lên tiếng úi chà.
Bắc-Sơn lão nhân hỏi:
- Phải chăng người tên Thân Thiệu-Thái? Trong đại hội Thăng-long, người đánh bại giáo chủ Hồng-thiết Đại-Việt tên Nhật-Hồ, rồi được tôn làm giáo chủ. Hồng-thiết giáo cải thành Lạc-long giáo? Còn Nhật-Hồ lão nhân bỏ đi tu?
- Đúng thế.
Chân tay Nam-Sơn lão nhân run lên. Lão hỏi trong hơi thở dồn dập:
- Như vậy hiện có ba người trị dứt được Ngũ-độc chưởng. Một là Nhật-Hồ lão nhân. Hai là Giáo-chủ Thân Thiệu-Thái. Ba là Đỗ Lệ-Thanh.
- Không, chỉ có hai thôi. Đó là Nhật-Hồ lão nhân với Thân thế tử. Đỗ phu nhân tuy giữ mật công tâm pháp, mà công lực bà thấp, vì vậy luyện không thành.
Tây-Sơn lão nhân chỉ Tự-Mai:
- Hồi nãy hai vị này xuất chưởng tấn công Trần công tử với sư muội Trí-Thành. Tại sao chỉ một mình Trí-Thành bị trúng độc. Còn Trần công tử lại vô sự?
Nhị-Bách lắc đầu không hiểu. Y đưa mắt nhìn Tự-Mai ngụ ý để nó trả lời.
Thiệu-Cực phe phẩy quạt:
- Đào nhị hiệp. Thực giản dị. Tự-Mai luyện Thần-công của công chúa Yên-lãng. Vì vậy, không một độc chất nào xâm nhập vào người y được.
Bắc-sơn lão nhân nói với Đặng Đại-Khê:
- Đặng lão sư. Anh em bản phái vì sơ xuất, bị gian nhân đánh lừa, trót gây lầm lỗi với quý phái. Lão là người lớn tuổi nhất, giám xin lão sư rộng dung cho. Chúng ta cùng tìm cho ra ai đứng sau hai thiếu niên này mưu gây chiến giữa hai đại môn phái.
Đại-Khê thấy địa vị Bắc-sơn lão nhân cao biết mấy, mà lão đã hạ thể xin lỗi. Vì vậy ông cũng lễ phép:
- Lão nhân dạy quá lời. Tại hạ thực không dám. Ông nghĩ địa vị mình không nên dây đưa với bọn Đông-Thiên. Ông đưa mắt cho Nhị-Bách.
Nhị-Bách hiểu ý ông. Y quay lại hỏi Trần Đông-Thiên:
- Thiếu hiệp. Chẳng hay bản phái có điều gì không phải với Tây-vực Hồng-thiết giáo chủ, mà thiếu hiệp tới đây đánh thuốc độc toàn thể anh em tại hạ. Rồi lại giả chiếu chỉ của Thiên-thánh hoàng-đế, mưu đưa phái Hoa-sơn đến chỗ tuyệt diệt?
Trần Đông-Thiên sang Tây-vực học từ nhỏ. Y nhiễm lối hành xử của thói man rợ đã quen. Y nghe Nhị-Bách nói lời khiêm tốn, lại cho rằng Nhị-Bách sợ hãi. Y nhún vai, dơ ngón tay cái bên phải lên:
- Các người không có lỗi gì cả. Tuy nhiên giáo chủ lão gia muốn kho tàng Âu-lạc, nên sai ta về chiếm lấy mà thôi.
Nhị-Bách chỉ Trí-Thành:
- Vị sư thái đây bị trúng Chu-sa ngũ độc chưởng của Trần cô nương. Mong cô nương dùng Hồng-thiết thần công trị cho người.
Quỳnh-Hoa cười nhạt:
- Trị cho mụ ư? Tại sao ta phải trị cho mụ. Ta nhắc lại, nếu mụ chịu tuyên thệ nhập bản giáo, ta sẽ cho thuốc giải. Trong vòng ba năm, nếu mụ tỏ ra trung thành, lập được đại công, ta sẽ dùng thần công giải trừ cho mụ.
Thị quay lại hỏi Trí-Thành:
- Mụ ni cô kia có nghe ta nói không? Mau quỳ gối tuyên thệ trung thành với bản giáo đi.
Tam-Bách tính nóng như lửa, nghe Quỳnh-Hoa lý luận ngớ ngớ ngẩn ngẩn, y quát lên:
- Nếu mi không chịu trị cho sư thái đây, ta có biện pháp.
- Biện pháp? Bộ mi cũng muốn chết ư?
Vừa dứt câu nói, Quỳnh-Hoa phóng chưởng tấn công Tam-Bách đến vù một cái. Mùi hôi tanh nồng nặc bốc ra, làm mọi người buồn nôn. Tam-Bách lùi lại ba bước, y trả lại bằng một chiêu Phục-ngưu thần chưởng. Chưởng lực của y hùng hậu vô cùng.
Quỳnh-Hoa thấy chưởng lực Tam-Bách hùng hậu, thị vội nhảy vọt lên cao tránh, không dám trực diện đỡ. Ở trên cao, thị phóng xuống một chưởng. Tam-Bách lùi liền ba bước, rồi dùng Long-hổ chưởng, cắt ngang chưởng của thị.

Nguyên anh em Tam-Bách xuất thân từ phải Tây-vu. Sau vì lòng yêu nước, nhân Hồng-thiết giáo chủ trương yêu nước, vì dân. Cả ba bỏ theo Đỗ Xích-Thập, được Xích-Thập thu làm đệ tử, truyền võ công Tản-viên, Hồng-thiết. Cả ba luyện tới mức không thua bọn trưởng lão làm bao. Từ hôm họ bỏ Hồng-thiết giáo, trở lại phái Tản-viên, lại được Bảo-Hòa truyền cho toàn bộ Phục-ngưu thần chưởng. Hiện bản lĩnh họ ngang với các trưởng lão Lạc-long giáo.
Thấy Quỳnh-Hoa dùng độc chưởng, mà công lực kém mình xa. Tam-Bách cũng muốn dùng độc chưởng. Nếu dùng độc chưởng, chỉ cần mười chiêu, y có thể khống chế thị. Nhưng từ khi bỏ Hồng-thiết giáo, chưởng môn Bảo-Hòa cấm không được xử dụng loại chưởng ác bá này. Vì vậy y chỉ dùng Phục-ngưu thần chưởng mà thôi.
Hai bên đấu đến chiêu thứ năm mươi, trong khi đó ni cô Trí-Thành đau đớn lăn lộn, mồ hôi vã ra. Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn cũng nhận thấy cái khó khăn của Tam-Bách: Dư công lực thắng đối thủ, mà không được xử dụng. Tự-Mai đến trước Đặng Đại-Khê hỏi:
- Sư bá. Trong phái Tản-viên, khi chưởng môn ban lệnh, toàn thể đệ tử đều nhất nhất phải tuân theo, có đúng thế không?
- Đúng vậy!
- Giả như gặp hoàn cảnh khó khăn, phải vi lệnh, mà chưởng môn vắng mặt, có cách nào vượt ra ngoài không?
-- Có! Một trong những người vai vế cao hơn chưởng môn, có quyền cho phép vi lệnh.
Nói đến đây, hiểu ý Tự-Mai, ông lên tiếng nói với Tam-Bách:
- Đào tam điệt! Dĩ độc trị độc.
Tam-Bách nghe thái thượng chưởng môn cho lệnh. Y hít hơi vận Hồng-thiết công, phát chiêu Ác-ngưu nan độ. Chưởng phong toả ra cực kỳ ác liệt. Bình một tiếng, Quỳnh-Hoa bật lui liền ba bước. Tam-Bách không nhân nhượng, y phát liền ba chiêu nữa. Đến chiêu thứ ba, Quỳnh-Hoa lảo đảo muốn ngã.
Thuận-Tường thấy sư thúc Trí-Thành đau đớn quằn quại. Không biết nghĩ gì, nàng chạy lại bên Tự-Mai, nói sẽ:
- Người, người có nghe lời ta không?
Tự-Mai thấy Thuận-Tường không cau có, gây gổ với mình, trái lại ngọt ngào, hồn phách nó bay phơi phới:
- Cô nương cứ dạy. Tại hạ sẵn sàng nghe lời.
Nàng chỉ Bắc-Sơn lão nhân:
- Sư phụ nói, người... đại ca học thần công hỗn hợp dương cương Tản-viên với Vô-ngã tướng thiền công của công chúa Yên-Lãng, nên hút được nội lực của hai vị sư thúc Vương, Giáp. Sư phụ còn nhấn mạnh: Xưa kia công chúa Yên-Lãng dùng thần công hỗn hợp ấy khống chế được Huyền-âm chưởng của vợ chồng Xích-Anh trong trận đánh đồi Vương-sơn.
- Kiến thức tôn sư thực bao la. Đúng như người dạy.
- Ta có lời yêu cầu. Người... à đại ca mau khống chế hai anh em gã họ Trần, bắt chúng trị bệnh cho sư thúc Trí-Thành. Ta... ta nhất định nhớ ơn người mãi mãi.
Tự-Mai mỉm cười nghĩ thầm:
- Chị Thanh-Mai thường bảo ta: Sau này ra đời, cần phải đề phòng đàn bà. Đàn bà thường đùng cái ôn nhu, đưa mình vào chỗ chết như không. Đàn bà càng đẹp, càng khiến cho mình dễ chết. Thuận-Tường đang chửi bới ta, nay vì muốn cứu sư thúc, mà nàng phải hạ mình. Kể ra nàng cũng xứng đáng nữ trung hào kiệt. Nàng biết xử dụng nhan sắc, lại hiểu được ta. Ta chẳng dại gì lăn mình vào chỗ chết.
Nhưng khi nhìn lại, thấy đôi mắt cầu khẩn, cùng nét mặt xinh đẹp của Thuận-Tường, bao nhiêu lời dặn của chị bay biến đi đâu mất, nó trả lời:
- Cô nương đã dạy, dĩ nhiên tại hạ phải tuân.
Đúng lúc đó Tam-Bách đánh ra một chưởng như sét nổ, Quỳnh-Hoa dùng cả hai tay đỡ mà vẫn lảo đảo. Đông-Thiên đứng ngoài thấy em lâm nguy, y hú lên một tiếng, phóng chưởng đánh vào hông Tam-Bách cứu em.
Tự-Mai quát lên:
- Các người định hai người đánh một ư?
Nó vận khí bằng kinh mạch, xuất chiêu Phong-ba hợp bích, đánh cắt ngang vào chưởng Đông-Thiên. Bùng một tiếng, Đông-Thiên bật lui liền ba bước. Trong khi Tự-Mai cũng cảm thấy cánh tay tê dại. Nó nghĩ thầm:
- Tên tiểu ma đầu này công lực ghê thực. Sau khi hút nội lực của Vương Lệ-Ngọc, Giáp Kim-Qui, nội lực mình mạnh không thua gì chị Thanh-Mai, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh, thế mà dường như không thắng được y.
Đông-Thiên lại xuất chiêu tấn công Tự-Mai. Không dám khinh địch, nó dùng Đông-a chưởng pháp chống lại. Hai bên xoay tròn lấy nhau. Một bên thô kệch, nhưng ác độc. Một bên tinh diệu đường đường chính chính. Người ngoại cuộc, khó có thể biết ai ăn ai.
Nhìn trận đấu, dù người phái Hoa-sơn, dù người phái Tản-viên đều nhận xét như nhau:
- Cứ nhìn bản lĩnh Đông-Thiên, người ta cũng nhận thấy Tây-vực giáo chủ Hồng-thiết thực xứng danh thống lĩnh giáo chúng thiên hạ. Những chiêu thức ác độc thế kia, hỏi thân xác con người làm sao chịu nổi? Còn Tự-Mai, thực không hổ danh gia đệ tử. Độc chưởng bao phủ xung quanh người, mà nó vẫn vô sự. Hà, trận đấu này tượng trưng cho lối giáo dục của Hồng-thiết với Đông-a, cho võ công Tây-vực với Đại-Việt.
Dù Đông-Thiên xuất kỳ chiêu, quái độc thế nào chăng nữa, Tự-Mai vẫn ung dung trả đòn đường đường chính chính. Từ ngày ra đời, bây giờ nó mới gặp một đối thủ ghê gớm. Nó đã dùng tất cả sở học, nào phát chiêu bằng kinh mạch, nào dùng thần công của công chúa Yên-lãng, cũng chỉ ngang tay với đối phương. Cuối cùng thấy độc chưởng đối phương bao phủ khắp xung quanh hai người, nó dùng tới phương pháp của phụ thân, đẩy chất độc trở về người Đông-Thiên. Nhưng sau mỗi lần hai chưởng gặp nhau, nó thấy phương pháp ấy chỉ đủ để chất độc không nhập người mình, chứ chưa đủ đẩy trở lại Đông-Thiên.
Thiệu-Cực tuy cầm trọng quyền, nhưng kiến thức võ công của chàng không làm bao. Chàng hỏi Đặng Đại-Khê:
- Sư bá, võ công Tự-Mai cao siêu là thế, mà sao không đàn áp được Đông-Thiên?
Đại-Khê giảng giải:
- Cháu nên biết rằng võ công gồm nội công và ngoại công. Phần chiêu thức Đông-a, do tổ sư Trần Tự-Viễn thể theo Thiền-công chế ra, các đời sau theo đó bổ khuyết, sáng tạo thêm. Về nội công hoàn toàn do Thiền-công. Tuy đã biến đổi đi nhiều, nhưng căn bản vẫn không rời nguyên lý chính của nhà Phật. Dùng nội công Đông-a gồc Thiền-công nhà Phật giải trừ Hồng-thiết công, một thứ nội công ma quái, không gì hơn. Nên chi trong đại hội Lộc-hà, Tự-An, Thanh-Mai, Tự-Mai thắng các cao thủ Hồng-thiết giáo dễ dàng.
Ông ngừng lại, vì Tam-Bách đánh một chưởng hùng hậu, Quỳnh-Hoa bay bổng ra xa. Thị quằn quại định ngồi dậy, nhưng không nổi. Thị cố dơ tay phải lên vẫy vẫy, tỏ ý chịu thua.
Đại-Khê tiếp:
- Thế nhưng tại sao Tự-Mai chưa đàn áp được Đông-Thiên? Cháu phải hiểu rằng Tự-Mai tuy xuất thân danh môn, được phụ thân chân truyền. Nhưng tuổi mới mười sáu, mười bẩy, thời gian luyện tập chưa được làm bao. Công lực chưa đủ. Mới đây y hút nội lực hai cao thủ làm nội lực mình. Nhưng phàm khi hút nội lực người, cũng cần phải một tuần trăng qui liễm, hai thứ mới hòa đồng nhau. Trong khi đó Đông-Thiên tuổi hai mươi lăm, hai mươi sáu, khí huyết đang sung thịnh, nội lực phát ra tối đa. Vì vậy hiện chưa biết ai thắng ai.
Lời giải thích của Đặng Đại-Khê lọt vào tai Lê-Văn. Nó được Hồng-Sơn đại phu giảng dạy cực kỳ chu đáo về học thuyết kinh lạc, học thuyết tạng phủ, cùng học thuyết về khí huyết. Nó nghĩ thầm:
- Theo sư bá Đặng Đại-Khê, thì anh Tự-Mai chưa biến nội lực Vương, Giáp làm nội lực mình. Y học nói rằng: Tỳ chủ vận khí. Tỳ còn có tên Trung đơn điền. Vậy nếu ta chuyển chân khí về Trung đơn điền, rồi phát ra ắt có thể tổng hợp các luồng khí trong người.
Nghĩ vậy, nó nhắc Tự-Mai:
- Chuyển tất cả khí về Trung-đơn-điền, đưa xuống Thận, truyền qua huyệt Mệnh-môn, dẫn theo Đốc-mạch, rồi phát chiêu bằng Thủ-tam-dương kinh.
Tự-Mai đang gặp khó khăn, nó thấy nội tức mình đầy ắp, mà khi phát chiêu, chỉ có nội công Đông-a xuất ra mà thôi. Nay nghe Lê Văn nhắc, nó vội làm theo. Khi dẫn khí về trung đơn điền, nó cảm thấy trong người đầy ắp chân khí, thân thể nhẹ nhàng như muốn bay lên cao. Thuận tay nó phát chiêu Phong đáo sơn đầu, chưởng lực ào ào tuôn ra. Binh một tiếng, Đông-Thiên lảo đảo lùi lại.
Không bỏ lỡ cơ hội, Tự-Mai phát chiêu Đại phong tán vân. Bình một tiếng, Đông-Thiên ngã ngồi xuống đất. Y ọe một tiếng, miệng phun ra một búng máu.
Nhị-Bách túm anh em Đông-Thiên để lại với nhau. Y hỏi:
- Trần công tử! Trần cô nương. Xin hai vị dùng Hồng-thiết thần công trị độc chưởng cho sư thái Trí-Thành.
Đông-Thiên lắc đầu:
- Không... không. Tôi không thể trị được!
- Tại sao?
- Vì muốn điều trị phải có đủ công lực. Bây giờ tôi bị trọng thương, sao làm nổi?
Nhị-Bách đã luyện Hồng-thiết công, y biết Đông-Thiên nói thực. Y quay lại nói với Lê Văn:
- Lê công tử. Công tử ra tay tế độ, trị thương cho anh em gã họ Trần này, để chúng có thể cứu sư thái Trí-Thành.
Lê Văn lắc đầu:
- Hai người bị nội thương trầm trọng. Quỳnh-Hoa bị trúng Phục-ngưu thần chưởng, mà nội lực lại của Hồng-thiết giáo. Đông-Thiên bị trúng chưởng Đông-a, nội lực Tiêu-sơn pha với Hoa-sơn. Thành ra chính tà hỗn hợp công phá. Tôi e phải hơn hai tháng mới khỏi.
Thuận-Tường kêu lên:
- Hai tháng ư? Chỉ trong bốn mươi chín ngày, sư thúc Trí-Thành đã viên tịch rồi còn gì nữa? Trần công tử, có cách nào khác không?
Tự-Mai chạy lại khám trong người Đông-Thiên. Nó lấy ra được một bình bằng bạc, trong bình có mấy chục viên thuốc. Nó đơ lên trước mặt Đông-Thiên:
- Có phải thuốc giải không?
- Phải!
Tự-Mai trao cho Thuận-Tường một viên:
- Cô nương! Cô nương tạm dùng viên thuốc này, khiến sư thúc vô sự một năm. Trong thời gian đó, chắc sư đệ của tôi trị cho anh em Đông-Thiên, bắt chúng dùng Hồng-thiết công giải trừ vĩnh viễn độc cho cho sư thúc cô nương.
Thuận-Tường cảm ơn Tự-Mai. Nàng đến trước Trí-Thành:
- Sư thúc! Thuốc giải đây, xin sư thúc nuốt ngay cho.
Trí-Thành bỏ viên thuốc vào miệng nuốt ngay. Mụ vận nội lực cho thuốc mau tan. Lát sau, bao nhiêu đau đớn biến mất.
Bắc-Sơn lão nhân nói với Thiệu-Cực:
- Xin thế-tử hỏi cung anh em Đông-Thiên, để biết sự thực.
Thiệu-Cực phe phẩy quạt hỏi Đông-Thiên:
- Trần công tử. Xin công tử khai cho. Bằng không bản nhân phải áp dụng hình pháp.
Biết không đừng được, Đông-Thiên từ từ thuật lại.

Nguyên anh em Đông-Thiên từ Tây-vực trở về bị lọt lưới Khu-mật viện Bắc-biên, bị giam. Sau đại hội Lộc-hà. Thuận-Thiên hoàng-đế ban chỉ đại xá thiên hạ. Anh em y được thả ra. Hai người lần mò về Thăng-long, gặp một số giáo chúng Hồng-thiết du thủ, du thực, vẫn còn thích nếp sống vô luân theo phò, tôn làm giáo chủ. Anh em Đông-Thiên âm thầm xử dụng Hồng-thiềt ngũ độc chưởng khống chế rất nhiều người, bắt theo. Trong đám đó, có mấy người dưới quyền Lê Đức phụ trách về kho tàng Tần-Hán, cùng Âu-lạc.
Anh em Đông-Thiên tự biết mình không đủ lực chiếm Tản-lĩnh, đào kho tàng. Hai người trở qua Tây-vực cùng với đám bầy tôi. Đám này tâu trình lên Bách-Lạp tình hình Đại-Việt.
Tình hình võ lâm cũng như Đại-Việt, Bách-Lạp không chú ý cho lắm. Lão chỉ chú ý đến kho tàng Tần-Hán cùng Âu-lạc. Y giao cho hội đồng giáo vụ trung ương nghiên cứu. Hội đồng cử ra năm trong mười trưởng lão Hồng-thiết giáo Tây-dương sang Đại-Việt.
Hồng-thiết giáo đặt cơ sở trên dối trá, lường gạt, xảo quyệt. Một giáo chúng thoát biết bao màng lưới lên tới trưởng lão, ắt hản bản lĩnh xảo trá phải tuyệt luân. Năm trưởng lão có bản lĩnh xảo trá nhất thế gian họp bàn với anh em Đông-Thiên, cùng đám giáo chúng Đại-Việt. Chỉ thoáng qua, chúng đã nắm được tình hình.
Chúng thiết kế như sau: Năm trưởng lão cùng anh em Đông-Thiên, không đủ khả năng đánh chiếm Tản-lĩnh đào kho tàng. Chúng nghĩ rằng, phải xui cho một võ phái lớn nào đó đại chiến với phái Tản-viên. Giữa lúc hai bên đánh nhau một bị diệt, một ngất ngư. Bấy giờ chúng mới xuất hiện, diệt cả hai, đào kho tàng đem đi. Thế nhưng các võ phái lớn Đại-Việt một lòng với nhau, làm sao có thể gây cho họ chém giết đồng bào?
Chúng nghĩ đến các phái võ bên Tống. Đại-Tống có bẩy đại môn phái: Thiếu-lâm, Võ-đang, Hoa-sơn, Nga-mi, Không-động, Côn-luân, Liêu-Đông. Thiếu-lâm, Võ-đang được cầm đầu bởi các nhà tu đạo đức, khó có thể khích họ đại chiến với phái Tản-viên. Phái phái Hoa-sơn, có nhiều cao thủ nhất. Phái này đang đắc dụng ở triều đình. Chúng liền đi Hoa-sơn nghiên cứu tình hình.
Giữa lúc đó, triều đình nhà Tống ban chiếu chỉ cắt hết giải núi Hoa-sơn phong cho phái này, hầu lao tưởng việc đệ tử Đông-Sơn lão nhân như Dư Tĩnh, Địch Thanh, hiện đang giữ trọng trách biên cương đại thần.
Đám Hồng-thiết giáo Tây-vực bắt sống sứ giả, mở chiếu chỉ coi. Chúng mới nhân đó, dùng Hồng-thiết ngũ độc chưởng đánh sứ giả. Sứ giả đau đớn chết đi sống lại, đành tuân theo mệnh lệnh chúng.
Chúng phỏng theo chiếu chỉ thực, giữ nguyên nội dung, thêm vào đoạn ban cho núi Tản-viên, bắt phải lên đường tiếp nhận. Khi phái Hoa-sơn kéo đại lực lượng khởi hành Nam du. Chúng sợ khi phái này tới Bắc-biên, sẽ bị ngăn lại. Chúng giả thư Bắc-Sơn lão nhân viết cho chưởng môn phái Tây-vu, Tản-viên rằng phái Hoa-sơn xin đến thăm võ lâm đồng đạo. Đương nhiên chưởng môn phái Tây-vu Thân Thiệu-Anh chuẩn bị tiếp đón, do vậy đâu cần thẻ bài nhập cảnh? Thế là phái Hoa-sơn lọt vào trong Đại-Việt dễ dàng.
Về phía phái Tản-viên, Đào Nhị-Bách nhận được thư của phái Hoa-sơn, cũng tưởng thực. Y lập tức triệu tập đệ tử tiếp đón.
Bọn trưởng lão Tây-vực Hồng-thiết tính sao giữa lúc phái đoàn Hoa-sơn sắp đến Tản-lĩnh, bấy giờ đánh thuốc độc khiến toàn thể đệ tử này chân tay vô lực. Vì vậy khi phái đoàn Hoa-sơn lên núi, lập tức bị đệ tử Tản-viên nghĩ rằng nhóm này là thủ phạm hạ độc.
Mặt khác, chúng biết Hoa-sơn tam lão võ công vô cùng cao thâm. Đặng Đại-Khê, một trong Đại-Việt ngũ long, đang trên đường về tổng đàn.
Chúng biết muôn ngàn lần, các trưởng lão của chúng không địch lại ông. Chúng mới nghĩ ra cách dùng ông diệt bọn Hoa-sơn dùm. Chúng bôi một loại thuốc độc vào tượng thánh Tản-viên, rồi đẩy lệch đi. Khi ông trở về, ắt xoay tượng lại. Chúng lại cho thuốc độc vào thức ăn, để nhóm Hoa-sơn bị trúng độc mà không sao.
Đến khi nhóm Hoa-sơn đấu võ với Đặng Đại-Khê, thuốc trên tay ông, nhập vào người họ. Hai độc hợp nhau, làm công lực họ giảm lần. Người ngoài tưởng Đại-Khê hạ hết cao thủ Hoa-sơn, rồi bị Hoa-sơn giết chết. Bấy giờ chúng xuất hiện, đào kho tàng mang đi, mặc cho võ lâm Đại-Việt với phái Hoa-sơn chém giết nhau.
Nào ngờ, giữa lúc đó, Thiệu-Cực cùng bọn Tôn Đản, Tự-Mai xuất hiện, âm mưu của chúng hoàn toàn bại lộ.

Thiệu-Cực truyền trói anh em Đông-Thiên đem về Khu-mật viện Bắc-biên thẩm vấn thêm. Thình lình có tiếng ám khí rít lên vo vo, hai con dao nhỏ phóng tới, cắt đứt dây trói cho anh em Đông-Thiên. Rồi có tiếng nói lớn:
- Khoan! Để anh em họ Trần đấy.
Tiếng nói ấm ớ rất khó nghe. Năm người từ bốn phía từ đường tiến vào. Bốn nam, một nữ. Họ trang phục rất kỳ lạ. Tóc hung hung đỏ, mũi cao, người đầy lông lá. Trong bốn nam, một người bụng phệ. Một người râu quai nón. Một người tóc bạc như cước. Một người cao nghệu.
Anh em Đông-Thiên vọt người tới sau gã bụng phệ, như để tìm lấy sự che chở.
Thuận-Tường thấy năm người bật lên tiếng la:
- Qủi! Qủi! Ối qủi.
Dường như năm người không hiểu tiếng Hoa. Họ ngơ ngác hỏi bằng tiếng Việt:
- Cái gì? Con bé kia muốn nói cái gì?
Nhị-Bách tiến ra chắp tay hành lễ:
- Quý khách từ đâu đến? Xin cho biết cao danh quý tính.
Gã bụng phệ không đáp lễ, ưỡn ngực ra trả lời:
- Quý khách từ Tây-vực đến.
Y chỉ vào ngực:
- Cao danh? Cao danh ta ư?
Tự-Mai thấy chúng có thái độ ngạo mạn, vô lễ, tính trẻ con nổi dậy, nó nói:
- Không phải cao danh, mà cẩu danh. Không phải quý tính mà là cóc tính.
Mọi người cười ồ.
- Cẩu danh, cóc tính của ta ư? Ta tên Cút-Độp.
Tự-Mai hỏi lại:
- Không phải cút, mà quít. Không phải độp, mà đớp. À vậy tên người là Chó quít đợp trộm.
Cút-Độp tưởng thực nhắc lại:
- Cao danh quý tính ta là chó quít đợp trộm.
Mọi người cười ồ.
Cút-Độp hướng vào Đông-Thiên:
- Đông-Thiên, mi nói cho bọn chúng biết cao danh quý tính của bọn ta đi.
Theo lễ giáo tộc Hoa-Việt, khi hỏi tên người, bao giờ cũng tôn lên: Cao danh, quý tính. Còn xưng mình bằng tiếng khiêm tốn: Tệ, tiểu, thiểm. Đây năm người theo thói dã man của Tây-vực, thấy Nhị-Bách hỏi cao danh, quý tính, lại tưởng rằng đối phương sợ mình, tự xưng mình là quý khách.
Đông-Thiên chỉ vào năm người, giới thiệu:
- Các người hãy lắng nghe cao danh quý tính của năm vị sư thúc ta. Năm vị hiện làm Ngũ-sứ của Hồng-thiết giáo Tây-vực.
Mọi người bật lên tiếng ồ kinh ngạc.
Tôn Đản nghĩ thầm:
- Quả thực bọn Tây-vực, hèn chi râu tóc ba phần giống người, bẩy phần giống quỷ.
Đông-Thiên giới thiệu tiếp:
- Sư thúc Cút-Độp lĩnh trung ương sứ giả. Vị tóc bạch kim kia cao danh quý tính Bẹc-Nác, lĩnh Đông-phương sứ giả.
Bẹc-Nác tiến ra vỗ ngực đồm độp.
- Vị râu quai nón cao danh quý tính Đi-Mi-Trí, lĩnh Tây-phương sứ giả.
Đi-Mi-Trí tiến ra vỗ ngực, tay vuốt râu.
- Vị cao nghệu kia, cao danh quý tính Mô-Lỗ, lĩnh Nam-phương sứ giả.
- Cuối cùng Bắc-phương nữ sứ, cao danh quý tính Du-La.
Năm người không đợi mời, tự động ngồi xuống năm cái ghế.
Du-La hỏi:
- Thằng nào lớn nhất ở đây?
Tự-Mai chỉ vào Cút-Độp:
- Thằng này chứ ai? Bụng nó to như cái trống, thân thể giống con đười ươi.
Du-La nói một tràng tiếng Tây-vực. Đông-Thiên dịch:
- Sư thúc ta muốn hỏi, trong các người tại đây, đứa nào có địa vị cao nhất. Người muốn nói truyện với y.
Lê Văn bước ra, nó chỉ vào Thiệu-Cực:
- Ở đây có ba loại người khác nhau. Bàn về uy quyền, luật pháp, quan chức, vị đại ca này hiện quản lĩnh Khu-mật-viện Bắc-biên, thay mặt vua Bà, được coi như lớn nhất.
Nó chỉ vào Đặng Đại-Khê:
- Về địa vị võ lâm Đại-Việt, Đặng sư bá có địa vị cao nhất trong anh em tại hạ.
Nó chỉ vào Bắc-Sơn lão nhân:
- Bàn về địa vị võ lâm Trung-quốc, lão nhân đây có địa vị cao hơn cả.
Chợt nó nghĩ tới người của phái Hoa-sơn đối với Thuận-Tường cực kỳ cung kính, nó chỉ nàng nói:
- Tuy vậy địa vị cô nương đây còn lớn hơn Bắc-Sơn lão nhân nhiều.
Nó tưởng nói vậy, Thuận-Tường sẽ phản đối. Không ngờ nàng lại mỉm cười gật đầu.
Cứ mỗi câu, Đông-Thiên lại dịch sang tiếng Tây-vực.
Cút-Độp chỉ anh em Đông-Thiên:
- Hai người này theo học với sư huynh giáo chủ của ta. Sư huynh giáo chủ ban sắc chỉ cho chúng trở về lãnh đạo giáo chúng Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Đúng ra các người phải tôn kính. Hà cớ gì lại bắt trói? Vì vậy năm chúng ta phải xuất hiện hỏi cho ra lẽ.
Nhị-Bách tiến ra. Y chắp tay xá bọn Ngũ-sứ một cái:
- Thì ra các vị lĩnh chức Ngũ-sứ của Tây-dương giáo chủ Hồng-thiết. Các vị giá lâm Tản-lĩnh, mà tại hạ không biết trước để tiếp đón, thực có lỗi.
Đây là lối nói nhún, lối chửi xéo của người Đông-phương, ngụ ý: Đất có chủ, bọn bay âm thầm đột nhập như vậy thực vô phép. Nhưng bọn Ngũ-sứ không hiểu. Chúng cho rằng Nhị-Bách sợ chúng.
Mô-Lỗ nghiêng ngiêng cái đầu:
- Các người đã biết, ta cũng tha cho. Bây giờ các người phải làm lễ ra mắt chúng ta đi chứ?
Nhị-Bách cười nhạt:
- Tây-vực là Tây-vực. Đại-Việt là Đại-Việt. Hai nước đều có uy quyền khác nhau. Các vị lĩnh Ngũ-sứ của quý quốc, thì chỉ có thể tuyên chỉ dụ của quý giáo chủ tại Tây-vực. Chứ Đại-Việt tôi không thế nghe lời Ngũ-sứ.
Y chỉ vào anh em Đông-Thiên:
- Luật lệ Hồng-thiết giáo Đại-Việt về việc tôn giáo chủ như sau: Muốn được tôn làm giáo chủ, phải dùng võ công bản giáo thắng được giáo chủ đương nhiệm. Hoặc, khi giáo chủ về già, sẽ họp hội đồng trưởng lão, cử lấy ba người có võ công cao. Rồi đại hội đồng quản một trăm đạo lại, bầu lấy một người trong ba vị đó làm giáo chủ. Hai vị còn lại đương nhiên thành tả, hữu sứ.
Y ngừng lại cho Đông-Thiên dịch, rồi tiếp:
- Hai vị này mới trở về Đại-Việt, Hồng-thiết giáo chưa ai biết tới, không thể làm giáo chủ được. Giáo chủ Tây-vực không thể và không có quyền chỉ định ngôi giáo chủ Đại-Việt. Mà ví dù người có quyền chăng nữa cũng vô ích. Vì Hồng-thiết giáo Đại-Việt đã bỏ Hồng-thiết kinh, trở về với chủ đạo tộc Việt, lấy tinh thần khai quốc của vua Phục-Hy, Thần-Nông, tám mươi tám đời vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng... làm căn bản.
Cút-Độp hỏi:
- Nhật-Hồ lão nhân đâu? Lê Ba đâu?
- Nhật-Hồ lão nhân được ánh sáng Bát-nhã soi vào tâm tư, bao nhiêu ma tính, quỷ tính biến sạch, người đa thế phát quy y theo Phật rồi. Còn trưởng lão Lê Ba, chết từ lâu.
Du-La nhăn mặt hỏi:
- Vô lý. Trước đây Nhật-Hồ đã tuyên thệ nhập Hồng-thiết giáo Tây-vực. Y từng nói: Sau khi về Đại-Việt, dựng thành một nước Hồng-thiết, sẽ đem hết tượng Thích-ca, Quam-âm bổ thành củi. Thế mà nay y theo Phật ư?
Đi Mi Trí hỏi:
- Thằng Phục-Hy, Thần-Nông là những thằng nào?
Nhị-Bách chưa kịp trả lời. Tây-Sơn lão nhân quát lên:
- Tên rợ Tây-vực kia. Mi không được vô lễ với hai vị tổ Phục-Hy, Thần-Nông, bằng không chúng ta sẽ băm vằm bọn mi thành chả liền.
Đi Mi Trí nghe dịch lại, y quát lớn:
- Trên thế gian chỉ có thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh mà thôi. Ai không theo Hồng-thiết giáo đều bị coi như ma quỷ. Chúng ta sẽ giết hết. Thằng Phục-Hy, Thần-Nông đều thuộc loại gian tà, không ai được theo chúng.
Chu Chiếu-Anh hô lớn:
- Đệ tử Hoa-sơn chuẩn bị giết bọn ma tà, bảo vệ uy danh quốc tổ Phục-Hy, Thần-Nông.
Tuy Chiếu-Anh hô đệ tử Hoa-sơn, mà đám đệ tử Tản-viên cũng rút vũ khí ra loảng xoảng.


