Anh hùng Bắc cương (từ hồi 31)
CDDLT 19.01.2005 18:30:24 (permalink)
Hồi thứ chín mươi mốt

Quốc sách Đại Việt



Thiệu-Cực trịnh trọng nói:
- Sau hôm đại hội Lộc-hà, Minh-Không đại sư mời tất cả các đại tôn sư võ lâm Đại-Việt tới chùa Tiêu-sơn cùng triều đình họp, để bàn định quốc sách. Tôn sư, chưởng môn nhân các đại môn phái Tiêu-sơn, Đông-a, Sài-sơn, Mê-linh, Tản-viên, Tây-vu đều hiện diện. Ngoài ra còn có Lạc-long giáo, bang Đông-hải, bang Hồng-hà. Có ba vị vắng mặt vì quốc sự. Một là Lạc-long giáo chủ Thân Thiệu-Thái, hữu hộ pháp Trần Thanh-Mai làm đại diện. Hai là chưởng môn phái Tản-viên Thân Bảo-Hòa nhờ Nùng-Sơn tử đại diện. Ba là chưởng môn phái Mê-linh Lý Mỹ-Linh vắng mặt nhờ sư thái Tịnh-Huyền đại diện.
Chàng đưa mắt nhìn mạ mạ, rồi nhìn Khai-Quốc vương:
- Về triều đình, ngoài ông ngoại, còn có cậu hai, Tả, Hữu bộc-xạ, Lục-bộ thượng thư, quản Khu-mật viện và mạ mạ.
Tự-Mai nhăn mặt:
- Như vậy là họp để định sách lược Đại-Việt, chứ không phải của tộc Việt phải không?
Thiệu-Cực đưa mắt nhìn Khai-Quốc vương, ngụ ý để Vương trả lời. Khai-Quốc vương đáp:
- Tự-Mai hỏi câu đó thực phải. Minh-Không đại sư tổ chức buổi họp với mục đích định sách lược cho Đại-Việt, chứ không phải chung cho tộc Việt. Việc định kế lâu dài cho tộc Việt, phải đợi chúng ta đi Xiêm, Lào, Chiêm, Chân, Đại-lý, Lưỡng-Quảng kết hợp anh hùng, rồi mới làm sau. Tức là chúng ta tự chỉnh đốn căn bản trước đã.
Vương hỏi Tôn Đản:
- Trong năm em, Đản lớn nhất. Đản thử đoán xem buổi họp với mục đích gì nào?
Tôn Đản đáp ngay:
- Từ trước đến giờ quốc nguy có ba điều. Một là Hồng-thiết giáo. Nay Hồng-thiết giáo biến thành Lạc-long giáo. Điều thứ nhì, là mối nguy Chiêm-thành, Lão-qua. Nay hai nước đó cùng Xiêm, Chân, Đại-lý lại biến thành bức tường che chở cho ta. Ba là mối lo võ lâm chia rẽ vì con cháu nhà Lê đòi ngôi vua. May thay Hồng-Sơn đại phu bỏ ra ngoài tự ái, bỏ ra ngoài công danh, cùng triều đình lo bảo vệ đất nước.
Có tiếng nói vọng vào:
- Không phải bỏ ra ngoài công danh đâu, mà vì đã tìm ra người tài trí hơn ta, làm cho Đại-Việt hưng thịnh, nên ta rút lui để tiêu dao với thiên nhiên. Chứ làm vua thì sướng gì?
Lê Văn la lớn:
- Bố! Bố đến bao giờ vậy?
Thiệu-Cực kinh hãi, vì với đoàn chó sói, chim ưng canh phòng e con kiến cũng không lọt vào được. Mà sao Hồng-Sơn đại phu lại đến dễ dàng như vậy?
Năm người từ ngoài bước vào: Trần Tự-An, Hồng-Sơn, Đặng Đại-Khê, Thân Thừa-Phú, và Lâm Huệ-Phương. Thấy ông nội, Thiệu-Cực mới tỉnh ngộ:
- Thì ra ông nội dẫn đường, chứ các cụ này sao qua mắt bọn lính sói, ưng của mình!
Lê Văn nhào tới ôm lấy Huệ-Phương:
- Mẹ ơi! Con đi sứ Tầu. Mẹ rủ bố đi chơi với bọn con cho vui.
Huệ-Phương tát yêu nó:
- Bắc thang lên trời thì dễ, chứ bảo bố bỏ bệnh nhân đi chơi e hơi khó. Mỗi ngày bố chữa hơn trăm người, đời nào bố chịu đi.
Bà nói nhỏ:
- Bố mới tuyển bẩy trăm người y sinh. Hy vọng mấy năm nữa mình sẽ có bẩy trăm thầy thuốc.
Vua Bà Bắc-Biên, Thân phò-mã, Khai-Quốc vương vội đứng dậy chào. Trần Tự-An xá vua Bà Bắc-biên:
- Công chúa điện-hạ! Cách đây ít ngày, bọn Hồng-thiết giáo Tây-vực phạm Tản-lĩnh, chúng bị Thân thế-tử bắt. Nhà có chủ, đất có vua, đáng lẽ để bọn chúng cho vua Bà sửa trị. Trong lúc cần thị uy với phái Hoa-sơn, tại hạ ra tay tru diệt bọn chúng. Tại hạ đã nhờ Thân thế-tử về cáo lỗi trước. Hôm nay tại hạ thân tới đây chịu tội.
Vua Bà Bắc-biên chắp tay xá:
- Quốc-trượng dạy quá lời. Đúng như Quốc-trượng dạy, tuy bọn Hoa-sơn đại bại bỏ chạy, chịu lỗi với Đặng sư huynh, nhưng cũng cần ra uy cho chúng biết mình không thể tha thứ quân cướp nước. Đa tạ Quốc-trượng đã thị uy dùm.
Phân ngôi chủ khách xong, Tự-An bảo Thiệu-Cực:
- Giang hồ đồn rằng, hôm nay hoàng-đế nhà Tống ăn món gì, mặc quần áo gì, ngày mai Thân thế-tử cũng biết liền. Lời đồn quả không sai. Từ trước đến nay ta thiết lập riêng một hệ thống tế tác theo dõi bọn Tống. Hôm rồi tại Thăng-long Thuận-Thiên hoàng-đế với ta đã họp nhau hợp hai hệ thống làm một, như vậy mới hiệu nghiệm. Ta lên đây gặp cháu, để chỉ cho cháu biết phương cách liên lạc với người của ta.
Vua Bà Bắc-biên mừng vô hạn. Vì từ hai mươi năm nay, phái Đông-a có hệ thống tế tác rất siêu phàm trên toàn đất Tống, hiệu nghiệm hơn của triều đình. Nay ông chịu thống nhất với hệ thống triều đình thì còn gì hơn.
Thiệu-Cực kính cẩn chắp tay:
- Mấy tháng qua cháu nhờ hệ thống tế tác của Đông-a, mà thu được đủ mọi tình hình Tống, Tây-hạ, Liêu. Đa tạ Quốc-trượng... Thôi chú Đản cứ tiếp tục đi.
Tôn Đản tiếp:
- Rút lại ta chỉ còn mối nguy duy nhất là Tống dọa nếu Thuận-Thiên hoàng-đế không thoái vị, cùng bỏ niên hiệu. Họ sẽ mang quân sang đánh. Đây chẳng qua là lời đe dọa hão huyền, trong khi trong lòng họ run rẩy về trận Chi-lăng, Bạch-đằng chưa hết.
Hồng-Sơn đại phu thử Tôn Đản:
- Tại sao cháu bảo họ dọa. Biết đâu họ không làm thực?
- Thưa sư bá, vì Tống gờm ta, nên mới lôi kéo Chiêm, Lào làm hai đạo quân đánh phía Nam. Nay hai đạo đó biến thành hai mũi tên chống họ. Họ mong nội bộ Lê, Lý chém giết nhau, rồi đem quân qua. Nay Lê, Lý cùng nắm tay nhau. Họ còn hy vọng gì nữa? Cho nên đại hội Tiêu-sơn không phải để phòng Tống, mà muốn lập kế lâu dài bảo vệ đất nước.
Tự-An nhìn Lâm Huệ-Phương cười:
- Lê phu nhân. Hôm qua luận về đám trẻ này, phu nhân nói: Tướng của Tôn-Đản cực tốt. Sau này sự nghiệp vĩ đại vô cùng, danh lưu thanh sử muôn đời với tộc Việt. Nay cứ nghe lời nghị luận, sự nghiệp sẽ như phu nhân nói.
Ông bảo Tôn Đản:
- Cháu thử phác họa xem, trong buổi đại hội chúng ta bàn gì nào?
Tôn Đản chắp tay hướng Tự-An:
- Đa tạ sư bá khuyến khích. Theo cháu, triều đình cùng các tôn sư bàn ba vấn đề chính. Một là thái độ với triều Tống cùng biên thần. Việc này anh Cả cháu đã ban chỉ dụ cho đại hội lạc hầu Bắc-biên rồi: Cứng với biên thần, mềm với triều đình. Chúng cháu thêm: Nếu cần, tàn sát, vu hãm bọn chủ trương xâm lăng. Kể cả đào mồ cuốc mả, cho người về quê tàn sát anh em họ hàng chúng.
Tư-An vỗ tay:
- Hay thực. Đám trẻ này có đề nghị hợp ý ta. Giỏi! Tiếp đi Đản.
- Hai là phải làm cho mộng Nam-chinh của Lưu hậu với Triệu Nguyên-Nghiễm tan tành, để họ quay mũi dùi lên Bắc, sang Tây đấu với Liêu, Tây-hạ, Thổ-phồn. Trong khi đó ta có thời gian chỉnh đốn kết hợp tộc Việt lại. Sau thời gian đánh nhau với Bắc, Tây dù thắng, dù bại, tinh lực Tống kiệt quệ. Trong khi đó ta giầu, mạnh. Họ gờm ta, mà không dám nhìn xuống Nam nữa. Tự hai vấn đề trên, nảy ra vấn đề thứ ba. Hiện ta định mềm với triều Tống. Thế nhưng tế tác Tống đều biết anh cả cháu có mộng đòi lại đất cũ thời Lĩnh-Nam. Vì vậy họ vẫn để trọng binh, tướng tài ở phương Nam. Muốn cho họ thỏa mãn, cho họ yên tâm, anh cả phải sang sứ Tống kết thân với danh sĩ, võ lâm Tống, tỏ ý hiếu hòa. Vì vậy anh với bọn cháu mới lên đường.
Nghe Tôn Đản nói, mọi người nhìn nhau với con mắt khâm phục. Tự-An vỗ vai nó:
- Chúng ta cùng tới đây để nói cho các cháu biết rõ đại kế giữ nước đã định trong đại hội Tiêu-sơn. Đại kế này không phải mình triều đình, mà toàn thể võ lâm, kẻ sĩ đều phải góp sức. Đại kế kéo dài trong vòng năm mươi năm.
Ông nhìn cử tọa một lượt rồi tiếp:
- Đại kế chia làm năm phần: Phần một về Bắc-cương. Ta phải giữ vững các khê động. Vì Khê-động là bức trường thành ngăn làn sóng Bắc-phương tới. Bất cứ động chủ, trại chủ nào theo Tống, đều phải lôi kéo về. Bằng không lôi kéo được, ta giết chết thực thảm khốc, cho những người khác lấy đó làm gương. Ta nhắc lại, không phải tự nhiên họ theo Tống, mà do biên thần Tống dụ dỗ, đe dọa. Đối với đám này, ta áp dụng như Đản vừa trình bầy. Phần này do vua Bà Bắc-biên chủ động. Phái Tản-viên, Tây-vu hỗ trợ. Phái Đông-a giúp về phương diện tế tác, cùng trừng phạt bọn biên thần Tống.

Tướng mặt Tự-An rất đặc biệt. Khi ông im lặng, hoặc nghiêm nghị, khuôn mặt uy nghi. Ai nhìn cũng phải ớn lạnh. Ngược lại, khi ông vui cười, khuôn mặt thực thiện cảm, ôn nhu. Hôm nay phải trình bầy quốc sách, mặt ông lạnh như tiền, nên trong phòng hội hơn trăm người, mà không một tiếng động.
Ông tiếp:
- Phần thứ nhì làm sao cho nước giầu dân mạnh. Nội dung có ba điều: Mở mang học hành cho trai gái đều đi học. Học cả văn lẫn võ, học luôn binh bị. Khi quốc gia hữu sự, hô một tiếng có hàng triệu người cầm vũ khí. Điều này do Khu-mật viện, binh bộ, lễ bộ, cùng Lạc-long giáo đảm trách. Điều hai, tổ chức y khoa chữa trị cho dân chúng. Điều này do phái Sài-sơn đảm trách. Điều thứ ba khuyến khích nông tang, phá rừng tăng diện tích trồng cấy, giảm thuế cho dân, giảm chi phí xa xỉ. Điều này do tể tướng đảm trách, phái Sài-sơn trợ giúp.
Phần thứ ba, thống nhất tộc Việt lại thành một nước như thời Lĩnh-Nam. Nếu không được, cũng kết hợp thành thế liên minh, trao đổi võ công, canh nông, y học, văn học. Có như vậy ta mới hướng lên Bắc đòi lại đất tổ. Ví dù không đòi được, ta cũng bảo vệ được bờ cõi. Phần này do phái Tiêu-sơn cùng Lạc-long giáo chủ xướng.
Ông nhìn Khai-Quốc vương:
- Phần thứ tư, hoàn toàn ở quốc ngoại. Đối với Tống ta không nói gì tới đòi lại Lưỡng-Quảng. Để họ yên tâm mặt Nam-thùy. Cống lễ thực hậu, lời lẽ nhũn nhặn. Trong khi ta mua chuộc, đe dọa biên thần Tống. Còn các quan tại triều, ta mua chuộc, kết thân. Ai giúp ta, trong bóng tối ta làm cho công việc của họ trôi chảy, vua yêu. Ai chống ta, ta âm thầm làm cho công việc của họ trở ngại, ta phao tin nhảm, đâm bị thóc chọc bị gạo cho vua ngờ, đồng liêu ghét. Nếu cần ta ám sát, tàn hại vợ con, bố mẹ. Như thế khi Lưu hậu, Nguyên-Nghiễm xướng ra việc Nam-chinh, quần thần ngăn cản. Ta gây cho triều Tống chia phe, chia đảng chống báng nhau. Làm sao chia thành phe ngoại thích với phe hoàng tộc. Phe võ quan với phe văn quan. Phe nội thị với phe Nho-sĩ. Phe Lưu hậu với phe Nguyên-Nghiễm. Trong mỗi phe lại chia rẽ vì ganh tỵ. Việc này do Khu-mật viện với phái Đông-a, Mê-linh làm. Ba người chủ xướng là Khai-Quốc vương, Thiệu-Cực và tôi.
Mọi người bật cười rộ lên. Tự-An tiếp:
- Phần thứ năm, ta chọc cho Tống với Liêu, Tây-hạ, Thổ-phồn đánh nhau. Ta cho người xen vào cả hai bên. Người của ta bên Tống gây thù oán với phe Tây-hạ, Thổ-phồn. Người của ta bên các nước kia gây oán với Tống. Khi hai bên đánh nhau, ta cố giữ sao cho không bên nào thắng bên nào. Họ càng đánh nhau lâu càng tốt. Phần này cũng do Khu-mật viện, phái Đông-a cùng Mê-linh chủ động.
Ông đứng dậy nhìn cử tọa một lượt:
- Nếu vì lý do Lưu hậu, Nguyên-Nghiễm nghi ngờ ta không thực tâm thần phục, mà muốn đòi Lưỡng-Quảng, Khai-Quốc vương sẽ không lên ngôi vua Đại-Việt, mà ngồi cầm thực quyền, để ngôi vua cho Khai-Thiên vương. Sau khi thống nhất tộc Việt, Khai-Quốc vương sẽ làm hoàng-đế cả tám nước như vua Trưng.
Trời đã tối, vua Bà mời mọi người nhập tiệc.
Việc chuẩn bị xong. Khai-Quốc vương truyền cho Thân Thiệu-Cực với Lâm Thanh-Trúc cầm quân trấn biên thùy Tống-Việt phía Đông. Còn biên giới phía Tây vẫn do Bắc-biên phụ trách.
Tháng mười một, phái đoàn tới Khâm-châu. Quan Tổng trấn Khâm-châu giữ chức Tuyên-vũ sứ vội sai người phi ngựa về báo cho quan Kinh-lược an-phủ sứ Dư Tĩnh biết. Dư Tĩnh hiện theo Bình-Nam vương vắng mặt, vì vậy Tuyên-vũ sứ phải gửi tấu chương về Biện-kinh rằng Trừ quân Đại-Việt, Thái-tử Lý Long-Bồ tước phong Khai-Quốc vương sang triều cống.
Trong khi chờ chỉ dụ từ Tống triều, phái đoàn Việt sứ tạm ở dinh quan trấn thủ Khâm-châu.
Suốt từ hôm khởi hành từ Thăng-long, ngày nào Thanh-Mai cũng bắt năm ông mãnh luyện võ với nhau. Trong năm thiếu niên, Tự-Mai, Lê Văn có căn bản cực kỳ vững trãi. Còn lại Thiện-Lãm theo học Nùng-Sơn tử. Lê Thuận-Tông theo học Tịnh-Huyền. Hơn năm qua, được minh sư truyền dạy. Nên hai đứa đã có căn bản không tầm thường.
Riêng Tôn Đản. Hôm cùng Lý Long-Bồ, Trần Tự-Mai lọt vào động Xuân-đài, nó tự luyện võ công Cửu-chân. Sau khi ra khỏi, về Thăng-long, nó được sư thái Tịnh-Huyền dẫn giải những chỗ khó khăn, khúc mắc cho nó. Vì vậy võ công của nó tiến rất mau.

