Anh linh thần võ tộc Việt
CDDLT 19.01.2005 18:46:17 (permalink)
Những chữ viết tắt.

Trong Anh Linh Thần Võ Tộc Việt những từ viết tắt sau:

AHBC
Anh-hùng Bắc-cương

AHLN
Anh-hùng Lĩnh-Nam

AHĐA-DCBM
Anh-hùng Đông-a dựng cờ bình Mông

AHTS
Anh-hùng Tiêu-sơn

ALTVTV
Anh linh thần võ tộc Việt

ANCL
An Nam chí lược

CEP
Coopérative Européenne Pharmaçeutique
(Liên hiệp các viện bào chế châu Âu)

CKDH
Cẩm khê di hận

CMFC
Commité Médical Franco-Chinois (Ủy ban trao đổi y học Pháp-Hoa)

DTLSVH
Di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng

IFA
Institut Franco-Asiatique (Viện Pháp-Á)

KĐVSTGCM
Khâm định Việt-sử thông giám cương mục

ĐNLTCB
Đại Nam liệt truyện chính biên

ĐNLTTB
Đại Nam liệt truyện tiền biên

ĐNNTC
Đại Nam nhất thống chí

ĐNTLCB
Đại Nam thực lục chính biên

ĐNTLTB
Đại Nam thực lục tiền biên

ĐVSKTT
Đại Việt sử ký toàn thư

MCMS
Mông-cổ mật sử

NS
Nguyên-sử

TS
Tống-sử

TTDS
Thuận Thiên di sử




Thay lời tựa
Thư viết cho tuổi trẻ Việt-Nam,


Đây là những dòng tác giả viết cho tuổi trẻ Việt, dù ở trong nước hay ở ngoài lãnh thổ Việt-Nam.
Xin các vị cao minh bỏ qua, chẳng nên bận tâm.

Các bạn trẻ thân,

Tôi ngồi viết những dòng tâm huyết này gửi đến các bạn, nhân Thư-viện Việt-Nam tại Hoa-kỳ tái bản lần thứ nhất bộ Anh-linh thần võ tộc Việt.

Tôi khởi thảo thuật công cuộc dựng nước và giữ nước của tổ tiên ta vào tuổi 29 (1968). Tính đến nay trải 33 năm. Ba mươi ba năm so với lịch sử thì không dài, nhưng so với đời người, quả đã chiếm một khoảng quá quan trọng. Suốt thời gian đó, gần như tôi vượt qua tất cả những dịp may được hưởng thụ, để hoàn thành kỳ vọng của tiền nhân, để đạt được ước nguyện.

Ước nguyện của tôi là thuật công cuộc dựng nước, giữ nước vĩ đại của tổ tiên ta trong năm nghìn năm lịch sử. Khởi thảo, tôi đã cùng phụ thân luận bàn đến gần một năm, để định rõ đoạn nào nên thuật, đoạn nào không nên thuật. Nhất, là sao trong bốn mươi năm, tôi có thể thực hiện trọn vẹn. Sau khi đẵn đo, tôi chia lịch sử làm 5 thời kỳ cần phải thực hiện:

1. Thời kỳ Lĩnh-Nam, thuật công nghiệp của vua Trưng cùng 162 tướng khởi nghĩa vào đầu thế kỷ thứ nhất. Đây là cuộc khởi nghĩa thành công, chỉ đạo bởi một những nữ anh hùng, mà trên thế gian chưa một phụ nữ nước nào có thể so sánh. Ba bộ sách thuật thời kỳ này mang tên Anh-hùng Lĩnh-Nam 4 quyển, Động-đình hồ ngoại sử 3 quyển, Cẩm-khê di hận 4 quyển, tổng cộng 11 quyển, 3510 trang. …

Chắc có bạn hỏi tôi rằng tại sao trước vua Trưng, tộc Việt từng có những thời rực hào quang như Phù-đổng Thiên-vương đánh giặc Ân. Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung thời vua An-Dương phá quân Tần; mà không thuật? Xin thưa, những huân nghiệp đó đến thời vua Trưng đã trở thành chủ đạo của người Việt, nên được nhắc đến trong suốt 3510 trang.

2. Thời kỳ Tiêu-sơn, tiền nhân không khuyến khích tôi viết về thời kỳ Tiêu-sơn, vì viết về thời này thì phải thuật chiến công vượt biên Bắc phạt của Linh-nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan) và Thái-úy Lý Thường-Kiệt. Nguyên do các người đều là nhà nho. Mà nhà nho thì cực kỳ ghét việc các bà Thái-hậu cũng như hoạn quan nắm quyền. Trong lịch sử Hoa-Việt, có không biết bao nhiêu các bà Thái-hậu nhân ấu quân lên ngôi, ngồi phụ chính, rồi chuyên quyền, dâm đãng, gây cho nước loạn. Còn bọn hoạn quan, nhờ vào vị thế tôi đòi hầu hạ vua, chúa cùng cac bà trong hậu cung mà nắm quyền, gây ra không biết bao nhiêu việc loạn ly, phá hoại kỷ cương đất nước. Nhưng ngày nay những bà Thái-hậu ngu dốt, những hoạn quan không còn nữa. Vì vậy tôi quyết định viết về thời kỳ Tiêu-sơn, thuật giai đoạn triều Lý dùng đức từ bi hỷ xả của Phật-giáo để trị nước, tạo hạnh phúc cho dân, cùng chiến công phía Bắc đánh Tống, phía Nam mở rộng bờ cõi.

3. Thời kỳ Đông-a, tức thời Trần. Vì trong chữ Nho, chữ Đông với chữ A thành chữ Trần, nên sử gọi triều Trần là triều Đông-a. Nội dung thuật ba cuộc thắng Mông-cổ của quân dân đời Trần. Như các bạn biết, quân Mông-cổ thắng từ Á sang Âu, đặt nền cai trị mấy trăm năm. Họ chỉ bại duy nhất tại Nhật-bản và Việt-Nam. Họ bại tại Nhật-bản thì dễ hiểu, vì Mông-cổ là quân Kỵ. Họ bỏ ngựa đánh thủy chiến, thì cái bại đã thấy trước. Nhưng tại Việt-Nam tại sao họ bại?

4. Thời kỳ Lam-sơn, thuật cuộc khởi nghĩa đánh đuổi ngoại xâm, tái lập tự trị, do một nông dân là Lê Lợi chỉ đạo. (1418-1428)

5. Thời kỳ Tây-sơn, lại được chỉ đạo bởi những anh hùng áo vải, tái thống nhất đất nước, rồi chỉ một trận quét sạch 20 vạn quân Thanh và một trăm vạn dân phu.

Khi tôi viết những dòng này, tôi đã hoàn thành tất cả 9 bộ, 35 quyển, khoảng 13.000 trang. Năm nay (2001), tôi đã bước vào tuổi 62 rồi, tuy nhiên sức khỏe còn tốt, tinh thần vẫn minh mẫn để thuật tiếp ba bộ nữa. Một là bộ Anh-hùng Đông-a gươm thiêng Hàm-tử, nói về chiến thắng Mông-cổ lần thứ nhì và ba. Hai là bộ Anh-hùng Lam-sơn. Ba là bộ Anh-hùng Tây-sơn. Tổng cộng, tôi còn nợ Tổ-tiên, nợ Dân-tộc, nợ các bạn khoảng 7.500 trang nữa. Tôi tin rằng tôi sẽ trả xong nợ trước khi gối mỏi, trước khi linh mẫn ra đi.

Về thời kỳ Tiêu-sơn chia làm năm giai đoạn.

Giai đoạn một, thuật lại công cuộc dựng nước của các tăng ni. Bằng cách nào, các vị tăng hồi đó đã dạy dỗ, giúp đỡ một thiếu niên cùng khổ trở thành đại tướng, rồi thành một hoàng đế nhân từ bậc nhất lịch sử. Giai đoạn này mang tên Anh-hùng Tiêu-sơn dài 1120 trang, 3 quyển. Tiêu-sơn là tên ngôi chùa, cũng là tên của một ngọn núi, theo khoa phong thủy thì nhờ ngôi mộ họ Lý kết phát trên núi Tiêu-sơn mà Lý Công-Uẩn trở thành hoàng đế, lập ra triều đình họ Lý làm vua 215 năm (1010-1225). Trong thời gian này, con trai thứ của vua Lỳ Thái-tổ là Lý Long-Bồ tước phong Khai-Quốc vương, cùng 9 người bạn kết thành Thuận-Thiên thập hùng; lập chí chiếm lại lãnh thổ Đại-Việt bị Trung-quốc cướp sau khi đánh bại vua Trưng.

Giai đoạn hai, vào thời vua Lý Thái-tổ trị vì. Đất nước thái bình, dân chúng sống yên vui. Nhưng khi vua Lý Thái-tổ lên ngôi, với sự cố vấn của các tăng ni, với đức từ bi khi còn ở chùa, ngài ban chỉ ản xá cho tất cả các tội đồ trong nước. Trong đám đó, có một tôn giáo, mà thời đó gọi là Hồng-thiết. Tôn giáo này du nhập từ phương Tây Trung-quốc, rồi vào đất Việt, giáo chúng rất đông. Nhân được án xá, giáo đồ Hồng-thiết quy tụ nhau mưu dâng nước cho Tống, rồi gây loạn. Nhưng cuối cùng bị Thuận-Thiên thập hùng dùng chủ đạo của tộc Việt đánh bại. Giai đoạn này mang tên Thuận-Thiên di sử, 1080 trang, 3 quyển. Thuận-Thiên là niên hiệu của vua Lý Thái-tổ.

Giai đoạn ba, thuật lại tổ chức, sinh hoạt của 207 bộ tộc ít người nằm giữa Trung-quốc và Đại-Việt. Bằng cách nào họ luôn là hàng vào bảo vệ Đại-Việt, và họ đã chống lại cuộc xâm lăng tầm ăn đâu của triều Tống. Đây là vùng còn mang di tích sống theo chế độ Lạc-hầu, Lạc-tướng của thời vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng. Trên cao nhất có một vua Bà, do các động trưởng, châu trưởng bầu. Vua chỉ có tính cách tượng trưng của tôn giáo thờ các anh hùng dân tộc, đã được huyền thoại thành các vị thần. Còn thực quyền vẫn do các châu, động trưởng theo chế độ cha truyền con nối hoặc bầu cử. Các bộ tộc này, ngày nay vẫn còn tồn tại ở phía Nam Quảng-Tây, Vân-Nam và phía Bắc Việt-Nam. Trong những năm 1977-1992, nhờ công tác cho Ủy-ban trao đổi y học Pháp-hoa (Commité Médical Franco-Chinois, viết tắt là CMFC), tôi đã lặn lội hầu hết những vùng này, và tìm ra biên giới thời Lý lên phía Bắc của biên giới ngày nay chỗ thì 45 cây số. Có chỗ lên tới 143 cây số. Bộ này mang tên Anh-hùng Bắc-cương, 1556 trang, 4 quyển.

Bộ Anh-linh thần võ tộc Việt mà các bạn đang cầm trên tay, 1708 trang, gồm 4 quyển, thuộc giai đoạn bốn của thời kỳ Tiêu-sơn. Bộ này nối tiếp bộ Anh-hùng Bắc-cương. Đây là thời kỳ cực thịnh của triều đại Tiêu-sơn. Nội dung thuật bốn biến cố quan trọng: Một là cuộc đi sứ Trung-quốc của phái đoàn Việt, rồi đưa đến Lý-Tống kết thân, Hoa-Việt trải qua một thời gian dài thịnh trị. Hai là sau khi vua Lý Thái-tổ băng hà thì chư vương nổi loạn, rồi bị Thuận-Thiên thập hùng và Anh-hùng Bắc-cương đánh bại. Cuối cùng cuộc thống nhất 8 vùng tộc Việt: Đại-Việt, Đại-lý, Lão-qua (Lào), Xiêm-la, Chiêm-thành, Chân-lạp, Bắc-cương, và Nam-Việt (Lưỡng-Quảng)... thành công. Ba là Tống bỏ thỏa ước kết thân Tống-Lý, sai các biên thần Nam-phương khích Chiêm, Lào đánh vào sau lưng Đại-Việt, Bắc họ chuẩn bị đánh xuống. Đại-Việt ra tay trước, đầu tiên phá Chiêm, rồi quay lên đánh chiếm lại lãnh thổ xưa. Bốn là, quân Việt do Nùng Trí Cao thống lĩnh đánh chiếm lại được cố thổ thời Lĩnh-Nam nay thuộc Quảng-Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam, Quý-châu, Hồ-Nam Trung-quốc lập ra nước Đại-Nam.

Các bạn trẻ thân mến,

Tôi sống ở Pháp, một nước thuộc Cộng-đồng châu Âu (CĐCA). Đọc sử các nước của CĐCA, tôi thấy trong quá khứ họ cũng chém giết nhau khủng khiếp như Việt-Nam với Trung-quốc, như Việt-Nam với Cambodge, Lào-quốc, Thái-quốc; thế mà họ bỏ qua tất cả, để kiến tạo một Cộng-đồng khiến cho dân chúng hạnh phúc. Từ đó tôi nhìn về cố quốc và tôi nảy ra ước vọng: Biết đâu một ngày nào đó, các nước trong ASEAN không trở thành một Cộng-đồng Nam-á châu?

Riêng đối với Trung-quốc, tôi dám tự hào là một trong những người Việt từng đi khắp lãnh thổ rộng lớn này, kể cả Nội-Mông, Thanh-hải, Tân-cương, Tây-tạng, dĩ chí Mông-cổ, Nam-Bắc Hàn. Suốt 25 năm qua, khi thì tôi công tác cho Institut Franco-Asiatique (IFA) (Viện Pháp-á), khi thì tôi đi cho CMFC, khi thì tôi đi cho Coopérative Europénne Pharmaçeutique (CEP) ( Liên hiệp các viện bào chế dược phẩm châu Âu). Nhờ phương tiện tài chánh rộng rãi, nhờ hiểu biết tình hình Trung-quốc từ trung ương đến địa phương... tôi thành công trong mọi nhiệm vụ. Có thể nói, tôi từng tiếp xúc, mạn đàm, đối ẩm với hầu hết những người cao cấp nhất của Trung-quốc (1977-2001), tôi thấy rất ít người có tư tưởng bành trướng như người ta chụp mũ. Trung-quốc không phải là một thế giới huyền bí. Chỉ cần đọc thực kỹ Tứ-thư, Ngũ-kinh, Nhị thập tứ sử (24 bộ chính sử), cùng theo dõi những biến cố gần đây, rồi suy nghĩ như người Hoa, thì lập tức có cái chìa khóa mở được mọi cánh cửa Trung-quốc.

Khi biết tôi là người Pháp gốc Việt, một vị (bậc nhì trong quyền lực Trung-quốc 1990) hỏi tôi rằng:

“ Nếu anh cầm quyền ở Việt-Nam, thì anh sẽ đối xử với Trung-quốc như thế nào?”

Tôi trả lời:

“ Giống như anh và tôi hiện thời. Chúng ta ngồi ngoài vườn mà hoa đào, hoa mận đang nở. Chúng ta uống rượu Ngũ-gia bì, Thiệu-hưng và ăn xoài nhập cảng từ Lái-thiêu. Khi đàm đạo, chúng ta luôn nhắc tới những danh ngôn của Khổng, của Mạnh. Hơn nữa bà mẹ anh, tôi không thấy khác bà mẹ tôi làm bao. Cung cách của các con anh đối với anh không khác cung cách các con tôi đối với tôi. Nhất là gương mặt anh với tôi càng giống nhau. Chúng ta kính yêu nhau, tin tưởng nhau, thông cảm nhau. Tôi nghĩ là nếu tất cả người Hoa, người Việt có dịp gặp nhau, họ cũng sẽ đối xử với nhau như anh và tôi.”

Tôi nhấn mạnh:

“Khổng-tử nói: Ta hồ binh đao chi sự, thánh nhân bất đắc dĩ dụng chi. Trung-quốc coi Việt-Nam như anh em, thì Trung-quốc có người bạn tốt ở Nam-thùy. Còn như Trung-quốc cứ gây hấn, thì Trung-quốc có một kẻ thù ở sau lưng”.

Các bạn trẻ thân,

Những gì mà người bạn Trung-quốc với tôi đàm đạo không có tính chất ý tại ngôn ngoại. Câu nói trên đây của tôi, tôi xin lấy bộ Anh-linh thần võ tộc Việt để dẫn chứng.

Thân chào các bạn.

Paris ngày 15 tháng 4 năm 2001.
Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ.


#1
    CDDLT 20.01.2005 17:43:02 (permalink)
    Hồi thứ một trăm lẻ một

    Sứ đoàn Xiêm La



    Sau hơn nửa tháng dùng đường thủy, sứ đoàn Đại-Việt tới mới Tương-dương. Bảo-Dân tỏ ra thông thạo đường lối. Y nói:
    - Bây giờ chúng ta lên bộ đi bằng xe ngựa. Sau một ngày tới Tân-dã, nghỉ đêm tại đây, rồi ta lại đi Nam-dương. Nam-dương đối với Trung-nguyên là đất thiêng, vì đã sản xuất ra nhiều nhân tài, trong đó có Gia-cát Lượng, một vị tể tướng nức tiếng thời Tam-quốc.
    Địa đanh Tương-dương, Tân-dã, Nam-dương đối với Khai-Quốc vương, Thanh-Mai, Mỹ-Linh thì rất quen thuộc. Vì cả ba đã đọc Bắc-sử thời Tam-quốc. Còn Thiệu-Thái, chàng chưa từng nghe đến bao giờ. Tuy vậy, chàng tự nhủ:
    - Địa danh Trung-nguyên mình không thuộc là lẽ thường. Mình cũng chẳng cần thắc mắc.
    Vì vậy chàng không hỏi han gì cả. Bảo-Dân cho thuyền đậu tại ngoài Phàn-thành. Y nói:
    - Tương-dương là nơi phát xuất ra võ phái dương cương, đường đường chính chính từ đời Tần-Hán. Thời Đông-Hán có chín đại tướng danh tiếng nhất xuất thân phái này. Chín người được vua Quang-Vũ ban cho cái mỹ danh là Tương-dương cửu hùng. Họ từng giao chiến với các anh hùng thời vua Trưng.
    Mỹ-Linh đã thuộc làu sử Lĩnh-Nam. Nàng hỏi:
    - Có phải chín người đó là Sầm Bành, Mã Vũ, Cảnh Yểm, Tế Tuân, Tang Cung, Lưu Hân, Lưu Long, Đoàn Chí, Phùng Tuấn không?
    - Đúng thế.
    Khai-Quốc vương nhìn Bảo-Dân tủm tỉm cười:
    - Tương-dương cửu hùng thực ra chỉ có tám người. Vì Mã Vũ đâu phải là người Hán, ông là người Việt mà. Ông có tên Chu Kim-Hựu, vốn thuộc phái Cửu-chân. Cũng như hiện nay, danh sĩ Trung-nguyên không ngớt ca tụng Tương-giang tam tuyệt. Có ai ngờ đâu họ lại là Côi-sơn tam anh của Đại-Việt.
    Bảo-Dân giật bắn người lên. Vì cách đây hơn mười năm, ba đại đệ tử của Côi-sơn đại hiệp Trần Tự-An là Trần Phụ-Quốc, Trần Bảo-Dân, Trần Trung-Đạo võ công cực kỳ cao thâm, bản lĩnh không thua Đại-Việt ngũ long làm bao. Bấy giờ người người đều truyền tụng:

    Trên trời có ngũ long.
    Dưới đất có tam-anh.


    Ngụ ý nói tài Côi-sơn tam anh chỉ dưới có Đại-Việt ngũ long mà thôi.
    Ngoài võ công ra, Phụ-Quốc nổi danh bút mặc văn chương, cử bút thành thơ. Bảo-Dân nức tiếng âm nhạc. Đến nỗi phái Sài-sơn có hơn nghìn năm chuyên về nhạc, mà cũng phải tấm tắc khen tài. Trung-Đạo nổi danh về họa. Rồi giang hồ không hiểu sao ba người đều tuyệt tích. Họ có ngờ đâu sư phụ sai ba người sang Trung-nguyên lập hệ thống tế tác, phòng quân Tống sang đánh Đại-Việt.
    Cả ba cùng hoạt động ở vùng Trường-giang, Tương-giang, rồi họ được danh sĩ Trung-nguyên tặng cho mỹ tự Tương-giang tam tuyệt. Không ai ngờ Tương-giang tam tuyệt với Côi-sơn tam anh lại là một. Bây giờ thình lình Khai-Quốc vương nói ra, làm Bảo-Dân kinh ngạc.
    Mỹ-Linh biết Bảo-Dân bồi hồi trong lòng vì lời nói của chú mình. Nàng hỏi Kim-An một câu, để Bảo-Dân quên đi:
    - Khấu sư thúc này. Trong Tương-dương cửu hùng thì Sầm Bành bị Bắc-bình vương Đào Kỳ giết. Tang Cung, Lưu Hân bị Thiên-ưng lục tướng bắt cho chim ưng ăn thịt. Đoàn Chí bị công chúa Gia-Hưng chém trên biển Đông. Cản Yểm bị giết tại điện Vị-ương. Rút cục chỉ còn Lưu Long, Phùng Tuấn, Tế Tuân không rõ sau ra sao?
    - Tôi cũng không nhớ nữa. Chỉ biết rằng hầu hết những anh hùng thời Đông-Hán đều chết vì tướng của vua Bà. Đau nhất là Sầm Bành bị giết ở Dương-bình-quan.
    Xin đọc Anh-hùng Lĩnh-Nam, Động-đình hồ ngoại sử, Cẩm-khê di hận, của Yên-tử cư-sĩ, do Nam-á Paris x.b.
    Nàng hỏi chồng:
    - Chúng ta có lên bờ dạo chơi không?
    Bảo-Dân đưa mắt hỏi Khai-Quốc vương. Vương cười:
    - Nên chứ. Ta là sứ đoàn Đại-Việt mà. Ta cứ đường đường chính chính dạo chơi. Bất quá quan quân Tống có hỏi, ta đưa thẻ bài ra, họ phải hộ tống ta về Biện-kinh là khác. Có điều ta không nên dụng võ.
    Sáu người lên bờ. Lập tức đám trẻ con rước khách cho phu xe chào đón đon đả. Kim-An thuê hai xe ngựa. Khai-Quốc vương, Thanh-Mai, Thiệu-Thái đi một xe. Người đánh xe xưng tên là lão Cố. Mỹ-Linh với vợ chồng Bảo-Dân đi một xe. Người đánh xe tự xưng tên là lão Xa. Hai xe nối đuôi nhau vào thành. Hôm ấy trời lất phất mưa, gió thổi lạnh buốt, ngoài đường vắng bóng người đi.
    Xe sang của Tây, mưa càng nặng hạt. Màn cả hai xe đều phải đóng kín. Xe đang đi, thình lình phải đứng lại. Phu xe nói vọng vào:
    - Xin quý khách cảm phiền, vì phía trước có người tụ tập đông quá, xe đi không được.
    Mỹ-Linh hỏi:
    - Họ tụ tập làm gì vậy?
    - Thưa, họ xem bảng văn. Bảng văn yết thị tầm nã tội phạm.
    Tò mò Mỹ-Linh thò đầu ra ngoài nhìn. Bất giác nàng gật bắn người lên, vì bảng văn của quan kinh-lược sứ Kinh-châu yết thị cho ai bắt được năm tội phạm có hình dưới sẽ được thưởng trăm lượng vàng. Nhưng bảng văn không biết rõ tên tuổi tội phạm là gì. Trong hình năm tội phạm, một người giống hệt Bảo-Hòa. Một người giống hệt Thông-Mai. Phía dưới ba hình, Lê Văn, Tôn Đản, Tự Mai.
    Khai-Quốc vương kinh ngạc, vương nói bằng tiếng Việt:
    - Không hiểu sao năm người này để lộ chân tướng. Nay có lệnh truy nã thực khó mà hành động.
    Thanh-Mai an ủi chồng:
    - Dường như họ chỉ thấy người, mà không biết rõ lý lịch. Ta truyền tin bảo họ thay đổi y phục, hoá trang đi một chút ai mà biết được?
    Khai-Quốc vương lắc đầu:
    - Không cần, không nên làm thế. Anh thấy trong vụ này có điều gì bí ẩn. Vì bảng văn do Kinh-lược sứ truy tầm chứ không phải triều đình. Như vậy có nghĩa phạm trường xẩy ra trong thành Tương-dương. Nhưng Bảo-Hòa, Tự-Mai, Tôn Đản, Lê Văn chưa từng đến đây.
    Nét mặt Vương cương quyết hơn:
    - Chúng ta đi sứ. Hai lần triều Tống cử người hộ vệ ta đều không làm tròn nhiệm vụ. Lần này chính hai lão Tôn, Lê quẳng ta tại núi Tam-sơn. Bây giờ Kinh-lược sứ Kinh-châu cáo thị truy tầm người của sứ đoàn. Như vậy tức y làm nhục quốc thể. Xưa nay sứ thần dù phạm tội gì, chỉ Hoàng-đế mới được phán xét. Có đâu kinh lược sứ vô phép? Thôi được bây giờ chiều rồi. Mai ta vào gặp kinh lược sứ chất vấn y cũng chưa muộn.
    Xe đi khắp thành, chỗ nào cũng thấy niêm yết cáo thị tầm nã. Bảo-Dân truyền lệnh cho phu xe:
    - Người đưa chúng ta đến một tửu lầu nào đi.
    - Thưa khách quan, có một tửu lầu danh tiếng tên Hán-dương, nhưng lại ở về phía Tây-thành đến năm dậm. Nếu khách quan không chê xa, lão xin đưa đến.
    - Được người dẫn chúng ta đến đó đi.
    Xe ra khỏi thành, hướng về phía Tây. Thanh-Mai để ý thấy thỉnh thoảng trong xe có mùi u hương bốc lên ngào ngạt. Nàng dùng lăng không truyền ngữ hỏi Thiệu-Thái:
    - Thiệu-Thái! Trên xe cháu có gì lạ không?
    - Cháu thấy dưới nệm xe để một chiếc khăn ướt tẩm hương ngũ-hoa, thì biết chúng muốn hạ độc mình, nhưng còn e dè. Vì vậy chúng cho mình ngửi hương ngũ hoa trước. Sau đó mới phóng độc tố. Chất độc này hơi giống Di-hồn. Không lẽ bọn chúng thuộc phái Côn-lôn. Vì trước đây Đoàn Huy bị trúng thất trùng ngũ hoa rồi truyền sang mợ.
    - Công lực Thiệu-Thái cao, vậy cháu hãy dùng lăng không nói cho Mỹ-Linh bên xe kia biết mà đề phòng. Nếu thấy vợ chồng nhị sư huynh ngủ gục, mình cũng vờ trúng độc xem tụi nó định làm gì.
    - Cháu đã báo rồi. Ngặt một điều Kim-An không đủ công lực chống với độc tố, e bị hại.
    - Không sao.
    Thanh-Mai dùng lăng không truyền ngữ nói với chồng:
    - Mình nên để yên, hay lột mặt nạ tên đánh xe này?
    Nghe vương phi hỏi, Khai-Quốc vương tự chửi thầm:
    - Mình đáng chết thực, vì đang mải lo nghĩ về nội loạn trong nước, mà thiếu thận trọng. May mà Thanh muội nhận ra cái khác lạ của gã đánh xe.
    Vốn thận trọng vương trả lời:
    - Cứ chờ xem y định dở trò ma trò quỉ gì. Em thấy y có hành vi nào khác lạ không?
    - Nhiều lắm. Thứ nhất, phía Tây thành Tương-dương không có tửu lầu Hán-dương. Y nói cách thành năm dặm, mà nãy đến giờ đã quá mười dặm rồi. Điểm nghi ngờ thứ nhì là hơi thở của y dài, nhỏ như tơ liên miên bất tuyệt. Như vậy y có nội lực thâm hậu vô cùng. Anh có để ý thấy họ dùng ngũ-hoa hương tẩm vào khăn để dưới xe cho mình ngửi trước, rồi hạ độc sau không?
    - Em nói anh mới biết.
    Nàng dùng lăng không truyền ngữ hỏi Mỹ-Linh:
    - Mỹ-Linh thấy gã đánh xe có gì khác lạ không?
    - Y là một đại cao thủ, nội công thâm hậu vô cùng. Chú hai định sao?
    - Bề gì chúng cũng chỉ có hai người. Nếu cần ta điểm huyệt kiềm chế chúng, đâu có khó.
    Mỹ-Linh hỏi lão Xa:
    - Ban nãy lão nói tửu lầu ở phía Tây thành năm dậm. Nãy giờ xe đi có tới mười dặm, mà sao chưa thấy?
    Lão chỉ vào một rừng ven con sông nhỏ:
    - Kìa! Tửu lầu Hán-dương kìa. Quan khách hãy nhìn xem có lớn không?
    Mỹ-Linh nhìn lên, chẳng thấy gì cả, trong khi mùi hương ngào ngạt từ cổ tay lão bay ra. Biết lão phóng độc, nàng vội vận công chống trả.
    Đến đây Kim-An gọi chồng:
    - Anh ơi! Tại sao chân tay em lại vô lực thế này.
    Bảo-Dân cũng cảm thấy chân tay tê dại. Biết bị trúng độc, nhưng nội lực y hùng hậu, nên thuốc chưa ngấm vào cơ thể. Y ra chiêu Cầm-long trảo chụp lão Xa. Lão Xa vọt mình lên cao tránh khỏi. Bảo-Dân đứng dậy, y đánh ngựợc lên chiêu Phong-ba hợp bích. Lão Xa đánh xuống mợt chưởng, nội lực hùng hậu vô cùng. Mỹ-Linh thấy công lực lão cao hơn bọn trưởng lão Lạc-long giáo nhiều. Trong chưởng có mùi hôi tanh khủng khiếp.
    Mỹ-Linh than thầm:
    - Thì ra hai lão này luyện Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Không biết lão thuộc bang Nhật-hồ Trung-quốc hay thuộc Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Một điều đáng lo là không rõ chúng có biết nói tiếng Việt không. Nhất định chúng không phải là người Hoa rồi, vì chúng nói tiếng Hoa hơi ngọng.
    Trong khi Mỹ-Linh nghĩ thì chưởng Bảo-Dân với lão Xa đụng nhau, binh một tiếng người lão Xa bay bổng lên cao. Sau khi đánh hai chiêu, thuốc độc ngấm mau chóng, người Bảo-Dân rơi xuống xe. Lão Xa đáp xuống nhẹ nhàng. Lão cười nhạt nói với Mỹ-Linh bằng tiếng Việt:
    - Công chúa điện hạ. Nghe nói nội công cùng kiếm pháp công chúa cao thâm vô cùng. Nên anh em lão phải thỉnh đại giá công chúa bằng thuốc ngũ-hương di-hồn nhuyễn cân. Làm như vậy thực là vô lễ. Mong công chúa đại xá.
    Mỹ-Linh mỉm miệng cười:
    - Tiên sinh khỏi cần đánh thuốc độc. Chú cháu tôi đi sứ, nên tuyệt đối không dùng võ công trên đất Tống. Tiên sinh ơi! Khi chúng tôi không xử dụng võ công thì tiên sinh đánh thuốc chi cho mệt? Hai vị Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ đã từng đùng thuốc nhuyễn cân với chúng tôi. Chúng tôi có chống lại đâu?
    Lão Xa chỉ Bảo-Dân hỏi:
    - Công chúa! Dưới tay cường tướng vô nhược binh. Công chúa làm cách nào mà thu phục được gã này. Công lực gã thực khó có ai đạt được ngang hàng.
    Bảo-Dân bị trúng Chu-sa độc chưởng. Y đau đớn vô cùng, nhưng vốn can đảm, y nghiến răng chịu vận công chống độc, chứ nhất định không rên la.
    Lão Xa nói một mình:
    - Nội công của y là thứ tà môn giống như Thiếu-lâm. Nhưng hung dữ vô cùng. Chiêu Cầm-long trảo biến hóa thực kỳ diệu. Còn chiêu võ đánh ngược lên cao giống như Kim-cương ban nhược chưởng của Thiếu-lâm, mà sát thủ thực kinh người.
    Nghe giọng điệu lão Xa, Mỹ-Linh nghĩ thầm:
    - Tên này tin theo Hồng-thiết kinh, luận điệu giống Nhật-Hồ lão nhân đây. Tiên, Thánh, Thần, Phật đối với y đều thuộc ma quỷ hết. Dường như y không biết nhiều về võ công Đại-Việt. Y thấy võ công Đông-a giống võ công Tiêu-sơn. Trong khi võ công Thiếu-lâm cũng giống võ công Tiêu-sơn. Y nhận lầm võ công Đông-a với Thiếu-lâm là một.
    Lão Xa không nói, không rằng, cho xe chạy vào khu đất hoang. Bên xe kia Khai-Quốc vương, Thanh-Mai, Thiệu-Thái cũng giả vờ ngồi bất động trên xe. Lão Cố cũng cho xe chạy theo xe lão Xa.
    Lão Cố nhìn lão Xa cười ha hả:
    - A ha, không ngờ chúng ta thành công dễ dàng thế nhỉ. Bọn này trúng Di-hồn nhuyễn cân ngũ hoa phấn, ít nhất mười ngày mới cử động được. Trong thời gian đó ta cho xe chạy thực mau, có thể tới Biện-kinh.
    - Bây giờ ta cho cả sáu đứa này vào trong chiếc xe lớn, để lên đường. Có nên trói chúng lại không?
    - Không nên, vì trói chúng, dọc đường quan quân khám xét, hỏi han lôi thôi lắm. Ta cứ đặt chúng ngồi bên nhau, rồi cho xe chạy thì hơn.
    Thiệu-Thái hỏi lão Cố:
    - Lão là ai? Tại sao lại đánh thuốc độc bọn ta?
    - Bọn lão phu nói tên chắc thế tử cũng không biết đâu. Anh em lão phu có việc cần tới Khai-Quốc vương, nên phải nghênh đại giá bằng lối này, quả thực vô phép. Nhưng biết làm sao hơn?
    Lão Cố hú một tiếng dài. Từ trong vườn, một chiếc song mã lớn, trên có một thiếu niên đánh xe chạy ra. Gã chắp hai tay lại để lên trán, rồi cúi đầu hành lễ với hai lão Cố, Xa:
    - Đệ tử kính cẩn ra mắt nhị vị giáo chủ.
    Nghe thiếu niên gọi hai lão bằng giáo chủ, cả sứ đoàn đều ngơ ngác tự hỏi:
    - Rõ ràng hai lão này xử dụng Nhật-hồ độc chưởng, như vậy chúng thuộc Hồng-thiết giáo. Trung-quốc Hồng-thiết giáo hoạt động dưới danh nghĩa bang Nhật-hồ. Chỉ Đại-Việt mới có Hồng-thiết giáo, giáo chủ là Nhật-Hồ lão nhân. Vậy hai lão này là giáo chủ nào nữa?
    Lão Cố hỏi thiếu niên:
    - Người tên gì? Báo danh di.
    - Đệ tử tên Bủa Khảm thuộc đạo Vạn-tượng.
    - Người cho xe chạy vào thành mau, bằng không trời tối đến nơi rồi.
    Thanh-Mai dùng Lăng-không truyền ngữ hỏi Thiệu-Thái:
    - Nhị sư ca bị trúng Chu-sa độc chưởng. Thiệu-Thái nghĩ xem để lâu có hại không?
    - Công lực nhị thúc rất cao, nên dù bị trúng độc chưởng, mà hiện giờ chưa thấy phát tác. Cháu định giải độc cho nhị sư thúc, không biết có nên không?
    - Khoan! Thiệu-Thái nói cho nhị sư ca biết trước. Bằng không khi được giải độc, người lại dùng võ thì hỏng bét.
    Lão Cố cầm roi ngựa rung lên, roi quấn vào Mỹ-Linh. Lão giật roi một cái người nàng bay sang chiếc song mã, rơi xuống ghế êm ả, giống như đặt nàng ngồi vậy. Tiếp theo tới Thanh-Mai, Kim-An. Lão Xa dùng ưng trảo nhắc Khai-Quốc vương, Thiệu-Thái, Bảo-Dân bỏ sang xe lớn. Vô tình lão đặt Thiệu-Thái, Bảo-Dân cạnh nhau. Thiệu-Thái làm như người trúng độc, tay vô lực, chàng để lòng bàn tay lên đùi Bảo-Dân, rồi vận công chuyển sang người y .
    Bảo-Dân kinh lịch giang hồ nhiều, y bị trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng đau đến toát mồ hôi lạnh. Song bản tính gan lỳ, y cắn răng vận công chịu đựng, chứ nhất định không rên la.
    Thình lình y thấy Thiệu-Thái để tay lên đùi, rồi chân khí cuồn cuộn tràn vào người y. Chân khí chạy đến đâu, cái đau biến mất đến đó. Trong khi ấy tiếng Thanh-Mai nói như rót vào tai y :
    - Sư huynh ơi! Thiệu-Thái giải độc cho sư huynh. Vậy sư huynh đừng chống lại. Sau khi hết đau đớn, sư huynh phải làm như mình vẫn còn bị độc tố hoành hành. Chúng ta cần im lặng, xem hai lão này định làm gì.
    Khoảng nhai dập miếng trầu, bao nhiêu cái đau đớn trên người Bảo-Dân biến mất. Y giả vận công chống dau.
    Lão Cố hỏi Khai-Quốc vương:
    - Vương gia! Vương gia thử đoán xem lão phu là ai? Tại sao lão phu lại vô phép như thế này?
    Khai-Quốc vương thản nhiên:
    - Hai vị với cô gia vốn cùng tộc Việt với nhau. Tại sao lại phải cúi đầu làm đương sai cho Lưu hậu.
    - Nhưng vương gia đã biết anh em lão phu là ai đâu?
    Khai-Quốc vương cười nhạt tỏ vẻ dung thứ. Thanh-Mai cười khúc khích:
    - Nhị vị giáo chủ thực không thông thế tục chút nào hết. Phu quân tôi vì đi sứ nên không thể dùng võ công. Chứ cái gọi là Nhật-hồ độc chưởng chúng tôi có coi ra gì?
    Nàng nhìn lão Cố:
    - Sử-Vạn vương gia, công lực đến như Nhật-Hồ, Lê Ba, Nhất-Trụ, mà chúng tôi còn trị được. Huống hồ vương gia chỉ là một Đông-phương sứ giả của y.
    Lão Cố kinh hãi đến rụng rời chân tay. Thanh-Mai nhìn lão Xa:
    - Khiếu tiên sinh. Đối với Đại-Việt, tiên sinh là Nam-phương sứ giả Hồng-thiết giáo, nay sao tiên sinh lại tự xưng là giáo chủ Hồng-thiết của sắc dân Khờ-me. Tôi nói thế có đúng không?
    Đến lượt lão Xa kinh sợ. Chiếc roi ngựa trên tay lão suýt rơi xuống đất. Lão lắp bắp, giọng đã có đôi phần khách sáo:
    - Bằng cách nào vương phi nhận ra anh em lão phu.
    Thanh-Mai chỉ lão Cố nói với Mỹ-Linh:
    - Vị này tên thực là Sử-Vạn Na-vượng con thứ ba tiên vương Lão-qua. Vương gia nức tiếng võ công đệ nhất trong nước. Vì không được truyền ngồi vua, vương gia bỏ sang Đại-Việt, mưu ngoại viện. Vương gia gặp Nhật-Hồ lão nhân, được lão nhân truyền Hồng-thiết thần công, rồi phong cho làm một trong ngũ sứ Hồng-thiết giáo, giao nhiệm vụ phát triển giáo chúng vùng Lão-qua. Sau khi giáo chúng Lão-qua có cơ sở, Nhật-Hồ lão nhân thưởng công cho vương gia bằng cách truyền Hồng-thiết tâm pháp để có thể giải vĩnh viễn Nhật-hồ độc chưởng. Từ đấy vương gia tách ra, thành lập Hồng-thiết giáo Lão-qua, tự phong làm giáo chủ, không phụ thuộc Nhật-Hồ lão nhân nữa. Gần đây, vương gia được Lưu thái hậu phong cho làm Kiểm hiệu thái phó, Tĩnh hải tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, Nam-phương tĩnh lự công thần, Lão-qua quận vương. Thực ấp vạn hộ. Thực-phong ngũ thiên hộ. Nhưng vương gia chưa vừa lòng, muốn được kiêm cả vùng Đại-lý.
    Nàng chỉ Khiếu Tam-Bản:
    - Còn vị này tên Khiếu Tam-Bản, được phong Thái-tử thiếu bảo, Nam-hải tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Chân-lạp quận vương. Thực ấp vạn hộ, thực phong tam thiên hộ.
    Nàng nói tiếp:
    - Quốc vương triều Sà-phạt có ba con trai. Con đầu lòng tên Phủ-mỹ Na-vạn, do một hoàng hậu gốc Việt sinh ra. Khi mới lọt lòng Phủ-Mỹ Na-Vạn đã được phong làm Thái-tử. Na-Vạn tính tình hiền hậu, rất được lòng dân chúng. Khi phụ vương băng hà, ông lên nối ngôi làm vua. Con thứ tên Phủ-Vạn-Nặc Phụ-Mã, con một thứ phi người Chân-lạp sinh ra. Phủ-Vạn-Nặc, văn võ kiêm toàn, luôn tìm ngoại viện với Xiêm-la, Đại-Việt, Đại-lý, Trung-nguyên để cướp ngôi anh. Y lại khéo chiêu hiền nạp sĩ, nên dưới tay y có nhiều nhân tài. Khi anh y sắp băng hà, gọi y lại trao phó việc mai sau, mong y phò tá con côi. Phủ-Vạn là Phật-tử rất thuận thành. Do vậy y giao du với Nguyên-Hạnh. Nguyên-Hạnh khích y cướp ngôi cháu. Nhưng y sợ oai triều Lý, không dám ra tay. Nguyên-Hạnh khuyên y nên theo Tống. Khi được sắc phong của Tống, triều Lý sẽ không dám đem quân trừng phạt khi y cướp ngôi vua. Y được Triệu Thành tấu với triều đình phong cho chức tước. Nhưng âm mưu của y bị Khu-mật viện Đại-Việt khám phá ra. Trong đại hội Lộc-hà, Thuận-Thiên hoàng đế đem tất cả thư tín, cùng vàng bạc y cống Tống tặng lại y. Y kinh hoảng, bỏ Tống trở về với Đại-Việt.
    Nàng cười giòn dã:
    - Hoàng tử thứ ba tên Sử-vạn Na-vượng, do một cung nữ sắc dân Thái sinh ra. Vốn có sức khỏe, y sớm trở thành thiên tài võ học. Y nghĩ rằng: Lão-qua tuy nằm trong tộc Việt, nhưng toàn sắc dân người Thái. Sinh mẫu y là người Thái, vì vậy y mới xứng đáng lên ngôi vua. Y sang Đại-Việt tìm hậu thuẫn với Lê triều, y kết hôn với một thiếu nữ Việt. Nhưng triều Lê từ chối. Y đang thất vọng, thì gặp Nhật-Hồ lão nhân. Lão nhận y làm sư đệ, truyền Hồng-thiết kinh cho y, rồi phong y làm Đông-phương sứ giả.
    Nàng chỉ Khiếu-tam-bản:
    - Khiếu Tam-Bản trước đây đã sang Tống du học, văn hay, chữ tốt. Một cơ duyên may đến với y. Y gặp Nhật-Hồ lão nhân. Y được lão kết huynh đệ, truyền Hồng-thiết công cho. Y trở về Chân-lạp truyền bá Hồng-thiết giáo. Hồng-thiết giáo của y đi đến đâu giết người đến đó. Khắp xứ Chân-lạp chỗ nào cũng trở thành điêu tàn, tưởng như tuyệt diệt.
    Nàng lắc đầu:
    - Còn Sử-vạn, sau khi liên kết với Tam-Bản. Y trở về Lão-qua truyền giáo. Thế lực của y cực lớn. Đến nỗi quốc vương phải phong cho y tước vương, cho giữ chức Thái-phó, coi toàn bộ binh lực. Nhật-Hồ lão nhân khen ngợi, truyền Hồng-thiết tâm pháp cho y, hầu y có thể giải vĩnh viễn Nhật-Hồ độc chưởng cho giáo chúng. Được Hồng-thiết tâm pháp rồi, y bèn tách khỏi Hồng-thiết giáo Đại-Việt, lập ra Hồng-thiết giáo Lão-qua, do y làm giáo chủ.
    ... Trong khi đó Khiếu Tam-Bản cũng thành công ở Chân-lạp. Cũng được truyền Hồng-thiết tâm pháp. Tam-Bản thấy Sử-Vạn Na-Vượng tách khỏi Hồng-thiết giáo Đại-Việt lập Hồng-thiết giáo riêng. Y cũng bắt chước, tự xưng giáo chủ.
    ... Vì sắc dân Thái sống khắp Đại-lý, Lão-qua, Xiêm-la, nên Hồng-thiết giáo của Sử-Vạn Na-Vượng có tổ chức khắp ba nước. Nhân sau đại hội Lộc-hà, thấy anh hùng tộc Việt tôn Khai-Quốc vương làm minh chủ, trong việc thống nhất. Y xin Khiếu Tam-Bản giúp đỡ, tổ chức đại hội võ lâm Vạn-tượng, làm lễ giỗ công chúa Nguyệt-Đức Phùng Vĩnh-Hoa, mục đích nêu cao ngọn cờ thống nhất sắc dân Thái, để tôn y làm minh chủ. Nhưng trong đại hội, y bị võ phái Thiên-tượng của Đoàn Huy, võ phái Tha-nôm của Rát-ta-Na phá tan. Y bèn cùng Khiếu Tam-Bản lộn trở sang Tống tìm ngoại viện.
    ... Giữa lúc đó Lưu hậu bắt buộc phải phong chức tước cho Chu Bội-Sơn, Đào Tường-Phúc, sai trấn ở ngoài. Bà thiếu chân tay võ công cao ở trong để làm những truyện bí mật. Bà phong cho y với Khiếu Tam-Bản chức tước, rồi sai đi khống chế bá quan văn võ. Chỉ thời gian ngắn hai lão lập được biết bao công. Bà trao cho Sử-vạn Na-Vượng chức Trấn-quốc đại tướng quân, Tổng-lĩnh thị vệ. Còn Khiếu Tam-Bản được phong Hoài-hóa đại tướng quân, lĩnh chức Bắc-ban nội phẩm, phụ trách thị vệ Cấm-thành.
    ... Cách đây mấy ngày, tin tức từ Đàm-châu tâu về triều việc Chu Bội-Sơn, Đào Tường-Phúc bị một thế lực bí mật bắt mất mười trưởng lão bang Nhật-hồ. Hai lão mất tích cùng sứ đoàn. Lưu hậu cho rằng việc này do Định-vương ra tay. Bà vội sai y lên đường tìm sứ đoàn, bằng mọi cách đem sứ đoàn về triều.
    Sử-vạn tưởng võ lâm Hoa-Việt không ai biết y. Nào ngờ bây giờ y với Khiếu Tam-Bản bị Thanh-Mai nói đúng lý lịch. Dù trời mùa Đông, mồ hôi y cũng vã ra.
    Thanh-Mai thấy y sợ, càng dọa già:
    - Nhị vị giáo chủ. Rất đỗi hùng mạnh như Hồng-thiết giáo Đại-Việt, như bang Nhật-hồ Trung-quốc. Võ công cao như Nhật-Hồ lão nhân, như tả hữu sứ Chu Bội-Sơn, Đào Tường-Phúc. Bang trưởng Đặng Đại-Bằng cùng hai vị Phương Hổ, Phương Báo... nay đã thoát ra khỏi ma chướng, ma nghiệp. Nhị vị ơi! Buông dao mổ heo, lập tức thành Bồ-tát. Nhị vị giết người đã nhiều rồi mà nay còn đi vào đường tà, e rằng đại họa lâm đầu, bấy giờ có hối cũng không kịp nữa.
    Sử-vạn Na-vượng quay lại nói một tràng tiếng lạ với Khiếu Tam-Bản. Khiếu Tam-Bản cũng đáp lại bằng tiếng lạ. Hai người nhìn nhau cười khúc khích.
    Thiệu-Thái nghe hai lão đối đáp, chàng nhận ra họ dùng tiếng Thái. Tại Bắc-biên có đến năm khê động Thái trắng, ba khê động Thái đen. Chàng được song thân cho học đủ thứ tiếng Thái, Mường, Mèo từ nhỏ, nên nay nghe hai lão nói lén với nhau, chàng hiểu liền.
    Sử-Vạn Na-vượng:
    - Con nhỏ này là vợ gã Lý Long-Bồ phải không?
    Khiếu Tam-Bản:
    - Đúng thế. Nay mai gã lên làm vua Đại-Việt đấy.
    - Bỏ mẹ chúng mình rồi. Từ xưa đến giờ Chân-lạp, Lão-qua đều phải thần phục Đại-Việt. Chúng mình mưu làm vua, mà gây hấn với gã này, e không đất mà chôn. Gã như lửa cháy ở gần, trong khi Lưu hậu như nước lại ở xa. Làm sao bây giờ?
    - Tôi nghĩ chúng ta nên đánh thuốc độc giết cả sứ đoàn, rồi đổ cho người của Định-vương Nguyên Nghiễm. Như vậy sau này ai lên làm vua Đại-Việt cũng được, còn hơn để gã Long-Bồ sống, chúng ta không thể yên với gã.
    - Tạm thời ta cứ lên đường về Biện-kinh đã, rồi sẽ liệu.
    Thiệu-Thái dùng Lăng-không truyền ngữ thuật những gì hai lão nói với nhau cho Khai-Quốc vương cùng Thanh-Mai nghe.
    Xe đã vào trong thành. Lại gặp chỗ dân chúng tụ tập xem bảng văn tầm nã của Kinh-lược sứ làm xe bị nghẽn lối không đi được. Chợt Thanh-Mai thấy bảng văn như có gì khác với những bảng văn xem hồi trưa. Nàng đọc lên cho mọi người nghe:
    Quan Kinh-lược sứ Kinh-châu,
    cùng Tư-mã Tương-dương cáo tri cho dân chúng biết.
    Hiện có hai tên đại đạo khét tiếng đang lẩn trốn trong vùng. Một đứa có tên Sử-vạn Na-vượng người xứ Lão-qua. Một đứa có tên Khiếu Tam-Bản người xứ Chân-lạp. Ai bắt hoặc giết được một tên, bản chức sẽ thưởng cho trăm lượng vàng.