<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 02:22:23 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 18.01.2005 18:14:08 (permalink)
    Hồi thứ tám mươi bẩy
    Gian nữ Ma-Đăng-Gia




    Từ nhỏ Tôn Đản sống trong đền thờ Tương-Liệt đại vương. Nó cực kỳ tôn kính ngài. Từ khi theo Khai-Quốc vương làm việc quốc sự, nó được giảng kỹ về nguồn gốc tộc Việt. Đối với vua Phục-Hy, Thần-Nông, vua Hùng, nó sùng bái cùng cực. Bây giờ nghe Du La nhục mạ ngài, nó hô lớn:
    - Con mụ quỉ sứ kia, có câm miệng không? Mi mà không câm họng, chúng ta sẽ băm mi ra như băm chả bây giờ?
    Du La đứng dậy, mụ nói líu lô một tràng dài. Đông-Thiên dịch:
    - Sư thúc ta dạy rằng: Tên nào không muốn sống nữa, cứ bước ra đây cùng người chiết chiêu. Chứ các người dùng số đông uy hiếp chúng ta, thực khả ố.
    Đặng Đại-Khê dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai bọn Thiệu-Cực, Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn:
    - Tọa thủ bàng quang, để đám Hoa-sơn với bọn Hồng-thiết chém giết nhau.
    Nghe Du La thách thức, đám Hoa-sơn đưa mắt nhìn nhau. Chuyến Nam du này, toàn phái đem theo gần năm chục người. Cao nhất ba lão Bắc, Tây, Nam, rồi tới thất hùng. Thế nhưng trong ba lão, bị Đặng Đại-Khê đánh đến trọng thương. Tuy được Lê Văn chữa trị song khó có thể xuất lực. Còn thất hùng thì Vương, Giáp bị Tự-Mai hút hết công lực. Du, Vạn bị Tôn Đản thu toàn bộ chân khí. Sư cô Trí-Thành trúng độc chưởng của Quỳnh-Hoa. Rút cuộc chỉ còn Tây-Sơn lão nhân, Chu Chiếu-Anh, Ngô Nam. Trong khi bên địch có tới năm người.
    Bắc-Sơn lão nhân bàn với Tây-Sơn lão nhân, Chu Chiếu-Anh, Ngô Nam:
    - Chân chính đấu, chúng ta đâu có sợ bọn này? Duy có điều chúng dùng độc chưởng, điều mà chúng ta đáng ngại nhất. Vậy tốt hơn hết chúng ta thách chúng đấu bằng vũ khí.
    Lão tiến ra nói với Thiệu-Cực:
    - Thế tử giỏi tiếng Hoa, xin Thế-tử dịch sang tiếng Việt, cho gã Đông-Thiên dịch sang tiếng Tây-vực.
    Thiệu-Cực kính cẩn:
    - Xin tuân lệnh lão nhân.
    Bắc-Sơn lão nhân chỉ vào đám người Hoa-Sơn:
    - Các vị trưởng lão Tây-vực. Hiện diện bản phái đông gấp hai mươi lần bên các vị. Nếu chúng ta dùng số đông thắng các vị, chẳng hoá ra văn hóa Trung-thổ không hơn Tây-di ư? Vậy lão đề nghị chúng ta đấu ba trận. Nếu bên các vị thắng hai, chúng ta để các vị mang anh em gã Đông-Thiên đi. Bằng bên lão phu thắng hai trận, lão phu chỉ xin các vị khuất thân về Biện-kinh để Tống thiên-tử phát lạc, thế thôi.
    Hai bên đều dịch.
    Du La cười:
    - Được! Ta đấu trận đầu. Bên mi đứa nào muốn chết trước?
    Ngô Nam bước ra, rút kiếm hành lễ:
    - Tại hạ Ngô Nam, đệ ngũ nhân trong Hoa-sơn thất hùng, xin được lĩnh giáo võ công của Bắc-phương sứ giả Tây-vực Hồng-thiết.
    Du La phóng liền một chiêu vào ngực Ngô Nam. Nhóm người Việt-Hoa cùng bật lên những tiếng nguyền rủa. Nguyên võ lâm Hoa-Việt, dù khi đối trận, dù phải tranh phong kẻ chết người sống, vẫn cúi chào nhau, tỏ ra mình vốn con cháu Phục-Hy, Thần-Nông, theo Nho-đạo, thấm nhuần phong hóa. Còn bọn Tây-vực, văn hóa chưa có, cư xử thô lỗ, nói năng cộc cằn. Vì vậy Du La rút kiếm tấn công liền.
    Thấy kiếm chiêu Du La thô kệch, Ngô Nam không tránh né, cũng chẳng đỡ. Y dùng chiêu Thương-tùng nghênh khách đưa thẳng vào cổ y thị. Du La kinh hãi, vội thu kiếm về đỡ kiếm Ngô Nam. Ngô Nam đã chuyển sang chiêu Bạch-hạc xung thiên khiến thị phải nhảy lùi liền ba bước tránh đòn. Tay trái tung ra một độc chưởng. Ngô Nam úy kị độc chưởng, y không dám truy kích.
    Du La nhờ thế thu kiếm phản công.
    Tôn Đản hỏi Đặng Đại-Khê:
    - Sư bá, kiếm pháp Tây-vực sao dở qúa vậy?
    Đặng Đại-Khê lắc đầu:
    - Không dở đâu! Kìa cháu nhìn xem, trông bề ngoài mình tưởng kiếm pháp của họ thô kệch, nhưng thực ra mỗi chiêu đều phối hợp với độc chưởng, rất hung hiểm. Còn sở dĩ Ngô Nam chiếm được thượng phong, vì kiếm pháp Hoa-sơn hiện đứng đầu Trung-nguyên. Bên Đại-Việt ta chỉ có Mê-linh kiếm pháp mới trị được mà thôi.
    Tự-Mai mải mê quan sát trận đấu hai bên, bỗng nó thấy có hương thơm nhẹ nhàng thoảng qua bên mũi. Nó quay lại: Thuận-Tường đứng cạnh nó từ bao giờ. Nàng ghé miệng vào tai nó nói thầm:
    - Trần đại ca, người có cách nào giúp Ngô sư thúc thắng con mụ mũi cú vọ, người đầy lông lá kia không?

    Mỗi tiếng nói của Thuận-Tường đều phát ra luồng hơi nóng thoảng vào tai Tự-Mai, khiến nó cơ hồ phát run. Nghe Thuận-Tường hỏi, nó lắc đầu:
    - Không cần! Cô nương coi kìa, Ngô tiền bối thắng con mụ Du La đến nơi rồi.
    Đúng như Tự-Mai nói, Ngô Nam dồn Du La đến không còn đỡ kịp. Thình lình choang một tiếng, kiếm Du-La rơi xuống đất. Theo luật lệ võ lâm Hoa-Việt như vậy Du-La bại rồi. Ngô Nam thu kiếm lui lại, chắp tay:
    - Đa tạ trưởng lão đã nhẹ tay.
    Du-La cúi xuống nhặt kiếm, mụ quát lên:
    - Ta không nhẹ tay đâu. Người đánh nữa đi chứ, tại sao lại lui?
    Bắc-Sơn lão nhân nói với Cút-Độp:
    - Trưng ương sứ giả. Theo thể lệ võ lâm, trong khi hai bên dùng vũ khí đấu với nhau, nếu bên nào vũ khí bị gẫy hay bị rơi coi như thua. Như vậy Bắc-phương sứ bị bại rồi!
    Cút-Độp cãi:
    - Theo thể lệ Hồng-thiết giáo, chỉ khi nào một bên chết, hay tự ý xin đầu hàng mới kể như thua.
    - Thế nhưng đây đâu phải lĩnh địa Tây-vực?
    - Theo Hồng-thiềt luật, nơi nào có giáo chúng, nơi ấy thuộc Tây-dương lĩnh địa. Khi chúng ta hiện diện ở đây, ắt đây thuộc lĩnh địa Tây-dương.
    Đám đệ tử Việt-Hoa cùng nguyền rủa không ngớt.
    Du La cầm kiếm tấn công Ngô Nam. Biết không thể lý luận với bọn man rợ, Ngô Nam phản công bằng những chiêu quái ác nhất. Chỉ hơn hai mươi chiêu, y dồn Du La đến luống cuống chân tay. Sột một tiếng, kiếm Ngô-Nam đâm trúng vai Du-La. Mu gào lên một tiếng lớn, ôm vai chạy lại sau Cút-Độp.
    Đông-Thiên dịch:
    - Ngũ sư thúc chịu thua rồi.
    Bắc-Sơn lão nhân nói:
    - Trận đầu bên Tống thắng. Vậy bên Tây-vực vị nào tứ giáo trận thứ nhì?
    Bẹc Nác rút kiếm bước ra:
    - Ta tứ giáo trận này.
    Không cần lễ nghi, y xỉa kiếm tấn công Ngô Nam, tay trái phát một chưởng. Mùi hôi tanh bốc ra khủng khiếp. Nhiều người không chịu nổi, bưng miệng nôn ọe.
    Ngô Nam cắt ngang một kiếm vào giữa chưởng Bẹc-Nác, rồi đảo kiếm lên đỡ kiếm của y. Choảng một tiếng, hai kiếm chạm nhau tóe lửa trên không trung. Cả hai cùng cảm thấy cánh tay tê rần. Biết rằng nội lực ngang nhau.
    Thuận-Tường hỏi Tự-Mai:
    - Đại ca! Không biết Ngô sư thúc có thắng được thằng qủy kia không?
    - Thắng! Nhất định Ngô tiền bối thắng.
    - Bằng vào lý nào đại ca bảo Ngô sư thúc thắng?
    - Khi nội lực ngang nhau, sự thắng bại trông vào kiếm thuật. Kiếm thuật phái Hoa-sơn hiện đứng đầu Trung-nguyên, bọn Tây-vực muôn ngàn lần không bì kịp.
    Sự thực nếu dùng kiếm không, chỉ trong vòng trăm chiêu Ngô Nam thắng Bẹc-Nác dễ dàng. Nhưng võ công Tây-vực lại phối hợp kiếm, chưởng rất nhịp nhàng. Trong khi Ngô Nam không dám đối chưởng với Bẹc-Nác, vì úy kị độc công.
    Trận đấu sang đến chiêu thứ hai trăm, vẫn bất phân thắng bại. Thình lình Bẹc-Nác quát lên một tiếng như sét nổ, y lao sát vào người Ngô Nam, hai tay nắm kiếm, bổ xuống một chiêu bằng tất cả sức lực. Ngô Nam phải đưa kiếm đỡ. Choảng! Hai kiếm cùng bị gẫy.
    Bẹc-Nác cắn môi cho máu cháy ra, phun vào mặt Ngô-Nam. Hai người đứng qúa gần nhau, Ngô tránh không kịp. Y đành dùng cùi chỏ thúc vào ngực đối thủ. Binh một tiếng, tiếp theo hai ba tiếng lắc cắc. Bẹc-Nác bị bật tung trở lại, miệng y phun máu như vòi nước. Y quằn quại mấy cái, rồi không bò dậy được nữa.
    Bắc-Sơn lão nhân cười ha hả:
    - Trong ba trận, Tống thắng hai. Như vậy Tây-vực bị thua rồi. Mong...
    Lão chưa nói hết lời, Ngô Nam kêu thét lên, tay ôm mặt tỏ vẻ đau đớn khủng khiếp. Bấy giờ mọi người mới biết Bẹc-Nác phun máu có chất độc vào mặt Ngô-Nam.
    Cút-Độp cười lớn:
    - Bên Tây-vực thắng. Bởi nhị đệ chỉ bị thương, điều trị trong hơn tháng sẽ khỏi. Còn tên Ngô-Nam kia sắp chết đến nơi rồi.
    Thuận-Tường thấy sư thúc đau đớn, nàng nói với Tự-Mai:
    - Trần đại ca! Đại ca cho tiểu muội một viên thuốc, cứu Ngô sư thúc. Tiểu muội muôn vàn cảm tạ.
    Lê Văn nghe Thuận-Tường hỏi xin thuốc. Nó vẫy tay:
    - Tự-Mai khoan, để em xem lại thương thế Ngô tiền bối đã. Không phải thuốc giải nào cũng trị được mọi chất độc.
    Nó tiến tới bắt mạch, xem xét vết thương cho Ngô Nam. Mọi người im lặng chờ đợi. Đâu đó vẳng giọng phụ nữ, nói tiếng Việt:
    - Le te ra bộ ta đây. Đến lão Hồng-Sơn có mặt chưa chắc đã làm gì được, huống hồ thằng nhóc con kia.
    Mọi người nhìn lại, thì ra mụ điếm già Anh-Tần. Mụ ngồi cạnh tên Mô-Lỗ. Tay Mô-Lỗ nắm lấy tay mụ, như đôi tình nhân trẻ.
    Lê Văn cười nhạt:
    - Không hề gì! Độc chất chỉ ở ngoài da. Dùng Thiền-công trị được. Song ở đây không ai đủ Thiền-công có thể đẩy chất độc ra. Xin tiền bối an tâm, lát nữa Vương-phi Khai-Quốc vương giá lâm, người có thể trị cho tiền bối. Tại hạ tạm dùng châm cứu làm cho Ngô tiền bối bớt đau.
    Nói rồi nó cầm kim châm vào huyệt Hiệp-cốc, rồi xoay kim. Khoảng nhai dập miếng trầu, Ngô Nam cảm thấy bao nhiêu cái đau đớn biến mất. Y rùng mình đứng dậy chắp tay xá Lê Văn:
    - Đa tạ Lê công tử.
    Y nhặt kiếm, chỉ vào mặt Bẹc-Nác, nói với Cút-Độp:
    - Nếu người cho rằng tên Bẹc-Nác thắng, vậy y hãy cầm kiếm tái đấu.
    Gian xảo, lưu manh, lật lường thuộc yếu quyết trong Hồng-thiết kinh. Bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo đều thuộc mằm lòng. Cút-Độp cãi:
    - Như vậy không kể. Nếu cứ để nguyên ắt mi sẽ chết. Đây mi nhờ tên bé con kia trị bệnh, tức trợ giúp. Có người trợ giúp coi như thua.
    Vương Lệ-Ngọc quát lên:
    - Thế hồi nãy bọn mi không vực tên Bẹc-Nác đó ư. Theo lý luận của mi, chính bọn mi thua trước.
    Cút-Độp không cãi được nữa. Y nói ngang:
    - Như vậy trận này coi như hoà. Then chốt quyết định thuộc trận thứ ba. Nào bên Tống, ai giám ra đấu với bọn ta?
    Thuận-Tường hỏi Tự-Mai:
    - Vương phi Khai-Quốc vương là ai vậy?
    - Là chị gái của tại hạ. Công lực người cao không biết đâu mà lường. Người hiện ở dưới chân núi Tản-Viên.
    Nghe đến vương phi Khai-Quốc vương, mụ điếm già Anh-Tần cùng tên đồ đệ Nguyễn Qúy-Toàn giật bắn người lên. Mụ ôm vội lấy tên Mô-Lỗ như cầu sự che chở. Còn tên Qúy-Toàn, nó núp sau mụ.
    Biết có lý luận cùng bọn mọi rợ Tây-vực cũng vô ích. Bắc-Sơn lão nhân nói với Tây-Sơn lão nhân:
    - Sư đệ. Mong sư đệ xuất thủ cho. Nhất thiết không thể nhân nhượng với bọn này.
    Tây-Sơn lão nhân khoan thai bước ra đấu trường. Lão hướng vào Đặng Đại-Khê:
    - Đặng tiên sinh! Lão phu xin tiên sinh ban cho một đặc ân.
    Đại-Khê đáp lễ:
    - Không dám. Tiền bối có điều chi dạy bảo?
    Lão nhân chỉ vào bọn Cút-Độp:
    - Anh em chúng tôi tới Tản-lĩnh tuy có chỗ hiểu lầm, song vẫn giữ lễ với quý phái, với thánh Tản. Còn bọn Hồ-lỗ ma quỉ này chưa được giáo hóa, lại không có phong khí, chẳng luân thường. Lão phu xin tiên sinh cho mượn thanh kiếm trên bàn thờ thánh Tản. Bởi chỉ có uy vũ của đức thánh mới trị được bọn ma đầu mà thôi.

    Trong Hoa-Sơn tứ lão, Tây-Sơn lão nhân vốn xuất thân giới khoa bảng. Ông đã đỗ tiến sĩ, nhưng chán thế tục, qui ẩn trên Tuyệt-phong thuộc núi Hoa-sơn. Vì vậy lời lời của ông rõ ra kẻ có văn học. Ông biết anh em mình bị hố trong vụ thụ phong núi Tản, e gây thù với phái này. Vì vậy ông tỏ vẻ tôn kính thánh Tản, hầu mua chuộc lòng người Việt.
    Quả nhiên Đặng-đại-Khê hướng bàn thờ vái ba vái, rồi trịnh trọng cầm thanh kiếm gỗ sơn sơn thiếp vàng trao cho Tây-Sơn lão nhân. Hai tay lão kính cẩn tiếp kiếm, hướng bàn thờ lễ ba lễ:
    - Đệ tử từng nghe uy danh đại thánh trấn động trời Nam. Hôm nay đệ tử cúi đầu kính xin thánh ban uy trị bọn ma quái này.
    Ông rút kiếm ra, mọi người bật lên tiếng ồ lớn, vì đó là thanh kiếm gỗ sơn thiếp vàng. Cút-Độp thấy kiếm gỗ, y cười khẩy:
    - Kiếm gỗ mà đòi đấu với ta ư? Mi muốn tự tử sao?
    Tây-Sơn lão nhân cười nhạt:
    - Khi có oai thánh, đù ngọn cỏ, lá cây cũng thành sắt thép.
    Ông vung kiếm một cái, mọi người hoa mắt, chỉ thấy một vừng vàng lóng lánh bao trùm người Cút-Độp. Cút-Độp kinh hãi, nhảy lùi liền ba bước, mặt tái mét. Y nhìn lại, Tây-Sơn lão nhân đã tra kiếm vào vỏ, thái độ nhàn tản, như người ngắm cảnh.

    Phái Hoa-Sơn được cầm đầu bới Hoa-Sơn tứ lão. Dưới tứ lão có thất hùng. Hơn mười năm qua, Hoa-Sơn tứ lão nổi danh khắp Trung-nguyên về võ đạo cũng như võ công. Tứ lão có rất nhiều đệ tử thành danh về đủ mọi phương diện. Chỉ nguyên quan trường, hai đệ tử của Đông-Sơn lão nhân, hiện giữ trọng trách. Dư Tĩnh trong chức vụ Kinh-lược an phủ sứ Quảng-Đông Nam-lộ, một biên cương trọng thần trấn nhậm biên giới tiếp giáp với Đại-Lý, Đại-Việt. Mới đây, Địch Thanh oai trấn quần hùng, đạt võ trạng.
    Hôm đại hội Lộc-hà, dù Mỹ-Linh luyện thành kiếm pháp Long-biên, mà cũng phải khó nhọc lắm mới thắng được lão. Hôm nay, trên Tản-lĩnh, hai cao thủ Bắc, Nam-Sơn lão nhân bị Đặng Đại-Khê đả bại trong trường hợp không rõ ràng, khiến toàn phái ấm ức trong lòng. Kế tiếp bốn trong thất hùng bị hai thiếu niên hút mất công lực, trong khi họ chưa tỏ được bản lĩnh.
    Bây giờ Tây-Sơn lão nhân mới trổ thần uy trước mặt mọi người.
    Cút-Độp hú lên một tiếng, y tung kiếm tấn công Tây-Sơn lão nhân ba chiêu, cùng ba chưởng. Chỉ thấy thấp thoáng, Tây-Sơn lão nhân di chuyển thân mình qua phải, rồi trái. Kiếm của Cút-Độp ba lần như sắp trúng người lão, mà đều trượt ra ngoài.
    Ba chiêu không trúng đối thủ, y ngừng lại quan sát, rồi đánh liền năm chiêu. Tây-Sơn lão nhân bước qua phải, rồi trái, lùi lại sau. Những chiêu kiếm Cút-Đột đều đánh vào quãng không.
    Tôn Đản thấy hiện tượng kỳ lạ nó hỏi Đặng Đại-Khê:
    - Sư bá! Võ công Tây-Sơn lão nhân là võ công gì vậy?
    Đặng Đại-Khê chỉ xuống chân lão:
    - Cháu xem kìa, lão di chuyển thân mình theo quẻ Bát-quái của vua Phục-Hy. Nếu lão đấu với võ lâm Việt-Hoa, lập tức bị bại ngay. Vì chúng ta ai cũng biết thuật này. Còn bọn Cút-Độp vốn thuộc Tây-vực, nào biết gì về Tiên-thiên bát quái?
    Mặc cho Cút-Độp đâm phải, chém trái, chiêu số dũng mãnh, kình lực phát ra vo vo. Tây-Sơn lão nhân cứ trơn tuột như con trạch. Đánh trên ba trăm chiêu, Cút-Đột nhảy lùi lại. Y lắc đầu:
    - Như vậy không kể. Từ đầu đến cuối, mi trốn chạy không dám trực diện đấu với ta, coi như mi thua!
    Tây-Sơn lão nhân cười ha hả:
    - Bọn mi quả thực thuộc loại Hồ-lỗ. Ta dùng Tiên-thiên bát quái dạy cho mi lẽ biến hoá vô cùng của vũ trụ, mà mi không biết. Lại đây, lại đây, ta giáo hoá mi một loại văn hoá Việt-Hoa.
    Cút-Độp phóng một kiếm giữa ngực Tây-Sơn lão nhân. Lão cũng phóng chiêu vào ngực y, giống như lối đánh thí mạng, cả hai cùng chết. Hai mũi thanh kiếm chạm vào nhau, rồi dính chặt. Cả hai cùng vận nội lực, mong trấn động gẫy kiếm của đối thủ.
    Mọi người nín thở. Vì khi hai mũi kiếm chống nhau, kiếm bên nào gẫy, coi như mất mạng. Trận đấu này không phải kẻ thắng, người bại, mà kẻ chết người sống.
    Nhìn trận đấu, ai cũng biết công lực Tây-Sơn lão nhân cao hơn Cút-Độp một bậc, vì kiếm của Cút bằng thép, trong khi kiếm của lão bằng gỗ. Nên khó biết ai sẽ thắng. Cả hai phát huy nội lực đến chỗ cùng độ.
    Khoảng ăn xong bữa cơn, thanh kiếm của Cút-Độp từ từ cong lại, mặt y đỏ gay. Trong khi Tây-Sơn lão nhân phiêu phiêu, hốt hốt miệng mỉm cười tươi như hoa.
    Bọn Tây-vực hò hét trợ oai. Trải qua mấy khắc nữa, mồ hôi Cút-Độp rơi lách tách trên nền nhà, mặt y đỏ như gấc. Bỗng y thét lên một tiếng, kiếm của y gẫy làm ba bốn mảnh. Y lộn một vòng, bắn vọt ra xa, miệng ri rỉ mấy vệt máu.
    Tây-Sơn lão nhân vọt theo, chĩa kiếm vào ngực y hỏi:
    - Trung ương sứ giả, người chịu thua chưa?
    Cút-Độp nói trong hơi thở:
    - Ta nhất định không chịu thua người.
    - Nếu người không đầu hàng, ta đẩy kiếm tới, ngực người sẽ thủng một lỗ lớn.
    - Trường hợp này lọ là còn phải nói. Nếu người đục lỗ lớn, thì con bà nó, ta chết, chứ ngực đâu có lỗ lớn được! Mi tưởng ta sợ chết ư? Ta thích chết lắm.
    Nói rồi y lao mình về phía trước. Mọi người thấy y tự tử đều khoan khoái:
    - Cho rồi đời bọn độc.
    Nhưng binh một tiếng, ngực Cút-Độp nổ tung, nước bắn toé ra xung quanh. Tây-Sơn lão nhân nhảy lùi liền ba bước, nhưng vẫn không tránh khỏi nước bắn vào người.
    Thì ra ngực Cút-Độp đeo một túi đựng nước độc. Khi thấy kiếm Tây-Sơn lão nhân chĩa vào ngực. Y lao tới. Bình nổ tung, nước độc bắn ra xung quanh. Thanh kiếm của Tây-Sơn lão nhân đâm thủng ngực y thấu tới lưng. Máu tuôn ra xối xả.
    Mùi hôi thối xông ra, Tây-Sơn lão nhân biết đó là nước kịch độc. Ông vội dùng tay áo lau mặt. Nhưng không kịp, ông cảm thấy ngứa ngáy cực kỳ khó chịu. Ông hỏi Nhị-Bách:
    - Xin nhị gia cho xin ít nước rửa thuốc độc.
    Nhị-Bách chưa kịp trả lời, thình lình Tây-Sơn lão nhân kêu lên tiếng ái, rồi ông ngồi xuống vận công chống độc. Bên kia, chất độc lẫn vào vết thương khiến Cút-Độp rên la thảm thiết.
    Bắc-Sơn lão nhân hỏi Đi Mi Trí:
    - Tây-phương sứ giả. Xin sứ giả ban thuốc giải, trị thương cho quý trung sứ cùng sư đệ lão phu.
    Đi Mi-Trí lắc đầu:
    - Thứ thuốc này không gì trị được. Người trúng phải, đau đớn trong ba ngày, thịt rữa mà chết.
    Cút-Độp móc trong túi ra bình thuốc, y lấy hai viên bỏ vào miệng. Khoảng nhai dập miếng trau, y trợn ngược mắt lên, không động đậy.
    Lê Văn tiến lên bắt mạch y. Nó lắc đầu:
    - Chết rồi.
    Thấy Cút-Độp tự tử, đám Hoa-Sơn biết Đi Mi Trí nói thực. Họ đưa mắt nhìn Lê Văn:
    - Lê công tử, liệu có hy vọng gì không?
    Lê Văn lắc đầu:
    - Tại hạ không biết chất độc này ra sao, nên đành bó tay.
    Đi Mi-Trí nói:
    - Trong ba trận đấu. Trận đầu Tống thắng. Trận thứ nhì hòa. Trận này Tống bại. Như vậy Hồng-thiết giáo thắng cuộc.
    Bắc-Sơn lão nhân chỉ Cút-Độp:
    - Người nói sai rồi! Rõ ràng trung sứ chết nằm đây. Trong khi Tây-Sơn lão nhân còn sống. Như vậy mà cũng cãi rằng thắng ư?
    - Chúng ta thắng, tên Tây-Sơn bị trúng độc đến bị thương sắp chết. Còn sư huynh ta, lão... lão tự uống thuốc để về thế giới người hiền Mã-Mặc, Lệ-Anh đấy chứ.
    Nghe lý luận chướng tai của Đi Mi Trí, đám Hoa-sơn cùng rút kiếm ra, định băm vằm chúng thành nhiều mảnh. Biết nguy cơ sắp đến, Đi Mi Trí cầm cây còi thổi lên lanh lảnh. Mọi người ngơ ngác tự hỏi:
    - Y thổi còi với ý định gì đây?
    Thiệu-Cực bước ra cười:
    - Tây-sơn sứ giả thổi còi xin tiếp viện ư? Xin báo tin buồn cho Tây sứ biết, tất cả người của các vị đều bị bắt hết rồi.
    Chàng hú lên một tiếng dài. Lập tức từ trong hang đá, một đoàn người lục tục chui ra. Tổng cộng hơn ba trăm. Tất cả đều bị trói tay dính vào nhau thành một xâu. Đi Mi Trí nhận ra là bọn thủ hạ của y với Đông-Thiên.
    Nguyên trước khi lên Tản-lĩnh, bọn Cút-Độp, Đông-Thiên phối trí hơn ba trăm giáo chúng quanh núi Tản. Chờ mọi người không đề phòng, chúng sẽ siết chặt vòng vây. Nào ngờ, khi còn ở dưới chân núi, Thiệu-Cực được chim ưng báo cho biết. Chàng gửi tin về Khu-mật viện Bắc-biên. Đại-tư-mã Thân Thừa-Phú nhận tin, lập tức phái một đạo binh vây chân núi Tản, bắt sạch gian đảng.
    Đi Mi Trí cười nhạt:
    - Bọn mi thực mặt dày, đấu võ bị thua, rồi dùng số đông áp chế chúng ta.
    Thiệu-Cực cười nhạt:
    - Các người hẹn đấu với phái Hoa-sơn, chứ có đấu với bọn ta đâu? Ví dù phái Hoa-sơn có bại, tha cho bọn mi đi, đây thuộc lãnh địa Đại-Việt, ta cũng không cho các người rời khỏi Bắc-biên.
    Bỗng có tiếng nói từ xa vọng lại:
    - Ví dù Thân thế-tử tha cho các người rời khỏi Bắc-biên, phái Đông-a quyết đuổi bọn mi đến Tây-vực giết không tha một tên nào.
    Nghe tiếng nói, Tự-Mai gọi lớn:
    - Bố! Bố đến bao giờ vậy?
    Tiếng Trần Tự-An nói:
    - Chúng ta xuất hiện thôi.
    Hai bóng người từ trên cây đáp xuống nhẹ nhàng, chính là Trần Tự-An với Hồng-Sơn đại phu. Một bóng vàng núp sau bụi hoa ngâu từ từ bước ra, chính là Minh-Không thiền sư. Đúng lúc đó, một bóng nâu, cỡi trên lưng con nai từ dốc núi đi lên, mọi người nhìn lại, thì ra sư thái Tịnh-Tuệ.
    Mặt Bắc-Sơn lão nhân tái đi, trông thực khó coi. Lão than:
    - Không hiểu có việc gì, mà ngũ-long Đại-Việt cùng lên đây.
    Hồng-Sơn đại phu chĩa ngón tay điểm vào huyệt Bách-hội Tây-Sơn lão nhân đến một cái. Lão rùng mình, bao nhiêu cái đau đớn biến mất. Đại phu xoa đầu Lê Văn:
    - Thằng cà chớn, được lắm, bố có lời khen. Hết cà chớn rồi.
    Ông chỉa ngón tay điểm vào huyệt Nội-quan Ngô Nam. Véo, véo hai tiếng. Người Ngô Nam tiết ra mùi hôi khủng khiếp. Y rùng mình một cái đứng dậy, vận công. Y thấy chân khí lưu chuyển như thường, biết rằng đã thoát ách.
    Tây-Sơn lão nhân, Ngô Nam đến trước Hồng-Sơn đại phu tạ ơn. Đại phu vẫy tay ra hiệu miễn lễ:
    - Đã là võ lâm đống đạo, sao Tây-Sơn lão sư lại khách sáo thế?
    Đặng Đại-Khê hỏi Minh-Không:
    - Đại sư! Xin đại sư chỉ cho cách an trí bọn Hồng-thiết Tây-vực này.
    Minh-Không nói với Thiệu-Cực:
    - Chúng ta để Khu-mật viện Bắc-biên giải quyết.
    Tự-An lắc đầu:
    - Giải quyết bọn tà ma, độc hại gây rối loạn đất nước, thuộc nhiệm vụ bất cứ con dân Đại-Việt nào. Chứ trao cho quan nha, chẳng hóa ra chúng ta quên mất chủ đạo tộc Việt từ Phục-Hy, Thần-Nông, Hùng-vương, An-dương vương ư?
    Ông nói với Thiệu-Cực:
    - Thân thế-tử! Thế-tử về tâu lại với vua Bà Bắc-biên rằng hôm nay Trần mỗ mạn phép xử lý bọn tà ma này. Nếu vua Bà cho rằng mỗ phạm tội. Việc đây xong, mỗ thân đến động Giáp chịu tội với vua Bà.
    Ông nói với nhóm người Hoa-sơn:
    - Các vị huynh đệ Hoa-sơn. Các vị đừng ngạc nhiên. Mỗi dân tộc có một chủ đạo riêng. Người dân theo đó mà hành xử. Như bên Trung-quốc, vua tức con trời, do trời sai xuống trị vì Thiên-hạ. Khắp Thiên-hạ phải trung thành, qui phục vua. Vua muốn bầy tôi chết, mà bầy tôi không chết, coi như bất trung.
    Tây-Sơn lão nhân gật đầu:
    - Đúng như đại hiệp nói. Nguyên văn câu đó trong Luận-ngữ. Hiện Tống triều dùng Nho học trị dân. Vì vậy những gì nói trong Tứ-thư, Ngũ-kinh không thể thay đổi.
    Tự-An cười lớn:
    - Từ xưa tộc Việt theo bộ Thiên-địa kinh. Thiên địa kinh viết vào thời vua Hùng thứ ba, tức trước Tứ-thư, Ngũ-kinh đến hơn hai nghìn năm.
    Thiên Trị Tắc nói rằng :
    - Nhà có lề luật của nhà. Khi nhiều nhà sống với nhau thành xóm, thành làng, tự nó có những qui ước chung, gọi bằng tục. Nhiều xóm làng thành nước, tự nhiên qui ước đó thành luật. Nhà có cha, có mẹ. Xóm làng có lý dịch, do dân cử. Nước, tôn người hiền lên làm vua.
    Tây-Sơn lão nhân gật đầu tán thành:
    - Đạo lý đó, chỉ bậc thánh minh mới thi hành được. Bên Trung-quốc, cổ thời vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn. Vua Thuấn nhường ngôi cho vua Vũ. Đến vua Vũ, nhường ngôi cho con, đức kém đi một độ.
    Hồng-Sơn đại phu đưa mắt nhìn Thuận-Tường cười:
    - Hạ, Thương, Chu còn giữ được di sản Tam-hoàng. Từ khi nhà Hán lên làm vua, người ta dùng sức mạnh, dùng đao thương, hình pháp bắt dân qui phục. Hoá cho nên, đất nước không còn của dân nữa, mà của riêng một nhà, một giòng họ.
    Ông nhấn mạnh:
    - Thời Tây-Hán, Vương Mãng tàn bạo, cướp ngôi vua, thế mà cũng xưng rằng theo lối Nghiêu nhường Thuấn. Thuấn nhường Vũ. Rồi Tào Phi cướp ngôi Hán Hiến-đế cũng nêu Nghiêu, Thuấn, Vũ ra làm mộc che các mũi dùi dư luận. Gần đây Chu cướp ngôi Hán. Tống cướp ngôi Chu. Chủ đạo cử hiền hoàn toàn mất. Vì vậy việc vua, việc quan thuộc quan nha. Dân chúng võ lâm thờ ơ.
    Thuận-Tường đưa mắt cho Tây-Sơn lão nhân. Lão chắp tay vái Tự-An, rồi hỏi:
    - Nếu bảo chủ đạo cử hiền bên Trung-quốc suy thoái, thế bên Giao-chỉ thì sao? Lê Hoàn chẳng cướp ngôi của ấu quân đó ư? Lý Công-Uẩn cướp ngôi họ Lê. Phái chăng chủ đạo tộc Việt như thế đó?
    Tự-An chỉ Tự-Mai:
    - Con trả lời tiền bối đi.
    Tự-Mai xá Bắc-Sơn lão nhân:
    - Tiền Bối chỉ biết một mà không biết hai. Trở lại bên Đại-Việt. Khi vua Hùng thứ tám mươi tám hôn ám vô đạo. Quần hùng tôn vua An-Dương lên thay. Đến thời Lĩnh-Nam, một trăm sáu mươi hai hào kiệt khởi binh, tôn vua Trưng làm chúa. Tiếp theo đời Lý, đời Ngô, đời Đinh đều theo lối cử hiền. Khi vua Thái-tông bên quý quốc đem quân sang đánh Đại-Việt, vua còn nhỏ. Võ lâm tôn Lê Hoàn lên làm vua. Lại khi vua Ngọa-triều băng. Võ lâm lại tôn Lý Công-Uẩn thay thế. Đó chẳng theo lối cử hiền ư?
    Nó nhấn mạnh:
    - Chủ đạo tộc Việt định rằng: Việc xây dựng, phòng gian nhân hại nước thuộc mọi người, không thuộc triều đình. Cho nên hôm nay, bố tôi quyết định xử tội mấy tên ma đầu Tây-vực này.
    Nói quay lại hỏi bố:
    - Tội bọn này, bố xử ra sao?
    Tự-An cười lớn:
    - Con cứ chờ, sẽ thấy.
    Ông cúi xuống đất bốc hai nắm sỏi. Tay trái ông vung lên. Cả nắm sỏi hướng bọn thủ hạ Hồng-thiết. Những tiếp lốp bốp, cùng tiếng rú thê thảm vang lên. Hơn hai mươi tên đều bị sỏi chui vào trong đầu. Chúng lảo đảo, quay tròn tròn rồi ngã lăn xuống đất.
    Minh-Không, Tịnh-Tuệ đều bật lên tiếng:
    - A-di-đà Phật.
    Tự-An lại vung tay nữa hơn ba mươi tên ngã xuống. Ông chỉ vung tay có hai mươi lần, trên ba trăm tên chết la liệt bên nhau. Ông hất hàm cho Đi Mi Trí:
    - Ta đánh người một chưởng. Nếu người đỡ được, ta thân đưa người về Tây-vực.
    Ông vung tay phát chiêu. Đi Mi Trí phát ngũ độc chưởng đỡ. Binh một tiếng, người y bay bổng lên cao, rơi xuống người Bẹc-Nác. Cả hai cùng rú lên như lợn bị chọc tiết, xương thịt vỡ làm năm sáu mảnh, ruột gan tung tóe.
    Hiện trường dù Hán, dù Việt đều kinh hoàng. Minh-Không, Tịnh-Tuệ chắp tay niệm:
    - A-di-đà Phật.
    Tư-An bảo Mô Lỗ:
    - Người đỡ đi. Ta phát chưởng đây!
    Ông vừa vung tay lên, thì véo, véo. Hai viên đá hướng Mô Lỗ, Du La. Bộp, bộp hai tiếng. Hai viên đá chui vào đầu hai người. Hai người gục xuống như ngủ.
    Minh-Không niệm:
    - A-di-đà Phật. Tội quá, tội quá.
    Tự-An cười ha hả:
    - Minh-Không đại sư đắc quả thành Bồ-tát, lấy từ bi hỉ xả phổ độ chúng sinh làm gốc. Song Trần mỗ xuất thân nghĩa hiệp. Môn qui phái Đông-a lấy chủ đạo tộc Việt làm gốc. Mỗ hành xử như vậy, giống như tru diệt ma vương quỷ dữ. Diệt quỷ dữ là có Phật tính vậy. Sau này Diêm-vương hỏi sao mỗ giết chúng, mỗ sẽ đáp : Tự-An này vốn con rồng cháu tiên, chỉ biết giữ nước. Khi bọn gian đến mưu hại tộc Việt, mỗ giết không tha. Diêm-vương chứ Ngọc-Hoàng đại đế kết tội, mỗ đếch cần.
    Đại-Việt ngũ long vốn biết Tự-An từ lâu. Ông bác học, đa năng. Thông thường ông ôn nhu văn nhã, dễ chịu vô cùng. Khi nói đến bọn cướp nước, bán nước lập tức ông văng tục liền. Vì vậy không ai giận ông cả.
    Ông đưa mắt nhìn đám Hoa-sơn một lượt. Mọi người đều cảm thấy lạnh người. Ông dừng lại trước Thuận-Tường:
    - Triệu cô nương! Cô nương cho rằng ta ra tay nặng qúa chăng? Song chủ đạo tộc Việt thế đó.