Trên Tản-lĩnh, Tự-Mai, Tôn Đản hút nội lực của hai đại cao thủ, nên công lực chúng không thua Thanh-Mai làm bao. Tôn Đản đem những gì Đặng Đại-Khê giảng cho nó, trần thuật với Khai-Quốc vương. Nó chỉ nói qua, vương hiểu liền.
Trong khi luyện võ, Tôn Đản đưa ra ý kiến: Tại sao không thử hợp võ công Sài-sơn, Mê-linh trong đó có Cửu-chân, với Đông-a làm một. Ý kiến được cả bọn đồng ý. Tự-Mai tuy đã lớn, nhưng vì mất mẹ từ lâu, nó bị chị quản chế, cái gì cũng phải hỏi chị. Nó đưa ý kiến:
- Chúng mình phải làm bí mật, đừng cho chị Thanh-Mai biết, e tao bị bà chằng rắc rối.
Thế rồi nó đem bộ Đông-a chưởng pháp ra truyền cho bốn đứa. Lạ thay, bốn đứa luyện rất dễ dàng. Nó giảng:
- Toàn bộ có ba mươi sáu chiêu, đều lấy chữ trong kinh Kim-cương, Lăng-già đặt ra. Bộ chưởng này khởi thủy do tổ sư Trần Tự-Viễn, nhân học Thiền-công của phái Tiêu-sơn, rồi chế thành. Nhưng Thiền-công Tiêu-sơn vốn là thứ nội công nhà Phật, từ bi hỷ xả. Đánh người đấy, mà không nỡ hại người. Cho nên lúc đầu ba mươi sáu chiêu chưởng chỉ hoá giải những gì người đánh ta mà thôi. Tổ Trần Tự-Viễn dạy cho đồng môn phái Tiêu-sơn. Sau thành pho Tiêu-sơn chưởng pháp.
Nói rồi nó biểu diễn một lượt, rồi tiếp:
- Sau khi rời chùa Tiêu-sơn, tổ Trần Tự-Viễn về Thiên-trường, qui dân lập ấp, cưới vợ, thu đệ tử, lập môn phái. Trong khi giao đấu với trộm cướp, tổ nhận thấy Tiêu-sơn chưởng quá sơ lược. Tổ mới sửa đổi, mỗi chiêu biến thành hai. Một chiêu đánh xuôi, một chiêu đánh ngược.
Tôn Đản hỏi:
- Tao không hiểu. Mày biểu diễn thử xem sao.
Tự-Mai gật đầu:
- Như chiêu Lăng-già thính kinh tay phải quay tròn, đẩy thẳng. Tay trái đánh bật từ dưới lên. Hai kình phong xoáy như trôn ốc phát về trước.
Nói đến đâu, nó làm đến đó. Gió lốc cuồn cuộn, trúng vào tảng đá, binh một tiếng. Tảng đá bật tung lên, rồi rơi xuống cách chỗ cũ hai trượng.
Nó tiếp:
- Bây giờ chiêu Lăng-già thính kinh được sửa đổi thành chiêu Đông-phong nộ lãng nghĩa là gió Đông làm sóng nổi giận cuồn cuộn bốc dậy. Tay phải từ trước quay tròn, thu vào người. Tạo thành khoảng lực đạo trống phía trước. Tay trái đánh ụp tự trên xuống. Như vậy có hai lực. Một lực hoá giải, một lực tấn công.
Nói rồi nó đánh thử một chiêu. Lê Văn vung tay đỡ, gật đầu:
- Chiêu này nguy thực, trong công có thủ.
Tự-Mai tiếp:
- Thiền-công Tiêu-sơn chỉ hoá giải. Bây giờ một phần hoá giải, một phần tấn công. Đó là nguyên lý chưởng pháp Đông-a.
Chỉ ba ngày, Tự-Mai dạy bốn đứa đều xử dụng được Đông-a chưởng pháp rất thuần thục. Trong khi đó Tôn Đản, Lê Thuận-Tông dạy Cửu-chân chưởng pháp cho các bạn. Tự-Mai vốn bác học, nó nói:
- Cửu-chân chưởng là pho chưởng tối cổ của Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung sáng chế, với chủ đích khắc chế võ công Trung-nguyên từ chiêu thức đến nội công. Thời gian ngài sáng chế ra, bên Trung-nguyên có các phái Liêu-Đông, Tương-dương, Thái-sơn, Thiên-sơn, Quan-trung, Trường-bạch. Những phái đó nay chỉ còn Liêu-đông, Trường-bạch. Còn các phái kia biến thể thành phái khác.
Tôn Đản rất chú ý đến võ công Trung-nguyên. Nó hỏi:
- Những phái hiện nay, mới thành lập ư?
-- Đúng thế. Phái Thiếu-lâm do tổ sư Bồ-đề Đạt-ma thành lập. Sau biến thể ra phái Nga-mi. Phái Võ-đang hoàn toàn do đạo gia mới thành lập gần đây. Phái Hoa-sơn, Côn-luân, Không-động do các phái võ cổ biến thế ra.
Lê Văn vỗ tay reo:
- Vậy cứ thấy người nào xử dụng võ công Hoa-sơn, Côn-luân, Không-động, Liêu-đông, Trường-bạch. Ta dùng võ công Cửu-chân đục lại chắc thắng.
- Đúng thế. Đối với võ công Thiếu-lâm, Nga-mi, Võ-đang, ta dùng võ công Đông-a. Bởi võ công Tiêu-sơn, Thiếu-lâm cùng nguồn gốc, song võ công Tiêu-sơn sát thủ mạnh hơn. Võ công Đông-a từ Tiêu-sơn mà ra, rồi biến thể thành trái ngược lại. Riêng Võ-đang, hồi Tống sang đánh Đại-Việt, ông nội tôi bắt được cuốn phổ của họ, đem về nghiên cứu thành phá cách.
Nó chỉ Lê Văn:
- Riêng Văn, phải dạy chúng nó thực kỹ học thuyết kinh lạc, để có thể học phương pháp đẩy chất độc trở lại cơ thể địch nhân. Như vậy gặp bọn Trường-bạch, Liêu-đông, Côn-luân, Hồng-thiết... ta mới không sợ.
Lê Văn đem lý thuyết kinh lạc trong y học ra giảng dạy cho các bạn. Chỉ trong ba ngày, chúng thuộc hết. Thế là năm thiếu niên dạy lẫn nhau, đứa nào cũng biết võ công Đông-a, Sài-sơn, Mê-linh (Cửu-chân), Tản-viên. Thế rồi chúng đấu với nhau loạn xà ngầu.
Mấy hôm sau, có sứ từ Biện-kinh ra, truyền dẫn sứ đoàn triều kiến Thiên-Thánh hoàng-đế. Sứ giả là một văn quan giữ chức Đàm-châu tư-mã tên Tào Khánh. Tào Khánh thấy sứ đoàn, chỉ có Khai-Quốc vương, Vương-phi với năm thiếu niên. Y kinh ngạc, nghĩ thầm:
- Mình nghe nói Lý Long-Bồ có tài kinh thiên động địa. Tại sao, đi sứ Thiên-triều lại không mang theo tùy tùng văn võ, mà chỉ có năm thiếu niên chưa ráo máu đầu?
Khi tiếp súc với Khai-Quốc vương, y thấy ở vương tư thái ôn nhu, khoan hoà, mà trong mắt tiết ra tia hàn quang cực mạnh. Y tỏ vẻ kinh sợ:
- À thì ra thế. Vị vương-tử trẻ tuổi này văn võ kiêm toàn, nên mới tự hào, không mang theo tùy tùng.
Quan tổng trấn Khâm-châu cử một đội kị mã trăm người theo hộ tống sứ đoàn. Khác với lần trước, sứ đoàn vượt Hành-sơn, lên hồ Động-đình, qua Trường-giang sang Kinh-châu, tới Biện-kinh. Lần này sứ đoàn đi đường Khâm-châu, men theo bờ biển đến cửa Hổ-môn lên Khúc-giang, rồi tới Thường-sơn, sau đó vào Trường-sa, hồ Động-đình, đi Biện-kinh.
Tuổi trẻ hiếu động, vừa thấy đội kỵ mã, Tôn Đản hỏi viên đội trưởng:
- Này thầy đội! Thầy cho biết cao danh quý tính đi. Để tôi giới thiệu bọn tôi trước.
Nó giới thiệu từ Khai-Quốc vương trở xuống. Tôn-Đản mới học tiếng Hoa. Tuy nhiên nó nói rất sõi. Viên đội trưởng nghe nó xưng hô với Khai-Quốc vương, Vương-phi bằng anh, chị. Y cho rằng vương với chúng là em họ hàng gì. Nhân đi sứ Bắc, Vương dẫn theo cho chúng kinh lịch cuộc đời. Y trả lời:
- Thưa công tử, tiểu nhân tên Ôn Vi, năm nay ba mươi tuổi.
Ra khỏi thành Khâm-châu, năm đứa cho ngựa xen lẫn vào đám kị binh trò truyện hết người này đến người kia. Đám kị binh này lấy từ đạo kị binh Đàm-châu.
Hà Thiện-Lãm hỏi Tự-Mai:
- Này anh sáu. Đàm-châu ở đâu vậy?
Lần đầu tiên Tự-Mai nghe đến tên này. Nó quay sang hỏi quan tiếp dẫn sứ:
- Tào đại nhân! Bọn anh em tại hạ kiến văn hủ lậu, không biết Đàm-châu ở đâu. Mong đại nhân chỉ dạy cho.
- Công tử hỏi thực phải. Đàm-châu thời Hán gọi là Trường-sa.
Cả năm đứa trẻ cùng bật reo lên:
- Vậy chúng tôi biết rồi.
Tự-Mai giảng cho Thiện-Lãm:
- Trường-sa nguyên thuộc lãnh địa Âu-lạc. Khi Đồ Thư mang năm mươi vạn quân sang đánh Âu-lạc, chiếm phía Bắc lập ra ba quận Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận. Trường-sa thuộc Quế-lâm. Thời Tây-Hán, Triệu Đà làm vua Nam-Việt thường mang quân đánh Trường-sa, Nam-quận. Đến thời Lĩnh-Nam, các bà Trưng Nhị, Lê Chân, Hồ Đề, Trần Năng tái chiếm, đặt trực thuộc Quế-lâm như cũ.
Trong khi nói, Tự-Mai nhận thấy viên đội trưởng họ Ôn lắng tai nghe ngóng. Thỉnh thoảng y cau mặt lại, tỏ ý bất bình. Nó cười thầm:
- Tên họ Ôn này chắc chắn không phải đội trưởng. Coi thân thủ, y phải thuộc hàng võ lâm cao thủ, ít ra bản lĩnh không thua gì bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo. Cổ y hơi rút xuống, bàn tay đỏ hỏn. Nhất định y đã luyện Chu-sa độc chưởng. Vậy có thể y giữ chức vụ cao hơn. Y tuân lệnh thượng cấp giả làm đội trưởng hầu mưu đồ gì đây? Ta phải dò cho ra mới được.
Lê Văn hỏi:
- Em nghe nói, thời vua Trưng có nhiều trận đánh nhau với Hán. Trận Trường-sa ác liệt nhất, đến nỗi vua Quang-Vũ phải tới Kinh-châu điều động. Truyện đó ra sao?
Tự-Mai gật đầu:
- Đúng thế. Bấy giờ Lĩnh-Nam mới phục hồi. Vua Quang-Vũ sai năm đạo quân sang đánh. Các đạo khác đều giao tranh ở lãnh thổ Hán, Chiêm, Lào. Duy trận hồ Động-đình giao tranh trên đất Lĩnh-Nam. Vua Trưng ban chỉ dụ cho công chúa Phật-Nguyệt, bằng mọi giá phải thắng địch. Quân Lĩnh-Nam có bẩy vạn người. Quân Hán hai mươi lăm vạn. Trận đánh khủng khiếp liên tiếp hai tháng. Cuối cùng Mã Viện, Lưu Long bại. Ta bắt sống năm vạn tù binh, giết mười vạn.
Tôn Đản thích quá, nó hỏi:
- Anh nghe trận này mình mất ba đại tướng quân, thế những vị nào tử trận?
- Ba vị tên Quách Lãng, Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương. Cả ba đều theo học với Đinh Đại. Khi nào tới Trường-sa, chúng ta sẽ viếng thăm nhiều di tích nước Văn-lang như núi Tam-sơn, nơi phát tích hai vị quốc mẫu. Cánh đồng Tương, nơi hẹn hò mỗi năm Lạc Long-Quân với Âu-Cơ tái hội. Ghềnh Tương-giang có mộ liệt nữ Lĩnh-Nam Trần Thiếu-Lan.
Trong khi nói truyện, Tự-Mai khám phá ra trong đám kị binh có mười cao thủ võ lâm, đều thuộc bang Nhật-Hồ Trung-quốc. Còn lại chín mươi người đích thực kị binh. Riêng Ôn Vi biết tiếng Việt.
Tự-Mai nghĩ thầm:
- Hồng-thiết giáo Đại-Việt có Tả, Hữu-sứ hộ giáo, ngũ vị Sứ-giả, cùng mười Trưởng-lão. Song không ai biết Tả, Hữu hộ pháp cùng ngũ Sứ tên tuổi, mặt mũi ra sao. Chắc bang Nhật-hồ Trung-quốc, có Tả, Hữu hộ pháp, ngũ vị Sứ giả cùng mười Trưởng-lão. Lưu thái-hậu hiện bị bang Nhật-hồ khống chế. Có lẽ vì vậy chúng gửi cả mười Trưởng-lão theo sứ đoàn với nhiệm vụ gì đây? Không lẽ chúng dám tấn công sứ đoàn?
Nó chợt nhớ hôm rời Thăng-long, Khai-Quốc vương nhận được tin: Lưu hậu bị bang Nhật-hồ khống chế. Vì vậy mụ thu nhận mười trưởng lão của bang này làm thị vệ canh phòng cung Thái-hậu. Nó tự hỏi:
- Lưu hậu sai mười Trưởng lão bang Nhật-hồ giả làm vệ sĩ, ra cái bộ Trung-quốc lắm nhân tài, hay để ám hại anh cả chăng? Ta phải theo dõi cẩn thận mới được.
Lê Văn cũng đã nhận ra mười cao thủ bang Nhật-hồ, nó dùng Lăng-không truyền ngữ nói với Tự-Mai:
- Này anh Sáu. Mười tên này đều hoá trang, che dấu bộ mặt thực, không chừng chúng là người quen mặt cũng nên. Mình có nên lột mặt nạ chúng không?
- Đừng, để hỏi chị Thanh-Mai đã.
Buổi trưa, Ôn Vi quay ngựa trở lại, nói với Tào Khánh:
- Trình Tư-mã, phía trước kia là Lục-phương-sơn. Qua núi này, đi vào địa phận Ngọc-lâm, sau đó vào Quảng-Đông Nam lộ. Xin Tư-mã cho biết mình nghỉ ở trạm Lục-phương-sơn hay Ngọc-lâm.
Tào Khánh suy nghĩ một lát rồi đáp:
- Chúng ta tới Ngọc-lâm sẽ nghỉ đêm.
- Như vậy xin đại nhân cho ruổi ngựa, mới có thể tới Ngọc-lâm buổi chiều. Bằng không e chúng ta phải đi dưới trăng.
Tào Khánh nói với Khai-Quốc vương:
- Xin vương gia định liệu cho.
Khai-Quốc vương vui vẻ:
- Chúng tôi đều thuộc con nhà võ, việc phi ngựa không có gì khó khăn cả.
Thình lình Tự-Mai uốn cong người, rồi vọt mình lên cao. Nó đã đáp xuống lưng ngựa Thanh-Mai. Từ Tào Khánh cho tới đám kị mã đều biết Tự-Mai là em Khai-Quốc vương phi, nên khi thấy nó đùa với chị như vậy. Họ không ngạc nhiên.
Nhưng Khai-Quốc vương với Thanh-Mai biết có biến cố gì. Vì từ trước đến giờ, mỗi khi Tự-Mai muốn nói riêng với chị, nó đều làm như vậy.
Thanh-Mai vờ mắng em:
- Thằng hư qúa! Già rồi còn như con nít.
Tự-Mai quàng hai tay ôm cổ chị, miệng ghé sát tai, nó kể những gì thấy ở Ôn Vi với bọn mười kị mã, mà nó nghi là Trưởng lão bang Nhật-hồ.
Từ trước đến giờ, Thanh-Mai thường tinh tế hơn em. Đâu ngờ lần này, nàng vô tâm đến độ không nhận ra những điều đó. Đây là lẽ thông thường. Vì nàng mới làm cô dâu, đang ngụp lặn trong tình yêu, thành ra thiếu quan tâm.
Nghe em thuật, Thanh-Mai kinh hoảng, nàng vờ thò tay ra sau túm áo Tự-Mai liệng nó lên không, miệng mắng:
- Cút mau!
Tự-Mai lộn một vòng, rồi đáp xuống lưng ngựa mình. Thanh-Mai dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai chồng những gì Tự-Mai kể. Khai-Quốc vương dùng Lăng-không truyền ngữ nói với Vương-phi:
- Em đừng sợ! Hiện ta đang bị trăm kị mã đi theo, giống ở tù. Chỉ mong bọn chúng trở tay hãm hại. Chúng ta có thể thoát khỏi vòng kiềm chế, thong dong đi Khúc-giang, rồi lên Biện-kinh.
- Phía trước kia, có đôi chim ưng đang bay lượn. Dường như Bảo-Hoà với anh Thông-Mai ở đó thì phải?
- Anh Thông-Mai với Bảo-Hoà luôn ở cạnh chúng ta. Bất cứ bọn ngoại nhân nào đụng chạm đến chúng ta, họ đã tính trước rồi.
- Em đã dặn năm ông mãnh: Tuyệt đối không được dụng võ trong bất cứ trường hợp nào.
Đến đó, có hai kị mã từ phía trước phi ngựa ngược chiều với sứ đoàn. Lạ một điều hai người không ngồi, mà chống hai tay lên lưng ngựa, chân chổng lên trời.
Mọi người đều kinh ngạc. Riêng Lê Văn, nó xuất thân phái Sài-sơn, hậu duệ của Phù-Đổng thiên vương, thuật kị mã xuất qủy nhập thần, nên nó coi thường.
Khi hai ngựa cách đội kị binh hơn trăm trượng. Hai người co tay lại, rồi duỗi ra, thân vọt lên cao. Ở trên cao, họ lộn một vòng, mông đã ngồi ngay ngắn trên mình ngựa.
Hai người thấy quan binh, mà vẫn ngang tàng, không chịu tránh. Viên kị binh đi đầu vẫy tay ra hiệu cho họ tránh sang một bên. Hai kị mã không coi kị binh vào đâu, đâm bổ tới.
Khi hai ngựa sắp tới trước đoàn kị binh, họ gò cương ngựa thực gấp. Hai con ngựa dựng vó trước dậy, hí inh ỏi. Viên kị binh đi đầu mắng:
- Hai người có mù không? Tại sao thấy quan binh không chịu tránh?
Hai kị mã vung roi ngựa lên. Roi ngựa cuốn lấy hai kị binh. Hai kị mã giật mạnh roi một cái. Hai viên kị binh bay bổng lên cao, rồi rơi xuống lưng ngựa, ngay phía trước hai kị mã. Hai kị mã quay ngựa, phi trở về đường cũ.
Hai kị binh khác vọt khỏi mình ngựa, ở trên cao chúng phóng xuống hai chưởng. Trong chưởng phong co mùi hôi tanh khủng khiếp. Thanh-Mai nhận ra đó là hai Trưởng-lão bang Nhật-hồ. Chúng phát Chu-sa ngũ độc chưởng. Hai kị-mã vung tay đẩy ngược chưởng lên đỡ. Binh, binh. Hai kị binh bay bổng lên cao, rơi xuống đất, miệng ri rỉ ứa máu ra.
Tự-Mai nói với chị:
- Hai kị binh này thuộc mười trưởng lão bang Nhật-Hồ Trung-Quốc có khác. Võ công chúng không thua mười Trưởng-lão Lạc-long giáo Đại-Việt làm bao. Thế mà bị trúng hai chưởng của kị-mã, đã lạc bại quá dễ dàng. Em thấy dường như chúng giả đấu võ với nhau vậy.
Thanh-Mai gật đầu:
- Hai kị mã gốc tích ra sao, mà bản lĩnh cao thâm đến chỗ khó lường. Có lẽ võ công chúng hơn các trưởng lão Lạc-long giáo, chỉ thua Đại-Việt ngũ long một chút mà thôi.
Ôn Vi hỏi hai kị binh bị lạc bại:
- Lão thất, lão bát. Sao vậy?
Hai kị binh đã ngồi dậy, leo lên mình ngựa, trả lời:
- Không sao cả. Đệ chưa vận đủ mười thành công lực.
Lão thất, lão bát, phát chưởng tấn công hai kị mã.
Hai kị mã vọt ngựa tới, tay vung lên, chụp lão thất, bát, rồi phi ngựa chạy như bay.
Khai-Quốc vương dùng Lăng-không truyền ngữ nói với Vương phi và năm sư đệ:
- Phải cẩn thận. Trong đoàn hộ tống có sự hiện diện đủ mười trưởng lão bang Nhật-hồ Trung-quốc. Vừa rồi chúng giả vờ thua hai kị mã, để rồi bị bắt. Có thể hai kị mã cũng là người của Lưu hậu, chúng diễn trò với mưu định gì chưa rõ. Cũng có thể mười Trưởng-lão vờ thua để qua mắt Tào-Khánh với Lưu hậu.
Diễn biến xẩy ra đột ngột. Ôn Vi la lớn lên:
- Mau duổi theo.
Đoàn kị binh phi ngựa như gió, đuổi theo hai kị mã. Tào Khánh nói với Khai-Quốc vương:
- Tên đội-trưởng này bậy qúa. Chúng lo cứu đồng bọn, bỏ ta ở đây. Thôi ta mau tới núi Lục-phương-sơn chờ chúng.
Núi Lục-phương sơn tuy trông thấy, nhưng cũng phải gần một giờ sức ngựa mới tới nơi. Tào Khánh gò ngựa lại. Y chỉ vào thung lũng có thác chảy trắng xoá đổ vào cái hồ nước trong veo.
- Cảnh trí mùa thu đẹp thế này, mà chúng ta phải lao tâm khổ tứ trong vòng danh lợi, không có thời giờ thưởng lãm.
Khai-Quốc vương nhận thấy lời Tào Khánh đượm vẻ bi quan. Vương nghĩ thầm:
- Tên này được cử đi tháp tùng sứ thần, mà còn thốt ra lời chán nản, ắt y có tâm sự gì đây?
Vương hỏi:
- Tào đại nhân sao lại cảm thán như vậy?
Tào Khánh thở dài:
- Tiểu nhân là văn quan, mà phải lĩnh chức võ, thành ra các tướng sĩ bất phục. Mấy hôm nay tiểu nhân nhận được tấu chương từ Quảng-Tây lộ gửi về triều rằng quan của Khê-động Việt tràn sang chiếm lại những khê động theo Tống. Tiểu nhân vội cho phi ngựa về triều khẩn báo, thế mà nay đã hơn tháng, không nhận được chỉ dụ gì.
Khai-Quốc vương nói lảng:
- Những khê động đó vốn thuộc Đại-Việt. Nay họ trở về với Đại-Việt đâu có gì lạ.
- Thưa vương gia, sự việc đâu có giản dị như vương gia nghĩ. Trong triều các quan thường bất đồng ý kiến nhau về Nam-biên. Cho nên tấu chương gửi về, có khi hàng năm không có chỉ dụ. Vì vậy quan binh Nam-thùy chỉ biết ngồi chờ. Ngồi chờ cũng chẳng sao, nhưng quân Khê-động Nam-thùy vẫn cứ tiến, thế mới khổ.
Mặc cho Tào tâm sự với chồng. Thanh-Mai chỉ lên vách núi nói với Tự-Mai:
- Em nhìn xem, vách núi sừng sững thế kia, mà phía trên, hoa nở đẹp biết bao. Giá mình lên đó ngồi ngắm hoa mới thực tuyệt.
Tự-Mai nháy Lê Văn:
- Ê! Chú mày! Chúng ta lên chỏm núi chơi đi.
Lê Văn hỏi các bạn:
- Ai có gan leo lên đỉnh núi chơi không?
- Lên thì lên chứ sợ gì.
Tào Khánh ngăn cản:
- Vách núi dựng đứng như bức tường, sao leo lên được. Các vị công tử không nên đùa, nguy hiểm lắm.
Lê Văn là đứa tinh nghịch bậc nhất. Nó tung mình xuống ngựa, bám vách núi leo lên. Tiếp theo Tự-Mai, Tôn Đản. Thoáng một cái, năm đứa đã lên tới chóp núi. Lê-Văn nói vọng xuống:
- Chị Mai! Trên này có chỗ bằng phẳng, hoa nở đẹp lắm. Chị lên đây chơi với em đi.
Tuy đã là vương phi, cao quý tuyệt đỉnh, nhưng dù sao Thanh-Mai cũng xuất thân con nhà võ. Chân tay ngứa ngáy chịu không được. Nàng hỏi Khai-Quốc vương:
- Mình lên đó chơi đi.
Khai-Quốc vương gật đầu. Cả hai vọt người khỏi mình ngựa, rồi leo lên. Qua vách núi thẳng đứng, quả như lời Lê Văn nói, đỉnh núi là một khu bằng phẳng, cỏ úa, lá vàng một mầu thực đẹp. Trên thảm cỏ, có rất nhiều hoa lạ, mầu sắc sặc sỡ.
Khai-Quốc vương cúi xuống hái mấy bông hoa, cài lên tóc Vương-phi. Hoa mầu tím, mầu trắng, mầu vàng ánh vào đôi má trắng hồng của Thanh-Mai. Nàng đẹp hơn bao giờ cả.
Không thấy năm cậu em, Vương dìu Vương-phi dạo trên thảm cỏ vàng óng ánh đầy hoa đủ mầu.
Bên kia khu đất bằng thuộc sườn núi thoai thoải, đổ xuống thung lũng. Thung lũng có con suối chảy ngoằn ngèo như con rắn. Rừng núi toàn một mầu hồng-sẫm, vàng úa. Bất giác vương ôm sát vợ vào người.
Tuy làm chồng Thanh-Mai mấy tháng qua, thế mà Vương vẫn cảm thấy say say trước sắc đẹp Vựơng-phi trên thảm cỏ úa đầy hoa. Không cầm lòng được, Vương ôm lấy Thanh-Mai, bế bổng nàng lên, đặt một cái hôn vào lên môi nàng, rồi để nàng trên phiến đá. Dưới ánh nắng nhạt mầu mùa thu, ống quần lụa đen chiếu óng ánh. Vương ngồi dưới đất, hai tay cởi dầy cho Thanh-Mai. Thanh-Mai hiểu tính chồng hơn ai hết: Anh hùng, hào sảng, đa tình. Nàng im lặng thưởng thức cái ôn nhu lãng mạn của đấng tài hoa. Vương nhè nhẹ bóp chân cho nàng.
Vương cười:
- Thanh-Mai nhớ hai cặp tình nhân Trần Tự-Sơn, Hoàng Thiều-Hoa và Đô Dương, Nguyễn Giao-Chi không?
Thanh-Mai vốt tóc chồng:
- Nhớ chứ. Cả hai nam tử Đại-Việt đó đều đa tình, đa tài. Còn hai kiều nữ, đều ôn nhu, thuần hậu.
- Đành rằng thế. Có điều Trần, Đô có hai cái nhìn khác nhau về tình yêu. Em hiểu cái khác nhau đó không?
- Trần cho rằng khi nợ nước xong, cùng người yêu ngao du sơn thủy. Còn Đô thì ngược lại. Đô cho rằng khi yêu nhau, yêu bất cứ lúc nào, bất cứ tại đâu. Trước khi xung trận, trong vòng lửa dậy, sau trận chiến đều yêu nhau được cả.
- Đúng vậy. Anh em mình cũng giống Đô. Trên đường lo quốc sự. Ta vẫn yêu nhau được như thường.
Thình lình Vương cầm bàn chân nàng đưa vào miệng cắn một cái nhẹ nhẹ. Thanh-Mai nhắm mắt tận hưởng hương vị tình yêu. Nàng biết trong bốn anh em Vương. Chỉ Vương hiểu, thưởng thức được cái nồng thắm của ái tình.
Thanh-Mai không thấy mấy ông mãnh đâu, nàng lên tiếng:
- Năm thằng giặc đâu rồi?
Không có tiếng trả lời. Nàng đưa mắt nhìn chồng như hỏi ý kiến.
Vương cười:
- Kệ chúng! Với trí thông minh, với võ công của năm đứa, anh e trên thế gian này không ai làm hại được chúng đâu.
Thấy cặp chim ưng lượn trên đầu, vương huýt sáo gọi chúng xuống, gỡ thư dưới chân chúng ra đọc.
Thanh-Mai hỏi:
- Có tin tức gì không?
- Có, của Mỹ-Linh. Hai vị bang trưởng Đông-hải, Đường-lang cùng Thiếu-Mai, Mỹ-Linh đã thành công trong vụ thuyết Triệu Thành cướp ngôi vua Tống.
Thình lình có hai người từ dưới núi leo lên. Thấp thoáng một cái, chúng đứng trước mặt vương cười ngạo nghễ, thái độ tỏ ra bất hảo. Chúng chính là hai kị mã bắt sống hai kị binh.
