Tầng đầu địa ngục- Aleksandr I. Solzhenitsyn- HẾT
Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 44 bài trong đề mục
CTT 07.09.2008 21:27:02 (permalink)
15. Tam đầu chế gian dối

Giám đốc Sở Không Một vừa trình bày xong bản báo cáo của y với Tổng trưởng Abakumov.

Cao lớn, với mái tóc đen chải ngược về sau ót, mang trên cầu vai áo cặp lon ba ngôi sao của Tướng Ủy viên Đệ nhị hạng, Abakumov uy nghi chống hai cùi chỏ lên mặt bàn rộng. Y to con nhưng không mập bự – y biết giá trị của một hình dáng đẹp và đôi khi y chịu khó chơi quần vợt. Đôi mắt của y là mắt của một người không mắc lừa ai bao giờ, không ai có thể đánh lừa được. Đôi mắt ấy biểu lộ sự nhanh trí, khả năng ứng biến và bản tính đa nghi. Mỗi khi y thấy cần nói một câu nào đó trong lúc Viên Giám đốc Sở Không Một đang báo cáo, viên này vội vã ghi những lời đó xuống giấy.

Văn phòng của Abakumov, mặc dù không quá rộng, không phải là một văn phòng tầm thường. Trong phòng có một lò sưởi bằng đá vân được để lại từ ngày xưa, lò sưởi này bây giờ không còn được dùng tới nữa, và một tấm gương soi lớn kín cả một bức tường. Trần phòng đắp bằng thạch cao đắp hình hoa lá, có một dàn đèn lớn và những hình thiên thần, tiên nữ đuổi nhau vẽ nhiều màu.

(Abakumov giữ lại những hình vẽ này, chỉ những nét màu xám bị xóa đi, vì đó là màu mắt y chịu không nổi.) Phòng có một cửa ra ban-công, cửa này bị đóng kín trong hai mùa đông và mùa hạ, và có nhiều cửa sổ lớn nhìn xuống công trường trước Bộ nhưng quanh năm không bao giờ được mở. Trong phòng có nhiều đồng hồ: một đồng hồ thường được gọi là “đồng hồ ông nội” nằm trong vỏ gỗ quý, một chiếc đồng hồ treo tường với một hình tượng nhỏ đánh chuông giờ, trên tường còn treo một đồng hồ điện, loại đồng hồ của các nhà ga xe lửa. Những chiếc đồng hồ này chỉ không đúng giờ nhau nhưng Abakumov bao giờ cũng biết đích xác thời gian là mấy giờ vì y còn có hai chiếc đồng hồ nữa mang trên người y: một đồng hồ đeo tay vàng trên cổ tay lông lá của y, một đồng hồ quả quít nằm trong túi đừng đồng hồ trong áo y.

Những văn phòng trong tòa nhà này lớn rộng hơn tùy theo địa vị và cấp bậc của chủ nhân cuộc sống. Những bàn viết cũng lớn hơn dần dần. Bàn hội nghị trên trải thảm xanh cũng mỗi phòng một lớn hơn. Tất cả những đồ đạc trong văn phòng của Abakumov đều lớn nhất trong nhà này. Nhưng bức hình Đại-Thống-Chế được đặt trong phòng này lớn nhất, rực rỡ nhất và nổi bật hơn tất cả. Ngay cả trong những phòng thẩm vấn tầm thường nhất cũng có treo những tấm hình Lãnh tụ lớn hơn người thật, nhưng trong văn phòng của Abakumov, bức hình vẽ này trở thành vĩ đại. Vị Chiếc Lược Gia Tài Ba Vô Song của Muôn Đời và Muôn Dân Tộc được vẽ trong một bức tranh cao mười thước, toàn thân, từ đôi giày ủng tới chiếc mũ Thống Chế lưỡi trai, trên ngực áo rực rỡ tất cả những huy chương và biểu chương. (Thực ra, trong đời sống thực, Stalin chưa từng bao giờ mang những huy chương này trên ngực, một số những huy chương này là do Stalin tự phong, số còn lại do những Sứ thần và Tổng thống các quốc gia khác trao tặng.) Chỉ có những huy chương của Yugoslav là không thấy vẽ lên tranh mà thôi.

Tuy vậy, như để xác nhận rằng ngay cả bức tranh vẽ vĩ đại ấy đứng trong phòng cần phải có hình ảnh Người Bạn Thân Nhất của Chuyên-Viên-Phản-Gián-Điệp ở luôn luôn trước mặt để gợi hứng, y đặt một bức hình chân dung nữa của Stalin trên bàn viết của y.

Trên một bức tường khác trong phòng treo một bức hình Beria khá lớn. Beria là thượng cấp trực tiếp của Abakumov.

Sau khi Viên Giám đốc Sở Không Một ra khỏi phòng, có ba người đến trước cửa vào văn phòng Abakumov. Ba người đó là: Ủy viên Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov, Thiếu tướng Oskolupov, Giám đốc Sở Kỹ thuật Đặc biệt và Đại tá Kỹ sư Yakonov, Giám đốc Viện Nghiên cứu Khoa học Mavrino.

Để biểu lộ lòng tôn kính vị chủ nhân văn phòng này, ba người vào đi theo hàng một, theo cấp bậc. Họ bước theo nhau trên tấm thảm dày, gần như nối gót vào nhau và chỉ có tiếng giày của Sevastyanov là thấp thoáng vang nhẹ.

Là một ông già bận bộ y phục mà xám, mái tóc cắt ngắn lẫn nhiều sợi bạc, Sevastyanov là ủy viên duy nhất trong số mười ủy viên của Bộ An ninh là thường dân. Trách nhiệm của Sevastyanov ở đây không phải là việc điều tra hoặc hành chánh. Y giữ về liên lạc và kỹ thuật. Vì vậy y ít khi phải chịu đựng những cơn thịnh nộ lôi đình của Tổng trưởng trong những phiên họp kiểm điểm công tác hoặc trong những buổi trình diện nhận chỉ thị, có thể nói Sevastyanov là người thần kinh ít bị căng thẳng nhất Bộ An ninh mỗi khi phải đặt chân vào văn phòng này. Y ngồi ngay xuống chiếc ghế bọc da dày và êm đặt trước bàn.

Sau khi Ủy viên Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov ngồi xuống, Oskolupov trở thành người dẫn đầu. Yakanov đứng sát ngay sau lưng Oskolupov như để giấu đi thân hình vạm vỡ của y.

Abakumov nhìn thẳng vào mặt Oskolupov – người mà y chỉ mới gặp có chừng ba lần từ trước đến giờ – và y thấy trong con người của Oskolupov có một vẻ gì đó làm y có cảm tình. Oskolupov cũng có khuynh hướng trở thành to lớn về thân xác. Cổ y phình ra trên cổ áo và lúc này y cố ý ngửa mặt để cho cái cằm đôi của y khỏi xệ xuống. Bộ mặt nhẵn và trơ như gỗ của Oskolupov là bộ mặt của một người đàn ông chất phác, đơn sơ chỉ biết hành động, không phải là bộ mặt thâm trầm, khinh khỉnh của kẻ tự cho mình là trí thức.

Chiếu cặp mắt qua vai Oskolupov để nhìn Yakanov, Abakumov hỏi đột ngột và buông thõng:

“Anh là ai?”

“Thưa… tôi ạ.”

Oskolupov cúi mình về phía bàn, hoảng loạn và khổ sở khi thấy đồng chí Tổng trưởng không nhận ra mình là ai.

“Thưa… tôi ạ.”

Yakanov cũng nhô người về đằng trước, nhưng y chỉ nhô một chút thôi để ngực y khỏi chạm vào lưng Oskolupov, vì y vẫn đứng sát sau lưng Oskolupov. Lúc này y đang cố gắng giữ cho cái bu nguyện phệ của y khỏi phình ra nhưng y bối rối nhận thấy bụng y mỗi lúc một nở lớn bất chấp những cố gắng kềm giữ của y. Trong đôi mắt mở lớn của Yakanov không có qua một ý nghĩa nào được hiển lộ.

“Anh và anh…“

Ngón tay trỏ to tướng của Abakumov đưa ra điểm hai cái vào không khí:

"Hai anh phụ trách dự án Mavrino phải không? Ngồi xuống."

Hai người còn đứng trước bàn líu ríu ngồi xuống.

Tổng trưởng Abakumov đưa cây rọc giấy làm bằng plastic màu hồng ngọc lên gãi nhẹ sau tai và nói:

"Sao? Các anh đã đùa giỡn với tôi bao nhiêu lâu rồi? Hai năm? Theo chương trình, các anh chỉ có mười lăm tháng để hoàn thành công tác. Bao giờ có máy điện thoại?"

Và y tiếp bằng một giọng đe dọa.

"Đừng nói dối. Tôi không thích nghe nói dối."

Đây chính là câu hỏi mà ba viên chức cao cấp ngành dối trá đã chuẩn bị để trả lời ngay từ khi họ được biết là họ được gọi tới cùng một lúc để hỏi. Theo sự xếp đặt trước, Oskolupov là người đầu tiên lên tiếng nói. Y nói với đôi bờ vai vuông đẩy đẩy ra đằng trước như chính đôi vai vuông ấy đẩy tiếng nói ra khỏi miệng Y:

“Thưa đồng chí Tổng trưởng… Thưa đồng chí Đại tướng… Xin đồng chí cho tôi được trình bày trước hết rằng toàn thể nhân viên đều phục vụ với một tinh thần…”

Bộ mặt Abakumov để lộ vẻ ngạc nhiên:

“Anh tưởng anh đang ngồi ở đâu đây? Đây đâu phải là hội nghị. Tôi cần tinh thần của anh để làm cái gì? Để xuống đít ngồi lên ư? Tôi hỏi anh: Bao giờ? Ngày nào?”

Bây giờ, cũng theo như xếp trước, đến lượt Yakanov. Lối nói và nhất là giọng nói trầm, nhỏ của y cho người nghe hiểu rằng y nói với tư cách là chuyên viên kỹ thuật chứ không phải là một nhân viên điều hành:

“Kính thưa đồng chí Tổng trưởng… trong một hệ thống siêu tần cao tới 2.400 chu kỳ cho ta một cường độ truyền thanh ở mức zéro điểm chín…”

“Chu kỳ, chu kỳ…! Zéro điểm chu kỳ… Zéro … Các anh sản xuất ra… Zéro… Siêu tần… zéro… Mẹ kiếp… Tôi muốn có máy điện thoại. Hai giàn máy. Bao giờ tôi có? Hả?”

Bây giờ đến lượt Sevastyanov lên tiếng. Y nói chậm và nhỏ, vừa nói vừa lùa những ngón tay vào mái tóc thưa và xám:

“Xin cho chúng tôi biết đồng chí nghĩ như thế nào? Về máy điện thoại, chúng tôi đang chế tạo máy thâu phát ám hiệu…”

Abakumov trừng mắt:

“Đồng chí coi tôi là một thằng ngu hay sao? Máy thâu phát ám hiệu là cái quỷ gì? Tôi cần gì biết đến chuyện các người đang làm gì hay mấy người ăn không.”

Mười lăm năm trước đây, khi không một ai trong cõi đời này, kể cả Abakumov, lại nghĩ rằng có ngày y trở thành Tổng trưởng, khi y còn là một tống thư văn của Sở Mật vụ – thời đó Abakumov là một gã trai khoẻ mạnh, rắn rỏi, có cặp chân dài và đôi tay dài – bốn năm trời học ở bậc tiểu học đã cung cấp cho y có được số vốn học vấn đủ dùng. Từ đó y “tự tiến bộ” hoàn toàn nhờ ở những đòn Jiujitsu và trường huấn luyện chuyên môn của y là phòng tập võ của Hội quán Thể thao Dynamo.

Thế rồi, trong những năm ngành mật vụ phát triển và nhân viên mật vụ được thay mới, tăng thêm người ta thấy rằng Abakumov là một chuyên viên thẩm vấn có biệt tài và làm việc thật hữu hiệu, đôi tay dài và cứng của y là những lợi khí khi cần phải tra tấn người khác. Sự nghiệp lớn của y bắt đầu thành hình. Sau bảy năm hành nghề tra tấn người, Abakumov trở thành Chánh sở Phản gián SMERSH và bây giờ, y trở thành Tổng trưởng. Không một lần nào trong cuộc trèo dài dằng dặc ấy y cảm thấy y thiếu thốn về học vấn. Ngay cả bây giờ ngồi ở chức vụ cao nhất cái Bộ quan trọng nhất này, những thuộc cấp của y cũng không một người nào có thể lừa được y hay ngầm coi thường y.

Và khi nghe Sevastyanov nói ra câu trên đó, cơn giận của Abakumov nổ ra. Y giơ nắm tay lớn như cái búa sắt lên định nện xuống mặt bàn. Cánh cửa phòng bỗng mở ra và một gã đàn ông thấp nhỏ với đôi má trắng hồng bước vào phòng không cần gõ cửa. Gã này là Mikhail Dmitriyevich Ryumin. Nhân viên cả Bộ gọi gã là “Minka” – Nhưng ít có người dám gọi gã bằng cái tên này trước mặt gã.

Gã lướt đi nhanh và êm như một con mèo. Khi đến gần bàn, gã bao bọc cả ba người ngồi đó trong một tia nhìn. Gã bắt tay Sevastyanov và Sevastyanov nhổm người dậy, rồi gã đi tới đứng ở đầu bàn, cúi người xuống gần Abakumov, gã nói với vẻ mặt suy nghĩ:

“Victor Semyonovich… ông nên nghe tôi. Nếu chúng ta phải phụ trách vụ này, chi bằng giao hết cho Sevastyanov. Tại sao mình lại để cho họ ăn không nhỉ? Họ có thể nhận ra được tiếng một người ghi trên băng nhựa hay không? Nếu không, tống cổ họ ra hết…”

Trong khi miệng nói những câu đó, gã vẫn cười ngọt ngào như khi gã mời một cô bé ăn kẹo sô-cô-la. Gã nhìn ba kẻ có thể là nạn nhân của lời gã ngồi đó bằng đôi mắt vuốt ve, trìu mến.

Trong nhiều năm trời Ryumin sống hoàn toàn là một gã vô danh không được ai biết đến. Gã từng giữ chân ủy viên kích thước của Hợp tác xã Tiêu thụ Tỉnh Archangel. Má hồng và trắng trẻo, gần như mũm mĩm, với đôi môi mỏng luôn luôn mím chặt, hờn giận, gã hành hạ tận tình những nhân viên dưới quyền gã bằng những câu nói đểu giả, tàn nhẫn nhất mà gã có thể nghĩ ra được, trong lúc đó gã chia phần bớt xén, biển thủ với bọn chuyên chở, thảo luận chính trị với những bác tài xế xe hơi, tỏ ra khinh mạn những người đánh xe ngựa lạc hậu và đặt những bản thống kê thành tích toàn hảo lên bàn ông Chủ tịch Hợp tác xã đúng lúc cần đến.

Chiến tranh xảy ra, Ryumin được thâu nhận vào Hải quan và ở đây, người ta làm cho gã trở thành chuyên viên thẩm vấn của Sở An ninh Đặc vụ. Gã thích thú việc làm này và chẳng bao lâu gã thành công trong việc dựng đứng lên cả một vụ gián điệp vu cáo cho một phóng viên nhật báo hoàn toàn vô tội được phái đi viết phóng sự về Hạm đội Miền Bắc. Nhưng đây là vụ vu cáo đầu tiên trong đời gã, gã thực hiện nó lộ liễu và trắng trợn quá đến nổi Văn phòng Tổng Biện lý – vì không dính líu tới việc làm của ngành mật vụ – yêu cầu Văn phòng Tổng trưởng Abakumov điều tra vụ này. Chú chuyên viên thẩm vấn bé nhỏ của Ban SMERSH trên Hạm đội miền Bắc bị gọi về Tổng Bộ để chịu khiển trách. Gã sợ hãi bước vào văn phòng Abakumov để nhận lãnh những gì ghê gớm chờ đợi gã ở đó. Cánh cửa đóng lại. Khi cánh cửa mở ra cách đó một tiếng đồng hồ, Ryumin từ bên trong bước ra với vẻ mặt quan trọng – y vừa được Tổng trưởng cử giữ chức chuyên viên tình hình chính thức của SMERSH Trung ương, chuyên phụ trách thẩm vấn những vụ tối quan trọng. Kể từ ngày đó, ngôi sao của gã sáng đều và lên đều.

“Tôi sẽ lo cho họ, Mikhail Dmitriyevich Ryumin. Ông tin đi. Tôi sẽ đặc biệt lo chọ họ. Thân nhân họ sẽ không còn nhận ra họ được nữa…”

Abakumov gằn giọng nói, mắt y nhìn trừng trừng đe dọa ba gã đàn ông ngồi rúm ró trước mặt y.

Cả ba gã này đều cúi mặt xuống như những kẻ phạm tội.

“Tôi sẽ đưa cho họ những băng nhựa thâu tiếng nói. Họ có thể nghe lại và so sánh, tìm ra…”

Ryumin nói và Abakumov hỏi vội:

“Ồ… bắt được ai chưa?”

“Rồi. Nhất định là phải rồi chứ” – Ryumin trả lời với nụ cười ngọt – “Chúng tôi bắt được bốn tên tình nghi ở gần ga xe điện ngầm Arbat.”

Nhưng bộ mặt tươi tỉnh của Ryumin thoáng trầm xuống. Gã biết rõ hơn ai hết là những kẻ bị bắt đó đã bị bắt quá muộn, họ đều là những người bị nghi oan và bắt oan. Tuy nhiên, một khi đã bị bắt, dù có tội hay không những kẻ đó sẽ không bao giờ, mãi mãi không bao giờ còn được thả ra nữa. Họ sẽ bị giữ mãi và khi cần đến, họ sẽ phải nhận tội chỉ vì chấp nhận tình trạng có vụ án không tìm ra manh mối.

Giọng nói của Ryumin vừa có những âm thanh bất mãn vừa đề nghị:

“Tôi có thể ghi tiếng nói của một nửa tổng số nhân viên Bộ Ngoại giao lên bằng nhựa nếu ông Tổng trưởng muốn. Xong tôi nghĩ việc đó không cần thiết. Chỉ có sáu hoặc bảy người ở đó khả nghi mà thôi – họ là những người duy nhất được biết vụ đó.”

Abakumov giận dữ:

“Sao không bắt hết lũ chó ấy đi? Còn chờ gì nữa? Bảy người, Liên bang mình vĩ đại lắm, mất đi bảy tên đâu có ăn thua gì.”

“Ông không thể bắt họ như thế được” – Ryumin phản đối. “Đó là một Tổng Bộ trong chính phủ, đó không phải là một xưởng máy chế tạo thực phẩm và làm thế, chúng ta sẽ mất hết dấu vết. Trong vụ này, chúng ta cần phải tìm đúng kẻ có tội là ai. Và phải tìm ra cho mau.”

“Hừm…”

Abakumov suy nghĩ và nói lớn lên ý nghĩ:

“So sánh băng ghi âm này với băng ghi âm kia, tìm xem hai tiếng nào cùng của một người nói. Hay đấy. Sẽ có ngày mình phải nắm vững được kỹ thuật này. Sevastyanov, ông làm nổi việc này không?”

“Thưa… tôi vẫn chưa hiểu gì cả…”

“Có gì rắc rối đâu mà không hiểu. Không có gì hết. Có một thằng chó đẻ, một thằng khốn nạn nào đó – chắc chắn phải là một nhà ngoại giao nếu không hắn không sao có thể biết được chuyện này, gọi điện thoại đến cho một lão giáo sư. Tên lão giáo sư ấy là gì nhỉ?”

“Dobroumov…” Ryumin nhắc.

“Ừ, Dobroumov. Một lão bác sĩ. Nói vắn tắt là lão bác sĩ ấy vừa mới xuất ngoại sang Pháp trở về, trong khi ở trên đất Pháp lão có hứa sẽ gửi cho bọn bác sĩ Pháp một thứ thuốc mới do lão sáng chế – lão ôn dịch gọi đó là trò trao đổi kinh nghiệm và kiến thức y học. Nhưng lão quên rằng tổ quốc lão phải được hưởng ưu tiên thứ thuốc sáng chế đó. Chúng tôi muốn cho lão gửi đi số thuốc đó để bắt lão quả tang. Vụ án của lão sẽ là một vụ án chính trị lớn làm gương cho bọn khoa học gia hèn hạ nịnh bợ ngoại quốc. Nhưng có một thằng chó đẻ nào đó biết chuyện này và đã gọi điện thoại đến cho lão bác sĩ, bảo lão đừng gửi thuốc cho. Chúng ta vẫn sẽ bắt lão bác sĩ và lão phải nhận tội như thường, nhưng vụ này như vậy là đã mất một nửa giá trị. Sao? Các người nghĩ sao? Nếu các người tìm được ra tên này, các người sẽ nổi tiếng ghê gớm.”

Sevastyanov nhìn qua mặt Oskolupov sang Yakanov. Yakanov để mắt y chạm vào tia nhìn của Sevastyanov và lông mày của y hơi nhếch lên. Với cái nhếch lông mày này Yakanov muốn nói rằng việc tìm tiếng người nói điện thoại được ghi lên băng nhựa là một nghệ thuật mới lạ cần có một thời gian dài để nghiên cứu, tìm hiểu, thí nghiệm, và hiện lúc này Viện Mavrino còn đang chết dở vì công tác chế tạo máy điện thoại đặc biệt, không nên nhận thêm công tác mới. Sevastyanov cũng thông minh để hiểu ý nghĩ cái nhếch lông mày của Yakanov và tình thế khó khăn y chuẩn bị để trả lời lửng lơ câu hỏi của Abakumov.

Nhưng Foma Guryanovich Oskolupov lại có những ý nghĩ riêng về việc làm của y. Y không muốn y chỉ là anh giám đốc bù nhìn. Ngay từ khi y được tin y được cử làm Giám đốc, y đã tin chắc ở tài năng của y, ở giá trị cá nhân của riêng y và nghĩ rằng y làm chủ tất cả mọi vấn đề và có thừa khả năng giải quyết những vấn đề rắc rối nhất khéo léo hơn tất cả mọi người khác. Nếu không thế, người ta đã chẳng đề cử y. Tuy ngày xưa, y chưa học được đủ bảy năm ở nhà trường, nhưng bấy giờ không bao giờ y chịu rằng những thuộc cấp của y lại có thể hiểu biết về những việc làm hơn y. Họ có thể biết rõ hơn y về một phần nào đó của vấn đề, về chi tiết của bộ máy, về một đồ hình, nhưng họ không thể biết hơn y về đại thể. Cách đây không lâu, y từng có dịp đến nghỉ mát ở một khu nghỉ mát hạng nhất dành riêng cho những viên chức cao cấp và những khoa học gia làm việc với chính phủ. Ở đây y tự giới thiệu với mọi người y là một giáo sư điện tử. Y gặp ở đây một văn sĩ nổi tiếng và nhà văn này không sao có thể rời mắt nhìn Foma Guryanovich, nhà văn quan sát y và ghi những điều nhận xét vào cuốn sổ tay. Nhà văn cho y biết là ông sẽ diễn tả hình dáng của một nhà khoa học thời đại này theo hình dáng của Foma Guryanovich. Từ đó, Foma biết chắc rằng y là một nhà khoa học chính cống.

Đột ngột, Foma Guryanovich nhảy vào cuộc đối thoại:

“Thưa đồng chí Tổng trưởng… chúng tôi có thể làm được.” Sevastyanov nhìn y ngạc nhiên:

“Làm ở đâu? Ở phòng thí nghiệm nào?”

“Ở phòng thí nghiệm Âm Thính của Viện Mavrino. Ở đó chúng ta đang nghiên cứu về điện thoại. Họ cũng gọi điện thoại cho nhau mà.”

“Nhưng Mavrino đang bận thực hiện dự án khác quan trọng hơn…”

Oskolupov quả quyết:

“Không sao. Chúng ta sẽ tìm được người. Chúng ta có những ba trăm người ở Mavrino kia mà. Ta có dư người để phụ trách thêm vụ này.”

Và y nhìn ông Tổng trưởng của y với vẻ mặt của kẻ sẵn sàng thi hành mệnh lệnh.

Tuy Abakumov không hề mỉm cười nhưng một lần nữa trên mặt y hiện ra vẻ hài lòng, một lần nữa y thấy có cảm tình với Oskolupov. Thái độ này cũng từng là thái độ của y trong thời gian y hãy còn trẻ và đang xây dựng sự nghiệp – nghĩa là hăng hái, sẵn sàng làm tất cả mọi việc cấp trên muốn, giết bất cứ ai nếu cần. Một người trẻ hơn mình mà giống mình bao giờ cũng làm cho mình có cảm tình.

“Được lắm. Khá lắm” – Abakumov nói. “Đó là thái độ đúng: quyền lợi của quốc gia trên hết, những cái khác dẹp lại sau. Đúng không?”

“Thưa đúng. Đồng chí Tổng trưởng nói rất đúng.”

Ryumin không tỏ vẻ gì là ngạc nhiên, gã cũng không có vẻ nể nang hay chú ý đến Oskolupov hơn trước. Mặc dù Oskolupov là người nhận làm công tác này và Sevastyanov có vẻ muốn từ chối, Ryumin vẫn nói với Sevastyanov:

“Sáng mai sẽ có tin mới cho ông.”

Gã liếc nhìn Abakumov rồi lặng lẽ ra khỏi phòng.

Vị Tổng trưởng đưa món tay vào miệng cạy một miếng thịt dắt ở chân răng từ bữa ăn tối:

“Bây giờ trở lại vụ máy điện thoại. Bao giờ đây? Các anh đã lẩn trốn tôi quá nhiều. Không biết bao nhiêu lần khất – mùng một tháng tám, rồi ngày nghỉ tháng chín, rồi ngày đầu năm. Sao?”

Y chiếu cặp mắt của Yakanov, bắt buộc Yakanov phải trả lời.

Yakanov có vẻ như đang khó chịu dữ dội vì cần cổ của y. Y nhích cổ sang bên trái, rồi nhích cổ sang bên phải, đôi mắt xanh của y nhìn vào mắt Abakumov trong vài giây rồi nhìn xuống.

Yakanov biết y là người có tài. Yakanov biết rằng nhiều kẻ khác còn có nhiều tài hơn y đang tập trung hết tư tưởng và tài năng để làm việc mỗi ngày mười bốn tiếng đồng hồ không hề có một ngày nghỉ từ hơn một năm trời nay để chế tạo ra dàn máy điện thoại mà Abakumov đang đòi hỏi. Và còn có không biết bao nhiêu là nhà khoa học ngoại quốc sống rải rác khắp nơi trên mặt đất này, những người công bố những phát minh của họ với đầy đủ chi tiết trên những tờ đặc san chuyên khoa, cũng đang tìm cách chế tạo dàn máy đó. Yakanov cũng biết rõ về cả ngàn những khó khăn đã được vượt qua nhưng đó cũng mới chỉ là bước đầu. Giữa cả chục ngàn những khó khăn đang phải đối phó, giải quyết, nhưng kỹ sư làm việc dưới quyền điều khiển của y ở Mavrino như người người đang bơi qua biển. Chỉ còn sáu ngày nữa là đến hạn chót, hạn chót của tất cả những hạn chót mà y đã năn nỉ, đã xin được ở đống thịt bận bộ quân phục kia. Y đã bị kẹt cứng vì một chỗi những hạn kỳ ngu xuẩn bởi vì bị Lãnh tụ Anh minh, Người Hướng dẫn Khoa học của Thế giới Cộng sản đã ngay từ đầu, đặt thời hạn một năm cho một công việc cần đến mười năm để thực hiện.

Hồi nãy khi gặp nhau trong văn phòng của Sevastyanov, họ đã đồng ý xin hoãn lại mười ngày. Họ hứa sẽ giao hai giàn máy điện thoại đặc biệt vào ngày mười tháng giêng, Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov quyết định như thế. Oskolupov cũng muốn như thế. Họ tính toán rằng từ nay đến đó họ sẽ có thể làm xong được hai giàn máy điện thoại, tuy chưa hoàn hảo, ngh cũng đã có hình thể, cũng có thể kể là một phát minh mới. Họ sẽ xin thí nghiệm thêm cho thật hoàn hảo trước khi đưa máy được trước mặt Lãnh tụ. Trong thời gian ấy, việc nghiên cứu ở Mavrino vẫn tiếp tục và rồi họ sẽ viện ra những khó khăn mới để xin triển hạn. Nhưng Yakanov cũng lại biết rằng những vật vô tri, nhất là những máy móc, không hề biết đến những hạn kỳ, những mệnh lệnh, và tới ngày mười tháng giêng, hai giàn máy điện thoại được y đệ trình sẽ không truyền đi tiếng người, chúng sẽ chỉ truyền đi những tiếng động chói tai và những gì đã xảy đến với Mamurin nhất định sẽ lại xảy đến với Yakanov. Lãnh tụ sẽ gọi Beria và nói: “Thằng khùng nào làm ra cái máy này đây? Tống cổ nó đi…”. Và Yakanov sẽ trở thành một Người Mặt Sắt nếu y còn may mắn, rất có thể y sẽ chỉ là một tù nhân thường.

Dưới mắt nhìn của Abakumov, với cảm giác nút thòng lọng đang thắt chặt dần cổ, Yakanov vượt lên được cơn sợ hãi khốn khổ, khốn nạn của y và cũng tự nhiên như khi y hít thở khí trời vào phổi, y thốt lên:

“Xin cho thêm một tháng nữa. Thêm một tháng nữa. Tới mùng một tháng hai.”

Y nhìn Abakumov bằng đôi mắt van xin của một con chó.

Những người có tài ở cõi đời này thường tỏ ra tàn nhẫn và bất công với những người có tài khác. Thực ra, Abakumov tinh khôn hơn là Yakanov tưởng nhiều nhưng sau một thời gian dài không dùng đến, trí óc đã trở thành một cái gì vô-giá-trị với Abakumov. Trong suốt sự nghiệp của y, Abakumov đã thua, đã thất bại mỗi lần y suy nghĩ và làm theo ý của y, đã thắng khi y làm theo lòng trung thành và theo lệnh. Vì vậy Abakumov chỉ làm bận đến trí óc y càng ít chừng nào càng tốt.

Y có thể hiểu rằng sáu ngày hay một tháng không có nghĩa lý gì hết so với hai năm trời đã qua. Nói cách khác, nếu trong hai năm trời mà không làm xong thì cho thêm một tháng nữa cũng vô ích. Nhưng trước mắt y, bộ tam-đầu-chế dối trá này là những kẻ có lỗi – Sevastyanov, Oskolupov, Yakanov là ba tên có lỗi và phải chịu lỗi. Nếu công tác khó khăn như thế, tại sao khi chúng nhận việc trước đây hai mươi ba tháng, chúng lại nhận hạn kỳ một năm? Tại sao chúng không đòi ba năm? (Bây giờ y đã quên rằng chính ý đã ra hạn một năm và ép buộc ba người kia phải nhận.) Nếu chúng nhất định không chịu nhận hạn kỳ một năm thì y cũng đã không chịu hạn kỳ một năm với Stalin, y đã đòi cho bằng được hạn kỳ hai năm để rồi kéo dài ra thành ba năm.

Nhưng y quên rằng chính y, y cũng không dám nói gì hết về những hạn kỳ do Stalin đưa ra. Nỗi sợ hãi tiêm nhiểm vào óc họ quá nhiều trong quá nhiều năm quen vâng lệnh như những tên nô lệ nên không một ai trong bọn họ, trước kia cũng như bây giờ, dám có can đảm chống lại can đảm ý muốn của cấp trên.

Abakumov cũng đã lo xa để dành riêng cho y được vài tháng. Y hứa với Stalin là máy điện thoại đặc biệt sẽ được trình vào ngày một tháng ba. Vì vậy, y có thể cho bọn này thêm một tháng và y cũng vẫn còn một thán để xoay trở.

Cầm cây viết máy lên, Abakumov hỏi:

“Anh nói một tháng là thế nào? Một tháng đúng hay anh lại nói láo lần nữa?”

“Một tháng. Một tháng đúng…”

Người nói câu này là Oskolupov. Mặt y tươi lên khi thấy cấp trên chấp thuận. Y có vẻ hăm hở như người ra khỏi đây là lập tức đi thẳng tới Mavrino ngồi vào bàn làm việc.

Với một cái ngoáy bút, Abakumov viết lên tập lịch để bàn:

“Rồi. Cho các người đến ngày 21 tháng giêng, ngày Kỷ niệm Lênin qua đời. Đúng ngày đó các người sẽ được lãnh giải Stalin. Sevastyanov… ngày đó có máy không?”

“Dạ… có.”

“Oskolupov … Có không? Đến ngày đó mà không có, tôi lấy đầu anh thế cho máy ạ…”

“Dạ… có. Thưa Đồng chí Tổng trưởng… tất cả những gì cần làm chỉ là…”

“Còn anh? Anh có biết những gì sẽ xảy đến với anh nếu anh hứa láo không? Đến ngày 21 tháng Giêng có máy không?”

Thâu hết can đảm, Yakanov nằn nì:

“Xin cho một tháng. Ngày mùng một tháng hai…”

“Nếu đến ngày mùng một tháng hai vẫn không có máy thì sao? Cẩn thận. Nói phải đúng. Tôi biết anh đang nói dối…”

Tất nhiên là Yakanov đang nói dối. Đáng lý ra y phải xin thêm hai tháng nữa, nhưng đã lỡ rồi, y đành hứa bằng một giọng âu sầu:

“Thưa… có.”

“Được rồi. Nhưng các người nhớ nghe… Tôi không có bắt các người phải hứa với tôi như thế. Tôi có thể tha thứ được hết trừ những kẻ nào lừa dối tôi. Cho các người đi.”

Ba kẻ thoát nạn líu ríu đi ra. Họ cũng đi theo hàng một, kẻ nọ nối gót kẻ kia, mắt họ nhìn xuống trước bức tranh Stalin cao kín bức tường.

Nhưng họ đã mừng quá sớm. Họ không biết rằng vị Tổng trưởng của họ đã giương một cái bẫy cho họ chui vào.

Ba người này vừa ra khỏi phòng được vài phút thì một người khác được đưa tới văn phòng. Tên người này được báo trước với Abakumov:

“Kỹ sư Pryanchikov.”






[1]Ilya Ehrenburg, văn sĩ Nga, tác giả những quyển tiểu thuyết Cơn bão, Cuộc sa đọa (La Tempete, La Chute) viết về đời sống của dân Nga và dân Đức trong Thế chiến thứ hai, được giải Văn chương Stalin.
[2]Auschwitz, tên một lò sát sinh do Đức Quốc xã lập lên để giết người Do Thái. Lò nằm trên đất Đức. Trong đó có lò hơi ngạt kiêm lò đốt xác người. Nạn nhân bị lùa vào phòng cả ngàn người cùng một lúc, bị xì hơi ngạt cho chết rồi xịt lửa đốt ra tro than ngay trong đó.
[3]Theodor Mommsen, sử gia người Đức, sinh năm 1817, mất năm 1903, tác giả nhiều bộ sử về văn minh cổ Hy Lạp và La Mã.
#16
    CTT 07.09.2008 21:32:01 (permalink)
    16. Không có nước sôi pha trà

    Đêm đó theo lệnh của Abakumov và do Sevastyanov truyền lại, Yakanov được gọi đến Bộ An ninh từ Viện Mavrino. Sau đó, có hai lệnh mật được gọi bằng điện thoại tới Viện Mavrino, mỗi lệnh tới cách nhau mười lăm phút, lệnh trước là lệnh đưa tù nhân Bobynin, lệnh sau là lệnh đưa tù nhân Pryanchikov về Bộ. Bobynin và Pryanchikov được đưa về trên hai chiếc xe khác nhau và được để ngồi chờ ở hai phòng đợi khác nhau, đề phòng họ đụng mặt nhau.

    Nhưng dù hai tù nhân này có gặp mặt nhau, họ cũng không thể nói gì được với nhau, không thể hiểu ngầm nhau. Nói rõ hơn, Pryanchikov sẽ không sao có thể hiểu được Bobynin muốn gì ở chàng.

    Linh hồn Pryanchikov đang rung động vì ánh đèn đêm ở Mạc Tư Khoa, những ánh đèn sáng lòa, lấp lánh, rực rỡ ở hai bên cửa chiếc xe Podeba. Đi từ vùng ngoại thành tối tăm quanh Mavrino vào trung tâm thành phố, Pryanchikov ngây ngất khi nhìn thấy hiện ra những đại lộ sáng choang, những cửa nhà ga xe điện ngầm đầy người, những cửa hàng rực ánh đèn néon. Pryanchikov quên mất người lái xe và hai nhân viên mật vụ bận thường phục ngồi hai bên chàng, dường như không phải là không khí mà là lửa được hít vào và thở ra từ lồng ngực chàng. Không lúc nào chàng rời mắt nhìn qua cửa xe. Chưa bao giờ họ đưa chàng vào Mạc Tư Khoa ngay cả ban ngày, và trong lịch sử Nhà Tù Đặc Biệt Mavrino, chưa từng có một tù nhân nào được nhìn thấy Mạc Tư Khoa ban đêm.

    Tới cửa Sretenka, chiếc xe chở Pryanchikov phải dừng lại chờ đám người vừa từ nhà hát bóng cuồn cuộn đi ra và sau đó, dừng lại ở ngã tư đường chờ đèn hiệu.

    Tất cả những người tù trên cõi đời này đều chẳng ít thì nhiều nghĩ rằng con cái bên ngoài, vì không có họ, đã dừng lại, bên ngoài đã hết nhẵn đàn ông và những người đàn bà cô đơn vì thiếu họ, hệ thống còn vui vẻ, đàn bà đau khổ, âu sầu hết còn trưng diện vì tình yêu họ và lòng trung thành với họ. Và đây, trước mắt Pryanchikov hiện ra đám đông no đủ, rộn rịp gồm những người đang sống ở thành phố – mũ, mạng che mặt, nữ trang, áo lạnh lông thú – và mùi hương của những người đàn bà qua đường tràn đầy cảm xúc run rẩy của người thanh niên ba mươi mốt tuổi, mùi đàn bà ấy đi qua sương đêm, qua thanh sắt của chiếc xe, đến đập vào chàng như những nhát búa. Chàng có thể nghe được tiếng họ nói, nhưng vang vang không rõ, chàng muốn lao đầu qua làn kiếng cửa xe ra ngoài để nói lớn với họ, với những người đàn bà đang đi trước mặt chàng, rằng chàng còn trẻ, chàng đang cần yên, chàng bị người ta nhốt vào tù không chút xót thương, chàng bị tù nhưng không có tội gì cả. Sau cuộc sống cô đơn khổ tù trong tòa nhà đá ở Mavrino, cảnh sắc này là một giấc mơ thần tiên. Ngay cả thời còn tự do Pryanchikov cũng chưa bao giờ được sống cuộc sống thanh lịch mà chàng thấy trước mắt kia, khi còn là sinh viên, chàng quá nghèo, rồi chiến tranh đến chàng nhập ngũ và bị bắt làm tù binh, rồi hết chiến tranh và chàng bị tù ở chính trên quê hương chàng.

    Sau đó, trong khi ngồi trong phòng đợi, Pryanchikovvẫn còn mê mẩn, chàng không nhìn rõ những cái bàn, cái ghế quanh chàng, những cảm giác ngây ngất vẫn chưa chịu từ bỏ chàng.

    Một Trung tá gọn ghẽ, sáng sủa bảo chàng đi theo. Pryanchikov, với cần cổ ngẳng và đôi cổ tay khẳng khiu, đôi vai hẹp, đôi chân gầy chưa bao giờ trông tang thương bằng khi chàng bước vào căn phòng rộng do người sĩ quan đưa chàng tới. Người sĩ quan này dừng lại ở cửa và chỉ một mình Pryanchikov bước vào phòng.

    Căn phòng rộng đến nỗi Pryanchikov không nhận ra đó là một văn phòng, chàng cũng không nghĩ rằng người đàn ông với đôi cầu vai dát vàng ngồi tít ở tận xa kia là chủ nhân căn phòng này. Chàng cũng chẳng nhìn thấy bức hình Stalin cao tới mười thước choán hết một bức tường. Mạc Tư Khoa ban đêm và những người đàn bà đi trong đêm Mạc Tư Khoa vẫn còn chập chờn ẩn hiện trước chàng. Chàng như người say rượu. Chàng như người hoang mang không biết tại sao mình lại đi vào căn phòng rộng thênh thang này và phòng này là phòng gì? Chuyện lạ và khó hiểu hơn nữa là trong một căn phòng hình cánh quạt chật ních những chiếc giường hai tầng và giường nào cũng có người nằm ở một nơi nào đó được chiếu sáng bằng một bóng đèn xanh – dù chiến tranh đã chấm dứt từ năm năm trước – có một ly nước trà nguội còn chờ đón chàng trở lại.

    Chân chàng đi trên tấm thảm rộng. Thảm dầy và êm và chàng muốn nằm lăn xuống đó. Ở bên tường bên phải gian phòng có nhiều khung cửa sổ, bên tường trái gian phòng có một tấm gương lớn cao từ mặt sàn tới tận trần.

    Những người ở bên ngoài không biết được giá trị của vật dụng. Với một người tù quanh năm chỉ được dùng cái gương soi mặt lớn không quá lòng bàn tay, có khi cả năm sáu tháng không được nhìn thấy mặt trong gương, việc được nhìn ngắm toàn thân mình trong một tấm gương lớn là cả một việc quan trọng.

    Pryanchikov như bị nam châm hút lại, đứng sững trước tấm gương. Chàng nhìn chàng hiện ra trong đó rồi chàng đến sát gương, ngắm nghía với vẻ hài lòng hiện rõ trên khuôn mặt tươi trẻ, sạch sẽ của chàng. Chàng sửa lại cổ áo và xốc lại hai tay áo. Rồi vẫn nhìn vào gương, chàng từ từ đưa chân lùi lại rồi chàng nghiêng người sang bên và cố liếc mắt nhìn xem mặt nghiêng của chàng hình dáng ra sao. Chàng quay sang trái rồi quay sang phải. Hai chân chàng di chuyển như đi vài bước khiêu vũ và chàng lại đến sát gương, nhìn ngắm mặt chàng kỹ hơn trong đó. Sau cùng, thấy rằng mặc dù bộ y phục màu xanh bạc màu quá cũ này, mình vẫn thanh nhã và cân đối lắm, với sự hài lòng, phấn khởi trong tâm hồn, Pryanchikov đi tới – chàng đi tới không phải vì chàng biết rằng trong gian phòng này có người chờ đợi chàng mà chỉ là vì chàng cần đi để xem xét hết phòng.