    <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 02:24:36 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 18.01.2005 18:15:00 (permalink)
      Hồi thứ tám mươi tám


      Chủ đạo tộc Việt



      Ngoài ngũ long Đại-Việt, đám Tôn Đản, còn lại không ai hiểu chủ đạo tộc Việt ra thế nào. Thuận-Tường hỏi sẽ Tự-Mai:
      - Ông này là gia gia đại ca hả? Sao ông ác quá vậy? Ông vung tay mấy cái giết hơn ba trăm người, rồi ông lại bảo đó là chủ đạo tộc Việt!
      Tuy Thuận-Tường nói nhỏ, mà mọi người đều nghe rõ. Tự-An đưa mắt nhìn. Ông thấy một thiếu nữ mười lăm, mười sáu tuổi phê phán mình. Ông mỉm cười vẫy tay:
      - Tiểu cô nương! Tiểu cô nương phương danh Triệu phải không? Nghe giọng nói, dường như tiểu cô nương từ Biện-kinh tới, chứ không phải từ Lưỡng-Quảng hay vùng Hoa-sơn. Nào tiểu cô nương ra đây, ta sẽ vì tiểu cô nương mà nói về chủ đạo tộc Việt.
      Thuận-Tường núp sau Bắc-Sơn lão nhân:
      - Ông dữ quá, tôi không ra đâu. Lỡ tôi ra, ông vung tay một cái, thịt xương tôi nát hết.
      Triệu Tiết đang nằm dưỡng thương, nó biết Tự-An là cha Tự-Mai, được dịp nó trả thù:
      - Lão này thực ác độc hơn qủi sứ. Sư muội mà ra, lão xé xác sư muội rồi nướng ăn không chừng.
      Bọn Hoa-sơn nghe Triệu Tiết nói, họ đều cảm thấy lạnh xương sống lo cho nó. Bắc-Sơn lão nhân quát lên:
      - Im mồm. Mi không được vô lễ.
      Triệu Tiết liều lĩnh:
      - Y ác thực, đệ tử nói y ác. Dù y ăn tươi nuốt sống đệ tử cũng nói rồi chết cho cam tâm.
      Tự-An nghe Triệu Tiết phê phán mình. Ông bật cười:
      - Cháu nhỏ! Trên đời này chưa từng một ai xung chàng với ta mà yên thân. Được, cháu có đởm lược khí phách nam nhi đại trượng phu. Ta không giết cháu đâu. Cháu như vậy mới xứng đáng sĩ khí của Nho gia.
      Sự thực Triệu Tiết khôn ngoan vô cùng. Nó biết Tự-An võ công cực cao, danh vọng cực lớn. Đời nào lão ra tay đánh bọn tiểu bối đã bị thương như gã. Vì vậy gã nói cho sướng miệng, lại tỏ ra can đảm trước người yêu.
      Tự-Mai vẫy Thuận-Tường:
      - Cô nương đừng sợ. Bố tại hạ chỉ giết bọn cướp nước, bọn ác bá mà thôi. Ngược lại người rất thương yêu bạn hữu của con, của đệ tử. Cô nương là bạn của tại hạ đời nào người hại cô nương!
      Tự-An hướng Thuận-Tường vẫy tay hai cái. Nàng không tự chủ được, bay bổng lên. Bắc-Sơn lão nhân la lớn:
      - Xin nhẹ tay cho!
      Người Thuận-Tường còn lơ lửng trên không, Tự-An phất tay cái nữa, nàng rơi nhẹ nhàng trên lưng con hùm xám của Bảo-Hòa, giống như vọt lên cỡi vậy.
      - Xin đừng sợ, ông kễnh của tôi không xơi thịt cô nương đâu.
      Thiệu-Cực bật lên tiếng trấn an Thuận-Tường. Chàng nói với Bắc-Sơn lão nhân:
      - Lão nhân yên tâm. Tịểu bối sợ Trần đại hiệp yêu thương Thuận-Tường hơn cả Tự-Mai. Người muốn kiếm cho cô nương cái nệm ngồi, hầu nghe nói về chủ đạo của tộc Việt, tộc Hoa.
      Tự-An nhìn Thiệu-Cực mỉm cười:
      - Ta đã nói gã chăn trâu Lý Công-Uẩn thực không uổng đời người khi sinh ra được vua Bà Bắc-biên với Khai-Quốc vương. Thế-tử, nếu ta là Khai-Quốc vương ta cử thế-tử làm tể tướng. Thế tử có con mắt tinh đời như vậy, mà làm tể tướng, ta e vua Hùng sống lại cũng phải hài lòng.
      - Đa ta đại hiệp quá khen.
      Con hùm từ từ nằm xuống. Nó liếm tay Thuận-Tường tỏ vẻ thân ái. Được Thiệu-Cực trấn an, Thuận-Tường bớt sợ. Nàng vuốt ve đầu con cọp, hướng Tự-An:
      - Trần đại hiệp. Con cọp này dễ thương quá. Đại hiệp bán cho tiểu nữ đi. Trong vườn thượng...
      Bắc-Sơn lão nhân tằng hắng một tiếng, Thuận-Tường im bặt. Nàng đưa mắt nhìn sư phụ, rồi tiếp:
      - Trong vườn thượng, vườn hạ nhà tiểu nữ cũng nuôi nhiều thú như nai, hoẵng, công, trĩ, mà không có con cọp nào cả.
      Tự-Mai nghĩ thầm:
      - Lý ra, Thuận-Tường là đệ tử nhỏ bé của Bắc-Sơn lão nhân. Cho rằng nàng được sư phụ cưng chiều. Song có đâu họ lại để nàng ngồi trên Hoa-sơn thất hùng đều vai sư thúc của nàng. Vừa rồi nàng buột miệng nói ra câu vườn thượng. Bắc-Sơn lão nhân tằng hắng, làm nàng phải chữa. Vậy nàng là ai? Ta phải dò cho ra. Vườn thượng gì của nhà nàng mà phải dấu diếm? Thượng-kinh ? Thượng du ?
      Tự-An chỉ Thiệu-Cực:
      - Hùm này vốn của vua Bà Bắc-biên nuôi làm lính biên phòng. Cô nương muốn mua, xin hỏi Thân thế-tử đây.
      Thiệu-Cực là người tinh minh, mẫn cán số một số hai thời Thuận-Thiên. Sử chép, chàng có đủ đức tính của một vị biên cương đại thần: Mưu, trí, dũng, nhân, tín. Tài chàng chỉ thua có hai người. Một là cậu ruột tức Khai-Quốc vương, hai là mẫu thân tức vua Bà Bắc-biên.
      Từ lúc Thuận-Tường xuất hiện, nàng từ ác cảm với Tự-Mai, tiến tới chỗ thân mật. Thoáng một cái chàng đã hiểu:
      - Hoa cũng thế, Việt cũng vậy, tình cảm trai gái không có biên giới nào ngăn cách được. Tự-Mai ghép cậu hai với Thanh-Mai. Cậu hai tìm cách tác thành cho anh Thiệu-Thái với Mỹ-Linh, Thanh-Trúc với mình. Mỹ-Linh lại mở đường cho Thuận-Tông, Thiện-Lãm với Kim-Thành, Trường-Ninh. Tại sao ta không tác thành cho Tự-Mai với Thuận-Tường? Tình Việt duyên Hoa. Lương duyên Lý-Tống càng thêm đẹp.
      Hơn ai hết, hiểu về mối tương quan Hoa-Việt. Thiệu-Cực quản lĩnh Khu-mật-viện Bắc-biên, chàng thông suốt hết những tranh chấp, những tình cảm, những bất đồng, tương đồng của dân Việt-Hoa vùng Bắc biên. Mạ mạ chàng muốn giữ nguyên đất nước, không để bị mất một thước. Vì để Tống lấn một thước, họ sẽ quen đà lấn mãi, rồi mất nước lúc nào không hay. Tống lại ỷ thế lớn, biên cương đại thần hống hách với quan nha Việt. Hiện hai bên cùng cố tranh dành ảnh hưởng 207 khê động.
      Tống dùng lối tằm ăn dâu, lấn dần bằng cách đe dọa, phủ dụ với mồi công danh, tiền bạc, lôi kéo các động chủ về với mình. Khi các khê động theo Tống hết, Đại-Việt chỉ còn đồng bằng miền Bắc, bấy giờ không đánh, họ cũng chiếm được.
      Ngược lại chính sách Bắc biên triều Lý cũng tỏ ra cực kỳ cương quyết. Công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hòa khi ôn, khi nhu quyết không để một châu động nào mất về Tống.
      Viêt hay Hoa. Tống hay Lý tranh dành nhau bằng tế tác, bằng võ công, bằng binh lực, khiến dân chúng bị ảnh hưởng lây. Có điều Lý lấy chủ đạo tộc Việt trị dân, được các khê động qui phục. Tống lấy hình pháp bắt dân theo, dân sợ mà nghe lệnh.
      Dù Tống, dù Lý thế nào với nhau, dù biên giới có phân. Nhưng có mấy thứ, mà Lý, Tống không thể phân hai sắc dân ra được.
      Một là họ cùng thờ Phục-Hy, Thần-Nông. Họ cùng hành xử với giáo lý Nho. Họ cùng theo đạo Phật, cho nên họ cùng đến một ngôi chùa, cùng quỳ gối sám hối tội lỗi trước đấng từ phụ. Họ theo Phật, kính tăng. Khi họ kính lạy một vị tăng hay ni, họ không hề phân biệt tăng-ni ấy là Hoa hay Việt.
      Tống sử kể, niên hiệu Thuận-Thiên thứ mười ba (1022) nhân quân Tống tràn sang cướp phá. Dực-Thánh vương đem quân đánh tràn qua trại Như-hồng bên Tống, đốt phá. Hai tướng Tống, Việt đánh nhau đến trời long đất lở. Khi chiều xuống, nghe tiếng chuông thu không chùa Như-hồng đổ. Hai người cùng ngừng lại, vào chùa lễ Phật. Vị hoà thượng người Tống thuyết pháp. Cả hai cùng kính cẩn nghe, rồi đêm xuống, ai về trại đó.
      Hai là họ thương yêu, thông cảm với nhau trong cùng một khí hậu, cùng một thứ sản vật. Họ buôn bán, trao đổi hàng hóa, kết bạn với nhau. Nhất là họ kết thông gia. Người Hoa, người Việt ở nơi khác, khi dựng vợ, gả chồng cho con cái họ phân biệt nòi giống, chủng tộc. Dân Việt-Hoa ở biên giới không hề phân biệt điều đó.
      Vua Bà Bắc-biên rất cứng rắn. Nhưng bà chỉ cứng rắn với biên cương đại thần Tống muốn gây hấn với Đại-Việt. Trái lại, hai sắc dân hoà đồng với nhau, bà tỏ ra thích thú.
      Cho nên Thiệu-Cực thấy mối tình Tự-Mai, Thuận-Tường chớm nở, chàng nghĩ thầm:
      - Nếu Tự-Mai kết hôn với Thuận-Tường có nghĩa Đông-a kết hôn với Hoa-sơn. Khi hai đại môn phái Việt-Hoa kết thân với nhau, Lý-Tống càng dễ hoà hoãn. Bọn biên thần Tống cũng khó mà sinh sự với Đại-Việt.
      Chàng phe phẩy quạt lông, cười với Thuận-Tường:
      - Cô nương muốn nuôi ông ba mươi cũng dễ thôi. Tôi nói cho cô nương biết ông kễnh của tôi ngoan ngoãn dễ bảo lắm. Cô nương nuôi trong nhà như chó. Sai vặt được đủ truyện. Ông giữ trộm hay hơn chó, lại dùng làm ngựa cỡi được nữa.
      Thuận-Tường tươi nét mặt:
      - Thế tử bán bao nhiêu tiền?
      Thiệu-Cực chỉ Tự-Mai:
      - Cọp này mạ mạ tôi nuôi từ nhỏ, khôn ngoan như người. Trung thành hơn chó. Có loại người mua đắt mấy cũng không bán. Ngược lại có loại người muốn lại tặng không!
      Thuận-Tường mở to mắt nhìn Thiệu-Cực. Mắt nàng ướt như giọt sương thu buổi sáng. Ánh nắng chiếu vào khuôn mặt trái soan, làn da trắng hồng, mái tóc óng mượt. Nàng cất tiếng trong như gió Xuân:
      - Thân thế tử. Loại người nào được tặng không?
      Thiệu-Cực nhìn Tự-Mai:
      - Muốn được tặng ông kễnh này, phải có ba điều không và ba điều có.
      Thuận-Tường càng tò mò:
      - Những điều ấy ra sao?
      - Ba không như sau. Một là không phải loại bất trung bất hiếu, bất nghĩa. Hai là không phải loại trộm cướp, lưu manh, gian xảo. Ba là không phải loại có ác tâm với tộc Việt.
      Thuận-Tường vui vẻ:
      - Tất cả ba không tôi đều không hết. Thế còn ba điều có?
      - Ba điều này giản dị thôi. Một, phải hiểu chủ đạo tộc Việt. Hai, phải có công trong việc bảo vệ tộc Việt. Ba, phải là người Việt.
      Thuận-Tường xịu mặt xuống:
      - Hà! Tôi chưa hiểu chủ đạo tộc Việt ra sao. Đã không hiểu, đâu có thể lập công bảo vệ? Còn điều thứ ba, tôi sinh ra làm người Hoa. Tự... Diêm-vương cho tôi đầu thai làm người Hoa, chứ tôi nào có làm chủ được.
      Tôn Đản vốn cực kỳ thông minh. Nó hiểu ý Thiệu-Cực, xen vào:
      - Tại hạ nghĩ, cô nương muốn được hùm cũng dễ thôi.
      Mắt Thuận-Tường sáng rực lên:
      - Người... người nói sao? Làm cách nào? Ta... ta sẽ trọng thưởng, à quên, hậu tạ nhà ngươi. Ta quyết quên vụ người làm hai sư thúc ta bị trọng thương.
      Tôn Đản cười khì:
      - Tuy cô nương chưa hiểu chủ đạo tộc Việt, thế nhưng ở đây thiếu gì người biết, ai cũng có thể vì cô nương mà nói.
      - Được rồi, ta sẽ lắng tai nghe. Nhưng ta chưa hề có công trong việc bảo vệ tộc Việt bao giờ.
      - Thân thế tử có bắt cô nương phải bảo vệ chủ đạo tộc Việt đâu? Hiện trường có không biết bao nhiêu người, từ đời ông, đời cha, đã mang xương máu bảo vệ chủ đạo tộc Việt. Người đó có quyền xin ông kễnh, rồi tặng cô nương. Như vậy cô nương vẫn được cọp mà.
      Thuận-Tường thở phào một cái. Nàng liếc mắt trong như hồ thu nhìn Tự-Mai:
      - Này Trần đại ca!
      - Cô nương muốn sai bảo điều gì?
      - Tôi nghe đại ca thuộc giòng dõi ngài Trần Tự-Viễn. Đại ca hiểu thấu chủ đạo tộc Việt. Nhiều đời giòng họ Trần đem xương máu bảo vệ đất nước, mà không nhận tước phong triều đình. Như vậy đại ca có công bảo vệ chủ đạo. Điều thứ ba... phải là người Việt. Đương nhiên đại ca là người Việt. Đại ca xin con cọp này, rồi cho tiểu muội được không?
      Nhìn khuôn mặt thanh tú, đôi mắt cầu khẩn của Thuận-Tường. Hồn Tự-Mai bay bổng lên mây. Nhưng lời bố dạy trước đây vang lên bên tai nó:
      - Con phải nhớ. Bố làm chưởng môn phái Đông-a, nhưng con không phải ông chưởng môn con. Võ công phải luyện mới có. Danh dự phải do mình tạo ra. Bố không thể cho con được. Sau này, con ban ơn cho ai điều gì, phải nghĩ xem họ có xứng đáng không đã, chứ đừng nhắm mắt cho bừa, đôi khi thành ra hại họ.
      Nó khoan thai nói với Thuận-Tường:
      - Cô nương muốn nuôi ông kễnh này, mà lại yêu cầu tại hạ xin, rồi biếu cô nương. Như vậy không ổn. Nhưng tại hạ sẽ vì cô nương mà tạo cho cô nương có đủ điều kiện được tặng cọp.
      - Điều kiện ư? Tiểu muội không đủ.
      Thuận-Tường buột miệng nói: Đại ca tạo cho tiểu muội thế nào. Xin nói rõ hơn.
      - Điều thứ nhất, tại hạ sẽ vì cô nương mà nói về chủ đạo tộc Việt. Điều thứ nhì, từ nay cô nương nhất tâm, nhất chí giúp người Việt bảo vệ chủ đạo. Như thế cũng coi như có công. Còn điều thứ ba...
      Nó suy nghĩ rồi tiếp:
      - Cô nương sinh tại đâu?
      - Tiểu muội sinh tại Trường-sa.
      Thiệu-Cực, Tôn Đản, Tự-Mai cùng reo lên:
      - Hay quá!
      - ???
      - Theo luật Đại-Việt. Ai sinh đẻ trên đất Việt, sẽ thành người Việt. Cô nương sinh tại Trường-sa. Trường-sa nằm phía Nam hồ Động-đình. Mà hồ Động-đình vốn thuộc lãnh thổ tộc Việt. Chính nơi này sản xuất ra hai vị Quốc-mẫu Đại-Việt. Nơi mà Quốc-tổ Lạc-Long cùng Quốc-mẫu phân chia các con đi bốn phương. Hẹn mỗi năm họp tại cánh đồng Tương một lần. Như vậy cô nương là người Việt.
      Nam-Sơn lão nhân ít đọc sách, lão ngạc nhiên hỏi lại:
      - Công tử nói sao? Trường-sa cách Đại-Việt đến mấy ngàn dặm, có đâu thuộc lãnh địa tộc Việt?
      Tự-Mai đưa mắt nhìn Nam-Sơn, trong lòng nó nảy niềm kiêu hãnh:
      - Lão nhân quên rồi thì phải. Xưa vua Đế-Minh cháu ba đời vua Thần-Nông sinh con trưởng. Sau qua núi Ngũ-lĩnh kết hôn với tiên nữ, sinh ra thái tử Lộc-Tục. Ngài lập đàn tế cao trời đất lấy núi Ngũ-lĩnh về Bắc phong cho con trưởng làm vua tức vua Đế-Nghi. Từ Ngũ-lĩnh về Nam phong cho Lộc-Tục, tức vua Kinh-Dương. Bắc sau thành Trung-nguyên. Nam sau thành Văn-lang.
      Rồi nó thuật tiếp về Lạc-Long quân lấy Âu-Cơ đẻ trăm con. Phong cho các con đi bốn phương quy dân lập ấp, lãnh địa gồm Quảng-Đông, Quảng-Tây, Hồ-Nam, Vân-Nam của Tống. Phía Tây bao gồm Đại-lý, Lão-qua, Xiêm-la. Phía Nam gồm Chiêm-thành, Chân-lạp. Ngài hẹn các con mỗi năm về cánh đồng Tương phía Nam hồ Động-đình họp nhau một lần.
      Triệu Tiết thấy mỗi lúc Thuận-Tường lại khâm phục, hướng tình cảm vào Tự-Mai hơn, nó cãi:
      - Láo hết! Chúng ta gốc tộc Hán. Trời sinh ra tộc Hán ở Trung-nguyên. Chúng ta vốn con trời, cai trị Thiên-hạ. Bọn phía Đông gọi là Di. Bọn phía Tây gọi là Nhung. Bọn phía Bắc gọi là Địch. Bọn phía Nam gọi là Man. Làm gì có Bắc anh, Nam em như mi nói!
      Thuận-Tường vẫy tay cho Triệu Tiết:
      - Sư huynh không được vô lễ với hào kiệt Nam phương.
      Nàng nói với Tự-An:
      - Xin đại hiệp đừng chấp. Sư huynh tiểu nữ bị thương, tâm thần thiếu bình tĩnh.
      - Sư muội đừng nói xàm. Ta vẫn minh mẫn như thường. Ta... ta phải giáo hoá bọn Nam man.
      Thiệu-Cực biết Triệu-Tiết lợi dụng bị thương, Tự-An, Tự-Mai không thể ra tay. Chàng quát lên:
      - Tên Triệu Tiết kia! Mi lợi dụng bị thương, bọn ta không dám giết mi. Mi mở miệng nhục mạ tộc Việt một câu nữa, lập tức ta cho hùm ăn thịt mi liền.
      Chàng hú lên ra lệnh. Con hùm xám nhảy bổ tới vồ Triệu Tiết. Nó ghé mõm, há miệng đỏ lòm sát mặt y. Y bở vía, ngậm miệng liền.
      Tuy Thiệu-Cực dùng cọp bịt được miệng Triệu Tiết. Chàng đâu ngờ cái nhân hôm nay, rồi thành quả lớn. Mấy chục năm sau, Triệu Tiết được lệnh thống lĩnh quân Tống đánh Đại-Việt. Y cùng Quách Quỳ, Yên Đạt, Tu Kỷ tàn sát động Giáp nhà chàng, ngôi vua Bắc-biên hết vận số từ đó. Việc này sẽ thuật trong bộ Nam-quốc sơn hà.
      Bắc-Sơn lão nhân tỏ vẻ không chịu:
      - Như công tử nói, sau này Đại-Việt sẽ đòi lại vùng đất thuộc Tống ư? Dân các nơi đó đâu còn biết gì đến Đại-Việt.
      Tự-Mai thấy vấn đề tranh luận trở nên phức tạp, nó thu tóm lại:
      - Dù người Hoa nói tiếng gì, học văn học gì, huyết thống vẫn thuộc Hoa. Khi người Việt ở những nơi thuộc Tống không thể chối bỏ nguốn gốc mình. Tôi cứ coi như họ người Hoa, gốc Việt. Cũng như người Hoa kiều ngụ tại Đại-Việt, chúng tôi gọi họ là người Việt gốc Hoa.
      Nó nhìn Thuận-Tường:
      - Chủ đạo của người Hoa ra sao? Người Hoa tự coi mình là con trời, biểu hiệu của vua là con rồng. Bất cứ người Hoa nào, cũng tin mình vốn con trời, sinh ra để cai trị Thiên-hạ. Có đúng thế không?
      - Quả vậy.
      Triệu Tiết vừa nói câu đó, con hùm nhỏm dậy, nó hầm hừ cà cà bộ răng vào dùi y. Y lạnh gáy, ngậm miệng lại.
      Tự-Mai tiếp:
      - Rồng làm sao đẻ ra người được? Thế nhưng bất cứ người Việt nào, cũng tự coi mình con rồng, cháu tiên. Một trăm con của Lạc-Long quân, phân tán đi khắp nơi, qui dân lập ấp. Như vậy gốc chỉ có trăm hoàng tử, cai trị hàng mấy triệu người, dân chúng đâu có ít? Sau sinh nở ra chúng tôi ngày nay. Chưa chắc họ Trần, họ Lê, họ Lý gốc từ vua Hùng. Thế nhưng chúng tôi vẫn tự coi như mình thuộc giòng dõi vua Hùng. Sau tới vua An-Dương, vua Trưng. Vua Trưng đâu có con? Thế nhưng phụ nữ Việt đều coi như con cháu vua Trưng. Tinh thần đó, chính là chủ đạo tộc Việt vậy.
      Nó nhìn đám thây ma Hồng-thiết Tây-vực:
      - Vừa rồi, Nhật-Hồ lão nhân sang Tây-vực, đem Hồng-thiết giáo về, chối bỏ chủ đạo tộc Việt, gây cảnh núi xương, sông máu. Cuối cùng vẫn bị chủ đạo tộc Việt đánh tan. Lão giác ngộ theo Phật. Hồng-thiềt giáo trở về nguồn, thành Lạc-long giáo. Nó nói với Thuận-Tường:
      - Anh em tại hạ xin gửi ông ba mươi này theo hầu Triệu cô nương. Mong rằng cô nương luôn nghĩ tới bảo vệ tinh thần tộc Việt.
      Nó nói với Thiệu-Cực:
      - Đại ca! Đại ca tặng rồi dạy cô nương đây phương thức điều khiển ông kễnh này đi!
      Thuận-Tường đứng dậy hướng Thiệu-Cực, Tự-Mai chắp tay:
      - Đa tạ hai công tử tặng ông ba mươi.
      Nàng nói tiếng Hoa với Tự-Mai, Thiệu-Cực. Phải uốn lưỡi lắm, mới nói được tiếng ông ba mươi.
      Thiệu-Cực chỉ con hùm bên cạnh:
      - Hai con hùm này, một đực, một cái. Chúng sống với nhau từ nhỏ. Ta chẳng nên bắt chúng xa nhau. Tự-Mai tặng cô nương ông kễnh. Còn bà kễnh tại hạ xin tặng cô nương luôn.
      Thuận-Tường vội xua tay:
      - Tiểu muội không có công gì mà được trọng thưởng thế này, e quá đáng chăng?
      Thiệu-Cực mỉm cười:
      - Vậy coi như tại hạ bán cho cô nương. Nhưng cô nương không thể trả bằng tiền. Sau này có dịp, tại hạ nhờ vả cô nương điều gì, cũng như cô nương trả tiền vậy.
      Chàng hướng lên trời hú một tiếng dài. Đôi chim ưng đang lượn trên cao, từ đáp xuống. Chúng đậu trên vai chàng. Thiệu-Cực nói:
      - Sau khi việc ở đây xong, cô nương về Tống. Chúng ta Nam, Bắc cách trở khó có dịp gặp nhau. Tại hạ kính biếu cô nương cặp chim này. Cô nương muốn liên lạc với anh em tại hạ, xin cứ viết thư bỏ vào ống trên dưới chân chúng, sai chúng mang đi.
      Thiệu-Cực lại bên Thuận-Tường giảng giải cho nàng cách điều khiển, sai khiến cùng nuôi dưỡng cặp hùm xám cùng cặp ưng.
      Trong khi Tự-Mai nói về chủ đạo tộc Việt. Đặng Đại-Khê coi như chủ nhà. Ông giới thiệu mọi người với nhau.
      Minh-Không hướng Hoa-Sơn tam lão hành lễ rồi nói:
      - Chúng tôi hẹn nhau họp trên này có truyện riêng. Không thể thù tiếp tam lão. Mong tam lão miễn trách. Khi nào có dịp, kính mời tam lão tới chùa Tiêu-sơn, chúng ta có nhiều thời giờ đàm luận hơn. Mong tam lão cứ tự nhiên lo giải quyết mọi truyện.
      Thấp thoáng một cái, Đại-Việt ngũ long đã biến vào tuyệt đỉnh mây mờ của Tản-lĩnh.
      Từ lúc lên đỉnh Tản-viên, thấy mụ Anh-Tần, cùng tên đệ tử Nguyễn Qúy-Toàn, trong lòng Tự-Mai cảm thấy bực bội. Nó hướng vào Tây-Sơn lão nhân, tay chỉ hai người:
      - Thưa tiền bối! Xin tiền bối cho biết liên hệ giữa hai người này với quý phái?
      Tây-Sơn lão nhân đưa mắt hỏi Chu Chiếu-Anh. Chiếu-Anh chỉ vào Hoa-Trung:
      - Hai người này là tùy tòng của Hoa đại nhân.
      Tự-Mai bước ra giữa sảnh đường chắp tay hành lễ với mọi người:
      - Về con mụ điếm già Anh-Tần, cùng đệ tử của thị tên Nguyễn Qúy-Toàn. Chúng vốn người Thiên-trường, tức thuộc con dân Đại-Việt. Vì chúng có tham dự vào tội ác trên núi Tản, nên phải trao trả Đại-Việt xử trị. Ở đây có Thân huynh, lĩnh Khu-mật-viện Bắc-biên. Xin quý vị vui lòng để Thân huynh xử lý chúng.
      Mụ Anh-Tần, cùng tên Nguyễn Qúy-Toàn phóng mình ra khỏi từ đường. Thiệu-Cực mỉm cười, chàng đưa mắt cho Thuận-Tường. Nàng hú lên một tiếng. Hai con hùm đang nằm dưới gốc cây vươn mình đứng dậy. Chúng nhảy xổ đến vồ tên Qúy-Toàn. Y sợ qúa, lùi lại phía sau sư mẫu.
      Lần đầu tiên Thuận-Tường ra lệnh cho đôi cọp có kết quả. Nàng mỉm cười:
      - Đôi cọp này dễ dạy thực.
      Đôi hổ gầm gừ, chúng nhe hàm răng trắng ởn, từ từ tiến tới trước mặt mụ Anh-Tần. Mụ kinh hoảng lùi dần, lùi dần về sau. Sau chín bước, lưng mụ chạm vào vách núi.
      Tên Quý-Toàn trước núp sau lưng mụ, bây giờ hóa ra đứng trước mụ. Y nhìn cặp hổ gầm gừ. Sợ qúa y té đái, vãi phân ra. Không biết nghĩ thế nào, y ngồi bệt xuống đất, tay tốc váy mụ Anh-Tần, rồi dấu đầu vào trong. Hai tay y ôm lấy chân mụ, người run bần bật.
      Thiệu-Cực dẫn Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn ra sân. Chàng nói với ba trẻ:
      - Chúng ta lấy khẩu cung hai đứa này trước. Đúng ra anh để Tự-Mai hành sự. Ngặt vì Tự-Mai ghét hai đứa này, sợ em quá tay, chúng chết mất. Lê Văn hỏi cung bọn chúng đi.
      Thiệu-Cực đưa mắt nhìn Thuận-Tường. Nàng ra lệnh. Đôi cọp lùi lại. Hai con hùm ngồi hai bên mụ Anh-Tần. Chúng há miệng đỏ lòm ra táp mấy cái, tỏ ra thèm thuồng.
      Lê Văn không hổ đệ tử danh gia. Nó tiến lên chắp tay xá mụ Anh-Tần một cái:
      - Phu nhân! Năm nay phu nhân sáu mươi sáu. Thấm thoát quay đi, quay lại thành bẩy mươi. Ông Đỗ Phủ đời Đường làm thơ có câu: Nhân sinh thất thập cổ lai hy. Nghĩa rằng người ta sinh ra, sống tới bẩy mươi thực hiếm hoi. Phu nhân sắp đi vào tuổi quý đó rồi. Hôm nay sự đã ra thế này, phu nhân phải khai thực hết mọi sự. Bằng không Thân thế-tử cho ông kễnh xơi thịt phu nhân thì đau đớn lắm.
      Không hổ câu gái đĩ già mồm. Tuy ngồi trước miệng cọp, mụ vẫn cong cớn:
      - Lê công tử. Công tử bảo tôi phạm tội, vậy tôi phạm tội gì? Tôi đã làm gì nên tội? Tôi được Tống triều cử đi theo thiên sứ tới Hoa-sơn, rồi Tản-viên. Tôi đâu có phạm tội?
      - Phu nhân không phạm tội ư? Thôi thì cứ coi như vậy đi. Thế phu nhân đang ở Thiên-trường, tại sao lại sang Trung-nguyên?
      - Tôi đi chơi.
      Biết gặp phải thứ xảo trá bậc nhất thế gian, không thể nhẹ tay được. Lê Văn nói với Tôn Đản:
      - Phiền sư huynh đem tên Qúy-Toàn lại hốc đá đằng kia thẩm cung dùm. Ở đây đệ hỏi Tần phu nhân. Hễ hai người khai giống nhau, chúng ta thả ra. Bằng khác một câu, ta cho ông ba mươi xơi một miếng thịt. Sai hai câu, cho ông kễnh xơi hai miếng.
      Tôn Đản vung tay một cái, sợi dây bay ra cuốn chân tên Qúy-Toàn. Nó giật mạnh, người y bay bổng lên cao. Ở trên cao, sợ quá y hét lên be be.
      Tôn Đản hỏi:
      - Mi đang ở Yến-vĩ sương-sen với con điếm già Anh-Tần. Tại sao lại có mặt trong phái đoàn Hoa-sơn?
      - Tiểu nhân không có chủ trương gì hết. Sư mẫu bảo sao, tiểu nhân nghe vậy.
      - Tại sao mi có vợ đẹp, con ngoan, lại bỏ nhà theo con điếm già Anh-Tần?
      - Tại vì tiểu nhân mắc bệnh. Mỗi ngày phải mớm cá diếc ít nhất hai người. Bằng không, tiểu nhân hoá điên không chịu được.
      - Con bà mi. Vợ mi cũng có cá diếc. Sao mi không mớm cá diếc vợ mi, mà đi mớm các diếc mấy con điếm già?
      - Công tử không rõ đấy thôi. Ví như công tử ăn mắm. Mắm càng nặng mùi, càng thấy ngon. Mớm cá diếc cũng vậy. Con vợ tiểu nhân chỉ biết có chồng. Nó lại sạch sẽ quá, cá diếc không mùi vị. Trong khi bạn hữu sư mẫu toàn những người trên sáu mươi, lại ăn nằm với hàng trăm người khác nhau, cá diếc chạ người, mùi vị mới thơm.
      Tôn Đản cảm thấy lợm giọng. Nó hỏi tiếp:
      - Mụ điếm già Anh-Tần sang Trung-quốc với mục đích gì?
      - Nguyên tân giáo chủ Hồng-thiết Trần Đông-Thiên đến trang Yến-vĩ sương sen đúng lúc sư mẫu mở hội Vu-sơn. Giáo chủ có tham đự. Đi theo giáo chủ có mười tân trưởng lão tuổi trên bẩy mươi. Các vị trưởng lão theo truyền thống bên Tây-vực cho mở cuộc thi thổi ống đu đủ. Sư mẫu tiểu nhân được chấm nhất, vì ngươi thổi đến hơn ba mươi người một lúc, cũng chưa mỏi mồm. Vì vậy giáo chủ dẫn sang Tây-vực chầu Hồng-thiết tổng giáo chủ. Tại đây, sư mẫu chiếm vô địch về mây mưa.
      - Thế nào thì biết vô địch?
      - Trong khi nói truyện với trưởng lão Cút-Độp. Cút-Độp khoe phụ nữ Tây-vực có thể mây mưa với hàng chục người, mà không biết mệt. Sư mẫu tỏ vẻ coi thường. Người khoe rằng mình có thể mây mưa với hai chục đàn ông. Cút-Độp không tin, cho thử...
      - Thế mụ chịu được bao nhiêu người?
      - Công tử thử đoán xem!
      - Ít nhất mười lăm người.
      - Sai! Hai mươi lăm người. Trưởng lão Cút-Độp thấy sư mẫu có bản lĩnh thổi ống đu đủ nhất thế gian. Vì vậy người xin tổng giáo chủ mang sư mẫu sang phương Đông.
      Thấy việc mụ điếm già với thằng khùng Qúy-Toàn trong phái đoàn Hoa-sơn, không liên quan gì tới quốc sự. Tôn Đản yên tâm. Nó trở lại gặp Lê Văn, được biết mụ Anh-Tần cũng khai giống hệt.
      Lê Văn nói với Thiệu-Cực:
      - Anh em mình nghi thầy trò mụ điếm già Anh-Tần dẫn đường cho giặc. Nhưng thực sự không phải. Chúng ta tha quách.
      Thiệu-Cực lắc đầu:
      - Tuy chúng không phạm trọng tội, nhưng cũng phạm tội gian nhân hiệp đảng cùng tội làm bại hoại thuần phong tộc Việt. Để anh giải giao chúng về Thăng-long cho quan Hình-bộ thượng thư tùy nghi xét xử.
      Tuy trải qua trận đấu giữa Hoa-sơn với Tản-viên, cuối cùng Thiệu-Cực khám phá ra manh mối do bọn Hồng-thiết Tây-vực. Hoa-Sơn tam lão không ngớt xin lỗi phái Tản-viên.
      Nhị-Bách sai làm tiệc khoản đãi phái Hoa-sơn. Nhưng Hoa-sơn tam lão quá xấu hổ, nhất mực chối từ. Thiệu-Cực sai một đoàn voi hộ tống phái Hoa-sơn về Tống. Biết Tự-Mai với Thuận-Tường có tình ý. Chàng bảo y:
      - Sư đệ hãy theo tiễn chân các vị về Tống. Nhưng phải trở lại trước ngày rằm tháng sau, để dự tranh ngôi động trưởng.
      Tự-Mai kinh ngạc không ít, vì rõ ràng người tranh là Thiện-Lãm, Thuận-Tông. Tại sao Thiệu-Cực lại bảo nó tranh?
      Vốn cực kỳ thông minh, thoáng một cái nó hiểu liền:
      - Trận đấu vừa rồi, Triệu Tiết, Khúc Chẩn bị nó với Tôn Đản đả bại dễ dàng. Mà hai người này vốn do biên thần Tống cho trà trộn tranh dành hai chức châu trưởng. Vì vậy Thiệu-Cực nhắn nhủ nó, với chủ ý đe doạ phái Hoa-sơn: Hãy cho Triệu, Khúc rút lui trước thì vừa. Bằng không sẽ gặp Tự-Mai, Tôn-Đản e mất mạng.
      Quả nhiên Hoa-sơn tam lão, Thất-hùng nghe Thiệu-Cực nhắc Tự-Mai. Họ đưa mắt nhìn nhau, như cùng có ý nghĩ:
      - Rút trước đi là hơn.
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 02:26:01 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 19.01.2005 18:25:58 (permalink)
        Hồi thứ tám mươi chín