    Trên hai tấm vải lớn. Mỗi tấm vẽ hình một người theo hai thế. Một thế nhìn thẳng, một thế nhìn nghiêng. Tấm bên phải vẽ hình Sử-Vạn Na-vượng. Tấm bên trái vẽ hình Khiếu Tam-Bản. Nét vẽ sống động, trông giống như hai lão như bên ngoài.
    Cả sứ đoàn đều kinh ngạc đưa mắt nhìn nhau. Hai lão Khiếu, Sử tung mình khỏi xe đến sát dưới tấm bảng, đọc lại bảng văn.
    Một người dân ra vẻ hiểu biết nói:
    - Hai tên đại đạo này không vừa. Đêm qua chúng dám lọt vào dinh Kinh-lược sứ ăn trộm bảo vật của vua Xiêm cống Thiên-tử.
    Một người hỏi:
    - Sao cống bảo lại ở trong dinh Kinh-lược sứ?
    - Có gì đâu mà lạ. Sứ thần Xiêm-la là Thái tử An-nan Tam-gia-la-sun cư trú tại dinh Kinh-lược sứ. Không ngờ trong đêm hai tên đại đạo này lẻn vào ăn cắp cống bảo.
    Hai lão Sử-Vạn, Khiếu chưa đọc hết, dân chúng đã nhận ra mặt chúng giống hình cáo tri. Một người kêu:
    - Hai tên đại đạo đây rồi.
    Họ xúm vào bao vây hai lão. Một vài người có vũ khí, họ rút ra cầm tay. Hai lão kinh hãi, vội nhảy lên xe miệng hô:
    - Chạy mau.
    Gã đánh xe ra roi. Xe hướng cửa Bắc phóng đi như bay. Nhưng tới cửa Bắc, lại gặp đám dân chúng đang đứng xem bảng văn truy tầm hai lão. Gã đánh xe quát tháo, cho ngựa lao vào đám đông. Đám đông vội nhảy nhót tránh né. Cứ thế xe ra khỏi thành, gặp đến chín chỗ yết bảng tầm nã.
    Sử-vạn Na-vượng hỏi Tam-Bản:
    - Sư đệ! Rõ ràng chúng ta nhận chỉ dụ của Thái- hậu đi đón sứ đoàn, mà sao kinh lược sứ Kinh-châu lại cáo thị tầm nã rằng chúng ta là phường trộm cướp. Chúng ta phải vào thành hỏi cho ra lẽ.
    - Nhưng Thái-hậu muốn chúng ta âm thầm làm việc, cấm xuất hiện. Thôi, chúng ta mau về Biện-kinh, rồi sẽ tính sau.
    Sử-Vạn ra lệnh:
    - Lên đường.
    Xe đi đến khi trời tối thì tới một trấn nhỏ. Lão Khiếu hỏi gã đánh xe: Bủa Khảm. Trấn này tên gì vậy?
    - Trình giáo chủ đó là huyện Tân-dã.
    Nghe nói đến Tân-dã, Mỹ-Linh đưa mắt nhìn Thanh-Mai. Cả hai cùng gật đầu, vì địa danh Tân-dã rất nổi tiếng trong chiến tranh thời Tam-quốc.
    Bủa Khảm tiếp:
    - Trước đây Tân-dã là một thành nhỏ. Sau dân chúng đông quá, cư trú khắp xung quanh rộng ra tới mấy dậm. Từ khi Tống triều lập lên, huyện thành di chuyển đi xa hơn chỗ cũ.
    - Người tìm cho ta một khách điếm.
    - Tuân chỉ giáo chủ.
    Bủa Khảm đánh xe vào trấn. Y gò cương cho ngựa dừng lại trước khách điếm Nghinh-phong. Một thiếu niên chạy ra đon đả chào, tay y đón dây cương. Quản lý cúi rạp người xuống chào, gọi phu khuân hành lý xuống.
    Một chiếc xe song mã từ phía sau phóng tới như bay. Bị xe Bủa Khảm cản đường, hai con ngựa dựng đứng bốn vó lên, hí inh ỏi. Gã đánh xe chửi:
    - Con bà tụi bay! Hết đất rồi hay sao mà tụi bay dừng ở giữa đường cản trở ông nội bay.
    Y vung tay, cái roi ngựa đập vào đầu lão Khiếu. Lão Khiếu vòng ngón tay chỏ cuốn lấy chiếc roi ngựa rồi kéo mạnh. Gã đánh xe buông roi ra, miệng chửi:
    - Tổ bà quân trộm cướp.
    Lão Khiếu tung roi trả y. Gã đánh xe bắt lấy roi, miệng hô:
    - Vắt!
    Hai con ngựa sải bước, kéo xe đi. Gã đánh xe vung roi. Chiếc roi cuốn lấy gói hành lý của lão Sử-Vạn. Vù một tiếng, gói hành lý bay sang xe song mã. Chiếc xe vọt lên thực mau. Gã đánh xe quay lại méo miệng trêu lão Sử-vạn.
    Lão Sử-vạn hô:
    - Quân ăn cướp. Mau đuổi theo.
    Bủa Khảm ra roi, chiếc xe tứ mã vọt lên như tên bắn. Nhưng chiếc xe song mã còn chạy mau hơn. Đuổi được một lát, chiếc xe song mã đã mất hút vào quãng đường xa xôi mờ mịt bóng chiều.
    Giữa lúc đó từ phía xa, một con ngựa đang phi nước đại ngược chiều. Ngựa không có người cỡi.
    Nhìn con ngựa phi, không người cỡi, cả Thanh-Mai lẫn Mỹ-Linh lại nhớ hồi mấy năm trước hai người bị bọn Triệu Anh bắt đem từ Thanh-hóa đến Vạn-thảo sơn trang, Lê Văn đã ẩn dưới bụng ngựa, rồi phi như bay. Ai cũng tưởng ngựa hoang. Triệu Huy sai Quách Quỳ bắt ngựa, bị Lê Văn đánh một cái bạt tai. Nay thấy việc cũ diễn lại, hai người nhìn nhau, mỉm cười. Vì biết việc này do Lê Văn bầy ra trêu hai lão già.
    Khiếu Tam-Bản đứng lên càng xe quan sát. Y nói lớn:
    - Ngựa hoang không người cỡi, không yên cương. Ta bắt lấy.
    Y ra lệnh cho xe chạy chậm lại, rồi bước xuống đường đứng chờ. Khi con ngựa phi tới, y tung mình nhảy lên đáp xuống lưng ngựa. Con ngựa hí inh ỏi, cất cao vó trước. Thành ra Khiếu đáp hụt. Y rơi xuống đất.
    Con ngựa hạ vó, đứng ngoan ngoãn giữa đường. Khiếu nhún chân định nhảy lên lần nữa, thì trên lưng đã có một thiếu niên ngồi kiết già từ bao giờ. Tay y cầm ông tiêu đang tấu một bản nhạc rất nhu hòa. Khiếu không hiểu bằng cách nào thiếu niên đã bắt được ngựa.
    Mỹ-Linh chú ý thấy thiếu niên đó trông không giống Lê Văn chút nào. Còn Khiếu không biết từ đâu thiếu niên đó đã xuất hiện.
    Nhưng Sử-Vạn Na-vượng lại nhìn rất rõ: Thiếu niên nấp đưới bụng ngựa, điều khiển cho nó chạy. Khi thấy Khiếu nhảy lên định bắt, thếu niên thúc chân vào bụng ngựa, khiến nó nhảy dựng vó trước, rồi y lộn lên lưng ngựa.
    Thiếu niên chỉ mặt Khiếu Tam Bản:
    - Giữa ban ngày ban mặt mà lão định ăn cắp ngựa ư?
    Nghe tiếng thiếu niên, Mỹ-Linh nhận ra y chính là Lê Văn.
    Khiếu Tam Bản quát:
    - Tên ôn con kia, mi không được hỗn. Ta đường đường là khâm sai đi đón sứ đoàn. Ai thèm ăn cắp ngựa của mi.
    - Khâm sai! Thế có gì làm bằng chứng không?
    Khiếu Tam Bản định móc túi lấy thẻ bài ra, thì Sử-Vạn Na-vượng nói:
    - Mi là tên ôn con, không có tư cách gì hỏi thẻ bài bọn ta.
    - Dĩ nhiên tôi không có quyền hỏi hai lão. Chỉ nguyên việc ăn cắp ngựa cũng đủ biết hai lão không thể là khâm sai.
    Khiếu Tam Bản nổi đóa, y dơ tay định tát Lê Văn, nó hô lớn:
    - Noong chả.
    Có tiếng đáp lại
    - Khả.
    Mỹ-Linh dùng Lăng-không truyền ngữ hỏi sẽ Thiệu-Thái:
    - Lê Văn nói tiếng gì vậy?
    - Tiếng Thái. Noong chả là em ơi. Khả là ơi .
    Chờ một lát, Lê Văn hô:
    - Lêu ( Mau lên).
    Từ trong vườn bên đường một thiếu nữ mặc quần áo mầu tím chạy ra. Lê-Văn chỉ vào lão Khiếu:
    - Em coi, cái tên này định ăm cắp ngựa, rồi còn xưng là khâm sai nghĩ có chướng không?
    Nó tự chỉ tay vào thái dương, rồi nói trống không:
    - Pạt sạt. (Đồ khùng)
    Bỗng thiếu nữ áo tím kêu lên:
    - Ối! Hai lão này là đạo tặc, có bảng văn của quan nha niêm yết. Ai bắt hoặc giết một lão sẽ được thưởng vàng trăm lượng. Chính hai lão cướp của, đoạt xe của em tháng trước.
    Thiếu nữ áo tím nói tiếng Hoa bằng giọng rất ngọt ngào nũng nịu. Lê Văn chỉ lên xe:
    - Hai lão đạo tặc kia, bọn lão chở những ai trên xe thế?
    Lão Khiếu định lý luận, lão Sử-Vạn vẫy tay:
    - Chúng ta đi thôi, chẳng nên lý luận với bọn con nít này làm chi.
    Có tiếng lộp bộp vó ngựa. Từ phía sau một đoàn thiết kị khoảng hơn trăm người được chỉ huy bởi một viên tướng đi tới. Đoàn thiết kị chia làm hai. Toán đi trước gồm năm người dẹp đường. Toán sau gần trăm người. Giữa hai toán có hai kị mã gồm một nam một nữ. Nam mặc bộ quần áo mầu vàng coi rất lạ. Nữ mặc áo xanh. Quãng đường này hơi hẹp, lại vướng chiếc xe tứ mã, cùng con ngựa của Lê Văn cho nên toán kị mã ùn lại. Mấy thiết kị đi đầu hô lớn:
    - Tránh đường.
    Lê Văn thúc chân vào bụng ngựa. Con ngựa dựng hai vó trước lên, nó đứng bằng hai chân sau, đầu gật bốn cái như làm lễ.
    Cả toán thiết kị cùng đôi nam nữ đều kinh ngạc. Nữ nói:
    - Anh trông kìa! Tại sao có người giỏi thuật kị mã đến thế kia?
    Cặp nam nữ thấy thiếu nữ áo tím, cùng bật lên hỏi một tràng tiếng Thái. Thiệu-Thái dịch lại cho cậu nghe:
    - Em đấy ư? Em có sao không?
    - Không!
    Nàng chỉ vào Lê Văn:
    - Anh kia đã cứu em thoát.
    Chiếc xe tứ mã vẫn đậu giữa đường.
    Viên kị binh mắng:
    - Hai lão già chết bằm kia! Mi có tránh đường ra không?
    Nói dứt lời y vung roi quất vào mặt Sử-Vạn. Sử-Vạn bắt lấy roi, giật mạnh, rồi bẻ vụn ra ném xuống đất. Y giật mạnh quá, khiến viên kị binh suýt ngã ngựa. Viên kị binh nổi giận rút đao ra bổ một nhát vào đầu Sử-Vạn. Sử-Vạn kẹp hai ngón tay vào sống đao. Viên kị binh cố sức giật đao ra, mà đao cứng như đinh đóng cột. Sử-Vạn rung tay một cái, mấy tiếng lách cách vang lên. Đao gẫy làm năm sáu mảnh. Thuận tay y phẩy sẽ hai cái. Những mảnh vụn hướng thiếu nữ áo tím. Kình lực kêu lên vo vo.
    Mọi người la hoảng.
    Lê Văn thúc chân vào bụng ngựa. Con ngựa chồm lên nhảy vào người Sử-vạn. Trong khi nó phóng đến ôm lấy thiếu nữ lăn xuống đất, tay đẩy lên một chưởng. Những mảnh đao bị chưởng lực của nó đẩy bay ngược trở về người Sử-vạn. Sử-vạn vừa tránh thế chụp của con ngựa, thì bị những mảnh đao bay đến. Y kinh hãi vọt người lên cao, vừa kịp những mảnh đao bay qua chân y.
    Y chỉ mặt Lê Văn:
    - Mi vô lễ với ta như vậy, thì đừng trách ta ác độc.
    Y vung tay lên định phát chưởng. Thiếu nữ áo xanh quát lên:
    - Khoan.
    Nàng hỏi Lê Văn:
    - Công tử! bọn này là ai vậy?
    Lê Văn chỉ hai lão Khiếu, Sử:
    - Hai vị thứ lỗi. Tôi đang đi thì bị hai tên đạo tặc này định cướp ngựa, vì vậy làm cản trở đường các vị.
    Lão Khiếu nổi giận:
    - Chúng ta đường đường là khâm sai của triều đình, mi cứ mồm năm miệng mười là đạo tặc. Mi liệu giữ mồm bằng không ta chặt đầu mi liền.
    Thiếu nữ cất giọng nói một tràng tiếng Thái với hai kị mã. Nam kị mã hất hàm hỏi hai lão Khiếu, Sử-Vạn:
    - Hai người phải chăng một tên là Sử-vạn Na-vượng. Một tên là Khiếu Tam Bản, khét tiếng đạo tặc vùng Kinh-Tương. Kinh lược sứ Kinh-châu đang niêm yết khắp nơi tìm bắt hai người?
    Thiếu nữ chỉ vào xe:
    - Chúng bắt những người này khảo của thì phải.
    Viên tướng chỉ huy đội thiết kị vẫy tay một cái. Hai lão Sử-vạn, Khiếu bị bao vây vào giữa.
    Lão Khiếu quát lên:
    - Các người không được vô phép. Chúng ta là khâm sai triều đình sai đi đón sứ đoàn Đại-Việt. Các người nghe lời tên ôn con kia vô phép với ta sẽ bị chém đầu.
    Viên tướng nghiêng mình chắp tay:
    - Tiểu tướng Diêu Vạn, lĩnh chức Chiêu-thảo-sứ, chỉ huy đoàn thiết kị Kinh-châu. Tiểu tướng được lệnh hộ tống Thái-tử Xiêm-quốc cùng sứ đoàn lai kinh tiến cống. Nếu hai vị là khâm sai, xin cho biết danh tánh, chức tước cùng chiếu chỉ, lệnh bài. Nói rồi y trình lệnh bài ra. Sử-Vạn luống cuống ra mặt. Bởi lệnh bài, cũng như chiếu chỉ của Lưu hậu đều để trong bọc. Mà bọc bị tên phu xe ban nãy cướp đi mất rồi. Y trả lời:
    - Chúng ta không có lệnh bài.
    Đám thiết kị cùng bật cười. Một kị binh nói:
    - Trình tướng quân, lệnh quan Kinh-lược sứ truy nã hai tên đạo tặc
    Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản. Lệnh truy tầm có vẽ hình giống hệt hai lão này.
    Diêu Vạn nói lớn:
    - Khâm sai không có lệnh bài, chiếu chỉ, đó là một điều đáng nghi. Hai vị giống hệt hình hai tên đạo tặc, là hai điều đáng nghi ngờ. Thiếu niên kia tố giác hai vị bắt trộm ngựa là ba điều đáng nghi ngờ.
    Y hỏi sứ đoàn:
    - Thưa các vị. Các vị có biết hai lão này là ai không? Tại sao các vị lại đi cùng với hai lão.
    Khấu Kim-An vốn thạo về quan trường cũng như uẩn khúc triều Tống. Nàng tìm cách gây nghi ngờ trong tâm Diêu Vạn:
    - Thưa tướng quân, tiện thiếp xin trình để tướng quân rõ.
    Nàng chỉ vào sứ đoàn:
    - Vị này là trừ quân Đại-Việt, tước phong Khai-Quốc vương.
    Diêu Vạn chắp tay:
    - Tiểu tướng ở Tương-dương từng nghe danh vương gia như sét nổ ngang tai. Dường như võ lâm tộc Việt đồn rằng: Những ai chưa gặp Khai-Quốc vương đừng vội xưng anh hùng. Mới đây võ lâm Trung-nguyên không ngớt ca tụng vương gia dùng đức cảm hoá Trường-giang thất quỷ cùng bang Nhật-hồ Trung-quốc trở lại chính đạo. Không ngờ tiểu tướng được hội kiến vương gia tại đây.
    Khai-Quốc vương đáp lễ:
    - Diêu tướng quân chẳng nên đa lễ. Cô gia từng nghe người đời ca tụng Diêu tướng quân vốn xuất thân đệ tử Bắc-sơn lão nhân phái Hoa-sơn. Võ đạo cực cao. Hôm trước đây tôn sư cùng các vị cao thủ quý phái có viếng thăm Bắc-biên bên Đại-Việt. Võ lâm Đại-Việt nức nở khen võ công, võ đạo phái Hoa-sơn cao bậc nhất Trung-nguyên.
    Tuổi Diêu Vạn còn trẻ, lại mới ra làm quan. Nhưng nhờ thế lực Đông-Sơn lão nhân, Dư Tĩnh, nên y mau chóng được thăng chiêu thảo sứ. Với thân phận nhỏ bé của y, lại ở quá xa Đại-Việt. Y tuyệt không ngờ Khai-Quốc vương cũng biết y. Nghe Quốc-vương khen mình, y hớn hở ra mặt.
    Viên sứ Xiêm xuống ngựa thi lễ với Khai-Quốc vương:
    - Tiểu đệ An-nan Tam-gia La-sun thái tử Xiêm, xin tham kiến vương huynh. Hôm trước sư phụ của tiểu đệ dự lễ giỗ Bắc-bình vương trở về không ngớt ca tụng công đức vương huynh. Cách nay hơn tháng, tiểu đệ qua Thăng-long triều kiến bá phụ, có tìm kiếm vương huynh mà không gặp. Hôm nay được diện kiến vương huynh ở đây, thực vạn hạnh.
    Nói rồi y chỉ thiếu nữ áo xanh:
    - Vợ của tiểu đệ.
    Y lại chỉ thiếu nữ áo tím:
    - Em gái của tiểu đệ, tên Nong-Nụt.
    Khai-Quốc vương xuống xe đáp lễ:
    - Thì ra Thái-tử là đệ tử của lão sư Rát-Ta-Na đấy. Chúng ta cùng là con Rồng cháu Tiên cả. Nay gặp nhau trên đất nước người, thực không gì quý hơn.
    An-nan vẫy tay gọi thiếu nữ áo tím:
    - Nong Nụt, mau ra mắt vương huynh đi.
    Nong Nụt chạy lại. Hai tay nàng chắp để lên trán, rồi cúi đầu ba lần trước Khai-Quốc vương, nàng nói bằng tiếng Việt:
    - Chào anh vương.
    Dường như nàng chỉ biết có mấy tiếng đó. Tiếp theo nàng xổ ra một tràng tiếng Thái. Thiệu-Thái dịch:
    - Tiểu muội công chúa Nong Nụt xin tham kiến vương huynh và tỷ tỷ.
    Kim-An giới thiệu Thanh-Mai, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái. Cuối cùng nàng chỉ vào hai lão Sử-vạn, Khiếu:
    - Vợ chồng chúng tôi làm nghề chở mướn trên sông Trường-giang, được vương gia mượn chở sứ đoàn. Khi sứ đoàn tới Tương-dương thì hai vị này xuất hiện dùng thuốc Di-hồn nhuyễn cân ngũ-hoa độc tấn công, rồi bắt bỏ lên xe mang đi.
    Nàng ngừng lại, chỉ vào lão Khiếu:
    - Vị tiên sinh đây có đại danh Khiếu Tam Bản, lĩnh chức Nam-phương sứ giả Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Hiện là giáo chủ Hồng-thiết giáo Chân-lạp.
    Diêu Vạn hất hàm hỏi lão Khiếu:
    - Có đúng thế không?
    Mặt lão Khiếu cau có:
    - Đúng thì đã sao?
    Kim-An chỉ vào Sử-vạn Na-vượng:
    - Vị này đại danh Sử-vạn Na-vượng, lĩnh chức Đông-phương sứ giả Hồng-thiết giáo Đại-Việt, đương kim giáo chủ Hồng-thiết giáo Lão-qua.
    Diêu Vạn hỏi:
    - Tiểu tướng nghe Khai-Quốc vương phi, công chúa Bình-Dương, thế tử Thiệu-Thái võ công kinh nhân. Tại sao lại để cho hai tên đạo tặc này bắt như thế này?
    Mỹ-Linh lên tiếng:
    - Diêu chiêu thảo sứ hiểu cho. Chúng tôi đi sứ Đại-Tống. Uy danh Đại-Tống lớn biết chừng nào? Đại-Tống đã cử thiết kị hộ tống, đời nào chúng tôi dám xử dụng võ công trên đất Trung-nguyên. Nếu chúng tôi xử dụng võ công, như vậy còn đâu lễ nghi nữa? Tuy nhiên, nếu như Tống thiên tử cùng bách quan cần đến sức mọn, chúng tôi sẽ ra tay. Như trường hợp bang Nhật-hồ phạm giá Định-vương. Khi Định-vương truyền chỉ bắt giặc thì chúng tôi ra tay kiềm chế chúng liền.
    Sử-vạn Na-vượng quát lên:
    - Ta đường đường thụ phong tước tới quận vương. Văn tới thái bảo. Võ tới Tiết-độ sứ. Ta đang trên đường thi hành chỉ dụ của thái hậu. Không hiểu sao tên Kinh-lược sứ Kinh-châu lại yết bảng rằng chúng ta làm đạo tặc? Rồi đến cái tên Chiêu-thảo sứ kia hạch hỏi ta. Lại đây, lại đây! Mi có giỏi thì bắt ta đi!
    Diêu Vạn hô thiết kị xông vào. Lão Khiêu, vung tay một cái, hai kị binh bay bổng lên cao, rơi xuống đất. Trong khi đó lão Sử-vạn nghĩ thầm:
    - Ta bị mất thẻ bài, chỉ dụ của triều đình, ta không thể chứng minh thân phận. Bây giờ ta có chống cự với bọn kị binh này, chẳng khác lấy chén kiểu đụng chén đá. Ta có thắng cũng không làm hay hơn. Nhược bằng ta bại có khi bị giết.
    Lão liếc nhìn sứ giả Xiêm-quốc:
    - Bọn này hộ tống sứ Xiêm. Vậy ta ra tay kiềm chế tên sứ này, bắt chúng phải lui binh, mới mong giải quyết được cục bộ ở đây.
    Nghĩ vậy lão tung mình lên cao. Chỉ nhấp nhô mấy cái lão đã tới trước An-nan. Tay lão ra chiêu cầm-long trảo chụp y. An-nan né đầu tránh khỏi rồi phát một chưởng đánh thẳng vào người lão. Chưởng của y cực kỳ trầm trọng.
    Lê Văn la lớn lên tỏ vẻ vui mừng, vì An-nan xử dụng Thiên-vương chưởng của phái Sài-sơn. Lão Sử-Vạn biến trảo thành chưởng. Hai chưởng gặp nhau bùng một tiếng lớn. Lão Sử-Vạn bay bổng lên cao. Từ trên cao, lão đánh xuống một chưởng rất quái dị. Lê Văn la lên:
    - Nhật-hồ độc chưởng.
    An-nan thấy thế chưởng hung dữ, chàng lăn từ mình ngựa xuống đất, rồi nhảy lùi liền hai bước. Chưởng trúng con ngựa chàng đang cỡi. Binh một tiếng, con ngựa khốn nạn ngã lăn ra. Nó dẫy đành đạch, hí lên những tiếng thê thảm, rồi máu miệng tuôn ra ồng ộc.
    An-nan chỉ vào mặt lão Sử-vạn Na-vượng:
    - Lão là ai? Ta với lão không thù không oán, hà cớ gì lão ra tay ám toán ta?
    Sử-vạn không nói không rằng, lão nhảy vèo đến chụp thiếu nữ áo xanh rồi tung mình khỏi đám thiết kị. Dường như nàng không biết võ công, nên y chụp dễ dàng. Y để tay lên đầu nàng hô lớn:
    - Ngừng tay!
    Mọi người đều lui lại. Lão Sử-vạn để tay lên đầu thiếu nữ áo xanh cười nhạt:
    - Thái tử An-nan Tam-gia La-sun. Thiếu nữ xinh đẹp này phải chăng là vương phi? Mỗ muốn thương lượng với Thái-tử, hơn là hai bên đánh nhau.
    An-nan cau mặt hỏi:
    - Lão muốn gì?
    - Giữa Chiêu-thảo sứ Diêu Vạn với mỗ vốn không thù không oán. Diêu nhận lệnh hộ tống sứ đoàn Xiêm. Mỗ nhận chỉ dụ hộ tống sứ đoàn Việt. Không ngờ Diêu can thiệp vào việc của mỗ, nên mỗ phải can thiệp vào việc của y.
    Y ngừng lại, nhìn Khai-Quốc vương:
    - Bây giờ xin Thái-tử ra lệnh cho Diêu cứ lo việc của hắn. Hai bên ngừng chiến. Chúng ta cùng đi Biện-kinh, có phải tốt đẹp không? Bằng y cãi lệnh Thái-tử, mỗ nhả chưởng lực, vương phi sẽ nát đời hoa. Thái-tử phải ôm mối hận cả đời, mà Diêu không làm tròn sứ mệnh quân vương, ắt bị toàn gia tru lục. Không biết Thái-tử nghĩ sao?
    An-nan hỏi Diêu Vạn:
    - Lão Sử-vạn Na-vượng nói vậy, Diêu tướng quân nghĩ sao?
    Diêu Vạn chưa kịp trả lời, thì tiếng vó ngựa lộp cộp. Có con ngựa phi tới, một người đứng co chân trên lưng ngựa. Còn một chân chĩa về trước. Cổ chân y móc cái túi. Đúng là cái túi hành lý của Sử-vạn Na-vượng. Con ngựa tới gần đám đánh nhau thì ngừng chân, cất cao vó, quay đầu trở lại. Gã kị mã để tay lên mũi trêu Sử-vạn Na-vượng.
    Tất cả những bực bội từ nãy đến giờ của Sử, Khiếu đều do bị mất hành lý, không còn thẻ bài, chỉ dụ chứng minh thân phận. Bây giờ thấy kẻ trộm trước mắt, lão Sử-vạn điên tiết lên:
    - Tên ăn cắp kia, mau trả hành lý cho ta.
    Gã ăn trộm cười, để tay lên tai làm bộ điếc:
    - Lão nói sao? Lão muốn ăn cắp hành lý của sứ đoàn Xiêm ư?
    Gã nói lớn:
    - Hôm qua có hai tên vào nhà ta ăn trộm. Ta đánh đuổi chúng đi, chúng sợ đến té đái vãi phân ra, vì vậy chúng ném hành lý lại rồi chạy. Ta thấy hai tên này khuôn mặt hao hao hai lão.
    Y hướng vào Diêu Vạn, tay chỉ Sử, Khiếu:
    - Đại tướng quân! Quan Kinh-lược sứ Kinh-châu đã có lệnh truy tầm hai tên đại đạo này. Kính xin đại tướng quân bắt chúng mà lĩnh thưởng.
    Khi rời Tương-dương, chính Diêu Vạn đã đọc lệnh truy tầm hai tên đạo tặc của Kinh-lược sứ. Hình hai tên giống hệt lão Sử-Vạn, Khiếu. Nghe gã kị mã nói, y phân vân, vì bỏ qua rất uổng, số vàng thưởng tới hai trăm lượng chứ đâu có ít?