    Người đàn ông có thể nhốt vào tù bất cứ ai trong một phần nửa thế giới, nhà Tổng trưởng độc tài từng làm những vị tướng lãnh, thống chế sợ đến xanh mặt, ngồi nhìn gã tù nhân gầy gò với một vẻ chú ý tò mò. Lâu rồi y không có dịp nhìn kỹ một người trong số nhiều triệu người đã bắt, đã kết án, đã cho vào nhà tù, vào những trại tập trung.

    Với dáng điệu của một chàng công tử đi dạo phố, Pryanchikov đi đến trước bàn và nhìn như dò hỏi vào mặt Abakumov như chàng không ngờ có người ngồi ở đó.

    "Anh là kỹ sư Pryanchikov?"

    Abakumov lên tiếng hỏi, tay y xếp lại những giấy tờ trên bàn.

    "Phải," Pryanchikov lơ đãng đáp "Phải, tôi."

    "Anh là những cầm đầu toán chuyên viên ở Mavrino làm việc về… về…"

    Abakumov xem lại tờ giấy:

    "Về máy Phân-Hóa Âm Thanh Nhân Tạo?"

    "Cái gì là máy phân hóa âm thanh nhân tạo?" Không trả lời vào câu hỏi, Pryanchikov nói sang chuyện khác, "Ai bày đặt ra cái tên gọi ngớ ngẩn vậy? Chúng tôi không dùng cái tên đó. Chúng tôi gọi nó là giàn máy Ám-Hiệu Âm-Thanh nhân. Tắt là Âm Thanh cho tiện."

    "Nhưng anh là kỹ sư trưởng toán?"

    "Trên nguyên tắc thì là tôi, nhưng có chuyện gì vậy?"

    Đột nhiên Pryanchikov trở thành đề phòng.

    "Ngồi xuống."

    Không chờ mời đến câu thứ hai, Pryanchikov ngồi ngay xuống ghế, chàng cẩn thận kéo cho ống quần thẳng nếp.

    "Tôi muốn anh nói thật, nói thật hoàn toàn, anh không sợ rắc rối vì những người có quyền ở đó. bao giờ cái máy Âm Thanh được chế tạo xong? Tôi muốn nói là bao giờ dùng được? Cứ nói thật. Một tháng nữa hay hai tháng? Cứ nói, đừng sợ gì hết."

    "Máy Âm Thanh? Sắp dùng được? Ha ha ha."

    Tiếng cười tươi trẻ và trong như tiếng chuông của Pryanchikov vang lên. Chưa bao giờ giữa những bức tường này lại rộn ràng tiếng cười như thế. Chàng ngồi dựa lưng lên thành ghế và giơ hai bàn tay ra trước mặt:

    "Ông nói cái gì? Ông nghĩ gì mà lại hỏi như thế? Rõ ràng là ông không hiểu máy Âm Thanh là cái gì. Để tôi giảng cho ông nghe…"

    Chàng nhẹ nhàng đứng bổng lên từ lòng ghế và nhô người trên mặt bàn của Abakumov:

    "Ông có tờ giấy trắng không? Đây rồi."

    Pryanchikov xé một tờ giấy trắng, vớ lấy cây viết màu thật tươi của Abakumov và bắt đầu vẽ vội và vụng những đường cong queo tượng trưng cho những làn sóng âm thanh.

    Abakumov không chút sợ hãi – trong thái độ, cử chỉ và giọng nói của người kỹ sư trẻ tuổi lạ kỳ có một cái gì thành thật, hồn nhiên và như ngây thơ làm cho y chịu đựng cuộc tấn công này. Y nhìn ngây Pryanchikov nhưng không ghi nhận những lời chàng nói.

    "Ông phải biết rằng tiếng nói của con người có rất nhiều hòa âm," Pryanchikov gần như nghẹn lời vì muốn nói ra tất cả những gì chàng cần nói trong một thế gian ngắn nhất, "và sáng kiến căn bản của máy Âm Thính là biến tiếng nói ra những âm thanh khác hẳn rồi lại kết hợp trở thành tiếng nói. Biến hóa cách nào tùy người sử dụng máy. Trời đất, sao ông có thể viết được với cây bút tồi như vầy? Ông biết rõ về tọa độ Cartesie chứ hả? Cái này chú học sinh nào cũng biết mà – và phương pháp Fourier?"

    "Chờ chút," Abakumov cố tự trấn tĩnh để nói. "Chú chỉ cần nói cho tôi biết: Bao giờ thì xong? Bao giờ thì máy dùng được? Bao giờ?"

    "Bao giờ xong? Hừm, tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện ấy."

    Giờ đây Pryanchikov không còn ngây ngất vì những hình ảnh chàng vừa nhìn thấy ngoài đường phố nữa, chàng bị tràn ngập bởi niềm yêu dấu công việc chàng đang làm và một lần nữa, chàng không sao có thể ngừng nói – Không trả lời câu hỏi của ba, chàng tiếp:

    "Vấn đề quan trọng bây giờ là nếu mình chịu biến cả giọng nói đi. Trong trường hợp ấy, số đơn vị…"

    "Nhưng ngày nào? Ngày nào, tháng nào? Ngày một tháng ba? Ngày một tháng tư?"

    "Trời đất… ông nói chi vậy? Tháng tư? Không kể đến những việc về Ám Số chưa làm xong, chúng tôi chỉ có thể hoàn thành dàn máy này vào… Coi nào, không thể sớm hơn được," Pryanchikov nắm tay áo Abakumov, kéo mạnh. "Ông để tôi giải thích tất cả cho ông nghe. Ông sẽ hiểu và sẽ đồng ý với chúng tôi rằng việc đó không thể vội mà được…"

    Nhưng Abakumov, mắt nhìn ngay xuống những hình vẽ vằn vèo vô nghĩa với y trên tờ giấy, đã đưa ngón tay ra tìm thấy nút chuông điện cạnh bàn.

    Người sĩ quan mang cấp bậc Trung tá gọn ghẽ hồi nãy lại xuất hiện và mời Pryanchikov đi ra.

    Pryanchikov đi xa bàn với vẻ bối rối hiện rõ trên mặt, miệng chàng hé mở. Chàng thất vọng vì chàng chưa giải thích được gì hết. Và khi đã đi ra được nửa phòng, bỗng dưng chàng nhận biết người đàn ông to lớn ngồi kia là ai. Chàng nhớ lại rằng những người bạn tù của chàng đã dặn chàng phải khiếu nại, phải cố gắng đòi hỏi. Chàng quay phắt lại và nói lớn:

    "Ê, tôi quên chưa nói cho ông biết."

    Nhưng người sĩ quan chặn không cho chàng đi trở lại, đồng thời y đẩy chàng ra cửa. Và Pryanchikov thấy rõ là người đàn ông ngồi ở bàn kia không nghe chàng nói. Trong một khoảnh khắc, tất cả những hành động phạm pháp, tàn ác của bọn cai ngục trở lại với chàng nhưng chàng chỉ có thể còn kêu lớn một câu:

    "Nước sôi, chúng tôi làm việc khuya nhưng không có nước sôi pha trà. Chúng tôi không có trà nóng uống ban đêm."

    "Không có nước sôi?"

    Một người nào đó đứng ở ngoài cửa phòng, dường như là một vị tướng lãnh, nói với Pryanchikov:

    "Được rồi. Để chúng tôi lo."

    #17
      CTT 07.09.2008 21:35:47 (permalink)
      17. Đũa thần hóa phép đi

      Bobynin đi vào phòng. Anh cũng bận bộ quần áo màu xanh đậm y hệt bộ quần áo của Pryanchikov, người vừa đi ra. Bobynin là một người đàn ông to và cao, quắc thước, mái tóc hung hung cắt ngắn theo kiểu tóc tù nhân.

      Anh tỏ ra ít chú ý đến cảnh gian phòng và những đồ bày biện, bài trí ở đây như anh đã từng ra vào nơi đây cả trăm lần mỗi ngày. Anh đi thẳng tới trước bàn và đĩnh đạc ngồi xuống ghế không thốt ra nửa lời chào hỏi. Rồi anh rút chiếc khăn tay không được sạch lắm vì ít có dịp được giặt trong túi ra hỉ mũi.

      Abakumov, sau khi thất vọng vì sự nói nhiều nhưng không đi đến đâu của Pryanchikov, tỏ ra yên tâm hơn khi thấy Bobynin điềm tĩnh và có vẻ nghiêm trọng. Y không quát lên với Bobynin “Đứng lên” như y vẫn thường quát với những đám ngồi khi chưa được y cho phép. Nghĩ rằng người tù này không biết y là ai, và gã cũng không đoán ra gã đang ở đâu, y cất giọng gần hiền lành hỏi:

      "Tại sao anh lại ngồi khi chưa được phép?"

      Bobynin nghiêng mặt nhìn vị Tổng trưởng quyền uy, anh vẫn dùng khăn chùi mũi và trả lời bằng một giọng thản nhiên:

      "Có một câu cách ngôn Trung Hoa nói rằng: “Đứng tốt hơn đi, ngồi tốt hơn đứng và tốt hơn cả là nằm”.

      "Anh có biết tôi là ai không?"

      Ngồi thoải mái với hai cánh tay đặt trên thành ghế, bây giờ Bobynin mới nhìn thẳng vào mặt Abakumov, anh chậm chạp đưa ra lời đoán:

      "Ông là ai? Hừ… Tôi thấy ông giống như Thống chế Goering."

      "Giống ai?"

      "Thống chế Goering. Có lần ông ấy đến thăm xưởng chế tạo phi cơ ở gần Halle, nơi tôi làm việc. Bọn tướng lãnh ở đó đều sợ xanh mặt, không tên nào dám đi mạnh, nhưng tôi không thèm cả nhìn xem ông ta ra sao. Ổng đến, đứng nhìn một hồi rồi đi."
      [1]

      Có một vẻ gì gần giống như nụ cười thấp thoáng trên vành môi Abakumov, nhưng y vội nghiêm mặt lại vì ngụ ý hỗn hào trong câu nói của tên tù. Y chớp mắt và hỏi, giọng bực dọc:

      "Anh không thấy có sự khác biệt ư?"

      "Khác biệt giữa ông và hắn? Hay khác biệt giữa ông và tôi?"

      Giọng nói của Bobynin có những âm thanh lạnh, cứng như thép.

      "Giữa tôi và ông, tôi thấy sự khác biệt rõ lắm: Ông cần tôi, còn tôi không cần ông."

      Abakumov cũng có giọng nói có thể gầm lên như sấm sét, và y biết cách lợi dụng nó để đàn áp người khác. Nhưng lúc này y thấy y có gầm lên cũng vô ích. Y hiểu rằng người tù này là một gã khó chế ngự được.

      Vì vậy, y chỉ cảnh cáo:

      "Anh tù, nghe đây. Đừng thấy rằng tôi dễ dãi mà anh có thể…"

      Bobynin vẫn thản nhiên:

      "Công dân Tổng trưởng, nếu ông làm dữ với tôi, tôi sẽ không nói gì với ông nữa. Ông chỉ có thể quát tháo, chửi mắng, đe dọa bọn đại tá với tướng lãnh quân hầu của ông. Họ có nhiều thứ mà họ sợ mất trong đời."

      "Tôi có thể bắt anh phải nói."

      "Ông lầm đấy, Công dân Tổng trưởng."

      Đôi mắt cương cường của Bobynin sáng lên ánh lửa thù hận:

      "Ông không làm gì được tôi hết vì tôi chẳng còn gì hết, ông hiểu không? Ông không thể làm hại được vợ con tôi vì một trái bom đã làm vợ con tôi tiêu tan lâu rồi. Ông cũng không thể hành hạ được cha mẹ tôi vì cha mẹ tôi đã chết. Tất cả những gì tôi có bây giờ chỉ là cái khăn tay dơ này, bộ quần áo cũng này và cái quần cụt rách."

      Như để chứng minh lời nói, Bobynin vạch áo để trần ngực:

      "Tất cả những thứ này đều do chính phủ phát. Ông đã tước đoạt tự do của tôi lâu rồi, và ông không có khả năng trả lại tự do cho tôi vì chính ông, ông cũng không có tự do. Tôi đã bốn mươi hai tuổi và ông đã giáng cho tôi cái án tù hai mươi lăm năm. Tôi đã từng là tù khổ sai, từng sống với những con số thay tên trên ngực áo, từng bị còng tay, từng sống giữa bầy chó dữ, từng chết dở sống dở trong những trại giam tàn ác nhất của bọn ông. Ông còn gì nữa để mà dọa tôi? Ông chẳng còn tước đoạt ở tôi thêm cái gì nữa. Ông có thể cấm tôi hành nghề kỹ sư? Cũng được. Nhưng cấm tôi thì ông có hại nhiều hơn là tôi. Tôi hút thuốc."

      Abakumov mở nắp hộp đựng những điếu thuốc đặc biệt mang nhãn hiệu Troika ra mời:

      "Đây, hút thuốc này."

      "Cám ơn. Tôi không thích đổi thuốc. Thuốc của ông làm tôi ho."

      Bobynin lấy ra một điếu thuốc Belommor tự hộp đựng thuốc do anh làm lấy. Anh nói tiếp:

      "Ông nên hiểu điều này, và ông nên nói lại điều này với những người trong bọn ông rằng các ông chỉ mạnh khi nào các ông không tước đoạt của người khác hết tất cả mọi thứ. Bởi vì khi một người đã bị các ông lấy mất hết tất cả, người đó sẽ không còn ngán sợ các ông nữa. Người đó lại trở thành tự do."

      Bobynin lặng im, anh chú tâm vào điếu thuốc. Anh cảm thấy thú vị đã làm được cho Tổng trưởng Abakumov hoang mang, anh khoan khoái ngồi trong chiếc ghế da quá êm này. Anh chỉ hơi hối có một điều là với mục đích tỏ ra bất cần, anh đã từ chối điếu thuốc thơm hiếm có kia.

      Tổng trưởng Abakumov kiểm soát trên giấy:

      "Kỹ sư Bobynin, anh là kỹ sư Trưởng toán làm việc ở Phòng Số Bảy?"

      "Phải."

      "Tôi yêu cầu anh trả lời thật rõ rệt: Bao giờ giàn máy điện thoại đặc biệt được hoàn thành? Bao giờ thì máy dùng được?"

      Bobynin ngước đôi lông mày đen rậm lên:

      "Chuyện này hơi lạ đó. Sao ông không hỏi Đại tá Yakanov mà lại hỏi tôi?"

      "Tôi muốn hỏi chính các anh. Đến tháng hai này máy có thể dùng được chưa?"

      "Tháng hai? Ông có giỡn chơi không đó? Ông muốn chúng tôi chế tạo ra một thứ có thể dùng được hay là làm bậy cho xong rồi muốn ra sao thì ra? Coi nào – sớm nhất cũng phải là nửa năm nữa. Còn muốn cho máy thật hoàn hảo thì phải một năm."

      Abakumov như người bị búa tạ nện xuống đầu. Y điếng hồn nhớ lại bộ ria mép rung động, giận dữ của Lãnh tụ mỗi khi gặp điều gì trái ý hoặc phải chờ đợi, và y nhớ lại những lời y đã long trọng hứa với Lãnh tụ, những lời hứa căn cứ trên lời hứa của bọn Oskolupov, Yakanov. Y có cải cảm giác rụng rời chân tay của kẻ đi đến bệnh viện xin thuốc cảm cúm để hốt nhiên được biết mình bị ung thư cuống họng.

      Và y cố gắng gằn giọng:

      "Bobynin, tôi muốn anh suy nghĩ kỹ trước khi nói: anh có thể hoàn thành cái máy đó nhanh hơn được không? Nếu được, anh cho tôi biết: Cần phải làm những gì, cần phải có những gì?"

      "Nhanh hơn? Không thể được."

      "Nhưng tại sao? Vì nguyên nhân nào? Kẻ nào có lỗi? Nói cho tôi biết, đừng có sợ gì cả. Cho tôi biết kẻ nào có lỗi, bất cứ kẻ đó ở cấp bậc nào, tôi cũng tống nó xuống làm lính trơn."

      Bobynin ngồi vắt chân, dựa lưng và ngửa mặt nhìn lên trần nhà. Abakumov nói như rít lên qua hàm răng nghiến lại:

      "Dự án này đã kéo dài hơn hai năm mấy tháng rồi còn gì? Hai năm rưỡi trong lúc các anh chỉ được quyền làm trong thời hạn một năm."

      Cơn giận trong Bobynin nổ ra:

      "Ông nói cái gì? Thời hạn là cái gì? Ai lại ngu si ra hạn cho một dự án khoa học bao giờ? Ông quan niệm khoa học như thế nào? Khoa học đâu có phải là cây đũa thần của bà tiên để ông có thể ra lệnh: 'Xây cho ta tòa lâu đài trước sáng mai' và sáng mai ngủ dậy, ông thấy tòa lâu đài mới tinh hiện ra trước mắt? Ông phải biết là vấn đề đã được đặt ra sai ngay từ đầu. Ai có thể biết trước được có bao nhiêu hiện tượng bất ngờ xảy đến trong một dự án khoa học. Thời hạn! Ông tưởng chỉ cần ra thời hạn phải làm xong đã giải quyết được tất cả hay sao? Ông có biết rằng ngoài việc ra lệnh ông còn cần phải có những người được ăn uống đầy đủ, những người thoải mái về tinh thần, những người tự do để làm công việc ấy? Không ai có thể làm việc được trong không khí nghi ngờ vô lý ở đấy. Ông đâu có biết chúng tôi chỉ có một cái máy tiện cổ lỗ sĩ để dùng và chúng tôi phải khiêng cái máy hạng bét đó hết chỗ này sang chỗ khác. Vì máy quá cũ nên nó bị hư, cần trục gãy phải hàn lại mất ba mươi ruble. Cái máy tiện đó sống đã một trăm hai mươi năm trời rồi. Nó nhão hết mọi bộ phận. Vậy mà vì nó hư, anh Thiếu tá Shikin ngu đần, sĩ quan an ninh ở đó, bắt tất cả chúng tôi tới để thẩm vấn liền trong hai tuần lễ. Hắn muốn tìm cho ra kẻ phá hoại để gán thêm án tù vì tội phá hoại. Tên đó là sĩ quan an ninh trong Viện, một gã ăn hại. Lại còn một tên nữa cũng là sĩ quan an ninh. Tên Shikin phụ trách an ninh trong các phòng thí nghiệm, tên kia giữ an ninh trong nhà giam. Gã làm cho bọn tôi điên đầu vì những báo cáo ti tiện của gã. Mà các ông làm cái gì phải có tới hai tên sĩ quan giữ an ninh ở đấy chứ? Ai cũng biết là chúng tôi chế tạo máy điện thoại cho Stalin, và chính Stalin đích thân ra lệnh làm máy này. Vậy mà với một công tác như thế các ông cũng không cung cấp cho chúng tôi đủ vật liệu cần thiết. Khi chúng tôi cần bóng đèn thì không có hoặc là có nhưng không đúng thứ chúng tôi cần dùng, cả đến những bàn dao-động-đồ cũng không đủ. Thật là xấu hổ. Vậy mà ông còn hỏi rằng ai có lỗi. Ngoài ra, các ông đâu có nghĩ gì tới những người làm việc cho các ông ở đó. Họ đều làm việc mỗi ngày mười hai tiếng có ngày tới mười sáu tiếng, nhưng các ông chỉ cho những kỹ sư trưởng toán ăn thịt còn những người khác ăn xương. Tại sao các ông không cho họ được gặp thân nhân họ? Đáng lẽ mỗi tháng họ được gặp vợ con họ một lần thì các ông chỉ cho họ mỗi năm được gặp một lần. Việc đó giúp tinh thần họ lên cao để họ có thể làm việc cho các ông hữu hiệu hơn hay sao? Hay là các ông không có đủ xe Maria đen để đưa tù đi gặp vợ con. Hay là thiếu tiền trả cho bọn lính canh để đi làm những ngày nghỉ? Trước kia trong ngày chủ nhật chúng tôi được đi lại suốt ngày ở ngoài sân vườn, bây giờ cấm. Tại sao lại cấm? Để chúng tôi làm việc nhiều hơn ư? Các ông phải biết chúng tôi làm cho các ông những công việc gì và chúng tôi cần có những gì để làm công việc ấy chứ? Nhốt người ta suốt đêm trong phòng kín đâu có phải là công việc sẽ làm nhanh hơn. Mà tôi có nói với ông cũng vô ích. Như ông chẳng hạn – tại sao ông lại gọi tôi tới đây vào lúc nửa đêm như thế này. Bộ ban ngày không có đủ thì giờ hay sao? Tôi còn có việc phải đi làm ngày mai. Tôi cần ngủ."

      Bobynin đứng thẳng người, giận dữ, to lớn.

      Abakumov thở phì phò, nhấn mạnh nút chuông điện.

      Lúc đó đã mười một giờ hai phút. Trong một tiếng đồng hồ nữa, vào lúc hai giờ ba mươi sáng, Abakumov phải tới báo cáo với Stalin trong biệt xá ở Kuntsevo.

      Nếu tên kỹ sư này nói đúng, bằng cách nào y có thể thoát được tai họa này?

      Stalin không bao giờ tha thứ.

      Sau khi Bobynin đi khỏi, Abakumov nhớ lại bọ tam-đầu-chế dối trá Sevastyanov, Oskolupov và Yakanov, cơn giận như một tấm màn đen phủ xuống mắt y.

      Abakumov cho gọi ba tên dối trá đó trở lại.
      #18
        CTT 07.09.2008 21:40:09 (permalink)
        18. Sinh nhật của người hùng

        Căn phòng nhỏ hẹp và trần phong thấp. Phòng có hai cửa ra vào nhưng không có cửa sổ, tuy vậy không khí trong phòng vẫn mát và dễ chịu. Một kỹ sư đặc biệt thường trực chịu trách nhiệm giữ cho không khí trong phòng này lưu thông và trong sạch. Một phần lớn của căn phòng bị choán vì chiếc ghế dài có thành tựa bọc da nâu trên có những chiếc gối dựa bọc vải hoa. Trên tường, hai bóng đèn điện hồng nằm trong lồng kiến mờ soi sáng căn phòng.

        Trên chiếc ghế dài có một người đàn ông nửa nằm nửa ngồi. Người đàn ông này là người mà khuôn mặt, dáng người đã được điêu khắc trên đá, vẽ bằng dầu, bằng màu nước, bằng phấn, bằng sơn, bằng bột, bằng chì, bằng than với đủ thứ màu sắc, được đắp bằng những viên đá, viên sỏi, bằng vỏ sò vỏ ốc, bằng gạo, bằng những hạt đậu nành, bằng ngói, được chạm trổ trên ngà, trên gỗ quý, trên sừng, được đan bằng sợi, trồng bằng cỏ, được hợp lại bằng những đoàn phi cơ bay trên trời, được chụp hình, được quay phim. Trong khoảng ba tỷ năm dài của trái đất này chưa có người nao được người đời tạo hình nhiều đến như người đàn ông này.

        Y nằm đó hai chân để trên cao, hai chân y đi đôi giày da cao cổ, kiểu giày của người Caucase, làn da mềm như giày chỉ là đôi vớ dày. Y bận chiếc áo làm việc có bốn túi lớn, hai túi ở ngực, hai túi bên dưới – chiếc áo đã cũ, đã được mặc nhiều lần, một trong những chiếc áo bốn túi được y mặc kể từ thời nội chiến và từng được y thay bằng bộ quân phục Thống chế kể từ sau trận Stalingrad.

        Tên người đàn ông này được đăng trên báo chí, được cả ngàn xướng-ngôn-viên của cả ngàn đài phát thanh trên thế giới nhắc đến bằng hàng trăm thứ tiếng, được hô lớn bởi những diễn giả ở đầu và cuối những bài diễn văn, được hát bởi những giọng ca trong trẻo của những em nhi đồng, được thốt lên từ miệng những vị Giám mục. Tên người đàn ông này thấp thoáng trên môi những tù binh hấp hối, giữa những hàm răng tê cóng của những người tù rạc trong những trại tập trung. Tên người đàn ông này cũng được đặt cho vô số những thị trấn, những công viên, đường phố và đại lộ, những lâu đài, những đại học đường, trường học, bệnh viện, núi, sông, xưởng máy, hầm mỏ, nông trường, công xã, chiến hạm, tàu phá băng sơn, tàu đánh cá, ấu trĩ viện và được một nhóm ký giả báo chí Mạc Tư Khoa đề nghị đặt cho sông Volga và dùng để gọi mặt trăng.

        Y chỉ là một người đàn ông hơi già với một cái cằm chẻ đôi hơi xệ – trong những bức hình chụp y người ta không bao giờ thấy cái cằm xệ này – với cái miệng đượm mùi thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ, những ngón tay y mập và có dầu thường để lại những vết như vết mỡ trên những trang giấy mỏng. Hôm qua và hôm nay y không được dễ chịu và khoẻ lắm: Ngay cả trong bầu không khí ấm áp của căn phòng y vẫn cảm thấy lành lạnh ở lưng và hai vai, trên vai y choàng chiếc khăn lông lạc đà màu nâu.

        Y không bận rộn vì bất cứ chuyện gì. Y ngồi đó lật giở từng tờ một quyển sách nhỏ bìa da nâu với vẻ hài lòng hiện trên nét mặt. Y nhìn với một vẻ chú ý lên những tấm hình in trong quyển sách và thỉnh thoảng, y đọc vài đoạn trong sách mặc dù y đã dần thuộc lòng trọn quyển sách này. Và y lần giở từng trang. Quyển sách này càng thêm tiện lợi vì khuôn khổ của nó nhỏ bỏ vừa vào túi áo ngoài của mọi người, nó có thể đi theo người ta bất cứ đâu trong suốt cả một đời. Nó gồm hai trăm năm mươi trang và được in bằng chữ khá lớn và rõ để cho những người đã già mắt kém hoặc những người ít học cũng có thể đọc được dễ dàng. Nhan đề của nó được in trên bìa bằng chữ vàng: Tiểu sử Iosif Vissarionovich Stalin.

        Những dòng chữ rất thường, dễ hiểu và lương thiện trong quyển sách này tất nhiên là phải có tác động đến trái tim người đọc. Tài ba về chiến thuật – chiến lược thần kỳ của Stalin, sự nhìn xa thấy rộng của Stalin…tất cả đều được ghi lại trong quyển sách này. Kể từ năm 1918, y đã trở thành một phụ tá đắc lực của Lênin. (Đúng, đúng, chuyện này đúng). Người lãnh đạo cuộc cách mạng bị bối rối vì tình trạng lộn xộn tưởng như không sao giải quyết nổi, chính là nhờ Stalin mà cách mạng đã toàn thắng. (Đúng, thật đúng.) Chúng ta may mắn vô cùng nên mới có được một vị lãnh tụ tài ba và giàu kinh nghiệm – Đại Lãnh Tụ Stalin – dẫn dắt trong những ngày khó khăn, bi thảm đó. (Đúng vậy, dân tộc này quả là may mắn.) Tất cả chúng ta đều có dịp thấy rõ sự sáng suốt vô biên của người, tinh thần quang minh tuyệt vời của người. (Đúng vậy, không nên khiêm tốn giả dối, ta phải nhận đó là sự thực.) Tình yêu thương đồng bào của người. Lòng nhân ái của người. Khả năng thông cảm sâu xa của người. Bản tính khiêm tốn kỳ diệu của người. (Khiêm tốn –phải đấy, mình khiêm tốn thật.)

        Tốt. Và họ nói sách này bán chạy lắm. Ấn bản thứ hai này in năm triệu cuốn. Nhưng với một nước rộng như thế này thì con số đó vẫn còn là quá nhỏ. Ấn bản thứ ba phải in ít nhất là mười triệu cuốn, hoặc hai mươi triệu cuốn. Sách phải bán thẳng cho các xưởng may, trường học, nông xã.

        Y cảm thấy hơi lợm giọng. Đặt quyển sách xuống, y bóc vỏ một trái cam tươi trên mặt bàn tròn và cắn vào trái cam. Nếu y mút chất nước của trái cam, y sẽ hết lợm giọng và miệng y sẽ dễ chịu vì chất nước chua chua ngọt ngọt của trái cam để lại.

        Y nhận thấy, nhưng y sợ không dám nhìn nhận, là sức khoẻ của y mỗi tháng một kém đi. Y có những phút quên lãng. Y khổ sở vì chứng lợm giọng buồn nôn. Y không đau đớn gì rõ ràng cả nhưng một sự mệt mỏi khó chịu thường giữ y ngồi dính xuống ghế nhiều giờ đồng hồ trong một ngày. Ngay cả việc ngủ cũng không làm cho y dễ chịu. Sau giấc ngủ, y tỉnh dậy và vẫn bải hoải, rã rượi, bần thần như trước khi ngủ, đầu y vẫn nặng và y không còn muốn đi lại, làm việc.

        Ở miền Caucase, một người đàn ông bảy mươi tuổi vẫn còn là trẻ, vẫn còn leo núi, cưỡi trên lưng ngựa, trên bụng đàn bà. Và xưa kia, y mạnh khoẻ biết chừng nào. Y vẫn tin chắc là y sẽ sống đến chín mươi tuổi. Có chuyện gì đã xảy ra? Vì sao y lại thay đổi, lại yếu đi đến thế này? Trong khoảng những năm gần đây Stalin không còn có thể hưởng thụ cái khoái lạc lớn nhất trong đời y nữa - cái khoái lạc đó là việc ăn uống. Nước cam tươi làm cho lưỡi y rát, caviar dính vào kẻ răng y, và y ăn với một vẻ lãnh đạm không thấy gì là ngon cả những món ăn nhiều ớt, nhiều tiêu của miền Georgia. Y cũng không còn khoái uống rượu như xưa nữa – mỗi lần uống rượu y lại nhức đầu. Và chỉ cần nghĩ đến đàn bà thôi cũng đã đủ làm cho y kinh tởm.

        Vì đã quyết định sẽ sống đến năm chín mươi tuổi, Stalin buồn rầu nghĩ rằng những năm sắp tới sẽ không đem lại cho y được một nỗi vui riêng nào, y sẽ phải chịu đựng hai mươi năm trời nữa vì hạnh phúc của nhân loại.

        Một ông bác sĩ đã cảnh cáo y như thế – (và ông này đã bị bắn chết chính vì thế) – Những ông nghe run rẩy trong bàn tay của những nhân vật nổi tiếng nhất trong giới y khoa ở Mạc Tư Khoa. Những ông này không bao giờ tiêm thuốc cho Stalin. (Chính Stalin đã ra lệnh không được dùng thuốc chích). Họ chỉ dùng khoa chạy điện và khuyến cáo y dùng nhiều trái cây hơn.

        Ba ngày trước đây là ngày kỷ niệm sinh nhật thứ bảy mươi rực rỡ của y. Họ đã thực hiện lễ kỷ niệm nay từng giai đoạn: Trong đêm hai mươi Traicho Kostov đã bi đánh đến chết, chỉ sau khi ánh mắt của tên hèn hạ ấy đã mờ đi, lạc thần những cuộc liên hoan mới thực sự bắt đầu. Trong ngày hai mươi mốt có một cuộc lễ lớn được tổ chức ở Đại Hí viện Bolshoi, Mao Tse-Tung và Ibarruri cùng nhiều đồng chí khác đọc diễn văn mừng thọ ở đây. Và sau đó là một bữa tiệc lớn, rồi tiếp ngay sau đó là một bữa tiệc nhỏ. Họ uống những chai rượu quý được cất trong hầm rượu Y Pha Nho để dành vào những dịp đặc biệt này. Y uống rượu với sự thận trọng, vừa uống vừa để ý quan sát ngầm những khuôn mặt đỏ khê quanh y. Sau nữa, y và Lavrenty uống rượu Kathetinskoye và hát những bài ca miền Goergia. Trong ngày hai mươi hai có một cuộc tiếp tân ngoại giao đoàn vĩ đại. Trong ngày hai mươi ba, y ngồi coi hai cuốn phim Trận chiến Stalingrad của Đạo diễn Virta (phần hai) và phim Năm 1919 khó quên của Đạo diễn Visnhevsky. Cả hai phim này đều có hình ảnh y do hai diễn viên điện ảnh đóng.

        Mặc dù việc ngồi coi phim làm cho y mệt mỏi y vẫn thích hai cuốn phim này. (Cả hai đạo diễn đều được lãnh giải Stalin.) Hiện giờ vai trò của y trong cuộc nội chiến cũng như trong trận đại chiến Thế giới thứ hai, trận chiến tranh thần thánh bảo vệ quy hoạch, đã được diễn tả đúng và đầy đủ. Người ta đã thấy rõ ngay từ xưa y đã là một nhân vật vĩ đại đến là chừng nào. Y nhớ rằng y từng nhiều lần cảnh cáo và sửa lỗi cho Lênin. Lênin quá cả tin và đôi khi khờ khạo. Và đạo diễn Visnhevsky đã làm đúng khi để cho y nói trong phim: “Bất cứ người công nhân nào cũng có quyền nói lên ý kiến của mình. Có ngày chúng ta sẽ ghi điều ấy vào hiến pháp”. Việc đó có ý nghĩa gì? Ý nghĩa của việc đó là trong khi ở Yudenich để chỉ huy cuộc bảo vệ Petrograd, Stalin đã nghĩ đến việc soạn thảo một hiến pháp dân chủ trong tương lai. Thời đó tình trạng xã hội được gọi là “vô sản chuyên chế” – nhưng đâu có quan hệ gì, chỉ biết là chế độ đó đúng, chế độ đó mạnh.

        Và trong cuốn phim Trận chiến Stalingrad của Virta, đoạn phim ban đêm Stalin tâm sự với một người bạn là đoạn phim tốt, thành công. Thực ra, suốt đời Stalin, y chưa từng bao giờ có một người bạn nào lý tưởng như vậy cả, bởi vì loài người xảo trá và không bao giờ thành thực, nhưng khi ngồi coi đoạn phim cảm động đó chiếu trên màn ảnh, Stalin vẫn cảm thấy nghẹn ngào trong cổ họng và nước mắt ứa ra trên mi – (tâm hồn y còn là tâm hồn nghệ sĩ nữa) – và y thèm khát được có một người bạn thẳng thắn, không ích kỷ, một người bạn mà y có thể nói hết tất cả những gì y nghĩ ngợi trong những đêm dài.

        Nhưng dù không có cũng không sao. Quần chúng bình dân yêu mến Lãnh tụ, hiểu y và yêu y, vậy là đủ rồi – và đó là tình trạng có thật. Y nhìn thấy sự yêu mến và thông cảm ấy hiển hiện trên những trang báo, trên phim ảnh, qua những tặng phẩm sinh nhật. Ngày sinh nhật của y đã trở thành một ngày quốc khánh, và đó là một điều làm cho y ấm lòng. Không biết bao nhiêu là điện văn chúc thọ được gửi đến. Từ những viện, những cơ sở, những tổ chức, những xưởng máy và những tư nhân. Nhật báo Pravda đã xin phép được đăng tải mỗi ngày hai cột báo những điện văn này. Họ có thể đăng hết năm này qua năm khác mà vẫn không bao giờ hết được điện văn. Được lắm, đó cũng là một ý kiến hay.

        Và những tặng phẩm chất đầy mười gian phòng trong Viện Bảo tồn Cách mạng. Để khỏi ngăn cản những công dân Mạc Tư Khoa đến đó chiêm ngưỡng những tặng phẩm ban ngày, Stalin đã tới đó coi vào ban đêm. Đó là tác phẩm, chế tạo phẩm của cả ngàn tay thợ khéo, đó là những tặng phẩm đẹp nhất thế giới, những tặng phẩm hằng hà sa số được đặt, bày, treo, dựng trước mắt y. Nhưng ở đó y cũng cảm thấy lãnh đạm, chán chường. Những tặng phẩm này có ích gì cho y? Y coi thường tất cả và chán nản tất cả. Khung cảnh Viện Bảo tồn này gợi trong ký ức y một kỷ niệm khó chịu nào đó, một khó chịu mơ hồ thường ám ảnh y ít lâu nay. Y không sao biết rõ được nguyên nhân nó, y không nắm được nó, y chỉ thấy nó mơ hồ ẩn hiện và làm cho y khó chịu. Y đi qua ba gian phòng đầy tặng phẩm nhưng không chọn qua một món nào hết. Rồi y đứng lại trước một giàn máy Tivi lớn hơn hàng chữ khắc “Nhân viên Cheka kính tặng Đồng chí Stalin vĩ đại”.
        [2]

        (Giàn Tivi này được chế tạo ở Viện Mavrino – đây là giàn Tivi duy nhất, lớn nhất được chế tạo ở Liên bang Xô Viết.)

        Rồi y quay gót và đi ra.

        Những ngày liên hoan trôi qua như thế. Y chẳng cảm thấy có gì là vui, là phấn khích hết.

        Có một cảm giác gì đó nặng nề trong lồng ngực làm cho Stalin lo âu và thắc mắc, cảm giác đó có từ lúc y đứng trong Bảo tồn viện, có một cái gì trong đó đã gây cho y cái cảm giác khó chịu ấy nhưng y vẫn không biết rõ vì cái gì.

        Quần chúng muốn y, điều đó đúng, đúng lắm nhưng quần chúng không biết nhìn xa. Làm cách nào sửa được khuyết điểm ấy? Chế độ cộng sản sẽ được thực hiện nhanh chóng và hoàn hảo biết chừng nào nếu không có những tên công chức vô hồn, nếu không có những tên cán bộ cao cấp ngu dốt, nếu không có những sơ hở, yếu kém trong công tác giáo dục và hướng dẫn quần chúng. Ngay cả bọn đảng viên cũng lầm lạc và xao lãng nhiệm vụ lịch sử của chúng. Lại còn những chậm trễ trong những kế hoạch xây dựng, những chậm trễ trong kế hoạch sản xuất, sự thiếu thốn những hóa phẩm tốt, những chương trình sai lầm, sự lãnh đạm của tất cả trước những cố gắng áp dụng kỹ thuật mới và dụng cụ mới, sự từ chối của bọn trẻ lười biếng không chịu xung phong đi công tác ở những miền xa để mở rộng biên cương, năng suất nông phẩm tụt dốc, tình trạng hoang phí của bọn cán bộ thuế, tình trạng trộm cắp trong những kho chứa, tình trạng tham nhũng, biển thủ, chiếm công vi tư của bọn ủy viên, bọn tù nhân phá hoại ngầm, rồi lại còn bọn công an chủ trương tự do, bọn hành nghề chợ đen hỗn xược, bọn đàn bà nội trợ tham lam, đòi hỏi, bọn trẻ con hư vì được quá nuông chiều, bọn chuyên bàn tán nhảm trên xe buýt, bọn văn nghệ sĩ đòi tự do sáng tác, bọn “phê bình, chỉ trích” láo lếu, bọn làm điện ảnh phá phách không còn biết đến kỷ luật là gì.

        Thật vậy, quần chúng có quá nhiều lỗi lầm cần phải sửa đổi.

        Như trong năm 1941 chẳng hạn, cái gì đã làm cho họ rút lui? Họ đã được lệnh ở lại đó cho tới chết. Tại sao họ không chịu làm thế? Năm đó, ai đã rút lui, ai đã bỏ chạy, nếu không phải là quần chúng?

        Nhưng nhớ lại năm 1941, Stalin cũng không sao tránh thoát được việc nhớ lại những yếu đuối và lầm lẫn của chính y – y đã vội vã đi khỏi Mạc Tư Khoa trong tháng mười năm ấy, sự bỏ đi của y không cần thiết. Tất nhiên đó không phải là y bỏ trốn, bởi vì trước khi đi, Stalin đã để lại nhiều người có trách vụ. Y đã ra lệnh cho những người phải ở lại chiến đấu bảo vệ thủ đô đến giọt máu cuối cùng, nhưng hỡi ơi, chính những đồng chí được tin cẩn này lại yếu tinh thần, trước sức tấn công của quân Đức Quốc Xã, họ bỏ chạy và sau cùng Stalin lại phải trở về và tự lực bảo vệ thủ đô.

        Y đã cho đi tù tất cả những kẻ nào không may được chứng kiến và nhớ lại cơn hoảng loạn trong ngày 16 tháng mười năm đó. Nhưng y cũng tự trừng phạt chính y –y đã đứng duyệt cuộc diễn binh trong tháng mười ấy. Khoảnh khắc thời gian đó cũng giống như y bị ngã xuống một hố băng đá ở Turukhansk, nơi y bị lưu đày. Ở Turukhansk thời đó chỉ có băng giá và tuyệt vọng, nhưng từ băng giá tuyệt vọng đã trồi lên sức mạnh. Đó không phải là một sự kiện đáng cười – một cuộc diễn binh trong khi quân địch đã đến sát chân thành.

        Nhưng muốn trở thành nhà Lãnh tụ vĩ đại nhất của muôn đời, nhà Lãnh tụ vĩ đại nhất của những nhà Lãnh tụ vĩ đại, người ta phải hy sinh, chịu đựng nhiều. Lẽ tự nhiên rồi.

        Mệt mỏi vì bất động, vô tình Stalin để cho tâm trí y bị tràn ngập bởi những tư tưởng hắc ám nặng nề. Y không chú tâm đến bất cứ vấn đề gì rõ rệt trong lúc này. Y nhắm mắt lại và nằm đó trong khi những mẩu ký ức rời rạc theo nhau trở về trong óc y. Không biết vì sao mỗi khi y hồi tưởng, y không nhớ được những kỷ niệm tốt đẹp, êm đềm, chỉ có những kỷ niệm xấu, khó chịu hiện ra. Nếu y nhớ lại những cảnh vật miền Gori, nơi y ra đời, những ngọn đồi cỏ xanh ở đó không hiện ra, những dòng sông Medzhuda, Liakhva nước trong cũng không thấy hiện ra. Y chỉ nhớ lại toàn những gì đáng thù ghét ở đó, những gì đã ngăn cản không cho y trở lại thăm nơi đó, dù chỉ là thăm trong một tiếng đồng hồ ngắn ngủi, nơi y đã ra đời, đã sống những ngày thơ ấu. Không một lần nào y trở về đó để thăm lại mái nhà xưa. Nếu y nhớ lại năm 1917, y chỉ nhớ có sự kiện Lênin từ ngoại quốc trở về với mớ chủ nghĩa chủ quan và sự kiện Lênin đảo lộn tất cả những thành quả gặt hái được từ trước, và nhớ sự kiện thiên hạ đã cười ồ chế nhạo, khinh khi ra sao khi Stalin đề nghị thành lập một đảng hợp pháp và chung sống hòa bình với chính phủ lâm thời. Họ đã cười nhạo y hơn một lần – nhưng tại sao họ lại cứ trút những việc khó khăn, nguy hiểm, tối tăm cho y làm? Họ cười y nhưng cũng chính y chứ không phải người nào khác, trong ngày mùng 6 tháng bảy năm ấy được họ sai đi từ Lâu đài Kshesinskaya đến đồn Petropavlovsk để thuyết phục đám thủy thủ ở đây trao đồn này lại cho Kerensky và rút lui về Kronstadt đám thủy thủ ném đá đuổi về. Người ta phải biết cách nói chuyện với những người dân Nga. Y nhớ lại năm 1920 và lập tức hình ảnh Tukhachevsky hiện ra khi gã, với đôi mắt long lên, với vành môi nhăn nhúm, tố cáo lớn tiếng rằng chính là lỗi ở Stalin nên mới không chiếm được Warsaw. Gã ngu dại ấy chết vì lời tố cáo bậy bạ ấy.

