BÊN CẠNH ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT
huydungpro 07.09.2008 09:28:11 (permalink)


TẠP BÚT - KHẢO LUẬN " BÊN  CẠNH  ĐỜI  SỐNG  CHẤT"  Phần 1


BÊN CẠNH ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT

(TẠP BÚT-KHẢO LUẬN)
                                           GS.TS.NGUYỄN HUY DUNG   
                     

      Phần 1
 
 
Đã làm người, “đã sinh ra ở trong trời đất” ai cũng muốn sống xứng đáng, muốn thành công, hạnh phúc, cho nên ai ai cũng hiểu sự cần thiết phải ra sức rèn luyện bản thân mình.

Trong cái rèn luyện này điều thường bị bỏ quên là gì? Quên rèn luyện, nuôi dưỡng tâm hồn. Điều quên hoặc coi nhẹ này vì sao là cực kỳ bất cập? Vì rõ ràng trong cuộc sống hiện nay có sự sa sút nghiêm trọng của tâm hồn, nhân cách (và văn hóa) ở bộ phận khá lớn của xã hội ta. Rồi sau này nữa, đến lúc nào đó nếu con người chỉ còn biết những gì thực lợi, thực dụng thì con người ta “tự ĐÁNH MẤT CON NGƯỜI”.

Vậy NGHỆ THUẬT SỐNG CHỐNG SỰ XUỐNG CẤP TÂM HỒN đang thật sự là một nhu cầu nổi cộm, bức thiết, có lúc trở thành thời sự cấp bách hàng đầu, mà cũng không chỉ riêng đối với các thế hệ trẻ đang nối tiếp nhau thôi đâu.

                                          *

 Qua khá nhiều sách mới đây ở nước ngoài và cả trong nước (‘lược dịch’ hoặc ‘biên soạn dựa theo’), có thể thấy một tham vọng dạy ‘thành công’ (chỉ cốt thành công thôi, ‘thành công’ bằng mọi giá) thông qua rất nhiều lời khuyên hành động có kỹ xảo, nhiều chỗ thật tỉ mỉ tinh vi, kể cả không né tránh giả dối, thậm chí cho phép ‘chân thành dỏm’ miễn làm sao chiếm được cảm tình người khác. Ôi thôi, ‘không thật lòng’ có thể lừa được người đấy, nhưng ngắn ngủi thôi. Con người ta ‘thức khuya mới biết đêm dài’ ‘đi đêm có ngày gặp ma’. Vả lại, phàm cái gì quá nặng về hình thức thì thường sẽ rơi vào giả dối. Phải thành thực tại tâm mới bền, mới là chân giá trị.
Thậm chí có gọi là ‘sách học làm người’, là ‘nghệ thuật sống’ mà quá vội vàng những kỹ xảo, những ‘kỹ thuật’ sống với xu hướng nặng về vụ lợi thực dụng một cách lộ liễu, thì rõ là lệch, sai về cơ bản, về phương pháp luận.
Nghệ thuật sống’ của tâm hồn thực ra mới là vấn đề gốc. Cuối cùng rồi mà xét, trăm lần cái ‘ngọn’ mẹo vặt bề ngoài phù du, chẳng bằng một cái ‘gốc’ nghệ thuật sống chân chất từ bên trong tâm hồn chân chính sâu bền.
Có câu hỏi: ở thời đại tin học, tốc độ, ở thời buổi thị trường kinh doanh, quá eo hẹp thời gian, để thành công có nên chọn con đường ‘tắt’ thực dụng ấy cho nhanh gọn và cũng đầy đủ rồi? Không, không phải như thế, và không thể như thế. Nếu xuất phát điểm từ ngọn, từ bề ngoài như trên thì cách giao tế ứng xử đầy ‘tâm lí học hiện đại’, đầy phương pháp ‘khoa học’ cao siêu và gì gì đi nữa thì vẫn là khập khiễng, chưa chính danh, chưa chính trực. Mà cũng chỉ mới là một vế của vấn đề.

Còn cần một vế nữa, ‘vế ’ gốc: tâm hồn. Tâm hồn sinh chính tâm và cả nhiệt tâm với lòng say mê vô bờ - gốc của sức mạnh và niềm vui cõi đời này. Những cái này, ‘rốt cuộc lại’ quan trọng hơn sự khéo léo và thậm chí có khi còn quý hơn cả sự minh bạch của trí óc. Khi giác ngộ bằng cái tâm cảm động thực sự thì sự hăng say nồng nhiệt có thể sẽ trọn đời. Tâm hồn rèn luyện tu dưỡng thành cao thượng, nhân hậu, thành thực, ngay thẳng, cương quyết, quảng đại (rộng lượng, khoan dung, tha thứ), thông cảm, nhường nhịn - mà chữ của nhà Phật là ‘nhẫn nhịn’ - thì trước sau sẽ toả sáng. Và nhất là tự mình có thể tự tôn tự trọng, tự bằng lòng dù trong hoàn cảnh nào – điều kiện không thể thiếu để tiệm cận hạnh phúc.

Còn học kỹ xảo, mẹo thuật ‘tuyệt hảo’ bên ngoài, kể cả nụ cười làm vẻ tao nhã tinh tế, dù công phu đến đâu nhưng nếu tâm chưa đạt hoặc không hề quan tâm đạt sự thành thực, thậm chí tâm lạnh lẽo, thờ ơ, buồn thiu, ích kỉ lại cố tình bỏ qua (chứ không phải không tự biết) không tu luyện tâm thì ôn hoà ‘mặt nạ’, cung cách ‘mặt nạ’ dù đúng phép ‘quốc tế’ cũng đâu che lâu được chân tướng!
 
Những suy ngẫm về rèn luyện, do vậy, tuyệt đối không theo hướng những ‘xảo thuật bí truyền’ dù có ai đó ‘tuyên bố’ rằng nó đã tạo nên ‘thành công’ ở những nhân vật ‘thành đạt’ nào đó. Mà phải theo hướng rèn luyện từ gốc tức từ tâm hồn. Nhưng về hướng rộng lớn này thì chúng ta cũng sẽ chỉ mới có thể bàn hạn định trong một nội dung hạn hẹp nhất định, trong nội dung ‘để làm người’ thôi. Chỉ mới dám tập trung vào một góc nhỏ, vào các yếu tố phù hợp với đại đa số chúng ta mà thôi.

Cái ‘gốc tâm hồn’ để ‘làm người’ như mỗi chúng ta dần dà đã nghiệm thấy là quan trọng bậc nhất và có tính quyết định hạnh phúc. Nhưng rèn luyện nó đâu có dễ. Vì lẽ ‘làm người’ với nghĩa ‘người’ có tâm hồn, nhân cách, đạo đức, lương tâm - quả thật rất khó, Khổng Tử cũng từng nói “vi nhân nan”
Không những khó, lại không có sẵn một mẫu tâm hồn duy nhất gọi là lí tưởng nhất, là tận thiện để chỉ cứ noi theo trong mọi trường hợp. Bởi vì cái tận thiện của mỗi người không ai giống ai cả: chính đó là cái phong phú tuyệt diệu của nhân loại.

Do đó mỗi người chúng ta, dù thấu đạt mọi nguyên lí rồi, vẫn cần thêm một nỗ lực bền bỉ - vạch riêng phần nội dung cụ thể phù hợp nhất cho bản thân mình.
Trong lúc hoạch định nội dung rèn luyện đó, ta chú ý tránh phiến diện, phải bao gồm cả phía vật chất và thân thể. Chúng ta biết tâm hồn (bên trong) và thân thể (bên ngoài) thống nhất làm một, tinh thần và vật chất làm một, cá nhân và xã hội làm một.
Mọi đổi mới đều phải bắt đầu từ tâm hồn vậy. Và cũng chỉ cái TÂM mình mới dạy được mình đổi mới vì:

“Không ai làm thầy mình
“tốt hơn là cái tâm của chính mình”   
   

Câu nói nghe ‘rất hiện đại’ này là lời Trang Tử đã 24 thế ki!
Trên dặm trường tu luyện gốc tâm hồn ấy, ta dần LÀM CHỦ mỗi hành vi của bản thân, để rồi phần nào làm chủ (chí ít cũng ảnh hưởng đến) số phận mình. Và rốt cuộc lại, đích ở cuối chặng đường phải là tâm hồn thanh thản .
Công cuộc rèn luyện tu dưỡng từ gốc tâm hồn nhằm nâng cao tâm hồn để làm tròn chức năng làm người là một trong các việc quan trọng hàng đầu, mọi người đều muốn hiểu kỹ, và rất nên thực hiện liên tục suốt đời.
Như kinh nghiệm những người đi trước, đây là công việc tuy đòi hỏi nhiều cố gắng bền bỉ nghiêm túc, nhưng lại tạo ra nhiều hứng khởi. Vì lẽ tu dưỡng tâm hồn vừa là khoa học lại vừa là nghệ thuật nữa.
 
* * *

NHỮNG NỘI DUNG ĐẦU TIÊN CỦA RÈN LUYỆN, NUÔI DƯỠNG, CHĂM SÓC TÂM HỒN
 
Sang thiên ki III rồi, có thể cảm nhận trong thực tế hai xu thế quý báu đang chớm nở và lớn dần trong một bộ phận lớp trẻ có ý thức nhất: 1- Nổi lên ở họ nhu cầu tâm hồn muốn được mở rộng về phía cha ông, tổ quốc, cũng như mở rộng tới khoa học hiện đại nhất khắp toàn cầu. 2- Cũng nổi lên nhu cầu tâm hồn họ muốn đạt thư thái, tự do tuyệt đối, sự giải thoát.
Ở một góc độ nào đấy, có thể thấy trong nội dung nhu cầu tâm hồn mà hiện nay dần dần hình thành ở họ, có mường tượng một số nét của mẫu tâm hồn lí tưởng tự ngàn xưa phương Đông, ví dụ như: căm ghét sự tham lam tranh giành chiếm hữu và sự tàn bạo cuồng loạn; trân trọng chí nhân, vị tha, vô tư; không coi hưởng lạc và tư dục là mục đích; đối lại, cầu tiến, không chờ đợi ai mà tự lập, và khi thành công không khoa trương (chữ xưa là tâm trai); dám nghĩ dám làm, tự do tư tưởng, không giáo điều sùng bái thần tượng. 
Và trong đó còn có những điều xét ra cũng rất đáng nằm trong phác thảo nội dung mẫu rèn luyện tâm hồn như: không hiếu danh hiếu thắng biện bác tranh cãi; không xét các giá trị theo hư danh; lắng nghe tiếng nói trong tâm hồn mình, tìm tòi trong những kho tàng tinh thần đồ sộ; tập giữ thản nhiên, điềm đạm, không giả dối.
 
Các thực tế trên có thể tham khảo khi ta phác thảo nội dung rèn luyện tâm hồn riêng cho mình. Nhưng nói chung, mỗi khi lập phác thảo này vẫn nên theo phương thức kinh điển, phải xuất phát từ những yếu tố cấu thành của Tâm, từ đó mà xác định những nội dung rèn luyện.

Ba yếu tố của TÂM (đối tượng của tu luyện ở đây) là gì? Là bao gồm 3 mặt, theo tâm lí học cận đại, mà theo tư tưởng Tuân Tử xưa cũng 3 mặt ấy: Lí trí (tri thức); Tình cảm (yêu ghét, mừng giận, buồn vui...); Ý chí (trong đó có nghị lực, có lự  để lựa chọn hành động).

Ba mặt nêu trên gợi ý những nội dung tu luyện tâm hồn rất rộng. Trước tiên nên chọn những điều thiết yếu nhất: chọn phần ‘để làm người’. Sách xưa Ngạn Ngữ cũng từng khuyên “Gốc mọi sự học là học làm người”. Trong đó ắt phải rèn luyện cả ba mặt nội dung trên, nâng chúng lên cao mãi, và chỉ có con đường đó, không có cách nào khác. Nó bao gồm rèn luyện từ lí tưởng, đạo đức, đến lối sống, giúp hình thành nhân cách.
Trước tiên là không ngừng trau dồi lòng nhân + lương tâm, và làm điều thiện :

Trong sứ mệnh làm người có vấn đề sống cho ra sống, theo lẽ sống có TÂM HỒN, dám đấu tranh theo lương tâm, theo lòng NHÂN (tức tính người: yêu người, không hại người, khoan nhượng, trắc ẩn, không vong ân, phù hợp đạo giao lưu – dung thông).

Trong quá trình tự trau dồi tự hoàn thiện lòng NHÂN và LƯƠNG TÂM, nên hàng ngày tự trắc nghiệm, tự kiểm tra mình về động cơ vị kỉ và động cơ vị thamọi hoạt động. Vị tha không chỉ là làm một số việc từ thiện cho người tật bệnh, nghèo khổ, thiệt thòi nhất, mà rất có ý nghĩa là làm những việc tốt giản đơn cho người xung quanh, và cao nhất là dấn thân tự dâng hiến cho sự nghiệp phụng sự Tổ quốc và giải phóng con người.
 