        Đoạn trường tơ vương



        Tự-Mai đi bên Thuận-Tường tiễn phái Hoa-sơn xuống núi Tản-viên. Vừa đi, nó vừa thuật những truyện thời vua Hùng như Chử-đồng-tử và Tiên-Dung. Trương Chi, Mỵ-Nương. Vua Hùng tuyển phò mã. Sơn-Tinh, Thủy-Tinh cùng đến cầu hôn. Sơn-Tinh cưới được công chúa, mang lên Tản-lĩnh hưởng thanh phúc. Ngài sáng lập ra phái Tản-viên. Cuối cùng tới truyện Mỵ-Châu, Trọng-Thủy.
        Thuận-Tường nghe kể, nàng buông tiếng thở dài não nuột. Tự-Mai ngạc nhiên:
        - Sao cô nương lại thở dài?
        - Tiểu muội thở dài vì Hoa, Việt cùng gốc ở tổ Phục-Hy, Thần-Nông, thế nhưng hôn nhân có nhiều khác biệt. Người Việt coi trọng phụ nữ vô cùng. Khi gả chồng, cha mẹ thường để con gái chút quyền lựa chọn, quyết định người trao thân gửi phận. Như Tiên-Dung, vua cha thuận cho kết hôn với chàng nghèo cùng khổ đến manh vải che thân không có. Còn Mỵ-Nương tuy duyên không thành, nhưng cũng thỏa ước mơ, khi phụ thân đồng ý cho mời anh chàng câu cá ven sông, vào lâu đài gặp nhau. Vua Hùng thứ tám mươi tám tuyển người tiều phu Sơn-Tinh đại tài mà gả công chúa, hầu có người giữ nước. Vua An-Dương nhận cho gửi rể Trọng-Thủy, ý muốn kết thân lân bang. Gần đây vua Lý gả công chúa Hồng-Châu cho lạc hầu Thân-thiệu-Anh, công chúa An-Quốc cho Đào Cam-Mộc, công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hòa cho lạc hầu Thân Thừa-Quý.
        Thuận-Tường ngửa mặt nhìn lại Tản-lĩnh, lòng buồn man mác:
        - Tiểu muội xa Tản-lĩnh lần này, không biết bao giờ trở lại... À, tiểu muội nghe Thuận-Thiên hoàng-đế có mười ba công chúa. Trưởng công chúa gả cho Trung-nghĩa hầu Đào Cam-Mộc. Nhị công chúa gả cho lạc hầu Thân-thừa-Quý. Thế chín người kia gả cho những ai?
        Tự-Mai tính đốt ngón tay:
        - Bốn người gả cho bốn sư điệt của ngài. Họ đều xuất thân phái Tiêu-Sơn, văn mô vũ lược. Hiện những Phò-mã đều trấn ngự biên cương phía Nam, phía Tây. Còn một bà gả cho đại danh y. Vị này không thích công danh. Phò-mã với Công-chúa ngày ngày đi khắp hang cùng ngõ hẻm trị bệnh cho bần dân.
        - Phúc đức quá!
        Bắc-Sơn lão nhân buột tiếng khen.
        - Hai bà, một bà gả cho quan Tả-bộc xạ, một bà gả cho Đô-đốc thủy quân.
        - Mới có chín bà. Còn hai bà nữa gả cho ai?
        Chu Chiếu-Anh hỏi.
        - Thưa tiền bối, cả hai bà đều gả cho hai động chủ ở Nam biên.
        Tây-Sơn lão nhân bật lên tiếng suýt xoa:
        - Hèn chi giang sơn triều Lý không vững như bàn thạch sao được. Khi biên tướng, đô đốc, đều là phò mã, còn lo gì nữa? Nhà vua chỉ cần ngồi ban ân bố đức cho thiên hạ nữa, thì đất Việt thành đất Nghiêu, Thuấn rồi.
        Tự-Mai kể lại những ân trạch tha thuế, phá bỏ nhà tù, xây y trạm, tô tượng, đúc chuông trong mười tám năm qua cho mọi người nghe. Nó kết luận:
        - Trong mười tám năm trị vì, ngài chỉ thu thuế có tám năm. Còn mười năm miễn thuế. Năm nay, sau khi Hồng-Sơn đại phu bỏ không tranh ngôi vua. Ngài thể theo lời của đại phu lại xá thuế một năm nữa.
        Nắng chiều nhạt dần. Thuận-Tường ngửa mặt lên trời nhìn những áng mây trôi về phương Tây óng ánh như muôn nghìn sợi dây vàng, rồi kết luận:
        - Vì coi trọng phụ nữ, nên các ngài gả chồng cho con có hai lối. Một là cho con được quyền chọn như Tiên-Dung, Mỵ-Nương. Hai là chọn anh tài như Sơn-Tinh, Thân Thiệu-Anh, Đào Cam-Mộc, Thân Thừa-Quý. Ba là mong duyên tình làm đẹp giữa hai nước như Mỵ-Châu. Còn bên Tống không thế. Công-chúa chỉ được gả cho con các đại thần. Mà đám công tử đó thường ỷ thế cha, anh, không học hành, vô tài bất tướng.
        Tự-Mai hỏi ngược lại:
        - Theo cô nương, cha mẹ nên gả chồng cho con như thế nào?
        -- Tốt nhất cho con gái được quyền chọn. Hoặc ít ra cũng gả cho nhân tài. Sống bên người tài, làm những truyện vĩ đại, thực không uổng tấm hồng nhan.
        - Cô nương có biết gì về việc các vua Tống tuyển phò mã không?
        - Tiểu muội biết rất nhiều. Các công-chúa em đức Thái-tổ, Thái-tông đều gả cho tướng sĩ theo hai ngài trong lúc dựng nước. Vì vậy các Phò-mã đều cúc cung tận tụy. Ngài nhờ đó thành đại nghiệp. Các Phò-mã trung thành, tận tụy hơn anh em trong hoàng tộc nữa.
        - Thế các công chúa con vua Chân-tông cùng Thiên-Thánh hoàng đế, phò mã ra sao?
        Mặt Thuận-Tường càng thêm thảm não:
        - Vua Chân-tông có mười sáu Công-chúa, đã gả chồng mười lăm. Còn một mà thôi. Thiên-Thánh hoàng đế, có bốn công chúa, nhưng chưa ai quá ba tuổi. Nói ra thực xấu hổ, các phò mã đều là con cháu đại thần. Chỉ quanh đi quẩn lại tiệc tùng ở Biện-kinh, không biết gì đến quốc sự. Văn không thông Thi, Thư. Võ trói gà không chặt.
        Tự-Mai không phục:
        - Tôi nghe vua Chân-tông anh minh lắm. Tại sao lại phí phạm công chúa như vậy?
        Tây-Sơn lão nhân nhìn về ngọn núi bên kia thuộc Tống, ông than:
        - Ngài có tự quyết được gì đâu. Giả như ngài muốn gả Công-chúa cho một Thái-tử Đại-Việt, Tây-hạ, Thổ-phồn, Tây-liêu ắt các Nho-thần xúm vào dâng biểu rằng sao lại gả Công-chúa cho bọn Di, Địch, Nhung, Man như thế? Họ đâu có biết nếu Công-chúa lấy các Thái-tử kia, sẽ khiến cho Phò-mã ngoài việc tuân chỉ Thiên-triều, còn thêm lòng hiếu thảo của một con rể nữa.
        Tự-Mai nói trong tự hào:
        - Nếu là Thuận-Thiên hoàng-đế, ắt ngài gả cho chín Thái-tử chín nước lân bang mỗi người một Công-chúa. Còn sáu Công-chúa, gả cho sáu vị biên cương đại thần. Chỉ ít năm sau, có chín Công-chúa làm hoàng hậu. Chín Phò-mã làm vua. Như lão nhân thấy, tỷ như Khai-Quốc vương sau lên làm vua, vua Tống đe dọa cách nào, bắt người đến Biện-kinh chầu e còn khó hơn bắc thang lên trời. Thế nhưng nếu người là Phò-mã, mỗi năm ngày Tết, ngày đăng cực của vua Tống dù không triệu, người cũng về chầu, dâng lễ.
        Mắt Thuận-Tường sáng ngời:
        - Người Việt hiếu với nhạc gia như vậy sao?
        - Không phải thế. Cô nương đừng hiểu lầm.
        Tự-Mai giảng giải:
        - Nếu như hoàng-đế Đại-Việt sang chầu Hoàng-đế Tống, sĩ dân, võ lâm nhao nhao nổi lên công phẫn phản đối, vì như thế làm nhục quốc thể, mất ngôi vua như không. Còn ngược lại nếu Hoàng-đế Đại-Việt lại là Phò-mã của Tống, mà về dâng lễ nhạc gia ắt được khen rằng hiếu thảo.
        Thuận-Tường thở dài:
        - Bởi vậy tiểu muội mới nói người Việt trọng nữ hơn người Hoa. Phải chăng chủ đạo tộc Việt như thế?
        - Cô nương kiến giải sáng suốt thực. Đạo lý tộc Việt như vậy đó. Tôi thấy các văn thi sĩ Trung-quốc thường ca tụng dung nhan phụ nữ, song ít có người dám cổ võ giải thoát phụ nữ khỏi ngưỡng cửa gia đình. Họ chỉ muốn phụ nữ chui đầu vào, chổng đít ra ở xó bếp.
        Thuận-Tường càng buồn hơn:
        - Cũng có đấy, đại ca có biết Tào Tử-Kiến không?
        - Biết chứ. Ông họ Tào tên Thực, cùng cha là Tào Tháo, anh là Tào Phi nổi danh ba trong Kiến-an thất tử. Khi Tào Tháo được phong Ngụy-vương, muốn lập ông làm thế-tử kế nghiệp. Vì ông có văn tài lỗi lạc, xuất khẩu thành thơ, nên các quan sợ một mai phục vụ dưới một vị vương văn chương quán thế, mình sẽ không có chỗ trổ tài. Họ dèm pha. Tháo chết, họ tôn Tào Phi lên thay. Tào Phi muốn làm nhục ông, bắt ứng khẩu làm thơ, nếu không hay, sẽ giết. Vì Phi nghĩ rằng trong hoàn cảnh đó ông khó lòng làm nổi thơ. Nào ngờ đi bẩy bước, ông đã làm được bài thơ thực hay. Phi lại bắt ứng khẩu, ông cũng đọc thành thơ liền.
        - Đại ca học văn chương Trung-quốc kỹ thực. Tử-Kiến có câu thơ muốn giải thoát cho phụ nữ như sau:

        Quân nhược thanh lộ trần,
        Thiếp nhược trọc thủy nê,
        Phù trầm các dị thế,
        Lưỡng hợp hòa giai hài.


        Tự-Mai gật đầu:
        - Không hiểu vì sao, sau này người ta lầm bốn câu trên của Quách Phác. Để tôi dịch cho cô nương nghe:

        Chàng như mây mùa Thu,
        Thiếp như khói trong lò.
        Cao thấp tuy có khác,
        Một thả cũng tuyệt mù


        Nó lắc đầu:
        - Tuy vậy Tử-Kiến vẫn còn hạ thấp phụ nữ bằng chữ khói trong lò đâu so với mây mùa Thu được!
        Nó kéo Thuận-Tường trở lại câu truyện Công-chúa:
        - Thế còn một Công-chúa con vua Chân-tông đã gả cho ai chưa?
        Thuận-Tường nín lặng thở dài.
        Tây-Sơn lão nhân trả lời thay thế:
        - Tiểu công chúa do Lưu hậu sinh ra. Từ thời thơ ấu, Công-chúa khác hẳn với mười lăm bà chị. Người thông minh khác thường, lại giầu chí khí. Về văn người rất uyên bác. Giá là trai, con nhà dân đi thi, lão phu e người không đậu trạng nguyên cũng tiến sĩ. Về võ, người mới học ba năm qua, mà bản lĩnh cũng vào loại khá. Tiếc rằng Thái-hậu định gả cho con quan Tả-bộc xạ Đinh Vị. Người khóc lóc không chịu. Cũng may sau Đinh Vị bị biếm mới thôi. Hiện Công-chúa lấy cớ học võ, rời hoàng cung, theo sư phụ.
        - Thế công tử của Đinh tả-bộc-xạ tư cách có khá không?
        Thuận-Tường lắc đầu:
        - Văn dốt, vũ rát. Tư cách cùng chí khí không có.
        Tự-Mai bật lên lời đùa cợt:
        - Nếu cô nương là Lưu thái hậu, cô nương sẽ tuyển phò mã như thế nào?
        - Tiểu muội sẽ mở võ đài cùng thi văn. Ai trúng cách, thì tuyển. Sau đó trao binh quyền, hai vợ chồng trấn ngự biên cương.
        Tự-Mai vỗ tay khen:
        - Như vậy giống như vua Hùng thứ tám mươi tám tuyển phò mã Sơn-Tinh. Sau này Phò-mã thứ mười sáu của vua Chân-tông thành đại tôn sư, nghìn đời dân chúng thờ cúng như thánh Tản-viên.
        Nó cười khúc khích:
        - Nếu Lưu hậu mở võ đài, tại hạ sẽ rủ Tôn Đản, Lê Văn sang dự thi. Biết đâu chẳng được trúng cách làm Phò-mã.
        Thình lình Thuận-Tường buột tay đánh rơi cái roi ngựa xuống đất. Tự-Mai nhanh tay, phẩy một cái, roi của nó cuốn lấy roi Thuận-Tường, thành ra cái roi chưa kịp rơi xuống đất đã được móc lên. Nó trao trả roi cho nàng:
        - Cô nương, sao vậy?
        Thuận-Tường run tun:
        - Không sao cả. Tiểu muội đãng trí mà thôi.
        Tây-Sơn lão nhân hỏi Tự-Mai:
        - Tỷ như một trong ba công tử thành Phò-mã Tống triều. Không hiểu các vị sẽ làm gì?
        - Nếu Thiên-tử muốn vỗ về, trấn an Nam phương, tiểu bối xin cầm đại quân trấn Nam thùy. Phò mã cùng Công-chúa dùng hết khả năng làm cho biên dân hai nước yêu nhau. Lại sẵn sàng chặt đầu bọn biên thần Tống muốn xâm chiếm Đại-Việt, Đại-lý, cũng như giết chết bọn tướng Lý vùng Bắc-biên gây chiến với Tống. Dân Tống, Lý biên thùy được bảo vệ tự do buôn bán trao đổi hàng hoá, trao đổi văn học, trao đổi nông tang.
        Nó nói nhỏ:
        - Nhất là dân Hoa, dân Việt tự do yêu nhau, tự do cưới nhau. Khi hai bên thành thông gia, làm gì còn chiến tranh.
        Bắc-Sơn lão nhân tằng hắng một tiếng, hỏi Tự-Mai:
        - Trần công tử, chủ trương đó là của triều Lý, của phái Đông-a, hay của công tử.
        - Thưa tiền bối chẳng của Lý, cũng không của Đông-a, mà xuất phát do chủ đạo tộc Việt.
        - Chủ đạo tộc Việt?
        - Vâng! Nam-biên của Tống đều thuộc hai lộ Quảng. Mà dân hai lộ Quảng toàn người Hoa gốc Việt. Dân Bắc-biên Lý, dân Đông-biên Đại-lý cũng thuộc tộc Việt. Cho nên tiểu bối mong họ sống với nhau trong tình cha chung Phục-Hy, Thần-Nông.
        - Tuyệt!
        Thuận-Tường buột miệng khen.
        Triệu Tiết, Khúc Chẩn được đồng môn làm cái cáng khiêng đi. Chúng lắng tại nghe rất rõ cuộc đối thoại của Tự-Mai với Thuận-Tường. Mỗi lời của Tự-Mai như dao đâm vào ngực nó. Đến đây chịu không nổi, nó lên tiếng:
        - Nếu tuyển Phò-mã, điều lệ ắt chỉ cho con em Hán tộc dự thí. Có đâu cho bọn Di, Nhung, Địch, Man. Hừ! Cóc đòi ăn thịt ngỗng trời.
        Tây-Sơn lão nhân mắng Triệu Tiết:
        - Sư điệt không được nói lời khinh bạc đó.
        Thình lình có tiếng trống thúc quân vang dội. Từ phía trước, một đoàn quân hùng tráng vô cùng đang tiến ngược chiều với đoàn người Hoa-sơn.
        Bắc-sơn lão nhân lo lắng ra lệnh cho mọi người dừng lại quan sát.
        Đạo quân dần dần tới gần. Lá cờ đi đầu màu vàng, viền xanh, trên có hàng chữ Lĩnh-Nam Bảo-quốc hoà dân công chúa. Một lá cờ khác màu tím, viền xanh, có hàng chữ đề Đại-Việt Bắc-biên nữ vương.
        Tự-Mai trấn an mọi người:
        - À, vua Bà Bắc-biên sắp tới.
        Sau hai lá cờ, một đội voi hơn trăm con. Tiếp đến đội hổ, đội báo, đội sói. Mỗi con được một người dẫn đi như dẫn chó. Trên trời năm đoàn, mỗi đoàn hai mươi lăm chim ưng bay lượn. Đoàn quân khí thế muốn nghiêng trời lệch đất.
        Bắc-Sơn lão nhân nói với mọi người:
        - Chúng ta vốn người Hán, học lễ nghi đức thánh Khổng, phải nhớ rằng: Nhà có chủ, đất có vua. Chúng ta đang ở trong vùng Bắc-biên. Vậy xin hãy xuống ngựa bái kiến vua Bà.
        Mọi người đứng sang bên đường chuẩn bị. Duy Thuận-Tường vẫn ngồi trên mình cọp, mở to mắt nhìn đoàn quân. Dường như nàng không nghe lời Bắc-Sơn lão nhân, mà lão cũng không nổi giận.
        Vua Bà mặc áo lụa vàng, khăn vàng, dây lưng xanh, ngồi trên bành voi trắng. Trong cái oai nghi có cái dáng xinh đẹp của một thiếu phụ trẻ.
        Bắc-Sơn lão nhân ra hiệu cho mọi người quỳ gối. Lão vận nội lực hô lớn:
        - Đồng môn phái Hoa-sơn nhà Đại-Tống xin bái kiến vua Bà.
        Thấp thoáng bóng vàng vọt lên cao như con hoàng oanh. Vua Bà rời bành voi, đáp xuống trước nhóm Hoa-sơn. Bà chắp tay đáp lễ:
        - Nghe tin Hoa-sơn đồng đạo võ lâm qua chơi Bắc-biên, nên trẫm tới đây để được tương kiến. Xin miễn lễ.
        Đám Hoa-sơn đứng dậy.
        Tự-Mai quen cả hai bên. Nó giới thiệu Hoa-sơn tam lão cùng thất hùng. Bên Bắc-biên ngoài vua Bà còn có tam công, lục bộ thượng thư.
        Vua Bà hỏi thăm từng người một. Ai cũng kinh hoảng khi bà biết lý lịch hầu hết phái đoàn. Cả đến những đệ tử đời thứ ba mới nhập môn. Tuy biết Thuận-Tường không chịu xuống cọp hành lễ, bà vẫn không giận. Bà dơ tay vẫy một cái. Con hùm chở Thuận-Tường ngoan ngoãn tới bên bà.
        Vua Bà nắm tay Thuận-Tường:
        - Muội muội viếng Tản-lĩnh có vui không? Dường như muội muội chưa kịp dùng thức ăn của Đại-Việt đấy nhỉ? Sao mặt muội muội lại buồn thế kia?
        Thuận-Tường suýt bật thành tiếng khóc. Nàng đáp bâng quơ:
        - Nhân sinh bất như ý sự thường bát cửu.
        Tự-Mai nhẩm dịch trong lòng:
        - Trong đời người, những sự không như ý thường tám chín phần mười.
        Vua Bà vuốt tóc nàng:
        - Văn muội muội tinh thông, võ muội muội nào kém ai? Tại sao lại chán đời? Hãy can đảm lên, tự phấn đấu cho đời mình chứ!
        Thuận-Tường nắm lấy tay Bà:
        - Đa tạ Bà.
        Vua Bà liếc nhìn Tự-Mai, rồi mỉm cười. Nụ cười của bà mẹ nhìn đứa con lần đầu tiên biết đi. Bà cốc tay vào đầu Tự-Mai:
        - Cậu em này hư thực. Ta mách Trần đại hiệp đánh què mới được. Ai đời khách nghìn dặm tới, chưa thù tiếp đã để cho về rồi.
        Bà kéo Thuận-Tường đến bên cạnh:
        - Hôm nay ta phải mời muội muội cùng các vị phái Hoa-sơn thưởng thức ít thổ sản Bắc-biên.