Vương đưa mắt cho Thanh-Mai, ngụ ý im lặng. Hai kị mã tiến tới trước vương, chắp tay hành lễ:
- Anh em chúng tôi, Trường-giang song hùng, xin tham kiến Khai-Quốc vương và Vương-phi. Anh em tại hạ ở xa, nghe tiếng Vương-gia anh hùng cõi Nam. Hôm nay mới được tham kiến. Giang hồ còn nói, Vương-gia nhất định không tuyển cung nga, mỹ nữ, đợi khi nào tìm được đệ nhất giai nhân mới thu nạp. Dường như hôm rồi có tin vương gia tuyển Vương-phi. Vương-phi không những xinh đẹp, mà còn là một võ lâm cao thủ.
Thanh-Mai đáp lễ, nàng mỉm cười:
- Thì ra hai vị Phương Hổ và Phương Báo đấy. Thế mà võ lâm đồn đại rằng hai vị qua đời rồi. Gia nghiêm thường nhắc đến hai vị luôn.
Nàng quay lại nói với chồng:
- Anh à! Để em giới thiệu hai vị Trường-giang sung hùng với anh. Hai vị nguyên là anh em song sinh. Khởi thủy theo học với vị chưởng môn phái Côn-lôn. Đến năm hai mươi tuổi, nhân phái Côn-lôn cùng bang Nhật-hồ khai chiến. Hai vị đây giúp kẻ thù giết sư phụ, vì vậy được bang chủ Đỗ Ngạn-Tiêu thu làm đệ tử. Dưới hai vị còn năm người nữa, kết thành bang Trường-giang.
Khai-Quốc vương đã nghe nói về Trường-giang song hùng. Vương thản nhiên như không coi chúng vào đâu:
- Phải chăng hai vị đây là sư huynh của Đỗ Lệ-Thanh?
Đỗ Ngạn-Tiêu có mười đệ tử. Con rể tên Hồ Dương-Bá đứng hàng thứ chín. Con gái tên Đỗ Lệ-Thanh đứng hàng thứ mười. Đặng Đại-Bằng đứng hàng thứ nhất. Còn Phương Hổ, Phương Báo đứng hàng thứ thứ ba, thứ tư. Hồi Tống Thái-Tông bao vây, tiêu diệt bang Nhật-Hồ. Các đệ tử đều sa lưới hết. Duy Đại-Bằng được sư phụ sai đi có việc ở xa, nên thoát nạn. Sau y tụ tập bang chúng tái lập bang Nhật-hồ. Hồ Dương-Bá, Đỗ Lệ-Thanh bị bắt, tình nguyện sang Đại-Việt làm gian tế, xin triều Tống ân xá cho bố mẹ, anh em. Trong trận này, anh em họ Phương tử chiến, rồi mất tích. Vì vậy giang hồ đồn rằng chúng qua đời.
Phương Báo hỏi Thanh-Mai:
- Không biết lệnh tôn của vương phi cao danh quý tính là gì?
Thanh-Mai không trả lời vào câu hỏi:
- Hai vị đã gặp gia nghiêm trên núi Không-động rồi mà.
Thanh-Mai nghe phụ thân kể rằng, cách đây hơn mười lăm năm...
Nhân sang Trung-nguyên du hành, đại hiệp Trần Tự-An ghé thăm Ngu Sơn đại hiệp, chưởng môn phái Không-động. Giữa lúc đó xẩy ra việc Phương Hổ, Phương Báo đến ăn cắp vũ kinh của phái này. Hai anh em họ Phương đã cướp được bộ quyền phổ, đánh ngã ba trong Không-động ngũ kiệt. Chúng định bao vây giết chết Ngu Sơn, thì Trần Tự-An can thiệp. Ông đánh bại Phương Hổ, đoạt lại quyền phổ cho Ngu Sơn.
Tuy vậy, việc chúng đánh bại Không-động tam kiệt đồn ra giang hồ. Ai nghe đến tên chúng, cũng kinh tâm động phách. Chúng lập ra một bang, làm ăn trên sông Trường-giang từ Thục đến bờ biển, dài hàng nghìn dặm, thế lực rất lớn. Bất cứ hai phe chính tà, nghe đến tên chúng đều phải lui bước. Họ đặt cho chúng danh hiệu Trường-giang thất quỷ.
Nghe truyện cũ, Phương-Hổ tím mặt lại. Y nghiến răng kèn kẹt:
- Thì ra con gái tên Trần Tự-An đấy! Bấy lâu nay, chúng ta định sang Giao-chỉ tiêu diệt phái Đông-a, giết cho đến con gà, con chó cũng không tha. Hà... hà... thực thiên đường có nẻo mi không tới. Địa ngục không đường dẫn xác vào. Đáng lẽ hôm nay lão gia giết mi trước, nhưng mi xinh đẹp thế này, lão gia bắt mi về làm cây thuốc trước đã, rồi sẽ tính tội phái Đông-a sau.
Nghe Phương Hổ buông lời vô lễ. Thanh-Mai vọt người dậy, phóng vào người y chiêu Đông-hải lưu phong. Phương-Hổ thấy chưởng phong quái ác, y lùi một bước, rồi phản công. Bình một tiếng. Phương Hổ bật lui về sau. Y cảm thấy chưởng lực của đối thủ hung ác lạ thường, cánh tay y đau nhức không chịu được. Bất giác y lùi lại một bước. Trong khi đó Thanh-Mai cảm thấy gần như toàn thân tê liệt, khí huyết đảo lộn, tai nàng phát ra những tiếng vo vo không ngừng.
Thanh-Mai nghĩ thầm:
- Hai đại ma đầu này trước đây đấu ngang tay với phụ thân mình, hèn chi công lực y mạnh đến dường này. Nguyên bản lĩnh y đã không thua phụ thân làm bao. Thêm vào đó, bấy lâu nay y cố công luyện võ để trả thù. Có lẽ võ công y cao ngang với Đại-Việt ngũ long.
Nàng cười nhạt:
- Đa tạ tiền bối nhẹ tay.
Nghe Thanh-Mai nói, Khai-Quốc vương nghĩ thầm:
- Hồi ở Đại-Việt, mình nghe nói Phương Hổ, Phương Báo là anh em song sinh, xuất thân ở bang Nhật-Hồ, võ công chúng cao thâm không biết đâu mà kể. Chúng hành sự xuất nhập thất thường. Bàn tay chúng giết người không gớm tay. Không biết chúng lên đây với mục đích gì?
Sau khi lĩnh một chưởng của Thanh-Mai, hai gã họ Phương tỏ ra khách khí hơn. Phương Hổ chắp tay lễ phép:
Anh em tại hạ bạo gan mời Vương-gia cùng Vương-phi tới Khúc-giang, để cùng tìm kho tàng Tần-Hán. Sau khi thấy kho tàng, anh em tại hạ xin hộ tống Vương-gia cùng Vương-phi tới Biện-kinh.


<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 02:38:44 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 19.01.2005 18:31:38 (permalink)
    Hồi thứ chín mươi hai

    Điểm huyệt mật pháp



    Khai-Quốc vương nghĩ thầm:
    - Hai tên này thống lĩnh một bang trộm cướp lớn, lại kinh lịch nhiều, mà dám công khai tấn công đoàn hộ tống của triều Tống, hẳn đã nghiên cứu kỹ về mình với Thanh muội. Chúng biết ta mà còn dám làm ngang, chắc chắn chúng không đi có hai, mà còn nhiều tên khác mai phục xung quanh, chưa xuất hiện. Không biết toán kị binh hộ tống hiện ra sao? Cơ chừng trúng phục binh bị giết hết rồi cũng nên. Khi ra đi, mình đã quyết định không dùng võ công trên đất Tống. Nếu có gì sơ xẩy, triều Tống trách nhiệm. Mình cần chế chỉ tâm thần, xem truyện đi đến đâu?
    Vương ung dung, hỏi lại:
    - Tại hạ e giang hồ đồn kho tàng Tần-Hán chỉ hữu danh, vô thực. Thế mà hai vị Trường-giang song hùng cũng tin ư?
    Thấy anh em mình uy hiếp, Khai-Quốc vương tỏ ra phong lưu, tiêu sái, không sợ hãi. Trường-giang song quỷ bắt đầu kính phục. Chúng nghĩ thầm:
    - Mình nghe tên Lý Long-Bồ là nhân vật xuất chúng. Hôm đại hội Thăng-long, được tám vùng tộc Việt tôn lên làm trừ quân. Quả thực không hổ với tiếng đồn. Nhưng có điều sao y chấp nhận để bị cầm tù dễ dàng quá?
    Phương Báo nói:
    - Vương gia không tin ư? Thế mà hiện anh hùng thiên hạ đều tập trung về Khúc-giang tranh kho tàng này. Nào Bình-Nam vương Triệu Nguyên-Nghiễm cùng các đại cao thủ của Khu-mật viện. Nào bang Nhật-hồ Trung-quốc. Nào cao thủ Đại-lý, Cao-ly, Tây-hạ. Cho đến Lạc-long giáo cũng gửi đến hai trưởng lão cùng biết bao giáo chúng về. Không biết giáo chủ có tới hay không. Tin đồn Vương-gia đi sứ phen này không ngoài mục đích đó. Ai cũng nói, duy Vương-gia đã hợp hai người cháu. Một làm giáo chủ Lạc-long giáo Thân Thiệu-Thái, có tất cả bản đồ sông núi vùng Khúc-giang. Hai làm chưởng môn phái Mê-linh, công chúa Bình-Dương, có tất cả mật ngữ, bản đồ nơi chôn cất. Cho nên giang hồ khẳng định, ngoài Vương-gia, không ai biết nơi chôn cất kho tàng đó cả.
    Y im lặng quan sát thái độ của vương, rồi tiếp:
    - Vì vậy, anh em tại hạ bạo gan đón Vương-gia cùng Vương-phi đi tìm kho tàng.
    Thanh-Mai lắc đầu:
    - Trường-giang song hùng sao hồ đồ lắm vậy. Nếu thực sự có kho tàng, ắt Lưu hậu hay Bình-Nam vương nhà Tống đã đem đại binh tới Khúc-giang, lật từng viên ngói, đào từng gốc cây tìm kiếm rồi, đâu đến chúng ta. Trên đời, những gì đồn đại, trăm điều sai đến chín chục. Nếu như Đại-Việt có bản đồ, hẳn chúng tôi kéo đi đông đảo, có đâu chỉ hai người với năm đứa trẻ?
    Phương Hổ cười ha hả, tiếng cười của y vang khắp sơn lâm:
    - Khai-Quốc vương vốn tài trí nhất gầm trời. Vì vậy đi tìm kho tàng, bề ngoài chỉ có hai. Ai biết đâu, trong bóng tối, không mang hàng vạn cao thủ. Bất kể Vương-gia có đi tìm kho tàng hay không, anh em tại hạ cũng mời Vương-gia, Vương-phi cùng đi.
    Khai-Quốc vương nghĩ rất nhanh:
    - Hai tên ma đầu này, võ công cực cao. Mình với Thanh muội chống trả cũng vô ích. Lỡ trong khi đấu với nhau, năm sư đệ nhảy vào, có thể mất mạng. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái quả có bản đồ. Chúng đang trên đường đi Khúc-giang. Nếu mình đem lực lượng Đại-Việt, tranh đấu với anh hùng thiên hạ, tổn thất không ít. Mà dù có thắng, liệu Tống triều có để yên cho mình mang về Đại-Việt không? Âu là mình đi với chúng, xem chúng tìm kho tàng ra sao. Đợi cho các đoàn tìm kiếm chém giết nhau, kẻ bại chết, người sống bị thương, bấy giờ mình xuất hiện, ắt thắng lợi vào tay. Mình tạm lệnh cho Bảo-Hoà, Thông-Mai cùng bọn Tôn Đản âm thầm theo bọn này. Nếu như quả có kho tàng, thừa cơ đoạt lại. Còn không có kho tàng, cũng chẳng sao.
    Nghĩ vậy Vương nói:
    - Khúc-giang vốn đất của tộc Việt. Tại hạ cũng muốn đi thăm một chuyến. Đa tạ hai vị.
    Vương nói với Thanh-Mai:
    - Thanh muội. Chúng ta đi Khúc-giang. Thanh muội gọi năm đứa trẻ về đi.
    Thanh-Mai hiểu ý chồng. Nàng đứng dậy hú một tiếng dài. Tiếng hú ngân vang khắp thung lũng.
    Trường-giang song quỷ kinh hãi nghĩ:
    - Con nhỏ này, tuổi bất quá mười chín, hai mươi, mà công lực đã đến dường này. Hèn chi trước đây mình bại về tay Trần Tự-An cũng phải.
    Tiếng hú vừa dứt, lập tức có tiếng tù và đáp lại. Thoáng một cái, năm đứa trẻ xuất hiện. Chúng thấy Trường-giang song quỷ, không những không ngạc nhiên, mà còn nhìn nhau rồi cười khúc khích. Tôn Đản hỏi Thanh-Mai:
    - Chị ba, hai ông này ban nãy đánh nhau với thị vệ phải không? Hai lão tới đây làm gì vậy? Xin tiền tiêu chăng?
    Thanh-Mai đáp:
    - Hai vị đây có cao danh Trường-giang song hùng. Hai vị mời chúng ta đi Khúc-giang chơi một chuyến.
    Hà Thiện-Lãm thích quá, nó chạy lại nắm tay Phương Hổ gật mạnh:
    - Phương tiền bối tử tế thực. Bây giờ chúng ta xuống núi, rồi đi luôn hay sao?
    Phương Hổ gật đầu:
    - Đúng như vậy.
    Khai-Quốc vương, Thanh-Mai đổ đồi trước. Năm đứa trẻ và Trường-giang song hùng theo sau. Xuống dưới chân núi, Thanh-Mai thấy Tào Khánh bị trói, đặt ngồi trên mình ngựa. Cạnh đó có một đôi trai gái bị trói dính vào nhau theo tư thức lưng đối lưng, mắt bị vải buộc che mất.
    Thanh-Mai cho rằng đôi trai gái, cũng như Tào-Minh bị Phương Hổ bắt trói. Nàng thản nhiên như không.
    Phương Hổ thấy cặp trai gái bị trói, y kinh hoàng, nhảy nhót mấy cái, tay rút kiếm đưa một nhát, dây trói đứt. Đôi trai gái được tự do. Phương Hổ hỏi:
    - Lục đệ, thất muội, cái gì đã xẩy ra?
    Người đàn bà đáp:
    - Không biết từ đâu, xuất hiện năm tên ôn con. Chúng tấn công, rồi bắt trói...
    Mụ chưa nói hết câu, thấy bọn Tự-Mai đang đứng đấy cười. Mụ chỉ mặt Tôn Đản:
    - Mấy thằng nhãi con. Ta phải lột da mi mới được.
    Mụ vung tay chụp Tôn Đản. Nó trầm người tránh khỏi, rồi núp sau Thanh-Mai:
    - Chị ba, cứu em với.
    Phương Hổ hỏi người đàn bà:
    - Thất muội! Cái gì vậy?
    - Năm thằng ôn vật này đã bắt trói muội.
    Phương Hổ chỉ mụ đàn bà giới thiệu:
    - Thưa vương gia, bản bang được lãnh đạo bởi bẩy người. Tại hạ đứng đầu, vị này có tên Xuyên Dung, đứng hàng thứ bẩy của bản bang.
    Y chỉ người đàn ông trang phục như Nho sinh:
    - Vị này đứng hàng thứ sáu trong bản bang, họ Phi tên Lịch.
    Sau đó y giới thiệu từ Khai-Quốc vương cho tới Lê Văn. Rồi hỏi Xuyên Dung:
    - Cái gì đã xẩy ra? Chúng ta là người nhà cả.
    Xuyên Dung chỉ Lê Văn:
    -- Tên ôn con này bắn vào người muội với lục huynh hai viên thuốc khiến chân tay không cử động được, rồi chúng trói lại, bỏ lên ngựa.
    Phương Hổ xua tay:
    - Các vị đây là sư đệ của Khai-Quốc vương, tính tình hiếu động, hay đùa nghịch. Thất muội chấp làm gì? Ta cho thất muội biết, Vương-gia, Vương-phi cùng ngũ vị công tử sẵn sàng đi với chúng ta tìm kiếm kho tàng Tần-Hán. Chỉ nguyên truyện này, dù các tiểu công tử có đùa cợt đến đâu, thất muội cũng nên bỏ qua.
    Y nói với Khai-Quốc vương:
    - Mời Vương-gia, cùng Vương-phi lên ngựa cho.
    Mọi người lên ngựa.
    Phương Hổ hô lớn:
    - Đi!
    Ngựa phi như gió. Phương Báo phi trước, Phương Hổ phi sau cùng. Ý chừng chúng sợ có ai chạy trốn chăng.
    Ngựa Tôn Đản, Lê Thuận-Tông phi song song phía trước. Ngựa Thiện-Lãm, Tự-Mai phi thành cặp phía sau. Lê Văn phi sau cùng. Đang phi ngựa, Lê Văn hô lớn:
    - Lên!
    Tự-Mai vọt người lên cao. Hai chân nó đáp lên vai Tôn Đản. Trong khi Thiện-Lãm đáp lên vai Lê Thuận-Tông. Tài tình ở chỗ, ngựa vẫn phi như bay, mà hai đứa trẻ đứng rất vững. Ngựa Đản, Tông vẫn phi song song sát nhau.
    Lê Văn hô lớn:
    - Phát chiêu!
    Thiện-Lãm, Tự-Mai cùng rút kiếm chiết chiêu với nhau.
    Thanh-Mai đưa mắt cho Khai-Quốc vương, nàng mỉm cười:
    - Anh coi, chỉ mấy ngày, mà năm đứa trẻ này dạy nhau đủ thứ. Lê Văn là con trai duy nhất của sư phụ em, nó dạy mấy đứa kia thuật kị mã của phái Sài-sơn. Sau chuyến đi này, có lẽ bản lĩnh chúng nó giống nhau.
    Thình lình Tự-Mai, Thiện-Lãm quát lên một tiếng. Cả hai cùng vọt người lên cao. Rồi Tự-Mai đáp xuống vai Thuận-Tông. Thiện-Lãm đáp xuống vai Tôn Đản. Cả năm đứa trẻ cười ha hả, tỏ vẻ khoái chí.
    Đám Phương Hổ nhìn bọn Tôn Đản dùng võ công, đùa vui với nhau. Nhưng trong cái đùa, ẩn tàng võ công kinh thế hãi tục. Y nghĩ thầm:
    - Năm thiếu niên này, chưa ai tới mười tám, mà võ công đã đến dường này. Một mai, vào tuổi ba mươi, mình e thiên hạ không ai bằng chúng.
    Đi một lát, gặp toán kị mã ba người, cùng hơn mười tùy tòng đứng chờ ven đường. Phương Báo ra hiệu cho mọi người dừng lại. Y chỉ vào ba người giới thiệu:
    - Đây là Động-đình tam ưng tức tam đệ, tứ đệ và ngũ đệ trong bản bang. Họ có chút danh trên chốn giang hồ.
    Tự-Mai nghe giới thiệu, nó đưa mắt nhìn ba người:
    - Thực hân hạnh! Ở Đại-Việt, tiểu đệ nghe danh nhất ưng Chu Y khinh công như rồng bay, gió thổi. Nhị ưng Trần Tiệp nội công cao thâm khôn lường. Tam ưng Vũ Canh kiếm thuật thần thông. Thì ra các vị đều ở trong bang Trường-giang cả đấy.
    Chu Y nghe Tự-Mai nói, y vui mừng ra mặt:
    - Kiến văn của tiểu huynh đệ rộng thực. Cả đến bọn vô danh như anh em tại hạ, mà huynh đệ cũng biết đến.
    Phương Hổ hỏi:
    - Bọn kị binh ra sao rồi.
    - Bắt gọn, giam vào một nơi. Đợi Vương-gia cùng chúng ta đào kho tàng rồi mới thả ra.
    Phương Hổ chỉ Tào Khánh:
    - Giam cả tên cẩu quan này lại.
    Hai kị mã tới dắt ngựa Tào Khánh đi về phía hang núi.
    Phương Hổ tính đốt ngón tay:
    - Chúng ta có bẩy huynh đệ, bên Khai-Quốc vương cũng có bẩy người. Cộng chung mười bốn. Nào, chúng ta lên đường.
    Đến chiều, tới trấn Ngọc-lâm. Phương Hổ ra hiệu cho mọi người xuống dắt ngựa đi vào trấn. Y chỉ lên tửu lầu lớn mang tên Lạc-viên lâu nói:
    - Mời Vương-gia cùng quý vị vào tửu lâu uống rượu. Sau đó chúng ta tiếp tục lên đường.
    Phương Hổ đi trước, ngang với Khai-Quốc vương. Xuyên Dung kèm Thanh-Mai. Năm người trong Trường-giang thất hùng kèm năm đứa trẻ, vào tửu lầu.
    Chợt từ trong tửu lầu có hai nhà sư trẻ, tay cầm bình bát khất thực đi ra. Hai nhà sư như không thấy cả bọn đi vào. Một người đụng phải ngựa Phương Hổ làm cái túi hành lý trên lưng y rơi xuống đất. Nhà sư vội chắp tay xá tạ lỗi, rồi cúi xuống nhặt cái túi treo lại trên lưng ngựa trả Phương Hổ:
    - A-Di Đà-Phật. Bần tăng thực vô tâm, vô ý. Mong thí chủ từ bi hỷ xả, bỏ quá đi cho.
    Nhà sư xá thêm một xá nữa, rồi cúi đầu bỏ đi.
    Ngay từ lúc hai nhà sư xuất hiện, Tôn Đản, Tự-Mai đã nhận ra y là Trần Thông-Mai với Bảo-Hoà. Tuy cả hai hoá trang đi, nhưng người Bảo-Hoà tiết ra hương thơm ngào ngạt, làm chúng nhận được ngay.
    Tự-Mai dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai Thanh-Mai:
    - Chị Thanh, anh Thông với Bảo-Hoà hí lộng quỉ thần gì đây?
    - Mình cứ chờ xem.
    Phương Hổ thúc mọi người ăn thực mau, rồi lên đường.
    Khoảng nửa đêm, đoàn người tới trấn Thương-ngô trên bờ sông Tây-giang. Có hai người đứng chờ ven đường. Chúng kính cẩn hành lễ với Phương Hổ:
    - Trình bang chủ! Thuyền đã chuẩn bị sẵn, mời bang chủ cùng quý khách xuống.
    Bên bờ Tây-giang, một con thuyền cực lớn đậu sẵn. Phương Hổ chỉ con thuyền nói với Khai-Quốc vương:
    - Mời vương gia cùng các vị xuống thuyền. Đêm nay bản bang xin được thiết đãi Vương gia thổ sản vùng Quảng-Đông. Chúng ta dùng thuyền đi Phật-sơn. Từ Phật-sơn sẽ lên bộ đi Khúc-giang.
    Khai-Quốc vương để Thanh-Mai xuống trước. Vương theo sau với năm đứa trẻ. Người cuối cùng xuống, lập tức thuyền nhổ neo, buồm dương lên. Thuyền trôi nhanh như tên bắn. Phương Hổ mời mọi người vào trong khoang thuyền lớn. Ở đó đã bầy một tiệc rượu.
    Phương Hổ mời Khai-Quốc vương ngồi vào ngôi chủ vị. Còn y ngồi thứ nhì, tiếp vương. Kế đó Xuyên Dung ngồi tiếp Thanh-Mai. Năm đứa trẻ ngồi cùng với đám thủ lĩnh bang Trường-giang.
    Rượu được vài tuần, Phương Hổ hướng vào Thanh-Mai:
    - Tại hạ nghe Vương-phi thuộc danh gia đệ tử, kính nhờ Vương-phi dịch dùm tập sách nhỏ bằng chữ Khoa-đẩu. Trước đây, tại hạ đã nhờ người ta dịch cho, nhưng e không đúng. Vì vậy, xin Vương-phi dịch lại, để có thể so sánh. Theo bản dịch trước, tập sách này là bộ Lĩnh-Nam vũ kinh. Cuối tập sách có nói đến kho tàng Tần-Hán.
    Nghe Phương Hổ nói, Thanh-Mai nghĩ thầm:
    - Tên này đáo để gớm. Y nhờ mình dịch, mà còn sợ mình dịch sai, nên đưa ra lời đe doạ, ra cái điều đã có bản dịch rồi.
    Nàng mỉm cười:
    - Đa tạ bang chủ tín nhiệm.
    Phương Hổ thò tay vào trong bọc, lấy ra cái túi. Y trịnh trọng mở túi. Mọi người cùng nhìn theo tay y. Y moi trong túi ra tập sách, trao cho Thanh-Mai. Thanh-Mai cầm lên xem: Trên bìa có hàng chữ Lĩnh-Nam vũ kinh. Nàng mở trang thứ nhất, trong không có chữ. Nàng mở trang thứ nhì, cũng đều giấy trắng. Trang thứ năm, vẽ hình hai con quỷ sứ nhe nanh, trông rất giống Phương Hổ, Phương Báo. Nàng mở trang thứ sáu, vẽ hình một phụ nữ mặc y phục cung phi, trên đầu có sừng. Tiếp theo hình của năm lãnh tụ bang Trường-giang.
    Thanh-Mai ngơ ngác:
    - Phương bang chủ, sách chỉ có hình, đâu cần dịch?
    Phương Hổ hoảng hốt, y quên cả lễ độ, giật tập sách trên tay Thanh-Mai mở ra xem. Bên trong không có hình gì khác cả. Y kinh hãi đến đờ người ra. Vì mới hồi sáng, y còn mở túi ra kiểm soát lại, bộ Lĩnh-Nam vũ kinh vẫn còn nguyên. Vậy ai đã lấy cắp, đổi vào bằng tập sách này?
    Y ôn lại: Y cùng em leo núi, gặp Khai-Quốc vương, rồi xuống núi, lên ngựa ra đi. Thủy chung cái túi vẫn đeo bên hông. Cho đến khi vào tửu lầu...
    Chợt y vỗ đùi đến đét một cái. Y đã nhớ ra. Lúc qua trấn Ngọc-lâm, y treo cái túi trước yên ngựa, cùng mọi người vào quán ăn. Một vị sư đi ngược chiều chạm vào ngựa y. Nhà sư chắp tay xin lỗi, rồi đi tiếp. Chắc chắn nhà sư đã nhanh tay lấy trộm tập sách của y, thay bằng tập sách giả này để trêu chọc.
    Nguyên Phương Hổ cùng bang Trường-giang bỏ ra không biết bao nhiêu tiền bạc, công lao, sai người theo dõi bọn Triệu Thành. Khi bọn Tung-sơn tam kiệt cho Quách Quỳ chép bộ Lĩnh-Nam vũ kinh cùng với bộ Dụng-binh yếu chỉ trong hầm đá rồi. Y sai người sao làm ba bản. Y giữ một bản. Cho hai sứ giả đi hai ngả khác nhau mang về triều.
    Bản của y bị phái Thiên-tượng Đại-lý đoạt mất, rồi bị phái Đông-a trộm trên thuyền, trao cho Khu-mật viện. Một sứ giả khác, bị Khu-mật viện Đại-Việt cho người đánh tráo mang về. Khai-Quốc vương trình bản này cho anh hùng xem, trong kỳ đại hội Thăng-long. Sứ giả duy nhất thoát lưới, đến sông Trường-giang, bị bang Trường-giang giết chết đoạt sách.
    Mấy tháng qua, Phương Hổ mất không biết bao công phu theo đõi, tìm được một người biết chữ Khoa-đẩu địch cho y. Nhưng trong bộ Lĩnh-Nam vũ kinh chép bằng thuật ngữ đặc biệt. Y không hiểu nổi. Y đang tuyệt vọng, hay đâu được tin Khai-Quốc vương đi sứ. Y cùng anh em bàn nhau, bắt sống Vương, để Vương-phi dịch, dẫn giải cùng tra khảo vương về thuật ngữ trong sách, hầu tìm kho tàng. Bây giờ tập sách bị người ta đoạt mất. Y điên lên được.
    Y nhìn những hình vẽ, bỗng mồ hôi y toát ra như tắm: Trong sách vẽ hình bẩy anh em y. Lại vẽ hình Lưu thái-hậu nữa.