Như nêu trên, trong các nội dung trước tiên của tu luyện tâm hồn là rèn tập không ngừng trong LÀM ĐIỀU THIỆN. ‘Làm điều thiện’ nghe thật dễ hiểu, song cần chú ý mấy đặc điểm:
(1)    phải đúng là xuất phát ‘từ bên trong’, nếu như chưa từ lòng bác ái - rộng tình thương yêu như huynh đệ ruột thịt, thì cũng phải từ tâm hồn nhân ái giác ngộ lẽ vị tha vô tư đích thực.
(2)    Lại phải thường xuyên, không ngừng.
(3)    Và đã trở thành một thói quen (tập quán): trong quá trình rèn tập thói quen tốt này, tối thiểu cần hình thành một kỉ luật tự giác trong lòng là gặp điều thiện cần làm và không ngoài khả năng thì dầu nhỏ mấy cũng không bỏ qua. Kỉ luật ban đầu, do làm ‘riết’ sẽ trở thành thói quen tốt. 
Khi đã thành thói quen của lòng người thì nó không thể biến mất được, sẽ là đầu mối mọi niềm vui.

Có bao nhiêu tính ‘thiện’ tự bên trong con người tốt thì sẽ có bấy nhiêu vẻ đẹp và cao thượng hiện ra trước con mắt tinh đời của mọi người, chẳng gì che khuất mãi được. Đó là lượng giá của đời bao giờ cũng công bằng dù cho nhiều khi công bằng tới muộn.
Còn mấy kẻ mới nổi lên, dù không sẵn cái tâm, cái ‘kỉ luật tự giác’ làm việc thiện thì cũng buộc họ phải làm. Sách cổ Ấn Độ Panchatantra nêu:

“Khi đạt được vương quyền, người ta phe phẩy như tai con voi động cỡn,
“Hưởng nó, chớ quên làm điều thiện.” 

Riêng những người ác và người xấu, chỉ bo bo giữ của, khư khư “giữ tủ” (dấu kiến thức), hoặc nặng hơn - ích kỉ hại nhân .., thì phải làm sao? Chỉ biết rằng dầu “giỏi” đạo đức giả đến mấy, rồi họ vẫn sẽ bị con mắt tinh đời dần dần nhận diện ra. Họ cần kiên quyết tạo lại những điều cơ bản từ tâm hồn, nếu không thì không cơ may thành ‘nhân’ được.
 
Những nội dung tiếp theo của rèn luyện tâm hồn là tôn trọng và trau dồi chân thiện mỹ; chí, khí; những phẩm chất cao thượng cùng những tư tưởng thanh cao:
 
CHÍ và KHÍ không thể thiếu vắng trong tâm hồn mỗi con người chúng ta. CHÍ là ý muồn bền bỉ đi tới đích. KHÍ là sức mạnh thể chất và tinh thần thường xuyên cần thiết trên đường đi tới đích. Nội dung của chí và khí có thể là: chí tiến thủ, chí kiên định, khí hạo nhiên .

Chí tiến thủ là không bao giờ tự mãn mà đổi mới không ngừng.

Chí kiên định là tính bất biến của tâm hồn trước vạn biến của phú quý, bần tiện, uy vũ (theo cách dùng chữ của Mạnh Tử). Nhờ nó, con người ta mới mong dần dần đáng bậc ‘trượng phu’. Nhất là trong cảnh ngộ nghèo khó, vẫn giữ được nhân phẩm, ‘đói cho sạch rách cho thơm’. Trên suốt cả đường đời (với cái thế phơi phới liền một mạch không bị ngưng cắt từng lúc) cho dù gánh nặng, đường xa, nếu có chí kiên định thì:

“Đã làm điều gì tốt, phải làm kỳ được, làm đến cùng, tới chết mới thôi,
“Con đường như thế chẳng là dài hay sao”
(Sách Luận Ngữ).

Khí hạo nhiên từng được Mạnh Tử, Nguyễn Công Trứ bàn khá nhiều. Nó có liên quan chuyện nuôi dưỡng tâm hồn. Có 3 chữ hạo, 1 là bầu trời mùa hạ, 2 là rộng lớn mênh mông, 3 là sáng sủa. Để dễ hiểu, có thể coi khí hạo nhiên là cái sức mạnh rất lớn, khảng khái, ngay thẳng, chính đại quang minh, nên thanh thản giúp nhìn xa trông rộng, hướng vào tư tưởng cao thượng. Lời thơ thật hào hùng khoáng đạt:

“Khí hạo nhiên chí đại chí cương
“So chính khí đã đầy trong trời đất …”

Đọc 2 câu ấy (trong bài hát nói “luận kẻ sĩ” của Nguyễn Công Trứ”), suy ngẫm nghĩa và lí, chắc hẳn stress nặng nề bao nhiêu rồi cũng có thể thuyên giảm, lấy lại được sức mạnh tiến tới đích.

RÈN TẬP NHỮNG PHẨM CHẤT CAO THƯỢNG là nội dung quan trọng của ‘rèn luyện từ gốc tâm hồn để làm người’. Những đức tính, phẩm chất ấy đều mang tính lạc quan tươi sáng, chỉ nảy sinh từ những tâm hồn mạnh đã được rèn luyện, ví dụ như :

§                    Đức tin mãnh liệt ở tất thắng của lí tưởng, ở bản thân mình (tự tin, không sợ hãi);

§                    Niềm hi vọng không bao giờ đánh mất; thường hi vọng trên cơ sở giác ngộ quy luật của phát triển vốn đa biến và rất năng động. Ý của Mạnh tử xưa đẹp như thơ:

“Cây lớn một ôm tay
“sinh từ gốc nhỏ này.
“Lầu chín tầng đồ sộ
“khởi đầu - hòn đất nhỏ
“Đi ngàn dặm thế gian
“khởi đầu - một bước chân.”
(NHD tạm dịch)

§                    Lòng say mê, vui đời và hài hước; ngay cả lúc nguy nan, điều quan trọng nhất là thản nhiên xử lí và có điểm vài nét thư duỗi và chất hài hước Việt Nam nữa;

§                    Tình yêu thương, đồng cảm, cảm thông, trắc ẩn đối với bản thân, với thiên nhiên (từ trăng, biển, hoa, muông thú…), với đồng loại (gia đình, người thân, bầu bạn, cộng đồng gần; rồi tổ quốc dân tộc mình, nhân loại). xoá tệ cục bộ điạ phương, đặt nghĩa cả trên lợi riêng;

§                    Lòng tôn trọng đã thành nếp, thành kỉ luật đối với sự thật, lẽ phải, chân lí, pháp luật, đối với trách nhiệm và bổn phận mà mỗi người phải làm tròn, rồi đối với mọi điều thiện và mọi vẻ đẹp, mọi phẩm chất và bậc hiền tài. cho đến tôn trọng mọi người (cũng chính là tự tôn tự trọng vậy). Ngày nay trong kinh tế thị trường không dễ tìm thấy những người thực sự có phẩm chất ‘trọng nghĩa khinh tài’, biết ‘tôn đức quý hiền’.

Nội dung tiếp theo của rèn luyện tâm hồn là TỰ VUN BỒI BẢN SẮC TÂM HỒN VIỆT NAM.

‘Tu dưỡng từ gốc tâm hồn để làm người’ là rèn tập những phẩm chất cao thượng như vừa nêu trên, thì càng không thể không tập trung vào những phẩm chất tiêu biểu nhất trong cốt lõi, bản chất sâu nhất của truyền thống (bản sắc) tâm hồn Việt Nam. Đó là cái bản sắc giản dị mà sâu sắc đã giúp Việt Nam dù mấy ngàn năm bị đô hộ, dù bị Mã Viện cho thu gom hết trống đồng đúc ra ngựa đem đi và đúc trụ đồng đe doạ, dù bị Trương Thụ nhà Minh gom hết sách vở chở đi hoặc đốt sạch, và đập nát hết bia đá xoá sạch di tích lịch sử dân tộc (tàn bạo thâm hiểm thay!),..mà ta chẳng bị đồng hoá; cũng là cái bản sắc văn hoá tinh thần mạnh mẽ căn bản đã làm một trong các yếu tố chính giúp ta thắng giặc Mỹ mặc dù chúng đã dùng tới 7 triệu tấn bom, hơn 6 triệu rưởi lượt lính Mỹ với 720 tỷ đô la, đã dã man dùng dioxin (da cam) còn di hại thảm khốc nhiều thế hệ cháu con ta.
Có người ví von cái bản sắc ấy là cái gien (gene) của cộng đồng dân tộc ta, mà nếu đem phân tích ra, ta có :

§                    Yêu nước Việt Nam muôn vàn yêu thương, yêu cốt nhục đồng bào đã trải bao đau khổ,
§                    Cần cù lao động, ‘chịu thương chịu khó’,
§                    Khoan dung về tín ngưỡng và tư tưởng,
§                    Người hoà hợp với người và với thiên nhiên,
§                    Coi trọng nghĩa tình, nghĩa tình làm gốc cho gan dạ bất khuất; bất khuất để bảo vệ và phát huy nghĩa tình.
§                    Ưng xử cũng từ đó mà vừa cứng cỏi, vừa mềm mại, kiên nhẫn mà thông minh.
§                    Đầu óc thực tiễn nhưng truyền thống thanh lịch, không thực dụng trần trụi thô thiển,
§                    Yêu thành ngữ-tục ngữ-ca dao, yêu văn học-nghệ thuật, tinh hoa văn hoá, nền văn hiến, đất nước, lịch sử, con người Việt Nam mà nếu chẳng hiểu biết được bao nhiêu (viện cớ bận sinh nhai, hoặc hoàn cảnh quá nhiều năm xa quê hương) do chẳng chịu tìm hiểu và thật sự học tập nên, cứ như mới trên trời rơi xuống thì cũng đáng lấy làm xấu hổ chứ.
§                    Khát vọng tự do. Ngay như cái khát vọng nhàn tản thuở trước có lẽ nên hiểu là một khía cạnh của yêu tự do: cái nhàn minh triết nắm được quy luật tất yếu của nhân sinh, thoát ngoài những quan niệm cổ hủ, tầm thường, thoát ngoài những khen chê phàm tục, thăng chức đâu lấy làm vinh, xuống chức chẳng lấy làm nhục, giữ ung dung tự tại, thế là tự do vậy.

Khi tu luyện tâm hồn bằng vun bồi bản sắc tâm hồn Việt Nam truyền thống ấy, ta quan niệm rõ sự không bất biến, cho nên vừa cần bảo tồn vừa cần nâng cao. Bản sắc tâm hồn Việt Nam luôn động – phát triển theo hình trôn ốc, ta trở lại là ta nhưng ở ‘đỉnh’ (mức) cao hơn. Nên sẽ mãi là tinh tuý nhất và cô đọng nhất. Mỗi chúng ta luyện tâm hồn để luôn ngang tầm đó.
Ta hiểu rõ trong bản sắc tâm hồn Việt Nam có tính nhân loại. Có thể nghĩ rằng những ‘bẳn sắc’ nêu trên không phải chỉ Việt Nam mới có, đâu phải đặc thù riêng Việt Nam? Đúng, nhiều điểm trong đó mang tính toàn nhân loại, tuy nhiên vấn đề là ở đậm độ khác nhau: ở người Việt Nam chúng đậm đặc hơn, nổi trội lên trong một thời gian lịch sử khá dài lâu. Nhà thơ Huy Cận nói:

 “đi sâu vào hồn ta, ta gặp dân tộc;
 “đi sâu vào hồn dân tộc, ta sẽ gặp hồn nhân loại”

Cho nên mỗi chúng ta rèn luyện những phẩm chất trong bản sắc tâm hồn dân tộc ta, chỉ từ đó ta mới đủ căn bản và bản lĩnh để dễ dàng tiếp cận tâm hồn các dân tộc khác và hồn nhân loại. Ta tuyệt đối không kì thị chủng tộc, không bài ngoại, mà thích thú chọn lọc tinh hoa thế giới để tiếp thu, nhất là trên đường hiện đại hoá nước nhà. Ở phạm vi vĩ mô cả nước ngày nay, phương châm “linh hồn, đạo lí Việt Nam + kỹ thuật, thực hành Âu Mỹ” là hợp lí và hoàn toàn không ngược với nội dung tu luyện tâm hồn bằng vun bồi bản sắc tâm hồn Việt Nam nêu trên.
 
Những nội dung tiếp theo bao gồm những rèn luyện khá cụ thể như tự bồi dưỡng học vấn, nghề nghiệp, như giữ lời hứa, đúng giờ, chỉ yêu thương chống đố kỵ ghen tỵ, luôn sửa mình v.v.. nhưng khái quát lại, bao quát hơn, có thể gọi gộp là tự RÈN TẬP NHỮNG THÓI QUEN CƠ BẢN MANG TÍNH CHẤT BẢN LỀ.

Gọi là ‘thói quen’ với nghĩa do rèn luyện kĩ, bền bỉ tới mức ‘tiêu hoá’ nhuần nhị, đồng hoá hẳn thành của riêng mình, tới mức mỗi lần mình tiến hành những việc tốt ấy thì hầu như sẽ không còn phải tốn năng lượng hay cố gắng quá mức nữa, ngược lại quen đến mức không làm những việc tốt đó sẽ thấy khó chịu.
Cũng cần xác định chọn rèn tập thói quen nào vừa cơ bản vừa mang tính bản lề (ta sẽ tạm gọi tắt là ‘thói quen cơ bản-bản lề’). Dưới đây là 3 ví dụ về thói quen cơ bản-bản lề:
 
1. Thói quen ‘điều khiển tư tưởng trong MỖI hành động’, theo thiển ý chúng tôi, là một trong các thói quen hệ trọng hàng đầu. Nội dung nó là thói quen ‘luôn vận dụng trí lự’ để lượng giá phán đoán và tỉnh táo lựa chọn phương án (cách) xử trí tối ưu, ‘luôn vận dụng ý chí để chủ động’, ‘để làm chủ bản thân’ về mọi mặt. Cẩn trọng ‘lựa chọn’ hành vi thích ứng và hành động chính xác như thế đều nhằm đích thành công.