    <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 07:47:16 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 20.01.2005 17:43:47 (permalink)
      Hồi thứ một trăm lẻ hai


      Kín cổng cao tường


      Lão Khiếu quát lên:
      - Chính mi mới là tên trộm. Hồi nãy mi cướp túi hành lý của ta rồi bỏ chạy. Bây giờ mi vu vạ cho ta, làm ta khổ sở thế này.
      Kị mã ăn trộm cười lớn:
      - Thực là cái đĩ già mồm, cái trộm già miệng. Hai ông võ công cao thế, mà bảo tôi cướp hành lý của hai ông thực quả là vô lý. Nhưng tôi hỏi thực: Cái túi này đích là của hai ông, có phải không?
      - Đúng.
      - Thôi được, coi như hai ông không ăn trộm đi. Nhưng này hai ông ơi! Hôm qua có kẻ trộm vào nhà tôi, tôi giật mình thức giấc tri hô lên, chúng bỏ chạy, trong lúc hoảng hốt chúng đánh rơi cái túi này. Tôi biết là đồ gian không dám mở ra định đi trình quan. Bây giờ gặp quan đây, tôi xin trao cho người.
      Nói rồi y định trao cái túi cho Diêu Vạn.
      Diêu Vạn hỏi:
      - Chú em tên gì?
      - Thưa đại tướng quân, tôi tên Đặng Tông.
      Diêu Vạn hất hàm cho Sử-Vạn Na-vượng:
      - Đây là túi của hai người. Hai người cầm lấy đi.
      Hai tay Đặng Tông trịnh trọng đưa cái túi ra trước mặt. Sử-vạn Na-vượng đưa tay trái tiếp túi. Bỗng đầu ngón tay gã kị mã phóng ra hai chỉ véo, véo trúng huyệt Khúc-trì lão Sử. Tay lão trở thành vô lực, làm thiếu nữ áo xanh rơi xuống. Gã kị mã lạng mình chụp nàng nhảy đến bên An-Nan. Y trao nàng cho An-Nan:
      - Xin Thái-tử bảo vệ vương phi.
      An-Nan nói mấy câu cảm tạ.
      Tay lão Sử-Vạn chỉ bị tê dại mà thôi. Lão cho rằng lấy lại được túi rồi, tự nhiên thân phận lão được chứng minh, lão không cần bắt thiếu nữ áo xanh nữa. Lão nói với Diêu Vạn:
      - Diêu Chiêu-thảo sứ. Ta sẽ cho Chiêu-thảo sứ thấy ấn tín của ta, cùng lệnh bài của Thái-hậu.
      Y mở túi ra, liếc nhìn đồ đạc vẫn y nguyên, không hề bị xáo trộn. Yên tâm y lấy ra chiếc ống bằng ngà trao cho Diêu Vạn:
      - Đây là sắc chỉ của triều đình phong chức tước cho ta. Tướng quân hãy mở ra mà xem.
      Diêu Vạn tiếp ống ngà mở nắp ra. Bên trong quả có cuốn trục lụa. Y mở cuốn trục cho mọi người coi. Bất giác mọi người bật lên tiếng ồ. Vì trên trục lụa vẽ hình hai lão Sử-vạn Na-vượng, Khiếu-tam-Bản. Nét vẽ sống động như người thực. Cạnh đó viết bản văn của Kinh-lược sứ Kinh-châu truy tầm hai tên đại đạo Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam-Bản.
      Diêu Vạn cười nhạt:
      - Đây là sắc phong ư ?
      Khiếu Tam Bản kinh ngạc, lão tức đến điên người lên được. Lão lạng mình đến giật trục lụa trên tay Diêu, rồi đọc bản văn. Bản văn giống hệt bản văn trong thành Tương-dương.
      Khiếu Tam Bản mở tung túi ra. Trong trúi nào quần áo, nào vàng bạc lủng củng. Một chiếc hộp bằng ngà rơi xuống đất đến bộp một cái. An-Nan trông thấy hộp, mắt y sáng lên. Y quát:
      - Mi còn chối không? Kia là chiếc hộp trong đựng cống bảo của bản quốc cống Thiên-tử. Mi ăn cắp hôm trước. Mi còn chối nữa không?
      Chàng lạng người cầm chiếc hộp lên, rồi mở ra. Trong hộp có một tượng Phật Thích-ca mâu-ni bằng ngọc xanh biếc. Chàng trao cho vợ, rồi xòe tay hướng Khiếu:
      - Đưa đây!
      - Đưa cái gì?
      - Ta đi sứ, có mang theo ba bảo vật. Một là tượng mười tám vị La-Hán bằng ngà. Hai là tượng Phật bằng ngọc, ba là chuỗi ngọc trai trăm viên. Mi lẻn vào dinh Kinh-lược sứ Kinh-châu ăn cắp cả ba. Nay tượng Phật đây rồi. Còn hai bảo vật kia đâu? Mi có mau đem trả không ?
      Lão Khiếu đưa mắt nhìn tên kị mã ăn trộm:
      - Mi là ai mà dám hí lộng quỷ thần? Chính mi vào dinh Kinh-lược sứ ăn trộm bảo vật của sứ đoàn Xiêm. Rồi cũng chính mi đón đường ăn cướp bọc hành lý của chúng ta, sau đó bỏ bảo vật vào để vu oan giá họa cho ta.
      Gã kị mã cười ha hả hỏi Diêu Vạn:
      - Kính trình quan lớn xét cho. Khắp thành Tương-dương đều nói rằng hai tên trộm lẻn vào dinh Kinh-lược sứ Kinh-châu ăn cắp bảo vật của sứ đoàn Xiêm. Chúng giao chiến với quan Tư-mã, cùng Chiêu-thảo sứ. Hai vị ấy nhận diện được chúng, rồi về họa hình. Hình là hình hai lão này, đâu phải hình tôi?
      Diêu Vạn hỏi đám kị mã:
      - Các người ta giao chiến với hai tên trộm. Phải chăng trong đó có hai tên này?
      Một kị mã chỉ Sử-vạn:
      - Tiểu nhân nhận diện được y. Võ công y rất cao.
      Công chúa Nong-Nụt chỉ tay vào mặt với Sử-vạn Na-vượng, nói với anh:
      - Chính lão này. Hôm ấy tại Liễu-châu, y cùng bộ hạ bắt em, giết tùy tùng, rồi đem em giam hãm tra khảo thương tích khắp người.
      Diêu Vạn vẫy tay cho mọi người im lặng, rồi nói:
      - Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản. Có bằng này chứng cớ rành rành ra, người nên chịu trói cho rồi.
      Y chỉ vào Lê Văn:
      - Tiểu huynh đệ đây tố đích danh người toan cướp ngựa giữa đường. Đó là một chứng cớ. Công chúa Nong-Nụt cùng tuỳ tòng du ngoạn tại Liễu-châu, bị người bắt đi, cùng cướp của. Đó là hai chứng cớ. Hai tên cướp võ công cực cao lẻn vào dinh Kinh- lược sứ trộm bảo vật của sứ đoàn. Trong khi giao chiến, bọn chúng đánh nhau với vệ sĩ, vô tình để rơi hai tấm thẻ bài mang tên Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản. Đó là ba chứng cớ. Bây giờ bọn mi bị kị mã kia tố bọn mi vào nhà y ăn trộm, bị bại lộ, đành để cái túi lại. Anh ta mang đi trình quan. Chính mi nhận túi đó của bọn mi, trong có bảo vật cống. Đó là bốn chứng cớ. Từ lâu, bản triều truy lùng dư đảng Hồng-thiết giáo cùng bang chúng bang Nhật-hồ. Mà nay hai mi lại là giáo chủ Hồng-thiết giáo Lão-qua, Chân-lạp, là năm chứng cớ ta phải bắt hai mi.
      Sử-vạn Na-vượng biết rằng Đặng Tông là thủ phạm hại y. Y cần kiềm chế gã, ắt mọi việc ra ánh sáng. Y lạng mình chụp Đặng. Nhưng nhanh hơn, Đặng đánh một chưởng vào ngực Sử. Chưởng phong hùng hậu vô cùng. Sử tuyệt không ngờ một thiếu niên, mà võ công lại cao như vậy. Y vội biến trảo thành chưởng đỡ. Binh một tiếng. Cả hai người đều lảo đảo lui lại hai bước.
      Mọi người đều la hoảng. Vì rõ ràng công lực Sử-vạn cao thâm vô cùng. Y đã làm tới giáo chủ Hồng-thiết giáo đâu có tầm thường thế mà đấu ngang tay với Đặng Tông.
      Mỹ-Linh dùng lăng không truyền ngữ hỏi Khai-Quốc vương với Thanh-Mai:
      - Chú đã nhận ra Đặng Tông là ai chưa?
      - Tôn Đản. Nó đảo ngược tên Tôn Đản thành Đặng Tông chứ có gì lạ đâu. Ngay từ lúc nó xuất hiện chú đã nhận ra. Có điều ai cải trang cho nó giỏi quá, khuôn mặt đổi đã đành, mà tiếng nói cũng khác.
      Thiệu-Thái hỏi Mỹ-Linh:
      - Lạ thực, sao công lực Tôn Đản cao đến thế kia. Có lẽ không thua gì mợ Thanh-Mai, trội hơn Hoàng Văn, ngang Vũ Nhất-Trụ.
      Mỹ-Linh gõ tay vào đầu Thiệu-Thái:
      - Anh quên việc Tôn Đản học được qui pháp âm dương của Bắc-bình vương rồi à. Trong trận đánh Tản-lĩnh nó hút công lực của hai đại cao thủ phái Hoa-sơn. Rồi trên đường sang đây, nó luyện Thái-cực quyền với điểm huyệt, nên công lực thâm hậu vô cùng.
      Mọi người im lặng theo dõi Tôn Đản đấu với Sử-vạn Na-vượng. Tôn Đản dùng võ công Cửu-chân. Sử-vạn dùng võ công Sài-sơn pha lẫn Hồng-thiết. Diêu Vạn cho thiết kị bao vây kín hai lão.
      Trừ sứ bộ Xiêm, còn lại mọi người đều biết Đặng Tông là Tôn Đản. Tất cả im lặng theo dõi trận đấu. Sử-Vạn bị Tôn Đản tấn công ráo riết quá, nên lão chưa có dịp vận Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng.
      Mỹ-Linh hỏi Thanh-Mai:
      - Thím có biết tại sao lão Sử-vạn lại xử dụng võ công Sài-sơn pha lẫn võ công Thiên-tượng không?
      - Dễ hiểu! Khi xưa công chúa Nguyệt-Đức Phùng Vĩnh-Hoa vốn thuộc phái Sài-sơn. Hồi trấn thủ đất Thục, bà có trao đổi võ công với anh hùng Thiên-sơn. Cuối thời Lĩnh-Nam bà bị quân Vương Bá ép, phải lui về giữ Vạn-tượng. Sau khi bà tuẫn quốc, đệ tử lập ra phái Vạn-tượng. Vì vậy võ công phái Vạn-tượng pha lẫn Sài-sơn với Thiên-sơn.
      Khiếu Tam Bản thấy Sử-vạn Na-vượng khó thắng nổi Đặng Tông. Y nhìn quanh để tìm kế thoát thân. Liếc qua thấy Nong-Nụt đứng bên Lê Văn. Y nghĩ thầm:
      - Con nhỏ này là công chúa Xiêm đây. Nó đứng bên thằng bé kia, mình phải bắt sống nó, mới mong giải quyết được cục bộ.
      Giữa lúc đó Mỹ-Linh vẫy Lê Văn lại gần. Nàng hỏi:
      - Em thuộc võ công Cửu-chân, lẫn Sài-sơn. Em mách nước giúp Tôn Đản thắng lão Sử-vạn cho mau.
      Lê Văn cũng đang định nhắc Tôn Đản, nhưng vì sợ lộ chân tướng nên nó chưa dám. Nghe Mỹ-Linh khuyên, nó khoan khoái nhìn trận đấu. Thấy Sử-vạn sắp ra chiêu Lôi giáng Nam-nhạc theo chiêu này, một tay đánh từ dưới lên. Một tay đánh vòng sang trái, như vậy để hở ngực. Nó la lớn:
      - Đản! Kình ngư lăng ba.
      Chiêu này đánh thẳng về trước như con cá kình vượt sóng. Tôn Đản đang muốn thắng lão Sử-vạn mà không được. Nghe Lê Văn nhắc, không nghĩ ngợi, nó chập hai tay vào nhau, đẩy về trước. Binh một tiếng, lão Sử-vạn bay bổng ra xa. Tuy nhiên, kinh nghiệm chiến đấu có dư, lão mượn đà lộn đi hai vòng.
      Đúng ra sau khi thắng một chiêu, Tôn Đản rượt theo đánh tiếp mấy chiêu nữa, nó đã hạ được Sử-vạn. Nhưng vì thiếu kinh nghiệm, nó chần chờ một chút, khiến lão lấy lại được thăng bằng, lão tung ra hai chiêu Thiên-sơn tuyết phi chưởng.
      Lê Văn thấy Sử-vạn khoanh tròn hai tay, biết lão sắp xuất chiêu Lôi phục thiên ma , chiêu này tay phải như một cột khí đánh thẳng về trước. Tay trái chém ngang sang phải. Như vậy để hở hạ bàn. Nó hô lớn:
      - Kình ngư trầm hải.
      Tôn Đản lộn xuống đất, hai chân như đuôi cá quẫy quét trúng đầu gối Sử-vạn. Binh một tiếng, lão bị đánh văng ra xa. Lần này có kinh nghiệm, Tôn Đản phóng theo chiêu Loa-thành nguyệt ảnh.
      Thấy sư huynh lâm nguy, lão Khiếu lạng người chụp Nong-Nụt, nhảy tới đưa nàng đỡ chiêu chưởng của Tôn Đản. Tôn Đản hoảng kinh vội chuyển chưởng lên trời.
      Lão Khiếu quát lớn:
      - Các người phải ngừng tay. Bằng không ta giết con nhỏ này liền.
      Lê Văn hoảng kinh, nó lạng người chắn trước Tôn Đản, nó nói bằng giọng run run:
      - Không... không nên hại nàng.
      Lão Khiếu đã tụng thuộc lòng Hồng-thiết kinh, một đời xảo trá, nên chỉ liếc qua, lão cũng biết Lê Văn có tình ý với Nong-Nụt. Lão khoan thai nói với An-nan Tam-gia La-sun:
      - Thái tử! Xin Thái-tử cho mở vòng vây, để anh em lão phu rời khỏi đây, bằng không lão phu đành chết với công chúa.
      An-Nan là đấng trừ quân tộc Thái, chàng vốn thông minh tuyệt đỉnh, vì vậy liếc qua, chàng đã biết sứ đoàn Đại-Việt, Lê Văn, Đặng Tông cùng là một nhóm người. Phía Đại-Việt bầy ra vở kịch này để làm nhục hai lão Sử-vạn, Khiếu mà thôi. Chàng chắp tay nói với Khai-Quốc vương:
      - Xin vương huynh tha cho họ.
      Khai-Quốc vương nói với Diêu Vạn:
      - Diêu tướng quân. Đất có chủ. Đây thuộc đất Tống, xin tướng quân định liệu.
      Diêu Vạn nói với Tôn Đản:
      - Đặng thiếu hiệp. Xin thiếu hiệp buông tha cho hai lão đạo tặc này.
      Nói rồi y vẫy tay, thiết kị lùi ra. Hai lão Sử-vạn, Khiếu lườm lườm nhìn mọi người trong khi chân bước đi.
      Lê Văn quát lên:
      - Người phải để Nong-Nụt lại.
      Lão Khiếu cười nhạt:
      - Ta chỉ hứa không giết con nhỏ này, chứ ta đâu có hứa tha cho nó ?
      Nói rồi hai lão cười khành khạch rảo bước ra đi. Mỹ-Linh gõ tay lên đầu Lê Văn:
      - Cậu có muốn cứu Nong-Nụt không?
      - Chị Mỹ-Linh! Chị cứu Nong-Nụt cho em đi.
      - Cứu thì chị muốn cứu lắm. Song kể thì từ nay cậu không được gọi anh Thiệu-Thái bằng cái tên ông ỉn nữa. Rồi mỗi lần thấy bà chị phải khoanh tay cúi đầu ạ ba lần.
      Lê Văn không nghĩ ngợi, nó khoanh tay như con nít:
      - Ạ chị Mỹ-Linh! Ạ công chúa Bình-Dương, ạ giáo chủ. Ạ,ạ,ạ. Mau cứu Nong-Nụt.
      Khai-Quốc vương không ngờ cậu em ngang tàng bậc nhất Đại-Việt, bác học, đa năng, mà lại si tình đến thế. Vương hướng Mỹ-Linh gật đầu.
      Chỉ thấy bóng trắng vọt lên không như con hạc, thấp thoáng một cái, nàng đã đáp trước mặt hai lão Sử-vạn, Khiếu. Hai lão đang tự đắc bước đi, thì bị Mỹ-Linh chắn trước mặt. Hai lão gật mình, cùng nhảy lùi hai bước.
      Lão Sử-Vạn tung một chưởng vào ngực Mỹ-Linh. Nàng không tránh né, tay rút kiếm chênh chếch đưa ra, nếu lão không thu tay về, thì tay lão bị đứt ngay. Lão vội thu tay nhảy lui. Hai tay Mỹ-Linh cầm hai thanh kiếm chĩa vào cổ hai lão. Hai lão kinh hãi, không biết bằng cách nào, mà nàng ra chiêu nhanh như vậy. Cả hai lão cũng nhảy lui lại. Nhưng Mỹ-Linh theo như bóng với hình, kiếm chĩa vào cổ hai lão.
      Xoẹt xoẹt, hai cùi chỏ lão Khiếu bị trúng kiếm. Tay lão bị mất kình lực, để Nong-Nụt rơi xuống. Lê Văn lạng người tới ôm lấy nàng nhảy lùi lại.
      Biết rằng mất con tin Nong-Nụt, thì tính mệnh coi như chấm dứt. Hai lão Sử, Khiếu đồng phát một chưởng bằng tất cả bình sinh công lực hướng Lê Văn, với ý nghĩ chết cùng chết cả. Trong chưởng có mùi hôi tanh khủng khiếp. Mọi người kêu thét lên kinh hoảng.
      Lê Văn ôm Nong-Nụt nhảy vọt về phía trước, để giảm áp lực hai chưởng. Tuy vậy, mọi người biết, cả hai khó toàn tính mệnh. Thấp thoáng hai bóng người vọt tới. Thanh-Mai xuất chiêu Đông-hải lưu phong đẩy vào lưng Lê Văn, cho người nó bay xa hơn. Trong khi Thiệu-Thái phát chiêu Nhân-ngưu câu vong trong Mục-ngưu thiền chưởng đỡ chưởng hai lão. Binh một tiếng, bụi bay mịt mờ. Hai lão Sử, Khiếu bật tung trở lại, khí huyết đảo lộn cực kỳ khó chịu. Hai lão cố nghiến răng, nín thở, nhưng cuối cùng khí vẫn trào lên, hai lão oẹ một tiếng, miệng phun máu.
      Cả hai lão cảm thấy chưởng của Thiệu-Thái như có như không, sát thủ cực kỳ trầm trọng. Trong người hai lão bồn chồn khó chịu vô cùng. Lão Sử hướng An-Nan:
      - Không ngờ đấng trừ quân mà lại nói hai lời. Thái-tử đã hứa để anh em lão phu đi, sao còn đánh lén? Rồi bây giờ còn bao vây?
      An-Nan chỉ Mỹ-Linh:
      - Ta hứa tha cho hai lão đi, nhưng công chúa Bình-Dương đâu có hứa?
      Mỹ-Linh chỉ Diêu Vạn:
      - Nhị vị giáo chủ tha lỗi. Chúng tôi đi sứ, nên không thể xử dụng võ công trên đất Tống. Vừa rồi tôi ra chiêu là do lời yêu cầu của Diêu Chiêu-thảo sứ đấy chứ! Từ mấy hôm nay nhị vị làm nhục, hành hạ chúng tôi đủ điều, nhưng chúng tôi nào có chống lại?
      Khấu Kim-An tiếp:
      - Cái thứ thuốc Di-hồn nhuyễn-cân ngũ-hoa độc của hai vị đâu có làm gì được sứ đoàn Đại-Việt. Hai vị cứ tưởng sứ đoàn tê liệt, nào ngờ sứ đoàn không muốn động thủ mà thôi.
      Bây giờ hai lão mới thấy rùng mình kinh sợ, tự chửi thầm:
      - Mình ngu thực. Đáng lẽ mình phải biết trước mới phải. Thằng Thiệu-Thái được tôn làm giáo chủ thay Nhật-Hồ lão nhân. Y đã dùng Hồng-thiết thần công giải độc cho hết giáo chúng, thì y có coi thứ thuốc độc của mình ra gì? Thì ra y âm thầm giải độc cho cả bọn mà mình không biết.
      Cả hai lão đứng dậy chắp tay hướng Khai-Quốc vương:
      - Đa tạ vương gia đại xá. Hậu hội hữu kỳ.
      Hai lão phóng mình vào đêm tối.
      Hai sứ đoàn nhập làm một, hướng Biện-kinh. Diêu Vạn cùng đoàn thiết kị theo bên cạnh hộ tống. Mấy hôm sau viên kị binh đi đầu trở lại báo với Diêu Vạn:
      - Chỉ còn hai mươi dặm nữa tới Biện-kinh. Xin tướng quân định liệu.
      Diêu Vạn nói với Khai-Quốc vương:
      - Vương gia. Tiểu tướng được lệnh hộ tống sứ đoàn Xiêm. Rất xấu hổ không làm tròn bổn phận, phải nhờ vương gia giúp đỡ. Lệnh trên nói rằng tiểu tướng phải đưa sứ đoàn Xiêm vào điện Nam-thiên, rồi cáo với bộ Lễ. Còn sứ đoàn Việt...
      Thanh-Mai vẫy tay an ủi y:
      - Vì tướng quân không có nhiệm vụ tiếp chúng tôi nên không giám tự chuyên đưa chúng tôi vào thành phải không? Thôi thì thế này vậy: Tướng quân cứ lo tiếp thái tử An-Nan. Còn chúng tôi xin cho tự tiện.
      An-Nan nắm tay Khai-Quốc vương:
      - Đại ca! Hôm nay tạm chia tay. Sau khi đại ca có chỗ ở, anh em mình sẽ gặp nhau.
      Lê Văn nhìn Nong-Nụt, rồi nhìn Khai-Quốc vương. Nó nửa muốn theo nàng, nửa muốn đi cùng vương. Tuy thương hại cậu em kết nghĩa, nhưng Khai-Quốc vương phải cương quyết, không để em mình làm mất quốc thể. Vương vỗ vai nó:
      - Em tạm biệt Nong-Nụt, mai này gặp lại.
      Hai thiếu niên nhìn nhau, tình yêu chứa chan, bịn rịn. Biết cậu em khó rời xa Nong-Nụt; Mỹ-Linh vung roi ngựa cuốn quanh mình Lê Văn, nàng rung động roi một cái, nó bay bổng lên lưng ngựa. Nàng hô:
      - Đi!
      Lê Văn, Tôn Đản cỡi ngựa đi trước, Bảo-Dân đánh xe tứ mã của sứ đoàn theo sau. Tất cả hướng cửa Đông thành. Trong khi sứ đoàn Xiêm hướng cửa Nam. Tôn Đản, Lê Văn cùng ngắm nhìn Thiệu-Thái. Hai người thấy Thiệu-Thái như có gì thay đổi, mà cả hai không đoán ra. Tôn Đản hỏi Mỹ-Linh:
      - Bà chị xinh đẹp. Xa nhau có mấy tháng, mà em thấy dường như ông ỉ bớt ỉn đi nhiều quá. Không biết có gì lạ không?
      Lê Văn là thầy thuốc. Nó ngắm Thiệu-Thái thực kỹ rồi nói:
      - Lúc mới gặp lại giáo chủ ở Khúc-giang em đã thấy anh ấy thay đổi khá nhiều. Rồi từ Khúc-giang cách biệt, anh ấy thay đổi hơn nữa. Da sáng ra, mặt tươi hồng hơn trước. Nhất là cái bụng lợn sề không còn nữa. Cái mặt ụt ịt cũng biến đi. Bây giờ trông phong tư tiêu sái đáo để.
      Nó nói với Mỹ-Linh:
      - Bà chị coi chừng, bây giờ ông ỉn đẹp trai thế này, khi ổng tới Biện-kinh, công chúa Huệ-Nhu mà trông thấy, nhất định cô ta cưới làm chồng thì hỏng bét.
      Nghe Tôn Đản, Lê Văn nói, Khai-Quốc vương mới chú ý đến cháu mình. Quả thực Thiệu-Thái đã thay đổi gần như hoàn toàn. Nếu so sánh với ngày chàng đến trấn Thanh-hóa thì thực là hai người khác nhau. Song vì Thiệu-Thái thay đổi dần dần, mà chàng lại luôn đi cạnh vương, nên vương không thấy. Nay Tôn Đản, Lê Văn xa chàng mấy tháng, chúng mới nhận ra.
      Thanh-Mai bảo Lê Văn:
      - Em thử đoán xem tại sao Thiệu-Thái lại thay đổi mau như vậy?
      Lê Văn tung người lên, nó đã ngồi sau ngựa Thiệu-Thái. Nó chìa tay ra trước bắt mạch cho chàng. Khoảng nửa khắc sau, nó bật lên tiếng kêu:
      - Tuyệt vời.
      Nó vọt người về ngựa mình rồi nói với Mỹ-Linh:
      - Bà chị phải ạ em ba lần em mới nói.
      Mỹ-Linh bật cười:
      - Chỉ có em ạ chị, chứ có bao giờ chị phải ạ em đâu?
      Lê Văn chợt nhớ lại Mỹ-Linh cứu Nong-Nụt, nó không dám đùa nữa:
      - Anh Thiệu-Thái bẩm sinh cốt lợn. Vì vậy từ bé ụt ịt. Ảnh lại ăn quá nhiều. Trong lần ở Hồng-hương mật cốc, ảnh được Bồ-tát Sùng-Phạm truyền cho một trăm năm Thiền-công. Thiền-công của ngài Sùng-Phạm là khô thiền. Đúng ra sau khi ảnh được truyền thiền công, thì gầy mau lẹ mới phải. Nhưng Đỗ phu nhân lại dậy anh ấy Hồng-thiết công, nên trong người Phật với ma lẫn lộn, ảnh chưa gầy được. Phải đợi đến khi ngài Huệ-Sinh dạy anh ấy tọa thiền cứu chị Thanh-Mai anh ấy mới biết vận thiền công. Rồi ngài Bố-đại dạy anh ấy Mục-ngưu thiền chưởng, hằng ngày anh ấy luôn tụng kinh Bát-nhã, bấy giờ Phật mới thắng ma. Vì vậy người anh ấy gầy dần.
      Thanh-Mai khen Lê Văn:
      - Em bác học thực. Trong mấy ông Thiên-lôi, trước kia em với Tự-Mai điển trai nhất, rồi tới Tôn Đản, Thuận-Tông, Thiện-Lãm. Thiệu-Thái hạng bét. Bây giờ thì thứ tự đổi rồi.
      Lê Văn tính đốt ngón tay một lúc, rồi nói:
      - Nếu không có gì xẩy ra ngăn trở, thì chỉ hai tháng nữa ông ỉn mất ỉn. Ông ấy sẽ trở thành đẹp trai nhất trong bọn em. Nếu nói theo nhà Phật thì thiện duyên của bà chị Mỹ-Linh có chồng đẹp trai, nên dù bả ưng ông ỉn, rồi duyên may đến, ổng cũng thành tiên ông.
      Cả sứ đoàn đồng gật đầu, công nhận lý luận của Lê Văn đúng.
      Bây giờ Khai-Quốc vương mới có thời giờ cật vấn Tôn Đản, Lê Văn về những biến cố xẩy ra từ khi năm ông mãnh rời Khúc-giang.
      Đoạn này Tôn Đản, Lê Văn tường thuật lại những biến chuyển từ khi năm ông mãnh vâng chỉ của Khai-Quốc vương, Định-vương theo Triệu Huy về Biện-kinh, và lý do nào lại trở ngược về Nam, rồi gặp sứ đoàn Khai-Quốc vương giữa đường.
      Sau khi Bảo-Hòa, Thông-Mai cùng Trần Kiệt, Nùng-Sơn tử hộ tống chiến thuyền chở kho tàng về đến lãnh hải Đại-Việt, thì gặp chiến thuyền chở Hoàng Hùng, Vũ Anh, Phạm Hào đi đón. Trên chiến thuyền có cả Hồng-Sơn đại phu, Trần Tự-An, Lâm Huệ-Phương, Đào Hà-Thanh.
      Đào Hà-Thanh, Lâm Huệ-Phương vốn có thiện cảm, lại kính trọng Bảo-Hòa như một tiên cô. Vì vậy ba người ngồi riêng ra nói truyện. Hà-Thanh kể cho Bảo-Hòa nghe rằng sở dĩ nàng được đi thế này là do Trần Tự-An, Hồng-Sơn đại phu muốn dẫn vợ thăm lại di tích đất tổ thời vua Hùng, nhất là di tích về những trận đánh thời vua Trưng.
      Thế rồi thuyền của Bảo-Hòa, Thông-Mai chở Trần Tự-An, Hồng-Sơn đại phu trở lại Quảng-Đông. Thuyền tới Khúc-giang giữa lúc Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn xuất hiện đem sứ đoàn về Biện-kinh. Tự-An giảng cho Bảo-Hòa, Thông-Mai tất cả kí hiệu liên lạc với hệ thống tế tác Đông-a. Thế là Bảo-Hòa phối hợp bốn hệ thống Lạc-long giáo, Đông-a, Đại-Việt, Bắc-biên lại. Vì vậy bề ngoài sứ đoàn chỉ có bốn người với năm ông thiên lôi. Nhưng thực sự bề trong hoàn toàn do Bảo-Hòa, Thông-Mai điều động.
      Tất cả mọi hoạt động chìm nổi của Lưu thái hậu, Định-vương Nguyên-Nghiễm đối với sứ đoàn, Bảo-Hòa đều nắm rất vững. Chỉ qua mấy hoạt động, Bảo-Hòa thấy ngay rằng Định-vương Nguyên-Nghiễm là một chính nhân quân tử. Ông ta nhất tâm nhất trí với Tống triều, sau những thất bại tại Đại-Việt, ông không oán thù mà còn khâm phục Khai-Quốc vương. Ông lại biết đường tiến thoái, nhẫn nại với Lưu thái hậu. Dù Dư Tĩnh là cháu Lưu thái hậu, khi đi sứ Chiêm, ông mang y theo, hầu chứng minh rằng mình đường đường, chính chính.
      Sau khi Lưu hậu thất bại liên tiếp trong vụ Trường-giang thất quỷ, vụ bang Nhật-hồ. Bà dùng tới khả năng cuối cùng là Chu Bội-Sơn, Đào Tường-Phúc cùng mười trưởng lão bang Nhật-hồ. Trong bóng tối Bảo-Hòa, Thông-Mai dùng Trần Phụ-Quốc (Vương Văn), Trần Bảo-Dân cùng năm ông thiên lôi bầy ra vụ bắt sống mười trưởng lão bang Nhật-hồ, tiếp theo vụ con thuyền tấu nhạc, đưa sứ đoàn tới Tương-đài, Tam-sơn làm cho hai lão thành điên khùng.
      Tại triều đình, Lưu hậu lấy lý rằng việc tiếp sứ đoàn không thuộc thẩm quyền Định-vương Nguyên-Nghiễm, mà thuộc tể tướng. Bà cho biết đã sai Tào Khánh đi đón. Sự thực bà sai bọn Trường-giang bắt giam Tào, rồi cưỡng sứ đoàn đi tìm kho tàng. Không ngờ bang Trường-giang lại bị sứ đoàn chinh phục. Bà vẫn không lùi, quyết nắm quyền trong vụ này. Bà loan báo với triều đình rằng đã sai quan tổng lĩnh thị vệ cùng quan tổng trấn Nam-biên thay Tào Khánh, sứ đoàn sẽ tới Kinh-châu. Không ngờ đúng ngày hẹn, kinh lược sứ Kinh-châu sai thiết kị dàn ở Bắc Trường-giang tiếp sứ đoàn, thì sứ đoàn biệt tăm. Cuối cùng tin cho biết hai lão Lê-lục-Vũ, Tôn-đức-Khắc bị một lực lượng bí mật bắt mất mười trưởng lão. Hai lão hóa điên khùng đuổi theo kẻ thù tới Giang-lăng.
      Bà hoảng hốt, nhưng vẫn tự ái nắm quyền. Bà sai Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản đi tìm sứ đoàn. Bảo-Hòa được tin, quyết làm cho hai tên này thân tàn ma dại. Vì vậy nàng mới sai Tôn Đản, Lê Văn hóa trang làm hai lão Sử, Khiếu, đột nhập đinh kinh lược sứ Kinh-châu ăn cắp bảo vật của sứ đoàn Xiêm, vờ đánh rơi kiếm lại. Trên kiếm khắc tên hai lão. Vì vậy kinh lược sứ mới niêm yết bẳng văn truy tầm.
      Tôn Đản kể: Sau khi năm đứa trẻ nhận chỉ dụ của Khai-Quốc vương, Định-vương Nguyên-Nghiễm đi cùng Triệu Huy, Ngô-cẩm-Thi về Biện-kinh. Vì Huy là một chức quan võ cao cấp, lại mang lệnh bài của quan phụ-quốc thái úy, nên suốt dọc đường không có việc gì xẩy ra.
      Trong khi đi đường, năm thiếu niên bàn về việc tuyển phò mã. Triệu Huy biết Thiện-Lãm, Thuận-Tông coi như trong tim đã có Kim-Thành, Trường-Ninh, nên đều rửng rưng. Nhưng y không hiểu tại sao cả Tự-Mai, Tôn Đản cũng không mấy thiết tha. Y hỏi:
      - Trong ba công tử, tôi thấy từ võ công, nhân phẩm đều tuyệt vời. Tại sao không ghi danh ứng tuyển phò mã. Được làm phò mã chẳng sướng ư?
      Tôn Đản biểu đồng tình:
      - Võ công Lê Văn cao cường, lại bác học đa năng. Y thuật chú quán chúng. Chú mà ứng tuyển, nhất định thành phò mã.
      Lê Văn cười khúc khích:
      - Tôi không thích làm phò mã. Nếu như bố tôi tranh ngôi vua từ họ Lý, tôi cũng làm thái tử. Làm Thái tử không sướng bằng làm thầy thuốc, đi khắp nơi trị bệnh cho thiên hạ. Đến ngôi thái tử tôi còn không ham, huống chi ngôi phò mã? Thôi anh Đản ứng tuyển đi.
      Tôn Đản liếc nhìn Cẩm-Thi. Bốn mắt gặp nhau, chỉ thoáng qua, nhưng cả hai đã nói với nhau rất nhiều.
      Lê Văn hỏi:
      - Công chúa Huệ-Nhu có đẹp bằng chị Mỹ-Linh, Thanh-Mai hay mẹ trẻ Huệ-Phương của tôi không?
      - Tôi chưa thấy mặt Công-chúa, song nghe đâu võ công cũng vào hàng cao thủ. Hơn nữa xinh đẹp hơn Thái-hậu nhiều.
      - Thái hậu đẹp lắm sao?
      - Từ khi triều Tống thành lập đến giờ, chưa có cung nga nào sánh kịp. Chả vậy Thái-hậu xuất thân bần hàn, mà được sủng ái đặt lên làm hoàng hậu! Công-chúa lại văn hay chữ tốt.
      Tự-Mai cho ngựa chạy ngang với ngựa Ngô Cẩm-Thi:
      - Ngô tỷ tỷ. Tỷ tỷ cũng về Thăng-long treo bảng tuyển phò mã đi. Nhất định anh hùng thiên hạ sẽ đến dự đông đảo. Công-chúa Huệ-Nhu sao đẹp bằng tỷ tỷ. Còn võ công, e rằng anh hùng cũng khó bì kịp với tỷ tỷ, chứ đừng nói đến công chúa Huệ-Nhu.
      Trong năm ông thiên lôi, Cẩm-Thi thích nhất Tự-Mai với Lê Văn. Hai đứa khi thì gọi nàng bằng chị, khi thì gọi nàng bằng tỷ tỷ. Chúng luôn đùa vui, khiến nàng bật cười. Còn Tôn Đản, tuổi y ngang với nàng, nên y có thái độ dè dặt nam nữ. Nàng để ý thấy Tôn Đản trầm tư khác những ngày ở Khúc-giang. Y chú ý săn sóc nàng từng ly từng tý. Khi ăn, lúc trọ ở khách điếm. Dọc đường y luôn ruổi ngựa sát cạnh nàng. Tôn Đản thì kinh nghiệm đời sống có thừa. Nàng lại chứa đầy một đầu những gì chép trong sách vở, hai người bổ khuyết cho nhau. Dần dà, anh hùng với giai nhân cảm nhau bao giờ, mà chính họ cũng không biết. Bây giờ nghe Tự-Mai bảo nàng mở võ đài tuyển phu, thấy đề nghị vui vui, nàng đáp:
      - Tự-Mai này. Có lẽ chị sẽ mở võ đài ngay ở phủ Khai-phong, chứ không cần về Thăng-long.
      Tự-Mai bật cười:
      - Như vậy e rằng Công-chúa Huệ-Nhu ế chồng mất. Người ta ắt đổ xô sang võ đài của chị.
      - Chị mở võ đài, nhưng không phải để tuyển phu.
      - Vậy để tuyển gì đây?
      - Tuyển lấy mấy cậu em. Cậu nào cũng phải ngoan như Tự-Mai, Lê Văn hay Thuận-Tông, Thiện-Lãm.
      Tôn Đản bật cười:
      - Ngô tiểu thư mắng vốn bốn chú phá phách đấy. Trên đời này nếu có cậu em nào phá phách nhất, cũng còn thua bốn chú.
      Lê Văn nhăn mũi trêu Tôn Đản:
      - Cái anh Đản nói như vậy mà không sợ méo mồm ư? Bọn này phá phách theo lệnh của anh. Anh mới chính là chúa đảng phá trời.
      - Ta làm chúa mộc vị, chúa bù nhìn. Còn thực ra thì là Tự-Mai với Lê Văn.
      Triệu Huy xen vào:
      - Tôn công tử nói đúng đó.
      Có tiếng vó ngựa lộp cộp. Từ phía sau hai kị mã phi như bay. Một người mặc áo da mầu nâu. Một người mặc áo da mầu xám. Hai người tới gần bọn Tôn Đản, thì ghì cương cho ngựa chạy chậm lại. Người áo nâu cung tay hành lễ quân cách với Triệu Huy:
      - Hai chúng tôi là Tuyên-ứng sứ Lao Trấn và Tuyên-khánh sứ Hầu Định. Chúng tôi muốn thưa truyện với Triệu đại nhân.
      Nói rồi hai người trình ra hai tấm thẻ bài. Triệu Huy hiện đã lên tới
      Chiêu-thảo-sứ, một chức quan khá lớn trong hàng võ phẩm, nhưng y vẫn là quan ở ngoài. Còn hai tên Lao Trấn, Hầu Định tuy chỉ tới Tuyên-ứng, Tuyên-khánh, đẳng trật cách xa nhau. Nhưng bọn chúng là võ quan hầu cận hoàng đế. Vì vậy Huy phải nể vì. Huy cầm thẻ bài xem sơ rồi trả chúng.
      Tuyên-ứng Lao Trấn nói:
      - Chúng tôi được chỉ dụ của Thái-hậu giám sát Ngô Cẩm-Thi. Dụ ban ra rằng, khi y thị rời khỏi Khúc-giang, phải bắt trở về. Y thị không về, thì giết không tha. Lúc y thị rời Khúc-giang với đại nhân. Chúng tôi tưởng chỉ rời trấn ít dặm. Không ngờ cho đến hôm nay là bẩy ngày. Xin đại nhân cho biết y thị định đi đâu?
      Triệu Huy liệu chừng hai tên này chưa biết cuộc liên kết giữa Khai-Quốc vương với Định-vương. Y đáp:
      - Tôi được chỉ dụ của Định-vương đưa Ngô tiểu thư về kinh, thi hành sứ mạng quan trọng.
      Hầu Định nói như ra lệnh:
      - Xin đại nhân hiểu cho. Bắt buộc tôi phải cản trở. Nếu tôi không làm tròn sứ mệnh của Thái-hậu, e mạng sống không còn cũng chẳng tiếc. Nhưng tính mệnh toàn gia e nguy trong sớm tối.
      Khi Triệu Huy nhận chỉ dụ đưa Ngô Cẩm-Thi về kinh, y đã được Định-vương cho biết dọc đường sẽ gặp nhiều sứ giả của Lưu hậu cản trở. Trường hợp này y cứ để Tự-Mai phản ứng. Nghĩ vậy y nói:
      - Nếu hai vị đã nói vậy, xin cứ tùy tiện.
      Hai gã Hầu, Lao không ngờ Triệu Huy đồng ý dễ dàng như vậy. Triệu Huy quay ngựa lại nói với Ngô Cẩm-Thi:
      - Ngô tiểu thư! Tôi được chỉ dụ vương gia đưa tiểu thư về kinh. Nhưng hai vị đây là Điện-tiền thị vệ lại tuân chỉ Thái-hậu cấm tiểu thư rời Khúc-giang. Tôi không biết phải giải quyết ra sao.
      Tự-Mai đứng ngoài nghe hai gã Lao, Hầu đối đáp với Triệu Huy, nó đã
      ứa gan. Nó nói với Triệu Huy:
      - Khi Triệu đại nhân nhận chỉ dụ của Định vương, anh em chúng tôi cũng có mặt, cùng nghe thấy. Bây giờ hai tên này cản trở thực vô lý. Chúng tôi chỉ biết Triệu đại nhân mà thôi. Còn hai gã kia biết đâu chẳng là gian tế.
      Hầu Định quát:
      - Tên ôn con kia, thế lệnh bài của Thái-hậu là gì đây?
      Lê Văn cười nhạt:
      - Lệnh bài đó không chừng là đồ giả. Để ta coi lại xem đã.
      Nói rồi nó tiếp lệnh bài của hai gã Thị-vệ xem đi xem lại rồi bỏ vào túi:
      - Ta chưa thấy lệnh bài của Thái-hậu bao giờ, nên nào có biết thực giả ra sao. Bây giờ thế này: Hai vị cùng chúng ta tới Kinh-châu vào yết kiến quan Tư-mã, để quan Tư-mã phân biệt chân giả.
      Gã Lao nổi cơn điên lên:
      - Đưa trả lệnh bài ngay. Bằng không ta giết mi liền.
      Gã xuất chiêu ưng trảo chụp Lê Văn. Nó không tránh, chĩa ngón tay trỏ ra điểm hai cái véo, véo trúng huyệt Khúc-trì. Tay gã Lao tê liệt không cử động được. Gã kinh hoàng định há miệng chửi, thì nó điểm tiếp vào hai huyệt Hạ-quan, miệng gã cứng đơ không há ra được.
      Gã Hầu kinh hãi phóng chưởng tấn công Lê Văn. Tự-Mai vung chưởng đỡ. Binh một tiếng, người gã Hầu bay bổng lên cao, rơi xuống trước ngựa Tôn Đản. Tôn Đản điểm vào huyệt Hoàn-khiêu, Kiên-ngung y. Chân tay y tê liệt, y rơi xuống đất đến bộp một tiếng.
      Thuận-Tông lấy roi ngựa vung lên quấn quanh người gã. Nó giật mạnh, người gã bay bổng lên cao, rơi xuống lưng ngựa mình, y như gã nhảy lên vậy. Gã tức quá miệng hét be be:
      - Mấy tên ôn con kia, bọn mi định làm gì ta đây?
      Thuận-Tông cười:
      - Chúng tôi kính mời hai vị Thị-vệ đại nhân theo hộ tống Ngô tiểu thư lai kinh chứ không làm gì khác.
      Gã Hầu Định ngoạc mồm ra chửi:
      - Bọn mi dùng tà thuật bắt Thị-vệ như thế này sẽ bị xử tử hình. Mi có biết không?
      Tôn Đản hỏi Lê Văn:
      - Trên người ta, đụng vào chỗ nào thì cười, chú có biết không?
      - Biết chứ.
      Nó phóng chỉ điểm vào huyệt Liêm-tuyền của Hầu-Định. Liêm-tuyền là huyệt nằm ngay dưới cằm. Hầu bật lên tiếng cười. Thấy kết quả, Lê Văn tháo giầy gã ra, điểm vào huyệt Dũng-tuyền dưới bàn chân gã. Lập tức gã cười dòn dã. Vì chân tay gã tê liệt, gã chỉ biết rụt cổ và lắc mình cười.
      Ngô Cẩm-Thi hỏi Tôn Đản:
      - Tôn đại ca này. Võ công mà Tôn đại ca với Lê Văn vừa xử dụng là võ công gì vậy?
      - Nó là môn điểm huyệt. Môn này đo anh cả với chúng tôi mới chế ra gần đây thôi. Còn điểm vào hai huyệt cho gã kia cười là do Lê Văn dùng gã thí nghiệm, không ngờ lại có kết quả ngoài ý muốn.
      Ngô Cẩm-Thi nói với Lê Văn:
      - Lê đệ đệ ơi. Đệ đệ mau giải khai huyệt đạo cho gã Hầu Định bằng không gã cười mãi thế kia, e mệt quá thì gã chết mất.
      Lê Văn dùng roi ngựa quất vào huyệt Khúc-tuyền, Khí-hải của Hầu Định, lập tức gã hết cười, miệng thở hổn hển.
      Tôn Đản nói:
      - Hai vị Hầu, Lao! Mong hai vị khuất thân đi với chúng tôi tới Kinh-châu để biệt chân giả rồi chúng tôi sẽ giải khai huyệt đạo cho hai vị. Bằng hai vị cứ la lối, buộc lòng chúng tôi phải điểm cho hai vị cười đến chết mới thôi.
      Hai gã Hầu, Lao đành thúc thủ, ngậm miệng theo bọn Tôn Đản. Khi qua Kinh-châu, bọn Tôn Đản không ghé dinh Tư-mã, mà đi thẳng lên Tương-dương.
      Nhưng dù sao bọn Tôn Đản vẫn còn trẻ, thiếu cẩn thận. Chúng quên mất phép điểm huyệt chỉ có giá trị hai giờ. Sau hai giờ các huyệt tự giải. Đêm đó, hai gã Lao, Hầu thấy chân tay cử động được, bèn lấy ngựa trốn đi.
      Sáng thức dậy thấy mất hai gã Lao, Hầu, bọn trẻ vẫn thản nhiên như không có gì xẩy ra. Suốt dọc đường Tôn Đản, Ngô Cẩm-Thi luôn bên cạnh nhau. Tự-Mai kinh nghiệm về vụ Lý Long-Bồ, Thanh-Mai. Sau này đến Thiệu-Thái, Mỹ-Linh. Nó bàn cùng Lê Văn, Thuận-Tông, Thiện-Lãm luôn tìm cách lẩn tránh để hai người có dịp nói truyện riêng.
      Một lần chợt nhớ tới Thuận-Tường, Tự-Mai hỏi Triệu Huy:
      - Triệu huynh ơi. Không biết kỳ tuyển phò mã này phái Hoa-sơn có cử người tham dự không?
      - Tôi nghĩ là có. Không chừng giờ này phái đoàn Hoa-sơn đã đến rồi, nhưng chả biết họ cư trú ở đâu?
      Suốt dọc đường, Tôn Đản luôn đi cạnh Ngô Cẩm-Thi. Y nhiều kinh
      nghiệm thực tiễn dân dã, nhưng lại thiếu kiến thức trong sách vở. Ngược lại Cẩm-Thi thì đọc thiên kinh vạn quyển, mà chưa từng ra đời. Vì vậy họ bổ khuyết cho nhau, rồi mối tình nảy sinh.
      Tới Biện-kinh, năm quý khách được mời vào cư ngụ trong phủ Định-vương. Như chỉ dụ của Định-vương, năm thiếu niên được trình bầy tổ chức triều Tống cùng đường xá trong Biện-kinh.
      Định-vương tuy chưa lập vương phi chính thức, nhưng trong phủ cũng có hơn chục mỹ nữ. Đa số họ là con quan trong triều, hoặc con nhà giầu. Một là họ thích được gần nhân vật quyền thế chỉ thua có Thiên-tử. Hai là họ hãnh diện vì Định-vương nổi danh tài trí vô song. Các nàng mỹ nữ thấy năm thiếu niên khôi ngô, nói năng lễ phép, kiến thức vô cùng rộng rãi, đều tỏ vẻ mến mộ.
      Năm thiếu niên thấy các mỹ nữ, chúng đều cung tay gọi bằng vương-phi. Nên bà nào cũng hài lòng. Chúng thi nhau kể truyện những ngày vương sang Đại-Việt. Tự-Mai đã ước hẹn với các bạn, tất cả đều tránh kể những thất bại của vương, mà chỉ kể truyện vương hào phóng, khiến võ lâm danh sĩ Đại-Việt ngưỡng mộ. Vì vậy Hoa-Việt kết thân.
      Sau một ngày nghỉ ngơi, Triệu Huy nói với Ngô Cẩm-Thi:
      - Bây giờ chúng ta đi thăm Ngô đại hiệp. Không biết chúng ta cùng đi hay chỉ một vài người với Ngô tiểu thư?
      Ngô Cẩm-Thi hỏi ngược lại:
      - Song thân tôi bị giam cùng với các anh tôi ở đâu?
      - Ngô đại hiệp không bị giam. Cả gia đình bị quản thúc ở một trang ấp ngoài phủ Khai-phong. Những bộc phụ, tỳ nữ từ Khúc-giang đem theo vẫn y nguyên.
      - Trang ấp do binh sĩ của phủ Khai-phong, của Khu-mật viện hay phủ Thái-úy canh gác?
      - Của Khu-mật viện.
      Cẩm-Thi nói với Tôn Đản:
      - Tùy đại ca quyết định.
      - Vậy thì thế này: Lê Văn, Tự-Mai ở nhà. Còn Thuận-Tông, Thiện-Lãm theo anh đi thăm Ngô bá bá.
      Lê Văn cật vấn:
      - Tại sao hai đứa này không đi. Lỡ có sự thì sao?
      - Đây thuộc kinh thành ta không thể dụng võ, nên không cần đến hai chú. Mà có dụng võ, với bản lĩnh Ngô bá bá cùng ba vị Ngô công tử hỏi ai địch lại, các chú có đi cũng vô ích.
      Tôn Đản thấy Tự-Mai chưa hiểu ý mình, nó ghé tai Tự-Mai nói nhỏ:
      - Lúc sáng nay ta thấy cặp chim ưng mình cho Thuận-Tường hôm trước bay trên đầu, ắt nàng đang có mặt ở kinh thành. Em gọi chim ưng xuống gửi thư cho nàng, hoặc bảo nó dẫn đường tìm nàng.
      Tự-Mai liếc nhìn lên trời, quả đôi chim ưng đang bay lượn không xa là mấy. Tim nó đập rộn ràng, tay ôm lấy Tôn Đản tỏ ý biết ơn.
      Tôn Đản, Cẩm-Thi dẫn Thuận-Tông, Thiện-Lãm theo Triệu Huy rời vương phủ. Lê Văn nhìn Tự-Mai tủm tỉm cười. Hai thiếu niên cùng xuất thân giống nhau, nên tâm đầu ý hợp, chỉ thoáng qua, Lê Văn đã hiểu thấu tâm sự Tự-Mai. Nó bàn:
      - Tự-Mai định gọi chim ưng xuống viết thư cho nàng hay tìm đến thăm nàng?
      - Viết thư e không tiện, vì sợ phụ huynh nàng bắt được. Trước hết mình nên tìm xem nàng ở đâu đã.
      - Vậy ta gọi chim ưng xuống đi!
      Tự-Mai ngửa mặt lên trời hú một tiếng dài. Đôi chim ưng đang bay trên trời, chúng lượn một vòng rồi đáp xuống. Chúng nhận ra Tự-Mai, Lê Văn, cả hai con vật đều kêu lên những tiếng vui mừng. Lê Văn bàn:
      - Ta theo chúng đi liền chăng?
      - Ừ.
      Tự-Mai nói với cặp chim ưng mấy tiếng, rồi...