        Trong suốt đời y dường như không có qua một chuyện gì êm đẹp. Đời y không được êm đẹp bởi vì luôn luôn bị người khác can thiệp. Và khi kẻ này bị thanh toán đi, lại có những kẻ khác hiện ra. Cứ thế và cứ thế người ta quấy rầy y mãi không thôi.

        Y nghe tiếng gõ cửa. Những tiếng này không hẳn là tiếng gõ cửa, chúng như tiếng cào nhẹ của một con chó bên ngoài cánh cửa gỗ dày.

        Stalin xoay một nút điện bên tay ghế, đó là nút điện mở khóa cửa từ xa. Khóa cửa bật ra với một tiếng “cách” khẽ và cánh cửa mở hé. Cửa này không có màn che vì Stalin không thích quanh y có màn cửa, rèm che giường, bất cứ món gì người khác có thể ẩn nấp được. Cánh cửa hé mở đủ để cho một con chó len vào nhưng thay vì con chó, cái đầu hói nhẵn bóng của Poskrebychev rồi bộ mặt lúc nào cũng có vẻ trung thành lương thiện của gã hiện ra.

        Chú ý đến tình trạng sức khoẻ đêm nay của Lãnh tụ, Poskrebychev thấy Stalin nằm dài trên ghế với chiếc khăn lông lạc đà đắp trên vai, nhưng gã không hỏi thăm đêm nay Lãnh tụ có mạnh khoẻ hay không – sức khoẻ Stalin bao giờ cũng được coi là hoàn hảo – gã chỉ nói nhỏ đủ nghe:

        "Yos Sarionich Abakumov sẽ có mặt vào lúc hai giờ rưỡi. Ông có tiếp hắn không? Có thể cho hắn về?"

        Iosif Vissarionovich mở nút túi áo ngực rút ra chiếc đồng hồ – (cũng giống như những người sống theo kiểu cách cũ, y không chịu nổi loại đồng hồ đeo cổ tay).

        Chưa đến hai giờ sáng.

        Y không muốn thay y phục và rời căn phòng này để vào văn phòng. Nhưng y cũng không thể để cho kỷ luật bị lỏng lẻo. Nếu y lỏng tay cương một chút, chỉ cần một chút thôi, bọn họ sẽ biết ngay tức khắc.

        Stalin trả lời với vẻ mệt mỏi và đôi mắt chớp luôn mấy cái:

        "Để coi. Ta chưa biết."

        "Dạ. Vậy thì cứ để cho hắn tới, cho hắn chờ."

        Poskrebychev nói và gật đầu liền ba cái. (Gã biết rằng càng tỏ ra con nít và khờ khạo chừng nào địa vị của gã càng vững chắc chừng ấy). Rồi nét mặt gã nghiêm lại, gã chú ý nhìn Lãnh tụ:

        "Xin ông cho lệnh về đêm nay?"

        Stalin nói dưới chòm ria mép:

        "Sasha, đi đi. Để ta yên."

        Poskrebychev gật đầu thêm một lần nữa và lùi ra, khép chặt cánh cửa lại.

        Iosif Vissarionovich nhấn nút điện khóa cửa lại và kéo chặt chiếc khăn đắp lên vai, xoay mình nằm nghiêng qua phía bên kia.

        Y nhìn thấy trên mặt chiếc bàn nhỏ ở đầu ghế có một quyển sách nhỏ, in trên giấy báo thường, bìa màu đen và đỏ.

        Đột nhiên y nhận ra cái gì đã làm cho y khó chịu, cái gì đã đè nặng tim y, đã cháy âm ỉ trong ngực y và làm cho lễ sinh nhật của y mất hứng thú: Cái đó là một người, một người đã can thiệp bậy vào đời y mà y vẫn chưa thanh toán được, người đó là Tito. Tito!

        Tại sao chuyện này lại có thể xảy ra được? Sao y lại có thể lầm lẫn đến như thế về con bọ cạp đó? Những năm 1936, 1937 là những năm vinh quang rực rỡ nhất trong đời y. Trong hai năm đó y đã trừ khử được những kẻ khó trừ khử nhất, không biết bao nhiêu đầu người đã rơi trong hai năm ấy nhưng vậy mà y đã để cho Tito lọt qua kẽ tay y.

        Với một tiếng gừ, Stalin buông hai chân xuống sàn. Y ngồi thẳng lên và giơ tay lên vuốt nhẹ mái tóc hung hung, xám xám, mái tóc đã có một miếng hói thấy rõ. Những sự bất-như-ý, những bất mãn chất chứa trong dĩ vãng ào ào trở lại làm cho y choáng váng. Như một người hùng trong huyền thoại, suốt đời Stalin đã bận rộn với việc chặt đầu con quái long, nhưng vừa chặt xong đầu này con vật lại mọc ngay đầu khác. Trong những năm qua y đã chặt đầu kẻ thù chất lên thành núi, nhưng y đã vấp phải một cái rễ cây.

        Isoif đã ngã vì Isoif.
        [3]

        Kerensky, tuy trước đây cũng là kẻ thù của Stalin, vẫn còn sống ở đâu đó nhưng Kerensky không đáng cho y để ý đến nữa. Với Stalin, dù bây giờ Nicholas Đệ nhị hay Kolchak có sống lại cũng vậy thôi, y không thấy thù hận gì với hai người này, họ là những kẻ thù công khai của y, họ không lẩn tránh để rồi bày đặt thực hiện một chế độ xã hội tốt đẹp hơn chế độ xã hội của Đại Lãnh tụ Stalin.

        Một chế độ xã hội tốt đẹp hơn? Một chế độ xã hội khác với chế độ xã hội của Stalin? Mẹ kiếp. Ai có thể thành lập được chế độ xã hội mà không có Stalin? Vô lý.

        Đó không phải là vấn đề Tito có thành công hay không. Làm sao tên ngu đần đó có thể thành công cho được. Nhất định là thế rồi. Stalin nhìn Tito như một ông bác sĩ già ở đồng quê, đầy kinh nghiệm, từng mổ không biết bao nhiêu là bộ phận trong cơ thể những người bệnh, trong những túp lều không có lò sưởi, trên những tấm ván đặt ngay bên cạnh đường đi, nhìn một chú y sĩ tập sự bận áo trắng loay hoay giải phẫu.

        Những công trình do Lênin để lại đã được đổi mới ba lần, những lý thuyết của Marx và Hegel đã được sửa lại hai lần. Tất cả những kẻ không đồng ý với Stalin, những kẻ được nhắc đến từ thời Lênin còn sống, những kẻ đòi thực hiện xã hội chủ nghĩa theo những đường lối khác với chủ trương của Stalin đều ngủ yên dưới đáy mồ, đều đã bị quên lãng, khi từ cả những cánh rừng xa xôi nhất ở miền Bắc không còn vang lại qua một hoài nghi, một chỉ trích nào, đột nhiên Tito từ trong bóng tối chui ra với lão lý thuyết gia – tín điều Kardel và tuyên bố chủ nghĩa xã hội cần được thực hiện theo một lối khác.

        Nghĩ tới đây Stalin nhận thấy con tim y đập mạnh hơn, mắt y mờ đi và toàn thân y có những cái co giật bắp thịt khó chịu.

        Y cố gắng điều hòa nhịp thở. Y đưa tay vuốt mặt và sờ nhẹ bộ ria mép. Y không thể bỏ qua được. Nếu y chịu bỏ qua, Tito sẽ làm cho y mất hoan lạc trong những năm cuối cùng của đời y, sẽ làm cho y ăn mất ngon ngủ mất yên.

        Khi mắt y đã nhìn rõ lại, một lần nữa Stalin lai nhận thấy cuốn sách hai bìa màu đen đỏ nằm trên bàn. Cuốn sách này không có tội gì cả. Stalin với tay cầm cuốn sách mở ra xem và y tỏ vẻ hài lòng, y đặt lại cái gối dựa để thoải mái hơn, và y lại nửa nằm, nửa ngồi với cuốn sách mở trên tay trong nhiều phút.

        Đây là cuốn sách được ấn hành nhiều chục triệu cuốn, được dịch ra 10 tiếng Âu Châu, nhan đề của nó là: “Tito, tên phản bội” và tác giả của nó là Renaud de Jouvenel – (Nội dung cuốn này giá trị ở chỗ tác giả, một người Pháp, một người có cái tên quý phái, đã đứng ngoài cuộc tranh chấp, đã tỏ ra hoàn toàn vô tư và khách quan) - Stalin đã đọc kỹ cuốn sách này trước đó ít ngày và cũng như đối với những cuốn sách làm y khoan khoái, y vẫn để nó quanh quẩn bên mình y. Cuốn sách này sẽ làm cho tên độc tài tàn ác, hèn nhát, gian trá đó phải mở mắt. Tên phản bội dơ dáy. Tên ngu đần đệ nhất thiên hạ. Điều đáng giận nữa là cả những đảng viên Cộng sản ở Tây Âu cũng có nhiều người bị tên phản bội này làm hoang mang. Lão André Marty – già đầu rồi mà còn ngu si, lão đã bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Pháp – đã lên tiếng bênh vực Tito.

        Y lật dần những trang sách. Những sự thực được ghi rõ ở đây. Sau khi đọc cuốn này, không ai còn có thể ca tụng được tên phản bội Tito nữa: Sự thực là đã hai lần vì hèn nhát, Tito đã muốn đầu hàng quân đội Đức Quốc Xã, nhưng Arso Jovanovich, Tổng trưởng Bộ Nhân viên, đã ép buộc Tito phải ở lại chức vụ Tổng Tư lệnh. Arso đã bị giết, Petrichevich cũng bị giết: “Bị giết vì yêu mến Stalin.” Sách ghi như thế. Ở khắp nơi người ta giết lẫn nhau, những người tốt nhất bị giết chết trước nhất, bọn người xấu xa nhất được để dành cho Stalin giết.

        Tất cả sự thật đều nằm trong sách này, tất cả – Tito rõ ràng là một tên gián điệp của bọn Ăng-lê, bằng chứng là hắn tỏ ra kiêu hãnh với những chiếc quần soọc trắng đi vớ cao tới đầu gối bắt chước bọn Ăng-lê của hắn, hắn tỏ vẻ vênh vang với những huy hiệu hoàng gia thêu trên ngực áo, trên mũ hắn, người ngợm, mặt mũi hắn trông ghê tởm, y như là tên Goering, hắn còn khoái phô trương lòe loẹt, nào là cả trăm huy chương trên ngực, nào là nhẫn kim cương đeo ở ngón tay (với một gã dốt nát về binh pháp như hắn còn có cái gì để mà kiêu căng nữa?)

        Một cuốn sách vô tư đứng đắn. Không rõ Tito có tật xấu nào về tình dục chăng? Chuyện đó cũng cần viết vào đây chứ!

        “Đảng Cộng sản Yugoslav nằm trong tay bọn sát nhân và bọn gián điệp. Tito chỉ có thể nắm được quyền lãnh đạo nhờ có Béla Kun và Traicho Kostov ủng hộ.”

        Kostov! Cái tên này làm cho Stalin khó chịu đến là chừng nào. Cơn giận cuồn cuộn chảy trong máu y. Y đá mạnh chân y ra như y đá vào mặt tên khốn kiếp Kostov. Và đôi mi mắt xám của Stalin rung động vì cảm giác công lý đã được thi hành.

        Tên Kostov đốn mạt, tên chó đẻ dơ dáy.

        Và giờ đây khi hồi tưởng, Stalin thấy rõ những thủ đoạn của bọn khốn kiếp đó. Y đã tự hóa trang một cách tài tình, khéo léo. Y đã thắng được Bela Kun vào năm 1937 nhưng mới trước đây có mười ngày, Kostov đã làm ô danh tòa án Xô Viết, bằng thủ đoạn tráo trở thâm độc của hắn. Stalin từng thành công rực rỡ trong nhiều vụ kết án ly kỳ, không biết bao nhiêu kẻ thù của y đã bị y làm cho thành hèn hạ, tự hạ và thú nhận những tội lỗi đểu giả nhất – vậy mà y đã thất bại trong vụ kết án Kostov. Đó là một xấu xa nhục nhã cho chế độ xã hội vì vụ này bị cả thế giới biết. Kostov trong lúc bị thẩm vấn đã lừa được cả những chuyên viên thẩm vấn kinh nghiệm nhất, hắn khóc lóc, van xin, hắn lê gối lạy lục – để rồi khi ra trước phiên tòa xử công khai, trước mắt những thông tín viên ngoại quốc được mời đến nghe hắn thú tội, Kostov đã chối tất cả, chối hết. Hắn không còn biết gì đến liêm sỉ. Lương tâm đảng viên cộng sản của hắn để đâu? Còn đâu là tình đoàn kết vô sản thiêng liêng? Hắn chết nhưng hắn phải biết chết có lợi gì cho đảng mới phải chứ?

        Stalin ném cuốn sách xuống bàn. Không, y không thể nằm yên ở đây được. Y phải tiếp tục chiến đấu.

        Một quốc gia không lo âu có thể ngủ yên nhưng vị cha hiền của dân tộc không thể ngủ được, Stalin đứng dậy nhưng không đứng thẳng hẳn người. Y mở cánh cửa thứ hai trong phòng – cánh cửa này không phải là cánh cửa hồi nãy Poskrebychev thò đầu vào – bước qua và khóa cửa lại. Y lê chân đi qua một hành lang hẹp, quanh co, không có cửa sổ, hành lang được soi sáng bởi những miếng kiến lợp bên trên, y đi ngang những tấm gương soi chỉ thông suốt có một chiều: Y có thể nhìn qua gương ra bên ngoài nhưng người bên ngoài không thể nhìn được vào trong, để vào phòng ngủ. Phòng ngủ này cũng hẹp, trần thấp, không cửa sổ, cũng có máy điều hòa không khí. Phòng này có những tấm thép dày gắn trong vách gỗ dát kín bốn bức tường và bên ngoài là đá đảng.

        Dùng chiếc chìa khóa nhỏ xíu đeo ở dây lưng Stalin mở nắp kim khí của một bình đựng rượu và rót chất rượu kích thích mà y thích uống nhất và một chiếc ly nhỏ, y uống cạn ly rượu ấy rồi lại khóa nắp bình rượu lại.

        Đi tới đứng trước gương, y soi mặt y trong gương. Đôi mắt y trong, sắc và nghiêm kinh khủng. Ngay cả những vị Chủ tịch Hội đồng Nội các cũng không sao giữ được trầm tĩnh trước đổi mới này. Bên ngoài của y nghiêm trang, đơn giản, đúng là bên ngoài của một lãnh tụ.

        Y nhấn chuông gọi tên hầu cận người miền Georgia của y vào sửa soạn y phục cho y thay.

        Ngay cả trước mắt những kẻ hầu hạ luôn luôn ở sát bên y, Stalin cũng tỏ ra trang nghiêm y hệt hình ảnh của y trong lịch sử.

        Lúc nào y cũng là con người thép. Tinh thần, ý chí lúc nào cũng như thép.
        #19
          CTT 07.09.2008 21:44:03 (permalink)
          19. Ngôn ngữ là dụng cụ của sản xuất

          Đêm là thời gian làm việc tốt nhất của Stalin.

          Bản tính đa nghi của y như một cuộn dây mở dần vào buổi sáng. Trong những buổi sáng âu sầu, y nghi ngờ tất cả mọi người. Y cách chức những tên cần bị cách chức, y cắt giảm những ngân khoản dự chi, y ra lệnh cho hai hoặc ba Bộ tổ hợp làm một. Ban đêm, tinh thần y sáng suốt và mềm dẻo, y quyết định việc gia tăng một số Bộ trong chính phủ lên bằng cách đem một Bộ chia ra thành hai, thành ba Bộ mới, y tìm tên đặt cho những Bộ mới lập, y ký chấp thuận những ngân khoản dự chi mới và y ký sắc lệnh công nhận những nhân viên mới được đặt vào những chức vụ mới.

          Những tư tưởng giá trị nhất thường đến với Stalin vào khoảng từ nửa đêm đến bốn giờ sáng. Vào thời gian này, y nghĩ ra cách phát hành quốc-trái-phiếu mới thay thế những quốc-trái-phiếu cũ để tránh phải trả tiền lời cho những kẻ có quốc-trái-phiếu, y quyết định đạo luật trừng phạt những kẻ trốn lao động, y nghĩ ra những biện pháp kéo dài số giờ làm việc trong ngày và số ngày làm việc trong tuần, biện pháp buộc chặt bọn nông dân và công nhân vĩnh viễn vào những công việc họ đang làm, những đạo luật về tù khổ sai và cấm cố, cũng trong khoảng thời gian đêm khuya này, y quyết định giải tán Đệ Tam Quốc Tế và đặt kế hoạch lâu dài lưu đày bọn phản bội đến Tây Bá Lợi Á.
          [4]

          Kế hoạch lưu đày một số người gồm đủ mọi quốc tịch lên vùng băng tuyết ấy để cho họ tạo thành một chủng tộc riêng là một thí nghiệm trong những thí nghiệm táo bạo nhất của Stalin, một đóng góp trong những đóng góp lớn nhất của Stalin cho nhân loại, nhưng giờ đây y chẳng còn gì để làm cho kế hoạch đó nữa. Suốt đời y, Stalin là người nhìn xa, thấy rộng nhất trong lịch sử Xô Viết.

          Y còn là cha đẻ ra nhiều đạo luật giá trị đáng kể khác nữa. Tuy vậy, y thấy còn những nhược điểm trong toàn thể hệ thống cơ cấu tổ chức xã hội và những đạo luật mới vẫn tiếp tục thành công trong việc đóng chặt, khóa kỹ tất cả, mọi chống đối đều bị tận diệt, mọi dị biệt đều bị san bằng, mị kẽ hở đều bị bịt kín, tất cả 200 triệu người đều biết họ phải làm gì, nghĩ gì – chỉ còn có bọn trẻ tuổi trong những nông xã sản xuất là thoát ra khỏi vùng kiểm soát mà thôi.

          Tất nhiên là mọi chuyện đều tốt đẹp trong những nông xã. Rất tốt đẹp nữa là khác. Stalin biết chắc như thế sau khi xem phim Nông dân miền Kuban và đọc tiểu thuyết Người kỵ mã sao vàng. Tác giả của cuốn phim và cuốn sách trên đều tới sống ở những nông xã. Họ đã nhìn, đã thấy và ghi lại những gì họ nhìn, họ thấy trong tác phẩm của họ, và rõ ràng là tất cả những gì được ghi lại đó chứng tỏ sự tốt đẹp trong những nông xã. Chính Stalin cũng từng nói chuyện với những nông xã viên khi y đến chủ tọa những đại hội của họ.

          Nhưng vì là một nhà cai trị sâu sắc và có đức tính tự chỉ trích, tự kiểm thảo, Stalin đã đào sâu vào vấn đề hơn những nghệ sĩ kia. Một viên bí thư đảng ủy cấp Tỉnh có lần đã lỡ miệng tiết lộ với Stalin rằng (viên bí thư mau mồm mau miệng này chắc đã bị bắn sau đó) – không phải tất cả đều tốt đẹp ở những nông xã: Những người đàn ông, đàn bà từng ghi tên làm việc trong những nông xã từ năm 1930 đều hăng hái làm việc, nhưng bọn trẻ – tất nhiên không phải là tất cả bọn trẻ, chỉ có một thiểu số vô trách nhiệm mà thôi – sau khi học hết cấp trung học, đua nhau xin sổ thông hành bằng đủ mọi cách bất lương để bỏ nông xã thành phố, Stalin nghe chuyện này và lập tức trong óc y sắp đặt kế hoạch sửa chữa.

          Giáo dục! Chương trình học bảy năm rồi mười năm chung cho tất cả, con cái bọn bồi bếp cũng vào được trường đại học này đã tạo ra một tình trạng lộn xộn, bê bối. Lênin lầm lẫn lớn về điểm này nhưng bây giờ hãy còn quá sớm, chưa phải là lúc nên nói cho quần chúng biết như thế. Lênin chủ trương bất cứ anh bếp nào, chị đàn bà nội trợ nào cũng có thể điều khiển tốt guồng máy nhà nước! Lênin tưởng tượng ra sao mà lại có thể chủ trương kỳ cục như thế? Lại còn cho bọn bồi bếp cái quyền nghỉ làm bồi bếp trong ngày thứ sáu mỗi tuần để đi dự hội thảo trong Ủy ban hành chánh tỉnh! Một chị bếp chỉ là một chị bếp, công việc của chị ta chỉ là việc nấu ăn. Còn việc cai trị cần phải có những người có biệt tài, việc cai trị chỉ có thể trao cho một số người đặc biệt nào đó đã được chọn lọc kỹ và được thử thách trong nhiều năm. Và việc điều khiển số người đặc biệt này chỉ có thể nằm trong tay một người. Người đó là Lãnh tụ.

          Quy chế tổ chức nông xã phải có ghi điều đó, cũng như điều đất đai vĩnh viễn thuộc về những xã viên, bất cứ ai ra đời trong một làng quê, ngay từ lúc vừa lọt lòng mẹ, đã là một xã viên. Và chỉ có ủy ban hành chánh của nông xã mới có quyền cho phép một người đi khỏi nông xã.

          Dường như có một kẻ nàng đó trong số những kẻ gọi là khuynh tả đã có nói đến vấn đề như thế sẽ xảy ra ở các nông xã. (Thực ra, nhóm gọi là “khuynh tả” không hề có thực, chính Stalin bày ra chuyện gọi một số người bằng cái tên đó để khi cần đến thanh toán họ cho dễ).
          Không biết vì sao người ta thường thấy bọn kẻ thù của Stalin, bọn chủ trương khác với Stalin, hay nói đúng về nhiều chuyện. Những kẻ ấy đều đã chết. Nhưng Stalin như vẫn nghe thấy tiếng họ nói từ dưới đáy mồ vắng về.

          Mặc dù việc ban hành những sắc luật mới về nông xã là cần thiết, cũng như rất nhiều sắc luật mới cần ban hành trong mọi địa hạt, đêm nay khi bước vào văn phòng, Stalin cảm thấy tâm trí y bị lôi cuốn vì một vấn đề mơ hồ hơn.

          Trên ngưỡng cửa những năm sắp tám mươi tuổi, Stalin thấy rằng y không có quyền hoãn lại những việc cần làm này lâu hơn nữa.

          Người khác có thể nghĩ rằng tất cả mọi việc có thể làm được để giữ cho Stalin bất tử đều đã được làm, nhưng với Stalin – mặc dù đã được những người đồng thời suy tôn là Lãnh tụ vĩ đại nhất, người anh minh nhất, tài ba nhất – những suy tôn đó, những lời ca ngợi đó vẫn chưa đủ, y còn xứng đáng được suy tôn hơn thế nhiều. Y thấy sự thán phục của mọi người đều nông cạn, họ vẫn chưa thấy rõ thiên tài bao la của y.

          Trong những ngày gần đây, một ý nghĩ thường ám ảnh Stalin: Thực hiện một thành công vĩ đại nào đó trong địa hạt khoa học để có thể nổi tiếng ngoài địa hạt triết học và lịch sử. Tất nhiên là y có thể thành công rực rỡ trong địa hạt sinh vật học nhưng y đã trao việc này cho Lysenko, một người lương thiện và cương nghị. Ngoài ra, toán pháp và vật lý hấp dẫn Stalin nhiều hơn. Mỗi lần đọc những bài thảo luận về Số Không và Kém-Số-Không đăng trong tập Biện chứng luận về thiên nhiên, y lại cảm thấy ước ao cũng viết được như thế.

          Cũng trong thời gian gần đây, sự tìm tòi làm cho Stalin chú ý đến trường hợp của giáo sư Chikobava, trường hợp này làm cho y chú ý đến ngôn ngữ học. Giáo sư Chikhobava vừa viết một cuốn khảo luận về ngôn ngữ với nội dung chống chủ thuyết Mác-xít, ông chứng minh rằng ngôn ngữ chỉ là tiếng nói của một quốc gia, một dân tộc, ngôn ngữ tự nó không có đặc tính, rõ hơn, ngôn ngữ không thể là “ngôn ngữ vô sản” hoặc “ngôn ngữ tư sản”. Nhiều học giả đã lên tiếng chỉ trích nặng nề Chikhobava và vào giờ này, nhà ngôn ngữ học hỗn xược đó chỉ còn có nước ngồi chờ nhân viên Mật vụ KGB đến nhà gõ cửa đưa đi.

          Không còn gì có thể cứu được Chikhobava nếu Stalin không đích thân nhấc điện thoại lên và ra lệnh để cho ông ta sống. Stalin để cho Chikhobava sống không phải là không có mục đích: Chính y sẽ lấy ý kiến của nhà ngôn ngữ học này, y sẽ khai triển ý kiến tầm thường đó thành một chủ thuyết rực rỡ với hy vọng chủ thuyết đó sẽ giúp y trở thành bất tử.

          Nếu y có thể đập tan được những lý thuyết phản động của bọn phản cách mạng, như lý thuyết về luật tương đối chẳng hạn, y sẽ làm cho dư luận thế giới rung động hơn, nhưng y đã làm quá nhiều việc, trách nhiệm của y đối với nhân dân thế giới đã quá nặng nề, y không sao còn thì giờ để làm việc đó.

          Thay y phục xong Stalin ngồi vào bàn viết. Y dự định viết một thiên khảo luận về tính chất của ngôn ngữ. Viết chưa được nửa trang y đã thấy mệt. Y ngáp dài và vươn vai. Rồi y đứng dậy đi tới nhìn ô kiếng nhỏ ra vườn. Tấm kiếng này đạn bắn không thủng. Bên ngoài là một khu vườn chỉ có người làm vườn được phép đặt chân vào với một binh sĩ gác. Vào giờ này y chỉ nhìn thấy có sương mù. Y không nhìn thấy những vì sao trên nền trời, cũng không thấy qua một vật gì.

          Ở một mình trong căn phòng kín này Stalin không chút lo âu, y cũng không chút băn khoăn, lo ngại mỗi khi nghĩ tới nửa trái đất kia – nửa trái đất mà y vẫn chưa đặt tay lên được – y cảm thấy y có đủ sức để nắm lấy nửa trái đất đó, bẻ cong nó theo như ý muốn. Y chỉ cảm thấy e ngại mỗi khi y phải đến dự những đại tiệc, khi y phải đi trên khoảng cách từ cửa xe hơi tới cửa tòa nhà, đi một mình lên cầu thang và đi qua hai dãy người – những người đứng kính cẩn đến nhiều khi trở thành khúm núm – quá đông, quá xa lạ. Những lúc ấy Stalin cảm thấy y yếu đuối, không được bảo vệ, y không biết phải dùng hai tay y như thế nào, hai bàn tay đã quá lâu không còn được dùng đến nên đã trở thành vô dụng. Y đặt hai tay lên bụng và mỉm cười. Người ta tưởng nhà độc tài cười vì nhân từ, vì mến họ, nhưng sự thật y cười vì sợ.

          Chính Stalin từng nói rằng không gian là điều kiện căn bản cho đời sống của vật chất, nhưng sau khi đã làm chủ được một phần sáu đất đai toàn trái đất, y bắt đầu kinh sợ không gian. Vì vậy mà y thoải mái sống trong văn phòng chật hẹp này: Ở đây không có không gian.

          Stalin đóng cánh cửa thép sau tấm kiếng và chầm chậm đi trở lại bàn ngồi. Đêm đã khuya quá rồi, ngay cả một thiên tài cũng không còn làm việc được nữa.

          Những sự kiện xảy ra trong cuộc đời không giúp y, không làm y hài lòng, nhưng y vẫn cứ phải làm việc. Những thế hệ sắp tới rồi sẽ biết công trạng của Stalin vĩ đại.

          Tất cả mọi người đều trông cậy vào Stalin. Quần chúng lạ kỳ và nhát sợ quá đáng. Mất bao nhiêu công lao dạy cho họ biết thế nào là dân chủ, nhưng họ vẫn ỷ lại. Nhai sẵn thức ăn mớm cho họ, việc của họ chỉ là việc nuốt vậy mà họ cũng không nuốt nổi.

          Khuôn mặt nâu xám, làn da gợn những vết sẹo đậu mùa cúi xuống những tờ giấy trắng trên bàn, Stalin muốn viết nhưng cảm hứng không đến, y không biết nên viết gì.

          Có tiếng gõ nhẹ ở cửa, Stalin nhấn nút điện mở khóa.

          Bộ mặt anh hề của Sasha hiện ra giữa hai cánh cửa, gã hỏi nhỏ như tiếng thì thào:

          "Yos Sarionich, ông cho phép tôi gọi Abakumov vào hay cho hắn về?"

          "À, Abakumov."

          Mải mê sáng tác Stalin đã quên mất Abakumov

          "Được rồi. Cho hắn vào."

          Y rút chìa khóa ở dây lưng ra mở nắp kim khí một bình rượu khác để sẵn trong ngăn bàn viết và uống một ly rượu nhỏ.

          Lúc nào y cũng phải tỉnh táo, sáng suốt và mạnh như một con chim ưng.





          [1]Thống chế Goering : Tư lệnh Không lực Đức Quốc Xã.
          [2]Cheka: Tên tắt để gọi Cơ quan Chrezvychainaya Kommissia, cơ quan mật vụ chuyên dò xét, bắt bớ và khủng bố những người bị coi là phản cách mạng ở Liên bang Xô Viết. Về sau, cơ quan này còn có những cái tên khác là GuePeou hoặc MVD. Nhân viên Cheka bị dân Nga sợ và thù nhất.
          [3]Tito, Thống chế và hiện nay là Thủ tướng chính phủ nước Nam Tư, cũng tên là Iosif (Joseph) như Stalin. Ra đời năm 1891, Tito cũng theo chủ nghĩa xã hội nhưng chống lại chính sách của Stalin, ly khai với Nga Xô. Stalin rất thù vì Tito chống lại bọn lãnh tụ Cộng sản Nga. Có thể nói Tito là mối hận sâu cay nhất của Stalin. Stalin chết không nhắm mắt nổi là vì không hạ được Tito.
          [4]Đệ Tam Quốc Tế là tên gọi tổ chức kết hợp tất cả những đảng cộng sản trên khắp thế giới để hành động hợp nhất. Tổ chức này được thành lập năm 1919 ở Đại hội Mạc Tư Khoa và giải tán năm 1943. Tổ chức này được gọi bằng tiếng Anh là Third International, hoặc Communist International, hoặc Comintern, Komintern.
          #20
            CTT 07.09.2008 21:46:45 (permalink)
            20. Iosif Vissarionovich, xin cho lại chúng tôi án tử hình

            Gần như trên cõi đời này không có ai dám mơ đến chuyện gọi gã bằng cái tên Sasha – trừ Đại Lãnh tụ ra, tất cả mọi người đều gọi gã bằng tên Aleksandr Nikolayevich – cũng ít ai dám gọi gã bằng cái tên dài ấy ngay trước mặt gã. “Poskrebychev gọi” có nghĩa là “Ổng gọi”, hoặc “Lãnh tụ gọi”, và “Poskrebychev ra lệnh” có nghĩa là “Ổng ra lệnh”, hoặc “Lãnh tụ ra lệnh”.

            Aleksandr Nikolayevich Poskrebychev giữ chức vụ Bí thư Trưởng Đặc biệt của Stalin đã hơn mười lăm năm. Thời gian đó là một thời gian dài, và những người không được biết rõ con người thật của Poskrebychev thường ngạc nhiên vì sau từng ấy năm ở cạnh nhà độc tài, đầu của gã vẫn còn nguyên ở trên hai vai. Nhưng sự bí mật thật là đơn giản. Trong tâm hồn, anh chàng Thú y sĩ ở miền Penza là một tên đầy tớ hầu vặt, và chính bản chất đầy tớ ấy đã bảo đảm an ninh cho Poskrebychev. Ngay cả sau khi gã đã được ban cấp bậc Trung tướng, được là nhân viên của Trung ương Đảng Bộ và giữ chức vụ Chánh ủy Sở Kiểm soát mật Nhân viên Trung ương Đảng Bộ, Poskrebychev vẫn tự coi gã là một cái gì nhỏ hơn cả con số không ở trước mặt Lãnh tụ Tối cao. Linh tính đa nghi của Stalin không bao giờ phát giác được sự nghi ngờ hoặc ý muốn chống đối ở Poskrebychev.

            Nhưng khi gã tiếp xúc với hạ cấp, anh đầy tớ trán hói có vẻ khờ khạo ấy có đủ khả năng để tự làm cho gã trở thành quan trọng ghê gớm. Với những kẻ dưới quyền gã, Poskrebychev nói vào điện thoại nhỏ đến nỗi người nghe phải áp chặt ống nghe vào tai để có thể hiểu gã nói gì. Đôi khi người ta cũng có thể nói đùa với gã về những vấn đề lặt vặt nhưng không một ai dám hỏi thẳng gã: “Hôm nay ở đó ra sao?”. Ngay cả đến cố con gái của Lãnh tụ cũng không bao giờ được biết rõ tình hình ở đó ra sao? Mỗi lần cô gọi điện thoại tới hỏi thăm, cô chỉ được cho biết mơ hồ: “Người hoạt động” hoặc “Người tĩnh dưỡng”… tùy theo Poskrebychev có nghe thấy tiếng chân của người hay không.

            Đêm nay Poskrebychev nói với Abakumov:

            "Iosif Vissarionovich đang làm việc. Người có thể tiếp ông. Người bảo ông chờ."

            Gã cầm chiếc cặp da của Abakumov, đưa y vào phòng đợi và bỏ y ngồi một mình ở đó.

            Và cũng như mọi lần Abakumov không dám hỏi câu hỏi mà y cần hỏi nhất: "Hôm nay tinh thần Lãnh tụ ra sao?" Y ngồi trong phòng đợi và nghe tiếng trái tim đập mạnh.

            Người đàn ông vạm vỡ, to lớn, khoẻ mạnh này vẫn đứng cứng người ra vì sợ mỗi lần y đến gặp Stalin để báo cáo y hệt như những công dân trong thời gian phát động những cuộc bắt bớ tập thể khi nghe tiếng chân người rầm rập lên cầu thang ban đêm. Trước hết hai vành tai y lạnh như đá vì sợ, sau đó biến thành rát như lửa bị đốt. Và trong những giờ kinh khủng ấy, Abakumov kinh hoàng nghĩ đến chuyện Lãnh tụ có thể nghi ngờ cả đến những sự kiện nhỏ nhất. Tỉ dụ như Stalin không thích thấy ai thò tay vào túi trước mặt mình. Vì vậy trước khi tới đây Abakumov đã cẩn thận chuyển hết ba cây bút vẫn dắt trong túi áo ngực bên trong của y ra hết túi áo ngoài, lát nữa đây y sẽ cần dùng đến chúng để ghi những chỉ thị của Lãnh tụ.

            Những chỉ thị thường ngày được truyền xuống cho Abakumov từ Beria, nhưng mỗi tháng một lần nhà Cai trị Tối cao muốn đích thân gặp để kiểm soát kẻ mà người trao cho trách nhiệm bảo vệ an ninh cho chế độ do người lãnh đạo.

            Những cuộc hội kiến dài hàng giờ đồng hồ này là cái giá đắt mà Abakumov phải trả để đổi lấy những sức mạnh uy quyền mà y mơ ước. Y chỉ sống và chỉ hưởng thụ cuộc đời trong khoảng thời gian ở giữa hai cuộc hội kiến. Mỗi lần đến gặp Stalin xong, khi yên ổn ra về, Abakumov thơ thới hân hoan nhưng càng gần đến ngày phải đi gặp vị chúa tể y càng lo sợ. Tất cả những dây thần kinh đều chùng xuống, hai tay y lạnh giá và mỗi lần đưa cái cặp da mang theo Poskrebychev, y lại hoang mang không biết lát nữa đây y có còn được cầm lại nó hay không. Y cúi đầu như đầu trâu trước cánh cửa văn phòng của vị chúa tể trước khi bước vào đó với cảm nghĩ đen tối là không biết y có còn được ngẩng đầu cao để đi ra khỏi đây hay không.

            Stalin làm cho người ta khiếp sợ bởi vì một lỗi lầm nhỏ trước mặt y có thể là lỗi lầm của cả một đời, lỗi lầm đó dù nhỏ cũng có thể làm nổ ra một trận lôi đình với hậu quả ghê gớm không ai có thể lường trước được. Stalin làm người ta khiếp sợ bởi vì y không bao giờ chấp nhận những lời xin lỗi. Y cũng không bao giờ mở miệng kết tội, ánh mắt cọp vàng của y chỉ sáng rực lên và đôi mắt y chỉ khép nhỏ hơn đôi chút – và như vậy là trong óc y, sự kết tội đã thành hình, những trừng phạt đã được quyết định, nhưng người bị kết án vẫn không hay biết gì hết. Nạn nhân ra về để rồi nửa đêm bị nhân viên mật vụ đến bắt đi, bị bắn chết vào lúc mờ sáng ở một nơi nào đó.

            Sự im lặng và cái nheo mắt của vị chúa tể biểu lộ tình trạng đáng sợ nhất. Nếu Stalin nổi giận quát mắng, nếu người ta bị y nhổ vào mặt, giẫm lên chân, chửi rủa thô tục, người ta vẫn còn hy vọng được sống, vì cơn giận đó sẽ tiêu tan. Abakumov sẽ mừng rỡ nếu được Stalin chửi rủa, vì chửi y như thế tức là Stalin vẫn còn hy vọng rằng y có thể sửa đổi và vẫn để cho y giữ trách vụ y đang giữ.

            Trong những giây phút kinh hoàng trước mặt Stalin, đôi khi Abakumov cũng hiểu rằng y đã trèo quá cao. Nếu y ở dưới hàng thấp hơn, y sẽ ít bị nguy hiểm hơn. Stalin thường tỏ ra dễ tính, vui vẻ với những người ở xa y, những người cả đời chỉ được gặp y một lần, nhưng khi người ta đã được gần Stalin rồi, người ta không còn có thể tự rút lui được nữa.

            Người ta chỉ còn có thể chết. Cái chết của chính mình. Hoặc…

            Trước mặt Stalin, Abakumov luôn luôn run rẩy vì sợ vị chúa tể sẽ khám phá ra được một tội lỗi gì đó ở y.

            Trong vài ngày qua, Abakumov đã ăn không ngon, ngủ không yên vì cuộc hội kiến này. Y lo sợ cái tội mà y đã phạm ở nước Đức trước đây có thể đến tai vị chúa tể.

            Y từng làm giàu ở Đức quốc. Ở đoạn cuối cuộc đại chiến thế giới thứ hai, Abakumov giữ chức Tổng Giám đốc cơ quan SMERSH kiêm Sở Phản gián Mặt trận, phạm vi quyền lực của y bao trùm toàn thể quân đội. Khi ấy có một thời gian các binh sĩ Nga hành quân trên đất Đức được tha hồ cướp bóc, vơ vét tiếng của dân Đức. Để đánh một đòn quyết liệt tối hậu xuống nước Đức đang chiến bại, Stalin áp dụng đòn độc của Hitler là cho phép binh sĩ cướp bóc, chấp thuận cho toàn thể binh sĩ được quyền gửi đồ cướp được từ mặt trận về nhà riêng. Quyết định này đặt căn bản trên sự biết rõ tâm trạng người lính chiến của Stalin, nếu y là người lính, y cũng nghĩ như thế: Chiến đấu cho quê hương, tổ quốc, dân tộc là một lý tưởng cao đẹp, rất nên – chiến đấu và hy sinh cho Stalin lại càng cao đẹp hơn nữa – xong khi đòi hỏi người lính phải liều mạng trong lúc chiến tranh sắp kết liễu, người ta cần phải cấp cho người lính một động lực thúc đẩy nào đó mạnh hơn, thực tế hơn, hấp dẫn hơn. Vì vậy y cho phép mỗi người lính hành quân trên lãnh thổ Đức mỗi tháng được gửi từ mặt trận về nhà 20 ký đồ vật không phải kiểm soát, mỗi sĩ quan được gửi về 50 ký, mỗi tướng lãnh được gửi về 100 ký. Quyết định cho phép gửi đồ về nhà đó tỏ ra đúng, vì người lính không phải vất vả mang theo những món đồ họ lấy được trên khắp các mặt trận, hành lý của họ không bao giờ quá nặng và do đó họ vẫn tấn công được, họ còn hăng hái tấn công để chiếm những đất mới, lấy những đồ vật mới. Được phép gửi đồ về nhà như thế, những quân xa vẫn còn được dùng để chở lính chứ không đầy ắp những đồ vật.

            Trong số những người tiến sang lãnh thổ Đức có quyền cướp đồ và gửi đồ về nhà, những kẻ trong cơ quan SMERSH có nhiều điều kiện để vơ vét nhất. Bọn này cũng ở trên mặt trận nhưng luôn luôn ở ngoài tầm súng của địch, không sợ bị phi cơ địch tấn công, họ ở những nơi mà cán bộ hành chánh, bọn công an chưa kịp tới. Những sĩ quan SMERSH lại hoạt động bí mật. Không ai dám kiểm soát những quân xa được niêm phong của họ, họ có quyền xung công những tài sản lớn của địch để giữ cho chính phủ và họ tha hồ chiếm công vi tư. Từng đoàn quân xa, từng đoàn tàu, từng đoàn phi cơ chuyển đồ của SMERSH từ mặt trận về. Các sĩ quan ấp úy chỉ cần tinh khôn một chút là có thể gửi về cả ngàn ký, sĩ quan cấp tá có thể gửi về cả chục ngàn ký và Abakumov gửi về cả triệu ký.

            Abakumov hiện có nhiều vàng, y gửi số vàng này ở Thụy Sĩ nhưng y cũng biết rõ hơn ai hết là số vàng lớn này vẫn không thể cứu được y thoát chết nếu y mất chức Tổng trưởng Bộ An ninh. Vàng bạc không còn giá trị gì cả khi người ta đã bị mất đầu. Trong cơn say sưa vơ vét tài sản của những ngày chiến tranh gần kết liễu ấy Abakumov không thể điềm nhiên khoanh tay nhìn bọn sĩ quan thuộc cấp thi nhau gửi đồ về nhà cho vợ con chúng, y đặc phái những đội đặc biệt đi tìm đồ vật quý giá. Y ngẩn ngơ xuất thần trước hai va ly đừng đầy dây thắt lưng da. Y cũng bị làn sóng tham lam ấy cuốn đi.