    Nguyên y là người của bang Nhật-Hồ Trung-Quốc lớn vai hơn Hồ Dương-Bá (Nguyên-Hạnh) với Đỗ Lệ-Thanh. Khi bang Nhật-Hồ bị diệt. Hồ Dương-Bá với Đỗ Lệ-Thanh được Khu-mật viện Tống bố trí sang Đại-Việt trường kỳ mai phục. Còn y được xử dụng trực tiếp, để dò la tung tích dư đảng Nhất-Hồ. Từ khi Lưu hậu lên cầm quyền, y điều khiển nhóm tế tác làm việc thẳng với bà. Việc này, đến sáu sư đệ, sư muội của y cũng không biết? Tại sao hai nhà sư lại biết, mà hí hoạ cả mụ với anh em y?
    Tự-Mai, Tôn Đản thấy hình trong sách bất giác đưa mắt nhìn nhau. Cả hai cùng bật lên tiếng cười. Tôn Đản hỏi:
    - Phương bang chủ. Tưởng bang chủ nhờ chị ba tôi dịch sách gì. Hoá ra bang chủ cho xem cuốn tập vẽ hí hoạ.
    Phương Hổ nghiến răng kèn kẹt. Y cầm cái bát bóp mạnh. Bát vỡ tan ra. Y vê viên mấy cái, bát nát ra như bột.
    Khai-Quốc vương hỏi y:
    - Bang chủ! Có biến cố gì chăng?
    Phương Hổ nghiến răng:
    - Bộ Lĩnh-Nam vũ kinh cùng Dụng-binh yếu chỉ trong túi này, bị tên tiểu hoà thượng đánh tráo ở Lạc-viên tửu lầu, trấn Ngọc-lâm.
    Phương Báo tần ngần cầm lấy cuốn tập coi. Y truyền cho các sư đệ cùng xem, rồi lắc đầu:
    - Chúng ta phải sai bang chúng truy lùng hai tên cẩu hòa thượng này băm vằm ra cho bõ ghét.
    Phương Hổ quả xứng đáng thủ lãnh bang lớn. Y thản nhiên cầm chung rót rượu mời Khai-Quốc vương uống, rồi nói:
    - Chúng ta cứ đến trấn Phật-sơn, rồi sẽ truy lùng hai tên cẩu hoà thượng.
    Thình lình Xuyên Dung kêu lên tiếng ối rồi ôm tay rên siết. Tiếp theo đến Phi Lịch, Động-đình tam ưng, Trường-giang song quỷ. Người nào tay cũng sưng vù lên, đỏ hỏn. Tiếng rên la vang khắp sông.
    Phi Lịch hỏi Phương Hổ:
    -- Đại ca! Rõ ràng chúng ta bị trúng Chu-sa Nhật-hồ độc phấn. Phấn độc này chỉ đại ca, nhị ca mới có. Như vậy...
    Y định nói Như vậy đại ca, nhị ca phóng độc hại anh em nhưng y dừng lại kịp, vì chính đại ca, nhị ca cũng bị trúng độc như y.
    Phương Hỗ thấy đám người của Khai-Quốc vương vô sự. Y nghĩ thầm:
    - Không lẽ tên Lý Long-Bồ đã phóng độc hại bọn ta?
    Y an ủi các em:
    - Đừng sợ, cái thứ phấn độc này có đáng gì. Ta lấy thuốc giải cho các em.
    Y thò tay vào bọc, móc ra hộp thuốc. Y trao cho các sư đệ, mỗi người một viên:
    - Nuốt mau, vận khí cho thuốc tan.
    Sáu người bỏ thuốc vào miệng, nuốt trửng, rồi ngồi vận công. Khoảng nhai dập miếng trầu, cả sáu người đều ngã lăn ra, miệng xùi bọt mép.
    Phương Hổ đang định nuốt thuốc vội dừng lại. Y bóp một viên thuốc ra ngửi. Y giật bắn người lên. Vì mùi vị hoàn toàn khác với mùi vị thuốc giải của y. Y coi lại, cái lọ đựng thuốc chỉ hơi giống cái lọ của y. Y chửi thầm:
    - Thì ra tên hoà thượng khả ố đã tráo luôn cả hộp thuốc của ta.
    Y tự hỏi:
    - Không hiểu ai tung phấn độc hại anh em y? Không lẽ cũng hai tên quỷ hoà thượng kia? Nhất định hai tên hoà thượng chó má có liên quan với bọn Khai-Quốc vương.
    Y nghiến răng nói với Khai-Quốc vương:
    - Vương-gia trí tuệ thực vô song. Tại hạ mong Vương-gia ban thuốc giải cứu sáu người sư đệ sư muội. Bằng Vương-gia không ban thuốc giải, tại hạ ắt phải vô phép với Vương-gia.
    Khai-Quốc vương đã đoán ra thủ đoạn của Bảo-Hoà, Thông-Mai:
    - Hai người này hí lộng quỷ thần thực tài. Trước đây chính Thông-Mai đã tráo vàng Tống bằng vàng Đại-Việt để hại thầy trò Địch Thanh. Bây giờ chàng lại dở bản lĩnh cũ ra. Phải rồi, y chỉ việc tung phấn độc lên yên ngựa bọn Trường-giang thất quỷ, rồi tẩm một thứ nữa vào cuốn sách. Bọn chúng lên ngựa, tay trúng phấn độc. Khi truyền nhau cuốn sách, bị trúng loại thứ nhì. Hai thứ phấn mới thành độc tố. Còn Thanh-muội chỉ mó vào sách, thì vô sự. Y còn thay lọ thuốc giải Chu-sa độc phấn bằng một thứ thuốc quái quỷ gì, khiến chúng nuốt vào bị mê man.
    Tự-Mai nói với Phương Hổ:
    - Này Phương bang chủ. Bang chủ nói câu đó dường như cho rằng anh cả tôi đánh thuốc độc sáu vị đây hẳn? Bang chủ ơi, trước khi nói, bang chủ nên suy nghĩ cho kỹ đã. Anh tôi xuất thân là đệ tử một vị Bồ-tát đắc đạo. Một hoàng-tử. Bản tính anh tôi từ bi, đến giết con kiến, con sâu người còn không nỡ, huống hồ dùng thuốc độc. Chính vì vậy sau được anh hùng tám vùng tộc Việt tôn làm vua. Với thân phận như thế, có đâu anh tôi lại dùng thuốc độc hại người?
    -- Nếu không phải vương gia. Tại sao ở đây chúng ta có mười bốn người, mà chỉ anh em bọn tôi trúng độc. Còn bên Vương-gia thì vô sự?
    Tự-Mai lắc đầu:
    - Bang chủ nghĩ như thế thực không còn gì vô lý hơn. Tôi chắc người nào trong bóng tối đó, muốn độc quyền mời anh cả chúng tôi. Cũng như bang chủ đã độc quyền mời. Vì vậy họ mới tung thuốc độc hại các vị.
    Thanh-Mai móc trong bọc ra hộp kim. Nàng đến bắt mạch từng người một, rồi nói:
    - Sáu vị đều trúng phấn Chu-sa của bang Nhật-hồ Trung-quốc. Chúng tôi là đệ tử danh môn chính phái, đâu biết gì về độc chất này. Bang chủ nghi cho chúng tôi thực vô lý.
    Tôn Đản cũng tiếp:
    - Bang chủ từng xuất thân đệ tử bang chủ Nhật-hồ đời thứ ba, không lẽ không biết hoá giải loại phấn độc này? Hôm qua, chị ba tôi đã đối chưởng với bang chủ, thấy võ công bang chủ rõ ràng thuộc võ công Hồng-thiết giáo, pha lẫn với Côn-luân. Bang chủ nên dùng Hồng-thiết thần công giải độc cho các vị đây hơn kết tội chúng tôi.
    Phương Hổ đau đớn muốn ngất đi. Y thở dài:
    - Tôi trúng độc đau đớn, nên đầu óc hơi hồ đồ. Tôi... tôi cũng có thuốc giải, song thuốc giải bị tên cẩu hoà thượng đánh tráo rồi. Vương-phi. Nghe Vương-phi là đệ tử Hồng-sơn đại phu, danh vang thiên hạ. Mong Vương-phi cứu các sư đệ của tôi.
    Thanh-Mai chẩn mạch lần nữa, rồi đáp:
    - Người đánh thuốc độc dường như không có ác ý. Các vị bị trúng hai thứ thuốc một lúc. Chu-sa phấn hơi nguy hiểm. Còn Đào-chí phấn, chỉ ngủ một giấc dài ba ngày sẽ tỉnh lại như thường. Có điều trong ba ngày không trị Chu-sa phấn, e nguy đến tính mệnh.
    Thanh-Mai nói đến Đào-chí phấn, làm Lê Văn giật mình. Nguyên trước đây Hồng-Sơn đại phu chế ra Ma-túy hoàn, mục đích phóng vào kinh mạch, khiến cho bệnh nhân giảm mọi thứ đau nhức. Hôm đại hội Thăng-long, ông đã dùng trị cho sư thái Tịnh-Tuệ cùng đám đệ tử Hồng-thiết giáo. Sau đó trở về, ông thấy Ma-túy hoàn chỉ làm tê liệt không được bao lâu. Ông thêm vào Ma-túy hoàn hai chất nữa là Đào-nhân, Viễn-chí khiến cho bệnh nhân ngủ ngon trong một ngày. Hôm rời Thăng-long, Lê Văn mang theo một hộp. Tặng cho Bảo-Hoà một hộp. Nó không ngờ Bảo-Hoà phối hợp với phấn Chu-sa của Hồng-thiết giáo Trung-quốc, hại bọn Trường-giang.
    Thanh-Mai chỉ Lê Văn:
    - Cậu mười! Cậu hãy làm cho mấy vị đây tỉnh lại ngay, chậm trễ e nguy đến tính mệnh.
    Đúng ra Lê Văn dùng kim, châm vào huyệt Nhân-trung, Trung-xung, dù bệnh nhân đang mê man cũng tỉnh dậy ngay. Hôm rồi, nó mới được Hà Thiện-Lãm dạy Lĩnh-Nam chỉ pháp. Nó muốn áp dụng thử xem sao.
    Nghĩ là làm. Nó tiến tới trước Phương Báo, vung tay điểm vào huyệt Nhân-trung. Véo một tiếng, Phương Báo mở mắt ra, ngồi dậy ngơ ngác nhìn mọi người. Tuy y tỉnh thực, nhưng thuốc vẫn còn trong cơ thể, vì vậy đầu óc mơ mơ hồ hồ.
    Phương Hổ nhìn thủ pháp của Lê Văn, y kinh ngạc nghĩ thầm:
    - Thiếu niên này, bất quá tuổi mười lăm, mười sáu, mà sao công lực đã đến dường này. Bên Trung-nguyên ta làm gì có những mầm non như vậy?
    Lê Văn chẩn mạch cho Phi Lịch. Không biết nghĩ sao, nó đưa mắt nhìn Tự-Mai, Tôn Đản rồi cả ba cùng cười. Nó phóng hai chỉ vào huyệt Ẩn-bạch, Lệ-đoài. Phi Lịch ngồi bật dậy. Y dụi mắt mấy cái, hướng Lê Văn xá một xá:
    - Đa tạ thiếu hiệp.
    Lê Văn nhăn mặt:
    - Phi tiên sinh. Tiên sinh là người đọc sách, mà sao thiếu lễ như vậy? Người quân tử dù ở hoàn cảnh nào cũng không thể thiếu lễ.
    Phi Lịch kinh ngạc hỏi:
    - Thiếu hiệp chê trách ta thiếu lễ. Thế ta thiếu lễ ở chỗ nào?
    Lê Văn lắc đầu:
    - Nếu như sáu vị anh hùng bang Trường-giang đây, coi như đủ lễ rồi. Duy tiên sinh thuộc loại văn gia Nho nguyên, đọc sách mà hành xử như vậy thì hơi thiếu.
    - Xin thiếu hiệp dạy rõ hơn.
    Lê Văn chỉ Khai-Quốc vương:
    - Nhà có chủ, nước có vua. Sách có câu Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ, xuất thổ chi tân, mạc phi vương thần. Nghĩa là: Dưới gầm trời này đâu cũng là đất của vua. Sinh tại đất vua ai cũng là thần dân của vua. Tại hạ hiện theo sứ đoàn Đại-Việt sang Trung-quốc. Khai-Quốc vương là đấng trừ quân, làm chánh sứ. Thì Vương coi như vua. Đây thuộc vùng Nam-hải của tộc Việt. Khai-Quốc vương được tôn làm vua tộc Việt. Vậy tiên sinh phải cầu Vương-gia chứ? Đấy là luận theo nước. Còn luận theo tình nhà, vương ở vai huynh trưởng trong mười anh em tại hạ. Dù luận theo nước, hay theo nhà mọi sự của anh em tại hạ đều do Vương làm chủ. Tại hạ trị bệnh cho các vị, phải được chỉ dụ Khai-Quốc vương, đại diện cho Đại-Việt. Thế mà tiên sinh không tạ ơn Vương lại tạ ơn tại hạ. Như thế chẳng hoá ra quân, thần đảo lộn ư?
    Phi Lịch tuyệt không ngờ Lê Văn lại nắm vững Nho như vậy. Y vội hướng Khai-Quốc vương:
    - Xin Vương-gia đại xá.
    Khai-Quốc vương bảo Lê Văn:
    - Chú mười! Chú trị hết cho các vị đại hiệp trong bang Trường-giang đi. Lê Văn vâng dạ, rồi chẩn mạch cho Xuyên Dung. Nó lắc đầu:
    - Vị tỷ tỷ này có thai mà trúng độc, e sau này đứa trẻ có tật.
    Nó lại phát Lĩnh-Nam chỉ, nhưng khác với Phương Báo, nó điểm huyệt Tố-liêu của mụ. Mụ rùng mình từ từ ngồi dậy. Tuy vậy mụ vẫn như người còn ngái ngủ.
    Phi Lịch hỏi Lê Văn:
    - Dường như tiện thê bị trúng độc nặng hơn mọi người thì phải?
    Lê Văn lắc đầu:
    - Không hẳn thế. Phu nhân đây luyện Hồng-thiết thần công. Nội công đã đến trình độ cực mạnh. Cần phải có người nào luyện Thiền-công, phát tâm Bồ-đề, dồn chân khí vào người phu nhân mới trục hết được nọc độc ra, hầu cứu bào thai.
    Phương Hổ kinh ngạc:
    - Tại hạ không tin. Muốn đẩy độc tố trong người thất muội, tại hạ nghĩ, bất cứ ai có công lực mạnh đều làm được.
    Y tiến tới để tay lên lưng Xuyên Dung rồi nói:
    - Thất muội ngồi im, đừng vận công chống trả.
    Nói rồi y dồn chân khí sang người Xuyên-Dung. Xuyên Dung bật lên tiếng »ái», ngã lăn ra, lăn lộn, nghiến răng tỏ vẻ đau đớn.
    Trong khi bọn Trường-giang thất quỷ ngơ ngác nhìn nhau không hiểu, thì Lê Văn ôm gối ngồi cười.
    Phương Hổ hỏi Khai-Quốc vương:
    - Đạo lý vụ này ra sao, xin vương gia dạy cho.
    Khai-Quốc vương vỗ lưng Lê Văn:
    - Chú mười. Chú giải thích cho bang chủ nghe đi.
    Phi Lịch cũng run run:
    - Thiếu hiệp, xin thiếu hiệp ra tay tế độ, cứu tiện thê. Nguyện không bao giờ quên ân đức.
    Lê Văn ngửa mặt lên trời nói bâng quơ:
    - Đã có Phật ắt phải có ma. Muốn trị ma, phải nhờ Phật. Xuyên nữ-hiệp luyện Hồng-thiết thần công thứ nội công tà ma, rồi lại bị Chu-sa độc phấn, cũng thuộc tà ma xâm nhập. Trong khi đó Chu-sa độc phấn lại bị pha lẫn với Đào-chí là hai dược vật không chính không tà. Không chính vì khi gặp tà, nó trợ tà. Không tà vì khi gặp chính, nó phù chính. Thành ra trong người nữ hiệp hiện đầy tà khí, hợp với nội công tà ma. Vậy cần phải có người nào luyện Thiền-công tối cao, phát tâm Bồ-đề mới giải được.
    Chu Y hỏi Thanh-Mai:
    - Vương phi, tại hạ nghe vương phi xuất thân phái Đông-a. Mà nội công Đông-a xuất từ Tiêu-sơn. Vậy Vương-phi có thể cứu thất muội được không?
    Tôn Đản dơ tay cản không cho Thanh-Mai trả lời. Nó nhìn thẳng vào mặt Trường-giang thất quỷ:
    - Trường-giang tam hiệp đã nghĩ kỹ, trước khi nói câu đó chưa?
    Khi Trường-giang thất quỷ bàn kế hoạch bắt Khai-Quốc vương, dùng độc công Chu-sa bắt vương khai ra bí mật kho tàng Tần-Hán. Tất cả bẩy người đã nghiên cứu thực kỹ về Vương cũng như Vương-phi Thanh-Mai. Còn bọn thiếu niên đi theo, họ coi thường, không chú ý. Từ lúc tiếp xúc với Thuận-thiên ngũ hùng, đám quỷ mới thấy bọn thiếu niên này tuy đùa nghịch, nhưng kiến thức, cũng như võ công không phải tầm thường. Bây giờ thấy Tôn Đản hỏi Chu Y một câu, làm y bỡ ngỡ không ít:
    - Tiểu công tử! Dĩ nhiên tại hạ nghĩ kỹ rồi.
    - Tam hiệp nghĩ kỹ, mà còn hỏi câu đó ư? Tam hiệp phải biết đại ca của thôi, thân làm trừ quân, thống lĩnh quần hùng tám nước. Lại nữa người đang đi sứ Trung-quốc. Các vị dùng sức mạnh bắt đại ca cùng chúng tôi với ý nghĩ tìm bí mật kho tàng. Võ công chúng tôi đâu có hèn, mà để cho các vị làm nhục? Chúng tôi để cho các vị bắt, vì đại ca của tôi nghĩ, trên đất Tống, không nên dụng võ. Mọi biến cố để Tống triều lo liệu. Chứ đánh nhau, chưa chắc các vị thắng nổi chúng tôi.
    Nó chỉ Lê Văn:
    - Rồi các vị bị trúng độc. Thập đệ ra tay cứu các vị. Các vị chưa tỏ một lời tạ lỗi. Bây giờ muốn chúng tôi xả thân cứu nữa ư? Tôi hỏi lại, các vị muốn ép chúng tôi hay muốn cầu khẩn? Đạo lý ở chỗ nào?
    Phi Lịch tiến tới trước Thanh-Mai, y quỳ gối:
    - Tiểu nhân kính cẩn rập đầu xin Vương-phi cứu tiện nội.
    Thanh-Mai mỉm cười. Nàng vung tay, một luồng kình phong đỡ y dậy:
    - Lục hùng không nên đa lễ. Huống hồ, nội công của tôi chưa chắc đủ cứu nỗi quý phu nhân.
    Khai-Quốc vương dơ tay cản vương phi:
    - Thanh muội. Để đó.
    Vương đến trước Xuyên-Dung, vung ngón tay cái điểm vào huyệt Đại-trùy. Xuyên-Dung rùng mình một cái mở mắt ra.
    Từ ngày gặp Khai-Quốc vương, chỉ có một lần Thanh-Mai thấy vương đối chưởng với Triệu Thành và với Minh-Thiên trên núi Chung-chinh. Từ đấy, chưa bao giờ nàng thấy Vương xử dụng võ công. Vì vậy nàng không biết công lực của Vương tới bậc nào. Cứ như bản lĩnh hôm đối chưởng với Triệu Thành, e công lực vương không hơn bọn Tung-sơn tam kiệt làm bao. Bây giờ thấy Vương vung tay điểm một chỉ vào cổ Xuyên Dung, khiến y thị hết đau. Nàng nghĩ thầm:
    - Đại-trùy thuộc Đốc-mạch, nơi giao hội sáu kinh dương. Mà dùng ngón tay cái, thuộc thủ Thái-âm phế kinh. Phế thuộc âm. Dồn Thiền-công vào, hoá giải Hồng-thiết công. Như vậy Hồng-thiết công trong một khoảng Đốc-mạch bị hoá giải. Sự lưu thông sáu kinh dương của ma công bị nghẽn... Hoá cho nên Xuyên-Dung hết đau. Nhưng sao công lực chàng lại hùng mạnh đến như vậy?
    Nàng chợt nhớ một truyện:
    - Ngày nọ, tại Khu-mật viện. Khi Đàm Can bị bắt, Mỹ-Linh hỏi cung, y không chịu khai. Thân Thiệu-Thái dạy Tự-Mai điểm vào hai huyệt Đại-trùy, Bách-hội khiến cho y đau đớn. Nàng hỏi nguyên lý ấy, Thiệu-Thái học ở đâu. Thiệu-Thái khai rằng Bố-Đại hoà thượng dạy. Ngài giải thích Hồng-thiết công thuộc ma. Thiền công thuộc Phật. Ma làm đau, dùng Phật trị. Khi đau đớn tà khí chạy khắp sáu kinh dương, kỳ kinh bát mạch. Chỉ cần dồn chân khí làm gián đoạn ma công tại hai huyệt tổng hội kinh dương là Bách-hội, Đại-trùy, lập tức cái đau giảm. .. À có thể chàng áp dụng lối đó.
    Khai-Quốc vương thấy Phi Lịch đau đớn đến đổ mồ hôi hột ra vì Hồng-thiết phấn. Vương chiã ngón tay điểm vào huyệt Khúc-trì của y hai chỉ. Y rùng mình một cái, hết đau. Nhưng hai cánh tay y tê dại không cử động được.
    Vương nói:
    - Phi tiên sinh. Tôi không đủ tài hoá giải chất độc cho tiên sinh. Tôi tạm thời bế huyệt, để chất độc không lan tới tim mà thôi. Đứa cháu của tôi, có thể hoá giải vĩnh viễn Chu-sa độc cho tiên sinh. Nhưng hiện giờ y không có mặt ở đây.
    Động-đình tam ưng thấy vợ chồng Phi Lịch hết đau đớn. Chúng cũng đến trước Khai-Quốc vương rập đầu xin được cứu trị. Vương bảo Tôn Đản bằng tiếng Việt:
    - Đản. Em vận Lĩnh-Nam chỉ ra kinh tam tiêu, rồi từ từ nhả khí bằng huyệt Trung-xung điểm huyệt Kiên-ngung cho chúng.
    Tôn Đản hít hơi vận khí. Véo một tiếng, nó điểm lên không.
    Khai-Quốc vương lắc đầu:
    - Không được. Anh bảo em nhả khí từ từ để chữa bệnh, chứ có phải đấu võ đâu. Làm lại.
    Tôn Đản vận tới ba lần, khí mới phát ra từ từ. Nó điểm vào huyệt Kiên-ngung của Nhất-ưng. Y rùng mình một cái. Đau đớn biến mất. Nhưng hai tay y hoàn toàn tê liệt.
    Thanh-Mai nghe Vương giảng cho các em, nàng nghĩ:
    - À như vậy, ta thử điểm vào mấy huyệt khác trên tay bọn chúng, không chừng cũng có kết quả.
    Nàng chĩa tay, điểm vào huyệt Thủ-tam lý của Nhị, Tam-ưng. Quả nhiên cánh tay y chúng bị tê liệt.
    Phương Hổ, Phương Báo thấy các sư đệ được giải cái đau đớn. Y định lên tiếng cầu xin, nhưng nghĩ lại thân phận mình làm bang chủ một đại bang, mà hèn hạ như vậy, mất tư cách. Cho nên y nghiến răng vận công chống đau.
    Tự-Mai lại bên Phương Hổ, không nói không rằng, nó chĩa ngón tay điểm vào huyệt Nội-quan của y. Lập tức cả người y cứng đơ, không cử động được. Tuy mắt, miệng vẫn linh hoạt. Y nghĩ nhanh:
    - Chết thực, bọn sư đệ của mình chỉ nghĩ đến cái đau, quên cả nguy hiểm, để bọn này điểm vào người tê liệt như thế này, không khác gì hai tay bưng tính mệnh dâng cho địch nhân.
    Y nói với em:
    - Nhị đệ, cẩn thân. Ta vô dụng mất rồi.
    Phương Báo cũng đang nghĩ như anh. Y vung tay chụp Tự-Mai, nhấc bổng lên, nhảy lui lại vận khí nói:
    - Các vị ngồi im. Hãy giải khai tê liệt cho anh em tại hạ. Bằng không tại hạ đành phải vô phép với vị công tử này.
    Y vừa nói hết câu, Tự-Mai chĩa tay chém vào huyệt Đản-trung trên ngực y. Y ngã lăn xuống sàn thuyền, chân tay cứng đơ như anh.
    Tôn Đản đưa mắt cho anh em, cả năm người cùng chĩa tay điểm liên tiếp vào bọn Trường-giang thất quỷ. Cả bẩy người đều tê liệt toàn thân, ngồi nhìn nhau. Họ không biết đám hào kiệt Đại-Việt đã dùng thứ võ công gì, mà làm họ tê liệt khắp người.
    Tôn Đản rút con dao, dí vào ngực Phương Hổ:
    - Bang chủ. Kẻ thức thời mới là người tuấn kiệt. Câu truyện hôm nay, bang chủ nghĩ sau đây?
    Phương Hổ biết thế không lui được. Y xuống nước:
    - Vương gia. Bang Trường-giang xin quy phục Vương-gia. Mong Vương-gia chu toàn tính mệnh cho anh em bọn tiểu nhân.
    Khai-Quốc vương nói bằng tiếng Việt với các em:
    - Hãy ngồi xuống. Hấp khí, dẫn khí từ huyệt Trung-xung toả ra. Được rồi! Bây giờ Tự-Mai điểm vào huyệt Kiên-ngung, phong bế hai tay. Sau đó điểm vào huyệt Phong-thị, phong bế chân tay anh em họ Phương.
    Tự-Mai vung tay điểm véo, véo tám tiếng. Vương tiếp:
    - Chân tay tê liệt trở thành vô dụng rồi. Bây giờ hiền đệ dùng đầu ngón tay nào cũng được, để lên huyệt Đản-trung của Phương Báo dồn chân khí xoa mấy cái. Như vậy khí của em đang làm bế tắc Nhâm-mạch y tan ra. Khắp người y hết tê liệt. Duy chân tay không cử động được.
    Khai-Quốc vương bảo Hà Thiện-Lãm:
    - Lãm! Em cũng phong bế chân tay Phương Hổ, rồi xoa huyệt Nội-quan cho y. Như vậy chân tay y không cử động được. Mà thân hình hết tê liệt.
    Thiện-Lãm làm theo. Thế là bẩy anh em Trường-giang ngồi như mấy pho tượng. Tự-Mai biết thân phận Khai-Quốc vương, không thể thẩm vấn bọn Trường-giang. Nó cầm lấy hộp kim của Thanh-Mai, đến trước Phương Hổ:
    - Phương bang chủ! Xin bang chủ truyền cho thuyền phu, đầu bếp hoàn toàn tuân lệnh bọn tại hạ. Bằng không tai hạ chỉ cần phóng hai cái kim, đôi mắt của bang chủ trở thành vô dụng.
    Phương Hổ nói lớn:
    - Thuyền trưởng đâu.
    Một lão già cúi rạp người xuống:
    - Thuộc hạ chờ lệnh bang chủ.
    Phương Hổ nói với y:
    - Lê Đài. Chúng ta đã quy phục Khai-Quốc vương. Vậy bọn người nhất nhất phải tuân phục Vương-gia.
    Lê Đài quỳ gối hành lễ trước Khai-Quốc vương:
    - Thần Lê Đài xin tham kiến Vương-gia.
    Tôn Đản thấy tại đây, vai vế cao nhất là Khai-Quốc vương, rồi tới Thanh-Mai. Sau tới nó. Nó biết thân phận Vương với Thanh-Mai cao quý vô cùng, không thể uy hiếp bọn tiểu nhân. Vì vậy nó đưa mắt cho mấy anh em, ngụ ý Bọn mình phải lo liệu.
    Tôn Đản truyền lệnh cho Lê Đài:
    - Lê thuyền trưởng chuẩn bị một phòng thực sạch sẽ cho Vương-gia, Vương-phi nghỉ, cắt cử người phục thị chu đáo. Còn bọn tôi với bẩy vị thủ lãnh quý bang ở đây được rồi.
    Lê Đài vâng dạ, lui vào trong.
    Khai-Quốc vương hỏi Lê Văn:
    - Chú mười! Em giỏi y khoa. Em có biết huyệt nào trị cho người ta khỏi điếc không?
    - À, nhiều lắm. Các huyệt Thính-cung, Nhĩ-môn, Thính-hội, Ế-phong dùng để trị điếc. Còn như muốn thông hoàn toàn, có thể dùng Ngoại-quan, Trung-chử hay Chi-cấu. Còn muốn trị cho người ta khỏi cấm khẩu, khỏi câm thì dùng Á-môn.
    Khai-Quốc vương hỏi:
    - Như muốn cho người ta ngủ được nên dùng huyệt nào?
    - À khá nhiều đấy: Phong-trì, cùng các huyệt trên tâm hay tâm bào kinh.
    - Bây giờ anh muốn dạy các em khoa điểm huyệt. Dù chúng ta nói tiếng Việt, tuy vậy cũng cần phòng bọn Trường-giang thất quỷ học lóm. Ta cần làm cho chúng điếc, cũng như ngủ say.
    Tôn Đản reo lên:
    - Hay lắm! Chú mười chỉ cần điểm vào những huyệt chữa điếc, chúng sẽ trở thành điếc. Rồi điểm vào huyệt ngủ, chúng mê man ngay.
    Khai-Quốc vương mỉm cười, về trí thông minh của người em. Lê Văn chỉ vị trí cảc huyệt cho anh em. Sau đó nó điểm vào huyệt Ế-phong, Nội-quan của Trường-giang song hùng. Hai người lăn ra mê man.
    Tự-Mai, Tôn Đản, Thuận-Tông, Thiện-Lãm cùng điểm huyệt năm quỷ còn lại. Chúng cũng mê man.
    Tự-Mai reo lên:
    - Chúng ta hãy nghiên cứu thành một thứ võ công mới. Trong khi giao chiến, chỉ cần điểm vào một vài huyệt, khiến cho đối phương tê liệt. Như vậy dù công lực thấp, mình cũng thắng được đối thủ công lực cao.
    Năm đứa trẻ reo lên mừng rỡ.
    Lê Văn hỏi Khai-Quốc vương:
    - Anh cả! Phương pháp làm tê đối thủ do võ công gì vậy?
    Vương giảng:
    - Phương pháp dùng chân khí của mình, đẩy vào huyệt đạo, khiến kinh khí đối phương bị gián đoạn, hóa ra tê liệt nguyên phát xuất từ Bố-Đại hoà thượng. Ngài dùng Thiền-công, đẩy ma công, cứu Mỹ-Linh khỏi đau. Thiệu-Thái học được, đem áp dụng cứu Đàm Can. Tự-Mai áp dụng ngược lại, Đàm Can được phong bế huyệt đạo khỏi đau. Y xoa tay vào huyệt, làm tan Thiền-công, khiến ma công lưu thông như thường. Từ đấy, anh chú tâm nghiên cứu, thử nghiệm phương pháp này rộng ra, thành hệ thống.
    Rồi Vương giảng chi tiết cho các em. Tuy Vương đã nghiên cứu, phát minh thực rộng. Trong khi vương giảng, Thanh-Mai, Lê Văn giỏi y học, bổ khuyết rất nhiều chỗ.
    Trời vừa sáng. Tự-Mai bàn:
    - Chúng ta vào xem bọn Trường-giang ra sao? Giải khai huyệt đạo cho chúng ăn uống. Để chúng tê lâu như vậy, e nguy đến tính mệnh.
    Có tiếng nói trầm trầm:
    - Đa tạ Trần công tử. Anh em tại hạ tỉnh từ lâu rồi.
    Trường-giang thất quỷ dàn ra trong tư thế uy hiếp. Phương Hổ cười nhạt:
    - Bây giờ các vị muốn anh em tại hạ trói lại hay các vị tuân lệnh đây?
    Y vung tay tấn công Khai-Quốc vương. Thanh-Mai lạng người một cái, nàng phát chiêu Phong ba hợp bích đỡ. Bình một tiếng. Cả hai người lảo đảo lui lại. Thuyền chao đi một cái. Bọn thuyền phu la hoảng. Y không nhân nhượng tấn công chiêu thứ nhì. Kình phong cực kỳ trầm trọng. Thanh-Mai, Tôn Đản, Tự-Mai la hoảng. Cả ba muốn nhảy vào đỡ cho Vương, nhưng Phương Hổ ra tay thần tốc quá. Mọi người chỉ còn biết hét lên mà thôi.
    Chưởng của Phương Hổ chụp xuống người Khai-Quốc vương. Vương thản nhiên, nhẹ nhàng bước xéo sang phải một bước, tay xuyên vào chưởng lực của đối thủ, quay một vòng như con cá vẫy đuôi, rồi lui lại.
    Lạ thay chưởng của Phương Hổ hùng hậu như vậy, mà biến mất tăm mất tích. Y như người say rượu, quay một vòng. Y cố gắng lắm mới đứng vững. Mặt y nhợt nhạt, đứng chết sững nhìn vương.
    Không những Trường-giang thất quỷ mà từ Thanh-Mai trở xuống đều ngẩn người ra. Tất cả không hiểu vương dùng thứ võ công gì mà kỳ lạ như vậy. Tự-Mai nghĩ thầm:
    - Cái vẫy tay vừa rồi rõ ràng trong đó có Vô-ngã-tướng thiền công, lại thêm nội công Cửu-chân khắc chế võ công Trung-nguyên, pha đôi chút nội công Đông-a, dùng sức địch đánh địch.
    Phương Hổ lắc đầu:
    - Khai-Quốc vương là anh hùng đời nay. Cớ sao ban nãy dùng tà thuật làm cho anh em tại hạ tê liệt, mê man, rồi bây giờ lại dùng võ công tà môn?
    Tôn Đản bước tới, chỉ vào mặt Phương-Hổ:
    - Phương bang chủ. Uổng cho bang chủ võ công kiến thức hơn đời, mà không phân biệt được đâu là ân, đâu là oán, đâu là chính, đâu là tà. Quý bang bắt chúng tôi, để đi kiếm kho tàng. Rồi trên đường đi bị nạn. Anh cả không những tha tội cho các vị, còn ra lệnh chữa trị cho. Sau đó chúng tôi điểm huyệt để các vị ngủ đi, tránh cái đau hành hạ. Nếu như chúng tôi không đại lượng. Khi các vị mê man, chúng tôi ném các vị xuống sông, liệu các vị có còn sống không? Còn võ công chúng tôi mà bang chủ bảo thuộc tà môn ư? Bang chủ không thấy nó đặt trên căn bản y khoa với thiền hay sao? Y với thiền mà bảo rằng tà môn, e trên thế gian này, không ai đáng chính phái nữa!
    Tuy nói vậy, mà nó tự hỏi rằng sao bọn kia đang mên man, lại tỉnh dậy được. Nó hỏi bằng tiếng Việt:
    - Anh cả. Tại sao chúng đang mê man, mà tỉnh lại được?
    - Anh cũng không rõ nữa.
    Lê Văn giải thích:
    - Em hiểu rồi! Khi chân khí mình làm bế tắc kinh mạch chúng, cũng như phóng thuốc tê vào người chỉ hai giờ hết hiệu nghiệm. Vì vậy chân tay chúng cử động được. Từ nay chúng ta điểm huyệt ai, phải nhớ nguyên tắc này.
    Tôn Đản vẫy tay cho Lê Văn ngưng lại. Nó nói:
    - Bên các vị bẩy người. Bên tôi cũng bẩy người. Hôm rồi chúng tôi nhân lúc các vị trúng độc mà ra tay, thực không đúng qui luật võ lâm. Vậy bây giờ thế này. Chúng ta dùng võ công đánh cuộc.
    - Đánh cuộc như thế nào?
    - Mỗi bên cử ra ba người đấu với nhau. Hễ bên nào thắng hai cuộc coi như thắng.
    - Rồi sao?
    - Nếu bên các vị thắng. Chúng tôi phải giúp các vị đi tìm kho tàng. Ngược lại các vị bại. Toàn bang Trường-giang phải quy phục Nam-triều.
    - Được! Nhưng đấu trên thuyền e thuyền bị vỡ. Vậy chúng ta lên bộ đấu với nhau, nên chăng?
    - Đúng thế.
    Phương Hổ ra lệnh cho thuyền ghé vào bờ. Đó là khu đồng hoang, cỏ cây vàng úa một mầu.
    Cả hai phe cùng lên bờ. Tự-Mai bàn bằng tiếng Việt:
    - Anh cả! Chúng ta trực diện đấu với chúng, hay dùng mưu thắng?
    Khai-Quốc vương hỏi ngược lại:
    - Đản! Theo ý em ta nên dùng phương pháp nào?
    Tôn Đản đáp ngay:
    - Bọn bẩy người này, chắc chỉ có Phi Lịch đáng mặt trượng phu. Còn lại tất cả đều thuộc lũ đầu trộm đuôi cướp, dùng mưu với chúng vô ích, chúng sẽ không phục. Trước hết mình dùng lực thắng, rồi lấy lợi nhử chúng theo mình. Sau này, khởi sự đánh lên Bắc ắt ta có một bang lớn làm chân tay cho.
    Thanh-Mai, Khai-Quốc vương nghe Đản bàn, cả hai cùng hiện lên mặt nét vui không bút nào tả siết. Hơn ai hết, Khai-Quốc vương lo lắng làm sao cho các sư đệ mình trở thành người mưu trí, trông rộng nhìn xa. Nay thấy mới chỉ gần mình hai năm, mà Đản đã có suy nghĩ như một người lớn tuổi, mưu lược. Vương hỏi Thiện-Lãm:
    - Lãm! Em nghĩ ai bên mình nên xuất trận trước?
    Lãm không nghĩ ngợi đáp ngay:
    - Cầm đầu bọn này là anh em họ Phương. Cả hai tên đều luyện Hồng-thiết công. Như vậy chị Thanh-Mai, hay anh Tự-Mai nên dùng nội công Đông-a đẩy ngược lại người chúng. Sau đó ta trị cho chúng. Như vậy chúng mới chịu phục.
    Phương Hổ chắp tay hướng Khai-Quốc vương:
    - Bên thiểm bang, anh em chúng tôi với lục đệ Phi Lịch xin lĩnh giáo. Không biết bên Đại-Việt, ai sẽ ra tay?
    Tự-Mai nhảy xổ vào giữa đám bẩy người bang Trường-giang. Tay nó phát một chưởng của phái Đông-a tấn công Phi Lịch. Phi Lịch vung tay đánh một chiêu từ trên, chụp xuống đầu Tự-Mai. Nó xuống trung bình tấn, rồi chĩa ngón tay xuyên vào chưởng của y. Bàn tay Phi Lịch đánh xuống, vô tình y tự đưa huyệt Nội-quan vào ngón tay nó. Véo một tiếng, y ngã lăn ra, mắt trợn ngược. Chân tay không cử động được.
    Tự-Mai nhảy lui lại cười:
    - Trận đầu kết thúc. Chúng ta đấu trận nhì.
    Cả hai phe đều thấy công lực Tự-Mai ngang Phi Lịch, nhưng Phi Lịch thấy nó hở phần trên đầu, y đánh xuống. Chưởng tuy mạnh, nhưng phát ra rộng lớn. Trong khi đó chỉ của Tự-Mai phát ra nhỏ, nên mạnh hơn. Lại nữa y tự đưa huyệt Nôi-quan vào ngón tay, nên mới ra nông nỗi.
    Đúng ra, nếu khoa điểm huyệt ra đời lâu rồi, Phi Lịch đâu đến nỗi lạc bại! Chỉ vì khoa này vừa ra đời xong, Tự-Mai áp dụng, Phi Lịch gặp bất ngờ mà bị thua.
    Ghi chú
    Đây là nguồn gốc phát minh ra phương pháp điểm huyệt. Khởi đầu từ Bố-Đại hoà thượng. Sau Khai-Quốc vương nghiên cứu thành hệ thống. Nhóm Thuận-thiên thập hùng cùng bổ khuyết. Sau này khoa điểm huyệt truyền sang Trung-nguyên. Võ lâm Trung-nguyên tự nhận do họ chế ra. Người sau xử dụng, mà không biết ai đã tìm ra, và tìm ra trong trường nào. Chỉ độc giả Anh-hùng Bắc-cương mới biết tường tận mà thôi. Ứng dụng phương pháp điểm huyệt, ngày nay (1970-2001) người ta dùng châm cứu làm tê để giải phẩu, mà không cần gây mê.