        Trong khi bà nói truyện, đạo quân đã ngừng lại, cắm trại ngay chân núi. Đội nào ra đội ấy. Bà nhờ Thân Thừa-Phú tiếp các đệ tử Hoa-sơn. Còn Hoa-sơn tam lão, thất hùng cùng Thuận-Tường, Tự-Mai được mời vào trướng với bà.
        Một mùi hương thơm, khét khét bốc lên ngào ngạt, làm Thuận-Tường chảy nước miếng. Tỳ nữ bưng vào ba hũ rượu. Vua Bà bầy trước mặt mỗi người ba cái chung, mỗi cái chung một mầu. Bà bưng hũ thứ nhất mở nắp. Hương rượu xông lên ngào ngạt. Bà rót rượu vào chung mầu vàng, trong khi cung nữ bưng lên món chả thơm nức. Bà nói:
        - Nghe danh Tây-Sơn lão nhân được giang hồ tặng biệt hiệu Thiên chung bất túy. Mong lão nhân đừng tiếc công dạy cho những khuyết điểm về phương cách cất rượu của tệ quốc.
        Tây-Sơn lão nhân cầm chung rượu đưa lên mũi hít một hơi, nếm một hớp rồi gật đầu:
        - Công phu. Thực công phu. Rượu Cúc Đông-triều đây. Lão phu nghe tại dẫy núi Đông-triều có loại cúc nở bốn mùa. Cúc không phải sắc vàng, mà sắc tím. Khi cúc mới nở ngày đầu tiên, thì hái, đem về ủ dưới suối, sau đó đem cất rượu. Chắc là thứ rượu này.
        - Thực không hổ với danh hiệu giang hồ tặng.
        Vua Bà cầm chung rượu nâng lên:
        - Nào chúng ta cạn chung này, nhắm với chả Mực. Rượu Cúc uống nhắm với chả mực, nguyên là cái thú của Công-chúa Đông-triều Lê Chân thời Lĩnh-Nam. Chả Mực ăn vào dễ bị đầy hơi, trong khi rượu Cúc giải được cái khó tiêu đó.
        Mọi người cất chén, cùng gắp chả Mực ăn. Tự-Mai giảng tiểu sử Công-chúa Đông-triều cho Thuận-Tường nghe, mặc vua Bà đàm luận tình thế Lý-Tống với các cao thủ Hoa-sơn.
        Cung nữ lại bưng lên món gỏi cá. Vua Bà giảng giải về gỏi cá phải làm như thế nào mới ngon, rồi người thân rót rượu từ hũ thứ nhì vào chung mầu trắng, đưa mắt nhìn Tây-Sơn lão nhân:
        - Mong lão nhân chỉ dậy cho.
        Lão nhân bưng chung rượu ngửi, rồi nếm. Lão gật đầu:
        - Hợp giới ngũ vị tửu. Chà, lão phu nghe thứ rượu này từ hai mươi năm nay, giờ mới được nếm. Song kiến thức hủ lậu, lão phu không rõ Hợp-giới ngũ vị tửu cất ra sao?
        Vua Bà quay lại đưa mắt cho một cung nữ:
        - Người trình với lão nhân phép cất Hợp-giới ngũ vị tửu đi.
        Cung nữ kính cẩn:
        - Hợp-giới tiếng Việt là Cắc-kè. Trên toàn Lĩnh-Nam, chỉ có cắc kè Nga-sơn, Thanh-hóa nổi tiếng không độc, đuôi lớn vì nó chỉ ăn lá quế. Đuôi cắc-kè tụ khí dương Nga-sơn. Vì vậy dùng cắc kè ngâm rượu nếp, uống vào khiến tinh thần minh mẫn. Nó còn trị mọi thứ độc của thực phẩm. Cho nên thường uống khi ăn gỏi cá.
        Bắc-Sơn lão nhân hớp hết chung rượu, thấy tinh thần phấn chấn, lão hỏi:
        - Cô nương! Thế Hợp-giới tửu bên Đại-Việt do ai xướng xuất ra đầu tiên?
        - Xưa Cửu-chân vương Đào Thế-Kiệt đã tìm ra thú uống rượu cắc kè với gỏi cá. Về sau, các tôn sư y học nghiệm ra rằng, rượu cắc kè hơi tanh, nên nấu với năm dược vật là quế chi, đại hồi, hồ tiêu, sà sàng tử, đởm hắc xà. Rượu mà lão nhân đang uống thuộc thứ này.
        Tự-Mai, Thuận-Tường không biết uống rượu. Nó định gắp gỏi cá tiếp Thuận-Tường. Vua Bà dơ tay ngăn lại:
        - Ăn gỏi cá phải uống rượu Hợp-giới. Chứ ăn không thì đau bụng đấy. Ta đã có món ăn đặc biệt cho muội muội với công tử rồi.
        Cung nữ bưng ra hai bát bún riêu, khói bốc lên nghi ngút. Rau muống chẻ, rau kinh giới, tía tô được đựng vào cái rổ tre nhỏ xíu như một cái bát. Vua Bà bảo Tự-Mai:
        - Công tử tiếp muội muội cho ta.
        Đói, lạ miệng, bát bún riêu lại quá nhỏ, Thuận-Tường chỉ và mấy cái là hết.
        Vua Bà cười hỏi Tự-Mai:
        - Chắc công tử chửi thầm Cái mụ này sao keo kiệt, cho ăn bát bún riêu nhỏ quá. Có đúng thế không?
        Bị đoán trúng tim đen, Tự-Mai mỉm cười, không trả lời. Vua Bà vẫy tay. Cung nữ lại bưng ra hai bát nữa. Tự-Mai kêu lên:
        - Bún ốc!
        Bây giờ nó mới hiểu tại sao vua Bà đãi Thuận-Tường bằng bát nhỏ. Thì ra Bà định mời khách ăn nhiều món khác nhau. Nếu mời bát lớn e khách chỉ ăn được một món.
        Mặc Tự-Mai giảng về bún ốc cho Thuận-Tường. Vua Bà bưng hũ khác rót ra chung mầu đen, rồi thân trao tay Tây-Sơn lão nhân:
        - Xin lão nhân phẩm bình cho.
        Tây-Sơn lão nhân nếm qua đã bật cười:
        - À, rượu Đông-hải đây! Trước kia lão phu được một người bạn cho một bình. Nhưng tuyệt không biết gốc tích ra sao. Mong vua Bà đừng tiếc công chỉ dạy.
        Vua Bà chỉ Tự-Mai:
        - Rượu này thuộc đặc sản Thiên-trường. Tiểu đệ hãy nói cho lão nhân biết gốc tích ra sao đi.
        Tự-Mai đã lớn tuổi, nó từng xem nấu rượu này nhiều lần, được bố cùng các sư thúc giảng giải hoài, riết rồi nó thuộc lòng. Nghe vua Bà truyền, nó vội ngồi ngay ngắn lại:
        - Thưa tiền bối, thứ rượu này nguyên sản xuất đầu tiên vào thời vua Hùng thứ tám mươi tám. Khi ngài ra lệnh cho Sơn-Tinh, Thủy-Tinh dâng lễ vật cầu hôn, trong đó bắt phải đủ mười hũ rượu. Sơn-Tinh có người đệ tử, quê ở Thiên-trường. Người đệ tử cất thứ rượu này biếu sư phụ. Sơn-Tinh dâng lên vua Hùng. Ngài ngự, thấy thơm thực thơm, mạnh thực mạnh, nhưng lại không nồng. Khi ngài cầm chung lắc mạnh, rượu bốc tăm, mà không có bọt. Từ đấy trong dân gian, khi con trai cầu hôn phải dâng rượu tăm cho nhạc gia. Thiếu thứ rượu này thì không được. Nó đưa mắt nhìn Thuận-Tường, rồi tiếp:
        - Dân chúng gọi tên là rượu tăm. Còn nhân sĩ gọi là rượu Đông-hải.
        - Ủa sao có tên lạ vậy?
        Thuận-Tường buột miệng hỏi: Chắc chủ ý muốn chúc nhạc gia phúc như biển Đông chăng?
        - Không phải thế. Nguyên trong văn chương Việt có câu: Thuận vợ, thuận chồng tát biển Đông cũng cạn. Vì vậy khi mua uống, có tên rượu tăm. Còn khi dâng nhạc gia mang tên Đông-hải. Chữ Đông-hải ý muốn cho vợ chồng tương thuận.
        Cung nữ bưng lên món chả cá thơm phức.
        Rượu vào lời ra.
        Trời dần dần tối, Bắc-Sơn lão nhân đứng dậy chắp tay:
        - Anh em chúng tôi bị Hồng-thiết giáo Tây-vực làm cho suýt gây oán với võ lâm Lĩnh-Nam. Chúng tôi đã lễ thánh Tản, xin được xá tội. Còn tội vào Bắc-biên không thẻ bài, chẳng có phép, vua Bà không bắt đem chặt đầu, đã rộng lượng lắm rồi, lại còn tặng hùm cho Thuận-Tường, ban thưởng cho uống rượu, thực lấy làm hổ thẹn. Giờ trời gần tối, xin cho được về đất Tống ngay, bằng chậm trễ, cửa thành đóng lại e khó khăn.
        Vua Bà truyền tấu nhạc tiễn khách. Tự-Mai theo đoàn Hoa-sơn tới biên giới nó phải ngừng lại. Thình lình Thuận-Tường nắm tay nó thực mạnh, rồi buông ra, nước mắt chảy quanh. Trong khi cả phái Hoa-sơn đã vượt sang đất Tống, đang vào thành.
        Nàng nói nho nhỏ:
        - Non xanh còn đó, lo gì hết củi. Nước biếc đầy sông, sợ gì chết khát. Hẹn gặp lại đại ca.
        Nói rồi nàng quát lên, con hùm chạy như bay về phía đất Tống. Thình lình Thuận-Tường vung tay, thanh kiếm của nàng bay vọt lên không, rồi rơi xuống trước mặt Tự-Mai.
        Nó vội bắt lấy, tần ngần nhìn bao kiếm thoang thoảng mùi thơm. Khi nó ngửng đầu lên, thành đã đóng cửa, không còn thấy Thuận-Tường đâu nữa.
        Tự-Mai nhảy lên voi thui thủi trở về, tay cầm bao kiếm đưa lên coi. Trên bao dát tất cả bẩy mươi hai viên kim cương, mười tám viên hồng ngọc. Nó cầm kiếm suy nghĩ:
        - Không biết thân thế Thuận-Tường ra sao, mà bao kiếm dát ngọc quý đến như thế này. Đến chị Mỹ-Linh cũng không giầu bằng nàng.
        Chợt nhớ lại thủ pháp tung kiếm của Thuận-Tường, nó rùng mình:
        - Ở trên Tản-lĩnh, khi nàng tát mình, cùng tấn công mình rõ ràng như người không biết võ. Thế mà cái vung tay vừa rồi, chứng tỏ nội lực nàng cao thâm hơn bọn Triệu Tiết, Khúc Chẩn nhiều. À thì ra nàng không muốn xử dụng võ công với ta.
        Có tiếng ngâm sa mạc đâu đó vọng về:

        Em ơi chua ngọt đã từng,
        Non xanh đất đỏ, xin đừng quên nhau.


        Tự-Mai giật mình đến thót một cái. Nó nhìn lên. Phía trước đủ mặt: Nào Thiệu-Cực, Tôn Đản, Lê Văn, Thuận-Tông, Thiện-Lãm, Thanh-Trúc, Kim-Thành, Trường-Ninh. Phía sau một đội cọp, đội sói, mỗi đội mười con. Cả bọn cười hô hố.
        Thanh-Trúc lớn hơn Tự-Mai đến hai ba tuổi. Nàng kinh nghiệm về tình yêu. Thấy mặt Tự-Mai buồn thiu, nàng vuốt tóc nó:
        - Trăng tròn rồi lại khuyết. Tình đến rồi lại đi. Hôm nay chia tay, nhưng sẽ lại gặp nhau. Lo gì?
        Tự-Mai tạm quên mối sầu xa Thuận-Tường. Thiệu-Cực cho cắm lều, sai đội cọp, đội sói canh phòng. Cả bọn qua đêm dưới chân ngọn núi.
        Sau một ngày quá mệt mỏi, bọn trẻ nằm xuống là ngủ ngay. Duy Tự-Mai, nó ôm thanh kiếm của Thuận-Tường, thao thức gần đến sáng mới chợp mắt được.
        Sáng sớm hôm sau, bọn trẻ lại tiếp tục du sơn, ngoạn thủy.
        Đám trẻ đi đến trưa, Thiệu-Cực chỉ lên ngọn núi phía trước:
        - Kia là ngọn núi Mai-sơn. Bắc Mai-sơn thuộc biên giới Tống-Việt. Hồi xưa từ Mai-sơn lên Bắc hơn ba trăm dặm của Việt cả. Sau động chủ theo Tống thành ra của Tống.
        Kim-Thành ngước đôi mắt buồn như hồ thu, nhìn lên đỉnh núi mây phủ mờ mờ hỏi:
        - Người ta bảo đứng trên đỉnh núi có thể nhìn thấy khắp vùng Ung-châu bên Trung-quốc. Vậy cô có cho binh đóng ở đây không?
        Thiệu-Cực bẹo má em:
        - Kim-Thành ngây thơ quá. Nếu cho đóng binh ở trên đó, việc tiếp tế thực phẩm, nước cực kỳ khó khăn. Vì vậy anh thả tế tác từ biên giới tới tận Đàm-châu. Nhất cử nhất động của Tống, tế tác cho chim ưng báo liền.
        Trường-Ninh tỏ ý tán đồng lời Thiệu-Cực:
        - Hôm trước vị quan quản Khu-mật viện Tạ Sơn có tâu với ông nội rằng Tế-tác Bắc-biên do Cú-rừng phụ trách. Phàm nhất cử nhất động của Tống từ Đàm-Châu đến bờ biển Đông-hải, Cú-rừng đều biết hết. Vậy em hỏi một câu, Cú-rừng đừng có giận nghe!
        Thiệu-Cực nhìn cô em họ tuổi tuy mười lăm, mà sớm đã trổ hoa, dáng điệu thanh tĩnh, nhẹ nhàng, môi hồng, mắt phượng; trong tương lai hứa hẹn đẹp hơn Mỹ-Linh nhiều. Chàng gật đầu:
        - Trường-Ninh cứ hỏi. Người xinh đẹp như Trường-Ninh mà hỏi; dù Trường-Ninh muốn xem gan, xem ruột, anh cũng phải mổ cho xem.
        Trường-Ninh thấy hai ông anh con cô mình thực khác nhau một trời một vực. Thiệu-Thái to lớn, ì ạch, dáng như con lợn. Tính tình chân thực, có sao nói vậy. Còn Thiệu-Cực, dáng người thanh nhã, đôi mắt sáng như sao, nói năng dễ lọt tai. Nàng chỉ Thuận-Tông với Thiện-Lãm:
        - Mấy hôm nữa, có cuộc đấu võ tuyển người thống lĩnh vùng Thượng-oai, Phong-châu. Mà các khê động của hai vùng này, nửa thuộc Tống, nửa thuộc Việt. Bên Tống ắt cho người dự tranh. Anh có biết họ định làm gì không?
        Thiệu-Cực cầm tù và thổi lên một hồi dài. Trên trời, hai mươi chim ưng bay xuống đậu quanh chàng. Chàng huýt sáo. Đàn chim ưng vỗ cánh bay bổng lên cao. Chúng bay lượn mấy vòng rồi đồng kêu lên mấy tiếng.
        Tôn Đản hỏi Thiệu-Cực:
        -- Trước khi trả lời Trường-Ninh, anh sợ có người nghe lén. Vì vậy anh ra lệnh cho thần ưng quan sát xung quanh phải không?
        - Đúng thế. Chúng báo quanh đây hai dậm, không có người.
        Chàng trả lời Trường-Ninh:
        - Em phải phân biệt Tống làm ba thành phần. Một do đám quan biên trấn chủ trương. Hai, do Khu-mật viện của Triệu Thành chủ trương. Ba, do Lưu hậu chủ trương. Trong việc cho người tranh chức thống lĩnh này, đám do biên thần Dư Tĩnh thuộc phái Hoa-Sơn có Triệu Tiết, Khúc Chẩn đáng ngại nhất. Bình thường đấu e Lãm, Tông không phải đối thủ của chúng. May sao hai đứa này bị Đản, Mai đánh trọng thương. Đám Triệu Thành thuộc phái Thiếu-Lâm, bản lĩnh Quách Quỳ tầm thường, ta e Đào Bật cũng không hơn. Cuối cùng chỉ đáng ngại đám do Lưu-hậu sai xuống, chúng thuộc Võ-đang. Không hiểu Yên Đạt với Tu Kỷ bản lĩnh ra sao. Tuy vậy ta còn thời giờ. Mình cứ lo luyện cho Thiện-Lãm, Thuận-Tông thực cẩn thận là được rồi.
        Đến đó, đôi chim ưng từ xa bay đến. Một con đáp trên tay Thiệu-Cực. Chàng lấy thư dưới chân chúng ra đọc, rồi thả cho chúng bay lên.
        Tự-Mai hỏi:
        - Lệnh của vua Bà chăng?
        - Không! Lệnh cậu hai. Cậu truyền chúng ta trở về gấp, để lên đường sang Tống.
        Đám trẻ không dám ham chơi, vội cho voi chạy thực mau trở về. Tới nơi, Thiệu-Cực dẫn tất cả vào sảnh đường. Trong sảnh đường đủ mặt: Sư thái Tịnh-Huyền, Khai-Quốc vương, Thanh-Mai, phò mã Thừa-Quý, vua Bà Bắc-Biên cùng triều đình.
        Vua Bà Bắc-biên hỏi Tự-Mai:
        - Trần công tử. Tại sao mặt lại bí xị thế kia? Vui lên chứ!
        Nói rồi bà ngửa mặt lên trời mà cười. Xưa nay Tự-Mai vốn hay đùa. Ai nó cũng dám trêu hết. Người duy nhất khiến nó phải nghiêm trang là bản sư Tịnh-Huyền của nó. Đối với nó bà là Bồ-tát hóa thân, thuyết giảng, dẫn nó đi vào đường giải thoát. Lúc nào nó cũng cười đùa hồn nhiên. Không ngờ từ sau khi gặp Thuận-Tường, nó như người đi trên mây, buồn vui thất thường. Bị vua Bà hỏi một câu, tuy có vẻ châm biếm, nhưng thực ra đầy thương cảm, an ủi. Nó có cảm tưởng như ai cũng biết truyện của nó.
        Khai-Quốc vương vỗ vai nó:
        - Trên đời này, bất cứ việc gì thuận lý nếu chúng ta cố gắng cũng thành công. Một người làm không xuể thì hai. Hai không thành thì năm. Năm không thành thì mười. Chỉ sợ con người ham muốn những gì nghịch lý mới thất bại mà thôi.
        Thiệu-Cực muốn đưa mọi người ra khỏi truyện tình Tự-Mai, Thuận-Tường, chàng trình bày:
        - Chỉ còn nửa tháng nữa tới ngày tuyển người thống lĩnh Phong-châu, Thượng-oai. Cho đến nay đã có tất cả mười hai người ghi tên. Như vậy Thuận-Tông, cũng như Thiện-Lãm phải thắng năm người. Trước khi dự tuyển, xin mạ mạ ban chỉ dụ.
        Vua Bà Bắc-biên chắp tay xá sư thái Tịnh-Huyền rồi nói:
        - Chúng ta khác với Tống ở điểm Tống dùng hình pháp trị dân. Ta dùng nhân nghĩa khiến trăm họ tuân phục. Ta khác với Hồng-thiết giáo ở điểm Hồng-thiết giáo dùng xảo trá. Ta dùng chính đạo ngay thẳng. Vì vậy trong cuộc tranh đấu này, chúng ta phải đường đường chính chính tranh tài. Nếu hai con có bản lĩnh hơn người hãy làm châu trưởng. Còn thua người, thì đừng làm.
        Bà nhấn mạnh:
        - Hiện trong hai anh em tham dự, chia ra mỗi người tranh một châu. Thí sinh chia làm hai toán. Một toán tuyển anh kiệt cho Thượng-oai, một toán cho Phong-châu. Như vậy mỗi toán có sáu người. Tống có sáu người ứng tuyển. Ta có bốn thiếu niên khê động, với hai con thành sáu. Các thiếu niên Khê-động bản lĩnh họ không được làm bao. Nhưng họ hiểu dân tình hơn. Về sáu thiếu niên Tống, hai người do kinh lược an-phủ sứ Quảng-Đông Dư Tĩnh cài vào là Triệu Tiết, với Khúc Chẩn đã bị loại ra sau trận đánh Tản-lĩnh. Hai người do Khu-mật viện Tống cài vào, gồm Quách Quỳ, Đào Bật. Giờ phút trót họ cho rút tên ra. Có lẽ họ thấy Quỳ không đủ bản lĩnh, ắt Đào Bật cũng thất bại. Cuối cùng còn hai người do Lưu-hậu cài vào là Tu Kỷ với Yên Đạt. Bà sai Vương Duy-Chính cho giả làm con em Khê- động. Nhưng ta không có cớ nào loại chúng. Ta đành chấp thuận.
        Bà đưa mắt nhìn Khai-Quốc vương:
        - Tóm lại còn tám người tranh tài gồm ta hai, khê động bốn, Tống hai. Mỗi toán có bốn người, sẽ chia làm hai cặp. Sau trận đầu loại hai người. Nếu trận này con gặp người Tống, phải dùng tất cả bình sinh công lực, đánh như vũ bão, sao cho thắng thì thôi. Còn trường hợp gặp thiếu niên khê động, cứ đánh cầm chừng, cuối cùng họ mệt quá xin thua là hay nhất. Bấy giờ các con phải dùng lời lẽ khiêm tốn an ủi họ.
        Bà nhìn Tông, Lãm:
        - Sau trận đầu mỗi toán còn hai người. Ai thắng hai trận, sẽ được trúng tuyển. Bất biết trận này hai con gặp người Tống hay người Khê-động phải tỏ ra lễ độ, đường đường, chính chính nhường người ra chiêu trước. Lỡ ra thấy mình yếu thế, phải nhảy lui lại hành lễ, xin thua. Như vậy dù có bại, cũng không nhục nhã gì. Thôi hai con ra ngoài để Tự-Mai, Lê Văn luyện võ cho.
        Đám trẻ đến phòng luyện võ. Tự-Mai bàn với Lê Văn:
        - Nếu mình có thua, chỉ có thể thua hai thiếu niên khê động, chứ không thể thua Tu Kỷ, Yên Đạt. Kỷ, Đạt thuộc phái Võ-đang, ta nghiên cứu võ công Võ-đang trước. Hồi đánh trận Bạch-đằng, ông nội mình có bắt được cuốn quyền phổ phái Võ-đang, sau đó đem về nghiên cứu ra bộ Côi-sơn quyền pháp để phá Võ-đang quyền. Bây giờ mình dạy Tông, Lãm xem sao.
        Nói rồi nó di một lần, giảng giải chi tiết biến hóa:
        - Khi đối thủ từ Càn biến sang Khôn, mình phải từ Trấn biến sang Đoài.
        Nhưng Thuận-Tông, Thiện-Lãm lại chưa biết gì về Dịch-lý. Thành ra Tự-Mai giảng giải thế nào hai người cũng không hiểu. Nó vò đầu bứt trán khổ sở.
        Lê Văn thấy vậy can thiệp:
        -- Vậy để em dạy hai ông anh này sơ sơ về kinh Dịch đã.
        Cuộc luyện võ phải ngưng lại. Lê Văn đem kinh Dịch ra giảng. Kinh Dịch là tổng hợp khoa toán học, thiên văn học, cùng lẽ biến động của vũ trụ, vốn cực kỳ phức tạp. Tông, Lãm chưa có một ý niệm nào, mà Lê Văn lại không kinh nghiệm giảng dạy. Cho nên khi giảng đến Tiên-thiên bát quái đồ, hai đứa ngơ ngơ ngác ngác không hiểu gì cả. Vì vậy trong suốt mười ngày qua, Tự-Mai mới luyện cho hai đứa được mười chiêu trong mười tám chiêu. Tám chiêu còn lại chỉ xử dụng được, mà không biết biến hoá.
        Suốt ngày, năm đứa trẻ không rời phòng luyện võ. Đến giờ, chúng bắt nữ tỳ mang thức ăn đến chứ không về nhà ăn.
        Cổ nhân nói Dục tốc bất đạt trong trường hợp này quả đúng. Tự-Mai càng thúc dục, hai đứa càng miệt mài, càng không hiểu.
        Cho đến hôm ấy chỉ còn một ngày nữa tới kỳ tuyển, mà hai đứa càng hoảng hốt, rút cuộc vẫn không hiểu. Truyện này tới tai Thanh-Mai. Nàng an ủi chúng:
        - Chẳng lẽ không học được phá cách võ công Võ-đang, mà không ai địch lại Yên Đạt, Tu Kỷ chăng? Tông cứ dùng võ công Mê-linh. Lãm dùng võ công Tản-viên đấu với chúng cũng được chứ sợ gì. Ta không làm châu trưởng, vì tài ta không tới. Ta học thêm, rồi làm những truyện khác, khối việc phải làm cho đất nước đang chờ đón ta.
        Hôm ấy, ngày mười rằm tháng mười, 207 động chủ, châu trưởng đều tề tựu về động Giáp. Dân chúng các nơi kéo về đông nghẹt, để xem cuộc tuyển võ. Trên một thửa đất rộng, võ đài được dựng lên cao hơn một trượng. Cạnh võ đài có ba chiếc ghế, dành cho ba giám khảo ngồi.
        Xung quanh võ đài có ba khán đài nằm cạnh nhau. Khán đài trung ương nằm giữa, đành cho vua Bà, các đại thần triều Bắc-biên cùng quan khách. Hai khán đài hai bên dành cho phái đoàn 207 khê động. Trước khán đài, là kỳ hiệu của các khê động, khuôn khổ bằng nhau bay phất phới.
        Dân chúng đứng xung quanh võ đài dự thính. Theo thông lệ mỗi khi có cuộc tuyển người làm động chủ, châu trưởng, bao giờ ban tổ chức cũng mời đại diện các võ phái, bang phái trên toàn lãnh thổ Đại-Việt. Riêng năm nay, những phái võ của tộc Việt như Thiên-tượng, Động-đình, Phật-thệ, Cửu-long, Tha-nôm đến những bang lớn như Đông-hải, Hồng-hà, Hoàng-liên, Tiên-yên đều được mời.
        Lạc-long giáo được coi như một phái lớn, cũng được mời về tham dự.
        Đúng giờ Mão, vua Bà Bắc-biên tới.
        Nghi lễ đứt.
        Đại tư mã Thân Thừa-Phú lên đài, hướng vào quần chúng, ông vận nội lực nói lớn:
        - Thưa quý khách. Từ khi Hồ tiên cô thống nhất bẩy mươi hai khê động thành châu Tây-vu. Chúng ta bắt đầu sống qui tụ từ đó. Sớm tối có nhau. Sau thời Lĩnh-Nam, các lạc-hầu, lạc-tướng vùng đồng bằng Đại-Việt bị phế bỏ, biến thành làng xã. Duy Tây-vu ta trên nghìn năm nay vẫn giữ chế độ lạc-hầu, lạc-tướng. Nay lạc ấp được gọi bằng danh xưng khê động.
        Ông ngừng lại, lấy hơi, rồi nói tiếp:
        - Truyền thống của khê động về người động chủ có hai lối. Một là cha truyền con nối. Hai là tuyển người hiền tài. Năm vừa qua lạc hầu Lưu Nguyên, thống lĩnh các châu Quảng-nguyên, Tư-lãng, Thượng-dung, Hạ-dung, Hoành-sơn, Ôn-nhuận, Qui-hóa thường bị bệnh. Trong khi người không muốn truyền ngôi cho con trai. Vì vậy lạc hầu tấu với vua Bà xin tổ chức cuộc tuyển người tài để truyền ngôi.
        Lưu Nguyên đứng lên hướng vào vua Bà hành lễ, rồi chắp tay vái cử tọa.
        Thừa-Phú tiếp:
        - Lạc hầu Hoàng Sùng-Anh, thống lĩnh các châu Lôi-hỏa, Đặc-ma, Bảo-lạc nhân tuổi già, muốn được nghỉ ngơi, cũng xin tìm người thay thế. Vì vậy mới có cuộc tuyển nhân tài hôm nay. Cuộc tuyển nhân tài được đặt dưới quyền giám khảo của ba vị.
        Ông chỉ vào Nùng Tồn-Phúc:
        - Lạc hầu Tồn-Phúc làm chánh khảo, chấm về chiêu số. Xin mời Nùng lạc hầu lên đài.
        Nùng Tồn-Phúclên đài hướng vào cử tọa vái ba vái rồi ngồi xuống.
        Thừa-Phú tiếp:
        - Vị giám khảo thứ nhì là lạc hầu Vi Thủ-Đan sẽ chấm về về công lực. Mời Vi lạc hầu lên đài.
        Vi Thủ-Đan lên đài, hướng vào khán giả vái ba vái rồi ngồi xuống.
        Thừa Phú tiếp:
        - Lạc hầu Lưu Nguyên, Hoàng Sùng-Anh sẽ chấm về võ đạo cho những thí sinh của mình.
        Lưu Nguyên, Hoàng Sùng-Anh lên đài, ngồi vào ghế giám khảo.
        Thừa-Phú tiếp:
        - Đức Đại-Việt hoàng-đế cử Khai-Quốc vương, Phụ-quốc thái úy, thống lĩnh quân quốc trọng sự lên chứng minh cho cuộc tuyển nhân tài này, đã nói lên việc ngài hết sức chăn sóc đến đời sống của biên dân.
        Khai-Quốc vương đứng dậy dơ tay vẫy quần chúng. Quảng trường reo hò hoan hô vang dậy.
        - Ngoài ra chúng tôi còn thấy có quan đại tư không nước Đại-lý là Chu Minh đại diện đức hoàng-đế cùng phái Thiên-tượng về tham dự.
        Một nửa biên giới của các khê động giáp giới với Đại-lý. Tộc Thái chiếm bẩy phần mười số dân trong nước. Tại vùng Bắc-biên có tới sáu khê động người Thái. Nay họ thấy một trong ba tể thần Đại-lý tới chứng minh, làm dân chúng tin tưởng phần nào vào tương lai yên ổn của họ. Họ vỗ tay hoan hô.
        - Về các quốc vương Xiêm-la, Lão-qua, Chiêm-thành, vì đường xá xa xôi không cử người tới kịp, cũng truyền chỉ tới chúc mừng.
        - Về các đại môn phái. Phái Tiêu-Sơn có đại sư Sùng-Minh. Phái Đông-a có đại hiệp Vũ Anh. Phái Sài-sơn có y sư Dương Bình. Phái Mê-linh có sư thái Tịnh-huyền. Phái Tản-viên có đại hiệp Đào Nhị-Bách. Bang Hồng-hà có Sử bang chủ. Bang Đông-hải có Hùng bang chủ. Lạc-long giáo có trưởng lão Ngô Bách-Vân. Thực vinh hạnh cho chúng ta ngày hôm nay.
        Quay về phía Nùng Tồn Phúc, ông nói:
        - Xin mời Nùng chủ khảo ban hành thể lệ tuyển.
        Nùng Tồn-Phúc hướng vào cử toạ nói:
        - Về thể lệ cuộc tuyển lựa. Muốn được ứng tuyển, thí sinh phải hội đủ năm điều sau: Là con em của 207 khê động. Trong tuổi mười ba đến đến mười tám. Không bị bệnh tật, tật nguyền. Không phải thành phần bất hảo như trộm cướp. Biết nói tiếng Việt. Tất cả có mười hai ứng viên. Song trước đây mười lăm ngày có bốn ứng viên xin rút tên.
        Phúc hướng xuống dưới đài hô:
        - Ứng viên châu trưởng Thượng-oai có tên sau: Lê Thuận-Tông, Lưu Tường, Yên Đạt, Vi Chấn. Ứng viên châu trưởng Phong-châu có tên sau: Hà Thiện-Lãm, Hoàng Tích, Tu Kỷ, Nùng Sơn Bi. Yêu cầu các ứng viên lên đài.
        Tám ứng viên lên đài hướng vào vua Bà hành đại lễ.
        Nùng Tồn-Phúc tiếp:
        - Thể lệ cuộc đầu như sau: Không được dùng ám khí, chất độc. Không được cù ki (cù lét). Tuyệt đối người ngoài không thể, không nên trợ giúp ứng viên. Đây là cuộc đấu phân tài cao thấp, chứ không phải đấu với kẻ thù. Ứng viên nào đánh chết đối thủ, coi như bị loại. Vì mỗi châu có bốn ứng viên. Cho nên các ứng viên được rút thăm, chia làm hai cặp đấu sơ tuyển. Sau trận đầu, hai ứng viên thắng được nghỉ một giờ rồi vào chung kết.
        Y hướng xuống đài:
        - Mời quan Lễ-bộ thượng-thư cho rút thăm.
        Lễ bộ thượng thư là Chu Thúy-Hoa. Bà là một phụ nữ cao niên, không biết võ công. Bà đưa ra cái hộp có bốn phiếu nói:
        - Trong hộp này có bốn phiếu. Hai phiếu mang số một. Hai phiếu mang số hai. Thí sinh nào rút trúng số một sẽ đấu với nhau trận đầu. Thí sinh nào rút trúng số hai sẽ đấu trận thứ nhì.
        Bà đưa hộp cho bốn người rút. Bốn người trình phiếu ra. Chu Thúy-Hoa xướng:
        - Trận đầu ứng viên Lưu Tường đấu với ứng viên Vi Chấn. Trận thứ nhì, ứng viên Lê Thuận-Tông đấu với ứng viên Yên Đạt. Mời ứng viên Lưu Tường, Vi Chấn lên đài.
        Dưới đài, Tự-Mai dặn Thuận-Tông:
        - Như vậy lát nữa Tông phái đấu với tên Yên Đạt.
        Lê Văn dùng ngón tay điểm vào huyệt Thần-môn, Nội-quan, Phong-trì, Bách-hội cho Thuận-Tông. Nó dặn:
        - Em điểm vào mấy huyệt này, khiến cho anh bớt hồi hộp.
        Trên đài Lưu Tường, Vi Chấn đã bắt đầu bái tổ, rồi phát chiêu. Thoáng nhìn qua, Tự-Mai đã nhận ra hai người xử dụng võ công Tây-vu.