      Lê Văn dịch xong, Tự-Mai đã gọi chim ưng xuống buộc khăn vào chân nó chúng rồi tung lên không. Cặp chim ưng bay một vòng, chúng chao đi mấy cái, sau đó từ từ đáp xuống mất hút. Hai thiếu niên tìm một vườn hoa ngồi chờ tin tức. Không đầy nửa giờ, chim ưng bay lên không, rồi đáp xuống. Tự-Mai run run mở ống tre dưới chân ra. Trong có tờ giấy hoa tiên. Nó đọc:

      Trần đại ca.
      Tự Tản-lĩnh cách biệt, tưởng kiếp này không gặp nhau nữa. Không ngờ đại ca đã dầy công đi tìm muội. Đại ca muốn gặp muội, phải tuyệt đối nghe lời muội. Bằng không chúng ta nghìn trùng cách biệt. Có hai việc phải làm:
      - Một là đại ca phải ghi danh ứng tuyển phò mã ngay. Dùng mọi cách thắng anh hùng thiên hạ.
      - Hai là đại ca ra tửu lầu Nam-phong chờ. Sẽ có người đến đưa đại ca gặp muội.
      Thư bất tận ngôn.
      Thuận-Tường.


      Lê Văn thấy Tự-Mai đờ đẫn cả người ra. Nó vội khuyên:
      - Ta tạm rời hoàng thành, tìm tửu lầu Nam-phong đợi nàng sai người đến dẫn đi.
      - Lạ một điều sao nàng bắt ta phải ghi danh ứng tuyển phò mã. Thành phò mã rồi, sao có thể làm chồng nàng?
      Lê Văn suy nghĩ một lúc rồi nói:
      - Có nhiều khúc mắc mà ta chưa biết. Ta cứ chờ gặp nàng rồi sẽ hỏi. Theo như em nghĩ, Lưu hậu treo bảng tuyển phò mã. Số vào chung kết tới mười tám. Lưu hậu cùng quan tả, hữu bộc xạ chọn một người. Còn mười bẩy người sẽ gả con các quan cho. Không chừng Thuận-Tường là một trong mười bẩy tiểu thư đó.
      Khi người ta yêu, thường u mê trong ảo tưởng. Hằng ngày Tự-Mai thông minh bậc nhất, việc gì nó cũng kiến giải sáng suốt. Nay nó đang trong vòng rạo rực tình ái, nên cảm thấy yếu đuối, phải nhờ Lê Văn bàn giúp.
      Rời hoàng thành, hai thiếu niên tìm đến tửu lâu Nam-phong, kiếm một chỗ trên lầu cao, gần cửa sổ ngồi. Lê Văn gọi mấy món ăn, rồi bàn:
      - Lát nữa đây, sẽ có người dẫn đường đi gặp Thuận-Tường, chỉ mình anh đi thôi. Còn em trở về phủ Định-vương. Lỡ có gì chim ưng báo cho em biết, để em còn thông tin cho anh cả với Định-vương.
      - Dĩ nhiên như vậy. Mình nghĩ việc gặp Thuận-Tường chắc không có gì nguy hiểm đâu. Dù sao giữa phái Hoa-sơn với võ lâm Đại-Việt có tình giao hảo, họ đâu nỡ gây khó dễ với mình.
      Bỗng có tiếng lăng không truyền ngữ rót vào tai Tự-Mai:
      - Thằng cà chớn mê gái. Có nhận được tiếng ta không?
      Nghe tiếng nói, Tự-Mai lạnh cả gáy, vì đó là tiếng Thông-Mai. Nó không hiểu sao, bố nó, Thanh-Mai đầm ấm như vậy, mà Thông-Mai lại lạnh lùng đến phát ớn. Nghe tiếng anh hỏi, nó nhìn sang bên cạnh, thấy hai ông bà già đang ngồi ăn uống. Mùi trầm hương xông lên, nó nhận ra cặp vợ chồng là Thông-Mai, Bảo-Hòa. Nó vội đáp:
      - Anh có gì dặn em không?
      - Anh thì không có gì, nhưng chị Bảo-Hòa thì có nhiều lắm.
      Tiếng Bảo-Hòa nói:
      - Đêm nay có thể em gặp một người đàn bà đặc biệt thuộc phái Nga-mi. Nội công Nga-mi xuất từ phái Thiếu-lâm. Mà nội công Thiếu-lâm, Tiêu-sơn, Đông-a đều xuất từ Thiền. Em hãy đem phương pháp phá Chu-sa độc chưởng dạy cho bà ta.
      - Chưa có phép của bố mà em dạy người ngoài, e bố đánh chết.
      - Chị với anh Thông-Mai đã xin phép bố rồi.
      - Chỉ dạy phép đẩy độc chất về cơ thể địch nhân hay dạy cả nội công lẫn chưởng pháp.
      - Em muốn dạy gì cũng được.
      Đến đấy Bảo-Hòa, Thông-Mai đứng dậy xuống lầu. Tự-Mai rùng mình:
      - Văn đệ này. Từ khi rời nước ra đi đến giờ, hằng ngày anh cả điều động chúng mình. Nhưng trên thực tế hai ông bà Thông-Mai, Bảo-Hòa sai khiến tất cả. Chúng mình đi thế nào, ông bà ấy cũng theo dõi được.
      Hai người đang nói truyện, thì có một thiếu phụ đến bên cung tay hỏi:
      - Trong hai vị, vị nào là Trần công tử?
      Tự-Mai đáp lễ:
      - Thưa là tôi.
      - Lão tỳ được bề trên ủy thác dẫn công tử đến gặp một người. Xin công tử theo lão tỳ.
      Tự-Mai đưa mắt cho Lê Văn, rồi đứng lên. Thiếu phụ dặn:
      - Tiểu tỳ họ Phương. Bề trên dặn: Công tử tuyệt đối không được dụng võ. Nơi công tử gặp bề trên thuộc cấm thành. Trong cấm thành đầy cung nga, thái giám, thị vệ. Vậy công tử phải hoá trang thành một thái giám.
      Nói rồi mụ trao cho Tự-Mai một cái túi:
      - Công tử hãy vào sau tửu lầu thay quần áo, trao kiếm cho người bạn. Trong cấm thành, thái giám không thể mang kiếm.
      Tự-Mai trao kiếm cho Lê Văn rồi vào trong thay quần áo. Khi nó ra, Lê Văn suýt bật cười vì chính nó cũng không nhận ra Tự-Mai. Mụ Phương trao cho Tự-Mai một thẻ bài:
      - Đây thẻ bài của công tử. Công tử có tên Mai-Tự, thuộc cung Ôn-đức, hầu hạ Lý thái phi.
      Tự-Mai hỏi:
      - Tại sao Thuận-Tường lại ở trong cấm thành?
      - Lát nữa gặp bề trên của lão tỳ, công tử sẽ rõ.
      Hai người xuống lầu. Kiệu chờ sẵn. Mụ Phương lên một cái. Tự-Mai lên một cái. Kiệu nhập cửa Chính-dương rồi vào cửa Tinh-võ cấm thành. Khi qua cửa, thị vệ hỏi thẻ bài, rồi cho đi. Kiệu đi vòng vèo mãi, tới một cung điện thì ngừng lại. Kiệu phu mở cửa. Tự-Mai bước ra, mụ đã Phương chờ sẵn. Mụ vẫy Tự-Mai đi theo. Liếc nhìn trên cửa cung có chữ Ôn-đức cung. Nó kinh hãi:
      - Hôm trước nghe anh Thiệu-Cực nói Ôn-đức là nơi thái phi họ Lý ở. Không lẽ Thuận-Tường lại là thái phi?
      Mụ Phương đưa Tự-Mai vào một thư phòng trang trí rất hoa mỹ. Trên tường treo đầy bút thiếp cùng danh họa. Mụ dặn:
      - Thôi, công tử ngồi đây chờ bề trên chúng tôi, xin đừng có đi đâu.
      Nói rồi mụ lui bước. Tự-Mai đi xem các bút thiếp, tất cả đều thự danh của những đại gia thời bấy giờ như Vương Khâm-Nhược, Lã Di-Giản, Khấu Chuẩn, Đinh Vị, Tào Lợi-Dụng, Trương Sĩ-Tổn.
      Có tiếng dép lẹp kẹp, rồi một mùi u hương thoang thoảng bốc lên. Tự-Mai nghĩ thầm:
      - Chắc là Thuận-Tường.
      Nó vội quay lại đón, thì ra một cung nữ. Cung nữ cúi đầu chào nó, rồi đặt chiếc khay bạc lên bàn. Trên khay bạc có đến mười thứ mứt kẹo khác nhau. Nàng lễ phép lui bước.
      Tự-Mai tò mò nhìn các đĩa mứt. Nó nhận ra được : Hạt dẻ, tùng tử, hạnh đào, đào nhân, ngọc quế. Còn lại nó chưa từng thấy qua.
      Lại có mùi u hương thoang thoảng, rồi cung nữ khác bưng vào một bình trà với hai chiếc chung bằng sứ bọc vàng. Cung nữ cúi chào, khoan thai lui bước.
      Tự-Mai nghĩ thầm:
      - Thuận-Tường là ai? Không lẽ nàng là Lý thái phi? Vua Chân-tông băng đã mười năm. Khi ngài băng, Thuận-Tường chưa quá mười tuổi, đâu có thể là cung phi của ông?
      Có mùi hoa quế thoang thoảng, rồi một cung nữ bước vào. Tự-Mai giật bắn người lên. Vì nàng chính là Thuận-Tường. Nhớ thương chồng chất, nay gặp lại, chân tay nó như tê liệt. Thuận-Tường cũng thế. Hai người ngây ngất nhìn nhau. Cứ như vậy không biết thời gian bao nhiêu lâu, Thuận-Tường lên tiếng:
      - Trần đại ca.
      - Thuận-Tường!
      Thuận-Tường mời Tự-Mai ngồi xuống chiếc bàn. Nàng ngồi đối diện, tay rót trà vào chung mời:
      - Đại ca dùng trà.
      Tự-Mai bưng trà lên uống, rồi hỏi:
      - Đây là đâu. Tại sao Thuận-Tường lại ở cung Ôn-đức?
      - Vì tiểu muội là cung nữ.
      - Cung nữ?
      - Đại ca ngạc nhiên lắm ư? Sau khi rời Tản-lĩnh về, tiểu muội bị tuyển làm cung nữ, rồi được đưa vào đây hầu Lý thái-phi.
      Trong đầu óc Tự-Mai nhớ lại truyện Đào Hà-Thanh, Lâm Huệ-Phương. Mỹ-Linh kể cho nó nghe: Những cung nữ xinh đẹp vua lưu giữ một số phong cho những gì mỹ-nữ, tu-nghi, tu-dung, dung-nghi, tức một thứ vợ nhỏ. Còn lại chia cho các hoàng tử. Những người xấu, bị chia hầu hạ các bà thái hậu, hoàng hậu, công chúa. Nó hỏi:
      - Tường muội đẹp thế này mà hoàng đế không phong làm chính cung nương nương ư? Sao đến nỗi hầu hạ thái phi?
      Thuận-Tường cười:
      - Đại ca đừng ngạc nhiên, vì muội thuộc thành phần con nhà dân dã, nên không thể được hầu vua cũng như hoàng tử.
      - Tường muội định chôn cuộc đời ở đây sao?
      - Chim lồng, cá chậu biết sao bây giờ?
      - Tường muội cùng anh trốn đi.
      - Đại ca tưởng! Trốn đi thì dễ rồi, nhưng còn gia gia, má má, anh chị em... Triều đình sẽ chặt đầu hết.
      - Anh nhất định không thể để như vậy!
      - Đại ca định làm gì?
      - Anh về rủ mấy sư huynh sư đệ vào cướp Tường muội ra. Khi Tường muội bị cứơp ra, triều đình đâu có thể bắt tội gia gia, má má.
      Thuận-Tường lắc đầu:
      - Trong cấm thành có hơn nghìn thị vệ. Dù đại ca có bản lĩnh nghiêng trời lệch đất cũng không thể đấu lại với bọn chúng. Làm như thế chỉ uổng mạng mà thôi.
      - Thà uổng mạng vì Tường muội còn hơn để Tường muội bị chôn cuộc đời trong cung như thế này.
      Thuận-Tường bật cười:
      - Trước đây, trong cấm thành đã xẩy ra một việc tương tự. Hồi đó tiểu muội còn nhỏ, nên chỉ nhớ lõm bõm thôi. Bấy giờ phụ hoàng... à vua Chân-tông còn là tại thế.
      Nghe Thuận-Tường nói, Tự-Mai ngắt lời:
      - Cái gì phụ hoàng?
      - Tiểu muội muốn nói hoàng thượng còn là thái tử. Bấy giờ vua Chân-tông tuyển con gái Khấu thừa tướng định đặt lên làm hoàng hậu. Giữa lúc vua cùng nàng yến ẩm, thì một võ lâm cao thủ xuất hiện. Y trói nhà vua lại, nhét dẻ vào miệng rồi bắt Khấu tiểu thư đi.
      Tự-Mai bật cười, vì biết gian nhân đó là nhị sư huynh Trần Bảo-Dân. Nó lắc đầu:
      - Theo anh nghĩ cao thủ đó không bắt Khấu Kim-An, mà cứu nàng ra.
      Thuận-Tường kinh ngạc:
      - Đại ca biết nhũ danh của Khấu tiểu thư ư?
      - Anh biết rất rõ. Kim-An không hề bị bắt, trái lại tình quân đã cứu nàng ra. Tình quân đó là nhị sư huynh của anh tên Trần Bảo-Dân.
      - Tuyệt vời! Mà gan cũng lớn vô cùng. Trên đời hỏi được mấy người như nhị sư huynh của đại ca. Y dám vì tình, mà làm truyện nghịch thiên, bạo địa. Ước gì muội được gặp con người đó.
      Tự-Mai thuật lại truyện tình của nhị sư huynh với Khấu Kim-An thực chi tiết tỷ mỉ, rồi nó kết luận:
      - Bây giờ đến lượt anh làm truyện bạo thiên, nghịch địa.
      Thuận-Tường nắm tay Tự-Mai. Cả hai cùng run lên bần bật:
      - Đa tạ đại ca. Bây giờ thế này: Đại ca ghi danh ứng tuyển phò mã. Cố sao được vào chung kết. Khi Thái-hậu cùng triều đình cho công chúa cùng con các quan xuất hiện. Tiểu muội sẽ có mặt theo hầu công chúa. Đại ca xin được kết hôn với tiểu muội. Như vậy là tốt đẹp nhất.
      - Tại sao Tường muội...
      Có tiếng nói vọng vào:
      - Thánh giá Thái-hậu giá lâm.
      Thuận-Tường kinh hãi chỉ cái sập, y muốn bảo Tự-Mai chui vào gầm
      ẩn thân. Nhưng Tự-Mai gan lớn bằng trời, nó không chịu chui vào mà tung người lên trên xà nhà, rồi nép mình bên cạnh kèo lớn. Thuận-Tường phóng ra cửa sổ mất dạng.
      Hai cung nữ bưng trà, mứt bước vào ban nãy, dấu vội khay, đĩa trong cái tủ, rồi ra cửa. Tiếng dép lẹp kẹp, hai thiếu phụ y phục sang trọng song song bước vào. Nhờ đã được Mỹ-Linh giảng giải, nhìn y phục, Tự-Mai nhận ra được phụ nữ gầy là Lý thái phi. Còn phụ nữ người vừa phải là thái hậu. Hai cung nữ quỳ gối:
      - Bái kiến thái hậu, thái phi.
      Một thái giám đi theo hô:
      - Bình thân.
      Tự-Mai nghĩ thầm:
      - Kẻ đại thù gây sóng gió cho Đại-Việt, Đại-lý, Tây-hạ, Thổ-phồn là bà Lưu thái hậu này đây. Cứ nhìn nét mặt, bà ta mới hơn bốn mươi, nhan sắc thực không thua gì Lâm Huệ-Phương, Đào Hà-Thanh. Có ai ngờ bà ta gây ra biết bao nhiêu bão táp cho thiên hạ.
      Lưu thái hậu, Lý thái phi ngồi đối diện nhau, mỗi người bưng một chung trà trong tay, không ai uống, cùng nhìn nhau. Một lát sau Lưu hậu nói:
      - Việc triều chính bớt bận rộn, ta tới thăm Thái- phi, muốn nói với Thái-phi ít điều.
      - Thần ở đây thanh tĩnh quen rồi. Thái-hậu vì quốc sự mà thánh thể hao gầy, xin tĩnh dưỡng, không nên bận tâm về thần.
      Lưu Thái-hậu thở dài:
      - Dĩ nhiên ta không bận tâm về Thái-phi, mà bận tâm về các thân vương. Triệu vương ra dạ bất an. Hơn tháng qua y cáo bệnh không vào triều. Còn Định-vương! Hừ ! Ta đang điên đầu về y. Y chống lại ta chẳng nói làm gì. Có tin nói y định tạo phản.
      Lý Thái-phi lắc đầu:
      - Tin đó chắc người ta phao vu. Định vương hiện là rường cột xã tắc. Người là thầy, là chú Thiên-tử. Suốt đời người nhất tân lo cho Thiên-tử. Khắp nơi đều nói người là Chu-công, Trương Lương, Gia-cát Lượng. Thiếp nghĩ nếu Thiên-tử muốn, người cũng cắt tim cắt thịt cho thên tử ăn. Có đâu tạo phản?
      Lưu hậu lắc đầu:
      - Bề ngoài thì vậy, nhưng bề trong y liên kết với bọn Việt.
      - Vương đi sứ nước người. Việc ở ngoài, khó có thể quyết đoán bằng một tờ biểu. Ai đã tâu với Thái- hậu như vậy?
      - Dư An-phủ kinh lược sứ cùng Địch Thanh theo vương đi sứ Chiêm. Vương biết Dư là cháu Thái-hậu, đời nào vương mưu phản lại để lộ cho y biết? Vương mới về kinh, thần nghĩ Thái-hậu đường đường chính chính mời vương lâm triều hỏi cho ra lẽ, chẳng hơn ưu tư cho mệt thánh thể.
      - Ta đã tra hỏi nhiều người. Vương kết huynh đệ với Khai-Quốc vương Đại-Việt. Như vậy không phải là mối lo ư?
      - Đại-Việt là phiên thần của Tống. Xưa đức Thái-tổ chẳng từng kết huynh đệ với Trịnh Ân mà được Ân phò tá bản triều đó ư? Thần nghe, sứ đoàn Đại-Việt đang trên đường sang tiến cống. Khai-Quốc vương mưu kết với Định-vương làm phản, có đâu đem đầu đến cho ta chặt.
      - Thôi được, bỏ qua việc đó. Ta muốn nói với Thái-phi một truyện: Thiên-tử không muốn gặp Thái-phi. Thế mà sao Thái-phi cứ tìm cớ tao ngộ với người?
      Thái phi lắc đầu:
      - Thần nghĩ Thiên-tử là giọt máu của Tiên-đế. Thần hồi tưởng ân sủng của Tiên-đế ban cho, nên muốn thấy Thiên-tử mà thôi.
      Nghe hai người đối đáp, Tự-Mai kinh ngạc:
      - Hai bà này nói tới hoàng nhi, tức Tống Thiên- tử. Thiên-Thánh hoàng đế rõ ràng do Lưu hậu sinh ra. Tại sao Thái-phi lại thương nhớ, tìm cách tao ngộ? Giọng điệu Thái-hậu như đe dọa. Còn Lý Thái-phi lại nhũn nhặn. Như thế là thế nào?
      Nó chợt nhớ lại những lời đối đáp giữa Minh-Thiên với Định-vương mà Thiệu-Cực thuật hôm ở Bắc-biên: Rõ ràng Lưu hậu có yếu điểm gì đó liên quan đến Lý Thái-phi cùng Hoàng đế, khiếm bà ta lo sợ, phải chiều chuộng vương. Minh-Thiên còn nói rõ: Lưu hậu định hại Lý Thái-phi. Ông khuyên Định-vương phải nói điều bí mật cho hoàng đế biết. Bí mật đó là gì?
      Thình lình thái hậu lên tiếng:
      - Chị em chúng ta đang đàm đạo quốc sự. Người là ai mà dám leo lên xà nhà nghe trộm?
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 07:50:10 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 20.01.2005 17:44:33 (permalink)
        Hồi thứ một trăm lẻ ba


