Tầng đầu địa ngục- Aleksandr I. Solzhenitsyn- HẾT
Thay đổi trang: < 123 | Trang 3 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 44 trên tổng số 44 bài trong đề mục
CTT 12.09.2008 11:53:05 (permalink)
31. Cuộc gặp

Tuy trong lúc ngồi chờ, Nadya khóc ròng, nhưng khi đến lượt nàng được vào gặp chồng, lòng nàng vui như mở hội.

Khi nàng hiện ra giữa khung cửa, Nerzhin đứng lên đón nàng và môi chàng mỉm cười. Nụ cười chỉ ở trên môi chàng khoảnh khắc nhưng Nadya cảm thấy tình yêu và hạnh phúc dào dạt trong tim nàng. Chồng nàng vẫn gần nàng như ngày xưa. Với nàng, chàng không thay đổi.

Người đàn ông thứ hai trong phòng có cái cổ bự như cổ trâu, bận bộ quần áo xám, trông như một tay găng-tơ về già giải nghệ, đi tới đứng ở đầu chiếc bàn nhỏ, nơi hai vợ chồng sẽ ngồi nói chuyện. Cái bàn và sự có mặt của gã này trong căn phòng nhỏ ngăn không cho họ chạm tay vào người nhau.

Nerzhin bực dọc nói:

"Thôi mà… Để cho tôi cầm tay vợ tôi chứ…"

"Trái luật…"

Gã an ninh nói. Gã chỉ hé quai hàm nặng của gã đủ để hai tiếng đó lọt ra ngoài miệng.

Nadya nở nụ cười vô hồn và ra hiệu cho chồng đừng cãi cọ. Nàng ngồi xuống chiếc ghế có tay dựa trước bàn. Mặt da bọc nệm ghế đã rách. Nhiều thế hệ thẩm vấn viên đã ngồi trong chiếc ghế này và đã cho nhiều trăm người đi xuống mồ để rồi sau đó không lâu, chúng cũng đi theo những nạn nhân của chúng.

"Chúc mình một ngày sinh nhật thật vui…"

Nadya cố lấy giọng vui và vẻ mặt vui.

"Cám ơn em".

"Thật là tình cờ, vợ chồng mình được gặp nhau đúng vào hôm nay".

"Nhờ tinh tú dàn xếp…"

Hai vợ chồng đã bắt đầu quen nói chuyện với nhau.

Nadya cố gắng không để ý gì đến sự có mặt nặng nề của gã an ninh canh chừng vợ chồng nàng. Nerzhin cố gắng ngồi nghiêng để khỏi nhìn thấy mặt gã.

Chiếc bàn nhỏ từng đứng trước mặt nhiều thế hệ tù nhân bị thẩm vấn giờ đây chia cách đôi vợ chồng.

"Em có đem tới cho anh cái bánh ngọt. Bánh như má em vẫn làm cho anh ăn ngày xưa. Em rất tiếc – em chẳng có gì khác…"

"Em kỳ quá. Em không cần phải mang đến cho anh cái gì hết. Anh đã có đủ".

"Nhưng chắc là không có bánh ngọt loại này. Anh bảo em đừng mang sách đến nên em không mang. Anh vẫn đọc tập thơ Yesenin chứ?"

Nét mặt Nerzhin trầm xuống. Trước đây hơn một tháng có một tên chỉ điểm nào đó trong số tù nhân đã báo cáo với Shikin về việc chàng có tập thơ đó và Shikin đã đến tịch thu tập thơ, viện lẽ việc tù nhân đọc thơ là vi phạm luật cấm.

"Có. Anh vẫn đọc".

Chỉ được gặp nhau trong ba mươi phút, làm sao họ có thể nói với nhau vào chi tiết của từng chuyện?

Mặc dù không khí trong phòng không nóng, trái lại, còn lạnh giá, Nadya cũng mở nút áo cổ ngoài, nàng muốn cho chồng nàng nhìn thấy chiếc áo mới bên trong của nàng. Nàng hy vọng ánh hồng của màu áo sẽ làm hồng khuôn mặt của nàng. Nàng sợ chồng nàng thấy nàng quá gầy.

Với một cái nhìn bao bọc, Nerzhin ghi toàn thể hình ảnh của vợ vào tâm khảm – khuôn mặt nàng, cổ nàng, một chút làn da trắng trên ngực nàng. Dưới cái nhìn ấy, Nadya xúc động cả hồn lẫn xác – đây là sự kiện quan trọng nhất trong cuộc gặp – và toàn thân nàng như dâng lên để ôm ghì lấy chàng.

"Em có cái áo mới. Mở thêm áo ngoài cho anh ngắm".

"Còn áo ngoài của em?" Mặt nàng thoáng hiện nét thất vọng.

"Áo ngoài của em làm sao?"

"Áo ngoài của em cũng mới".

"Ồ, áo ngoài của em cũng mới…"

Gleb nhìn kỹ mặt vải caracul. Chàng nhìn nhưng không thể biết đó là vải tơ thiên nhiên hay nhân tạo, chàng là người đàn ông cuối cùng trên trái đất này có thể phân biệt được một chiếc áo giá năm trăm ruble với chiếc áo giá năm ngàn ruble.

Nadya cởi hẳn chiếc áo ngoài vắt lên thành ghế và Gleb nhìn thấy nàng, cần cổ thanh như cổ của một thiếu nữ – từ ngày chàng gặp nàng, lúc nào cổ nàng cũng thanh, cũng đẹp và trẻ như thế – và bờ vai thon chàng từng muốn làm cho vỡ ra khi chàng hôn nàng, và dưới làn vải áo, đôi gò ngực đã mềm đi vì năm tháng.

Ý nghĩ oán trách về việc nàng có áo mới, nàng quen biết nhiều người mới… chỉ thoáng hiện trong óc Gleb, ngay sau đó chàng nghĩ rằng nàng cũng đau khổ nhiều dù nàng không bị tù, đời nàng cũng bị tan nát, và chàng nói, giọng âu yếm:

"Em gầy quá. Em nên ăn nhiều. Em có điều kiện ăn uống khá hơn không?"

Trông em có còn được không? Ánh mắt nàng hỏi.

Em vẫn tuyệt vời như ngày nào. Ánh mắt chồng nàng đáp.

Mặc dù những lời trên đây không bị ông Trung tá An ninh cấm, họ cũng không thể nói với nhau được trước mặt một người khác.

"Em ăn được. Em vẫn ăn uống đều" – Nadya nói dối – "Chỉ vì em bận nhiều, phiền muộn nhiều".

"Em sống ra sao? Nói cho anh nghe đi…"

"Không. Anh nói trước…"

Gleb mỉm cười:

"Anh có thể nói gì với em? Chẳng có gì hết…"

"Để em nói vậy…"

Nàng bối rối, do dự như người không muốn nói.

Ở đầu bàn, gã an ninh mập lùn đứng gù bờ vai ụ nhìn xuống cặp vợ chồng như con chó săn nhìn xuống hai con mèo.

Bộ mặt gã lạnh như đá.

Họ phải lựa giọng nói đúng để cho nhau có thể hiểu sự thật lẩn trong những câu nói vô vị đó. Họ phải dùng đến lối nói bóng gió. Ngôn ngữ đặc biệt của những sinh viên đại học giúp họ thực hiện việc này.

"Bộ quần áo này phải của anh không?" Nàng hỏi.

Nerzhin nhăn mặt và lắc đầu.

"Trong ba tiếng đồng hồ. Em đừng để ý đến chuyện vặt ấy".

"Em phải để ý chứ".

Nàng nói, làn môi dưới hơi trề ra, làm điệu, như cô gái đang làm dáng trước mặt người yêu, nàng sung sướng vì nàng đã có lý do tin chắc chồng nàng vẫn còn yêu nàng, vẫn thèm muốn nàng.

"Bọn anh quen rồi. Bọn anh chỉ thấy khía cạnh khôi hài của mọi vấn đề".

Nadya nhớ lại những lời bà vợ của tù nhân Gerasimovich nói với nàng và nàng thở dài:

"Nhưng bọn đàn bà không thể…"

Nerzhin phải cố gắng tự chế ngự nhiều lắm để khỏi dùng chân mình khỏi chạm vào chân vợ dưới gầm bàn, nhưng thực ra, nếu chàng có muốn chạm cũng không được. Thanh gỗ đóng ngang dưới gầm bàn được đóng với mục đích không cho họ làm việc ấy. Chàng chống hai cùi chỏ trên mặt bàn và nhô người ra giữa bàn để được gần vợ hơn một chút nữa và giọng chàng đầy những âm thanh thất vọng:

"Chướng ngại ở khắp nơi…"

Em còn là của anh không? Của riêng anh? Ánh mắt chàng hỏi.

Em vẫn là người đàn bà anh yêu và yêu anh. Em không thay đổi. Em không xấu hơn. Tin em. Ánh mắt xám, rực sáng của nàng trả lời.

"Về việc học của em? Em đang phải giải quyết những vấn đề gì? Theo anh tính thì em không còn là sinh viên nữa?"

"Dạ".

"Em trình luận án chưa?"

"Chưa".

"Sao vậy?"

"Tình trạng như vầy…" - Nàng bắt đầu nói vội, nói nhanh, sợ hãi đến cuống quít vì sự nhận thức thời gian đã trôi qua quá nhiều - "Từ ba năm nay không còn ai trình luận án nữa. Họ tạm đình tất cả. Tỉ dụ một sinh viên bỏ ra hai năm để viết luận án về đề tài "Những vấn đề của việc phân phối thực phẩm" và khi viết gần xong, người ta bảo bỏ đi, viết về đề tài khác. (Sao mình lại nói về chuyện này? Có gì đáng để mình nói đâu?). Luận án của em đã viết xong từ lâu nhưng người ta không nhận… (Em viết đề tài "Chống lại thói a dua")… Người ta bảo em sửa lại nhưng em không biết mình phải sửa như thế nào. Nhiều chuyện rắc rối lắm".

"Nhưng em vẫn còn được hưởng học bổng?"

"Hết rồi".

"Thế em sống bằng gì?"

"Tiền lương của em".

"Em đi làm rồi sao? Làm ở đâu?"

"Ở ngay trong Viện Đại học".

"Em làm gì?"

"Việc em làm không thường trực, không hẳn là việc. Em sống tạm bợ, cả trong ký túc xá em cũng chỉ là sống tạm… Thực ra, em…"

Nadya liếc nhìn người gác. Chuyện mà nàng muốn nói là Nha Công an đã gửi giấy báo cho nàng biết là nàng không còn được phép ở lại Mạc Tư Khoa nữa nhưng cùng một lúc, Bộ Giáo dục lại cho phép nàng được học thêm sáu tháng. Sự lầm lộn này có thể được người ta phát giác và sửa lại cho thống nhất bất cứ ngày giờ nào. Chính vì vậy nàng lại càng không thể nói với chồng chuyện đó ở trước mặt nhân viên an ninh này.

Nàng rầu rĩ nói tiếp:

"Em cũng chỉ được phép gặp anh lần này vì… Chuyện xảy ra như thế này…"

Làm sao nàng có thể kể lể được tất cả trong vòng nửa giờ?

"Đừng. Để chuyện đó nói sau. Anh muốn hỏi em: Có phải những rắc rối đó là vì anh không?"

"Em gặp nhiều khó khăn lắm. Họ muốn em làm… việc ấy, nhưng em cố không làm".

"Việc ấy" là việc gì?"

Nadya thở dài khổ sở và một lần nữa, nàng lại liếc nhìn gã nhân viên an ninh. Bộ mặt hung hãn của gã, như sẵn sàng sủa lên những tiếng đe dọa hoặc đớp nàng như một con chó dữ, chỉ ở xa mặt vợ chồng nàng chưa đầy hai thước.

Nàng giơ tay lên trong một dáng điệu bất lực. Nếu nói, nàng phải nói rằng ở trường đại học, nếu muốn xin theo học một khóa mới, nàng phải khai lại lý lich, những tờ khai lý lịch bây giờ nhiều câu hỏi hơn trước, chẳng hạn nàng phải khai về chồng, về họ hàng của chồng nàng, về họ hàng của những người họ hàng này. Nếu nàng khai "Chồng tôi bị tù vì Điều 58" thì không những là họ chỉ từ chối không cho nàng học mà họ càng không cho nàng sống thêm một ngày trong ký túc xá sinh viên của trường. Nếu nàng khai dối "Chồng tôi là sĩ quan bị mất tích" nàng vẫn phải khai tên chồng, số quân nhân của chồng và họ chỉ cần làm một cuộc sưu tra là nàng sẽ bị đưa ngay ra tòa vì tội khai gian. Nàng còn có thể làm được một việc nữa để giải quyết tình trạng của nàng nhưng trước mắt nhìn chăm chú của chồng, nàng không thể nói ra được.

Và nàng hấp tấp nói sang chuyện khác:

"Em chơi nhạc trong ban nhạc của trường. Em đi trình tấu nhiều nơi. Mới tháng trước ban nhạc của em được trình tấu ở Đại Hí Viện cùng một đêm với Yakov Zak…"

Gleb mỉm cười gật đầu, như chàng không hào hứng lắm trong việc tin đó là sự thật.

"Em gặp một chuyện tức cười lắm trong đêm ấy… Em bận bộ y phục đẹp nhất của em nhưng người ta bảo là bận bộ ấy lên sân khấu không được. Họ mượn ở kho y phục của Hí Viện cho em một bộ áo, đẹp lắm, dài đến mắt cá chân".

"Trình tấu xong, họ lại bảo em trả?"

"Dạ. Các bạn em thường trách em mất thì giờ vì âm nhạc, em trả lời họ là thà em mất thì giờ vì âm nhạc còn hơn là mất thì giờ vì người nào…"

Sự cám ơn hiện rõ trong ánh mắt của Gleb, rồi chàng hỏi bằng một giọng thắc mắc, chú ý:

"Em nói cho anh biết về "việc ấy"? Việc mà em nói em cố không làm?"

Mắt Nadya nhìn xuống:

"Em muốn nói… Nhưng anh phải hứa là anh đừng coi đó là chuyện quan trọng em mới nói… Có lần trước đây anh bảo em ly dị đi".

Nàng cố gắng giữ thản nhiên để nói những lời này. Đây là giải pháp cuối cùng có thể giúp cho nàng sống. Trong bản khai lý lịch, nàng vẫn phải khai tên tuổi, chức vụ nghề nghiệp của chồng cũ, địa chỉ cũ và hiện tại, bà con thân quyến và cả ngày sinh, tháng đẻ, địa chỉ của thân quyến. Nàng chỉ có thể khai là "không có chồng" và khai như thế, nàng cũng vẫn có thể bị nguy hiểm nếu bị phát giác.

Đúng như Nadya vừa nói, có lần Gleb đã thúc giục nàng ly dị, ly dị đi để sống, đợi bao giờ chàng ra khỏi tù sẽ tính lại. Nhưng lúc này khi nghe nàng nói đến hai tiếng ấy, Gleb run lên. Và chỉ đến giây phút này chàng mới nhận thấy là chiếc nhẫn cười nàng vẫn đeo không còn trên ngón tay nàng nữa.

Nhưng chàng vẫn quả quyết nói:

"Phải, phải. Anh có bảo em như thế. Em nên làm thế…"

"Anh sẽ không buồn lắm, anh sẽ không chống lại… nếu em… bắt buộc phải làm như thế?"

Nadya cố gượng ngẩng mặt lên nhìn chồng. Đôi mắt nàng mở lớn. Ánh cầu vồng ngũ sắc trong đôi mắt nàng sáng lên với ý van xin chồng tha thứ và thông cảm. Nàng nói tiếp trong hơi thở, tiếng nói gần như thì thầm:

"Chúng ta không làm thật…"

"Em yêu… Lẽ ra em phải làm việc ấy lâu rồi mới phải".

Gleb nói bằng một giọng quả quyết và tin tưởng mặc dù trong lòng chàng không có chút quả quyết hay tin tưởng nào – chàng gác lại sau cuộc gặp gỡ này tất cả những suy tư về hậu quả của những lời chàng nói. Và về những gì đã xảy ra, sẽ xảy ra.

"Em vẫn muốn em không phải làm thế. Em vẫn hy vọng sự việc sẽ không đến nỗi phải như thế…"

Nadya nói như năn nỉ, như van xin, nàng kéo cổ áo che kín ngực và trong lúc đó, nàng có vẻ mệt mỏi, rã rời, già đi, nàng như người sắp phải khóc:

"Em chỉ muốn nói chuyện đó với anh… để anh biết, để anh thuận cho… trong trường hợp em không làm không được. Nhưng em vẫn hy vọng nó sẽ không xảy đến…"

"Dù có cũng đã sao? Không sao hết. Em yêu… Em làm vậy là đúng… Đúng lắm…"

Nerzhin thẫn thờ nói. Trong lúc đó tâm trí chàng đã chuẩn bị nói với nàng những lời ghê gớm: "Đó là việc quan trọng. Bởi vì… em yêu, em đừng hy vọng quá ở việc anh sẽ về với em khi anh mãn hạn tù này…".

Chàng đã chuẩn bị chờ đón hạn tù thứ hai và tiếp đó là án tù chung thân, tù vĩnh viễn không bao giờ được trả lại tự do. Trường hợp đó xảy ra với nhiều người bạn cùng tù với chàng. Những người ngay cả trong tù đày vẫn không chịu khuất phục. Chàng không thể viết chuyện đó trong thư gửi ra cho vợ và ngay cả trong buổi gặp mặt này, chàng cũng không thể nói.

Cảm giác kinh hãi hiện trên khuôn mặt Nadya:

"Hạn tù có thể kéo dài…" Nerzhin nói vội vã, chàng nhấn mạnh những tiếng không cần nhấn mạnh để cho gã an ninh không theo dõi được, không kịp hiểu chàng nói gì nhưng vợ chàng sẽ hiểu khi nàng nhớ lại, nàng hiểu vì nàng chăm chú nghe, vì chuyện đó quan hệ đến đời nàng – "Thời hạn có thể kéo dài mãi mãi. Lịch sử đầy những trường hợp như thế. Mà dù cho có mãn vì một phép lạ nào đó, đừng tưởng tượng hão huyền anh và em sẽ có thể trở lại được đời sống như xưa, trở về thành phố… Em phải hiểu và em phải ghi nhớ: họ không cho ta trở về dĩ vãng. Điều anh ân hận nhất là anh đã không học nghề đóng giày. Một nghề như thế sẽ có ích cho chính mình biết chừng nào khi chính mình sống ở một làng quạnh hiu nào đó miền Bắc Tây Bá Lợi Á, ở Krasnoyark, hay ở miền hạ lưu Angara. Chúng ta nên chuẩn bị để sống một cuộc đời như thế. Ở đó ai cần đến những công thức toán học Euler?"

Chàng thành công: gã găng-tơ về hưu không làm một cử động, gã chỉ nháy mắt khi những tư tưởng của Nerzhin bay qua mặt gã.

Nhưng Nerzhin đã quên – không, thực ra chàng không quên, chàng chỉ không hiểu, như đa số những người ở tù không hiểu – là những người quen đi trên mặt đất bằng không thể nào vượt qua ngay được những ngọn núi lớn. Chàng không biết rằng cho đến bây giờ vợ chàng vẫn còn đếm, như trong những tháng đầu tiên, từng ngày, từng tuần chàng còn phải sống trong tù. Với chàng, hạn tù là một chuỗi dài ngày tháng vô tận nhưng với nàng, thời gian đó là 264 tuần lễ, là 61 tháng, là hơn 5 năm, bởi vì trước khi ở tù chàng đã xa nhà để lên mặt trận, chàng đã xa nàng từ lâu lắm.

Trong lúc Nerzhin nói, vẻ kinh hoàng trên mặt Nadya càng lúc càng nặng.

"Đừng, mình…" - Nàng kêu lên - "Mình đứng nói thế…"

Nàng đã quên người gác, nàng không còn xấu hổ khi để lộ những cảm nghĩ thực của nàng:

"Đừng làm em mất hết hy vọng. Em không muốn tin. Không thể như thế được. Hay là mình nghĩ rằng em có thể bỏ được mình?"

Môi trên nàng run run, nét mặt nàng nhăn nhúm, mắt nàng hiển hiện sự trung thành, chỉ có chung thủy trong mắt nàng.

Nerzhin nói, giọng chàng khác đi:

"Anh tin em, anh tin em, Nadya … Anh hiểu lòng em…"

Nàng ngồi im và rũ rượi trong lòng ghế.

Trong khung cửa mở hiện ra bóng dáng tối và vạm vỡ của người sĩ quan an ninh. Y lặng lẽ nhưng sắc sảo đứng nhìn ba người tụm gần vào nhau trong phòng. Rồi y ra hiệu gọi người gác.

Gã côn đồ giải nghệ, với vẻ bất đắc dĩ như người đang ăn ngon phải rời khỏi bàn, đi về phía Trung tá. Bốn bước sau lưng Nadya chúng chỉ nói với nhau có hai tiếng ngắn nhưng trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy Nerzhin cũng kịp hạ giọng nói với Nadya:

"Em biết vợ Sologdin không?"

Đã quen với những cuộc thay đổi đề tài đột ngột như thế này, Nadya đáp:

"Có".

"Biết chỗ ở?"

"Có".

"Họ không cho anh ấy gặp vợ. Em hãy đi tìm và nói với chị ấy…"

Gã côn đồ trở lại.

Gleb nói rõ và lớn:

"Ảnh yêu, ảnh tin và ảnh hy vọng".

"Yêu, tin và hy vọng…" Nadya nhắc lại trong một tiếng thở dài. Nàng nhìn ngay lên khuôn mặt chồng. Nàng từng quan sát chàng trong nhiều năm nhưng giờ đây, nàng vừa nhìn thấy chồng nàng có một khía cạnh mới.

Nàng cũng dời lại tất cả những suy tư đến sau cuộc gặp, nàng sẽ nhớ lại và phân tích tỉ mỉ tất cả những lời chàng nói và nàng cũng không biết sẽ có những gì xảy đến, nhưng ngay lúc này trái tim nàng khao khát được thấy người đàn ông nàng yêu để lộ sự yếu đuối, sự ao ước được giúp đỡ, sự kêu gọi mà người đàn bà cần thấy để có thể hy sinh cả đời mình, để có đủ sức đợi chờ mười năm nữa và theo người yêu đi đày.

Nhưng nàng chỉ thấy chàng mỉm cười, chàng mỉm cười tự tin như bất cứ lúc nào. Bao giờ chàng cũng tự tin. Chàng không cần cảm tình của bất cứ ai. Chàng thoải mái ngồi trên chiếc ghế đẩu. Chàng có vẻ như hài lòng nhìn quanh gian phòng. Chàng có vẻ khoẻ mạnh và ánh mắt chàng long lanh sáng. Chàng có thực sự cần sự chung thủy của một người đàn bà để sống hay không?

Nhưng Nadya không có đủ thì giờ để trả lời câu hỏi ấy.

Và Nerzhin không biết rằng vợ chàng cần thấy những gì, vợ chàng đang nghi ngờ.

"Hết giờ rồi…"

Klimentiev nói vào từ ngưỡng cửa.

Nadya ngạc nhiên:

"Đã hết rồi sao?"

Nerzhin nhíu đôi lông mày, chàng cố gắng nhớ lại điều quan trọng nhất trong số những điều quan trọng chàng đã dự định sẽ nói với vợ.

"Em đừng ngạc nhiên nếu họ cho anh đi xa, thật xa và anh không gửi được thư cho em…"

Nadya kêu lớn:

"Tại sao? Họ đưa anh đi đâu?"

Chàng nhún vai:

"Đi đâu? Chỉ có Chúa biết…"

"Mình bắt đầu tin ở Chúa ư?"

Chàng mỉm cười:

"Như Pascal, Newton, Einstein…"

Gã an ninh sủa:

"Không được nói tên người. Thôi đi…"

Người chồng và người vợ cùng đứng bật dậy. Giờ đây, khi họ không còn sợ cuộc gặp mặt của họ bị cắt ngang nữa, người chồng nhoài người qua mặt bàn để ôm vợ. Nerzhin hôn Nadya lên má rồi lên môi. Toàn thân chàng như níu chặt lấy môi nàng, đôi môi mà chàng đã quên. Một năm sau nữa chàng không còn hy vọng được ở Mạc Tư Khoa để có thể lại hôn nàng. Giọng chàng run lên vì trìu mến: "Em cứ làm tất cả những gì em thấy tốt cho em. Còn anh…". Chàng không nói được hết câu.

Họ nhìn vào mắt nhau.

"Làm cái gì vậy?"

Gã an ninh nắm lấy vai Nerzhin và kéo chàng ra.

"Tôi hủy cuộc gặp này của anh…"

Nerzhin giằng mạnh:

"Hủy đi, đồ khốn…"

Nhưng chàng chỉ nói lớn câu đó trong cổ họng chàng.

Nadya lảo đảo lùi về phía cửa, với những ngón tay của bàn tay không đeo nhẫn, nàng vẫy chào từ biệt chồng.

Và nàng biến mất giữa khung cửa.
#31
    CTT 12.09.2008 11:55:52 (permalink)
    32. Một cuộc gặp mặt khác

    Gerasimovich hôn vợ.

    Người canh chừng họ là một gã trẻ tuổi, ít nói và có vẻ hơi đần. Gã không coi chuyện vợ chồng tù nhân hôn nhau là quan trọng. Gã còn bối rối vì gã thấy gã xen vào cuộc gặp gỡ của vợ chồng người ta, gã muốn ngồi quay mặt vào tường trong suốt nửa tiếng đồng hồ nhưng không thể được, Trung tá Klimentiev đã ra lệnh là không một giây nào gã rời mắt nhìn tù nhân và cửa vào bảy phòng thẩm vấn phải mở rộng để ông có thể đi lại ngoài hành lang và nhìn được vào phòng để kiểm soát.

    Thực ra, Trung tá Klimentiev cũng không coi việc vợ chồng tù nhân hôn nhau hay nắm tay nhau là quan trọng và cần phải cấm đoán. Y biết rằng những bí mật quốc gia không thể nào truyền đạt từ người này qua người khác nhờ những chiếc hôn nhưng mệnh lệnh của thượng cấp, y phải thi hành. Và y còn phải đề phòng cả những thuộc viên dưới quyền y, cả những tên tù, trong bọn này có những tên làm chỉ điểm cho thượng cấp và có thể báo cáo cả về y.

    Gerasimovich và vợ hôn nhau nhưng đây không phải là chiếc hôn làm cho người hôn xúc động như thời họ còn trẻ mạnh. Chiếc hôn vụng trộm, ăn cắp từ những người có quyền, từ định mệnh không có màu sắc, không hương vị, không có mùi – đó là chiếc hôn xanh xám mà người ta thường trao đổi với một người thân đã chết ở trong giấc mơ.

    Rồi vợ chồng họ ngồi xuống, ngăn cách bởi mặt bàn vẫn dùng để hỏi cung tù nhân.

    Cái bàn nhỏ này có thể có một tiểu sử nhiều chi tiết hơn nhiều cuộc đời loài người. Trong nhiều năm, không biết bao nhiêu người đã ngồi cạnh nó, đã khóc, đã rùng mình vì kinh sợ, đã cố gắng chống cự mặc dù tuyệt vọng với cơn buồn ngủ rã rượi, đã nói lên những lời hào hùng, kiêu ngạo hoặc giận dữ, hoặc líu ríu cầm lấy bút ký lên những bản tố cáo những người thân của họ. Những người ấy không có bút chì hay bút mực, họ chỉ được cầm bút những khi họ phải ký hoặc trong vài trường hợp họ phải viết, nhưng họ vẫn để lại được trên mặt bàn này những vết tích của họ.

    Gerasimovich nhìn vào mặt vợ.

    Ý nghĩ đầu tiên của anh là vợ anh đã trở thành quá xấu xí. Hai mắt nàng nhỏ lại. Có nhiều vết nhăn ở hai đuôi mắt và quanh miệng nàng. Làn da mặt nàng nhão, chảy xuống và Natasha như người lâu rồi không còn biết trang điểm là gì. Chiếc áo ngoài của nàng ra đời từ trước thời chiến tranh và cần được lộn mặt trong ra ngoài từ lâu. Những sợi lông thú trên cổ áo xác xơ và dính bết vào nhau, chiếc khăn choàng trên tóc nàng phải già đến cả mấy chục năm. Gerasimovich nhìn chiếc khăn choàng cũ kỹ ấy và anh lờ mờ nhớ rằng dường như anh đã mua cho vợ chiếc khăn choàng này bằng một phiếu trưng thu và vợ anh từng đội nó trong thời gian thành phố Leningrad bị quân Đức bao vây những khi nàng đi ra sông Neva lấy nước.

    Gerasimovich cố ngăn chặn ý nghĩ chính nổi lên từ trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn anh. Đó là ý nghĩ vợ anh trước kia trông hấp dẫn và gợi tình đến chừng nào. Trước mặt anh bây giờ là một người đàn bà, người đàn bà duy nhất trên đời này là một phân nửa của anh. Trước mặt anh bây giờ là người đàn bà chia sẻ những ký ức của anh. Những người thiếu nữ tươi trẻ nhưng hoàn toàn xa lạ với anh, những người có những kỷ niệm riêng, những ghi nhớ riêng, làm sao có thể có giá trị với anh bằng người đàn bà này?

    Natasha chỉ mới bắt đầu bước vào tuổi mười tám khi họ gặp nhau lần đầu tiên trong một căn nhà ở Srednaya Podyacheskaya, gần cầu Livniny. Ngày đó là đầu năm 1930. Chỉ còn sáu ngày nữa là đúng hai mươi năm.

    Năm Natasha mười chín tuổi, anh bị bắt lần đầu vì tội phá hoại.

    Gerasimovich bắt đầu làm việc như là một kỹ sư trong một giai đoạn mà danh từ "kỹ sư" được coi là đồng nghĩa với danh từ "kẻ thù". Và trong giai đoạn ấy người ta sẵn sàng nghi cho những kỹ sư làm công tác phá hoại. Ngày đó Gerasimovich vừa mới tốt nghiệp, anh mang kiếng trắng vì mắt kém và cặp kiếng trắng này làm cho anh giống hệt với hình vẽ những tên trí thức làm gián điệp cho địch in trên những tờ bích chương dán khắp nơi trong những năm 30. Anh gật đầu chào tất cả mọi người, kể cả những người anh không cần phải chào, và anh luôn miệng nói: "Tôi xin lỗi" bằng một giọng dịu dàng, lễ độ. Trong những cuộc mít-tinh, anh hoàn toàn im lặng và ngồi như con chuột. Anh không hiểu cả rằng anh làm cho người ta khó chịu đến là chừng nào.

    Nhưng dù họ có chuẩn bị buộc tội anh kỹ càng đến thế nào đi nữa, họ cũng chỉ có thể ghép anh vào tội phá hoại mơ hồ và kết án anh ba năm tù. Khi anh đi đến sông Amur, anh được sống tự do không bị kiểm soát. Vợ chưa cưới của anh theo anh đến đó và họ trở thành vợ chồng.

    Trong thời gian họ sống ở bên sông Amur, gần như là không đêm nào hai vợ chồng không mơ thấy thành phố Leningrad. Họ bắt đầu chuẩn bị để trở về Leningrad vào năm 1935, nhưng cũng đúng năm ấy, nhiều làn sóng tù nhân mới đổ dồn về phía họ.

    Natasha Pavlona cũng quan sát chồng nàng rất kỹ. Từng có thời gian nàng trông thấy khuôn mặt chồng nàng có đổi khác. Nàng từng thấy đôi môi Gerasimovich trở thành cứng rắn, đôi mắt anh trở thành lạnh lùng, gần như tàn ác, sau làn kiếng trắng. Illarion Pavlovich thôi không còn chào người lạ nữa, thôi không nói: "Tôi xin lỗi" nữa. Anh luôn luôn bị người ta chê bỏ vì quá khứ của anh. Anh bị người ta cho nghỉ việc liên tiếp và sau đó, anh bị người ta trao cho làm những việc không xứng đáng với tài năng và học thức của anh. Vợ chồng họ lang thang, phiêu bạt khắp nơi, sống đói khổ và nghèo nàn, thiếu thốn đủ thứ. Họ chết mất đứa con gái, rồi con trai họ cũng chết. Cuối cùng, họ đánh nước liều: đằng nào cũng chết, họ trở về Leningrad. Họ về tới đó vào tháng sáu năm 1941.