        <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 02:28:18 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 19.01.2005 18:28:11 (permalink)
          Hồi thứ chín mươi

          Tống cung bí sử



          Thuận-Tông không hiểu nhiều về võ công Tây-vu. Nó hỏi Tự-Mai:
          - Anh sáu! Anh thử đoán xem ai sẽ thắng.
          - Hiện khó có thể đoán kết quả đi về đâu. Hai người chỉ học quyền, chưa luyện khí công, thành ra không phát chưởng được. Thắng hay bại đều trông vào sức lực cả.
          Lưu Tường đánh liền bốn quyền như bão táp. Vi Chấn lui lại tránh đưởc hai quyền. Đến quyền thứ ba, bắt buộc y phải dùng cước đỡ. Bốp một tiếng, quyền đánh trúng gối. Đau quá, y nhảy lùi bước nữa tới mép đài. Lưu Tường đánh tiếp một quyền như vũ bão. Thình lình Vi Chấn trầm người xuống, luồn qua nách Lưu Tường, rồi quay lại đẩy một cái. Lưu Tường ngã lộn xuống đài.
          Cử tọa vỗ tay hoan hô. Nùng Tồn-Phúc tuyên bố:
          - Theo thể lệ, ứng viên Vi Chấn thắng trận đầu.
          Lưu Tường đã lên đài. Vi Chấn tiến đến ôm lấy Lưu Tường:
          - Đằng ý ngã có đau lắm không? Xin lỗi nhé.
          - Không đau cho lắm. Mình chịu phục đấy.
          Nói rồi cười. Cả hai ứng viên dắt nhau xuống đài, phơi phới như cuộc dạo chơi. Nếu không xem tận mắt, đố ai có thể tin rằng mới đây hai người dùng hết sức lực đấm đá nhau.
          Quan khách kinh ngạc:
          - Võ đạo Bắc-biên cao thực. Hai trẻ đấu với nhau mà như anh em tập dượt vậy. Tương lai chúng không tầm thường.
          Nùng Tồn-Phúc xướng:
          - Mời hai ứng viên Lê Thuận-Tông, Yên Đạt lên đài.
          Yên Đạt vọt người lên đài như con én. Khi còn lơ lửng trên không nó đã chắp tay hướng cử toạ vái ba vái. Thấy võ công Yên Đạt cao hơn Lưu Tường, Vi Chân quá xa, dân chúng vỗ tay hoan hô vang dậy.
          Lê Thuận-Tông khoan thai lên đài. Nó chắp tay vái bốn phía, rồi đứng thủ thế. Nùng Tồn-Phúc hô:
          - Xuất chiêu.
          Lê Thuận-Tông phát một chiêu Thiên-vương chưởng, mà Lê Văn dạy nó, hai tay chắp lại như hành lễ:
          - Lê Thuận-Tông đệ tử phái Mê-linh xin tương kiến Yên huynh.
          Yên Đạt không nhân nhượng, nó xuất một chiêu Võ-đang chưởng đánh thẳng vào mặt Thuận-Tông, cử chỉ cực kỳ vô lễ.
          Thuận-Tông lùi một bước, tay phải nó khoanh tròn. Tay trái đánh thẳng. Đó là chiêu Loa-thành nguyệt ảnh của Cửu-chân chưởng. Hai chưởng chạm nhau đến binh một tiếng. Cả hai lảo đảo lui lại nhìn nhau.
          Dưới đài Lê Văn cau mày:
          - Khó quá, công lực tên này bỏ xa bọn Quách Quỳ, ngang với Triệu Tiết. Không biết Thuận-Tông có đương nổi không?
          Đánh đến chiêu thứ mười, thình lình Thuận-Tông lùi lại, phát một chiêu trong Côi-sơn chưởng pháp. Chân từ Càn vị bước sang Tốn vị. Yên Đạt không biết gì về pho quyền này, y vung tay đỡ. Binh một tiếng, mắt nó đổ lửa, chân tay bải hoải như người đói, lồng ngực muốn nổ tung ra. Nó nhảy lui liền ba bước, trố mắt nhìn đối thủ.
          Thuận-Tông tuyệt không ngờ quyền pháp Tự-Mai dạy nó lại linh nghiệm đến thế. Nó ngây người ra nhìn đối thủ.
          Tự-Mai vỗ đùi than:
          - Trời ơi! Nếu Thuận-Tông đánh tiếp chiêu Sơn-trung hoa lạc, chân từ Tốn bước sang Chấn thì tên Yên Đạt ắt bay xuống đài rồi.
          Thuận-Tông thuận tay phát một chiêu trong Côi-sơn quyền pháp có kết quả. Nó đánh liền hai chiêu, trong khi chân từ Ly bước sang Khôn vị. Binh, binh. Yên Đạt rung động toàn thân. Nó lùi liền hai bước. Thuận-Tông đánh tiếp ba chiêu. Yên Đạt lại lùi ba bước nữa.
          Lê Văn than:
          - Khổ quá anh Tông chưa hiểu hết Dịch-lý, nên cứ chiêu một, chiêu một đánh ra. Giữa hai chiêu có khoảng trống, thành ra chỉ làm cho Yên Đạt bối rối, mà không hạ được nó. Giá anh ấy biết biến hoá chiêu nọ nối liền chiêu kia như mây trôi, như nước chảy, thì mười tên Yên Đạt kia cũng bỏ mạng rồi. Cơ chừng này, nó phản công đến nơi rồi.
          Đến chiêu thứ mười hai, thình lình Yên Đạt tung ra một chưởng. Bình một tiếng, Thuận-Tông choáng váng bật lui, chân tay nó cảm thấy vô lực. Nó còn đang hoảng hốt, Yên Đạt không nhân nhượng, nó lại đánh liền bốn chiêu. Thuận-Tông vẫn dùng Côi-sơn quyền đỡ. Cứ sau mỗi lần đỡ, nó cảm thấy chân khí mất đi một phần.
          Tự-Mai hỏi Lê Văn:
          - Cà chớn. Em có biết Yên-Đạt dùng võ công gì không?
          Lê Văn cau mày:
          - Võ công Liêu-Đông. Võ-đang thuộc danh môn chính phái Hoa-hạ, tại sao Yên Đạt lại biết võ công Liêu-Đông?
          Nghe Lê Văn nói, Tự-Mai kinh hãi, vì nó nhớ lại truyện cũ:
          - Hồi Bảo-Hòa, Mỹ-Linh tới Thiên-trường. Bố mình giảng về sự khác biệt của thần công Yên-lãng với các phái khác. Bố mình có nói: Thần công Yên-Lãng hơi giống nội công phái Liêu-Đông. Thần công Yên-Lãng chỉ hoá giải, cùng hút công lực đối thủ khi đối thủ đánh mình. Còn nội công Liêu-Đông thì không thế, nó làm tiêu tán công lực đối thủ, rồi truyền độc tố vào người. Cơ chừng này Thuận-Tông nguy đến nơi rồi.
          Yên Đạt dồn Thuận-Tông tới cuối đài bằng mười chiêu khác nhau. Đến chiêu thứ mười một, y dùng tất cả bình sinh công lực đánh một chiêu như sét nổ, hy vọng đẩy đối thủ xuống đài.
          Cáo chết ba năm quay đầu về núi. Con người học võ cũng thế, khi gặp nguy cấp, thường phản ứng tự nhiên. Tự nhiên thì chiêu số mình xử dụng hàng ngày sẽ xuất ra. Trong lúc Thuận-Tông gặp nguy hiểm, tính mệnh như treo trên sợi tóc, nó phát bừa một chiêu đỡ. Chiêu đó là Loa-thành nguyệt ảo gốc thuộc Cửu-chân. Bình! Một thân người bay bổng lên cao, rơi xuống giữa đài. Ai cũng tưởng người đó là Thuận-Tông, không ngờ là Yên Đạt.
          Thuận-Tông vừa định đánh tiếp chiêu nữa, thì có tiếng chiêng báo hiệu đã được năm mươi hiệp. Hai bên hưu chiến.
          Nùng Tồn-Phúc dơ tay nói:
          - Đúng luật lệ, hai bên đấu với nhau được năm mươi hiệp. Tạm nghỉ nửa giờ rồi tái đấu.
          Thuận-Tông xuống đài. Lê Văn thoa bóp các bắp thịt cho nó. Trong khi Tự-Mai dặn:
          - Phải chú ý lắm mới được. Mình có hai loại võ công khắc chế với Yên Đạt. Khi thấy Yên Đạt dùng võ công Võ-đang thì mình dùng Côi-sơn quyền pháp. Còn khi thấy nó dùng võ công Liêu-Đông thì mình dùng võ công Mê-linh. Bất cứ trường hợp nào, mình cũng phải đánh nó một chiêu. Khi nó bị một chiêu khắc chế, ắt căn bản bị tuyệt. Bấy giờ mình phải đánh liên tiếp như sóng vỗ, như núi lở, như băng tan, như mây trôi, ắt nó bị hạ liền.
          Nói rồi nó giảng chi tiết cách biến từ Côi-sơn quyền pháp sang Mê-linh quyền pháp. Nó giảng được một lần, đang định giảng tiếp về phương pháp từ biến từ võ công Mê-linh sang quyền pháp Côi-sơn, thì chiêng báo hiệu trận thứ nhì.
          Lần này đã có kinh nghiệm, Thuận-Tông xuất chiêu trước bằng Côi-sơn quyền pháp. Yên Đạt thấy chiêu số của Thuận-Tông hung hiểm lạ thường, lại khắc chế với võ công của nó. Nó kinh hoảng lùi lại một bước tránh đòn. Thuận-Tông không nhân nhượng tiến lên đánh liền ba chiêu. Yên Đạt đỡ được hai chiêu, đến chiêu thứ ba nó đẩy ra một chiêu Liêu-Đông. Bình một tiếng, Thuận-Tông bật lui liền ba bước. Nó cảm thấy chân khí bị biến mất.
          Đã có kinh nghiệm, nó mượn đà lui lại. Trong khi Yên Đạt truy kích bằng hai chiêu Liêu-Đông. Thuận-Tông phát chiêu Hải-triều lãng lãng. Bình một tiếng Yên Đạt cảm thấy trời long đấtt lở, tai ù đi. Nó đang kinh hoàng thì lớp thứ nhì tới. Bình một tiếng, nó bật lui đến mép đài, thì lớp thứ ba đã bao trùm khắp người. Nó tung mình lên cao, chân đá gió một cái, người bay vào giữa đài.
          Thuận-Tông chuyển mình một cái, lớp thứ tư như cái cầu vồng đánh về sau. Yên Đạt kinh hãi, nó đánh ra một chiêu Võ-đang. Bộp, cả hai lảo đảo lui lại. Kinh nghiệm, Thuận-Tông đổi sang Côi-sơn quyền, nó co chân đá vòng vào thái dương trái Yên-Đạt, trong khi tay đẩy thẳng về trước. Yên Đạt trầm người xuống tránh cước. Hai tay nó chụp lấy tay Thuận-Tông.
          Thuận-Tông giật mạnh một cái, người Yên Đạt bay bổng lên cao rơi xuống dưới đài.
          Khán giả vỗ tay vang dội hoan hô. Nùng Dân-Phú chờ Yên Đạt lên đài, y cho hai thiếu niên hành lễ với nhau, rồi hướng vào cử tọa:
          - Tấu vua Bà. Thưa quý quan khách, theo thể lệ cuộc đấu thiếu niên Lê Thuận-Tông thắng trận nhì. Bây giờ tới trận chung kết. Lê Thuận-Tông đấu với Vi Chấn. Ai thắng sẽ trở thành người thừa kế Lưu lạc hầu, làm lạc hầu Thượng-oai.
          Vi Chấn chắp tay hướng Thuận-Tông:
          - Lê huynh võ công cao cường. Muôn ngàn lần đệ không thể là đối thủ. Đệ xin cung kính chịu thua.
          Cử toạn vỗ tay vang dội.
          Nùng Tồn-Phúc nói lớn:
          - Theo thể lệ, ứng viên Lê Thuận-Tông trúng cách làm lạc hầu Thượng-oai.
          Thuận-Tông ôm lấy Vi Chấn. Cả hai cười với nhau. Hai thiếu niên vái nhau rồi xuống đài.
          Nùng Tồn-Phúc tiếp:
          - Bây giờ tới bốn ứng viên Hà Thiện-Lãm, Hoàng Tích, Tu Kỷ, Nùng Sơn-Bi tranh tài làm lạc hầu Phong-châu. Mời bốn ứng viên lên đài.
          Bốn thiếu niên lên đài hướng vào vua Bà hành đại lễ, rối rút thăm. Sau khi kiểm thăm, Nùng Tồn-Phúc tuyên bố:
          - Trận đầu Hà Thiện-Lãm đấu với Hoàng Tích. Trận thứ nhì Tu Kỷ đấu với Nùng Sơn-Bi.
          Tu Kỷ, Nùng Sơn-Bi xuống đài. Nùng Tồn-Phúc cho Lãm, Tích đứng đối diện nhau, rồi nhắc lại thể lệ cuộc đấu.
          Nhớ chỉ dụ của vua Bà, Thiện-Lãm tự nhủ:
          - Bất cứ trường hợp nào ta cũng không thể thẳng tay với Hoàng Tích. Ta cần tỏ ra lễ độ, mới mong thu phục nhân tâm vùng Bắc-biên này.
          Nó chắp tay hành lễ:
          - Hà Thiện-Lãm, đệ tử phái Tản-viên kính chào Hoàng huynh.
          Hoàng Tích cũng chắp tay thành quyền:
          - Đệ Hoàng Tích, đệ tử phái Tây-vu kính chào Hà huynh. Mong Hà huynh nhẹ tay cho.
          Hoàng Tích phóng quyền đến vù một cái. Hà Thiện-Lãm nhận ngay ra đó là chiêu Long-hổ quyền, rất tinh diệu, hung hiểm, nhưng đường đường chính chính. Nó lùi lại một bước tránh đòn, miệng mỉm cười:
          - Đệ nhỏ hơn Hoàng huynh hai tuổi. Vì vậy xin nhường Hoàng huynh một chiêu.
          Hoàng Tích cười lớn:
          - Hà huynh đệ là con cháu thánh Tản có khác, hành vi lễ độ phi thường.
          Đấu được hai mươi chiêu, Thiện-Lãm thấy căn bản của Hoàng Tích rất vững chắc. Mỗi chiêu, công thủ, tiến thoái đúng khuôn phép, tỏ ra được huấn luyện rất cẩn thận. Nhưng công lực không được làm bao. Nếu nó muốn hạ Tích, chỉ cần đánh mươi chiêu Phục-ngưu thần chưởng thì xong ngay. Nhưng nó được Tự-Mai, Lê Văn dặn trước, nên cứ dùng những chiêu rất tầm thường, lại chỉ vận có năm thành công lực. Vì vậy trận đấu kéo dài.
          Khán giả thuộc giới võ lâm chỉ nhìn qua cũng biết sự thực. Còn dân chúng thì cho rằng hai người ngang sức.
          Hai người đấu với nhau đến chiêu thứ chín mươi, thì trống báo hiệu tới giờ nghỉ. Thiện-Lãm nhảy lùi lại xá một xá:
          - Đa tạ Hoàng huynh nhẹ tay.
          - Cảm ơn Hà huynh quá khen.
          Hai người dắt nhau xuống đài. Khác với những cặp đấu trước. Khi xuống đài, ai về chỗ người đó, có đồng môn thoa bóp cho. Lần này hai đấu thủ cùng ngồi chung một chỗ, cùng uống nước suối, bóp chân, nắn tay cho nhau.
          Thiện-Lãm với Hoàng Tích mới gặp nhau, mà như quen nhau từ bao giờ. Hai người cười nói, bàn tán về những chiêu đã đấu với nhau. Hoàng Tích nói:
          - Hà huynh đệ này. Huynh nghe nói bất đứ đệ tử Tản-viên nào cũng có quyền dẫn bạn lên Tản-lĩnh chơi. Sau trận đấu này, huynh đệ đưa ta lên lễ thánh Tản đi.
          - Gì chứ điều đó thì được. Huynh lên đấy sẽ thấy mây đi dưới chân mình. Hoa trên đó nở bốn mùa. Mùa này là mùa hoa cúc đây. Có hoa cúc vàng, có hoa cúc trắng, lại có cả hoa cúc tím nữa.
          - Còn ngược lại ta sẽ dẫn huynh đi săn chim cu rừng rồi nướng ăn, Cu rừng nướng ngon lắm. Hơn hẳn cu dưới miền xuôi.
          - Hoàng huynh là chỗ thế nào với lạc hầu Hoàng Sùng-Anh?
          - Ta phải gọi người bằng chú họ. Vì các động của người thiếu nhân tài, người không muốn nhường ngôi cho ta, mà xin tuyển thay thế để có nhân tài. Bất biết ai thắng, người cũng nhường ngôi ngay, để người ngao du sơn thủy. À, nghe nói huynh đệ là nghĩa tử của vua Bà phải không?
          - Đúng vậy. Mạ mạ nuôi đệ với Thuận-Tông từ hơn hai năm nay. Còn sinh phụ mẫu quê ở trấn Thanh-hoá.
          - Ước gì huynh đệ thắng trận này, về làm lạc hầu Phong-châu, anh em mình tha hồ bàn truyện sao cho trang động mình trở thành giầu có.
          - Vậy chúng mình cùng ước hẹn. Hễ ai thắng mấy người kia phải trợ giúp trong việc phát triển trang ấp.
          - Lời huynh đệ sao giống ông Cú rừng quá. Hôm rồi ông Cú rừng tới thăm chú Sùng-Anh cũng khuyên chú rằng, bất cứ ai trong bốn chúng ta lên làm lạc hầu, cũng mời ba người còn lại giúp sức. Sáng nay chú có bàn với dưỡng phụ Tu Kỷ, ông ta lắc đầu không chịu.
          - Sao vậy?
          Đến đó, trống báo hiệu trận đấu thứ nhì. Hai trẻ dắt nhau lên đài. Trận đấu tiếp tục. Hoàng Tích vẫn dùng Long-hổ quyền của phái Tây-vu. Thiện-Lãm dùng Tản-viên quyền. Hai người vừa đấu vừa cười, giống như đùa vui. Đấu đến hiệp thứ trăm lẻ một, trống báo hiệu chấm dứt. Hai trẻ ôm choàng lấy nhau cười ha hả.
          Nùng Tồn-Phúc tuyên bố:
          - Cả hai trận, không ai hạ được ai. Bây giờ chờ cộng điểm.
          Tồn-Phúc bàn cùng các giám khảo, rồi cộng điểm lại. Y tuyên bố:
          - Về võ đạo cả hai bằng nhau, thái độ thanh thản, hoà thuận như anh em trong nhà. Về nội lực Thiện-Lãm sung mãn hơn Hoàng Tích. Về chiêu số ngang nhau. Như vậy Thiện-Lãm thắng cuộc.
          Hai trẻ quì gối hướng vua Bà hành lễ, rồi lại hành lễ với giám khảo, sau đó dắt nhau xuống đài.
          Nùng Tồn-Phúc gọi Tu Kỷ với Nùng Sơn-Bi lên đài. Sau khi nhắc lại qui luật cùng phương thức tuyển lựa, y hô lớn:
          - Xuất chiêu.
          Tu Kỷ lùi một bước, người y vọt lên cao, đá một hồi phong cước vào mặt Sơn-Bi. Sơn-Bi trầm người xuống tránh khỏi, y trả lại một quyền, trúng bắp chân Kỷ đến bốp một tiếng. Kỷ loạng choạng suýt ngã. Sơn-Bi thuận thế tung một quyền vào ngực nó.
          Thực ra bản lĩnh Tu Kỷ cao hơn Sơn-Bi gấp bội. Chỉ vì y khinh địch, lại muốn biểu diễn ta đây, mà bị trúng hai đòn. Đau quá, hoá khùng, y lùi lại tung một chưởng vào ngực Sơn-Bi. Thấy chưởng phong ác liệt, Sơn-Bi khoanh hai tay trước ngực đỡ. Bình một tiếng, chưởng trúng ngực. Sơn-Bi bị đẩy lui hai bước. Nó nghiến răng lao vào người đối thủ. Sức lao của nó thực phi thường. Tu Kỷ né sang bên cạnh tránh khỏi, rồi túm lấy đầu nó giật mạnh trở lại.
          Sơn-Bi biết nguy hiểm, nó không gỡ thế nắm, mà tống vào ngực đối thủ bằng cả hai quyền. Tu Kỷ bị trúng đòn đến binh một cái. Nó nghiến răng chịu đòn, tay trái chém vào cổ đối thủ. Sơn-Bi kinh hoảng nhảy vọt lên, đầu nó trúng hàm Tu Kỷ, làm răng cắn vào lưỡi. Tu Kỷ đau thấu tâm can.
          Rõ ràng võ công mình cao hơn đối thủ, nhưng vì Sơn-Bi đánh toàn những đòn như người không biết võ, nên Tu-Kỷ bị trúng liên tiếp. Tay vẫn nắm tóc Sơn-Bi, nó giật mạnh kéo đối thủ lại gần, dùng tay trái đâm vào mắt phải đối thủ.
          Sơn-Bi đau quá rú lên một tiếng, máu chảy đầy mặt, hai tay nó chụp hạ bộ Tu-Kỷ bóp mạnh. Tu Kỷ thét lên, dùng tay trái chọc vào mắt trái, rồi dùng hai tay gỡ tay Sơn-Bi ra. Sơn-Bi bị mù hai mắt, đau đớn cuồng loạn, nó cứ bóp chặt hạ bộ Tu-Kỷ. Trong khi Tu-Kỷ bóp cổ nó. Cả hai ngã lăn trên đài.
          Đến đó trống báo hiệu hết trận thứ nhất. Nhưng hai trẻ cứ ôm nhau, lăn lộn trên đài.
          Nùng Tồn-Phúc kinh hoảng vội chạy lại gỡ hai người ra, thì hai mắt Tu Kỷ trợn trừng, hơi thở chỉ còn thoi thóp. Còn Sơn-Bi máu me đầy người.
          Lê Văn vọt lên đài xem xét. Nó nói lớn:
          - Nùng huynh chết rồi. Còn Tu huynh bị thương nặng, tuy không chết, nhưng e từ nay không còn làm chồng được nữa.
          Hai đứa trẻ được đưa xuống đài. Nùng Tồn-Phúc tuyên bố:
          - Tu-Kỷ thắng Sơn-Bi. Tuy nhiên vì Kỷ đánh tử thương Sơn-Bi, nên bị loại. Rút cục Hà Thiện-Lãm thắng cuộc, làm lạc hầu Phong-châu.
          Lễ-bộ thượng thư lên đài, bà nói với Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm:
          - Hai cháu đến trước vua Bà hành đại lễ.
          Hai trẻ lễ đủ tám lễ.
          - Hai cháu hướng các vị giám khảo lễ tạ.
          Hai trẻ hướng bốn giám khảo lễ ba lễ.
          - Ngày mai hai cháu sẽ đi cùng lạc hầu Hoàng Sùng-Anh, Lưu Nguyên tới lễ Hồ tiên cô cùng các liệt tổ phái Tây-vu, rồi Thuận-Tông theo Lưu lạc hầu, Thiện-Lãm theo Hoàng lạc hầu về tổ đường Thượng-oai, Phong-châu làm lễ cáo. Bắt đầu ngày mùng mười tháng ba sang năm, hai cháu đến lễ đền thờ Quốc-tổ Phục-Hy, Thần-Nông, Hùng-vương, An-dương vương rồi nhận chức.