        Trong ngọc trắng ngà


        Nói rồi bà cầm chung trà tung lên, kình lực phát ra vo vo. Tự-Mai kinh hoảng vội lộn xuống dưới ránh. Chung trà trúng xà nhà đến bốp một tiếng, vỡ tan tành ra thành những miếng nhỏ. Thấp thoáng, Lưu hậu nhảy tới phóng chưởng tấn công nó. Chưởng lực của bà cực kỳ hùng hậu, trong chưởng có mùi hôi tanh khủng khiếp. Tự-Mai vội vận khí ra ba kinh dương tấn công, ba kinh âm thủ. Phương pháp này của bố nó chế ra, dùng để phá Chu-sa ngũ độc chưởng. Vô tình nó đẩy ra chiêu Phong-ba hợp bích. Binh một tiếng. Nó cảm thấy khí huyết nhộn nhạo cực kỳ khó chịu.
        Trong khi Lưu hậu bật lên tiếng ủa:
        - Mi là ai mà giả thái giám đột nhập cấm cung? Thì ra mi thuộc phái Thiếu-lâm. Mi trúng Chu-sa ngũ độc chưởng của ta rồi. Mi mau bỏ khăn che mặt ra, ta muốn xem mặt mi một chút. Mi còn trẻ, mà đỡ được chưởng của ta kể cũng thuộc loại hiếm có.
        Tự-Mai cười nhạt, nó tấn công liền ba chưởng bằng tất cả bình sinh công lực. Lưu hậu thấy chưởng của nó hùng hậu kỳ lạ, bà không dám coi thường, phát chưởng đỡ. Bình, bình, bình. Cả hai lảo đảo lui lại.
        Vốn cực kỳ thông minh, Tự-Mai biết chậm một chút, thị vệ xuất hiện thì tính mạng khó bảo toàn. Nó chĩa ngón tay phóng liền ba Lĩnh-Nam chỉ vào ba ngọn đèn. Ba tiếng lốp bốp vang lên, trong phòng tối om. Nó điểm một chỉ về phía Lưu hậu. Bà đâu biết lợi hại của chỉ? Trong bóng tối, thấy kình lực ập tới, bà vung chưởng đỡ. Chỉ xuyên qua chưởng trúng người bà. Bà ối lên một tiếng. Rồi quát lớn:
        - Quân to gan. Có thích khách!
        Bên ngoài vang lên tiếng thanh la báo động. Tự-Mai kinh hãi, nó lượm mấy cuốn sách ném vào Lưu hậu. Lợi dụng bà mải đỡ, nó vọt qua cửa sổ. Ngơ ngác chưa biết trốn đâu. Trong lúc nguy cấp, nó nhớ lại trong Dụng-binh yếu chỉ của công chúa Thánh-Thiên nói rằng: Tìm chỗ sống ở chỗ chết. Nay nó đụng với Lưu thái hậu, thì chỗ chết là nơi bà cư ngụ. Nó cần trốn ở cung bà mới an toàn. Hôm Triệu Huy cho nó xem bản đồ cấm thành. Ngọc-thanh Chiếu-ứng Cảnh-linh cung là nơi thái hậu ở về phía Tây. Nó hướng phía Tây chạy.
        Trong cấm thành, đèn đuốc sáng lòa. Phía trước mấy thị vệ đang chặn đường. Kinh hoàng, thấy bên cạnh có căn phòng tối mò, nó nhảy qua cửa sổ vào trong. Đây là một phòng ngủ trang trí rất thanh nhã. Nhanh nhẹn nó chui ngay vào gầm dường ẩn thân.
        Bên ngoài người đi lại rầm rập. Có tiếng đàn ông nói:
        - Bọn thần thực có tội, để thích khách phạm giá. Mong Thái-hậu đại xá.
        Tiếng Lưu hậu nói:
        - Khiếu Tam-Bản đấy ư? Người cho thị vệ giải tán ngay. Gian nhân lĩnh của ta ba chưởng. Dù cho gan bằng trời, đêm nay y cũng đau đớn đến chết đi sống lại.
        - Tuân chỉ Thái-hậu.
        Cấm thành trở lại yên tĩnh. Tự-Mai đang định chui ra khỏi gầm dường, có tiếng dép lẹp kẹp, rồi một người khoan thai đi vào. Nó ghé mắt nhìn trộm, thì ra Lý thái phi.
        Thái-phi đến tấm bồ đoàn ngồi xuống, chắp hai tay vào nhau, mắt từ từ nhắm lại. Bà đang luyện công. Trí nhở Tự-Mai trở về: Hôm ở Khúc-giang, Định-vương căn dặn nó phải cẩn thận, vì võ công Lưu thái hậu cao thâm không thua gì bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo. Nguyên trước đây bà theo học phái Hoa-sơn. Từ khi nhập cung bà vẫn tiếp tục luyện tập. Sau bang Nhật-hồ khống chế bà, rồi Trường-giang song ưng, Lê Lục-Vũ, Tôn Đức-Khắc, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam-Bản cũng khống chế bà, rồi bị bà khống chế lại, rút cục chúng phải qui phục. Vì vậy bà luyện thêm Hồng-thiết công cùng Chu-sa ngũ độc chưởng. Còn Lý thái phi xuất thân từ phái Nga-mi. Trước kia võ công bà cao hơn Lưu hậu. Sau bại dưới tay Lưu hậu về độc chưởng. Từ đấy bà phải khuất phục Lưu hậu để có thuốc giải hằng năm.
        Tự-Mai thấy lối luyện công của Thái-phi giống phái Tiêu-sơn. Lúc đầu nó hơi bỡ ngỡ. Nhưng lát sau nó nhớ lại lời bố dạy: Võ công Tiêu-sơn, Thiếu-lâm, Nga-mi đều phát xuất từ kinh Kim-cương, Lăng-già, Bát-nhã, nên giống nhau đến bẩy tám phần.
        Thái-phi luyện công hơn giờ, rồi đóng cửa lại. Bà ngồi lên chiếc ghế, tay mở cuốn sách ra đọc. Thình lình bà ngừng đọc, lên tiếng:
        - Thiếu hiệp nằm dưới gầm dường mãi như vậy e mất phẩm giá đi. Ra đây mau.
        Tự-Mai kinh hãi từ từ chui ra. Lý Thái-phi chỉ cái ghế gần đó:
        - Người ngồi đi! Hừ, người còn trẻ thế, mà võ công đã đến trình độ kinh nhân. Người chịu ba độc chưởng của Thái-hậu mà không việc gì ư?
        - Nhật-hồ độc chưởng không hại nổi vãn bối.
        Lý Thái-phi nhắm mắt lại suy nghĩ rồi nói:
        - Lúc người nhảy ở xà nhà xuống dường như là thức Vô sắc vô tướng của Thiếu-lâm. Còn ba chiêu chưởng của người phảng phất giống Kim-cương chưởng của Thiếu-lâm nhưng sát thủ cực kỳ ghê gớm. Người dùng thứ chỉ pháp gì huyền ảo vô cùng. Ta thực không nhận ra. Người là đệ tử của cao nhân nào?
        - Vãn bối không có sư phụ. Vãn bối học nghệ với phụ thân.
        - Người đột nhập vào cung làm gì? Người thực to gan lớn mật. Ta không như Lưu Thái-hậu đâu. Người cứ nói thực, ta sẽ giúp người thoát khỏi nơi đây, bằng không, dù người có bản lĩnh nghiêng trời lệch đất cũng mất mạng.
        - Vãn bối có người bạn gái bị bắt làm cung nữ. Vãn bối vào tìm nàng. Vì vậy dù biết vào cấm thành nguy hiểm, vãn bối không từ nan. Vãn bối nghĩ dù chết vãn bối cũng phải tìm ra nàng.
        - Người thực chí tình. Cung nữ đó họ gì? Người đã tìm thấy chưa?
        Tự-Mai sợ đưa tên Thuận-Tường ra e nguy cho nàng. Nó nói dối:
        - Tiểu bối không rõ nàng họ gì, chỉ biết tên mà thôi. Tiểu bối biết nàng theo hầu Thái-phi, nên mạo muội đột nhập vào đây. Mong Thái-phi khoan thứ cho tuổi trẻ bồng bột.
        - Bồng bột! Người không bồng bột đâu, người thực xứng đáng nam nhi đại trượng phu đa tình. Ở đời đàn ông đa số đều hiếu sắc, đa dâm, rất ít kẻ đa tình. Ta có lời khen người đó.
        Chợt nhớ lại câu truyện đối đáp giữa Định-vương Nguyên-Nghiễm với Minh-Thiên. Tự-Mai hỏi:
        - Thái-phi! Thái-phi có biết Lưu hậu đang định hại Thái-phi để diệt khẩu không?
        - Dĩ nhiên ta biết. Truyện này người nghe ở đâu?
        - Tiểu bối nghe trộm được cuộc đối thoại của Minh-Thiên đại sư với Định-vương, nên đoán ra.
        - Cuộc đối thoại đó ra sao?
        Trí nhớ Tự-Mai rất tốt. Nó thuật lại nguyên văn cuộc đối thoại mà Bảo-Hòa, Thông-Mai ghe trộm, báo về Khu-mật viện Bắc-biên... Rồi Thiệu-Cực trình bầy cho sứ đoàn.
        Lý Thái-phi vẫy Tự-Mai lại gần, bà nói:
        - Thiếu hiệp. Những gì Minh-Thiên với Định-vương nói, đều đúng cả. Ta chết không sao, nhưng hoàng thượng không thể chết được. Ta muốn nhờ thiếu hiệp giúp ta một việc. Thiếu hiệp giúp ta. Ta nguyện không quên ơn. Sau khi xong, ta hứa thả cung nữ bạn gái của thiếu hiệp ra, để hai người thành vợ chồng. Thiếu hiệp nghĩ sao?
        Hùng tâm nổi dậy, Tự-Mai hiên ngang đáp:
        - Thái phi muốn tiểu bối giúp việc gì?
        Thái phi nói nhỏ:
        - Ở đây tai vách mạch rừng. Thiếu hiệp theo ta.
        Bà đứng dậy, tay cầm ngọn nến rồi đẩy mạnh vào bức tường tước mặt. Bức tường chuyển động, để hở ra một con đường ngầm xuống đất. Bà vẫy Tự-Mai cùng vào, rồi kéo vách tường lại như cũ.
        Hai người xuống hầm. Hầm được trang trí như một căn phòng luyện võ. Thái phi chỉ ghế cho Tự-Mai ngồi, rồi nói:
        - Căn hầm này ta dùng để luyện công. Không ai có quyền vào. Ta bí mật kiến tạo, Lưu hậu không thể biết được.
        Bà móc trong vách hầm ra một cái hộp, trịnh trọng để trước mặt, rồi nói:
        - Tuy chưa biết danh tính thiếu hiệp, nhưng thấy cung cách cùng võ công, ta cũng biết thiếu hiệp thuộc đệ tử danh gia, thân phụ thiếu hiệp có địa vị lớn trong võ lâm. Vì vậy ta nhờ thiếu hiệp đem cuốn sách này về trao cho người, để người tùy nghi giúp ta được gì thì giúp. Ta biết chỉ mình thân phụ thiếu hiệp giúp ta được mà thôi.
        - Sao Thái-phi cho rằng phụ thân vãn bối làm được việc khó khăn này.
        - Trên thế gian không ai có thể chống nổi bọn Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản cùng bang Nhật-hồ. Vừa rồi, thiếu hiệp chống được ba chưởng của Lưu hậu, thì lệnh tôn thừa bản lĩnh trị chúng.
        Trong tâm Tự-Mai vang lên lời dạy của bố : Khi người đem nghĩa tri kỷ đãi ta, mà ta không đáp lại, thực chẳng đáng kẻ sĩ. Vì vậy nó nói:
        - Thái-phi yên tâm. Trường-giang thất quỷ cùng bang Nhật-hồ Trung-quốc bỏ Lưu hậu theo Định-vương rồi.
        - Có chuyện đó ư?
        Tự-Mai đem việc sứ đoàn Đại-Việt thu phục Trường-giang thất quỷ cùng bang Nhật-hồ ra sao thuật lại một lượt. Lý Thái-phi thở phào một tiếng:
        - Tạ ơn Trời, Phật.
        Bà bỗng nắm lấy tay Tự-Mai:
        - Thiếu hiệp. Ta biết thiếu hiệp là ai rồi.
        - ??
        - Thiếu hiệp họ Trần tên Tự-Mai, con trai thứ của Côi-sơn đại hiệp Trần Tự-An.
        Tự-Mai kinh ngạc đến đờ người ra, không nói nên lời.
        Bà ngơ ngẩn một lúc rồi tiếp:
        - Thì ra võ công thiếu hiệp là võ công Đông-a, xuất phát từ võ công Tiêu-sơn, hèn chi có ba phần giống võ công Thiếu-lâm. Cho nên Thái-hậu không nhận ra.
        Tự-Mai kinh hãi:
        - Sao... sao Thái-phi biết?
        - Biết chứ! Thuận-Tường sang Đại-Việt về thì bị tiến cung. Nó kể cho ta nghe hết. Nó nhớ công tử ngày đêm. Được rồi! Trần công tử, Côi-sơn đại hiệp chế ra thứ nội công khắc chế với Nhật-hồ độc chưởng, hèn chi công tử lĩnh ba chưởng cửa Thái-hậu mà không sao. Công tử đưa tập sách này cho Côi-sơn đại hiệp. Ta hứa việc của công tử với Thuận-Tường tốt đẹp.
        - Xin Thái-phi nói rõ hơn về nguyên do nào Lưu hậu định hại người.
        Lý Thái-phi thở dài:
        - Hiện Thiên-Thánh hoàng đế đã mười tám tuổi, nhưng Lưu Thái-hậu vẫn cầm quyền. Ta với quần thần muốn bà lui về hậu cung. Vì vậy bà định hại ta.
        - Thưa Thái-phi, tiểu bối nghe Lưu hậu có tài trị nước. Vả hoàng đế là con bà sinh ra, bà lấn quyền của con, đâu có gì quá đáng!
        - Thiên-tử không phải con bà sinh ra.
        - Thế sinh mẫu của Thiên-tử là ai?
        - Là ta!
        Tự-Mai mở to mắt ra, nhưng nó hiểu ngay:
        - Thì ra thế. Đúng lý con lên ngôi vua, mẹ làm Thái-hậu, buông rèm thính chính. Có đâu lại do Lưu Thái-hậu? Mẹ đẻ vẫn chỉ là thái phi?
        - Thái-phi còn khá. khi Tiên-đế băng, Lưu hậu thí cho ta chức Thuận-dung tức một thứ cung nữ không hơn không kém, rồi bắt rời cung ra coi lăng tẩm, giống như những cung nữ bị đầy vậy.
        Tự-Mai lắc đầu không hiểu. Lý thái phi thuật:
        - Ta vốn người đất Hàng-châu. Thân phụ làm một chức võ quan thị vệ. Trước tiên đế được vua Nhân-tông tuyển con gái của Tuyên-huy Nam-viện sứ họ Quách phong làm vương phi. Tiên đế lên ngôi, Quách phi được phong Chương-mục hoàng hậu. Năm ba mươi hai tuổi hậu băng. Tiên đế lập một cung nữ xuất thân bần hàn, làm Chương-hiến minh-túc hoàng hậu. Tức Lưu thái hậu bây giờ.(1)
        Tự-Mai nhớ lại lời Thiệu-Cực trình bầy. Nó tiếp:
        - Quần thần đều phản đối! Tiên đế hỏi Định-vương Nguyên-Nghiễm. Vương để tay lên ngực, ý muốn nói vua nên tự hỏi lòng mình. Vì vậy Lưu phi được phong làm Hoàng-hậu.
        Thái-phi kinh ngạc:
        - Kiến thức thiếu hiệp thực vô song.
        Tự-Mai kể lại tất cả những gì Thiệu-Cực sưu tầm được: Xuất thân không gốc tích của Lưu hậu. Vua Thái-tông bắt đuổi ra khỏi cung. Sau khi làm Hoàng- hậu, Lưu hậu phụ tá vua ra sao, cùng những biến cố Khấu Chuẩn, Đinh Vị, Tào Lợi-Dụng v.v.
        Lý Thái-phi thở dài:
        - Thiếu hiệp biết tất cả những gì bí ẩn của cung đình Tống. Duy việc hoàng thượng là con của ta, thiếu hiệp không biết mà thôi.
        Bà thở dài:
        - Năm ta mười lăm tuổi được tuyển cung. Bấy giờ tiên đế sủng ái Dương phi. Lưu hoàng hậu thấy ta xinh đẹp, đem về cung hầu hạ. Bà có ý dùng ta chia bớt lòng tiên đế. Quả nhiên ta đại hạnh. Tiên đế thấy ta, sủng ái liền. Ta mang thai. Trong lúc đó Lưu hậu cũng mang thai. Thời gian mang thai... một hôm theo tiên đế chơi hoa viên, cành thoa tiên đế ban cho ta rơi xuống đài. Ta buồn quá phát khóc. Thái giám tìm được dâng lên, thì cành thoa vẫn còn nguyên. Tiên đế phán: Thoa không hư, ắt sinh hoàng nam. Sau mười tháng, một đêm ta đau bụng lâm bồn ra hoàng nam. Ta ôm hài nhi trong lòng. Muốn ghi kỷ niệm cũ, ta đem chàm bôi lên cành thoa, rồi in vào mông hài nhi.(2)
        - Chà! Vết chàm có lớn không?
        - Không. Cành thoa đó có chữ Lý là họ của ta.
        Thái phi ngửa mặt nhìn lên nóc hầm, như tưởng lại truyện cũ:
        - Ta mệt quá ngủ thiếp đi đến hai ngày. Khi thức dậy, thì ôi thôi, cung nữ hầu hạ cho ta biết hài nhi đã chết từ bao giờ. Ta khóc lóc thảm thiết, ôm con đi đi lại lại trong phòng. Bất chợt ta để ý thấy mông hài nhi không hề có vết thoa. Ta khám phá ra hài nhi bị chết vì nghẹt hơi, nên mặt tím bầm. Trong khi đó Lưu hậu cũng sinh một hoàng nam. Hôm sau tiên đế tới an ủi ta. Ta đem sự việc tâu lên. Tiên đế cho rằng sau khi sinh mất máu nhiều, con chết, ta hoảng hốt mà tưởng tượng ra. Ta cũng tin như vậy.
        Tự-Mai thở phào một tiếng:
        - Có thể hoàng tử do Lưu hậu sinh ra chết. Bà đem đổi lấy hoàng tử của thái phi. Cũng có thể Lưu hậu giả mang thai. Đợi khi thái phi lâm bồn, bà cũng giả lâm bồn, sai người bắt con của thái phi làm con mình, lại sai bắt con nít dân giả nào đó, bịt mũi cho chết, đem làm con thái phi.
        Lý thái phi giật mình:
        - Thiếu hiệp biết cả rồi ư?
        - Tiểu bối đoán vậy thôi.
        - Ta thực không minh mẫn bằng thiếu hiệp. Hơn năm sau, ta lại thụ thai. Lưu hậu cũng thụ thai. Hai ta cũng lâm bồn cùng một lúc. Ta sinh con gái. Lưu hậu cũng sinh con gái. Sau khi sinh, thực kỳ lạ, ta uống thuốc bổ máu, lập tức ngủ ly bì hơn ngày. Khi tỉnh lại, được biết con gái của ta chết rồi. Ta xem xét, rõ ràng mặt tím, chứng tỏ bị người ta bóp mũi cho chết.
        Tự-Mai cười:
        - Lưu hậu liên hệ với bọn Nhật-hồ, ắt biết dùng thuốc Di-hồn. Thứ thuốc này uống vào ngủ đến hai ngày liền. Có lẽ cả hai lần, bà cho người đầu độc thái phi, làm thái phi ngủ, bà dễ hành sự.
        Lý thái phi nhảy phắt lên:
        - Thì ra thế. Bây giờ ta hiểu hết cả. Con trai Lưu-hậu sinh ra được phong làm Thái-tử liền. Lưu- hậu sai Dương phi nuôi dưỡng. Còn công chúa bà sai ta nuôi.
        - Có phải công chúa Huệ-Nhu không?
        - Đúng đấy! Này thiếu hiệp, võ công người cao thâm như vậy, sao người không ứng tuyển phò mã. Ta nói cho người biết công chúa Huệ-Nhu có nhan sắc khắp hậu cung không ai bì kịp. Nàng lại văn hay, chữ tốt, võ công cao cường.
        Tự-Mai lắc đầu:
        - Đa tạ tiền bối, dù công chúa Huệ-Nhu có là con gái Ngọc-Hoàng đại đế, là Hằng-Nga giáng thế, vãn bối cũng không thế ứng tuyển, vì tâm vãn bối đã có người bạn gái kia rồi. Dù nàng ở trong ngục A-tỳ, dù nàng ở góc biển chân trời nào vãn bối cũng phải cứu nàng ra.
        - Thực là một thiếu niên đa tình. Thế gian này, người đa tình thường đa tài. Cung nữ bạn của thiếu hiệp diễm phúc không nhỏ. Thiếu hiệp gặp nàng trong trường hợp nào?
        Tự-Mai thấy Lý thái phi dám đem tính mệnh của mình, của hoàng đế ra gửi cho nó. Nó nghĩ thầm:
        - Ta chẳng nên dấu diếm bà.
        Nó thuật tỷ mỉ trận đánh Tản-lĩnh cùng cuộc tao ngộ với Thuận-Tường, không thiếu chi tiết nào cho Lý thái phi nghe. Bà chăm chú theo dõi, thỉnh thoảng hỏi thêm chi tiết. Sau khi nghe xong, bà vuốt tóc nó:
        - Khi Thuận-Tường tiến cung, nàng có thuật cho ta nghe về mối nhu tình với thiếu hiệp. Ta hỏi thực, có phải Thuận-Tường cho người dẫn thiếu hiệp vào đây tương hội không? Con nhỏ này thực to gan lớn mật. Còn thiếu hiệp thì ngang quá ghẹ, lại liều lĩnh đa tình.
        Bà nghĩ ngợi một lúc rồi nói:
        - Cái tin Khai-Quốc vương với Định-vương kết huynh đệ có đúng không?
        Tự-Mai trả lời bằng cái gật đầu:
        - Lưu hậu muốn giảm thế lực của Định-vương, mới bầy ra vụ sai vương đi sứ Nam-thùy, gây hấn với võ lâm tộc Việt. Như vậy Lưu hậu chỉ việc ngồi ôm gối xem hai hùm chọi nhau. Lúc đầu Định-vương bị mắc mưu. Sau vương nhận ra một sự thực: Tống nên có một người anh em trung thành ở phương Nam hơn là một đại thù. Người kết huynh đệ với Khai-Quốc vương.
        Lý thái phi chắp tay hướng lên trời:
        - Tạ ơn Quốc-tổ Phục-Hy, Thần-Nông. Tạ ơn thái cô Nữ-Oa dun dủi cho hai anh tài kết huynh đệ.
        Tự-Mai lại lược thuật một lần nữa việc sứ đoàn chinh phục Trường-giang thất quỷ cùng bang Nhật-hồ. Biến bang Nhật-hồ thành bang Hoàng-Đế. Lý thái phi tươi nét mặt:
        - Ta có nghe tin này. Bây giờ chính miệng thiếu hiệp kể lại ta mới tin hẳn. Từ khi bản triều lập lên, mối ưu tư lớn của vua Thái-Tổ, Thái-Tông, Tiên-đế là bang Nhật-hồ cùng dư đảng của bang này. Nay dư đảng lớn nhất là Trường-giang thất quỷ qui phục Khai-Quốc vương. Bọn Nhật-hồ biến thành bang Hoàng-Đế, đến nằm mơ ta cũng không ngờ tới.
        Chợt bà mở to mắt, hàn quang chiếu ra làm Tự-Mai lạnh cả người:
        - Thiếu hiệp! Phải chăng thiếu hiệp nhận chỉ dụ của Định-vương về kinh, thi hành một sứ mạng gì?
        - Thái phi đã hỏi, vãn bối đâu dám dấu. Vãn bối đến đây với hai sứ mạng. Một là đón Ngô Quảng-Thiên về Đại-Việt. Hai là tìm cho ra gốc tích bốn người thuộc Hồng-thiết giáo Đại-Việt tên Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam-Bản.
        Lý thái phi cười lớn, vỗ vai Tự-Mai:
        - Thiếu hiệp là em Khai-Quốc vương, cũng như em Định-vương, mà không hiểu rõ hai ông anh mình.
        - Tiểu bối ngu muội chưa nắm vững vấn đề.
        - Phàm khi ban lệnh cho người dưới, tùy theo khả năng mà giao. Thiếu hiệp với bốn người anh em kết nghĩa, võ công, mưu trí tuyệt vời. Nên hai ông anh giao việc, mà không đi vào chi tiết. Hai vị tính toán dùng năm người em vào việc khác hơn là hai việc kia. Binh pháp nói: Hư là thực, thực là hư như thế đó.
        Tự-Mai chợt à lên một tiếng:
        - Phải rồi! Muốn phóng thích Ngô Quảng-Thiên cùng ba con trai, thì Định-vương chỉ cần sai một tên thư lại truyền lệnh cũng đủ. Cha con họ Ngô tự trở về Đại-Việt, đâu cần bọn vãn bối hộ tống? Đúng rồi, riêng một mình Ngô Cẩm-Thi võ công cũng cao ngang bọn vãn bối, thêm Ngô lão sư với ba con trai, e khó ai đến gần, bọn vãn bối thực ngu quá.
        - Đúng thế. Hai ông anh thiếu hiệp thuộc loại trí-tuệ bậc nhất thế gian, lại nắm Khu-mật viện trong tay, lý gì không biết hành trạng bốn tên Đào, Chu, Sử, Khiếu mà phải nhờ năm thiếu hiệp?
        Tự-Mai đờ người ra một lúc, rồi nó đỏ mặt lên:
        - Mình thực đáng chết. Anh cả với Định-vương đã biết việc mình với Thuận-Tường, đương nhiên biết Thuận-Tường bị tiến cung, đang phục thị Lý thái phi. Người ước tính mình về kinh ắt tìm Thuận-Tường. Rồi Thuận-Tường cho người dẫn mình vào đây tương hội với Lý phi. Hèn gì Triệu Huy đem bản đồ hoàng thành, cấm thành giảng giải chi tiết cho mình. Thì ra hai ông anh đã tính trước.
        Nó bật dậy:
        - Hai vị biết Thái-phi bị bao vây không thể liên lạc được. Vì vậy mới xếp đặt cho vãn bối về kinh để gặp Thái-phi. Trời ơi! Thực xấu hổ. Hai ông anh coi vãn bối như con kiến bò trên tay vậy. Thái-phi thực xứng đáng tri kỷ của Định-vương. Thoáng một cái hiểu ý vương liền.
        - Bây giờ thiếu hiệp cứ đóng vai thái giám Mai-Tự trong cung Ôn-đức, tự do ra vào, không ai nghi ngờ gì. Tuy nhiên phải tối cẩn thận, vì tai mắt Lưu hậu rất nhiều.
        Sau đó Lý thái phi dặn dò Tự-Mai từng đường đi nước bước trong cung. Những ai đáng tin cậy, những ai cần đề phòng. Bà kết luận:
        - Thiếu hiệp đã bị lộ hình tích, khiến Lưu hậu nghi ngờ Định-vương sai người đến liên lạc với ta. Đêm nay thiếu hiệp hãy ra ngoài cùng các bạn phải làm bằng này việc: Trước hết thanh toán mười trưởng lão bang Nhật-hồ, làm Chu Bội-Sơn, Đào Tường-Phúc mất hết vây cánh. Sau tìm cách chia rẽ hai người này với Lưu hậu.
        - Mười trưởng lão bang Nhật-hồ giả làm thị vệ, diễn vở kịch để cho Trường-giang thất quỷ bắt đi, vãn bối đã biết mặt chúng. Võ công chúng cao thâm khôn lường. Còn hai tên Đào, Chu hiện ở đâu?
        - Chúng mới lên đường cùng mười trưởng lão bang Nhật-hồ đi Khúc-giang để đào kho tàng. Bị thất bại trong vụ Trường-giang thất quỷ, chắc chúng sẽ tìm đủ cách bắt sứ đoàn hầu đào kho tàng. Khi năm thiếu hiệp lên đường chúng chưa xuất hiện phải không? Còn hai gã Sử-Vạn, Khiếu hiện ở xung quanh Lưu hậu.
        Tự-Mai chợt nhớ lại cuộc tao ngộ với Thông-Mai ở tửu lầu. Nó nghĩ ra ngay:
        - Thôi rồi, anh cả với Định vương sợ Lưu hậu hại Lý thái phi với hoàng đế. Hai người sợ màng lưới Lưu hậu, khó liên lạc với thái phi. Vì vậy Định vương muốn ta về kinh giữa lúc người vắng nhà, Lưu hậu không đề phòng. Người đoán rằng ta sẽ đột nhập cấm cung thăm Thuận-Tường. Người nhờ ta thông báo việc Lưu hậu định hại nhà vua cho thái phi. Rồi anh Thông-Mai dặn ta dạy bà cách phản Ngũ-độc chưởng. Khi có bản lĩnh này trong tay, chính thái phi trị Lưu hậu dễ dàng.
        Nghĩ vậy nó nói:
        - Thái-phi! Thái-phi đã hứa giúp cháu vụ Thuận-Tường. Cháu muốn tạ Thái-phi một lễ.
        - Thiếu hiệp cho ta gì nào?
        - Vãn bối bạo gan, muốn truyền bản lĩnh phản Chu-sa ngũ độc cho Thái-phi. Khi Thái-phi có bản lĩnh này trong tay, chẳng còn úy kị Lưu hậu nữa.
        - Ta sợ nội công Nga-mi với Đông-a khác nhau, e khó luyện thành.
        - Thái phi cứ thử xem, biết đâu?
        Rồi không đợi bà có đồng ý hay không, nó giảng về yếu quyết kinh Thủ-lăng nghiêm, cùng tương quan giữa Thủy, Hỏa Mộc, Thổ Hỏa, Kim Thổ, Thủy, yếu quyết nội công Đông-a. Thái phi ngồi vận công thử. Bà thấy không khó khăn gì.
        Tự-Mai lại giảng về cách vận hành chân khí chu lưu kinh mạch, cách phát lực cùng dùng Tam-âm kinh phòng ngự. Tam-dương kinh tấn công. Lý-phi luyện một lúc cũng thông ngay.
        Cuối cùng Tự-Mai cùng bà chiết chiêu để bà vận khí cho quen. Cứ như vậy đến gần sáng thì bà phát chiêu đã khá thành thạo. Bà chắp tay hướng Tự-Mai:
        - Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Thiếu hiệp dạy ta phương pháp này là muốn cứu ta, muốn cứu hoàng thượng. Ta... muôn vàn cảm tạ.
        Rồi không giữ được cảm động bà ôm lấy Tự-Mai. Tự-Mai mồ côi mẹ từ nhỏ, cạnh nó có Thanh-Mai. Nhưng gần đây Thanh-Mai lấy chồng, chị em không gần nhau thường, cho nên nó thấy thiếu thốn một cái gì. Bây giờ Thái-phi ôm lấy nó, nó cũng ôm lấy bà như hai mẹ con. Lát sau Thái-phi xoa đầu nó:
        - Sau này ta muốn gặp thiếu hiệp thì tìm ở đâu? Không lẽ cuộc tao ngộ này rồi vĩnh biệt ư?
        - Vãn sinh không bao giờ quên Thái-phi đâu. Dù có quên Thái-phi, vãn sinh cũng không thể quên Thuận-Tường. Nhớ Thuận-Tường, đương nhiên vãn bối phải tìm Thái-phi.
        Thái-phi vuốt tóc nó:
        - Hay thế này. Ta... ta muốn nhận thiếu hiệp làm cháu, nên chăng?
        Tự-Mai xụp xuống đất lạy bốn lậy:
        - Cô cô.
        - Điệt nhi.
        Hai người lại ôm lấy nhau. Lý Thái-phi nói:
        - Ta được một điệt nhi như cháu, thực không gì vui bằng.
        Hai người nói chuyện một lúc rồi thái phi trao chiếc hộp cho Tự-Mai, bà nói nhỏ:
        - Điệt nhi phải rời đây ngay đêm nay. Ta vờ sang cung Lưu hậu thăm bà. Điệt nhi theo ta, khi tới chân cấm thành, thì vượt tường ra ngoài.
        Bà mở cửa hầm, cùng Tự-Mai ra ngoài. Bà đi trước. Tự-Mai chắp tay giả theo sau hướng phía Tây. Vừa đi được một quãng, thì hai tên thị vệ đứng chắn đường:
        - Tâu Thái-phi! Đêm khuya, trong cấm thành mới có thích khách. Xin Thái-phi trở về cho.
        Tự-Mai biết hai thị vệ này có nhiệm vụ canh Thái-phi. Thái-phi đáp:
        - Ta thăm Thái-hậu.
        Nói rồi bà thản nhiên bước đi.
        Hai tên thị vệ bàn với nhau mấy câu, rồi một tên theo sau Lý Thái-phi với Tự-Mai. Khi tới chân cấm thành, Lý Thái-phi bảo Tự-Mai:
        - Mai-Tự, đã có thị vệ theo hầu ta. Người lui thôi.
        Tự-Mai khom lưng, quay trở về. Tên thị vệ theo Lý Thái-phi đi. Nhìn trước, nhìn sau không có ai, Tự-Mai tung người lên tường cấm thành, rồi nhẹ nhàng đáp xuống. Nó hướng cửa Đông hoàng thành mà đi. Ngửa mặt nhìn lên trời, thấy cặp chim ưng đang bay theo, nó yên tâm.
        Vừa tới cửa Đan-phượng, tiếng chim ưng ré trên không. Tự-Mai giật mình, vì nó biết chim ưng báo cho biết có người theo dõi. Nó thản nhiên như không biết, tìm chỗ thấp, tung mình leo lên mặt hoàng thành ra ngoài.
        Nó vờ bước đi, nhưng lắng tai nghe, thấy có tiếng chân người, biết mình vẫn bị theo dõi. Thình lình nó quay lại, thấy thấp thoáng có bóng người núp vào bụi cây phía sau. Nó tung mình tới xử dụng ưng trảo chụp người kia. Người ấy lạng mình tránh khỏi. Nó chĩa nhón tay điểm vào huyệt Á-môn. Người kia ngã lăn xuống đất.
        Tự-Mai nhắc người đó lên, nó kinh ngạc vì thấy người đó nhẹ quá. Dưới ánh sáng lờ mờ, nó nhận ra đó là một thiếu nữ. Nếu như Thiệu-Thái, Lê Văn, chắc chắn sẽ tỵ hiềm nam nữ, không dám đụng vào người nàng. Tự-Mai là con Côi-sơn đại hiệp, người ngang tàng không hai trên đời. Ông thường công kích những lề thói hủ lậu của luân lý Khổng, Lão, Phật. Cho nên nó nhiễm lối giáo dục của bố. Không nề hà nó cặp thiếu nữ vào nách, rồi hướng phủ Định-vương, dùng khinh công chạy tới.
        Nó vừa tới nơi, đã thấy cổng mở sẵn. Lê Văn đang chờ nó:
        - Em thấy chim ưng bay hướng này, biết anh về, nên mở cổng chờ.
        Thấy Tự-Mai cặp nách một cô gái, nó hỏi:
        - Ai thế này?
        - Không rõ. Y thị theo dõi ta. Ta điểm huyệt đem về đây.
        Viên thị vệ gác cổng thấy Tự-Mai ngang nhiên bắt một thiếu nữ, y trố mắt nhìn. Tự-Mai nói:
        - Thị là gian tế. Ta bắt về trao cho vương gia.
        Hai thiếu niên đem thiếu nữ vào sảnh đường. Tự-Mai nói với nàng:
        - Ta điểm huyệt làm cho mi không nói được, chân tay mi tê liệt. Bây giờ ta giải khai huyệt đạo cho mi. Bằng mi la lên một tiếng, ta lại làm cho mi câm. Nếu mi tuân lệnh thì chợp mắt ba cái liền.
        Thiếu nữ chợp mắt ba cái. Tự-Mai giải khai huyệt đạo. Nàng nhảy phắt dậy. Bấy giờ Tự-Mai mới nhận ra thiếu nữ tuổi khoảng mười lăm, mười sáu, đôi mắt to đen, mũi cao, không giống người Hán, người Việt. Đầu nàng cài một bông lan bằng vàng, trên dát bẩy viên kim cương lóng lánh. Cổ đeo chuỗi ngọc trai đến năm vòng sáng rực. Hai cổ tay, mỗi bên ba cái vòng, một bằng ngọc xanh, một bằng vàng, một bằng bạc. Nàng mặc áo lụa mầu xanh, xiêm trắng, khăn quàng cổ mầu tín. Tự-Mai, Lê-Văn cùng khen thầm:
        - Nàng này đẹp không thua gì Huệ-Phương với Mỹ-Linh. Không chừng là vương phi, công chúa cũng nên.
        Lê Văn hỏi:
        - Cô nương tên gì? Thuộc phủ nào? Ty nào trong cấm thành?
        Thiếu nữ quát:
        - Quân này to gan thực! Bọn mi là ai mà dám ám toán hại ta. Ban nãy ta không đề phòng, bị mi tấn công. Bây giờ thì đừng hòng.
        Giọng thiếu nữ lơ lớ cực kỳ khó nghe.
        Nói rồi nàng xuất quyền đánh Tự-Mai đến vù một tiếng. Tự-Mai không né tránh, nó dùng hai ngón tay kẹp lấy cổ tay nàng. Thiếu nữ vùng vẫy gỡ ra, nhưng tay nàng như bị kìm xiết chặt. Tức quá nàng co chân đá Tự-Mai. Nó nhận ngay ra chiêu cước thuộc võ công Sài-sơn. Thấy kình lực của nàng yếu quá, nó vận công chịu đòn. Bốp một tiếng, thiếu nữ mắng:
        - Đồ quỷ sứ.
        Nước mắt thiếu nữ rơm rớm chảy xuống đôi mi cong thực đẹp.
        Tự-Mai thấy nét mặt nàng hiện ra vẻ đau đớn, nó vội buông ra. Thiếu nữ ôm tay nhăn nhó, lườm lườm nhìn Tự-Mai:
        - Sẽ có một ngày kia ta ăn thịt mi.
        Tự-Mai hối hận:
        - Tại hạ hơi mạnh tay, mong cô nương đừng chấp.
        Lê Văn thấy tay nàng biến sang mầu tím, nó về phòng lấy ra hộp cao, trịnh trọng:
        - Cô nương, để tại hạ thoa thuốc cho cô nương, bằng không tay tím bầm xấu lắm.
        Thiếu nữ đưa tay cho Lê Văn thoa thuốc. Bàn tay nàng thon dài, da mịn màng, tươi hồng. Lê Văn thoa đến đâu vết bầm đen biến đi đến đó. Nàng nói với nó:
        - Cảm ơn. Thôi ta đi đây.
        Nói rồi rảo bước ra cửa. Tự-Mai chặn lại:
        - Khoan! Cô nương không thể ra khỏi đây.
        Thiếu nữ cũng không vừa:
        - Mi định làm gì ta?
        - Cô nương phải khai cho rõ. Hà cớ gì cô nương theo ta!
        Thiếu nữ phát cáu:
        - Có ai vô lý như mi không? Mi có việc của mi. Ta có việc của ta. Hà cớ mi quay lại ám toán ta, rồi bảo ta theo mi.
        Thiếu nữ quay lại nói với Lê Văn:
        - Này anh. Ta thâm cảm ơn anh đã chữa tay cho. Trong người ta còn nhiều vết đau đớn. Nếu anh chữa cho ta khỏi, bao nhiêu tiền ta cũng trả.
        Nói rồi nàng vén tay áo. Tự-Mai, Tôn Đản cùng ồ lên kinh ngạc. Khắp cổ tay mịn đẹp, đầy những vết roi nổi tím bầm. Lê Văn nắm lấy tay nàng xem xét, nó hỏi Tự-Mai:
        - Anh đánh nàng đấy à?
        Thiếu nữ lắc đầu:
        - Không phải y.
        Rồi nàng dụt tay lại, đưa mắt nhìn Tự-Mai:
        - Ta không cho y nhìn thấy tay ta.
        Lê Văn nói với Tự-Mai bằng tiếng Việt:
        - Em đồ chừng trong người nàng còn nhiều vết thương. Em là thầy thuốc chắc nàng không ngượng ngùng. Còn anh, sợ nàng e thẹn. Vậy anh tránh sang bên cạnh, em xem bệnh cho nàng.
        Tự-Mai sang phòng bên cạnh. Lê Văn xem xét thấy khắp chân tay cùng thân thiếu nữ đầy vết roi. Nó điểm vào mấy yếu huyệt trấn thống, rồi dịu dàng nói với nàng như mẹ nói với con:
        - Tội nghiệp quá! Cô nương đừng quản ngại. Cô nương cho tại hạ xem xét vết thương trong người, mới hy vọng chữa trị được.
        Thiếu nữ e thẹn, nhưng cũng phải cởi áo ra. Lê Văn rùng mình vì khắp người nàng đầy thương tích. Nó than:
        - Trời ôi! Kẻ nào đánh cô nương tàn nhẫn thế này.
        Lần đầu tiên trên đời phải để lộ thân thể trước một chàng trai. Ngượng quá, thiếu nữ lấy áo che thân, mắt nhìn lên trần nhà:
        - Thôi đại ca. Ngượng chết đi được.
        Miệng tuy nói vậy, nhưng nàng vẫn để cho Lê-Văn xem vết thương. Sau khi xem xét, Lê Văn nói:
        - Cô nương chỉ bị ngoại thương mà thôi, không hề gì. Chữa trị ba ngày thì khỏi.
        Nó lấy cao thoa trên người nàng. Đầu tiên nó thoa trên hai cánh tay. Cô gái ngượng quá, vội quay mặt đi.
        Thời bấy giờ luân lý tộc Việt, tộc Hán rất quý trọng phụ nữ. Vì vậy con gái phải che kín khắp người. Ngay cha, anh cũng không được nhìn thấy cánh tay đầu gối. Vì bắt buộc phải để cho Lê Văn trị bệnh cho, nên cô đành hở thân thể ra đã là quá đáng. Đây Lê Văn còn chà cao lên da, lên thịt, hỏi sao nàng không ngượng?
        Lúc đầu tay Lê Văn chạm vào vết thương, nàng còn thấy đau, sau đó nó chà mấy cái, cảm giác đau đớn biến đi, thay vào bằng cảm giác khoan khoái rừng rực chạy khắp người. Chịu không được, nàng bật lên tiếng kêu:
        - Thôi đi anh. Em... chịu không nổi rồi.
        Cô gái nói thực, nhưng Lê Văn cho rằng nàng đau, chứ không phải cảm giác kỳ lạ. Lời Hồng-Sơn đại phu dạy vang lên bên tai nó:
        - Khi bệnh nhân đau đớn, thầy thuốc phải tự coi mình như một người mẹ hiền, an ủi, thương xót họ.
        Nó sẽ vuốt lên mái tóc nàng:
        - Cô nương ngoan, chịu khó một tý thôi, để tôi trị cho mau khỏi, lỡ để lâu, vết thương đóng mủ, thành thẹo thì xấu lắm. Ừ, cô nương ngồi yên như vậy đi.
        Thấy lời dỗ có kết quả, Lê Văn tiếp tục thoa đến phần lưng nàng. Cô
        gái run lên bần bật, trong khi Lê Văn lại tưởng nàng đau đớn, nó càng dỗ bằng những lời thực ngọt:
        - Cô nương ngoan lắm. Ngồi yên nghe. Đấy, cô nương thấy không, tôi thoa thuốc đến đâu, hết đau đến đó.
        Lời Lê Văn càng ngọt ngào, cô gái càng rung động mãnh liệt. Thoa hết phía sau, Lê Văn thoa đến phía trước. Khi phải thoa đến vết thương trên nhũ hoa, nó ngừng lại lưỡng lự một lúc không biết có nên tiếp tục hay không. Lời Hồng-Sơn đại phu vang lên trong đầu nó:
        " Khi phải trị bệnh, không nên tỵ hiềm tuổi tác, nam nữ, giống nòi cũng như giầu nghèo, sang hèn. Chỉ cần có kết quả là y đạo đã đạt".
        Nó nhắm mắt lại rồi thoa thuốc cho thiếu nữ. Thiếu nữ rên:
        - Đừng anh! Đừng! Ta xấu hổ chết đi được. Ái!
        Mặc nàng kêu, Lê Văn tiếp tục thoa. Qua một vài lần, nó can đảm hơn, mở mắt ra nhìn. Nó thấy thiếu nữ lim rim mắt, người như say rượu.
        Sau khi thoa thuốc, Lê Văn giải khai huyệt đạo cho nàng. Thiếu nữ nói nho nhỏ:
        - Đa tạ đại ca.
        Lê Văn lấy bút viết thang thuốc:

        Qui-bản, Lộc-nhung, Hổ-cốt, Hà-thủ-ô,
        Xuyên ngưu-tất, Đỗ-trọng, Tỏa-dương,
        Đương-qui, Thục-địa, Uy-linh-tiên,
        mỗi thứ hai lượng.
        Hoàng-bách, Nhân-sâm, Khương-hoạt,
        Bạch-thược, Bạch-truật, Đại-xuyên phụ-tử.
        Mỗi thứ lượng rưỡi.
        Tất cả tán nhỏ, chế mật ong, làm thành viên, uống mỗi ngày ba tiền.(3)


        Ghi chú

        (1) Tống-sử quyển 242, trang 8605-8628, Hậu-phi thượng.
        (2)Tống-sử quyển 242 trang 8616-8617. Chúng tôi xin trích dẫn nguyên văn thảm sử chép như sau:
        ”Lý thần phi người đất Hàng-châu, tổ tên Diên-Tự, làm quan với họ Tiền (Nước Ngô-Việt) tới chức chủ-bạ huyện Kim-hoa. Phụ thân tên Nhân-Đức, lĩnh chức Tả-ban điện trấn. Lúc mới nhập cung hầu hạ Chương-hiến thái-hậu (Lưu thái hậu). Tính phi trang trọng, ít nói. Chân-tông thấy, đem về tẩm cung cùng chăn gối. Sau đó mang thai. Trong lúc mang thai, cùng vua dạo chơi trên đài cao, chiếc ngọc thoa bị rơi xuống đất. Phi buồn quá khóc lóc. Vua vui vẻ phán: Ngọc-trâm rơi xuống nếu không bị hư, sau sinh con trai. Quân hầu tìm lại được ngọc trâm, không bị hư hỏng dâng lên. Nhà vua đẹp lòng. Sau quả sinh ra vua Nhân-Tông, phi được phong Sùng-dương huyền quân, lại sinh một công chúa... Tiến phong Tài-nhân, rồi Uyển-nghi.
        Khi vua Nhân-tông lên ngôi, phong làm Thuận-dung, sai coi Vĩnh-định lăng. Chương-hiến hoàng hậu sai Lưu Mỹ, Trương Hoài-Đức tìm thân thuộc của phi, được em phi là Lý Dụng-Hòa, bổ vào chức Tam-ban phụng.
        Khi Nhân-tông sơ sinh, Chương-hiến hoàng hậu bắt làm con mình, sai Dương Thục-phi nuôi nấng. Khi Nhân-tông lên ngôi, phi mặc nhiên chịu ở lăng thờ phụng tiên đế, không thốt ra một lời về thân thế vua. Mọi người đều sợ Thái hậu, không ai dám nói sự thực với vua...
        Niên hiệu Minh-Đạo nguyên niên, lâm bệnh, hoăng, hưởng dương bốn mươi sáu tuổi...”
        Sau này các văn gia Trung-quốc đã bịa đặt thêm nhiều chi tiết nào là vương phi Nam-thanh cung Lộ-hoa-vương, nào là thái giám Quác-Hoè lấy mèo chết thay Thái-tử. Nào là Lý phi ra ở lò gạch. Nào là Bao-công tra ra án. v.v Chúng tôi thuật theo đúng chính chính sử đời Tống.
        (3)Thang thuốc này ngày nay vẫn còn dùng để trị trật đả.