    Ở đó họ lại càng khó sống, những bản khai lý lịch làm cho Gerasimovich không sao tìm được việc làm trong những cơ xưởng, những phòng thí nghiệm. Anh phải làm những việc lao động chân tay để sống. Suốt một mùa thu năm ấy anh đào chiến hào, giao thông hào và hầm hố quanh Leningrad. Chiến sự lan đến. Khi những bóng tuyết đầu tiên của mùa đông rơi xuống, anh trở thành phu đào huyệt chôn người chết.

    Trong thành phố bị bao vây, nghề phu đào huyệt là nghề cần đến nhiều nhân công nhất và cũng là nghề kiếm ăn dễ nhất. Để đền ơn cho những kẻ chôn những người bạn của mình, những chiến sĩ chưa chết đưa cho những người đào huyệt những phần bánh mì của họ.

    Người ta không thể không xúc động đến run rẩy khi ăn những mẩu bánh ấy, xong Gerasimovich tìm được một lý do để tự bào chữa, anh nói: "Người ta thương hại mình nhưng mình không cần ai thương hại hết".

    Và vợ chồng họ sống sót. Nhưng trước khi thành phố được giải tỏa hoàn toàn, Gerasimovich đã bị bắt lại vì tội mưu toan phản quốc. Năm đó ở Leningrad, rất nhiều người bị bắt vì tội mưu toan như thế.

    Natasha Pavlovna nhìn kỹ lên khuôn mặt chồng nàng, nàng ngạc nhiên khi không tìm thấy trên khuôn mặt ấy những dấu vết của cuộc sống tù tội. Đôi mắt anh vẫn biểu lộ sự thông minh bình thản sau làn kiếng trắng. Hai má anh không nhăn, mặt anh không có một vết nhăn. Bộ y phục anh mang trên người là một bộ đắt tiền. Chiếc cravatte anh thắt trên cổ áo thẳng và gọn.

    Người ta có thể nghĩ trong hai vợ chồng, người vợ là người ở tù chứ không phải là người chồng.

    Và ý nghĩ không đại lượng đầu tiên hiện lên trong óc Natasha là chồng nàng thực sự sống sung sướng trong cái nhà tù đặc biệt ấy. Anh không bị hành hạ, anh bận rộn với công tác khoa học mà anh thích làm và anh không bận tâm gì đến người vợ sống khổ sở bên ngoài.

    Nàng cố đè nén ý nghĩ oán trách đó.

    Nàng hỏi bằng một giọng yếu ớt:

    "Mình sống trong đó ra sao?"

    Như là nàng đã chờ đợi mười hai tháng để được gặp mặt chồng, đã nghĩ đến người chồng trong 360 đêm dài nằm lạnh trên chiếc giường nhỏ kê bên khung cửa sổ bám đầy băng tuyết chỉ để hỏi chồng: "Mình sống trong đó ra sao?".

    Và Gerasimovich, người mà cuộc đời chỉ là một chuỗi ngày tù đày dài và liên tiếp, bình thản trả lời:

    "Không đến nỗi nào…"

    Họ chỉ có ba mươi phút đồng hồ để ngồi trước mặt nhau. Những giây phút đó đang trôi qua. Họ có cả trăm câu hỏi để hỏi nhau, cả ngàn ao ước và than thở để thổ lộ với nhau. Và Natalya Pavlovna hỏi chồng:

    "Mình biết cuộc gặp này từ bao giờ?"

    "Cách đây hai ngày. Còn em?

    "Hôm thứ ba. Ông Trung tá hồi nãy còn hỏi em là có phải em là em gái của mình không".

    "Bởi vì chính mình trùng tên thánh?"

    Natalya gật đầu.

    Khi họ bắt đầu hứa hôn với nhau, và nhất là trong thời gian họ sống với nhau trên sông Amur, mọi người đều tưởng rằng họ là anh em. Họ có cái vẻ bên ngoài sung sướng, hồn nhiên và sự giống nhau trong tâm hồn làm cho họ gần nhau hơn cả vợ chồng.

    "Còn em sao? Có khổ sở lắm không?"

    "Sao anh lại hỏi em thế?" – Nàng lo âu hỏi lại – "Anh biết ư?"

    "Biết gì?"

    Anh biết, nhưng anh không biết rõ, không biết hết. Anh biết rằng ở bên ngoài, cuộc đời những người vợ tù khổ sở ghê gớm. Họ bị hành hạ, họ bị tẩy chay vì chồng họ là tù.

    Nhưng làm sao anh có thể biết rằng trong ngày thứ tư vừa qua vợ anh đã bị đuổi khỏi sở làm vì nàng là vợ anh? Và từ ba ngày nay, sau khi nhận được giấy gọi đi thăm chồng, nàng đã ngừng không còn đi tìm việc nữa. Nàng chờ đợi cuộc gặp mặt này như nó sẽ gây ra một phép lạ, và nó sẽ đem ánh sáng đến chan hòa đời nàng, chỉ cho nàng biết nàng phải làm gì.

    Xong làm sao chồng nàng có thể khuyên được nàng nên làm gì, vì chồng nàng là người đã ở tù quá nhiều năm, chồng nàng hoàn toàn không còn quen thuộc gì với những cách sống của người thường.

    Natalya phải chọn một quyết định: ly dị chồng hay không.

    Trong căn phòng lạnh, xám và trơ trụi mà ánh sáng chỉ yếu đuối len vào được qua khung cửa sổ có chấn song sắt, cuộc gặp mặt và hy vọng ở một phép lạ của nàng đã trôi đi.

    Natalya Pavlovna, trong nửa tiếng đồng hồ ngắn ngủi này, hiểu rằng nàng không thể diễn tả được sự cô đơn và đau khổ của nàng với chồng nàng. Nàng thấy rõ chồng nàng đi theo một dòng đời riêng, sống một cuộc đời riêng. Đằng nào chồng nàng cũng không thể hiểu, làm cho chồng nàng hoảng loạn nào có ích lợi gì?

    Người gác đi tới gần tường và đứng chắp hai tay sau lưng nhìn ngắm màu vôi quét trên đó.

    "Nói cho anh biết em sống ra sao đi…"

    Illarion Pavlovich nắm bàn tay vợ trên mặt bàn. Ánh mắt anh sáng lên niềm trìu mến từng an ủi nàng nhiều trong thời gian đôi vợ chồng sống cực khổ trong thành phố bị bao vây.

    "Larik… Mình có thể… Mình có cách nào ra khỏi đó sớm hơn không?"

    Nàng muốn hỏi chồng về những biện pháp để có thể sớm ra khỏi tù. Trước đây, hồi sống trong trại tập trung bên sông Amur, anh đã làm việc mỗi ngày nhiều bằng hai người và nhờ vậy, hạn tù của anh đã được giảm đi.

    Illarion lắc đầu:

    "Không có cách nào thâu ngắn hạn tù cả. Công việc ở đây không giống như việc anh làm trước kia. Ở đây người ta phải phát minh ra được một cái gì lớn, quan trọng mới hy vọng được ra sớm. Nhưng có điều đáng nói là ở đây" – anh liếc nhìn người gác - "…không ai muốn phát minh gì hết".

    Anh không còn có thể nói được rõ hơn.

    Anh đưa bàn tay vợ lên áp vào má anh.

    Ở trong thành phố Leningrad băng giá năm xưa anh có thể nhận những mẩu bánh mì của những người sắp chết trong ngày mai. Nhưng ở đây anh không thể…

    "Em có cô đơn lắm không? Em có buồn lắm không?"

    "Buồn?"

    Trái tim Natalya se thắt lại vì giờ đây cuộc gặp mặt đã gần chấm dứt và nàng sắp phải đi một mình trên những đường phố vắng của khu Lefortovo, tâm hồn không được thêm một điều gì mới, không một khuyến khích, một an ủi, nàng sẽ lại trở về với cô đơn. Về với cuộc sống không mục đích, vô nghĩa, cuộc sống như bông xám.

    "Natalochka…! Em nên nghĩ đến chuyện hạn tù của anh đã qua được nhiều rồi. Chỉ còn ba năm nữa. Ba năm nữa thôi…"

    "Chỉ còn ba năm…"

    Natalya ngắt lời chồng, giọng nàng run lên và nàng biết nàng không sao còn tự chế ngự được nữa:

    "Chỉ còn ba năm? Với anh… thì đúng là chỉ còn ba năm. Người ta có cho anh ra ngay bây giờ anh cũng không muốn. Anh sống với những người bạn của anh, sống với công việc anh thích. Anh không bị ai xô đuổi… Còn em… Em đã mất sở làm, em không còn gì bám víu để sống. Em hết sức rồi, em không còn chịu đựng được nữa. Em chết ngay đi còn hơn. Bọn sống cùng một nhà với em hành hạ em đủ cách. Họ liệng rương của em ra sân, họ phá đồ đạc trong phòng em. Họ biết em không dám nói nửa tiếng. Họ biết họ có thể đuổi em ra khỏi Mạc Tư Khoa. Em không còn đi lại với các em của em, với dì Zhenya. Họ bảo em là con ngu. Họ khuyên em ly dị và làm lại cuộc đời. Bao giờ thì em hết khổ? Anh thấy em tàn tạ như thế nào không? Em mới có ba mươi bảy tuổi nhưng ba năm nữa em sẽ là bà già. Em về nhà nhưng em không còn sức nấu ăn cho em, em không còn sức dọn dẹp trong phòng. Em nằm xuống và em không còn dậy nổi. Larik… anh yêu… nếu còn thương em, anh hãy nghĩ cách làm sao mau ra khỏi đó. Anh có thể nghĩ được cách nếu anh muốn. Hãy sáng chế cái gì cho họ đi. Cứu em với. Cứu em!"

    Nàng không muốn nói như thế nhưng nàng đã nói. Tim nàng như vỡ trong ngực nàng. Nàng run lên vì những tiếng nấc nghẹn và nàng hôn lên bàn tay chồng. Rồi nàng gục đầu xuống mặt bàn, nơi từng hứng không biết bao nhiêu giọt lệ.

    "Xin đừng làm ồn…"

    Người gác nói như chính y là người có lỗi, y lấm lét nhìn ra cửa.

    Nét mặt Gerasimovich sắt đanh lại. Những tiếng nức nở nghe không êm tai, không đẹp chút nào vang ra tận hành lang. Bóng dáng Klimentiev hiện ra giữa khung cửa. Y trợn mắt nhìn vào lưng người đàn bà đang khóc. Y muốn bước vào nhưng lại do dự. Sau cùng, y đưa tay ra với cánh cửa, đóng lại.

    Trong những điều cấm không có điều nào cấm khóc. Tuy nhiên nếu những cuộc gặp gỡ này không có nước mắt vẫn tốt hơn.
    #32
      CTT 12.09.2008 12:00:00 (permalink)
      33. Chuyện vặt trong tù

      Nerzhin đến giúp Potapov chế tạo cái bánh ngọt. Trong những năm dài đói khát vì bị quân Đức bắt làm tù binh rồi ở tù trong những nhà tù Xô Viết, Potapov đã học được sự thật là ăn không phải là một cái gì đáng để cho con người xấu hổ, chê bỏ, chán ghét, ngược lại, ăn là một thống khoái của đời sống, ăn là tinh hoa của đời sống con người.


      Tôi muốn biết thì giờ
      Qua những bữa ăn…
      Ăn sáng, ăn trưa, ăn tối…

      Người kỹ sư điện cao thế hát nho nhỏ. Mặc dù anh đã dâng hiến trọn vẹn cuộc đời cho những dòng điện tới cả ngàn kilowatt, Potapov, nhờ khéo tay và thông minh, rất sớm đã trở thành một chuyên viên nấu bếp cừ khôi: anh có thể chế tạo những chiếc bánh cam bằng vỏ khoai tây và trong Viện Mavrino, anh nổi tiếng với tài làm bánh ngọt và những món tráng miệng.

      Lúc này, Potapov đang bận rộn trước hai cái bàn nhỏ kê liền lại, đặt giữa giường anh và giường của Pryanchikov. Khi Nerzhin tới Potapov đang long trọng pha sữa đặc, sô-cô-la và hai quả trứng gà (đa số những món này do Rubin cung cấp, Rubin thường được nhận được đồ tiếp tế và bao giờ cũng ăn chung với anh em) thành một thứ dung dịch không có tên trong ngôn ngữ của nhân loại. Potapov đưa ra nhận xét là Nerzhin đến muộn và sau đó, ra lệnh cho Nerzhin đi tìm ngay hai cái ly sắt có thể dùng làm khuôn bánh. Nerzhin đề nghị để anh đi mượn hai cái ca dùng để cạo râu, anh sẽ rửa hai cái ca sắt này bằng nước nóng.

      Cảnh nghỉ ngơi thảnh thơi của ngày Chủ nhật ngự trị trên gian phòng đầy những giường ngủ. Nhiều người nằm trên giường nói chuyện với bạn, nhiều người khác đang đọc sách, những mẩu đối thoại bay đi, bay lại quanh họ. Nhiều người khác nằm yên, hai tay đặt dưới đầu, nhìn ngay lên trần phòng.

      Tất cả những thứ tiếng ấy hòa hợp thành một âm thanh hỗn độn.

      Tù nhân Zemelya, nằm phây phây trên chiếc giường trên, anh bận quần cụt, ở trần, tay mân mê những sợi lông trên ngực, miệng mỉm nụ cười vui và hiền lành thường trực, đang kể một câu chuyện với tù nhân Miska Mordvin nằm cách anh hai giường:

      "Nếu chú muốn biết sự thật… Tất cả những bê bối này bắt đầu bằng một nửa đồng kopeck".
      [1]

      "Sao? Liên can gì đến đồng kopeck?"

      "Trước đây, trong năm 1926, 1928 gì đó – năm đó chú còn nhỏ xíu – ở trước những ghi-sê phát tiền người ta có treo tấm bảng "Nhớ lấy cả những đồng một nửa kopeck tiền lẻ". Thời đó có đồng nửa kopeck. Bọn phát tiền có bổn phận phải trả đủ cả từng đồng. Đó là thời thanh bình…"

      "Thời đó không có chiến tranh sao?"

      "Không có chiến tranh – chú có thể tưởng tượng được không? Đó là thời trước chiến tranh. Thanh bình. Phải đó, thanh bình. Trong những công sở người ta làm việc sáu tiếng đồng hồ một ngày, không phải làm quá nhiều giờ như bây giờ. Và mọi việc đều êm đẹp. Mọi người làm việc tốt. Chỉ cần chú phải làm việc thêm mười lăm phút là người ta trả chú tiền phụ trội liền. Chú nghĩ coi cái gì biến mất trước nhất? Những đồng nửa kopeck. Tình trạng bê bối bắt đầu. Rồi đến những đồng tiền biến mất. Tới năm 1930, những đồng bạc biến nốt. Không còn tiền lẻ nữa. Đôi khi, họ không thèm trả chú cả những đồng ruble lẻ. Kể từ đó, những sai lầm theo nhau đến. Ở ngoài phố, bọn hành khất không thèm hỏi xin đồng kopeck nữa, họ nói: "Bạn công dân, cho tôi một đồng ruble…". Khi lãnh tiền lương do nhà nước trả, chú chớ dại mà đòi họ trả cho chú cả những đồng kopeck ghi trên sổ lương – họ sẽ cười vào mũi chú, họ sẽ gọi chú là… đồ bần tiện, bủn xỉn. Nhưng họ đã lầm: đồng nửa kopeck tuy nhỏ nhưng nó tượng trưng cho sự lương thiện của con người, cho sự kính trọng con người. Nói cách khác, họ coi thường con người, họ đái lên đầu con người. Không ai đòi hỏi quyền được hưởng những đồng nửa kopeck. Và con người mất giá trị vì thế".

      Trên một chiếc giường khác, một tù nhân đang đọc sách ngừng lại để nói với người nằm ở giường bên:

      "Chính phủ của Nga Hoàng thối nát. Một chính phủ yếu xìu như thế không đổ sao được. Anh nghe này: Một thiếu phụ cách mạng tuyệt thực trong tám ngày để bắt một anh quản đốc nhà tù phải xin lỗi…
      [2] . Và anh quản đốc ngu đần này chịu xin lỗi… Bây giờ làm gì có ai dám nghĩ đến chuyện đòi Quản đốc Nhà tù Krasnaya Presnya xin lỗi…?"

      "Bây giờ họ sẽ nhét thức ăn vào ruột bà ta vào ngày tuyệt thực thứ ba. Sau đó, họ cho bà ta thêm một hạn tù nữa vì tội khiêu khích. Anh đọc chuyện đó ở đâu vậy?"

      "Trong tiểu thuyết của Gorki".

      Tù nhân Dvoyetyosov nằm gần đó ngóc đầu lên:

      "Ai đọc Gorki đó?"

      "Tôi".

      "Đọc làm chi vậy?"

      "Đọc để biết chuyện ngày xưa ra sao, cũng có lợi lắm chứ. Như những chi tiết Gorki tả về khám đường Niznhy Novgrod chẳng hạn. Ở khám đường này, anh có thể bắc thang trèo qua tường mà không ai ngăn cản anh hết. Anh có thể tưởng tượng nổi chuyện ấy không? Về bọn giám thị thì Gorki tả cho ta biết rằng họ có súng lục nhưng lâu quá không được dùng đến nên súng rỉ hết, họ chỉ có thể dùng súng vào việc thay búa đóng đinh lên vách. Biết được những chuyện ấy cũng có lợi lắm chứ?"

      Ở bên dưới họ, đề tài thảo luận được nói đến luôn trong những nhà tù đang được nhiều người tham dự. Đó là đề tài Người ta nên ở tù lúc nào nhất? Cách đặt câu hỏi này cho người ta thấy quan niệm chung là ở đời này không ai tránh khỏi việc ở tù, chẳng sớm thì muộn ai cũng phải tù. Những người ở tù thường có khuynh hướng phóng đại số người ở tù. Thực ra hiện giờ chỉ có khoảng từ mười hai triệu đến mười lăm triệu người đang ở tù song những tù nhân tin rằng có tới hai mươi triệu đến ba mươi triệu người đang ở tù. Họ cho rằng bên ngoài nhà tù gần như không còn đàn ông nữa. Câu hỏi "Người ta nên ở tù lúc nào nhất?" ngụ ý muốn hỏi người ta nên ở tù khi còn trẻ hay ở tù khi đã già? Nhiều tù nhân thường là những anh trẻ. Ở tù trẻ, người ta có dịp tìm biết nghĩa lý của đời sống, biết những gì có giá trị thực trong đời và những gì tầm thường, để tới năm ba mươi nhăm tuổi, sau khi đã ở tù mười năm, người đàn ông vừa trưởng thành có thể xây dựng đời mình trên những căn bản hiểu biết khôn ngoan và đứng đắn. Những người ở tù khi đã già có thể khổ sở khi thấy rằng đời mình là một chuỗi dài những sai lầm đó. Nhiều tù nhân khác – đa số là những ông tù già – cũng lạc quan không kém khi nói rằng người ta nên ở tù khi về già, về già đi tù là nhất. Vì khi đã già, người ta vào tù như vào Viện Dưỡng Lão vậy. Lúc đó người ta đã tận hưởng được tất cả những lạc thú ở đời. (Trong ngôn ngữ của tù nhân, "tất cả" có nghĩa là việc có một tấm thân đàn bà, quần áo tốt, thức ăn tốt và rượu mạnh). Họ đưa ra nhận xét là đời sống trong tù không làm hại gì được những người già trong khi nó có thể làm hại rất nhiều những người trẻ. Có những người trẻ, sau khi được ra khỏi tù, trở thành "không còn thích đàn bà".

      Đó là đề tài đang được bàn cãi sôi nổi nhất trong phòng. Tù nhân thường rất ham nói. Nhiều người nói để trấn an mình, để an ủi mình, nhiều người nói để tự hành hạ mình, tự làm mình thêm khổ sở. Nhưng rốt cuộc, vấn đề vẫn không được sáng tỏ hơn, vẫn không ai nắm được sự thật. Trong những buổi chiều Chủ nhật người ta thấy ở tù là một lạc thú, nhưng khi họ trở dậy vào sáng thứ Hai, ở tù bao giờ cũng là một cực hình.

      Nhưng việc thảo luận về đề tài ở tù vào tuổi nào tốt trên đây tuy có nhiều người tham dự nhưng không bao giờ đưa những người tham dự đến chỗ kích động, to tiếng. Trái lại, cuộc trao đổi ý kiến đưa họ đến gần nhau hơn trong nỗi buồn chung. Cuộc thảo luận không dẫn người ta đến đâu hết, nhất là không làm cho người ta cáu giận.

      Cuộc thảo luận về đề tài ở tù tàn đi, gian phòng im lặng trong một lúc, sau đó người ta nghe tiếng Khorobrov nói:

      "Khi người mình bắt đầu chuyến bay đầu tiên lên mặt trăng, tự nhiên là sẽ có một cuộc họp cuối cùng trước khi hỏa tiễn khai hỏa. Phi hành đoàn sẽ nguyện tiết kiệm đến tối đa nguyên liệu, nguyện phá kỷ lục tốc lực, nguyện không ngừng phi thuyền đang bay lại để sửa chữa… Một trong ba phi hành gia phải là một cán bộ chính trị. Trong chuyến bay, cán bộ này sẽ yêu cầu hai phi hành gia kia học tập chính trị và lấy lời tuyên bố của họ gửi về đăng báo".

      Pryanchikov nghe được lời tiên đoán này trong lúc anh đi ngang gian phòng với chiếc khăn tắm và hộp đựng xà bông. Như người biểu diễn một động tác vũ điệu, anh nhảy tới bên giường Khorobrov và nghiêm trọng nói:

      "Ilya Terentich… cho phép tôi được cải chính: việc xảy ra sẽ không như anh nói đâu… Bởi vì…"

      Pryanchikov đưa ngón tay trỏ lên môi với vẻ bí mật như một diễn viên trong một phim trinh thám:

      "… người Hoa Kỳ sẽ lên mặt trăng nước".

      Chàng cười, tiếng cười trong như tiếng của một đứa trẻ, rồi nhảy đi.

      Anh thợ khắc ngồi cạnh Sologdin trên giường. Anh và Sologdin đang say mê thảo luận về đề tài đàn bà. Anh thợ khắc đã ngoài bốn mươi, tuy nét mặt anh còn trẻ, tóc anh đã có nhiều sợi bạc. Mái tóc ấy hợp với anh.

      Hôm nay, anh thợ khắc đang hài lòng. Quả thực là anh đã lầm khi anh vội nuốt bản truyện ngắn của anh trong phòng khám trước khi lên xe đi gặp vợ, nếu anh đừng quá vội, anh có thể đem được truyện ra ngoài và trao cho vợ anh. Nhưng trong cuộc gặp mặt, vợ anh có nói cho anh biết rằng chị đã đưa cho nhiều người tin cẩn và có uy tín đọc những truyện ngắn gửi ra trước đây của anh và tất cả mọi người đều khen là hay, là truyện rất giá trị. Anh cũng biết rằng vợ anh có thể phóng đại những lời khen và những người thân được chị cho coi những đoản thiên ấy thường chỉ khen chứ không chê, nhưng dù sao anh vẫn thấy sung sướng. Anh nghĩ rằng dù anh viết hay hoặc viết dở, anh cũng đã ghi lại được cho hậu thế những sự thật về sự đối xử của Stalin với những chiến sĩ Nga bị Đức bắt làm tù binh trong trận thế chiến thứ Hai, anh nói lên tiếng kêu thương ai oán của cả triệu người không may đó Anh cảm thấy kiêu hãnh và anh tự nguyện sẽ tiếp tục viết truyện. Cuộc gặp gỡ hôm nay còn đem lại cho anh nhiều tin vui: vợ anh vẫn trung thành với anh, vẫn chờ đợi anh, chị đã gửi nhiều đơn xin cho anh được tự do, chị đã nhờ nhiều luật sư uy tín biện hộ cho anh và chắc chắn là trong thời gian tới, họ sẽ có tin vui hơn nữa.

      Trước hết, anh thợ khắc nói về hai chị vợ người Nga của anh, sau đó anh nói đến cuộc sống của anh khi anh là tù binh Đức ở trên đất Đức và những chị đàn bà Đức khả ái mà anh được gần ở đó. Anh so sánh đàn bà Nga với đàn bà Đức và đây là lần đầu tiên Sologdin được nghe nói đến sự cách biệt này. Anh thợ khắc nói rằng đàn bà Nga quá tự lập, quá tự tin, không chịu chấp nhận thiệt thòi khi yêu, họ quan sát người đàn ông họ yêu, tìm hiểu những nhược điểm của người yêu, và tấn công vào những lúc người họ yêu ít can đảm nhất. Đàn bà Nga bao giờ cũng ngang hàng với đàn ông trong tình yêu. Trong khi ấy, người đàn bà Đức mềm như một cây lau trong bàn tay người đàn ông họ yêu. Đàn bà Đức coi người đàn ông họ yêu là ông chúa, là người đàn ông duy nhất trên trái đất, người tốt nhất, đáng quý nhất. Họ hoàn toàn lệ thuộc và theo ý muốn người họ yêu. Họ chỉ mơ đến chuyện làm sao làm cho người họ yêu hài lòng. Vì vậy, anh thợ khắc thấy rằng với đàn bà Đức, anh sung sướng hơn, anh là ông chủ, là ông chúa.





      [1]Kopeck: Đơn vị tiền tệ nhỏ nhất của Nga, cũng giống như đồng trinh của ta cách đây 30 năm.
      [2]Những người tù này đang nói đến cuốn tiểu thuyết Người mẹ của Maxime Gorki.
      #33
        CTT 12.09.2008 12:06:31 (permalink)
        34. Cái thùng sắt

        Buổi sáng thứ Hai ấy trong Phòng Đồ hình của Viện Khoa học Mavrino cũng có một phiên họp học tập chính trị. Những tù nhân và viên chức tự do ngồi lẫn nhau trong phòng.

        Mặc dù phòng này ở trên lầu và có những khung cửa sổ mở về hướng nam nhưng ánh sáng xanh xám của buổi sáng cũng không chiếu được nhiều vào phòng, đây đó trên những mặt bàn vẽ, người ta bật sáng những ngọn đèn điện.

        Ông Trưởng phòng, một Trung tá, không đứng lên khi nói với mọi người. Ông ngồi như mọi người và ông nói không được hùng hồn, quyết liệt mấy về sự thực hiện kế hoạch, về những kế hoạch mới và sự nhất định phải thành công của "chủ nghĩa xã hội", về trách nhiệm của những người xã hội trong cuộc thách đố này. Ông ta nói, mặc dù chính ông ta là người không tin tưởng hơn ai hết, là vào khoảng cuối năm sắp tới, họ sẽ thành công rực rỡ trong địa hạt phát minh về âm thanh, những phát minh của họ sẽ làm chấn động thế giới.

        Sologdin ngồi ở hàng ghế cuối cùng, mắt anh nhìn ngây lên bức tường sau lưng ông Trưởng phòng. Ánh mắt anh sáng trong, nét mặt anh dịu dàng và tươi tỉnh. Chỉ nhìn ánh mắt và nét mặt đó không ai có thể ngờ rằng tâm trí anh không được thanh thản hoặc anh đang có chuyện suy nghĩ, bối rối, lo âu. Ngược lại, người ta có thể nghĩ là anh đang lợi dụng cuộc học tập này để không suy nghĩ gì cả.

        Nhưng Sologdin đang suy nghĩ rất nhiều. Anh không thể biết chắc là anh còn nhiều giờ đồng hồ – hay là chỉ còn có vài phút – để suy nghĩ và giải quyết vấn đề lớn của đời anh, giải quyết thỏa đáng và không lầm lỗi. Suốt buổi sáng hôm nay, Sologdin đã đứng chặt những khúc cây làm củi đun ở ngoài sân Viện – anh không bắt buộc phải làm việc này nhưng anh tự ý làm để có dịp hoạt động – và trong lúc làm việc ấy, óc anh đã suy nghĩ ráo riết.

        Cũng buổi sáng nay, anh đã nghe Thiếu tá An ninh Shikin đọc những điều luật mới áp dụng cho tù nhân về việc gửi thư cho thân nhân và thăm viếng. Anh nghe với nụ cười mỉa mai trên môi vì anh đã nhìn thấy trước những luật lệ ấy từ lâu rồi. Và anh là người đầu tiên trong nhà tù này chuẩn bị đón chúng: chính anh đã cắt đứt mọi liên lạc với thân nhân bên ngoài. Việc ban hành những luật lệ này chỉ là sự chứng minh những gì anh xét đoán là đúng: chế độ lao tù sẽ càng ngày càng khắt khe hơn, con đường đi trở về với tự do được gọi là "mãn hạn tù" đã bị đóng lại.

        Cuộc học tập chính trị chấm dứt, mọi người trở về chỗ làm việc của mình.

        Sáng nay, Larisa Emina không có mặt trong phòng. Nàng được nghỉ bù vì ngày Chủ nhật hôm qua nàng đi làm. Sologdin cảm thấy ngầm hài lòng vì hôm nay Emina không có mặt ở bên anh. Một người đàn bà thân thiết với mình hôm qua có thể trở thành kẻ hại mình trong hôm nay.

        Đứng trước bàn vẽ, Sologdin gỡ một đồ hình ra khỏi mặt bàn. Đồ hình kiểu mẫu giàn máy Âm thính do anh sáng chế và đã được Giáo sư Chelnov kiểm soát, xác nhận có giá trị, hiện lên trên mặt giấy.

        Anh đứng im một lúc lâu nhìn xuống đồ hình.

        Càng nhìn lâu sáng chế của mình, trái tim Sologdin càng hồi hộp. Anh không còn bối rối nữa, anh đã biết chắc anh phải làm gì.

        Hai viên chức tự do, cả hai cùng là phụ nữ làm việc trong phòng, theo đúng luật, mỗi tuần một lần đi khắp các bàn thu thập, những giấy tờ cũ, không cần thiết, đem đi đốt bỏ. Tất cả những giấy tờ trong phòng Đồ hình đều không được vò xé vứt vào giỏ đựng giấy vụn mà là phải nộp cho viên chức phụ trách thiêu hủy. Những tờ giấy này được đếm kỹ, ghi số lại trước khi đem đốt trong thùng sắt ở ngoài sân Viện.

        Trước khi hai viên chức phụ nữ tới bàn mình, Sologdin cầm cây viết chì mỡ mạnh tay gạch nhiều nét lên mẫu đồ hình giàn máy do anh sáng tạo. Xong, anh tháo nó ra khỏi bàn vẽ, đặt nó vào giữa hai tờ giấy có vẽ hình khác và đưa cho một trong hai chị đàn bà:

        "Tôi có ba tờ".

        Rồi anh ngồi xuống mở một quyển sách nhưng không đọc, anh lặng lẽ nhìn xem có những chuyện gì sẽ xảy đến với ba tờ giấy của anh.

        Hai chị đàn bà đếm lại tất cả những tờ giấy thâu được để đem đi thiêu hủy và ghi con số này vào sổ lưu trữ. Sologdin chú ý nhìn kỹ để biết chắc rằng không có một nhân viên nào khác của phòng này xem kỹ những tờ giấy bỏ đi ấy. Cũng không có ai cần đến gần hai chị đàn bà cầm tập giấy này.

        Hai sĩ quan an ninh Shikin, Myshkin, với việc thiêu hủy tất cả những giấy tờ trong phòng Đồ hình, đã tỏ ra cẩn thận nhưng không khôn ngoan. Ít nhất, sự kiểm soát này cũng chưa hoàn toàn hữu hiệu. Đã quá tin tưởng ở sự lương thiện của người đời. Họ không ngờ rằng có những người sáng tạo nhiều khi muốn đốt đi những sáng tạo của mình. Nếu Shikin và Myshkin thật khôn ngoan lập một ban kiểm soát lại từng tờ giấy, xem có mẫu hình nào có giá trị bị đưa đi thủ tiêu hay không, Sologdin sẽ gặp rắc rối nhiều.

        Sau cùng, hai chị đàn bà cuộn những tờ giấy lại thành nhiều cuộn và mượn bao quẹt của một người hút thuốc lá, đi ra khỏi phòng.