          Hơn tháng sau, sau khi chuẩn bị đi sứ xing, Khai-Quốc vương truyền:
          - Việc ở đây xong. Năm em theo ta với chị Thanh-Mai lên đường đi sứ. Chúng ta sang Tống. Hãy nhớ rằng chúng ta kết hiếu với họ. Vì vậy kể từ khi vào đất Tống, tuyệt đối không dùng võ công. Chỉ dùng võ công khi tính mệnh bị lâm nguy. Mọi việc để quan quân Tống chịu trách nhiệm.
          Vương nhìn Lê Văn:
          - Riêng sư tỷ Thanh-Mai với chú mười tha hồ thi hành y đạo. Càng trị cho nhiều người càng tốt. Ta gây cảm tình trên đường đi. Chúng ta sẽ sang Ung, rồi đi Hổ-môn, qua Khúc-giang. Sau đó tới Trường-sa sẽ ngừng lại cánh đồng Tương, qua hồ Động-đình thăm động Tam-sơn, Quân-sơn nơi có di tích Quốc-tổ, Quốc-mẫu.
          Vương chỉ Thiệu-Cực:
          - Hệ thống tế tác của ta bên Tống ra sao? Cháu trình bày hiện tình triều Tống để mợ với các em biết, hầu còn đối phó.
          Thiệu-Cực hú lên một tiếng, hai thiếu niên từ ngoài chạy vào. Chàng ra lệnh:
          - Em sai một trăm con sói gác quanh tụ sảnh đường. Một trăm chim ưng tuần phòng trên trời. Tuyệt đối không cho bất cứ ai lai vãng quanh đây một trăm trượng.
          Khai-Quốc vương hài lòng. Vương khen cháu:
          - Các em phải chú ý học lấy những tinh tế, cẩn thận của anh Thiệu-Cực trên đường đi Tống.
          Thiệu-Cực đem một cuốn trục treo lên, rồi chỉ vào đồ hình:
          - Đây là tổ chức triều Tống. Các em phải chú ý thuộc lòng. Đầu tiên anh nói về những liên hệ hình thành triều Tống đã. Trước tiên Nhật-Hồ vốn người Việt lưu lạc sang Tây-vực, được giáo chủ Hồng-thiết giáo thu làm đồ đệ, rồi sai về phương Đông truyền giáo. Lão nhân gặp Lưu Trí-Viễn người bộ lạc Sa-đà, kết làm huynh đệ, lập ra bang Nhật-Hồ. Sau đó lão bỏ về Đại-Việt. Lưu Trí-Viễn nhờ bang chúng, nổi lên làm vua ở Đại-lương, xưng làm Hán Cao-tổ (Đinh-Mùi, 947).
          Hà Thiện-Lãm hỏi:
          - Em tưởng Hán Cao-tổ họ Lưu tên Bang chứ?
          - Đúng thế, đó là truyện hơn nghìn năm trước. Sử gọi nhà Hán của Lưu Bang là Tây-Hán. Sau hơn ba trăm năm Tây-Hán bị Vương Mãng cướp ngôi, rồi Quang-Vũ khởi binh trung hưng cai trị ngoài hai trăm năm nữa, gọi là nhà Đông-Hán. Bây giờ Trí-Viễn họ Lưu tuy không liên quan với hai triều Hán kia, nhưng vẫn xưng là Hán.
          Thiện-Lãm bật cười:
          - Vậy nhà Hán này là nhà Hán »cùi».
          - Cứ tam gọi như vậy đi. Trí-Viễn làm vua ít năm, truyền ngôi cho con tức Hán Ẩn-đế. Ẩn-đế làm vua được ba năm bị Quách Ngạn-Uy cướp ngôi lập ra nhà Chu «cùi» (Tân-Hợi, 951). Ngạn-Uy làm vua bốn năm rồi truyền ngôi cho con nuôi, cũng là cháu vợ tên Sài-Vinh (Giáp-Dần, 954). Tức Chu Thế-Tông. Chu Thế-Tông làm vua sau sáu năm thì chết, nhường ngôi cho con là Chu Cung-Đế. Cung đế làm vua hai năm, bị sư đệ của Chu Thế-Tông tên Triệu Khuông-Duẫn cướp ngôi lập ra nhà Tống (Canh-Thân, 960) .
          Thuận-Tông kêu lên:
          - Lộn xộn quá.
          - Khuông-Duẫn làm vua mười bẩy năm thì băng, truyền ngôi cho em là Triệu Khuông-Nghiã (Bính-Tý, 976). Sau khi Khuông-Duẫn chết triều thần tôn Khuông-Duẫn làm Thái-tổ khải-vận, lập cực, anh võ, duệ văn, thần đức, thánh công, chí minh hoàng đế.
          Miếu hiệu là Thái-tổ. Ta gọi là Tống Thái-tổ.
          Lê Văn cười:
          - Khi mình tiếp xúc bới vua quan nhà Tống, cứ đem cái tên dài thoòng mười tám chữ ra mà nói, ắt chúng khoái chí lắm.
          Thiệu-Cực gật đầu cười:
          - Khuông-Nghiã làm vua được hai mươi hai năm thì băng.Truyền ngôi cho con thứ ba là Triệu Nguyên-Hằng (Mậu-Tuất, 998). Triều thần tôn Nghiã làm Thái-tông thần công, thánh đức, văn võ hoàng đế .
          Tôn Đản gật đầu:
          - Hôm trước trên núi Chung-chinh sư tỷ Thanh-Mai đã nói về các con vua Thái-tông rồi. Ông Triệu Thành tên thực Nguyên-Nghiễm, con thứ tám Thái-tông tước phong Bành-vương sau đổi thành Kinh-vương, rồi Định-vương. Cuối cùng Bình-Nam vương. Chân-tông làm vua được hai mươi lăm năm thì chết, nhường ngôi cho con thứ sáu tên Trinh (Nhâm-Tuất, 1022). Ông này lấy niên hiệu Thiên-Thánh. Như thế Triệu Nguyên-Nghiễm là chú ruột hoàng đế Thiên-Thánh. Chúng ta đương phải đối đầu với ông ta. Vậy anh hãy trình bầy tiểu sử ông ta thực chi tiết cho chúng em nghe.
          Thiệu-Cực gật đầu:
          - Ông ta là con thứ tám vua Thái-tông, do bà Vương Đức-phi sinh ra. Tính cực kỳ hiếu thảo. Học văn thông minh quán chúng. Học võ mau hơn bất cứ hoàng tử nào. Tính tình hiếu hòa, hành sự cẩn trọng. Vua Thái-tông yêu thương đặc biệt, có ý muốn nhường ngôi cho. Nghiễm nghĩ rằng ai làm vua cũng được. Tống triều cần phải có một thân vương ra ngoài cầm quân, mở rộng biên cảnh, nên xin phụ hoàng truyền ngôi cho người khác.
          Thấy cuộc đời Nguyên-Nghiễm hơi giống Khai-Quốc vương. Mọi người đưa mắt nhìn vương. Vương mỉm cười.
          Thiệu-Cực tiếp:
          - Vua Thái-tông cho chầu bên cạnh, hầu giảng giải việc trong ngoài, phép trị nước. Theo luật Tống, các con trai vua tuổi mười ba, mười bốn, đã được cưới vợ , phong chức tước, rồi cho mở phủ đệ riêng. Vua Thái-tông sủng ái Nghiễm, nên lưu giữ ở trong cung. Đến năm y hai mươi tuổi, mà vẫn được ở Hoàng-thành, vì vậy hoàng thân, phi tần đều gọi y là Nhị thập bát thái bảo. Nhị thập để chỉ tuổi hai mươi. Bát để chỉ Nghiễm con thứ tám.
          Kim-Thành than:
          - Vua Thái-tông thương ông ta, hóa ra hại ông ta. Giá như năm mười ba cho ông ta mở phủ đệ riêng, phong chức tước rồi dần dần thăng lên có phải năm hai mươi ông ta có địa vị cực cao không?
          Thiệu-Cực gật đầu:
          - Kim-Thành bàn đúng. Vì vậy khi vua Chân-tông lên ngôi vua, mới cho Nghiễm ra ngoài, được phong Kiểm-hiệu thái-bảo, Tả-vệ thượng tướng quân, Tào-quốc công.
          Hà Thiện-Lãm gãi đầu:
          - Chức tước gì mà dài quá vậy?
          - Bản triều cũng như Tống, đối với các quan thì hoặc chức văn hoặc chức võ, rồi thêm tước vào. Đôi khi mới có người được giữ quyền cả văn lẫn võ. Còn đối với vua chư hầu, hoàng-tử, thường được phong cả chức văn, võ chức võ lẫn tước. Như Nguyên-Nghiễm đầu tiên được phong chức văn Kiểm-hiệu thái bảo tức đứng hàng thứ tư sau Thái-sư, Thái-úy, Thái-phó. Chức võ thì nhỏ xíu Tả-vệ thượng tướng quân. Còn tước mới có Tào-quốc công.
          Kim-Thành à lên:
          - Em biết ngay mà. Bây giờ vua Thái-tông băng rồi. Ông ta phải ra khỏi cung, với tước Quốc-công chưa được quyền mở phủ đệ riêng, chẳng có chân tay. Cũng tội.
          - Khi vua Chân-tông cầm quyền, có những vấn đề liên quan tới vua Thái-tông, ông ta bỡ ngỡ, phải hỏi Nguyên-Nghiễm, nhờ y giúp đỡ. Nguyên-Nghiễm tận tình giúp anh rất đắc lực, lại tỏ ra không tham vọng quyền bính, mà chỉ muốn mở rộng giang sơn. Vì vậy vua hối hận, nên năm sau mới phong cho làm Bình-hải quân tiết độ sứ, đồng trung thư môn hạ bình chương sự, kiểm hiệu thái phó, Quảng-lăng quận vương.
          Thuận-Tông hỏi:
          - Khi có cái chức Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, ông ta mới có quyền tuyển môn hạ văn võ riêng? Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự tức là quyền ngang Tể tướng. Tể tướng đương nhiên tham dự nghị sự triều chính, để cố vấn cho ông anh?
          - Đúng thế. Ông ta nhã lượng, ôn nhu, khuất thân cầu hiền tài. Nhân tài theo về rất đông. Vua Chân-tông gia thăng cho Chiêu-võ, An-đức-quân tiết độ sứ, Vinh-vương. Rồi lại cải thăng Phận-âm kiêm thị trung, trấn nhậm vùng An-tĩnh, Võ-tín, gia Kiểm hiệu thái-úy kiêm trung thư lệnh. Như vậy quan lên đến tột đỉnh. Nhưng ông vẫn chưa chịu tuyển vương phi.
          Mọi người bật cười nhìn Khai-Quốc vương, vì thấy hành trạng hai người giống nhau.
          Thiệu-Cực tiếp:
          - Vì vua Chân-tông muốn lập Lưu-phi làm Hoàng-hậu. Quần thần, thân vương nghị luận phân vân. Vua hỏi ý kiến Nghiễm. Ông lẳng lặng chỉ tay vào ngực, ý nói: Vua hãy tự quyết. Vua bèn phong Lưu-phi làm Hoàng-hậu. Lưu-hậu nhớ ơn Nghiễm. Lúc đầu phù trì cho ông ta. Sau bà thấy Nghiễm tinh minh mẫn cán, sợ khó lòng cho việc xen vào triều chính. Bà gây ra vụ cho một phi tần giá họa rằng tư thông với Nghiễm. Vua Chân-tông đoạt ấn Võ-tín, giáng làm Đoan-vương, giải tán phủ đệ. Ông bơ vơ phải đi ở nhờ phò mã Thạch Bảo-Cát.
          Kim-Thành than:
          - Tội quá.
          - Sau, một võ lâm cao thủ, gia khách của Nghiễm, đang đêm lẻn vào cung bắt bọn thái giám, cung nữ tra ra manh mối, rồi đột nhập tẩm cung vua Chân-tông tâu hết mọi sự. Vua hối hận, giết hơn mười người, giải oan cho Nghiễm, phong Trấn-hải, An-hóa-quân tiết độ sứ, Bành-vương, rồi Thông-vương, Kinh-vương gia Thái-bảo.
          Tự-Mai than:
          - Vua gì mà đểu với em thế?
          Khai-Quốc vương hỏi:
          - Sao chú biết?
          - Em mình có tài có công, mà vợ bầy kế hại em mình. Khi khám phá ra phải truất phế vợ, thăng chức tước cho em lớn hơn. Có đâu lại phong cho chức tước nhỏ xíu. Như vậy nhà vua vẫn coi như em có tội, ra cái điều thương hại, ân xá, rồi ban ơn cho chức tước mới. Thế võ lâm cao thủ ấy tên gì?
          - Đông-Sơn lão nhân.
          Mọi người cùng à lên một tiếng.
          - Khi Thiên-Thánh hoàng-đế được lập làm Thái-tử. Vua Chân-tông muốn hoà giải thù oán giữa Lưu- hậu với Nghiễm, bèn phong cho Nghiễm làm Thái-phó dể dạy Thái-tử. Trong khi dạy học, Nghiễm thương yêu Thái-tử cực kỳ. Đến nỗi ăn ngủ, đi đâu chú cháu cũng ở cạnh nhau. Vua Chân-tông đau liệt dường, Lưu-hậu cầm quyền, bọn Khấu Chuẩn mưu đem quân vào cung truất phế Lưu-hậu, đưa Thái-tử làm Giám-quốc. Nguyên-Nghiễm đập tan mưu đó. Vì vậy Lưu-hậu kính nể Nghiễm vô cùng. Thái-tử lên ngôi tức Thiên-Thánh hoàng-đế, Lưu-hậu làm phụ chính, phong cho Nghiễm làm: Thái-úy, thượng thư lệnh kiêm trung thư lệnh, Định-vương. Khi tâu không phải xưng tên, tấu chương khỏi viết tên. Mới đây phong Thái-úy, thượng thư lệnh kiêm trung thư lệnh, quản Khu-mật viện, Bình-Nam vương. (1)

          Ghi chú
          (1) Đoạn này thuật nguyên văn trong Tống-sử trang 8705-8706.

          Tự-Mai hỏi:
          - Hiện ông Thiên-Thánh này bao nhiêu tuổi rồi?
          - Ông ta sinh năm Canh-Tuất (1010) năm nay là năm Đinh-Mão (1027), ông ta đã mười tám tuổi. Như vậy lúc lên ngôi vua ông ta mới có mười ba tuổi. Khi vua Chân-tông sắp băng, di chiếu cho mẹ Nguyên-Trinh là Lưu hoàng-hậu quyền xử trị việc nước. Chương trình thôn tính Thổ-phồn, Tây-hạ, Đại-lý, Đại-Việt bắt đầu từ đây.
          Tôn Đản dơ tay lên làm hiệu khâm phục:
          - Bà này ghê đấy. Đối với ta bà là kẻ thù. Còn đối với Tống, bà là anh hùng. Dễ gì có đàn bà mà hùng tâm như thế.
          - Đúng vậy. Nhân sĩ Tống tuy chỉ trích, nhưng vẫn khâm phục bà.
          Tự-Mai hỏi:
          - Em nghe nói Lưu hậu xuất thân thuộc gia đình nghèo khó lắm phải không?
          - Nghèo khó còn khá, phải nói rằng ty tiện mới đúng.
          Khai-Quốc vương nhìn Tôn Đản, Thuận-Tông, Thiện-Lãm:
          - Xuất thân như thế mới hiểu dân tình. Ngay Tự-Mai, Lê Văn nếu không lăn lộn mấy năm qua, chưa chắc đã có trình độ ngày hôm nay. Cháu trình bầy tiểu sử Lưu-hậu thực chi tiết, bằng cách nào bà từ một cô gái nghèo hèn, mà leo lên tới tột đỉnh quyền uy?
          - Lưu thái-hậu không rõ họ gì. Bà gốc người vùng Thái-nguyên sau di về đất Hoa-dương thuộc Ích-châu. Khi tuyển cung, bà phải khai lý lịch tổ tiên. Không biết tổ tiên là ai, bà bịa ra rằng: Tổ tên Diên-Khánh, làm quan dưới triều Tấn, Hán tới chức Hữu kiêu-vệ đại tướng quân. Phụ thân tên Thông, lĩnh chức Hổ-đô chỉ huy sứ, lĩnh thứ sử Gia-châu. Trong lần tùng chinh Thái-nguyên bị tử trận. Bà là con gái thứ nhì trong nhà. Trước đây, một đêm thân mẫu bà nằm mơ thấy mặt trăng rơi vào bụng, sau đó mang thai, sinh ra bà.
          Tự-Mai, Lê Văn cùng nhìn nhau cười khúc khích. Thiệu-Cực hỏi:
          - Hai em cười gì?
          Tôn Đản bào chữa cho Mai, Văn:
          - Hai đứa này nó cười, vì sáng nay bọn em bàn nhau rằng người Hoa luôn huyền thoại thần thánh vua, quan, anh hùng của họ. Vua thì cứ phải là rồng là Thanh-y đồng tử giáng hạ. Võ phải Vũ-khúc tinh quân, Bạch-hổ tinh quân. Văn phải sao Thái-bạch kim tinh, Văn-khúc tinh quân. Cái ông Tống Thái-tổ cũng bình thường như trăm người khác. Thế mà họ bịa rằng ông ta vào đền, thấy ngựa gỗ, nhảy lên cỡi, lập tức thần nhập vào, ngưa phi như bay. Bây giờ cái bà Lưu-hậu thối tha này được bọn văn quan bợ đít, bịa ra rằng mặt trăng rơi vào lòng mẹ. Vì vậy hai đứa nó mới cười.
          - Bà ta mồ côi cả cha lẫn mẹ trong lúc còn bế ngửa. Bấy giờ có Lưu Cung-Mỹ người đất Thục bỏ tiền ra mua làm tôi tớ, rồi đưa về kinh sư. Năm mười lăm tuổi, được tuyển làm cung nữ hầu hạ vua Chân-tông, bấy giờ Chân-tông còn là Hoài-vương.
          Tôn Đản đưa mắt nhìn Tự-Mai, rồi cười:
          - Chắc chắn cái ông Thái-tử Hằng bị cô cung nữ khôn ngoan chăng lưới bắt. Nên sau mới thành Hoàng-hậu rồi Thái-hậu.
          Khai-Quốc vương gật đầu:
          - Đúng thế. Triều Tống tuyển phi tần cho các Thái-tử cũng khắt khe như bản triều. Vì vậy những cô gái con quan, tuổi mười ba đến mười lăm bị đưa vào cung, ngây ngây ngô chẳng biết gì. Vì vậy đâu có làm cho các Thái-tử say mê? Bà Lưu hậu sống mồ côi, làm tôi tớ từ nhỏ, có thừa thói lưu manh dân dã mà lọt vào cung, bà ta thiếu gì bùa phép làm cho ông Thái-tử Hằng mê mệt.
          Thiện-Lãm nói bâng quơ:
          - Khi gặp được người mà mình mê, bất kể xấu đẹp, già trẻ, sang hèn, mình vẫn hạnh phúc hơn đối với người khác.
          Cả bọn năm thiếu niên cùng cười khì. Tôn Đản cau mày suy nghĩ, rồi hỏi Thiệu-Cực:
          - Anh nghĩ gì về xuất thân của Lưu hậu?
          Thiệu-Cực hỏi ngược lại:
          - Em nghĩ sao?
          - Em thấy xung quanh Lưu-hậu bao trùm màn bí mật rất khó giải thích. Một là theo quan chế nhà Tống khi một vị quan được phong tới tước công, một phi tần lên tới bậc quý-phi, Hoàng-hậu. Bộ Lễ sẽ tâu trình phong chức tước cho cha mẹ, truy phong tổ tiên đến tam đại. Anh em, cháu gọi bằng bác, chú, cô cũng được ban chức quan. Thế mà khi bà được phong Hoàng-hậu, chỉ đưa tên có một người chủ cũ là Lưu Cung-Mỹ để nhận ân điển. Rõ ràng bà biết tổ tiên, cha mẹ là ai kia mà? Đã biết cha mẹ, ắt biết rõ mình họ gì chứ? Hà cớ lấy họ của người chủ, mà bà đã làm nô bộc cho y? Tại sao bà không đưa tên cha mẹ, ông bà cùng họ ra?
          Mọi người đều công nhận lý luận của Tôn Đản đúng. Nó tiếp:
          - Hai là: Hiện bà lên tới Thái-hậu, uy quyền bao la. Kẻ thù cũng lắm, người theo cũng nhiều. Thế thường khi kẻ yêu, người ghét muốn suy tôn hay công kích đều nhắm vào gia đình họ hàng. Thế mà triều Tống với hàng vạn quan chức, không ai tìm được tông tích bà. Lý lịch bà rất lờ mờ. Vậy bà là ai?
          Khai-Quốc vương gật đầu:
          - Chính ta cũng thắc mắc như Đản, mà không sao giải thích được. Kỳ này tới Biện-kinh ta phải dò cho ra. Thôi Thiệu-Cực tiếp.
          Thiệu-Cực tiếp:
          - Nhưng cuộc đời bà đâu có giản dị như vậy? Nhũ mẫu của Thái-tử Hằng là Thái-Quốc phu nhân vốn người nghiêm khắc. Bà đem truyện Thái-tử sủng ái một cung nữ xuất thân bần tiện tâu với vua Thái-tông. Vì vậy Thái-tử Hằng phải đưa bà ra ngoài hoàng thành, gửi ở nhà quản gia tên Trương Kỳ. Khi Thái-tông băng, Thái-tử Hằng lên ngôi vua tức Chân-tông. Vua đem bà ta vào cung phong làm Mỹ nữ. Vì bà ta không có thân tích họ hàng, cũng chẳng biết cha họ gì, mới lấy họ Lưu của Cung-Mỹ, coi Lưu Cung-Mỹ như anh ruột. Hai năm sau được phong làm Tu-nghi (2), rồi leo tới chức Phi.

          Ghi chú
          (2) Quan chế hậu cung triều Tống có nhiều bậc khác nhau. Hãy kể các bà vợ của vua. Vua có nhiều vợ quá, thành ra phải đặt thứ bậc để dễ cai quản. Cao nhất là vợ chính của vua, gọi là hoàng hậu. Kế tiếp đến các bà phi: quý-phi, thục-phi, đức-phi, hiền-phi. Các bà nghi: đại-nghi, quý-nghi, thục-nghi, thục-dung, thuận-nghi, thuận-dung, uyển-nghi, uyển-dung, chiêu-nghi, chiêu-dung, chiêu-viên, tu-nghi, tu-dung, tu-viên, sung-nghi, sung-dung, sung-viên. Các bà tiệp-dư. Các bà mỹ-nhân. Các bà tài-nhân, quý-nhân. Các bà thấp nhất là cung nữ. Cộng hai mươi bẩy bậc khác nhau.
          Cho nên độc giả không lấy làm lạ rằng làm vua có đủ thứ thuốc bổ, thầy thuốc giỏi, mà ông nào đến tuổi bốn mươi nếu chưa chết, thì cũng hết xí quách! Chịu sao nổi hằng trăm bà!


          Kim-Thành hỏi:
          - Bấy giờ vua Chân-tông có Hoàng-hậu chưa?
          - Rồi. Khi Chân-tông lên ngôi ( Mậu-Tuất, 998) bắt buộc phải lập Hoàng-hậu họ Quách, do vua Thái-tông cưới cho. Đến niên hiệu Cảnh-đức thứ tư (Đinh-Mùi, 1007) Quách hậu băng. Vua muốn lập Lưu phi lên làm Hoàng-hậu, quần thần cực lực phản đối. Nguyên-Nghiễm khuyên vua nên tự quyết. Vua giữ nguyên ý, lập Lưu phi làm Hoàng-hậu.
          Tự-Mai than:
          - Thế là từ một cô gái lọ lem, côi cút, không họ, không quê, bỗng nhiên thành mẫu nghi thiên hạ. Bà ta mà cai trị hậu cung, đố ai cựa quậy nổi.
          - Bấy giờ bà ta lớn tuổi mà vẫn chưa con. Một văn quan tên Đinh Vị xui bà đi cầu tự. Sau khi cầu tự, bà mang thai, sinh ra một Hoàng-nam, tức Thiên-Thánh hoàng-đế hiện nay. Hai năm sau có thai, sinh ra một Công-chúa. Công chúa tên Huệ-Nhu.
          Lê Văn hỏi:
          - Công chúa Huệ-Nhu sau gả cho ai?
          Thiệu-Cực bật cười:
          - Chưa, vì cô ta còn nhỏ, mới mười sáu tuổi. Em hỏi làm gì vậy? Bộ muốn làm Phò-mã chăng?
          - Em nghĩ kỳ này nhân đi sứ, anh cả hỏi cô Huệ-Nhu cho một trong bẩy đứa này. Như vậy mình mất ít lễ cống, mà lợi một cô Công-chúa. Biết đâu nhờ cuộc hôn nhân, khiến Tống bỏ tham vọng chiếm Việt chăng.
          Thanh-Mai thấy đề nghị của Lê Văn có lý, nàng vuốt tóc nó:
          - Được rồi, chị sẽ làm như em đề nghị, nhưng những ai ở đâu ra bẩy đứa?
          - Anh Thiệu-Thái, Thiệu-Cực với năm đứa trời đánh này có phải thành bẩy không?
          Tự-Mai cốc lên đầu Lê Văn:
          - Suy nghĩ kỹ rồi hãy nói nghe. Xui anh cả hỏi vợ cho ông ỉn, e chị Mỹ-Linh xé xác chú ra chấm mắm tôm ăn tươi. Hỏi cho Cú vọ ư? Từ nay đừng hòng ăn bún riêu của chị Thanh-Trúc. Còn hỏi cho Thuận-Tông, Thiện-Lãm thì Kim-Thành, Trường-Ninh sẽ bằm chú ra làm chả trứng đó. Rút cục chỉ còn hai đứa mình.
          Tuy Tự-Mai nói đùa, nhưng cũng làm cho Thanh-Trúc, Kim-Thành, Trường-Ninh ngượng ngập. Thanh-Mai đưa mọi người về thực tại:
          - Được rồi, triều Tống có hàng trăm công chúa chị sẽ hỏi cho Tự-Mai, Lê Văn, mỗi đứa hai ba cô. Thôi Thiệu-Cực tiếp đi.
          - Lưu hậu tính khải ngộ, nghe nhiều, nhớ giai. Khi vua Chân-tông làm việc, bà ngồi hầu cạnh. Tấu chương, phong tặng việc việc bà đếu nhớ từ đầu đến cuối. Mỗi sự vua quên bà lại nhắc nhở từng chi tiết một.
          Tôn Đản thở dài, tỏ vẻ lo lắng:
          - Lúc đầu nghe nói Lưu hậu cầm quyền, em tưởng bà ta cũng như Lã hậu, Mã hậu đời Hán, Võ hậu đời Đường. Không ngờ bà ta tài trí như vậy! Hèn gì bà muốn chiếm hết các nước xung quanh. Mình phải đối đầu với bà, thực khó thay.
          - Đúng vậy. Niên hiệu Thiên-hy nguyên niên tháng giêng (Tân-Dậu, 1021) vua Chân-tông bệnh nặng. Mọi tấu chương, do bà ngồi bên đọc, rồi vua ban chỉ sao, bà phê như vậy. Sau dần dần bệnh vua nặng, bà tự duyệt phê. Từ đó, trên thực tế bà đã làm vua rồi. Lạ một điều, những quyết định, phê chuẩn của bà rất sáng suốt, thứ lớp, việc sau với việc trước nhất nhất hợp nhau. Bấy giờ bà mới nghĩ đến thực sự cầm quyền. Đầu tiên bà mượn quyền vua thăng chức tước cho các quan để họ không chống bà. Mùa Thu tháng bẩy ngày Đinh-Tỵ, tể tướng Khấu Chuẩn mật nghị với quần thần, làm tấu chương tâu lên vua cho Thái-tử làm giám quốc.
          - Chết ông Khẩu Chuẩn rồi!
          Trường-Ninh buột miệng than.
          Thiện-Lãm hỏi:
          - Sao Trường-Ninh biết?
          - Cứ suy ra thì biết. Bà thay vua cầm quyền đã lâu, mọi sự đều tốt. Khi quyền vào tay, đời nào bà chịu buông ra? Tấu chương của Khấu Chuẩn đưa lên, bà ta đọc xong ắt nổi giận, giả chiếu chỉ của vua cách chức ông ta liền.
          - Truyện không dễ đâu. Vì Chuẩn làm tể tướng, tước phong tới Công, uy quyền quán chúng. Chuẩn vô tội dễ gì cách chức được. Bà ta tìm cách lôi kéo quần thần.
          Khai-Quốc vương dơ tay ra hiệu cho Thiệu-Cực:
          - Cháu trình bầy thành phần quan chức triều Tống bấy giờ đã.
          - Vâng! Uy quyền nhất bấy giờ là Thông-vương Nguyên-Nghiễm tức Bình-Nam vương Triệu Thành, em vua, lại là thầy dậy Thái-tử. Trước đó mấy năm bà luôn luôn tâu vua thăng chức tước cho Nguyên-Nghiễm, để Nghiễm lo bảo vệ ngôi vua cho học trò. Ông này giữ binh quyền, cùng ngự lâm quân trong tay. Người của bà gồm Hướng Mẫn-Trung mới được phong Tả bộc-xạ, Trung thư thị lang, kiêm Lễ-bộ thượng thư, bình chương sự. Đinh Vị làm bình chương sự. Phùng Thừa lĩnh Lại-bộ thượng thư, kiêm Khu-mật-viện sứ, đồng bình chương sự. Nhậm Trung-Chính, Chu Khởi làm Khu-mật-viện phó sứ. Lý Địch lĩnh Lại-bộ thị lang, kiêm Thái-tử thiếu bảo bình chương sự. Nhưng bà ta có bốn nhân vật cực kỳ lợi hại, ẩn dưới lớp áo thị vệ. Võ công bốn người này cao hơn bọn Vũ Nhất-Trụ nhiều.
          Tự-Mai ngồi nhổm dậy:
          - Ai thế?
          - Không rõ tên tuổi thực. Tên giả một người là Tôn Đức-Khắc, một người là Lê Lục-Vũ. Một người gốc Chân-lạp tên Khiếu Tam Bản. Một người gốc Thái tên Sử-vạn Na-vượng.
          Thiệu-Cực ngừng lại cho mọi người theo dõi kịp, rồi tiếp:
          - Cũng tháng bẩy, năm đó, ngày Canh-Dần, bà gọi Đinh Vị vào, truyền chỉ miệng cho y bắt Khấu Chuẩn cùng những ai ký vào tờ biểu giam lại. Một mặt bà sai người bí mật báo cho Khấu Chuẩn biết tin đó.
          Tự-Mai xuýt xoa:
          - Khôn. Bà biết Chuẩn không tội khó có thể hạ bệ y. Bà làm như vậy, một là y cúi đầu rút biểu lại. Hai là y dùng binh quyền lật bà. Chờ cho y chuẩn bị, bà tóm cổ hết, với tội trạng rành rành Phản nghịch. Y chạy đâu cho thoát?
          - Đúng thế. Chuẩn sai Nhập-nội đô tri Chu Hoài-Chính đem cấm quân vào cung phế Lưu-hậu, đưa Chuẩn làm phụ chính Thái-tử. Hai người dưới quyền Chính là Dương Sùng-Đản, Dương Hoài-Cát đến gặp Đinh Vị tố cáo mọi sự. Đang đêm Vị dẫn hai người nhập cung trình bầy với hậu. Khu-mật-viện sứ Tào Lợi-Dụng cũng được thông báo tin đó. Lợi-Dụng khải với Kinh-vương Nguyên-Nghiễm. Nghiễm nghe tin, vội vào cung ôm cháu tức Thái-tử để che chở, rồi huy động binh mã dẹp loạn. Đám cao thủ của Khấu Chuẩn bị Tào Lợi-Dụng, Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ giết hết. Nguyên-Nghiễm truyền lệnh bắt hết phe đảng Khấu Chuẩn, làm biểu tâu lên rằng Chuẩn mưu thí chúa.
          - Thế thì Nguyên-Nghiễm bất trí, bị Lưu hậu cho vào tròng.
          Kim-Thành bàn.
          Khai-Quốc vương lắc đầu:
          - Trường hợp đó, nếu chú ở vào địa vị ông Nguyên-Nghiễm chú cũng mắc mưu trong nhất thời. Tại sao? Khấu Chuẩn đem binh vào cung khó có thể tin rằng y chỉ truất phế Lưu hậu. Biết đâu y cướp ngôi vua thì sao? Hơn nữa khi binh nhập Hoàng-thành, nơi vua, cung tần, thân vương, hoàng-tử ở, ắt sẽ có cuộc chém giết kinh khủng, làm sao có thể bảo toàn tông tộc nhà vua? Vả Chuẩn làm việc đó thực vô pháp, vô thiên. Cho nên Nghiễm vì sự nghiệp tổ tiên, vì bảo hộ tôn thất cùng thương cháu, thương học trò, phải hành xử như thế.
          - Cậu luận đúng. Nguyên-Nghiễm không mắc mưu. Sau khi bắt hết phe đảng Khấu Chuẩn, ông điều tra ra manh mối. Nhưng Chuẩn không thể chối tội phản nghịch. Việc này xẩy ra vào niên hiệu Thiên-hy thứ tư (Tân-Dậu, 1021) mùa Thu tháng bẩy ngày Đinh-Sửu. Bọn Chu Hoài-Chính bị giết. Thái-tử thái phó Khấu Chuẩn bị giáng xuống làm Thái-thường tự khanh. Hàn-lâm học sĩ Thịnh-Độ, Khu-mật trực học sĩ Vương Thự đều bị bãi chức. Từ đấy Lưu-hậu mặc sức tung hoành. Nhưng bà vẫn khéo léo lấy lòng Nguyên-Nghiễm, vì Nguyên-Nghiễm cầm binh quyền trong tay. Mùa Thu tháng tám năm đó, ngày Nhâm-Dần, biếm Khấu Chuẩn làm Đạo-châu tư-mã.
          Thiệu-Cực lấy ra một số thẻ tre khắc chữ, rồi tiếp:
          - Vua đau yếu liệt dường. Bà vẫn cầm quyền suốt năm đó. Năm sau, cải nguyên là Càn-hưng ( Nhâm-Tuất, 1022). Mùa Xuân tháng hai ngày Giáp-Thìn phong cho Đinh Vị làm Tào-quốc công. Phùng Thừa làm Ngụy-quốc công. Tào Lợi-Dụng làm Hàn-quốc công.
          Khai-Quốc vương thở dài:
          - Tiếc thực! Lưu hậu là một nhân tài như vậy, mà lại sinh làm người Hoa, kình chống Đại-Việt. Vì bảo vệ tổ nghiệp, bất đắc dĩ chúng ta phải đối đầu với bà. Bấy giờ bà thực sự làm vua rồi còn gì nữa?
          - Năm đó, mùa Xuân tháng hai, ngày Mậu-Ngọ vua hôn mê, di chiếu truyền ngôi cho Thái-tử Trinh, phong Lưu hậu làm Thái-hậu tạm cầm quân quốc trọng sự.
          Lê Văn nhăn mặt:
          - Có thực thế không? Em nghĩ trong lúc vua hấp hối, đâu biết những ai bên cạnh? E rằng chiếu chỉ đó do bà sai người viết, rồi để vào tay vua. Vua phê là xong.
          Thiệu-Cực xoa đầu Lê Văn:
          - Em thông minh thì thông minh thực. Em đoán đúng. Nhưng lời bàn của em trật hết. Vì em không biết luật lệ cung đình.
          - Luật lệ như thế nào?
          - Khi vua ban chiếu về vấn đề trọng đại như vậy, sẽ truyền quan Lễ bộ thượng thư hoặc tả, hữu bộc xạ hoặc Trung thư lệnh soạn rồi kiềm ấn. Vua có hai ấn. Một để ở tẩm cung vua do Hoàng-hậu giữ. Một để ở Thừa-đức điện do Tể-tướng giữ. Khi vua ban chiếu thường, dùng ấn ở đâu cũng được. Trường hợp trọng đại như liên quan đến Hoàng-hậu, phải dùng ấn ở điện Thừa-đức. Còn ban chiếu liên quan đến Tể-tướng, phải dùng ấn ở tẩm cung.
          Chàng nhìn Lê Văn:
          - Lưu hậu khôn ngoan, đâu dại gì làm như em nghĩ. Bà cho triệu Tả bộc-xạ kiêm Lễ-bộ thượng thư Hứa Mẫn-Trung, cùng bình chương sự Đinh Vị, Lại-bộ thượng-thư kiêm Khu-mật-viện sứ Phùng Thừa vào nghe vua truyền chỉ. Ba người đó là chân tay bà, khó ai biết sự thực ra sao.
          Khai-Quốc vương gật đầu:
          - Cậu nghĩ rằng thực. Tại sao ? Cứ trong lý mà suy. Chiếu chỉ có hai phần quan trọng. Một là nhường ngôi cho thái tử Trinh. Hai là cử bà cùng giải quyết việc nước. Về việc thứ nhất, vua Chân-tông rất bằng lòng Thái-tử. Việc truyền ngôi cho Thái-tử là lẽ đương nhiên. Còn cử Lưu-hậu cùng Vua giải quyết việc nước cũng hợp lý. Vì khi Thái-tử được truyền ngôi mới có mười ba tuổi. Lịch đại các triều đều cho phép Thái-hậu buông rèm thính chính với ấu quân. Đối với Lưu hậu, khi vua Chân-tông khoẻ mạnh, mà bà đã cùng ông chung lo quốc sự, thì nay con lên ngôi vua, bà được cử giúp con không có gì lạ cả. Thôi, Thiệu-Cực tiếp.
          - Luật lệ triều Tống cấm không cho đàn bà đến những điện Sùng-đức, Sùng-chính, Thừa-minh. Vì vậy Thái-hậu không thể dự các buổi triều. Đinh Vị thỉnh Lưu hậu ngự biệt điện để hội triều thần.
          Trường-Ninh bật cười:
          - Cái ông Đinh Vị đã có công tôn phò bà, mà không hiểu gì về bà. Đề nghị đó nhất định bà không chịu.
          Thấy cháu có nhận xét tinh tế, Khai-Quốc vương mừng lắm. Vương hỏi:
          - Tại sao cháu đoán ra?
          - Luật triều Tống đâu có cho con cái dân dã làm Vương-phi? Dù có làm Vương-phi sau cũng không thể tôn phong Hoàng-hậu. Đây vua Chân-tông vẫn làm. Một điều bà được ưu đãi vượt luật. Thế thường, cổ kim người hầu cận vua lúc làm việc, thường là phụ chính đại thần, có luật nào cho Hoàng-hậu ngồi cạnh giúp vua giải quyết tấu chương, cùng quyết đoán mọi sự? Thế mà vua Chân-tông lại nhờ bà. Hai điều ra ngoài luật. Đã có hai điều đó rồi, bà ta không coi luật vào đâu nữa. Vì vậy bà ta sẽ nhất định không ngồi ở biệt điện.
          - Đúng vậy! Bà sai hoạn quan Trương Cảnh-Tông tuyên chỉ với triều đình rằng : Khi tiên đế còn tại thế, ngày đêm ta phụ bên cạnh. Nay đối với con ta, ta lại phải lùi về biệt điện ư?. Thế rồi triều thần rước bà cùng vua ngự ở điện Thừa-minh. Vua ngồi bên trái, bà ngồi bên phải. Từ đấy, bất cứ chỉ dụ gì của vua cũng do bà cả.
          Thiệu-Cực chỉ vào sơ đồ tổ chức triều Tống:
          - Sau khi Thiên-Thánh hoàng-đế lên ngôi vua. Việc đầu tiên, bà phong chức tước đền ơn cho người phò tá. Vua lên ngôi được tám ngày tức ngày Bính-Dần phong cho sư phụ cũng là chú vua tức Kinh-vương Nguyên-Nghiễm được tôn làm Định-vương, khi tâu không phải xưng danh, được đeo kiếm khi chầu vua, lĩnh Thái-úy phụ quốc (3), quản Khu-mật-viện, thống đốc binh mã, quản chế nội ngoại sự. Đinh-Vị lĩnh Tư-đồ kiêm thị-trung, thượng thư tả bộc-xạ. Phùng-Thừa lĩnh Tư-không kiêm thị-trung Khu-mật-viện sứ, thượng thư hữu bộc-xạ. Tào-lợi-Dụng lĩnh thượng-thư tả bộc-xạ kiêm thị trung. Cả ba ông Đinh, Phùng, Tào đều được phong quốc công.