    <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 02:40:22 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 19.01.2005 18:32:38 (permalink)
      Hồi thứ chín mươi ba

      Bạch-đằng giang quyền



      Phương Hổ xuất chiêu tấn công Tự-Mai. Nó nhảy lui liền ba bước. Phương Hổ bước ngang qua chỗ Tôn Đản. Tôn Đản thấy em bị tấn công, nó dơ tay tát Hổ một cái. Phương Hổ thấy cái tát thô kệch, tầm thường, nếu có trúng y, cũng như phủi bụi. Y không thèm đỡ, tiếp tục phát chưởng đánh Tự-Mai. Không ngờ bàn tay Tôn Đản tới vai Phương-Hổ biến thành chỉ, điểm vào huyệt Kiên-ngung y đến bộp một cái. Tay phải y bị tê liệt, kình lực biến mất. Y chưa kịp phản ứng, Tôn Đản chĩa ngón tay phóng vào mông y một chỉ, đúng huyệt Hoàn-khiêu. Chân y bị tê liệt. Y ngã lăn xuống đất.
      Tôn Đản cười lớn:
      - Hai trận. Các vị bị bại cả hai. Vậy các vị nghĩ sao đây?
      Tuy chân tay không cử động được, nhưng Phương Hổ vẫn cãi:
      - Như vậy không kể. Các vị đánh trộm chứ có phải bản lĩnh chân thực đâu?
      Tôn Đản cười hề hề:
      - Phương bang chủ. Phải thế nào bang chủ mới phục?
      - Nếu như bên người, có ai dùng võ công trực đấu với bên ta mà thắng, chúng ta xin hoàn toàn quy phục.
      Khai-Quốc vương ung dung gật đầu:
      - Đản! Em giải khai huyêt đạo cho Phương bang chủ.
      Tôn Đản chạy đến xoa vào huyệt Hoàn-khiêu, Kiên-ngung của Phương Hổ. Khi chân tay cử động được như thường, y vọt mình dậy định tấn công Tôn Đản. Song y nghĩ:
      - Dù gì mình cũng đường đường thống lĩnh một đại bang. Cho có bị người ta đánh bại bằng cách nào, cũng phải tự xử, chứ có đâu lại cãi chầy cãi cối?
      Y vẫy tay cho Phương Báo:
      - Ta đã bại dưới tay Tôn công tử. Nhị đệ lĩnh giáo cao chiêu của vương gia đi.
      Y nói với Khai-Quốc vương:
      - Thể lệ võ lâm Trung-nguyên định rằng, trước khi muốn người quy phục, chính bản thân mình phải dùng võ công thắng người. Nếu Vương-gia muốn bọn tại hạ theo về. Xin Vương-gia dạy cho nhị đệ mấy chiêu.
      Khai-Quốc vương ngửa tay phải tỏ ý mời chào:
      - Xin mời nhị bang chủ.
      Phương Báo nghĩ thầm:
      - Từ trước đến giờ ta chưa từng nghe võ lâm nói đến võ công của tên Lý Long-Bồ này. Dường như y không biết võ thì phải. Y sắp đấu võ với ta, một chết hai sống, mà thản nhiên thế kia, có khác gì hai tay bưng tính mệnh giao cho ta không?
      Y chắp tay hành lễ, rồi phát chưởng. Chưởng của y cực kỳ trầm trọng. Khai-Quốc vương nhận ra chưởng lực y có phần hơn Lê Ba, nhưng kém Hồng-sơn đại phu với Tự-An đôi chút.
      Vương từ từ cung hai tay như ôm một vật gì tròn trước ngực, rồi một tay vòng lên cao. Một tay vòng xuống đưới. Chưởng của Phương Báo bị bao vây vào trong, kình lực mất hút. Y kinh hãi nhảy lên cao. Ở trên cao y đánh xuống một chưởng. Hai tay Khai-Quốc vương vẫn như ôm vòng tròn, nhẹ nhàng chuyển sang bên cạnh, rồi đẩy lên. Chưởng của Phương-Báo lại biến mất.
      Tự-Mai reo lên:
      - Đại ca! Vô trung sinh hữu tuyệt quá.
      Khán giả cả hai bên đều thấy chưởng lực của Phương Báo cực kỳ tinh vi, công lực mạnh như núi lở băng tan. Trong khi đó, Khai-Quốc vương cứ ung dung nhàn nhã như múa vũ khúc nghê thường. Thế mà kình lực y biến mất. Khi nghe Tự-Mai la dùng cái trống bên trong, lực sinh ra họ mới hiểu lý thuyết. Nhưng làm thế nào đi tới vô trung sinh hữu, không ai biết phải vận công phát lực sao cho đạt tới nguyên lý đó?
      Phương Báo đánh liền ba chưởng. Kình phong làm mọi người muốn ngộp thở. Khai-Quốc vương hỏi Tự-Mai:
      - Tự-Mai! Xử dụng lý thuyết gì bây giờ?
      - Tá lực đả lực!
      Khai-Quốc vương lùi lại. Hai tay vẫn như ôm vòng thái cực. Vương đợi cho chưởng Phương Báo lướt qua, rồi đẩy theo. Thân thủ như người đẩy thuyền, nhẹ nhàng, ung dung.
      Phương Báo bị kình lực mình với kình lực của vương hợp lại, làm người y quay như chong chóng. Phải cố gắng lắm, y mới đứng lại được.
      Y điên tiết lên đánh liền bẩy tám chiêu. Khai-Quốc vương vòng tay, bước từ vị trí cung khôn sang cung Chấn. Rồi từ cung Chấn, bước sang cung Ly trong khi tay chuyển xuống dưới. Phương Báo mất hết kình lực, người như chơi vơi trên sóng.
      Tự-Mai lên tiếng hoan hô:
      - Hay thực! Đại ca, nguyên lý ba chiêu đầu, em hiểu rõ. Còn nguyên lý mấy chiêu sau ra sao?
      Khai-Quốc vương tay vẫn như ôm trái cầu, ném vào Phương Báo. Vương giảng:
      - Dụng ý bất dụng lực. Ý tập, lực tự sinh. Thái-cực bản vô cực. Bây giờ hiền đệ coi anh xử dụng lý thuyết Thần thông ư bối rồi chuyển sang lưu hành ư khí.
      Miệng nói, Vương uốn cong lưng, bật lên cao, sau đó phát chiêu. Binh một tiếng, Phương Báo bật tung lên cao, rơi xuống cách đó hai trượng. Y có cảm tưởng như Vương nhắc y lên, rồi để xuống nhẹ nhàng. Y tự hỏi:
      - Chiêu số gì mà kỳ lạ thế này? Dường như thứ võ công y xử dụng chỉ ảo diệu vô lực, hay y cố ý khoan dung không hại ta? Ta cần thử lại mấy chiêu nữa xem sao?
      Nghĩ rồi, y phát liền ba chưởng. Chưởng phong có mùi tanh hôi khủng khiếp. Khai-Quốc vương cười thầm:
      - Mi dùng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng với người khác khả dĩ còn có đôi chút kết quả, chứ dùng với ta e vô dụng.
      Vương đợi cho chưởng phong bao trùm người, rồi mới lùi ba bước. Một tay chỉ lên trời, một tay tạt ngang, giống như ôm trái cầu, rồi người quay tròn. Một kình phong kinh khủng rít lên giống trâu gầm. Chưởng lực của Phương Báo như chạm phải vách núi. Người y bật tung trở lại, hai mắt toé lửa. Y phải lộn liền một lúc năm vòng mới đứng vững. Toàn thân như muôn nghìn mũi kim đâm phải.
      Chỉ thấy thấp thoáng một cái, Khai-Quốc vương đã tiến tới, vỗ lên vai y, chỗ huyệt Kiên-ngung. Toàn thân khí lực bị mất. Y lảo đảo ngã ngồi xuống. Vương ôn tồn như mẹ nói với con:
      - Phương huynh bị Chu-sa độc chưởng dội trở lại. Tuy tôi nhẹ tay, nhưng Phương huynh cũng cần ngồi yên. Tĩnh tâm một chút.
      Phương Hổ bước tới bắt mạch cho em. Nhưng khi tay y vừa chạm vào tay Báo, người y bị bật tung lại phía sau. Y hít một hơi dài, mới dừng lại được. Y hỏi Khai-Quốc vương:
      - Vương gia, võ công vương gia vừa dùng là võ công gì vậy? Dường như... Dường như trên giang hồ chưa từng ai nói tới bao giờ.
      Vương không trả lời, đưa mắt cho Tự-Mai.
      Tự-Mai cầm viên sỏi búng đến véo một tiếng. Viên sỏi trúng huyệt Hiệp-cốc bàn tay Phương Báo. Y đang ngồi như pho tượng, chân tay cử động được. Y vọt mình tiến lên phóng chưởng tấn công Khai-Quốc vương. Khai-Quốc vương thuận tay đẩy ra chiêu Đông-hải lưu phong trong Đông-a chưởng pháp. Pho chưởng này, Trần Kiệt dạy vương hôm ông tới Thăng-long dự lễ tấn phong Thanh-Mai làm vương phi Khai-Quốc vương.
      Nguyên Trần Kiệt là chú, là sư phụ trực tiếp dạy Thanh-Mai. Ông thương yêu nàng vô hạn. Cho nên ông xin phép chưởng môn Tự-An dạy Khai-Quốc vương, coi như món quà cưới.
      Chưởng phong rít lên chạm vào chưởng Phương Báo. Phương Báo cảm thấy trời long đất lở, tai phát ra tiếng vo vo không ngừng. Y bật lui ba bước, miệng oẹ một tiếng, y khạc ra ba búng máu.
      Biết công lực mình thua đối phương xa, nhưng y vẫn tiếp tục phát chưởng tấn công.
      Đấu được trên năm mươi hiệp, Phương Báo điên tiết lên. Y nhảy vào, tay trái dùng hổ trảo, tay phải dùng ưng trảo vồ Khai-Quốc vương. Chân vương từ phương Càn bước sang phương Khảm, tay trái nắm tay phải của y giật mạnh. Người y lảo đảo như say rượu, quay liền mười vòng, rồi ngã ngồi xuống.
      Khai-Quốc vương chờ cho y đứng dậy, mới hỏi:
      - Phương nhị hùng. Thế nào?
      Nhưng Phương Báo ngồi xuống đất, mắt nhắm nghiền, tỏ vẻ cực kỳ mệt mỏi.
      Phương Hổ thở dài:
      - Võ công Đại-Việt thực kỳ ảo. Những chiêu thức vương gia xử dụng dường như có thiền công, lại đặt đơ sở trên dịch lý. Thứ võ công này, tiểu nhân chưa từng thấy qua. Mong Vương-gia ban cho vài lời.
      Câu hỏi của Phương Hổ cũng là câu hỏi của tất cả mọi người. Khai-Quốc vương đáp:
      - Quyền pháp mà tôi dùng mang tên Thái-cực quyền, Bạch-đằng giang thập ngũ thức.
      Chu Y kinh ngạc:
      - Võ công Đại-Việt tiểu nhân đã nghe biết hầu hết. Đặt trên căn bản khắc chế võ công Trung-nguyên, gồm võ công Long-biên, Cửu-chân. Nay thành Mê-linh. Võ công ảo điệu, dũng mãnh thì của Tản-viên với Phục-ngưu thần chưởng. Võ công cương nhu hợp nhất, phải kể Sài-sơn, nổi tiếng với Thiên-vương chưởng. Võ công đặt cơ sở trên thiền, gồm Đông-a, Tiêu-sơn. Chiêu thức mà Vương-gia vừa xử dụng đều không phải của các phái trên.
      - Đúng như Chu tam hùng nói. Pho võ công vừa rồi do chính tôi cùng Tự-Mai, Tôn Đản hợp nhau mới chế ra, còn rất đơn sơ. Mong Chu tam hùng chỉ cho những chỗ khuyết điểm.
      Chu Y nghe vương nói, kinh hãi trong lòng. Y hỏi:
      - Vừa rồi vương gia đấu với nhị huynh. Tiểu nhân đứng ngoài, nhìn không rõ. Mong vương gia diễn cho anh em tiểu nhân coi một lần cho biết.
      Khai-Quốc vương khoan thai đứng dậy, hai tay như ôm vòng thái cực từ đưa ra. Mỗi thức, mỗi tư thức, mỗi biến chiêu... chân tay, thân mình, mắt đều hiệp đồng. Người không biết võ, hoặc người võ công non kém, cho rằng Vương múa một vũ điệu chứ không phải biểu diễn võ công.
      Vương giảng:
      - Thái cực quyền đặt trên nguyên lý dụng ý bất dụng lực. Cho nên mỗi chiêu không nhất thiết phải thế này, thế nọ, mà chỉ mang ý niệm.
      Vương diễn hết bẩy mươi hai chiêu, rồi ngừng lại, ngồi xuống phiến đá gần đó. Vương khoan thai kể:
      - Tôi xuất thân từ phái Tiêu-sơn. Nội công Tiêu-sơn đặt cơ sở trên thiền công nhà Phật.
      Chu Y gật đầu:
      - Bên Trung-nguyên, phái Thiếu-lâm cũng lấy thiền công làm nội công căn bản. Đâu có gì lạ?
      - Khác nhau nhiều. Thiền công Thiếu-lâm đặt phát xuất từ kinh Kim-cương. Cho nên đệ tử Thiếu-lâm bị người ta tấn công. Họ chỉ hoá giải. Còn thiền công Tiêu-sơn rút từ yếu chỉ chính trong kinh Lăng-già, Tượng-đầu tinh xá. Khi đệ tử Tiêu-sơn bị người ta tấn công, thì phát chiêu trả đòn. Một phần hoá giải công lực đối thủ, một phần phản công.
      Vương quay lại nhìn Tôn Đản, Tự-Mai rồi cười:
      - Sau tôi cùng hai vị hiền đệ có cơ duyên học được thần công của công chúa Yên-lãng.
      Phương Hổ kinh hãi hỏi:
      - Tiểu nhân nghe công chúa Yên-lãng đã phối hợp thần công Tản-viên với Thiền-công vô ngã tướng thành thứ nội công mới, thần diệu vô song. Nhưng đã thất truyền. Nào ngờ vương gia lại học được.
      - Đúng vậy. Loại thần công này rất đặc biệt. Ai đánh ta, ta đỡ, vừa phản công đối thủ, vừa hút lấy nội lực họ, làm nội lực mình. Chúng tôi lại luyện nội công Cửu-chân, khắc chế võ công Trung-nguyên. Trong khi đó tôi được Nùng-Sơn tử dạy cho về Dịch-lý. Tôi nghiên cứu, hợp tất cả bằng ấy thứ lại, cùng hai sư đệ Mai, Đản bàn luận, rồi chế ra pho Bạch-đằng giang thập ngũ thức.
      Vũ Canh lắc đầu:
      -- Vừa rồi Vương-gia đấu với nhị ca của tôi đã dùng tới trên trăm thức, thế mà Vương-gia bảo có mười lăm thức ư?
      Khai-Quốc vương cười:
      - Mười lăm thức, với mười lăm chiêu khác nhau xa. Mười lăm thức là gì? Nó gồm Nhân ngã tứ tướng, Ngũ-uẩn giai không, Lục-tặc đồng biến trong kinh Phật.
      Phương Hổ lắc đầu:
      - Xin Vương-gia giải rõ hơn.
      Khai-Quốc vương hắng rặng một tiếng, rồi nói:
      - Thôi được. Tôi xin vì các vị mà nói về mười lăm thức đó. Đầu tiên Nhân ngã tứ tướng rút trong kinh Kim-cương, Lăng-già, Bát-nhã ba-la mật đa tâm kinh, bao gồm bốn tướng của kẻ chấp tướng. Đó là: Ngã tướng tức tướng của ta. Nhân tướng tức tướng của người. Chúng sinh tướng tức tướng của chúng sinh. Thọ giả tướng tức con người đối cảnh sinh tình khác nhau. Đó là bốn thức căn bản của Thái-cực quyền.
      Phi Lịch nhăn mặt:
      - Như vậy mới có bốn. Còn mười một thức nữa?
      - Tiếp theo tới Ngũ-uẩn.
      - Ngũ uẩn à ? Tiểu nhân chưa từng nghe qua.
      - Ngũ uẩn tức sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Tức năm món tích tụ thành nhân thể, cùng tinh thần con người. Ngũ uẩn che mất chân lý, khiến chúng sinh luân hồi, gặp những điều khổ sở.
      - Xin vương gia giải rõ năm uẩn hơn.
      - Đầu tiên, sắc. Tức những vật hữu hình, hữu sắc. Thọ do con người đối cảnh, sinh ra tình cảm vui, buồn, sướng, khổ. Thứ ba tới tưởng. Khi con người đối cảnh, nhận ra mầu sắc, hình thể, phân biệt sự vật... thành tưởng. Thứ tư, con người đối cảnh, nảy sinh lòng ham muốn, ghét giận, sinh ra hành. Cuối cùng tới thức. Khi con người đối cảnh, suy tư, hiểu biết gọi là thức. Vậy Ngũ-uẩn tạo ra những con người khác nhau.
      Xuyên Dung nghe vương giảng đến đâu, gật đầu đến đó. Nàng hỏi:
      - Cuối cùng tới Lục-tặc. Tức sáu thứ giặc. Giặc đó chắc cũng do trong lòng mà sinh ra?
      - Đúng thế. Nó còn có tên Lục-trần, Lục-nhập, tức sắc, thanh, hương, súc, vị, pháp. Sáu thứ giặc ở ngoài nhập vào trong chúng ta qua Lục-căn: Nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý. Khi xử dụng Thái-cực chưởng, cần bình tĩnh, chế chỉ tâm thần, sao bỏ ra được Nhân ngã tứ tướng, vượt qua Ngũ-uẩn, rồi sao cho trong người hư không, Lục-tặc không nhập vào người. Đến trình độ đó, đơn điền như cái hồ trống rỗng, bao nhiêu chân khí tụ vào, muốn phát ra lúc nào thì phát.
      Thiện-Lãm hỏi:
      - Khi đại ca làm được như vậy, thì nào thiền công Tiêu-sơn, nào nội công Đông-a, nào Vô-ngã tướng thiền công, nào nội công Cửu-chân, cũng hoà lẫn với nhau được. Khi tòng tâm xử dụng, lập tức chân khí tuôn ra?
      - Đúng thế.
      Thanh-Mai hỏi Phương Hổ:
      - Phương bang chủ. Xin bang chủ dạy cho một lời!
      Phương Báo nói với các em:
      - Anh em ta nhân bất phục triều Tống, đứng ra lập bản bang, tiêu dao trên sông Trường-giang. Chúng ta đều sinh ở vùng hồ Động-đình. Hồ Động-đình, nơi phát tích ra Quốc-tổ, Quốc-mẫu tộc Việt. Vì vậy, dù chúng ta nói tiếng Hoa, mặc quần áo Hoa. Bề ngoài thành người Hoa, nhưng gốc vẫn Việt. Chúng ta là người Hoa gốc Việt. Nay gặp minh chúa, chúng ta phải trở về nguốn gốc thôi.
      Y hô tất cả anh em cùng quỳ gối khấu đầu trước Khai-Quốc vương:
      - Bọn thần từ nay xin được hầu cạnh Vương-gia.
      Khai-Quốc vương vẫy tay ra hiệu miễn lễ, rồi nói:
      - Bây giờ chúng tôi vẫn đi cùng các vị, tìm kho tàng. Tới Khúc-giang, tôi sẽ nhờ giáo chủ Lạc-long hoá giải độc tố Chu-sa chưởng cho các vị.
      Trong Trường-giang thất quỷ, hết bốn người gồm anh em họ Phương cùng vợ chồng Phi Lịch, xuất thân trong bang Nhật-hồ. Vì vậy suốt bao năm qua, dù họ uống thuốc giải, mỗi năm lại bị lên cơn mấy ngày, đau đến chết đi, sống lại. Họ tuy vẫn sống bình thường, mà trong lòng luôn ẩn một niềm đau khổ cùng cực.
      Cách đây mấy tháng, họ nghe giáo chủ Hồng-thiết Đại-Việt bị một thiếu niên đánh bại. Thiếu niên được tôn lên làm tân giáo chủ. Tân giáo chủ hoá giải Chu-sa độc chưởng cho tất cả giáo chúng, cải danh thành Lạc-long giáo.
      Bốn người trong bang Trường-giang định sang Đại-Việt qui phục Lạc-long giáo, để được điều trị. Không ngờ bây giờ họ gặp Khai-Quốc vương, một đấng anh hùng, vai cậu của Lạc-long giáo chủ, hứa sẽ trị chọ họ. Họ mừng không bút nào tả siết.
      Phương Báo mời mọi người xuống thuyền. Thuyền ngược giòng đi về phương Đông. Ban ngày thuyền đi. Ban đêm Khai-Quốc vương cùng Vương-phi lại lên bờ kiếm chỗ vắng luyện võ. Có hôm tới sáng Vương mới trở về. Sau bốn ngày đường, Lê Đài báo cho biết còn hai chục dặm nữa tới Khúc-giang. Khai-Quốc vương bảo các em:
      - Năm vị hiền đệ. Các hiền đệ lớn rồi. Anh muốn thử bản lĩnh khôn ngoan của các đệ một lần. Bây giờ anh cho các đệ lên bộ đi Khúc-giang trước. Anh sẽ đi sau.
      Nghe được tự do đi với nhau, xa anh cả, không bị kiềm chế, năm đứa trẻ reo mừng. Khai-Quốc vương tiếp:
      - Trong năm em, ta giao cho Tôn Đản thống lĩnh, Tự-Mai làm quân sư. Tại Khúc-giang hiện có thiết kị Tống. Bình-Nam vương Triệu Thành, bang Nhật-hồ Trung-quốc, người của các nước Đại-lý, Chiêm, Lào, Xiêm, Chân-lạp đều hiện diện. Ta cho các hiền đệ nghịch ngợm, phá phách tự do. Làm thế nào trong năm ngày, trấn Khúc-giang náo loạn, đảo lộn hết thì thôi.
      Nghe Khai-Quốc vương truyền lệnh phá phách, năm ông mãnh reo hò mừng rỡ. Vương tiếp:
      - Có ba điều cấm kị. Một là không được giết người. Hai là không thể để bị quan binh bắt giam. Ba là không được phạm vào tôn giáo, cũng như dân chúng. Trong khi hành sự, theo dõi cặp chim ưng để biết ta ở đâu.
      Hà Thiện-Lãm xoè tay trước mặt Thanh-Mai:
      - Bà chị cho bạc. Không tiền, bọn em đến đó lấy gì mà ăn?
      Lê Văn bẹo tai Thiện-Lãm. Tay chỉ vào cái hộp kim trong túi:
      - Ông anh đừng lo! Với hộp kim này, tha hồ cho quan lại, phú gia đem cơm gà, cá nướng cung phụng chúng mình. Tới đó em làm thầy lang trị bệnh cho dân chúng. Thiếu gì người tạ thầy!
      Khai-Quốc vương hỏi Tự-Mai:
      - Lỡ không ai tin thầy lang trẻ thì làm thế nào?
      Tự-Mai cười, nó nói sẽ vào tai vương:
      - Anh cả sai bọn em đi, tức chúng em tuân chỉ hoàng-đế làm truyện quốc sự. Mọi chi phí do công nho đài thọ. Hè... hè...
      Thiện-Lãm ngơ ngác:
      - Công nho à! Nhưng ở Quảng-Đông đâu có quan liêu Đại-Việt, mà họ chi tiền cho chúng ta!
      Lê Văn vốn cực kỳ thông minh. Nó lắc đầu mấy cái, miệng kêu sẽ hừ... hừ... :
      - Lãm phải nhớ điều này! Đối với chúng ta, Quảng-Đông thuộc lãnh địa tộc Việt. Công nho Quảng-Đông phải chi phí mọi tiện nghi cho chúng ta. Chúng ta tuân chỉ Phụ quốc thái úy, tổng đốc binh mã, cứ đến công khố lấy bạc mà xài. Hè... hè...
      Hà Thiện-Lãm chợt hiểu. Nó nói thầm:
      - Tức là vào công khố ăn trộm!
      Phương Hổ sai dẫn năm con ngựa lên bờ, trao cho năm ông mãnh.
      Tôn Đản hô:
      - Tạm biệt!
      Thanh-Mai dặn với theo:
      - Nhớ cẩn thận!
      Năm đứa vái Khai-Quốc vương, rồi ra roi cho ngựa phi về hướng Khúc-giang.
      Phi Lịch thắc mắc:
      - Vương gia! Năm tiểu công tử đang độ khí huyết sung thịnh, nghịch ngợm kinh khiếp. Nay Vương-gia truyền chỉ như vậy, thần e...
      - Phi huynh an tâm. Năm tiểu đệ của tôi có căn bản võ đạo rất sâu, lại sớm lăn vào làm việc nước, nên chúng có ý thức cao. Phi huynh đừng sợ. Tôi cần sai chúng khuấy đảo Khúc-giang, để cho tất cả các phe tiềm ẩn bị lộ tông tích. Ta nhờ binh Tống loại họ khỏi vòng tranh chấp với ta.
      Vương nhìn Phương Hổ cười:
      - Tất cả bí mật kho tàng, hiện nằm trong tay chưởng môn phái Mê-linh cùng giáo chủ Lạc-long giáo. Hai người đó là cháu tôi. Họ đã đi trước, dò la. Mỗi khi có tin tức gì, họ dùng chim ưng báo cho tôi biết. Hiện đã biết rõ kho tàng dấu ở đâu rồi.
      Vương mở tấm khăn thắt lưng, lấy ra mảnh lụa. Trên mảnh lụa vẽ bản đồ Khúc-giang, đủ hết sông ngòi, đình miếu. Vương chỉ vào sườn núi Tuyệt-phong:
      - Đây kho tàng ở chỗ này. Cửa vào nằm ngang sườn núi. Từ dưới muốn lên hang, phải qua một nghìn bước. Hang thông sang bên kia sườn núi chỗ có con sông. Đó là nơi trước kia công chúa Yên-Lãng và Nghi-Hoà đem kho tàng từ biển vào.
      ... Chỗ mỏm này, ta có thể ghé thuyền vào chở về. Công cuộc khai quật kho tàng không phải giản dị đâu. Việc đục đá, vào hang, ta có người phụ trách rồi. Khó khăn nhất của chúng ta phải vượt qua là sao tránh giao tranh với biết bao lực lượng đang rình rập. Tuy khó, nhưng tôi đã có cách. Vậy phiền bang chủ, cùng các huynh đệ quý bang đậu thuyền tại địa điểm này. Khi chúng tôi đục núi thông sang, lập tức cùng lên vận chuyển về Đại-Việt.
      Trường-giang thất quỷ thấy mình mới quy phục, mà Khai-Quốc vương đã dám lộ hết cơ mật kho tàng cho mình. Họ cảm thấy độ lượng vị Vương-gia này thực cao cả vô cùng.
      Vương tiếp:
      - Trong bẩy vị, phiền Trường-giang song hùng đem thuyền chờ chở kho tàng. Động-đình tam ưng huy động bang chúng trải dài từ Khúc-giang tới cửa Hổ-môn, âm thầm bảo vệ thuyền chở của Trường-giang song hùng. Tới Hổ-môn, sẽ có thuyền của bang Đường-lang hộ tống cho đến lãnh hải Đại-Việt. Trong địa phận lãnh hải Đại-Việt, bang Hồng-hà, Đông-hải đảm trách.
      Phi-Lịch hỏi:
      - Thưa vương gia, thủy quân Đại-Việt không dùng vào việc này ư?
      Vương đưa mắt nhìn Vương-phi, rồi lắc đầu:
      - Thủy quân Đại-Việt lo tuần phòng lãnh hải, trường hợp thủy quân Tống tràn sang, mới can thiệp mà thôi. Còn Phi huynh với phu nhân khẩn đi cùng tôi, để trị Chu-sa độc ngay, vì để lâu e phạm đến thai nhi.
      Đến đó, thuyền phu vào báo:
      - Khải tấu Vương-gia cùng bang chủ. Phía trước có bốn con thuyền đậu theo một hàng, phất cờ ra hiệu cho ta dừng lại. Xin Vương-gia, bang chủ định liệu.
      Vương hỏi:
      - Có phải trên trời của bốn con thuyền có hai con chim ưng bay không?
      - Vâng. Quả như Vương-gia tuyên dạy.
      - Bốn con thuyền đó của chúng ta. Ta cho thuyền đi như thường, nhưng mở cửa sổ khoang phải. Khi thuyền ta và họ song song, sẽ có người nhảy sang thuyền mình. Phiền các vị tiếp hội lên đây, cùng họp với nhau.
      Trường-giang thất quỷ nghe Vương truyền lệnh. Họ kinh hãi, mặt nhìn mặt xấu hổ, tự nói với nhau:
      - Lúc đầu rõ ràng vị vương gia này bị mình bắt theo. Không hiểu bằng cách nào, mà điều động mọi việc nhịp nhàng như vậy? Làm thế nào đưa bốn con thuyền lớn thế kia đến đây chờ đợi? Làm thế nào người trên bốn con thuyền biết Vương-gia ở trên thuyền ta? Nghe Vương-gia vừa truyền lệnh, rõ ràng, mọi việc xếp đặt đâu vào đấy rồi. Không chừng đây chỉ có một phần nhỏ kế hoạch. Trung gian còn nhiều chi tiết mà mình chưa được biết.
      Bất giác cả bẩy nhìn nhau rùng mình, tự chửi thầm:
      - Mình chỉ có bẩy người, đem theo hơn ba trăm bang chúng, mà đòi đánh cướp kho tàng, có khác gì tự tử không?
      Lát sau, thuyền phu dẫn vào bốn người. Khai-Quốc vương đứng dậy chào, giới thiệu:
      - Vị đạo trưởng này đạo danh Nùng-Sơn. Thầy của tôi.
      Trường-giang thất quỷ đã nghe danh Nùng-Sơn tử. Phi Lịch bật lên tiếng reo:
      - Phải chăng đạo sư là một trong Long-thành nhị hiệp?
      Nùng-Sơn tử đáp lễ:
      - Không dám. Phi huynh vẫn mạnh chứ? Tại hạ thường ngâm bài Trường-giang nguyệt lãng và bài Động-đình điểu minh của Phi huynh luôn. Ý từ thực cao ngạo, mà lời nhẹ như gió thu.
      Phi Lịch nghe Nùng-Sơn tử ca tụng tài văn chương mình. Y sung sướng ra mặt:
      - Đa tạ đạo trưởng quá khen.
      Vương chỉ Trần Kiệt:
      - Vị này, một trong Thiên-trường ngũ kiệt, sư thúc của tiện thê. Nhưng thực ra bản lĩnh tiện thê do người truyền thụ.
      Chu Y kêu lên:
      - Úi chà!
      Thiên-trường ngũ kiệt danh vang thiên hạ, đến Tống đế còn kính phục. Vì vậy Trường-giang thất quỷ vội cúi đầu hành lễ:
      - Trường-giang huynh đệ xin tham kiến Trần đại hiệp.
      Bảo-Hoà, Thông-Mai đã bỏ lớp áo hoà thượng. Nàng trở lại y phục thiếu nữ Thăng-long. Còn Thông-Mai trang phục như một nho sinh Trung-quốc. Anh em họ Phương thấy gương mặt Bảo-Hòa, Thông-Mai hơi quen, mà họ nhận không ra hai người đã giả hoà thượng tung phấn độc hại họ. Khai-Quốc vương chỉ giới thiệu sơ sài:
      - Vị này, anh của tiện thê. Còn đây, con gái của chị tôi.
      Thình lình Xuyên-Dung ôm ngực nhăn nhó, tỏ vẻ đau đớn. Thông-Mai vung tay điểm liền bốn chỉ vào huyệt Nội-quan, Công-tôn của nàng. Cơn đau giảm liền. Phi-Lịch thấy Thông-Mai tuổi trẻ, mà công lực kinh nhân. Y chắp tay:
      - Đa tạ thiếu hiệp cứu trợ.
      Trời về chiều, nắng thu héo úa đổ lên sông, thành muôn nghìn con rắn vàng lung linh. Phương Hổ truyền bầy tiệc khoản đãi.
      Mọi người vào bữa.
      Khai-Quốc vương hỏi Nùng-Sơn tử:
      - Đạo trưởng. Xin đạo trưởng cho biết tình hình?
      - Bang Nhật-hồ Trung-quốc đem toàn lực đến đây. Tuy họ không biết nơi chôn bảo vật. Bang trưởng, Tả-Hữu chấp pháp, ngũ Sứ cùng mười tám Đạo trưởng. Vắng mặt mười Trưởng-lão. Hiện họ ở trong thị trấn Khúc-giang. Bình-Nam vương cùng với tùy tùng chia làm bốn ngả, âm thầm tới. Đồng thời Vương điều một vạn thiết kị với hai vạn binh Quảng-Đông, nhưng phao lên rằng mười vạn, chia ra đóng rải rác khắp vùng. Khu-mật viện Tống, điều đến khá nhiều cao thủ thuộc sáu đại môn phái như Thiếu-lâm, Côn-luôn, Không-động, Nga-mi, Võ-đang, Hoa-sơn. Họ ẩn thân trong lớp áo quan binh. Tây-hạ, Liêu, Cao-ly, đều gửi nhiều cao thủ tới.
      - Như vậy Đại-lý, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la không gửi người tham dự. Cuộc tranh dành sẽ diễn ra giữa Khu-mật viện Tống với bang Nhật-hồ cùng Liêu, Cao-ly, Tây-hạ. Ta đứng ngoài tọa thủ bàng quan xem sao đã.
      Vương hỏi Bảo-Hòa:
      - Còn về phía ta ra sao?
      - Đúng như cậu xếp đặt. Chỉ còn chờ ngày giờ hành động.
      Vương xoa hai tay vào nhau:
      - Tôi với Vương-phi đi cùng Phi huynh phu phụ tới Khúc-giang. Tôi không dấu diếm thân phận, cáo với quan sở tại rõ việc bị bang Trường-giang bắt giữa đường, mới được thả ra, yêu cầu họ tấu về triều, cử người đến hộ tống. Vậy Bảo-Hòa, Thông-Mai trong bóng tối yểm trợ cho năm ông mãnh nhà mình phá phách. Chúng có phá phách, các cao thủ ẩn trong lớp áo quan binh mới bị lộ diện. Quan binh Tống sẽ nhân dịp đó bắt hết các phái đoàn Liêu, Tây-hạ, Cao-Ly. Động-đình tam ưng, bảo vệ con đường Khúc-giang, Hổ-môn. Nùng đạo trưởng cùng ngũ sư thúc theo Trường-giang song hùng đậu ở vách núi, chờ khai thác kho tàng, rồi chở về.
      Vương ngừng một lát tiếp:
      - Hai con thuyền này trao cho Trường-giang song hùng để chở kho tàng. Bốn con thuyền kia, hai con trao cho Động-đình tam ưng. Hai con cho tôi với Phi phu phụ. Cơm chiều xong, chúng ta lên đường.
      Cơm xong, trời tối mịt. Khai-Quốc vương cùng Thanh-Mai, vợ chồng Phi Lịch sang hai con thuyền đậu sẵn bên sông, hướng Khúc-giang mà đi.
      Đêm vương cùng Vương-phi lại lên bờ luyện võ. Sau khi Vương lên bờ, thuyền phu rút cầu. Cả hai người dùng khinh công biến vào khu rừng. Vương-phi nói với chồng:
      - Chúng ta họp mật trong rừng thế này, đến quỷ cũng không biết, thần cũng không hay.
      - Vì vậy ngay từ hôm xuống thuyền, chúng mình giả bộ lên bờ luyện võ. Bọn Trường-giang thất qủy theo dõi bén gót suốt năm đêm liền. Đến đêm thứ sáu, chúng không theo nữa. Nay anh phân tán chúng đi với người của ta. Nếu chúng muốn tách ra cũng khó. Bọn ở trên thuyền ta, đều bị theo dõi. Phải đề phòng vậy mới được.
      Trong rừng lập loè ánh đèn leo lét từ căn nhà chiếu ra. Có tiếng cú kêu. Thanh-Mai hú lên một tiếng đáp lại. Cánh cửa căn nhà mở ra. Bảo-Hoà đón hai người vào.
      Khai-Quốc vương hỏi:
      - Việc canh gác thế nào?
      - Trên trời có cặp chim ưng. Dưới đất có hai cặp sói.
      - Được rồi.
      Trong phòng đủ mặt: Nùng-Sơn tử, Trần Kiệt, Bảo-Hoà, Thông-Mai, năm ông thiên lôi: Tôn Đản, Tự-Mai, Thuận-Tông, Thiện-Lãm, Lê Văn.
      Khai-Quốc vương mở tấm bản đồ lụa ra cho mọi người xem:
      - Mỹ-Linh thăm lăng Khúc-giang ngũ vương, cùng đền hai vị Công-chúa thời Lĩnh-Nam đã tìm ra nhiều chi tiết giống như trong vũ kinh nói. Kho tàng cất trong hang. Hang từ chân ngọn Tuyệt-phong lên một ngàn bước, nơi hai ngọn núi kết thành khe. Cửa hang ngay dưới thác nước.
      Vương ngừng lại nhìn Trần Kiệt, Tự-Mai:
      - Sư thúc cùng Tự-Mai thông minh nhất sẽ nhập thác nước. Trước thác nước ắt có cao thủ Tống canh gác. Tự-Mai phải nhanh nhẹn điểm huyệt cho chúng mê man. Dưới thác có ba cửa, đều bị đá lấp. Trong ba cửa có hai cửa giả, một cửa thực. Khi khuân năm viên đá ra, mà thấy cửa, chớ đi vào, e nguy hiểm. Khi thấy mười viên cửa mới lộ hãy đi vào. Hang thông sang bên kia núi. Sau khi hành sự, lấp cửa hang, theo bản đồ mở lối khác mà ra.
      Vương hỏi Tôn Đản:
      - Mấy hôm nay, các em phá phách đến đâu rồi?
      - Ngày thứ nhất phá đền Mã Viện. Ngày thứ nhì phá đền Cao Biền. Ngày thứ ba phá đền Triệu Xương. Ngày thứ tư phá phách Tả, Hữu hộ pháp cùng ngũ Sứ bang Nhật-Hồ. Ngay ngày đầu bọn em đã làm lộ cho Khu-mật viện Tống biết mình là người Việt. Chúng theo dõi rất gắt. Sang ngày thứ tư, bọn em đánh lạc chúng hết. Bọn em trêu đám cao thủ Cao-ly, khiến chúng điên lên. Hai bên giao đấu. Khu-mật viện Tống bắt hết đám này. Rồi nhân tiện vồ bọn Liêu, Tây-hạ.
      - Như vậy chúng biết rất rõ hành tung Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, cũng như năm em. Giỏi. Trong đầu Phạm Trọng-Yêm, y tưởng ta có vậy. Bây giờ Đản cùng ba em Tông, Lãm, Văn, làm sao đem được một số thùng, với đinh lớn, để đâu đó, gần thác nước. Sau khi ngũ sư thúc với Tự-Mai tìm ra cửa hang. Các chú mang vào. Lập tức lấy đá chất đầy, rồi đóng đinh thực chắc, sau đó mở cửa hang vách múi bên kia, chuyển những thùng đá xuống thuyền. Thuyền đó của bang Trường-giang. Trên thuyền có Trường-giang song hùng với Nùng-Đạo trưởng chờ. Tuy thùng đựng đá. Nhưng hai vị cũng làm như thực, canh coi thực kỹ. Lỡ ra gặp thủy quân khám xét, không chống cự, bỏ thuyền chạy. Họ có mở ra, thấy toàn đá, sẽ tra khảo anh em họ Phương. Chúng thừa sức nói láo hoặc chống cự.
      Vương chỉ Bảo-Hoà, Thông-Mai:
      - Bảo-Hòa, Thông-Mai cùng hai đội bốn mươi cao thủ ẩn trên bờ sông, nơi có hai chiến thuyền chở lương từ Hổ-môn tới. Trong khi ngũ sư thúc, Nùng-Đạo trưởng chở đá đi, hai người lén đột nhập chiến thuyền, điểm huyệt hết thủy thủ, rồi ra hiệu cho người của ta xuống. Tất cả lột quần áo thủy thủ Tống mặc vào, cho thuyền ghé vào cửa hang. Bấy giờ ta mới chuyển kho tàng đi, kéo buồm về Hổ-môn. Thuyền của ta là thuyền thủy quân Tống, dọc đường không ai dám kiểm soát. Phải sao cho thuyền tới nơi giữa đêm. Tới Hổ-môn, kéo buồm hướng Hải-Nam. Trên đường đi, có bang Đường-lang hộ tống xa xa cho tới lãnh hải Việt. Tới Lãnh hải Việt, bang Hồng-hà hộ tống về Thăng-long.
      Vương nhìn Vương-phi cười:
      - Chúng ta tới Khúc-giang công khai, để Khu-mật viện Tống coi thường ta không biết bảo mật. Chúng theo dõi ta vô ích.
      Vương hỏi mọi người:
      - Có ai thắc mắc gì không?
      Tự-Mai đề nghị:
      - Hiện bọn Tống tưởng chúng em do Khu-mật viện Việt sai tới. Sau khi thuyền chở kho tàng đi rồi, bọn em quay ra phá phách chính người của mình. Như vậy bọn Tống điên cái đầu lên. Không biết bọn em thuộc phe phái nào của Đại-Việt?
      - Ý kiến hay. Nếu cần gây cuộc đấu với Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, cùng Lạc-long giáo.
      Vương nhìn Thông-Mai, Bảo-Hòa:
      - Sau khi hộ tống kho tàng về Đại-Việt, Thông-Mai, Bảo-Hòa trở qua liền. Cả hai bí mật điều động hệ thống tế tác Đông-a, Khu-mật-viện theo dõi mọi hành tung của Lưu hậu, Triệu Thành. Nghĩa là sứ đoàn đóng vai hiền lành, không xử dụng võ công. Trong bóng tối Thông-Mai, Bảo-Hòa lo bảo vệ, thi hành quốc sách Đại-Việt: Mềm với triều Tống, cứng với biên thần, nhất là thẳng tay tàn sát bọn quan lại làm hại ta.
      Buổi họp chấm dứt.
      Hôm sau, Vương ra lệnh cho thuyền đi thực chậm, để ngắm cảnh. Mỗi khi tới một trấn nhỏ, Vương lại cùng Vương-phi lên bờ mua sắm, ngoạn cảnh, lễ Phật cùng ăn uống. Vợ chồng Phi Lịch cho rằng vị Vương-gia này mới cưới vợ, nên mượn cớ Hoa du, hưởng trăng mật. Cho nên đáng lẽ thuyền chỉ đi đi năm ngày tới Khúc-giang, mà kéo dài tới gần tháng. Sự thực vương lỉnh kỉnh như vậy, để Khu-mật viện Tống thấy vương chưa tới, không đề phòng, trong khi mọi người có thời gian hành động.

      Hôm ấy thuyền đến Khúc-giang.
      Thị trấn Khúc-giang khá lớn. Trời về đêm, dọc bờ sông hàng nghìn con thuyền đậu san sát, đèn thắp sáng rực. Thuyền trưởng tìm chỗ cho thuyền đậu. Khai-Quốc vương bảo Thanh-Mai:
      - Chúng ta lên bờ xem cho biết Khúc-giang về đêm.
      Dạo một vòng, Thanh-Mai nhận biết trong trấn có không biết bao nhiêu khách lạ. Hai người tìm vào tửu lầu lớn nhất. Tửu bảo thấy một đôi thanh niên nam nữ trang phục sang trọng, tư thái khác phàm. Y cúi rạp người xuống mời lên lầu. Thanh-Mai chọn một bàn trông ra sông, rồi liếc mắt quan sát, nàng dùng Lăng-không truyền ngữ nói với vương:
      - Có hai đứa, một nam, một nữ theo chúng mình từ lúc lên bờ. Chúng ngồi phía sau ta. Chắc người của Khu-mật viện Tống. Mình có nên giữ kín thân phận không?
      - Không! Mình cứ nói tiếng Việt, như vậy tỏ ra mình đang tìm quan lại người Tống.
      Tửu bảo đến trước bàn. Thanh-Mai hỏi bằng tiếng Việt:
      - Em có biết nói tiếng Việt không?
      Y lắc đầu, vẫy tay gọi một thiếu nữ lại. Thiếu nữ kính cẩn hỏi bằng tiếng Việt:
      - Không biết quan gia xơi món gì?
      Thanh-Mai nói:
      - Chúng tôi từ Đại-Việt qua, muốn dùng mấy món thổ sản xứ Quảng. Cô bảo nên gọi những gì?
      Thiếu nữ đáp:
      - Gà Khúc-giang hấp nấm hương, hạt điều nổi tiếng nhất ở đây. Sau đến cá hầm Hổ-môn. Thịt lợn rừng ướp ngũ vị hương nướng. Đó là ba món Quảng ngon nhất.
      - Cô cho chúng tôi mỗi thứ hai phần ăn.
      - Quan khách có dùng rượu không?
      - Chúng tôi theo đạo Phật, giới tửu.
      Thiếu nữ vừa lui, thì nhạc công cùng ca nhi tới. Nhạc công tuổi trên ba mươi. Ca kỹ tuổi khoảng hai mươi, hai mươi mốt. Nàng có đôi vai tròn, lưng ong, mái tóc thả xuống ngang vai óng mượt. Nhạc công cúi đầu hành lễ. Ca kỹ hỏi:
      - Kính mời quan khách thưởng thức âm nhạc!
      Thanh-Mai gật đầu:
      - Xin cô nương cho biết quý danh?
      Thiếu nữ dơ tay vuốt mái tóc, dáng điệu cực thanh nhã. Nàng lễ phép:
      - Tiểu nhân tên Thụy-Hương. Còn tiện phu tên Linh-Bảo.
      - Hay quá. Chúng tôi muốn được thưởng lãm bài Tỳ bà hành của Bạch Lạc-Thiên, ca theo cổ điệu.
      Thiếu nữ thấy Thanh-Mai muốn nghe khúc hát rất tao nhã thời Đường, tỏ ý kính phục:
      - Tiểu nữ xin tấu hầu quan gia cùng phu nhân.
      Khai-Quốc vương được quan Thái-phó dạy rất kỹ về văn học Hoa, Việt. Song Vương chỉ chú ý về kinh, sử, nhất là chư tử học, hầu áp dụng vào việc trị nước. Đối với thơ văn, Vương liếc qua, rồi bỏ. Vì vậy khi Vương-phi đề cập đến khúc hát này, Vương ngơ ngác. Thanh-Mai biết ý chồng, nàng giảng:
      Bạch Cư-Dị là đại thi hào đời Đường. Ông hiệu Lạc-Thiên. Học giỏi, đậu tiến sĩ. Niên hiệu Nguyên-hòa thứ mười (815), bị giáng chức làm Tư-mã ở Cửu-giang. Mùa thu năm sau, nhân tiễn khách ở bến Bồn, giữa đêm nghe tiếng đàn thảm thiết bên sông vọng lên. Hỏi ra mới biết đó là tiếng đàn của đệ nhất danh kỹ đế đô, về già, lấy một lái buôn trà. Lái buôn để nàng trên con thuyền vắng, rồi xuôi ngược bốn phương. Bạch cảm thán cho danh sĩ với giai nhân, cùng kiếp hoa nghiêm nặng nợ» mời nàng qua thuyền mình đánh đàn, hát. Nàng vừa hát vừa kể lại cuộc đời đoạn trường của mình. Nhân đó Bạch làm bài ca này lưu niệm.
      Nhạc công cầm ống tiêu để lên miệng thổi. Tiếng tiêu vừa cất lên, khiến cả tửu lầu đang ồn ào, bỗng trở lên im phăng phắc. Tiếng tiêu tuy nhỏ, mà vang đi rất xa. Khi cao lên vút từng mây, khi thấp tiếng thì thầm của đôi tình nhân.
      Linh-Bảo tấu xong một đoạn, Thụy-Hương vừa dạo đàn, vứa hát. Tiếng nàng trong dài, cao vút nhưng nhẹ như gió thoảng, hoà hợp với tiếng tiêu như đứt ruột khách đa tình:

      Tầm-dương giang đầu dạ tống khách,
      Phong diệp lô hoa thu sắt sắt.
      Chủ nhân hạ mã, khách tại thuyền,
      Cử tửu dục ẩm vô quản huyền.
      Túy bất thành hoan thảm tương biệt,
      Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt.
      Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh,
      Chủ nhân vong quy khách bất phiết (1)



      Ghi chú

      (1) Phan Huy-Vịnh dịch như sau:

      Bến Tầm-dương cannh khuya đưa khách,
      Quạnh hơi Thu lau làch đìu hiu,
      Người xuống ngựa, khách dừng chèo,
      Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ty.
      Say luống những ngại khi chia rẽ,
      Nước gương trong đượm vẻ gương soi,
      Tỳ bà đâu vẳng bên sông,
      Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi.