            Nhưng cái tài sản vơ vét được đó cũng là một tai họa cho Abakumov. Nó vô du nguyện đối với y và lúc nào y cũng sợ tội trạng của y bại lộ. Thực ra chẳng có ai dám tố cáo Tổng trưởng Bộ An ninh nắm quyền sinh quyền sát trong tay nhưng nếu vị chúa tể biết tội đó thì tình hình khác hẳn. Nếu Abakumov gửi những vật quý ấy về cho Beria hay Stalin thì không sao, nhưng y lại giấu đi làm của riêng. Đó là một tội trạng không thể tha thứ được. Nhiều lúc Abakumov hối hận vì đã quá tham lam nhưng bây giờ muộn quá mất rồi.

            Abakumov đến vào lúc 2 giờ 30 sáng tới 3 giờ 30 sáng y vẫn còn đi đi lại lại quanh quẩn ở phòng đợi, hai bàn tay ướt đẫm mồ hôi nắm quyển sổ mới tinh y mang theo để ghi chỉ thị, sự hồi hộp mỗi lúc được tăng mạnh hơn trong y, hai vành tai y bắt đầu bỏng cháy. Đêm nay, đặc biệt là đêm nay, Abakumov ước mong Stalin sẽ hỏi đến giàn máy điện thoại đặc biệt và y chưa nghĩ được lời nói dối nào cho xuôi cả.

            Nhưng cánh cửa gỗ dày đã mở, nhưng chỉ mở hé. Poskrebychev từ trong thò đầu ra, giơ tay vẫy y. Abakumov bước vào, cố gắng đi cho thật nhẹ. Không dám mở cánh cửa lớn hơn, y lên tấm thân hộ pháp của y qua khe cửa. Chưa qua hẳn cửa, y đã hỏi vào:

            "Kính chào Iosif Vissarionovich, cho phép tôi được vào."

            Vì quá hấp tấp y đã quên hắng giọng trước từ bên ngoài. Giọng nói của y khàn khàn nghe thiếu âm thanh trung thành.

            Stalin bận bộ áo khuy vàng chói và nhiều huy chương trên ngực, nhưng không có cầu vai đang ngồi viết ở bàn. Viết xong hàng chữ Stalin mới ngẩng lên chiếu đôi mắt cú vọ nhìn người vừa văn phòng.

            Người không nói gì cả.

            Một dấu hiệu xấu. Người không nói nửa tiếng.

            Người lại cúi xuống viết.

            Abakumov đóng cánh cửa sau lưng lại nhưng không dám tiến lên khi chưa nhận được một cái gật đầu hoặc một cử chỉ cho phép đến gần. Y đứng đó người hơi cúi về đằng trước, hai tay để xuôi bên mình, nụ cười chào mừng kính cẩn nở trên môi. Hai tai y như bị lửa đốt.

            Abakumov từng đến cả hai văn phòng của Lãnh tụ – văn phòng chính thức để làm việc ban ngày và căn phòng nhỏ ban đêm này.

            Văn phòng chính thức ở trên lầu rộng lớn hơn nhiều, sáng sủa hơn, có ánh nắng và nhiều cửa sổ như mọi cửa sổ, có những tủ sách trong xếp đầy những quyển sách bìa màu ghi lại những tư tưởng của nhân loại cùng những nền văn minh do loài người tạo được kể từ ngày trái đất có loài người. ở đó trên bức tường cao có bức hình được Lãnh tụ ưa thích nhât, trong hình Lãnh tụ bận bộ quân phục Thống chế mùa đông. Ở đó có nhiều ghế lớn ghế nhỏ, đi văng, bàn vuông, bàn tròn. Đó là nơi Lãnh tụ tiếp những phái đoàn ngoại giao hoặc mở hội nghị. Đó cũng là nơi Lãnh tụ ngồi chụp hình.

            Ở đây, trong nhiều văn phòng ban đêm này, đồ vật không có nhiều, không có hình treo trên tường và những ô cửa sổ đều nhỏ xíu. Bốn kệ sách thấp kê sát vào những tấm vách lát gỗ và một bàn viết kê ở cuối phòng. Góc phòng đối diện với bàn viết kê một giàn máy hát và một giá đựng đĩa hát. Ban đêm Stalin thích nghe lại những bài diễn văn của chính y được thâu vào đĩa.

            Abakumov kính cẩn cúi mình và chờ đợi.

            Stalin vẫn tiếp tục viết. Y viết với sự nhận thức là những dòng chữ này sẽ đi thẳng vào lịch sử. Ánh đèn đặt bàn chỉ chiếu sáng những trang giấy, những bóng đèn giấu trong tường trên cao chỉ soi lờ mờ. Stalin không viết luôn tay, thỉnh thoảng y ngừng viết và đưa mắt nhìn lên trần, hoặc nhìn vào tường, hoặc nhìn Abakumov với vẻ mặt như khó chịu vì sao gã này lại đứng đó. Nhiều lúc Stalin ngừng viết, nghiêng tai như đang nghe như một tiếng gì đó mặc dù trong phòng không có qua một tiếng động nhỏ.

            Không ai biết vì sao, lúc nào, từ bao giờ Stalin bắt đầu có thái độ chỉ huy này? Mỗi cử chỉ nhỏ nhặt của y đều mang ý nghĩa, một hiệu lệnh. Ngày xưa chú Koba – ở miền Caucase người ta gọi Stalin bằng cái tên ấy – chắc cũng giơ tay, cũng nhíu mày, cũng nhìn người ta y như bây giờ nhưng ngày xưa những cái đó chẳng làm cho ai kính sợ, không ai nhìn thấy những mệnh lệnh nằm trong những cử chỉ ấy. Chỉ sau khi số người bị bắn chết lên tới một con số nào đó người ta mới bắt đầu nhìn thấy ở những cử chỉ này những ý nghĩa ghê gớm của chúng. Người ta thấy chúng là những mệnh lệnh, những quyết định, những cảnh cáo, những hài lòng hoặc bất mãn. Và nhận thấy mọi người nhận thấy như thế về mình, Stalin tự nhận xét y, và y cũng thấy trong cử chỉ, trong mắt nhìn của y có những ý đe dọa ngầm, y tìm cách kết thúc chúng, do đó mỗi ngày những cử chỉ của y càng ảnh hưởng mạnh hơn đến những người quanh y.

            Sau cùng Stalin nghiêm khắc nhìn Abakumov. Y ra lệnh bằng tẩu thuốc gắn trên miệng cho biết Abakumov được ngồi trên chiếc ghế nào.

            Abakumov run lên, đi tới và ngồi xuống – nhưng y chỉ ngồi mớm trên mép ghế để có thể đứng dậy được ngay khi cần đến.

            "Sao?"

            Stalin miệng hỏi, tay xếp lại những tờ giấy trên bàn.

            Giây phút chờ đợi đã đến.

            Đây là lúc Abakumov biết y phải nắm lấy cơ hội đừng để vuột mất, y phải nói, nói nhiều, nói liên tiếp để cho Lãnh tụ không còn đủ thì giờ đặt câu hỏi. Y hắng giọng và bắt đầu nói, giọng y, đúng với giọng để báo cáo, không lên bổng xuống trầm, nó đều đều, trơn tru, như học trò đọc bài. (Sau đó Abakumov có thể tự sỉ nhục y vì thái độ quỵ lụy, khiếp nhược quá đáng của y trước mặt Stalin, nhất là những lời hứa bừa bãi của y, nhưng y không biết rằng Nhà Độc tài còn càng có vẻ lãnh đạm với y chừng nào, càng không đòi hỏi gì ở y, y càng sốt sắng phơi bày gan ruột, càng hứa hẹn nhiều và càng ngày y càng rơi sâu xa hơn trong vực thẳm khiếp nhược và hèn hạ.)

            Trong những cuộc báo cáo ban đêm này cuả Abakumov, Stalin có vẻ chú trọng nhất đến tình trạng những nhóm chống đối được phát giác. Abakumov biết như thế và trọng tâm bản báo cáo của y đặt vào việc phát giác những nhóm chống đối. Đêm nay y báo cáo với nhà độc tài về nhóm sĩ quan chống đối chế độ trong Trường Võ bị Frunze. Y có thể nói nhiều và nói vào chi tiết vụ này.

            Nhưng thoạt đầu, y trình bày những thắng lợi, những tiến triển như ý, khách quan – chính y cũng không biết chắc những thắng lợi, tiến bộ này có thật hay chỉ là những chuyện bày đặt do bọn thuộc viên báo cáo lên y – đa số những tiến bộ này nằm trong kế hoạch ám sát Tito. Y nghiêm trọng báo rằng một trái bom nổ chậm sẽ được đặt dưới du thuyền của Tito trước khi du thuyền này rời bến đưa Tito đến hải đảo Brioni.

            Stalin ngẩng đầu lên, đưa tẩu thuốc tắt vào miệng, hút vài hơi không có khói. Người không tỏ vẻ gì là chú ý đến âm mưu này nhưng Abakumov cũng đủ thông minh và đủ biết về người để biết rằng y đã nói đúng vào chuyện phải nói.

            "Còn Rankovich? Stalin hỏi."

            "Thưa, Tito, chúng ta sẽ lo cho bọn Rankovich, cả tên Kardel, tên Moja Pijade… Cả bọn chúng sẽ tan xác. Việc đó sẽ xảy ra vào cuốn mùa xuân năm nay."

            (Trái bom nổ chậm được nói là sẽ giết Tito trên nguyên tắc cũng làm tan xác cả thủy thủ đoàn của chiếc du thuyền, nhưng Abakumov không đề cập gì đến chuyện và Người Bạn Thân Nhất của Các Thủy Thủ cũng không hỏi gì đến.)

            Nhưng ngay lúc này người đang nghĩ gì trong lúc người ngậm tẩu thuốc tắt trên miệng, nhìn mà như không thấy vào bộ mặt kính cẩn của Abakumov qua đầu mũi khoằm của Người?

            Tất nhiên là lúc đó Người không nghĩ đến sự kiện Đảng đã công khai lên tiếng không chấp nhận, không sử dụng những hành động khủng bố cá nhân. Chính người nữa, người cũng từng tuyên bố là không bao giờ người dùng đến thủ đoạn khủng bố. Trong lúc nhìn bộ mặt no đủ, đôi má phị và đỏ hồng của gã đàn ông hãy còn trẻ ngồi trước mặt, người bận nghĩ đến cái chuyện vẫn làm người suy nghĩ mỗi khi người nhìn một tên dưới quyền.

            Ý nghĩ thứ nhất của người luôn luôn là câu hỏi: Tên này đáng cho mình tin đến chừng nào?

            Và ý nghĩ thứ hai là: Đã đến lúc mình phải thanh toán tên này chưa?

            Stalin biết rõ tội trạng của Abakumov trong chiến tranh, biết Abakumov rất giàu và gửi tài sản ở ngoại quốc, nhưng chưa thấy cần trừng phạt y. Stalin không bất mãn vì chuyện Abakumov làm giàu cho cá nhân y, trái lại là khác, nhà độc tài thích dùng những tên tham lam như thế. Bọn tham lam bao giờ cũng dễ sai khiến hơn, dễ trừng phạt hơn nữa. Những kẻ không tham, không cần gì cả luôn luôn là bọn khó trị. Stalin đã chán ngấy những kẻ cam phận chịu nghèo. Lý tưởng của những kẻ chịu nghèo này là một cái gì Stalin không bao giờ hiểu.

            Tuy vậy Stalin cũng vẫn không thể tin được Abakumov. Đa nghi là bản tính của Iosif Djugashvili. Không tin ai hết là phương châm xử thế của Stalin.

            Người không tin cả bà mẹ đẻ ra người. Người không tin ở vị Chúa Trời mà người từng cúi đầu dưới chân trong suốt mười một năm trời khi người còn trẻ. Sau đó, người không tin những đồng chí cùng đảng với người, nhất là những kẻ giỏi nói, nói hay. Người không tin ở bọn nông dân trừ trường hợp họ bị cưỡng bách lao động và năng suất của họ được kiểm soát chặt chẽ. Người không tin bọn công nhân trừ khi năng suất của họ có tiêu chuẩn và thời hạn nhất định phát đạt được. Người không tin bọn trí thức: Bọn này luôn luôn chống đối và phá hoại. Người không tin bọn tướng lãnh và binh sĩ: Bọn này chỉ chịu chiến đấu vì sợ những tiểu đoàn trừng giới và những giàn súng máy bắn bở ở hậu tuyến. Người không tin những người thân. Cả vợ người, những tình nhân của người, cũng không được người tin. Người không tin con cháu. Và luôn luôn những sự kiện xảy ra cho người thấy rằng người không tin như vậy là đúng.

            Trong suốt cuộc đời đa nghi ấy, Stalin chỉ tin có một người, một người mà thôi, một người có thể là bạn tri kỷ cũng có thể là kẻ thù bất đội trời chung. Một mình trong số những kẻ tử thù của Stalin, trước sự nhìn xem đầy hồi hộp, kích động của toàn thế giới, người ấy đã quay mặt lại với Stalin, đã long trọng mời Stalin làm bạn.

            Và Stalin đã tin người đó.

            Người đó là Adolf Hitler.

            Stalin đã ngồi yên nhìn ngắm một cách thích thú khi quân đội của Hitler chiếm Ba Lan, Pháp quốc, Bỉ quốc, khi những đoàn phi cơ của Hitler bay đen kịt trên nền trời Anh quốc, Molotov sợ hãi bay về từ Bá Linh. Những sĩ quan tình báo tới tấp báo cáo Hitler đang tập trung quân đội để mở mặt trận miền Đông. Hees bay sang Anh quốc. Churchill khuyến cáo Stalin về một trận tấn công vào lãnh thổ Nga sắp xảy ra. Mọi người la hoảng chiến tranh sắp đến, Đức sắp tấn công Nga. Bọn đàn bà đi chợ bàn tán về chiến tranh. Riêng một mình Stalin vẫn thảnh thơi vô tư lự.

            Stalin tin tưởng ở Hitler.

            Lòng tin ấy, chỉ còn thêm chút nữa, là làm cho Stalin mất đầu.

            Sau lần tin người duy nhất ấy, Stalin hoàn toàn không tin bất cứ ai, không bao giờ còn tin ai.

            Abakumov có thể tỏ ra cay đắng vì tình trạng không được tin cẩn ấy, nhưng y không dám. Theo y, Stalin đã hành động không đứng đắn khi cho gọi Petro Popivod, gã nhà báo khù khờ ấy đến để ra chỉ thị mở chiến dịch báo chí đả kích Tito, Stalin không nên từ chối trao công tác ám sát Tito cho những đặc viên của Abakumov đã khổ công tuyển chọn chỉ vì lý lịch của bọn này không mấy minh bạch. Lẽ ra Stalin phải tin mới phải. Kế hoạch ám sát Tito mà y đang báo cáo đây là do chính Stalin đặt ra. Do đó y không thể biết chắc được kết quả sẽ ra sao nhưng y vẫn cứ phải trả lời về sự thành công hay thất bại của kế hoạch.

            Nhưng Abakumov cũng biết rõ tình hình ông chủ của y. Y biết người ta không nên làm việc hết cho mình Stalin, không nên trổ hết tài ba, bản lãnh với Stalin. Stalin không chấp nhận thất bị nhưng cũng không chấp nhận cho người khác thành công. Người khác càng thành công rực rỡ chừng nào càng bị Stalin thù ghét và càng sớm chết chừng ấy. Sự thành công của người khác làm cho Stalin cảm thấy giá trị cùng tài ba của mình kém đi. Không ai khác có quyền thành công trừ Stalin. Với Stalin, chỉ có Stalin mới có thể thành công mà thôi.

            Vì vậy, mặc dù luôn luôn tỏ ra cố gắng tận tình, Abakumov thực sự chỉ làm nửa vời – tất cả mọi người khác cũng đều như thế.

            Như ông vua Midas trong truyện Ngụ ngôn Thần thoại sờ tay vào vật gì là vật đó biến ra vàng, Stalin làm cho tất cả biến thành tầm thường.

            Nhưng đêm nay Abakumov thấy rằng nét mặt Stalin có vẻ tươi lên khi nghe y báo cáo. Trình bày xong những chi tiết về kế hoạch ám sát Tito, Abakumov chuyển ngay sang nhóm chống đối ở Trường Võ bị Frunze, rồi đến nhóm chống đối ở Trường Thần học, y nói liên tiếp, nói tới tấp. Y tránh không nhắc đến hai tiếng điện thoại và tránh nhìn cả vào chiếc máy điện thoại để cho Lãnh tụ khỏi nhớ đến.

            Nhưng Stalin đang nhớ…. Ngay lúc đó người đang nhớ đến một chuyện gì đó và chuyện ấy có thể là giàn máy điện thoại đặc biệt. Trán người nhăn lại vì nhiều nếp răn và gân mũi người chun lại. Người chiếu cặp mắt sắc nhìn vào mặt Abakumov (ông Tổng trưởng làm ra vẻ thẳng thắn, lương thiện) nhưng rồi người không nhớ được. Ý nghĩ mơ hồ trôi tuột đi trong óc người. Rồi những nếp nhăn trên trán người mờ đi.

            Stalin thở dài, nhồi thuốc vào tẩu và đốt hút.
            "À," người đã nói với việc thở ra làn khói đầu tiên. Người đã nhớ, nhưng mà là nhớ một chuyện khác chứ không phải chuyện người muốn nhớ lại hồi nãy. "Gomulka bị bắt chưa?"

            Mới đây Gomulka đã bị cách chức và lập tức rơi ngay vào vực thẳm.

            "Thưa, đã"

            Abakumov nói ra như người vừa trút được gánh nặng, y nhô người trên ghế (việc bắt Gomulka đã được báo với Stalin, chắc là người chỉ hỏi để kiểm soát). Bắt người là công tác dễ nhất trong những công tác mà Bộ An ninh phải làm.

            Ấn một nút điện trên bàn Stalin bật sáng đèn phòng. Những bóng đèn điện trong tường sáng lên. Stalin đi xa bàn viết và với tẩu thuốc thả khói sau lưng, bắt đầu đi đi lại lại trong phòng. Abakumov hiểu rằng cuộc báo cáo của y đã đến lúc Lãnh tụ ra chỉ thị. Y mở quyển sổ ghi mới tinh để trên lòng và rút viết máy ra chờ sẵn. Lãnh tụ ưa thấy những chỉ thị của mình được cẩn thận ghi lại.

            Nhưng Stalin đi tới chỗ đặt giàn máy hát đĩa rồi đi trở lại, vừa đi vừa hút thuốc, không có câu nào. Người như đã hoàn toàn quên Abakumov. Khuôn mặt có làn da xám, điểm những vết sẹo đậu mùa của Stalin nhăn lại trong một cố gắng nhớ lại thiểu não. Khi người đi ngang mặt Abakumov, y nhìn thấy hai vai người gù xuống làm chón có vẻ thấp hơn, nhỏ bé hơn. Và – mặc dù Abakumov vẫn sợ hãi gạt bỏ những ý nghĩ tương tự ra ngay khỏi óc, vì sợ có thứ máy móc bí mật nào giấu trong tường ghi nhận được chăng – khi nhìn thấy Lãnh tụ gù xuống như thế, Abakumov nghĩ rằng người chưa chắc đã sống được nổi mười năm nữa. Người sắp chết. Abakumov mong mỏi cái chết của người đến thật nhanh. Tất cả những người sống gần Lãnh tụ đều thầm nghĩ rằng sau khi người chết, họ sẽ được sống một đời tự do, dễ dãi và sung sướng.

            Stalin cảm thấy khó chịu nhiều vì sự quên lãng này. Người vừa nhờ rằng có một chuyện gì đó cần hỏi Abakumov nhưng không sao nhớ ra đó là chuyện gì. Bộ óc của người dường như đã từ chối không chịu làm việc. Trong cơn bất lực, Stalin không biết phải ra lệnh cho phần óc nào làm việc để có thể nhớ lại.

            Bỗng dưng Stalin ngẩng đầu nhìn lên bức tường. Người vừa nhớ lại một chuyện, nhưng chuyện này vẫn không phải là chuyện người cần nhớ. Chuyện nhớ lại đó có liên hệ đến Viện Bảo tồn Cách mạng. Ở Viện này từng xảy ra một vụ làm cho người khó chịu.

            Vụ này xảy ra năm 1937, nhân lễ Kỷ niệm Cách mạng lần thứ Hai mươi. Đó là thế gian Đảng đang bận rộn với việc diễn tả lại lịch sử, đem lại cho những sự kiện lịch sử một ý nghĩa mới. Năm ấy Stalin đến Viện Bảo tồn Cách mạng xem người ta có để ở đó vật nào phản cách mạng hay không. Trong một căn phòng rộng – cũng là căn phòng bày giàn máy Tivi người vừa đứng lại coi hai hôm trước đây – Stalin nhìn thấy khi vừa đặt chân vào hai bức họa chân dung lớn treo ở bức tường trước mặt. Đó là chân dung của Zhelyabov và Perovskaya
            [1] . Hai khuôn mặt này hồn nhiên, hiên ngang, và họ như la lớn với tất cả những ai bước vào phòng:

            "Giết tên độc tài!"

            Stalin, bị tia nhìn của họ đánh trúng như hai viên đạn, đứng sững lại, khúc khắc ho. Rồi ngón tay của Stalin đưa lên, điểm điểm vào hai tấm chân dung.

            Lập tức hai đấm họa đó được mang đi.

            Cùng lúc đó di vật thứ nhất của cuộc Cách mạng – những ảnh vụn còn lại của chiếc xe ngựa của Nga Hoàng Alexander Đệ nhị – được mang đi khỏi Cung điện Kshesinskaya.

            Từ ngày đó và ngay ngày đó, Stalin ra lệnh xây những hầm bí mật và những nhà riêng để ở khắp nơi. Người mất cái thích sống trong những khu đông dân cư ở thành phố để về sống trong căn nhà nhỏ ở vùng ngoại ô hiu quạnh này với bọn vệ sĩ, hầu cận thân tín nhất.

            Càng làm mất cuộc sống của người chừng nào, Stalin càng lo âu, sợ hãi về cuộc sống của chính mình. Người nghĩ ra nhiều biện pháp tinh vi để đề phòng ngay cả bọn lính có nhiệm vụ canh gác bảo vệ an ninh cho người, như việc những binh sĩ đến gác chỉ được biết trước phiên gác của mình một tiếng đồng hồ, binh sĩ gác được tuyển từ khắp các đơn vị và được thay đổi luôn luôn để tránh những cuộc âm mưu. Người tự vẽ lấy những tòa nhà đường đi rắc rối như những mê cung, những tòa nhà có ba hàng rào bao quanh, có những khung cổng thông thẳng với nhau. Và người có nhiều phòng ngủ ngay trong một nhà, ngay cả bọn hầu cận cũng không thể biết trước đêm nay người sẽ vào ngủ ở phòng nào.

            Với Stalin, những biện pháp đề phòng ấy không phải là triệu chứng của sự khiếp nhược. Đó chỉ là những việc hợp lý cần làm. Giá trị cá nhân của người vô giá. Nhưng có nhiều kẻ khác vẫn không biết như thế. Để cho đồng đều tất cả Stalin ra lệnh cho tất cả lãnh tụ lớn nhỏ dù ở bất cứ đâu cũng phải đề phòng như thế: Người cấm họ không được vào nhà vệ sinh nếu không có vệ sĩ đi theo, ra lệnh cho họ mỗi khi di chuyển phải có ba chiếc xe hơi giống hệt nhau chạy nối đuôi nhau

            Đêm nay, chợt nhớ lại hai bức họa chân dung, Stalin dừng lại ở giữa phòng, quay lại nhìn Abakumov và múa tẩu thuốc trong không khí:

            "Đồng chí đã làm những gì để bảo vệ an ninh cho những lãnh tụ Đảng?"

            Nghiêng đầu hẳn về một phía, người nheo mắt nhìn vị Tổng trưởng của người với vẻ hiểm độc.

            Với quyển sổ ghi mở trên lòng, Abakumov ngồi thẳng lưng, mặt nhìn lên Lãnh tụ – y không đứng lên, cũng không múa tay, vì y biết Stalin thích thấy những thuộc viên ngồi im, y nói ngay vào những vấn đề y không hề chuẩn bị tới đây để nói. Với Stalin, người được hỏi phải trả lời ngay và rõ ràng, đích xác, người coi do dự là một bằng chứng tội trạng mà người nghi ngờ có ở kẻ được người hỏi.

            "Iosif Vissarionovich," Abakumov nói bằng cái giọng xúc động của kẻ trung thành mà bị chủ nghi oan, "đó chính là lý do sự hiện diện của chúng tôi, tất cả Bộ chúng tôi, chúng tôi phải ngày đêm lo gìn giữ an ninh để Lãnh tụ có thể yên tâm suy nghĩ đến những biện pháp dẫn đường cho dân tộc."

            Stalin nói đến “an ninh của những lãnh tụ Đảng” nhưng Abakumov hiểu rằng Stalin chỉ muốn nói đến cá nhân mình và chỉ muốn nghe câu trả lời liên can đến mình.

            "Mỗi ngày tôi đều kiểm soát, bắt giam, tầm nã, thẩm vấn không biết bao nhiêu là vụ…"

            Với cái đầu vẫn nghiêng như con gà gãy cổ, Stalin vẫn chăm chú nhìn thẳng xuống mặt Abakumov:

            "Vẫn còn những tên âm mưu ám sát, phá hoại sao? Bộ chúng vẫn chưa sợ hay sao? Lãnh tụ hỏi."

            Abakumov thở dài như người đang cay đắng nhất đời:
            "Tôi rất muốn thưa là chúng đã sợ, đã hết dám. Nhưng sự thật là vẫn còn. Chúng tôi bắt được những võ khí giấu ở trong bếp, ở cả các chợ."

            Stalin nhắm một mắt lại, mắt kia mở và sáng lên sự hài lòng.

            Lãnh tụ phán:

            "Vậy là tốt. Việc đó chứng tỏ là các anh có làm việc."


            Abakumov không còn có thể ngồi trước mặt Lãnh tụ vĩ đại của y lâu hơn nữa, y nhổm dậy, nhưng y vẫn không đứng thẳng người, y cúi khom khom để cho đầu y khỏi cao hơn đầu lãnh tụ:

            "Nhưng kính thưa Chủ tịch, chúng tôi không bao giờ để cho những âm mưu đó có thể thành hình, chúng tôi bóp nát chúng khi chúng mới nhen nhúm. Chúng chỉ mới có ý định là đã bị chúng tôi bắt rồi. Chúng tôi diệt chúng theo tinh thần Điều luật số 19."

            "Tốt, tốt lắm."

            Stalin ra hiệu cho Abakumov ngồi xuống, người không thú vị gì khi thấy tên hộ pháp ấy đứng sừng sững trước mặt.

            "Như vậy tức là đồng chí nhận thấy có sự bất mãn trong quần chúng?"

            Abakumov lại thở dài và trả lời như tiếc hận:

            "Dạ. Tôi nhận thấy có một thiểu số nào đó. "

            Y rất muốn nói là: Không, hết thảy quần chúng đều hài lòng, mọi người đều sung sướng. Nhưng nếu nói như vậy Bộ An ninh của y còn bày ra để làm gì?

            "Đồng chí nhận xét đúng đấy," Stalin gật đầu. "Chỉ vì thế mà các người ở Bộ An ninh còn có việc mà làm. Có nhiều người nói với tôi rằng không còn ai bất mãn nữa, tất cả mọi người đều hài lòng."

            Tới đây Lãnh tụ nở một nụ cười mỉa mai:

            "Nói như thế là mù tịt về chính trị. Bọn kẻ thù cả chúng ta có thể luôn miệng nói…đồng ý, tán thành, chúng có thể hoan hô ta nhưng đó là chúng giả dối, đó chỉ là chúng ẩn nấp trong những cái vỏ. Trong lòng chúng vẫn chống đối. Chừng năm phần trăm? Đúng không, hay là tám phần trăm?"

            Stalin đặc biệt kiêu hãnh vì khả năng nhận thức sâu sắc của mình, khả năng tự chỉ trích và sáng suốt nhất định mọi việc. Người cũng tự cho mình là Lãnh tụ không ưa mình.

            Abakumov trở thành can đảm hơn, đôi vành tai y không còn bỏng rát nữa:

            "Thưa Chủ tịch, sở dĩ còn tình trạng ấy là do lỗi của chúng tôi. Chúng tôi chưa làm tròn bổn phận."

            Stalin không công nhận nhưng cũng không phủ nhận lời nhận tội đó. Người gõ nhẹ tẩu thuốc lên thành đĩa gạt tàn:

            "Còn bọn trẻ? Đồng chí thấy sao?"

            Những câu hỏi theo nhau đến với Abakumov như những lưỡi dao nhọn. Y phải làm sao hóa giải được những lưỡi dao ấy mà không bắt lấy cũng không được né tránh. Chỉ một câu trả lời bậy là hỏng hết. Nếu y trả lời: “Bọn trẻ có tinh thần tốt. Bọn trẻ hăng hái, bọn trẻ không có gì đáng trách”, đó là y ngu ngốc, y mù tịt về chính trị, nếu y trả lời: “Bọn trẻ bậy bạ, lười biếng, bọn trẻ chống đối”, đó là y không tin tưởng ở tương lai. Abakumov làm một cử chỉ bằng tay và không nói gì cả.

            Stalin cũng không chờ đợi y trả lời. Người nói bằng một giọng biết chắc chắn, biết đúng:

            "Chúng ta cần phải chú ý hơn nữa đến bọn trẻ. Phải đặc biệt nghiêm khắc với những lỗi lầm của bọn trẻ."

            Abakumov chợt nhớ và hí hoáy viết.

            Stalin như bị lôi cuốn, bị thôi miên vì những ý nghĩ của chính mình. Đôi mắt sáng lên một thứ ánh sáng như mắt cọp ban đêm. Stalin nhồi thuốc vào tẩu và đi đi lại lại trong phòng:

            "Chúng ta phải gia tăng việc kiểm soát tinh thần bọn sinh viên. Không những chỉ cần diệt từng cá nhân mà thôi, phải diệt cả nhóm. Chúng ta phải sử dụng đến tối đa những biện pháp trừng phạt mà luật pháp cho phép ta – hai mươi lăm năm tù chứ không phải là mười năm. Mười năm tù – đó là chúng đi học chứ không phải là đi tù. Bọn thiếu niên có thể được hưởng án mười năm nhưng tên nào có râu là phải tù hai mươi lăm năm. Chúng nó còn trẻ, chúng nó có thể sống sau đó."

            Abakumov viết như máy. Bánh xe đầu tiên trong một guồng máy vĩ đại vừa được quay.

            "Đã đến lúc phải chấm dứt những tiện nghi trong những nhà giam chính trị phạm. Chúng đi tù chứ không phải chúng đi nghỉ mát. Beria cho tôi biết những gói thực phẩm vẫn còn được phép gửi từ ngoài vào những nhà giam chính trị phạm. Đúng không?"

            "Chúng tôi sẽ chấm dứt ngay tình trạng ấy. Chúng tôi sẽ cấm. Tuyệt đối cấm."

            Abakumov với một giọng đau đớn trong khi tay y vẫn viết. Lẽ ra y phải biết chấm dứt tình trạng đó trước, y phải cấm từ trước.

            "Đó là lỗi của chúng tôi. Xin tha lỗi cho chúng tôi."

            "Biết bao nhiêu lần tôi đã giải thích kỹ những gì phải làm cho các người? Đã đến lúc các người phải hiểu. Đừng có bất cứ cái gì cũng chờ tôi ra lệnh."

            Người khiển trách nhưng người không giận dữ. Người dịu dàng khuyên răn vì người biết rằng Abakumov sẽ hiểu, sẽ làm được việc. Đã lâu lắm rồi Abakumov mới lại được đấng Từ phụ dạy bảo như thế. Y đã hết hẳn sợ hãi. Bộ óc y hoạt động như bộ óc của một người thường trong một trường hợp rất thường, với những điều kiện thường. Và vấn đề từ lâu đã ám ảnh y, làm cho y khổ sở như cục xương mắc nghẹn trong cổ họng, giờ đây được diễn tả thành lời.

            Khuôn mặt sáng lên Abakumov nói:

            "Thưa, chúng tôi hiểu. Cuộc đấu tranh giai cấp sẽ được đẩy mạnh hơn nữa. Nhưng thưa chủ tịch, xin chủ tịch xét lại cho, tay chúng tôi bị trói chặt vì việc bãi bỏ án tử hình. Chúng tôi như những kẻ lao đầu vào tường từ hai năm rưỡi nay. Bây giờ chúng tôi không còn được quyền công khai xử tử những tên đáng phải chết nữa. Chúng tôi phải giết chúng. Không có ngân khoản nào để thanh toán tiền công cho những người làm việc ấy. Việc trả tiền trở thành rắc rối. Các trại tập trung, những nhà giam không còn làm cho họ sợ nữa. Chúng tôi cần có án tử hình. Xin cho lại chúng tôi án tử hình!"

            Abakumov van xin với tất cả sự chân thành, y đặt hai tay trước ngực và ánh mắt tràn đầy hy vọng, nhìn lên khuôn mặt khô khan của Lãnh tụ.

            Dường như là Stalin mỉm cười – mỉm cười nhưng không để lộ, chỉ hàng ria là rung động. Và người nói thản nhiên, thông cảm:

            "Tôi biết. Tôi đã suy nghĩ nhiều về chuyện ấy."

            Kỳ diệu, tuyệt vời. Người biết tất cả mọi việc, người suy nghĩ đến tất cả mọi vấn đề. Ngay cả trước khi người khác hỏi đến, người đã biết. Người như một vị thánh sống, như bậc đại giác, đại trí tuệ, người biết trước ý nghĩ của kẻ khác.

            "Sẽ có ngày tôi trả lại cho các người án tử hình. Cũng không lâu lắm đâu." người nhìn thẳng ra trước mặt với vẻ suy tư, như người đang nhìn vào tương lai. "Việc đó sẽ là một biện pháp giáo dục tốt."

            Quả thật người đã suy tư nhiều lắm về vấn đề này. Trong vòng hai năm trở lại đây người đã khổ tâm nhiều với việc thi đua xây dựng xã hội với Tây phương. Người từng tin tưởng rằng con người không đến nỗi quá tồi tệ, quá sa đọa.

            Quan niệm sau đây là đặc tính của người: Loại trừ, tẩy chay cho đi đày, bỏ tù chung thân vẫn chưa đủ để đối phó với những kẻ bị người coi là thành phần nguy hiểm. Chỉ có cái chết, chỉ có giết đi mới có thể trừ tiệt được tai họa tận gốc. Và khi mí mắt người rung động, án lệnh áng lên trong mọi người là án tử hình. Bao giờ cũng là án tử hình.

            Ở kích thước của người không thể có tội nào nhẹ hơn là tội phải chết. Không có sự trừng phạt nào thấp hơn là phải giết.

            Từ khoảng không sáng rỡ mắt người đang nhìn, người chuyển đôi mắt về bộ mặt nở nang của Abakumov và bỗng dưng, mắt người nheo lại, đe dọa:

            "Anh không sợ anh là người thứ nhất sẽ bị bắn sao?"

            Người không nói lớn tiếng “bắn”. Người để nó rơi nhẹ qua vành môi như đó là một tiếng cố ý bắt người nghe phải đoán.

            Nhưng tiếng đó xoáy vào da thịt Abakumov như một luồng gió mạnh. Vị Lãnh tụ anh minh và duy nhất đứng đủ xa tầm tay của Abakumov và chăm chú nhìn vào mặt y xem phản ứng của y với câu hỏi đùa này ra sao.

            Không dám đứng lên nhưng cũng không còn dám ngồi, Abakumov nửa đứng nửa ngồi, toàn thân y lom khom trên cặp giò đang run.

            "Iosif Vissarionovich, nếu tôi đáng bị…. Nếu cần…"

            Stalin nhìn, thông cảm sâu sắc. Ngay lúc này, óc người đang nghĩ trở lại sự thắc mắc hồi nãy: Đã đến lúc mình cần thanh toán tên này chưa? Từ lâu rồi người vẫn sử dụng thâm độc tuyệt vời là: Trước hết khuyến khích kẻ khác làm tới, và sau đó, chờ đúng lúc, kết tội kẻ khác đã đi quá mức, làm quá trớn. Người từng áp dụng thủ đoạn này nhiều lần và lần nào cũng hữu hiệu, cũng thành công. Như vậy nghĩa là đến một lúc nào đó nhất định Abakumov cũng sẽ phải chịu chung số phận với những kẻ bị trừng phạt.

            "Đúng lắm," Stalin nở nụ cười đầy thiện cảm như để ca ngợi Abakumov. " Khi nào anh đáng bị, chúng tôi sẽ bắn anh."

            Người lại ra hiệu cho Abakumov ngồi xuống, người suy nghĩ một lúc rồi bằng một giọng ấm áp, thân thiện mà Tổng trưởng Bộ An ninh chưa từng bao giờ được nghe thấy người nói:
            "Abakumov. Anh sắp có nhiều việc phải làm. Chúng ta sẽ phát động một chiến dịch thanh trừng cũng lớn rộng như năm 1937. Trước một cuộc chiến tranh lớn, một cuộc thanh trừng lớn là cần thiết."

            "Nhưng thưa Chủ tịch," đây là lần thứ nhất Abakumov dám thốt ra tiếng “nhưng”, "Chủ tịch nghĩ rằng chúng tôi đã ngừng thanh trừng tụi kẻ thù hay sao?"

            "Anh gọi đó là thanh trừng ư? Bậy. Thanh trừng đâu phải là việc bắt bớ lẻ tẻ mỗi ngày vài chục tên. Rồi anh sẽ thấy, chúng ta phải củng cố tổ chức, kiện toàn nội bộ. Anh sẽ có thêm nhân viên, thâm ngân khoản. Đủ thứ. Tôi sẽ không từ chối anh bất cứ cái gì."

            Rồi người buông thả Abakumov bằng câu:

            "Xong rồi, đi đi…"

            Abakumov không biết rõ là y đi bằng hai chân hay y bay ra khỏi văn phòng, qua phòng đợi, đỡ cái cặp da trong tay Poskrebychev và ra khỏi nhà. Không những là y còn được sống yên lành trong một tháng trời nữa mà thôi, cuộc hội kiến đêm nay dường như là đã mở đầu một kỷ nguyên rực rỡ mới trong đời y, dường như y vừa được Lãnh tụ tỏ ý tin cẩn và thương mến hơn ai hết.

            Lãnh tụ có nói đến chuyện bắn y – nhưng đó chỉ là Lãnh tụ nói đùa.
            #21
              CTT 07.09.2008 21:49:58 (permalink)
              21. Tuổi già

              Vị Bất tử, tâm trí xúc động vì những tư tưởng lớn, đi đi lại lại trong văn phòng đêm. Một thứ âm nhạc nội tâm dìu dặt vang lên trong hồn người, một ban nhạc vô hình vĩ đại dường như đang tấu nhạc cho riêng người thưởng thức.

              Những kẻ bất mãn? Không sao. Ở đâu cũng có những kẻ bất mãn, thời nào cũng có những kẻ bất mãn. Sẽ không bao giờ hết được những kẻ bất mãn.

              Kiểm điểm lại quá trình tiến hóa không mấy phức tạp lắm của lịch sử nhân loại, Stalin biết rằng với thời gian, con người sẽ tha thứ tất cả, sẽ quên hết, hơn thế nữa, sẽ nhớ lại những cái xấu như những cái tốt. Con người đều như Lady Anne, nàng sương phụ trong vở kịch Richard III của Shakespeare. Cơn giận của họ ngắn ngủi, chóng tàn, ý chí của họ không kiên cường, trí nhớ của họ yếu kém – và bao giờ con người cũng vui lòng thuận phục hoàn toàn kẻ thắng.

              Chính vì vậy Stalin nghĩ rằng y phải sống cho đến chín mười tuổi – bởi vì cuộc chiến đấu chưa chấm dứt, cuộc xây dựng chưa hoàn thành và ở đời này không có người nào thay thế được y.

              Sống để phát động và để thắng cuộc chiến tranh cuối cùng. Sống để tiêu diệt bọn địa cầu xã hội Tây phương như loài sâu bọ, để giết hết tất cả những kẻ chưa chịu thua trận trên thế giới. Sau đó, tất nhiên tăng cao năng suất lao động đến mức độ kỷ lục, giải quyết những vấn đề kinh tế. Chỉ có ý, Stalin, biết con đường đưa nhân loại đến hạnh phúc, biết cách nắm cổ nhân loại đi vào hạnh phúc như nắm cổ một con chó mù dí vào đĩa sữa – “Đó, ăn đi.”

              Và sau đó?

              Trước đây có một người đích thực là người – người đó là Bonaparte. Người này đã không thèm để ý gì đến những lời sủa bậy của bọn Jacobin, đã tự tuyên bố mình là Hoàng đế. Và Bonaparte làm vậy là đúng.

              Danh từ “Hoàng đế” không có gì là xấu cả. Danh từ ấy cũng chỉ có nghĩa là “Lãnh tụ, Chỉ huy”.

              “Hoàng đế Địa cầu”. Nghe được đấy chứ?

              Đối với tư tưởng cộng sản thế giới, việc xưng danh Hoàng đế không có gì là mâu thuẫn.

              Stalin vẫn bước đi trong phòng, ban nhạc vẫn tấu nhạc.

              Sống đến chín mươi tuổi và từ nay đến đó, rất có thể họ sẽ tìm ra được một thứ thuốc, hoặc những biện pháp nào đó làm cho y trở thành bất tử. Liệu có thể như thế không? Không, chắc không kịp đâu.

              Nhưng bỏ nhân loại lại cho ai? Ai sẽ kế tục lo lắng cho nhân loại? Chúng sẽ làm hỏng hết cho mà coi.

              Sẽ có nhiều cơ sở vĩ đại nữa được dựng lên vì Stalin. Kỹ thuật khoa học sẽ có thể giúp sức vào việc tuyên truyền chủ nghĩa. Ta sẽ có thể gọi cách đó là cách tuyên truyền bằng đài kỷ niệm. Sẽ đặt một đài kỷ niệm trên đỉnh núi Kazbek, một đài khác ở trên đỉnh núi Elbrus – đầu của mình sẽ vĩnh viễn cao hơn mây trắng. Đến lúc đó mình sẽ có thể chết được. Người vĩ đại nhất những người vĩ đại, vĩ nhân của những vĩ nhân, thiên tài vô song trong lịch sử trái đất.

              Bỗng dưng Stalin dừng lại.

              Ở trên cao kia thì sao? Trên trái đất này không có ai bằng được Stalin, điều đó đúng rồi, nhưng còn ở trên kia?

              Y lại bước đi, nhưng giờ đây những bước đi của y chậm hơn, nặng hơn trước.

              Thỉnh thoảng, vấn đề chưa được giải quyết đó lại trở về ám ảnh tâm trí Stalin.