        Sologdin cầm cây viết vạch những vòng tròn đều nhau trên mặt giấy nhưng tâm trí anh theo dõi bước đi của hai chị đàn bà, đếm từng giây đồng hồ: họ đang đi trên thang, họ xuống tới cửa sau, họ đang bận áo lạnh trước khi ra sân… Và bây giờ họ đã ra tới sân…

        Sologdin ngồi sau bàn vẽ để không một ai trong phòng có thể nhìn thấy anh nhưng anh nhìn được xuống sân, nơi có chiếc thùng sắt lớn dùng làm lò đốt giấy tờ. Hai chị đàn bà bỏ những cuộn giấy vào thùng và lúi húi đánh diêm. Nhưng họ lúng túng mãi vẫn chưa đốt được tờ giấy nào, khi thì diêm tắt, khi thì diêm gãy, khi thì lửa bốc quá nhanh làm họ phải liệng cây diêm đi. Sau cùng, lão gác cửa Spiridon được gọi tới giúp. Sologdin thở ra một hơi dài khi thấy có ánh lửa và khói xanh bốc len từ miệng thùng sắt.

        Cũng vừa đúng lúc ấy có tin gọi xuống bằng điện thoại: Sologdin phải lên trình diện ngay ở Phòng Viện trưởng Yakanov.
        #34
          CTT 12.09.2008 12:10:17 (permalink)
          35. Hai kỹ sư

          Yakanov chưa từng bao giờ nói chuyện nhiều với Sologdin, cũng chưa bao giờ Sologdin được mời tới Phòng Viện trưởng. Đôi khi có việc đến Phòng Đồ hình, Đại tá Kỹ sư Yakanov chưa từng bao giờ để ý đến nhân vật không cò đáng để ý làm việc ở đó là Sologdin. Nhưng giờ đây, sau khi đã nhìn bản danh sách tên họ tù nhân để dưới mặt kiếng trên bàn, Yakanov, như một vị chủ nhân hòa nhã, lịch thiệp hết sức, ngước mắt nhìn người tù vừa bước vào phòng mình và nói lớn bằng một giọng thân mật:

          "Dmitri Aleksandrovich… mời ngồi… mời ngồi… Tôi rất vui được tiếp riêng anh hôm nay…"

          Hai cánh tay áp chặt hai bên mình, Sologdin đến gần bàn, anh lặng lẽ cúi đầu chào, nhưng sau đó, anh vẫn đứng thẳng, cứng ngắc.

          Yakanov vẫn vui vẻ nói:

          "Theo tôi được biết… anh đang dự định dành cho chúng tôi một ngạc nhiên lớn. Mới cách đây hai ngày, vào sáng thứ Bảy – đúng không nhỉ? Tôi nhìn thấy mẫu hình giàn máy Âm thính của anh trên bàn Giáo sư Chelnov. Sao anh không ngồi? Tôi có nhìn qua mẫu hình ấy và hôm nay, tôi mời anh tới đây để chúng mình thảo luận vào chi tiết…"

          Vẫn không rời mắt nhìn vào mắt Yakanov – cặp mắt đầy những thiện cảm và thông cảm – Sologdin vẫn đứng thẳng và bất động, như một trận bắn lộn bằng súng đã bắt đầu và anh đang chờ địch thủ nổ súng trước. Anh nói rõ ràng:

          "Thưa ông Viện trưởng, ông lầm mất rồi. Tôi cũng cố gắng làm việc hết sức tôi để góp công vào việc chế tạo giàn máy điện thoại, xong tôi bất tài, tôi không thành công. Vật mà ông nhìn thấy đó chỉ là một sản phẩm do bộ óc ngu xuẩn của tôi tạo ra, nó không có giá trị gì cả…"

          Yakanov ngồi ngả lưng lên thành ghế và phản đối bằng một giọng vừa vui vừa lạc quan:

          "Thôi mà bạn, bạn đừng tỏ ra khiêm tốn quá. Mặc dù tôi chỉ mới nhìn qua mẫu hình đó, tôi cũng đủ biết giá trị của nó. Hai nữa, Giáo sư Chelnov, người có thẩm quyền hơn chúng ta nhiều, đã kiểm soát nó và ca tụng nó hết lời. Tôi đã ra lệnh không cho bất cứ ai vào đây làm phiền chúng ta. Anh đi lấy mẫu hình tới đây, chúng ta cùng thảo luận vào chi tiết. Anh có muốn tôi mời cả Giáo sư Chelnov tới giúp chúng ta không?"

          Yakanov là một kỹ sư, Sologdin cũng làm một kỹ sư. Giữa hai người chỉ có điều khác là lâu rồi Yakanov không phải làm việc như một kỹ sư trong khi Sologdin đã phải sống trong tù mười hai năm.

          Cổ họng Sologdin như nghẹn lại làm anh khó nói:

          "Thưa ông Viện trưởng, tôi xin nhắc lại là ông lầm. Mẫu hình của tôi không có gì cho ông phải để ý".

          Yakanov nhíu mày. Y bắt đầu bực tức trước vẻ ngoan cố của kẻ y cố tình lấy cảm tình:

          "Được rồi. Để coi. Anh cứ về lấy nó tới đây".

          Trên cầu vai áo nền vàng viền xanh của Yakanov có ba ngôi sao lớn nằm theo hình tam giác. Trên cầu vai áo của Trung úy Kamyahan, người cố tình đánh cho Sologdin phải chết ở trại tập trung Gornaya Zakrytka năm xưa, cũng có ba ngôi sao như thế, chỉ khác là ba ngôi sao của Trung úy Kamyashan nhỏ hơn ba ngôi sao của Đại tá Yakanov.

          Giọng nói của Sologdin bắt đầu rung động:

          "Mẫu hình ấy không còn nữa. Vì thấy nó không có giá trị gì… nên… tôi đã đốt nó đi rồi…"

          Yakanov xanh mặt. Trong cái yên lặng khủng khiếp của căn phòng, tiếng thở của y nổi rõ. Song y cố gắng thở nhỏ hơn.

          "Anh nói sao? Tự tay anh đốt?"

          "Thưa không. Tôi nộp cho người phụ trách đốt. Tôi theo đúng luật".

          Sologdin nói lí nhí khó nghe. Vẻ tự tin và thản nhiên của anh đã biến mất hoàn toàn.

          Yakanov choàng đứng dậy:

          "May ra vẫn còn chưa bị đốt…?"

          Với vẻ ngoan cố rõ rệt, Sologdin làm Yakanov tiêu tan hy vọng vừa chớm:

          "Đã đốt rồi. Tôi nhìn thấy họ đốt…"

          Một tay nắm vào thành ghế, một tay nắm chặt cây chặn giấy bằng đá, Yakanov nhô người qua mặt bàn. Y như có vẻ muốn bửa đôi đầu Sologdin bằng cây chặn giấy.

          Đầu hơi rụt xuống hai vai, Sologdin đứng như pho tượng bận bộ y phục xanh.

          Giữa hai người kỹ sư những câu hỏi thêm và những lời giải thích đều không còn cần thiết. Hai đôi mắt họ chiếu vào nhau những tia sáng điên cuồng.

          "Tôi sẽ giết anh…", đôi mắt ông Đại tá gầm lên.

          "Cứ việc làm đi. Cho tôi một hạn tù nữa, đồ khốn…", ánh mắt người kỹ sư tù nhân trả lời".

          Nhưng không ai to tiếng, họ không cả nói lớn. Bỗng dưng Yakanov buông cây chặn giấy và đưa bàn tay lên che mắt như ánh sáng làm mắt y chói và y lảo đảo đi ra đứng bên cửa sổ.

          Sologdin cũng cảm thấy hai chân mềm nhũn làm anh đứng hết nổi, anh vịn tay lên thành ghế.

          "Mình chỉ còn sống được có một tháng nữa thôi. Lần này, mình phải chết thật sao?". Đứng bên cửa sổ, ông Đại tá nghĩ.

          "Một hạn tù nữa? Mình phải chết, không thể sống nổi…". Vịn tay vào thành ghế, người tù nghĩ trong ghê rợn.

          Yakanov quay lại. Mắt y nhìn Sologdin với câu hỏi: "Kỹ sư. Anh có thể hủy được sáng chế của anh sao?"

          Đôi mắt Sologdin trả lời: "Tôi là tù nhân. Đừng quên tôi là tù nhân".

          Họ nhìn nhau thù hận – người nọ biết rằng vì người kia mà mình phải chết – nhưng họ vẫn không sao có thể rời mắt nhìn nhau.

          Hắn sắp la hét, sắp đập bàn, hắn sắp nhấc điện thoại ra lệnh cho mình vào xà lim. Sologdin nghĩ như thế và chờ đợi những việc đó xảy ra.

          Nhưng Yakanov rút trong túi ra chiếc khăn tay trắng, sạch đưa lên lau mắt. Rồi một tay vịn vào thành cửa sổ, tay kia y vẫy tù nhân đến gần.

          Sologdin bước ba bước tới cửa sổ.

          Lưng hơi gù xuống như một ông già, Yakanov hỏi:

          "Sologdin, anh từng sống ở Mạc Tư Khoa, phải không?"

          Sologdin nhìn vào mặt y:

          "Thưa phải".

          "Anh nhìn xuống dưới kia" – Yakanov chỉ tay qua khung cửa sổ – "Anh nhìn thấy trạm xe buýt trên đường kia không?"

          Sologdin nhìn và thấy rõ trạm xe buýt.

          Yakanov dịu dàng nói:

          "Lên xe ở trạm ấy, chỉ mất có nửa giờ là về đến trung tâm Mạc Tư Khoa".

          Bỗng dưng, như người sắp ngã, Yakanov đặt vội cả hai tay lên vai Sologdin. Y nói vội vàng, nồng nàn, như thúc giục, như năn nỉ:

          "Sologdin … Anh có thể đàng hoàng bước lên chiếc xe buýt ấy vào một buổi sáng tháng Sáu hay tháng Bảy tới. Anh không thích như vậy sao? Rồi đến tháng Tám, anh có thể được đi nghỉ phép – tới Hắc Hải. Tắm biển, anh có thể tưởng tượng được tắm biển là thế nào không? Đã bao năm rồi anh không được trầm mình dưới làn nước? Tù nhân có bao giờ được tắm ở ngoài trời đâu?"

          "Có chứ" – Sologdin phản đối – "Đi chặt củi trong rừng, chúng tôi được tắm suối".

          Vẫn đặt hai tay trên vai Sologdin, y lắc đầu:

          "Không phải việc tắm khốn khổ khốn nạn ấy. Tắm biển khác. Nhưng mà thôi, anh không thể hiểu được. Bởi vì anh sẽ kết liễu đời anh ở Bắc cực, nơi những con sông không bao giờ có nước chảy. Này, tôi không thể tin được rằng ở đời này lại có những người không muốn được sống sung sướng. Anh hãy nói cho tôi biết tại sao anh lại đốt mẫu hình đó?"

          Trong tròng mắt đen láy của Sologdin, Yakanov nhìn rõ cái đầu tròn của y. Trong tròng mắt ấy là thế giới sâu thẳm của một cá nhân, thế giới không người nào khác có thể vào được.

          "Ông nghĩ vì sao tôi lại làm thế?"

          Sologdin trả lời bằng một câu hỏi khác. Giữa hàng ria và bộ râu, vành môi ướt của anh rung động như chế giễu.

          Yakanov nhấc tay ra, quay lưng lại và bắt đầu bước đi:

          "Tôi không thể hiểu được. Làm như vậy là anh tự tử. Làm sao tôi hiểu…"

          Và sau lưng y, Yakanov nghe thấy giọng nói vững vàng, trong lanh lảnh cất lên:

          "Đồng chí Đại tá… Tôi làm thế là bởi vì tôi là một gã không quan trọng, ở đây không ai biết tôi. Tôi không muốn đánh mất cơ hội tôi có thể được tự do một cách ngu xuẩn…"

          Yakanov quay phắt lại.

          "Nếu tôi không đốt sáng chế của tôi, nếu tôi đặt nó nguyên vẹn trước mặt ông… thì ông Trưởng phòng tôi, hoặc ông, hoặc Oskolupov, hoặc bất cứ ai… ngay sáng mai sẽ đẩy tôi lên xe bít bùng và ngồi vào bàn ung dung ký tên lên sáng chế của tôi. Chuyện ấy từng xảy ra. Và, ở những nơi tôi được đưa đến, tôi không sao có điều kiện khiếu nại, họ tịch thâu từ mẩu bút chì cùn, tôi không có nổi một mảnh giấy, làm sao tôi làm đơn? Mà có làm được đơn, họ cũng chẳng thèm gửi đi…"

          Yakanov nghe Sologdin nói với một cảm giác gần như sung sướng. Y đã thầm có cảm tình với Sologdin ngay từ phút tù nhân này bước vào đây.

          "Như vậy có nghĩa là anh bằng lòng tạo lại mẫu hình?"

          Người hỏi câu đó không phải là ông Đại tá Viện trưởng mà là một người tuyệt vọng, mệt mỏi, không có chút quyền hành.

          "Sẽ làm lại một bản mẫu giống hệt như bản tôi đã nhờ Giáo sư Chelnov kiểm soát… trong ba ngày".

          Đôi mắt Sologdin sáng rực lên:

          "Và trong năm tuần lễ nữa, tôi sẽ thực hiện cho ông một mẫu hình đầy đủ chi tiết, một mẫu hình hoàn hảo về kỹ thuật chỉ còn có việc ráp lại là dùng. Được không?"

          Yakanov nói như rên rỉ:

          "Một tháng. Một tháng. Phải xong nó trước một tháng".

          Sologdin thản nhiên gật đầu:

          "Thì một tháng. Tôi sẽ làm xong cho ông trong một tháng".

          Yakanov bỗng trở thành nghi ngờ:

          "Sao vừa rồi anh nói với tôi là mẫu hình ấy không giá trị gì?"

          Sologdin cười thành tiếng:

          "Ha… ha… Đó là cái bệnh riêng của tôi. Tôi có bệnh hay quên. Sống quá lâu trong tù, tôi thiếu sinh tố và dưỡng khí nên lâu lâu tôi quên. Song bây giờ tôi nhớ kỹ lắm rồi. Bây giờ tôi hoàn toàn đồng ý với Giáo sư Chelnov: đó là một sáng chế hoàn hảo về mọi mặt".

          Yakanov cũng mỉm cười. Y ngồi xuống ghế và thở ra một hơi dài như để đuổi hết ưu tư ra khỏi lồng ngực. Y bị hấp dẫn vì thái độ tự chủ của Sologdin, vì cách thức chỉ huy cuộc nói chuyện theo ý mình của người tù hãy còn trẻ này.

          "Bạn chơi cái trò hơi liều đấy. Nếu gặp người khác, bạn có thể bị nguy…"

          Không cần để ý tới lời trách của Yakanov, Sologdin ngồi xuống ghế và nhìn Yakanov với ý cười trong mắt:

          "Bây giờ chúng ta làm gì?" Yakanov hỏi.

          Sologdin nói như người đọc trên một tờ giấy:

          "Trước hết, tôi không chịu giao thiệp với Oskolupov. Hắn là người thô tục và rất có thể, chuyên môn thích đòi đứng tên chung với người sáng chế. Tôi tin rằng ông không như hắn. Đúng không?"

          Yakanov gật đầu. Sologdin nói gì y cũng thấy là đúng.

          "Tôi cũng cần nhắc lại và nhấn mạnh để ông biết rằng mẫu hình của tôi đã thực sự bị đốt. Nếu ông thực lòng muốn cho việc tôi làm tiến triển mau lẹ, ông phải tìm cách nói riêng với ông Tổng trưởng Abakumov về tôi. Nếu không thể nói với ông Tổng trưởng được, ông nói với ông Phụ tá Tổng trưởng Sevastyanov. Ông ấy phải đích thân ký một Sự vụ lệnh chỉ định tôi làm Trưởng ban Chế tạo Đặc biệt cho công tác này. Đó sẽ là vật bảo đảm cho tôi và tôi sẽ hăng hái bắt tay vào việc. Tôi cần chữ ký của ông lớn bởi vì tôi cần tuyển chọn chuyên viên và làm việc theo ý tôi, lề lối làm việc của tôi sẽ khác hẳn với lề lối quen được áp dụng ở đây. Nghĩa là… tôi không chấp nhận chuyên viên làm việc đêm, làm thêm cả ngày Chủ nhật. Tôi chống lại việc biến những chuyên viên khoa học thành những hồn ma lờ đờ, ngái ngủ. Chuyên viên khoa học phải đến với công việc của mình với sự say sưa, hào hứng, sung sướng… như khi họ đi đến nơi hẹn ân ái với một người đàn bà đẹp, đa tình…"

          Càng nói, Sologdin càng nói dễ dàng, trôi chảy hơn. Giờ đây anh thân mật với Yakanov như hai người từng chơi thân với nhau từ thuở nhỏ:

          "Hãy để cho người ta ngủ, cho người ta nghỉ ngơi, cho người ta ăn uống đầy đủ để người ta làm việc. Đừng làm bận trí người ta với những lời vớ vẩn. Ông phải lo cho người ta những chuyện đó. ông cũng phải lo cho người ta cả chuyện ăn uống nữa. Đồng ý?"

          Yakanov gật đầu.

          "Như vậy là mọi việc đã được giải quyết xong? Tôi chỉ còn chờ đợi có đủ điều kiện là bắt tay vào việc?"

          Yakanov lại gật đầu.

          Kỹ sư Sologdin bước ra khỏi phòng. Chân anh đi những bước đi nhẹ nhàng, thơ thới nhưng vẫn vững chắc.
          #35
            CTT 12.09.2008 12:17:57 (permalink)
            36. Không phải nghề tôi

            Yakanov đi sau Foma Oskolupov lên cầu thang, nhưng khi tới hành lang, y tiến lên đi cạnh Oskolupov. Oskolupov không ưa phải đi cạnh Yakanov vì hắn vừa mập vừa lùn, thân thể hắn chỉ có bề ngang. Dù đội mũ, hắn cũng chỉ cao tới vai Yakanov.

            Yakanov có thể chọn lúc này để báo cho Oskolupov biết về chuyện kỹ sư tù nhân Sologdin đã chế ra được mẫu hình giàn máy điện thoại bí mật. Y biết nếu ý nói ra, thái độ bất nhã và hung hăng của Oskolupov sẽ biến đi ngay. Kể từ đêm oan nghiệt cả hai cùng bị Tổng trưởng Abakumov đe dọa, Oskolupov gần như không còn nể nang gì y nữa.

            Nhưng Yakanov vẫn chưa nắm được mẫu đồ hình nhưng sự can đảm cùng vẻ mặt, lời nói của Sologdin có một cái gì làm cho y tin chắc rằng Sologdin sẽ chịu chết chứ không chịu cho không sáng chế của mình. Sự tin chắc làm cho Yakanov thấy rằng y phải giữ lời hứa với Sologdin, phải làm theo những điều kiện của Sologdin. Đêm nay, y sẽ báo cáo vụ này với Sevastyanov, làm như vậy là y qua mặt Oskolupov. Oskolupov sẽ giận điên lên, chắc chắn như thế, nhưng rồi hắn cũng sẽ phải dịu ngay. Hắn sẽ xun xoe tìm cách chia phần, không ai dám gây sự với những người thành công. Chỉ cần thành công là xong hết.

            Hai nữa, Yakanov đã có dịp thấy rõ Oskolupov lo âu, sợ hãi, cuống quít là chừng nào khi bị Tổng trưởng Abakumov đe dọa. Vì y quyết định để mặc cho Oskolupov sợ hãi thêm ít ngày nữa. Y thấy Sologdin đã nhận xét đúng khi nói rằng Oskolupov là hạng người thể nào cũng đòi ký tên chung với người sáng chế. Chỉ cần Oskolupov biết được rằng Sologdin đã sáng chế ra được mẫu hình giàn máy điện thoại, hắn sẽ lập tức nhốt riêng Sologdin vào một phòng, ngăn trở những người ra vô, sẽ đe dọa Sologdin, sẽ gọi điện thoại đến giục Sologdin cả ngày lẫn đêm để rồi sau cùng, hắn sẽ huênh hoang khoe rằng chính là nhờ sự đốc thúc của hắn mà công tác này thành công.

            Tất cả những chuyện đó đều không phải là chuyện lạ với Yakanov – Y buồn nôn mỗi khi nghĩ đến những người thô bỉ như Oskolupov và những nghi kỵ, tranh giành, chèn ép ở trong ngành – nên y lặng yên không tiết lộ gì hết với Oskolupov. Tuy vậy, như để đền bù cho Oskolupov, khi vào văn phòng Viện trưởng, Yakanov làm một việc y chưa bao giờ làm trước mặt thuộc cấp là đứng ra đỡ cho Oskolupov cởi áo khoác ngoài.

            Vẫn đội mũ, Oskolupov ngồi vào chỗ của Viện trưởng:

            "Tên Gerasimovich làm gì ở đây?"

            Yakanov ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh:

            "Gerasimovich? Thưa để tôi coi… Hắn tới đây từ Stesnhevka từ tháng Mười. Từ ngày đó, hắn đã làm cái máy Tivi để biếu Đồng chí Stalin làm quà mừng sinh nhật".

            "Gọi hắn đến đây".

            Yakanov ra lệnh bằng điện thoại.

            Stresnhevka cũng là một nhà tù đặc biệt giống như Viện Mavrino nằm trong vùng Mạc Tư Khoa. Mới đây, kỹ sư Bobyer, một tù nhân ở đó, đã thành công trong việc sáng chế một bộ phận điện tử gắn vào máy điện thoại tư nhân để nhân viên mật vụ nghe kiểm soát. Nhớ sáng chế này, kỹ sư Bobyer đã được giảm án và trả tự do ngay.

            Viên sĩ quan trực mở cửa thò đầu vào:

            "Thưa… tù nhân Gerasimovich xin vào".

            Yakanov gật đầu:

            "Cho vào".

            Gerasimovich bước vào phòng. Anh vừa đi vừa sửa lại cặp kiếng trắng trên sống mũi, chân anh vướng vào mép thảm trải trên sàn phòng. Đứng trước hai viên chức cao cấp mập bự, hồng hào, Gerasimovich càng có vẻ gầy ốm, xanh xao.

            "Các ông cho gọi tôi?"

            Gerasimovich vừa đi gần tới gần vừa hỏi, mắt anh nhìn vào khoảng tường ở giữa Oskolupov và Yakanov.

            "Ờ… ờ…" - Oskolupov đáp - "Ngồi xuống đây".

            Gerasimovich ngồi xuống. Tấm thân xương xẩu lép kẹp của anh chưa đầy một nửa lòng chiếc ghế.

            "Anh… Gerasimovich… Anh là một chuyên viên nhãn quang học? Địa hạt chuyên môn của anh không phải là tai mà là mắt, phải không?"

            "Thưa phải".

            Oskolupov tiếp tục hỏi. Hắn lướt đầu lưỡi trên hàm răng y như muốn chùi răng bằng lưỡi:

            "Và anh là một người khá, hạnh kiểm tốt. Không ai than phiền gì anh, hả?"

            Gerasimovich giữ yên lặng.

            Oskolupov nheo một mắt lại để nhìn Gerasimovich:

            "Anh có được biết gì về tình trạng của kỹ sư Bobyer, người cùng ở tù với anh trước đây ở Stresnhevka không?"

            "Tôi có được nghe nói".

            "Nhờ sự đề bạt và bảo đảm của chúng tôi. Bobyer đã được giảm án và trả tự do ngay. Anh biết chuyện ấy chưa? Anh còn phải ở bao nhiêu năm nữa?"

            "Ba năm".

            "Ba năm? Lâu dữ vậy sao?"

            Oskolupov làm ra vẻ ngạc nhiên, như chuyện tù nhân còn phải ở vài ba năm nữa là chuyện hiếm có, như hắn chỉ gặp toàn những tù nhân ở tù vài ba tháng. Cách đây không lâu, hắn cũng hỏi thăm một tù nhân về hạn tù, và với mục đích làm tù nhân này đỡ buồn, Oskolupov đã nói: "Ở tù có mười năm? Ăn thua gì, người ta ở tù hai mươi nhăm năm kia…"

            Và hắn hỏi tiếp:

            "Bây giờ nếu có dịp có thể được ra trước bạn ấy, anh có thích không?"

            Trái tim mà Gerasimovich tưởng đã chai cứng trong lồng ngực anh bỗng nhiên rung động. Câu hỏi này của Oskolupov trùng hợp một cách lạ kỳ với lời năn nỉ của Natasha, vợ anh, trong cuộc gặp ngày hôm qua.

            Gerasimovich thực hiện sự tự chủ của anh, từ lâu rồi anh đã quyết định sẽ không hòa nhã, không vui vẻ với những kẻ có quyền, vành môi anh chỉ hơi nhếch trong một nụ cười ngạo mạn:

            "Làm sao tôi thích cho được? Tôi không thấy có dịp nào để tôi có thể ra khỏi đây trước hạn…"

            Oskolupov gật gù cái đầu vuông:

            "Ha… Anh sẽ không thể ra sớm được nếu anh chỉ ngồi chế máy Tivi. Tôi dự định đưa anh trở về Stresnhevka trong ít ngày nữa và đặt anh cầm đầu một công tác. Nếu anh hoàn thành được dự án công tác ấy trong sáu tháng, anh có thể về nhà với vợ anh vào cuối mùa thu này".

            "Tôi có thể được biết việc đó là việc gì không?"

            "Nhiều việc lắm. Tôi có thể cho anh biết là tất cả những dự án đó đều đích thân do đồng chí Beria đặt ra. Chẳng hạn như có việc chế tạo và đặt những máy nghe ở những hàng ghế công viên. Người ta thường quen nói chuyện tự do, bừa bãi ở ngoài công viên. Nhờ những máy nghe ấy, ta có thể nghe được tất cả mọi chuyện. Nhưng việc chế tạo máy nghe không phải là nghề của anh phải không?

            "Dạ phải. Không phải nghề tôi…"

            "Hiện có hai dự án công tác này hợp với khả năng của anh. Cả hai dự án đều quan trọng và cấp thiết. Một là việc chế tạo những máy chụp hình có thể chụp được ban đêm mà không cần ánh sáng. Người ta gọi là … cái gì nhỉ? Hồng ngoại tuyến gì đó. Nhờ máy đó, mình có thể chụp hình một người ban đêm, ở trong nhà hoặc ngoài phố, tìm ra kẻ mà người đó liên lạc, gặp gỡ và bắt luôn cả hai. Tên bị chụp hình sẽ không bao giờ có thể biết vì sao những cuộc gặp gỡ ban đêm của hắn lại bị bại lộ. Ở ngoại quốc, người ta đã bắt đầu sáng chế những máy chụp hình hồng ngoại tuyến này nhưng chưa được hoàn hảo. Mình có thể tiến nhanh hơn họ. Điều cần nhớ là những máy chụp hình kiểu này phải đơn giản, dễ sử dụng, những nhân viên điều tra không phải ai cũng là khoa học gia. Đây là việc thứ hai. Tôi tin chắc anh có thể thực hiện nó dễ dàng. Ngành an ninh của ta đang rất cần có những chiếc máy này. Đó là máy chụp hình, cũng là máy chụp hình, nhỏ thôi để có thể gắn ở những cánh cửa mà không ai biết. Mỗi lần cửa mở là một lần máy tự động chụp hình. Như vậy là khỏi cần canh gác phiền phức, chỉ cần gắn cái máy nhỏ đó, ta có thể kiểm soát được hữu hiệu những nhà khả nghi. Bao nhiêu kẻ ra vào nhà đó sẽ bị chụp hình hết. Ta nắm được luôn bằng chứng. Máy này chỉ cần chụp ban ngày. Anh khỏi lo việc chụp hình ban đêm. Chúng tôi đang cần sản xuất thật nhiều loại máy này.

            Gerasimovich đã hướng khuôn mặt gầy, khô héo của anh về phía cửa sổ, anh không còn nhìn vào bộ mặt vuông của Oskolupov.

            Người tù thấy hiện ra trước mắt bộ mặt nhăn nheo của vợ anh, anh nhìn thấy những giọt nước mắt khô hoen trên gò má tái nhợt. Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm dài ý nghĩ sớm được trở về với cuộc sống tự do cuồn cuộn nổi lên trong tim anh.

            Việc mà anh cần làm để có thể được trở về là nhận lời đề nghị đến rất đúng lúc này, anh chỉ cần làm như kỹ sư Bobyer đã làm: chế tạo một số máy làm cho một số dân ngu đần, không đề phòng bị bắt vào tù.

            Làm thế, anh sẽ được ra khỏi tù nội trong năm nay, vợ anh sẽ còn sống…

            Do dự, bối rối, Gerasimovich hỏi:

            "Tôi có thể… ở lại đây với việc chế tạo máy Tivi?"

            "Anh từ chối ư?"

            Oskolupov bất mãn hỏi lại. Mặt hắn cau có. Với bộ mặt hung hãn ấy, hắn dễ biến thành giận dữ hơn là hòa nhã:

            "Tại sao?"

            Oskolupov gằn giọng hỏi.

            Luật tù đày cho Gerasimovich biết rằng anh sẽ bị coi là lố bịch nếu anh tỏ ra thương hại những người dân ngu ngốc, khinh bạc sống lúc nhúc ở bên ngoài, cũng như khi anh từ chối giết một con heo thịt. Bọn dân ngu bên ngoài không biết hưởng tình trạng tự do của họ. Họ tự làm họ mất phẩm giá bằng những trò ganh tị, tranh giành bần tiện.

            Natasha là người bạn đời của anh, nàng đã hy sinh cho anh cả tuổi xuân của nàng, nàng đang chờ đợi anh, đang mong đợi anh về với nàng. Nàng sắp chết, nàng đã sắp hết sức sống và khi nàng chết, anh cũng chết theo nàng.

            "Lý do của tôi ư? Sao ông lại còn phải hỏi? Tôi không thể làm được việc đó!"

            Gerasimovich trả lời thản nhiên, minh bạch.

            Yakanov ngạc nhiên, nhìn ngay vào mặt người tù.

            Oskolupov cố gắng dịu giọng để thuyết phục:

            "Từ lâu rồi anh không được làm những việc quan trọng, nên anh sợ? Phải không? Anh nhút nhát quá đấy. Tôi biết anh thừa sức làm được việc này. Không cần anh nhận lời ngay, về suy nghĩ đi…"

            Gerasimovich ngồi yên lặng, hai bàn tay gầy guộc như ôm chặt lấy hai thái dương.

            Yakanov xen vào:

            "Có gì mà cần anh suy nghĩ? Đó là nghề của anh mà?"

            Gerasimovich có thể cứ nhận lời để rồi không làm, theo như lối phản đối tiêu cực của những tù nhân, nhưng anh đứng dậy, anh chiếu cặp mắt sáng rực nhìn khinh bỉ xuống bộ mặt vuông, phì nộn, đỏ au, ngu độn của tên đàn ông ngồi phì phị sau bàn:

            "Không. Đó không phải là nghề của tôi…"

            Giọng anh vút cao:

            "Cho người ta vào tù không phải là nghề của tôi. Tôi không thể giăng bẫy bắt người. Họ bắt chúng tôi vào tù, vào tù đã là một điều bậy rồi…"

            #36
              CTT 12.09.2008 12:22:24 (permalink)
              37. Không, không phải em…

              Tất cả những người dự cuộc học tập chính trị buổi tối này đều nóng ruột muốn được ra sớm để về nhà. Họ đều đi ra khỏi nhà họ vào lúc bảy giờ hoặc tám giờ sáng nay để hấp tấp đến những trạm xe lửa, trạm xe buýt đón xe đi đến đây, và bây giờ họ biết chắc họ không thể nào về được đến nhà họ trước 9 giờ 30 tối.