      Thanh-Mai giảng giải:
      - Bến Tầm-dương, buổi tối, tiễn khách. Bến sông nghe lá lau cọ vào nhau sàn sạt. Chủ nhân xuống ngựa, khách xuống thuyền. Hai bên cùng cất chén, mà cạn không được. Tuy say, mà không vui, vì phải xa nhau giữa cảnh sông trăng thê lương. Hốt nhiên tiếng đàn từ đâu vọng lại. Khiến chủ nhân không muốn về, khách dùng dằng chẳng cất bước.
      Thụy-Hương ca dứt một đoạn, nàng dạo đàn, rồi chuyển sang tiếng Việt, làm Khai-Quốc vương với Thanh-Mai bỡ ngỡ không ít. Cứ thế cho đến câu cuối cùng:

      Tựu trung khấp hạ thùy tối đa,
      Giang-châu Tư-mã thanh sam khấp.(2)


      Ghi chú

      (2) Phan Huy-Vịnh dịch như sau:

      Lê ai chan chứa hơn người,
      Giang-châu Tư-mã đượm mùi áo xanh


      Thình lình có tiếng la hét ở dưới vọng lên. Thực khách cùng đổ xô ra nhìn xuống. Bên dưới, một ngư nhân hình dáng rất kỳ dị, chân dài thoòng, mình ngắn đang chạy trước. Phía sau một vị võ quan phùng mang, trợn mắt, tay cầm kiếm đuổi theo. Ngư nhân vừa chạy, vừa quay lại, miệng thè lưỡi ra nhát viên võ quan. Viên võ quan đuổi sát đến sau lưng ngư nhân vung kiếm lên chém.
      Ngư nhân trầm người xuống tránh, rồi xé vạt áo viên võ quan đến xoạc một tiếng. Y chạy ngược trở lại, miệng cười ha hả, để tay lên mũi tỏ ý kiêu ngạo viên võ quan.
      Viên võ quan lại hùng hổ đuổi theo. Ngư nhân chờ cho y tới gần, xả kiếm chém rồi trầm người tránh, tay vung ra xé áo nữa. Lần này viên võ quan để hở cả ngực, lông lá đen sì. Dân chúng vỗ tay cười ha hả.
      Giữa lúc ngư nhân, võ quan rượt bắt, có ba người đi tới. Thoáng nhìn, Thanh-Mai đã nhận ra Đông-Sơn lão nhân, Dư Tĩnh với Địch Thanh. Dư Tĩnh nhìn thân pháp ngư nhân, nói với Địch Thanh:
      - Sư đệ, người thử đoán xem ngư nhân thuộc môn phái nào?
      Địch Thanh lắc đầu:
      - Khó đoán quá. Cái trầm người lần trước giống thân pháp phái Sài-sơn. Y vung tay xé áo, thuộc ưng trảo phái Đông-a. Khi chạy y dùng khinh công phái Mê-linh. Chắc chắn y người Giao-chỉ chứ không phải người vùng này.
      Viên võ quan đuổi không kịp ngư nhân, miệng thở hào hển. Ngư nhân ngừng lại để tay lên mũi cười trêu:
      - Này đại nhân. Đại nhân thân làm tới Thiên tướng, mà không giữ lời hứa. Như vậy có xứng đáng không?
      Ngư nhân chìa ra cái bọc:
      - Thôi trả đại nhân đây.
      Viên võ quan chạy lại, dơ tay tiếp cái túi. Khi tay y sắp chạm vào túi, thì ngư nhân lùi một bước. Không hiểu y dùng cách gì, đã đứng sau viên võ quan. Y vỗ tay vào cổ viên võ quan. Viên võ quan đứng im như trời trồng, không động đậy.
      Ngư nhân cười xì, rồi chạy vào đám đông. Nhưng thấp thoáng, một người đã đứng trước mặt ngư nhân. Suýt nữa ngư nhân đâm sầm vào người kia. Ngư nhân dừng lại trợn mắt nhìn người đó. Y chính thị Dư Tĩnh.
      Thanh-Mai hỏi sẽ chồng:
      - Anh có biết ngư nhân là ai không?
      - Lê-Văn!
      - Đúng đó! Anh ra lệnh cho bọn năm ông thiên lôi tự do phá phách. Em e trấn Khúc-giang này đến nổ tung ra mất.
      - Em đừng sợ. Đám sư đệ của mình đều được huấn luyện rất kỹ. Căn bản luân lý, võ đạo cực cao. Sau nhiều biến cố, anh muốn thả chúng ra, hầu biết khả năng chúng đến đâu.
      Lê Văn ngửa mặt nhìn Dư Tĩnh:
      - Ô hô! Ngài An-phủ sứ Quảmg-Tây! Ngài sang đây làm gì vậy?
      Liếc thấy Đông-Sơn lão nhân với Địch Thanh, nó méo miệng trêu:
      - Ồ! Lại cả Đông-Sơn đạo sư cùng với Địch trạng nguyên nữa.
      Bình-Nam vương Triệu Thành muốn bí mật đem tùy tòng tới Khúc-giang, nên đã phải bầy ra kế cho Phạm Trọng-Yêm bắt đi, rồi đám Đông-Sơn lão nhân, Minh-Thiên chia làm hai, âm thầm đi sau, quỷ không biết, thần không hay. Bây giờ thấy quái nhân gọi đích danh ra giữa chỗ đông. Ba người giật mình đến thót một cái, tự hỏi:
      - Quái nhân này lý lịch ra sao?
      Dư Tĩnh tuyệt không ngờ ngư nhân nhận được mình. Y hỏi:
      - Này ông bạn. Ông bạn đại danh gì vậy?
      - Ta không có đại danh, mà chỉ có tiểu danh thôi. Ta họ Lạc. Bố ta tên Lạc-long-Quân, mẹ ta tên Âu-Cơ.
      Lê Văn cười ha hả:
      - Dư an phủ sứ! Người thân làm biên cương đại thần, tổng trấn Quảng-Tây lộ, nhiệm vụ không nhỏ, người sang đây làm gì vậy?
      Dân chúng thấy ngư nhân gọi một khách quan là An phủ sứ, rồi khách quan ứng lời đáp lại. Họ giật mình tự hỏi:
      - Vị đại quan này từ Quảng-Tây sang đây làm gì vậy kìa?
      Triều Tống, quan lại đối với dân chúng cực kỳ oai vệ. Chức An-phủ sứ, thuộc hàng cực phẩm, quyền hành biên thùy một cõi, có quyền tiền trảm, hậu tấu đối với bất cứ quan dân nào phạm tội. Khi An-phủ sứ đi ra ngoài, tiền hô hậu ủng, hào lại, hương lý phải thắp hương đứng đón bên đường, hai tay chắp lại vái dài. Bây giờ họ thấy Dư Tĩnh an nhàn trong lớp y phục quý tộc. Họ tin ngay.
      Dư Tĩnh chỉ cái túi trên vai Lê Văn:
      - Ông bạn! Cái túi kia không phải sở hữu chủ của vị tướng quân. Nó là túi của đức hoàng-đế ban cho y, trong đựng bằng sắc, ấn tín. Ta muốn ông bạn trả viên võ quan cái túi này!
      - Trả ư? Thì tôi trả. Đây, ngài cầm lấy đi.
      Nó đưa cái túi cho Dư Tĩnh. Dư Tĩnh tiếp túi.
      Thình lình tay Lê Văn phóng chỉ đến véo một tiếng, trúng huyệt Khúc-trì của Dư Tĩnh. Chân tay y cứng đơ. Lê Văn luồn tay, giật cái bọc của Dư, rồi bỏ chạy.
      Địch Thanh kinh hoảng vọt mình theo Lê Văn, lập tức Lê Văn phóng lại phía sau một viên thuốc. Thuốc tan thành bột. Địch Thanh tưởng thuốc độc, y kinh hãy nhảy lui liền bốn bước. Lê Văn đã biến mất.
      Một đội lính tuần tới. Chúng vội đỡ viên võ quan đem đi. Địch Thanh cũng vác sư huynh rời khỏi đám đông.
      Khai-Quốc vương với Thanh-Mai trở về bàn. Nàng ca kỹ Thụy-Hương vẫn còn ngồi đó. Thanh-Mai xin lỗi:
      - Chúng tôi sơ ý quá, để uổng phí thời gian nghe giọng vàng của cô nương.
      Nàng móc túi tặng Thụy-Hương một nén bạc. Tại Quảng-Đông hồi đó, một nén bạc có mười lượng. Một lượng ăn trăm quan tiền. Một khúc hát, cao nhất khoảng trăm đồng. Như vậy Thanh-Mai trả cao gấp sáu trăm lần. Thụy-Hương cúi đầu cảm tạ.
      Thanh-Mai hỏi:
      - Cô nương có biết viên võ quan đó lý lịch ra sao không?
      - Thưa phu nhân, ông tên Nguyễn Văn-Kiên, chỉ huy đội kị binh trấn này. Nguyên sáng nay có năm ngư nhân câu cá bên sông. Không biết họ từ đâu đến, và dùng thứ mồi gì không rõ, câu được mấy con cá chép cực to. Họ mang lên chợ bán. Văn-Kiên đang uống rượu trên tửu lầu, đòi tửu bảo mua con to nhất, rán cho ông ta ăn. Ngư nhân ra giá một trăm đồng. Văn-Kiên chỉ trả có mười đồng. Thế rồi hai bên gây gổ nhau. Văn-Kiên nổi cộc, dùng sức đoạt con cá. Ngư nhân cười xoà, cầm cần câu vung lên, lưỡi câu móc trúng cái túi trên lưng Văn-Kiên rồi bỏ chạy. Cuộc rượt bắt khắp trấn từ sáng đến giờ mới chấm dứt.
      Linh-Bảo tiếp:
      - Suốt mấy hôm nay, năm ngư nhân phá phách làm trấn này muốn nổ tung ra được. Có điều ngư nhân chỉ trêu ghẹo bọn cường hào, ác bá, bọn tham quan ô lại. Chứ đối với dân chúng lại cực kỳ lễ độ. Nên ai cũng ưa.
      Thụy-Hương móc trong túi ra cái hộp nhỏ:
      - Tiểu nhân bị đau cổ suốt tháng nay, không thầy lang nào trị được. Thế mà một ngư nhân bảo tiểu nhân thè lưỡi cho coi, chẩn mạch, rồi ban hộp thuốc này. Lạ thay chỉ uống một ngày bệnh đã hết.
      - Thế họ có đòi tiền không?
      - Không những không đòi tiền, mà còn cho tiểu nhân cái này nữa.
      Nàng trình ra một đồng tiền vàng, trên khắc hình con chim âu với con rồng đó là biểu hiệu của trưởng lão Lạc-long giáo. Thanh-Mai giật mình nghĩ thầm:
      - Chắc hai người này do Thiệu-Thái sai đi tìm mình đây.
      Vương biết Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đã đến đây từ trước, hàng ngày sai chim ưng thông tin cho vương biết mọi diễn biến xẩy ra. Bây giờ hai người sai Thụy-Hương cầm ống sáo trong bọc đưa ra cho Thanh-Mai, chắc có điều gì trọng yếu.
      Hương nói:
      - Phu nhân! Duyên may gặp tri âm, xin dâng phu nhân ống tiêu này làm lưu niệm.
      Thanh-Mai vội tiếp ống tiêu:
      - Đa tạ cô nương.
      Linh-Bảo, Thụy-Hương chắp tay vái, xuống lầu.
      Khai-Quốc vương cùng Vương-phi trả tiền, rồi xuống lầu, dạo chơi khắp trấn. Đi đến đâu vương cũng nghe đồn về hành trạng của năm ngư nhân, rồi năm thiếu niên Việt, rồi năm bà già, năm ông già. Dân chúng cho rằng những dị nhân đó không ở trong trấn. Có lẽ họ thuộc một bang, một phái nào từ Đại-Việt sang cũng nên.
      Thanh-Mai nói nhỏ vào tai chồng:
      - Anh coi! Bọn chúng giả trang hay quá, đến nỗi người ta tưởng có bốn bọn khác nhau.
      Tới khu vực gần dinh quan tổng trấn, một đám đông người đang vây thành vòng tròn. Phải khó nhọc lắm, hai người mới chen được chân, nhìn vào. Liếc qua, bất giác Thanh-Mai suýt bật thành tiếng cười.
      Bên trong, có bốn thầy lang, cùng cô gái trang phục theo lối Quảng. Cô gái chính là Hà- Thiện-Lãm. Tự-Mai đang diễn thuyết:
      - Anh em chúng tôi, bốn người làm nghề bán thuốc rong từ Đại-Việt sang đây. Chúng tôi nguyện chữa trị cho dân chúng, không đòi tiền. Tuy nhiên các vị cho tiền do tự nguyện, xin bỏ vào chiếc rá này.
      Dân chúng ào ào hỏi:
      - Chữa được những bệnh gì?
      - Một là chúng tôi không chữa cho người chết sống dậy được. Hai là không chữa được bệnh hủi. Ba là không chữa được bệnh lao. Bốn là không chữa cho người bị cổ chứng. Năm là không chữa được bệnh lại (ung thư ngày nay).
      Giữa lúc đó, có tiếng kêu la, rồi người ta rẽ đám đông đi vào. Một trung niên nam tử bồng đứa trẻ nói: - Các thầy lang ơi. Xin cứu con tôi với.
      Lê Văn hỏi:
      - Bệnh tình cháu ra sao?
      - Con ở nhà tôi cho cháu uống thuốc, đã cho cháu uống lầm thuốc nhuộm. Hiện cháu đau bụng khốn khổ từ nãy đến giờ.
      Lê Văn chẩn mạch sơ qua rồi nói:
      - Không hề gì.
      Nó mở hộp lấy kim, vạch áo đứa trẻ, châm vào huyệt Kiên-tĩnh, rồi dồn chân khí vào. Phút chốc, đứa trẻ buồn mửa. Mửa thốc mửa tháo ra.
      Đợi đứa trẻ mửa xong, Lê Văn vẫy tay, Tự-Mai trao cho nó bát nước:
      - Uống nước đi cháu.
      Đứa trẻ uống hết bát nước. Lê Văn lại xoay kim. Đứa trẻ tiếp tục mửa. Cứ như vậy bốn lần, Lê Văn cầm kim châm vào huyệt Nội-quan, Công-tôn, Túc-tam-lý, Thái-khê, Thái-xung đứa nhỏ. Tay nó vỗ lưng thằng bé:
      - Cháu khỏi đau bụng rồi! Độc đã mửa ra hết.
      Nó nói với người cha:
      - Ông về lấy một cân đậu xanh, cả vỏ, dã nhỏ, chắt lấy nước sống cho cháu uống. Chiều cháu tiêu chảy, nhưng đừng sợ. Độc chất tôi đã dùng châm cứu trục ra hết, phần còn lại, đậu xanh sẽ hoá giải đi.
      Ông bố đứa trẻ chắp tay lạy dài rồi bế con về.
      Đám đông có nhiều người đến xin trị bệnh. Lê Văn chữa. Tự-Mai, Tôn Đản, Thuận-Tông phụ giúp. Cô Thiện-Lãm phát thuốc. Tiền trong rá đã đầy ắp.
      Bỗng có tiếng hò hét, rồi đám đông rẽ ra. Một đội trưởng dẫn năm người lính đeo đoản đao đi vào. Người đội trưởng hất hàm hỏi:
      - Trong năm người, ai cầm đầu?
      Tôn Đản bước ra:
      - Thưa, tôi.
      - Các người là người Việt sang đây phải không?
      - Vâng.
      - Thẻ bài nhập cảnh đâu?
      Tự-Mai hỏi ngược lại:
      - Trong trấn này có đến mấy vạn người Việt, đâu cần thẻ bài nhập cảnh!
      Đội trưởng lắc đầu:
      - Không có thẻ bài nhập cảnh chắc làm gian tế. Mau về gặp quan trấn thủ.
      Tự-Mai dốc cái rá tiền vào túi, nháy các bạn rồi hô lớn:
      - Hò dô ta! Nào cùng đi!
      Năm đứa vung tay, phát chưởng tấn công vào năm người lính. Năm người lính tuyệt không ngờ mấy thầy lang dám đánh quan binh, nên không đề phòng. Họ trầm người xuống tránh. Thì nhanh như chớp bọn Tôn Đản đã biến vào đám đông mất dạng.
      Khai-Quốc vương với Thanh-Mai dạo chơi một vòng trấn, rồi về thuyền. Vừa tới thuyền, Phi Lịch báo:
      - Khải tấu vương gia, có năm kỳ lão xin yết kiến vương gia, dâng thổ sản. Thần đã mời họ vào khoang chính, chờ Vương-gia nhưng họ từ chối xin về, sẽ tới hầu Vương-gia sau.
      - Họ tặng gì vậy?
      - Hoa quả, gà nướng, cá nướng, lợn quay, chim hầm.
      Khai-Quốc vương vào khoang. Trên bàn có con lợn sữa quay vàng ngậy. Mũi cắm một đóa hoa hồng. Một mâm khác, trong để năm con gà nướng, trang trí theo tư thức đứng. Bốn con mái, chầu vào con trống ở giữa. Một mâm nữa, có năm bát bằng bạc, mỗi bát đựng một con bồ câu hầm thuốc với ngũ đậu. Một mâm khác, đựng cặp cá chép rán vàng, mà miệng vẫn thở hào hển. Hai mâm đựng đủ thứ quả, điểm thêm hoa cao nghệu thực đẹp.
      Thanh-Mai hỏi:
      - Họ có xưng tên không?
      - Không. Họ nói họ sẽ trở lại.
      Khai-Quốc vương biết ngay đây là trò hý lộng quỷ thần của năm cậu em. Vương nói với Thanh-Mai:
      - Anh cho phép chúng phá, không ngờ hết chỗ phá, chúng phá cả mình.
      Thanh-Mai cười:
      - Tự anh chỉ cấm chúng không được phá dân chúng. Anh đâu có phải dân chúng, mà bọn quái chừa ra?
      Vương truyền Phi Lịch chia cho thuyền phu cùng nhau ăn uống. Còn Vương với Vương-phi lên sàn thuyền ngắm Khúc-giang trong đêm. Vương lấy ống sáo mà Hương-Bảo trao cho đem ra ngắm: Trong ruột có cuộn giấy. Vương moi ra xem. Giữa ống có hơn mười tờ giấy tấu trình của Mỹ-Linh từng chi tiết một về những gì đã xẩy ra. Quan trọng nhất, gồm chi tiết cuộc tìm kiếm vết tích kho tàng ở cửa Sa-khẩu, lăng Khúc-giang ngũ hùng.
      Hơn nửa tháng liền, ngày nào cũng có người mang thức ăn trân quý tới, xưng là kỳ lão, dâng thức ngon vật lạ lên Khai-Quốc vương. Thanh-Mai sốt ruột nói:
      - Chúng mình đã xuất hiện. Bọn Tôn Đản nhờ nhà hàng làm thức ăn, sai bô lão mang đến. Truyện này chỉ một ngày, cả trấn đều biết anh ở đây. Thế mà bọn quan quân chưa tới. Dường như bọn Triệu Thành âm mưu gì, mới cấm không cho quan quân hỏi đến chúng ta.
      Một hôm, Vương với Vương-phi đi lễ lăng Khúc-giang ngũ hùng về, Phi Lịch báo:
      - Khải tấu Vương-gia. Bô lão khiêng đến dâng Vương-gia hai cái rương lớn. Họ nói rằng trong có lễ vật cực trân quý. Xin đích thân Vương-gia mở ra.
      Khai-Quốc vương cắt dây, mở rương thứ nhất ra. Bất giác mọi người la hoảng. Bên trong rương có một người nằm thẳng cẳng. Người này mắt mở, mà không động đậy được.
      Phi Lịch túm áo người đó đem ra. Thanh-Mai kinh hãi, vì y chính là trưởng lão Lê Đức của Lạc-long giáo, có nhiệm vụ tới Khúc-giang liên lạc với giáo chúng đón Thiệu-Thái, Mỹ-Linh.
      Vương sai mở rương thứ nhì, người nằm trong là Đào Nhất-Bách. Vương sờ tay vào mũi thấy hai người còn thở. Thanh-Mai bắt mạch hai người. Nàng bật cười:
      - Hai người này bị mấy ông em quý của chúng mình điểm huyệt, bắt cóc đến đây hí lộng mình.
      Nàng xoa tay giải huyệt. Hai người cử động được liền. Hai trưởng lão hành lễ với Vương. Vương hỏi:
      - Hai vị làm sao mà bị giam vào thùng như thế này?
      Lê Đức, Đào Nhất-Bách tường thuật tỷ mỷ mình bị ngư nhân điểm huyệt bắt sống trong trường hợp nào. Trước khi cho hai người vào thùng. Một ngư nhân nói nhỏ:
      - Tôi xin lỗi hai trưởng lão, khi mời hai trưởng lão bằng lối này. Vì tai mắt Tống tại đây rất nhiều. Chúng tôi đưa hai vị đi giúp Khai-Quốc vương, mà không muốn cho giáo chủ ỉn hay.
      Thanh-Mai hỏi Lê Đức:
      - Trưởng lão có biết ngư nhân thân thế, lý lịch ra sao không?
      - Không! Dường như họ không có ác ý thì phải.
      - Đúng thế. Họ rất quen, rất thân với chúng ta. Mai này các vị sẽ gặp họ.
      Khai-Quốc vương ghé tai hai người dặn nhỏ hơn một giờ. Hai người vâng dạ. Vương tiếp:
      - Tuyệt đối không liên lạc với Thiệu-Thái, Mỹ-Linh. Hành tung họ đã bị lộ rồi.

      Ghi chú
      Mỹ-Linh ngồi nghe năm cậu em thuật lại những gì diễn ra trong khi nàng với Thiệu-Thái theo bọn Triệu Thành. Sau hồi này phái đoàn Khai-Quốc vương với Mỹ-Linh, Thiệu-Thái hợp làm một.

      <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 02:43:39 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 19.01.2005 18:33:26 (permalink)
        Hồi thứ chín mươi tư

        Gánh vàng đi đổ sông Ngô,
        Đêm đêm tơ tưởng đi mò sông Thương
        ( Ca dao)


        Mỹ-Linh nghe năm cậu em thuật lại những gì xẩy ra tại Bắc-biên, Tản-lĩnh cùng trên đường đi sứ của Khai-Quốc vương, nàng cũng thuật bước đường gian nan của nàng với Thiệu-Thái, Thiếu-Mai, Lệ-Thanh suốt mấy tháng qua. Nghĩ lại, thực như một giấc mơ. Nàng cốc tay lên đầu Lê Văn:
        - Cậu em này gớm thực. Tôn Đản, Tự-Mai phá chị chưa đủ, sao mà cậu cũng tiếp tay nữa. Ta phải mách chị Thiếu-Mai, đánh cậu què chân cho bõ ghét.
        Lê Văn phân trần:
        - Chị đòi phạt em như vậy là vô lý. Bất công!
        - Bất công ở chỗ nào?
        - Khi khởi hành ra đi, anh cả trao cho Đản chỉ huy. Tự-Mai bầy kế. Chị muốn phạt, phải phạt anh chàng quân sư thầy chùa mũi trâu Tự-Mai. Chứ em là Thiên-Lôi, chỉ đâu đánh đó, em tội tình gì?
        Mỹ-Linh đưa mắt nhìn Tự-Mai:
        - Một năm, chị không nói truyện với cậu nữa!
        Tự-Mai cười khúc khích:
        - Trước khi khởi hành, anh cả truyền lệnh bọn em tha hồ phá phách. Song cấm phá phách dân chúng. Chị có phải dân đâu? Chị là công chúa mà? Ông ỉn còn bảnh hơn, ông ỉn làm tới giáo chủ chứ thường đâu. Em phá như vậy còn là ít đó. Em phá luôn cả anh cả với chị Thanh-Mai nữa, mà ông bà ấy có nói gì đâu?
        Nó chưa nói hết ý, thì Bảo-Hòa ra gọi nó vào gặp Khai-Quốc vương. Không dám chần chờ, nó đi liền.
        Mỹ-Linh nghĩ đến việc Tự-Mai với Thuận-Tường. Nàng hỏi Tôn Đản:
        - Em đã đoán thân thế Thuận-Tường ra sao chưa? Có lẽ ít ra nàng là con một đại quan. Chứ không, sao toàn phái Hoa-sơn, từ sư phụ cho tới sư thúc đều nể nang, kính trọng, coi như thuộc vai lớn hơn.
        Thuận-Tông cũng nói:
        - Em thấy lời nói của nàng đầy vẻ trịch thượng. Dù thế nào chăng nữa, chúng ta cũng phải chú ý bằng này điều: Nàng theo học với Bắc-Sơn lão nhân, võ công không tầm thường. Thế mà khi động thủ đánh Tự-Mai lại làm bộ như không biết võ. Mục đích làm gì? Nàng với Triệu Tiết rõ ràng có tình ý. Sau khi Tự-Mai ôm nàng, cứu thoát độc chưởng, hai cơ thể đụng chạm nhau. Nàng đổi sang có tình ý với Tự-Mai. Khi Tự-Mai tiễn nàng tới biên giới, toàn thể phái Hoa-sơn cố ý lờ đi, để nàng lùi lại sau tặng kiếm cho anh ấy.
        Thiệu-Thái đặt nghi vấn:
        - Truyện này cậu hai biết chưa?
        Thuận-Tông gật đầu:
        - Chắc là biết. Vì với con mắt cú vọ, có gì qua mắt được anh Thiệu-Cực đâu? Lại nữa trong tiệc tiễn đưa phái Hoa-sơn, mạ mạ chỉ liếc mắt một cái là biết ngay. Mạ mạ biết, anh Thiệu-Cực biết, chắc chắn hai người phải nói với anh cả.
        Thiệu-Thái chau mày lại, lắc đầu:
        - Cậu hai biết, sao cậu không nói gì?
        Mỹ-Linh thấy người yêu thật thà quá, nàng dơ tay đập sẽ lên vai:
        - Anh chưa biết tính chú hai. Đối với những gì liên quan đến tình cảm lứa đôi, chú thường có hai thái độ. Khi sự việc có thể đưa đến tai hại. Chú can thiệp ngay. Như vụ Vương-mẫu, phu nhân Tự-An, Hồng-Sơn muốn tự tử, chú cản liền. Còn những vụ vô hại, hoặc đi đến kết quả tốt, chú giữ thái độ im lặng. Như vụ em với anh. Vụ Thiệu-Cực, Thanh-Trúc. Vụ Kim-Thành, Trường-Minh với Thuận-Tông, Thiện-Lãm.
        Nàng kết luận:
        - Có điều chúng ta không rõ chân tướng Thuận-Tường ra sao mà thôi. Chẳng lẽ cuộc chia tay hôm ấy trở thành vĩnh-quyết, hoá ra duyên phận Tự-Mai hẩm hiu như vậy sao?
        Tôn Đản tỏ ra rất quan tâm tới vụ này:
        - Từ hôm đó tới giờ, lúc nào Tự-Mai cũng như người mất hồn. Nó bàn với em, thế nào nó cũng tìm đến núi Hoa-sơn gặp nàng. Em an ủi nó rằng kỳ này chúng ta tới Biện-kinh giữa lúc tuyển võ. Ắt hẳn đệ tử Hoa-sơn kéo về ứng thí. Đương nhiên Bắc-sơn lão nhân sẽ hạ sơn trợ giúp đệ tử mình. Thuận-Tường vốn thích ồn ào thế nào cô ta cũng xin đi theo. Hoặc giả cô ta không tới, ta nhờ chị Thanh-Mai hỏi thăm Đông-Sơn lão nhân, Dư Tĩnh, Địch Thanh. Họ đều người phái Hoa-sơn cả, chắc sẽ biết lý lịch cô nàng. Từ đấy nó mới bớt nẫu.
        - Em cho chị xem thanh kiếm của Thuận-Tường chút nào.
        Mỹ-Linh nói với Lê Văn.
        Vì khi Tự-Mai vào gặp Khai-Quốc vương, nó trao kiếm cho Tôn Đản. Tôn Đản trao cho Lê Văn.
        Mỹ-Linh đỡ lấy thanh kiếm. Kiếm để trong túi bằng nhung mầu đỏ sẫm, có hai nút thắt. Trên túi thêu hình một thiếu nữ đang đứng ngắm núi Hoa-sơn, với hoa, lá, cỏ cây rất sống động. Thiếu nữ đó là Thuận-Tường. Dưới thêu bốn câu thơ của Tào Thực thời Kiến-an, mô tả mỹ nhân.
        Mỹ-Linh mở túi, lộ ra bao kiếm bằng bạc sáng chói. Trên khắc chi chít những hình người. Nàng nhận ra đó là các chiêu thức Hoa-sơn kiếm pháp, mà nàng đã thấy Đông-Sơn lão nhân xử dụng.
        Tò mò, Mỹ-Linh rút thanh kiếm ra. Anh hàn quang tỏa lạnh toát. Kiếm bằng thép dường như rất cổ. Chuôi bằng vàng, chạm tới bẩy mươi hai hạt kim cương, mười tám viên hồng ngọc. Hạt nào cũng lớn, cạnh đó, hai chữ Thuận-Tường theo lối triện cực hoa mỹ.
        Mỹ-Linh nghĩ thầm:
        - Mình là công chúa phủ Khai-Thiên, được ông, được cha, chú cưng chiều, mà chuôi kiếm cũng chỉ dát những viên ngọc bích, hồng ngọc, chứ không dát kim cương như Thuận-Tường. Vậy nàng là ai? Không lẽ là con Dư Tĩnh? Vương Duy-Chính? Hay một vị võ quan nào trong triều? Mỹ-Linh biết mấy cậu em đã tới tuổi trưởng thành, tình yêu nam nữ bắt đầu nảy nở, nàng nhủ thầm:
        " Đạo lý tộc Việt chúng ta từ mấy nghìn năm nay đã thành luật lệ bất di bất dịch: Cha mẹ đựng vợ gả chồng cho con cái. Phụ-mẫu quyền tuy có thực, song không tuyệt đối, mà còn tùy ý kiến đôi trẻ. Nhưng từ những năm Bắc-thuộc, người Hoa mang lễ giáo Khổng-Mạnh sang truyền bá. Đến nay Khổng, Mạnh đứng gần ngang hàng với Thích rồi. Mà Khổng-Mạnh dành cho phụ-quyền tuyệt đối. Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy. Hiện Thích, Khổng đã hòa nhập với nếp cũ tộc Việt, thành phong tục mới. Trong dân gian, việc dựng vợ gả chồng vừa có phụ-mẫu quyền, vừa có ý kiến đôi lứa."
        Nàng ngừng lại suy nghĩ:
        - Thế nhưng trong gia đình quyền quý, lại hoàn toàn theo Khổng. Phụ vương mình định gả mình cho tên Đàm An-Hoà. Cô hai quyết gả Bảo-Hòa cho Hưng-Long, cháu Dực-Thánh vương. Cô lại quyết định cưới Vi Huệ-Trân cho anh Thiệu-Thái. Cũng may, chú hai nêu cao ngọn cờ trở lại với nếp sống tộc Việt. Người muốn cho trai gái hiểu nhau, biết nhau, rồi mới thành gia thất.
        Nàng đưa mắt nhìn Thiệu-Thái:
        - Người dám chống lại mạng lệnh ông nội, không chịu thu nhận nhiều phi tần, cũng không kết hôn với Huệ-Phương, Hà-Thanh. Người xin thành hôn với Thanh-Mai. Ông bà nội phải chấp nhận.
        Nàng mỉm cười một mình:
        - Người nhất định chiều theo ý ta với Thiệu-Thái, vì vậy việc gì người cũng sai Thái đi với ta cho có bạn. Người kết hợp Thiệu-Cực với Thanh-Trúc. Ta theo gương người kết hợp Thuận-Tông, Thiện-Lãm với Kim-Thành, Trường-Ninh. Bây giờ nảy ra việc Tự-Mai, Thuận-Tường. Chỉ còn mình Tôn Đản chưa có ai. Kể ra với địa vị chú hai, bất cứ quận chúa, tiểu thư nào, người chỉ ngỏ lời, phụ huynh sẽ gả cho Đản ngay.
        Nàng đưa mắt nhìn Tôn Đản:
        - Đản xuất thân con nhà nghèo, nhưng được dạy dỗ chu đáo, lại sớm có chí khí, cùng tự hào dân tộc. Tiến trình tương lai không tầm thường. Nếu Đản lấy cô vợ chỉ biết hầu hạ, vâng dạ, thực chán chết. Theo chú hai, nếu ta với Thiệu-Thái đơn độc hoạt động, mỗi người đạt được kết quả năm phần. Ngược lại hai người cùng hoạt động, kết quả không phải mười, mà thành hai mươi lăm... Ta là chị, ta phải lo cho Đản mới được.
        Bảo-Hòa từ trong nhà ra vẫy:
        - Anh Thái, Mỹ-Linh! Cậu hai gọi. Cả bốn ông mãnh nữa.
        Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cùng bốn ông thiên lôi vào trong nhà khách của Ngô Cẩm-Thi. Không thấy Tự-Mai đâu, Mỹ-Linh kinh ngạc:
        - Rõ ràng chú gọi Tự-Mai vào hồi nãy, không biết bây giờ nó ở đâu?
        Tuy vậy nàng cũng không dám hỏi.
        Khai-Quốc vương ra hiệu cho mọi người ngồi. Vương chỉ Triệu Huy:
        - Bình-Nam vương ban chỉ dụ ân xá cho song thân Ngô cô nương. Lệnh này sẽ do Triệu chiêu thảo sứ về kinh. Ta muốn đưa toàn thể gia đình Ngô tiểu thư về Cửu-chân. Đường từ đây về Biện-kinh xa diệu vợi, mà trên đường đi chỉ có Triệu chiêu thảo sứ với Ngô tiểu thư e có điều bất tiện. Vậy ta phiền năm sư đệ đi hộ tống.
        Vương nói lớn:
        - Mọi chi phí dọc đường từ Biện-kinh về tới biên giới, Tự-Mai sẽ xuất tiền chi dụng. Còn từ biên giới về Thăng-long, do công nho Đại-Việt đài thọ. Ta đã thượng biểu về triều. Triều đình ắt cử người đi đón. Đối với huyết tộc của Ngô vương, các sư đệ phải tuyệt đối lễ phép, tôn kính.
        Vương mỉm cười:
        - Biện kinh rất phức tạp. Đế đô có hàng trăm quan đại thần, hàng vạn võ tướng. Tuyệt đối không được xử dụng võ công. Ta yêu cầu các sư đệ tuân theo lời chỉ dẫn của Triệu thống chế, hầu tránh đụng chạm với quan nha .
        Lê Văn hỏi:
        - Đệ có quyền trị bệnh cho người ta không?
        - Được chứ. Đệ càng trị cho nhiều người càng tốt. Nhưng không thể nhận tiền.
        Lê Văn gãi đầu:
        - Khó quá. Y đạo Lĩnh-Nam định rằng phàm khi trị bệnh, không nên, không được đòi tiền. Nhưng khi bệnh nhân tạ thầy, dù một trái cây cũng không nên chối. Chối làm tủi thân người ta. Nay anh cấm em nhận tạ, e khó quá.
        Khai-Quốc vương bật cười:
        - Được! Nếu như người ta tạ, thì đệ có quyền nhận.
        Thuận-Tông hỏi:
        - Trong năm đứa bọn em, đứa nào cầm đầu?
        - Vẫn như cũ. Đản chỉ huy. Tự-Mai làm quân sư. Sau khi gia quyến Ngô tiểu thư được ân xá, các sư đệ phải đưa về nước ngay. Không nên chần chờ.
        Tôn Đản cẩn thận:
        - Từ đây tới Biện-kinh bọn em phải nghe lời Triệu chiêu thảo sứ. Còn từ Biện-kinh về Đại-Việt, bọn em toàn quyền quyết định, hay còn phải tuân lệnh ai nữa không?
        - Không!
        - Bao giờ bọn em lên đường? Bọn em không ở đây giúp Bình-Nam vương đào kho tàng ư?