        Nó nói:
        - Cô nương ra hiệu thuốc cắt lấy thang thuốc này, mỗi ngày buổi sáng uống một viên với rượu. Uống hết, thì sức khỏe mới phục hồi. Thôi cô nương có thể ra về.
        Thiếu nữ đầm đìa nước mắt:
        - Tiểu muội không nhà thì biết về đâu.
        - Cô nương không ở trong hoàng thành ư?
        Thiếu nữ lắc đầu:
        - Hoàng thành là cái gì?
        - Chỗ cô nương bị anh Tự-Mai của tôi bắt đó.
        - Chỗ ấy là hoàng thành à? Hoàng thành Đại-Việt hay Lão-qua?
        - Hoàng thành Đại-Tống.
        Mặt thiếu nữ hiện lên vẻ kinh hãi:
        - Trời ơi! Thì ra tiểu muội bị bắt đem đến kinh đô Tống ư?
        - Cô nương không biết mình ở đâu à?
        - Không. Tiểu muội cùng huynh trưởng, chị dâu trên đường đi sứ sang Tống. Khi tới Liễu-châu thì tiểu muội bị gian tặc bắt đem đi. Chúng giam cầm, tra hỏi tiểu muội hơn nửa tháng nay. Hồi chiều, tiểu muội vờ ngất đi, chúng cho tiểu muội uống thuốc, rồi để nằm trên dường. Tiểu muội nhân đó vượt tường trốn đi, thì bị cái anh kia bắt mang về đây.
        - Cô nương trong sứ đoàn sang Tống. Vậy cô nương là ai?
        - Tiểu muội tên An-Nan Tam-gia La-sun Nong-Nụt, công chúa Xiêm-quốc.
        Lê Văn bật lên tiếng ái chà:
        - Hèn gì công chúa nói tiếng Hoa nhẹ như chim hót vậy đó. Ai bắt cóc công chúa? Chúng tra khảo điều gì? Chắc chắn chúng không phải trộm cướp, vì nếu là trộm cướp chúng đã tước đoạt châu báu trên người công chúa rồi.
        - Chúng tra hỏi bắt tiểu muội dịch một pho sách cổ. Chúng nói văn tự Khoa-đẩu cổ với văn tự Thái là một. Tiểu muội nói rằng văn tự Thái vốn gốc từ văn tử Khoa-đẩu, do quốc mẫu Phùng Vĩnh-Hoa truyền bá. Nhưng trải hơn nghìn năm, đã đổi khác nhiều. Vì vậy tiểu muội chỉ biết được một trong mười chữ. Chúng không tin, tra hỏi tiểu muội hoài. Người tra hỏi tiểu mội là một mụ đàn bà xinh đẹp. Hồi đầu chúng không đánh, chỉ cật vấn thôi. Sau tiểu muội tức quá bưng bát canh nóng ném vào người mụ. Mụ ra lệnh đánh tiểu muội một trăm roi. Tiểu muội vờ trợn mắt giả chết. Chúng sợ quá cậy miệng ra đổ thuốc cho tiểu muội, rồi đặt lên dường. Đợi chúng không phòng bị, tiểu muội trốn đi. Trong khi trốn, gặp cái anh chàng kia điểm huyệt đem ra đây.
        Lê Văn an ủi:
        - Công chúa đừng giận anh ấy. Anh ấy là người rất tốt, cũng chạy trốn như công chúa. Vì thấy công chúa theo sau. Anh ấy tưởng công chúa là thị vệ đuổi theo, nên ra tay hơi nặng.
        Lê Văn gọi một thị vệ phủ Định-vương:
        - Phiền anh ra chợ cắt cho thang thuốc này đem về gấp.
        Nó móc túi đưa cho y một nén bạc.
        Lúc đầu Lê Văn thấy Nong-Nụt xử dụng võ công Sài-sơn, nó hơi ngạc nhiên. Bây giờ biết nàng là công chúa Xiêm, nó hiểu ngay: Võ công Xiêm-la, Lão-qua do công chúa Phùng Vĩnh-Hoa cùng chư đệ tử của người truyền lại.
        Chợt nhớ lại một truyện: Vương phi Khai-Thiên vương cũng bị nhóm Lưu hậu bắt sang Tống, Tự-Mai đem bản đồ hỏi Nong-Nụt:
        - Công chúa bị giam ở chỗ nào trong hoàng thành? Liệu công chúa còn nhớ không?
        - Nhớ chứ. Đây chỗ tôi bị giam đây. Trong đó còn một bà bị giam nữa. Bà ta cũng bị bắt dịch sách như tôi vậy.
        Một ánh sáng loé lên trong đầu Tự-Mai:
        - Không lẽ là bà? Được ta hãy ghi nhớ, chờ có dịp, ta thám thính xem sao.
        Đến đó có tiếng ngựa lộp cộp, rồi nhiều người vào sân. Lê Văn nhìn ra: bọn Triệu Huy, Tôn Đản đã về đầy đủ, chỉ thiếu có Ngô Cẩm-Thi.
        Tự-Mai hỏi:
        - Ngô tiểu thư đâu rồi?
        Triệu Huy đáp:
        - Ngô tiểu thư trùng phùng với phụ mẫu cùng ba vị huynh trưởng, nên nàng ở lại để hàn huyên.
        Lê Thuận-Tông hỏi Tôn Đản:
        - Anh năm này. Theo lệnh anh cả, khi chúng ta gặp Ngô bá bá rồi phải lên đường ngay. Vậy mai chúng ta khởi hành chứ?
        Tôn Đản đưa mắt cho Tự-Mai:
        - Ông quân sư định sao?
        - Dĩ nhiên là thế. Ở đây phức tạp lắm, lên đường ngay để tránh phiền tạp.
        Triệu Huy thấy Nong-Nụt. Y đưa mắt hỏi Lê Văn. Lê Văn đáp:
        - Cô nương đây nhũ danh Nong-Nụt, thuộc khê động Thái ở Bắc-biên, được Khai-Quốc vương phái mang thư đến cho chúng tôi. Phiền An-phủ sứ tìm cho nàng một phòng thực yên tĩnh.
        Triệu Huy đi rồi, Tự-Mai thuật mọi việc cho bốn anh em nghe. Tôn Đản bàn:
        - Nhất định công chúa Nong-Nụt bị Lưu hậu sai người bắt cóc rồi. Hôm nay Triệu Huy đem lệnh Định-vương đến Khu-mật viện truyền tha Ngô Quảng-Thiên, chắc chắn Lưu thái hậu biết. Sự hiện diện của chúng ta tại đây khó qua mắt bà. Vậy mai chúng ta giả ngoan ngoãn lên đường. Hôm trước Ngô Quảng-Thiên là hư chúng ta là thực. Bây giờ chúng ta là hư, còn Bảo-Hòa, Thông-Mai mới là thực.
        Tự-Mai còn muốn trở lại gặp Thuận-Tường. Nhưng nghĩ tới quốc sự, nó đành theo lời Tôn Đản.
        Sáng hôm sau Tôn Đản nói với Triệu Huy:
        - Triệu An-phủ sứ ở lại nghe. Anh em chúng tôi xin lên đường.
        Triệu Huy sai cấp cho gia đình Ngô Quảng-Thiên ba con ngựa để ba con trai cỡi. Còn một chiếc xe bốn ngựa cho vợ chồng Ngô Quảng-Thiên với Cẩm-Thi. Năm ông thiên lôi đứng trước bậc tiền bối như Ngô Quảng-Thiên, chúng không dám đùa nghịch, đứa nào cũng làm mặt nghiêm. Tôn Đản sai Tự-Mai, Thuận-Tông, Thiện-Lãm cỡi ngựa đi trước. Nó đi bên cạnh xe ngựa Ngô Quảng-Thiên. Tiếp theo tới ba anh em họ Ngô. Cuối cùng là Lê Văn, Nong-Nụt.
        Mấy hôm sau đoàn người ngựa tới Kinh-châu. Tự-Mai đưa mọi người tới bến sông tìm đò chở mướn sang. Suốt một giải Giang-Bắc, thuyền đậu san sát hàng nghìn chiếc, lớn có, nhỏ có. Khác với các bến đò khác, khách đến thẳng đò điều đình. Bến đò Giang-Bắc không thế. Tất cả đò của năm chủ. Một chủ chuyên chở xuôi giòng về Đông. Một chủ chở ngược giòng về Tây. Một chủ chở lên Bắc, một chủ chở xuống Nam. Còn một chủ chở ra biển.
        Tự-Mai tới hãng chở xuống Nam. Một trung niên thiếu phụ tiếp nó. Mụ hỏi:
        - Khách quan có bao nhiêu người ngựa?
        - Chúng tôi có mười hai người, một xe tứ mã, và chín ngựa.
        - Quan khách muốn qua sông hay đến tận Nam hồ Động-đình?
        - Tôi muốn tới Nam hồ.
        - Xin cho một lượng vàng.
        Tự-Mai định chê đắt, thì có tiếng tiêu dìu dặt vọng lại. Một tiểu đồng cỡi lừa thủng thẳng đi tới. Tự-Mai nhận ra y tấu bản Trương Chi tình khúc. Tiểu đồng liếc nhìn Tự-Mai rồi nói với mụ cho thuê đò:
        - Này mụ Tư. Mụ nhường cho ta món khách này được không?
        - Được chứ.
        Tiểu đồng nói với Tự-Mai:
        - Khách quan đi đò của tôi tốt hơn. Chúng tôi sẽ đãi cơm quý khách. Nhưng giá tới ba lượng vàng kia đấy.
        Ngôn ngữ tiểu đồng khác thường, Tự-Mai đưa mắt nhìn. Nó thấy trên ngực tiểu đồng mang con chim ưng bằng bạc, rõ ràng dấu hiệu của phái Đông-a. Nó nghĩ thầm:
        - Cứ như ngôn ngữ của gã này, thì gã thuộc đời thứ ba. Như vậy gã là đệ tử của sư huynh ta đây.
        Nghĩ vậy nó đáp:
        - Tôi chỉ có hai lượng thôi.
        Tiểu đồng ép tay ngang hông, chìa hai ngón tay ra giật giật mấy cái như hành lễ rồi nói:
        - Xin quan khách theo tôi.
        Tự-Mai vẫy tay cho cả đoàn theo tiểu đồng tới bãi sông. Tiểu đồng truyền đò phu dắt ngựa, đẩy xe xuống con đò lớn. Còn người thì mời ngồi trên sàn, ngắm cảnh. Thuyền từ từ rời bến, hướng Nam-ngạn.
        Thuyền đi đến giữa sông, trong sóng gió mịt mờ, xa xa xuất hiện một con đò cực lớn, ẩn hiện giữa lớp mây mù. Tiếng đàn, tiếng trống từ con đò đó vọng lại nhu hòa êm ái vô cùng. Mọi người cùng lắng tai nghe. Khi hai con thuyền cách nhau khoảng nửa dặm, thình lình âm điệu trên con đò lớn đổi hẳn. Mỗi tiếng đàn, tiếng trống đều khiến mọi người như muốn ù tai nhức óc.
        Nong-Nụt nội công non nớt nhất, nàng phải bịt tai lại. Nhưng tiếng đàn, tiếng sáo vẫn lọt vào tai nàng. Lê Văn kinh hãi để ngón tay trỏ vào huyệt Đại-trùy của nàng, rồi dồn chân khí sang. Nong-Nụt lấy lại được bình tĩnh. Nàng than:
        - Âm nhạc gì mà quái gở vậy?
        Âm nhạc lại đổi nhịp, đổi điệu. Mọi người đều khoa chân múa tay như điên loạn.
        Ngô Quảng-Thiên hô lớn:
        - Tất cả ngồi im vận công. Kẻ địch muốn dùng âm nhạc tấn công chúng ta.
        Mọi người vội ngồi vận công. Nhưng chỉ được một lúc, tiếng nhạc như càng thúc dục, khiến chân tay múa may quay cuồng.
        Lê Văn thấy cái nồi đồng nấu cơm để ở cuối thuyền. Nó cầm lên, tay rút kiếm gõ vào nồi thành tiếng boong boong. Lạ thay tiếng boong boong làm âm thanh bên thuyền kia hỗn loạn. Mọi người cảm thấy khoan khoái như trút được gánh nặng.
        Nong-Nụt hỏi Tự-Mai:
        - Lê Văn làm gì vậy?
        - Kẻ nào đó dùng âm nhạc tấn công mình. Lê Văn gõ nồi thành âm thanh chống lại đấy.
        Cứ thế, tiếng nhạc bên thuyền kia đổi, Lê Văn cũng đổi cách gõ nồi. Lát sau hai con thuyền đã gần nhau. Tôn Đản thấy mồ hôi trên trán Lê Văn lấm tấm hiện ra. Tiếng gõ nồi hơi rối loạn. Mọi người đều biết cuộc nhạc-chiến đã phân thắng bại. Mà bại về Lê Văn.
        Ngô Quảng-Thiên vội lạng người đến bên Lê Văn. Ông xòe bàn tay để lên huyệt Bách-hội của nó. Lập tức Lê Văn rùng mình, tiếng gõ nồi boong boong vang lên, đàn áp hẳn tiếng nhạc bên thuyền kia.
        Hỗn chiến một lúc nữa, bỗng tiếng bực bên thuyền kia vang lên, rồi tiếng đàn im bặt. Rõ ràng người sử dụng âm thanh bên thuyền kia đã bị thua. Lê Văn cũng ngừng lại không gõ nồi nữa. Có tiếng nói từ bên thuyền lớn vọng sang:
        - Không biết cao nhân phái Sài-sơn cùng phái Khúc-giang nào bên đó. Trần Bảo-Dân phái Đông-a xin chịu thua rồi.
        Tự-Mai đứng lên đầu thuyền, nó chắp tay lại:
        - Nhị sư huynh đấy ư?
        Một người thân thể hùng vĩ, mặt đẹp vô cùng, tung mình từ thuyền lớn nhảy sang. Y như con đại bàng đáp xuống cạnh Tự-Mai. Không nói không rằng, y vung tay tấn công nó bằng chiêu Đông-phong ba lãng. Tự-Mai lui một bước, vận công trả lại bằng chiêu Phong-ba hợp bích. Bình một tiếng, nó loạng choạng bật lui hai bước, khí huyết đảo lộn cực kỳ khó chịu. Trong khi đó người kia cũng ôm tay tần ngần. Người kia cau mặt nhìn Tự-Mai rồi nhảy đến ôm nó:
        - Tự-Mai đấy à? Anh chờ em hơn tháng nay ở đây rồi. Những ai trên thuyền đó?
        Tự-Mai giới thiệu với mọi người:
        - Vị này tên Trần Bảo-Dân, đệ nhị đệ tử của bố tôi.
        Bảo-Dân thấy Ngô Quảng-Thiên vội chắp tay:
        - Sư bá! Sư bá bỏ Biện-kinh đi mà không sợ ư?
        Ngô Quảng-Thiên thở dài:
        - Ta được phóng thích đấy chứ.
        Tự-Mai giới thiệu mọi người. Bảo-Dân nói:
        - Xin mời Ngô sư bá cùng cách vị dời gót ngọc sang tệ chu chơi. Được Bảo-Hòa, Thông-Mai báo trước rằng sư bá cùng mấy tên quỷ sứ này sẽ đến đây. Cháu sai đệ tử chờ ở bến Giang-Bắc mấy ngày rồi. Đáng lẽ đệ tử đem Chu-các này đón sư bá, nhưng bị người của Lưu hậu theo sát sư bá, cháu đón sẽ bị lộ hình tích. Cho nên cháu chờ sư bá ở giữa giòng sông.
        Ngô Quảng-Thiên cùng cả đoàn sang Chu-các. Vừa bước vào phòng khách, Tự-Mai giật mình đứng khựng lại. Vì trong thuyền đã có hai người mà một người nó nhớ nhung ngày đêm là Bảo-Hòa. Một người nó thấy lạnh gáy là Thông-Mai. Cạnh đó, một người nữa khiến nó kinh ngạc, đó là Triệu Piên-Phương, vương phi Khai-Thiên vương. Nó vội thi lễ với bà, rồi hỏi Bảo-Hòa:
        - Bà chị tiên-cô! Không ngờ tiên cô cùng với ông hoà thượng cũng có mặt ở đây. Tình hình sứ đoàn ra sao rồi?
        Trong năm ông thiên lôi, Bảo-Hòa thương yêu nhất Tự-Mai với Lê Văn. Nàng nắm tay hai đứa để ngồi hai bên như mẹ đối với con. Nàng nói với Lê Văn:
        - Em tôi kiếm ở đâu được cô vợ đẹp thế này?
        Từ sau khi chữa trị cho Nong-Nụt, tình cảm nảy sinh. Trên đường từ Biện-kinh về đây, hai trẻ như bóng với hình không rời nhau nửa bước. Lê Văn có tính khoáng đạt của thầy thuốc, không tỵ hiềm kẻ Xiêm người Việt. Nó đã trị bệnh cho hàng nghìn người ở Vạn-thảo sơn-trang, nhưng chưa bao giờ trị cho một thiếu nữ xinh đẹp, nhu mì như vậy. Lại nữa trong Vạn-thảo sơn trang, có nhiều y sĩ nữ, nên phàm trị bệnh cần phải đụng chạm vào người nữ, thì đại đệ tử Dương Bình sẽ sai nữ y sĩ điều trị. Có thể nói đây là lần đầu tiên Lê Văn thấy toàn bộ thân thể một thiếu nữ.
        Về phần An-Nan Tam-gia La-sun Nong-Nụt. Nàng là gái Thái. Tục lệ Thái coi phụ nữ như bông hoa quý. Cho nên khi con gái tới tuổi mười ba trở lên, chỉ cha, mẹ mới có quyền ngồi cạnh, cầm lấy tay. Đối với đàn ông, việc nhìn thẳng vào mặt cũng cấm kị. Không may bị bắt cóc, bị đánh đòn đau đớn ê chề nàng phải tòng quyền để Lê Văn chà thuốc khắp người.
        Tuổi mười lăm, mười sáu, cơ thể mới nảy nở, nhạy cảm mà nàng bị Lê Văn nhẹ nhàng thoa thuốc trên nhũ hoa. Người nàng như đi vào giấc mơ huyền ảo. Nàng đã yêu Lê Văn từ đấy. Trên đường từ Khai-phong đến Giang-Bắc, nàng tự coi như vợ Lê Văn, săn sóc kính trọng nó như người chồng.
        Lê Văn nghe Bảo-Hòa hỏi, nó bẽn lẽn:
        - Nàng đâu phải là vợ em... nhưng...
        Câu trả lời ngập ngừng của cậu em báo cho Bảo-Hòa biết một sự thực: Đôi lứa đã yêu thương nhau. Để gỡ ngượng cho Lê Văn, nàng chuyển sang hỏi Tự-Mai:
        - Công lực em cao thực, có lẽ không thua gì chị. Em đỡ của Lưu hậu ba độc chưởng mà không sao. Trái lại độc chất chạy về người, làm bà phải vận công suốt một đêm mới khỏi đau ở tay. Nhưng độc chất theo Dương-minh kinh chạy vào đại-trường, tiểu trường. Từ hôm ấy trở đi, mỗi đêm bà lên cơn đau bụng vào giờ Tý một lần.
        Tự-Mai biết Thông-Mai, Bảo-Hòa đã thống nhất hệ thống tế tác Đông-a, Đại-Việt, Bắc-biên, Lạc-long giáo. Nhất cử nhất động của nó, Bảo-Hòa, Thông-Mai đều biết. Nó đưa mắt nhìn anh, Thông-Mai ngửa mặt lên trời mà cười. Chàng xoa đầu em:
        - Em lớn rồi, phàm hành sự phải quang minh lỗi lạc. Em yêu thương, nhớ nhung Thuận-Tường đường đường chính chính, không việc gì phải ngượng ngùng.
        Nghe anh nói, Tự-Mai thêm can đảm. Nó ngồi ngay thẳng dậy. Thông-Mai tiếp:
        - Khi Quốc-vương, Định-vương gọi em vào trao cho nhiệm vụ đi đón Ngô sư bá, đáng lẽ em phải hiểu ngay chiều sâu của vấn đề. Thế mà vì u mê trong tình yêu, đến nỗi Lý thái phi nói ra mới biết. Tý nữa thì hỏng đại sự. Việc quốc gia mà để hỏng thì dù em có chết, Thuận-Tường có chết cũng không đền được hết tội. May mà chưa hỏng. Bây giờ em hiểu chưa?
        Nghe anh kết tội, Tự-Mai lạnh xương sống. Từ bé, nó vốn úy kị ông anh gương mẫu này, mà nhờn với Thanh-Mai. Vì nó biết Thông-Mai khác hẳn với Thanh-Mai. Mọi hành động Thanh-Mai đều thiên về tình cảm. Tính Thông-Mai giống cha như hệt: cương quyết, ngay thẳng. Chẳng thế mà chàng cấm tên đầu bò liếm Đặng Đức-Kềnh đến nhà con điếm già Anh-Tần. Y thề rằng nếu tái phạm cả nhà bị chết. Sau Thông-Mai bắt được y tái phạm. Chàng tàn sát cả nhà y đến con chó con mèo cũng không tha. Tự-Mai đáp:
        - Bây giờ em hiểu hết rồi.
        - Em thử nói anh nghe xem nào!
        - Định-vương, Quốc-vương truyền cho năm đứa chúng em theo Triệu Huy về kinh đón Ngô sư bá, đó là hư. Còn thực là để em gặp Lý thái phi, báo cho thái phi biết việc Lưu hậu đang định hai bà cùng Thiên-Thánh hoàng đế, cũng như đem điều bí mật về Lưu hậu ra ngoài. Vì Định-vương biết thế nào về kinh em cũng tìm gặp Thuận-Tường. Chỉ Thuận-Tường mới đưa em vào gặp Lý thái phi mà tế tác của bà không biết, không nghi ngờ.
        - Đúng! Rồi sao nữa?
        - Nhưng việc gặp Lý thái phi lại cũng là hư. Mà thực là báo cho Lý thái phi yên tâm, không sợ Lưu hậu cắt thuốc giải Chu-sa ngũ độc chưởng. Nay mai có anh Thiệu-Thái tới giải tuyệt độc tố này cho bà.
        - Được! Tiếp đi.
        - Nhưng việc gặp Lý thái phi trở thành hư. Thực bây giờ chính là việc em lọt vào khu cấm của Lưu hậu. Khi em bị lộ hình tích, bà biết ngay em là người của Định-vương. Em đối với Lưu hậu ba chưởng. Sau ba chưởng đó, Lưu hậu lo sợ vì với một nhóc con như em, mà cũng không sợ độc chưởng của bà. Bà hiểu rằng mưu hại Lý thái phi của bà bị lộ. Bà phải bỏ ý định, bằng không Định-vương cho người tới thanh toán bà. Sau này anh ra lệnh cho em dạy bà cách phản Chu-sa độc chưởng, khi đã có phương pháp này trong tay, bà không sợ Lưu hậu cũng như tay chân Lưu hậu. Bà có thể tự giải quyết việc nội cung. Định vương cứ ngồi khoanh tay mà xem.
        - Em có biết tại sao Lý phi không nhận em làm con, mà chỉ nhận làm cháu không?
        - Em không biết.
        - Việc này ngoài sự suy đoán. Em yên tâm, nếu bà nhận em làm con, sau sẽ bất lợi cho em. Bây giờ tới vấn đề khác. Em với Lê Văn phải ứng tuyển phò mã. Đây là lệnh của bố, anh chỉ chuyển lại mà thôi.
        Tự-Mai ngồi bật dậy:
        - Em không thể tuân lệnh. Em có Thuận-Tường rồi. Bố giết thì em chịu, chứ em không bỏ Thuận-Tường đâu. Bây giờ em có tuân lệnh bố mà ứng tuyển thì sau này em cũng không kết hôn với công chúa, mà kết hôn với cung nữ Thuận-Tường.



        <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 07:53:50 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 20.01.2005 17:45:13 (permalink)
          Hồi thứ một trăm lẻ bốn


          Bán dạ Quỳnh Hoa uyển
          (Hẹn nhau vườn hoa quỳnh)



          Thông-Mai quát lên:
          - Em dám cãi lệnh bố ư?
          Tự-Mai ngồi im, vì nó biết xưa nay mỗi khi đại hiệp Tự-An truyền lệnh gì cho các con, thường ông suy tính rất kỹ, nên dù cho Thông-Mai, Thanh-Mai cũng chỉ biết líu ríu thuân theo. Bây giờ ông ra lệnh cho nó ứng tuyển phò mã tuy là việc nhà, nhưng có liên hệ với vận mệnh đất nước. Nó cúi đầu nói nhỏ :
          - Dù có ứng tuyển, khi lên đài em cũng giả thua.
          Nó nghĩ thầm:
          - Ở đây có nhị sư huynh, vai lớn hơn anh Thông-Mai. Nhị sư huynh dám vì tình yêu đột nhập cấm thành cứu Khấu Kim-An ra. Mình nên nhờ nhị sư huynh bênh vực, thì may ra tai qua nạn khỏi.
          Nó đưa mắt nhìn Bảo-Dân, Kim-An. Bảo-Dân gì mà không hiểu ý nó, chàng lắc đầu:
          - Việc gì liên quan đến môn phái thì ta là sư huynh, lớn hơn Thông-Mai, có thể quyết đoán. Còn việc này là việc nhà, sư huynh không có quyền.
          Chợt Tự-Mai nhớ lại lời Lý thái phi, Thuận-Tường dặn nó bằng mọi cách phải ứng thí phò mã, thắng anh hùng thiên hạ, bằng không, vĩnh viễn mất Thuận-Tường. Nó cúi mặt ngồi im, làm như ngoan ngoãn nghe lời anh. Bảo-Dân, Thông-Mai đều ngạc nhiên về thái độ tuân phục dễ dàng của cậu em phá trời.
          Bảo-Hòa móc trung túi ra hai bức thư. Nàng đưa một bức cho Lê Văn:
          - Thư của sư bá gửi cho em. Em hãy đọc kỹ, thi hành lệnh của người.
          Lê Văn kinh hãi, vội ngồi lui lại, sửa quần áo ngay thẳng, hai tay cung cung kính kính tiếp thư, rồi bóc ra đọc. Nó ngẩn người, vì bên trong chỉ có một tấm thiếp:
          « Bố ủy cho chị Bảo-Hòa truyền đến con một mệnh lệnh. Lệnh này không thể thay đổi, vì có liên quan đến vận mệnh tộc Việt. Con phải tuyệt đối tuân theo.»
          Lê Văn gấp thư bỏ vào túi, rồi nói với Bảo-Hòa:
          - Bố em dạy phải nghe lời chị. Bây giờ chị trở thành bố em rồi. Chị nói gì em cũng phải nghe. Nhưng đừng ỷ làm lớn bắt nạt em. Sau này lỡ bị bệnh em bắt ăn ba bát ớt hiểm.
          Nhìn ánh mắt Lê Văn, Bảo-Hòa nhớ lại ngày nàng với Thanh-Mai, Mỹ-Linh tới Vạn-thảo sơn trang trị bệnh. Hồng-Sơn bắt Mỹ-Linh phải thắng Lê Văn ông mới cho ra về. Lê Văn bèn giả thua. Sau nó bầy ra cuộc đấu, hễ Mỹ-Linh bại, thì nàng với Bảo-Hòa phải ăn một bát ớt. Quả nhiên Mỹ-Linh bại. Lê Văn đem ớt khô bắt mọi người ăn. Khi ăn vào, Bảo-Hòa thấy ớt ngọt chứ không cay. Sau này nàng mới biết thay vì đem ớt ra, nó đem kỷ tử cho chị em nàng ăn cùng với thuốc giải độc.
          Bây giờ thấy nó làm ra vẻ ngoan ngoãn, nàng phì cười:
          - Cũng chẳng có gì lạ cả. Sư bá nhờ chị hỏi vợ cho cậu mà thôi.
          Lê Văn nghĩ thầm:
          - Tự-Mai bị Trần sư bá sai anh Thông-Mai bắt ứng tuyển phò mã. Bây giờ tới bố nhờ chị Bảo-Hòa truyền lệnh cho mình. Nếu mình làm phò mã thì Nong-Nụt sẽ đau khổ lắm. Chị Bảo-Hòa vốn cứng mà dễ, mình cứ lèo nhèo, may ra thoát nạn.
          Nghĩ vậy, Lê Văn mở to mắt ra nhìn Nong-Nụt:
          - Hỏi vợ à? Em chưa đủ lớn mà? Còn nhóc con, cưới vợ người ta cười chết. Chị biết không, cưới vợ sớm khi chân-nguyên chưa đủ, sẽ đi đến chết non. Bố em cũng đã tìm ra rằng, tuổi con gái lấy chồng tốt nhất là hai mươi đến hai mươi lăm. Con trai thì hai mươi lăm trở lên. Bây giờ em mới mười bẩy, còn lâu mới được lấy vợ.
          Nó làm bộ gật gù:
          - Thôi em đồng ý lấy vợ, nhưng bẩy năm nữa.
          - Tục ngữ Việt nói: Nữ thập tam, nam thập lục. Chị có bắt em cưới vợ tức thời đâu? Chị mới hỏi mà thôi. Hỏi khác với cưới nhiều chứ.
          - Khổ quá chị ơi! Hai cặp giò của em là giò ngựa, thích chạy, mà hỏi vợ ngay, có khác gì ngựa què chân không? Con là nợ, vợ là oan gia, em vợ là tiên nga, bà già vợ là khỉ đột.
          Lê Văn khác Tự-Mai. Tự-Mai khôn ngoan, mưu trí hơn, nhưng lại hay dấu kín tâm tư. Còn Lê Văn, nó bồng bột, ồn ào. Nghe Bảo-Hòa nói, nó hiểu liền:
          - Chắc chắn việc này do Khai-Quốc vương bàn với sư bá Tự-An và bố mình đây. Các cụ muốn mình với Tự-Mai ứng tuyển làm phò mã Tống. Mình phải thoát ra mới được. Bằng không Nong-Nụt sẽ đau khổ không ít.
          Nó nắm lấy tay Bảo-Hòa:
          - Thực hả bà chị tiên nữ?
          - Thực.
          Nó chỉ Nong-Nụt:
          - Thôi được, em đồng ý hỏi vợ. Vậy bà chị phải nhờ Thuận-Thiên hoàng đế đứng ra hỏi cô bé này cho em. Em với nàng đã đính ước trăm năm rồi. Nàng vừa xinh đẹp, vừa ôn nhu văn nhã, công chúa Huệ-Nhu sao sánh kịp.
          Nó quay lại nói một tràng tiếng Thái với Nong-Nụt. Nong-Nụt cúi xuống, mặt đỏ bừng lên. Mọi người đều phục Lê Văn thông minh, vì trên đường từ Biện-kinh về đây, có hơn mười ngày mà Lê Văn đã học được khá nhiều tiếng Thái.
          Nong-Nụt đến trước Bảo-Hòa, hai tay chắp lại để ngang trán cúi xuống vái ba vái, rồi nói mấy câu nhẹ như gió thoảng.
          Lê Văn dịch :
          - Em tên An-Nan Tam-gia La-sun Nong-nụt xin tham kiến tiên cô. Mong tiên cô hoá phép cho em được kết hôn với Lê Văn.
          Bảo-Hòa hỏi:
          - Em bao nhiêu tuổi rồi? Em đã có phép của phụ huynh chưa mà dám đi với Văn đệ.
          Lê Văn dịch lại. Nong-Nụt lại nói một tràng nữa. Lê Văn dịch:
          - Em mất liên lạc với huynh trưởng. Nhưng huynh trưởng biết Văn huynh cứu em chắc người không mắng đâu.
          Bảo-Hòa hỏi:
          - Nếu em làm vợ Văn đệ, em có chịu về Đại-Việt ở không?
          Lê Văn dịch. Nong-Nụt nói, Lê Văn dịch:
          - Phận gái chữ tòng, em nguyện theo Lê Văn cả đời.
          Bảo-Hòa lắc đầu, thình lình nàng nắm lấy tai Lê Văn. Nó la làng:
          - Ái đau.
          - Dám qua mặt bà chị! Vừa rồi em nói với Nong-Nụt rằng: Chị là tiên giáng trần. Nong-Nụt cầu gì thì xin chị giúp cho. Nong-Nụt nói với chị rằng: Tấu lạy tiên cô, xin tiên cô giúp cho em mau gặp huynh trưởng. Em dám dịch láo. Câu sau em dịch rằng Tiên cô này võ công cao cường, lại tốt bụng. Nong-Nụt đáp Em thực may mắn, không ngờ đi sứ gặp tiên cô.
          Lê Văn bị bại lộ mưu cơ, nó xấu hổ cười trừ.
          Từ lúc đoàn tùy tùng Ngô Quảng-Thiên vào Chu-các, Bảo-Hòa thấy có một thiếu nữ hơi khác Hán, Việt, nhưng đẹp huyền bí, với đôi mắt to đen, mũi cao. Nàng chưa biết là ai, bây giờ nàng mới hỏi:
          - Em gặp nàng ở đâu?
          Lê-Văn chưa kịp trả lời, Bảo-Hòa đã nghĩ ra:
          - À, nếu nàng là công chúa Xiêm thì thuộc giòng họ An-Nan Tam-gia La-sun. Còn tên nàng là Nong-Nụt phải không?
          Bảo-Hoà cũng dùng tiếng Thái nói truyện với Nong-Nụt. Cả hai cùng dùng một thứ ngôn ngữ nhẹ như tiếng chim, trong như tiếng hạc bay qua. Tuy Lê Văn đã học tiếng Thái, nhưng chưa làm bao. Nó chỉ hiểu lờ mờ câu truyên giữa hai người.
          Chợt Bảo-Hòa tỉnh ngộ:
          - Mình thua trí thằng em này mất rồi. Hồng-Sơn sư bá nhờ mình truyền lệnh bắt nó ứng tuyển phò mã. Không ngờ nó nhanh miệng cậy mình hỏi công chúa Xiêm cho nó. Thực hỏng bét.
          Nàng lắc đầu:
          - Nhưng sư bá cậy chị giúp em làm phò mã Tống. Chị khó có thể chiều ý em đươc. Vấn đề trọng đại lắm, chứ không thường đâu. Ta cứ dấu đừng cho Nong-Nụt biết.
          Tính Lê Văn ưa khôi hài, nó mở to mắt méo miệng trêu Bảo-Hòa:
          - Tiên cô ơi! Điều này không ổn! Chỉ có một mình công chúa Huệ-Nhu, mà mình đã có anh Tự-Mai ứng tuyển rồi. Không lẽ em với anh Tự-Mai đánh nhau. Em nói thực, em đánh không lại Tự-Mai đâu.
          Khấu Kim-An bật cười:
          - Lê công tử khỏi lo. Lưu hậu tuyển đến mười bẩy tiểu thư con quan nhan sắc diễm lệ, ôn nhu văn nhã, văn hay chữ tốt cùng công chúa Huệ-Nhu thành mười tám. Lê công tử cùng Tự-Mai cứ ứng tuyển, một người thành phò mã, một người làm rể tể tướng cũng được chứ có sao đâu?
          - Không, em để anh Tự-Mai làm phò mã Tống. Em làm phò mã Xiêm hay hơn, khỏi mất công đấu võ lôi thôi.
          Nó quay lại nhìn Tôn Đản:
          - Còn anh Đản, để ảnh làm phò mã Đại-lý.
          Ngô Quảng-Thiên bật cười:
          - Tiên đế Đại-lý băng hà rồi. Các công chúa đều đã thành gia thất. Còn công chúa lớn nhất của đương kim hoàng đế mới năm tuổi.
          Lê Văn biết mối tình giữa Ngô Cẩm-Thi với Tôn Đản, nó càng trêu già:
          - Năm nay anh Đản mới mười tám tuổi. Mười năm nữa hai mươi tám tuổi, công chúa Đại-lý mười sáu tuổi, đẹp đôi chán. Khai-Quốc vương hai mươi tám tuổi mới cưới sư tỷ Thanh-Mai đấy thôi. Lại nữa bố em năm mươi ba, mẹ Huệ-Phương mới hai mươi hai, vẫn đẹp đôi như thường.
          Bảo-Hòa biết nếu mình đấu võ mồm với Lê Văn, muôn ngàn lần không phải đối thủ của nó. Nàng lờ đi không trả lời, tay vẫy Tôn Đản:
          - Phụ thân em cũng ủy cho chị hỏi vợ cho em. Giống như trường hợp Tự-Mai, Lê Văn, em phải ứng tuyển phò mã Tống.
          Bảo-Hòa đưa thư của Tôn Trung-Luận cho Tôn Đản, rồi nghiêm mặt:
          - Thể lệ tuyển phò mã như sau: Mỗi châu sơ tuyển hai người. Tổng cộng hai trăm bẩy mươi chín người. Về kinh, sẽ tuyển lấy mười tám người. Mười tám người đó coi như trúng cách, được vào triều kiến thiên tử. Thiên-Thánh hoàng đế ra đề thi cuối cùng tại sân rồng. Ai đỗ đầu sẽ được gả công chúa Huệ-Nhu. Còn lại ai đỗ thứ nhì sẽ được chọn một trong mười bẩy tiểu thư trước. Sau đó tới người đậu thứ ba. Ai đậu hạng mười tám phải lấy cô còn lại.
          Thuyền sang Nam-ngạn Trường-giang. Bảo-Hòa cung kính trao cho Ngô Quảng-Thiên một hộp thuốc:
          - Thưa sư bá đây là thuốc giải Chu-sa ngũ độc chưởng. Sư bá cùng ba vị sư huynh dùng tạm. Đợi sau khi đi sứ về anh Thiệu-Thái sẽ trị tuyệt nọc độc cho sư bá. Còn sư tỷ Cẩm-Thi, cháu cần sư tỷ giúp đỡ cho ít việc. Mong sư bá để sư tỷ đi với chúng cháu.
          Ngô Quảng-Thiên cầm bình thuốc, rồi cười:
          - Cảm ơn quận chúa. Trên đời lão phu có hai mối hận. Một là không khôi phục được nghiệp lớn vua Trưng. Hai là bị hai tên sư đệ Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn phản, làm cho thân bại danh liệt. Bây giờ đã có thuốc giải trong tay. Hơn nữa trên đường từ kinh về đây, công tử Trần Tự-Mai truyền cho lão phu phương pháp đẩy chất độc trở lại người đối thủ khi bị chúng dùng Chu-sa ngũ độc chưởng tấn công. Lão phu phải kiếm hai tên sư đệ để trả hận.
          Bảo-Hòa vội an ủi ông:
          - Việc trả thù bất cứ lúc nào sư bá không làm được. Hiện đang có sứ đoàn Đại-Việt, Xiêm-la sang Tống. Mặt nổi chỉ có mấy người, trong khi mặt chìm mình huy động hàng nghìn người. Nếu sư bá tìm hai lão trả thù e gây trấn động võ lâm Trung-thổ, không lợi cho Đại-Việt.
          Ngô Quảng-Thiên gật đầu:
          - Lão phu quên mất. Được, đợi khi sứ đoàn về rồi, lão phu mới ra tay.
          Bảo-Hòa cung kính nói với Triệu Liên-Phương:
          - Thưa mợ, cháu đã giải cứu mợ khỏi cấm thành nhà Tống. Bây giờ mợ nên trở về Đại-Việt cùng với Ngô sư bá.
          Triệu Liên-Phương lạnh lùng gật đầu.
          Sau khi Ngô Quảng-Thiên cùng vợ và ba con trai lên ngựa hộ tống Triệu Liên-Phương đi rồi, Bảo-Dân cùng Bảo-Hòa bàn truyện triều đình nhà Tống. Thông-Mai nói:
          - Theo chỉ dụ của Khai-Quốc vương, cần đạt tới bằng này vấn đề: Một là kết thân với triều Tống trong thế anh em, chứ không chịu để họ coi như một thứ phiên thần. Hai là kết thân với võ lâm, nhân sĩ Trung-nguyên. Ba là tỏ cho triều Tống biết rằng, nếu họ bỏ thái độ trịch thượng, họ sẽ có cả tộc Việt là bạn thân, khỏi lo lắng Nam-thùy, rảnh tay chỉnh đốn Bắc-thùy. Nếu họ tiếp tục gây hấn với ta, họ sẽ có kẻ thù ghê gớm. Bốn là những biên thần, đại thần Tống chủ trương xâm lăng Đại-Việt, Đại-lý, cần làm cho họ biết sức mạnh mà lui đi thì thôi. Bằng không ta tung tin hãm hại, cô lập. Hoặc cho người ám sát vợ con, bố mẹ. Kể cả việc đào mồ cuốc mả.
          Sau khi bàn đi tính lại, Bảo-Hòa đi đến kết luận:
          - Trong triều Tống hiện có hai phe. Phe Lưu hậu chủ trương thôn tính Đại-Việt. Phe Định-vương chủ trương thân Đại-Việt. Vậy cần giúp phe Định-vương. Lưu hậu đựa vào dư đảng bang Nhật-hồ cùng Hồng-thiết giáo Đại-Việt, dùng Chu-sa ngũ độc chưởng khống chế quần thần. Sau khi đối ba chưởng với Tự-Mai, Lưu hậu biết trên thế gian này có thứ võ công khắc chế với Chu-sa ngũ độc. Mà thứ võ công đó của nhóm thân Định-vương. Như vậy tham vọng mở lãnh thổ xuống Nam sẽ giảm đi.
          Tự-Mai mở chiếc hộp Lý thái phi trao cho nó lấy ra một tập sách:
          - Lý thái phi trao cho em chiếc hộp này. Trong hộp có chứa một yếu điểm của Lưu hậu, ta cần tìm cho ra một vài chứng cớ nữa rồi mới xuống tay được. Bà cũng ghi chú cho ta tất cả tổ chức mật nhất của Lưu hậu. Em đã đọc kỹ. Chị Bảo-Hòa, chị cần gì?
          Bảo-Hòa đáp:
          - Chân tay Lưu hậu có bốn nhóm. Nhóm Trường-giang thất quỷ, đã qui phục Nam-triều rồi. Nhóm bang Nhật-hồ, biến thành bang Hoàng-đế, theo Định-vương. Nhóm thứ ba do hai lão Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ đang thống lĩnh mười trưởng lão bang Nhật-hồ. Hai lão này trước ẩn thân làm thị vệ. Nay nhân Định-vương vắng nhà, Lưu hậu phong cho Tôn Đức-Khắc thống lĩnh cấm quân, thị vệ. Còn Lê Lục-Vũ lĩnh Nam-biên kinh lược sứ tức tổng chỉ huy quân đội đối đầu với ta. Hai lão cùng mười trưởng lão đang theo sứ đoàn. Ta cần tìm cho ra tông tích hai lão này. Nhóm thứ tư gồm hai lão Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam-Bản. Hai lão hiện thay vào chỗ của Tôn, Lê chỉ huy tế tác cho Lưu hậu.
          Tự-Mai chỉ tập sách trong tay:
          - Có đây rồi! Tôn Đức-Khắc tên thực là Đào Tường-Phúc. Lê Lục-Vũ là Chu Bội-Sơn.
          Từ Bảo-Dân cho tới Bảo-Hòa đều bật lên tiếng suýt xoa:
          - Rút cục ta đã tìm ra hai tên tả, hữu hộ pháp của Nhật-Hồ lão nhân.
          Tôn Đản thuật xong những gì năm trẻ đã làm từ khi theo Triệu Huy đi Biện-kinh. Đoạn dưới đây xin thuật tiếp việc sứ đoàn đến Biện-kinh.
          Sau khi tường thuật cho Khai-Quốc vương biết hết hành trạng của năm ông thiên lôi, Tôn Đản tiếp:
          - Chị Bảo-Hòa đưa ra ý kiến làm cho hai lão Tôn, Lê thất bại. Như vậy Lưu hậu sẽ cách chức hai lão để lấp sự lỗi của mình. Hai lão bị thất sủng ắt quay ra phản bà. Còn hai lão Sử, Khiếu, ta tìm cách vu cho chúng làm đạo tặc.
          Khai-Quốc vương gật đầu:
          - Bảo-Hòa trí tuệ thực không đợi tuổi. Nó tổ chức bắt mười trưởng lão bang Nhật-hồ dễ dàng, lại phối trí cho Bảo-Dân, Lê Văn trêu cho hai lão Tôn, Lê hoá điên hoá khùng. Tuyệt.
          Thanh-Mai hỏi:
          - Thế sau khi bắt hết các trưởng lão bang Nhật-Hồ rồi, tại sao Tự-Mai lại về kinh một mình?
          - Chị Bảo-Hòa sai Tự-Mai về kinh trước, tường trình mọi việc cho Định-vương cùng Lý thái phi. Cuối cùng chỉ có em với Lê Văn, Nong-Nụt vu vạ cho hai lão Sử, Khiếu.
          Thiệu-Thái hỏi:
          - Khi chúng ta qua Tương-dương, thấy bảng niêm yết truy tầm năm người là Bảo-Hoà, Thông-Mai, Tôn Đản, Lê Văn, Tự-Mai. Sau đó ít giờ bảng lại đổi ra truy tầm hai lão Sử-vạn Na-vượng với Khiếu Tam-Bản là nguyên do tại sao?
          Lê Văn thở dài:
          - Đây là điều mà chị Bảo-Hoà muốn điên đầu lên được. Rõ ràng bọn em đến Kinh-châu mục đích vu hãm hai lão Sử, Khiếu làm đạo tặc. Bọn em hành sự bí mật đến thần không biết, quỷ không hay. Không ngờ mới tới nơi đã thấy hình treo khắp nơi truy tầm.
          Khai-Quốc vương cau mặt:
          - Trong chúng ta ắt có gian tế của Tống. Việc niêm yết truy tầm không phải do kinh lược sứ, mà do Lưu hậu. Phải tìm cho ra con rắn ẩn thân trong chúng ta mới được.
          Lê Văn tiếp:
          - Đêm, Đản với em đột nhập dinh kinh lược sứ trộm bảo vật của sứ đoàn Xiêm. Bọn em cố ý làm lộ ra, sau đó trong khi đấu võ với quan quân, ròi vờ bị đánh gẫy kiếm. Trên kiếm ghi tên hai lão Sử-vạn và Khiếu. Bọn chúng em bỏ chạy, chỉ có một võ quan đuổi theo. Võ công y rất cao cường, nhưng dường như y đánh cầm chừng. Bằng không em mất mạng rồi. Không hiểu sao hôm sau có bảng niêm yết hình hai lão Sử, Khiếu là đạo tặc.
          Trong khi Lê Văn, Tôn Đản nói truyện, thì Bảo-Dân, Thanh-Mai cứ nhìn nhau mỉm cười. Khai-Quốc vương hỏi vương phi:
          - Có sự gì lạ không?
          Thanh-Mai bẹo tai Lê Văn. Nó vờ kêu lên:
          - Ối! Ỷ là sư tỷ ăn hiếp người ta.
          - Không những bẹo tai, chị còn đánh què nữa.
          - Đánh gẫy xương chăng? Em không sợ đâu. Em tự bó bột, ba bẩy hai mươi mốt ngày là khỏi. À, nhưng em tội gì?
          - Tội gì? Trong khi đấu với viên võ quan đó, em có biết chức tước y không?
          - Bọn binh lính gọi y bằng Tư-mã. Thì ra y là Tư mã Kinh-châu. Ái chà, chức quan y lớn thực.
          - Võ công, chiêu số y ra sao?
          Lê Văn nhắm mắt suy nghĩ, rồi nói:
          - Y xử dụng võ công Thiếu-lâm, nhưng dường như nội lực giống nội lực Đông-a. Ừ, phải rồi, nội lực y cao thâm khôn lường, hơi khác nội lực sư tỷ Thanh-Mai một chút.
          Bảo-Dân phát chiêu võ đánh Lê Văn, kình lực cực hùng hậu. Nó kinh hãi, vội nhảy vọt lên cao tránh khỏi. Bảo-Dân không nhân nhượng hướng chưởng lên trời. Lê Văn vội phát Thiên-vương chưởng đỡ. Binh một tiếng, người nó bật tung lên cao. Nó chuyển động thân mình, rồi đáp xuống lưng ngựa. Nhưng nó không cỡi, mà một chân đứng, một chân co. Tuyệt ở chỗ trong khi anh em chiết chiêu, ngựa vẫn sải bước gõ nhịp đều đặn.
          Lê Văn la lên:
          - Em hiểu rồi, đáng chết thực. Thì ra viên quan đó thuộc phái Đông-a. Nội lực y đánh ra là thứ nội lực cách đây mười năm, giống như anh Phụ-Quốc, Bảo-Dân. Còn nội lực em biết là nội lực gần đây, Trần sư bá đã sửa đổi.
          Chợt nhớ ra điều gì, nó nhảy phắt lên cao, rồi ngồi xếp bằng tròn trên lưng ngựa:
          - Em đáng chết thực! Thì ra viên võ quan đó là anh Trần Trung-Đạo. Đệ tử của Trần sư bá đều là tay quái kiệt. Anh Phụ-Quốc là thi sĩ lãng mạn, đô đốc thủy quân. Anh Bảo-Dân là nhạc sĩ đại tài. Anh Trung-Đạo làm lớn hơn, tới Tư-mã Kinh-châu.
          Chợt nó cau mặt lại:
          - Bọn em tuân lệnh tiên cô Bảo-Hòa, ở trong bóng tối hành sự, nhưng theo sứ đoàn như bóng với hình. Không biết bằng cách nào anh Trung-Đạo liên lạc với sư tỷ Thanh-Mai? Tại sao anh biết kế của bọn em muốn vu hãm cho hai lão Sử, Khiếu mà vẽ hình bọn nó, niêm yết khắp nơi. Ừ! Hình vẽ thực sống động như người bên ngoài vậy.
          Thấy Bảo-Dân nhìn nó cười tủm tỉm. Nó la lớn:
          - Em hiểu rồi! Thì ra chị Bảo-Hòa, anh Thông-Mai đã âm thầm liên lạc với anh Trung-Đạo. Việc niêm yết bảng cáo tri bắt hai lão Sử, Khiếu làm cho hai lão khó chối cãi. Không chừng Lưu hậu tin rằng hai lão ăn trộm bảo vật cũng nên.
          Đến đấy đoàn người ngựa đã vào trong thành Biện-kinh. Bấy giờ đang thời thịnh trị của triều Bắc-Tống, nên kinh thành đông đúc tấp nập, đường xá rộng rãi sạch sẽ. Kinh-thành đang đón gần ba trăm người ứng tuyển phò mã, đã trúng kỳ sơ tuyển . Mỗi người còn đem theo sư phụ, anh em với tùy tùng nào bộc phụ, mã phu. Cho nên kinh thành rộn rịp hơn bao giờ hết. Bảo-Dân cho xe dừng lại trước khách điếm cực lớn tên Nam-phong.
          Hai thiếu niên phụ trách tiếp đón, thấy quan khách quần áo sang trọng thì đoán rằng một đoàn của thiếu niên ứng tuyển phò mã lai kinh. Chúng cầm cương ngựa, mang hành lý xuống.
          Chủ khách điếm đon đả chạy ra tiếp khách. Y nỏi:
          - Khách điếm chúng tôi chia làm hai loại. Một, gồm những phòng từ hạng nhất đến hạng năm. Giá thuê phòng đơn hạng nhất mỗi ngày một trăm đồng. Phòng kép mỗi ngày hai trăm. Hạng nhì rẻ hơn mười đồng. Cho đến hạng bẩy chỉ có ba mươi đồng thôi. Ngoài ra chúng tôi có những khu, giống như cung điện, cho đoàn đông người thuê. Giá thay đổi tùy theo khu.
          Bảo-Dân nói:
          - Chúng tôi cần một khu thực yên tĩnh.
          Biết khách sang, chủ nhân cúi rạp mình xuống:
          - May quá! Nếu các vị tìm phòng thì các phòng đã hết rồi. Còn thuê hẳn một khu thì còn đến hai khu. Khu sang trọng nhất là khu nằm trên đảo ở giữa hồ. Khu này mang tên Bồng-lai. Song hơi đắt.
          Bảo-Dân tỏ ra thành thạo:
          - Tôi biết rồi, mỗi ngày một lượng vàng phải không?
          - Vâng.
          - Chúng tôi không mang theo bộc phụ, phu xe. Xin cung cấp cho chúng tôi một tỳ nữ, một tiểu bảo để sai vặt. Còn ăn uống, mỗi ngày chúng tôi sẽ đặt trước.
          Chủ nhân thân điều động phu mang hành lý cho khách ra khu Bồng-lai. Quả xứng đáng với tên mang, khu Bồng-lai là một đảo nhỏ nằm giữa cái hồ. Từ ngoài đi vào phải qua cây cầy đá. Đảo rộng đến năm sào (1800 thuớc vuông ngày nay). Xung quanh bờ đảo trồng toàn dương liễu. Ở giữa kiến tạo một căn nhà ngói xanh, gạch đỏ. Cột, kèo, cửa bằng gỗ trạm trổ tinh vi.
          Sau khi nghỉ ngơi, tắm rửa, thay y phục. Khai-Quốc vương bàn với Bảo-Dân:
          - Nhị sư huynh. Trước đây nhị sư huynh vùng vẫy dọc ngang ở Biện-kinh, gây ra nhiều kỳ tích. Nay nhị sư huynh có thể xuất hiện công khai không mà không gặp khó khăn chăng?
          Bảo-Dân cười:
          - Vương đừng lo. Tuy tôi phá phách, nhưng kỳ công phá phách đó, cho đến nay không ai biết tôi làm. Còn ngoại giả, trên từ tể tướng, xuống đến tên ăn mày đều biết tôi, vì tôi thường tấu nhạc, cũng như dạy nhạc.
          Vương xuất ra một đạo công văn:
          - Vậy phiền sư huynh đến bộ Lễ làm dùm ngay hai hai việc: Việc thứ nhất là cáo tri sứ đoàn Đại-Việt sang kết hiếu. Thứ nhì ghi tên Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn ứng tuyển phò mã. Đây đạo công văn chứng nhận ba trẻ được đề cử ứng tuyển phò mã. Tự-Mai, Lê Văn đại diện Đại-Việt. Còn Tôn Đản đại diện Bắc-biên.
          Bảo-Dân lên đường liền.
          Trong khi Khai-Quốc vương cùng Thanh-Mai, Khấu Kim-An bàn định khi triều kiến Tống đế phải làm những gì, đối phó ra sao, thì Thiệu-Thái, Mỹ-Linh, Tôn Đản, Lê Văn, cùng Ngô Cẩm-Thi sang phòng bên cạnh, thuật cho nhau nghe những biến cố trong thời gian xa cách.
          Lê Văn nói với Mỹ-Linh:
          - Chị tính sao thì tính, chứ bọn em nhất định đấu võ lấy thua, để khỏi làm phò mã Tống triều. Tự-Mai đã có Thuận-Tường. Em có Nong-Nụt. Còn anh Đản, dù anh ấy bị xẻo từng miếng thịt anh ấy cũng chịu, chứ không thể xa chị Cẩm-Thi đâu. Em không rõ, tại sao anh cả lại bắt chúng em làm phò mã. Làm phò mã đâu có sướng gì?
          Thiệu-Thái bàn:
          - Lần đầu tiên anh thấy cậu hai hành sự kỳ bí, đến Mỹ-Linh cũng không hiểu ý. Cậu bảo Tự-Mai rằng nếu không được vào đình thí, coi như không bao giờ lấy được Thuận-Tường. Lý thái phi cũng khuyên Tự-Mai phải ứng thí. Theo bà thì Thuận-Tường là cung nữ, sẽ theo hầu công chúa Huệ-Nhu xem đình thí. Ít nhất Tự-Mai phải được vào, sau khi trúng cách, xin lấy nàng làm vợ. Việc Tự-Mai coi như ổn rồi. Còn việc Tôn Đản, Lê Văn mới khó giải quyết.
          Mỹ-Linh an ủi hai em:
          - Các em yên tâm. Việc này Định-vương với chú hai thức thâu đêm luận bàn, chắc chắn hàm chứa những bí mật ghê lắm, mà người không thể nói ra đấy thôi. Hai em cứ tuân chỉ làm hết sức mình. Sau này sẽ rõ. Cùng quá mỗi cậu có hai vợ càng hay.
          Lê Văn nhăn mặt:
          - Hủ lậu! Bố em không bao giờ chấp thuận cho em lấy hai vợ. Người chúa ghét đàn ông nhiều vợ.
          Có tiếng chim kêu. Nội công Thiệu-Thái cao nhất, chàng nhổm dậy:
          - Cặp chim ưng của Thuận-Tường. Để anh gọi nó xuống xem sao.
          Chàng ló đầu qua cửa sổ hú lên hai tiếng. Cặp chim ưng đáp xuống cạnh chàng. Chàng mở ống tre dưới chân nó lấy ra tờ giấy. Mọi người đều ghé mắt đọc:

          Bán dạ, quỳnh hoa uyển,
          Tiêu thanh tâm hoài thì.