Phương pháp luyện thói quen tốt đó là một ‘phương pháp động’ nghĩa là do luôn tìm tòi, đặt vấn đề, trao đổi, đối thoại, so sánh, chịu khó suy ngẫm cân nhắc… Tóm lại, không là sự tiếp nhận thụ động, bắt buộc mà là sự thích thú tự nguyện giành đoạt lấy. Quá trình tiến hành sinh động thú vị hấp dẫn; cho nên kết quả đạt được có thể rất đẹp, có khi ở mức độ một nghệ thuật - ‘nghệ thuật’ tư duy và hành động. Một “phương pháp động” tương tự như thế đã được ứng dụng trong sự đổi mới giáo dục trên thế giới và được đánh giá là biểu hiện lớn nhất của sự đổi mới đó trong thế kỷ qua; nó giúp đào tạo khả năng suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo. 
Trong cách luyện ‘Thói quen’ nói trên, có ba giai đoạn rèn tập :
(1) học hoà mình vào công việc;
(2) tập suy tư từng vấn đề nhất định (không xao lãng do bất cứ ảnh hưởng nào từ bên ngoài) để hiện ra được các ý tưởng hay (ghi chép lại nếu cần);
(3) luyện bình tĩnh để giữ sáng suốt.
Nội dung giai đoạn 2 – tập suy tư hữu hiệu tìm ý tưởng hay – thường là sự hình dung ra những thuận lợi, những thiệt hại; tư duy suy xét ấy phải sâu, toàn diện, kĩ càng tới tận cùng sự tiến triển; trong quá trình đó mài sắc quan sát, lắng nghe, suy luận, sàng lọc thông tin, loại bỏ những thông tin ‘vớ vẩn’ làm nhiễu, phải toàn diện nhưng phân biệt chính phụ rõ ràng. Rèn khả năng này một cách cần mẫn bền trí qua thực tiễn ‘có hồn’ (không là thực tế bị buông trôi vô ý thức) có rút kinh nghiệm, nhất là đối với các thất bại, va vấp.

Lợi ích của ’thói quen’ này rất lớn, giúp ta trở  thành người có ý thức, chín chắn hơn. Mỗi hành động đều được kiểm soát từ khởi đầu, kể từ khi nó chớm phác thảo rồi được cho phép bằng một ‘quyết định’ của chính mình. Thói quen này điều khiển được tư tưởng tập trung, đào sâu, tìm tòi, suy tính, cân nhắc. Bởi vậy các nỗ lực dường như đều dồn hướng vào, góp phần vào mục tiêu đang phấn đấu. Do đó mỗi công việc sẽ đạt hiệu năng cao nhất.

Hơn nữa, do cẩn thận suy tư tiên liệu những khả năng tình huống xấu nhất cho nên sẽ ít bị những bất ngờ xấu, sẽ không xảy những hành vi thiếu suy nghĩ, tránh được các khinh suất, các sơ hở ngây ngô, giảm bớt sai lầm. Thực chất đó cũng bao gồm vấn đề chuẩn bị, tức là có liên quan thói quen cơ bản-bản lề thứ 2:
 
2. Thói quen chuẩn bị cũng quý báu và quan trọng không kém. Cần tạo thành thói quen tốt ‘luôn thận trọng chuẩn bị’. Sách Trung Dung từng nêu:

“Làm việc gì có chuẩn bị trước thì thành tưụ,
 không phòng xa thì hư hỏng.
“Lời nói có chuẩn bị trước thì không vấp, …
“Tính nết có tính trước thì mới không sinh lầm lỗi”

Còn thuật xử thế Cổ Ấn Độ (trong ‘Panchatantra’ tức là ‘5 quyển giáo huấn’) thì nhấn mạnh:

“Không được làm việc gì mà nhìn chưa kĩ càng,
 chưa nghe, chưa hiểu, chưa kiểm tra tỏ tường…”
“Hành động mà không xem xét kĩ, sẽ phải hối hận”

Như thế có nghĩa là ‘thói quen chuẩn bị’ tạo nhiều lợi ích:
§                    Tạo xúc cảm dương, giảm xúc cảm âm (dẫn tới stress), rất thiết thực cho phòng chống stress vậy.
§                    Cũng nhờ đó mà thói quen chuẩn bị là cách luyện trước sự thích nghi tốt (với những gì sắp xảy ra).
§                    Nó còn tăng lên gấp bội các cơ hội thành công. Ở đời, ta bỏ lỡ khá nhiều lần những cơ hội thành công qúy báu như thế! Thường chỉ vì tính sơ sài đại khái, hoặc vì lười biếng suy nghĩ cho khâu chuẩn bị, lại cứ đổ tại cái ‘số’ không may mắn!
 
3. Nếp ‘Phát triển nội sinh’ là một ‘thói quen cơ bản-bản lề’ nữa thật cần thiết. Nó là sự phát triển thường xuyên nội lực của tâm hồn. Rồi bằng nội lực ấy (của tâm hồn) thúc đẩy mọi sự phát triển bản thân, sự tiến triển mọi công việc. ‘Phát triển nội sinh’ là như thế. Điều đó làm riết sẽ thành nếp như kỷ luật, thành thói quen tốt. Có thể định nghĩa ‘nếp phát triển nội sinh’ là tập quán đưa tâm hồn vào làm nguồn lực bên trong của mọi sự phát triển. Những người như thế sẽ luôn vượt lên trên cảnh tầm thường.
Khi bắt đầu xây dựng cho mình nếp phát triển nội sinh, cũng cần căn cứ sự nhận dạng thuộc tính của tâm hồn mình để cho phù hợp nhất: ví dụ xét xem tâm hồn mình là thuộc nhóm tâm hồn nhạy cảm hay là nhóm tâm hồn hoạt động?
§                    Đối với tâm hồn nhạy cảm cần uốn nắn để thật thăng bằng, đúng đắn, thích hợp, và tế nhị (không ồn ã, ồ ạt, lộ liễu, cực đoan).
§                    Đối với tâm hồn hoạt động (như đã sẵn động cơ mạnh cho con tàu), thì cần ghép một bánh lái tốt, đó là trí tuệ. Bản thân ‘trí tuệ bánh lái’ ấy, về sau lại nhờ chính động cơ ‘tâm hồn hoạt động’ kia mà trở nên hiệu lực hơn nữa. Sự say mê đặc biệt của một ‘tâm hồn hoạt động’ nếu có trí tuệ định hướng tốt thì nếp ‘phát triển nội sinh’ sẽ mỹ mãn.

       Cần bàn thêm đôi điều nói chung về các thói quen cơ bản-bản lề vừa nêu. Sức mạnh của thói quen nói chung thật kì lạ: còn có thể quyết định cả phẩm hạnh lớn cho suốt cuộc đời nữa. Nhờ chúng mà dần dần hình thành : nghị lực; lòng ham học và sửa mình để cầu tiến bộ (với quyết tâm ở mức ‘phẫn nộ cầu tiến’); đức tính công bằng trong mọi hoàn cảnh, với tinh thần sáng suốt. Chúng còn tạo những khả năng khó hơn bội phần ví dụ như khả năng đoàn kết, uy lực tinh thần hoà giải mọi bất đồng, khả năng hoà đồng, xoá mọi thành kiến và cả óc điạ phương cục bộ, rồi lòng tôn đức quý hiền, trọng nghĩa khinh tài (ở trên có nhắc tới) v.v..
Có điều thuận lợi là khi đạt thêm được một thói quen tốt thì nó như kéo theo cả chùm vì chúng gắn với nhau thành phức hệ. Cơ hồ như tu luyện được một thói quen tốt thì tuồng như nó càng thúc đẩy ta quan tâm nuôi dưỡng tâm hồn nhằm đạt thêm một thói quen tốt nữa. Do đó càng thấy việc đạt cho kì được 3 thói quen tốt cơ bản-bản lề đầu tiên là quan trọng đến dường nào.

cách tiến hành, nói chung, khá dễ nhớ : chỉ bằng hành động lặp đi lặp lại hàng ngày mà thành, chẳng khác gì một trò chơi nhỏ trong ‘tấn tuồng lớn’ là cuộc đời, miễn là lửa nhiệt tình luôn được nhen nhóm. ‘Văn ôn võ luyện’; chẳng là văn hoặc võ nhưng ‘thói quen’ càng cần ôn luyện, và chỉ là vấn đề ôn luyện! Hầu như chỉ cần một điều kiện duy nhất: tính kiên trì bền bỉ bởi vì ‘thói quen’ không phải một sớm một chiều mà đã đạt. Đạt được rồi, vẫn cần tính kiên trì bền bỉ ấy bởi vì phải chăm lo duy trì nó bằng cách tiếp tục luyện mãi, nếu không, nó có thể mai một, triệt tiêu.

Tóm lại, rèn luyện các thói quen tốt như trên là con đường bắt buộc mà khả thi để rèn luyện tâm hồn từ gốc. Thực hiện liên tục không ngừng, không quên, dồn vào đó tất cả trí lực, thể lực, thời gian, toàn bộ lửa nhiệt tình và say mê.
 
 
*
THIÊN NHIÊN
 
Trong thời hiện đại, cuộc sống càng tăng tốc, quay cuồng, xộn rộn đến mức hỗn độn thì càng nổi lên, như một bản năng, NHU CẦU TÂM HỒN con người tìm về vớí tự nhiên. Về với thiên nhiên tinh khiết, nơi nguồn sâu phát sinh sự sống, cái đẹp không bao giờ cạn, và tình yêu thương mở tâm hồn rộng thêm, rộng thêm mãi.
Ở người  Việt Nam, nhu cầu đó càng nổi cộm, có thể do hoàn cảnh địa lí, môi trường cẩm tú sơn hà từ bãi biển điạ đầu tổ quốc Trà Cổ qua Vịnh Hạ Long (từ bé tí 8 tuổi, tức cách nay 70 năm tôi đã biết nó là Kỳ quan thế giới), Hạ Long cạn Ninh Bình, đệ nhất động Phong Nha, sông Hương núi Ngự, thác Khói (Đ’ray Sáp), hồ Đa Nhim hùng vĩ bên đèo Ngoạn Mục, thác Đăm B’ri,... rồi vòng mũi Cà Mâu ngược lên bãi biển Hà Tiên nên thơ tận cùng bờ biển phía tây tổ quốc.

Người Việt Nam xưa và nay đều vậy, kể cả những người Việt đã định cư lâu năm ở những đô thị lớn nước ngoài nhưng trong huyết quản vẫn êm đềm chảy dòng Sông Hồng truyền thống cha ông. Ai cũng rất yêu ‘cái nôi thiên nhiên’ Việt Nam của mình, coi nó là ân phước của tổ quốc mà mình có quyền tận hưởng, coi nó là bạn thuỷ chung mà mình được chung sống hài hoà và cộng tác.
Ngày nay đã qua rồi 30 năm chiến tranh thảm khốc, người Việt Nam ta đâu còn chịu cảnh ngộ nước mình bờ biển dài hơn hai ngàn cây số mà có người nông dân xưa cả đời chưa bao giờ nhìn thấy ‘biển bạc’ cẩm tú bao la (!), nói gì đến chuyện được nghỉ mát bãi biển.
 
Mỗi khi được ‘đối cảnh sinh tình’, ta có dịp hưởng thụ tác dụng tốt đẹp của thiên nhiên lên tâm hồn ta. Trước tiên cần luyện cách CẢM NHẬN THIÊN NHIÊN NHƯ THẾ NÀO ?

Bằng tất cả tâm hồn say mê. Bản thân chúng tôi có tập quán quan sát, với tất cả niềm mến phục, những ai biết nhận ra những vẻ đẹp thiên nhiên để say mê ngắm nhìn sắc màu, lắng nhận thanh âm-hương vị-hơi ấm của nó. Tâm hồn họ như nâng lên khi được làm người du lãm phóng lãng tiếp xúc mật thiết với thiên nhiên, ngắm hoa trái, cỏ cây, chim muông đang mùa tươi tốt, ngắm những “thế”, những dáng đẹp của muôn loài sinh vật, của sự sống, thưởng ngoạn vẻ đẹp huyền bí và trang nghiêm của suối trong, hang thẳm, núi cao, trời sao, ngắm vẻ đẹp của sự biến đổi và chuyển động của tạo hoá …. Tâm hồn hưởng thụ trọn vẹn thiên nhiên, lên non xuống biển, hiểu hồn các danh thắng mà ca hát, ngâm thơ:

“Trăng trong gió mát là tương thức
“Nước biếc non xanh ấy cố tri.”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm,Bạch Vân quốc ngữ thi tập,bài số 90)
“Ái ưu vằng vặc trăng in nước
“Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm,Bạch Vân quốc ngữ thi tập,bài số 1)

Lại cảm nhận thiên nhiên bằng tất cả cái hồn thơ truyền thống Việt Nam. Hầu như người Việt Nam nào cũng biết làm thơ, ít ra vài câu lục bát về thiên nhiên của quê hương. Ai cũng yêu thơ, từ những vần dân gian thuộc lòng từ tấm bé như:

                   “Con cò bay lả bay la …”
hoặc:           “… Sao cô đem ánh trăng vàng đổ đi?”
cho đến những bài trong thơ văn bác học như:
                   “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa..”
     (Bà Huyện Thanh Quan)
“Cỏ non xanh rợn chân trời
“Cành lê trắng điểm một vài bông hoa..”
                                                    (Nguyễn Du).