          Ghi chú
          (3) Tống sử quyển 161 đến quyển 172 (Trang 3760- 4154) Quan chế nhà Tống phân biệt rất nhiều loại, nếu kể hết ra, e ngang với công chức của một quốc gia văn minh ngày nay. Sau đây tôi xin tóm lược:
          Nhà Đường mất nghiệp năm Đinh-Mão (907). Trung-quốc lâm cảnh rối loạn, chia làm nhiều sứ quân thôn tính nhau. Mỗi sứ quân lên làm vua được mấy năm, lại bị sứ quân khác thôn tính. Mỗi sứ quân đều là hậu duệ của một triều đại trước, nên sử thêm chữ »Hậu» vào để phân biệt. Thời gian này bao gồm 52 năm (907-960). Sử gọi thời đại này là Ngũ-quý hay Ngũ-đại.
          Tống nối tiếp nhà Hậu Chu, vì vậy lúc đầu phỏng theo nhà Đường. Các đời vua sau, cải tiến dần, thành hẳn một hệ thống. Những triều Nguyên, Minh, Thanh tuy có thay đổi, nhưng vẫn giữ căn bản của triều Tống.
          Xin kể những chức quan tối cao:
          1. Tam sư, Tam công
          Đây là những chức quan cao nhất. Tam sư gồm Thái-sư, Thái-phó, Thái-bảo. Tam công gồm Thái-úy, Tư-đồ, Tư-không. Những chức này dùng gia phong cho thân vương, tể tướng. Nếu không kiêm chức tước khác, thì chỉ để làm cảnh, chứ không tham dự chính sự. Như một thân vương được phong Thái-bảo, thì khi triều hội đứng trên Tể-tướng, nhưng không nắm quyền gì cả. Nhưng nếu một vị nào đó được phong Thái-bảo, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, tức tể tướng. Thì vẫn tham dự chính sự với nhiệm vụ tể thần.
          Thường từ Tư-đồ gia Thái-bảo, Thái-phó gia Thái-úy. Thời Đường, Thái-úy dưới Tam-sư. Nhưng vì chức quan này thống lĩnh quân đội, nên sau trở thành quan trọng, đặt trên Thái-phó.
          2. Tể-tướng
          Phụ tá thiên tử, thống bách quan, bình thứ chính. Không sự gì trong nước mà không thống lĩnh. Năm 1989, một sinh viên văn khoa Paris (Sorbonne) trình luận án về sử học đời Tống, đã ví chức tể tướng với Premier ministre của đệ ngũ Cộng-hòa Pháp. Tôi bác, yêu cầu dùng nguyên chữ tể tướng, rồi chú giải ở dưới. Bởi thủ-tướng của Pháp không có quyền về phủ Tổng-thống, Lưỡng-viện quốc hội, Tối-cao Pháp-viện, Quốc-gia tư-vấn viện v.v. Ngược lại tể tướng đời Tống phụ tá thiên tử cả những vấn đề nội cung. Như khi một bà phi chết, Lưu thái hậu muốn an táng theo lễ nghi cung nữ. Tể-tướng Lã-di-Giản không chịu, yêu cầu táng theo nghi lễ một phi-tần.
          Chức Tể-tướng triều Tống có hai tên gọi. Khi đàm thoại thì gọi là Tể-tướng. Còn trong văn kiện thì gọi là Đồng bình-chương sự. Thường có Tả, Hữu tể-tướng. Ông nào lĩnh thêm chức Chiêu-văn quan đại học sĩ giám tu quốc sử thì ở trên. Ông nào lĩnh thêm chức Tập-hiền viện đại học sĩ ở dưới.
          Đặc biệt thời Thần-Tông, vì thiếu người nên đặt ra "Tam tỉnh" là Thị-trung, Trung-thư lệnh và Thượng-thư lệnh. Trong tòa Thượng-thư lệnh có hai chức Tả bộc-xạ và Hữu bộc-xạ, được gọi là Tể-tướng. Tả bộc-xạ kiêm Môn-hạ thị-lang lĩnh nhiệm vụ Thị-trung. Hữu bộc-xạ kiêm Trung-thư thị lang lĩnh nhiệm vụ Trung-thư lệnh.
          3. Xử tướng
          Thân-vương, Khu-mật viện sứ, hay Tiết-độ-sứ mà kiêm nhiệm Thị-trung, Trung-thư lệnh, Đồng-bình chương gọi là xử tướng. Những người này không dự chính sự đươc gọi là xử tướng.
          4. Tham tri chính sự.
          Tức phó Tể-tướng
          5. Dưới những bậc tể thần trên, có các cơ quan cao cấp sau:
          - Khu-mật viện, tương đương với Hội-đồng an ninh quốc gia ngày nay, chỉ huy trực tiếp quân đội, tình báo, an ninh quốc nội, quốc ngoại.
          - Tuyên huy viện, tương đương với ngày nay là bộ phủ Tống-thống, bộ Tài-chánh.
          - Tam-ty sứ, Tương dương với nha tổng giám đốc thuế vụ.
          - Hàn lâm học sĩ viện. Trông coi việc soạn chế, cáo, lệnh. Khi ban lệnh liên quan đến việc: Lập hoàng hậu, phong thân vương, bái Tể- tướng, Khu-mật-viện sứ, Tam công, Tam thiếu, cùng các chức từ Khai-phủ nghị đồng tam tư, Tiết-độ-sứ, gia phong, gia Kiểm-hiệu thì gọi là chế. Còn như phong đại thần từ Đại-trung đại-phu, Quan -sát sứ trở lên, thì dùng chiếu.v.v
          - Thị độc, thị giảng. Chức quan giảng sách, đọc sách cho vua.
          - Sùng-chính điện thuyết thư. Sùng-chính điện là nơi vua thiết đại triều. Sùng-chính điện thuyết thư phụ trách đọc các tấu chương, giải thích kinh nghĩa cổ điển liên quan đến chính sự đương thời.
          - Chư điện học sĩ. Rất nhiều như: Quan-văn điện đại học sĩ, Đoan-minh điện đại học sĩ v.v.
          - Chư các học sĩ. Rất nhiều như Đông-các điện đại học sĩ, Long-đồ các đại học sĩ, Thiên-chương các đại học sĩ v.v.
          - Chư tu tuyển trực các. Rất nhiều như Tập-anh điện tu tuyển, Hữu-văn điện tu tuyển v.v.
          - Đông-cung quan. Các quan trực thuộc Đông-cung thái tử, giúp thái tử tập chính sự. Những vị quan này thường là chức quan triều đình kiêm nhiệm. Bởi vậy khi thái tử lên ngôi vua, không bị bỡ ngỡ. Các chức này gồm Thái-tử thái sư, Thái-tử thái phó, Thái-tử thái bảo, Thái-tử thiếu sư, Thái-tử thiếu phó, Thái-tử thiếu bảo v.v.
          - Vương phủ quan. Các quan thuộc phủ thân vương.
          - Lục bộ gồm: Lại-bộ, Hộ-bộ, Binh-bộ, Hình-bộ, Công-bộ.


          Tự-Mai cười lớn:
          - Chết tổ bà ông Đinh Vị rồi.
          Bật ra câu nói tục, nó biết rằng quá vô phép, ở nơi bàn quân quốc trọng sự. Nó nhìn vua Bà Bắc-biên như tạ lỗi. Vua Bà biết ý, cười:
          - Phải, chỉ có câu đó mới diễn tả cái nguy của gã Đinh Vị.
          Thuận-Tông hỏi:
          - Như vậy ông Đinh Vị nhảy một lúc đến năm bậc thăng quan, sao lại chết tổ bà?
          Tự-Mai bẹo tai sư đệ:
          - Tông nhớ nhé! Bây giờ em đã là Lạc-hầu Thượng-oai phải tiếp xúc hàng ngay với biết bao nhiêu loại người, khôn ngoan có, ngu đần có, trung thực có, xảo quyệt có, gian mạnh có. Không cẩn thận, e bị mắc bẫy nguy đến tính mệnh cũng không đáng kể. Nhưng hỏng đại kế dân tộc mới đáng sợ.
          - Tự-Mai nhấn mạnh:
          - Về việc Đinh Vị được Lưu hậu ban cho từ một chức nhỏ, bỗng chốc thăng nhảy vọt đến bốn năm bậc rõ ràng bà không hề có chủ ý tưởng thưởng, mà đưa y vào chỗ chết. Y đang từ một chức Bình-chương sự tức một chức quan dưới quyền Khấu Chuẩn, trông coi việc đọc các tấu chương từ các nơi gửi về, rồi làm bản tóm lược đưa Khấu để đệ lên vua. Vì được tín cẩn trong vụ hạ bệ Khấu, bỗng chốc lên đến Tư-đồ, một chức lớn nhất trong ba chức vụ đầu não triều đình. Nghiã là cao hơn Định-vương Nguyên-Nghiễm. Vô tình y bị Lưu hậu cho ngồi lên bàn chông. Tại sao? Một bị đồng liêu ghen ghét. Hai là bất tài, ngồi vào vị trí tể thần. Ba là do phản bội người trên mà lên chức, mà triều Tống toàn Nho-gia trọng khí tiết, nên ai cũng ghét y.
          Thuận-Tông như người tỉnh ngủ. Nó cảm động:
          - Đa tạ đại ca. Sau khi thưởng công, chắc Lưu hậu tính tới bọn chống bà, để từ nay mầm mống ấy không còn nữa.
          Thiệu-Cực gật đầu:
          - Đúng thế. Cũng vẫn niên hiệu Càn-hưng nguyên niên (Nhâm-Tuất, 1022) mùa Xuân, tháng hai ngày Mậu-Thìn, trước đã biếm tể tướng Khấu Chuẩn làm Đạo-châu tư-mã, nay biếm nữa, hạ xuống còn tư-hộ tham quâm Lôi-châu. Thượng-thư hộ bộ thị lang Lý Địch làm Hằng-châu Đoàn-luyện phó sứ. Tuyên-huy Nam-viện sứ Tào Vi làm Tả-vệ đại tướng quân.
          Thuận-Tông lắc đầu:
          - Đàn bà mà thù ai thì người đó phải chết. Tốt hơn hết đừng gây truyện với đàn bà.
          Nói đến đó biết lỡ lời, nó đưa mắt nhìn vua Bà. Rồi nói lảng:
          - Lúc nãy anh nói bà đưa Đinh Vị lên để hại y. Thế sau này Đinh Vị có bị hại không?
          - Bị chứ. Đinh Vị đắc thế mà làm lớn, cũng không tự biết cái nguy. Y bị quan Ngự-sử đàn hặc vì phạm nhiều tội: Trong khi tang vua Chân-Tông, mà y ăn tiêu xa hoa, tuyển thêm mỹ nữ. Nhất là y ăn bớt tiền xây lăng tẩm vua Chân-tông. Cho nên bị biếm làm Nhai-châu tư hộ tham quân.
          Những gì Thiệu-Cực thuyết trình, vua Bà Bắc-biên đều thuộc nằm lòng. Bây giờ bà mới lên tiếng:
          - Thiệu-Cực đã trình bầy những bí mật về triều Tống. Mục đích để cho Khai-Quốc vương phi cùng năm cháu biết. Bây giờ chúng ta sang những vấn đề thực tế hơn, bí hiểm hơn: Xung đột trong nội bộ triều Tống. Xung đột lớn nhất, không thể cứu vãn là phe Lưu hậu với phe Định-vương Nguyên-Nghiễm tức Triệu Thành.
          Bà chỉ Thiện-Lãm:
          - Con làm lạc hầu rồi. Con thử luận xem, sự xung đột ấy có những gì? Nội dung ra sao. Nguyên do từ đâu?
          Thiện-Lãm kính cẩn đáp:
          - Con thấy cuộc xung đột này rất đặc biệt. Thứ nhất về Lưu-hậu. Bà tuy cầm quyền, lấn quyền, nhưng quyền đó của con bà. Tức bà lấn con. Thứ nhì Thiên-Thánh hoàng-đế với bà rất hợp ý nhau. Bà lại có chân tài, nên thời gian qua, làm cho nước giầu dân mạnh. Thứ ba, khác với Lã-hậu, Mã-hậu thời Hán, Võ hậu đời Đường, cầm quyền, dâm đãng, rồi mưu cướp sự nghiệp cho giòng họ mình. Ngoại thích lộng hành, đổi niên hiệu, đổi triều đại. Nên quần thần, dân chúng chống đối. Ngược lại Lưu-hậu nhất tâm nhất chí xây dựng cho họ Triệu, không dâm dãng, không dùng ngoại thích. Vì vậy mầm chống đối ít. Năm nay Thiên-Thánh hoàng-đế mười tám tuổi, biết đâu bà chẳng trả quyền cho con? Định-vương Nguyên-Nghiễm khó có thể tìm ra khe hở hạ bà. Nhưng bà có một yếu điểm lớn là dùng dư đảng bang Nhật-hồ Trung-quốc làm chân tay. Trong khi triều Tống truy lùng bang này rất gấp.
          Mọi người gật đầu khen ngợi Thiện-Lãm. Nó tiếp:
          - Còn Nguyên-Nghiễm. Ông ta có nhiều ưu điểm. Thứ nhất không có tham vọng làm vua. Ông ta muốn trở thành Trương Lương, Nghiêm Tử Lăng. Vua Nhân-tông định truyền ngôi cho ông, mà ông chối. Thứ nhì, ông ta nhất tâm phù trì cho cháu, cho học trò. Ông với Lưu hậu gặp nhau ở điểm này. Thứ ba, ông ta thu phục được võ lâm, danh sĩ hướng về ông. Lưu hậu cũng không tìm được khuyết điểm của ông. Mà dù ông có khuyết điểm, chả ai dám đụng vào ông.
          Vua Bà Bắc-biên lại gật đầu khen ngợi. Nó tiếp:
          - Thế thì hai người xung đột với nhau vì lý do gì? Không thể là quyền hành được. Vì ông ta muốn, thì đã làm vua rồi! Chúng ta phải tìm cho ra tại sao có truyện xung đột.
          Thiệu-Cực nói:
          - Cuộc xung đột giữa Lưu-hậu với Định-vương có lẽ trong chúng ta biết, chứ triều Tống chưa chắc đã biết. Ngay bọn tùy tùng, mới chỉ có một mình Minh-Thiên biết mà thôi. Hôm trước cậu hai sai Bảo-Hoà với anh Thông-Mai theo dõi sứ đoàn Tống. Sau đại hội Lộc-hà, Minh-Thiên với y kéo nhau ra chỗ kín nói truyện riêng. Bảo-Hoà nghe được. Nguyên văn như sau:
          "Minh-Thiên:
          - Vương gia ơi! Nếu vương gia không làm việc đó ngay, để Lưu hậu hại Lý thái phi rồi. Sau này hoàng thượng khám phá ra sự thực, ắt tru di tam tộc họ Lưu. Mà cũng không còn kính nể vương gia nữa.
          Triệu-Thành:
          - Khó quá. Đệ tử sợ mình nói ra, e thiên tử không tin, rồi lộ cho bà biết. Trường hợp đó dĩ nhiên bà phải tổ chức binh biến trong hoàng cung. Tuy đệ tử cầm binh quyền thực, nhưng bà ta ra tay bất thần trong cung thì nguy thay. Nhất là cạnh bà có bốn tên Lê-lục-Vũ, Tôn-đức-Khắc, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu-tam-Bản thống lĩnh mười trưởng lão bang Nhật-hồ. Bản lĩnh bốn lão thế nào, sư phụ đã biết. Chẳng may đệ tử bị họa sát thân cũng không sao. Nhưng bà sẽ hại thiên tử trước, rồi lập một ấu quân lên thay. Sau đó Lý phi cũng bị hại.
          Minh-Thiên:
          - Việc này hiện mới có Lưu hậu, Lý thái phi, Dương thái phi, với vương gia biết mà thôi. Có còn ai biết nữa không??
          Triệu-Thành:
          - Những người khác bị giết hết rồi. Chính vì vậy mà bà ta phải chiều đãi Dương thái phi, với đệ tử. Đệ tử biết cái nguy của bà, nên cứ để yên như vậy, khiến bà phải nghe theo đường lối trị quốc của đệ tử. Mặt khác, đệ tử thấy bà có hùng tâm, thời gian qua bà với đệ tử làm cho Tống giầu mạnh hơn xưa nhiều. Vì vậy đệ tử muốn để bà yên.
          Minh-Thiên:
          - Bà không dám trực tiếp hại vương. Nhưng bà đang tìm cách gài vương phạm lỗi như Đinh-Vị. Bấy giờ bà mới giả nhân, giả nghĩa ân xá cho vương. Nhưng vương không còn uy tín gì nữa.
          Triệu-Thành:
          - Đúng như sư phụ luận. Cái vụ bà bàn với đệ tử, rồi sai đệ tử đi sứ Chiêm tìm hiểu nội tình các nước Đại-lý, Đại-Việt, Chiêm-thành, Lão-qua, sau sẽ đem quân đánh. Đệ tử tin thực ra đi. Bây giờ mới biết rằng bà muốn mượn tay võ lâm Giao-chỉ hại đệ tử. Hoặc ít ra cũng gây thù chuốc oán với họ. May thay đệ tử thoát chết. Còn vụ trót gây thù oán bây giờ ta làm hòa cũng dễ thôi. Đệ tử định kết thân với võ lâm Việt, rồi làm lộ hết những âm mưu của bà cho họ. Thế là mình được cả tộc Việt thành bạn hữu, họ quay ra chống bà.
          Minh-Thiên:
          - Cái chìa khóa là Lý-long-Bồ. Nếu kết thân với y được thì lo gì?
          Triệu-Thành:
          - Kết thân với y không khó. Vì y là đấng anh hùng đời nay. Y muốn gì? Muốn thống nhất tộc Việt. Ta giúp y. Ta lại truyền lệnh biên thần Nam-phương chấm dứt gây hấn với y. Tống-Việt kết thân. Đệ tử tin rằng y vui vẻ ngay.
          Minh-Thiên gật đầu:
          - Như vậy mọi việc xong xuôi. Còn đối với Lý thái phi, ta ra điều kiện cho Lưu thái hậu rằng: Nếu bà hại Lý thái phi, ta làm đổ bể hết.
          - Đệ tử sẽ làm theo lời sư phụ. Theo đệ tử nghĩ, chúng ta chỉ cần kết thân với Khai-Quốc vương, thì trị bốn đại ma đầu cạnh Lưu hậu không khó. Việc này đệ tử đã làm xong một nửa rồi.
          - Ý vương gia muốn nói bốn tên Tôn, Lê, Sử, Khiếu cùng mười trưởng lão chuyên dùng độc chưởng khống chế quần thần. Nếu bây giờ kết thân được với Khai-Quốc vương, đương nhiên ta xin vương sai Thiệu-Thái Hoa du, giải độc cho quần thần. Bấy giờ họ không theo Lưu hậu nữa, vương gia sẽ nắm được hết chăng?
          - Thưa sư phụ không hẳn thế. Đệ tử muốn nói, chỉ cần một trong Thiên-trường ngũ kiệt giúp ta, dùng phản Chu-sa độc chưởng, thì bọn bốn ma đầu, mười trưởng lão quanh Lưu hậu kinh hồn táng đởm, thần phục ta.
          Minh-Thiên nghĩ ngợi một lúc, hỏi:
          - Theo như vương gia nghĩ, hai nghi án Huyền-âm độc chưởng cũng do Lưu hậu gây ra ư?
          - Đệ tử nghi thôi, chứ chưa chắc. Vì chưởng Huyền-âm tuyệt chủng từ hơn nghìn năm nay, không lẽ nay còn có người biết xử dụng? Cách đâu ít lâu, đại huynh của đệ tử là Sở-vương, trước khi hoăng đã nói rõ cho đệ tử nghe rằng chính Lưu hậu đã hại đại ca, nhị ca, để tam huynh lân làm hoàng đế.
          - Bần tăng sợ vương gia bị gian nhân ám hại, nên lúc nào cũng theo sát bên cạnh hầu đề phòng. Bần tăng nào có thấy vương gia làm gì khác lạ đâu, thế mà vương gia bảo đã kết thân được với Khai-Quốc vương? Sự thực ra sao?
          - Đệ tử sai Ngô Anh giả mê gái, rồi định giết y. Y trốn sang đầu quân cho Đại-Việt. Tất nhiên Dư-Tĩnh mật tấu với Lưu hậu.
          - Việc này có thể qua mắt Dư, nhưng đâu qua mắt được Khai-Quốc vương?
          - Đúng vậy. Đệ tử chỉ cần qua mắt Dư mà thôi. Còn đối với người của Đại-Việt, họ cho rằng Khai-Quốc vương giả trúng kế đệ tử, dùng Ngô thông báo tin tức ma cho đệ tử. Nhưng không phải thế. Sau khi theo Khai-Quốc vương, Ngô tìm cách yết kiến riêng, rồi trình bầy thực trạng đệ tử muốn kết thân Tống-Việt. Việc này chỉ có Khai-Quốc vương, Ngô-Anh, với đệ tử biết. Bây giờ thêm sư phụ.
          - Mưu kế của vương cao thực. Đến bần tăng cũng không nghĩ tới. À, phải rồi, có phải việc vương gia cố tình thúc cho Nhật-Hồ lão nhân đòi làm vua, là nằm trong mưu đồ chung của Tống-Việt không?
          - Vâng. Khai-Quốc vương nhờ đệ tử làm việc đó, để cho Hồng-thiết giáo đòi làm vua. Võ lâm tộc Việt kinh hãi, họ mới chịu ngồi lại với nhau, cùng diệt chúng. Cũng chính đệ tử cung cấp tin tức mụ Hoàng-Liên, tên Đỗ-xích-Thập, Vũ-nhất-Trụ làm gian tế cho ta; hầu Khai-Quốc vương tách thầy trò chúng ra làm nhiều mảnh nhỏ.
          - Vương gia làm như vậy có hơi tàn nhẫn với Hoàng, Đỗ, Vũ không?
          - Sư phụ ơi! Sư phụ là Bồ-tát đắc đạo, lòng dạ từ bi thì nghĩ thế. Theo như ý đệ tử, ba đứa này là người Việt, võ công lên tới địa vị tối cao. Nếu chúng đi chính đạo, nhất tâm nhất trí phù trợ tộc Việt, thì cái tước vương, tước công đâu có xa gì? Thế mà chúng nhẫn tâm bán rẻ sư thừa, môn hộ, dân tộc, cùng tổ tiên làm tay sai cho ta. Hỏi rằng bọn đó có nên tin chúng không? Huống hồ bản triều lấy Nho-đạo trị dân, nếu đệ tử dung túng chúng, e sĩ dân thiên hạ bất phục. Giết đi ba tên lưu manh, gian xảo, để giữ chính đạo, là điều nên làm».

          Tất cả những gì Thiệu-Cực thuyết trình, Khai-Quốc vương đã được báo đầy đủ. Duy đoạn đối thoại cuối cùng đáng lẽ Bảo-Hòa, Thông-Mai báo với vương. Nhưng vụ này này xẩy ra hôm Thuận-Thiên hoàng đế làm lễ tấn phong Thanh-Mai làm vương phi. Vì vậy Bảo-Hòa sai chim ưng chuyển về để Thiệu-Cực báo cho vương.
          Vương trầm tư, hỏi vua Bà cùng phò mã Thân-thừa-Quý:
          - Anh chị nghĩ sao?
          Thân phò mã nói:
          - Nội dung cuộc đối thoại rất quan trọng. Trong đó ta thấy mấy điều sau. Một là Lưu hậu có bí mật gì liên quan đến Tống đế cùng Lý phi. Bà sợ bị lộ, nên muốn hại Lý phi. Triệu Thành cũng biết việc đó, vì vậy bà phải thuận theo Thành trong việc trị nước. Hai là Lưu hậu hiện có bên cạnh bốn đại cao thủ Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ, Khiếu Tam-Bản, Sử-vạn Na-vượng mà bản lĩnh hơn Minh-Thiên. Ngoài ra còn mười trưởng lão bang Nhật-hồ. Trong lần đi sứ này, ta phải tìm cho ra những bí ẩn đó. Còn bang Nhật-hồ Trung-quốc hiện tình ra sao?, Thiệu-Cực sẽ trình bầy.
          Thiệu-Cực lấy ra mấy cái thẻ tre, rồi nói:
          - Sau khi Tống Thái-tổ băng hà. Thái-tông lên ngôi, đem quân sang đánh Đại-Việt thất bại. Ông ta nghĩ đến võ lâm Trung-nguyên. Trước tiên ông ta cho diệt bang Nhật-hồ, để những ai còn nghĩ đến triều Hán, Chu phải tuyệt vọng. Vì bị tập kích bất ngờ, hơn trăm đại cao thủ trong bang bị chết hết. Hai đại cao thủ còn rất trẻ giữ chức vụ Tả hộ pháp, Hữu hộ pháp trốn thoát. Từ hồi đó đến giờ không thấy xuất hiện. Gần đây một bang cực lớn hoạt động đọc sông Trường-giang điều khiển bởi bẩy người xưng Trường-giang thất hùng. Nhưng chúng tàn ác quá, người đời gọi là Trường-giang thất quỷ. Bẩy đứa này chia làm ba nhóm. Đứng đầu là Trường-giang song hùng Phương-Hổ, Phương-Báo. Kế tiếp là Động-đình tam ưng, Tương-giang nhị tiên. Có người cho rằng Trường-giang song hùng chính là hai gã tả, hữu hộ pháp kia. Trường-giang thất quỷ tuy làm đạo tặc, nhưng hai gã họ Phương lại là người của Lưu hậu, chính bọn bang Trường-giang cũng không biết.
          Tự-Mai hỏi:
          - Thế mà trước em tưởng chỉ có Hồ Dương-Bá với Đỗ Lệ-Thanh sống sót.
          - Em nên nhớ rằng bang Nhật-hồ lớn vô cùng. Ba bang trưởng Lưu Trí-Viễn, Quách Ngạn-Oai, Sài Vinh làm vua liên tiếp. Vì vậy bang chúng có hàng ngàn cao thủ làm tướng trấn thủ khắp nơi. Nhà Tống diệt bang Nhật-hồ, đám cao thủ này trốn đi ẩn thân hết.
          Tôn Đản hỏi:
          - Thực lực bang Nhật-hồ Trung-quốc hiện ra sao?
          - Trong trận Tống tấn công bang Nhật-hồ, đệ tử thứ nhì của bang chủ cuối cùng Đỗ Ngạn-Tiêu tên Đặng Đại-Bằng đi vắng, vì vậy y thoát chết. Y âm thầm kết nạp bang chúng, tái lập bang. Hiện thế lực bang này không bằng Hồng-thiết giáo Đại-Việt, nhưng cũng lớn hơn phái Thiếu-lâm, Võ-đang nhiều. Có tin nói bang này khống chế Lưu hậu. Vì vậy Lưu hậu phải tuân lệnh họ, nhận cho mười trưởng lão giả làm thị vệ trong cung. Cũng có tin nói Vũ Nhất-Trụ cung cấp thuốc giải cho bà, vì vậy ngược lại Đặng Đại-Bằng bị bà khống chế. Y nhận sắc phong, làm tế tác cho bà. Y gửi mười trưởng lão để bà sai khiến. Một tin khác nói, không phải vậy, mà gã Tôn-đức-Khắc, Lê Lục-Vũ vốn là tả, hữu hộ pháp Hồng-thiết giáo Đại-Việt theo bà. Cho nên hai tên này giúp bà giải độc vĩnh viễn cho Phương Hổ, Phương Báo, Đặng Đại-Bằng, khiến chúng phải tuân lệnh bà, nhận sắc phong. Sự thực ra sao, ta khó mà biết được. Kỳ này cậu đi sứ, cố dò cho ra.
          Vua Bà bảo Khai-Quốc vương:
          - Sau hôm đại hội Lộc-hà, Quốc-sư mời các tôn sư võ lâm hội với phụ hoàng. Đường lối ra sao, cậu bảo có nên nói cho các cháu này biết không?
          Khai-Quốc vương tỉnh ngộ, bảo mấy sư đệ:
          - Đúng ra với tuổi các em, không thể cho biết nội dung buổi họp tuyệt mật này. Nhưng các em đã tham dự vào quốc sự nhiều, công lao cũng không nhỏ. Bây giờ chúng ta lên đường đi sứ kết thân với Tống. Anh muốn các em biết rõ đường lối của triều đình cùng các đại tôn sư võ lâm.
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 02:35:57 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9