        Hơn ai hết, Triệu Nguyên-Nghiễm, cũng như Lý Long-Bồ, họ có con mắt tinh đời, trông rộng nhìn xa, vì vậy chỉ cần thấy đám Tôn Đản, Tự-Mai lần đầu, cả hai người đều biết đây là những thiếu niên khác thường, hàng triệu người mới có một. Suốt hai năm qua, đám Thiệu-Thái, Mỹ-Linh, Tôn Đản đứng vào vị thế đối lập. Chúng làm cho Nguyên-Nghiễm thất điên bát đảo bao phen. Chính vì vậy Nguyên-Nghiễm đã thấy chân tài sớm trổ trong chúng. Nay vì kết huynh đệ với Long-Bồ, Nguyên-Nghiễm được đám trẻ giúp sức. Nghe Tôn Đản hỏi y mừng vô hạn.
        Y nói với Tôn Đản:
        - Cảm ơn Thuận-Thiên ngũ hùng. Ta được lực lượng Đại-Việt của sư đệ Long-Bồ giúp sức, e Ngọc-Hoàng đại-đế muốn tranh cũng khó. Việc đem lệnh ân xá về kinh tuy giản dị, nhưng không dễ đâu. Cần phải có người đủ ba điều kiện: Làm cho đối phương khinh thường hầu tạo bất ngờ. Võ công cao. Cuối cùng tuyệt đối trung thành. Vì vậy ta bàn với Bồ đệ để năm chú đi. Các chú đi đây, mang theo thẻ bài của ta, tức như sứ giả của ta vậy. Ta cần dùng các chú vào vấn đề sao cho bọn đối nghịch ta kinh hãi.
        Thiện-Lãm nhăn nhó:
        - Như vậy chuyến đi này có hai nhiệm vụ. Một đón hậu duệ Ngô vương. Hai làm cho đối thủ của Triệu vương gia kinh hãi. Thế nhưng bọn em chẳng hiểu rõ vấn đề, sao thi hành được?
        Nguyên-Nghiễm vỗ vai Lãm:
        - Huynh đệ đừng lo. Tự-Mai đã nắm chắc vấn đề rồi.
        Thiện-Lãm thở phào:
        - Hà! Em hiểu rồi. Ba đứa Lãm, Tông, Văn làm Thiên-Lôi. Ông trời Đản, Mai bảo đánh đâu đánh đó!
        Nguyên-Nghiễm, Long-Bồ bật cười vì lời ví von của Lãm.
        Lê Văn hỏi:
        -- Bọn em lên đường ngay hôm nay ư?
        Nguyên-Nghiễm gật đầu:
        - Ngay bây giờ. Các huynh đệ về chỗ trọ lấy hành lý đi. Trên đường đi sẽ gặp Tự-Mai. Tự-Mai khởi hành trước rồi.
        Mỹ-Linh hỏi Khai-Quốc vương:
        - Thưa chú, chị Bảo-Hoà với anh Thông-Mai đâu rồi?
        - Bình-Nam vương nhờ hai người làm một việc trọng đại. Chúng ta hẹn gặp họ tại Biện-Kinh sau.
        Thế là sứ đoàn lại chia làm ba: Nhóm chính thức do Khai-Quốc vương dẫn đầu gồm Vương-phi, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái. Nhóm bí mật gồm Bảo-Hòa, Thông-Mai. Nhóm đi Biện-kinh gồm năm ông Thiên-lôi, do Tôn Đản dẫn theo Triệu Huy.
        Hôm nay là ngày mười bốn, theo như kế hoạch dự trù, Bình-Nam vương Nguyên-Nghiễm, mang theo các cao thủ Khu-mật viện Tống, cùng bang chúng bang Hoàng-Đế. Khai-Quốc vương Long-Bồ mang theo vương phi, Mỹ-Linh. Ngoài ra còn có Thiệu-Thái với cao thủ Lạc-Long giáo. Tất cả đều đến ngọn Tuyệt-phong.
        Bình-Nam vương phối trí mười ngàn quân, dàn ra khắp núi. Mỗi người trấn một khu. Như đến giờ Tý ngày rằm, cửa kho tàng dù ở bất cứ chỗ nào, mở ra, cũng có người thấy.
        Bình-Nam vương, Khai-Quốc vương đóng bản doanh ở một khu bằng phẳng trên sườn núi. Các cao thủ chia ra trấn mọi ngõ ngách. Hai vương đặt tiệc rượu cùng tùy tùng uống.
        Trăng mười bốn sáng như ban ngày. Khí trời cuối thu đã hơi hơi lạnh. Đôi khi có mưa phùn, nhưng đêm nay trời như chiều người, trăng tỏ rạng, khí trời ấm áp lạ thường.
        Thiệu-Thái, Mỹ-Linh trấn tại khu Đông ngọn Tuyệt-phong. Bình-Nam vương trao cho Thiệu-Thái thống lĩnh hơn trăm quân, quan sát khoảng mười mẫu (36.000 mét vuông ngày nay). Lệnh ban ra: Nếu thấy khu mình có gì lạ, phải báo ngay. Sau khi chia cho binh sĩ mỗi người coi một khoảng nhỏ. Hai người ngồi trên tảng đá, nhìn trăng.
        Tuy biết rằng xung quanh không ai biết tiếng Việt. Hai người vẫn cẩn thận nói truyện với nhau bằng Lăng-không truyền ngữ. Thiệu-Thái hỏi lại:
        - Chắc chắn em đã tìm ra bí quyết vào kho tàng rồi phải không? Em làm việc bí mật quá, đến anh mà cũng không biết.
        - Không phải chú hai không tin anh. Mà theo người, tính anh chân thực. Tỷ như em cho anh biết. Khi thăm lăng mộ Khúc-giang vương, ắt hẳn anh cũng kinh ngạc, rồi hỏi em, hoặc bàn một câu, trong khi đó quanh ta có hàng trăm mắt nhìn. Lộ ngay.
        - Tại sao cậu hai lại cho bên Tống tìm trước. Lỡ họ tìm thấy, hóa ra mình phí công vô ích ư?
        - Anh thực thà quá. Khi mình đã bố trí cho Thiệu-Cực với Thanh-Trúc cung cấp bản đồ kho tàng giả cho họ. Sao họ đào được?
        - Thế mình bỏ qua ngày rằm, phải sáu mươi năm sau mới đào được hay sao?
        - Anh để em nói cho mà nghe. Giờ Tý, ngày rằm, tháng mười một, năm Đinh-Mão chẳng qua là thuật ngữ mà thôi. Mình muốn đào bao giờ mà chả được.
        - Cậu hai định bao giờ đào?
        - Em sai chim ưng báo cho chú biết mọi bí mật. Không biết chú đào bao giờ? Biết đâu giờ này, vàng chẳng về tới đất Việt rồi cũng nên.
        Trăng đứng giữa đầu, Mỹ-Linh đo bóng mình, nàng thở dài:
        - Giờ Hợi rồi! Chỉ còn một giờ nữa thôi. Lúc này em e tim ông Triệu Nguyên-Nghiễm muốn nổ tung ra.
        Một đám mây đen từ phương Đông kéo tới. Gió hiu hiu lạnh. Thiệu-Thái chỉ đám mây:
        - Cơ chừng này trời sắp mưa rồi cũng nên.
        Quả nhiên đám mây từ từ che khuất mất mặt trăng, xòe bàn tay ra không nhìn thấy gì. Binh sĩ đốt đưốc lên. Ngọn Tuyệt-phong biến thành muôn nghìn ngôi sao lấp lánh. Thỉnh thoảng có những bó đuốc nhấp nhô, hay quay tròn, mục đích đánh tín hiệu cho các cấp chỉ huy.
        Mỹ-Linh, Thiệu-Thái dạo quanh khu vực của mình tuần phòng. Khu dưới hai người thuộc quản địa của Dương Đắc, bang Hoàng-Đế Trung-Quốc. Dương Đắc nhớ ơn Thiệu-Thái về việc giải trừ Chu-sa chưởng. Y gật đầu chào:
        - Giáo chủ, công chúa. Theo giáo chủ liệu có kho tàng hay không? Tôi tính chỉ riêng tiền nuôi hàng mấy vạn binh lính lên đây tìm kiếm thế này, e tốn kém không ít. Kho tàng chả biết có hay không, mà tiền vốn đã bộn rồi.
        Mỹ-Linh cũng đáp lơ mơ:
        - Tôi cũng nghĩ như tiên sinh.
        Ba người ngồi xuống viên đá nói truyện. Thiệu-Thái kể cho Dương Đắc nghe về Hồng-thiết giáo Đại-Việt, rồi chàng kết luận:
        - Hồng-thiết giáo do Hồng-thiết kinh mà ra, ma tính, qủy tính thực nhiều. Cuối cùng cũng phải thua phép Phật. Nhật-Hồ lão nhân thế mà sướng, bây giờ ngao du cùng Di-Lặc Tôn-Phật, điều mà chúng ta cầu không được. Đến Đặng Đại-Bằng...
        Thình lình một tiếng pháo nổ trên không thực lớn, rồi ánh sáng toả ra. Ba người im lặng, vì lệnh ban rằng khu nào tìm ra cửa hang, phải đốt pháo lệnh lên.
        Mỹ-Linh nhìn về phía ánh sáng, nàng cười thầm:
        - Khu vực cửa hang ở về phía Tây, trong khi pháo nổ ở phía Bắc. Vậy khu này đã tìm thấy gì cổ quái chăng?
        Nàng nói với Dương Đắc:
        - Bình-Nam vương có chỉ dụ. Khi thấy pháo hiệu, chúng tôi tụ về ngay. Vậy tiên sinh ở đây. Chúng tôi phải đi thôi.
        Hai người dùng khinh công hướng về phía pháo thăng thiên. Khoảng một khắc (1), đã tới nơi.

        Ghi chú

        (1) Giờ cổ bằng hai giờ ngày nay. Mỗi ngày có một trăm khắc. Như vậy một khắc gần bằng mười bốn phút.
        Tại đây đèn đuốc đốt sáng trưng. Bình-Nam vương, Khai-Quốc vương, Vương-phi đã tới nơi trước. Có Minh-Thiên, Phạm Trọng-Yêm, Dư Tĩnh.


        Khu sườn núi này thuộc quản địa của Địch Thanh. Địch Thanh chỉ vào hang đá:
        - Khải tấu vương gia. Khi thần tới đây, thấy tảng đá hơi có vẻ kỳ lạ, bởi nó dựng đứng trên sườn núi, mà từ dưới lên rõ ràng có con đường. Con đường đó trồng thông, lâu ngày thành những cây lớn.
        Mọi người nhìn tay y chỉ: Quả nhiên từ dưới chân núi đi lên, những cây thông hàng đôi, hàng ba thành dẫy ngoằn ngèo đi lên. Cây nào cũng lớn cả.
        Địch Thanh tiếp:
        - Sang giờ Hợi, ánh trăng rọi vào tảng đá, in bóng vào vách núi như hình ba thỏi vàng, cùng hai xâu ngọc. Trước những xâu vàng, thỏi ngọc, có mũi tên chỉ vào viên đá lớn này. Sáng đúng giờ Tý, tự nhiên có tiếng động, rồi viên đá từ từ hạ xuống, lộ ra cửa hang.
        Hàng trăm bó đuốc soi vào trong hang. Hang rộng vừa một người chui lọt, sâu hun hút. Khó biết bên trong có những gì.
        Triệu Thành đưa mắt hỏi ý kiến Phạm Trọng-Yêm. Yêm bàn:
        - Như vậy đúng với những gì ghi chép trong Lĩnh-Nam vũ kinh rồi. Có lẽ hang còn cơ quan, sau giờ Tý lại đóng như cũ, đợi sáu mươi năm sau mới mở ra nữa. Ta phải vào mau, phá hủy cơ quan mới được.
        Khai-Quốc vương đưa mắt nhìn Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, rồi dùng Lăng-không truyền ngữ:
        - Cháu có chú ý tới bóng ba thoi vàng, hai xâu ngọc không?
        Mỹ-Linh nhớ lại những gì ghi chép trong bảng thuật ngữ, nàng trả lời:
        - Tử địa! Vì trong vũ kinh ghi rõ: Gặp số năm thì chết. Phải tránh xa.
        - Đúng đấy! Bên Tống ắt cho người vào hang. Ta e núi lở. Ta với Nguyên-Nghiễm đã kết huynh đệ. Vậy có gì nguy hiểm, Thiệu-Thái cứu y ngay cho trọn tình nghĩa.
        Mỹ-Linh thuận miệng trả lời chú. Nhưng nàng cũng không hiểu tại sao tự nhiên núi lở, lộ ra cửa hang, mà tuyệt trong vũ kinh không nói tới.
        Triệu Nguyên-Nghiễm hỏi thủ hạ:
        - Ai muốn vào hang trước?
        Dư Tĩnh, Địch Thanh, Triệu Anh tình nguyện đi. Ba người, mỗi người cầm cây đuốc vào hang. Địch Thanh đi đầu, thứ đến Triệu Anh, Dư Tĩnh đi sau cùng. Ba người vào sâu chừng hai trượng, có bậc đá đi xuống. Trong hang mùi nước, mùi vách núi xông ra lạnh toát.
        Xung quanh cửa hang có hàng nghìn người, mà không một tiếng động. Ánh đuốc chập chờn sáng như ban ngày. Mây đen đã kéo đi, trăng lại tỏ rạng.
        Có tiếng Địch Thanh vọng ra:
        - Khải tấu vương gia xuống đến năm bậc thì hết. Trước mặt thần là vách đá bằng phẳng, có khắc chữ.
        Triệu Nguyên-Nghiễm hỏi:
        - Chữ gì, người đọc ta nghe xem nào?
        - Có hai bản văn. Một bằng chữ Hán, một bằng chữ Khoa-đẩu. Thần xin đọc chữ Hán:

        Tam, lục tung hoành,
        Hoàng long ngộ mã,
        Tần, Hán dĩ di,
        Tử địa đại họa(2)


        Ghi chú

        (2)Năm mà công chúa Yên-Lãng cùng công chúa Nghi-Hoà Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa tuân chỉ vua Trưng lên hồ Động-đình chở kho tàng về thuộc niên hiệu vua Trưng thứ ba (41 sau Tây-lịch).

        Triệu Thành gọi Quách Quỳ:
        - Quỳ. Trong hang còn bản văn bằng chữ Khoa-đẩu, người vào đọc xem có được không?
        Quách Quỳ lách người vào trong, nó đọc lớn:

        Vàng bạc không còn,
        Ngọc cũng biến mất,
        Kẻ tham hẳn chết,
        Chậm chân, bị chôn.


        Dư Tĩnh, Địch Thanh, Quách Qùy đã ra khỏi hang. Nguyên-Nghiễm hỏi Khai-Quốc vương:
        - Nhị đệ, ý nhị đệ thế nào?
        Khai-Quốc vương lắc đầu, đưa mắt hỏi ý kiến Vương-phi, cùng Thiếu-Mai.
        Thanh-Mai nói:
        - Khó quá. Muội thử giải, nếu có sai, xin đại ca đừng cười.
        Phạm Trọng-Yêm cũng đang ngẩn người ra suy nghĩ. Thấy Khai-Quốc vương phi nói, y chăm chú nghe.
        - Tam là ba. Lục là sáu. Tam lục tung hoành là mười tám. Hồi đó có gì ứng với mười tám? Năm mà công chúa Yên-Lãng tải kho tàng đi là niên hiệu Kiến-Vũ thứ mười tám đời vua Quang-Vũ nhà đông Hán.
        Phạm Trọng-Yêm, Vương Duy-Chính, Dư Tĩnh đều gật đầu tán thành.
        - Hoàng-Long ngộ Ngọ. Hoàng thuộc mầu vàng, thuộc Mậu, hay Kỷ. Long là rồng hay Thìn. Hoàng-Long tức ngày Mậu-Thìn. Ngộ Ngọ, tức tháng Ngọ là tháng năm.
        Phạm Trọng-Yêm ồ lên một tiếng:
        - Tần, Hán dĩ di có nghĩa kho tàng Tần, Hán đã đưa khỏi đây. Tử địa đại hoạ có nghĩa chỗ này muôn nghìn năm sau thành đất chết cho mọi người.
        Tuy nghe Khai-Quốc vương phi, Phạm Trọng-Yêm giải, nhưng Bình-Nam vương vẫn không tin.
        Mỹ-Linh dùng Lăng-không truyền ngữ nói với chú:
        - Phần thím giảng đúng. Còn phần Phạm giảng trật hết. Hai câu sau nói: Kẻ nào đến đây ắt chết.


        <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 02:45:50 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 19.01.2005 18:34:13 (permalink)
          Hồi thứ chín mươi lăm

          Dã tráng xe cát bể Đông,
          Nhọc mình mà chẳng nên công cán gì
          (Ca dao)



          Nàng nghĩ một lúc rồi tiếp:
          - Vũ kinh chép rõ: Sau khi đào kho tàng đi rồi, quanh núi có nhiều cửa hang mở ra. Ai chui vào phải chết. Cửa này mở, ắt kho tàng đào đi rồi. Không biết có phải mình đào không?
          - Mình đào đi cả gần tháng rồi. Ngay từ hôm cháu tìm ra chỗ cất, cùng mật ngữ chỉ rõ đường lối.
          Mỹ-Linh nghe chú thuật, nàng rùng mình:
          - Mình báo cho chú biết hôm mười chín tháng trước. Chắc hôm đó, chú cho đào ngay. Không biết giờ kho tàng đó ở đâu?
          Thình lình có tiếng cục cục trong hang vọng ra bốn lần. Mỹ-Linh đưa mắt cho Thiệu-Thái.
          Bình-Nam vương hỏi vọng vào:
          - Triệu Anh, cái gì vậy?
          - Có tiếng chuyển động ở trong hang.
          Lại có tiếng lộc cộc lớn hơn, rồi đất chuyển, tiếng ầm ầm vang lên, đá trên đỉnh núi rơi xuống phát ra những tiếng như sấm.
          Một tảng đá lớn rơi ngay xuống chỗ Bình-Nam vương. Thiệu-Thái di chuyển người tới nắm lấy vương, rồi tung thân lên như con cá nhảy khỏi mặt nước. Viên đá lăn dưới chân chàng. Chàng đạp chân vào viên đá lấy sức nhảy lên lần nữa. Chàng vừa chạm đất, lại bốn viên đá cùng lăn trên cao ầm ầm đổ xuống. Không kịp suy nghĩ, chàng ôm lấy Bình-Nam vương lăn liền năm vòng. Mấy viên đá trườn ngay dưới bàn chân chàng.
          Thiệu-Thái nhắc Bình-Nam vương đứng dậy thở, thì ầm, ầm, ầm, ba viên đá nữa rơi xuống ngay trên đầu. Chàng ôm Bình-Nam vương, tung người đáp trên trạc cây gần đó. Nhấp nhô mấy cái, chàng đã lên tới chỗ đỉnh núi bằng phẳng. Chàng đặt Bình-Nam vương xuống.
          Hú vía, Bình-Nam vương nghĩ thầm:
          - Khi cái chết gần kề, ai cũng lo thoát thân. Duy thiếu niên này cứu ta. Ơn này không nhỏ.
          Vương nắm tay Thiệu-Thái:
          - Đa tạ giáo chủ cứu mạng.
          Xung quanh chàng, Khai-Quốc vương, Vương-phi, Mỹ-Linh đều vô sự. Lát sau Minh-Thiên, Phạm Trọng-Yêm, Dư Tĩnh, Vương Duy-Chính, Địch Thanh đều tề tựu. Thiếu Triệu Anh, Quách Quỳ.
          Người người nhìn nhau kinh hoàng. Không ai còn hơi sức nói câu nào. Mọi người ngồi xuống đá nghỉ ngơi.
          Không hổ người cầm vận mệnh toàn quân Đại-Tống, qua cơn nguy hiểm, Bình-Nam vương lấy lại được bình tĩnh. Vương ra lệnh:
          - Phạm sư đệ. Người kiểm điểm lại xem, tử vong bao nhiêu?
          Phạm Trọng-Yêm tung mình xuống núi. Lát sau y lên. Tay kẹp Triệu Anh, Quách Quỳ. Y đặt Quách Quỳ, ngồi xựa mình vào phiến đá, người y đầy máu. Còn Triệu Anh nằm thẳng cẳng.
          Lê Thiếu-Mai bắt mạch Quách Quỳ. Nàng mở bọc trên lưng băng bó vết thương cho y, rồi nói:
          - Chỉ bị ngoại thương. Cần tĩnh dưỡng mươi ngày sẽ khỏi.
          Nàng bắt mạch Triệu Anh, lắc đầu:
          - Triệu lang-trung qua đời rồi. Đá đè bẹp lồng ngực, xương sọ vỡ ra thì còn sống sao được?
          Minh-Thiên đọc kinh vãng sinh cho Triệu Anh. Mọi người đọc theo. Không khí thực căng thẳng, nặng nề.
          Phạm Trọng-Yêm thở dài, nói với Bình-Nam vương:
          - Chỉ có mười hai binh sĩ chết. Bị thương hơn trăm. Xin vương gia ban chỉ dụ.
          - Chúng ta về Khúc-giang. Cho binh sĩ triệt hạ ngay. Mai trả về chỗ đóng quân cũ.
          Khai-Quốc vương nói với Bình-Nam vương:
          - Vợ chồng đệ hiện ở trên con thuyền bên sông. Ngày mai sẽ xin vào đinh tuyên vũ sứ để cùng đại ca đi Biện-kinh.
          Mọi người về tới bờ sông Khúc-giang, trời sang giờ Dần. Thiệu-Thái, Mỹ-Linh không về thuyền mình, mà về thuyền Khai-Quốc vương. Vương dùng Lăng-không truyền ngữ dặn hai cháu:
          - Trên thuyền ta có rất nhiều người mới qui phục. Có thể họ biết nói tiếng Việt. Chúng ta chỉ nên bàn truyện võ công, không nói gì đến kho tàng. Lỡ cần phải nói, cũng nói những gì như Bình-Nam vương biết.
          Qua cơn nguy hiểm mệt mỏi. Mọi người đặt mình xuống là ngủ ngay.
          Thanh-Mai giật mình tỉnh giấc vì tiếng chim hót đang bay lượn trên sông. Nàng cột tóc, rồi thân vào bếp điều khiển đầu bếp làm món điểm tâm. Hôm nay ngày rằm, Khai-Quốc vương, Mỹ-Linh ăn chay. Vì vậy nàng với Thiệu-Thái phải ăn chay theo. Vương thích ăn món xôi ngô trắng, Thanh-Mai dặn nhà đò ngâm ngô, gạo từ chập tối. Xôi vừa chín, đã thấy Mỹ-Linh ló đầu vào bếp:
          - Thím hai cho bọn cháu ăn gì đấy?
          - Xôi ngô trắng.
          - À món này vú Hậu làm giỏi lắm.
          Đến đó, có lời chào hỏi vọng vào bằng tiếng Việt:
          - Chúng tôi xin được tiếp kiến Khai-Quốc vương.
          - Xin qúy khách cho biết cao danh quý tính.
          - Cứ trình với Vương rằng: Kẻ quê mùa ở Cửu-chân là được rồi.
          - Tôi không dám trình đâu.
          Có tiếng Khai-Quốc vương nói:
          - Cao nhân tới thăm, kẻ thô lậu này xin kính thỉnh dời gót ngọc xuống thuyền đàm đạo.
          Thanh-Mai, Mỹ-Linh vội vào khoang thay y phục, rồi rủ Thiệu-Thái cùng ra xem Vương tiếp khách. Vương chỉ hai người khách nói với Thanh-Mai:
          - Vương phi! Hai vị đây vốn người Cửu-chân, lưu lạc sang vùng này từ mấy đời. Hai vị tiền bối thấy chúng ta ghé Khúc-giang, nên đến tương kiến. Đúng như Thiên-địa kinh nói Người Việt càng lưu lạc phương xa, lòng quê càng nồng thắm. Người Hoa khen người Việt bằng câu:

          Hồ mã tê Bắc-phong,
          Việt điểu sào Nam chi.


          Nghĩa là: Con ngựa Hồ, vốn ở phương Bắc, khi đem vào Trung-quốc, lúc thấy gió Bấc thổi, nó hí lên tiếng thảm não nhớ cố hương. Con chim đất Việt sang Trung-quốc, luôn làm tổ ở cành cây phía Nam, tỏ lòng không quên cố thổ.

          Thanh-Mai ngồi xuống cạnh Vương. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái khoanh tay đứng hầu. Thanh-Mai để ý: Hai người khách tóc đã bạc, tiếng nói tuy mạnh, nhưng có vẻ già. Có lẽ tuổi trên bẩy mươi. Trong hai người, một người mặc áo xanh, một người mặc áo nâu.
          Thanh-Mai tiếp lời Vương:
          - Phụ thân tôi từng đi nhiều, nghe nhiều, hiểu nhiều, đã dạy: Người Việt khác hẳn bất cứ giống người nào khi mới xa quê, họ nhớ cha mẹ, anh em, bạn hữu. Sự tưởng nhớ như lửa đốt, nhưng ví như trên mặt nước. Sau năm năm, lòng nhớ người thân hòa lẫn với làng xóm. Sự tưởng nhớ như nước sôi, nhưng sâu như ao, như giếng. Khi xa từ mười năm trở đi, tình yêu người thân, làng xóm hòa với lòng tưởng nhớ cố quốc. Sự tưởng nhớ như nước ấm, nhưng sâu không biết đâu mà lường. Những người sinh ở ngoại quốc, họ chỉ biết quê hương qua lời kể của bậc trưởng thượng, hoặc trong sách vở, thì ôi thôi cố quốc cái gì cũng hay, cũng đẹp. Họ sẵn sàng hy sinh mọi thứ cho tộc Việt.
          Lão mặc áo nâu chắp tay xá Thanh-Mai:
          - Vương phi thực không hổ ái nữ của Thiên-trường đại hiệp. Đa tạ Trần đại-hiệp. Đa tạ Vương-phi đã nói dùm nỗi lòng thầm kín của anh em lão phu.
          Lão mặc áo xanh trình ra một bảng văn:
          - Vương gia có biết tại Biện-kinh đã xẩy ra truyện lớn không?
          - Chúng tôi mới tới đây, lại không tiếp xúc nhiều, nên mọi biến chuyển của Tống đều mù tịt. Mong hai vị đừng tiếc công chỉ dạy.
          Người mặc áo nâu chỉ bảng văn:
          - Bình-Nam vương Nguyên-Nghiễm tổ chức thí võ Biện-kinh kén nhân tài giúp nước vào tháng tám sang năm. Trong khi đó, Lưu hậu lại tổ chức võ đài kén phò-mã vào ngày rằm tháng giêng. Thời gian gấp lắm rồi, chỉ còn hơn tháng nữa mà thôi. Không rõ mục đích gì?
          Thanh-Mai tiếp bảng văn đọc qua, rồi cười:
          - Trong chiếu chỉ nêu rõ tuyển một phò mã và mười bẩy nữ tế đại thần. Tại sao lại có sự kỳ lạ thế này?
          Lão già áo nâu nói:
          - Lưu hậu chỉ có một công chúa Huệ-Nhu. Bà tuyển thêm mười bẩy tiểu thư con quan, thuộc loại tài sắc vẹn toàn, rồi ban chỉ tuyển phu. Như vậy triều đình sẽ có mười tám anh tài trẻ tuổi, trung thành tuyệt đối.
          Mỹ-Linh hỏi:
          - Điều kiện ra sao? Ai có quyền ứng tuyển?
          Lão áo xanh đáp:
          - Bà này đưa ra năm điều kiện: Tuổi từ mười sáu tới hai mươi lăm. Chưa có vợ. Không tàn tật, ác tật. Không phân biệt Hán, Việt, Liêu, Tây-hạ. Phải biết nói thông thạo tiếng Hán.
          Khai-Quốc vương bật cười:
          - Khó có thể đoán chủ ý của bà. Đợi tới Biện-kinh, rồi sẽ liệu. Vấn đề này hay đấy. Ta hiện có Thông-Mai, Thiệu-Thái, cùng năm ông mãnh đều đủ điều kiện. Cho tất cả ứng thí. Biết đâu, bọn chúng không trở thành phò mã.
          - Anh tưởng dễ sao? Anh Thông-Mai không nói được tiếng Hán. Còn Thiệu-Thái mà anh bảo thi tuyển làm Phò-mã, em sợ Mỹ-Linh sẽ nhảy dựng lên đến nóc nhà. Còn Thuận-Tông, Thiên-Lãm coi như có vợ rồi. Duy Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn khả dĩ còn có thể. Bàn về văn chương Trung-nguyên, Tôn Đản chỉ tạm đọc thông viết thạo. Cuối cùng ta còn có Tự-Mai, với Lê Văn.
          Khai-Quốc vương hỏi:
          - Thể lệ tuyển ra sao? Thi văn tài hay võ công?
          Lão già áo nâu đáp:
          - Tống có chín mươi ba châu, cùng bẩy nước xung quanh thành một trăm. Việc tuyển chia ra làm ba kỳ. Sơ tuyển do Kinh lược sứ, cùng Tư-mã tuyển mỗi nơi ba người. Tống cộng ba trăm người. Tuyển cả văn lẫn võ. Sau khi trúng sơ tuyển, họ được coi như công-tử, địa phương phải cấp ngựa, y phục cho họ về kinh. Trung tuyển có ba phần. Phần đầu do bộ Lễ đảm trách. Bộ Lễ sẽ khám xét xem ứng viên có tàn tật, hoặc trẻ quá, già quá không. Phần nhì vào điện thí. Hoàng-đế thiết đại triều. Lưu hậu cũng hiện diện. Các ứng sinh vào điện, sau đó Công-chúa cùng mười tám hoa khôi xuất hiện, ngồi trên mười tám chiếc ghế. Trên mỗi ghế cắm bông hoa vàng. Ứng sinh tha hồ ngắm người đẹp. Ai thích người đẹp nào, thì đứng trước người đẹp đó. Hoàng-đế ra đề thi về văn học, chính sự, võ bị. Hai quan Tả, Hữu bộc xạ (Tể-tướng) cùng Hoàng-đế sẽ chấm bài.
          Mỹ-Linh hỏi:
          - Lỡ ra cô nào xấu xí, không có ứng sinh ưng, thì sao?
          - Thái hậu đã tuyển trước, trong mười bẩy cô đều sắc nước hương trời. Sao có cô xấu được. Hoàng-đế cùng hai quan Bộc-xạ tuyển cho mỗi cô hai ứng sinh trúng cách. Cuối cùng hai ứng sinh đó đấu võ với nhau. Ai thắng, được gả người đẹp cho.
          Thanh-Mai rót trà mời khách:
          - Đa tạ hai vị tới báo tin vui. Xin hai vị cho biết cao danh qúi tính?
          Lão áo xanh chỉ vào lão áo nâu:
          - Tôi họ Tôn. Còn người bạn tôi đây họ Lê. Chúng tôi là người Việt gốc Cửu-chân. Tổ tiên sang đây lập nghiệp đã ba đời. Tuy vậy lòng vẫn hướng về đất tổ. Chúng tôi nghe Vương-gia nổi tiếng anh hùng, mạo muội đến yết kiến, để báo tin.
          Lão họ Tôn chỉ bảng văn:
          - Vương gia định cho người thân ứng thí phò mã đấy ư? Theo lão phu không nên. Cái gương trước hãy còn đó: Thái tử Anh-Tề lấy Cù-thị. Sau vì lòng tưởng nhớ quê hương, xui con đầu hàng, đưa đến nước mất. Nay các thiếu niên trong Thuận-Thiên thập hùng thành phò mã, rồi cũng đến đem chân tài giúp Tống, hại Việt mà thôi. (3)

          Ghi chú

          (3) Năm 135 trước Tây-lịch, vua Văn-vương nước Nam-Việt tên Triệu-Hồ cho con là thái-tử Anh-Tề sang Hán làm con tin trong mười năm. Anh-Tề lấy vợ Hán là Cù-thị. Năm 125 trước Tây-lịch, Anh-Tề về nước làm vua tức Minh-vương. Năm 113 trước Tây-lịch, Minh-vương băng. Con trai của Cù-thị tên Hưng lên làm vua. Hán sai Thiếu-Quí sang dụ hàng. Quí vốn là tình nhân cũ của Cù-thi. Hai người gặp lại nhau, tư thông. Cù-thị xui con dâng nước cho Hán, về triều nhận sắc phong. Quan Tể-tướng Lữ-gia can không được bèn giết Thiếu-Quí, Cù-thị, Hưng rồi tôn thái tử Kiến-Đức lên làm vua. Năm sau Hán sai quân sang đánh. Nước Nam-Việt mất. Giòng dõi Triệu Đà thuộc người Hán, xâm lăng tộc Việt bằng cuộc hôn nhân gian trá Trọng-Thủy. Nay cũng mất vì cuộc hôn nhân gian trá Thiếu-Quí.