              Simochka còn nóng ruột mong cho cuộc học tập này sớm chấm dứt mặc dù đêm nay nàng ở lại viện làm nhân viên trực nhật và nàng không phải bận tâm với việc đón xe về nhà. Những làn sóng sợ hãi và sung sướng theo nhau dồn dập đến trong nàng và hai chân nàng run run, hai đầu gối nàng yếu như khi nàng say hampagne. Cuộc hẹn ái ân giữa nàng với Nerzhin sẽ đến trong vài giờ đồng hồ nữa. Nàng không thể để cho giây phút quan trọng nhất đời nàng trôi qua một cách cẩu thả, không chuẩn bị, chính vì vậy nên cách đây hai ngày nàng mới không gặp Nerzhin và hẹn chàng đến hôm nay. Suốt ngày hôm qua và cả nửa ngày hôm nay nàng chuẩn bị như người sắp đi dự một đại lễ. Nàng ngồi ngay bên cạnh bà thợ may để thúc giục bà này hoàn thành cho nàng chiếc áo mới – chiếc áo thật đẹp. Nàng đã tắm thật lâu, tắm toàn bộ, trong cái bồn thiếc để gần chật cả căn phòng nhỏ xíu của nàng ở Mạc Tư Khoa. Đêm qua, nàng đã để ra nhiều giờ để uốn tóc trong những chiếc kẹp và sáng nay, nàng mất nhiều giờ nữa để mở kẹp, chải tóc trước gương, nàng nghiên mặt nhìn nàng trong gương, cố gắng tìm những góc cạnh để có thể nghĩ rằng nàng cũng có những nét đẹp, quyến rũ.

              Nàng nghĩ nàng sẽ gặp Nerzhin vào lúc ba giờ trưa, ngay sau đó nghỉ trưa, nhưng vào giờ đó nàng không thấy chàng đến. Rồi nàng bị gọi gia nhập vào một toán kiểm soát những bộ phận rời trong các phòng thí nghiệm. Sáu giờ tối nàng trở lại Phòng Âm thính nhưng vẫn không thấy Gleb. Rồi nàng phải dự cuộc học tập chính trị này. Suốt một ngày dài, nàng hay biết rằng trong ngày Chủ nhật hôm qua, Gleb Nerzhin đã được đưa đi gặp vợ, người vợ mà suốt một năm dài vừa qua chàng không được gặp.

              Nhờ thân hình nhỏ bé, Simochka dễ dàng tìm được một chỗ ngồi chìm mất trong hàng ghế đông người nhất. Nàng cảm thấy hai má nàng mỗi lúc một nóng hơn mỗi lần nàng nhìn lên đôi kim của chiếc đồng hồ điện treo trên tường. Sau 8 giờ, nàng sẽ được gần Gleb.

              Cuộc học tập nặng nề rồi cũng tan, mọi người vội vã ra về. Đến phút cuối cùng, Simochka cảm thấy hết can đảm, nàng chần chừ mãi với việc đi tới chỗ hẹn gặp người yêu.

              Mãi tới 8 giờ kém 2 phút, trái tim đập liên hồi – mặc dù những lời khen chiếc áo đẹp do những bạn đồng nghiệp thốt ra đã đem lại cho nàng thêm nhiều can đảm – Simochka mới bước vào Phòng Âm thính. Những tù nhân làm việc buổi tối ở đây đã đệ nạp những hồ sơ, tài liệu để cất vào tủ sắt. Bàn làm việc của Gleb nổi bật lên: chàng không có ở đó. Tại sao chàng không nhớ? Chàng đi đâu? Ngọn đèn bàn vẫn bật sáng, chàng đã nộp những tài liệu để cất đi nhưng nàng thấy có một điểm khác thường: những giấy tờ trên bàn chàng chưa được xếp dọn gọn ghẽ như mọi tối, một tập san khoa học của Hoa kỳ còn mở rộng trên bàn. Phải chăng đây là ám hiệu của chàng để riêng cho nàng: "Anh sẽ trở lại ngay".

              Trung tá Roitman đưa cho nàng chìa khóa phòng và cục si dùng để gắn cửa – đêm nào các cửa phòng thí nghiệm cũng phải niêm phong. Nàng thấy tối nay Trung tá Roitman có vẻ âu sầu:

              "Serafima Vitalyevna… đêm nay có trực ư?"

              Ông ta hỏi nàng câu đó trong lúc ông mặc áo ngoài và đội mũ.

              Một hồi chuông điện dài vang dội trong những hành lang và tất cả những căn phòng trong Viện. Những người tù cuối cùng ra khỏi phòng. Simochka, với nét mặt nghiêm trọng, đi đi lại lại trong phòng. Những khi nàng không mỉm cười như thế, nàng để lộ vẻ nghiêm khắc và không chút hấp dẫn – nét xấu chính trên mặt nàng là sống mũi quá dài, quá nhọn của nàng.

              Bây giờ chỉ còn có một mình nàng ở đây.

              Bây giờ là lúc chàng phải đến.

              Simochka đi khắp phòng, hai bàn tay khổ sở nắm chặt lại với sự bất lực. Nàng vừa phát giác ra một sự ngẫu nhiên tai hại: những tấm màn vẫn che những khung cửa sổ phòng này hôm nay được tháo xuống đem đi giặt, cả ba khung cửa sổ đều trần trụi. Bất cứ ai đứng ngoài bóng tối ngoài sân cũng có thể nhìn rõ khắp cả phòng này, trừ một khoảng nhỏ cuối cùng. Đó là chưa kể tháp canh ở đầu bức tường kia, người lính canh trên đó nhìn rõ mọi vật, mọi người trong phòng này.

              Nàng có nên tắt hết đèn trong phòng không? Tắt thì được nhưng lỡ có người đi qua, tò mò vì chuyện có nhân viên trực trong phòng mà phòng lại tối om thì sao?

              Không sao, không cần tắt đèn, mặc cho thiên hạ nhòm ngó. Nàng và Gleb vẫn có một chỗ kín đáo không ai thấy được. Đó là phòng ghi âm. Simochka đi tới đứng dựa vào khung cửa căn phòng nhỏ xíu này, nàng nhắm mắt lại. Lát nữa, nàng sẽ không tự ý bước vào đây. Chàng sẽ ôm nàng, kéo nàng, bồng nàng vào.

              Do những cô bạn gái đã có kinh nghiệm của nàng kể lại, Simochka đã biết sẽ có những gì xảy ra. Nhưng đó chỉ là hình ảnh mơ hồ. Cơn xúc động trong nàng mỗi lúc một tăng, hai gò má nàng nóng rát như bị hơ lửa.

              Cái mà nàng giữ gìn quá lâu nay trở thành một gánh nặng mà nàng cần bỏ đi. Nàng ao ước nàng sẽ có một đứa con với Gleb. Nàng sẽ đi làm nuôi con chờ đợi ngày chàng ra khỏi tù. Chỉ có năm năm nữa thôi, năm năm ngắn ngủi.

              Những bước chân đi vững chắc, nhanh mau của Gleb vang lên ngoài hành lang, Simochka vội đi về bàn nàng, ngồi xuống ghế, tay cầm cây vặn đinh vít, nàng nhìn xuống giàn máy radio đặt sẵn trên bàn như nàng đang bận rộn làm việc.

              Nerzhin đóng nhẹ cánh cửa để tiếng cửa đóng khỏi vang trên hành lang. Chàng nhìn ngay thấy Simochka cúi mặt trên bàn như một con chim nhỏ.

              "Chim cút…", đó là danh từ âu yếm chàng vẫn gọi nàng.

              Nerzhin đi thẳng tới chỗ nàng, chàng tới để nói với nàng những lời chàng phải nói, chàng tới để lạnh lùng và tàn nhẫn giết nàng.

              Simochka ngẩng lên nhìn Gleb với đôi mắt rực sáng yêu đương, toàn thân nàng lạnh giá ngay lập tức. Nét mặt Gleb lúc đó không phải là nét mặt của người đàn ông đến để yêu đương.

              Cho đến lúc này Simochka vẫn tin chắc khi vào đến phòng, Gleb sẽ hôn nàng và nàng sẽ chống cự, không phải nàng không chịu mà vì sợ người lính gác trên tháp canh nhìn thấy.

              Nhưng chàng không nhào đến ôm nàng như nàng tưởng, chàng là người đầu tiên lên tiếng nói, giọng càng nghiêm trọng và buồn rầu:

              "Cửa sổ không có màn che. Anh sẽ không đến gần em quá…"

              Chàng đứng ở bàn làm việc chàng, hai tay chống lên mặt bàn, nhìn về phía nàng như ông quan tòa:

              "Nếu không có ai đến làm phiền chúng ta, anh với em có đủ thì giờ thảo luận một chuyện quan trọng…"

              "Thảo luận?"

              Simochka ngơ ngác hỏi. Nàng quay mặt nhìn Gleb trong lúc chàng ngồi xuống bàn. Có sự việc vừa xảy đến với chàng mà nàng không hay biết? Sự việc này chắc là liên hệ với vụ Viện trưởng Yakanov gọi chàng lên văn phòng tối hôm thứ Bảy? Chàng sắp đi khỏi đây? Nhưng tại sao chàng lại không tới hôn nàng?

              Cổ họng Simochka nghẹn lại khi nàng hỏi:

              "Có chuyện gì?... Chuyện gì…?"

              Yên lặng như chết bao vây họ. Không một tiếng động nào từ ngoài vang tới họ.

              "Simochka … Anh không thể giấu không nói cho em biết…"

              Nàng chờ đợi.

              "Anh có lỗi với em, anh đã hành động thiếu suy nghĩ…"

              Nàng vẫn không nói.

              "Hôm qua… anh gặp vợ anh. Hôm qua anh được đi thăm".

              Simochka rúm người lại trong lòng ghế. Thân hình đã nhỏ bé của nàng càng thêm nhỏ xíu.

              "Sao anh không cho em biết trong ngày thứ Bảy?"

              Giọng nàng lạo xạo như tiếng thủy tinh vỡ vụn.

              "Simochka … Em nghĩ rằng anh có thể giấu em một chuyện như thế sao?"

              "Tại sao không?", nàng nghĩ nhưng không nói.

              "Mãi tới sáng qua anh mới biết. Thật bất ngờ. Anh được họ cho biết một tiếng đồng hồ trước khi đi. Suốt một năm nay anh không được gặp vợ anh nhưng sau lần gặp nhau hôm qua, anh… anh… thấy rằng…"

              Chàng nói khổ sở, khó khăn, và chàng biết rằng người đàn bà kia còn khổ sở, đau đớn hơn chàng vì những lời này:

              "…anh chỉ yêu có một mình nàng. Em không biết có những gì đã xảy ra giữa vợ chồng anh. Khi anh ở trại tập trung, nàng cứu sống anh. Không có nàng, anh đã chết. Nàng đã chết. Nàng đã hy sinh tuổi xuân cho anh, nàng cho anh cả đời nàng. Em nói em chờ anh nhưng… không thể được. Anh phải trở lại với nàng. Anh không thể… không thể…"

              Gleb không còn có thể ngừng nói. Chàng đã nói rồi, chàng phải nói hết, như người bắn ra phát súng không thể hối hận chạy theo níu viên đạn lại. Phát súng giết người đã trúng đích, nạn nhân đã chết. Nói nữa hay ngừng cũng vậy thôi. Simochka gục xuống trên bàn, nàng gục xuống theo nghĩa đen, mặt nàng úp trên bàn và tóc nàng xõa vào giàn máy vô tuyến vẫn còn đỏ đèn.

              Gleb nghe thấy những tiếng nức nở vang lên.

              "Simochka… con chim cút của anh… Đừng khóc. Xin em đừng khóc".

              Chàng âu yếm nói, nhưng chàng vẫn ngồi xa nàng hai mặt bàn, chàng vẫn không thèm xê dịch.

              Nếu nàng phản ứng bằng cách dữ dội, sỉ nhục chàng, chàng đã thản nhiên bỏ đi, thoải mái, nhẹ người. Nhưng sự yếu đuối không chút tự vệ của nàng làm cho tim chàng thắt lại vì hối hận.

              "Đừng khóc. Em đừng khóc. Lỗi tại anh. Hoàn toàn do lỗi ở anh. Anh đã làm em khổ nhưng anh không còn cách nào khác. Em bảo anh phải làm sao bây giờ?"

              Chàng đau khổ khi thấy người đàn bà này khóc nhưng chàng cũng không sao có thể làm cho Nadya, vợ chàng, phải khóc. Sau cuộc gặp mặt Nadya hôm qua, chàng không còn có thể nghĩ đến chuyện ôm, hôn một người đàn bà nào khác, dù người đó có là người đàn bà chàng đã hẹn hò như Simochka.

              Nàng khóc mãi và sau cùng, Gleb cũng ngừng việc yêu cầu nàng thôi khóc, chàng đốt điếu thuốc lá và đi ra đứng bên cửa sổ nhìn trời đêm.

              Khi chàng quay lại, Simochka mở lớn đôi mắt nhìn chàng. Mặt nàng ràn rụa nước mắt và nàng không lau đi, nhưng ánh mắt nàng rực sáng. Lúc ấy, đôi mắt nàng thật đẹp:

              "Anh và vợ anh chưa ly dị ư?"

              Nàng hỏi, rõ ràng, và nàng đã hỏi đúng vào câu nàng cần hỏi. Gleb sẽ không còn có trách nhiệm gì nữa nếu vợ chàng đòi ly dị – trường hợp ấy thường xảy ra với các tù nhân – Hôm qua, Nadya cũng có nói đến chuyện ly dị nhưng chàng không nên nói lại với Simochka.

              "Không…"

              Chàng đáp nhưng cố không để cho Simochka cảm thấy là chàng tránh nói đến tiếng "ly dị".

              "Vợ anh chắc là đẹp lắm?"

              "Với anh thì nàng đẹp…"

              Simochka thở dài:

              "Nếu nàng đẹp, nàng sẽ không chờ đợi anh…"

              Simochka không thể nào chấp nhận được quyền làm vợ của người đàn bà xa lạ nào đó mà nàng chưa hề gặp. Người đàn bà đó chỉ sống với Gleb một thời gian nào đó thôi, nhưng đã lâu lắm rồi, đã tám năm người đàn bà đó không ở gần Gleb, không chia sẻ buồn vui với Gleb, chắc chắn thị phải đi lại với nhiều người đàn ông khác. Không một người đàn bà trẻ đẹp nào lại có thể chịu đựng nổi tám năm. Gleb phải thuộc về nàng, về Simochka. Đêm nay, nàng có quyền làm vợ Gleb.

              "Nàng sẽ không chờ anh đâu…"

              Simochka nhắc lại. Lời nàng nói như mũi kim nhọn đâm vào tim Gleb.

              "Nàng đã chờ trong tám năm…"

              Gleb phản đối, nhưng bản tính lý luận của người khoa học trong chàng bắt buộc chàng phải nói thêm:

              "Tất nhiên những năm cuối cùng là những năm khó khăn nhất…"

              Simochka đưa mu bàn tay lên chùi nước mắt, nàng nhắc lại, thì thầm như nói một mình:

              "Nàng sẽ không chờ…"

              Nerzhin nhún vai. Quay lại nhìn ra những điểm sáng rải rác trong vùng trời đêm bên ngoài, chàng cũng nói như người nói một mình:

              "Nếu nàng không chờ cũng không sao. Điều quan trọng là mình không có lỗi…"

              Đột nhiên, luồng tư tưởng lôi cuốn chàng, Gleb nói đều đều:

              "Simochka… tôi không tự cho tôi là người tốt. Khi nhớ lại những gì tôi đã làm – như nhiều người khác đã làm – ở trên đất Đức, tôi thấy rõ tôi không phải là người tốt. Lúc ấy, tôi không biết thế nào là tốt, xấu, tôi chưa hề nghĩ đến chuyện con người có thể làm những việc gì và không nên làm những việc gì. Nhưng từ ngày ở tù, tôi thấy, tôi biết. Càng sống mất phẩm giá chừng nào, tôi càng thấy giá trị của con người… Nếu vợ tôi không chờ tôi? Nếu vợ tôi không chung thủy với tôi? Cũng không sao. Không có gì thay đổi. Tôi sẽ chết vô ích ở Bắc cực. Nhưng khi nào ta chết, ta được biết chắc rằng ta không phải là một thằng đểu, ta còn là một người, đó là một điều làm ta hài lòng. Ta chỉ cần có thế mà thôi…"

              Chàng có thể nói dài, nói lâu về đề tài trừu tượng này, nhất là khi chàng chẳng còn chuyện gì để nói. Nhưng Simochka không còn nghe bài giảng của chàng. Nàng đang kinh hoàng tưởng tượng đến cảnh thê thảm của đời nàng, nàng sẽ về nhà tả tơi như cái mền rách, nằm vật xuống giường – chiếc giường trong nhiều đêm nàng ngủ với cảm giác có chàng nằm bên – Nàng đã chuẩn bị long trọng đến chừng nào cho đêm nay. Nàng đã tắm kỹ, đã thoa nước bông… Thật nhục nhã và cay đắng.

              Nhưng nếu một cuộc gặp gỡ chớp nhoáng diễn ra trong nửa giờ, với sự có mặt của nhân viên an ninh, có sức mạnh hơn cả một năm dài nàng ngồi cạnh chàng, hơn cả sự hy sinh của nàng, nàng đành chịu thua, đành bất lực.

              Nerzhin ngừng nói khi thấy rằng Simochka không nghe, và nàng không cần chàng giải thích, an ủi. Chàng lén nhìn lên đồng hồ: còn những hai mươi nhăm phút nữa mới đến 9 giờ.

              Simochka không thể bảo chàng đi đi, và Nerzhin cũng không thể bỏ ngay đi được, mặc dù cả hai người cũng biết rõ là họ chẳng còn có gì để nói với nhau, họ ngồi bên nhau vô ích và chỉ làm cho nhau thêm khó chịu.

              Những ngón tay vô hồn của Simochka vặn một nút điện trên giàn máy radio và tiếng nhạc bỗng tràn đầy gian phòng. Giữa tiếng đàn dây rền rĩ họ nghe tiếng hát ấm và nồng nàn của danh ca Obukhova:

              Không…! Không phải em là người tôi yêu…
              Nhan sắc em không làm tôi xúc động…

              Thật là lạ lùng. Như người ta cố ý hát lên bài này để làm tăng thêm nỗi đau khổ của Simochka. Nàng run rẩy lắng nghe…


              Tuổi trẻ…
              Tuổi trẻ qua đi…
              Chúng ta mất hết…
              Không còn gì…
              Không…! Không phải em là người tôi yêu…

              Nerzhin đến gần đưa tay ra định tắt máy, nhưng với vẻ cương quyết hiếm có, Simochka nói lớn:

              "Đừng. Mở lớn hơn đi!"

              Và nàng lại khóc.

              Gleb rung động, khẽ nói:

              "Em tha lỗi cho tôi".

              "Không sao…"

              Simochka can đảm gượng cười nhưng những giọt nước mắt vẫn rơi trên má nàng.

              Và lạ lùng thay, Obukhova càng hát, cả hai người cùng cảm thấy dễ chịu. Mười phút trước, họ xa cách nhau đến nỗi họ không còn đủ ý chí để chào từ biệt nhau. Giờ đây một cái gì dịu dàng tươi mát đã đến với họ.


              Khi nào chúng ta xa nhau…
              Hãy hôn nhau…
              Dù chỉ là chiếc hôn…
              Rất nhỏ…

              Không nghĩ đến việc người lính canh bên ngoài có thể nhìn thấy, Nerzhin cúi xuống, nâng mặt Simochka bằng hai bàn tay, hôn lên trán nàng.

              "Simochka… Em đi rửa mặt đi. Họ sắp tới xét tù đấy…"

              Nàng giật mình, nhìn lên đồng hồ và hiểu. Đôi lông mày mỏng của nàng nhếch lên, như đến giây phút này nàng mới thật hiểu có những gì đã xảy đến với nàng tối nay. Ngoan ngoãn và buồn rầu, nàng đi tới bồn sứ có vòi nước ở cuối phòng.
              #37
                CTT 12.09.2008 12:26:29 (permalink)
                38. Hãy bỏ lại hy vọng, hỡi những ai vào đây

                Một ngày nữa lại trôi qua, mặc dù sự lo âu của Innokenty không giảm, vẫn không có gì khả nghi là việc làm của chàng bị bại lộ xảy ra hết. Tuy vậy, Innokenty biết rằng đêm xuống, chàng sẽ lo sợ nhiều hơn, bởi vậy chàng quyết định sẽ đi coi hát cùng với Dotty, vợ chàng. Chàng sẽ trốn trong rạp hát để khỏi phải giật mình mỗi khi có tiếng chuông cửa.

                Bỗng tiếng chuông điện thoại reo vang. Đây là lúc vợ chồng Innokenty sửa soạn đi coi hát. Dotty, tươi trẻ và quyến rũ trong bộ áo tắm mặc sơ trên người, vừa đi ra khỏi phòng tắm.

                Innokenty đứng đó, chàng mệt mỏi nhìn xuống máy điện thoại:

                "Dotty" – chàng bảo vợ – "em trả lời cho anh. Có ai hỏi anh em trả lời anh không có nhà, không biết đến bao giờ anh về. Họ có thể làm hỏng đêm nay của vợ chồng mình".

                Một tay nắm ngực áo. Dotty nhấc ống nói:

                "Alô? Nhà tôi không có nhà… Ai? Ai đó?"

                Bỗng dưng giọng nói và vẻ mặt của nàng đổi thành thân thiện:

                "Alô… Kính chào Đồng chí Đại tướng… Dạ… dạ…để tôi hỏi lại xem… Xin chờ…"

                Nàng che ống nói và đôi mắt sáng lên, nhìn chồng:

                "Đại tướng muốn nói chuyện với anh. Ông ấy có vẻ vui lắm…"

                Nghi ngờ nổi lên trong Innokenty. Việc ông Đại tướng đích thân gọi tới nhà một nhân viên dưới quyền ban đêm, và ông lại tỏ ra vui vẻ nữa, là một việc ít có.

                Dotty ghi nhận sự do dự của chồng, nàng linh động nói vào máy:

                "Có người mở cửa. Chắc là nhà tôi về… Dạ, đúng là nhà tôi. May quá…. Ini… lại đây mau… Đại tướng gọi anh…"

                Mặc dù Dotnara chưa từng bao giờ học về diễn xuất, nàng cũng chưa bao giờ lên sân khấu đóng kịch nhưng giọng nói của nàng làm cho kẻ đa nghi nhất ở đầu dây nói bên kia cũng phải nhìn thấy cảnh Innokenty vừa mở cửa vào nhà, giơ tay định cởi áo ngoài và trước tiếng gọi của vợ, đi tới chỗ đặt máy điện thoại.

                Giọng nói của ông Tướng đúng là giọng nói vui vẻ như Dotty đã nhận thấy. Ông hiền hòa báo cho Innokenty biết rằng sự ủy nhiệm của chàng đã được cấp tối cao chấp thuận: sáng thứ Tư, chàng sẽ ngồi phi cơ bay đi Paris, ngày mai chàng sẽ bàn giao chức vụ ở Bộ và ngay bây giờ, chàng phải tới sở để nhận những chỉ thị mật cuối cùng. Chàng sẽ mất chừng nửa tiếng đồng hồ. Một chiếc công xa đã được Bộ Ngoại giao cho tới nhà chàng để đón chàng.

                Innokenty đặt máy xuống. Chàng thở ra một hơi dài, hài lòng, nhẹ người. Cùng với hơi thở này, chàng trút hết cơn sợ hãi và nghi ngờ dồn ép ở trong ngực chàng kể từ phút chàng gọi điện thoại đến nhà Giáo sư Dobroumov.

                "Dotty… anh sẽ bay đi Paris vào sáng thứ Tư. Ngay bây giờ anh phải tới sở…"

                Vợ chàng đã ghé tai vào ống nghe và nàng cũng đã nghe rõ tất cả, nàng nghiêng đầu, duyên dáng hỏi chồng:

                "Chỉ thị mật là những chỉ thị gì? Có chỉ thị nào liên can đến em không?"

                "Có thể".

                "Anh sẽ nói gì với họ về em? Không có em, làm sao anh đến Paris được? Anh cứ nói là không có em, anh không thể làm việc được. Em muốn đi Paris với anh".

                "Tất nhiên là em cũng đi chứ, nhưng không đi ngay thôi. Anh phải đến Paris trước, làm quen với mọi việc, mọi người…"

                "Nhưng em muốn đi Paris ngay kia".

                Innokenty mỉm cười, chàng hôn nhẹ lên má vợ:

                "Để anh gắng xem, cũng có thể là em cùng đi ngay với anh, có thể là em phải đi sau. Chưa thấy họ quyết định gì cả. Bây giờ anh tới Bộ. Họ cho xe đón anh, em cứ sửa soạn, nhưng từ từ thôi. Đừng vội. Chúng mình sẽ bỏ màn đầu. Đêm còn dài. Trước khi về, anh sẽ gọi điện thoại từ Bộ cho em biết".

                Chàng vừa bận xong bộ sắc phục ngoại giao thì có tiếng chuông cửa, người tài xế của Bộ đem xe đến đón. Người tài xế này không phải là Victor, người vẫn thường đến đón chàng mọi ngày. Hắn hơi gầy, cử chỉ nhanh nhẹn, nét mặt vui và có vẻ có học. Hắn đi sát sau Innokenty trên đường xuống thang lầu, tay hắn quay quay dây chìa khóa xe.

                "Tôi không nhớ mặt anh…" Innokenty vừa gài nút áo ngoài vừa nói.

                "Tôi có được đến đón ông hai lần…"

                Gã tài xế nhanh nhẩu đáp. Nụ cười của hắn vừa ngây thơ vừa tinh quái. Innokenty nghĩ rằng hắn thuộc tài xế khôn lanh rất được việc và làm được nhiều việc khác ngoài việc lái xe.

                Họ vào chiếc xe đen đậu trước cửa và xe mở máy chạy đi. Innokenty ngồi ở băng sau. Hai lần, gã tài xế gợi chuyện nói với chàng nhưng chàng không nghe. Bỗng chiếc xe quẹo gấp vào vỉa hè và dừng lại. Innokenty nhìn thấy một người đàn ông hãy còn trẻ đứng ở bên hè với ngón tay giơ lên:

                "Ông này là Ủy viên Kiểm soát Công xa…" - gã tài xế giải thích - "chúng tôi bắt buộc phải cho ổng đi nhờ…"

                "Được. Được. Không sao…"

                Gã tài xế nhoài người ra mở cánh cửa băng trên, nhưng khóa cửa bị kẹt, hắn tắc lưỡi rồi ngoảnh lại nói:

                "Đồng chí Cố vấn… xin phép đồng chí cho ông ấy được ngồi băng sau… Tôi bị bắt buộc…"

                "Được. Được. Không sao".

                Innokenty nhắc lại. Chàng đang ở trong trạng thái tâm hồn phơi phới, chàng như đang nhìn thấy chàng nhận sổ thông hành, chiếu khán, đi theo đoàn hành khách vô tư lên phi cơ, bay vút lên trời, bỏ hết mọi nguy hiểm, âu lo lại sau lưng.

                Gã Ủy viên Kiểm soát Công xa, một điếu thuốc dài gắn trên vành môi, cúi mình vào xe. Gã nói: "Xin lỗi" và buông mình ngồi phịch xuống.

                Chiếc xe chồm trên mặt đường.

                Trong khoảnh khắc, Innokenty cảm thấy cái cảm giác ghê tởm phải ngồi ăn với một gã đàn ông lạ mà chàng nghi là không được sạch sẽ lắm. Chỉ trong nửa phút xe chạy, gã đàn ông lạ đó đã làm không khí trong xe tràn đầy khói thuốc lá.

                Innokenty nói, giọng hơi gay gắt:

                "Hạ cửa xe cho khói ra chứ".

                Nhưng gã đàn ông lạ như không nghe rõ chàng nói gì. Gã không hạ cửa kiếng xe, thay vì làm thế, gã nghiêng người móc trong túi ra một tờ giấy, mở rộng, đưa cho Innokenty:

                "Này, đồng chí, đọc giùm tôi cái này, để tôi chiếu đèn cho sáng".

                Xe chạy vào một con đường tối, có thể là đường Pushecnhaya. Gã đàn ông lạ móc túi lấy ra cây đèn bấm làm theo kiểu cây viết. Gã chiếu vòng ánh sáng vàng lên mặt giấy xanh. Innokenty nhún vai, chàng đỡ lấy tờ giấy với cảm giác ghê tởm và bắt đầu lơ đãng đọc:

                "Tôi, Chưởng lý Công tố viện Liên bang Xô Viết ra lệnh…" Vừa đọc chàng vừa nghĩ đến chuyện tại sao gã lạ mặt này lại đưa cho chàng đọc tờ giấy này, bộ gã không biết chữ hay sao, hay là gã say rượu? - "bắt giam" – chàng đọc nhưng vẫn chưa hiểu là chàng đang đọc gì – "tên Volodin, Innokenty Aratemyevich, sinh năm 1919…"

                Chỉ đến lúc đó, khi thấy tên mình hiện lên trên tờ trát tống giam, Innokenty mới thấy chàng bị đâm suốt từ đầu đến chân, bằng một mũi kim dài và nhọn hoắt. Chàng mở lớn miệng, nhưng không một âm thanh nào thoát ra được. Bàn tay, vẫn cầm tờ giấy, rơi xuống đùi chàng và gã đàn ông lạ mặt, đưa tay trái lên nắm cổ áo chàng, chiếu đèn bấm vào mặt chàng, gằn giọng:

                "Ngồi im. Ngồi im. Đừng làm bậy. Chết ngay lập tức…"

                Gã làm Innokenty hoa mắt vì ánh đèn và thở khói thuốc mù mịt mặt chàng.

                Mặc dù Innokenty vừa đọc lệnh bắt giam chàng, và mặc dù chàng hiểu rằng đời chàng đến đây là hết, ngay lúc đó, điều làm chàng không sao chịu nổi là những ngón tay cứng như sắt của kẻ lạ túm lấy cổ áo chàng, và ánh đèn, khói thuốc phà vào mặt chàng:

                "Buông ra…"

                Chàng đưa những ngón tay run rẩy lên gỡ bàn tay nắm cổ chàng, tuy chàng biết hơn ai hết rằng trát bắt giam không phải là trát giả mạo, chàng bị bắt thực sự nhưng chàng vẫn còn tin rằng nếu chàng tới được Bộ Ngoại giao, gặp được những thượng cấp quen biết của chàng, lệnh này sẽ được hủy bỏ. Chàng run rẩy mở cửa xe, nhưng khóa cửa không mở.

                "Tài xế…" - chàng giận dữ kêu lên – "thế này là nghĩa lý gì? Các người định làm gì tôi?"

                Gã tài xế thay đổi hẳn thái độ, vừa gia tăng tốc lực cho xe chạy mau hơn, gã vừa hung hãn trả lời:

                "Tôi phục vụ Liên bang Xô Viết…"

                Xe chạy qua công trường Lubyanka sáng trưng ánh đèn như cố ý để cho Innokenty nhìn thấy lần cuối cùng không những là thế giới mà chàng sắp rời bỏ mà còn cho chàng thấy cả hai tòa nhà Lubyanka Cũ và Mới, một trong hai tòa nhà đó, năm tầng cao, là nơi kết liễu cuộc sống của chàng.

                Nhiều dãy xe hơi dừng lại khi đèn đỏ và từ từ chuyển bánh khi đèn đổi màu xanh. Những chiếc xe buýt chở đầy người. Hai bên vỉa hè, người ta chen vai nhau đi. Không ai biết gì đến nạn nhân đang bị bắt đi đến chỗ chết thê thảm ngay ở trước mắt họ.

                Chiếc xe chạy tới ngang mặt tòa nhà nổi tiếng khắp thế giới và quẹo vào đường Lubyanka Bolshaya. Những cánh cổng sắt đen mở ra khi xe vừa tới và đóng ngay lại khi xe vừa đi qua.

                Khi xe chạy qua cổng sắt, nắm tay trên cổ áo Innokenty mới nới lỏng, khi xe vào đến sân, gã lạ mặt mới hoàn toàn buông chàng. Gã nhanh nhẹn mở cửa xe bên phía gã và bước ra:
                "Đi ra…"

                Gã tài xế cũng xuống xe. Gã mở cánh cửa xe phía Innokenty. Rõ ràng là ở trong xe mở không được cửa nhưng ở ngoài thì mở được.

                "Đi ra. Tay để ra đằng sau".

                Gã cũng nói bằng giọng ra lệnh. Lúc này, gã không còn giống chút nào với gã tài xế tươi tỉnh, vui vẻ khi Innokenty mới nhìn thấy gã.