Và cảm nhận thiên nhiên bằng tâm thức thanh tịnh, bằng triết học. Tình yêu đó đối với thiên nhiên như có bao hàm tư tưởng triết lí: sống không cưỡng lại mà thuận theo quy luật của sự sống. Muốn vậy thì trước tiên, cần phải biết phát hiện rồi chọn lựa các góc độ tinh thần của thiên nhiên. Để làm việc này, đạo Phật khuyên :

“Lấy tâm thức thanh tịnh
để cảm nhận vạn vật và thiên nhiên”,
mong từ đó :
“ngộ ra lẽ huyền diệu
 của sự sống thường hằng bất diệt”

Tiếp theo cần phải biết dung hợp tinh thần của người với tinh thần của thiên nhiên (sơn thuỷ, xuân thu, thanh âm, sắc màu, bướm hoa, mỹ nhân, mưa gió, trăng sao, v.v..).

Cuối cùng và quan trọng nhất là cảm nhận thiên nhiên bằng HÒA NHẬP thiên nhiên. Người ‘luyện từ gốc-tâm hồn’ luôn để thiên nhiên chiếm một góc quan trọng trong tâm hồn mình. Mẫu người của nền văn minh tương lai có lẽ càng phải là như vậy, mãi mãi cần ‘hoà nhập làm một’ với thiên nhiên, để phần nào trở lại bản tính hồn hậu, thuần phác, trong trắng, không mảy may giả tạo.
Chúng ta chủ trương tích cực trọn đạo, trọn trách nhiệm với xã hội, không trốn tránh đời. Nhưng trong hoàn cảnh đặc biệt như vào thế kỷ thứ 16-17 nước ta, thú nhàn rất được ca ngợi. Phải chăng có thể coi thú nhàn ấy của người xưa là một dạng đặc biệt của ‘hoà nhập thiên nhiên’, có khi được coi là một khiá cạnh của lòng yêu tự do ở họ. Quả là như tìm thấy tự do, siêu thoát trong thiên nhiên :

“Hoa nhàn cỏ nội khắp xung quanh”
(bài thơ chữ Hán ‘giản đế tùng’ tức ‘cây thông dưới khe’ của Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung [1230-1291], một trong các vị tổ của Thiền tông Việt Nam).

Trở về với Thiên nhiên, dường như Thiên nhiên giúp con người trục xuất những vật dục, hám công danh phú quý, bon chen cạnh tranh, những lôi kéo tội lỗi của kẻ quyền thế... làm vẩn đục tâm hồn. Nhờ đó, giữ được tự do, vì chính bản thân mình là tự do với điều kiện không cam tâm chấp nhận phận nô lệ .
Tâm hồn của người ‘nhàn’, nhàn đúng trong tinh thần ấy, là tiếng ca trong trẻo ca ngợi thiên nhiên của những con người an nhiên tự tại, “lành dữ khen chê cũng mặc ai”, trọng đạo nghĩa giữa “cõi đời ngổn ngang những gò danh đống lợi”:

                   “Một mai, một cuốc, một cần câu
                   “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
                   “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
                   “Người khôn người đến chỗ lao xao.”
 (Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bạch Vân Quốc Ngữ thi tập, bài số 9).   
 
 
*
        
LỬA NhIỆT TÌNH & SAY MÊ

 
Nói cho cùng, rèn luyện gốc tâm hồn sẽ phải dẫn tới một tâm hồn đầy LỬA nhiệt tình, say mê và vui đời. Đã từ lâu chúng tôi nêu lên ‘công thức’:   
‘Tâm hồn được nâng cao’ bắt nguồn từ nhiệt tình, lấy động lực từ không ngừng say mê, và biểu hiện bằng không ngừng vui đời (và hài hước).
 
NHIỆT TÌNHcái thần quý báu trong tâm. Nhiệt tình là một tính chất đặc biệt của tinh thần - tình cảm toả sáng, rực rỡ huy hoàng. Là cái nóng bỏng ẩn sâu trong tâm can. Là mang ngọn lửa lớn trong tâm hồn, là mỗi hành vi ngầm phản chiếu ánh lửa đỏ từ trái tim yêu thương.
Về nhiệt tình, gợi hình ảnh lửa là bày tỏ sự tôn vinh quý trọng đặc biệt. Trong sách Panchatantra của Ấn Độ thế kỷ II, hình ảnh lửa còn xếp cả trên ‘người yêu’ và ‘người hiền’:

“Ngọn lửa trong mùa lạnh là báu vật,
“Nhìn thấy mặt người yêu là báu vật,
“Xã hội những người chân chính là báu vật”.

Nhiệt tình có vị trí và vai trò đặc biệt. Nó vừa như khởi điểm, nguồn căn, vừa như phương tiện, hành trang trên đường hướng tới đích cuối. Như thế nhiệt tình như ‘điều kiện cần’ – thức ăn không thể thiếu để bù đắp năng lượng, duy trì sức mạnh thường trực cho tâm hồn.
Có khi nhiệt tình còn đóng vai trò kích thích tố: những công việc càng khó tức càng nhiều thách thức thì khi đi qua ‘lăng kính nhiệt tình’ sẽ như được cấp thêm chất kích thích nên sẽ chiếu lên thành hứng thú càng mạnh hơn, thành sự trầm tĩnh lúc thực hiện.

Nhưng trên hành trình tới đích kia, có khi nhiệt tình toả sáng như một trái tim nhiệt thành, nên được coi là bản thân đích cuối nữa
Sự biểu lộ của nhiệt tình từ nội tâm ra bên ngoài bằng những hành vi nhiệt thành, những động tác vị tha như quan tâm, giúp đỡ, hay giản đơn chỉ mới là đàm luận với mọi người một cách hứng thú.

Cần quan tâm các phương pháp cụ thể vun bồi nhiệt tình. Phương pháp lặp đi lặp lại nhiều lần những hành vi nhiệt thành ấy đến mức chúng trở thành nếp sống, thói quen tốt và bền chắc.

Vẫn biết rằng gốc nhiệt tình là từ tâm hồn, rằng để nâng cao nhiệt tình thật cơ bản, phải nâng tâm hồn. Song để ‘khởi động’ hoạt động nhiệt tình đầu mỗi ngày ta có thể và rất nên nhờ thể dục buổi sáng đã luyện thành nếp.
Nhiệt tình có lúc khá mỏng manh do chưa thành hẳn nếp sống, nên có thể tan biến mất, ví dụ chỉ do bị chế nhạo hoặc do đau thương... Hiểu như vậy để đúng lúc vực nhiệt tình dậy, nhen nhúm lại lửa nhiệt tình.
Có ngọn lửa của dòng họ, của dân tộc tự ngàn xưa lưu truyền lại, của toàn cộng đồng lớn và nhỏ truyền nhiệt tình sang chúng ta, để chúng ta lại sẽ tiếp tục chuyển nó đi tới phía trước trong cuộc chạy tiếp sức bất tận của ngọn lửa thiêng bất diệt . Đó là quy luật của ‘kế thừa thế hệ-nòi giống trường tồn’.
 
NIỀM SAY MÊ, như ta nghiệm thấy, thường đi sóng đôi với lửa nhiệt tình, tựa như hệ quả của nhiệt tình nữa. Có lửa nhiệt tình mới có niềm say mê. Ngọn nguồn của say mê là lửa nhiệt tình.
Say mê là một đặc điểm của tâm hồn được nâng cao, lại làm động lực cho việc nâng cao không ngừng tâm hồn. Làm động lực cho tâm hồn hàng ngày đạt hiệu quả tối ưu và đạt sự tự bằng lòng.
Có niềm say mê thì mới đạt được sức bật vươn lên có thể làm nên việc lớn lao. F.Hegel nói:“Trên đời này, chưa có việc lớn nào hoàn tất mà không nhờ say mê”.

Hai bí quyết sử dụng say mê. Một bí quyết là tận dụng ưu thế của say mê kết hợp với thời cơ-điều kiện-địa bàn-sân chơi để luôn luôn phác thảo ra những kế hoạch mới, chúng lại quay lại cuốn hút và đẩy cao thêm niềm say mê, tạo nên cảm giác tuyệt vời - hạnh phúc, cảm giác an bình vững vàng trong lòng về kế thừa thế hệ. ‘Kế hoạch mới’ ấy, ban đầu có thể chỉ là dạng một ước mơ. Thậm chí như một giấc mơ đẹp, nhưng hãy giữ lấy nó và hãy biến thành hiện thực. Lời khuyên rất từng trải là: Bạn hãy trân trọng và nuôi dưỡng ước mơ của bạn!

Nhưng bí quyết thứ hai kèm theo là không nên quá nhiều ước mơ tản mạn mà hãy tập trung xoáy sâu vào ‘tiêu điểm’ bằng tất cả sức mạnh cơ bản.
Hai bí quyết ngăn chặn xu hướng sai về say mê. Bí quyết thứ nhất là phải không ngưng say mê – say mê một cách bền bỉ kiên trì để ngăn kiểu hời hợt chóng mê - chóng chán, kiểu đòi bằng được ngay đấy - rồi bỏ ngay đấy. Bí quyết thứ hai là không bị tính ‘nhạy cảm’ mềm yếu uỷ mị thậm chí ngả xu hướng ‘mau nước mắt’ ngự trị ta. Ngược lại cần, rất cần sự soi đường của lí trí, tỉnh táo gạt mọi mù quáng để hoàn toàn làm chủ bản thân.
Một dạng đặc thù của say mê cảm hứng. Trong những loại hình công việc đặc biệt như sáng tạo thi ca, hội hoạ, phát minh ... thì không thể vắng cái cảm hứng ấy. Không có một sáng tạo văn học nghệ thuật đích thực nào lại không do niềm say mê tới mức tạo nên cảm hứng mãnh liệt. Mà cảm hứng mãnh liệt ghép trên một thiên tài và trúng một bối cảnh và thời điểm thích ứng nhất mới tạo nên câu ‘thần’ thơ, nét ‘thần’ họa .. Cảm hứng không những quý báu và cần thiết cho sáng tạo văn học nghệ thuật, mà cả cho sáng tạo khoa học kỹ thuật. Và cũng rất quý và cần cho cải tiến trong mọi nghề nghiệp, bất luận nghề lao động trí óc hay chân tay. Nó dẫn đến nghề tinh thông (còn ‘vinh’ nào bằng ‘nhất nghệ tinh’). Và càng rất cần cho cải tiến thành tích trong thi đấu thể thao, không khác gì trong nghệ thuật vậy. Đầu năm 2002, chuyện kể cô gái 24 tuổi, 39 cân - võ sĩ Thúy Hiền được bình chọn nhân vật số 1 của thể thao Việt Nam, dẫn đầu danh sách 10 vận động viên tiêu biểu năm 2001, mà đây là liên tiếp lần thứ 6 rồi! Một cơ thể lúc nào cũng như hết hơi do luyện tập cao độ, “nhưng khi bước vào thảm đấu lại ‘bốc’ đến vậy” (lời của Thúy Hiền); cái ‘bốc’ đó là gì nếu không phải là một cảm hứng đặc biệt.. do niềm say mê cao độ của lửa nhiệt tình ở tâm hồn đầy nghị lực.
                                         HUY DUNG
                                                                              (CÒN TIẾP) 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.09.2008 23:41:37 bởi huydungpro >
#1
    huydungpro 08.09.2008 22:51:52 (permalink)


    BÊN CẠNH ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT
    GS.TS.NGUYỄN HUY DUNG
    (TẠP BÚT-KHẢO LUẬN)