          Mọi người ngơ ngác nhìn Mỹ-Linh chờ giải thích. Mỹ-Linh nói:
          - Chà nét chữ hoa dạng quá. Không phải chữ Tự-Mai. Người viết tờ thư này chắc là đàn bà, vì nét chữ mềm mại, tờ hoa tiên thoang thoảng mùi thơm. Để tôi dịch cho mà nghe:

          Nửa đêm, dưới bóng hoa quỳnh,
          Cùng nhau tương hội, tiêu thanh vọng về.


          Cẩm-Thi phì cười:
          - Tôi đoán ra rồi. Tự-Mai với Thuận-Tường dùng chim ưng viết thư hẹn hò nhau đây. Cứ như ý trong thư, cô nàng hẹn Tự-Mai nửa đêm nay gặp nhau ở vườn hoa quỳnh. Khi đến vườn hoa, thì dùng tiếng tiêu báo cho nàng biết.
          Lê Văn với Tự-Mai vốn thân thiết nhất. Nó bàn:
          - Không biết giờ này Tự, Tông, Lãm ở đâu? Chim ưng bay lượn trên đầu chúng ta, chắc họ ở gần đây thôi. Chị Mỹ-Linh viết mấy chữ gọi anh ấy với với Tông, Lãm hội họp cùng bọn mình cho vui.
          Cẩm-Thi lắc đầu:
          - Cu cậu đang say men tình, gọi đến gặp Quốc-vương với anh Bảo-Dân, chắc cu cậu trốn mất. Để chị giả tuồng chữ Thuận-Tường gọi chàng, chắc chàng đến ngay.
          Mọi người đều bật cười. Cẩm-Thi cầm bút viết:

          Bồng-lai sĩ quân tử,
          Tiêu thanh tâm hoài thì.


          Nàng dịch cho mọi người nghe:

          Đợi chàng tại đảo Bồng-lai,
          Cùng nhau tương hội tiêu thanh vọng về.


          Nàng bỏ thư vào ống tre dưới chân chim. Thiệu-Thái hú lên một tiếng. Cặp chim ưng bay bổng lên cao, rồi hướng về phía Tây.
          Ngô Cẩm-Thi cười:
          - Suốt đời Tự-Mai chuyên trêu ghẹo thiên hạ. Bây giờ chúng ta trêu lại, chắc cu cậu phải nhảy dựng lên. Em đề nghị thế này: Chúng ta đều núp trong một căn phòng. Lê Văn thổi tiêu. Khi anh chàng nhảy qua cửa sổ vào, thấy chúng mình, ắt bẽn lẽn lắm.
          Ngô Cẩm-Thi phối trí mọi người xong, Lê Văn cầm ống tiêu đưa lên môi thổi. Nó nghĩ thầm: Thuận-Tường bị tuyển làm cung nữ, vậy mình tấu khúc tiêu Phụng cầu kỳ hoàng của Tư-mã Tương-Như đời Hán cho anh chàng tin thực.
          Không phải đợi lâu, chỉ lát sau có bước chân người nhè nhẹ ngoài cửa sổ, rồi tiếng gõ cửa. Mỹ-Linh tằng hắng, cửa sổ mở ra. Một thái giám nhảy vào trong như chiếc lá rụng. Đúng là Tự-Mai.
          Thiệu-Thái đã trùm miếng vải che đầu. Chàng nhảy ra chặn cửa sổ, lên tiếng:
          - Người là ai, mà lớn mật dám đột nhập vào đây.
          Tự-Mai thấy người trong phòng không phải là Thuận-Tường. Nó kinh hãi dùng một thế ưng trảo chụp Thiệu-Thái. Thiệu-Thái bật tay lên chĩa ngón trỏ đỡ. Nếu Tự-Mai đánh xuống thì chính tay nó bị điểm vào huyệt Nội-quan. Nó biến trảo thành cầm nã, bẻ ngón tay Thiệu-Thái. Thiệu-Thái úp tay xuống xỉa vào huyệt Đản-trung của Tự-Mai. Nó vội lùi lại, dùng cước quét vào huyệt Trung-đô chân trái Thiệu-Thái. Thiệu-Thái nhảy lùi lại tránh. Nhưng không kịp, bộp một tiếng. Tự-Mai á lên đau đớn, nó ôm chân nhảy lùi lại. Nhanh tay, nó giật khăn trùm đầu Thiệu-Thái ra. Nhưng vì khuôn mặt, thân thể Thiêu-Thái thay đổi nhiều quá nó nhận không ra. Thiệu-Thái thấy nó ngơ ngác nhìn mình, thì bật cười. Bấy giờ nó mới biết kẻ trêu mình đích thực là Thiệu-Thái. Nó kêu lên:
          - Ối ông ỉn! Làm gì người ta đây? Bà ỉn đâu rồi?
          Bàn cho thực phải, Thiệu-Thái thọ lĩnh một trăm năm Thiền-công của Bồ-tát Sùng-Phạm, sau được Bố-Đại hoà thượng dạy thêm, công lực chàng tiến tới chỗ cao thâm khôn lường. Nhưng về quyền cước, chàng chỉ có mấy pho của phái Tây-vu, sau thêm bộ Mục-ngưu thiền chưởng. Trong khi đó Tự-Mai là con một vị đại tôn sư bác học đương thời, không võ công thiên hạ nào mà nó không học qua. Vì vậy chỉ mấy chiêu, nó đã chiếm được tiên cơ.
          Cả bọn đồng xuất hiện. Tự-Mai xấu hổ, nó đưa mắt nhìn mọi người:
          - Phá nhau kiểu này nhất định là bà chị dâu Ngô Cẩm-Thi rồi, chứ trong bọn mình không ai dám trêu mỗ.
          Cẩm-Thi hỏi:
          - Tại sao cậu biết là chị.
          - Dễ mà. Ông ỉn tính hiền lành, chẳng bao giờ nghĩ ra được lối chơi quái đản này. Anh Đản đang muốn cầu mỗ để mỗ gỡ rối cho cái vụ phải ứng tuyển phò mã, thân mình lo chưa xong, thì dám phá ai? Lê Văn với mỗ tuy hai, mà một, chẳng bao giờ nỡ trêu nhau. Còn bà chị Mỹ-Linh vốn thương yêu mỗ vô bờ bến, chắc không phải tác giả rồi. Cuối cùng còn Ngô công chúa mà thôi. Đúng không?
          Mỹ-Linh đưa mẩu giấy Thuận-Tường viết cho Tự-Mai. Nó bẽn lẽn cầm lên đọc, rồi bỏ vào túi. Nó trố mắt nhìn Thiệu-Thái:
          - Này ông ỉn. Bộ ông lột da hay sao, mà trước kia da bì bì, nay thì tươi sáng hồng hào không kém gì da Bố-đại hoà thượng, môi lại hồng như con gái vậy. Trước dáng điệu ụt ịt bộ tịch như như con lợn, bây giờ bụng thon, mặt như ngọc, tư thái phong lưu quá. Lạ thực.
          Lê Văn giải thích cho Tự-Mai nghe. Tự-Mai bảo Thiệu-Thái:
          - Tuy rằng bây giờ anh đẹp như cây ngọc trước gió, nhưng em vẫn gọi là ông ỉn để ghi lại kỷ niệm trước kia.
          Có tiếng Thanh-Mai vọng vào:
          - Tự-Mai đấy à? Tất cả ra đây.
          Thanh-Mai thấy em đượm vẻ phong trần, nàng trêu nó:
          - Gái phải trai như thài lài phải cứt chó. Trai phải gái như cò bợ phải nước mưa. Hồi đại hội Lộc-hà em nói với chị như thế phải không? Thuận-Tông, Thiện-Lãm đâu?
          - Chúng nó với em cùng trọ trong khách điếm Nam-phong này. Để em gọi bọn nó tới.
          Tự-Mai băng mình ra khỏi đảo, lát sau nó trở lại với Thuận-Tông, Thiện-
          Lãm. Khai-Quốc vương bảo Thiệu-Thái:
          - Cháu sai chim ưng canh phòng. Chúng ta họp nhau, có nhiều việc quan trọng.
          Mọi người ngồi vào chỗ nghiêm chỉnh. Vương hỏi Tự-Mai:
          - Em đã liên lạc được với Bảo-Hòa, Thông-Mai chưa?
          - Hai ông bà ấy như chim. Họ muốn, tự nhiên họ tìm mình. Còn mình muốn tìm họ thực khó khăn vô cùng. Hôm qua hai ông bà báo rằng biết sứ đoàn sẽ tới đây vào sáng nay, và cư trú tại khách điếm Nam-phong này. Cho nên bọn em không dám đi đâu, ngồi chờ.
          - Có tin tức gì lạ không?
          - Em vào cung gặp Lý thái phi ba lần. Đêm nay bà sẽ cho người dẫn em đến tẩm cung của Thiên-Thánh hoàng đế, tìm cho ra điều bí mật ấy.
          Mỹ-Linh giật mình:
          - Vậy chim ưng mang thư ban nãy, do Lý thái phi gửi ra, chứ không phải của Thuận-Tường à?
          - Không! Suốt từ khi đến đây em chỉ gặp nàng có một lần, sau đó toàn viết thư cho nhau mà thôi. Nàng khuyên em phải dùng hết khả năng vào điện thí, hai đứa mới mong thỏa tâm nguyện.
          - Vậy hai câu thơ trên ý nghĩa ra sao?
          - Bán dạ quỳnh hoa uyển là nửa đêm theo khu vực trồng hoa quỳnh trong vườn thượng uyển. Tiêu thanh là tiếng lóng chỉ con cọp. Cọp đây là đôi hổ anh Thiệu-Cực cho Thuận-Tường. Khi Thuận-Tường bị tiến cung, nàng dâng đôi hổ cho hoàng đế. Hoàng đế dùng nó để canh gác nơi làm việc đêm. Tâm hoài thì, nghĩa là phải cẩn thận.
          Tỳ nữ vào báo:
          - Thưa quý khách, có người muốn đến thăm, hiện chờ bên kia cầu.
          Nói rồi trình tấm danh thiếp. Khai-Quốc vương mở ra, thấy trên thiếp vẽ hình con chim ưng xòe cánh, cạnh đó vẽ bông hoa Dạ-lý. Vương bật cười, bảo nữ tỳ:
          - Mời quý khách vào.
          Tự-Mai hỏi:
          - Ai thế?
          - Người mà em thích nhất và người mà em ớn nhất.
          Tự-Mai xịu mặt xuống, vì nó biết đó là Bảo-Hòa, Thông-Mai. Quả nhiên Thông-Mai trong y phục Nho-sinh, còn Bảo-Hòa trong y phục thiếu phụ. Hai người vào phòng. Thông-Mai hỏi:
          - Có ai khác không?
          Thanh-Mai đáp:
          - Không.
          Bảo-Hòa nói với Khai-Quốc vương:
          - Bọn cháu bị lộ hình tích. Hôm qua hai đại cao thủ nội cung theo hút bọn cháu. Bọn cháu phải dùng xe ngựa rời thành. Chúng đuổi theo, rồi diễn ra trận đấu. Võ công hai tên này ngang với bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Chúng dùng Chu-sa độc chưởng. Vì dấu tung tích võ công, nên mãi mới thắng được chúng. Anh Thông-Mai đẩy độc chất vào người chúng. Có lẽ mai này độc tố mới phát.
          Tự-Mai đã được Lý thái phi cho biết khá nhiều về nhân vật nội cung. Nó tò mò:
          - Chị có biết chúng tên gì không?
          - Một gã tên Dương Hoài-Mẫn, một gã tên La Sùng-Đản.
          Tự-Mai à lên:
          - La Sùng-Đản trước giữ chức Nhập-nội đô tri. Mới đây được thăng lên Bắc-ban chỉ hậu nội phẩm, thống lĩnh cung nga, thái giám cùng chỉ huy thị vệ trong Cấm-thành. Còn Dương Hoài-Mẫn giữ chức Hoàng-thành sứ, chỉ huy thị vệ trong hoàng thành. Hai tên này là chân tay của Lưu hậu.
          Khai-Quốc vương truyền mọi người vào họp. Mỹ-Linh hỏi Bảo-Hòa:
          - Chị Bảo-Hòa! Chị có thuộc hết lý lịch các quan trong triều Tống không? Hôm trước Định vương đã tóm lược cho em nghe, nhưng đó là cái nhìn của bậc tể phụ thân vương. Em muốn biết hết những uẩn khúc phía sau cung đình, cùng tư thất các quan kia.
          Thanh-Mai cũng tiếp:
          - Có lẽ Bảo-Hòa nên nói rõ tổ chức triều Tống cho các em chúng hiểu. Hôm trước tại Bắc-biên Thiệu-Cực đã trình bầy rồi, nhưng trên đường sang đây tôi thấy sai nhiều quá, nhất là bí mật quanh Lưu hậu. Vì mai này điện kiến, có thể chúng ta phải đối đầu với các quan, ta cần biết rõ từng người một.
          Bảo-Hòa trình bầy:
          - Tổ chức triều Tống hơi giống triều Đường. Có điều mỗi đời vua một thay đổi. Triều Đường có tể tướng. Triều Tống không dùng danh từ tể tướng mà dùng nhiều danh xưng khác nhau. Trên hết là hoàng đế, uy quyền bao la. Tiếp đó là Tam-sư, Tam-công. Dưới Tam-sư, Tam-công là Thượng-thư tỉnh tức triều chính.
          Lê Văn đưa mắt nhìn Khai-Quốc vương:
          - Như vậy tổ chức triều đình mình cũng hơi giống Tống đấy chứ! Tam sư gồm Thái-sư, Thái-phó, Thái-bảo. Tam công gồm Thái-úy, Tư-đồ, Tư-không. Những chức này thường phong cho thân vương, không dự vào chính sự. Thảng hoặc cũng có những tể thần ở chức vụ lâu năm cũng được đôn lên.
          Bảo-Hòa gật đầu:
          - Đúng thế. Thường từ Tư-đồ tiến Thái-bảo. Thái-phó lên Thái-úy. Đôi khi thêm chữ Kiểm-hiệu cho mỹ tự mà thôi. Bây giờ tới Thượng-thư tỉnh, đời Đường do tể tướng cầm đầu. Tống gọi là Đồng-bình chương sự, gồm hai ông. Hai ông này, mỗi ông đều lĩnh một chức đại học sĩ. Ông lĩnh Chiêu-văn quan đại học sĩ giám tu quốc sử trên ông Tập-hiền viện đại học sĩ. Hiện Tào Lợi-Dụng lĩnh Tập-hiền viện đại học sĩ, mà lại làm tả thừa tướng. Trong khi Vương Tăng lĩnh Chiêu-văn quan đại học sĩ mà lại làm hữu thừa tướng.
          Tự-Mai nhìn Khai-Quốc vương:
          - Nhiệm vụ của tể tướng ra sao?
          - Rất rộng: Phụ tá thiên tử, thống trăm quan, bình thứ chính. Nghĩa là không sự gì trong nước mà không thống thuộc.
          Tôn Đản hỏi:
          - Như vậy có đến hai ông tể tướng. Có phó tể tướng không?
          - Có chứ, có từ hai đến sáu ông, gọi là Tham-tri chính sự. Ngoài ra có rất nhiều ông Thị-trung. Những ông Thị-trung này cũng được bàn chính sự với vua. Dưới Thị-trung tới phó Thị-trung thường gọi là Thị-lang.
          Khai-Quốc vương gật đầu:
          - Điểm này hơi khác với bên mình một chút đây. Thế dưới mấy ông tể tướng, có những tổ chức gì?
          - Gồm Khu-mật viện, Tuyên-huy viện, Đông cung quan, Lục bộ.
          Thuận-Tông rất chú ý tới vấn đề tổ chức. Nó hỏi:
          - Tuyên huy viện là gì vậy?
          - Tuyên-huy có hai. Tuyên-huy Nam-viện và Tuyên-huy Bắc-viện. Hai viện đảm trách những vấn đề lặt vặt, nhưng rất quan trọng. Ngoại sự, thâu gồm tài vật, kiểm kê kho tàng. Nội sự trông coi mọi cung phụng cho nội cung, triều đình như việc triều hội, yến tiệc. Nghiã là thống lĩnh tất cả việc cai trị thái giám, cung nga cùng cung phụng triều đình, nội cung. Còn Đông-cung quan, coi như một triều đình thu nhỏ, tức các quan quanh Đông-cung thái tử. Những chức này không thua chức tước triều đình làm bao.
          Tự-Mai gật đầu:
          - Em có nghe Lý thái phi nói rồi: Gồm các ông Thái-tử thái sư, Thái-tử thái phó, Thái-tử thiếu sư, Thái-tử thiếu phó và Thái-tử thiếu bảo. Những ông này là thầy dạy thái tử. Sau khi thái tử lên ngôi vua, các ông thành tể thần hết. Lỡ thái tử phạm tội, thì các ông cũng bị rơi đầu luôn.
          - Đúng vậy. Còn Lục-bộ gồm Lại-bộ, Hộ-bộ, Lễ-bộ, Binh-bộ, Hình-bộ,
          Công-bộ. Giống hệt bên mình.
          Tôn Đản hỏi:
          - Bây giờ xin sư tỷ cho biết những ông nào giữ chức vụ chính yếu trên? Đầu tiên hai ông tể tướng đã.
          - Cao nhất hiện thời là ông Tào Lợi-Dụng. Ông tự là Dụng-Chi, người đất Ninh-tấn thuộc châu Triệu. Thủa nhỏ đã nổi tiếng biện sĩ, có chí lớn, theo học với phái Liêu-Đông. Hai mươi tuổi triều đình mở cuộc tuyển võ. Trong hơn nghìn thí sinh, Lợi-Dụng cùng mười chín người khác được vào điện thí. Trong cuộc điện thí Lợi-Dụng cùng hai người nữa đứng đầu. Được cử vào chức Hữu-ban điện trực. Năm Cảnh-đức nguyên niên, Khất-đan đem quân đánh Hà-Bắc. Vua Chân-tông thân chinh. Tướng Khất-Đan là Đạt-Giác võ công cực cao, không tướng Tống nào địch nổi. Vua sai Lợi-Dụng song đấu với Đạt-Giác. Võ công hai người ngang nhau. Sau Lợi-Dụng dùng nội công Liêu-Đông làm tiêu tán công lực đối phương, giết Đạt-Giác. Giặc định rút lui, có ý nghị hòa. Sứ thần Tống là Vương Kế-Trung, muốn tìm người có thể cùng đi sứ Khất-đan. Khu-mật viện chọn Lợi-Dụng. Vua Chân-tông ban dụ : Khất-Đan đem quân xuống Nam kỳ này là muốn chiếm đất. Nó đã chiếm của ta mất một châu. Nay tuy bại, nhưng nó sẽ giữ luôn đất không trả. Xưa vua Hán đánh Thiền-vu, tuy bại, nhưng khi nghị hòa chỉ ban vàng lụa. Vậy khanh nên cố đòi đất, mà cho vàng lụa.
          Lợi-Dụng tâu:
          - Khất-Đan vốn thô lỗ, không trọng văn học, kính nể người có sức lực. Thần nguyện trổ thần võ thắng chúng. Nếu không đòi được đất, thần nguyện chết bên đất giặc chứ không dám trở về làm nhục mệnh quân vương. Sau qủa nhiên Lợi-Dụng đòi được đất. Vua phong cho làm Trung-châu thứ sử.
          Mỹ-Linh hỏi:
          - Trước đây nghe nói Lợi-Dụng đã xuống vùng Lĩnh-Nam mình một thời gian. Chuyện đó ra sao?


          <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 07:58:04 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            CDDLT 20.01.2005 17:46:33 (permalink)
            Hồi thứ một trăm lẻ năm