              Thật ra, vấn đề đó chẳng có gì mơ hồ. Tất cả những gì cần chứng minh đều đã được chứng minh đầy đủ từ lâu, những gì dựng chặn ở giữa đường đều đã bị dẹp đi, bị chứng minh là sai bậy. Đã chứng minh rằng vật chất không hề bị tiêu diệt và cũng không hề được sinh ra. Đã chứng minh rằng vũ trụ này vô biên. Đã chứng minh rằng đời sống bắt đầu một cách dễ dàng ở trong khoảng không ấm áp. Đã chứng minh rằng người ta không thể chứng minh được sự hiện hữu của Chúa Trời, sự đã sống thật của Jesus Christ. Đã chứng minh rằng tất cả những phép lạ, những tiên tri, những sự kiện tinh thần không có vật chất đều là những chuyện bà già lẩm cẩm.

              Nhưng sự cấu tạo của linh hồn, những gì ta yêu ghét, những gì ta quen đều được thực hiện trong tuổi trẻ, không phải sau tuổi trẻ. Trong thời gian gần đây những ký ức về tuổi thơ xưa đã trở thành mạnh mẽ trong tâm trí Stalin.

              Cho đến số tuổi mười chín y đã sống trong tinh thần Cựu ước và Tân ước, sống với Cựu ước và Tân ước, sống với cuộc sống của những vị Thánh Gia Tô và lịch sử đạo Gia Tô. Y giúp lễ trong nhà thờ, hát trong ban đồng ca, và y thích hát bài ca của Stroikin nhan đề: “Giờ đây các người đã được tha thứ”. Ngay cả bây giờ y vẫn có thể hát bài đó không sai một âm giai. Cũng không biết bao nhiêu lần trong khoảng mười một năm học ở trường nhà Dòng và trong Tu viện, y từng đến gần những pho tượng và nhìn vào những đôi mắt huyền bí ấy. Y ra lệnh cho bức hình chụp y những năm đó phải in vào tập Tiểu sử ấn hành nhân lễ Kỷ niệm Sinh nhật năm nay của y. Djugashvili, tốt nghiệp Chủng học viện. Trong bức hình ấy y là một gã thiếu niên mới lớn, khuôn mặt mệt mỏi vì những giờ cầu nguyện dài, bận chiếc áo dòng xám kín cổ, mái tóc dài rẽ đường ngôi nghiêm khắc ở giữa, vẻ mặt khắc khổ dọn mình cho cuộc sống tu hành khổ hạnh, những sợi tóc y dính dầu đèn phủ xuống tận hai tai, chỉ có đôi mắt và đôi lông mày hơi nhíu lại cho người ta thoáng thấy gã tu sinh ngoan ngoãn ấy sẽ có ngày trở thành một nhân vật quốc tế.

              Linh mục Abakumov, vị Thanh tra của Tòa Tổng Giám mục, người đã trục xuất Djugashvili ra khỏi tu viện, được chính Stalin ra lệnh để yên không được chạm đến. Để cho ông già ấy sống nốt những ngày còn lại trong đời ổng.

              Và trong ngày mùng ba tháng bảy năm 194 ấy, trước những ống micro cổ họng y nghẹn lại vì sợ và tự thương hại mình (ở đời này không có kẻ nào hoàn toàn không thương hại mình). Không phải là tự nhiên mà những “đám con chiên” thốt ra trên môi Stalin, Lênin hay bất cứ một lãnh tụ nào khác, không thể nghĩ đến chuyện nói ra những tiếng ấy.

              Môi y đã nói ra những lời y từng học nói khi y còn trẻ.

              Đúng, và trong những ngày tháng bảy năm ấy có thể y đã thầm cầu nguyện, cũng như nhiều kẻ vô đạo vẫn làm dấu thánh giá mỗi khi có những trái bom rơi xuống.

              Trong những năm gần đây y hài lòng nhiều khi thấy những bài kinh cầu trong các giáo đường kể y là lãnh tụ được Chúa chọn.
              [2] Chính vì thế mà y đã tích cực giúp đỡ bằng tiền của Krelin Trung tâm Gia Tô giáo Chính Thống Nga La Tư ở Zagorsk. Stalin không tiếp bất cứ một vị nguyên thủ của một cường quốc nào trên thế giới trịnh trọng và thân thiết như khi y tiếp vị Giáo chủ già lão, lẩm cẩm của chính y. Y đi ra tận cửa ngoài để đón ông này, y cầm tay ông đưa đến tận bàn. Y từng nghĩ đến việc mua tặng ông già này một trang trại nào đó, như những kẻ muốn cho linh hồn mình được bảo đảm vẫn từng tặng những giáo sĩ ngày xưa.

              Stalin từng nhận thấy y có khuynh hướng ngả về không những chỉ là Giáo Hội Chính Thống mà thôi, y ngả về tất cả những sự kiện, những ngôn ngữ thuộc về thế giới cũ, cuộc sống cũ – thế giới sản xuất ra y, cái thế giới mà vì bổn phận, y từng tiêu diệt bằng đủ mọi cách trong bốn mươi năm qua.

              Trong những năm 30, vì nhu cầu chính trị, y đã làm sống lại danh từ “quê hương” bị lãng quên và không được dùng đến trong vòng mười lăm năm qua, đã trở thành một danh từ gần như xấu xa. Rồi với thời gian, chính y cũng cảm thấy thích thú khi nói đến những danh từ như “Nga La Tư” và “quê hương”. Y trở thành yêu mến những người dân Nga – những người không bao giờ phản bội y, những người chịu đói khổ trong nhiều năm và còn chịu đói khổ trong nhiều năm nữa nếu cần, những người thản nhiên đi ra mặt trận, đi đến trại tập trung, đến mọi tình trạng khổ cực và không bao giờ chống đối, phản kháng. Sau cuộc chiến thắng, Stalin nói một cách thành thật rằng dân Nga có một tinh thần trong sáng, một ý chí cứng cỏi và sự nhẫn nại.

              Với năm tháng, Stalin càng ngày càng ước muốn ngay cả y cũng được công nhận là một người dân Nga.

              Y cảm thấy cả sự thích thú trong việc dùng danh từ gợi lại thế giới cũ: Y không dùng danh từ “Trưởng Trường” mà dùng “Hiệu trưởng”, không dùng “Ban Chỉ huy” mà dùng “Ban Sĩ quan”, không dùng cái tên Ủy ban Hành pháp Trung ương Toàn Nga mà là Hội đồng Xô Viết Tối cao Sĩ quan (Tối Cao là một danh từ nghe hay đấy chứ). Sĩ quan phải có “cận tá”, tức quân hầu. Nữ học sinh trung học phải học riêng lớp, bận đồng phục với áo có yếm, trả học phí. Dân Xô Viết phải có ngày nghỉ cũng giống như dân Gia Tô giáo, và ngày nghỉ đó cũng là chủ nhật chứ không phải là một ngày nào khác. Chỉ những hôn nhân hợp pháp mới được công nhận, tình trạng này không khác gì tình trạng hôn nhân dưới thời Nga Hoàng, mặc dù chính cá nhân Stalin từng khổ sở, khốn nạn vì cái luật ấy trước kia. Y quyết định như thế và y không cần biết Engels đã nghĩ gì về vấn đề ấy.

              Chính là ở trong văn phòng làm việc ban đêm này y đã đứng trước gương bận thử bộ áo có cầu vai cổ điển của dân Nga – và cảm thấy hài lòng thật sự.

              Sau cuộc phân tích cuối cùng, y thấy chẳng có gì đáng để xấu hổ nếu y mang chiếc vương miện lên đầu. Vương miện là cái gì? Nó chỉ là vật biểu hiệu của một quyền uy tối thượng, vật làm một người khác thường khác hẳn với người thường. Dù ai nói gì thì nói, chế độ quân chủ cũng là một chế độ lâu bền nhất, vững vàng nhất trong lịch sử nhân loại. Tại sao ta lại không dùng những cái hay, cái tốt của nó?

              Mặc dù cuộc đầu hàng của hải cảng Arthur chỉ làm cho y hài lòng trong thời gian y đang lưu vong sau khi trốn khỏi tỉnh Irkutsk, y vẫn không lầm khi Nhật Bản đầu hàng năm 1945 rằng vụ hải cảng Arthur là một vết đau đớn trên tự ái riêng của y và của toàn thể dân Nga thế hệ cũ.

              Đúng, đúng, dân Nga thế hệ cũ. Đôi khi Stalin nghĩ rằng có lẽ không phải là do sự ngẫu nhiên hay may mắn mà y trở thành người lãnh đạo xứ sở này, người được toàn thể dân chúng yêu thương, tin cậy – y được chọn chứ không phải là bọn người nói giỏi, ưa phản đối nhưng mất gốc, bọn người không có ý kiến rõ rệt nào cùng nổi tiếng một thời với y.

              Bọn người đó ở đây, ngay trong phòng này – chúng sắp hàng trên những kệ sách kia. Tư tưởng của chúng bị dồn nén ở đây giữa những trang giấy trong khi chúng đã bị bóp cổ cho đến chết, thắt cổ, bắn, vùi trong những đống mạt cưa, những đống phân bón ở những trại tập trung, bị đốt, bị đánh thuốc độc, bị chết vì những ai nạn xe hơi hoặc chết vì chính tay chúng. Chúng đã bị tiêu trừ, bị tận diệt – nhưng mỗi đêm chúng vẫn trình bày với Stalin những ý tưởng của chúng trên những trang sách. Từ những kệ sách, chúng lắc đầu, đong đưa những bộ râu, chúng vặn hai bàn tay vào nhau tức tối, chúng la lối: “Tôi đã cảnh cáo trước về tình trạng ấy. Tôi đã nói làm như thế không được, đồng chí phải làm cách khác!”. Chính vì thế mà Stalin đã thu thập chúng về đây, để y thêm thù hận khi y quyết định ban đêm.

              Ban nhạc vô hình tấu nhạc theo bước chân y đã ngừng tiếng.

              Hai chân Stalin bắt đầu tê nhức, y cảm thấy y như sắp hết còn đi lại được. Hai chân y, từ cạnh sườn trở xuống, nhiều lần đã không còn đáp ứng được ý muốn của y.

              Vị chủ nhân của nửa trái đất, trong bộ quân phục hàm Thống chế, từ từ lướt ngón tay trên gáy những cuốn sách trong kệ sách, y duyệt lại những kẻ thù của y.

              Và khi từ kệ sách cuối cùng quay lại, y trông thấy cái máy điện thoại trên bàn.

              Ý nghĩ vẫn lẩn trốn trong tâm tí y suốt đêm này một lần nữa, quẫy mình như một con rắn thoáng hiện rồi lại biến mất.

              Hồi nãy y đã nhớ đến chuyện này. Y nhớ rằng y cần hỏi Abakumov về một chuyện gì đó nhưng không sao nhớ đó là chuyện gì. Hồi nãy y đã hỏi Abakumov về chuyện Gomulka. Nhưng đó không đúng là chuyện y muốn hỏi.

              Nhớ rồi. Y bước vội tới bàn, cầm cây bút và viết xuống cuốn sổ ghi: “Điện thoại bí mật”.

              Họ đã báo cáo với y là họ đã tập trung được những chuyên viên tài giỏi nhất, họ đã có dủ dụng cụ cần thiết, và tất cả mọi người đều sốt sắng, hăng hái thực hiện bộ máy điện thoại đặc biệt cho Lãnh tụ dùng. Một hạn kỳ được ấn định – vậy mà tại sao đến bây giờ vẫn chưa thấy hoàn thành? Abakumov, thằng chó đẻ, ngồi đây cả tiếng đồng hồ nhưng không hề nói nửa tiếng đến công tác đó.

              Tác phong chung của chúng ta là như thế, trong mọi ngành, mọi cơ sở, tên nào cũng chỉ lo chăm chăm đánh lừa Lãnh tụ. Làm sao có thể tin được bọn chúng? Làm sao mà không làm việc ban đêm cho được?

              Choáng váng và sây sẩm mặt mày, Stalin ngồi vội xuống ghế. Y không ngồi xuống chiếc ghế y vẫn ngồi sau bàn mà là ngồi xuống chiếc ghế nhỏ đặt ngay cạnh bàn.

              Nửa đầu bên trái của y như bị siết chặt ở chỗ thái dương, như có một sức mạnh kéo đầu y nghiêng về phía đó. Luồng tư tưởng của y tan vỡ. Với mắt nhìn thất thần, y nhìn một vòng quanh phòng, nhưng không thấy cả bốn bức tường.

              Già đi như một con chó già. Một tuổi già không có bạn. Một tuổi già không có tình yêu thương. Một tuổi già không có lòng tin. Một tuổi già không có ước muốn.

              Y không còn cả cần đến cô con gái yêu của y, cô con y chỉ còn được phép gặp y vào những ngày nghĩ lễ.

              Cái cảm giác trí nhớ phai nhạt, tinh thần yếu ớt, cô đơn gậm nhấm thân thể y như bệnh tê liệt, làm cho y kinh hoàng.

              Cái chết đã làm tổ trong y nhưng y vẫn từ chối không chịu tin như thế.


              <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.09.2008 21:45:22 bởi CTT >
              #22
                CTT 09.09.2008 21:46:22 (permalink)
                22. Hố thẳm kêu gọi

                Khi Đại tá Kỹ sư Yakonov ra khỏi Bộ An ninh bằng khung cửa sau mở ra đường Dzhernhinsky và đi vòng tòa nhà dưới những thân cột đá ở công viên Furkasovsky, y không còn nhận ra chiếc xe Podeba của y đậu ngay trước mặt, y toan mở cửa xe của người khác để ngồi vào đó.

                Đêm vừa qua và vào giờ này, sắp hết, là một đêm sương mù dày đặc. Tuyết rơi từ lúc chặp tối lập tức chảy tan ra nước ngay và ngừng rơi ngay. Giờ đây, trước khi trời bình minh, sương mù che kín mặt đất và dòng nước chảy trong rãnh cống được phủ trên mặt bằng một làn băng mỏng.

                Trời trở lạnh.

                Mặc dù đã gần 5 giờ sáng, nền trời tối đen như mực.

                Một sinh viên năm thứ nhất, đứng với cô bạn gái của chàng suốt đêm trong một vòm cổng, nhìn Yakanov bằng đôi mắt ước muốn, thèm thuồng khi y chui vào lòng chiếc xe ấm. Chàng sinh viên thở dài nghĩ đến chuyện không biết chàng có thể sống đủ lâu để có một chiếc xe hơi hay không. Không những chưa bao giờ chàng có điều kiện đưa cô bạn của chàng đi chơi bằng xe hơi, chiếc xe duy nhất mà chàng từng được ngồi trong đời chàng chỉ là chiếc xe vận tải đưa chàng tới làm công tác lao động ở một nông xã.

                Nhưng chàng không biết rõ về người đàn ông mà chàng đang ao ước, thèm muốn được giống.

                Gã tài xế của Yakanov hỏi:

                "Đại tá về nhà?"

                Yakanov trố mắt nhìn gã. Y cầm chiếc đồng hồ ở tay nhưng y không nhìn thấy kim đồng hồ chỉ mấy giờ.

                "Gì? Không…"

                "Đại tá về Mavrino?"

                Gã tài xế ngạc nhiên hỏi câu thứ hai. Tuy gã có bận áo da cừu với mũ da che kín đầu mặt, cuộc thức chờ gần hết đêm cũng làm cho gã run rẩy và gã mong được về giường nằm.

                "Không…"

                Ông Đại tá Kỹ sư lại đáp, bàn tay đặt lên ngực như để chặn trái tim.

                Gã tài xế quay lại nhìn vào mặt chủ gã dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn đường chiếu qua khung kiếng đầy sương trắng vào trong lòng xe.

                Gã thấy người đàn ông ngồi đó như không phải là ông chủ gã. Vành môi của Yakanov lúc nào cũng mím chặt với vẻ kiêu ngạo, lúc này đang run rẩy.

                Yakanov vẫn cầm chiếc đồng hồ trên tay. Y như người không còn hiểu gì cả.

                Và mặc dù gã tài xế đã phải vất vả chờ suốt đêm và bực bội rủa thầm Yakanov trong khi gã nhớ lại những hành động tàn nhẫn, quái ác của Yakanov trong vòng hai năm trôi qua, gã vẫn mở máy cho xe chở đi không chủ đích trong thành phố. Dần dần việc lái xe làm cho thần kinh gã dịu đi, cơn hờn giận trong gã cũng biến đi.

                Đêm đã quá khuya để có thể gọi là trời đã sáng. Thỉnh thoảng chiếc xe chở Yakanov chạy lang thang gặp một chiếc xe cô đơn khác trong những đường phố vắng của thủ đô. Thành phố không có cảnh sát, không có người đi bộ, không có trộm cướp. Chỉ lát nữa thôi những chiếc xe chuyên chở công cộng sẽ bắt đầu chạy.

                Vừa lái xe, gã tài xế vừa nhìn lại ông chủ, gã phải tự quyết định cho xe chạy đi đâu, một việc mà ít khi nào gã phải làm. Gã đã cho xe chạy qua Myasnitsky, chạy suốt hai đại lộ Sretensky và Rozhdesvensky tới công trường Trubny rồi từ đó quẹo về Neglinnaya. Nhưng gã không thể cứ lái xe chạy như vầy mãi cho đến sáng.

                Yakanov nhìn ngây ra trước mặt, đôi mắt của y là đôi mắt thất thần, bất động và hoàn toàn vô cảm thụ. Y có mở mắt nhìn nhưng không thấy gì hết.

                Yakanov cư ngụ ở đường Bolshaya Serpukhovaka. Gã tài xế, nghĩ rằng khung cảnh quen thuộc của khu này có thể gợi cho chủ nhân của gã tỉnh lại và quyết định đi về nhà nên gã cho xe chạy qua cầu để quay về khu đó. Xe chạy xuống con đường Okhotny Ryad đổ dốc, quẹo ở Manège và đi ngang Công trường Đỏ lạnh lẽo, vắng tanh.

                Những nền đá của những bức tường quanh điện Kremlin và đỉnh những ngọn tháp nhô lên trên đầu tường bám đầy băng giá. Mặt đường xám và trơn trợt. Sương mù như biến mất ở đầu xe.

                Xe chạy cách xa bức tường chừng ba trăm thước, trong những bức tường đó, như hai người trong xe có thể tưởng tượng – bậc Vĩ nhân vĩ đại nhất của trái đất đang ngủ những giờ phút cuối cùng của một đêm dài và lạnh. Nhưng họ đi qua đấy và không ai nghĩ đến Vĩ nhân.

                Khi xe chạy ngang Giáo đường Basil và hướng về phía bờ sông Mạc Tư Khoa, gã tài xế cho xe giảm tốc độ và hỏi lớn:

                "Đồng chí Đại tá… Đồng chí về nhà chưa?"

                Đáng lẽ ra Yakanov nên về nhà. Trong thời gian gần đây y sống ở nhà quá ít, nhưng như một con chó già thường tìm đến những nơi vắng vẻ để chết một mình, Yakanov có thể đến khắp mọi nơi trừ nhà y.

                Chiếc Pobeda ngừng lại. Nắm lấy vạt áo da dày trong khi chui ra khỏi xe, Yakanov nói với gã tài xế:

                "Chú đem xe về nhà ngủ đi. Tôi đi bộ về."

                Y thường gọi gã tài xế bằng tiếng “chú” thân mật, nhưng lúc này giọng nói của y rầu rĩ, não nề quá làm cho câu nói rất thường của y thảm đạm như một lời vĩnh biệt.

                Một bức màn sương bao phủ mặt sông Mạc Tư Khoa kín lên tận tới bờ.

                Không gài nút áo, với cái mũ lông thú của sĩ quan cấp Tá đội hơi lệch sang một bên, Yakanov, đôi lúc loạng choạng vì mặt đường trơn, đi dọc theo bờ sông.

                "Gã tài xế muốn cất tiếng gọi chú, gã nghĩ đến chuyện lái xe đi theo ông chủ nhưng sau đó gã lại nghĩ: “Với cấp bậc ấy chẳng đời nào ổng lại nhảy xuống sông tự tử.” Gã bèn quẹo xe trở lại và yên chí về thẳng nhà gã.

                Yakanov lần bước đi trên mặt con đê dài, con đê này không có những đường phố cắt ngang, bên trái y là một hàng rào gỗ dài như vô tận, bên phải y là dòng sông. Y đi giữa con đê, mắt nhìn ngây về những ánh đèn đường trước mặt.

                Khi đã đi được một quãng khá xa, Yakanov cảm thấy cuộc đi bộ theo kiểu đi đưa đám ma này gợi lên trong y một sự thoải mái mà từ lâu lắm rồi y không được hưởng.

                Hồi đêm, khi bộ ba bị gọi trở lại trước mặt Tổng trưởng Abakumov, tình hình đã đi đến độ không còn cứu vãn gì được. Yakanov có cảm giác như vũ trụ đổ ụp xuống đầu y. Abakumov nổi cơn điên như một con thú rừng hóa dại. Hắn giẫm lên chân ba người bị hắn gọi trở lại để sỉ nhục, đe dọa, hắn đuổi họ chạy vòng vòng trong căn phòng, hắn chửi rủa họ, hắn khạc nhổ và thiếu chút nữa thì đờm rãi trong miệng hắn bay trúng vào mặt họ. Rồi với mục đích gây đau đớn rõ rệt, hắn đấm vào mũi Yakanov. Kết quả là Yakanov bị chảy máu mũi.

                Abakumov đã gầm gào lên rằng Sevastyanov sẽ bị lột lon, giáng xuống cấp Trung úy và đày đi phục vụ trong những cánh rừng ở Bắc bán cầu, Oskolupov sẽ chỉ còn là lính gác cửa như trước kia và sẽ bị phái đến phục vụ ở nhà tù Butyrskaya, nơi y đã bắt đầu sự nghiệp vào năm 1925. Riêng với Yakanov, vì tội gian dối và tội “phá hoại tái phạm”, sẽ bị bắt và bị gởi đến nhà thù Mavrino như một tên tù thường để làm việc trong phòng sống bẩy dưới quyền điều khiển của Kỹ sư Bobynin, ở đó Yakanov sẽ phải làm việc bằng chính hai tay y chứ không còn sai khiến được người khác.

                Sau cùng, Abakumov đã nín thở và cho họ một dịp may cuối cùng, một kỳ hạn tối hậu: Ngày 22 tháng giêng, ngày kỷ niệm Lênin từ trần.

                Cảnh vật trong văn phòng rộng trang hoàng chướng mắt, quay cuồng trước mắt Yakanov. Y cố gắng dùng khăn tay thấm máu mũi. Y đứng đó yếu đuối và hoàn toàn không có một phương tiện nhỏ nào tự vệ trước Abakumov và trong lúc đó y nghĩ đến ba người, một người đàn bà và hai đứa trẻ, những người mà trong những tháng gần đây y chỉ được sống gần nhiều nhất là một tiếng đồng hồ một ngày, những người mà y đã khổ sở tranh đấu bảo vệ, để giữ cho được an toàn, sung sướng, những người đó là hai đứa con nhỏ của y, đứa lớn lên chín, đứa thứ nhì lên tám, và Varyusha, vợ y, Yakanov thương yêu vợ vì y kết hôn với nàng quá muộn. Năm nay y ba mươi sáu tuổi, y mới cưới nàng. Y cưới vợ sau khi y ở tù ra. Và giờ đây nắm đấm tàn nhẫn của Ông Tổng trưởng của y lại đe dọa đẩy y trở lại nhà tù.

                Từ văn phòng Tổng trưởng ra, Sevastyanov bắt Oskolupov và Yakanov vào văn phòng của lão và ở đây, lão đe dọa sẽ tống hai người vào tù, lão nhất định không chấp nhận tình trạng lão bị giáng xuống cấp Trung úy và bị đi phục vụ ở Bắc cực.

                Từ văn phòng Sevastyanov, Oskolupov bắt Yakanov vào văn phòng Va. Ở đây với những lời lẽ thẳng thắn đến thô tục, Oskolupov cho Yakanov biết rằng Va sẽ làm một báo cáo buộc y vào tội phá hoại, bằng chứng là kỳ đi tù trước đây của y.

                Yakanov đi tới cây cầu xi-măng cao bắc ngang sông Mạc Tư Khoa. Y không đi vòng để đi lên cầu, y đi dưới chân cầu, ngang chỗ có một viên cảnh sát đang đi tuần.

                Viên cảnh sát nghi ngờ nhìn gã đàn ông say rượu đang đi loạng choạng đầu đội cái mũ lông thú đặc biệt của những sĩ quan cấp tá.

                Đây là khúc dòng sông Yauza đổ vào sông Mạc Tư Khoa. Yakanov đi qua dưới chân cầu nhưng y vẫn không biết là y đang ở đâu, y sẽ đi đâu.

                Một cuộc tranh đấu sống chết đang diễn ra và sắp đến hồi kết thúc, Yakanov nghĩ đến cuộc tranh đấu gay cấn ấy và y cảm thấy cái vội vã, cuống quýt chạy chết của một kẻ bị trói chặt cả tay lẫn chân. Hơn lúc nào hết y ghi nhận sự vô lý, độc đoán, tàn ác của những hạn kỳ thời gian. Đó là một tình trạng thúc đẩy, dồn ép ghê gớm, ác liệt, làm nhanh hơn, nhanh hơn nữa, hết hạn rồi, tranh thủ thời gian, làm xong trước giờ ấn định. Và khi mọi việc được làm theo cách này, những tòa nhà được xây lên sẽ không đứng vững, những cây cầu sẽ sụp, những công thự sẽ đổ, những vụ mùa thật thu và những mầm giống được gieo sẽ nhất định không chịu nhô lên khỏi mặt đất. Nhưng cho đến khi nào sự thật nổ ra trước mắt mọi người, những kẻ nào chẳng may bị cuốn hút vào cơn giông bão tranh thủ thời gian ấy không có lối nào thoát ra được trừ lối đau ốm, lối tự đút tay vào guồng máy để bị thương, gặp một tai nạn – và để được nằm chờ trong một bệnh viện hay một nhà dưỡng đường.

                Từ trước cho đến bây giờ luôn luôn Yakanov nhảy ra được những tình trạng cấp bách một cách an toàn để lẻn vào ở trong những tình trạng khác yên bình hơn, chắc chắn hơn hoặc còn lâu mới đến hồi kết thúc.

                Nhưng lần này, lần này, y cảm thấy y không sao thoát ra được. Y không thể nào thực hiện xong dự án chế tạo máy điện thoại bí mật trong thời hạn ngắn ngủi ấy. Y không thể làm được gì hết.

                Và y cũng không thể thoát ra được bằng cách cáo ốm.

                Y đứng vịn tay vào thành cầu và nhìn xuống. Sương mù nằm trên mặt nước sông lạnh đóng thành đá nhưng không che kín mặt sông. Ngay dưới chỗ y đứng, nơi đá tan, Yakanov nhìn thấy một hố đen nước chảy.

                Hố đen như miệng giếng – cái hố đen của dĩ vãng – nhà tù – một lần nữa lại mở ra trước chân y, một lần nữa kêu gọi y trở xuống.

                Yakanov coi khoảng thời gian sáu năm y sống ở đó, trong hố đen đó, là khoảng thời gian đến đủi nhất, xui xẻo nhất, là thất bại nặng nhất đời y.

                Y bị vào tù năm 1932 khi y là một kỹ sư vô tuyến điện trẻ tuổi, tuy trẻ nhưng y đã được xuất ngoại vì công tác hai lần (chính vì những cuộc xuất ngoại này mà y bị bắt). Y là người tù thứ nhất trong những tù nhân đầu tiên sống là làm việc trong những nhà tù theo quan niệm của Dante.

                Y muốn quên đi cái dĩ vãng tù đày đó biết là chừng nào! Y muốn quên và muốn những kẻ khác cũng quên. Muốn cho định mệnh quên. Y từng cố gắng bằng đủ mọi cách xa lánh những kẻ nào gợi cho y nhớ lại dĩ vãng đen tối ấy, xa lánh những kẻ nào từng biết y bị tù.

                Đột ngột Yakanov lùi phắt lại. Y lùi xa thành cầu và đi qua đường đê leo một con dốc lên ngọn đồi. Một con đường mòn lách qua hàng rào gỗ của một dự án xây cất nào đó ở chân đồi, con đường mòn đầy đá băng nhưng không đến nỗi quá trơn.

                Chỉ có cơ quan Mật vụ MGB Trung ương là biết rõ, nhờ những phiếu lý lịch hồ sơ trong phòng lưu trữ, những tên tù cũ nay được bận đồ đồng phục của nhân viên MGB.

                Có hai tên cựu tù nhân, ngoài Yakanov, có mặt ở Viện Mavrino.

                Yakanov vẫn cẩn thận tránh gặp, tránh gần hai tên ấy. Y cố giữ để khỏi phải trò chuyện với càng ngoài khi bắt buộc phải nói về công việc chung, nhưng không bao giờ y chịu ở lại một mình trong văn phòng với hai tên ấy, để cho người khác khỏi thấy và khỏi suy luận.

                Một trong hai tên ấy là Kynazhetsky, giáo sư hóa học. Lão này đã bảy mươi tuổi. Trước kia lão là học trò ưu tú của Giáo sư Mendeleyev. Lão bị án tù mười năm và đã sống hết hạn tù. Nhờ một số những thành quả khoa học, lão được gửi đến làm việc ở Viện Mavrino với tư cách là nhân viên tự do và lão đã làm việc ở đó yên lành được ba năm sau chiến tranh cho đến ngày ban hành Luật Củng cố hậu phương quật lão ngã lần thứ hai. Lần này có lẽ là lần ngã cuối cùng trong đời lão. Vào một buổi trưa, có lệnh bằng điện thoại từ Bộ An ninh gọi lão về Bộ trình diện. Lão về và không thấy lão trở lại nữa. Hak nhớ kỹ hình ảnh Knyazhetsky khi lão đi xuống trên tấm thảm đỏ trải trên những bực thang của Viện, vừa đi vừa lắc lắc mái tóc bạc, không hiểu vì sao người ta lại gọi lão về Bọ để hỏi về một vấn đề gì đó trong “nửa tiếng đồng hồ”. Trong khi đó ở sau lưng lão, trên tầng lầu trên, Thiếu tá Shikin, sĩ quan an ninh của Viện, đã dùng con dao bỏ túi cạy tấm hình ra khỏi bản danh sách nhân viên danh dự của Viện.

                Người thứ hai là Altynov. Lão này không phải là một khoa học gia nổi tiếng, lão chỉ là một chuyên viên làm những công tác khoa học như buôn bán kiếm lời. Cũng giống như trường hợp của Giáo sư Knyazhetsky, Altynov từng ở hết hạn tù và nhờ thành tích đạt được trong thời gian phục vụ trong tù, lão được cho làm nhân viên tự do đến làm việc ở Viện Mavrino. Bề ngoài Altynov có vẻ ham lam và hơi ngu nhưng lão hơn người ở điểm lo xa và nhất là lão nghi ngờ. Lão nghi rằng người ta có thể sẽ không để cho lão được yên ổn sống nốt những năm còn lại trong nhà lão. Lão bèn giả vờ đau tim. Khi Luật Củng cố hậu phương được ban hành sau chiến tranh, lão đã nằm trong một bệnh viện chuyên trị bệnh đau tim. Lão giả vờ đau tim hữu hiệu đến nỗi bác sĩ điều trị cho lão đều hết hy vọng cứu sống được lão. Và lão cứ sống vật vờ mãi cho đến bây giờ.

                Và Yakanov, đoạn đời trước đen tói vì thời gian ở tù, đoạn đời sắp đến đen vì tội phá hoại. Cả dĩ vãng và tương lai y đều khốn khổ.

                Hố thẳm tù đày vừa lên tiếng kêu gọi y trở lại.

                ...

                Yakanov đi qua bãi đất trống nhưng y vẫn không biết la y đi đâu, đến đâu, y cũng không nhận thấy mặt đất thoải dốc và y đang vất vả lần bước lên dốc. Sau cùng, y phải đứng lại vì hụt hơi. Hai chân y mỏi, hai cổ chân y nhức nhối vì mặt đất không được phẳng.

                Đứng trên đỉnh cao nơi y vừa trèo lên, giờ đây Yakanov mới phóng tầm mắt nhìn ra chung quanh. Mắt y bây giờ mới ghi nhận cảnh vật và mới tìm hiểu nơi này là nơi nào.

                Trong khoảng thời gian một tiếng đồng hồ vừa qua kể từ lúc y ra khỏi xe hơi, đêm đã lạnh hơn và đêm đã gần hoàn toàn trôi qua. Sương mù đã bắt đầu tan và tan đi rất mau. Mặt đất dưới chân y đầy những mảnh gạch vụn đá nhỏ, thủy tinh vỡ, gần chỗ y đứng có một căn nhà gỗ nhỏ xíu. Bên dưới là một hàng rào gỗ vây quanh khu đất chưa được khởi công xây cất. Không có tuyết rơi nhưng tất cả đều nằm dưới một làn băng mỏng.

                Trên ngọn đồi trung tâm quá gần thành phố này, ngọn đồi có nhiều dấu vết của sự tàn phá, y nhận thấy có những bực đá trắng sót lại của một lối đi bằng đá. Y lẩm nhẩm đếm. Có bảy bực thang đá tất cả.

                Ký ức của Yakanov gợi lên một ghi nhớ mơ hồ nào đó khi y nhận thấy những bực thang đá trắng trên lưng đồi xác xơ. Y đi tới và bước lên những bực đá, tâm trí vẫn hoang mang chưa nhớ đây là đâu và tại sao y lại có vẻ quan thuộc với những bậc đá này. Y đi lên, đi lên mãi và sau cùng, y thấy một tòa nhà ẩn hiện trong màn sương và bóng tối. Tòa nhà có hình thể thật lạ. Tòa nhà như đã đổ nát, hoang tàn nhưng vẫn còn giữ nguyên được hình thể bên ngoài.

                Phải chăng đây là một nơi đổ nát vì trúng bom đạn trong thời chiến tranh? Chắc không phải. Chiến tranh đã qua lâu rồi. Tất cả những nơi bị bom đạn tàn phá trong thủ đô này đều đã được xây cất lại. Nơi này dường như bị tàn phá vì một cái gì khác bom đạn.

                Một thềm đá lớn ngăn cách những bậc thang đá Yakanov vừa đi qua với những bậc thang khác. Rồi khối đá lù lù che tầm mắt y. Những bậc đá trên cao này dẫn tới cửa tòa nhà như lối dẫn lên cửa một nhà thờ.

                Yakanov tới trước một khung cửa sắt lớn. Cửa sắt đóng kín, gạch đá vụn chặn kín dưới ch ân cửa cao tới nửa thước.

                Đúng rồi, đúng rồi, Yakanov đã nhớ ra đây là đâu. Y nhìn quanh để kiểm soát lại. Dòng sông dưới kia nằm như một đường sáng lượn vòng, chìm mất dưới chân cầu và chảy mãi, chảy xuôi về điện Kremlin.

                Nhưng còn tháp chuông? Không thấy có tháp chuông. Những tảng đá xếp đống này? Phải chăng đây là những gì còn sót lại của tháp chuông ngày xưa?

                Hai mắt Yakanov bỗng nong nóng, cay cay, như khi y chảy nước mắt. Y nhận ra, y nhớ lại và toàn thân y bủn rủn.

                Yakanov nhè nhẹ ngồi xuống bậc đá ở trước cửa nhà thờ.

                Trước đây hai mươi hai năm có lần y đã ngồi trên thềm đá này với một người thiếu nữ tên là Angiya.







                [1]Zhelyabov và Perovskaya là hai người sinh viên trẻ tuổi đã tình nguyện ôm bom đi ám sát Nga hoàng Alexander Đệ nhị. Hành động này mở đầu cho cuộc Cách mạng của dân Nga chống lại chế độ quân chủ. Zhelyabov và Perovskaya cùng nhiều người khác trong nhóm sau đó bị bắt và bị xử tử. Khi ôm bom từ bên đường chạy ra ném vào xe của Nga Hoàng. Hai người trẻ tuổi trên đây hô lớn câu: “Giết tên độc tài”.
                Alexander Đệ nhị, Nga Hoàng, trị vì từ năm 1855 đến 1881.
                [2]Đây chỉ là chuyện xảy ra trong những giáo đường ở Nga Xô.
                #23
                  CTT 09.09.2008 21:49:30 (permalink)

                  24. Việc làm của ông trung tá

                  Trung tá Klimentiev có những sợi tóc đen nhánh như than đá, như nước sơn đen được sơn lên sắt, những sợi tóc ấy nằm phẳng trên đầu y, chia ra làm hai phần, bộ ria tròn dưới mũi y trông như được bôi mỡ. Bụng y chưa to và tuy đã bốn mươi nhăm tuổi, Klimentiev vẫn đi đứng như một quân nhân trẻ tuổi, thân thể cuộc đời, quắc thước. Trong giờ làm việc không bao giờ y cười hoặc mỉm cười, bộ mặt rầu rầu, u ám của y vì thế lại càng thêm nặng nề.

                  Tuy hôm nay là ngày Chủ nhật, y đến Viện còn sớm hơn ngày thường. Y đi ngang sang sân vận động trong lúc đám tù nhân đang giờ đi lại trong sân. Chỉ cần liếc mắt nhìn qua một cái, y đã ghi nhận hết tất cả những vi phạm. Nhưng việc can thiệp ngay vào những vi phạm của bọn tù nhân không phải là việc xứng đáng với cấp bậc của y, Klimentiev đi thẳng vào tòa nhà chính và vừa đi y vừa ra lệnh cho Trung úy Nadelashin đi gọi tù nhân Nerzhin đến trình diện y, cả Nadelashin cũng phải đến văn phòng gặp y nữa. Trong lúc đi qua sân, y nhận thấy rằng có nhiều tù nhân đi trước y bước vội hơn và nhiều tù nhân khác ở ngang đường y đi bước chậm lại hơn hoặc là đổi hướng đi. Y biết họ làm thế để khỏi phải chào y, y biết nhưng vẫn lạnh lùng, vẫn không cho đó là một chuyện đáng để y bực bội. Y biết sở dĩ những tù nhân có thái độ đó là vì càng thèm thuồng địa vị của y, phần lớn là vì chúng bối rối, ngượng nghịu trước những người bạn tù của chúng, chúng không muốn tỏ ra hèn hạ, nịnh bợ. Gần như bất cứ tù nhân nào cũng tỏ ra hòa nhã, thân thiện với y khi được gọi riêng tới văn phòng y, nhiều tên còn năn nỉ, xin xỏ đặc ân nữa. Có nhiều hạng người ở trong tù và giá trị của họ khác nhau xa. Klimentiev đã hiểu như thế từ lâu rồi, y tôn trọng quyền tự kiêu của những tù nhân, y giữ vững quyền của y là bắt tất cả phải giữ đúng luật lệ. Là một quân nhân thuần túy, y tin rằng y đem đến cho nhà tù Mavrino một kỷ luật – không phải thứ kỷ luật làm cho con người mất phẩm giá mà là thứ kỷ luật chính đáng của quân đội.

                  Y mở cửa văn phòng. Trong phòng đầy hơi nóng và máy sưởi điện tỏa ra một thứ mùi sơn cháy khó ngửi. Người Trung tá mở khung thông hơi trên cánh cửa sổ, cởi áo khoác ngoài xuống ghế, thân hình vạm vỡ của y làm chật căng bộ quân phục, và y cúi nhìn mặt bàn bừa bộn giấy tờ. Tờ lịch ngày thứ Bảy trên tập lịch để bàn vẫn chưa được lật qua. Trên trang lịch đó có ghi hàng chữ:

                  "Cây Mùa Xuân?"

                  Trong văn phòng trơ trụi này, nơi vật duy nhất có công dụng là cái tủ sắt đựng hồ sơ lý lịch của tù nhân, nửa tá ghế, một máy điện thoại và một ổ máy nhấn chuông gọi. Đó là nơi mà Trung tá Klimentiev – không cần có dụng cụ gì khác – kiểm soát, điều động cuộc sống của 281 người và việc làm của 50 giám thị đề lao.

                  Mặc dù sự kiện y đến làm việc ngày Chủ nhật – y sẽ được nghỉ trọn một ngày trong tuần – và y đến sớm hơn giờ hành chánh nửa tiếng, Klimentiev vẫn không để lạc tác phong làm việc đúng đắn thường ngày của y.

                  Trung úy Nadelashin đứng trước mặt y với vẻ bối rối, sợ hãi thấy rõ. Trên hai gò má phính phính của Nadelashin hiện ra hai vết tròn đỏ. Gã sợ bị Trung tá này tuy rằng chưa bao giờ Klimentiev ghi những sơ suất, lỗi lầm quá nhiều của gã vào hồ sơ riêng. Nadelashin mặt tròn lố bịch, quê kệch, không có qua một vẻ quân nhân nào, cố gắng tỏ ra thoải mái mà không được.

                  Nadelashin báo cáo rằng đêm trực của gã đêm qua đã trôi qua trong trật tự hoàn toàn, không có qua một vi phạm nào nhưng có hai sự kiện lạ đã xảy ra. Một sự kiện đã được gã viết thành báo cáo. Đã đặt tờ báo cáo lên góc bàn và lập tức tờ giấy bay xuống đất, lượn vòng và chui vào gầm ghế. Nadelashin vội vã đuổi theo, chổng mông lên lượm tờ giấy đem trở lại bàn. Sự kiện đáng kể thứ hai là hai tù nhân Bobynin và Pryanchikov được gọi về Tổng Bộ An ninh trong đêm qua.

                  Ông Trung tá An ninh nhếch lông mày khi hỏi viên Trung úy những chi tiết về việc hai tù nhân được gọi đi và trả về. Tin này là một tin không những là không vui mà lại còn chứa đựng đe dọa nguy hiểm nữa. Người phụ trách vấn đề an ninh trong nhà tù đặc biệt này như lúc nào cũng ngồi trên miệng núi lửa – lúc nào cũng ở ngay dưới lỗ mũi của ông Tổng trưởng. Nơi đây không phải là một nhà tù ở một khu rừng xa xôi nào đó, nơi người sĩ quan chỉ huy có thể có cả một tiểu đội vợ bé và muốn làm gì thì làm như một lãnh chúa. Ở đây người ta phải theo đúng luật lệ và không bao giờ được hành động theo sự giận dữ hay theo lòng thương hại. Nhưng chính Klimentiev lại là loại người không bao giờ để cho việc làm của y bị ảnh hưởng bởi giận dữ hay thương hại, y không sợ rằng hai tù nhân Bobynin và Pryanchikov có thể than phiền với cấp trên về những hành động trái luật của y. Sau một thời gian hành nghề lâu năm kinh nghiệm sống cho Klimentiev thấy rằng y không có gì phải sợ những tù nhân, những người làm hại y đều là những bọn đồng nghiệp của y.