          Mỹ-Linh chắp tay hướng hai lão:
          - Tiểu bối Lý-mỹ-Linh, xin hai vị cho phép được góp lời quê, nên chăng?
          Cả hai lão cùng đứng dậy, đáp lễ:
          - Công chúa Bình-Dương nổi tiếng bút mặc vang tới Trung-nguyên. Dùng Long-biên kiếm pháp đả bại Đông-Sơn lão nhân, khiến võ lâm Trung-quốc nghe danh đều táng đởm kinh hồn. Tuổi trẻ, tài cao, mà nhũn nhặn, sự nghiệp sau này thực không nhỏ.
          - Đa tạ hai vị quá khen. Về việc Tôn Đản, Tự-Mai dự võ đài ứng thí Phò-mã chưa thành hình. Mà dù có dự, dễ gì thắng nổi anh hùng thiên hạ? Nhược bằng một trong hai người đó có làm phò mã, quyết không có truyện Anh-Tề, Cù-thị tái diễn.
          Lão họ Chu hỏi:
          - Xin công chúa cho biết minh kiến.
          - Triệu Đà vốn người Hoa. Cho nên Cù-thị khuyên con hàng, cũng nằm trong chủ đạo tộc Hán: Vua tức Thiên-tử làm vua Trung-nguyên. Ai làm vua một cõi biên thùy muôn đời vẫn là giặc. Chi bằng đầu hàng, được phong chức tước triều đình, ấm mồ mả tổ tiên, mát mặt với hương đảng. Cho nên sự đầu hàng dễ dàng.
          Nàng thấy hai lão gật đầu, tỏ ra khuất phục lý luận của mình. Tiếp:
          - Thời Lĩnh-Nam, có rất nhiều anh hùng kết hôn với người Hán. Công chúa Gia-Hưng Trần Quốc kết hôn với Trấn-Nam vương Vương Phúc. Quốc-công Đào Qúy-Minh kết hôn với công chúa Vĩnh-Hòa. Thiên-ưng đại tướng quân Đào Nhất-Gia kết hôn với quận chúa Lý Lan-Anh. Lê Lan-Hương kết hôn với Lục Mạnh-Tân. Chu Tường-Qui thành Tây-cung quí phi của Quang-Vũ. Thế nhưng những vị đó vì tinh thần chủ đạo tộc Việt mạnh quá, đã biến người phối ngẫu thành danh nhân góp công dựng nước Lĩnh-Nam hơn cả người Việt. Vì vậy, giả như hai sư đệ Tự-Mai, Lê Văn thành Phò-mã, không chừng chúng biến công chúa Huệ-Nhu hóa ra người giúp ích cho Đại-Việt cũng nên.
          Lão già họ Lê chắp tay:
          - Công chúa kiến giải sâu sa hơn bọn lão hủ hồ đồ này.
          Hai lão cùng Khai-Quốc vương, Thanh-Mai bàn về tình hình Tống-Việt. Lão Lê ứng đối như gươm treo, như nước chảy. Lão Tôn ít nói. Nhưng hễ mở miệng lão lại dẫn chứng trong những bộ sách cổ của tộc Việt chép bằng chữ Khoa-đẩu thuộc triết học như: Thiên-địa kinh, Minh-Tâm, Đại-nghĩa. Các bộ sử như Tiên-Rồng thông sử, Văn-lang chính biên đại sử, Văn-lang dị sử, Âu-lạc xuân thu, Cổ-loa di hận, Nỏ-thần lược sử, Lĩnh-Nam đại sử (4). Chứng tỏ lão học rất uyên thâm.

          Ghi chú
          (4) Khoa-đẩu là văn tự tượng thanh của tộc Việt. Cho đến thời An-Dương Vương, kinh, triết, văn, sử còn ước hơn nghìn bộ. Khi Triệu-Đà chiếm nước Âu-lạc, y bắt dân chúng bỏ chữ Khoa-đẩu học chữ Hán. Thời Lĩnh-Nam vua Trưng sai công chúa Nguyệt-Đức Phùng-Vĩnh-Hoa sưu tầm còn hơn chín trăm bộ. Mã-Viện chiếm Lĩnh-Nam, sai chở về Trung-quốc hết, lại bắt dân học chữ Hán. Tuy vậy loại văn tự này thời Lý còn nhiều người biết, song sách không có bộ nào lưu truyền. (Xin đọc Cẩm-khê di hận, cùng tác giả, do Nam-á Paris xuất bản).

          Lão họ Tôn hỏi:
          - Với kho tàng Tần-Hán, Âu-Việt, Vương-gia định làm gì?
          Vương giật mình nghĩ thầm:
          - Hai lão này hỏi thế, hẳn đã biết ta đào được hai kho tàng rồi. Bây giờ ta có chối cũng vô ích.
          Vương đáp:
          - Vãn bối không dám quyết định. Trên còn có phụ-hoàng, triều đình. Ngoài ra phải hỏi đến võ lâm đồng đạo. Như vậy, nhân tâm triệu người như một. Nước mới mạnh.
          Lão họ Lê gật đầu:
          - Tinh hoa tộc Việt như thế đấy. Tốt cũng tốt thực. Khi mà xấu cũng thực xấu. Kiều Công-Tiễn giết chúa. Dương Tam-Kha cướp ngôi cháu. Đinh Liễn giết em. Đỗ Thích giết vua Đinh cùng Đinh Liễn. Lê Hoàn cướp ngôi từ ấu quân. Long-Đĩnh giết anh, giết em. Họ không theo Nho, tôn quân. Liệu chủ đạo tộc Việt có giúp Vương-gia giữ ngôi vua, khi phụ-hoàng băng hà không?
          - Vãn bối không ham ngôi Vua. Làm Vua chỉ là bất đắc dĩ. Nếu như phụ-hoàng không chấp thuận chí của tiểu bối, người có truyền ngôi, tiểu bối cũng khước từ. Rồi người truyền ngôi cho ai cũng được. Còn chí của vãn bối ư? Vãn bối chỉ muốn kết hợp võ lâm, danh sĩ lại, để đòi đất tổ, cùng thống nhất tộc Việt, thế thôi. Lão Lê hỏi:
          - Vương vừa nói: Đòi đất tổ, thống nhất tộc Việt. Như vậy phải chăng Vương định đòi đất trước, thống nhất sau?
          - Trong hoàn cảnh khó khăn này, dễ gì ai nể phục ai? Vì vậy trước hãy đốt lên ngọn đuốc đòi đất tổ. Có như vậy mởi làm nổi bật chủ đạo tộc Việt, nhân tâm qui phục. Khi nhân tâm qui phục, sự thống nhất tộc Việt không khó. Tộc Việt thống nhất rồi, mới thực sự đòi đất tổ.
          Lão họ Tôn thở dài:
          - Nhưng đất tổ hiện dân chúng thành Hán hết rồi. Triệu người như một, họ vẫn tự coi mình con cháu vua Hoàng-Đế, hậu huệ Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, coi người Việt là thứ Nam-man. Liệu khi ta chiếm được cố thổ rồi họ có chịu tuân phục không?
          Mỹ-Linh xen vào:
          - Thưa tiên sinh, người Hán trên vùng cố thổ Lĩnh-Nam tuy nói tiếng Hán, nhưng thực ra họ là người Hán gốc Việt. Khi đòi được đất, ta vẫn để họ nói, học chữ Hán, nhưng cho họ sống trong tinh thần Nho. Tiểu nữ muốn nói thứ Nho từ thời Phục-Hy, Thần-Nông, chứ không phải thứ Tống-Nho như hiện nay.
          Lão họ Tôn than:
          - Khó thực! Lão-qua, Xiêm-la, Chân-lạp, Đại-Việt thì dễ rồi. Nhưng Đại-lý nước giầu dân mạnh, triều Đoàn lập lên đã mấy trăm năm, cơ sở vững chắc. Trong khi triều Lý mới lập chưa đầy hai mươi năm. Khi thống nhất, họ Đoàn sẽ đòi ngồi trên ngôi vua. Dù Vương-gia có chịu khuất phục, nhưng võ lâm lại chống. Còn Chiêm-thành, trong quá khứ, Đại-Việt đem quân tàn phá nước họ nhiều lần, nay thành kẻ thù mất rồi. Vương-gia phải vượt ra được hai mấu chốt đó, mới thành công. Nhược bằng không thống nhất tộc Việt, sao đòi được đất cũ nay thuộc Tống?
          Lão họ Lê tiếp:
          - Trong triều, khó mà các quan văn võ muốn chiến tranh. Nhất là Quốc-sư Minh-Không, với tim Bồ-tát, không bao giờ người chấp nhận khởi binh đòi cố thổ. Vì vậy, các vị Vương mới ngấp nghé ngôi vua. Tại triều, Dực-Thánh vương đang luồn lọt Lưu-hậu, mong khi Hoàng-đế băng hà, Lưu-hậu ban chỉ phong cho làm vua. Khai-Thiên vương lại là đệ tử Quốc-sư Minh-Không. Quốc-sư nói một tiếng, võ lâm ắt thuận theo ý người, mà để Thiên-vương lên ngôi. Lại còn Đông-Chinh vương, Vũ-Đức vương. Vị nào cũng có quân bản bộ hết.
          Khai-Quốc vương biết đây là những dị nhân, ẩn sĩ, trông rộng, nhìn xa. Vương chắp tay nói:
          - Tiểu vương khẩn khoản mời hai vị hãy rời bỏ sơn động, ra giúp nước. Với tài hai vị, có thể đưa dân Việt sống lại thời vua Hùng, vua Trưng. Hai vị nghĩ sao?
          Lão Tôn lắc đầu:
          - Xin vương cho chúng tôi được tiêu dao tự tại. Chúng tôi hạc nội mây ngàn, tính lười biếng thành tật mất rồi.
          Thanh-Mai khẩn khoản mời hai lão uống rượu, ăn cơm trưa. Nhưng hai lão từ chối, ra về. Khai-Quốc vương tiễn hai lão lên bờ:
          - Hai vị lưu lạc xa quê hương, mà lòng còn hướng về đất tổ, thực xứng đáng con Rồng, cháu Tiên. Ước mong sẽ có dịp được nghe những lời dạy bảo của các vị.
          Hai người chắp tay xá, phơi phới mà đi, không quay đầu lại.
          Họ đi rồi, Khai-Quốc vương hỏi Vương-phi và hai cháu:
          - Họ là ai? Có biết võ công không?
          Thanh-Mai vốn bác học, nàng nói ngay:
          - Lão Tôn dáng đi thẳng, hơi chúi về trước, có lẽ lão luyện võ công Cửu-chân. Nhưng bàn tay ẩn hiện hơi đỏ, dường như lão luyện Hồng-thiết kinh. Còn lão Lê, từ tướng đi, đến cử chỉ, rõ ra người luyện võ công Khúc-giang.
          Chiều hôm ấy có chim ưng báo, thuyền chở kho tàng đã về tới Tiên-yên. Khai-Quốc vương thở phào:
          - Như vậy là xong. Ngày mai ta tìm Nguyên-Nghiễm, rồi trẩy Biện-kinh.
          Vương vừa đứt lời, có Vương-duy-Chính tới mời Khai-Quốc vương, Vương-phi, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái vào dinh Tuyên-vũ sứ đàm đạo. Y mang theo đội thiết kỵ, cùng bốn xe ngựa, yên cương mạ vàng sáng chói.
          Vương biết đây là nghi lễ chính thức của Bình-Nam vương đối với Khai-Quốc vương, sứ thần Đại-Việt. Vương mặc y phục Vương tước. Thanh-Mai mặc y phục Vương-phi. Mỹ-Linh trong y phục công chúa. Thiệu-Thái y phục Thế-tử Bắc-biên.
          Vương Duy-Chính cỡi ngựa đi song song song bên cạnh xe vương. Thiết kị đi trước đánh trống dẹp đường, mang bản tĩnh túc, hồi tỵ. Dân chúng đứng nghẹt đường đón Vương. Dân vùng Quảng-Đông tuy nói một thứ tiếng nửa giống Việt, nửa giống Hoa, nhưng trong thâm tâm họ vẫn nhận họ là người Việt, vẫn tự hào con Rồng, cháu Tiên. Mấy hôm rồi họ nghe Khai-Quốc vương cùng công chúa Bình-Dương đi sứ qua đây, song không biết ở đâu, bây giờ họ đi xem cho biết mặt. Song khi thấy xe, họ lại dán mắt vào Vương-phi, Công-chúa mà khen đẹp.
          Thanh-Mai, Mỹ-Linh cũng biết thế. Hai người dơ tay vẫy dân chúng, miệng tươi cười chào hỏi. Xe tới cửa dinh Tuyên-vũ sứ. Hai hàng giáp sĩ dàn ra đứng đón. Bình-Nam vương bước xuống sân. Hai Vương hành lễ, rồi sóng vai vào đại sảnh đường. Các quan văn võ Quảng-Đông lộ đều đầy đủ. Lễ nghi xong.
          Bình-Nam vương nói lớn:
          - Cô gia xin giới thiệu với các quan biên trấn Nam-thùy. Vị này là Khai-Quốc vương, trừ quân của Đại-Việt. Vương họ Lý, húy Long-Bồ. Vương cùng Vương-phi đang trên đường đi sứ Đại-Tống của ta để kết hiếu. Khác với những sứ đoàn khác, chỉ kết hiếu ở triều đình. Khai-Quốc vương kết hiếu giữa Tống-Việt bằng ba mặt khác nhau: Triều đình, bách quan, nhân-sĩ võ lâm.
          Các quan vỗ tay hoan hô. Bình-Nam vương tiếp:
          - Khai-Quốc vương với cô-gia đã kết huynh đệ. Vương-gia là nghiã đệ của cô gia. Vừa chân ướt chân ráo tới biên thùy đã thu phục được bang Trường-giang và bang Nhật-hồ.
          Bang Trường-giang hoạt động ở Bắc Trường-sa, cách Khúc-giang hơn nghìn dặm. Các quan chỉ nghe danh, mà chưa bị khốn khổ với chúng. Chứ bang Nhật-Hồ suốt bao năm qua như bóng ma, ác qủy ám ảnh họ. Người nào cũng có thân nhân, bạn bè bị bang Nhật-hồ làm cho điêu đứng. Nay nghe bang này đã quy phục triều đình, biến thành bang Hoàng-Đế, chuyên về trị độc giúp dân. Họ mừng như trút được gánh nặng.
          Bình-Nam vương từ từ thuật việc nghĩa đệ thu phục bang Trường-giang, Nhật-hồ như thế nào một lượt. Cuối cùng vương kết luận:
          - Khai-Quốc vương với cô gia đã tạm ước với nhau. Hiện cần tấu trình hai vị hoàng-đế Tống-Việt duyệt nữa, coi như thành luật. Tuy nhiên kể từ hôm nay...
          Vương ngừng lại cho các quan theo kịp:
          - Thứ nhất, dân Tống thuộc tộc Hán. Dân Việt, dân Man, dân Thái, dân Tày, dân Miêu đều thuộc tộc Việt. Tộc Hán, tộc Việt cùng gốc ở Phục-Hy, Thần-Nông, phải lấy tình huyết tộc thương yêu nhau. Cấm tuyệt các quan biên trấn Việt-Tống, phân biệt kỳ thị giống nòi. Thực vô lý khi dân tộc Hán, tộc Việt thương yêu nhau, buôn bán, kết bạn, kết hôn với nhau. Mà quan biên trấn bắt phải thù ghét nhau! Ai vi phạm sẽ bị phạt nặng.
          Các quan biên trấn Nam-thùy Tống từ xưa đến giờ ở trạng thái già nắn, rắn buông. Thường họ cho người chiêu dụ khê động, lấn đất, thu thuế. Gặp biên trấn Việt dễ dãi cho qua. Họ càng lấn át. Gặp phải người cứng rắn, phản ứng. Họ kêu rêu rằng Đại-Việt sang cướp phá. Bây giờ hai vị ngồi địa vị cao nhất về binh lực đích thân điều động hòa khí. Họ hiểu rằng vấn đề Nam-thùy coi như yên, cứ ôm gối ngồi cao thụ hưởng.
          Bình-Nam vương tiếp:
          - Mở rộng các cửa biển Bắc lên tới Hổ-môn. Nam xuống tới Tiên-yên, cho thương thuyền Tống-Việt buôn bán. Tại biên giới, Tống, Việt vào sâu năm mươi dặm, mở thực nhiều bạc dịch trường cho dân buôn bán. Hàng hóa không giới hạn. Quan biên trấn hai bên sẽ kiểm soát thước, cân để tránh gian lận. Thuế khóa, hai bên cử Ty thương bạc ấn định rõ ràng. (5)


          Ghi chú

          (5) Chu Khứ-Phi, Lĩnh ngoại đai đáp, Trung-hoa thư cục, Cộng-hòa nhân dân Trung-quốc xuất bản 1972. Chu Khứ-Phi là người trực tiếp quan sát cuộc giao thương thời Tống-Việt kể lại như sau:
          - Trước đó có các bạc dịch trường Vĩnh-bình, Cổ-vạn, Tô-mậu, Hoành-sơn. Các chợ trên đây thuộc đường bộ. Thuộc đường thủy có Khâm-châu.
          - Chu viết sách trước cuộc thương thảo Khai-Quốc vương, Bình-Nam vương nên chỉ thuật có thế. Từ khi có cuộc thương thảo có tới trên trăm bạc dịch trường.
          Sau này, với chính sách Vương An-Thạch gây thù oán với Việt, các bạc dịch trường đều đóng cửa.
          Từ trước đến giờ, biên giới Tống, Việt chỉ có năm Bạc dịch trường, số hàng hoá không giới hạn rõ rệt, thành ra bên này cho bán, bên kia cấm đoán. Dân không biết đâu mà mò. Chính vì vậy mà hai bên thường xẩy ra xung đột
          .

          Vương chờ cho cử tọa hết hoan hô, rồi tiếp:
          - Ba là, khi có người Tống trốn sang Việt. Người Việt trốn sang Tống. Các quan biên trấn phải bắt giao trả cho nhau. Khi trộm cướp bên này, trốn sang bên kia. Đều phải khẩn cấp truy lùng, rồi hai bên họp nhau xử tội chúng (6)

          Ghi chú

          (6) Đọc trong Tống-sử, Tục tư-trị thông giám trường biên, không thấy ghi những cuộc hành binh hỗn hợp trừ đạo tặc, hoặc dẫn độ tội nhân thuộc loại trộm cướp, vượt biên bất hợp pháp của Tống với Tây-hạ, Đại-lý, Liêu mà chỉ thấy ở Nam-thùy với Đại-Việt. Nguyên do từ cuộc thương thảo này mà ra.
          Trong suốt đời Lý, chúng tôi ghi được 564 cuộc dẫn độ như thế. Chia ra 323 do Tống dẫn cho Việt, và 241 do Việt dẫn cho Tống.


          Tuyên-vũ sứ mời hai Vương nhập tiệc. Mỹ-Linh, Thanh-Mai, Thiếu-Mai được phu nhân của an-vũ sứ, chuyển vận sứ Quảng-Đông tiếp riêng. Hai phu nhân chỉ là những nữ lưu nhu nhã trong phòng the, họ không biết gì về võ công văn học. Nghe Thanh-Mai, Mỹ-Linh ứng đối như nước chảy, kiến thức cao xa, họ thực không bằng. Họ cảm thấy tủi thân, khi phụ nữ Việt được chồng con, gia đình coi trọng. Trong khi phụ nữ Tống bị coi như những tôi tớ trong nhà không hơn, không kém.
          Truyện trò chán đi đến nói về bệnh hoạn. Các phu nhân người thì bị huyết trắng, người thì bị đau bụng kinh, người thì bị kinh kỳ bất điệu, người thì bị rụng tóc. Thiếu-Mai nhất nhất giảng thực kỹ nguyên do sinh bệnh. Nàng hứa sẽ trị cho mọi người.
          Tiệc được nửa chừng, chợt Mỹ-Linh lấy tay viết lên bàn trước mặt Thiếu-Mai mấy chữ:
          - Có gian nhân trên nóc nhà. Sư tỷ nghĩ sao?
          Thiếu-Mai viết:
          - Dùng Lăng-không truyền ngữ nói với chú hai không được, vì xa qúa.
          Mỹ-Linh viết:
          - Sư tỷ ngồi gần Đông-Sơn lão nhân nhất. Sư tỷ báo cho lão biết. Lão báo cho Bình-Nam vương.
          Thiếu-Mai gật đầu. Nàng dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai Đông-Sơn lão nhân:
          - Thiếu-Mai đây. Lão nhân nghe rõ không?
          - Rõ lắm. Tiểu thư cần dạy dỗ điều gì??
          - Trên nóc nhà có gian nhân nghe trộm, báo cho Vương-gia biết đi.
          - Bần đạo xin báo ngay.
          Lão đứng lên bưng rượu đến trước hai Vương rót ra chung:
          - Bần đạo xin chúc mừng chúa công cùng Khai-Quốc vương thành công trong việc tạo hạnh phúc cho dân Tống-Việt.
          Hai Vương bưng rượu uống. Trong khi đó lão dùng Lăng-không truyền ngữ nói:
          - Lê tiểu thư khám phá ra trên nóc đện có gian nhân nghe trộm. Tiểu thư nhờ bần đạo khải với hai Vương. Có nên lôi cổ nó xuống không?
          Khai-Quốc vương đáp:
          - Không cần! Nội công một tên hoàn toàn chính phái. Một tên nửa chính, nửa tà. Chờ xem chúng định làm gì, rồi ta hãy lôi cổ chúng xuống.
          Bình-Nam vương trả lời:
          - Chúng nghe trộm là có gian ý. Chúng biết anh em mình có nhiều cao thủ, mà dám nghe trộm, ắt thân thế chúng không nhỏ. Phải lôi cổ chúng xuống xem chúng là ai?
          Chờ cho Đông-Sơn lão nhân về chỗ rồi, Bình-Nam vương lên tiếng:
          - Địch trạng nguyên.
          Địch Thanh vội đứng bật dậy:
          - Thần xin đợi chỉ dụ Vương-gia!
          - Chúng ta uống rượu thế này, mà có hai quý khách không được mời, thực khiếm lễ quá! Địch trạng nguyên lên nóc điện mời quý khách xuống cho ta.
          Tiếng dạ kéo dài. Khi dứt, Địch Thanh đã ra khỏi điện, tung mình lên nóc nhà. Bình, bình hai tiếng lớn vọng lại. Mọi người ra sân đứng xem. Địch Thanh đang chiết chiêu với hai người.
          Sau khi đối chưởng với hai lão, Địch Thanh bật lui liền hai bước, khí huyết chạy nhộn nhạo trong người cực kỳ khó chịu.
          Mọi người la hoảng, vì bản lĩnh Địch Thanh e rằng Đại-Tống không có quá mười, mà dường như thua sút hai lão già.
          Mỹ-Linh đưa mắt nhìn Khai-Quốc vương, Thanh-Mai, Thiệu-Thái. Cả bốn im lặng. Vì hai người đó chính lão già họ Tôn, họ Lê mới đàm luận với vương dưới thuyền hồi sáng.

          Tích trù Động-đình uy trấn Hán,
          Danh lưu thanh sử lực phù Trưng.

          (Câu đối ở đền thờ Phật-Nguyệt)

          Dịch:
          Một trận Động-đình oai trấn Hán,
          Danh ghi thanh sử sức phù Trưng.


          Khi Địch Thanh nhảy lên nóc điện, y thấy hai lão già đứng trơ như gỗ. Thuận tay y phát hai chiêu tấn công hai lão một lúc. Hai lão vung tay đỡ. Thành ra Địch Thanh bị lĩnh tới hai chưởng. Y bật lui lại, khí huyết đảo lộn, tai phát ra tiếng kêu vo vo rất khó chịu. Mặt choáng váng.
          Sau chiêu đầu, lão họ Lê lùi lại, còn lão họ Tôn đánh liền năm chiêu, cứ mỗi chiêu lão lại lùi một bước, cử chỉ ung dung nhàn nhã. Địch Thanh nhận thấy võ công lão Lê khắc chế với võ công của y. Mỗi chiêu lão đánh ra hời hợt, mà khiến y lao đao chống đỡ.
          Biết gặp kình địch, nếu tiếp tục đánh sẽ bị nhục, Địch Thanh chắp tay hành lễ:
          - Địch Thanh thuộc phái Hoa-sơn, tuân chỉ Bình-Nam vương gia lên mời hai vị xuống xơi ít chung rượu.
          Lão họ Tôn cười nhạt:
          - Thì ra người là Địch Thanh ăn cắp vàng ở công khố Đại-Việt bị bắt đấy ư? Uổng cho người đạt được võ trạng, mà hành động nông nổi. Ta nghe rõ ràng chúa ngươi sai ngươi lên mời bọn ta xuống uống rượu. Thế mà ngươi vừa lên, đã phát chưởng đánh chúng ta. Ta hỏi người, đây là phép tiếp khách của phái Hoa-sơn hay của phủ Định-vương ?
          Địch Thanh thẹn chín người. Y chưa biết trả lời sao, thì Đông-Sơn lão nhân đã lên nóc điện. Lão chắp tay hướng hai lão Tôn, Lê:
          - Tiểu đồ trẻ người con dạ, có đôi chút mạo phạm. Mong hai vị thứ lỗi. Chủ nhân của bần đạo lúc nào cũng khuất thân cầu hiền tài. Nào, mời hai vị xuống xơi mấy chung rượu.
          Tôn, Lê cười ha hả:
          - Đã vậy hai lão già nhà quê này đành cung kính tuân lệnh.
          Hai lão nhảy xuống, hướng Bình-Nam vương hành lễ:
          - Chúng tôi họ Tôn, họ Lê, dân Tống, gốc người Cửu-chân, xin tham kiến vương gia.
          Triệu Thành nghĩ thầm:
          - Chủ đạo tộc Việt huyền diệu thực. Cứ như hai lão này xưng, lão là dân Tống, ắt sinh trưởng tại Trung-thổ. Thế nhưng lão lại tự hào gốc Cửu-chân.
          Bình-Nam vương đi một vòng giới thiệu:
          - Vị này là nghĩa đệ của Cô-gia, người Việt như hai vị, tước phong Khai-Quốc vương, đang trên đường đi sứ Đại-Tống.
          - Thực hân hạnh! Tương lai biên sự Tống-Việt cùng hạnh phúc tộc Việt-Hán nằm trong tay hai Vương.
          - Vị này là minh sư của cô gia.
          - Minh-Thiên đại sư đắc pháp rồi, mà lòng đối với tộc Hán chưa dứt, còn lẩn quẩn lăn vào đời, mong giải thoát chúng sinh. Người hẳn là Bồ-tát A-di-đà phân thân vậy.
          Hai lão tỏ ra bặt thiệp, đối với ai lão cũng cung kính, đưa lời khiêm nhường. Khác hẳn với ngôn từ khinh bạc khi mắng Địch Thanh. Kiến thức hai lão quảng bác vô cùng. Những nhân vật chính thành danh như Đông-Sơn lão nhân, lão biết đã đành, đến những nhân vật trẻ như Lê Thiếu-Mai, Quách Quỳ lão cũng biết tường tận. Cứ mỗi người được giới thiệu, lão lại đưa ra câu khuyến khích.
          Bình-Nam vương giới thiệu xong, cung kính:
          - Mời hai vị nhập tiệc.
          Từ lúc thấy hai lão Tôn, Lê, Định-vương Nguyên-Nghiễm nhận thấy khuôn mặt hai lão rất quen, mà không nhớ đã gặp ở đâu. Vương ngồi suy nghĩ cố tìm cho ra.
          Hai lão nháy mắt nhìn Khai-Quốc vương, ngụ ý coi như chưa biết nhau. Bình-Nam vương mời hai lão ngồi dưới Khai-Quốc vương, do Dư Tĩnh bồi tiếp.
          Theo lễ nghi tộc Hán, Việt, hai lão là khách mới, được mời ngồi ở vị thế cao. Đáng lẽ Minh-Thiên hay Đông-Sơn lão nhân bồi tiếp. Nhưng vì hai vị là nhà tu, ngồi riêng một cỗ chay, không uống rượu, vì vậy Dư Tĩnh có địa vị cao thứ nhì sau Bình-Nam vương ngồi với hai lão.
          Địch Thanh hận lão Tôn làm nhục mình. Y rót chung rượu đưa ngang mày:
          - Vãn sinh vô phép, nay xin có chung rượu tạ lỗi với tiền bối.
          Chung rượu từ tay y bay vù hướng mặt lão Tôn, kình lực rít vo vo, nhưng tuyệt ở chỗ không một giọt nào rơi ra ngoài. Lão Tôn vòng tay một cái, chung rượu bay chậm lại, rượu vọt lên thành dây bắn vào miệng lão. Lão uống luôn. Còn chung bay ngược trở về chỗ Địch Thanh. Địch Thanh vội xòe tay bắt lấy. Nhưng tay y vừa chạm vào, chiếc chung vỡ tan thành mấy trăm mảnh nhỏ bay vọt qua đầu y.
          Kẻ mời, người tiếp, đều dùng tuyệt kỹ thần công, mọi người vỗ tay hoan hô.
          Dư Tĩnh rót rượu mời hai lão uống, cùng ăn thịt. Tửu lượng hai lão rất cao. Dư rót bao nhiêu, hai lão cũng không từ, uống sạch.


          <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 02:51:00 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9