                Innokenty ra khỏi xe. Chàng đứng thẳng người lên và làm theo lời ra lệnh, mặc dù chàng không biết tại sao chàng lại làm theo, chàng đặt hai tay ra đằng sau.

                Bọn đi bắt chàng đã đối xử với chàng một cách thô bạo nhưng dù sao, việc bị bắt, đối với chàng, cũng không đến nỗi ghê khiếp quá như chàng tưởng tượng trong thời gian chờ đợi bị bắt. Chàng có cái cảm giác gần như là dễ chịu. Như vậy là chàng không có cái gì phải sợ nữa, không còn gì để phải chiến đấu, phải giả vờ. Chàng có cảm giác tê dại như người lính khi bị thương.

                Chàng nhìn quanh mặt sân nhỏ, tăm tối. Mặt sân này là đáy một cái giếng sâu, thành giếng là những tòa nhà cao bao quanh.

                "Không được nhìn" – gã tài xế đẩy chàng – "Đi".

                Họ đi thành hàng một, Innokenty đi giữa, qua những nhân viên mật vụ bận đồng phục MGB thản nhiên, qua một cổng đá thấp, xuống vài bậc đá, vào một mặt sân nhỏ khác – sân này có mái che nên u tối hơn – rồi rẽ trái. Gã tài xế mở một cánh cửa, cánh cửa này trông sang và đẹp như cửa phòng mạch bác sĩ nhà giàu.

                Cửa mở vào một hành lang nhỏ, sạch, sáng đèn. Gã tài xế đi đầu bắt đầu tắc lưỡi như để gọi chó mặc dù không thấy bóng một con chó nào hết.

                Hành lang ngừng trước một cánh cửa khác. Nửa trên của cánh cửa này là kiếng nhưng có màn nhung che bên trong. Trên tường có tấm bảng đồng khắc hàng chữ: PHÒNG TIẾP NHẬN NGƯỜI BỊ BẮT.

                Gã tài xế nhấn chuông cửa. Tấm màn bên trong được vạch ra và bộ mặt dài như mặt ngựa của người gác, bận đồng phục mang cấp bậc Trung sĩ, thản nhiên nhìn ra. Rồi y mở cửa và gã tài xế một mình bước vào phòng. Cánh cửa đóng lại sau lưng chúng.

                Innokenty và gã mặt lạ đứng im lặng trước khung cửa.

                Tấm bảng PHÒNG TIẾP NHẬN NGƯỜI BỊ BẮT là thứ bảng giống như bảng NHÀ XÁC hoặc PHÒNG TIẾP NHẬN XÁC CHẾT – và nghĩa của nó cũng như thế. Innokenty không còn có cả ý lực để tỏ thái độ bất bình với gã đàn ông lạ mặt đã đóng kịch để bắt chàng, gã đàn ông đầy hỗn xược. Chàng nên phản đối, la hét, đòi hỏi pháp luật và công lý, nhưng lúc này, chàng quên mất cả việc chàng vẫn giữ hai tay sau lưng. Tâm trí chàng đã ngừng hoạt động và chàng nhìn ngây, như bị thôi miên, lên tấm bảng PHÒNG TIẾP NHẬN NGƯỜI BỊ BẮT.

                Cánh cửa lại mở và gã nhân viên mặt dài ra hiệu cho họ bước vào. Gã đi trước họ, lưỡi tặc tặc như gọi chó.

                Trong phòng này cũng không có chó.

                Phòng có đèn sáng và sạch như phòng bệnh viện.

                Trong phòng có hai cửa sơn xanh, gã nhân viên mở một cánh cửa và nói:

                "Vào đây".

                Innokenty bước vào. Chàng vừa vặn kịp nhìn quanh để biết rằng phòng này không có cửa sổ và đồ đạc trong phòng chỉ là một cái bàn gỗ dài và hai cái ghế đẩu, hai tên mật vụ đi bắt chàng đã tới sau lưng chàng. Một tên khóa hai tay chàng ra sau lưng, tên kia lục soát các túi chàng.

                "Các người ăn cướp à?" – Innokenty kêu lên, nhưng tiếng kêu của chàng đã yếu "…Ai cho các anh có quyền khám tôi…?"

                Chàng yếu đuối chống cự, nhưng tự biết rõ rằng đây không phải là bọn cướp bóc và hai gã mật vụ này chỉ làm công việc được giao phó cho chúng làm sức lực của chàng tiêu tan và giọng nói của chàng thiếu những thanh âm quyết liệt.

                Họ lấy chiếc đồng hồ vàng ra khỏi túi chàng cùng hai cuốn sổ tay, một cây bút bằng vàng, và một chiếc khăn tay. Chàng nhìn thấy trong tay chúng cái phù hiệu đeo ở vai áo của nhân viên ngành ngoại giao nhưng ngay lúc đó chàng không biết đó chính là phù hiệu của chúng lột ra ở vai áo của chính chàng. Cuộc giằng co tiếp tục. Gã mật vụ đóng vai Ủy viên Kiểm soát đưa trả chàng cái mùi-soa.

                "Cầm lấy".

                "Bàn tay bẩn thỉu của các anh đã cầm nó…"

                Innokenty rít lên và lùi lại, như chàng bị bắt cầm một vật gì ghê tởm.

                Chiếc khăn rơi xuống sàn.

                "Người ta sẽ cho anh một tờ biên nhận những vật này…"

                Gã mật vụ lái xe nói, sau đó cả hai đi vội ra khỏi phòng.

                Gã Trung sĩ mặt dài, trái lại, đủng đỉnh không chút vội vàng. Nhìn chiếc khăn tay nằm dưới sàn, gã khuyên:

                "Nên nhặt lên là hơn".

                Nhưng Innokenty vẫn không chịu cúi xuống.

                "Chúng nó lột phù hiệu của tôi…"

                Chàng điên lên vì giận. Đến lúc này chàng mới biết là cặp phù hiệu trên vai áo của chàng đã bị hai tên mật vụ lột mất.

                "Hai tay sau lưng" – gã Trung sĩ nói bằng một giọng máy móc – "Đi".

                Và gã tắc lưỡi.

                Hành lang đi vòng và mở vào một hành lang khác, hai bên có những ô cửa nhỏ sơn màu xanh ô-liu. Mỗi ô cửa có một bảng số ghi hình bầu dục. Trong lúc Innokenty và gã Trung sĩ đi qua hành lang, một cô nữ nhân viên mật vụ đã có tuổi, cũng bận đồng phục MGB, cũng mang cấp bậc Trung sĩ, đang đứng nhìn qua lỗ nhòm đục trên cánh cửa vào một văn phòng. Mụ thản nhiên buông miếng gỗ che lỗ nhòm xuống và quay lại nhìn Innokenty như chàng từng đi qua đi lại trước mặt mụ cả trăm lần trong ngày và không hề có gì lạ đáng để ý trong việc chàng đi trước mặt mụ một lần nữa. Mụ tra một chìa khóa dài vào ổ khóa thép của ô cửa ghi số 8, đẩy cánh cửa và ra hiệu cho chàng:

                "Vào đi".

                Innokenty bước qua cánh cửa vào phòng. Trước khi chàng kịp quay lại để hỏi, cánh cửa đã đóng lại.

                Như vậy đây là nơi chàng phải sống? Một ngày? Một tháng? Một năm? Nhiều năm? Không thể gọi đây là một căn phòng, cũng không thể gọi đây là một xà lim, bởi vì, qua những gì ta biết nhờ sách vở, một căn phòng ít nhất cũng phải có một cửa sổ, và có chỗ để có thể đi đi lại lại, dù rất nhỏ, rất hẹp. Ở đây Innokenty không thể bước đi, cũng không thể nằm xuống được, chàng chỉ có thể ngồi. Một cái bàn gỗ và một cái ghế đẩu chiếm hết chỗ. Ngồi lên ghế, chàng không duỗi thẳng chân ra được.

                Không còn gì nữa trong cái ô nhỏ này. Tường và trần sơn trắng được chiếu sáng rực bởi một bóng điện 200 nến nằm trong cái giỏ dây thép trên trần.

                Innokenty ngồi xuống. Hai mươi phút trước chàng còn đang tưởng tượng ra cảnh chàng đến Paris nhận chức vụ mới. Hai mươi phút trước cuộc đời chàng là một dòng sự kiện êm đẹp, trôi chảy nhịp nhàng, những sự kiện ăn khớp với nhau, soi sáng cho nhau và mỗi sự kiện đánh dấu một thành công. Nhưng hai mươi phút đã qua, giờ đây trong cái bẫy nhỏ hẹp này, cuộc đời cũ đối với chàng chỉ là một xâu những lỗi lầm, những thất bại.

                Không có tiếng động nào vang từ ngoài hành lang vào, trừ đôi khi có tiếng mở cửa đâu đó. Chừng hai phút một lần, một số gỗ che lỗ nhìn được nhấc lên và một con mắt nhìn qua làn kiếng vào chỗ chàng. Ở trong nơi nhỏ hẹp này, người tù không thể có chỗ tránh được mắt nhìn soi mói của người canh.

                Innokenty bắt đầu cảm thấy nghẹt thở và nóng bức. Chàng cởi chiếc áo ngoài và buồn rầu nhìn vai áo bị lột mất cầu vai. Không có đinh treo áo trên tường, chàng phải để áo và mũ lên bàn.

                Một chuyện kỳ lạ nữa xảy ra, giờ đây cuộc đời chàng đã bị sét đánh trúng, Innokenty vẫn không thấy trí óc mình tê liệt vì sợ hãi. Thực ra, trí óc chàng lại bắt đầu làm việc, nó tập trung vào những lầm lỗi chàng đã phạm. Tại sao chàng không đọc kỹ, đọc hết trát bắt giam? Tờ trát ấy có hoàn toàn hợp pháp không? Có con dấu của nhà nước trên đó không? Có chữ ký của ông Biện lý không? Có. Chàng nhớ rằng chữ ký ở ngay trên đầu tờ giấy. Nhưng chàng không nhớ trát được ký vào ngày nào. Và chàng bị kết tội gì? Không biết ông Đại tướng có biết vụ này hay không khi ông gọi điện thoại cho chàng? Chắc chắn là ông phải biết. Như vậy nghĩa là cuộc điện đàm đó cũng chỉ là một phần trong màn kịch bắt chàng. Tại sao họ phải bày ra hai tên tài xế và Ủy viên Kiểm soát?

                Chàng cảm thấy có vật gì nhỏ và cứng nằm trong một túi áo. Móc ra xem, chàng thấy đó là cây viết chì nhỏ rơi ra từ một quyển sổ tay của chàng. Innokenty mừng rỡ khi tìm thấy cây bút. Nó có thể hữu dụng với chàng. Bọn này thật tồi. Ngay cả trong khám đường Lubyanka bọn mật vụ cũng không thực hiện được một cuộc khám xét chu đáo. Sau khi lựa chỗ tốt nhất để giấu cây bút, Innokenty bẻ bút làm hai, đặt mảnh bút vào trong giày, chỗ giữa lòng bàn chân.

                Ồ, chàng đã quá vội vã. Lẽ ra, chàng phải đọc hết trát lệnh bắt giam để xem họ bắt chàng vì tội gì. Rất có thể chàng bị bắt không phải vì tội chàng gọi điện thoại đến báo tin cho Giáo sư Dobroumov. Rất có thể là họ bắt lầm, cũng có thể là sự tình cờ. Chàng phải có thái độ gì bây giờ?

                Chỉ có một thời gian ngắn trôi qua, nhưng chàng đã nhiều lần nghe thấy có tiếng kêu của một thứ động cơ nào đó sau bức vách đối diện với cánh cửa. Giàn máy nào đó nổi lên, chạy đều chừng hai phút, rồi ngừng bặt. Innokenty bị ám ảnh với việc tìm hiểu cái máy đó là máy gì? Đây là một khám đường, đây không phải là một xưởng máy. Với một người đàn ông bắt đầu lớn lên trong những năm 40, từng nghe nhiều chuyện đồn đại về những giàn máy giết người, ý nghĩ về cơ khí lập tức gợi cho người nghĩ một cái gì ghê gớm. Ý nghĩ đến trong óc Innokenty – chàng biết nghĩ vậy là vô lý nhưng cùng một lúc, chàng vẫn nhận là rất có thể như thế – rằng giàn máy mà chàng nghe tiếng đó là giàn máy nghiền nát bộ xương của những người tù bị giết chết. Chàng bắt đầu kinh sợ.

                Cùng một lúc, một ý nghĩ khác đến như mũi kim nhọn đâm sâu vào trái tim Innokenty: chàng đã phạm một lỗi lầm sơ hở quá nặng, một lỗi lầm ghê rợn, không những là chàng chỉ không đọc trát bắt giam từ đầu đến cuối mà thôi, tệ hơn nữa là chàng đã quên không phản đối mà là trình bày, là kêu la – rằng chàng vô tội. Chàng chịu đựng cuộc bắt bớ này với thái độ quá mềm yếu làm cho họ có lý để tin rằng chàng có tội. Tại sao chàng lại có thể quá mềm yếu như thế được? Sao chàng lại có thể để cho họ bắt chàng mà không kêu lớn là chàng oan? Thái độ của chàng cho họ có lý khi nghĩ rằng chàng đã chờ đợi để bị bắt, chàng đã chuẩn bị để bị bắt!

                Chàng điếng người vì sự sơ hở oan nghiệt này. Ý nghĩ đầu tiên của chàng là phải chồm ngay lên, đập cửa, đá mạnh vào cánh cửa, hả họng la lớn là chàng vô tội, đòi hỏi phải mở cửa… Nhưng ngay sau đó một ý nghĩ khác tới trong óc chàng, ý nghĩ thứ hai này sáng suốt hơn: dù chàng có làm như vậy ở đây cũng sẽ chẳng có ai ngạc nhiên, chắc chắn là đã có nhiều người trước chàng từng đập cửa, từng kêu oan, và sự im lặng của chàng từ nãy đến giờ đã làm hư hỏng tất cả.

                Ồ… Tại sao chàng có thể tự để cho chàng rơi vào tay họ một cách quá dễ dàng như thế? Không một cử chỉ chống cự, không cả một lời phản đối, một nhân viên ngoại giao cao cấp đã để cho mình bị thiên hạ đến tận nhà riêng bắt đi, bị tóm cổ trên đường phố Mạc Tư Khoa đưa tới nhốt trong phòng giam nhỏ xíu này.

                Tới đây chàng không còn lối thoát. Từ đây chàng hết lối thoát.

                Rất có thể, những vị thượng cấp của chàng vẫn chờ chàng đến ở Bộ Ngoại giao? Bằng cách nào chàng có thể tới được đó bây giờ? Dù là tới đó với sự áp giải của nhân viên mật vụ?

                Giàn máy bí mật ở bên kia bức tường lại chuyển động, gừ lên rồi lại ngừng.

                Hai mắt Innokenty mỏi và đau nhức vì ánh đèn điện quá sáng trong phòng giam quá hẹp, dừng lại ở một khung đen trên trần – đây là khung đen Chúa nhật trong phòng giam này – đó là một ô vuông nhỏ có lưới sắt, có vẻ là ống thông hơi.

                Đột nhiên, chàng nghĩ rằng đó không phải là ống thông hơi, ô vuông đó là lỗ người ta xì hơi độc vào phòng này, và giàn máy chàng nghe thấy chuyển động đó là máy thổi hơi độc, và hơi độc đã được xì vào phòng này ngay từ lúc cánh cửa đóng lại sau lưng chàng, gian phòng nhỏ xíu, kín mít, với cánh cửa đóng khít chặt này chỉ có thể là một phòng dùng để giết người bằng hơi độc.

                Chính vì vậy mà họ luôn luôn nhìn vào phòng này qua ô kiếng trên cánh cửa: họ nhìn để xem chàng còn tỉnh hay đã chết.

                Vì hơi độc mà trí óc chàng không còn được minh mẫn. Chàng sắp bị mê man. Vì hơi độc mà chàng khó thở. Vì hơi độc mà đầu chàng nhức như búa bổ.

                Hơi độc đang tràn vào – không màu, không mùi.

                Kinh sợ, niềm kinh sợ hoàn toàn thú vật, niềm kinh sợ từng làm cho những con thú dữ săn mồi và những con mồi cùng cuống cuồng chạy trốn lửa rừng, ào đến chụp lấy Innokenty. Không còn suy nghĩ, tính toán gì nữa, chàng đấm loạn lên cánh cửa, đá rầm rầm lên cửa và miệng chàng kêu lớn:

                "Mở cửa… Mở cửa… Tôi ngạt…"

                Đề phòng tù nhân đập cửa, người ta đã đặt mặt kiếng của lỗ nhìn nằm sâu trong lòng gỗ, nắm tay của tù nhân không thể chạm được vào mặt kiếng để có thể làm vỡ kiếng.

                Một con mắt man rợ, quái đản, một con mắt mở không chớp, hiện ra ở mặt kiếng bên ngoài, con mắt đó nhìn cơn hoảng loạn của Innokenty với vẻ thú vị tinh quái.

                Đó là một sự xuất hiện đáng sợ: một con mắt rời khỏi mặt người, một con mắt đứng riêng rẽ, một con mắt có tinh thần riêng nhìn ngắm cảnh người sắp chết.

                Không còn lối thoát.

                Innokenty gục xuống ghế.

                Hơi độc làm cho chàng ngạt thở.
                #38
                  CTT 14.09.2008 16:24:36 (permalink)
                  39. Tống giam vĩnh viễn

                  Đột ngột, cánh cửa mở – mặc dù khi đóng lại, cửa phát ra một tiếng rầm, khi mở ra, nó hoàn toàn im lặng.

                  Gã nhân viên mặt dài như mặt ngựa bước qua khung cửa hẹp, gã hỏi bằng một giọng nói trầm trầm nhưng đe dọa:

                  "Sao lại đập cửa?"

                  Innokenty cảm thấy đỡ sợ hãi. Nếu gã này dám bước vào phòng tức là nơi này chưa có hơi độc.

                  "Tôi khó chịu, tôi đau" – chàng ấp úng nói, sự tự tin của chàng tan biến đi đâu mất rất nhanh – "Cho tôi chút nước".

                  Gã nhân viên nghiêm khắc cảnh cáo:

                  "Nghe đây… Anh không được đập cửa vì bất cứ lý do gì. Nếu không, anh sẽ bị trừng phạt".

                  "Nhưng… nếu tôi đau thì sao? Tôi phải gọi người chứ?"

                  "Đừng có la. Nếu anh cần người, chờ lúc nào có người nhìn vào, giơ một ngón tay lên. Hiểu chưa?"

                  Gã nhân viên thản nhiên và lơ đãng nói, như gã từng nói câu đó cả ngàn lần với cả ngàn người.

                  Gã lùi qua khung cửa và đóng ngay cửa lại.

                  Giàn máy sau bức tường chuyển động một lúc rồi lại ngừng.

                  Cánh cửa lại mở, lần này cửa mở với những tiếng động lớn, Innokenty bắt đầu hiểu rằng bọn gác tù ở đây đã được huấn luyện để có thể mở cửa êm nhẹ hoặc là gây tiếng động tùy theo từng trường hợp.

                  Gã nhân viên đưa cho Innokenty một ly nước.

                  "Tôi đau" – Innokenty nói trong khi tay chàng đưa ra đỡ ly nước – "Tôi cần nằm…"

                  "Trong "thùng" không được nằm".

                  Innokenty sửng sốt, chàng hỏi vội:

                  "Cái gì? Anh nói trong cái gì?"

                  Chàng đang cần được nói chuyện, dù là nói với gã mật vụ mặt khô như gỗ đá này.

                  Nhưng gã đã lùi ra và đóng cánh cửa lại.

                  Đến lúc đó Innokenty mới nhớ chàng cần nói những gì:

                  "Này… Kêu giùm tôi ông Quản đốc… Vì sao tôi bị bắt?"

                  Nhưng khóa cửa đã vang lên một tiếng "cách".

                  Gã nhân viên vừa dùng danh từ "thùng" để gọi gian phòng này. Đúng đây là một cái thùng. Không còn tiếng nào đúng hơn là tiếng thùng để gọi nơi này.

                  Innokenty đưa ly nước lên miệng. Nước trong ly ít quá. Chàng cần uống nhiều hơn. Cái ly bằng sứ màu xanh có một hình vẽ khá ly kỳ: một chú mèo mang mắt kiếng đang ngồi đọc sách nhưng thực sự là đang rình một con chim dại dột đứng gần bên.

                  Tất nhiên là người ta không hề có dụng ý khi chọn những cái ly có hình vẽ này để dùng trong khám đường Lubyanka, nhưng sự ngẫu nhiên này thật là thích hợp. Quyển sách mà chú mèo đang đọc là sách Luật, và con chim nhỏ khờ dại kia chính là Innokenty – một Innokenty trong ngày hôm qua.

                  Ý nghĩ ấy làm cho Innokenty mỉm cười, rồi bỗng dưng, chàng biết là chàng đang cười, và nụ cười ấy cho chàng thấy rõ cả bề sâu ghê gớm của vực thẳm tai họa mà chàng vừa rơi xuống. Nhưng cùng một lúc, nụ cười ấy cũng làm cho chàng vui vui. Vì khi con người còn cười được là con người còn sống. Trong chàng vẫn còn sức sống.

                  Chưa bao giờ chàng tin rằng có thể cười được trong khoảng thời gian nửa giờ đầu tiên bị bắt vào khám đường Lubyanka.

                  Innokenty đặt cái ly bên cạnh chiếc áo ngoài của chàng trên mặt bàn.

                  Khóa cửa động. Cánh cửa mở. Một Trung úy bước vào, tay cầm tờ giấy. Bộ mặt dài trơ như gỗ của gã Trung sĩ trực nhật hiện ra sau viên sĩ quan.

                  Trong bộ đồng phục của nhân viên ngành ngoại giao màu xám thêu nhánh lá vàng trước ngực, Innokenty đứng lên trước mặt viên sĩ quan.

                  "Trung úy" – chàng nói bằng một giọng thân mật – "Sao lại có chuyện này xảy ra? Chắc là lầm lộn sao đó chứ. Cho tôi đọc trát tống giam. Tôi chưa được đọc cả trát…"

                  Đôi mắt người sĩ quan nhìn chàng vô hồn như mắt bằng thủy tinh. Y hỏi chàng bằng một giọng hoàn toàn vô tình:

                  "Họ gì?"

                  "Volodin".

                  Người tù sốt sắng trả lời.

                  "Tên riêng và tên thánh?"

                  "Innokenty Artemich".

                  "Năm sinh?"

                  Người sĩ quan kiểm soát lại những câu trả lời của chàng với những gì được ghi trên tờ giấy y cầm nơi tay.

                  "Một ngàn chín trăm mười chín".

                  "Nơi sinh?"

                  "Leningrad".

                  Đúng lúc vị Phụ tá Cố vấn Ngoại giao của chính phủ sửa soạn nói đến chức vụ của mình và yêu cầu được can thiệp, viên Trung úy lùi ra và cánh cửa được đóng vào mũi vị Phụ tá Cố vấn.

                  Innokenty ngồi xuống ghế và nhắm mắt lại. Chàng bắt đầu cảm thấy sức mạnh của bộ máy hệ thống đưa hàm răng vĩ đại ra cắn lấy đời chàng.

                  Tiếng động cơ bên kia tường nổi lên, rồi lại im lặng.

                  Nhiều việc mà chàng cần phải làm, những việc quan trọng cũng như nhỏ nhặt, ào ào đến trong óc chàng cuồng lên với ý muốn chạy vội đi để làm những việc đó.

                  Nhưng trong cái "thùng" này không có đủ chỗ để chàng bước được một bước dài, nói gì đến chuyện có thể chạy.

                  Nắp che lỗ nhìn chuyển động, Innokenty đưa một ngón tay lên. Mụ đàn bà nạ dòng bận đồng phục nhân viên MGB với hai cầu vai nền xanh da trời, với bộ mặt có những nét nặng nề, buồn nản, mở cánh cửa:

                  "Tôi phải…"

                  Mụ ra lệnh:

                  "Chắp hai tay sau lưng. Đi…"

                  Làm theo lời, Innokenty bước ra hành lang. Sau bầu không khí ngột ngạt trong cái thùng hẹp ấy, chàng cảm thấy không khí trong hành lang này mát rượi.

                  Mụ nạ dòng dẫn Innokenty đi một quãng ngắn trên hành lang. Mụ chỉ tay vào một cánh cửa:

                  "Đó…"

                  Innokenty vào đó. Cánh cửa được đóng lại sau lưng chàng.

                  Nơi chàng bước vào cũng hẹp như nơi chàng vừa bước ra. Trên sàn chỉ là một cái lỗ nhỏ và hai bực sắt để đặt chân hai bên lỗ. Sàn và tường đều được lát bằng gạch đỏ. Có nước chảy trong lỗ.

                  Dễ chịu với ý nghĩ là ở đây, chàng có thể tránh bị nhòm ngó, dù chỉ là trong chốc lát, Innokenty ngồi xuống bực sắt.

                  Nhưng có tiếng động trên cánh cửa. Innokenty nhìn lên và thấy cánh cửa này cũng có lỗ nhìn. Sau làn kiếng, con mắt quái đản nhìn chàng không lúc nào ngừng.

                  Không thể làm được việc này khi có người nhìn, Innokenty đành đứng lên. Chàng giơ ngón tay trỏ tỏ dấu chàng sẵn sàng đi ra. Cánh cửa mở.

                  "Chắp hai tay sau lưng. Đi…"

                  Mụ đàn bà ra lệnh như một cái máy.

                  Trở vào "thùng", Innokenty muốn biết bây giờ là mấy giờ, theo thói quen chàng vạch cổ tay áo nhìn đồng hồ. Nhưng "thời giờ" không còn ở cổ tay chàng nữa. Hai gã mật vụ hồi nãy đã lột mật đồng hồ của chàng.

                  Chàng thở dài và ngồi nhìn ngắm hình vẽ con mèo đọc sách trên cái ly, nhưng chàng không có thì giờ để suy tưởng. Cửa mở. Lần này, người vào là một gã đàn ông vạm vỡ, vai to, bận chiếc áo choàng ngoài màu xám. Y hỏi:

                  "Họ gì?"

                  Innokenty bất mãn đáp:

                  "Tôi đã nói rồi".

                  Gã đàn ông nhắc lại, vô hồn như một chuyên viên vô tuyến gọi một trạm vô tuyến khác:

                  "Họ gì?"

                  "Được rồi – Volodin".

                  "Lấy đồ. Đi…"

                  Gã áo xám ra lệnh.

                  Innokenty cầm mũ, áo trên bàn và bước ra. Chàng được đưa trở lại gian phòng tiếp nhận, nơi chàng bị lục soát các túi và lột mất hai cầu vai áo, hai quyển sổ tay và chiếc đồng hồ.

                  Cái khăn mùi-soa chàng để rơi không còn trên sàn.

                  Innokenty nói bằng một giọng khiếu nại:

                  "Họ lấy đồ của tôi…"

                  Gã áo xám nói như chó sủa:

                  "Cởi quần áo".

                  Innokenty ngạc nhiên.

                  Gã áo xám nhìn vào mắt chàng. Gã nghiêm khắc hỏi:

                  "Anh có phải là người Nga không?"

                  "Phải".

                  Innokenty vẫn hoạt bát, nhưng lúc này chàng không còn nói gì được ngoài tiếng "phải" ngơ ngẩn ấy.

                  "Tôi nói anh phải hiểu chứ? Cởi quần áo".

                  Innokenty gượng khôi hài:

                  "Người Nga thì cởi quần áo, không phải là người Nga thì khỏi cởi sao?"

                  Gã áo xám yên lặng như đá, gã đứng chờ đợi chàng.

                  Với nụ cười mỉa mai và sau cái nhún vai, Innokenty ngồi xuống chiếc ghế đẩu. Chàng cởi giày, rồi cởi bộ đồng phục. Chàng đưa cái áo cho gã áo xám. Tuy chàng không coi trọng gì lắm bộ đồng phục này nhưng chàng cũng không thể coi thường được nó.

                  Áo xám hất hàm:

                  "Bỏ xuống sàn".

                  Innokenty do dự. Áo xám giằng chiếc áo ra khỏi tay chàng, quăng xuống sàn và đột ngột nói:

                  "Cởi nữa".

                  "Cởi nữa?"

                  "Cởi hết".

                  "Sao được? Đồng chí không thấy trời lạnh ư?"

                  Gã áo xám cảnh cáo:

                  "Không chịu, anh sẽ bị lột".

                  Innokenty suy nghĩ: Chàng đã bị chúng dùng sức mạnh lột đồ một lần, nhất định là chúng sẽ làm việc đó lần nữa. Rùng mình vì lạnh và ghê tởm, chàng cởi bộ đồ lót ra khỏi người và ngoan ngoãn vất lên đống quần áo.

                  "Cởi bí tất".

                  Sau khi cởi đôi vớ, Innokenty đứng trần truồng trên sàn, cặp giò trắng, không có lông của chàng cũng trần như nửa người trên.

                  "Há miệng ra. Lớn hơn. Nói… Aaaa… Nữa… Aaaa… Thè lưỡi ra…"

                  Sau khi dùng những ngón tay bẩn nắm hai má Innokenty vành ra để nhìn vào miệng chàng như khi gã xem răng một con ngựa trước khi mua, gã áo xám vành hai mắt chàng lên xem, sau khi tin chắc rằng chàng không giấu vật gì hết ở trong mồm, trong răng, trong mắt, gã nắm tóc chàng kéo ra đằng sau cho mặt chàng ngửa lên để nhìn vào hai lỗ mũi chàng. Rồi gã vành hai tai chàng ra để nhìn vào hai lỗ tai. Gã bắt chàng xòe những ngón tay ra để kiểm soát chàng có giấu vật gì giữa những ngón tay không, gã bắt chàng vung hai tay để xem chàng có giấu vật gì trong nách không.

                  Sau cùng, bằng giọng nói máy móc không cần trả lời, gã ra lệnh:

                  "Cầm dương vật bằng hai ngón tay, kéo lại. Nữa. Rồi. Đưa sang bên trái, sang bên phải. Thôi. Buông ra. Đứng quay lưng lại tôi. Dạng hai chân ra. Nữa. Cúi xuống. Thấp nữa. Vành hai mông ra. Thôi, ngồi xổm xuống. Lẹ lên".

                  Trong mấy ngày vừa qua, khi Innokenty tưởng tượng đến việc chàng có thể bị bắt, chàng vẫn nghĩ rằng tinh thần chàng sẽ chống cự lại quyết liệt và dữ dội lắm. Chàng đã chuẩn bị tinh thần để bảo vệ những thói quen và những tin tưởng, những giá trị nhân phẩm của chàng. Chưa bao giờ chàng ngờ rằng những gì xảy ra sẽ đơn giản, vô nghĩa và tàn nhẫn đến như thế này. Những kẻ có quyền với chàng ở đây đều là bọn nhân viên hạ cấp, bọn vô học, bọn óc thông minh và hiểu biết bị giới hạn, chúng lạnh lùng và thản nhiên không cần biết chàng là ai, vì sao chàng bị đưa đến đây. Cùng một lúc, chúng coi trọng và chú ý đến những sự kiện nhỏ nhặt mà Innokenty không hề ngờ trước, những sự kiện mà chàng không thể nào chống cự được. Dù chàng có chống cự cũng chẳng ích lợi gì cho chàng. Vì những lý do khác nhau, chúng bắt chàng làm những việc nhỏ nhen không có ý nghĩa gì so với việc quan trọng ghê gớm là việc chàng bị bắt – những việc nhỏ mà chàng thấy là không cần phải phản đối. Xong thủ tục này có cái tác dụng lớn không ngờ là bẻ gãy hoàn toàn tinh thần của người tù.

                  Rã rời và tuyệt vọng, Innokenty chịu đựng những nhục nhã ấy trong im lặng.

                  Gã áo xám ra lệnh cho chàng ngồi lên chiếc ghế đẩu thấp ở bên cửa. Ý nghĩ đầu tiên của chàng là chàng không thể để cho da thịt trần truồng của chàng chạm vào vật lạnh ấy, nhưng chàng vẫn ngồi xuống, và chàng cảm thấy sung sướng khi thấy mặt gỗ như làm ấm da thịt chàng.