                      TIẾP THEO & HẾT                     

    Phần 2
     
    LẼ  sỐng
     
    Xác định lẽ sống có khi rất dễ dàng đơn giản, đương nhiên tựa như không khí, ánh sáng chẳng hạn. Nhưng nói chung, việc xác định lẽ sống, sẽ rất thuận lợi nếu có hiểu biết về triết lí ‘nhân sinh’. Cũng có khi cần phải vận dụng đến cả những ý niệm trang trọng ví dụ như ý niệm về “suốt cuộc đời đã làm được gì để lúc nhắm mắt xuôi tay không phải hổ thẹn” vì trong con tim, trong ánh mắt đã có ít nhiều kết quả cụ thể của những mục tiêu-những khát vọng một đời.
    Các MỤC TIÊU mỗi lúc và cả cuộc đời vừa mới nêu đều phục vụ cho lẽ sống nói trên. Có một hay nhiều mục tiêu cụ thể. Đó là những mục tiêu có thể, và rất cần được liên tục điều chỉnh, bổ sung, nhưng không bao giờ được phép vắng bóng, hoặc mờ nhạt. Và càng không được nêu suông, quên lời hứa thực hiện. Chính vì cuộc sống là hẹn ước mà ta phải thực hiện lời hứa. Do đó yêu cầu không thể thiếu là không ngừng xác định các mục tiêu:
    Những mục tiêu chủ yếu ấy có thể là: mục tiêu vì con cái, hoặc vì cha mẹ, người thân khác. Có thể là phụng sự nghề nghiệp hoặc sự nghiệp chủ yếu của bản thân. Có thể là góp phần lo cho tha nhân giảm đói nghèo, đỡ khổ, vượt khỏi sự sa sút nhân phẩm. Lại có thể quảng đại hơn, góp phần vào sự nghiệp của nhân quần nói chung, chống tệ nạn tham nhũng, làm cho đời sống của cộng đồng trở nên tốt đẹp hơn.
    Ngoài ra, phải có các mục tiêu vì chất lượng cụ thể của cuộc sống tinh thần bản thân. Ví dụ như đạt các bí quyết tự hài lòng và sự thanh thản tâm hồn, đạt chất lượng sống của bản thân, đạt những mục nào với mức độ nào lấy từ ‘Nội dung rèn luyện’ (đã nêu trên), tự nâng cao trình độ chuyên môn những mặt cụ thể và bậc cụ thể nào v.v...
    Nhưng có một mục tiêu đặc biệt: khai thác phần nào tiềm năng những khả năng to lớn mà thực ra mỗi con người có thể đạt tới.
    Đúng là mỗi cá nhân con người ta, nói chung, còn bỏ uổng phí rất nhiều kho báu ở dạng chưa khai phá ấy vì ít ai nhận thức rõ bản thân cùng những tiềm năng nào còn lặn ẩn chưa khai thác.
    Song nếu đã nhằm mục tiêu này thì phải nỗ lực lớn và bền bỉ. Tuy tâm hồn có quyền lực bao trùm và có khả năng to lớn, nhưng đó là khi tâm hồn được rèn luyện nâng cao, khi sức mạnh tinh thần được phát triển. Trong nỗ lực vừa nêu không quên tận dụng 3 thói quen cơ bản-bản lề ví dụ điều khiển tư tưởng trong mỗi hành động’, đi tới làm chủ bằng được mọi hành vi của mình. Và nên nhớ: Không một giây phút nào sao nhãng mục tiêu đã vạch là ‘phát huy tận cùng tài năng dù nhỏ mà cá nhân mình có thể có’
    Nói “phát huy tận cùng” tức nỗ lực, nhưng không có nghĩa là phải ‘cực đoan’ đưa ta tới quá sức.  Một ví dụ cực đoan ở đây là ngỡ rằng “công việc và rèn luyện là tất cả”. Như thế là quên rằng cuộc sống luôn đa dạng hứng thú, rộng mở và sắp đặt có trật tự tự nhiên. ‘Sống’ còn bao gồm thư giãn, nghệ thuật, du lãm.., rồi bạn bè, gia đình mà ai ai cũng có nhiệm vụ chăm sóc, giúp đỡ và ai ai cũng được ân sủng dành một khoảng thời gian xứng đáng để cùng hưởng thụ hạnh phúc bên nhau.  
    Và còn một mục tiêu đặc biệt nữa - mục tiêu ‘VUN XỚI MÔI TRƯỜNG TÌNH CẢM’. Vun xới môi trường tình cảm là một trong các công việc có tầm quan trọng bậc nhất trong mỗi con người và bao trùm thời gian cả đời người. Môi trường tình cảm được chăm chút vun xới chu đáo hoàn hảo, điều đó phải luôn luôn là mục tiêu ở ngay trước mắt của mỗi một người, không trừ ai. Vì sao vậy?
    Dù ta có thiên về duy lí cực đoan đến bao nhiêu, ta cũng phải thừa nhận rằng mọi hành động của loài người chúng ta, khác với muôn loài, đều liên quan tới một động lực nền tảng tình cảm. Nó có tác dụng và ảnh hưởng thật bao quát, lại rất đa dạng, phong phú, và vô cùng tinh tế nữa, do đó con người có thể trở nên cao thượng, thuần khiết mà tâm hồn có thể thăng hoa.
    Sinh trưởng, phát triển tâm hồn là trong một môi trường  tình cảm nhất định, và trong mối giao lưu, kết nối, liên thông đa dạng trọn vẹn với môi trường ấy. Bản chất vấn đề là sự dung thông (giao lưu toàn diện và triệt để) trong sự chung sống, cùng thời đại và có thể cả khác thời đại nữa. Bởi vậy nên đòi hỏi cái tâm luôn ân cần lịch lãm tế nhị sẵn sàng giúp đỡ đối với mọi người. Ví dụ gặp khi người thân gặp chuyện chẳng lành (bất hạnh, sai lầm…), tâm khiến ta phải chân thành an ủi, giúp đỡ, khuyên bảo, có đâu khoanh tay đứng ngoài cuộc! Còn như nói tế nhị là ví dụ như tránh suồng sã trong sự chung sống, ngay cả giữa vợ chồng cũng cần có khoảng cách thích đáng để tạo cho nhau cảm được, hiểu được những nét đẹp đẽ thăng hoa lãng mạn và cả hài hước nữa.
    Cũng vì xuất phát từ mục tiêu vừa nêu mà tâm mỗi người phải tránh thù hận. Rũ bỏ thù hận. Không có chỗ và thời gian dành cho thù hận cá nhân. Chỉ có thời gian để thương yêu. Thương yêu như bó đuốc vượt qua được những chặng ô nhiễm tăm tối, tạo lại môi trường tình cảm ngời ngợi sáng.
    Mục tiêu này hỗ trợ cho các mục tiêu khác khiến cho cuộc đời có lẽ sống và lí tưởng đầy ý nghỉa.
     
    *
     
    HỌC TẬP VÀ TÂM HỒN
     
    Rèn luyện từ gốc tâm hồn phải nhờ một phương tiện không thể thiếu, đó là học tập. Không thể nuôi dưỡng tâm hồn nếu không học. Nhưng ‘phương tiện’ mà nhiều khi lại đích thị là cái đích. Học tập được xếp vào vị trí đích của tu luyện vì học tập chính là bản thân chân thiện mĩ, là niềm vui ngộ giác, là đối tượng của say mê thanh cao và bất tận, là bản thân niềm say mê khám phá những bí ẩn cuộc sống, là sự hưởng thụ và gìn giữ vô vàn báu vật của cuộc đời. Nói gọn, học tập là chất lượng cuộc sống, còn là sự giải thoát phơi phới của tâm hồn. Vậy học tập cũng được xếp vào vị trí “mục tiêu” nói riêng  và “lẽ sống” nói chung (đã bàn ở trên).
    Nếu không hiểu cái đẹp và tác dụng ích lợi to lớn của học hành, không luôn coi học có tầm quan trọng hàng đầu, thì khó có được tri thức. Tri thức, trí tuệ càng sâu sẽ càng góp phần quan trọng nuôi dưỡng-nâng cao tâm hồn, tạo tinh thần phóng khoáng, tạo điều kiện thực hiện lẽ giao lưu phổ quát.
    Học tập thì mới thực thi thuyết dung thông (giao lưu kết nối) được. Mà bản thân quá trình học tập thực chất cũng là quá trình dung thông? Đúng vậy. Ít nhất là giao lưu dung thông hai chiều thuận nghịch: tiếp nhận vào và gửi phát ra.
    Tiếp nhận dòng giao lưu không chỉ ở trường lớp mà cả mỗi khi tò mò tự tìm tòi học hỏi. Tiếp nhận ấy có thể theo chiều dọc hay chiều ngang: nhận dòng giao lưu dọc (lịch đại) tức tiếp nhận từ quá khứ; và nhận dòng giao lưu ngang (đồng đại) tức tiếp nhận từ khắp mọi nơi (nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, thế giới phẳng hiện nay).
    Còn phát ra dòng giao lưu nữa, nhiều khi chỉ là tiếp tục chuyển đi dòng giao lưu mới tiếp nhận trước đó. Một phần các kiến thức, tư duy, phẩm hạnh tiếp thu được (học hỏi được) là để truyền lại hoặc để dựa vào đó mà sáng tạo tiếp (tức có đóng góp mới các số liệu và ý kiến của riêng mình) tức phát ra dòng giao lưu, cũng như sự phản hồi trở ra tới mọi người (giao lưu ngang- đồng đại), có thể tới cả các thế hệ tiếp sau nữa (giao lưu dọc- lịch đại), nếu có thể.
    Như vậy là giao lưu không chịu chỉ một chiều mà giao lưu có thuận nghịch, khép kín vòng giao lưu, có như thế mới trọn nhẽ, phải đạo, đúng luật.
    Không những học, mà dạy cũng là giao lưu. Hơn nữa, nếu ở đây, trong sự dạy và học này, ngoài nội dung những điều học, giữa hai phía – người dạy và người học – còn có cả sự giao lưu về những mặt khác ví dụ giao lưu nhanh nhạy và đầy đủ về mức độ hiểu và về ấn tượng tiếp thu thì không những kết quả dạy và học mà cả trình độ sư phạm của thầy và trình độ học hỏi của trò cũng ngày càng hoàn hảo hơn lên mãi.
    NGƯỜI NÀO CẦN HỌC VÀ CÓ THỂ HỌC?
    Bất luận lứa tuổi nào, dù là thanh niên, dù đã cao tuổi, làm nghề gì, ở xứ nào cũng cần học. Và ai cũng thích hợp sự học, cũng có thể học, cũng đều có trong tầm tay mình khả năng để tự học, tự phát triển. Miễn là không quá lười, không ngại ngùng, không cầu toàn.
    Quá thông thái rồi, quá cao tuổi rồi thì không cần học hoặc ‘còn học làm gì’ nữa chăng? Không phải như vậy! Bất cứ ai, kể cả các bậc hiền minh sâu rộng đến đâu cũng không có thể hiểu biết tất cả, vẫn thích làm bạn với sự học. Đại thi hào Gớt từng khuyên “ngay cả thiên tài cực kì vĩ đại cũng không thể tiến xa nếu chỉ muốn lấy mọi thứ từ nội tâm của riêng mình”.
    HỌC BAO LÂU ?
    Học là một quá trình không ngưng suốt dọc cuộc đời. Điều thật sự đáng sợ là ngưng học.
    CHỌN HỌC GÌ?
    Tri thức cần học phải phù hợp nhu cầu thực tiễn nghiệp vụ cấp thiết, đáp ứng vấn đề thời sự bức xúc. Chọn tri thức nào khả dĩ sớm biến thành năng lực và kịp vận dụng đúng chỗ để ứng phó với biết bao cục diện phức tạp.
    Học cả thực hành và lí luận (kim chỉ nam cho thực hành). Quan hệ giữa lí luận và thực hành, rồi giữa nói và làm cũng có thể tìm thấy trong ‘Cổ Ngữ’  xưa:
    “Muốn nói phải nghĩ đến làm
    “Muốn làm phải nhớ đến nói”
    Chọn học ngay từ thực tế từng con người xung quanh, trong đó có những bạn bè ưu tú: rút ra những điều có thể học được. Càng nên học những kinh nghiệm rút ra từ những hoàn cảnh nào mà mình và họ đã phạm phải sai lầm, đó cũng là nguồn học quý mà ta thường quên.
    Coi trọng cả học nói năng, luyện ngôn từ . Có thể nghĩ ngôn từ chỉ là bề ngoài, không là gốc-căn bản của con người? Trong nội dung ‘luyện gốc tâm hồn để làm người’ đang bàn có bao gồm sự tu luyện ngôn từ không? Khởi đầu, không nhất thiết phải có phần này: để đạt gốc tâm hồn nhân hậu, nếu ban đầu nói năng còn vụng về cũng không sao vì ‘tì vết đâu che mất ánh ngọc’, và bản chất nội tâm vẫn giàu sức thuyết phục hơn lời nói bên ngoài. Hơn nữa nên ít lời: ‘lắm lời nhiều chuyện’ thường kéo sang loại ‘tâm sự vô ích’ thậm chí chỉ gây thêm khó xử cho cả hai phía. Hoặc kéo sang loại ‘tâm sự lộ bí mật người vắng mặt’ chỉ càng dẫn tới không ít điều đáng tiếc.
    Nhưng, về lâu dài lại rất cần luyện ngôn từ. Có hai cái lí. Một là, nếu không có lời nói thì công dụng của tâm không biểu đạt ra bên ngoài được, tâm hồn không mở rộng tác động được. Hai là, chính vì cái tâm nội tại là cái tâm tôn trọng tha nhân, và có trách nhiệm đối với mọi người nên không bao giờ có thể tự cho phép sơ suất thốt ra lời nói tuỳ tiện, thiếu suy nghĩ, xúc phạm... Cho nên đâu có thể coi nhẹ nói năng được, phải trau dồi ngôn từ , học ăn nói (và cách giao tiếp nói chung). Không nên nghĩ sao vội nói ngay, phải ‘quay lưỡi 7 vòng’ đã, suy nghĩ ki trước sau, nhiều mặt:
     “Gà ba lần vỗ cánh mới gáy,
    “người ba lần ngẫm nghĩ mới nói”
    Nhưng cái gốc vấn đề vẫn chỉ là một: vẫn từ tâm hồn trung thực, chứ không uốn mình theo động cơ thực dụng (bên ngoài). Những khi đàm luận, ta rất thận trọng tâm lí của người đối thoại. Đó chỉ là vì tâm của ta trọng thị con người, chứ tuyệt nhiên  không vì đối phó. Do đó không chấp nhận nguỵ tạo, đạo đức giả hoặc chỉ theo xảo thuật tâm lí v.v…. Gặp  đối tác mưu mô, cũng phải ‘lựa lời’, nhưng vì bản lĩnh, chứ không vì giả tạo cốt ‘nói dựa’ một cách hèn kém. Nếu đối tác là lương thiện và chân tình, thì không cho phép khách sáo, giả dối, phải rất chân tình. Qua mấy ví dụ trên, để thấy, bất luận Học gì cũng đều phải từ GỐC tâm hồn cả.
    CHỌN HỌC GÌ NỮA? Chọn học tập DƯỠNG TÍNH (tu dưỡng tính nết). Điều này cao hơn và khó hơn một bậc so với học kiến thức. Học mà là luyện thành tập quán thuần thục. Ví dụ luyện tính tận tụy với bổn phận. Hãy làm tròn bổn phận trong mọi hoàn cảnh, tận tâm tận lực chăm chỉ hoàn thành công việc. Có thể coi đây là một trong những nội dung cần được học trước tiên vì là bửu bối bất biến dùng để ứng vạn biến trong sự nghiệp mỗi người chúng ta .
    Rồi luyện tính đoàn kết hoà đồng. Nó bao gồm luyện tâm tính tránh gây gổ với xung quanh, tự trong lòng san bằng mọi xích mích; luyện trình độ giải quyết bất hoà nếu xảy ra; luyện cách giữ hoà khí với mọi người, nhưng chớ suồng sã; luyện cách làm cho đối phương hiểu rằng họ được lắng nghe, họ không hề bị coi thường mỗi khi có sự bảo lưu ý kiến v.v..
    Luyện nếp suy tưởng, tự vấn, rút kinh nghiệm. Chọn nửa giờ mỗi ngày thành nếp như lời khuyên của A. Carrel, Lỗ Tấn. Có thể chọn ban đêm kiểu ‘nuôi dạ khí’ của Mạnh Tử, hoặc chọn sáng sớm - lúc này chẳng ai làm phiền, đầu óc còn sảng khoái.
    Tính coi trọng sức mạnh tinh thần - thể chất (tâm-thể) thông qua quyết tâm giữ gìn và nâng cao sức khoẻ tâm-thể bằng kỉ luật rèn luyện, nếp sống không buông thả.
    Và một ví dụ nữa về loại dưỡng tính hết sức quan trọng: Luyện tính quý trọng thời gian. Việc học tập này có đặc điểm là tự nó lại trực tiếp ích lợi cho việc ‘học tập không ngừng’. Bởi vì con người ta chỉ thu được kết quả học tập tốt khi biết sử dụng năng lực trí não trong từng khung thời gian nhất định mà mình có. Có thể nói mức kết quả học tập tỷ lệ thuận với mức quý trọng ngày giờ của mình. Mỗi giờ rỗi mà không xen kẽ, kết hợp học tập vào, không góp phần cụ thể cho kết quả học tập dù chỉ hiểu thêm một điều rất nhỏ thôi, thì đã uổng phí một giờ. ‘Học tập’ được cách biết tận dụng thời gian tốt nhất thì đạt kết quả nhiều nhất trong ‘học tập’. Cũng đạt kết quả nhiều nhất về sống phong phú hơn tức dài hơn, ‘sống trọn vẹn hiện tại’ hơn, biết tận hưởng ngày hôm nay, ngay giờ đang sống, luôn ý thức được là đang nỗ lực học hỏi, luôn tìm tòi tra cứu ngay những điều mà thực tiễn lúc đó cho thấy là cần phải biết mà chưa biết, không gác lại hôm sau.
    Giành được thời gian nhờ chắt chiu và sử dụng có phương pháp nên sẽ an tâm tự học tập nghiên cứu không giới hạn, và cả học các nội dung luyện tính khác nữa. Không mảy may uổng phí thời gian, nên lúc nào cũng học thêm được một cái gì đó kể cả những giây phút mà hoàn cảnh cuộc đời buộc ta phải tạm dừng lại giẫm chân tại chỗ.
    Chúng ta hãy quyết tâm nghiêm túc rèn luyện cho thành thói quen quý trọng thời gian, làm cho nó thành hẳn nếp sống bền vững của mình. Đến khi đó, ta dần hiểu thế nào là sống có tâm hồn, sẽ xót xa trước những cảnh đời không biết dùng thời gian làm gì cả, tới mức tìm cách “giết thời gian”(!), ta sẽ thấy xa lạ các lối sống ‘chỉ để ý ba chuyện tào lao’, ‘trong đầu óc chẳng có mảy may tư tưởng-mục tiêu nào đang đeo đuổi cả’, lối sống ‘hết hội hè, tiếp tân, lại sinh nhật, tiệc tùng liên miên’, ‘chỉ dạ hôị, xem phim, hát xướng, vũ trường, chơi bời, …’, đó là chưa nói nghiện ngập nữa. Có thể nói đây là một tiêu chí đơn giản dễ ứng dụng thực hành khi cần đánh giá nhanh một con người, ví dụ khi bạn trẻ tìm chọn người yêu, chọn bạn trăm năm chẳng hạn: hễ xét thấy ai đó không quý, ngược lại xả láng thời gian, thì có thể xa lánh ngay không thương tiếc.
     