                  Sau đó Klimentiev nhìn xuống bản báo cáo của Nadelashin và thấy ngay cả bản viết này chỉ là một cái gì ngớ ngẩn, ngu ngốc. Y bắt đầu khiển trách Nadelashin. Y nhớ lại tất cả những lỗi lầm mà Nadelashin đã phạm trong thời gian vừa qua, như chuyện buổi sáng để cho bọn tù đi chậm mất hai phút để cho rất nhiều chiếc giường của bọn tù trong tình trạng bê bối không ngăn nắp, Nadelashin không bao giờ tỏ ra đủ cứng rắn cần thiết để có thể gọi những tên tù làm giường không cẩn thận trở lại, bắt chúng làm lại giường của chúng cho thật ngay ngắn. Y từng nhiều lần nói với Nadelashin về vấn đề này nhưng y chỉ mất công vô ích. Và có những chuyện gì đã xảy ra trong buổi tập thể dục sáng nay? Gã Doronin đứng ngay trên ranh cấm của sân tập, nhìn vào khu đất cấm, nơi gã nhìn là một vùng đất hoang rất tiện cho một cuộc vượt ngục. Và án tù của Doronin là hai mươi lăm năm, hồ sơ của hắn có ghi tội giả mạo giấy tờ và từng bị tầm nã trên khắp Liên bang trong hai năm trời. Vậy mà không một ai bắt hắn phải đi vào hàng. Lại còn tên Rerasimovich nữa. Tên này không đi trong hàng như mọi người mà lại một mình đi lững thững về phía nhà máy điện sau hàng cây sồi. Và Gerasimovich phạm tội gì? Hắn đang sống hạn tù thứ hai – hắn bị bắt vì vi phạm điều 58, khoản IA, liên can đến điều 19. Nói cách khác, hắn bị tù vì tội phản nghịch của hắn cũng không sao chứng minh được rằng hắn tới Leningrad trong những ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh không phải là để chờ đợi bọn Đức Quốc Xã. Phải chăng Nadelashin đã quên rằng bổn phận của một sĩ quan an ninh là phải luôn luôn xem hồ sơ của tù nhân và luôn luôn kiểm soát những hành động của tù nhân? Và sau cùng, đồng chí bận quân phục bê bối như vầy mà đồng chí được coi ư? Áo đồng chí sộc sệch – Nadelashin vội kéo lại vạt áo. Ngôi sao trên mũ đồng chí lệch – Nadelashin vội sửa lại. Đồng chí chào yếu xìu như một bà già. Vì đồng chí bê bối như vậy nên bọn tù coi thường đồng chí, chúng không chịu làm giường mền ngay ngắn khi chúng thấy đồng chí trực nhật. Để giường mền không ngay ngắn là một đe dọa nguy hiểm cho kỷ luật chung của nhà tù. Hôm nay chúng không chịu làm giường, ngày mai chúng sẽ từ chối làm việc.

                  Sau đó Trung tá Klimentiev cho lệnh tập hợp những viên giám thị sắp đưa tù nhân đi gặp thân nhân vào phòng họp để nhận chỉ thị. Nerzhin được để đứng chờ ngoài hành lang. Nadelashin được phép ra khỏi phòng.

                  Trung úy Nadelashin cảm thấy tinh thần gã xuống thấp. Gã rầu rĩ và hối hận nhiều mỗi lần hắn bị khiển trách, gã nhận rằng những gì cấp trên nhận xét về gã đều đúng và gã tự hứa nhất định sẽ không vi phạm những lỗi lầm ấy nữa. Nhưng rồi công việc bắt buộc gã phải tiếp xúc với những tù nhân kéo gã đi theo ý muốn của họ, tù nhân nào cũng thèm khát được hưởng một chút tự do, và Nadelashin không sao từ chối được. Gã chỉ còn hy vọng rằng những nhượng bộ của gã cho tù nhân không bị cấp trên phát giác.

                  Klimentiev rút cây bút ra gạch bỏ hàng chữ "Cây Mùa Xuân" trên tờ lịch đi. Hôm qua y đã quyết định về vấn đề này.

                  Trong những nhà tù đặc biệt này chưa từng bao giờ có Cây Mùa Xuân. Klimentiev nhớ rằng chưa từng bao giờ có một phép lạ như thế xảy ra. Nhưng năm nay, ở đây, một số đông tù nhân – những tù nhân có giá, được trọng nể – nhất định đòi họ phải có Cây Mùa Xuân. Và thoạt đầu, Klimentiev nghĩ: tại sao lại không cho phép họ có một Cây Mùa Xuân? Tù nhân có Cây Mùa Xuân thì đã sao? Hại gì? Không thể có chuyện xảy ra hỏa hoạn vì chạm điện rồi, ở đây toàn là những kỹ sư điện và giáo sư điện khí. Trong đêm cuối năm, một Cây Mùa Xuân sẽ quan trọng và cần thiết cho các tù nhân, nhất là khi tất cả những nhân viên tự do đều về vui chơi ở Mạc Tư Khoa, cuộc kiểm soát ở đây sẽ lỏng lẻo vì thiếu nhân viên. Klimentiev biết rằng đêm cuối năm là đêm khổ sở nhất cho những kẻ bị tù, trong đêm ấy rất có thể có những tù nhân làm những hành động cuồng dại và vô vọng. Vì vậy đêm qua y đã gọi điện thoại về Bộ để hỏi ý kiến thượng cấp của y về việc cho những nhà tù có điều cấm tù nhân không được dùng nhạc khí, nhưng họ tìm mãi không thấy điều luật nào nói về Cây Mùa Xuân. Vì vậy mặc dù họ không chính thức chấp nhận cho tù nhân làm Cây Mùa Xuân, họ cũng không ra mặt cấm. Kinh nghiệm và sự khôn ngoan sáng suốt cho Trung tá Klimentiev biết y phải làm sao trong trường hợp này. Đêm qua, trong khi ngồi xe điện ngầm để về nhà, y đã quyết định: được rồi, cho họ làm Cây Mùa Xuân.

                  Trên đường đi vào trạm xe điện ngầm, Klimentiev đã nghĩ ngợi về y với sự hài lòng. Y thấy y là một người thông minh, một người có khả năng quyết định công việc không cần cấp trên phải bảo. Y không phải là một viên chức ngu ngốc không có sáng kiến, y còn là một người tốt nữa, nhưng bọn tù sẽ không bao giờ biết y là một người tốt, chúng sẽ không bao giờ biết rằng vì ai chúng có Cây Mùa Xuân, ai muốn cho chúng có Cây Mùa Xuân, ai không muốn.

                  Chính vì cảm nghĩ mình là một người tốt nên Klimentiev không len lỏi chen vào toa xe điện như những thị dân Mạc Tư Khoa vội vã về nhà và muốn chiếm chỗ ngồi trong xe, y để cho mọi người vào trước và y là người cuối cùng bước vào toa xe trước khi cánh cửa đóng lại. Không tìm ghế ngồi, y đứng vịn cánh tay vào cột và nhìn khuôn mặt cương nghị, can đảm của y phản chiếu trên làn kiếng cửa sổ toa xe, sau làn kiếng ấy là hầm tối và những ống hơi, những dây điện chạy dài vô tận. Rồi y rời mắt nhìn về một thiếu phụ ngồi gần chỗ y đứng. Thiếu phụ này ăn bận gọn ghẽ, đàng hoàng nhưng không đắt tiền, chiếc áo đen nàng bận thuộc loại hàng nhân tạo, vai nàng choàng chiếc khăn cũng bằng thứ hàng này. Một chiếc cặp da đặt ngay ngắn trên hai đùi nàng, Klimentiev nghĩ rằng khuôn mặt nàng khá xinh, dễ thương nhưng mệt mỏi, và vẻ mặt nàng có một cái gì khác với những thiếu phụ hãy còn trẻ khác, nàng có vẻ như không hề chú ý gì đến những chuyện xảy ra quanh nàng.

                  Đúng lúc Klimentiev đang nhìn nàng, người thiếu phu ngước mắt lên và mắt nàng bắt gặp mắt y. Hai người nhìn nhau với những đôi mắt vô hồn, vô tình cảm như những kẻ đi tàu, đi xe tình cờ nhìn nhau trong khoảnh khắc thời gian nào đó. Rồi khi đôi mắt người thiếu phụ chớp chớp như để dò hỏi, Klimentiev, nhờ thói quen nghề nghiệp, đã nhớ lại được mặt nàng. Y biết nàng là ai và y không sao dấu nổi vẻ y biết nàng là ai. Về phần người thiếu phụ, nàng nhìn thấy vẻ do dự của Klimentiev và nàng biết rằng nàng đã đoán đúng.

                  Người thiếu phụ này là vợ của tù nhân Nerzhin. Klimentiev từng nhìn thấy nàng khi nàng đến thăm chồng ở nhà tù Taganka.

                  Nàng nhíu đôi lông mày, đưa mắt nhìn đi, rồi lại nhìn trở lại mặt Klimentiev. Bây giờ Klimentiev nhìn qua cửa toa ra đường hầm nhưng ở góc mắt y, y cảm biết là người thiếu phụ đang nhìn y. Rồi nàng đứng dậy và với một vẻ quả quyết thấy rõ, nàng đi tới chỗ Klimentiev. Y bắt buộc phải quay lại nhìn nàng.

                  Nàng đứng lên với sự quả quyết nhưng vừa rời khỏi chỗ ngồi, vẻ quả quyết của nàng tan rã ngay và nàng trở thành bối rối, ngần ngại, do dự, mặc dù có cái cặp da nặng trên tay, nàng có vẻ như người đứng dậy để nhường chỗ ngồi cho ông Trung tá đứng trước mặt nàng. Trên đầu nàng treo nặng cái số phận không may của những người vợ những tù nhân chính trị – vợ của những kẻ bị coi là kẻ thù nhân dân, dù rằng những người đàn bà này làm gì, đi đâu, ở đâu, một khi người ta biết họ là vợ những chính trị phạm đang bị tù họ cũng như kéo theo cái xấu xa ghê gớm của chồng họ. Trước mắt mọi người, họ cùng chịu chung tình trạng khốn nạn của những kẻ bất lương mà họ đã dại dột lỡ trao thân, gửi phận. Và những người đàn bà khốn khổ này cảm thấy họ có tội thực sự, họ đáng bị khinh bỉ thực sự trong khi người chồng họ, những kẻ thù đích thực của nhân dân, vì chỉ sống ở trong tù, không cảm thấy.

                  Đứng ngay trước mặt Klimentiev để cho y có thể nghe được tiếng mình nói trên tiếng động của con tàu, người thiếu phụ cất tiếng:

                  "Đồng chí Trung tá… Xin tha lỗi cho tôi… Ông là vị chỉ huy chồng tôi, phải không ạ?"

                  Trong nhiều năm sống với chức vụ sĩ quan an ninh nhà tù, Klimentiev từng thấy đủ các hạng đàn bà đứng trước mặt y, và y không thấy có gì lạ trong vẻ sợ hãi, do dự, bối rối của họ. Nhưng trong lòng con tàu này, giữa mọi người và trước mắt mọi người, mặc dù người thiếu phụ này tỏ ra thận trọng, vẻ sợ hãi van xin của nàng cũng là một cái gì lạc chỗ.

                  "Ngồi xuống chứ… Sao lại đứng lên? Ngồi đi".

                  Klimentiev bối rối nói. Y muốn nắm tay áo người thiếu phụ, đưa nàng trở lại chỗ ngồi, nhưng nàng nói:

                  "Thưa… không sao…"

                  Người thiếu phụ lùi xa hơn một chút để Klimentiev khỏi nắm được tay áo nàng, nàng nhìn vào mặt y, đôi mắt nàng biểu lộ một ý van xin mạnh mẽ gần như là cuồng dại:

                  "Trung tá làm ơn cho tôi biết… tại sao gần một năm nay tôi không được thăm chồng tôi? Tại sao vợ chồng tôi không được gặp nhau? Bao giờ tôi được gặp? Xin cho biết…"

                  Có một sự ngẫu nhiên vừa xảy ra, lạ lùng như là một hạt cát tình cờ bay trúng một hạt cát khác nằm cách xa cả trăm thước: vừa mới tuần trước đây Cơ quan MGB phụ trách an ninh nhà tù vừa mới cho phép một số tù nhân được quyền gặp vợ con, cha mẹ, trong số tù nhân này có Gleb Nerzhin, chồng của người thiếu phụ này. Gleb Nerzhin sẽ được gặp mặt trong ngày Chủ nhật 25 tháng Chạp ở nhà tù Lefortovo. Nhưng cùng với giấy phép này, những thượng cấp của Klimentiev còn ghi lệnh cuộc thăm viếng không được "niêm yết" và tù nhân không được tự mình báo tin về cho vợ, tù nhân phải cho ban quản đốc biết địa chỉ của vợ và ban quản đốc sẽ gửi thư đến địa chỉ đó báo cho người đàn bà biết.

                  Nerzhin đã được Klimentiev gọi vào văn phòng để hỏi địa chỉ của vợ hắn, nhưng Nerzhin nói là hắn không biết. Kinh nghiệm cho Klimentiev biết rằng Nerzhin không muốn tiết lộ địa chỉ của vợ vì hắn không muốn làm hại vợ hắn. Bởi vì một khi thư gọi của nhà tù gửi đến, tất cả những người sống quanh vợ tù nhân sẽ biết và tự nhiên, họ sẽ tẩy chay người vợ tù nhân. Không một tù nhân nào muốn cho vợ con còn sống ở ngoài rơi vào cảnh bị tẩy chay, bị nghi ngờ, khinh bỉ ấy.

                  Khi Nerzhin nói rằng hắn không biết địa chỉ của vợ, Klimentiev nói rằng nếu không biết, hắn sẽ không được gặp vợ hắn. Và Klimentiev đã quyết định gạch tên Gleb Nerzhin khỏi bản danh sách những tù nhân được gặp vợ trong ngày Chủ nhật này.

                  Và giờ đây, sự tình cờ dàn xếp cho Klimentiev gặp người vợ của Nerzhin trong toa xe điện ngầm đang chạy. Nàng đang đứng bối rối trước mặt y và những kẻ khác đang chú ý nhìn họ.

                  "Chị được phép thăm nhưng chị phải cho chúng tôi biết địa chỉ" – Klimentiev nói lớn để người thiếu phụ có thể nghe rõ được tiếng y trên tiếng động của con tàu đang di chuyển – "Lệnh thăm không được niêm yết".

                  "Nhưng tôi sắp phải đi xa" – nét mặt người thiếu phụ trở nên linh động, tràn đầy hy vọng bất ngờ, nàng nói lớn – "Tôi sắp phải đi xa. Tôi không có địa chỉ nhất định".

                  Klimentiev nghĩ rằng nàng nói dối. Y tính đến trạm tới y sẽ tới toa tàu và nếu người thiếu phụ này theo y, trong khung cảnh tương đối vắng vẻ của trạm xe buổi tối y sẽ giải thích cho nàng hiểu rằng y không thể tiếp chuyện nàng ở ngoài đường như thế này, muốn hỏi gì về chồng nàng, nàng phải làm đơn gửi về Bộ An ninh.

                  Trong khi đó người vợ của tù nhân Gleb Nerzhin, kẻ thù của nhân dân, như quên tư cách đáng khinh của mình, nàng nhìn thẳng vào mặt viên Trung tá và đôi mắt nàng lúc đó là đôi mắt sôi nổi nồng nàn, đòi hỏi, đó là đôi mắt của một người bất mãn khi thấy quyền lợi của mình không được tôn trọng. Klimentiev ngạc nhiên vì ánh mắt ấy. Y tự hỏi không biết có một sức mạnh gì đã buộc chặt người đàn bà này vào gã đàn ông tù nhân kia, có sức mạnh nào đã làm cho nàng mù quáng hy vọng chờ đợi được đoàn tụ với người chồng mà nàng đã phải sống xa không biết bao nhiêu năm, với những chồng chỉ đem đến cho đời nàng những bi thảm, những chồng có thể tàn phá cả đời nàng.

                  "Tôi cần được gặp chồng tôi. Tôi cần lắm…"

                  Nàng nói, đôi mắt mở lớn, như nàng cần làm cho Klimentiev tin rằng nàng cần gặp chồng nàng.

                  Klimentiev nhớ lại tờ chỉ thị về luật mới quy định việc tù nhân được thăm viếng nằm trên bàn giấy y, theo chỉ thị này, những người vợ nào không chịu khai địa chỉ sẽ không bao giờ được phép thăm chồng. Nhưng nếu sáng mai đây người thiếu phụ này đến nhà tù Lefortovo, nàng có thể tình cờ được gặp chồng nàng ở đấy, sẽ không ai biết rằng Trung tá An ninh Klimentiev là người báo tin ấy cho nàng.

                  Con tàu điện bắt đầu chạy chậm lại.

                  Nhiều ý nghĩ mâu thuẫn theo đuổi nhau đến trong óc Trung tá Klimentiev. Y nhớ lại lỗi lầm y đã mắc phải trong thời gian chỉ vì sự tốt bụng, chỉ vì lòng thương người, y biết rõ hơn bất cứ ai và y thường khuyên những thuộc viên của y không bao giờ được hành động theo tình cảm, một sĩ quan an ninh chỉ biết có luật lệ, sĩ quan an ninh không có tình cảm. Nhưng khi con tàu dừng lại trước trạm xe bằng đá trắng, Klimentiev nói với người thiếu phụ:

                  "Chị được phép gặp vào ngày mai. 10 giờ sáng mai".

                  Y không nói ra những tiếng "nhà tù Lefortovo" vì đám hành khách đã đứng vây quanh y chờ đi ra cửa xe, y chỉ hỏi mơ hồ nhưng y tin rằng người thiếu phụ hiểu:

                  "Chị biết Lefortovo chứ?"

                  Người thiếu phụ cuống quít gật đầu:

                  "Tôi biết… Tôi biết…"

                  Và đôi mắt nàng đang ráo hoảnh bỗng tự nhiên tràn đầy nước mắt.

                  Tránh nhìn nước mắt, tránh sự cám ơn làm y trở thành khả nghi trước mắt mọi người, Klimentiev bước vội ra khỏi toa xe. Y đứng trên sân ga lạnh chờ chuyến xe tới. Y ngạc nhiên không hiểu tại sao y lại hành động trái luật đến như thế và y bực dọc với chính y.


                  *

                  Trung tá An ninh Klimentiev cố tình để cho tù nhân Nerzhin đứng chờ thật lâu ngoài hành lang vì Nerzhin là một tên tù hỗn hào, một tên tù luôn luôn đòi áp dụng đúng luật.

                  Klimentiev tính đúng tâm trạng của Nerzhin: bị đứng chờ lâu như thế, Nerzhin sẽ tiêu tan hy vọng được gặp mặt vợ trong chuyến viếng thăm hôm nay, và càng chờ lâu chừng nào, hắn càng nghĩ rằng sắp có sự không may xảy đến cho hắn. Khi được biết rằng trong vòng một tiếng đồng hồ nữa hắn sẽ được gặp vợ, Nerzhin sẽ mừng đến không còn tự chủ được. Và đúng như Klimentiev nghĩ, Nerzhin tươi hẳn nét mặt, hắn còn nồng nhiệt cám ơn, một việc mà Klimentiev chưa từng thấy hắn làm bao giờ.

                  Trước sự vui mừng của tên tù, Trung tá Klimentiev lập tức ra chỉ thị cho tiểu đội giám thị có nhiệm vụ đưa bọn tù đến nhà tù Lefortovo hôm nay.

                  Y nhắc lại với tiểu đội giám thị nhiều điều quan trọng, trong đó điều đáng kể nhất là nhấn mạnh cho họ nhớ lại tinh thần ngoan cố của bọn tội phạm: chúng sẽ lợi dụng cuộc thăm viếng này để truyền những tin tức mật ra ngoài, vợ chúng sẽ đem những tin tức có hại cho quốc gia đó đi bán cho bọn Hoa Kỳ – đa số giám thị không biết có những công tác gì đang được thực hiện trong Viện Mavrino và dễ dàng làm cho họ tin rằng chỉ một mảnh giấy nhỏ cũng đủ làm tan nát cả Liên bang Xô Viết - rồi y đọc lại cho bọn họ nhớ bản danh sách liệt kê những nơi mà bọn tù có thể giấu giếm tài liệu và họ phải khám kỹ - thực ra, những tù nhân được đi thăm đều được phát một bộ quần áo riêng, chúng chỉ được bận quần áo lành lặn này trước khi lên xe đi và khi về tới phải cởi trả lại ngay, nhưng giám thị cũng vẫn phải đề phòng. Sau đó Klimentiev chất vấn các giám thị để kiểm soát xem họ hiểu nhiệm vụ của họ đến chừng nào. Cuối cùng, y nói với họ một số tỷ dụ về các lời trao đổi giữa các tù nhân với vợ chúng để các giám thị có thể can thiệp kịp thời, cắt đứt những lời có hại. Tù nhân và vợ chỉ được phép nói toàn chuyện riêng và chuyện gia đình chúng.

                  Trung tá An ninh Klimentiev là một sĩ quan biết rành luật lệ và thích trật tự.
                  #24
                    CTT 09.09.2008 21:52:16 (permalink)
                    25. Lên cao tuyệt đỉnh

                    Giáo sư Toán học Chelnov, một ông già, là nhân vật quen thuộc của nhiều nhà tù đặc biệt như Viện Mavrino. Giáo sư Chelnov là người đã nhiều lần viết danh từ "tù nhân" để trả lời câu hỏi "quốc tịch" trong những bản khai lý lịch. Vào năm 1950, Giáo sư Chelnov hoàn thành năm tù thứ mười tám trong cuộc đời tù tội của ông, ông cũng là người từng đặt cây viết chì trong tay ông lên rất nhiều phát minh khoa học, từ việc phát minh ra máy hơi nước đến những động cơ phản lực, trong nhiều phát minh có nằm rải rác và thấp thoáng những mảnh linh hồn của ông.

                    Ở trong Viện Khoa học Mavrino, Giáo sư Chelnov là người tù duy nhất không bị bắt buộc phải bận bộ đồng phục giống kiểu quân phục của binh chủng Nhảy dù. (Vấn đề này đã được đưa lên tới tận Tổng trưởng Abakumov để xin giải quyết). Nguyên nhân chính làm cho Giáo sư Chelnov không bị bắt buộc phải ăn bận như mọi người khác ở đây là vì ông không phải là một tù nhân thường trực của Mavrino, ông chỉ là một tù nhân tạm, ông chỉ được đưa đến đây khi có việc cần đến ông, khi hết việc hoặc khi nơi khác cần đến ông hơn, ông sẽ được đưa đi nơi khác. Trong dĩ vãng, Giáo sư Chelnov từng là hội viên của Hội Khoa học gia Nhà nước và từng giữ chức Viện trưởng Viện Toán học. Hiện nay tuy bị tù, ông vẫn được đặt dưới quyền sử dụng của riêng Beria.

                    Nhưng Giáo sư Chelnov không lợi dụng đặc quyền của ông để lựa chọn y phục như những kẻ tầm thường sẽ làm khi được cái quyền ấy. Ông chỉ bận những bộ y phục rẻ tiền, màu áo với màu quần không hợp nhau, ông đi đôi giày nỉ dưới chân, đội một cái mũ len đan như mũ của những người trượt tuyết trên mái tóc bạc thưa, y phục của ông nổi bật lên với chiếc khăn lên choàng trên vai, chiếc khăn choàng vai này quá rộng, khăn phủ kín cả lưng ông như kiểu khăn choàng của những bà già nhà quê.

                    Nhưng trong cái mũ len ấy, dưới chiếc khăn choàng quê kệch ấy, Giáo sư Chelnov có một vẻ uy nghi riêng, sự hiện diện của ông bao giờ cũng làm cho người khác kính nể, không một ai dám cười ông vì chiếc khăn choàng đàn bà ấy. Khuôn mặt dài và thon của ông, những nét sắc của mắt mũi ông, thái độ đường bệ và ngôn ngữ nghiêm chỉnh của ông khi ông giao thiệp với những kẻ có quyền trong Viện, màu mắt xanh nhạt của ông – màu mắt mơ hồ mà người ta chỉ có thể nhìn thấy ở mắt những người suy nghĩ nhiều làm cho Giáo sư Chelnov giống một cách kỳ lạ với triết gia Descartes hoặc những nhà toán học thời Phục hưng ở Âu Châu
                    [1] .

                    Giáo sư Chelnov được đặc biệt gửi tới Viện Mavrino để giúp việc thực hiện giàn máy điện thoại bí mật cho Stalin. Nhưng ông không phải phụ trách riêng một việc gì cả, ông là một thứ cố vấn hướng dẫn tất cả những nhà khoa học khác. Tất cả mọi người trong Viện Mavrino đều có thể đem những thắc mắc về toán học của mình đến trình bày với Giáo sư Chelnov, ông sẽ giải thích, sẽ cho họ biết họ đúng hay sai, phát minh của họ sẽ có giá trị hay không.

                    Có thể nói là tất cả những nhà khoa học sống trong Viện Mavrino đều bận rộn với việc chế tạo giàn máy điện thọai bí mật, trừ một người. Người đó là Sologdin.

                    Kỹ sư Sologdin được tuyển từ một trại tập trung ở miền Bắc Inta đưa về Viện Mavrino. Nhưng vừa về tới Viện, Sologdin đã khai với tất cả mọi người rằng tinh thần của mình bị yếu đuối vì thời gian đau ốm, thiếu thốn vật chất dài ở trại tập trung, ký ức của mình bị quên lãng và khả năng của mình nhụt kém. Nói tóm lại, Sologdin yêu cầu được có một thời gian để phục hồi trước khi nhận công tác. Sologdin yên tâm đòi hỏi như vậy vì ở trại tập trung, anh cũng là một kỹ sư, được dùng vào xưởng máy, nếu có phải trở về trại, anh cũng không đến nỗi khổ sở, vất vả lắm.

                    Sologdin được ở lại Viện trong tình trạng chờ xem, thử thách. Tuy ngày ngày anh vẫn vào phòng nghiên cứu làm việc như mọi người nhưng anh không có trách vụ rõ rệt, việc anh làm không bị kiểm soát, thúc giục, anh ở ngoài dòng nước cuồn cuộn chảy về hướng giàn máy điện thoại bí mật cần hoàn thành gấp để dâng cho Lãnh tụ Tối cao. Và Sologdin đã thảnh thơi nhàn nhã và bí mật hoàn thành được một hệ thống phân thanh đặc biệt cần thiết cho việc chế tạo giàn máy điện thoại bí mật. Anh làm việc ban đêm cho đến nay, chưa ai trong Viện biết là anh đã thành công, anh đã nắm trong tay vật báu mà Yakanov đang mơ ước.

                    Trong thời gian nửa năm, Sologdin đã tìm được một giải pháp mà 10 kỹ sư chuyên môn khác được giao cho trách nhiệm tìm đã không ra. những kỹ sư kia không phải là bất tài hoặc tài năng kém Sologdin, họ tìm không ra chỉ vì họ bị kiểm soát vô lý và thúc giục không đúng cách. Hai ngày trước đây Sologdin đã trao phát minh của anh cho Giáo sư Chelnov để ông này kiểm soát giùm. Đây là một việc riêng giữa Sologdin và Chelnov và buổi sáng Chủ nhận này, Sologdin kính cẩn đi bên Chelnov lên cầu thang, anh thận trọng đỡ nhẹ cánh tay ông già đề phòng ông trượt chân hoặc bị đám tù nhân xô đẩy, anh đi theo ông già vào phòng nghiên cứu để nghe ông phán quyết về phát minh của anh.

                    Trên con đường đi qua những hành lang và, Giáo sư Chelnov không đả động gì đến vấn đề đang làm cho Sologdin bồi hồi, khích động, ông không nói là "được" hay "hỏng" để cho Sologdin an tâm. Ông cũng vui vẻ nói chuyện buổi sáng sớm hôm nay ông gặp Lev Rubin và Rubin đã đọc cho ông nghe bài thơ hắn mới sáng tác được về một đề tài trong Kinh Thánh. Ông công nhận vần điệu của bài thơ không đến nỗi dở lắm xong tinh thần của đề tài, theo ông, không được chỉnh mấy. Bài thơ diễn tả lại việc Moses đưa đám dân Do Thái đi qua sa mạc trong bốn mươi năm, chịu đói khát, khổ ải, thiếu thốn đủ thứ, vì vậy đám dân nổi điên vì tuyệt vọng và chống lại Moses, nhưng họ sai và Moses đúng, vì cuối cùng Moses vẫn dẫn họ được tới vùng đất hứa ở đó tất cả mọi người đều sung sướng. Rubin có vẻ đã đặt hết tâm hồn của hắn vào bài thơ này.

                    Nhưng Giáo sư Chelnov không đồng ý với Rubin về sự quả quyết là Moses đã hành động đúng. Ông nhắc cho Rubin nhớ về điều kiện địa dư của chuyến đi ấy. Từ sông Nil tới Jerusalem đoàn người Do Thái chỉ phải đi có 250 dặm đường, điều này có nghĩa là dù cho họ có nghỉ đi trong những ngày Sabbath, họ cũng chỉ phải đi nhiều lắm là ba tuần lễ. Vậy mà Mosses đã dẫn họ đi mất hết 40 năm. Đó là một sự quá đáng. Nếu Moses không lầm lẫn đưa họ đi quanh quẩn trong sa mạc thì đó là vì Moses cố ý không muốn cho họ đến ngay nơi họ muốn đến. Và thời gian quá đáng này là một nghi vấn về thiện chí của Moses
                    [2] .

                    Giáo sư Chelnov lấy chìa khóa mở cửa phòng làm việc của ông ở bàn giấy của người sĩ quan trực ngồi trước cửa văn phòng Yakanov. Trong số những tù nhân ở đây chỉ có ông và Mặt Nạ Sắt, tức Mamurin, được đặc quyền này. (Không một tù nhân nào được quyền có mặt nửa phút trong phòng nghiên cứu khi không có sự kiểm soát của một nhân viên tự do, người ta phải thận trọng như thế bởi vì tù nhân có thể lợi dụng phút không bị kiểm soát này để mở tủ sắt bằng chìa khóa giả, chụp hình những tài liệu mật bằng một cái nút quần, cho nổ một trái bom nguyên tử rồi bay thẳng lên mặt trăng).

                    Chelnov làm việc trong một căn phòng được gọi là "Bộ Óc", nơi đồ đạc chỉ vỏn vẹn có một cái tủ áo bằng gỗ và hai cái ghế trơ trọi. Người ta phải xin lệnh của Tổng Bộ An ninh để có thể phát cho Giáo sư Chelnov một chìa khóa riêng để ra vô phòng này. Kể từ ngày đó căn phòng này là một vấn đề làm cho sĩ quan An ninh Shikin mất ăn, mất ngủ. Đêm khuya, khi bọn tù đều bị nhốt chặt trong phòng giam sau nhiều lớp cửa sắt, Shikin từng nhiều lần vào căn phòng này mò mẫm, lục lọi, y gõ lên vách, sờ soạng trên những khe ván sàn phòng nhìn vào gầm tủ, vặn từng chân ghế và âu lo lắc đầu với những ý nghĩ nhất định rằng việc thượng cấp cho tù nhân được tự do đến thế này chỉ có hại chứ không có lợi.

                    Nhưng Giáo sư Chelnov không phải chỉ lấy được chìa khóa là có thể vào được căn phòng nhỏ này. Ông còn phải đi qua một trạm kiểm soát trên hành lang. Đi qua trạm này là vào khu gọi là Tối Mật. Trạm kiểm soát gồm một cái chòi gỗ như chòi canh của lính gác cửa, trong đặt một cái bàn, trên bàn là một máy điện thoại và sau bàn có một nữ kiểm soát viên ngồi hỏi giấy phép. Giấy phép ra vô khu Tối Mật này do Tổng Bộ An ninh cấp phát, gồm ba loại: giấy phép thường trực, giấy phép tuần và giấy phép một kỳ. Việc phân loại giấy phép này là do sáng kiến đề nghị của Thiếu tá An ninh Shikin.

                    Mặc dù Giáo sư Chelnov biết rõ người kiểm soát ngồi đó là Marya Ivanovna và chị này xem giấy phép của ông mỗi buổi sáng, khi ông đi tới, chị này vẫn nghiêm trọng hỏi:

                    "Giấy phép?"

                    Chelnov xuất trình giấy phép thường trực in trên miếng giấy dày và Sologdin xuất trình giấy phép tuần in trên tờ giấy mỏng.

                    Hai người đi qua trạm kiểm soát, qua hai khung cửa nữa, và Chelnov mở khóa cửa văn phòng làm việc riêng của ông.

                    Phòng này ấm cúng, gọn ghẽ, sạch sẽ với một khung cửa sổ nhìn xuống sân tập thể dục của tù nhân, nhìn xa ra hàng cây sồi cổ thụ vòm lá đọng sương đêm kết lại thành băng trắng xóa.

                    Một bầu trời trắng xám phủ trên trái đất.

                    Ở bên trái hàng cây sồi, ngoài vùng cấm, có một căn nhà gỗ rất xưa, những vách gỗ của căn nhà này đã chuyển thành xám vì thời gian và giờ đây trắng như vôi. Căn nhà có hai từng lầu và mái nhà lợp tôn trông giống như một chiếc thuyền. Trước đây nhiều năm người chủ khu đất này từng sống trong căn nhà gỗ đó. Xa kia là những mái nhà thấp của làng Mavrino, rồi đến một cánh đồng, rồi xa nữa là đường xe hỏa chạy về Mạc Tư Khoa. Vào lúc này ở trên đường xe hỏa đó có một làn khói trắng từ một đầu tàu bốc lên – đứng trong khung cửa sổ này người ta không thể nhìn thấy con tàu và đường tàu.

                    Nhưng Sologdin không để ý gì đến cảnh vật dàn trải trước mắt anh. Mặc dù được mời, anh cũng vẫn không ngồi xuống ghế. Khoẻ khoắn với cảm giác biết chắc là hai chân mình còn trẻ, còn mạnh, anh đứng dựa vai lên thành cửa sổ và nhìn lên tập giấy của anh đặt trên mặt bàn của Chelnov.

                    Chelnov ngồi xuống cái ghế có thành dựa cao, sửa lại chiếc khăn choàng lên vai, mở quyển sổ ghi đến trang chết, cầm cây bút chì lên và nghiêm trọng nhìn Sologdin. Giọng nói thân mật, nhẹ nhàng vừa qua đã hoàn toàn biến mất.

                    Sologdin có cảm tưởng như anh nghe thấy tiếng gió lộng trong phòng, như có những chiếc cánh lớn của một loài chim khổng lồ nào đó đang bay quanh anh. Giáo sư Chelnov chỉ nói trong có hai phút, nhưng những gì ông nói ra quan trọng và chính xác đến nỗi Sologdin phải nín thở để nghe. Chelnov đã làm cho Sologdin nhiều hơn điều mà Sologdin yêu cầu ông làm giùm. Không những ông chỉ kiểm soát phát minh của Sologdin mà thôi, ông còn dùng toán học giải quyết cho Sologdin những rắc rối mà anh mắc phải mất cả tháng trời mò mẫm cũng chưa chắc đã giải quyết được.

                    Nói xong, như quan tòa tuyên án, Chelnov gập quyển sổ lại và ngồi im lặng.

                    Sologdin nhắm mắt như ánh sáng vừa lóa lên làm anh bị mù, anh cũng đứng ngây ra đó, không sao nói được nên lời.

                    Từ những tiếng nói đầu tiên của ông già, Sologdin đã cảm thấy một làn sóng nước nóng chảy mạnh trong cơ thể anh. Giờ đây anh phải đưa hết sức nặng của thân thể anh lên thành cửa sổ để khỏi bay lên trần nhà vì sung sướng. Sologdin thành thật nghĩ rằng anh có thể bay vọt lên trần nhà nếu anh muốn.

                    Những ý nghĩ quay cuồng như bão tố trong óc Sologdin. Điều đáng kể là anh không nghĩ đến những gì chờ đợi anh với thành công khoa học này, anh nhớ lại cá nhân anh trước ngày anh bị tù. Trước kia anh là một con người như thế nào? Chắc chắn là trước kia anh không phải là một kỹ sư. Trước kia anh chỉ là một gã trẻ tuổi thích ăn diện, lo ăn diện hơn là làm việc, cho đàn bà là quan trọng hơn tất cả trên đời. Chính là vì đàn bà mà một kẻ ghen tuông với anh cho anh đi tù.

                    Rồi anh sống ở những nhà tù Butyrskaya, Presnya, Sevurallag, Ivdellag, Kargopollag…

                    Ngay cả vào tù, anh cũng vẫn chưa hết rắc rối với đàn bà. Sologdin nhớ đến cái tên cai tù Kamyshan chuyên đánh tù nhân bằng gậy vào mồm cho gãy răng – hôm nào gã đi ngựa đến trại giam, gã đánh tù bằng roi ngựa – một nữ y tá phốp pháp thương hại Sologdin và không chịu Kamyshan. Vì chuyện này Sologdin lãnh thêm án mười năm tù vì báo cáo của tình địch Kamyshan. Anh gần chết vì chuyện này nhưng anh vẫn không oán hận gì người nữ y tá đó hết.

                    Đó là lần Sologdin bị khiêng từ tòa án xuống thẳng nhà thương. Anh hấp hối. Thân thể anh từ chối ăn uống. Anh nằm như xác chết cho đến ngày người ta khiêng anh xuống nhà xác, ở đây người ta dùng búa bổ vỡ sọ anh trước khi đem đi chôn, nhưng trên đường đi, không biết vì sao anh lại cựa quậy và ú ớ nói được lên tiếng.

                    Và bây giờ anh ở đây, bây giờ anh sắp được ra khỏi đây. Nhờ phát minh này, anh sắp được trở lại với cuộc sống tự do. Đó là một giấc mơ không thể có thật. Ông già thông thái này vừa nói những lời ca tụng ai đó chứ không phải là nói với anh.

                    Chelnov gập tờ giấy của Sologdin lại làm bốn, rồi làm tám cho đến khi nó có thể nằm gọn trong lòng bàn tay:

                    "Chú vẫn còn nhiều việc phải làm lắm" – ông nói – "Nhưng tôi có thể nói chắc rằng kiểu mẫu này là kiểu mẫu tiện lợi nhất, tối tân nhất. Nó sẽ đem tự do lại cho chú. Án tù của chú có thể được xóa bỏ".

                    Vì một nguyên nhân nào đó mà người trẻ tuổi kia không thể hiểu, khi nói đến câu này, ông già mỉm cười. Nụ cười của ông cũng sắc và thông minh như nét mặt của ông.

                    Chelnov cười vì mình chứ không cười vì Sologdin. Tuy ông từng thực hiện được nhiều việc quan trọng hơn việc của Sologdin, ông vẫn không bị đe dọa bởi chuyện được trả tự do hay không, được thủ tiêu án tù hay không. Bởi vì ông không có án tù. Lâu rồi ông đã công khai nói lên ý nghĩa của ông về Lãnh tụ Anh minh, vị Cha Hiền của Dân tộc, ông coi hắn là một con rắn độc và vì vậy, ông bị bắt đưa đi tù, không ra tòa, không có án, không hy vọng.

                    Sologdin mở cặp mắt xanh sáng rực, đừng thẳng người lên và nói một câu cứng ngắc như một kịch sĩ tập sự nói trên sân khấu:

                    "Vladimir Erastovich… ông giúp tôi rất nhiều. Ông đem lại cho tôi niềm tin và hy vọng. Tôi không biết dùng lời nào để cám ơn ông. Tôi chỉ có thể là tôi chịu ơn ông rất nặng".

                    Đưa tờ giấy gấp nhỏ trả lại cho Sologdin, như chợt nhớ ra, ông già nói:

                    "Tôi phải xin lỗi chú. Chú có yêu cầu tôi là đừng cho Yakanov nhìn thấy đồ hình kiểu mẫu này, nhưng hôm qua hắn đến phòng tôi và hắn tình cờ mở xem đúng tờ giấy này. Chú hiểu cho … tôi chỉ có thể không tự ý đưa cho hắn xem nhưng tôi không thể ngăn được hắn xem giấy tờ trên bàn tôi. Hắn nhìn và hắn hiểu ngay đây là kiểu mẫu gì. Hắn hỏi và tôi phải nói đến chú".

                    Nụ cười biến mất trên môi Sologdin. Ông già thấy người trẻ tuổi cau mặt lại. Ông ngạc nhiên:

                    "Chuyện hắn biết có gì quan trọng đâu? Trước sau gì chú cũng phải cho hắn biết…"

                    Sologdin cũng không biết rõ tại sao anh khó chịu. Anh nhìn xuống để tránh tia mắt soi mói của ông già:

                    "Tôi không biết phải nói sao… nhưng tôi chắc ông hiểu. Đây là một phát minh không có lợi cho tất cả mọi người. Tôi do dự nghĩ đến người đó dùng phát minh của tôi. Tôi không sáng tạo ra vật này với mục đích cho y dùng. Tôi chỉ làm để thử sức tôi, để chứng minh với tôi rằng tôi có thể làm được. Tôi làm cho tôi".

                    Sologdin ngẩng mặt lên.

                    Chelnov hiểu hơn ai hết câu nói của người trẻ tuổi. Làm cho mình là biểu dương cao nhất của việc nghiên cứu, tìm kiếm.

                    Nhưng ông cũng thản nhiên nói:

                    "Tôi hiểu… Xong trong trường hợp của chú, tôi sợ chú không thể nào làm theo ý chú được".

                    "Dạ…" Nụ cười sung sướng nở lại trên môi Sologdin – "Tôi xúc động nên tôi nói bậy. Xin ông đừng nghĩ ngợi gì. Tôi cám ơn, cám ơn…"

                    Anh kính cẩn nắm lấy bàn tay nhăn nheo, yếu xìu của ông già rồi cẩn thận bỏ tờ giấy vào túi, anh đi ra khỏi phòng.

                    Khi đi tới căn phòng này, anh là một người tương đối tự do, lòng anh đầy hy vọng, anh ra khỏi đây như một kẻ chiến thắng nhưng lệ thuộc quá nhiều điều kiện. Anh không còn làm chủ được ý muốn của anh, phát minh của anh.

                    Còn lại một mình trong phòng, ông già không dựa lưng lên ghế, ông ngồi thẳng người, hai mắt nhắm lại trong một lúc lâu.
                    #25
                      CTT 09.09.2008 22:17:30 (permalink)
                      26. Dấu phạt

                      Vẫn hân hoan sung sướng, Sologdin đẩy mạnh cánh cửa phòng Đồ Hình và bước vào. Nhưng thay vì cảnh đông đảo hoạt động mà anh chờ đợi trông thấy, trong căn phòng rộng sáng nay chỉ có mỗi một người đàn bà đứng bên cửa sổ.

                      "Larisa Nikolayevna… Chỉ có mình cô ở đây thôi sao?"

                      Sologdin ngạc nhiên hỏi. Anh vừa hỏi vừa rảo bước đi tới bàn làm việc của anh.