                  Chàng từng cảm thấy nhiều cảm giác dễ chịu trong đời, nhưng cảm giác này là một cái gì mới tinh, đặc biệt. Chàng ngồi thu hai chân lại, hai tay ôm lấy đầu gối, ngồi co ro như thế chàng thấy ấm hơn.

                  Chàng ngồi bó gối như thế trong lúc gã áo xám đứng trên đóng quần áo của chàng, cầm từng cái lên xem thật kỹ. Gã cẩn thận giơ từng thứ lên để nhìn làn vải qua ánh đèn. Gã nắm kỹ từng ly những đường viền áo, gấu quần, xem kỹ từng cái nút. Xét kỹ xong mỗi cái, gã liệng về phía Innokenty. Chàng run rẩy đứng dậy mặc dần từng thứ vào người và cảm thấy ấm lại.

                  Gã áo xám lộn đôi vớ cùa chàng từ trong ra ngoài và vứt trả chàng. Rồi gã móc trong túi ra một con dao nhíp khá lớn và bắt đầu kiểm soát đôi giày của chàng. Gã đổ hai mẩu viết chì giấu trong giày ra nhưng không để lộ vẻ gì coi đó là chuyện quan trọng, gã tiếp tục khám. Gã bẻ cong đế giày xem trong đó có giấu vật gì cứng hay không. Gã dùng mũi dao cạy hai vòng dây thép cong trong giày ra, đặt lên bàn rồi cầm cái dùi xiên vào đế giày.

                  Innokenty đứng nhìn gã làm việc và chàng nghĩ đến chuyện đời gã cũng chẳng sung sướng gì: quanh năm và hết năm này đến năm khác, gã phải lục tìm trong quần áo lót của thiên hạ, đục đế giày, nhìn vào lỗ hậu môn. Phải làm những việc đó, mặt mũi gã rầu rĩ cũng không có gì lạ.

                  Nhưng ý nghĩ mỉa mai thoáng đến trong đầu óc Innokenty biến đi ngay, thay vào đó là những cảm nghỉ buồn rầu lo âu. Gã áo xám cắt và dứt hết những đường thêu trên áo chàng, rồi cắt hết nút áo. Gã cắt hết những đường viền và vải lót bên trong áo chàng. Quần chàng cũng bị cắt hết nút và vải lót. Tới chiếc áo lạnh bận ngoài của chàng, gã có vẻ chú ý hơn, vì gã thấy có cái gì cứng ở trong miếng độn vai áo. Một bản danh sách? Hay một ve thuốc độc? Tháo được hai miếng độn vai ra khỏi áo, gã xem xét rất lâu, nét mặt gã lúc nào cũng chú ý và nghiêm trọng như gã là một bác sĩ giải phẫu đang thực hiện cuộc mổ tim người.

                  Cuộc kiểm soát này kéo dài tới nửa tiếng đồng hồ. Sau cùng, khi đã tin chắc rằng không còn có vật gì gã muốn tìm còn sót trong quần áo, giày vớ của Innokenty, gã vứt nốt cái áo cuối cùng cho chàng và bắt đầu nhặt nhạnh những chiến lợi phẩm cất đi. Dây lưng và dây nịt vớ của chàng đều bị tước. Cùng với hai thứ đó là cà-vạt, nút cài cà-vạt, nút cài cổ tay áo, hai vòng dây thép cong trong giày, hai mẩu viết chì, những sợi dây vàng thêu trên áo chàng và những nút quần, nút áo. Đến lúc đó Innokenty mới bắt đầu hiểu và sợ phục công cuộc tàn phá mà gã áo xám đã làm. Không hiểu vì sao việc phải mặc quần không có dây thắt lưng, không có nút, làm cho Innokenty xúc động và khổ sở hơn tất cả những hành hạ chàng đã phải chịu từ lúc bị bắt tới giờ.

                  "Sao lại cắt nút quần tôi?" Chàng hỏi.

                  "Cấm".

                  Gã áo xám đáp gọn.

                  "Không có dây lưng làm sao tôi giữ quần khỏi tụt?"

                  Đã đi ra tới cửa, gã nói không ngoảnh lại:

                  "Lấy dây buộc".

                  "Lấy dây? Làm gì có dây? Lấy ở đâu?"

                  Nhưng cánh cửa đã đóng lại và khóa ở bên ngoài.

                  Innokenty không đấm cửa, không kêu la, không năn nỉ. Chàng nhận thấy vẫn còn vài cái nút được để lại trên áo chàng và việc này là một điều đáng mừng.

                  Chàng học hỏi được rất nhanh.

                  Hai tay xốc quần cho khỏi tụt, chàng đi vài bước trong phòng. Nhưng chàng thưởng thức khoảng không gian tương đối rộng rãi này chưa được lâu – chàng mới được có một vòng phòng – khóa cửa đã lách cách vang lên. Một gã đàn ông khác bước vào, bận cái áo choàng bẩn. Gã nhìn Innokenty như nhìn một vật quen thuộc vẫn có từ lâu lắm trong phòng này và đột ngột ra lệnh:

                  "Cởi quần áo!"

                  Innokenty muốn tỏ ra giận dữ, hung hãn, nhưng những gì thốt ra được từ cổ họng tắc nghẹn vì xúc động của chàng chỉ là một câu than thở yếu ớt:

                  "Tôi vừa mới mặc quần áo vào xong. Sao họ không bảo tôi đừng mặc vội?"

                  Nhưng chàng than thở vô ích. Gã đàn ông thản nhiên đứng đó nhìn chàng với nét mặt vô hồn, chờ đợi chàng làm theo lệnh gã, Innokenty cởi quần áo, cởi giày.

                  "Ngồi xuống".

                  Gã đàn ông chỉ tay xuống cái ghế đẩu Innokenty vừa co ro ngồi hồi nãy.

                  Người tù trần truồng ngồi xuống, chàng không còn nghĩ tại sao phải ngồi, ngồi để làm gì. Thói của những người tự do nghĩ đến việc mình làm trước khi làm đã biến mất trong chàng. Gã đàn ông nắm lấy gáy chàng và những lưỡi kéo nghiến mạnh vào tóc chàng.

                  "Anh làm gì?" – Innokenty rùng mình nói, chàng cố nghiêng đầu – "Ai cho anh quyền cắt tóc tôi? Tôi vẫn chưa bị bắt mà".

                  Trong cơn xúc động, chàng không biết là chàng phải nói: "Tôi vẫn chưa bị tòa kết án".

                  Nhưng gã thợ hớt tóc nắm tay vẫn ghì chặt ót chàng và những nhát kéo đẩy mạnh. Đốm lửa phản kháng vừa lóe lên trong Innokenty tắt đi ngay. Nhà ngoại giao trẻ tuổi, kiêu hãnh, lịch sự, hào hoa, tự tin, quen thuộc với việc lên xuống những chiếc phi cơ chở khách liên lục địa, thường thản nhiên trước cảnh hào nhoáng và đông đảo của đô thị Âu châu phồn hoa, nay chỉ còn là một sinh vật giống đực, gầy gò, trần truồng, yếu đuối với cái đầu có mái tóc bị cắt sát vào đến sọ.

                  Những lọn tóc nâu của Innokenty rơi xuống từng nắm như tuyết. Chàng cầm lấy ít sợi và trìu mến xoe xoe chúng giữa hai ngón tay. Chàng cảm thấy tự yêu chàng và yêu cuộc sống đang rời bỏ thân thể chàng.

                  Chàng nhớ lại ý nghĩ hồi nãy của chàng là thái độ đầu hàng, sự cam chịu có thể bị coi là có tội. Chàng nhớ lại quyết định hồi nãy của chàng là phải phản kháng, phải tranh luận, phải cãi cọ, phải đòi gặp cho bằng được kẻ đã ký giấy bắt giam chàng, nhưng trái ngược với những quyết định ấy, tinh thần chàng đã bị tiêu diệt. Chàng đang ở trong trạng thái thản nhiên êm đềm của người từ từ chết vì lạnh trong băng tuyết.

                  Sau khi gã thợ hớt tóc đã cắt xong tóc Innokenty, gã bắt chàng đứng lên và giơ cao hai tay để gã cắt lông nách chàng. Rồi gã ngồi xổm xuống và cũng với cây kéo ấy, cắt lông ở bụng chàng. Việc này làm cho Innokenty ngạc nhiên, bất giác chàng rùng mình và gã thợ gừ lên một tiếng cảnh cáo chàng.

                  "Bây giờ tôi mặc áo vào được chưa?"

                  Innokenty hỏi khi gã nọ đã làm xong.

                  Nhưng gã không đáp, gã chỉ lẳng lặng đi ra và khóa cửa lại.

                  Lần này, kinh nghiệm cho Innokenty biết rằng chàng không nên vội bận quần áo. Chàng cảm thấy da thịt ngứa ngáy khó chịu và đưa tay lên sờ đầu, lần đầu tiên chàng cảm thấy những sợi tóc dựng đứng tua tủa trên đó. Ngay từ thời còn là trẻ thơ, chưa lần nào Innokenty cắt tóc ngắn hết.

                  Chàng bắt đầu bận quần áo. Nhưng khi chàng vừa kéo được cái quần không dây lưng lên, khóa cửa lách cách vang lên, một gã nhân viên bước vào, tay cầm một tấm giấy dày khá lớn. Gã này có cái mũi bự.

                  "Họ gì?"

                  "Volodin".

                  Người tù trả lời ngay mặc dù chàng cảm thấy buồn nôn vì những câu hỏi lý lịch liên tiếp và dài lê thê này.

                  "Tên họ và tên thánh?"

                  "Innokenty Artemich".

                  "Năm sinh?"

                  "Một ngàn chín trăm mười chín".

                  "Nơi sinh?"

                  "Leningrad".

                  "Cởi ra".

                  Chỉ lờ mờ hiểu có những việc gì đang xảy ra quanh mình, Innokenty lại cởi quần áo. Chiếc áo lót của chàng rơi từ mặt bàn xuống sàn nhà dơ dáy nhưng chàng chỉ nhìn nó rơi xuống không chút kinh tởm, và chàng cũng không vội vã cúi xuống lượm nó lên.

                  Gã mũi bự đi quanh người chàng, nhìn kỹ mặt mũi, thân thể và ghi những nhận xét của gã xuống tờ giấy. Khi thấy gã chú ý tìm những dấu vết đặc biệt của chàng, Innokenty hiểu rằng gã đang thiết lập bản lý lịch thân xác chàng để cho vào hồ sơ.

                  Rồi gã Mũi Bự cũng xong việc và đi ra.

                  Không bận quần áo, Innokenty ngồi xuống ghế.

                  Cánh cửa lại động. Một thiếu phụ to lớn, tóc đen, bận áo choàng trắng tinh bước vào. Ả có nét mặt kiêu căng, thô bạo và những cử chỉ giả tạo của một người trí thức.

                  Innokenty giựt mình khi thấy người vào phòng là đàn bà, chàng vớ lấy cái quần lót che thân, nhưng ả đàn bà trừng mắt nhìn chàng với vẻ khinh thị không cần che giấu, hơi trề môi dưới ra, ả hỏi:

                  "Có chấy, rận không?"

                  "Tôi là một nhà ngoại giao".

                  Innokenty bị chạm tự ái nặng, chàng nhìn thẳng vào đôi mắt đen đặc biệt của dân Armenia trên mặt ả đàn bà trong khi chàng nói câu đó, hai tay chàng vẫn khư khư giữ cái quần lót trước bụng.

                  "Thì sao? Anh có gì cần khai không?"

                  Innokenty vội vã:

                  "Có chứ. Nhiều lắm. Tại sao tôi lại bị bắt? Tôi muốn đọc kỹ trát bắt tôi. Tôi muốn gặp ông Chưởng lý, ông Quản đốc…"

                  Ả đàn bà nhíu lông mày:

                  "Không ai hỏi anh những chuyện ấy. Có bệnh hoa liễu không?"

                  "Cái gì?"

                  "Anh có bị giang mai, lậu, hột xoài? Phong cùi? Ho lao? Có bệnh gì khác không?"

                  Và ả đi ra không cần chàng trả lời.

                  Gã nhân viên đầu tiên chàng gặp ở đây, gã có bộ mặt như cái mặt ngựa, bước vào phòng. Innokenty cảm thấy ấm lòng khi chàng nhìn thấy mặt gã, vì gã này là người duy nhất ở đây không nạt nộ chàng, không làm chàng phải đau đớn.

                  "Sao không bận quần áo vào?" – Gã mặt dài hỏi như gắt – "Mặc vào. Lẹ lên!"

                  Nhưng bây giờ, việc mặc quần áo với Innokenty không còn là việc dễ làm nữa. Gã mặt dài để chàng ở đó một mình và Innokenty giải quyết tình trạng thiếu dây lưng của chàng bằng cách mà cả triệu tù nhân trước của chàng đã dùng: lấy dây giày buộc lưng quần. Chỉ đến lúc này chàng mới biết rằng những miếng sắt nhỏ xíu gắn ở những đầu dây giày đã bị cắt mất. Chàng chưa được biết rằng trong khám đường Lubyanka, những người có quyền tin rằng tù nhân có thể dùng những mẩu sắt nhỏ ấy làm cưa và cưa được song sắt.

                  Chàng buộc được lưng quần nhưng chưa biết làm cách nào giữ cho hai vạt áo mất nút khép lại được.

                  Gã mặt dài, nhìn qua lỗ nhòm trên cánh cửa thấy tù nhân đã mặc xong quần áo, mở cửa vào, ra lệnh cho tù nhân chắp hai tay sau lưng, đi sang một gian phòng khác. Ở đây có gã mũi bự mà Innokenty đã biết, đang ngồi.

                  Gã mũi bự nói ngay khi Innokenty vừa bước vào:

                  "Cởi giày".

                  Việc này không có gì khó, vì đôi giày của Innokenty không còn dây buộc, cả hai chiếc vớ của chàng, bị mất dây thun chằng, tụt xuống cổ chân chàng.

                  Sát tường có một cái cân bàn và một cây đo để lấy chiều cao của chàng, ghi xuống giấy.

                  "Đi giày".

                  Ra đến cửa, gã mặt dài ra lệnh:

                  "Tay chắp sau lưng".

                  Từ đó về đến thùng số 8 chỉ có mấy bước nhưng gã vẫn ra lệnh cho chàng phải chắp hai tay sau lưng.

                  Innokenty bị nhốt trở lại trong "thùng".

                  Bên kia bức tường, giàn máy nào đó vẫn chạy, vẫn ngừng.

                  Hai tay nắm hai vạt áo, kéo sát vào người, Innokenty mệt mỏi ngồi xuống ghế. Kể từ giây phút vào khám đường Lubyanka, chàng chỉ được thấy ánh đèn sáng rực, những bức tường như muốn ép chàng, nghiến chàng và những bộ mặt vô hồn của bọn cai ngục lầm lì. Những thủ tục mà bọn cai ngục bắt chàng phải qua, đối với chàng, đều khôi hài như trò trẻ con. Chàng không nhận thấy là những trò đó là một chuỗi dài sự kiện hợp lý và có nghĩa: trước hết là cuộc khám xét tù nhân do những kẻ đi bắt về thực hiện, rồi đến việc lập hồ sơ lý lịch tù nhân, việc vào sổ tên tuổi tù nhân do ban quản đốc khám đường thực hiện sau khi tiếp nhận tù nhân, cuộc khám xét căn bản khi tù nhân tiếp nhận, cuộc khám xét về y tế, việc ghi nhận những dấu vết đặc biệt trên thân thể tù nhân. Việc kiểm soát vệ sinh. Những thủ tục này làm cho kẻ bị bắt mất thăng bằng về tinh thần, mất khả năng lý luận và sức đối kháng. Giờ đây, nỗi khổ sở duy nhất đang hành hạ, dày vò Innokenty chỉ là nỗi khổ thèm ngủ. Sau khi nghĩ rằng như vậy là họ sẽ không còn hỏi đến chàng nữa trong đêm nay và đây là lúc chàng có thể ngủ, Innokenty đặt cái ghế đẩu lên mặt bàn để lấy chỗ nằm dưới sàn. Chàng trải cái áo ngoài lên sàn và nằm co quắp trên đó. Chỉ trong ba tiếng đồng hồ đầu tiên phải sống trong khám đường Lubyanka, chàng đã có được những quan niệm về vấn đề ăn ngủ. Với hai đầu gối co sát lên tới cằm, đầu ngoẹo trong góc tường, trước khi toàn thân chàng tê cứng, chàng cảm thấy dễ chịu.

                  Nhưng chàng chưa ngủ được say, cánh cửa "thùng" đã mở với những tiếng động cố ý.

                  "Đứng lên…"

                  Mụ đàn bà ra lệnh.

                  Innokenty chỉ còn đủ sức để mở mắt nhìn hai bàn chân thô trong đôi giày nhà binh đặt gần mặt chàng.

                  "Đứng lên… Đứng lên…"

                  Chàng nghe tiếng giục đã cấp bách vang trên đầu chàng.

                  "Tôi buồn ngủ. Tôi mệt quá, cho tôi ngủ".

                  "Đứng lên… Đứng lên…"

                  Chàng nghe tiếng giục đã cấp bách vang trên đầu chàng.

                  "Tôi buồn ngủ. Tôi mệt quá, cho tôi ngủ".

                  "Đứng lên…"

                  Mụ đàn bà quát lớn, mụ cúi xuống chỗ chàng nằm như một mụ phù thủy hiện ra trong ác mộng.

                  Innokenty khó khăn ngồi dậy rồi đứng lên. Chàng thều thào:

                  "Làm ơn cho tôi đến đâu đó, chỗ nào tôi có thể nằm ngủ…"

                  "Cấm không được ngủ".

                  Mụ phù thủy mặc đồng phục nhân viên Mật vụ màu xanh chặn lời chàng, mụ lùi ra, đóng cửa lại.

                  Innokenty đứng dựa lưng vào tường trong lúc mụ đàn bà nhìn chàng qua lỗ nhòm. Mụ nhìn chàng như thế một lúc lâu, bỏ đi, rồi trở lại nhìn nữa, rồi bỏ đi.

                  Một lần nữa, Innokenty lại nằm gục trên sàn. Chàng lợi dụng khoảng thời gian ngắn mụ đàn bà không nhìn để ngủ.

                  Và một lần nữa, khi chàng vừa chợp ngủ, cánh cửa lại mở với một tiếng động lớn.

                  Lần này, người tới là một gã đàn ông, gã cao lớn, vạm vỡ như một anh thợ rèn hoặc một công nhân chuyên đập đá tảng. Gã đứng giữa khung cửa trong chiếc áo choàng trắng.

                  "Họ gì?" Gã nói.

                  "Volodin".

                  "Mang đồ đi".

                  Innokenty nhặt áo và mũ, với đôi mắt lờ đờ, chàng loạng choạng đi theo gã đàn ông. Lúc này, chàng ở trong tình trạng kiệt lực, hai chân chàng bước đi với những bước cao thấp không đều, chàng chỉ còn vừa đủ sức để đi nhưng không ghi nhận được gì chung quanh. Nếu có thể được, chàng nằm vật xuống lối đi và ngủ say ngay tức thì.

                  Chàng bị dẫn đi qua một lối đi nhỏ, hẹp, đục sâu trong những bức tường dày, rồi vào một hành lang khác, hành lang này bẩn thỉu, dơ dáy hơn hành lang chàng vừa rời bỏ, sau cùng, chàng được dẫn tới một cửa phòng tắm. Ở đây, sau khi dúi vào tay chàng một miếng xà-bông nhỏ hơn bao quẹt, gã đàn ông bảo chàng cởi quần áo vào đó tắm.

                  Innokenty phản ứng chậm chạp. Chàng quen tắm trong phòng tắm sáng choang, sạch bóng như gương. Phòng tắm bằng gỗ này, có thể là sạch với một người thường, đối với chàng thật bẩn. Chàng tìm một chỗ tương đối sạch trên mặt ghế dài và cởi quần áo để lên đấy. Rồi chàng co ro bước đi trên bậc gỗ còn ướt những vết chân, vết giày. Chàng không muốn cởi quần áo, không tắm, chỉ vào đấy rồi đi ra nhưng gã thợ rèn theo vào tận nơi, giục chàng vào đứng dưới vòi nước.

                  Có bốn vòi nước trên cao chảy vào chỗ đứng tắm, có đủ nước nóng, nước lạnh – nước nóng là thứ hiếm có trong nhà tù – nhưng Innokenty chưa biết nước nóng là quý. Và chàng cũng chưa biết thưởng thức điều kiện hy hữu là bốn vòi nước cho một người tắm. Nếu chàng biết rằng bốn người tù phải đứng tắm chung dưới một vòi nước, có thể chàng đã khoan khoái khi thấy một mình chàng được hưởng thụ bằng mười sáu người. Chàng đã vứt miếng xà bông ghê tởm đi. Trong suốt ba mươi năm trời chàng sống, chưa bao giờ chàng phải cầm đến một miếng xà-bông bẩn thỉu đến như vậy, hơn thế nữa, chàng còn không biết rằng ở đời này có những miếng xà-bông bẩn như thế. Trong vài phút đứng dưới vòi nước, chàng chỉ chú ý đến việc làm cho bụng dưới chàng sạch những sợi lông, tóc bị cắt làm cho chàng ngứa ngáy. Rồi, với cảm giác chàng chưa hề tắm gì cả, chàng chỉ vừa làm cho da thịt chàng dơ bẩn hơn, chàng trở lại chỗ để quần áo.

                  Nhưng quần áo của chàng không còn để trên mặt ghế nữa. Họ đã lấy mang đi hết quần áo của chàng, kể cả đồ lót, chỉ còn đôi giày của chàng là còn nằm dưới gầm ghe. Cửa phòng đóng, khóa bên ngoài. Innokenty không còn có thể làm được việc gì khác ngoài việc ngồi lom khom trên ghế, trần truồng, như pho tượng "người suy tưởng" của nhà điêu khắc Rodin.

                  Rồi gã đàn ông đem vào cho chàng một bộ đồ lót nhà tù bằng vải dày, thô cứng, từng được giặt nhiều lần. Mặt trước, mặt sau cái áo lót, cái quần lót này đều có in hai chữ "Khám đường". Ngoài hai thứ đó là một mảnh vải vuông gấp tư mà Innokenty không nhận được ngay đó là cái khăn tắm. Nút quần lót bằng giấy bồi và đã bị mất một, hai nút. Lưng quần thắt bằng dây, nhưng sợi dây này cũng đã đứt. Cái quần cụt quá chật, quá ngắn, bó sát hai mông chàng, cái áo lót lại quá rộng, quá dài. Gã thợ rèn không nghe nói đến chuyện đổi cho chàng bộ khác bởi vì chàng đã bận bộ này vào người rồi.

                  Khó chịu, ngượng nghịu trong bộ đồ lót mới nay, Innokenty ngồi chờ rất lâu trong gian phòng bên ngoài. Họ cho chàng biết rằng quần áo của chàng đang nằm trong "lò hấp". Danh từ này mới lại với Innokenty, chàng không tưởng tượng được "lò hấp" là cái gì.

                  Cuộc tắm đêm bất đắc dĩ đã xua đuổi cơn buồn ngủ ra khỏi Innokenty, bây giờ chàng chỉ còn thấy mệt. Cơn mệt mỏi ghê gớm đến đè nặng lên chàng. Chàng khao khát được ngả lưng trên một cái gì khô và ấm, nằm bất động và phục hồi sức lực. Nhưng chàng cũng không muốn nằm trên mặt sàn ướt nhớp nháp này.

                  Cửa mở, nhưng người vào không phải là gã thợ rèn, quần áo của chàng cũng chưa được mang vào. Người vào phòng là một thiếu nữ có bộ mặt vuông hồng hào, bận thường phục, Innokenty lúng túng vì cái quần cụt mất nút, lom khom đứng lên. Người thiếu nữ đưa cho chàng tờ biên nhận bằng giấy hồng, bảo chàng ký lên đó – tờ biên nhận ghi rằng: Hôm nay ngày 26 tháng 12, Khám đường của Cơ quan MGB, Liên bang Xô Viết, có nhận tạm giữ của tên Volodin: 1 đồng hồ tay bằng kim khí vàng, 1 bút máy cũng bằng kim khí vàng, một cây cài cà-vạt có viên đá nhỏ, một cặp nút cài tay áo có hai viên đá xanh.

                  Innokenty lại ngồi chờ, đầu gục xuống. Sau cùng, họ đem áo quần tới trả chàng. Chiếc áo choàng ngoài còn nguyên không hề hấn gì trong khi cái áo veste và quần của chàng nhàu nát, co rúm và hãy còn nóng ran.

                  "Sao các anh không cẩn thận bộ đồng phục cũng như cái áo ngoài này giùm tôi có được không?" Innokenty giận dữ hỏi.

                  Gã thợ rèn nghiêm giọng trả lời:

                  "Cái áo ngoài này bằng lông thú. Anh phải hiểu chứ".

                  Giờ đây, sau khi bị hấp trong "lò hấp", cả bộ quần áo của Innokenty cũng trở thành xa lạ với chàng. Với cảm giác khó chịu do áo quần lạ gây ra, Innokenty được đưa trở về "thùng" số 8.

                  Chàng hỏi xin hai ly nước và uống ngon lành. Ly đựng nước cũng có vẽ hình con mèo đọc sách.

                  Rồi một thiếu nữ khác lại đến, đưa cho chàng một tờ biên nhận màu xanh để chàng ký. Biên nhận này ghi: Hôm nay, ngày 27 tháng 12, Khám đường của Cơ quan MGB, Liên bang Xô Viết, có nhận để tạm giữ của tên Volodin những món sau đây: một sơ-mi lụa, một bộ đồ lót lụa, một dây lưng da, một dây cà-vạt. Bây giờ đã là 27 rồi ư?

                  Giàn máy bí mật sau bức tường vẫn tiếp tục phát ra tiếng động.

                  Sau khi bị nhốt trở lại, Innokenty ngồi khoanh hai tay trên mặt bàn và gục đầu xuống đó, chàng định ngủ ngồi.

                  "Cấm".

                  Một viên canh tù mới mở cửa sủa vào.

                  "Cái gì cấm?"

                  "Cấm gục đầu xuống bàn".

                  Innokenty đành ngồi chờ, tâm trí chàng hoảng loạn.

                  Một hồi nữa, họ lại mang đến một tờ biên nhận để chàng ký. Biên nhận này bằng giấy màu trắng, trên ghi Khám đường của Cơ quan MGB, Liên bang Xô Viết có nhận để tạm giữ của tên Volodin số tiền là 123 đồng ruble.

                  Thêm một nhân viên nữa tới, người này bận cái áo choàng màu xám. Mỗi lần mang biên nhận đến cho Innokenty ký, người ta đều hỏi tên họ chàng. Lần này, nhân viên mới đến lại hỏi lý lịch chàng từ đầu đến cuối. Họ gì? Tên riêng và tên thánh? Năm sinh? Nơi sinh?

                  Rồi gã nhân viên bảo chàng:

                  "Xong rồi. Đi…"

                  "Xong gì? Đi đâu?" Innokenty ngơ ngác hỏi lại.

                  "Bỏ đồ của anh lại đó. Đi theo tôi. Hai tay chắp đằng sau…"

                  Trong hành lang, bọn cai tù nói nhỏ hơn, đề phòng tù nhân bị nhốt trong những "thùng" bên cạnh nghe thấy.

                  Tắc lưỡi theo kiểu gọi chó, gã nhân viên áo xám mới đến đưa Innokenty tới một gian phòng lớn. Phòng này không có vẻ là một gian phòng trong nhà tù, các cửa sổ phòng đều có màn che kín, trong phòng có bàn ghế, tủ. Innokenty được chỉ cho ngồi xuống một cái ghế đặt ở giữa phòng. Chàng yên trí là họ sắp thẩm vấn chàng.

                  Nhưng họ chỉ đẩy ra trước mặt chàng một giàn máy chụp hình đặt trên giá gỗ. Họ bật đèn sáng trưng chung quanh chàng và họ chụp hình chàng.

                  Gã áo xám đưa Innokenty đến đây nắm lấy từng ngón bàn tay mặt của chàng, lăn trên mặt kiếng dính mực in nhơm nhớp rồi ấn xuống mặt giấy. Dấu chỉ tay của năm ngón tay chàng hiện trên mặt giấy.

                  Sau tay mặt, đến lượt những ngón tay của bàn tay trái.

                  Trên những dấu ấy là hàng chữ "Volodin, Innokenty Artemich, 1919, Leningrad" và trên tất cả là hàng chữ in đen đậm:

                  TỐNG GIAM VĨNH VIỄN

                  Đọc bốn chữ này, Innokenty rùng mình. Những chữ này có một cái gì huyền bí, siêu nhân, siêu nhiên.

                  Họ đưa chàng đến rửa tay ở bồn nước trong góc phòng. Ở đây có xà bông, bàn chải, nước lạnh. Dấu mực in không chịu đi và không ăn nước. Innokenty dùng bàn chải có xà-bông đánh ngón tay, chàng không nghĩ đến sự hợp lý của việc cho đi tắm trước rồi lấy dấu tay sau.

                  Tâm trí nhàu nát và cam chịu của chàng đang bị thôi miên ám ảnh bởi những chữ ghê gớm, những chữ địa chấn:

                  TỐNG GIAM VĨNH VIỄN
                  #39
                    CTT 14.09.2008 16:28:06 (permalink)
                    40
                    Trận gió thứ nhì

                    Trong đời Innokenty, chưa bao giờ chàng phải sống một đêm dài vô tận đến như thế. Chàng không ngủ qua một phút nào và chỉ nội trong một đêm, những tưởng tượng quay cuồng trong óc chàng nhiều hơn số tư tưởng của một người thường có trong cả một tháng. Chàng đã nghĩ nhiều kể từ lúc đồng phục nhân viên ngành ngoại giao của chàng bị họ lột mất những dây vàng, khi chàng trần truồng ngồi chờ sau khi tắm và trong lúc chàng bị nhốt trong "thùng".

                    Giờ đây tâm trí chàng lại bận suy nghĩ vì những chữ "Tống giam vĩnh viễn".

                    Như vậy có nghĩa là dù họ có chứng minh được rằng chàng có đúng là người gọi điện thoại hay không – ít nhất bây giờ chàng cũng đã biết chắc rằng cuộc điện đàm ấy bị nhân viên mật vụ nghe lén – một khi họ đã bắt chàng, họ sẽ không để chàng trở ra nữa. Chàng đã biết rằng Stalin sẽ không bao giờ để cho ai trở lại với cuộc sống. Chàng sẽ may mắn nhiều nếu mai đây, họ cho chàng đến một trại tập trung, với tội trạng của chàng, họ sẽ nhốt chàng vào một nhà tù kín được cải biến thành nhà giam, ở đó họ sẽ cấm chàng không được ngồi suốt ban ngày hoặc không được nói nửa tiếng trong nhiều năm. Sẽ không một ai biết gì về chàng, và chàng sẽ không được biết qua sự kiện gì xảy ra trên thế giới, ngay cả khi nguyên một lục địa thay đổi màu cờ, hay loài người đặt chân lên mặt trăng, chàng cũng không hề hay biết. Và những tù nhân không có tiếng nói có thể bị bắn chết trong những phòng giam cô đơn. Việc ấy từng xảy ra…

                    Nhưng chàng có thực sự sẵn sàng chờ đón cái chết hay không?

                    Thoạt đầu, Innokenty sốt sắng chờ đợi bất cứ một việc nhỏ nhặt nào xảy đến với chàng, như cửa mở, người vào, bất kỳ việc gì làm ngừng sự cô đơn của chàng trong cuộc sống xa lạ mới trong tù. Nhưng giờ đây, chàng lại muốn được ngồi yên để suy nghĩ, để nắm bắt cái tư tưởng tuy rất quan trọng nhưng hãy còn mơ hồ trong óc chàng. Vì vậy, chàng hài lòng khi họ đưa chàng trở lại nhốt vào "thùng" và để chàng ngồi yên đấy trong một thời gian khá lâu mặc dù họ vẫn đều đều nhóm ngó chàng qua lỗ nhìn.

                    Bỗng dưng, làn sương mờ bao phủ tâm trí chàng tan đi. Tất cả những gì Innokenty đã đọc, đã suy nghĩ trước đây về cuộc sống, cái chết của con người hiện ra, rõ ràng, minh bạch.