    Học tập tích cực, sâu sắc các mặt như nêu trên - đúng là khổ luyện, nhưng học tập cũng đẹp, vui, lí thú lắm chứ, góp phần chăm sóc, nuôi dưỡng tâm hồn ngày một cao đẹp, vui đời lên mãi.
     
     
    *
    VUI  ĐỜI
     
     
    Nhờ vui đời không ngừng mà rèn luyện tâm hồn tốt. Đổi lại, nhờ tâm hồn được rèn luyện tốt mới có vui đời không ngừng.
    Niềm vui luôn gắn với cái đẹp, với thiện chí và lẽ phải, cho nên không thể bỏ quên niềm vui khi tiến hành rèn luyện tâm hồn. 
    Phải rất coi trọng niềm vui, vì như một ý tưởng rất nhân văn đã nêu “đời có sẵn nguồn vui, con người cần biết hưởng thụ ngọn nguồn đó của đời”. Cuộc đời là một khúc ca, ‘hãy hát lên’. Vậy câu nói “sống nghĩa là làm việc” không được hiểu một cách cực đoan thành ‘sống chỉ là làm việc’. Con người còn cần biết hưởng thụ bảo tồn tạo dựng niềm vui cho tâm hồn mình. Lại cần biết góp phần một cách có ý thức tạo thêm và làm phong phú thêm mãi niềm vui cho người thân và mọi người nữa chứ. Như thế hưởng thụ và tạo thêm niềm vui đều vì nhân sinh nâng cao chất lượng cuộc sống. Bản thân niềm vui của mỗi người bắt nguồn từ nhân sinh quan người đó. Tâm hồn con người có nhiệm vụ sử dụng niềm vui hữu ích nhất cho công việc của mình. Dùng niềm vui làm cho sự sống thực sự triển nở, cởi mở, hào phóng, dẹp bớt ưu sầu ‘nơi trần thế’. Vâng, bàn cả vấn đề ‘trần thế’ đấy: cuộc đời mỗi cá thể hữu hạn “ngắn ngủi như giọt sương mai”. Lẽ tự nhiên này được chấp nhận hết sức tự nhiên trong tâm hồn nhờ niềm vui đời. Đời ai cũng  cần niềm vui, tựa như một nhu cầu bản năng vậy. Niềm vui đời nảy sinh từ ý niệm rõ rệt sự trường tồn của thiên nhiên, xã hội, dân tộc, dòng họ, nhân văn
    Chúng ta còn chủ động dùng niềm vui để tăng hiệu suất hoạt động của mình. Nói chung ở đời, thái độ tiếp nhận mọi sự việc phải luôn tích cực dù đời có xảy bất ngờ thế nào mặc dầu. Bởi vì tiếp nhận sự vật không chỉ để tiếp nhận, mà là để hành đỘng bằng ứng đáp thích hợp. Nếu vậy tiếp nhận bao giờ cũng phải là tiếp nhận kép gồm cả hai mặt âm-dương đi liền nhau, tức bao giờ cũng phải có niềm VUI. Niềm vui nâng cánh tâm hồn để hành động, là chỉ số về ‘mức vị tha’ nơi ta còn lại nhiều hay ít, là vũ khí bảo vệ tâm hồn trong hành động.
    Ở trên vừa nhắc vấn đề hưởng thụ niềm vui. Về vấn đề  hưởng thụ đó trong khung cảnh ‘luyện từ gốc tâm hồn’, cần lưu ý hai khía cạnh tế nhị:
    Thứ nhất là hưởng thụ một cách thanh tao, đâu phải kiểu ‘tận hưởng lạc thú’ chìm đắm vô độ, đâu phải kiểu ‘sống gấp’. “Vui quá ắt sinh buồn” rồi trống rỗng, rồi với cảm giác ‘uổng phí đời’ mà thôi. Thứ hai là hưởng thụ niềm vui chỉ trở thành trọn vẹn, khoáng đạt nếu là trên nền an tâm đã và đang tròn mọi bổn phận với ý thức đầy đủ về TRÁCH NHIỆM đã nhận lãnh trên đôi vai mình. Vì cuộc đời chỉ thật sự vui nếu vui có ý nghĩa khi tự giác về Trách Nhiệm. Trào lưu thời đại hiện nay tiến lên nhanh chóng nên có lúc tưởng như không kịp có thời gian cho sự phán đoán về chữ Trách Nhiệm vừa nêu, và cả về ‘mục tiêu, lẽ sống, ý nghĩa cuộc sống’? Chỉ biết đã dễ sinh nhiều hẫng hụt. Nên về ý niệm Trách Nhiệm, Bổn Phận, rất cần tránh cầu kì, cố chấp, cầu toàn, mỗi người phải luôn kịp thời sửa đổi cho phù hợp để luôn ý niệm được chúng, do đó lúc nào cũng có thể dễ thật sự vui.
    Để hưởng thụ niềm vui tốt hơn ta có thể xem gương cha ông đã ý niệm được niềm vui thế nào. Ngược dòng lịch sử, ta tìm hiểu tính cách sống ung dung tự tại, rộng mở của các bậc hiền nhân nước ta và phương Đông, ta thấy nói chung nó xuất xứ từ sự thể nghiệm, lãnh hội được giá trị đặc biệt của niềm Vui trên nền của lạc quan tiến thủ. “..Khi nhiệt tình học tập đã quên ăn, khi hứng thú làm việc đã quên mọi ưu phiền … Biết điều hay - không bằng biết niềm Vui” (đó là câu nói của Khổng Tử).
    Chúng ta càng cần luyện cách hưởng niềm vui đời bền vững: trong mọi tình huống căng thẳng, chúng ta hãy biết tự buông lỏng và không quan trọng hóa những điều vụn vặt, biết phóng thích mọi khó chịu, bực bội, phức tạp, gây buồn phiền ra khỏi tâm trí để rèn luyện tâm hồn tốt mà một biểu hiện là không ngừng vui đời.
     
     
     
    NỤ CƯỜI là cách biểu lộ tự nhiên của niềm vui đời chính đáng và thần thánh nữa của tâm hồn được rèn luyện. Tất nhiên có chút khía cạnh y học: cười tác dụng tốt lành đối với sức khoẻ. Thậm chí cười có thể giúp cho tuần hoàn, bài tiết, tiêu hoá, biên độ hô hấp, sự thăng bằng thần kinh-thể dịch thuận lợi hơn. Cười còn giải toả sự căng thẳng đầu óc thật tài tình, có khi hết lúc nào không biết, ngăn chặn sự đăm đăm chăm chú vào các stress. Về tác dụng của cười, ta hãy nghe một người thọ 122 tuổi nói. Bà Jeanne Calment (1875-1997), quê ở gần Marseille (Pháp) lúc sinh thời được hỏi về bí quyết trường thọ, đã khuyên: “Hãy giữ nụ cười. Có lẽ nhờ nó mà tôi sống lâu”. Tâm hồn giữ được trẻ của bà còn có đặc điểm ‘rất phóng khoáng’, ưa nói thẳng, giỏi hài hứơc không ác ý, cũng là để giữ nụ cười.
    Nét mặt tươi như hoa, vâng không phải tiếng cười, chỉ là cười nụ làm gương mặt luôn rạng rỡ, quý hoá thay! Khác với muôn loài, con người có ‘gương’ mặt có thể ‘phản chiếu’ cái ánh cao quý của tâm hồn. Với tâm hồn được rèn luyện, nâng cao, không khư khư ích kỉ mà chan hoà với xung quanh, thì nét mặt tươi như hoa nếu điểm xuyết những nụ cười chân thành thì quả là tác phẩm hoàn mỹ của Tạo hoá.
    Ngược lại có những người, chẳng coi ai ra gì, tự buông thả cho phép mình vênh vênh mang bộ mặt lạnh lùng, lãnh đạm như mặt nạ vô cảm (cũng là ‘chủ trương’(!) của một số tác giả nước ngoài như đã nêu trong mở đầu bài này) ‘tới mức xua đẩy mọi người’ và cứ thế mang cái lạnh lẽo thờ ơ ấy, thậm chí cao ngạo khinh người, mà đi gieo rắc nơi nơi.
    Có nhân bản hơn không nếu suốt đời gương mặt luôn đồng hành với nụ cười hồn hậu xuất phát từ trái tim vị tha chân thành, nụ cười ban phát được hoà khí, có thể toả sáng làm tiêu tan u ám mỏi mệt, khơi dậy lòng tin, hy vọng và lạc quan vui đời, thậm chí có thể truyền vào mai sau (ví dụ nụ cưới vị tha từ một ân sư uy tín truyền cho cho cả cuộc đời các thế hệ học trò nối tiếp, nối tiếp mãi).
     