                      Larisa Nikolayevna Emina, một thiếu phụ ba mươi tuổi, nhân viên tự do và là nữ họa viên, quay lại từ cửa sổ, nàng cười với Sologdin.

                      "Dmitri Aleksandrovich…? Tôi tưởng cả sáng hôm nay tôi sẽ ngồi buồn một mình ở đây chứ…"

                      Giọng nói của nàng như chứa đựng một ý nào đó. Sologdin nhìn nàng và ánh mắt ghi nhận nhanh của anh bao bọc tấm thân nảy nở của nàng nằm trong bộ y phục bằng sợi len đan màu trắng sáng. Không trả lời nàng, anh đi thẳng tới bàn và trước khi ngồi xuống ghế, anh cầm bút vạch một nét lên tờ giấy hồng để sẵn trên bàn. Xong, đứng quay lưng về phía Emina, anh đặt một tờ giấy vẽ lên bàn vẽ của anh.

                      Phòng Đồ hình là một căn phòng rộng ở tầng lầu ba. Phòng có ba khung cửa sổ rộng mở về phía nam. Giữa những bàn viết và kệ sách thường phòng có chừng mười bàn vẽ giống như bàn vẽ của Sologdin và Emina. Bàn vẽ của Sologdin đặt hướng về cửa ra vào và ánh nắng tràn vào từ cửa sổ chan hòa trên tờ giấy gắn trên đó.

                      Sau cùng Sologdin hỏi:

                      "Sáng nay họ đi đâu hết? Sao không thấy ai đến cả?"

                      Tiếng nói trong và nhịp nhàng của người thiếu phụ vút cao:

                      "Tôi đang định hỏi anh câu ấy".

                      Sologdin quay phắt lại nhìn nàng và nói:

                      "Tôi chỉ có thể trả lời cô về bốn tên tù khốn nạn làm việc ở đây hiện đang ở đâu mà thôi. Một tên được đưa đi gặp vợ. Tên Hugo Leonardovich đang dự lễ Giáng sinh Latvia. Tôi đang trả lời có tên thứ tư Ivan Ivanovich xin được phép ngồi vá lại đôi vớ. Kể từ ngày hắn vào tù đến giờ, đôi vớ rách này là đôi vớ thứ hai mươi của hắn. Những người tôi muốn hỏi sáng nay đi đâu không đến làm việc là mười sáu nhân viên tự do, những đồng chí có tinh thần trách nhiệm và yêu công tác hơn chúng tôi kìa".

                      Emina nhìn rõ nụ cười kiêu hãnh, khinh mạn trên đôi môi mỏng của Sologdin, nụ cười nở giữa hàng ria mịn và bộ râu đen gọn ghẽ để treo kiểu người Pháp ấy làm cho nàng thích thú.

                      "Sao? Bộ anh không biết là đồng chí Trưởng toán của chúng tôi đã thỏa thuận với đồng chí Viện trưởng là chúng tôi được nghỉ trọn ngày hôm nay sao? Chỉ có tôi là không may phải đi trực thôi".

                      "Ngày nghỉ? Vì lý do gì mà nghỉ?"

                      "Lý do gì nữa? Hôm nay là Chủ nhật".

                      "Từ bao giờ Chủ nhật được coi là ngày nghỉ nhỉ?"

                      "Đồng chí Trưởng toán chúng tôi nói rằng chúng tôi có quyền nghỉ một ngày vì lúc này không có công tác gì phải làm cấp bách cả".

                      "Các người không có công tác gì phải làm?" – Sologdin kêu lên giận dữ – "Các người nghĩ sao nếu tôi dàn xếp cho các người, tất cả mười sáu người, có việc ngồi vẽ cả ngày lẫn đêm. Cô có muốn thế không?"

                      Việc phải ngồi vẽ lại những đồ hình phức tạp là một đe dọa hãi hùng cho Emina cũng như cho những cô bạn của nàng, xong nàng vẫn thản nhiên. Vẻ thản nhiên, trầm tĩnh hợp với sắc đẹp nảy nở toàn diện như một bông hoa của nàng. Nàng đứng dựa bụng vào cạnh bàn vẽ và chiếc áo len đan ôm vừa vặn da thịt nàng làm nổi bật bầu ngực dày của nàng. Nàng đu đưa hai chân và nhìn Sologdin bằng cặp mắt thiện cảm:

                      "Chúa cứu chúng tôi! Mà anh có nhẫn tâm làm nổi cái việc đó không chứ?"

                      Sologdin lạnh lùng nhìn nàng:

                      "Tại sao cô lại kêu Chúa? Cô là vợ một nhân viên Mật vụ mà?"

                      Emina ngạc nhiên:

                      "Là vợ nhân viên Mật vụ thì sao? Có gì khác?" – Nàng hỏi lại – "Đến lễ Giáng sinh chúng tôi cũng làm bánh Giáng sinh. Chúng tôi có gì khác mọi người đâu?"

                      "Bánh Giáng sinh?"

                      "Chứ sao?"

                      Emina ngồi xuống và Sologdin đứng cao nhìn xuống nàng. Màu len trắng hợp với nước da hồng hào của nàng. Cả chiếc áo và chiếc xiêm nàng bận đều bó sát lấy thân thể nàng, để cho người nhìn thấy được da thịt đầy đặn của nàng. Nút áo cổ mở để hở chút ngực và vai nàng.

                      Sologdin vạch một nét nữa trên tờ giấy hồng và nói, giọng anh thản nhiên nhưng không có ác cảm:

                      "Cô nói chồng cô là Trung tá Mật vụ? Phải không nhỉ?"

                      "Phải. Nhưng đó là chồng tôi. Còn mẹ tôi với tôi đều là đàn bà".

                      Emina nói câu đó với nụ cười ngây thơ có sức quyến rũ thật lạ. Mái tóc đen dày của nàng quấn lại thành từng vòng quanh đầu nàng làm cho nàng, có cái vẻ trang trọng của những nữ hoàng ngày xưa. Nàng mỉm cười và đột nhiên nàng giống như một thiếu phụ nông thôn, nhưng là một thiếu phụ nông thôn do nữ kịch sĩ nổi tiếng Emma Tsesarskaya đóng.

                      Sologdin không nói gì nữa, anh ngồi xuống ghế để khỏi phải nhìn Emina và anh bắt đầu nghiên cứu đồ hình trên bàn vẽ.

                      Anh vẫn còn xúc động vì những lời phán quyết của Giáo sư Chelnov và anh muốn dành hết thì giờ và tâm trí vào việc hoàn thành sáng chế của anh. Giáo sư Chelnov có nói anh còn nhiều việc phải làm. Anh muốn anh hoàn toàn thảnh thơi tâm trí và tin tưởng khi anh phải đối phó với Yakanov để tính chuyện đi ra khỏi đây.

                      Vì vậy Sologdin muốn cắt đứt mọi liên lạc với Emina để trở về với công việc. Emina từng ngồi cạnh anh cả nửa năm trời nay nhưng chưa bao giờ anh có dịp nói chuyện nhiều với nàng như hôm nay, chưa bao giờ chỉ có anh và nàng ngồi riêng với nhau trong căn phòng rộng này. Đôi khi Sologdin cũng nói đùa vài câu với nàng theo đúng chương trình làm việc hai tiếng đồng hồ lại có năm phút nghỉ của anh. Emina là chuyên viên họa đồ làm việc dưới quyền anh, nàng là một bà ở một giai cấp khá cao trong xã hội trong khi anh chỉ là một tên nô lệ có học và anh khó chịu nhiều hơn là thoải mái khi anh nhìn thấy tấm thân đàn bà nảy nở của nàng ở cạnh anh suốt ngày dài.

                      Emina vẫn chống hai cùi chỏ tay lên bàn, nàng vẫn đong đưa nửa người trên của nàng và nàng hỏi:

                      "Còn anh, Dmitri Aleksandrovich… Ai vá những chiếc vớ rách cho anh?"

                      "Tôi hả?" – Đôi lông mày của Sologdin nhướng lên nhưng anh vẫn nhìn vào đồ hình – "Tôi không vá vớ. Tôi đi rách là thay đôi khác".

                      "Độ bao lâu thì anh phải thay vớ mới?"

                      "Tôi đi liền một đôi vớ trong một năm, một năm thay một đôi…"

                      Emina kêu lên như hoảng sợ:

                      "Một năm mới thay một đôi vớ, anh nói thật hay giỡn chơi?"

                      Sologdin cười lớn, tiếng cười của anh còn trong và vô tư:

                      "Một năm chứ sao. Cô tưởng bọn tôi có thừa tiền để mua vớ sao? Lương tháng của cô bao nhiêu?"

                      "1.500 đồng ruble".

                      "Cô… cô là người vẽ lại những gì do tôi vẽ ra, cô lãnh mỗi tháng 1.500 đồng ruble trong khi tôi, tôi là "nhà sáng chế", tôi được lãnh mỗi tháng 30 đồng ruble. Nếu cô ở vào địa vị tôi, cô cũng không phí tiền mua vớ. Đúng không?"

                      Đôi mắt Sologdin sáng lên niềm vui. Lời anh nói chẳng có nghĩa gì với Emina hết nhưng vậy mà đôi má nàng cũng đỏ hồng lên.

                      Anh chồng của Emina, nói rõ ra, là một gã vô tích sự. Từ lâu rồi gã coi gia đình gã như một nơi để gã nương tựa, với Emina, vợ gã, từ lâu rồi gã đã trở thành một vật vô hồn như bàn ghế trong nhà. Khi ở sở về nhà, gã dành hết thì giờ và tâm trí vào việc ăn uống, gã ăn tham lam và tục tĩu, ăn no gã lăn ra ngủ. Trở dậy gã đọc báo và nghe radio. Gã mê radio. Tháng nào gã cũng bận bán cái máy radio cũ đi để mua cái mới. Đề tài duy nhất làm gã chú ý ăn ngủ và kích thích được gã là những trận đá banh. Vì là nhân viên Mật vụ, đội banh được gã ủng hộ nhiệt liệt là đội Dynamo (đa số cầu thủ trong đội này là nhân viên Mật vụ). Tâm hồn gã phẳng lặng; nông cạn và con người gã tầm thường đến nỗi Emina nản không còn muốn gần gã nữa. Nàng gần Sologdin nhiều hơn là gần chồng nàng. Và Sologdin với những cử chỉ nhanh nhẹn, với lối nói sắc sảo, với khả năng biến đổi thật nhanh từ vẻ nghiêm trọng sang đùa giỡn hấp dẫn nàng ghê gớm mặc dù không cố ý. Điều đáng nói nhất là Sologdin không hề hay biết là anh hấp dẫn Emina mạnh đến như thế.

                      Sologdin lại nhìn xuống đồ hình trên bàn vẽ và Emina có dịp nhìn ngắm lâu khuôn mặt anh, hàm râu đen và đôi môi dày của anh. Nàng tưởng tượng đến cảm giác những sợi râu ấy di động trên da thịt nàng.

                      Một lần nữa, Emina lại phá cái yên lặng của Sologdin:

                      "Dmitri Aleksandrovich … tôi có làm phiền anh không?"

                      "Chút ít".

                      Sologdin đang cần tập trung tư tưởng nhưng anh không thể suy nghĩ đến công việc khi người đàn bà này ở gần anh. Anh quay vào bàn giấy và quay lưng hẳn về phía Emina, anh soạn lại những giấy tờ trên bàn.

                      Anh có thể nghe rõ tiếng tích tắc phát ra từ chiếc đồng hồ đeo tay của Emina.

                      Emina chắp hai bàn tay lại và đặt má nàng lên đấy. Đôi mắt nàng mệt mỏi và trìu mến nhìn người đàn ông ngồi đó.

                      "Ngày nào cũng vậy, giờ nào cũng vậy" – Giọng nàng thì thầm với những âm thanh thán phục – "Anh ở trong tù mà anh vẫn học thêm, vẫn nghiên cứu thêm. Anh là một người thật lạ…"

                      Sologdin đang đọc nhưng rõ ràng là anh không đọc được gì hết, vì anh ngẩng đầu lên ngay:

                      "Tôi học trong khi ở tù thì đã sao? Tôi ở tù từ năm tôi hai mươi nhăm tuổi, tôi sẽ ra khỏi tù vào năm tôi bốn mươi hai. Có điều là tôi không tin là tôi có thể ra được nhà tù, người ta sẽ cho tôi một hạn tù nữa. Tôi sống những năm tháng đẹp nhất của tôi ở trong tù. Trong trường hợp tôi, nếu tôi không học ở tù, tôi học ở đâu? Ở bất cứ đâu ta cũng phải sống. Dựa vào hoàn cảnh để buông xuôi là thái độ hèn nhát".

                      Emina đưa ngón tay trỏ có móng tay dũa tròn và tô sơn hồng ra di di trên góc một tờ giấy trên bàn Sologdin:

                      "Tôi có chuyện này phải xin lỗi anh.."

                      "Chuyện chi vậy?"

                      "Có lần tôi đứng cạnh bàn anh và tình cờ tôi nhìn thấy anh viết thư. Tôi tình cờ nhìn thấy thật mà… Ít ngày sau tôi lại thấy…"

                      "Ít ngày sau cô lại tình cờ thấy nữa…?"

                      "Tôi lại thấy anh viết thư. Mà cái thư thứ hai này anh viết dường như giống hệt cái thư trước…"

                      "Như vậy có nghĩa là cô đã đọc hơi kỹ thư của tôi. Rồi, còn lần thứ ba, thứ tư cô tình cờ đọc thư của tôi nữa? Đúng không?"

                      Nàng mở rộng đôi mắt nhìn anh. Miệng nàng không nhận nhưng mắt nàng nhận.

                      "Nếu cô còn tiếp tục như thế nữa tôi rất tiếc sẽ phải miễn sự cộng tác của cô. Tôi sẽ tiếc cô... vì cô vẽ không đến nỗi quá dở".

                      "Nhưng chuyện đó lâu rồi. Từ ngày ấy đến nay tôi không còn thấy anh viết gì nữa".

                      "Cô lập tức báo cáo với Thiếu tá Shikinidi…?"

                      "Sao lại… Shikinidi?"

                      "Thì Shikin. Cô viết báo cáo dài mấy trang?"

                      "Sao anh lại nghi tôi như thế?"

                      "Tôi không cần phải nghi. Tôi biết chắc. Bộ cô định nói với tôi là Thiếu tá Shikin không hề chỉ thị cho cô là phải do thám tôi? Phải biết hết cả những việc tôi làm, ngay cả ý nghĩ của tôi nữa?"

                      Sologdin vạch một nét bút chì lớn lên tờ giấy trắng.

                      "Hắn có chỉ thị cho cô làm thế không? Nói đi. Nói thật đi".

                      "Có".

                      "Và cô đã tố cáo tôi bao nhiêu lần, bao nhiêu tội rồi?"

                      "Dmitri Aleksandrovich …! Anh nghĩ rằng tôi làm được cái việc ấy sao? Tôi có báo cáo nhưng tôi không tố cáo gì anh hết. Trái lại. Tôi chỉ viết toàn chuyện tốt về anh".

                      "Hừm. Được rồi, tôi tạm tin cô. Về chuyện cô muốn biết tôi viết gì thì… nếu cô chỉ hỏi vì tò mò, tôi sẵn sàng làm thỏa mãn sự tò mò đàn bà của cô. Chuyện đó xảy vào tháng Chín. Năm ngày liền tôi viết thư cho vợ tôi".

                      "Tôi chỉ muốn hỏi anh về chuyện đó. Anh có vợ ư? Vợ anh chờ anh ư? Anh viết gì cho vợ anh mà dài thế?"

                      Trước những câu hỏi dồn dập ấy, Sologdin trả lời nghiêm trang và chậm rãi:

                      "Tôi, có vợ, nhưng cũng như tôi chưa có vợ vậy. Tôi không còn có thể viết thư cho nàng được nữa. Khi tôi viết cho nàng – không, tôi không viết hết bức thư dài đó mặc dù tôi suy nghĩ về nó trong năm tháng trời. Nghệ thuật viết thư là một nghệ thuật thật cao, thật khó. Chúng ta thường viết thư quá cẩu thả, để rồi chúng ngạc nhiên khi chúng ta thấy mất những người mà chúng ta mến thương. Vợ tôi không được gần tôi từ nhiều năm nay nhưng nàng vẫn cảm thấy vòng tay tôi ôm xiết nàng. Thư từ là những sợi dây liên lạc duy nhất tôi có với nàng trong mười hai năm nay".

                      Emina đột nhiên nhô người về đằng trước. Ngực nàng gần cánh tay Sologdin hơn và nàng áp hai bàn tay lên đôi má ửng hồng của nàng:

                      "Anh tin rằng anh có thể giữ được nàng ư? Mà anh giữ nàng để làm gì? Tại sao anh lại giữ nàng? Đã mười hai năm qua, anh còn xa nàng năm năm nữa. Mười bảy năm xa nhau tất cả. Anh làm nàng mất tuổi trẻ. Tại sao? Hãy để cho nàng sống".

                      "Ở đời này có một loại đàn bà đặc biệt. Đó là những người đàn bà ra đời để làm chinh phụ, làm vợ những chiến sĩ Vikgin vượt biển đi chinh phục thế giới, những nàng Isolde linh hồn bằng kim cương. Cô sống trong một xã hội thấp kém nên cô không sao biết được họ".

                      Emina nhắc lại:

                      "Để cho nàng sống. Và nếu có thể được, anh cũng nên sống".

                      Hơi thở nàng dồn dập và Sologdin nhìn đi. Tay anh gạch một nét lên tờ giấy hồng.

                      "Dmitri Aleksandrovich … tôi muốn hỏi anh chuyện này từ lâu… Sao anh lại cứ vạch luôn tay những nét này? Ý nghĩa gì? Tôi để ý thấy anh hết vạch lên tờ giấy trắng lại vạch lên tờ giấy hồng".

                      "Lần này tôi sợ cô tò mò quá rồi đấy…"

                      Sologdin giơ tờ giấy trắng có những nét vạch lên:

                      "Mỗi lần tôi nghĩ được điều hay, làm được việc gì đúng, tôi vạch một nét lên đây…"

                      "Còn tờ giấy hồng?"

                      "Còn tờ giấy hồng… Chắc cô cũng nhận thấy tôi hay gạch lên tờ giấy hồng này những lúc nào chứ?"

                      Trong phòng không có qua một tiếng động nào, câu trả lời của Emina gần như tiếng thì thầm:

                      "Có. Tôi có nhận thấy".

                      Khuôn mặt Sologdin cũng đỏ lên, anh giận dữ thú tội:

                      "Tôi vạch lên đây những dấu để phạt tôi…"

                      "Sao anh… lại… phạt anh?"

                      "Phạt tôi… vì tội tôi… thèm muốn cô. Đây tôi đánh liền ba dấu. Dấu này là vì đôi mắt ướt đa tình của cô… tôi phạt tôi vì tội rung động vì đôi mắt ấy. Dấu này là vì… vì… cổ áo cô hở và tôi nhìn thấy ngực cô. Dấu này là vì tôi muốn… muốn hôn lên đấy".

                      Emnina nói như người mất hồn:

                      "Anh muốn… sao anh không hôn đi?"

                      "Cô điên ư? Cô ra khỏi đây ngay… Đi ra…"

                      Sologdin quay phắt lại cùng một lúc với Emina đứng bật lên. Cái ghế nàng ngồi đổ sau nàng. Sologdin nhìn ngay lên bàn vẽ nhưng anh không thấy cái gì trên đó hết. Đột nhiên anh cảm thấy bộ ngực đầy của người đàn bà dựa vào lưng anh.

                      "Lasira…" Anh nói, và anh quay lại ôm nàng.

                      "Dmitri…" Nàng như người nghẹn thở.

                      "Cho tôi… Để tôi khóa cửa lại…"

                      Emina không lùi lại, nàng nói trong hơi thở:

                      "Phải đấy. Khóa cửa lại".






                      [1]Decartes, triết gia kiêm toán học gia người Pháp, sinh năm 1596, mất năm 1650, nổi tiếng nhất thời Phục hưng (Renaissance, thế kỷ XIV-XV) – thời kỳ chuyển tiếp từ Trung cổ sang Cận đại và cũng là thời khoa học, nghệ thuật phát triển rực rỡ nhất ở Âu châu.

                      [2]Nội dung bài thơ này có một ý nghĩa thời sự. Lev Rubin, tuy bị tù, nhưng vẫn là một người Cộng sản. Y muốn bào chữa cho Stalin, muốn chứng minh việc làm của Stalin là đúng. Y ngầm ví Stalin với Moses: cũng như Moses hướng dẫn dân Do Thái qua sa mạc khổ sở đến đất lành, Stalin hướng dẫn dân Nga đến hạnh phúc. Chỉ với một điểm thắc mắc rất khoa học về địa dư, Giáo sư Chelnov đánh đổ luận điệu này (người dịch).
                      #26
                        CTT 09.09.2008 22:24:06 (permalink)
                        27. Giấy in tiếng

                        Không một ai, kể cả những nhân viên tự do, muốn làm việc trong ngày Chủ nhật.

                        Họ đến sở làm với sự chán nản trong tâm hồn, những chuyến xe buýt vắng người hơn mọi ngày càng làm cho họ thêm chán nản, họ nghĩ đến cách làm cách nào để có thể ngồi hết một ngày đến sáu giờ chiều.

                        Nhưng buổi sáng Chủ nhật hôm nay, quang cảnh Viện Khoa học Mavrino hoạt động hơn mọi ngày thường. Sau 10 giờ sáng có một dãy xe hơi theo nhau chạy qua cổng Viện. Bọn lính gác tới tấp đứng chào nghiêm. Những chiếc xe hơi bóng loáng chạy qua vườn trên con đường vừa mới được quét tuyết phủ, tới đậu ở trước cửa tòa nhà chính, những sĩ quan cao cấp với những cầu vai áo mang lon vàng đỏ rực rỡ bước ra khỏi ba chiếc xe đầu. Không chờ ai tiếp đón, những vị này đi thẳng lên văn phòng Viện trưởng Yakanov ở tầng lầu ba. Không một ai có đủ thì giờ để nhìn kỹ họ và để biết họ là những ai. Vài tù nhân kháo nhau rằng Tổng trưởng An ninh Abakumov đến với tám ông Tướng, nhưng ở nhiều phòng nghiên cứu khác, nhiều tù nhân vẫn không biết gì cả về đoàn quan khách sang trọng vừa đến.

                        Sự thật chỉ bằng một nửa lời đồn: chỉ có Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov đến Viện cùng với bốn ông Tướng thuộc Bộ An ninh đi theo.

                        Nhưng có nhiều chuyện bất ngờ xảy ra: Đại tá Kỹ sư Yakanov sáng nay chưa đến Viện. Người sĩ quan trực sợ hãi bỏ vội quyển tiểu thuyết y đang đọc vào ngăn kéo – y không có quyền đọc bất cứ sách báo gì trong giờ trực – và cuống quít gọi điện thoại đến nhà riêng của Yakanov, sau đó y đứng nghiêm báo cáo với ông Phụ tá Tổng trưởng rằng Đại tá Yakanov sáng nay khó ở vì chứng bệnh đau tim nhưng đang trên đường đến Viện. Trong thời gian đó Thiếu tá Roitman, Phó Viện trưởng, người phụ tá của Viện trưởng Yakanov, sửa lại bộ quân phục và đi như chạy trên những hành lang để tới trình diện với quan khách, y vội vã không phải chỉ vì luật lệ bắt buộc y phải vội vã như thế mà còn vì y ít có dịp gặp được các quan to, Yakanov tìm đủ cách ngăn chặn không cho y gặp được các vị thượng cấp. Roitman đã được biết hôm qua hai tù nhân Bobynin và Pryanchikov được gọi về Bộ để hỏi về việc gì và y đoán biết sáng nay các vị quan to ở Bộ tới Viện chỉ cốt là để kiểm soát công tác, y cần được gặp các quan để trình bày về việc làm của y trước khi Yakanov đến và nhận hết mọi thành tích. Dù chỉ mới ba mươi tuổi, Roitman đã được lãnh một giải Stalin về khoa học và y là người ngày đêm chỉ sống để làm việc phục vụ Lãnh tụ Tối cao.

                        Mười vị quan to ngồi nghe Roitman thuyết trình về những dự án khoa học đang được thực hiện trong Viện xong chỉ có hai vị hiểu được y nói gì, tám vị kia chỉ ngồi trầm ngâm với một vẻ nghiêm trọng đầy bí mật. Mamurin, người được Oskolupov gọi đến, chỉ chăm chăm chờ dịp là cướp lời Roitman. Rồi Yakanov hấp tấp tới nơi. Sáng nay hai mắt Yakanov sâu trũng xuống với hai quầng đen, da mặt y tái nhợt như người đang đau nặng. Sau khi chào nghiêm, Yakanov ngồi xuống chiếc ghế cạnh tường. Cuộc thuyết trình của Roitman phải ngưng.

                        Đám sĩ quan an ninh đứng hết ngoài hành lang trước cửa phòng, sẵn sàng chờ được gọi đến. Trong bầu không khí nghiêm trọng này, không ai để ý đến cửa Phòng Đồ hình được khóa kín liền trong mấy tiếng đồng hồ.

                        Sau khi hội họp trong văn phòng Viện trưởng Yakanov, đám quan khách phân tán thành nhiều toán đi thăm các phòng. Chỉ có Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov cùng đi với Thiếu tá Roitman xuống Phòng Âm thính. Yakanov bận tiếp Oskolupov trong Phòng Số bảy.

                        Trên đường đi, Sevastyanov hỏi Roitman:

                        "Thiếu tá định dùng biện pháp nào tìm ra được tên ấy?"

                        Roitman chỉ mới được biết về việc Viện Mavrino phải dò tiếng nói thâu được từ máy điện thoại để tìm bắt được một tên phạm tội ở Bộ Ngoại giao, nhưng năm phút cũng đã đủ để y sửa soạn được lời nói:

                        "Thưa ông Tổng trưởng – Roitman nói – ở đây chúng ta có một giàn máy tuy còn đang thí nghiệm nhưng đã có thể dùng được. Chúng tôi tạm gọi máy đó là máy VIR. Tiếng nói của người ta được ghi lên giấy với những ký hiệu đặc biệt. Không tiếng nói của ai hoàn toàn giống ai. Cũng như dấu tay vậy. Và chúng ta có một chuyên viên tên là Lev Rubin đọc được những ký hiệu ấy…"

                        "Lev Rubin? Hắn là tù nhân ư?"

                        "Thưa vâng. Hắn là nhà ngôn ngữ học. Chúng ta sẽ đem tiếng nói của kẻ phạm tội in lên giấy rồi so sánh với tiếng nói của những kẻ bị tình nghi. Bằng cách ấy, ta sẽ tìm ra tên phạm tội".

                        "Hừm…" - Sevastyanov vừa nói vừa lắc đầu" - "tôi cần xin sự đồng ý của Đồng chí Tổng trưởng về việc dùng nhà ngữ học này".

                        "Vì vấn đề an ninh?"

                        "Phải".

                        Vào lúc này, ở trong Phòng Âm thính, mặc dù mọi người đều biết rằng có Ủy ban Điều tra Kiểm soát từ Tổng Bộ đến Viện, vẫn chưa ai vượt khỏi được sự bất động của buổi sáng Chủ nhật để bắt tay vào việc, họ lười biếng mở những ngăn tủ chứa đầy những bóng đèn radio cũ, nhìn ngây lên qua cửa sổ và ngáp dài. Những thiếu nữ trong đám viên chức tự do đứng xúm lại ở những cửa sổ, bàn tán nho nhỏ với nhau. Trước khi Roitman và Sevastyanov tới Phòng Âm thính, những thiếu nữ ở đó đều đã được sĩ quan an ninh mời hết sang phòng khác.

                        Nerzhin đang ngồi trong Phòng Âm thính. Trước vẻ bối rối quan trọng và nhộn nhịp của những người chung quanh. Nerzhin có cảm tưởng chàng làm một ông khách xa lạ hẳn với họ. Đây là lần thứ ba chàng vào Phòng Âm thính. Chàng không có việc gì ở đây cả, chàng đang nóng ruột chờ đợi đợi xe Maria Đen đến đưa đi gặp vợ và chàng vào đây để ngồi nói chuyện với Lev Rubin, Nerzhin ngồi dựa lưng lên thành cửa sổ, chàng khoan khoái thưởng thức khói điếu Belomor trong khi nghe Lev Rubin trình bày bài thơ về Moses vừa làm xong sáng nay. Rubin đã đọc bài thơ này cho Giáo sư Chelnov nghe nhưng anh không tin tưởng lắm ở khiếu thưởng ngoạn văn nghệ của ông giáo sư già ấy. Anh nồng nàn và quan trọng trình bày lại bài thơ với Nerzhin và hồi hộp chờ đợi Nerzhin khen ngợi.

                        Đúng lúc ấy thì Thiếu tá Roitman hướng dẫn Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov vào phòng. Hai người đi thẳng tới chỗ Rubin ngồi.

                        "Thưa Đồng chí Tổng trưởng … tôi xin giới thiệu nhà ngôn ngữ học Lev Rubin, người duy nhất trong Liên bang Xô Viết hiện nay đọc được những ký hiệu của tiếng người nói ghi trên giấy".

                        Rubin đứng dậy lặng lẽ cúi đầu chào.

                        Ngay từ lúc nghe thấy tiếng Roitman nói đến "máy VIR" khi y và Sevastyanov còn đi ngoài hành lang, cả Rubin và Nerzhin cùng bất giác giật mình. Họ ngạc nhiên vì công tác nghiên cứu về tiếng nói của họ, từ trước tới nay vẫn không được ai coi trọng – những nhà khoa học đồng tù thường chỉ hỏi thăm họ về sự tiến triển của cuộc nghiên cứu này để cười nhạo họ – bỗng dưng được thiên hạ chú ý đến. Chỉ trong khoảng 45 giây đồng hồ cần thiết để cho Roitman đưa Sevastyanov đến bàn Rubin, với sự thông cảm tình hình rất nhanh đặc biệt của những người đã sống lâu năm trong tù, Rubin và Nerzhin cùng hiểu rằng như vậy là Rubin sắp trình diễn một cuộc đọc tiếng nói ghi trên giấy bằng ký hiệu, và mặc dù Rubin có thể đọc được, vẫn từng đọc, họ cũng tính ngay đến chuyện phải làm sao cho Rubin thành công trong cuộc thí nghiệm này. Nếu chẳng may mà Rubin đọc sai, cuộc nghiên cứu của họ có thể bị bãi bỏ không chút xót thương.

                        Họ đưa mắt nhìn nhau thông cảm và Rubin khẽ nói:

                        "Nếu họ bảo anh, hãy đọc câu: "Giấy in tiếng có thể làm cho người điếc dùng được máy điện thoại".

                        Nerzhin cũng thì thầm lại rất nhanh:

                        "Nếu hắn đọc lấy, tôi sờ tay lên tóc là anh đúng, sờ cổ áo là sai".

                        Và Rubin đứng lên để chào người mới đến.

                        "Bây giờ" – Roitman nói tiếp – "Lev Grgiorich sẽ trình bày để ông Tổng trưởng thấy tận mắt việc đọc giấy in tiếng nói. Chúng tôi có sẵn một xướng ngôn viên chuyên môn đây, anh Gleb Vikentich Nerzhin. Anh này sẽ ghi câu này lên giấy và anh Lev Grgiorich sẽ cố gắng đọc ra câu ấy".

                        Cả phòng thí nghiệm ngừng hoạt động. Mọi người đều hồi hộp chờ đợi. Roitman xúc động ra mặt. Đọc xong, Nerzhin ra khỏi phòng ghi âm và đứng ở xa, lãnh đạm nhìn lại phía Rubin. Mọi người đứng xúm quanh bàn Rubin. Tất cả đều đứng, chỉ có một mình Rubin là ngồi. Với những cử chỉ trang trọng của một giáo sĩ hành lễ, Rubin cầm cây viết chỉ lên tờ giấy ghi ký hiệu vừa lấy trong máy ra và giảng giải.

                        Nerzhin cười thầm khi Rubin yêu cầu cử tọa đưa cho anh cái kiếng khuếch đại để nhìn cho rõ hơn. Thực ra, không cần gì phải dùng đến kiếng khuếch đại, Rubin chỉ bày vẽ ra như vậy cho công việc quan trọng hơn. Và trong lúc tất cả mọi người – tất nhiên là trừ Nerzhin – say mê theo dõi việc Rubin đọc lên từng tiếng, vừa đọc vừa viết xuống giấy: "Giấy…in… tiếng… có… thể...", không ai chú ý đến Trung úy An ninh Shusterman nhón gót đi vào phòng.

                        Shusterman đứng lại bên cửa. Ý ra hiệu cho Nerzhin đi ra. Nerzhin hiểu rằng giờ đi thăm đã đến và chàng rảo bước đi ngay. Shusterman còn muốn gọi Rubin nữa. Y muốn bắt Rubin trở về phòng ngủ để làm lại giường cho ngay ngắn. Y từng nhiều lần hành hạ Rubin với việc này.

                        Rubin đã đọc được hai tiếng "người điếc" và đang nhíu mày tìm tiếng tiếp theo, chợt anh ngước mắt nhìn lên và nhìn thấy bộ mặt rạng rỡ, tươi rói của Roitman – Roitman có vẻ như chính y là người đọc được những chữ này – và anh bắt gặp tia nhìn của Shusterman. Anh hiểu ngay tên sĩ quan an ninh lắm chuyện này đến đó làm gì và tia mắt khôi hài, chế nhạo của anh nói với y: "Đi chỗ khác chơi…"

                        "Người điếc… dùng được… máy điện thoại…" Rubin nói lớn, viết và quăng bút… "Máy điện thoại" là ba tiếng chúng tôi vẫn dùng đến nhiều trong những cuộc thí nghiệm nên nhìn thấy là tôi đọc được ngay…"

                        "Kỳ diệu…"

                        Sevastyanov nhắc lại:

                        "Kỳ diệu… Tôi xin lỗi, tên anh là gì?"

                        "Lev Grgiorich Rubin".

                        "Lev Grgiorich… Anh có thể nhận ra tiếng một người nhờ những bản giấy in tiếng này chứ?"

                        "Đó chính là mục đích của cuộc nghiên cứu của chúng tôi".

                        "Tốt. Sẽ có một công tác… rất… quan trọng nhờ anh làm".

                        Nghe thấy quan to nói câu này, Trung úy An ninh Shusterman lủi mất.
                        #27
                          CTT 09.09.2008 22:27:49 (permalink)
                          28. Cấm không được hôn

                          Chiếc xe Maria đen được dùng để chở tù nhân đi gặp thân nhân sáng nay hư máy, không chạy được. Người ta phải gọi điện thoại về Bộ xin xe khác và vào lúc 11 giờ sáng Chủ nhật ấy, khi Nerzhin được gọi xuống từ phòng Âm thính, đến phòng kiểm soát, sáu tù nhân được đi thăm hôm nay đã có mặt ở đó. Vài người đang bị khám, vài người đã khám xong đi quanh quẩn hoặc ngồi ở bàn. Trung tá Klimentiev đứng gần tường, thẳng người, hai tay chắp sau lưng, thanh thản như người không liên hệ đến công việc khám xét đang được làm ở đây, nhưng Klimentiev biết rõ hơn ai hết là sự có mặt của y bắt buộc bọn giám thị phải khám xét kỹ hơn.

                          Vừa bước vào khu khám, Nerzhin gặp ngay vòng tay chờ đợi của Krasnogubenky, tên giám thị khám kỹ nhất, lục lọi nhất và đáng ghét nhất bọn.

                          "Trong túi có gì?" Krasnogubenky hỏi ngay.

                          Từ lâu rồi Nerzhin không còn cái vẻ vội vã làm theo lời hèn hạ của những người mới ở tù trước mặt bọn giám thị. Chàng không cần trả lời và cũng không thèm nhìn lại cái túi bộ áo mới may bằng hàng cheviot vừa được phát cho chàng để mặc đi thăm. Chàng chỉ nhìn tên giám thị bằng cặp mắt vô hồn và giơ hai cánh tay lên vừa đủ để cho gã khám túi chàng. Sau năm năm ở tù và qua không biết bao nhiêu là lần khám xét như thế này. Nerzhin không còn cảm thấy, như những người mới vào tù ai cũng thấy, việc bị khám thân thể là dã man, những ngón tay dơ bẩn chạm vào người mình như chạm vào chính trái tim rướm máu của mình. Sáng nay, đặc biệt là sáng nay, không một việc gì xảy ra có thể làm cho tâm hồn chàng mất vui sướng.

                          Krasnogubenky mở hộp thuốc lá do Potapov tặng chàng làm quà sinh nhật và kéo từng điếu thuốc gài trong đó ra coi xem có vật gì giấu trong đó không. Gã đổ cả những que diêm ra lòng bàn tay gã. Gã vuốt đường viền chiếc khăn mùi-soa của Nerzhin. Ngoài mấy vật đó ra, trong túi Nerzhin không có gì khác. Rồi gã nắn bóp khắp người Nerzhin, sờ cả vào bẹn, vào hậu môn chàng. Gã ngồi xuống sau lưng chàng để sờ kỹ hai chân chàng từ đùi trở xuống.

                          Nhờ Krasnogubenky ngồi xuống, Nerzhin nhìn thấy người tù đang bị khám sau chàng. Người này là một anh thợ điêu khắc. Chàng thấy rõ anh này đang bối rối và chàng biết vì sao anh bối rối. Nguyên lại là sống trong tù, anh thợ điêu khắc bỗng phát giác được rằng anh có khiếu viết truyện ngắn – và anh cặm cụi viết những truyện ngắn kể lại kinh nghiệm tù binh của anh thời chiến tranh trong những trại tù binh của Đức Quốc Xã, về những cuộc gặp gỡ trong phòng giam, về tòa án. Nhờ vợ anh, anh từng chuyển được vài truyện ngắn của anh ra ngoài, nhưng những truyện ngắn như thế làm sao có thể đăng được? Ngay cả ở bên ngoài, chị vợ anh cũng phải khổ sở giấu giếm những gì chồng chị gửi ra và chỉ dám cho những bà con thân nhất đọc. Nhưng một ông có học, dường như ông chú của vợ anh, đã được đọc những truyện ngắn ấy và nói với vợ anh rằng anh viết truyện ngắn còn hay hơn cả Chekhov. Lời khen này làm cho anh càng hứng chí sáng tác.
                          [1]

                          Ở trong tù, tất nhiên là nhà văn tập sự này phải giấu kín những gì anh viết. Việc mang được một tờ giấy có chữ viết ra khỏi tù là một việc khó khăn không thể tưởng tượng được. Hôm nay anh thợ khắc mang theo một đoản thiên mà anh cho là tuyệt tác của anh, nhưng khi thấy có mặt Krasnogubenky trong phòng khám, anh sợ bị gã xét thấy và anh đã bỏ tờ giấy có những chữ viết nhỏ li ti vào miệng nuốt đi. Giờ đây, khi anh thấy Krasnogubenky không khám anh, anh hối hận đến đờ đẫn cả người – nếu anh gan hơn một chút, nếu anh đừng vội nuốt đi, biết đâu anh chẳng mang lọt đoản thiên ấy ra ngoài?

                          "Cởi giày ra".

                          Krasnogubenky nói và Nerzhin đặt chân lên chiếc ghế đẩu để cởi dây giày, rồi chàng vung chân đá chiếc giày không cần biết là nó bay đi đâu, Krasnogubenky lượm chiếc giày lên nhìn kỹ bên trong và uốn cong xem có vật gì giấu trong đế giày đó không. Với vẻ mặt thản nhiên như chàng từng làm việc này mỗi ngày, Nerzhin đã đá nốt chiếc giày kia ra khỏi chân. Cả hai chiếc vớ của Nerzhin đều rách và có những lỗ thủng lớn. Những lỗ thủng này cho gã giám thị cái quyền nghĩ rằng chàng không thể giấu vật gì ở trong vớ nên gã không cần bắt chàng tháo cả vớ.

                          Klimentiev chớp mắt liền mấy cái khi Nerzhin đá đôi giày văng ra khỏi chân. Y coi đó là một hành động sỉ nhục giám thị. Và một lần nữa Klimentiev cảm thấy hối hận vì để cho tên tù hỗn láo Nerzhin được đi gặp vợ hôm nay. Y nghĩ đến chuyện tìm cách bắt lỗi tên tù này để hủy cuộc đi thăm của hắn, y thấy rõ tên tù này không những là không cảm thấy xấu hổ, nhục nhã vì tình cảnh tù đày khốn nạn của hắn, trái lại, hắn còn có vẻ hợm hỉnh khinh thường những người có nhiệm vụ canh giữ hắn.

                          "Nghe đây…"

                          Klimentiev đột ngột nói lớn và bảy người tù cùng bảy viện giám thị đều quay về cả phía y:

                          "Các người đã biết luật lệ. Các người không được nhận bất cứ một vật gì do thân nhân các người đưa, hoặc vật gì các người muốn đưa cho thân nhân, đều phải đưa cho tôi, qua tay tôi. Trong khi nói chuyện, các người không được nói đến công tác, điều kiện công tác, điều kiện sinh hoạt, ăn uống, không được nói đến tên Viện này hoặc bất cứ một điều gì dính dáng đến Viện. Các người không được nói tên bất cứ ai. Các người chỉ nên nói rằng mọi việc đều tốt và các người không cần gì hết, không thiếu gì hết".

                          "Nếu cấm hết thì chúng tôi còn có chuyện gì để nói với nhau?" – một người nào đó đứng cuối hàng kêu lên – "nói chuyện chính trị ư?"

                          Klimentiev không thèm trả lời câu hỏi này. Y thấy đó là một câu hỏi ngu ngốc.

                          "Hãy nói đến tội lỗi của bạn" – một tù nhân nào đó rầu rĩ lên tiếng – "hãy nói đến chuyện bạn hối lỗi".

                          Klimentiev can thiệp ngay:

                          "Không được nói đến án tù của các người. Phải giữ bí mật về án tù, hạn tù. Hãy hỏi về chuyện gia đình, cha mẹ, con cái. Còn điều này nữa. Đây là luật mới: từ nay trở đi các người không được nắm tay vợ, không được hôn vợ. Cấm nắm tay, cấm hôn".

                          Nerzhin từ đầu vẫn thản nhiên trước cuộc khám xét và việc nhắc lại những luật lệ ngớ ngẩn – chàng biết cách qua mặt bọn giám thị ngồi canh chàng – cảm thấy máu chàng chạy mạnh khi nghe chuyện cấm hôn, mắt chàng sáng rực lên:

                          "Mỗi năm chúng tôi chỉ gặp được nhau có một lần…"

                          Chàng la lên và Klimentiev nghiêng bản mặt hồng hào của y nhìn chàng. Klimentiev có vẻ hân hoan chờ đợi chàng nói tiếp và Nerzhin nghe thấy tiếng nói chưa được phát ra trong cổ họng y: "Tôi hủy cuộc đi thăm của anh. Anh ở lại…", chàng nghẹn lời và im lặng.