                    Bây giờ, khi chàng không thể có giấy bút để ghi lại chúng, nhưng tư tưởng hiện trong óc chàng trở thành quý báu hơn. Chàng nhớ lại rõ rệt một câu từng làm chàng suy nghĩ và nghi ngờ trước kia:

                    "Không nên sợ những đau khổ vật chất. Đau khổ vật chất không đáng kể, những đau đớn do vật chất gây ra bao giờ cũng chóng qua".

                    Phải ngồi không được ngủ trong một cái "thùng" hẹp, không có khí trời, không duỗi thẳng được chân ra, trong nhiều ngày… là một đau đớn đáng kể hay không đáng kể? Sự đau đớn ấy dài lâu hay ngắn ngủi? Nếu phải sống mười năm không được nghe tiếng người, con người có đau đớn hay không?

                    Trong phòng chụp hình và lăn tay, Innokenty để ý thấy thời gian lúc đó là một giờ đêm. Bây giờ chắc đã quá hai giờ đêm. Một ý nghĩ vô lý kéo theo một ý nghĩ nghiêm trọng khác đến trong óc chàng: chiếc đồng hồ đeo tay của chàng đã bị người ta bỏ vào một ngăn tủ kín, nằm trong đó sẽ chạy mãi cho đến lúc dây thiều của nó giãn hết, đến lúc đó nó sẽ ngừng chạy. Sẽ không ai lên dây nó và cho đến lúc chủ nhân nó chết hoặc những vật sở hữu của y bị sung công, cái đồng hồ ấy chỉ còn chỉ giờ – giờ lúc nó ngừng chạy. Cái đồng hồ của chàng sẽ chỉ mấy giờ, mấy phút?

                    Và Dotty, vợ chàng, có chờ đợi chàng về đón nàng đi coi hát không? Nàng có gọi điện thoại đến Bộ Ngoại giao hỏi về chàng không? Chắc là không, nhân viên mật vụ sẽ đến khám xét nhà chàng. Với một tầng lầu rộng như thế, năm người sẽ phải lục soát suốt đêm mới xong. Bọn đó sẽ tìm thấy những gì?

                    Chắc là Dotty sẽ xin ly dị và sẽ sớm lấy chồng khác.

                    Và ông già vợ của chàng, ông Biện lý Pyotr Makarygin, chắc sẽ hận chàng lắm – chàng làm cho sự nghiệp của ông ta đổ vỡ, việc có một anh con rể bị tù chung thân sẽ như là một án tích trên lý lịch của ông ta – Ông ta sẽ công khai tố cáo chàng tội phản quốc trước hơn hết mọi người.

                    Tất cả mọi người từng quen biết Cố vấn Volodin sẽ, vì lòng yêu nước – quên chàng, xóa chàng trong ký ức của họ.

                    Con thủy quái khổng lồ câm nín sẽ bóp nghẹt chàng và sẽ không còn ai trên mặt đất này được biết gì về chàng.

                    Và chàng còn náo nức muốn sống để xem thế giới này sẽ ra sao. Rồi đây mọi khác biệt trên trái đất sẽ dung hòa, chiến tranh sẽ không còn xảy ra nữa. Những biên giới phân chia giữa những quốc gia sẽ được xóa bỏ, cả những quân đội sẽ không còn. Sẽ có một quốc hội chung cho cả thế giới. Sẽ có một ngày ông Tổng Thống chế Thế giới được bầu lên. Ông này sẽ ngả mũ trước nhân loại và nói…

                    "Mang đồ đi".

                    "Cái gì?"

                    "Mang đồ đi".

                    "Đồ gì?"

                    "Mấy cái quần áo rách của anh đó".

                    Innokenty đứng dậy, hai tay ôm cái áo ngoài và cái mũ của chàng. Trong hành lang, bên cạnh người gác hành lang, xuất hiện một gã Trung sĩ vạm vỡ, hỗn hào bận đồng phục MGB. Innokenty nghĩ đến chuyện họ tuyển lựa những tên này ở đâu ra và họ trao cho chúng những chức vụ gì.

                    Nhìn vào tờ giấy trên tay, gã Trung sĩ hỏi:

                    "Họ gì?"

                    "Volodin".

                    "Tên riêng, tên thánh?"

                    "Innokenty Artemich".

                    "Năm sinh?"

                    "Các anh còn hỏi tôi bao nhiêu lần nữa?"

                    "Năm sinh?"

                    "1919".

                    "Nơi sinh?"

                    "Leningrad".

                    "Lấy đồ đi. Mau".

                    Gã đi trước, miệng tắc lưỡi.

                    Lần này Innokenty được đưa đi qua hành lang xuống một cái sân tối. Ý nghĩ chợt đến trong óc Innokenty: họ đưa chàng đi bắn. Người ta nói rằng những cuộc xử bắn bao giờ cũng được thực hiện trong đêm khuya.

                    Rồi chàng tự hỏi: Nếu họ định bắn mình, họ còn đưa cho mình ký giấy nhận đồ làm gì? Không, chắc là không phải đâu.

                    Cho đến lúc này Innokenty vẫn còn tự tin ở sự hợp lý của những con quái vật trăm tay này.

                    Vừa đi vừa tắc lưỡi theo kiểu gọi chó, gã Trung sĩ hỗn xược đưa chàng qua sân, vào một tòa nhà khác và tới một thang máy. Một người đàn bà trẻ, đứng cạnh một bao quần áo vừa giặt xong, tránh sang một bên trong lúc chị nhìn Innokenty theo gã Trung sĩ bước vào thang máy. Mặc dù chị thợ giặt này không đẹp, lại ở một giai cấp thấp kém, và cũng nhìn Innokenty với cái vẻ thản nhiên, lạnh lùng như tất cả mọi người chàng gặp ở đây, Innokenty vẫn cảm thấy bị xúc động vì những người thiếu nữ đem biên nhận đến cho chàng ký. Có thể chị thợ giặt này còn thương hại chàng vì chàng tơi tả, khổ sở quá.

                    Nhưng thương hại hay không thì có quan trọng gì đâu, khi chàng bị "tống giam vĩnh viễn".

                    Gã Trung sĩ đóng cửa thang máy và nhấn một nút điện không đánh số tầng lầu.

                    Giàn máy kéo thang vừa chuyển động, Innokenty nhận ra ngay đây là một tiếng máy bí mật đã làm chàng nghĩ rằng đó là máy nghiền nát xương người trong những phút đầu chàng bị nhốt vào "thùng" số 8.

                    Chàng mỉm cười buồn rầu, sự lầm lẫn vô hại này làm cho tinh thần chàng lên được đôi chút.

                    Thang máy ngừng. Gã Trung sĩ đưa Innokenty đi thẳng tới một gian phòng rộng có viên giám thị bận đồng phục. Chàng bị nhốt ngay vào một "thùng" không có số. "Thùng" này rộng hơn nhưng có vẻ dơ dáy hơn. Sát tường có một cái bục gỗ dính liền vào tường đủ chỗ cho ba người cùng ngồi. Không khí trong "thùng" này lạnh giá. Cửa cũng có lỗ nhìn nhưng chàng không bị nhòm ngó nhiều bằng bên kia.

                    Từ bên ngoài vang vào tiếng chân đi, tiếng giày lên trên sàn. Những viên giám thị tấp nập đi ngang. Khám đường này có cuộc sống ban đêm thật nhộn nhịp.

                    Lúc mới bị đưa vào đây, Innokenty tưởng rằng chàng sẽ bị nhốt mãi trong cái "thùng" số 8 quá hẹp, quá nóng, quá sáng đèn ấy, và chàng đã lo sợ, khổ sở vì ở đó không có chỗ cho chàng duỗi chân, ở đó không đủ không khí cho chàng thở và ánh đèn sáng rực làm chàng chói mắt. Giờ đây chàng thấy chàng đã lầm, và chàng hiểu rằng chàng sẽ phải sống trong cái "thùng" khá rộng nhưng lạnh giá, trơ trọi và không có đèn này. Chàng lại khổ sở vì ở đây, nền xi-măng lạnh sẽ làm hai chân chàng tê cóng, tiếng chân đi liên tiếp ngoài kia làm chàng khó ngủ và sự thiếu ánh sáng làm chàng khó chịu. Chàng thèm muốn, ước ao có được một cái cửa sổ đến là chừng nào! Một khung cửa sổ nhỏ thôi, nhỏ xíu, như những khung cửa sổ trên sân khấu những vở tuồng cổ. Nhưng ngay cả khung cửa sổ nhỏ xíu đó chàng cũng không sao có thể có.

                    Người ta có thể nghe thật nhiều chuyện kể về khám đường, đọc thật nhiều hồi ký về khám đường nhưng người ta vẫn không sao có thể tưởng tượng nổi cảnh khám đường: hành lang, cầu thang, những dãy cửa vô số, giám thị đề lao đi lại, sĩ quan, trung sĩ, lao công. Khám đường Lubyanka vĩ đại nhộn nhịp với những hoạt động ban đêm, vậy mà người tù cô đơn không nhìn thấy qua một người tù nào khác. Y không sao nhìn thấy được một người khác ở trong cảnh ngộ của y, y không nghe được một lời nói nào khác ngoài những lời nói vì trách vụ, cả những lời nói vì trách vụ này cũng hiếm hoi. Y có cảm giác như cả cái tổ chức lớn này đêm nay chỉ thức vì một mình y, chỉ bận rộn vì tội trạng của riêng y.

                    Không phải vì ngẫu nhiên mà người tù không được nhìn thấy người tù nào khác. Người ta cố tình đặt y vào tình trạng đó trong thời gian đầu y bị bắt, để người tù mới bị bắt không nhận được qua một khuyến khích, một an ủi nào, để cho sức nặng của cả guồng máy tù đày giáng xuống một mình y mà thôi.

                    Tư tưởng của Innokenty xoay chuyển theo một chiều hướng mà không mấy thuận lợi cho tâm trạng của chàng. Cuộc gọi điện thoại đến cho Giáo sư Dobroumov, mới hôm qua đây còn được chàng coi là một hành động cao quý, nay chỉ còn là một việc làm vô ích, thừa thãi và vô giá trị không khác việc tự tử.

                    Bây giờ, chàng có đủ chỗ để có thể đi đi, lại lại, nhưng chàng đã mệt nhoài, đã rã rời vì những thủ tục mà chàng vừa phải qua, đến nỗi chàng không còn cả sức để mà đi lại nữa. Sau vài vòng đi quanh quẩn, chàng ngồi xuống bục gỗ và để hai tay xuôi bên mình.

                    Biết bao dự định vĩ đại đã bị chôn giữa những bức tường này, bị niêm phong trong những cái "thùng" giam ác ôn này, bị tiêu diệt, thui chột, chết ngúm mà đời sau không được biết?

                    Hôm nay hoặc là ngày mai, Innokenty sẽ đáp phi cơ bay đến Paris, ở đó chàng sẽ hoàn toàn quên người mà chàng định cứu, người mà … chàng đã cố gắng hết sức mà vẫn không sao cứu được.

                    Khi chàng tưởng tượng ra cảnh chàng đến Paris, nhất là những giờ đầu tiên chàng sống ở Paris, Innokenty rùng mình choàng dậy vì cuộc sống tự do thần tiên mà chàng vừa mất. Chàng muốn cào cấu lên tường cho hả cơn tiếc hận.

                    Nhưng cánh cửa mở đúng lúc giúp chàng khỏi làm cái việc vi phạm đến luật cấm của khám đường là việc cào cấu hay đấm lên tường. Một lần nữa họ chất vấn lý lịch chàng. Innokenty trả lời như người đang ngủ say. Rồi chàng được lệnh ra khỏi đó đem theo đồ. Vì trong "thùng" lạnh giá, chàng đội mũ và khoác áo ngoài lên vai. Chàng để áo như vậy để đi ra cửa, không biết rằng với cách khoác áo như thế chàng có thể cầm hai lưỡi dao nhọn hoặc hai khẩu súng lục đã nạp đạn giấu dưới vạt áo. Chàng bị ngăn lại để xỏ hai tay vào áo đàng hoàng, sau đó chắp hai tay sau lưng trước khi bước ra khỏi đó.

                    Chàng được dẫn đi – người dẫn chàng cũng tắc lưỡi như những người trước – tới cầu thang nằm cạnh thang máy và đi xuống thang. Nếu chàng nhớ được đường đi, bao nhiêu lần quẹo, lên xuống bao nhiêu bậc thang, để rồi sau đó khi không có chuyện gì để nghĩ, hồi tưởng lại và tưởng tượng ra vị trí của khám đường, việc đó sẽ là một việc hay ho, nhưng lúc này năng khiếu ghi nhận của chàng đã mòn đến nỗi chàng đi như người hoàn toàn không còn cảm giác. Chàng không biết rằng chàng đã xuống sâu đến bao nhiêu trong lòng khám đường khi bất chợt ở trước mặt chàng đi tới một người gác, người này cũng tắc lưỡi y hệt người gác dẫn chàng, và người gác dẫn chàng mở ngay một cánh cửa bên lối đi, đẩy mạnh chàng vào đó và đứng lấy lưng đè chặn bên ngoài.

                    Nơi Innokenty bị đẩy vào giống như một cái tủ, bên trên không có trần, vừa vặn đủ chỗ để chàng đứng. Phản ứng tự nhiên của con người trong trường hợp này là phản đối nhưng Innokenty đã quen với những thứ khác khó hiểu và sự im lặng của khám đường Lubyanka, đứng yên chịu đựng. Chàng vô hồn làm tất cả những gì khám đường đòi hỏi chàng làm.

                    Nhưng sự kiện này, sau cùng, đã cho Innokenty hiểu tại sao bọn giám thị trong khám đường Lubyanka lại tắc lưỡi khi đưa tù nhân đi. Đó là tiếng báo cho bọn giám thị khác biết rằng y dắt tù nhân đi. Chúng bị cấm không được để cho tù nhân trông thấy nhau, để cho tù nhân không thể dùng mắt nhìn an ủi nhau, khuyến khích nhau thêm can đảm.

                    Một tù nhân được dắt qua hành lang, rồi một người nữa. Sau đó Innokenty được ra khỏi ngăn tủ nấp và đưa xuống sâu nữa.

                    Ở những bậc thang đá cuối cùng, Innokenty nhận thấy mặt đá mòn lõm xuống. Chưa bao giờ chàng nhìn thấy những bậc đá mòn đến thế.

                    Vết mòn sâu đến nửa gang tay, lõm tròn trong mặt đá.

                    Chàng rùng mình. Trong ba mươi năm, có biết bao nhiêu bàn chân đã giẫm lên đây để cho mặt đá lõm đến như thế? Cứ mỗi hai người đi qua là có một người tù, một người gác tù.
                    Chàng được đưa tới một khung cửa khóa có một ô nhìn gắn song sắt ở trên. Tới đây, Innokenty được biết một thủ tục mới của khám đường: chàng bị người gác bắt đứng áp mặt vào tường, tuy không nhìn lại, chàng biết là người gác nhấn chuông vì có tiếng chuông reo, ô nhìn trên khung cửa được mở ra rồi đóng lại ngay. Tiếp đó là tiếng cửa mở. Có một người mà Innokenty không nhìn thấy, cất tiếng hỏi:

                    "Họ gì?"

                    Theo phản ứng tự nhiên, Innokenty quay đầu lại để nhìn kẻ hỏi mình, chàng nhìn thoáng thấy một bộ mặt không rõ đàn ông hay đàn bà, sưng sỉa, chảy xệ, bộ mặt có một vết sẹo đỏ hỏn thật lớn, và chàng nhìn thấy bên dưới bộ mặt ấy cặp cầu vai gắn cấp hiệu Trung úy.

                    Viên Trung úy quát:

                    "Không được nhìn lại".

                    Innokenty quay mặt vào tường và cuộc hỏi lý lịch đều đều bắt đầu. Innokenty trả lời, chàng nói với mảnh tường vôi trắng trước mặt chàng.

                    Sau khi kiểm soát và thấy rằng tù nhân trả lời đúng tên tuổi được ghi trên phiếu lý lịch được đưa đến, và tù nhân vẫn còn nhớ được năm sinh, nơi sinh của y, viên Trung úy mặt sẹo nhấn chuông trên cánh cửa gã vừa bước ra nhưng đã khóa lại sau lưng gã. Một lần nữa ô nhìn được mở, có một kẻ nào đó bên trong cửa nhìn ra, ô nhìn đóng lại và cánh cửa được mở.

                    "Đi vô". Gã Trung úy mặt sẹo ra lệnh.

                    Họ bước vào và cánh cửa đóng lại, tiếng khóa rổn rảng nổi lên.

                    Innokenty chỉ mới kịp trông thấy một hành lang tối có nhiều khung cửa hai bên, một cái bàn, một cái tủ có nhiều ngăn như chuồng chim bồ câu, nhiều tên giám thị đứng trong hành lang, gã Trung úy mặt sẹo đã ra lệnh cho chàng:

                    "Nhìn vào tường. Đừng động đậy".

                    Gã bắt chàng đứng như thế trong lúc gã xem kỹ hơn hồ sơ của chàng, rồi gã lại ra lệnh, gã nói nhỏ thôi nhưng tiếng nói của gã vẫn vang lớn trong bầu không khí im lặng lạnh giá:

                    "Số 3".

                    Người giám thị đưa Innokenty tới đây đi vào hành lang:

                    "Hai tay sau lưng. Đi…"

                    Innokenty đi theo gã vào hành lang. Chàng nhìn thấy những chữ số ghi trên cánh cửa chàng đi ngang:

                    47, 48, 49

                    Dưới những hàng số ấy là những lỗ nhìn. Cảm thấy toàn thân ấm lại vì sự gần cận những người bạn tù, Innokenty muốn nhấc một nắp che lỗ nhìn kia lên để dán mắt vào đó, nhìn cuộc sống bị nhốt trong đó. Gã gác kéo chàng đi mau và Innokenty rảo bước đi theo, chàng đã bị lây cái bệnh thụ động của những tù nhân, mặc dù một người đã mất tất cả, lẽ ra không còn gì để phải lo sợ nữa.

                    Nhưng không may cho loài người, và đây là điều may mắn cho những kẻ thống trị, con người được tạo thành với nhược điểm là còn sống thì vẫn còn sợ khổ, đã khổ hết sức, khổ đến cùng nhưng vẫn luôn luôn sợ mình sẽ khổ hơn. Ngay với một kẻ đã bị tù suốt đời, bị tước quyền hành động, không còn được nhìn thấy trời xanh, mất gia đình, mất hết của riêng, vẫn còn có thể bị trừng phạt cho khổ hơn bằng cách nhét xuống những hầm tối ẩm ướt, không cho ăn, đánh bằng gậy, và người tù này vẫn cảm thấy những trừng phạt nhỏ mọn này làm cho y khổ sở y hệt ngày nào y vừa mới mất tự do, tức là như ngày y mới bị bắt. Để tránh những khổ sở tối hậu này, người tù ngoan ngoãn tuân theo những luật lệ làm mất nhân cách của chế độ lao tù, và thói quen tuân lệnh, khuất phục dần dần giết chết con người ở trong y.

                    Những khung cửa ở đầu hành lang nằm sát gần nhau hơn, mỗi cửa chỉ còn ghi một số:

                    3, 2, 1

                    Người gác mở cửa số 3 và làm một cử chỉ mời chào bằng tay, trong khung cảnh này, cử chỉ ấy trở thành khôi hài. Innokenty nhận thấy sự khôi hài ấy và chàng nhìn người gác kỹ hơn. Gã là một thanh niên hãy còn trẻ, hơi thấp, vai to, tóc đen, hai mắt nhỏ như hai vết dao chém. Vẻ mặt gã cũng khá ác ôn, gã không cười, nhưng sau khi gặp chừng một tá viên chức khám đường Lubyanka đêm nay, Innokenty thấy rằng bộ mặt của gã này đáng kể là một bộ mặt dễ chịu.

                    Bị nhốt trong "thùng" số 3, Innokenty nhìn quanh. Sau đêm nay, chàng đã có thể tự hào là người biết khá nhiều về "thùng giam người" trong khám đường Lubyanka, chàng đã bị nhốt vào nhiều "thùng" và có dịp so sánh. "Thùng" số 3 này rộng, đẹp, sạch sẽ hơn tất cả. Chiều ngang của nó khoảng thước rưỡi, chiều dài chừng hai thước rưỡi, sàn gỗ, một cái ghế gỗ dài gắn liền vào tường, bên cửa có một cái bàn gỗ nhỏ. "Thùng" này, tất nhiên cũng kín mít và không có cửa sổ, chỉ có một lỗ thông hơi nhỏ có lưới sắt che nằm cao trên trần, trần cao tới 4 thước. Tường quét vôi trắng, rực sáng vì bóng đèn điện 200 nến nằm trong cái giỏ sắt treo trên cửa. Ánh đèn mạnh làm ấm không khí nhưng cũng làm cho chàng chói mắt.

                    Rất nhanh, Innokenty đã nắm vững được nghệ thuật sống của tù nhân. Lần này, Innokenty không còn mơ mộng hão huyền rằng chàng sẽ có thể ở lâu trong phòng giam thoải mái này. Khi nhìn thấy cái ghế dài, người tù tập sự trước chàng – người tù tập sự mỗi phút qua là thêm một phút trở thành lão luyện – biết rằng vấn đề cần làm ngay bây giờ của mình là ngủ. Như một con thú mới được xinh ra đời trong rừng thẳm đã mất mẹ vội vã tìm cách sống một mình, Innokenty cuộn chiếc áo ngoài của chàng lại thành cái gối, chàng nằm ngay xuống ghế và cảm thấy dễ chịu. Chàng nhắm mắt và sửa soạn ngủ.

                    Nhưng giấc ngủ trốn chàng. Trước đây, chàng đã hai lần ngủ gục khi chàng không được quyền ngủ, chàng đã qua tất cả những hình thức mệt mỏi, nhưng tới đây, khi chàng có thể ngủ được, chàng lại tỉnh thức. Những khích động liên tục làm cho thần kinh chàng căng thẳng không chịu rời bỏ chàng. Cố gắng không suy nghĩ để khỏi tiếc hận hoặc mơ màng, Innokenty nằm im, thở đều và đếm nhẩm trong miệng… Thật là một điều tai hại khi được nằm ấm, hai chân duỗi dài mà không ngủ được, nhất là khi không biết vì nguyên do nào, người gác bên ngoài lại không mở nắm lỗ nhìn nhòm vào luôn luôn như ở trong phòng giam khác.

                    Chàng nằm im như thế trong khoảng nửa tiếng, cuối cùng, chàng cảm thấy trí óc bắt đầu không suy nghĩ nữa, rồi một cảm giác nặng nề nhầy nhụa đè nặng lên toàn thân chàng.

                    Nhưng đến lúc này, Innokenty lại thấy rằng chàng không sao có thể ngủ nổi với ánh đèn rực sáng này. Chàng nhắm mắt lại nhưng vẫn thấy một màu đỏ ối, ánh đèn như một vật hữu hình ép xuống mi mắt chàng. Đây là lần đầu tiên Innokenty cảm thấy sức ép của ánh sáng, sự nhận thức này làm cho chàng như điên lên. Sau khi thử nằm đủ mọi kiểu để tránh sức ép của ánh đèn, Innokenty tuyệt vọng ngồi dậy, buông hai chân xuống sàn.

                    Thỉnh thoảng, người gác bên ngoài mở nắp lỗ nhìn ngó vào phòng. Giờ đây, nghe tiếng nắp gỗ di động trên cánh cửa, Innokenty nhìn lên và giơ ngón tay trỏ.

                    Cửa mở êm. Gã nhân viên gác mắt ti hí yên lặng đứng nhìn.

                    "Làm ơn… Tắt đèn". Innokenty nói.

                    Gã dửng dưng:

                    "Cấm không được tắt đèn".

                    "Nếu cấm… cho tôi cái bóng nhỏ hơn. Cái phòng nhỏ như vậy, cần gì phải dùng bóng đèn lớn quá?"

                    "Đừng có nói lớn…" - Gã mắt hí thản nhiên nói, và quả thật, sau lưng gã, hành lang vắng và toàn thể khám đường im lặng như một tòa cổ mộ - "Không có chuyện thay bóng đèn".

                    Tuy vậy, bộ mặt lạnh lùng của gã vẫn có một nét gì sống động, một nét gì đó giống như với mặt người thường. Thấy rằng mình đã hết chuyện để nói và cánh cửa sắp đóng lại, Innokenty vội vã:

                    "Cho tôi xin ly nước".

                    Gã mắt hí gật đầu và lùi ra, đóng cửa lại. Gã đi rất êm trên hành lang. Ngồi trong "thùng" Innokenty biết là gã đi và chàng lắng nghe nhưng cũng không nghe thấy tiếng chân gã. Khi gã trở lại, tiếng khóa cửa mở rồi gã hiện ra giữa khung cửa, tay cầm ly nước. Cái ly này cũng cùng một kiểu với chiếc ly Innokenty đã được uống ở phòng tiếp nhận người bị bắt, ly cũng vẽ hình con mèo, chỉ khác là con mèo trên ly nước này không đeo kiếng, không đọc sách, và không còn có con chim nhỏ đứng gần.

                    Innokenty uống và thưởng thức chất nước. Vừa uống, chàng vửa nhìn gã gác. Gã này không bước hẳn ra ngoài, gã chỉ khép cửa và đứng dựa vai vào thành cửa nhìn chàng. Đột nhiên, trong lúc Innokenty không ngờ nhất, trái hẳn với những luật lệ trong khám đường, gã nheo mắt hỏi chàng:

                    "Trước kia, anh là ai?"

                    Việc được một người hỏi thăm lần thứ nhất trong suốt một đêm dài đầy những người lạ, làm cho Innokenty sửng sốt. Chàng xúc động đến nghẹn ngào vì lời hỏi thăm hiền hòa mặc dù được thốt ra một cách vụng trộm, và nhất là vì hai tiếng "trước kia", hai tiếng thật tàn nhẫn, nhưng cũng thật đúng, chàng cũng thì thào trả lời:

                    "Trước kia, tôi là một nhà ngoại giao. Nhân viên ngoại giao của chính phủ".

                    Gã mắt hí gật đầu, nét mặt gã để lộ cảm tình:

                    "Còn tôi, trước kia tôi là thủy thủ của Hạm đội Baltic".

                    Chậm hơn và nhỏ hơn, gã tiếp:

                    "Tại sao anh lại bị bắt vào đây?"

                    "Tôi cũng không biết tại sao nữa" – Đột nhiên, Innokenty trở lại đề phòng – "Tôi chẳng biết tôi có tội gì cả".

                    Gã gác lại gật đầu:

                    "Ai mới bị bắt vào đây cũng nói như anh hết".

                    Rồi với nét mặt hơi đểu, gã hỏi:

                    "Anh có muốn đi đái không?"

                    "Không. Chưa…"

                    Innokenty để lộ tình trạng tù mới của chàng qua sự từ chối ấy, chàng chưa biết rằng cho phép tù nhân đi tiểu là quyền hạn lớn nhất của bọn gác tù, và đó cũng là một đặc ân lớn lao đối với tù nhân, bởi vì tù nhân chỉ được đi giải đúng giờ chứ không phải bất cứ lúc nào mót là cũng được đi.

                    Sau cuộc đối thoại ngắn này, cánh cửa đóng lại và Innokenty lại nằm dài trên mặt ván, cố gắng chống cự ánh đèn sáng chiếu qua mi mắt. Chàng đưa tay lên che mắt nhưng che như thế, cánh tay chàng bị tê dại. Chàng nghĩ đến việc gấp cái khăn tay lại che lên mắt nhưng khăn tay của chàng đâu rồi? Thật bậy, tại sao chàng không chịu lượm cái khăn tay lên? Lúc mới bị bắt tới đây, chàng hành động như một thằng ngu.

                    Những vật nhỏ mọn – một cái khăn mùi-soa, một hộp quẹt rỗng, một sợi dây, một cái nút áo – là những vật chi bảo của tù nhân. Thế nào cũng có lúc người tù cần đến những thứ ấy, đôi khi, chúng có thể cứu vãn người tù khỏi quá khổ sở.

                    Đột ngột, cánh cửa mở. Gã gác mắt hí vứt lên người Innokenty một cái chiếu có những vạch sơn đỏ. Thật là tuyệt diệu. Ban quản đốc khám đường Lubyanka không những là chỉ lo giữ tù nhân không ngủ được mà thôi, họ còn lo cho tù nhân nằm thức êm ái hơn nữa. Cuộn trong cái chiếu là một cái gối nhồi lông nhỏ, một cái mền nỉ hẹp. Tất cả những thứ này đều in hàng chữ "Khám đường".

                    Hay quá. Giờ đây, với những thứ này, chàng đã có thể ngủ được. Innokenty thấy rằng những ý nghĩ đầu tiên của chàng về khám đường quá đen tối, quá bi quan. Chàng trải chiếu, đặt gối, nằm xuống, đắp mền lên mặt. Hai chân chàng từ đầu gối trở xuống không có mền nhưng hai mắt chàng không còn bị ánh đèn chói nữa. Chàng trôi vào giấc ngủ say lịm.

                    Nhưng cánh cửa mở với một tiếng động lớn và gã gác nói vào:

                    "Ê… Lấy hai tay ra…"

                    Innokenty nói như gần khóc:

                    "Cái gì? Sao lại đánh thức tôi? Để cho tôi ngủ chứ, tôi ngủ không được…"

                    "Lấy hai tay ra khỏi mền" – gã gác lạnh lùng nói – "Cấm không được giấu hai tay trong mền. Bỏ tay ở ngoài".

                    Innokenty làm theo lời gã. Nhưng đã quen ngủ hai tay ở trong mền, chàng khó có thể ngủ với hai tay đặt ngoài mền. Luật này thật là luật quái đản, ác độc. Con người ở bất cứ thời nào, bất cứ đâu, vẫn quen ngủ hai tay giấu trong mền, để sát vào mình.

                    Innokenty lăn lộn trên mặt ván, nhưng rồi sau cùng, cơn mệt mỏi cũng thắng, chàng ngủ lịm đi.

                    Bỗng một tiếng động liên tục ngoài hành lang vang đến tai chàng, tiếng động rầm rầm mỗi lúc một đến gần. Có người đang đấm mạnh lên những cánh cửa. Họ đấm lên cánh cửa bên cạnh rồi cánh cửa phòng giam Innokenty bật mở:

                    "Dậy…!" Gã cựu thủy thủ biển Baltic la lớn.

                    "Cái gì? Sao lại dậy?" – Innokenty cũng la lên – "Suốt đêm tôi không ngủ được".

                    "Sáu giờ sáng là dậy".

                    Gã cựu thủy thủ đi sang phòng bên.

                    Đúng lúc ấy, Innokenty cảm thấy buồn ngủ hơn bao giờ hết. Suốt đời, chưa bao giờ chàng thấy cần ngủ đến như thế. Chàng nằm vật xuống và ngủ lịm đi ngay lập tức.

                    Nhưng cũng ngay lúc đó, gã cai tù trở lại, gã đập cửa rầm rầm và giục chàng:

                    "Dậy… Dậy đi. Cuốn chiếu".

                    Innokenty nhỏm người trên cùi chỏ nhìn ra kẻ hành hạ chàng, kẻ mà trước đó một tiếng đồng hồ từng tỏ cảm tình với chàng và được chàng coi là một người còn là con người.

                    "Suốt đêm tôi không được ngủ, anh biết không?"

                    "Không biết gì cả. Sáu giờ sáng là phải dậy. Cuộn mền chiếu lại".

                    "Cuộn mền chiếu lại rồi tôi làm gì?"

                    "Chẳng làm gì cả. Ngồi đó".

                    "Tại sao lại không cho tôi ngủ?"

                    "Tại vì bây giờ đã 6 giờ sáng rồi".

                    "Tôi sẽ ngủ ngồi".

                    "Ban ngày không được ngủ. Anh ngủ, tôi sẽ đánh thức anh".

                    Innokenty đưa hai tay ôm lấy đầu. Đầu chàng lắc lư như người say rượu. Một chút gì giống như là thương hại thoáng hiện trên mặt gã gác tù mắt ti hí:

                    "Anh muốn rửa mặt không?"