     
     
    HÀI HƯỚC là một đỉnh còn cao hơn. Là gì vậy? Ai cũng có những lúc công việc gặp nguy hiểm, căng thẳng. Những lúc này tại sao ta không biết khôn ngoan (và cao cường nữa) cho đan xen một cách rất tự nhiên chất khôi hài, dí dỏm vào? Nếu đời giống như ‘tấn trò đời’ (theo cách nói của H. De Balzac) thì trong đó mỗi chúng ta rất có thể nhập vai (cách nói của Shakespeare) mà diễn đoạn nguy hiểm căng thẳng ấy cho rõ thật dí dỏm, đầy bản lĩnh. Đời đương nhiên là có chất khôi hài và rất cần phải có nó là vì vậy. Còn Hài Hước là đỉnh cao của nụ cười và niềm vui đời khi điểm xuyết một số hạt ngọc trí tuệ tinh tế có chất khôi hài. Nếu nâng lên sánh vai cùng chất văn-học-truyện-kể thì mới thành những truyện hài hước, thật dễ mến. Truyện hài hước là nhu cầu của mọi cộng đồng xưa và nay, đông và tây. Hầu như dân tộc nào cũng có kho tàng truyện hài quý báu của mình.
    Một đặc điểm của khiếu hài hước là châm biếm thuần tuý để cười vui: về sinh hoạt, cười cả bản thân mình, vừa phủ định vừa khẳng định, không ẩn ác ý, không xúc phạm khuyết tật thể chất những người nghe, cũng không ngầm mang tính chất dạy đạo đức. Thế mà hài hước có công dụng tuyệt vời, khó mà kể hết. Có khi nó còn được dùng để đối đáp một cách thông minh các lời nói khích hoặc lời tấn công thậm chí trấn áp, không đáp mà là đã đáp, ‘cứ nhẹ nhàng’ kể, chuyện lấy chất liệu từ lời đối phương nói khích rồi phát triển lên cao trào, lên mãi tới thái cực, đến độ vượt các cực đoan đó nên rành rành
    là phi lí. Nhờ thế, giữ được hoà khí, đưa được bầu không khí căng hoặc ‘bị đầu độc’ trở lại bình thường.
     
     
    *
     
     
    ĐỐI DIỆN THẤT BẠI,
    HẠNH PHÚC, TUỔI TÁC...
     
     
    Việc luyện từ gốc tâm hồn cũng nhằm đối đầu - xử trí các vấp ngã, thất bại, bệnh tật, tuổi tác, hạnh phúc…Mỗi khi đối diện thất bại, hạnh phúc, hoặc tuổi tác, sẽ rất rõ việc luyện này phát triển đã tốt hay chưa, và là dịp để việc luyện ấy trong thực tế được tiếp tục nâng lên.
     
    Hiểu rõ sống ở đời không thể không trải qua nhiều THẤT BẠI có thể gây ra nhiều đau đớn. Mỗi lần như thế nếu nhăn nhó, buồn rầu, thở than lâu thì những tổn thất, có thể chỉ là ‘không đáng kể’ thôi, sẽ trở thành nặng nề hơn. Và hậu quả khác còn dở hơn nữa: tinh thần sẽ yếu đuối thêm.
    Thái độ đúng đắn về tiếp nhận thất bại là: dám cắn răng, đứng dậy, mỉm cười như hứa hẹn sẽ rèn dũng khí, tự trau dồi để ứng phó với những trở ngăn sẽ còn lớn hơn nữa. Biết chấp nhận thực tế ‘đời là những thách thức’ để đối đầu và vựơt qua. Không để tự an ủi, nhưng hiểu quy luật ‘trong cái âm đã ẩn cái dương’, trong cái xui rủi bao giờ cũng ẩn chứa điều ích lợi cho mình nếu biết cách và đủ nghị lực tận dụng. Bỏ cảm tính sang một bên, hãy tỉnh táo và sáng suốt rút kinh nghiệm hoàn toàn khách quan, rồi hành động tiếp như đối với một thách đố trí tuệ. Có thể lạc quan tiếp nhận thách đố như trò chơi thuở còn thơ, hoặc trò chơi (game) trên vi tính lắm chứ. Đã chẳng có câu ‘cuộc đời là một cuộc chơi, hãy vào cuộc’ đấy sao. Vượt qua đợt thất bại đang thử thách mình lần này thì lòng tự tin và lạc quan hồi phục và nâng lên. Chính cái này mới là quan trọng hơn rất nhiều, có khi là vô giá; mua được nó chỉ nhờ giá đắt của các thất bại vừa nếm trải vậy.
    Thất bại tựa như cơ hội bằng vàng để sẽ gặt hái những cải tiến cụ thể nữa, “cái khó ló cái khôn”, tăng bề dày lịch duyệt và từng trải. Người ta phải học được ở các sai lầm (dẫn đến thất bại) của mình nhiều hơn ở các thành công của mình.
    Vậy phải biết luôn lòng tự nhủ lòng luyện chấp nhận thất bại như ‘một keo thua tạm thời’ trên lữ trình cuộc đời thăng-trầm, tròn-khuyết, thuận buồm-ngược gió.
    Trên đây là thái độ đúng, còn ứng phó cụ thể là gì? Là nhẫn nại. Cảnh ngộ này đã từng gây thất vọng, đổ sụp, mất tinh thần. Nhưng ở tâm hồn có rèn luyện thì lúc này sinh ra nhẫn nại như một hệ luận bắt buộc mà lại là sáng suốt nhất. Hơn thế nữa, nhẫn nại được dịp ra sức mài sắc thêm. Đây chẳng phải là ‘duy ý chí hay khắc khổ chủ nghĩa mà là am hiểu quy luật. Cứ tính sơ sơ cũng đủ thấy lúc này nhẫn nại cần thiết mức nào: Nhờ nhẫn nại nên sẽ không bao giờ thoái chí bỏ cuộc, sẽ có thể dám tạm lùi một bước, nếu cần, cho thành công vẻ vang về sau. Nhờ nhẫn nại, sau thất bại thường trở nên đằm tính, bớt nóng vội, lắng nhiều vào nội tâm kiên trì bền bỉ, không quá sốt ruột, có thể lo chuẩn bị cho giai đoạn ‘nước rút ở khúc cuối đường đua’. Tầm quan trọng của giai đoạn nước rút ấy đã từng có trong một câu thơ cổ Trung Hoa:
    Ngàn dặm, qua được chín trăm,
    ‘mới là nửa đường’.
    Việc hiểu ‘nghệ thuật’ ứng phó vấp ngã-thất bại như trên với các khía cạnh cơ bản sâu sắc có thể trở thành chỗ dựa đầy ân tình cho không ít bạn trẻ nhất là vị thành niên hiện gặp thất bại đầu đời đang nghĩ tới trốn tránh đời (tự tử) một cách vô trách nhiệm với người thân và mọi người. Các bạn trẻ đó sẽ thấy ra rằng dù thất bại đến đâu, cũng chỉ là lâm thời, thể nào cũng vựơt qua được, cũng không phải ngõ cụt đường cùng, cũng không phải ngày tận số.
     
     
    Việc luyện từ gốc tâm hồn cũng nhằm giành lấy, biết tiếp nhận, bảo vệ-duy trì và hưởng thụ HẠNH PHÚC.
    Hạnh phúc là gì, nó bao gồm phạm vi rất rộng, nhưng đối với mỗi con người từ muôn thuở, trước hết và căn bản nhất, nó là hưởng tình yêu đôi lứa tốt đẹp, yêu trọn vẹn và được yêu đáp lại trọn vẹn. Để đạt được hạnh phúc này và mọi hạnh phúc khác nói chung, có những nguyên lí chung rất đáng đúc kết.
    Không có được hạnh phúc nếu không biết chấp nhận những hạnh phúc tương đối, không biết nghệ thuật tự hài lòng.
    Khoa học còn chứng minh rằng phải có những hi sinh bản thân vì người hoặc sự nghiệp mình yêu mới có thể hiểu chính mình và mới đạt được những niềm vui hưởng hạnh phúc tình yêu. Người xưa, nay và sau này đã yêu đang yêu… mãi mãi nhận ra chân lí ấy. Điều này không chỉ trong tình yêu đôi lứa, mà trong mọi tình yêu. Trong lịch sử, có biết bao nhà khoa học, nhà cách mạng, bậc hiền minh, bậc cha mẹ ... trải những khổ lụy mức cùng cực mà cảm thấy đạt hạnh phúc vô biên chỉ vì họ trải nghiệm và hiểu rằng hi sinh, hiến dâng là hạnh phúc: hạnh phúc riêng bản thân hoà làm một trong hạnh phúc những người mình yêu quý.
    Trong đó thường bao gồm biết bao thống khổ chẳng thể nào tả xiết:
    “Như rác dưới chân dê móng lừa,
    “như bụi dơ trên chổi,
    “như bóng chiếc giường qua ánh đèn,
    “người nghèo bị mọi người từ bỏ"        (Panchatantra do Vichnousarman viết)
    Mà nhiều khi một sự quan tâm chỉ nhỏ nhoi nhưng rất tình cảm sẽ là vô giá, được ghi nhận suốt đời:
    “Một người đáng kính, một niềm tin lớn
    “một món quà cho đúng nơi và đúng lúc từ tay người đứng đắn,
    “chừng ấy đã đủ cho kiếp sau.”                                          (Panchatantra).
    Còn như làm ‘chức năng’ vua mà không mảy may sống vì dân chúng thì bên xứ Ấn Độ từ thế kỉ II đã có câu mỉa mai:
    “Mang danh vua làm gì
    “Những ông vua hẹp hòi, keo kiệt?
    “Đáng tôn kính các nhà hiền triết
    “không phải thần giữ của, mà là Siva”               (Panchatantra)   
    Người xưa nói thấm thía nhường vậy! Vâng, đó cũng là ý niệm hạnh phúc của người bình dân mọi nơi, đơn giản mà thâm thuý.
    Hạnh phúc phải chăng là do cơ may, số mệnh? Phúc hoạ là chuyện may rủi? vậy hạnh phúc chỉ là cơ may? Trên sân khấu cuộc đời, có chuyện hạnh phúc nhờ cơ may không? Có chứ vì ‘cuộc đời cũng là những cơ may’ mà. Nhưng lại chỉ những người có lẽ sống, biết chuẩn bị, có nỗ lực đến mức đạt năng lực và tự tin thì càng luôn sẵn sàng và chủ động chớp lấy được và tận dụng được các thời cơ, các dịp may thì mới tạo ra được thành công - hạnh phúc chứ. Họ nghĩ rằng mỗi cố gắng là góp thêm vào gặt hái, họ không sống dựa vào may rủi. Cậy có chút thông minh, chỉ ngồi mát chờ cơ may thì không đủ, cần quá trình phấn đấu lao động gian khổ, chủ động nỗ lực, chứ không tiêu cực mặc theo cơ may và ‘số mệnh’. Hơn thế nữa, lại phải luôn lường trước những khả năng xấu nhất để chủ động chuẩn bị kỹ các đối sách hữu hiệu nhất. Chờ hạnh phúc kiểu ‘há miệng chờ sung’(‘ấp cây đợi thỏ’), thì bản thân cái ‘chờ’ đó dù có tới cũng đâu phải là hạnh phúc đích thực.
    Hạnh phúc có thể ở ngay trong mỗi hành động vị tha? Hành động vị tha hướng thiện vừa nêu trên có thể đơn giản là làm việc thiện, nhân ái, dù rất nhỏ :
    “Dù có một miếng chăng nữa,
    “tại sao không chia cho người  nghèo khổ một nửa?”    (Panchatantra).
    Cái rất nhỏ ấy có khi lại chẳng gì so sánh được:
    “Cái ích lợi sinh ra từ tài sản lớn ở người giàu,
    “Thì người nghèo có thể có được với một kâkini"
                  (Kâkini:tiền lẻ làm bằng vỏ ốc) (Panchatantra).
    Ngay bên cạnh, quanh chúng ta biết bao tấm gương vị tha trong sáng. Trong đó có những hành động vị tha bật dậy như một phản xạ tự nhiên nhanh như tia chớp, đẹp như huyền thoại: ví dụ em Thạch Hưng, 11 tuổi học sinh trường Bình Điền, huyện Hương Trà (Thừa Thiên) ngày 11 tháng 4 năm 1999 khi chợt thấy 3 em bé té xuống bị trôi ra giữa vực nước (thôn Phú Tuyên, thượng nguồn sông Hương), Hưng đã lập tức nhảy xuống vực một mình cứu 3 đứa trẻ, cứu xong Hưng cũng suýt chết đuối, chân bị cây đâm thủng chảy máu. Qua lời Hưng trả lời nhà báo, ta thấy em nghĩ chuyện đó là ‘tự nhiên’, dường như là ‘bình thường’. Nhưng chúng ta hiểu dường như là ‘thiêng liêng’, là tiệm cận lẽ huyền của hạnh phúc.
    Những hành động vị tha - như sự hi sinh đương nhiên - hoàn toàn không tính toán, bất vụ danh lợi, không vì để được đáp lại! Như thế, lòng vị tha đích thực sẽ chẳng bao giờ đánh giá người khác, người ‘đời’ vong ân nhiều hay ít, luôn nhẹ nhàng nhận thức chuyện không có đền đáp cũng là lẽ ‘bình thường’, gần như đương nhiên.
    Hơn nữa người thực sự vị tha còn coi hành động vị tha của mình như một trách nhiệm trả ân với đời, và còn như một nguồn vui to lớn mà mình cảm nhận được, nó sẽ tạo sức sống, tạo hạnh phúc cho chính mình. Vả lại hi sinh vì tha nhân (vị tha) mà tha nhân lại là cái TA (mình với quê hương, gia đình, người thân, ..) vốn rất hài hoà với cái TÔI trong truyền thống văn hoá Việt Nam.
    Lại có những tấm gương vị tha cảm động mà chỉ đơn giản là nhẫn nhịn hoặc chia sớt đau thương: sau chiến tranh, trên đất mẹ đã thấm bao máu và nước mắt nhỏ xuống, một số những con người Việt Nam vô danh, mà nhân hậu thuỷ chung, vốn mang trên đôi vai nhỏ bé của mình cả sứ mệnh nước non, đã biết tự hàn gắn vết thương mà chiến tranh đã để lại ở cõi lòng và cuộc đời mình bằng phẩm chất cao quý là vị tha: biết vì nhau nhẫn nhịn, biết sẻ chia những mất mát đau thương của nhau và cả tình yêu - chút hạnh phúc bé nhỏ bình dị của bản thân cũng nhường nhau.
     