            Cúi đầu e thẹn


            - Đúng vậy. Bấy giờ có viên tri phủ Nghi-châu tham nhũng, làm dân chúng oán giận. Họ bèn cùng hào kiệt, quân sĩ nổi dậy giết chết, chiếm Tuyên-châu, Liễu-châu, Tượng-châu, Quảng-châu. Khắp vùng Quảng Đông, Quảng-Tây chấn động. Lợi-Dụng được phong Quảng-Nam an vũ sứ ( Gồm Quảng-Đông Nam lộ và Quảng-Tây Nam lộ) cầm quân dẹp. Một đêm Dụng giết chết mười hai tướng giặc. Bình định xong, được phong Dẫn-tiến-sứ. Sau dần dần được thăng Lịch-khách tỉnh sứ. Niên hiệu Đại-trung tường phù thứ bẩy (Giáp-Dần, 1014) vua Chân-tông phong làm Khu-mật viện phó sứ, kiêm Tuyên-huy Bắc-viện sứ, Đồng-tri viện sự. Chỉ ít lâu sau lên tới Khu-mật viện sứ, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự. Niên hiệu Thiên-hy thứ nhì (Kỷ-Mùi, 1019) hai tể thần Đinh Vị, Lý Điệt cãi nhau trước mặt vua. Lý Điệt tố Lợi-Dụng với Đinh Vị gian tà, hợp đảng nhau. Vua nổi giận cách chức cả hai.
            Khai-Quốc vương hỏi:
            - Bấy giờ hai ông kia đang giữ chức gì? Bị cách tuột xuống còn thứ dân hay chỉ bị giáng chức thôi?
            Bảo-Hòa mở tập sách trước mặt đọc lên:
            - Bấy giờ Đinh Vị làm Thái-tử thái phó, Khu-mật viện sứ, Bình-chương sự. Vua giáng còn Hộ-bộ thượng thư. Lý Điệt làm Thái-tử thiếu phó, Bình-chương sự bị giáng còn Hộ-bộ thị lang.
            Thiệu-Thái hỏi:
            - Như vậy là Lý Điệt có thù hận với Lợi-Dụng. Điệt là văn quan hay võ quan? Vua có tin Điệt không?
            - Điệt là văn quan. Vua nghe tố, hỏi Lợi-Dụng. Dụng đáp :
            « Dùng văn gặp chúa, thần không bằng Điệt. Nhưng lăn mình vào chỗ chết thắng giặc phò quân vương, Điệt không bằng thần ».
            Trần Bảo-Dân cười:
            - Thằng cha này xuất thân quan võ mà khôn bỏ mẹ. Bản lĩnh làm quan thực cao thâm. Y nói như vậy là có ý muốn tỏ với nhà vua rằng: Bọn quan văn chỉ có miệng lưỡi, thì việc Điệt tố cáo y là vô lý. Y là quan võ, nhất tâm trung kiên, đem mạng sống ra phò tá quân vương. Sau vụ này chắc Lý Điệt bị cách chức nữa.
            - Đúng vậy. Hôm sau vua gọi Đinh Vị vào cho giữ chức như cũ. Còn Lý Điệt bị cách. Lợi-Dụng được thăng lên Kiểm-hiệu thái-sư kiêm Thái-tử thiếu bảo, Hội-linh quan sứ, Thượng-thư hữu Bộc-xạ. Năm Càn-hưng thứ nhất (Nhâm-Tuất 1022) thăng lên Tả-bộc xạ kiêm Thị-trung, Võ-ninh quân tiết độ sứ. Sau đó lên Tư-không. Tới đây Lợi-Dụng lại bất hòa với Vương Tăng.
            Lê Văn nhăn mũi cười:
            - Lão này dễ hạ đấy. Vì y thích gây hấn với đồng liêu, chắc nhiều kẻ thù. Tại sao y gây với Vương Tăng?
            - Vương Tăng giữ chức Chiêu-văn quan đại học sĩ. Nguyên quan chế triều Tống định rằng Khu-mật viện sứ, Kiểm hiệu tam tư, kiêm Thị-trung, Thượng-thư lệnh, khi lâm triều đứng sau tể tướng. Trong khi đó chức Vương Tăng là Chiêu-văn quan đại học sĩ tức tể tướng, nhưng thứ bậc Tham-tri chính sự lại nhỏ hơn Tả-bộc xạ, Thị-trung. Nếu lấy đẳng trật, Lợi-Dụng đứng trước. Nếu lấy chức vụ, Vương Tăng đứng trước. Viên Hạp-môn có nhiệm vụ xếp chỗ lâm triều không biết giải quyết sao. Lợi-Dụng cho thủ hạ nhập dinh Vương Tăng, Trương Tri-Bạch dùng độc chưởng khống chế. Hai người chịu nép. Lợi-Dụng trực tiếp chỉ huy bọn Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản cùng mười trưởng lão bang Nhật-hồ khống chế bách quan. Khắp triều thần đều oán. Y còn dám ngang nghịch cả với Định-vương. Tước của y hiện tới quốc công.(1)
            Tự-Mai hỏi:
            - Trong triều, những tên nào chủ trương mở rộng Nam-biên? Tên nào chủ trương hòa bình?
            - Những tên chủ xâm chiếm đại Việt gồm: Tào Lợi-Dụng, Lã Di-Giản, Trương Kỳ, Hạ Tủng, Trần Nghiêu-Tá, Phạm Ung, Triệu Thúc. Những người chủ hòa gồm Trương Sĩ-Tổn, Lý Điệt, Vương Tùy, Lý Ty, Vương Đức-Dụng. Còn Yến Thù y đứng giữa.
            Trần Bảo-Dân nói sẽ vào tai Khai-Quốc vương:
            - Yến-Thù là danh sĩ. Y vờ theo Lưu hậu mà thôi. Y vốn gốc người Việt, kết bạn thân với tôi. Ta có thể nhờ y nhiều chuyện.
            Khai-Quốc vương hỏi:
            - Gốc tích Yến Thù ra sao?
            - Phụ thân y là di thần Ngô triều sang lập nghiệp ở Mân-Việt. Bẩy tuổi y nổi tiếng thần đồng. Thời Cảnh-đức (1004-1007), Trương Tri-Bạch đang làm An-vũ sứ Giang-Nam, nghe tiếng Yến Thù, cho mời tới đàm luận về văn chương. Y ứng đối như nước chảy. Tri-Bạch thượng biểu về triều, nhà vua cho gọi Thù vào triều. Bấy giờ Thù mới mười hai tuổi. Thù có người bạn gái tên Phương-Lan bằng tuổi Thù. Phương-Lan có thuộc loại sắc nước hương trời. Khi Thù lên đường, nàng nói : Người đi phen này thế nào cũng thanh vân đắc lộ, xin đừng quên nhau. Thù hứa : Dù cho sông cạn đá mòn, lòng này nào có đổi. Thù đến kinh giữa lúc đang đình thí của hơn nghìn tiến sĩ. Vua Chân-tông truyền cho Thù cùng dự thi. Thần sắc Thù thản nhiên, ung dung mài mực viết. Mỗi lần Thù làm xong một đoạn, vua với đại thần cùng đọc. Vua cũng như đại thần đều tấm tắc khen. Vua ban thưởng rồi ân tứ Đồng tiến sĩ xuất thân. Tể-tướng Khấu Chuẩn dèm : Thù không phải người Hán, y là người Việt. Nhà vua cười : Đại thi hào Trương Cửu-Linh đời Đường cũng người Việt vậy.
            Mỹ-Linh, Tự-Mai, Lê Văn vốn ưa văn học, ba người suýt xoa:
            - Tuyệt. Đánh giá một người về văn chương, y học, võ học không thể phân chủng loại, sắc dân.
            - Hai hôm sau, vua truyền Thù làm thi, phú, luận.
            Thù tâu :
            - Bệ hạ muốn thử kiến thức trời cho thần, chứ không phải thử những gì thần học. Hôm trước bệ hạ thân ban đề tài cho thí sinh, thần chưa hề biết qua, như vậy là đúng với long ý. Còn hôm nay bệ hạ truyền thần làm thi, phú, luận. Những thứ đó thần đã học, và làm nhiều rồi. Xin bệ hạ cho đề khác.
            Vua khen tặng Thù trung trực, không dối vua. Vua ra đề tài đặc biệt cho Thù : Di bất khả loạn Hoa.
            Thù cầm bút viết liền hai vạn chữ. Thù bác lời Khổng-tử, bởi Khổng phân biệt ra Bắc-địch, Tây-nhung, Đông-di, Nam-man. Như vậy là thiếu kiến văn. Mỗi nơi đều có sở trường về văn hóa. Như phương Tây có Phật-giáo, phương Nam có thiên-văn, phương Bắc có võ-bị, phương Đông có văn học.
            Lời Thù rất hợp ý vua. Vua phong Thù làm Mật thư tỉnh chính tự.
            Thuận-Tông hỏi:
            - Chức đó là chức gì vậy?
            Mọi người đều lắc đầu. Khấu Kim-An đáp:
            - Chức này nhỏ, nhưng tín cẩn lắm, làm việc cạnh vua. Khi vua ban chỉ thì sao chép, rồi gửi cho tòa Bình-chương. Ở đây sẽ cho những người chữ tốt soạn thành các bản chiếu chỉ.
            Mỹ-Linh hỏi:
            - Thế Thù vinh quy bái tổ, có cưới Phương-Lan không?
            - Có. Khi Thù vinh quy về, bố mẹ Thù hỏi Phương-Lan cho. Hai người lai kinh, ngày ngày ngâm vịnh, ai cũng khen là cặp tài tử giai nhân.
            Lê Văn lắc đầu:
            - Hỏng bét. Anh chàng này hỏng bét rồi!
            Khai-Quốc vương hỏi:
            - Tại sao em bảo hỏng bét?
            - Đại phàm, con trai đến tuổi nhược quán (20 tuổi) tinh khí mạnh, thì cưới vợ mới tốt. Con gái đến tuổi mười sáu tinh huyết sung thịnh, lấy chồng thì sau này nhan sắc bền, con cái khoẻ mạnh thông minh. Thù cưới vợ sớm như vậy thế nào quả chuối tiêu sẽ biến thành quả ớt. Hay cũng lâm cảnh cúi đầu e thẹn.
            Đám đàn ông, từ Bảo-Dân đến Khai-Quốc vương đều bật cười. Mỹ-Linh ngơ ngác hỏi:
            - Cái gì chuối tiêu thành ớt rồi cúi đầu e thẹn?
            Lê Văn hỏi ngược lại:
            - Em không thể trả lời chị, vì phải nói đến những điều cấm con ghế nghe. Tuy vậy, nếu anh cả bảo nói, thì em nói.
            Khai-Quốc vương bật cười:
            - Cái gì mà cấm với không cấm. Chuyện đó là chuyện thực tế, ai cũng phải trải qua. Con gái nên nghe để biết. Vả em là thầy thuốc, cần giảng giải cho mọi người hiểu. Ai cấm, ta cho em vã vào miệng, và cắt cái đó đi.
            Tự-Mai cười khoái trá:
            - Sao anh giống bố quá. Bố cũng nói: Mấy thằng hủ Nho làm bộ cấm đoán con gái nghe truyện tình dục, cấm bàn về truyện phòng the, trong khi họ dâm kinh khủng. Truyện đó không những không cấm mà còn phải viết thành sách dạy cho trai gái nữa.
            Lê Văn ngồi nghiêm trang lại:
            - Cái bộ phận sinh con, đẻ cái của đàn ông có nhiều tên gọi khác nhau. Tên Hán-Việt là dương vật. Tên Việt gọi là con buồi, cái buồi, con cặc, con củ cặc, con cặc lõ. Nhưng đôi khi không muốn nói trắng ra, người ta dùng những tiếng khác thay thế như: Con chim, con cu, con chim cu, con cá chuối, con cá quả, của làm giống, cái đầu gà, thằng củ lẳng, đầu thằng nhỏ. Bộ phận này gồm có hai phần. Thứ nhất là nang hoàn, tức túi đựng hòn dái, hay trứng dái. Cái túi co dãn bất thường, nhờ lớp da dăn deo xếp lại. Bên trong có hai hạt, lớn nhỏ khác nhau tuỳ giống, tùy tuổi, tùy người. Hai hạt đó có tên hòn dái, trứng dái, hột mít, ngọc hành, hai hột, hai trứng. Hai hòn này với thận là bộ phận chính để sản xuất tinh khí.
            Thông-Mai hỏi:
            - Có khi nào người đàn ông chỉ có một hột, hay không có hột không?
            Lê Văn đưa mắt nhìn cử tọa một lượt:
            - Em sẵn sàng nói, nhưng yêu cầu tất cả đàn ông, con trai có mặt phải chắp tay, để lên đầu đã.
            Thông-Mai để tay lên đầu rồi hỏi:
            - Tại sao?
            - Kinh nghiệm hàng trăm lần giảng bài học này cho các ông, là các ông thọc tay vào quần khám hai hột của mình, nên em phải đề phòng sẵn.
            Mọi người cười ồ lên. Lê Văn tiếp:
            - Đại ca Thông-Mai hỏi như vậy là phải. Hoặc vì di truyền, hoặc vì trong khi mang thai, bà mẹ bị bệnh, ăn uống những thức độc, thì đứa trẻ ra đời chỉ có một hòn, hoăc một hòn lớn, một hòn nhỏ, đôi khi không có hòn nào. Y kinh nói: Thận, nang hoàn chủ về chí. Chí tức ý chí. Khi người đàn ông có hột lớn, hột nhỏ, tính tình thường trôi nổi, thiếu chí khí khi học hỏi, khi làm việc, hành sự trì nghi không quyết đoán. Người có một hòn thì tình trạng nặng hơn. Còn người không có hòn nào, thì tiếng nói ỏn ẻn như con gái, không có râu, cơ thể yếu đuối. Những người này thường được tuyển làm thái giám.
            Lê Văn đưa mắt nhìn Thông-Mai:
            - Bộ phận thứ nhì là qui đầu, tức đầu rùa.
            Rồi chàng đứng lên vẽ hình, giảng giải chi tiết ống dẫn tinh, đường dẫn nước tiểu v.v. cuối cùng kết luận:
            - Y kinh nói: Thận chủ não, chủ tủy. Anh chàng Yến Thù làm quan, cần lao chính sự ở vào cái tuổi đáng lẽ được chạy chơi, được phá phách; đó là một nguyên do thận hao. Anh chàng lại cưới vợ sớm, trong khi tinh khí chưa sung thịnh, đó là hai lý do thận hao. Anh chàng đọc sách nhiều, sáng tác nhiều, khiến não tủy hư không, đó là ba điều thận hao. Năm nay anh chàng mới vào tuổi trên ba mươi, nhưng em chắc cái đầu nhỏ thụt vào như đầu rùa mất.
            Bảo-Dân vỗ vai Lê Văn:
            - Em giỏi thực. Mấy tháng trước đây có hai thiếu nữ tuyệt sắc tên Hạnh-Chi, Hạnh-Diệp đến kinh thành thả thơ tuyển phu. Anh ta trúng cả hai. Như thế trong nhà anh ta có Phương-Lan, sáu mỹ mữ, nay thêm hai giai nhân nữa. Anh ta than: Hai giai nhân chỉ để mà nhìn thôi, vì... cái đầu nhỏ anh ta cúi xuống e thẹn. Các danh y đều chịu. Nếu Văn đệ trị được cho anh ta, thì hay biết mấy.
            - Trị thì em dư sức, song anh bắt gã phải giúp mình.
            - Chả cần em trị, anh ta cũng giúp mình tận tâm.
            - Được, em sẽ đi với anh để trị cho y. Thôi, anh nói tiếp về y đi. (2)
            Bảo-Dân thuật:
            - Thù ở cạnh vua, tha hồ đọc sách. Sách nào, tấu chương, quốc vụ Thù đều đọc hết. Năm mười bốn tuổi vua thăng lên : Mật các độc thư. Tức chuyên đọc tất cả tấu chương các nơi gửi về, tóm lược hầu vua. Năm sau được thăng chức đến sáu lần: Chiếu thí trung thư, Thái-thường-tự lễ lang, Đông-phong ân, Quang-lộc tự thừa, Tập hiền hiệu lý. Cuối năm phụ thân qua đời, y cáo quan về chịu tang. Hết tang lai kinh được giữ chức coi về lễ nghi cung Thái-thanh, đặc biệt ghi chép những lời dạy dỗ của thái hậu, hoàng đế cùng hoàng hậu ban cho quần thần, phi tần. Khi mẫu thân qua đời, y xin về cư tang, vua không thuận. Y làm bài thơ cổ phong dài trăm câu khóc mẹ cực thảm thiết. Vua cùng hoàng hậu cảm động, thăng lên Thái-thường tự thừa. Hoàng hậu thấy y thông minh, cho y giữ chức Tham-quân tại phủ Thăng-vương.
            Thiệu-Thái hỏi:
            - Thăng vương là ai vậy?
            - Là Thiên-Thánh hoàng đế. Bấy giờ ông còn là Thái-tử, tước phong Thăng-vương. Cũng năm đó, y được thăng Thượng-thư hộ bộ ngoại lang, kiêm Thái-tử xá nhân. Ít lâu sau thăng Hàn-lâm học sĩ. Mỗi khi vua hỏi Thù về điều gì, Thù lại lấy trong tráp khóa kín ra mẩu giấy nhỏ, ghi chú sự sự chi tiết. Vua rất hài lòng về tính cẩn thận của y.
            Mỹ-Linh hỏi:
            - Y thông minh, cần mẫn, làm quan lớn khi tuổi trẻ như vậy mà không bị người ta ghen tức ư?
            - Không. Y rất khiêm tốn lễ độ. Trong khi làm quan, y để nhiều thời giờ sáng tác văn học. Văn của y từ vua, đại thần cho đến thứ dân đều ưa chuộng. Công chúa nên nhớ các quan cũng như dân chúng Tống rất trọng văn học. Nếu khi triều kiến, công chúa trổ tài văn chương ra, mới thu phục được nhân tâm.(3)
            - Khi Thiên-Thánh hoàng đế lên ngôi vua. Chương-hiến Minh-túc hoàng thái hậu tức Lưu hậu vâng di chiếu buông rèm thính chính, tể thần Đinh Vị, Khu-mật-viện Tào Lợi-Dụng muốn chỉ một mình mình tấu lên Thái-hậu, chứ không muốn đem ra đình nghị. Các quan đều sợ không dám lên tiếng. Mình Thù dám tâu với thái hậu : Quần thần tấu lên Thái-hậu, nào biết sự thể ra sao? Thái-hậu có ngồi sau màn không? Thành ra ai cũng tưởng hai tể thần tự quyết. Thái-hậu khen phải, truyền việc gì cũng phải đình nghị. Sau vụ này Thù được thăng lên Gián-nghị đại phu kiêm thị độc học sĩ.
            Thiện-Lãm hỏi:
            - Hai chức này có lớn không?
            - Lớn. Hơn nữa chức vụ rất tín cẩn. Gián-nghị đại phu chuyên để can gián vua khi vua làm sai, nói nôm na là chức cố vấn cho vua. Còn thị độc học sĩ là chức hầu vua để đọc tấu chương, giảng sách cho vua, tức ông thầy của vua.
            Lê Văn thở dài:
            - Triều Tống đang thịnh có khác. Họ dùng một thần đồng, một văn gia lỗi lạc vào chức giảng sách, cũng như đọc tấu chương. Vua không hiểu thì giảng giải cho. Hèn chi họ muốn mở rộng biên cương.
            - Đâu đã hết. Thái-hậu thấy Thù là cựu thần của Đông-cung, mà chỉ
            giữ chức nhỏ, dù tín cẩn, như vậy không xứng. Bà thăng cho Thù lên làm Lễ-bộ thị lang, Khu-mật viện phó sứ. Khi làm phó sứ, y thấy Khu-mật viện sứ Trương Kỳ vô tài. Y dâng sớ vạch ra những sai lầm của Kỳ.
            Thanh-Mai cau mặt:
            - Y vốn nhũn nhặn, nhưng nay sao sinh chứng vậy?
            - Có gì lạ đâu, y vốn là bạn của đại sư huynh, tam sư huynh với ta. Nguyên Trương Kỳ cho rằng cần phải mở rộng Nam-thùy, sau khi có thêm dân, thêm lúa gạo, quay lên Bắc diệt Liêu, Tây-hạ, Cao-ly. Bốn ta họp nhau, cùng vạch ra những sai lầm của Kỳ: Nam-biên gồm Đại-Việt, Đại-lý, cả hai luôn tuế cống, thần phục, văn học thịnh. Khi không mang quân đánh, thì sĩ dân ai phục? Quân tướng không hết lòng. Chi bằng chấn hưng Nho-học, khuyến khích nông tang cho dân giầu, như vậy mới là đấng nhân quân. Các văn thần đều phụ theo Thù.
            Bảo-Hòa hỏi:
            - Trong tập ghi chú về Tống triều, đại ca Trần Phụ-Quốc có chép truyện Thù bị cách chức. Việc ấy ra sao?
            Bảo-Dân cười:
            - Thù trước đã học võ công Long-biên của phụ thân. Khi y làm quan ở kinh đến tuổi mười tám. Nghe tiếng bọn ta, y đến tham luận về thi, về họa, nhạc, rồi kết bạn. Chúng ta mật cho y biết rằng mình cũng người Việt. Y mừng lắm. Chúng ta đem võ công Đông-a dạy y. Hiện bản lĩnh y ngang với bọn ta.
            Mỹ-Linh bật nói lớn:
            - Có thế chứ. Tiểu muội nghĩ y là văn quan, trói gà không chặt, sao có thể đủ sức khoẻ vừa học, vừa làm quan, vừa viết văn. Thì ra y nhờ võ công, nên có sức khỏe để làm ba bốn chuyện một lúc. Thế y bị cách trong trường hợp nào?
            - Vì ở chức vụ thị độc học sĩ, y ra vào Ngọc-thanh chiếu ứng cảnh linh cung rất thường. Một lần có tên thái giám họ Trịnh hầu nhà vua từ nhỏ cầm gậy trúc chỉ vào mặt y nói đùa : Ông có phải Nam-man không. Y nổi giận vung tay gạt gậy trúc. Chân khí tòng tâm phát ra, khiến gậy vỡ làm nhiều mảnh bay tứ tung. Một mảnh làm gẫy bốn răng cửa của Trịnh tổng thái giám. Quan ngự sử dâng sớ đàn hạch. Y bị cách làm tri huyện Nghi-châu. Khi y lên đường, sĩ tử theo y đến hàng ngàn.
            - Tại sao vậy?
            Thiện-Lãm hỏi.
            - Khi y ở kinh, có mở trường dạy học. Trường của y dành cho Nho-sĩ sắp thi tiến sĩ. Mỗi khoa thi, thí sinh đậu tiến sĩ do cửa y xuất ra đến phân nửa. Vì vậy khi y bị giáng, học sinh đều theo y đi. Ở Nghi-châu mấy tháng, nhà vua nhớ những ngày cùng y làm việc, thăng y coi phủ Ứng-thiên. Ở đây y gặp Phạm Trọng-Yêm. Hai người bàn định lập ra kế hoạch giáo dục học sinh trong nước. Tiếng tăm hai người vang khắp thiên hạ.
            Mỹ-Linh gật đầu:
            - Đúng thế, học phong thời Đường có qui củ. Nhưng sau khi Đường tàn, suốt thời Ngũ-đại cho đến nay, nhờ Thù, Yêm, mới thịnh lên.
            - Triều đình nghị, triệu hồi y về, phong Ngự sử trung thừa, rồi Tư-chính điện học sĩ, kiêm Hàn-lâm độc học sĩ, Binh bộ thị lang. Y về tới kinh, thái hậu thăng y lên Tham-tri chính sự, Thượng-thư tả thừa. Hiện y giữ chức này. Tuy làm quan thân tín, nhưng y cũng bị Tôn Đức-Khắc khống chế bằng độc chưởng. Lát nữa đây ta sẽ thăm y. Thiệu-Thái phải theo ta đi, để giải Chu-sa ngũ độc chưởng cho y. Ta sẽ dạy y phương pháp phản Chu-sa độc chưởng của sư phụ.(4)
            Khai-Quốc vương xoa tay vào nhau:
            - Đánh rắn phải đánh dập đầu. Chúng ta cần ghi tâm: Kẻ nào chủ xâm Đại-Việt ta dùng đủ mọi phương kế hạ chúng. Dù phải xử dụng võ công, vu oan giá hạ, giết chết bố mẹ, vợ con chúng. Ta đã loại được bốn tên trợ thủ đắc lực của Lưu hậu là: Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản. Bây giờ tới tên Tào Lợi-Dụng. Bảo-Hòa, Thông-Mai cần nghiên cứu kế sách sao cho mau chóng.
            Thông-Mai đưa mắt nhìn năm cậu em Đản, Mai, Tông, Lãm, Văn. Tia hàn quang từ mắt chàng chiếu ra uy nghiêm, khiến bọn chúng đều rùng mình, không dám nhìn thẳng vào mặt chàng. Bọn chúng đều nhủ thầm: Hung dữ như Nhật-Hồ lão nhân, mà chúng còn dám phá phách, không hiểu tại sao, chàng là anh chúng, mà chỉ đưa mắt một cái khiến chúng kinh sợ?
            Chỉ riêng Thanh-Mai, nàng đã được sư phụ Hồng-Sơn giải cho rõ: Xưa Phù-Đổng thiên vương thường đốt lửa xung quanh để luyện võ, vì vậy khói bay mù mịt. Nhân đó mắt ngài phải chống với khói, riết rồi nội công của ngài khiến người sau luyện thành, mắt chiếu ra tia nhìn cực mạnh, dù bất cứ ai bị rọi vào người cũng phải rùng mình.
            Thông-Mai chỉ năm trẻ:
            - Việc hạ Lưu hậu với bọn chân tay không khó. Kế hoạch đã sẵn. Nhưng thành hay không do các em. Các em phải tuyệt đối nghe lời ta.
            Cả năm trẻ đều răm rắp:
            - Bọn em tuyệt đối tuân lời sư huynh.
            Quốc-Vương nói với Tự-Mai:
            - Việc hạ Lưu hậu cần chờ tới cuộc thám thính đêm nay của Tự-Mai đã. Cuộc thám thính đêm nay rất quan trọng. Nếu ta thành công, có thể bảo vệ Đại-Việt ít nhất trong ba mươi năm không sợ Tống xâm lăng. Lỡ ra bị lộ, sẽ đưa đến Lý thái-phi, Thiên-Thánh hoàng đế và tất cả chúng ta e khó toàn tính mạng. Dù tính mạng chúng ta được bảo toàn, nhưng Tống-Việt sẽ có chiến tranh. Em thử nghĩ xem có làm nổi không?
            - Em đã suy nghĩ kỹ, nếu em bị bắt, chắc chắn sẽ bị giết. Em sẽ xưng là người của Tây-hạ, rồi tự tử. Chị Bảo-Hòa đã may cho em bộ quần áo thái giám bằng vải Tây-hạ rồi. Trong túi, em còn bỏ một bộ giản sử Tây-hạ nữa. Như vậy Lưu hậu nổi giận, thì chiến tranh Tống-Hạ sẽ xẩy ra, chứ không liên quan tới Đại-Việt.
            - Được rồi. Ta sợ trong đám thị vệ có người nhận ra võ công, chiêu số của mình mới phiền.
            - Chị Bảo-Hòa đã tính đến truyện đó. Trong khi đấu, em dùng Thái-cực quyền cùng phép điểm huyệt. Hai pho võ công này chưa truyền ra ngoài, thì bọn thị vệ khó lòng biết nổi.
            - Bằng vào dịch lý của Nho-gia, Nhân-qủa của nhà Phật, chúng ta hành sự theo đạo lý, không thể chịu sự thất bại. Em cứ cố gắng mà làm.
            Vương ghé tai Tự-Mai dặn nhỏ một lúc. Nó gật đầu liên tiếp:
            - Như vậy sau này gặp sư phụ, em phải xám hối về tội ăn cắp. Hà, không ngờ bây giờ em thành tên trộm.
            Vương vỗ vai nó:
            - Mỗi tộc có một nền văn minh riêng. Hiện về phương diện đó, Tống hơn ta nhiều, ta phải học lấy. Chứ đừng tự ái dân tộc, rồi phủ nhận hết cái hay của người.
            Vương nhấn mạnh:
            - Tộc Hán có kẻ tốt người xấu. Em không thể và không nên học thói dã man của bọn Lê Ba, Vũ Nhất-Trụ, Lê Đức vơ đũa cả nắm. Thấy một người Hoa xấu, rồi kéo cao cờ xua đuổi họ, chém giết họ, cướp của mồ hôi nước mắt của họ. Hán, Việt cùng gốc từ vua Phục-Hy, Thần-Nông. Suốt mấy nghìn năm sống yên ổn với nhau. Mãi tới đời Tần Thủy-Hoàng, đạo lý suy đồi y sai Đồ Thư mang quân sang đánh Âu-Lạc; đời Hán Quang-Vũ mưu diệt tộc Việt. Từ đó Việt-Hoa mới thù oán nhau. Quốc sách của chúng ta hiện chủ xướng sao cho hai tộc sống thuận hoà với nhau. Ta diệt tất cả bọn Hán trịch thượng, bọn Việt ác độc với Hán. Ta chỉ chống cái dã tâm của bọn ác độc muốn chiếm đất nước ta, coi ta như chó như lợn. Còn văn hóa vốn vô tri, không nên bỏ cái hay của người. Họ sang đánh ta cướp hết sách về. Nay ta cũng lấy sách của của họ.
            Bảo-Dân, cùng Thiệu-Thái, Lê Văn lên đường đến bộ Lễ trở về, chàng thuật truyện:
            - Khi tôi xưng là người của sứ đoàn Đại-Việt, viên tham-tri Phùng Nguyên vội kính cẩn mời vào. Chính lễ bộ thượng thư Tôn Thích thân rót trà mời tôi. Y thấy tôi nói giọng Biện-kinh thì phục lắm. Trong khi nói truyện vô tình y tiết lộ cho biết Lưu hậu cực kỳ bối rối khi mất tin hai lão Sử cùng Khiếu. Nhất là hôm qua có tấu chương từ Kinh-châu tâu về hai tên đại đạo Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản vào dinh kinh lược sứ trộm bảo vật của sứ đoàn Xiêm. Tiếp theo sáng hôm qua Diêu Vạn cũng dâng biểu về việc dọc đường có giao chiến với hai tên đại đạo Sử, Khiếu. Thái-tử, công chúa An-nan Tam-gia La-sun cùng tâu về việc bị hai tên đạo tặc Sử, Khiếu cướp bảo vật. Tôi tới thăm Yến Thù. Thiệu-Thái đã trị bệnh cho y. Tôi dạy y phương pháp phản Chu-sa độc chưởng rồi.
            - Thế bộ Lễ có cho biết bao giờ chúng ta vào triều kiến không?
            - Không! Về việc tuyển phò mã. Nửa tháng nữa tất cả các ứng sinh đều tề tựu tại bộ Lễ để coi hình dạng, cùng bệnh tật. Vậy mấy cậu em phải chuẩn bị ngay mới kịp.
            Tự-Mai cười lớn:
            - Chị Bảo-Hòa đã may quần áo cho bọn em rồi. Em với Lê Văn mặc y phục thời Lĩnh-Nam. Anh Đản mặc y phục vùng Bắc biên.
            Lê Văn hỏi:
            - Nghĩa là đầu tiên các quan bộ Lễ nắm chân, nắm cẳmg xem bọn em có đẹp trai không? Mắt có bị lác, miệng có bị méo không? Tuổi có quá già không? Sau đó bọn em phải làm gì?
            - Bộ Lễ loại ra một số người. Những người trúng cách được mời ăn tiệc. Hôm sau vào đình thí.
            - Thể lệ ra sao?
            - Các thí sinh vào yết kiến nhà vua. Sau đó, mười bẩy thiếu nữ cùng công chúa cũng xuất hiện, ngồi vào mười tám chiếc ghế kê thành một hàng. Thí sinh chọn cô nào, đứng trước ghế cô ấy. Như vậy họ bị phân thành mười tám toán. Nhà vua ra đầu đề cho các thí sinh thi văn. Mỗi toán lấy trúng cách ba người. Ba người này sẽ đấu võ. Người nào thắng, được làm tân lang.
            Khai-Quốc vương bảo Lê Văn:
            - Em điểm vào mấy huyệt cho Tự-Mai ngủ một giấc. Hết canh một gọi y dậy. Như vậy y khỏe mạnh, tỉnh táo hơn.
            Lê Văn dùng ngón tay trỏ điểm vào huyệt Nội-quan, Thần-môn, Đại-lăng của Tự-Mai. Quả nhiên, Tự-Mai ngáp dài, rồi vào phòng ngủ.
            Trời vừa sập tối, trên trời có tiếng chim ưng réo. Thiệu-Thái nhắc cậu:
            - Bảo-Hòa sai chim ưng đến dẫn đường cho Tự-Mai đấy. Cháu nghĩ cậu nên cho cháu với Mỹ-Linh vào hoàng-thành điều khiển chim ưng theo dõi Tự-Mai, lỡ có gì còn cứu trợ kịp.
            Khai-Quốc vương gật đầu. Tự-Mai được đánh thức. Thanh-Mai thân dọn cơm cho em ăn. Nàng pha một bình trà đặc cho Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cùng Tự-Mai uống. Rồi dặn:
            - Cẩn thận nghe.
            Ba người theo dấu chim ưng dẫn đường biến vào đêm tối. Tới khu cửa Đông hoàng-thành nghe tiếng tiêu văng vẳng. Ba người lần theo mà đi. Tới một nơi thấp nhất, bên trong chỉ là bãi đất đổ rác, không có thị vệ canh coi. Ba người tung mình nhảy lên mặt thành, rồi đáp xuống như chiếc lá rụng.
            Tự-Mai đã quen đường, nó dẫn hai người đến cửa Nam cấm thành, rồi chỉ một cây cao:
            - Chị Mỹ-Linh ở dưới canh chừng, anh Thiệu-Thái lên cây chỉ huy chim ưng. Em vào thành.
            Vì tường cấm thành quá cao, Tự-Mai phải dùng dây, một đầu có thỏi chì tung lên cho quấn vào một trụ thành, rồi giật mạnh. Người nó tung lên cao, đáp lên mặt thành. Nó thu cuộn dây ném ra ngoài cho Mỹ-Linh, rồi đáp xuống đất. Nhanh nhẹn, nó băng mình vào khu vườn thượng uyển nơi trồng toàn hoa quỳnh. Sau khi quan sát, nó nghĩ:
            - Theo bản đồ Lý thái phi vẽ cho ta, ngay Nam cấm thành là Sùng-chính điện, nơi vua ngự triều. Vậy thì kia là Sùng-chính điện rồi. Sau điện Sùng-chính tới Tập-hiền viện, nơi Thiên-Thánh hoàng đế thường làm việc ban đêm.
            Nó băng mình vượt qua khu Sùng-chính tối om, thấy trước mặt là ngôi điện khá lớn, đèn đuốc sáng choang. Nó đoán là điện Tập-hiền. Bên ngoài thị vệ cầm vũ khí đi đi, lại lại canh phòng. Vòng ra phía sau không thấy có thị vệ, nó núp ngay vào bụi cây sát bên cửa sổ.
            Thình lình một luồng gió quạt vào đầu. Kinh hãi, nó tung người lên không. Còn lơ lửng trên cao, dưới ánh sáng lờ mờ, nó nhận ra con Sơn-sơn. Lập tức nó chụm miệng gừ lên mấy tiếng rồi đáp trên lưng cọp. Con Sơn-sơn đã nhận ra Tự-Mai, nó để nguyên cho Tự-Mai cỡi trên lưng. Cả đôi cọp cùng đến bên nó. Nó vuốt ve như chơi với chó. Nó gừ thêm mấy tiếng ngụ ý dặn cọp canh chừng phía sau.
            Nó nhìn vào trong cửa sổ. Bên trong không có ánh sáng chiếu ra. Nó đoán là phòng trống. Lắng tai nghe ngóng một lúc, nó dùng tay sẽ kéo. Cửa sổ có then cài. Nó lùi lại, vận âm kình phát nhẹ một chưởng. Then cửa sổ bị gẫy, cánh cửa từ từ mở ra. Nó nhảy ngay vào trong, rồi đóng cửa lại.
            Ánh sáng từ phòng bên kia lọt qua đủ cho nó nhìn rõ chỗ nó đứng là phòng chứa sách. Phòng này rộng thênh thang. Nhìn những bộ sách xếp ngay ngắn trong hơn trăm giá. Nó than thầm:
            - Sách vở mấy nghìn năm của Trung-nguyên, có bao nhiêu họ đều bảo tồn được hết. Bên mình, văn tự Khoa-đẩu nào có thua gì Trung-nguyên. Nhưng nay bị hủy diệt hết rồi. Bây giờ chỉ có mấy chục bộ, viết bằng chữ Hán lưu truyền mà thôi.
            Có tiếng động từ phòng bên kia vọng lại. Nó leo lên giá sách nhìn qua. Đó là một thư phòng, đèn nến sáng choang. Một thiếu niên đang ngồi trên chiếc ngai sơn son thiếp vàng, cạnh án thư đầy sách. Một trung niên Hán tử mặc quần áo đại thần đứng bên thiếu niên. Gần đó, hai thái giám đang quạt than lò sưởi đỏ rực. Tự-Mai nghĩ thầm:
            - Cơ chừng gã thanh niên này là Thiên-Thánh hoàng đế đây. Kể ra tướng mạo y coi được hơn anh cả mình. Còn trung niên Hán tử là ai, mà tướng mạo thanh nhã, tiên phong đạo cốt, rõ ra con nhà Nho. Có điều chòm râu y hơi giống Nhật-Hồ bên Đại-Việt.
            Một thái giám bước vào quỳ gối:
            - Tâu bệ hạ, thái hậu có chỉ dụ. Hôm nay người se mình, không thính chính. Vậy bệ hạ cùng các đại học sĩ cứ tiếp tục cần lao chính sự.
            Thiếu niên gật đầu, rồi vẫy tay ra hiệu cho thái giám lui. Tự-Mai im lặng theo dõi.
            Bỗng thiếu niên ngửng đầu lên hỏi trung niên Hán tử:
            - Này, Yến học sĩ, trẫm mệt quá rồi, đọc tấu chương không nổi nữa. Người tâu cho trẫm rõ về sứ đoàn Giao-chỉ đi. Vấn đề này lôi thôi quá.
            Nghe thiếu niên nói, Tự-Mai cười thầm:
            - Thì ra gã là Thiên-Thánh hoàng đế thực. Còn Hán tử là Yến Thù đây. . Hai năm trước y được phong Tham tri chính sự, Thượng thư tả thừa, Hàn-lâm thị độc học sĩ cho đến nay vẫn còn giữ chức này. Theo quan chế nhà Tống, chức vị y ngang với phó tể tướng.
            Yến Thù cung tay:
            - Tâu bệ hạ sự việc như sau. Tháng tám năm trước, võ lâm thuộc Lĩnh-Nam cũ, tổ chức đại hội ở Thăng-long, để giỗ Bắc-bình vương Đào Kỳ. Tám vùng có người Việt sống, bầu Khai-Quốc vương Lý Long-Bồ làm minh chủ, và tôn làm trừ quân.
            - Việc này trẫm theo dõi rất chi tiết.
            - Sau đại hội, Khai-Quốc vương cho rằng dân chúng ở Nam-thùy Tống thuộc Quảng-Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam phần đông là người Hoa gốc Việt. Nếu cứ để cho biên thần hai bên gây hấn, bắt dân chúng thù hận nhau mãi, biết đến bao giờ cho yên. Vương quyết định lên đường sang Tống kết hiếu, giải quyết mọi rắc rối với ta.
            Tự-Mai nghĩ thầm:
            - Người Tống cứ gọi nước mình là Giao-chỉ. Trong khi Yến Thù gọi là Đại-Việt. Khi y nói tới anh cả, luôn gọi là vương. Thế thì đúng y là bạn của đại, nhị, tam sư huynh. Y có thiện cảm với Đại-Việt.
            - Khá đấy. Long-Bồ có lòng nhân như vậy thực đáng khen.
            - Khi sứ đoàn tới Quảng-Đông Nam-lộ, tuyên-vũ sứ tấu về triều. Khu-mật viện xin cử thiết kị theo hộ tống. Thái hậu chỉ dụ rằng việc đón sứ đoàn không thuộc Khu-mật viện. Người sai Đàm-châu tư-mã Tào Khánh cùng mười thị vệ võ công cao nhất đi đón. Trên đường tới Quảng-châu, sứ đoàn bị bọn Trường-giang thất quỷ bắt. Chúng ép sứ đoàn khai ra bí mật kho tàng Lĩnh-Nam.
            - Trẫm nghe Lý Long-Bồ võ công cao lắm, sao để cho bọn giặc cướp bắt đi?
            - Khai-Quốc vương là người thủ lễ. Vương cho rằng Tống là nước lớn. Triều đình đã cử thiết kị hộ tống rồi, sứ đoàn không được dùng võ. Dụng võ trên đất Tống là vô lễ với tộc Hán, với võ lâm, với triều đình.
            - Cử chỉ đáng khen. Giữ lễ như thế thực chưa có nước nào hơn.
            - Tâu bệ hạ, trên đường đến Khúc-giang, sứ đoàn khuyên răn thế nào không biết, Trường-giang thất quỷ quay lại qui phục triều đình, thành bộ hạ của Định-vương.
            - Chắc Thái-sư vui lắm.
            - Vâng. Giữa lúc đó bang Nhật-hồ đại hội ở Tuyệt-phong, đánh thuốc độc hại Định-vương cùng phái đoàn của người. Khai-Quốc vương với sứ đoàn xuất hiện. Sứ đoàn dùng võ công chinh phục bang này. Họ đồng ý giải tán, đổi thành bang Hoàng-Đế, chuyên đi trị bệnh cho dân chúng. Vì vậy Định-vương, Quốc-vương kết làm anh em.
            - Từ trước đến giờ, triều đình truy lùng trải mấy chục năm, mà không diệt được tụi Nhật-hồ. Nay Khai-Quốc vương khiến chúng cải tà qui chánh. Như vậy vương có công lớn với triều đình. Hà! Triều đình nợ vương hai món lớn quá.
            - Thái hậu sai hai đại thần Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ cùng mười thị vệ võ công cao nhất xuống Khúc-giang đón sứ đoàn. Dọc đường không biết một thế lực nào đó, bắt mất mười thị vệ. Hai vị Tôn, Lê thua trí, hoá điên hoá khùng. Triều đình mất tin tức sứ đoàn.
            - Võ công hai vị này bậc nhất đất Tống, thêm mười thị vệ mà sao còn để thất bại.
            - Thực khó hiểu! Thái hậu lại sai hai vị đại tướng quân Sử, Khiếu đi đón. Không rõ tại sao hai vị lại đột nhập dinh kinh lược sứ Kinh-châu ăn trộm cống phẩm cửa sứ bộ Xiêm rồi trốn mất. Hiện sứ bộ Xiêm đã tới Biện-kinh.
            - Trước đây trẫm đã tâu với thái hậu rằng: Bọn theo Hồng-thiết giáo ở bất cứ đâu cũng thuộc loại du thủ du thực, ngu ngu đần đần, điên điên khùng khùng. Mình dùng nó, có ngày nó cắn mình. Tục ngữ nói đừng chơi với hổ, có ngày nó ăn thịt. Đừng gần với rắn, có ngày nó nhả nọc. Bọn Hồng-thiết giáo vừa là hổ vừa là rắn. Đến sứ đoàn mà hai lão còn dám ăn trộm thì trong cung này khó yên.
            Ngừng lại suy nghĩ một lúc, nhà vua tiếp:
            - Thế sứ đoàn Đại-Việt đâu?
            - Tâu vẫn chưa có tin tức gì cả.
            Nhà vua bứt rứt ra mặt:
            - Như vậy thì còn gì thể diện của Thiên-triều nữa. Bọn Tôn, Lê, Sử, Khiếu tội đáng xử trảm. Học sĩ soạn cho trẫm hai chỉ dụ kể tội chúng, trao cho đình thần nghị tội. Nếu không xử bọn chúng, từ nay các phiên thần không qui phục chúng ta. Nguy lắm.
            Bỗng có tiếng nói vọng vào:
            - Tả Bộc-xạ, Hàn quốc công Tào Lợi-Dụng xin vào triều kiến.
            Thiên-Thánh hoàng đế gật đầu:
            - Mời quốc công.
            Một đại thần thân thể hùng vĩ, mũ áo chính tề, tay cầm trục giấy tiến vào, định quỳ gối hành lễ. Nhà vua đứng dậy phất tay:
            - Quốc công an tọa. Miễn lễ. Đêm khuya quốc công vào có việc gì vậy?
            - Tâu bệ hạ, sứ đoàn Giao-chỉ tự tới Biện-kinh, hiện trú ngụ ở khách điếm Nam-phong. Sáng nay họ đến bộ Lễ cáo tri.
            - Thực nhục quốc thể. Tể tướng phải chiếu luật trị tội bọn hộ tống sứ đoàn Đại-Việt. Ai đời ba đoàn được cử đi, mà để cho đạo tặc quấy nhiễu, rồi họ tự tới kinh bao giờ. Theo ý tể tướng nên cử ai tiếp sứ cho tiện?
            Tự-Mai chửi thầm:
            - Trong khi nhà vua gọi nước mình là Đại-Việt. Mà lão già này cứ gọi là Giao-chỉ, như vậy lão thuộc phe chống nước mình đây.
            - Tâu bệ hạ, sứ đoàn Giao-chỉ gồm Lý Long-Bồ cùng vợ tên Trần Thanh-Mai. Cháu gái tên Lý Mỹ-Linh. Cháu trai tên Thân Thiệu-Thái. Ngoài ra có năm thiếu niên sang ứng tuyển phò mã. Nhưng chỉ có ba người chính thức được đề cử. Dọc đường sứ đoàn tuyển thêm vợ chồng Trần Bảo-Dân, con gái Ngô Quảng-Thiên tên Ngô Cẩm-Thi làm hướng đạo. Theo ý ngu thần, nên cử Hàn-lâm thị độc học sĩ Yến Thù tiếp sứ đoàn. Sở dĩ sứ đoàn có phụ nữ vì họ nghe thái hậu lâm triều, nên muốn bệ kiến.
            - Được rồi, ngày mai truyền cho Yến Thù đem sứ đoàn đến Nam-thanh điện ở. Thôi quốc công về nghỉ, tuổi hạc quốc công đã cao, mà khuya còn phải lao quốc sự làm trẫm không an tâm.
            Nhà vua rót một chung trà trao tay cho Tào Lợi-Dụng:
            - Đây là sâm thang. Quốc công uống một chung cho đỡ mệt.
            Lợi-Dụng tạ ơn, bưng chung sâm thang uống. Nhà vua lấy trong tráp ra một hộp bằng bạc, trao tay cho Lợi-Dụng:
            - Hôm rồi sứ Cao-ly đem đến cống mười cân sâm. Trẫm dâng thái hậu một cân, dùng một cân. Quốc công nên dùng một cân, bảo vệ sức khỏe.
            Tào Lợi-Dụng nói lời tạ ơn rồi ra về. Nhà vua thân tiễn Tào khỏi điện rồi mới trở vào. Tự-Mai nghĩ thầm:
            - Ông vua này thực nhân từ, anh minh. Ông đối với quần thần hơi giống như Thuận-Thiên hoàng đế. Vua, quan như thế, hèn chi nước họ giầu, dân họ mạnh, họ mới nghĩ đến mở rộng Nam-thùy.
            Thiên-Thánh hoàng đế cầm bút phê vào tấu chương về việc tiếp sứ, bỏ ra bên cạnh, rồi cúi xuống đọc tấu chương tiếp. Đọc được một lát, nhà vua buông bút hỏi Yến Thù:
            - Bây giờ đến vấn đề tuyển phò mã. Từ trước đến giờ trẫm không mấy chú ý tới việc này. Hôm trước nghe tuyển phò mã hoàng muội khóc lóc không muốn. Rồi mới đây tự nhiên đổi thái độ, vui vẻ khác thường. Trẫm cật vấn, hoàng muội chỉ cười, không trả lời. Về việc này trẫm có ý nghĩ: Thiếu niên anh hùng thiên hạ thi nhau kéo về, trong lòng họ cực hoan hỉ, phải làm sao cho cuộc đấu võ không có kẻ sống người chết. Khanh nghĩ sao?
            - Việc này thần không được dự vào. Mọi việc do thái hậu định đoạt cả. Chỉ còn tháng nữa bộ Lễ khám bệnh, duyệt lý lịch. Kỳ tuyển này chỉ lấy có một trăm tám mươi người. Sau đó có cuộc điện thí. Đề tài điện thí do bệ hạ ra.
            - Trẫm sẽ không ra đề tài trong Tứ-thư, Ngũ-kinh, mà ra đề tài về những việc trọng đại bản triều. Như vậy, sau này ta có mười tám thiếu niên anh tài từ võ công đến kiến thức đều siêu đẳng.
            - Tại Sùng-chính điện, các ứng sinh được ban cho dự yến. Giữa yến, công chúa cùng mười bẩy tiểu thư con đại thần xuất hiện đi một vòng cho sĩ tử thấy dung nhan. Mỗi hoa khôi ngồi vào một ghế, trước ghế để một án thư, trên án thư có nhánh hoa bằng vàng. Sĩ tử được quyền chọn hoa khôi. Ai muốn ứng làm tân lang của hoa khôi nào, thì đứng trước ghế hoa khôi đó.
            Nhà vua bật cười:
            - Lỡ ra một hoa khôi có hàng mấy chục người xin ứng tuyển thì thực rầy ra to. Lại nữa, lỡ một hoa khôi không ai đoái hoài thì sao?
            - Tâu bệ hạ, tỷ như hoa khôi Giáp có hai mươi người dự tranh, họ sẽ phải đấu võ với nhau. Ai thắng mười chín đối thủ thì được. Lại như hoa khôi Ất không có ai xin dự tranh, thì sau khi những người dự tranh các hoa khôi khác bị loại, sẽ lại có quyền tái xin dự tranh.
            - Ai nghĩ ra thể lệ này vậy?
            - Thần không rõ, tất cả do chỉ dụ của thái hậu truyền cho Tào Lợi-Dụng.
            - Chắc Tào bầy ra đây.
            Nhà vua bảo hai thái giám:
            - Cho hai người rời khỏi đây. Trẫm có việc riêng muốn nói chuyện với Yến đại học sĩ.
            Hai thái giám lui khỏi phòng. Nhà vua vẫy Yến Thù lại gần. Ông thở dài não nuột:
            - Trẫm có một điều khổ tâm riêng, mong khanh cứ thực tình tâu bầy, đừng dấu diếm trẫm.
            Yến Thù rùng mình, cúi đầu xuống:
            - Thần tội đáng chết, thân làm tới đại thần, mà để chúa có điều khổ tâm. Tâu bệ hạ điều đó thần biết rất rõ, nhưng quả thực sức thần có hạn, không làm được gì hơn.
            - Khanh biết rồi à? Việc đó là việc gì?
            - Tâu bệ hạ, việc nội cung.
            - Từ lâu trẫm thắc mắc về việc thái hậu sinh ra trẫm, thế nhưng người không nuôi trẫm, mà giao cho Dương thục-phi nuôi. Sau người sinh hoàng muội Huệ-Nhu cũng giao cho Lý thần-phi nuôi. Đúng lý ra thái hậu phải thương yêu trẫm với hoàng muội lắm. Thế nhưng người đối với trẫm hết sức nghiêm khắc. Trong khi Lý thần phi lại yêu thương trẫm đến chỗ không thể tưởng tượng nổi.
            - Bệ hạ thánh minh ít ai sánh kịp.
            - Từ khi trẫm có trí khôn, Lý thần phi thường tìm cách gần trẫm vào những lúc vắng người. Tin này tới tai thái hậu, người cấm không cho Thần-phi thăm trẫm nữa. Trẫm phải âm thầm thăm thần phi.
            - Tâu bệ hạ, Thần-phi với Thái-hậu hai lần cùng mang thai, sinh cùng ngày. Lần đầu thái hậu sinh bệ hạ, thần phi sinh một hoàng nam. Được mấy giờ hoàng nam hoăng. Lần sau thái hậu sinh công chúa Huệ-Nhu. Lý thần phi cũng sinh một công chúa. Như lần trước, được mấy giờ cũng hoăng. Nhưng thần biết, bệ hạ không xuất từ Lưu thái hậu. Mà xuất từ Lý phi. Vụ này hiện đổ bể. Thái hậu định dùng hai lão Sử, Khiếu đem thị vệ hại thái phi, giáng bệ hạ xuống tước vương rồi sát hại. Sau đó lập lên một ấu quân.
            - Sao khanh biết?
            - Định-vương ban dụ rằng hiện người của thái hậu bao quanh hoàng thượng, vương rất khó tâu điều này. Vì vậy vương truyền thần thay vương tấu ngũ sự khẩn yếu.
            Nhà vua nắm lấy tay Yến Thù:
            - Trẫm thấy từ hôm Nam-du về đến giờ thái sư không vào cung gặp trẫm. Trẫm cho rằng người mệt mỏi, nên nghỉ tĩnh dưỡng. Thì ra thái sư dương Đông kích Tây như thế đó.
            - Điều thứ nhất, nhân vụ Sử, Khiếu lộ bản tướng đạo tặc. Bệ hạ phong hai đại võ lâm cao thủ, hiện đang làm quan ở ngoài vào chức vụ của chúng để có người tâm phúc hộ vệ.
            - Điều này sẽ làm thái hậu nổi lôi đình, nhưng bắt buộc.
            - Điều thứ nhì, chuyển hai đạo thị vệ Hoàng-thành thay hai đạo thị vệ Cấm-thành. Hai đạo Hoàng-thành hầu hết đều là người thân tín của thái sư. Như vậy thái hậu có muốn dùng binh biến truất phế bệ hạ, cũng không làm được nữa.
            - Thì ra thái sư chuẩn bị cả rồi.
            - Tâu bệ hạ, thái hậu bàn Nam chinh với thái sư. Thái sư vờ tán thành. Người còn xin đi sứ, đem cả cháu thái hậu là Dư Tĩnh theo, làm như nhất tâm với thái hậu. Cho nên bề ngoài người giả như gây hấn với võ lâm Nam phương. Nhưng bề trong người mật sai Phạm Trọng-Yêm, Ngô Anh bí mật liên lạc, kết thân với võ lâm nhân sĩ Lĩnh ngoại. Trong khi người vắng nhà, thái hậu tha hồ tung hoành. Thái hậu đâu ngờ thái sư tuy vắng nhà, nhưng người thân tín thực nhiều chuẩn bị hết mọi sự.
            - Tuyệt.
            - Điều thứ ba, Thái-sư cử người thay thế Tôn Đức-Khắc thống lĩnh Ngự-lâm quân. Các tướng trong Ngự-lâm quân toàn người trung nghĩa của triều đình, mà thái sư đã thay dần và loại bọn dư đảng bang Nhật-hồ rồi.
            - Thái sư đã dự trù cử ai vào chức vụ này chưa?
            - Tâu bệ hạ người xếp đặt xong rồi. Điều thứ tư, có người nhập cung trị Chu-sa ngũ độc chưởng cho Lý phi, truyền phản Chu-sa ngũ độc để phi quay lại khống chế thái hậu. Bấy giờ bệ hạ mới tôn phi lên làm thái hậu. Thân phận Lưu thái hậu để Lý thái hậu quyết định.
            - Khanh khải với thái sư rằng trẫm xin thái sư bảo toàn cho Lưu thái hậu. Dù gì Lưu hậu cũng là người sủng ái của tiên đế.
            - Thần xin truyền chỉ của bệ hạ tới thái sư. Điều thứ năm, nhân có sứ thần Đại-Việt tiến cống. Bệ hạ chú ý: Đại thần nào dùng tiếng Đại-Việt, Thuận-Thiên hoàng đế, Khai-Quốc vương thì là người trung tín của bệ hạ. Người nào dùng tiếng Giao-chỉ, Nam-man, Lý Công-Uẩn, Lý Long-Bồ thì là người của Lưu thái hậu.
            - Nhưng cho đến nay trẫm cũng chưa có bằng chứng đích xác về xuất thân của mình.
            Yến Thù ghé miệng vào tai nhà vua nói nhỏ. Nhà vua rùng mình, định hỏi một vài chi tiết, thình lình một thái giám vào quỳ tâu:
            - Tâu bệ hạ có quan Tư-mã Kinh-châu Trần Trung-Đạo và Chiêu-võ hiệu úy lĩnh Đô đốc Tương-giang hồ Động-đình Vương Văn xin vào bệ kiến mật tấu khẩn cấp.
            Yến Thù nói:
            - Mời Tư-mã vào trước.
            Tự-Mai nghĩ thầm:
            - Chắc là anh cả, Định-vương xếp đặt với Yến Thù đây, chứ dễ gì nhà vua tiếp ngoại thần trong đêm. Nhất, tam sư huynh về đây từ bao giờ mà mình không biết.
            Trần Trung-Đạo vào quỳ gối:
            - Thần Trần Trung-Đạo, Tư-mã Kinh-châu, lĩnh Phiêu-kị đại tướng quân xin yết kiến thánh hoàng.
            - Tư mã bình thân. Đêm khuya Tư-mã tâu trình việc chi khẩn cấp?
            Trần Trung-Đạo tâu:
            - An-vũ sứ Kinh-châu nhận chỉ của triều đình tiếp sứ đoàn Đại-Việt, Xiêm-la. Trong khi sứ đoàn cư ngụ trong dinh An-vũ sứ, thì hai vị đại thần tên Sử-vạn Na-vượng cùng Khiếu Tam Bản có nhiệm vụ tiếp sứ đoàn Đại-Việt, lại giả làm kẻ trộm đột nhập trộm cống phẩm.
            Rồi Trung-Đạo trần thuật vụ trong khi giao đấu, kiếm Sử, Khiếu bị gẫy rơi lại, quân-sĩ nhận diện được, nên An-vũ sứ sai vẽ hình truy tầm. Dọc đường chiêu thảo sứ Diêu Vạn hộ tống sứ đoàn Xiêm gặp Sử, Khiếu đang áp tải sứ đoàn Đại-Việt. Diêu Vạn đoạt lại được cống phẩm v.v.
            Nhà vua đã đọc qua tấu chương, nay Trung-Đạo diện tấu, khiến nhà vua nổi giận. Nhưng nhà vua ớn vụ Sử, Khiếu thuộc nhóm Nhật-hồ theo giúp thái hậu, nên ông còn trù trừ. Chợt nhớ ra điều gì nhà vua hỏi:
            - Võ công Tư-mã so với Sử, Khiếu ra sao?
            Yến Thù tâu:
            - Võ công Trần Trung-Đạo thuộc võ công Thiền-môn. Người lại học được phương pháp phản Chu-sa độc chưởng, nên mới đánh đuổi nổi hai lão Sử, Khiếu. Nay Sử, Khiếu phạm tội đạo tặc, thần nghĩ bệ hạ nên lưu Trung-Đạo ở kinh, hầu chờ khi hai tên kia trở lại, có người trị chúng.
            Nhà vua gật đầu:
            - Mời Tư-mã ngồi. Cho Vương Văn vào.
            Trần Phụ-Quốc vào, quỳ gối:
            - Thần Vương Văn, lĩnh Chiêu-võ hiệu uý, Đô đốc Tương-giang hồ Động-đình xin yết kiến thánh hoàng.
            Yến-Thù cầm bản tấu chương lên tóm lược cho nhà vua nghe về vụ hai đại thần Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ được chỉ dụ đi đón sứ đoàn Đại-Việt cùng mười thị vệ. Mười thị vệ mất tích trong trường hợp kỳ lạ, rồi hai lão hóa điên hóa khùng giết thuyền trưởng ở Tỷ-quy, nay không biết ra sao.
            Nhà vua hỏi Yến Thù:
            - Khanh nghĩ sao?
            Yến Thù ghé sát miệng vào tai nhà vua:
            - Nên phong Trung-Đạo vào chức của Tôn Đức-Khắc. Vương Văn vào chức của Sử-vạn Na-vượng cùng Khiếu Tam Bản. Như vậy bệ hạ có người thân tín hầu giải quyết vụ bảo an cho Lý phi.
            Nhà vua tỏ vẻ cương quyết:
            - Khanh soạn chiếu chỉ cho trẫm, ngay từ bây giờ. Một là phong Trần Trung-Đạo làm Phiêu-kị đại tướng quân, tổng lĩnh Ngự-lâm quân. Hai là phong Vương Văn làm Trấn-quốc đại tướng quân tổng lĩnh thị vệ.
            Yến Thù cầm bút viết chiếu chỉ, rồi tuyên đọc. Phụ-Quốc, Trung-Đạo cúi đầu lạy tạ. Nhà vua tuyên chỉ:
            - Bất cứ trường hợp nào, hai khanh không thể nghe lệnh ai, dù là tể thần. Hai khanh chỉ trực tiếp nghe chỉ dụ của trẫm, hoặc trẫm sai Yến đại học sĩ truyền đến. Ngay bây giờ hai khanh có thể đi nhậm chức được rồi.
            Nhà vua nói nhỏ với Yến Thù:
            - Người mật cáo cho Định-vương biết những gì mới xẩy ra. Người đi ngay, đừng chần chờ nữa.
            Yến Thù cúi đầu bái biệt rời khỏi điện.

            <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 08:00:55 bởi NuHiepDeThuong >
            #6
              Chuyển nhanh đến:

              Thống kê hiện tại

              Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
              Kiểu:
              2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9