                          Nerzhin hiểu rằng cuộc đi thăm của chàng được báo vào phút cuối, có một cái gì không được hợp lệ và Klimentiev dễ dàng hủy bỏ, y đang muốn hủy bỏ.

                          Là một tù nhân giàu kinh nghiệm, chàng biết nén giận.

                          Không gặp sự phản đối, Klimentiev thản nhiên nói tiếp:

                          "Nếu các người hôn nhau, nắm tay, hay vi phạm điều gì khác, cuộc gặp mặt sẽ chấm dứt tức khắc".

                          Người thợ điêu khắc lên tiếng:

                          "Nhưng vợ tôi không biết điều cấm ấy. Vợ tôi hôn tôi thì sao?"

                          Klimentiev vẫn thản nhiên:

                          "Vợ anh sẽ được nói cho biết trước khi gặp anh".

                          "Chưa từng có luật cấm hôn bao giờ".

                          "Bây giờ có".

                          Bọn ngu đần – Klimentiev nhìn những bộ mặt ngơ ngác và nghĩ thầm – Chúng thật ngu. Phản đối với mình thì ích gì? Chúng nó làm như mình đặt ra không bằng. Luật do thượng cấp đặt ra, mình chỉ là người thi hành.

                          Bọn tù nhao nhao hỏi:

                          "Được gặp nhau bao lâu?"

                          "Nếu mẹ tôi đến thay cho vợ tôi, mẹ tôi được vào không?"

                          "Được gặp trong ba mươi phút. Chỉ có người nào có tên trong giấy mới được vào".

                          "Con gái tôi năm tuổi có được theo mẹ nó vào không?"

                          "Trẻ con mười lăm tuổi được vào theo người lớn".

                          "Còn mười sáu tuổi?"

                          "Không được vào. Còn ai hỏi gì nữa không? Xong rồi. Đi ra".

                          Tuyệt diệu. Hôm nay họ không phải ngồi kín trong chiếc xe Maria Đen chở tù đi thăm những lần trước, một chiếc xe buýt nhỏ sơn xanh chờ họ ngoài sân.

                          Ba nhân viên giải tù, cả ba đều lại mặt ở Viện Mavrino, bận thường phục, đội mũ nỉ mềm, tay cầm súng lục trong túi áo, lên xe trước. Họ ngồi cách nhau trong xe. Hai tên trong bọn trông có vẻ như tướng cướp giải nghệ hoặc võ sĩ quyền Anh về già. Họ bận những chiếc áo khoác mới và đẹp.

                          Sương mù buổi sáng đã tan nhưng còn lạnh.

                          Bảy người tù lục đục lên xe.

                          Trung tá an ninh Klimentiev cũng đi nhưng đi bằng xe riêng.
                          #28
                            CTT 09.09.2008 22:31:08 (permalink)
                            29. Dấu tiếng

                            Tới 12 giờ trưa Yakanov vẫn chưa được thảnh thơi ngồi trong văn phòng lịch sự của y, y bận rộn trong phòng Số bảy với việc tổ chức sáp nhập hai phòng nghiên cứu lớn nhất trong Viện làm một – Phòng Số bảy và Phòng Âm thính – Sáng nay Oskolupov đã quyết định như thế và nhiều người đồng ý. Chỉ có ba người phản đối là Bobynin, Paryanchikov và Roitman nhưng họ chỉ là thiểu số không đáng kể.

                            Nhưng trong lúc ấy có bốn người ngồi trong văn phòng Viện trưởng Mavrino. Bốn người ấy là Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov – lão đã báo cáo bằng điện thoại với Tổng trưởng Abakumov về những việc có thể làm ngay ở Viện Mavrino – Trung tướng Bulbanyuk, Trung úy Smolosidov và tù nhân Lev Rubin.

                            Trung úy Smolosidov là một gã đàn ông vạm vỡ, mặt vuông, vai to và hơi lùn. Những người lạc quan nhất đời, những người tin rằng trong bất cứ người nào cũng phải có ít nhất là một vài điểm tốt, khó có thể tìm được một điểm nào gọi là tốt trên khuôn mặt khó đăm đăm không bao giờ vui của Smolosidov, trên vành môi dày của hắn. Địa vị của Smolosidov ở trong Viện là một địa vị thấp kém, hắn được xếp hạng không cao hơn một người thợ ráp máy radio bao nhiêu và lương bổng của hắn chỉ bằng lương của người nữ lao công thấp nhất. Y thường kiếm thêm được mỗi tháng chừng một ngàn ruble bằng cách lấy cắp những bộ phận radio trong Viện đem ra ngoài bán chợ đen và nhiều người biết rằng hắn không chỉ kiếm tiền bằng cách đó mà thôi.

                            Những viên chức tự do làm việc trong Viện đều sợ Smolosidov, kể cả những người thường chơi bóng chuyền với hắn. Bộ mặt không bao giờ để lộ một chút thành thật nào của hắn trông thật đáng kinh sợ. Và sự kiện hắn được cấp trên tin tưởng còn đáng sợ hơn nữa. Nhà hắn ở đâu? Không ai biết. Hắn có gia đình, vợ con không? Cũng không ai biết. Smolosidov không bao giờ đến nhà riêng thăm ai, hắn chỉ giao thiệp với mọi người ở trong Viện. Không ai biết gì về đời tư cũng như dĩ vãng của hắn ngoài những huy chương huân công hắn mang trên ngực và một lời hắn khoe rằng trong suốt trận đại chiến vừa qua, một vị Thống chế nổi tiếng không nói qua một câu gì mà tai hắn lại không được nghe, khi người ta hỏi tại sao lại như thế, hắn nói thêm hắn là chuyên viên truyền tin riêng của ông Thống chế.

                            Khi vấn đề được đặt ra là viên chức nào trong Viện Mavrino đủ tư cách phụ trách giữ những cuốn băng ghi âm tối mật do Bộ An ninh gửi đến, không do dự, Trung tướng Bulbanyuk, người mang những cuộn băng ghi âm đến, nói ngay: Smolosidov.

                            Và giờ đây Smolosidov ngồi như một con chó lớn, dữ dội giữ cái máy ghi âm và những cuộn băng đặt trên một chiếc bàn nhỏ trong lúc Trung tướng Bulbanyuk, cái đầu tròn và nhẵn như một củ khoai tây khổng lồ và nghiêm trọng nói với Rubin:

                            "Hiện nay anh là một tù nhân, Rubin. Nhưng trước đây anh từng là một người Cộng sản, rồi có thể có ngày anh sẽ trở lại là một người Cộng sản".

                            Rubin muốn nói: "Tôi hiện đang là người Cộng sản…", nhưng nếu nói thế, anh sẽ phải giải thích nhiều với Bulbanyuk và anh thấy việc giải thích, phân trần lúc này là hèn hạ.

                            "Vì vậy chúng tôi tin ở anh" – Bulbanyuk nói tiếp – "Rubin, anh sắp được nghe một bí mật quốc gia qua cái máy ghi âm này. Chúng tôi hy vọng anh sẽ giúp chúng tôi sớm bắt được tên khốn nạn này, tên đồng lõa của bọn phản quốc. Chúng muốn tiết lộ những phát minh khoa học quan trọng của tổ quốc ta với bọn ngoại nhân. Tất nhiên anh hiểu việc tiết lộ…"

                            "Tôi hiểu…"

                            Rubin ngắt lời, anh chỉ sợ anh không được nghe những cuộn băng này. Không phải vì anh tò mò nhưng anh muốn biết anh có thể làm được gì, công trình nghiên cứu của anh trong những tháng qua có thực sự giá trị như anh nghĩ hay không.

                            Smolosidov nhấn nút cho máy chạy.

                            Rubin chăm chú nhìn vào cuộn băng xoay trên máy như anh đang nhìn mặt kẻ tử thù của anh. Khi Rubin chăm chú và bất động như thế, làn da mặt anh căng ra và nét mặt anh trở thành tàn ác. Không ai có thể xin tình thương ở một người có bộ mặt như thế.

                            Trong sự im lặng của căn phòng, họ nghe cuộc đối thoại giữa một gã đàn ông vội vã, khích động với một thiếu phụ thản nhiên, nhẩn nha.

                            Những câu nói qua đi và nét mặt Rubin dần mất vẻ tàn ác, rồi mặt anh trở thành suy tư, bối rối. Trời đất, anh không chờ đợi nghe những lời nói này, anh tưởng anh sắp được nghe những lời ghê gớm…

                            Cuộn băng ngừng quay.

                            Rubin biết người ta chờ đợi anh nói ra một lời gì đó, nhưng anh chưa biết anh nên nói gì. Anh cần thì giờ để suy nghĩ và anh cần thì giờ để đốt lại điếu thuốc lá vừa để tắt nửa chừng và nói:

                            "Cho nghe lại".

                            Smolosidov nhấn nút cho cuộn băng quay trở lại.

                            Rubin nhìn bàn tay có những ngón tay đen đủi của Smolosidov với hy vọng ánh lên trong mắt Smolosidov có thể lầm lẫn nhấn nút xóa tiếng nói trên băng và làm cho cuộn băng này sạch trơn tiếng nói. Nếu cuộn băng này mất tiếng, Rubin sẽ không còn phải suy nghĩ lựa chọn gì nữa.

                            Nhưng Smolosidov không lầm lẫn. Hắn sử dụng máy rất đúng cách.

                            Một lần nữa họ lại nghe tiếng nói của người trẻ tuổi, tiếng nói hồi hộp, cấp bách, gần như tuyệt vọng xen lẫn những tiếng ong óng, khó chịu của người đàn bà. Rubin phải cố gắng nhiều mới tưởng tượng ra được người thanh niên có tội đang bị tìm bắt nhưng anh thấy hiện ra dễ dàng bộ mặt người thiếu phụ. Đó là một người đàn bà có mái tóc dày nhuộm màu hung hung, mái tóc có thể là tóc giả.

                            Anh úp mặt vào lòng hai bàn tay. Chỉ có những kẻ điên, những kẻ tâm trí cuồng loạn mới có thể coi những phát minh về y học, nói rõ hơn là những phương thuốc chữa bệnh, là những bí mật quốc gia cần giữ kín và việc phổ biến những phương thuốc này là một trọng tội cần bị trừng trị. Y học không đòi hỏi quốc tịch ở bệnh nhân. Người thanh niên gọi điện thoại đến nơi bị gài bẫy này dường như không biết rõ y sẽ gặp những nguy hiểm gì – Rubin bỗng thấy có cảm tình với người thanh niên xa lạ này.

                            Nhưng Lãnh tụ quyết định rằng – quyết định có thể độc đoán nhưng dù sao, đó vẫn là một quyết định phải được tôn trọng – mọi phát minh khoa học đều phải được coi là những điều kiện làm vững mạnh quốc gia, mọi người nghĩ khác như thế đều là bọn phản tiến bộ, bọn chặn đường tiến bộ, bọn có hại cho quốc gia và cần phải loại trừ.

                            Rubin cố nghĩ đến chuyện phản quốc. Người thanh niên này nhắc nhiều lần đến những tiếng "người ngoại quốc", như vậy có nghĩa là có "ngoại nhân" dính líu trong vụ này. Ngay cả tiếng "thuốc" cũng có thể là một ám hiệu. Đó có thể không phải là thứ "thuốc" mà là một thứ gì khác. Trong lịch sử, những vụ tương tự thường xảy ra. Những thủy thủ Baltic đã nổi dậy bằng cách nào? Bằng điện tín: "Gửi Bộ Tân luật Hàng hải đến…". Câu này có nghĩa: "Cho tàu chiến vào bến và nổ súng".

                            Cuộn băng lại ngừng. Rubin nhắc tay ra khỏi mặt và nhìn bộ mặt hung hăng của Smolosidov, rồi nhìn sang bộ mặt đần độn, quan trọng hóa của Rulbanyuk. Hai kẻ này làm anh ghê tởm, anh không muốn nhìn chúng, muốn ngồi gần chúng chút nào, nhưng chúng là đại diện của sức mạnh độc đoán đang ngự trị cõi đời này, anh không biết đến chúng không được.

                            Chính là những tên đồ tể như hai tên này ở trong Chính trị Cục đã đẩy Rubin đi tù vì chúng không thể chịu đựng được tài năng của anh, sự lương thiện tâm hồn của anh. Chính là những tên đồ tể như hai tên này ở Tòa án Quân sự từ bốn năm trời nay đều tay xé và liệng vào thùng đựng giấy vụn những tờ đơn tường trình, khiếu oan của Rubin.

                            Hai tên khốn nạn này chỉ đáng được người ta tặng cho chúng một trái tạc đạn, để cho thân xác chúng tan nát, vậy mà người ta vẫn cứ bắt buộc phải phục vụ chúng, như phục vụ Tổ quốc, phục vụ quốc kỳ…

                            Rubin dụi mẩu thuốc lá lên đĩa gạt tàn và nhìn thẳng vào mặt Sevastyanov. Trong gian phòng này, với Rubin, Sevastyanov là người tương đối đàng hoàng nhất, có tư cách nhất:

                            "Được rồi. Tôi sẽ cố gắng". – Anh nín thở rồi thở ra một hơi dài – "Nhưng nếu các ông không nghi cho ai, tôi không thể tìm ra được đâu. Làm sao có thể thâu được tiếng nói của tất cả mọi người đàn ông ở Mạc Tư Khoa? Tôi phải so sánh tiếng nói trong băng này với tiếng nói của những ai chứ?"

                            Bulbanyuk giơ tay trấn an:

                            "Chúng tôi đã bắt được bốn người tình nghi ở gần phòng điện thoại công cộng mà tên phản quốc đã dùng. Nhưng chắc không phải là họ. Chúng tôi có năm tên tình nghi ở Bộ Ngoại giao. Chắc chắn là một trong năm tên này là tên phạm tội. Tôi ghi tên chúng lại đây nhưng không ghi chức vụ của chúng để cho anh khỏi bị ảnh hưởng".

                            Y đưa cho Rubin một tờ giấy nhỏ trên ghi 5 tên người:

                            1. Petrov.

                            2. Syagovity.

                            3. Volodin.

                            4. Schhevronok.

                            5. Zavarin.
                            Rubin đọc và gập tờ giấy lại định bỏ vào túi.

                            "Không được" – Sevastyanov nói vội – "Smolosidov giữ giấy này".

                            Rubin đưa trả tờ giấy. Sự đề phòng này không làm cho anh bất mãn, trái lại, nó chỉ làm cho anh vui vui. Bọn đồ tể ngu si này không biết rằng chỉ cần đọc qua một lần như thế là những cái tên người đó đã ghi sâu vào ký ức anh: Petrov, Syagovity, Volodin, Schhvronok, Zavarin. Không những anh chỉ nhớ kỹ những cái tên đó mà thôi, khả năng đặc biệt về ngôn ngữ của anh còn tự động ghi nhận cả những ngữ-nguyên của những danh từ ấy: "syagovity" có nghĩa là "người nhảy xa" và "schhevronok" là tên một con chim.

                            "Tôi yêu cầu các ông cung cấp cho tôi" - Rubin nói - "tiếng nói trong điện thoại được thu vào băng của cả năm người này".

                            "Sáng mai chúng tôi sẽ mang đến đây cho anh".

                            Rubin suy nghĩ vài giây rồi nói:

                            "Tôi cần biết cả số tuổi của từng người. Tôi cần cuộn băng này suốt ngày kể từ bây giờ".

                            "Trung úy Smolosidov sẽ giữ băng và máy. Hai người sẽ có một phòng làm việc riêng ở khu Tối mật".

                            Kinh nghiệm cho Rubin biết rằng anh không nên hỏi hai tiếng "bao giờ", bởi vì nếu anh hỏi chúng hai tiếng ấy, chúng sẽ hỏi lại anh hai tiếng ấy ngay lập tức. Chẳng hạn như nếu bây giờ anh hỏi chúng: "Bao giờ các anh cần kết quả?" chắc chắn chúng sẽ nói: "Sáng mai" hoặc chúng hỏi lại anh: "Theo anh, bao giờ có kết quả?". Vì vậy, anh chỉ hỏi:

                            "Tôi sẽ nói về công việc này với ai?"

                            Sevastyanov nhìn Bulbanyuk rồi đáp:

                            "Anh chỉ được nói với Thiếu tá Roitman. Với Oskolupov. Và ông Tổng trưởng".

                            Bulbanyuk nghiêm trọng hỏi:

                            "Anh có cần tôi phải nhắc lại những lời khuyến cáo?"

                            Rubin đứng lên mặc dù anh chưa được phép đứng, anh nheo mắt nhìn ông Tướng ngồi đó như y là một vật gì rất nhỏ, khó nhìn thấy và anh nói trống không:

                            "Tôi cần có chỗ yên tĩnh để suy nghĩ".

                            Không ai phản đối anh hết và Rubin đi ra khỏi phòng, vừa đi vừa suy nghĩ. Anh cần tìm cách đưa Nerzhin vào làm việc chung với anh trong công tác này, anh cần ý kiến của Nerzhin. Tìm ra đúng tiếng người nói nhờ hai cuộn băng ghi âm không phải là việc dễ. Một khoa học mới bắt đầu thành hình. Từ trước tới giờ, người ta chỉ tìm ra tội phạm nhờ dấu tay. Và người ta đã phải mất nhiều thế kỷ tìm tòi mới hoàn thiện được khoa dấu chỉ tay.

                            Giờ đây loài người sắp có khoa tìm người qua tiếng nói, gọi là dấu tiếng.
                            #29
                              CTT 09.09.2008 22:34:48 (permalink)
                              30. Đi đày? Dễ lắm!

                              Không biết được một phần mười thành phố Mạc Tư Khoa, Nadya đã biết được bản địa dư về những nhà tù nằm trong thủ đô này. Những nhà tù được rải rác đều đặn ở khắp thủ đô và có những khoảng cách đều bằng nhau từ nhà tù nọ sang nhà tù kia. Trong những chuyến đi gửi đồ cho chồng nàng là Gleb Nerzhin, đi xin gặp chồng và đi thăm chồng, Nadya dần dần biết rõ về tình trạng nhà tù ở Mạc Tư Khoa hơn cả những chuyên viên quản trị khám đường của chính phủ. Nàng phát giác ra rằng ở tất cả những nhà trạm xe hỏa đều có đặt một nhà tù gọi là "nhà tù thẩm vấn" – người bị bắt chỉ bị tạm giữ để cho tới những nhà tù chính thức – những "nhà tù thẩm vấn" này có tên riêng là KPZ. Hơn một lần Nadya đã đến những nhà tù Butyrskaya và Taganka. Nàng biết những chiếc xe buýt công cộng nào, mặc dù đường xe chạy và những trạm ngừng không được công bố, đi tới Lefortovo và tới vùng Krasnaya Presnya. Nàng hiện sống ở gần nhà tù tên cũ là Bến Thủy Thủ, nhà tù này bị đổ hồi năm 1917 và mới được sửa lại, củng cố chắc chắn hơn.

                              Kể từ ngày Gleb từ một trại tập trung nào đó được đưa trở về Mạc Tư Khoa và hiện chàng làm việc trong Viện Khoa học nào đó, nơi chàng được ăn uống tương đối đầy đủ và được phụ trách những công việc khoa học, Nadya lại thỉnh thoảng có dịp được gặp mặt chồng. Nhưng nàng, cũng như tất cả những người vợ tù khác, không bao giờ được đến tận nhà tù chồng nàng đang sống để thăm chồng. Những tù nhân được mang đi những nhà tù khác khắp thủ đô để gặp thân nhân họ.

                              Những cuộc thăm viếng dễ chịu nhất thường xảy ra trong khung cảnh nhà tù Taganka. Nhà tù này không phải là nơi giữ tù chính trị nên kỷ luật có phần lỏng lẻo. Những cặp vợ chồng được gặp nhau trong hội quán của những viên giám thị, nơi những tù nhân biết chơi nhạc – tất cả đều phạm tội ăn trộm, ăn cắp – được quyền ngồi đàn hát. Những tù nhân được đưa tới trên một chiếc xe buýt mở mui chạy trên con đường Kamenschhikov vắng vẻ. Vợ họ đứng chờ họ bên vệ đường và trước cả khi những sĩ quan phụ trách cho lệnh gặp gỡ, những tù nhân đã ôm vợ, hôn vợ, đứng nắm tay vợ, nói với nhau những chuyện cấm nói và có thể truyền tay cho nhau những vật muốn đưa cho nhau. Cuộc gặp gỡ sau đó diễn ra trong dễ dãi và tự do. Từng cặp vợ chồng được ngồi sát bên nhau trên những chiếc ghế gỗ dài và chỉ có một viên giám thị ngồi canh chừng một nhóm bốn tù nhân.

                              Butyrskaya cũng là một nhà tù có kỷ luật lỏng lẻo và đời sống của tù nhân tương đối sung sướng, vẫn làm cho những người vợ tù lạnh da thịt vì cảnh tượng lạnh lẽo, u ám của nó. Những tù nhân từ những nhà tù khác được tới Butyrskaya đều lập tức hào hứng vì những điều kiện "tự do" của những tù nhân ở đây: tù nhân có thể đi lại thảnh thơi trong những hành lang mà hai tay không phải luôn luôn chắp lại sau lưng, tù nhân có thể nói chuyện không cần thì thầm trong nhà ngủ và nhìn qua những ô vuông đục trên cánh cửa ra hành lang nếu họ muốn, họ được nằm dài trên những tấm ván giữa ban ngày hoặc chui xuống ngủ dưới gầm giường. Tù nhân ở nhà tù Butyrskaya còn được sung sướng về nhiều điểm nữa, chẳng hạn như ban đêm khi ngủ, họ được đút tay vào túi cho khỏi lạnh trong khi ở nhà tù Mavrino, tù nhân khi ngủ phải để hai tay ra khỏi mền, tù nhân không bị tước mất kiếng đeo mắt ban đêm, dù là kiếng cận, tù nhân được quyền có diêm quẹt ở trong mình và những ổ bánh mì chỉ được cắt ra làm bốn chứ không cắt ra thành những mảnh nhỏ.

                              Vợ tù không biết gì đến điều kiện hơn đời ấy, họ chỉ nhìn thấy một bức tường pháo đài cổ cao tới ba mươi thước dài trọn cả một góc phố. Họ nhìn thấy những cánh cổng sắt vĩ đại nằm giữa những cột đá khổng lồ và thấy nhiều cánh cửa sắt nhỏ khác được kéo ra bằng máy để cho những chiếc xe Maria đen chạy ra, chạy vô. Và khi những người đàn bà này được vào nhà tù thăm chồng, họ được dẫn đi qua những hành lang lạnh có những bức tường gạch dày cả thước. Và cảnh làm cho họ xúc động nhất là cảnh chồng họ như từ những bức tường dày đột nhiên hiện ra với họ trong nửa tiếng đồng hồ, người chồng nở nụ cười ma quái trên môi xám và nói với vợ rằng y không cần gì cả, không thiếu thốn gì cả, y sống đầy đủ và sau đó y biến vào những bức tường dày.

                              Hôm nay là lần thứ nhất Nadya được gặp chồng nàng ở nhà tù Lefortovo.

                              Người gác đánh một dấu trên bản danh sách và chỉ cho nàng đi tới dãy nhà một tầng dài gần cổng.

                              Trong một căn nhà trơ trụi chỉ có một chiếc bàn gỗ dài và hai chiếc ghế gỗ dài kê hai bên bàn đã có nhiều người đàn bà ngồi đợi. Trên mặt bàn để những giỏ mây, những túi vải đi chợ bên trong dáng chừng đựng đầy món ăn. Mặc dù biết rằng hiện nay chồng nàng ăn uống tương đối đầy đủ, túi giấy đựng thức ăn quá nhỏ của Nadya cũng làm cho nàng buồn tủi, nàng hối hận vì ý nghĩ chỉ một năm nàng mới được gặp chồng có một lần vậy mà nàng cũng không đem đến cho chồng được một món gì đặc biệt. Trong túi giấy của nàng chỉ có mỗi một cái bánh ngọt do chính tay nàng làm sáng sớm nay, trong lúc những cô bạn sinh viên ở trọ chung với nàng vẫn còn ngủ. Nàng không mua được kẹo bánh ở hiệu và nàng còn quá ít tiền. Cuộc viếng thăm này trùng với ngày sinh nhật của chồng nàng và nàng không mua được một tặng phẩm nào đem đến cho chồng. Nàng muốn đem đến cho chồng nàng một quyển sách nhưng sau những rắc rối gây ra vì quyển thơ Yesenin nàng đem đến cho chồng ở lần thăm trước, nàng không còn nghĩ đến chuyện mang sách đến cho chồng nữa.

                              Lần thăm trước đây nàng đem đến cho chồng quyển thơ Yesenin. Quyển thơ này giống hệt quyển thơ Yesenin mà chồng nàng đem theo khi chàng ra mặt trận và đã bị mất khi chàng bị bắt. Trên trang đầu quyển thơ này, Nadya viết hàng chữ: "Cũng như quyển thơ này, những gì anh mất sẽ trở lại với anh".

                              Nhưng Trung tá Klimentiev đã xé tờ giấy ghi hàng chữ này ra khỏi quyển thơ ở trước mặt nàng và đưa tờ giấy đó trở lại cho nàng, y nói không một tờ giấy viết chữ nào được đưa cho tù nhân – muốn viết gì cho tù nhân, nàng phải viết thành thư hợp lệ và đưa nộp kiểm duyệt.

                              Khi biết chuyện này, Gleb tức giận bảo nàng:

                              "Đừng bao giờ em mang sách cho anh nữa".

                              Bốn người đàn bà ngồi quanh bàn. Trong số có một thiếu phụ trẻ ôm đứa con lên ba trong lòng. Nadya không quen một ai cả. Nàng chào họ, họ chào trả nàng và họ lại tiếp tục nói chuyện.

                              Ở góc phòng xa kia có một người đàn bà trạc ba mươi nhăm đến bốn mươi tuổi, bận cái áo lông thú thật cũ, ngồi trên chiếc ghế đẩu cách xa hẳn mọi người. Bà này ngồi hai tay khoanh trước ngực, mắt nhìn ngây xuống sàn nhà. Tất cả con người của bà biểu lộ ý muốn được thiên hạ để yên cho ngồi một mình, được thiên hạ đừng ai hỏi chuyện. Không thấy có một giỏ mây hay một túi vải nào bên cạnh bà này.

                              Đám đàn bà ngồi quanh chiếc bàn dài sẵn sàng tiếp nhận Nadya vào cuộc nói chuyện nhưng Nadya không muốn nói gì với họ hết. Nàng cũng muốn ngồi một mình để tận hưởng sự sung sướng sắp được gặp chồng trong buổi sáng này, nàng đi đến gần người đàn bà ngồi ở góc phòng:

                              "Tôi ngồi đây có được không ạ?"

                              Nàng chỉ xuống chiếc ghế cạnh đó và hỏi. Người đàn bà nhìn lên, đôi mắt hoàn toàn không màu. Bà ta có vẻ như không hiểu câu nói lịch sự của Nadya. Bà ta nhìn như xuyên qua người nàng.

                              Nadya ngồi xuống ghế, nàng kéo vạt áo caracul nhân tạo che kín ngực rồi cũng ngồi yên lặng.

                              Lúc này nàng không muốn nghe chuyện gì ngoài chuyện nói về chồng nàng, nàng không muốn nghĩ đến bất cứ chuyện gì ngoài nghĩ về chồng nàng. Và về những chuyện lát nữa đây vợ chồng nàng sẽ nói với nhau. Những chuyện đã chìm trong quá khứ và mờ mịt trong tương lai. Những chuyện không những chỉ liên can đến một mình chàng hay một mình nàng mà là liên can đến cả hai người. Những chuyện mà người ta thường gọi là "tình yêu".

                              Nhưng nàng không thể không nghe câu chuyện đang được nói ở quanh chiếc bàn kia. Những người đàn bà ngồi đó đang bàn tán tới chuyện chồng họ được ăn những món gì mỗi ngày, mấy ngày chồng họ được tắm, được giặt quần áo một lần. Họ có vẻ biết rành những chuyện ấy. Tại sao họ lại biết được nhỉ? Trong những lần gặp chồng họ, họ hỏi về những chuyện ấy ư? Họ đang kê khai số lượng và giá tiền những thực phẩm họ mang đến cho chồng họ hôm nay. Với sự kiên nhẫn tỉ mỉ của họ, những người đàn bà đó làm cho những gia đình trở thành gia đình và giữ cho loài người khỏi bị tận diệt. Họ không có lỗi gì cả khi sáng nay Nadya nghĩ khác. Nàng bất mãn vì thái độ chấp nhận quá đơn giản của họ. Nàng nghĩ: Họ thật ngu, thật đáng thương. Họ biến những giây phút quý báu, thiêng liêng thành một cái gì thật tầm thường. Họ không bao giờ nghĩ đến chuyện tại sao người ta lại bỏ tù chồng họ, ai đã dám bỏ tù chồng họ? Nếu chồng họ không phải tù, họ sẽ không phải khổ sở vì việc lo sao có những thức ăn này.

                              Họ sẽ còn phải chờ lâu. Cuộc thăm định trước vào lúc 10 giờ sáng nhưng bây giờ đã 11 giờ rồi vẫn chưa thấy gì cả.

                              Người đàn bà thứ bảy, một bà tóc đã xám bạc, đến muộn hơn tất cả. Bà này vừa đi vừa thở. Nadya từng gặp bà này trong một lần đi thăm trước đây. Bà này là người vợ thứ nhất của anh thợ điêu khắc và bà sẵn sàng kể chuyện về đời tư mình cho bất cứ ai muốn nghe. Bà vẫn tôn thờ ông chồng, vẫn coi chồng như một thiên tài nhưng ông chồng bà đã bỏ bà để đi sống với một ả tóc hung vàng mặc dù họ đã có ba con với nhau. Sau ba năm chung sống chung với ả tóc hung ông chồng nhập ngũ đi ra mặt trận chiến đấu. Vừa ra tới mặt trận y đã bị bắt làm tù binh và đưa sang Đức ngay. Ở bên Đức, tuy là tù binh, y sống tự do và dường như là y còn đủ thì giờ để lấy một cô vợ Đức. Từ Đức trở về, y bị bắt ở biên giới và kết án mười năm tù. Ở trong tù, y nhắn cho ả tóc hung biết là y bị tù và yêu cầu ả tiếp tế, nhưng ả nói: "Chẳng thà anh phản bội tôi thì tôi còn có thể tha thứ cho anh, nhưng anh phạm tội tổ quốc thì không thể tha cho anh được…". Sau đó anh thợ điêu khắc xin người vợ trước tha thứ, y được tha thứ và được vợ đến thăm, gửi đồ nuôi đều đều – giờ đây y nói và y chỉ yêu vợ và sẽ yêu vợ mãi mãi.

                              Nadya nhớ đến những lời cay đắng của người đàn bà tóc xám từng bị chồng bỏ này là khi có chồng ở tù, việc làm tốt nhất cho người đàn bà là "ngủ với trai", để "khi nào hắn được ra hắn sẽ trọng mình. Nếu không như thế hắn sẽ nghĩ là đàn ông không ai thèm muốn mình, hắn sẽ cho mình là quá tệ…".

                              Và giờ đây, người đàn bà tóc xám mới đến đã làm thay đổi đề tài cuộc nói chuyện ở quanh chiếc bàn dài. Bà ta đang kể lể những rắc rối của bà với bọn luật sư ở cái sở gọi là Trung tâm Cố vấn Pháp luật ở phố Nikolsky. Trung tâm này được gọi là một "kiểu mẫu". Bọn luật sư ở đấy lấy cả ngàn đồng ruble của thân chủ và chăm chỉ lui tới những hàng ăn sang nhất Mạc Tư Khoa trong khi tình trạng được thân chủ nhờ giải quyết thì vẫn được chúng để nằm nguyên chỗ cũ, nghĩa là không biết ở chỗ nào hết. Thế rồi sau một thời gian hành nghề cố vấn như thế, bọn luật sư này đi quá trớn và cả lũ dắt díu nhau đi tù với những án tù 10 năm. Thế rồi những luật sư khác tới, mở những văn phòng cố vấn pháp luật khác và lại lấy những khoản tiền lớn của thân chủ. Những luật sư này giải thích bằng một giọng bí mật rằng họ cần lấy nhiều tiền vì không phải là họ được ăn một mình, họ còn phải chia với nhiều người nữa. Họ chia với ai và họ có chia hay không, điều đó những thân chủ của họ không sao có thể biết. Những người đàn bà khổ sở có chồng tù tội chỉ biết đóng tiền và chạy đi lại giữa những tấm lưới luật pháp trùng trùng điệp điệp, họ bất lực trước những tấm lưới này cũng như họ bất lực trước bức tường cao vút của nhà tù Butyrskaya – họ không thể có cánh để bay qua bức tường đó – và họ bắt buộc phải cúi đầu trước tất cả những khung cửa mở cho họ đi qua. Họ nộp tiền cứu chồng không phải là để chờ đợi phép lạ xảy ra – chồng họ được thả – mà là để được mơ rằng phép lạ sẽ xảy ra.

                              Người đàn bà tóc xám, người vợ của người thợ điêu khắc, có vẻ tin chắc thể nào mình cũng thành công trong việc minh oan được cho chồng. Theo những lời bà ta nói, người nghe chuyện được biết rằng bà ta đã gom góp được số bạc bốn mươi ngàn ruble nhờ tiền bán nhà và tiền vay mượn của bà con, và bà ta đã nộp hết số tiền ấy cho các luật sư. Đã có bốn luật sư giúp bà thực hiện việc minh oan. Đã có ba đơn xin ân xá và bốn đơn yêu cầu xử lại được các luật sư đệ nạp đúng chỗ. Bà ta đã nhận được lời hứa hẹn sẽ cứu xét ở nhiều nơi quan trọng, bà ta biết tên tất cả những ông Biện lý đang tại chức ở ba Công tố viện chính và từng thở hít không khí ở những phòng đợi ở Tòa án Tối cao và Xô Viết Tối cao. Như nhiều người cả tin và cần được niềm tin để sống, bà ta quan trọng hóa giá trị của những lời nhận xét có thiện cảm và những ánh mắt nhìn không ác cảm.

                              "Mình phải làm đơn, phải gửi đơn khiếu nại cho tất cả mọi người" - bà ta nồng nhiệt nói, thúc giục những người đàn bà khác cũng làm như mình - "Chồng chúng ta đang khổ. Tự do không phải là tự nhiên mà có. Chúng ta phải làm đơn".

                              Những chuyện đang được nói làm cho Nadya xao lãng dòng tư tưởng của nàng, những chuyện đó cũng làm cho lương tâm nàng thêm xúc động. Nghe giọng nói nồng nàn, tin tưởng của người đàn bà nọ người ta không thể không nghĩ ra rằng bà ta đã tiến xa hơn tất cả và bà ta nhất định sắp dem được ông chồng ra khỏi tù – và người ta tự hỏi: "Tại sao mình lại không làm được như bà ấy? Tại sao mình lại không chịu hết sức…"

                              Có một lần Nadya đã giao thiệp với một luật sư ở một văn phòng cố vấn pháp luật vừa được nói đến. Với sự chỉ dẫn và giúp đỡ của luật sư này, nàng làm một đơn khiếu nại và gửi đi, nhưng nàng chỉ có thể trả cho luật sư 2.500 ruble. Số tiền này có vẻ quá ít. Luật sư có vẻ giận, tuy y cũng nhận tiền nhưng sau đó y không làm gì cả.

                              "Phải… Phải" - Nadya bỗng nói lớn nhưng nàng vẫn bình thản như nàng chỉ nói với chính nàng - …Mình đã làm hết những gì mình có thể làm được cho chồng mình chưa? Lương tâm mình có trong sạch không?

                              Những người đàn bà đang tranh nhau nói ở quanh chiếc bàn dài không nghe thấy tiếng nàng nhưng người đàn bà ngồi cô đơn và yên lặng trên chiếc ghế cạnh nàng quay phắt lại nhìn Nadya như nàng vừa chửi bà ta vậy.

                              "Còn gì nữa để mà làm?" – Người đàn bà đột ngột hỏi bằng một giọng nặng những ác cảm – "Đây là một cơn ác mộng. Luật số 58 không phải là luật dành cho kẻ phạm tội mà là luật lành cho kẻ thù. Chị không thể mua được chồng chị ra khỏi Luật số 58 dù chị có cả triệu đồng".

                              Mặt bà ta đầy những nếp nhăn. Giọng nói của bà ta đầy những âm thanh khổ ải không sao chịu đựng nổi.

                              Trái tim Nadya mở ra với người đàn bà đã có tuổi này. Bằng giọng nói như để xin lỗi câu nói mơ hồ vừa rồi của nàng. Nadya nói:

                              "Tôi muốn nói là chúng ta chưa làm hết những gì chúng ta có thể làm. Như trước đây vợ của những nhà cách mạng tháng Chạp đã bỏ tất cả để đi theo chồng không chút do dự, không chút hối tiếc. Nếu chúng ta không thể xin được cho chồng chúng ta tự do, biết đâu chúng ta chẳng xin được cho họ đi đày? Tôi có thể chịu được nếu chồng tôi được đi tới một nơi hẻo lánh nào đó, một nơi hẻo lánh ở bất cứ đâu, ở Bắc cực cũng được, nơi không bao giờ có ánh mặt trời. Tôi sẽ đi theo chồng tôi, tôi sẽ bỏ tất cả…"

                              Người đàn bà với khuôn mặt rầu rĩ của một nữ tu sĩ và bộ áo cũ đến nỗi từng sợi len đan đã rời nhau, nhìn Nadya bằng đôi mắt vừa ngạc nhiên vừa thán phục.

                              "Chị vẫn còn đủ sức theo chồng chị đi đày ư? Chị còn may mắn và chị hãy còn sung sướng. Tôi không còn chút sức lực nào cả. Tôi không còn làm nổi được bất cứ việc gì. Tôi nghĩ nếu có ông già nào có tiền chịu lấy tôi làm vợ, tôi sẽ lấy…"

                              Nadya run lên:

                              "Bà bỏ được ông ấy sao? Bà bỏ được ông ấy trong… đó?"

                              Người đàn bà nắm lấy tay áo Nadya:

                              "Này chị… Người ta dễ yêu ở thế kỷ XIX. Những người vợ của những nhà cách mạng tháng Chạp đó – chị nghĩ họ có tinh thần cao ư? Họ hăng say nhiều hơn chúng ta ư? Họ đâu có cần phải làm việc để khỏi bị chết đói? Họ đâu có bị bọn trưởng phòng nhân viên gọi đến bắt kê khai những bản khai an ninh dài dằng dặc? Họ đâu có phải giấu những tờ hôn thú của họ như giấu một thứ bệnh kín? Giấu để còn giữ được việc làm, để cho số tiền năm trăm ruble cuối cùng trong một tháng của họ khỏi bị tước đoạt nốt, để họ khỏi bị sỉ nhục ngay trong phòng riêng của họ, để khi họ đi ra sân lấy nước họ không bị người ta chửi, người ta nguyền rủa với những câu như "kẻ thù của nhân dân". Mẹ đẻ của họ, và chị em ruột của họ, có dùng áp lực ép buộc họ phải ly dị với chồng họ không? Không, trái lại nữa là khác. Họ được mọi người kính nể, thán phục. Cuộc đời và hình ảnh họ được những nhà thơ làm thơ, họ trở thành những hình ảnh đẹp trong những huyền thoại. Họ đi sang Tây Bá Lợi Á theo chồng họ trên những cỗ xe tứ mã, họ đi nhưng họ vẫn còn nguyên cái quyền được sống ở Mạc Tư Khoa, họ vẫn còn là sở hữu của mười mẫu đất, họ đâu có phải lo lắng về những dấu đen trong sổ lao động, hoặc rã rời trước những căn bếp lạnh không có nồi niêu, không dầu mỡ, không một miếng bánh đen. Họ nói: "Đi đây…" thật dễ, mà dễ thật chứ. Dường như chị chưa phải chờ đợi lâu lắm thì phải".

                              Giọng nói của người đàn bà bật thành tiếng khóc.

                              Nước mắt chan hòa trong mắt Nadya khi nàng nghe những lời trình bày ghê gớm của người đàn bà ngồi cạnh nàng.

                              "Chồng tôi đi tù đã gần được năm năm rồi" – Nadya nói như để tự biện hộ – "Trước đó chồng tôi ở mặt trận".

                              "Đừng hy vọng gì ở chuyện đó".

                              Người đàn bà hung hãn cướp lời nàng.

                              "Ở mặt trận không giống như ở tù. Chồng ở mặt trận mình dễ chờ đợi. Lúc đó ai cũng chờ. Lúc đó mình có thể nói chuyện với tất cả mọi người về chồng mình. Đọc thư. Nhưng nếu mình vừa phải chờ vừa phải giấu, vừa phải trốn – làm sao mình sống được?"

                              Người đàn bà ngừng lại. Bà ta không cần phải nói gì nhiều hơn về tình trạng ấy với Nadya.

                              Bây giờ đã là 11 giờ 30. Sau cùng, Trung tá Klimentiev bước vào phòng, theo sau là một viên Trung sĩ mập lù, mặt mũi khó khăn. Viên đội này bắt đầu mở những túi đồ, tháo tung những bao bánh, dùng dao cắt những ổ bánh ngọt được làm lấy ở nhà ra làm hai. Y cũng cất ổ bánh nhỏ xíu của Nadya để tìm xem trong đó có giấu thư, tiền, hay thuốc độc. Trong lúc đó, Klimentiev thu hồi giấy phép thăm tù của mọi người, ghi tên họ vào một quyển sổ lớn rồi đứng thẳng người theo kiểu nhà binh, dõng dạc nói:

                              "Các người chú ý. Tôi chắc các người đã biết luật lệ? Thời hạn thăm là ba mươi phút. Các người không được đưa riêng bất cứ vật gì cho tù nhân, không được hỏi về công việc họ làm, về đời sống của họ. Vi phạm những điều cấm ấy sẽ bị trị tội nặng. Và từ nay trở đi, khi thăm, không được nắm tay, không được hôn. Nếu vi phạm, cuộc đi thăm sẽ bị cắt đứt ngay lập tức…"

                              Những người đàn bà quen chịu đựng không ai nói gì cả.

                              Klimentiev đọc tên cặp vợ chồng đầu trên danh sách:

                              "Gerasimovich… Natalya Pavlovna…"

                              Người đàn bà ngồi cạnh Nadya đứng dậy, xiết chặt chiếc áo cũ, bà ta đi vào hành lang.





                              [1]Anton Chekhov: Văn sĩ viết truyện ngắn nổi tiếng nhất của Nga ở cuối thế kỷ XIX.
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 44 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9