    Hạnh phúc trong hành động vị tha ở những bình diện khác: quan tâm người khác, đối thoại thực sự, yêu nước- yêu tự do…  
    Đó là sự quan tâm tới bạn bè một cách chân thành, vun đắp tình bạn chân chính, sẽ có nhiều bạn, có nhiều niềm vui, và cảm thấy hạnh phúc. Nghĩ nhiều về bạn hữu, về người khác thì những stress, những lo lắng ôm nặng trong lòng mình, nếu có, sẽ tự nhiên vơi nhẹ hẳn.
    Mà rộng hơn, cao hơn một bậc thì đó là tinh thần “tiên ưu hậu lạc” cao quý mà Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Chí Minh thường nhắc tới.
    Những người luôn hứng thú quan tâm chân thành tới người khác, thân thiết tìm hiểu hoàn cảnh và động cơ của người khác, không tiếc thời gian cùng họ đàm luận những vấn đề mà họ quan tâm, và làm việc tốt cho họ với nụ cười rạng rỡ thì hẳn tạm quên được chính mình, tự nhiên cuộc đời mình thêm rộng mở hạnh phúc mà lại ‘giàu bạn’ nữa.
    Giữa những con người này, có thể nảy nở những ‘đối thoại thực sự’ tức không bình phẩm chung chung mà có phần bộc lộ chân thành cái tâm của cả hai phía đối thoại, có vang lên ngọt ngào tên của nhau, trò chuyện cùng nhau trúng vào chủ đề hứng thú nhất của nhau. ‘Đối thoại thực sự ’ quả là nâng cao tâm hồn, và cũng là thấu đạt hạnh phúc. Những người như thế nếu làm những nghề như nghề thầy thuốc, thầy giáo thì phải nói là rất thích hợp. Trong khi đó, người vị kỉ một cách cực đoan, vốn dĩ không từ một thủ đoạn nào, không bỏ sót một cơ hội nào chỉ nhằm lợi lộc cho bản thân, thử hỏi làm sao có thể chung vui với mọi người, nói gì đến ‘thương người như thể thương thân’ hoặc biết ‘lấy ân báo oán’, làm sao không xa lạ với hạnh phúc!
    Vấn đề ‘hạnh phúc’ và ‘vị tha’ không thể tách rời lòng yêu tự do, yêu nước. Vì sao?
    Hành động vị tha là không vụ lợi cho bản thân, như vừa nêu trên. Nhưng nói theo các từ ngữ của Trang Tử, vị tha đích thực còn có nghĩa là ‘vô ngã’, không do ‘Tư ngã’ chỉ do ‘Thiên tánh’, ‘Bản tánh’, ‘Chân thể’, hành vi thuận theo ‘Tự nhiên’; đó là ‘đức’ vậy. Hành vi vị tha hiểu theo nghĩa rộng còn là, vẫn theo khái niệm của Trang Tử, trừ khử những gì trở ngại cho sự sống ‘tự nhiên’ ấy - tức tự do thiêng liêng của con người. Từ đó ta thấy vấn đề vị tha’ không thể tách rời lí tưởng yêu tự do, giải phóng con người. Cũng tức là không thể tách rời chuyện lo cho dân cho nước được phồn vinh; vươn tới nền văn minh toàn thiện, chứ không phải kiểu ‘văn minh’ thèm muốn và tranh cướp phúc và lợi của người khác, kiểu ‘văn minh’ đạp lên đầu nhau mà ‘tiến’, kiểu ‘văn minh’ đeo bám quyền lực chẳng qua vì danh lợi. Tóm lại, dù học sâu biết rộng mà nhẹ về nâng cao lòng vị tha, quên bồi bổ tình thương yêu tha nhân, tình yêu nước thì làm gì có hạnh phúc đích thực.
     
     
    ĐỐ KỊ – đối kháng của hạnh phúc. Hạnh phúc thường bị cướp đi bởi đố kị. Đã nói hạnh phúc dứt khoát phải diệt tính đố kị, ghen tỵ. Đố kị, không chỉ là chuyện gây stress, mà là chuyện mất còn của hạnh phúc. Theo triết gia La Mã Epictê thì:
                         “Ghen tỵ là kẻ thù của hạnh phúc.
    Điều dở của tính đố kị này không chỉ ở mức :           
                      “Gà tức nhau tiếng gáy” ;
    mà ở mức: xoá đi niềm hạnh phúc của bản thân và của nhau; và nặng tội nhất là ở mức: tổn hại cho việc chung - bất cộng tác
    Hiềm một nỗi, đố kị, ghen tỵ là bệnh vô cùng phổ biến ! Trong nghề y, khi viết mấy chục cuốn sách phổ thông phòng chống bệnh tim mạch, hoặc sách ‘Nuôi dưỡng tâm hồn’ (NXBPhụ nữ-2000) chúng tôi có dịp rất nhiều lần nêu đố kị, nhiều độc giả nói họ tâm đắc nhất phần viết về ‘Stress do đố kị’. Nhưng lại có mấy một độc giả nữ góp ý riêng rằng phần ấy “viết kỹ quá, như tác giả có tâm tư riêng”, nhưng quên thú thật rằng: “viết rất đúng về tính của cô ta, chịu không xiết!”. Vâng quả nữ độc giả ấy đã lộ rằng bản thân mình bị ‘chạm nọc’. Vậy phần được tâm đắc là hay nhất đã trùng hợp với phần bị coi là dở nhất. Sự trùng hợp ấy vô tình đã cùng đề ra một nhận định thống nhất: đố kị là vấn đề liên quan tất cả mọi người.
    Nó cũng chứng minh giùm rằng điều lâu nay mọi chúng ta vẫn đều suy ngẫm về tính xấu nào là của tuyệt đại đa số người xưa và nay, nhất là ở người Việt Nam ta, nay đã rõ: chính là đây rồi - đố kị, tất nhiên độ đậm nhạt có khác nhau.
    Tính xấu này tuy không phải là nặng nhất, nhưng rõ ràng là thuộc bệnh phổ biến nhất và lẵng nhẵng dính bám theo có khi suốt đời, và cướp đi hạnh phúc của bao người. Chúng tôi chứng kiến anh S bị bạn T đố kị cả khi T sắp qua đời! Chúng tôi rất buồn khi thấy cụ A gạt đổ hết ấm chén trên bàn xuống đất mà quát: “Thế ra là B nổi tiếng hơn tôi sao?!”. Và còn v.v.. , và ‘một  ngàn lẻ một’ chuyện như vậy.
    Chúng tôi thường nghĩ đố kị có thể sử dụng như một test (trắc nghiệm) về mức hạnh phúc của mỗi con người? Mức đố kị tỉ lệ nghịch với mức hạnh phúc và với kết quả rèn luyện tâm hồn. Chúng ta mỗi người thử dùng nội dung đố kị để tự xét lòng mình, và tự trắc nghiệm kết quả của từng giai đoạn trên con đường rèn luyện tâm hồn của mình.
     
     
    Cách tiếp nhận TUỔI TÁC cũng là một trong các thước đo mức luyện từ gốc tâm hồn. Trong đó có tiếp nhận tuổi già và cái chết. Lòng chúng tôi thầm khâm phục cách tiếp nhận tuổi tác ở Giáo sư Bác sĩ Hồ Đắc Di, người Thầy kính mến của chúng tôi. Lúc sang tuổi 80 Thầy vẫn giữ nguyên niềm say mê làm việc, Thầy vẫn say mê với mấy cuốn sách Thầy đang viết, đang dự kiến viết, đang đọc, Thầy vẫn khuyên các học trò nên làm những việc gì… Thầy còn tự tay viết lời tựa cho cuốn khảo luận tâm lí xã hội đầu tay của chúng tôi. Trong lời tựa đó có những tư duy liên quan cách tiếp nhận tuổi tác và sống chết như:
    “Sự trẻ trung của bộ mặt cần phải được thay thế bằng sự trẻ trung của trí tuệ và tâm hồn”.
    “Tuy số phận sinh vật học (của con người) là không thay đổi được- định mệnh...nhưng con người là vô tận”.
    “Con người là hữu tử, đồng thời là bất tử ”.
    Hôm chúng tôi từ thành phố Hồ Chí Minh ra thăm Thầy đang phải nằm bệnh viện, Thầy nói:
    “Tôi sống cái tuổi 80 của tôi
    “cũng thú vị như những năm tôi tiếp nhận “tuổi 30 50 (ý muốn nói 30 + 50 = 80).
    Ít lâu sau, cũng tại chiếc ghế đá trong vườn bệnh viện này, với nét mặt bình yên, với ánh mắt vẫn bỡn cợt, hài hước, cởi mở, thẳng thắn, Thầy đã dí dỏm chơi chữ cho chúng tôi nghe :
    “Dưới 80 tuổi, ta bám lấy đời
     Ngoài 80 tuổi, đời bám lấy ta”
    Và vẫn là sở trường chơi chữ rất đắt suốt cuộc đời Thầy, nhưng sâu xa nhường nào, lòng các trò thấy thương Thầy vô hạn, Thầy như đang vĩnh biệt trước khi về cõi vĩnh hằng:       
    “Làm cho ra trò, chết cho ra thầy.
      Đó là khẩu hiệu đời sống của tôi”.
    Chúng tôi liên tưởng tới một nữ sĩ nổi tiếng nước Nga là Olga Forch, năm 80 tuổi viết xong cuốn tiểu thuyết lớn (“đi đầu vì tự do”), năm 1961 ngoài 80 tuổi đã có những suy tưởng về tuổi tác thật trẻ, thật đẹp và đầy ắp đạo lí giao lưu :
    “Nửa trước của cuộc đời
    “là sự tích lũy tư tưởng, tình cảm, kinh nghiệm
    “để sau đó trả lại cho mọi người”
              Một tâm hồn thật trẻ ở tuổi ngoài 80!
              Cho hay người ta chỉ già vì điều tệ hại nhất là thờ ơ, bàng quan – sự lạnh lẽo của tâm hồn.
    Chủ tịch Viện Hàn lâm Pháp một thời là A. Guéniot (1832-1935, thọ103 tuổi), cho rằng con người có thể duy trì được thông minh nếu chống được tâm trạng buồn chán nó làm mất thú vị cuộc sống. Chấp nhận tuổi tác với ý thức tiếp tục hữu ích cho người khác mà thích thú cho bản thân, A. Guéniot thủ thỉ với người bạn thân :
    “Khi nào anh vượt tuổi 80 anh sẽ thấy
    “anh thông minh ra biết chừng nào”
    Cũng ý đó, nhưng C. Fiessinger nói bằng hình ảnh:
    “Tựa như mặt trời sắp lặn đỏ rực cánh đồng,
    “trí thông minh sáng láng hơn bao giờ hết
    “sẽ lóe lên rực rỡ những tia chói lọi nhất”
    Và Williams James có thái độ đầy tự tin về tuổi tác :
    “Càng cao tuổi tôi càng cảm thấy
     “sẵn sàng bắt đầu cuộc sống”
    Những thái độ tiếp nhận tuổi tác đẹp, đầy nghị lực như thế không hiếm ở đời, treo tấm gương sáng cho mỗi chúng ta.
    *
     
              Thế mới hay ở mỗi con người ta, bên cạnh đời sống vật chất, còn mênh mông cả một đời sống tâm hồn đa dạng rất cần được quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng, rèn luyện một cách toàn diện, bền bỉ bằng khoa học và bằng cả một nghệ thuật
                                                      Tp Hồ Chí Minh 1984-2008
                                                   GS.TS.NGUYỄN HUY DUNG
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.09.2008 23:14:44 bởi huydungpro >
    #2
      Chuyển nhanh đến:

      Thống kê hiện tại

      Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
      Kiểu:
      2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9