                    Innokenty đổi ý, chàng vội vã đáp:

                    "Muốn, muốn. Cho tôi rửa mặt…"

                    "Tay chắp sau lưng. Đi…"

                    Phòng rửa mặt ở trong góc. Sau khi đã tuyệt hy vọng có thể ngủ được trong những giờ sắp tới, Innokenty cởi áo sơ-mi và vã nước lạnh lên người tự do trên mặt nền xi-măng lạnh của phòng rửa mặt rộng, vắng. Cửa phòng đóng, gã gác tù mất ti hí không để ý gì đến chàng.

                    Có thể gã gác cũng còn chút nhân đạo, nhưng tại sao gã lại không chịu nói trước cho Innokenty biết rằng ở đây, tù nhân phải dậy vào lúc 6 giờ?

                    Nước lạnh làm tiêu tan cơn mệt mỏi của Innokenty. Ra tới hành lang, chàng hỏi gã gác tù về chuyện ăn sáng. Gã ra hiệu cấm nói, nhưng vào tới trong "thùng" gã cũng cho chàng biết là ở đây không có ăn sáng.

                    "Tới 8 giờ, anh được phát nước trà đường và món khô".

                    "Món khô là cái gì?"

                    "Là bánh khô".

                    "Bánh khô thì gọi là bánh khô có được không? Còn được ăn những gì nữa?"

                    "Hết. Muốn ăn, chờ đến trưa".

                    "Bộ tôi phải ngồi suốt ngày sao?"

                    "Hỏi ít chứ".

                    Gã gác tù đã đóng cửa, nhưng Innokenty giơ ngón tay trỏ lên. Cánh cửa lại mở, gã cựu thủy thủ hỏi vào:

                    "Anh còn muốn gì nữa?"

                    "Họ cắt hết nút quần, nút áo của tôi. Ai khâu lại cho tôi bây giờ?"

                    "Mất bao nhiêu nút?"

                    Hai người cùng đếm số nút thiếu trong bộ quần áo Innokenty bận trên người. Cửa đóng lại nhưng chỉ lát sau, lại mở, gã gác tù đem vào cho chàng một cây kim khâu, một tép chỉ nhỏ, chừng một chục cái nút đủ thứ, nút bằng xương, gỗ, plastic, đủ cỡ lớn nhỏ khác nhau.

                    "Nút này xài không được. Không cùng cỡ với những nút họ cắt đi của tôi".

                    "Xài đi. Hết rồi. Chỉ còn mấy cái nút này thôi".

                    Đây là lần đầu tiên trong đời Innokenty cầm kim khâu. Chàng không biết cách nhấm nước miếng cho ướt đầu chỉ trước khi xỏ chỉ vào lỗ kim, chàng cũng không biết cách thắt chỉ khi khâu xong. Vì không biết những bí quyết về khâu vá mà loài người đã truyền thụ cho nhau sau cả ngàn năm kinh nghiệm, chàng tự sáng chế ra một lối khâu nút riêng. Chàng bị kim đâm vào ngón tay nhiều lần, hai ngón tay trỏ của chàng đau nhoi nhói. Chàng phải mất một thời gian để khâu liền lại những viền áo, viền quần bị xé và những nút áo, nút quần. Chàng khâu lệch chỗ những nút áo nên khi mặc vào và gài nút, cái áo của chàng xộc xệch, méo mó một cách thảm hại.

                    Nhưng việc làm tẩn mẩn, mất mát thì giờ và cần chú ý này, không những chỉ làm cho Innokenty quên thì giờ mà thôi, nó còn sợ hãi hay bối rối nữa. Chàng đã có thể nhận biết và biết đúng, biết chắc rằng ngay ở trong đáy cái vực thẳm rùng rợn là khám đường Lubyanka này, vẫn còn có những người bằng xương, bằng thịt, rằng khám đường Lubyanka thực ra, không phải là nơi khủng khiếp ghê gớm như người ta vẫn tưởng. Bây giờ, chàng chỉ còn khao khát được gặp mặt những người bằng xương, bằng thịt đó ở đây.

                    Chàng là một người không được ngủ suốt đêm qua, một người không được ăn, một người có cuộc đời bị tan vỡ nội trong mười hai tiếng đồng hồ, nhưng chàng vừa nhận được một trận gió sức mạnh thứ hai, nhờ hơi thở thứ hai này, những tấm thân được luyện của những lực sĩ cảm thấy khoẻ lại và không mệt.

                    Một người gác tù mới tới lấy cây kim khâu đi.

                    Rồi họ mang tới cho cùng một miếng bánh khô vừa đen, vừa ẩm, hai cục đường rắn. Họ rót nước trà vào cái ly có vẽ hình con mèo. Họ hứa sẽ cho chàng thêm nước trà.

                    Tất cả những việc này cho Innokenty biết rằng thời gian bây giờ là 8 giờ sáng.

                    Innokenty bỏ cả số lượng đường để dùng cả một ngày dài của chàng vào ly nước và khuấy cho đường tan bằng ngón tay trỏ. Nhưng nước nóng quá, chàng đành lắc lắc ly cho tan đường. Uống hết ly trà nóng, chàng giơ ngón tay xin nữa. Chàng không cần ăn.

                    Với một cái rùng mình sung sướng, Innokenty uống ly nước trà thứ hai. Ly trà này không có đường nhưng nhờ vậy, chàng cảm thấy mùi trà đậm hơn.

                    Tâm trí chàng bừng sáng, minh mẫn như chưa bao giờ chàng minh mẫn đến như thế.

                    Chàng bắt đầu đi đi, lại lại trong khoảng hẹp giữa mép ván và bức tường trong khi chờ đợi cuộc chiến đấu mới.

                    Một tư tưởng của Epicurus
                    [1] , một tư tưởng mà chàng vẫn không hiểu rõ trong thời gian chàng còn tự do bên ngoài, đột ngột trở về trí óc chàng:

                    "Cảm nghĩ nội tâm hài lòng hay mến thích, bất mãn hay chán ghét, là tiêu chuẩn cao nhất để định giá trị của Thiện và Ác".

                    Như vậy nghĩa là, theo Epicurus, những gì mình mến thích là tốt, những gì mình không mến thích là xấu?

                    Đó là những triết lý của những kẻ man rợ.

                    Stalin thích giết người – như vậy phải chăng với Stalin, giết người là một tính tốt? Và bị tù vì định cứu một người, việc bị tù không làm cho người bị tù hài lòng, cũng không ai thích bị tù cả, phải chăng việc ở tù là một điềm xấu, một tội lỗi?

                    Không! Thiện và Ác, tốt và xấu, giờ đây đã được phân chia rõ rệt mà Innokenty! Đã được chàng nhận thấy rành rẽ, nhờ cánh cửa có ánh đèn sáng rực này, nhờ những bức tường này, nhờ đêm ở tù đầu tiên trong đời chàng.

                    Trên những đỉnh cao chiến đấu và đau đớn mà chàng vừa được nhấc lên, sự hiểu biết của triết gia cổ xưa ấy là chỉ sự hiểu biết nông cạn của một đứa trẻ.

                    Cánh cửa chuyển động.

                    "Họ gì?"

                    Một gã giám thị mới đột ngột hỏi vào. Gã này có một cái bộ mặt người Á châu.

                    "Volodin".

                    "Đi chấp cung. Hai tay chắp sau lưng".

                    Innokenty chắp hai tay sau lưng, đầu ngẩng cáo như con chim uống nước, chàng đi ra khỏi "thùng".





                    [1]Epicurus, triết gia Hy Lạp, sống khoảng từ 200 đến 300 năm trước Công nguyên.
                    #40
                      CTT 14.09.2008 16:32:19 (permalink)
                      41. Buổi sáng hành quyết

                      Trong Viện Mavrino, giờ này cũng là giờ ăn sáng và uống trà.

                      Không có sự kiện gì báo trước ngày hôm nay sẽ là một ngày có những chuyện đặc biệt xảy ra. Buổi sáng, Trung úy Shusterman tỏ ra nghiệt ngã với việc bắt mọi tù nhân phải dậy hết sau 6 giờ, nhưng đó là chuyện thường xảy ra. Bên ngoài trời lạnh, mặt sân và lối đi nằm dưới một lớp đá trơn trợt. Không ai muốn ra khỏi phòng. Vài tù nhân đi ra sân nhưng họ trợt ngã, đi không được, nên lại kéo nhau vào nhà tù. Trong phòng ngủ, nhiều người còn ngồi trên giường, bỏ thòng chân xuống sân, không ai sốt sắng ra khỏi giường. Họ ngồi đó gãi, ngáp, buồn rầu trêu chọc nhau hoặc nhạo báng chính số phận khốn nạn của họ. Họ kể cho nhau nghe những giấc mộng của họ trong đêm vừa qua – việc kể lại cho nhau nghe những giấc mộng là một trò giết thì giờ thú vị của tù nhân.

                      Hoàn toàn không có sự kiện gì báo cho những tù nhân trong Viện Mavrino biết rằng trong buổi sáng hôm nay sẽ có cuộc thuyên chuyển tù nhân ra khỏi Viện.

                      Sáng nay, Sologdin vẫn đi ra sân bổ củi như mọi sáng. Suốt đêm qua, anh đã mở hé cánh cửa sổ mặc dù trời lạnh, và sáng nay, trước khi ra khỏi phòng anh đã mở lớn cánh cửa sổ.

                      Rubin, nằm trên chiếc giường sát ngay khung cửa sổ này, không nói một tiếng với Sologdin. Đêm qua, anh vào giường muộn và suốt đêm, anh trằn trọc vì mất ngủ. Anh khổ sở vì gió lạnh từ cửa sổ lùa vào nhưng anh nhất định không thốt ra nửa tiếng phản đối. Anh bận cả áo dạ để nằm ngủ, anh đội mũ nỉ có vành che kín hai tai, trùm mền kín từ đầu đến chân. Nằm co quắp trong giường, không dậy ăn sáng, bất kể những lời thúc giục của Shusterman và những tiếng động trong phòng, Rubin cố gắng một cách tuyệt vọng kéo dài giờ ngủ.

                      Potapov, người xung phong đi ra sân, là người đến bàn ăn sáng trước nhất. Anh đã uống trà, làm giường và ngồi trên giường đọc báo. Trong thâm tâm, anh nóng ruột mong đến giơ lên phòng làm việc. Hôm nay, anh sẽ thử dùng một bộ phận cơ khí anh vừa làm xong hôm qua.

                      Món ăn sáng hôm nay là món cháo kê. Nhiều tù nhân chê cháo kê nên không đến bàn ăn sáng.

                      Gerasimovich ngồi lại rất lâu trong phòng điểm tâm, anh cẩn thận xúc từng muỗng kê nóng đưa lên miệng.

                      Nerzhin bước vào gian phòng ăn tương đối vắng hơn mọi sáng, số người ngồi ăn sáng nay không đầy nửa số ghế, chàng gật đầu chào Gerasimovich và ngồi xuống một bàn riêng, ăn ngon lành.

                      Ăn sáng xong, Nerzhin trở về giường chàng, và trong khoảng thời gian mười lăm phút còn được tự do buổi sáng, chàng nằm dài trên giường, nhìn lên trần nhà.

                      Quanh chàng, các bạn tù bàn tán rì rào về số phận của Ruska – Ruska là một tù nhân trẻ bị tố cáo vì tội âm mưu trốn khỏi Viện, người tố cáo Ruska là một tù nhân làm gián điệp cho ban quản đốc, rõ hơn là làm chỉ điểm cho hai sĩ quan an ninh Shikin và Myshin – Đêm qua, Ruska không về ngủ và những tù nhân biết rằng người tù trẻ tuổi này đã bị nhốt trong một phòng giam ở gần văn phòng của Thiếu tá Shikin.

                      Họ bàn tán đến chuyện có thể nào "hai mươi lăm năm cải huấn" của Ruska có thể bị chuyển thành "hai mươi lăm năm cấm cố" hay không? Những nhà tù đặc biệt gồm toàn những xà lim nhỏ để giam cấm cố tù nhân được xây dựng nhiều trong năm qua và án tù cấm cố mỗi ngày một nhiều.

                      Giữa tiếng cười ồ của mọi người, Rubin tung mền ngồi dậy. Các bạn tù cười Rubin vì anh bận cả áo nỉ và đội mũ che kín tai để ngủ. Rubin không bao giờ giận dữ khi thấy người khác cười mình. Anh lột cái mũ nỉ ra khỏi đầu nhưng vẫn bận áo nỉ, anh yêu cầu người bạn tù đứng gần bình trà rót cho anh một ly. Ngồi trên giường, với bộ râu tóc rối, anh ăn bánh, uống nước trà. Và trước vẻ ngái ngủ biến hẳn trên mặt anh, Rubin đã chăm chú vào những trang tiểu thuyết của Upton Sinclair. Sáng nay, Rubin ở trong trạng thái tinh thần u sầu hết sức.

                      Trong Viện, những hoạt động của buổi sáng đang diễn ra liên tục. Trung úy Shusterman bước vào phòng, lớn tiếng nói chung cho tất cả mọi người:

                      "Chú ý… Tù nhân được thông báo để biết rằng từ hôm nay trở đi, sau bữa tối, sẽ không một ai còn được vào nhà bếp để xin nước nóng. Cũng không ai được làm rộn sĩ quan trực về chuyện nước nóng".

                      Pryanchikov nhảy từ trên giường xuống, anh hỏi như gào lên:

                      "Lệnh của ai vậy?"

                      "Lệnh của Viện trưởng!" Shusterman đáp.

                      "Lệnh này ra từ bao giờ?"

                      "Hôm qua".

                      Pryanchikov nắm chặt bàn tay và giơ nắm tay lên đấm đấm về phía trần phòng như anh kêu gọi trời, đất làm chứng cho anh:

                      "Không thể được, chuyện này không thể xảy ra được" – anh tức giận nói – "Tối thứ Bảy, chính Tổng trưởng Abakumov hứa với tôi là sẽ có nước nóng để pha trà ban đêm cho chúng ta. Chuyện này không hợp lý chút nào. Chúng ta phải làm việc đến nửa đêm mà".

                      Một tràng cười của các tù nhân nổi lên đáp lời Pryanchikov.

                      "Vậy thì đừng làm việc đến nửa đêm nữa, có gì phải thắc mắc".

                      Người nói câu trên là tù nhân Dvoyeysov.

                      Shusterman giải thích:

                      "Không có tiền trả lương cho người nấu bếp ban đêm".

                      Rồi Shusterman mở một bản danh sách ra đọc. Y chỉ mới nói hai tiếng "Chú ý…", tất cả mọi tù nhân trong phòng đã im lặng để nghe. Họ linh cảm được rằng họ sắp được nghe một chuyện quan trọng.

                      Shusterman lớn tiếng:

                      "Chú ý… Những người có tên dưới đây sẽ không phải đi làm việc ở Viện sáng nay… Những người có tên dưới đây chuẩn bị ngay để di chuyển. Trong phòng này: Khorobrov, Mikhailov, Nerzhin, Syemushin. Bốn người hãy mang trả tất cả những đồ được Viện phát ngay bây giờ…"

                      Shusterman bước ra khỏi phòng.

                      Như trong một cơn lốc, bốn người vừa được đọc tên được tất cả mọi anh em trong phòng xúm xít bao quanh.

                      Những người tù bỏ những ly nước trà, bỏ những mẩu bánh ăn dở để xúm lại quanh những người sắp phải ra đi. Với tổng số hai mươi lăm người trong phòng ngủ này, số bốn người phải ra đi là một tỷ lệ quá cao. Tất cả mọi người cùng nói một lúc, những giọng nói nghẹn ngào, những giọng nói buồn rầu, những giọng nói giận dữ chen lẫn nhau. Có những người lắc đầu, có những người đấm ngực, có những người run rẩy vì giận. Cảnh phòng ngủ lúc đó là một cảnh lẫn lộn những buồn rầu, lo âu, giận hờn, khuất phục, chịu đựng và muốn nổi loạn. Bỗng Rubin đứng cao lên mặt giường, anh giơ hai tay lên, la lớn:

                      "Sáng nay là một sáng đáng ghi nhớ của Viện Mavrino… Buổi sáng hành quyết…!"


                      *

                      Cuộc di chuyển là một khúc quanh trong dòng đời của tù nhân, nó cũng quan trọng và quyết định như vết thương đối với một người lính. Vết thương có thể nhẹ hoặc nặng, có thể sẽ lành hoặc làm cho người lính chết, người tù có thể bị di chuyển đi xa hoặc gần, đi đến chỗ không mấy khổ hơn hoặc đi đến chỗ chết.

                      Khi người ta đọc những hồi ký về những nhà giam khổ sai ghê gớm nhất được Dostoyevski viết lại, người ta phải ngạc nhiên khi thấy ở đấy những tù nhân được sống êm đềm biết là chừng nào. Trong những nhà giam được tả trong hồi ký tù đày của Dostoyevsky, cả mười năm không có quá một lần di chuyển tù nhân.

                      Người tù sống ở một chỗ, quen thuộc với những bạn tù, quen thuộc với việc làm mỗi ngày của mình, quen thuộc cả với những kẻ có quyền giam giữ, kiểm soát mình. Dù không muốn thu thập tư sản, người tù đó cũng dần dần có những vật sở hữu của riêng y: y có thể có một cái va-li bằng vải từ bên ngoài gửi vào, hoặc một va-li bằng plastic do một bạn tù nào đó chế tạo, hoặc do chính y làm lấy, y có một khung hình trưng hình vợ y hoặc hình con gái y. Y có một đôi giày vải mềm để đi ban đêm và cất giấu ban ngày để tránh bị tịch thâu, y có thể có thêm một cặp quần lót, hoặc một đôi giày cũ phải trả lại ban quản đốc nhưng y lén giữ lại được. Y có thể có một bộ kim chỉ riêng, một lố nút áo riêng. Lúc nào y cũng có thuốc lá để hút.

                      Nếu y chịu khó, y có thể có được một gói bột đánh răng và thỉnh thoảng y chà răng cho trắng. Y sưu tập được một tập thư do người thân của y gửi vào tù cho y, có được một hai quyển sách riêng, nhờ khéo léo và đổi chác, y có thể đọc được hết những quyển sách riêng của những tù nhân khác.

                      Nhưng cuộc di chuyển là một tai họa đánh vỡ tan cuộc sống yên ổn tạm bợ đó của người tù – tai họa đến như tiếng sét, luôn luôn bất ngờ, không bao giờ đến trước để nạn nhân kịp chuẩn bị, tai họa đến vào những lúc nạn nhân không ngờ nhất – chỉ tới phút cuối cùng, người ta mới chịu báo cho nạn nhân biết y bị di chuyển. Người ta vội vã xé nhỏ những bức thư của thân nhân. Nếu y được đưa đi bằng xe vận tải, loại xe dùng để chở bò tới lò thịt, nhân viên áp giải tù sẽ cắt hết nút quần, nút áo của y và vứt gói bột chà răng, gói thuốc lá của y đi vì những thứ đó có thể dùng để ném vào mắt họ trong trường hợp tù nhân vượt ngục. Nếu người tù được đưa đi bằng loại xe Stolopyn nhỏ, bọn giải tù sẽ làm gãy góc va-li của y vì thùng chứa đồ trong xe quá nhỏ, khung hình trong va-li sẽ bị gãy. Dù đi bằng xe vận tải hay xe Stolopyn, họ sẽ tịch thâu những cuốn sách của tù nhân, vì luật cấm tù nhân không được quyền mang sách báo theo khi di chuyển, tịch thâu cây kim khâu vì cây kim này có thể dùng đâm người giải tù, những món đồ dư thừa không được khai báo của người tù sẽ bị vứt lại.

                      Và như vậy là người tù bị di chuyển mất hết những vật sở hữu hiếm hoi, nghèo nàn của y, mất hết bạn hữu, y chắp hai bàn tay không sau lưng và đi thẳng – chỉ cần y bước trệch sang bên cạnh một bước là nhân viên giải tù nổ súng ngay – giữa những con chó dữ và những người gác, y leo lên xe.

                      Đôi khi, người tù được đưa ra nhà ga xe hỏa để lên toa xe bít bùng, loại toa tàu chở súc vật, để đi đến một nơi nào đó mà y không được báo trước. Đôi khi, bạn có dịp nhìn thấy những người tù này ở sân ga, họ bó gối ngồi xổm ở một góc sân ga chờ lên tàu, và bạn quay mặt nhìn đi chỗ khác. Bạn sợ viên sĩ quan an ninh chỉ huy cuộc chuyển tù này nhìn thấy, nghi là bạn có liên hệ gì đó đến bọn tù và kéo bạn vào phòng thẩm vấn.

                      Bọn tù được đưa lên toa xe, và toa xe này sẽ được nối liền với toa chở thư, hai bên toa kín mít, họ mang những kỷ niệm, những ký ức, những hy vọng và sợ hãi đi theo họ trên con đường sắt dài thăm thẳm.

                      Họ đi đâu? Họ không được biết. Cái gì chờ đợi người tù ở cuối cuộc du hành này? Một mỏ đồng? Một xưởng chặt cây trong rừng thẳm hoặc một nông trại ở một miền hoang vu, nơi họ thỉnh thoảng có dịp được ăn lén vài trái su, trái bắp. Người tù sẽ bị phù thũng hay tê liệt sau những tháng đầu lao động vất vả hay y sẽ may mắn được gặp người quen, được trao cho làm những việc đỡ vất vả như gác kho, quét xưởng, lao công bệnh viện, hoặc may mắn hơn nữa, thư ký bàn giấy lo việc giấy tờ, sổ sách? Y có được ban quản đốc cho phép gửi thư báo cho thân nhân biết địa chỉ mới của y hay không? Hay gia đình y sau khi bặt tin y, sẽ nghĩ rằng y đã chết?

                      Cũng có thể, người tù sẽ không đi hết cuộc đi này. Trong một toa xe chở súc vật kín mít, đi trong nhiều ngày, nhiều đêm, y có thể chết vì bệnh kiết lỵ hoặc vì đói, vì kiệt sức: y không được ăn trong sáu ngày. Hoặc bọn giải tù có thể đánh y bằng búa vì trong bọn y có kẻ âm mưu trốn đi. Khi xe ngừng và cửa xe mở, bọn giải tù đạp những xác tù cứng đơ lăn ra khỏi toa xe như những khúc gỗ.

                      Những chuyến xe hỏa chở tù sơn màu đỏ phải mất một tháng rưỡi mới tới Sovetskaya Gavan.

                      Xin Chúa cho những kẻ không tới nơi được yên nghỉ ngàn đời!

                      Mặc dù những nhân viên ở Viện Mavrino đã tỏ ra dễ dãi với những kẻ ra đi – họ cho phép tù nhân phải di chuyển được mang theo dao cạo mặt tới nhà tù mới – những câu hỏi trên đây vẫn đè nặng trên trái tim hai mươi người tù được lệnh chuẩn bị di chuyển trong buổi sáng thứ Ba ấy.

                      Với những người này, cuộc sống tự do một nửa, cuộc sống không bị đày đọa, hành hạ quá đỗi của những tù nhân được làm việc trong những Viện khoa học đã chấm dứt.

                      #41
                        CTT 14.09.2008 16:56:42 (permalink)
                        42. Vĩnh biệt, vĩnh biệt…!

                        Tuy rằng Nerzhin đang bối rối vì cuộc di chuyển, chàng vẫn thấy cần, và chàng tin chắc rằng, để vĩnh biệt Viện Mavrino, chàng phải cho Thiếu tá Shikin một bài học, hoặc làm cho y phải khó chịu. Vì vậy, khi chuông báo giờ làm việc reo vang, Nerzhin không chịu ngồi chờ trong phòng ngủ như những người sắp phải di chuyển, chàng đi thẳng lên tầng lầu thứ ba, gõ mạnh lên cánh cửa văn phòng của Thiếu tá Shikin.

                        Thiếu tá Shikin không sao có thể chịu đựng nỗi gã tù nhân gầy guộc, khó chịu có thái độ cứng ngắc và có sự hiểu biết tỉ mỉ về pháp luật tên là Gleb Nerzhin. Đã nhiều lần Shikin đề nghị với Viện trưởng Yakanov tống khứ tên tù Gleb Nerzhin ra khỏi Viện nhưng đề nghị ấy đến hôm nay mới thực hiện được. Khi Nerzhin lừ lừ bước vào phòng. Shikin nhận thấy nét mặt lầm lì của Nerzhin và y cảm thấy sung sướng, thỏa thuê trong lòng. Y tin chắc Nerzhin tới để hỏi y về lý do và nguyên nhân mình bị di chuyển đi khỏi Viện Mavrino.

                        Nerzhin là người tù có khả năng thiên phú có thể thâu gọn cả một bản văn khiếu nại trong vài câu nói vắn tắt nhưng rõ rệt, đanh thép, hoặc viết lại những lời phản đối ấy thành chữ trên những tờ giấy vệ sinh mà ban quản đốc nhà tù cấp cho các tù nhân. Sau năm năm ở tù, chàng cũng đã luyện thành được một lối đối thoại đặc biệt với bọn nhân viên cao cấp trong ban quản đốc – lối nói này, theo ngôn ngữ của tù nhân, là lối nói "khiêu khích hợp pháp". Lời lẽ của Nerzhin tuy vẫn lễ đọ nhưng ẩn chứa sự mỉa mai, châm biếm mà người nghe dù có ngu si hay vô ý đến đâu cũng phải nhận thấy – lối nói ấy gần giống như lối nói của những bậc lão thành thường dùng để nói với bọn trẻ. Nói được như thế là cả một nghệ thuật. Người bị nghe chỉ khó chịu nhưng không làm gì được, càng dễ lộ sự khó chịu của mình là càng thú nhận sự thua kém.

                        "Công dân Thiếu tá" – Nerzhin nói ngay khi chàng vừa bước vào phòng – "tôi tới để lấy lại quyển sách ông đã tịch thâu trái luật của tôi. Tôi có đủ dữ kiện để nghĩ rằng khoảng thời gian sáu tuần lễ đã đủ, căn cứ trên những phương tiện thông tin ở Mạc Tư Khoa, để ông tìm biết rằng quyển sách đó không bị cấm đọc".

                        "Sách?" Shikin hỏi lại. Trong lúc ấy y không nghĩ ra được điều gì thông minh hơn để nói. Ý tưởng nói riêng tới than thở, y không ngờ chàng tới để đòi sách – "Sách nào?"

                        "Tôi biết chắc rằng ông dư biết tôi đang nói đến quyển sách gì" – Nerzhin nói tiếp – "Đó là quyển thơ Yesenin của Thi sĩ Sergei Yesenin, do Nhà xuất bản "Thơ dân tộc" ấn hành".

                        "Yesenin? Quyển thơ Yesenin?"

                        Thiếu tá Shikin thảng thốt kêu lên, như Yesenin là một cái tên người làm cho y ghê tởm:

                        "Sao anh lại có thể nghĩ đến chuyện đòi lại quyển thơ đó trong lúc này?"

                        Y muốn nói là "trong lúc anh sắp đi đến chỗ chết…".

                        "Tại sao lại không? Quyển thơ đó được ấn hành ở ngay trên Liên bang Xô Viết, được phát hành vào năm 1940 chứ không phải là trong khoảng thời gian bị cấm từ 1917 đến 1938".

                        Shikin nhíu đôi lông mày rậm:

                        "Sao anh biết rõ như thế?"

                        Nerzhin trả lời ngay, trôi chảy, như chàng đã biết trước sẽ có câu hỏi đó và chàng đã thuộc lòng câu trả lời:

                        "Một nhân viên kiểm duyệt ấn phẩm đã cho tôi biết như thế. Có lần ông ta định tịch thâu quyển Tự điển Dahl của tôi, với lý do là quyển tự điển này được ấn hành năm 1935, năm đang có lệnh cấm, nhưng khi tôi cho ông ta thấy rằng quyển tự điển của tôi chỉ là ấn bản in lại đúng như ấn bản được ấn hành năm 1881, ông ta chấp thuận để tôi giữ nó, vì tiêu chuẩn kiểm duyệt không đụng tới những ấn phẩm ấn hành trước cuộc cách mạng. Ông ta nói rõ là "thời đó kẻ thù của nhân dân chưa hoạt động mạnh". Điều phiền cho Thiếu tá là quyển Thơ Yesenin của tôi được ấn hành năm 1940".

                        "Được lắm. Nhưng anh đã đọc kỹ quyển thơ đó chưa? Anh có thể viết lại những lời anh vừa nói xuống giấy được không?"

                        "Theo điều 95 Luật Đại hình của Liên bang Xô Viết, ông không có quyền đòi hỏi tôi phải khai trên giấy về một sự kiện như thế. Tôi chỉ cần khai bằng miệng: quyển thơ đó thuộc quyền sở hữu của tôi, và, vì vậy, tôi đòi hỏi được giữ nó".

                        Shikin giơ hai bàn tay ra trong một cử chỉ muốn nói: "Anh chỉ khổ thêm thôi, chẳng có lợi gì cho anh hết".

                        Nerzhin làm cho Shikin cụt hứng vì câu nói tiếp:

                        "Để kết luận, tôi nhắc lại lời yêu cầu của tôi. Theo tinh thần Khoản 7, Điều B trong nội quy khám đường, ông làm ơn trả lại tôi quyển sách ông đã lấy của tôi một cách bất hợp pháp".

                        Như ngồi không yên vì sự ngược đời ấy: một sĩ quan an ninh bị một tù nhân đem luật pháp ra bắt bẻ, Shikin đứng lên. Khi y ngồi, cái đầu to tướng của y cho người nhìn cái cảm giác là y rất to lớn, nhưng khi y đứng lên, thân hình co rúm lại, vì hai chân y quá ngắn. Y hầm hầm đi tới mở tủ, lấy ra quyển thơ xinh xắn, bìa vàng nhạt. Y đã đánh dấu nhiều đoạn trong quyển thơ này. Đem quyển thơ trở về bàn. Y ngồi xuống ghế và không mời Nerzhin ngồi, y chậm chạp lật từng tờ, tìm những đoạn y đánh dấu. Nerzhin thản nhiên ngồi xuống ghế. Chàng nhìn thẳng vào mặt Shikin, chờ đợi y dở những trò gì.

                        "Rồi, anh nghe đây…" Viên Thiếu tá an ninh nói sau tiếng thở dài và y bắt đầu đọc những lời thơ Yesenin, giọng y vô cảm giác, y nhấn mạnh vần điệu của những câu thơ theo nhịp chày máy giã gạo:


                        "Trong kìm kẹp xa lạ vô hồn
                        Những bài thơ của tôi rồi cũng chết,
                        Những hàng cây cổ thụ cúi đầu
                        Để tang chủ nhân của chúng".

                        "Chủ nhân được nói đến trong đoạn thơ này là ai? Kìm kẹp nào?"

                        Người tù nhìn những ngón tay mập trắng của viên sĩ quan an ninh:

                        "Nói theo tinh thần giai cấp, Yesenin là một thi sĩ ít học" Nerzhin nói như ông thầy giảng bài – "Có nhiều điều mà thi sĩ không hiểu. Cũng như Pushkin, như Gogol…"

                        Trong giọng nói của Nerzhin có những âm thanh lạ lùng làm cho Shikin ngại ngùng. Trước mặt những tù nhân không ngán sợ y, Shikin cảm thấy sợ hãi, nỗi sợ hãi thầm kín của những kẻ ăn no, mặc ấm, có tiền, có quyền khi phải đối phó với những người ăn bận rách rưới, thiếu thốn đủ thứ. Quyền lực của y lúc này là một cái gì không còn bảo vệ được y hữu hiệu nữa. Để được yên tâm, Shikin đứng dậy đi ra, mở hé cánh cửa phòng.

                        Trở lại ghế ngồi, y mở quyển thơ đọc tiếp:

                        "Còn câu này nữa…

                        "Một bông hồng trắng và một con cóc đen
                        Tôi muốn cho chúng kết hôn…".

                        Như vậy là nghĩa lý gì? Hắn định ám chỉ ai đây?"

                        Cổ họng người tù se lại:

                        "Không có gì khó hiểu" – Nerzhin nói – "Bông hồng trắng là hình ảnh tượng trưng cho sự thật, con cóc đen tượng trưng cho sự giả dối, xấu xa, ác độc…"

                        Đúng như một con cóc đen, viên sĩ quan an ninh đầu to, tay ngắn, ngây mặt nhìn người tù.

                        "Công dân Thiếu tá" – Nerzhin nói nhanh – "Tôi tiếc không có thì giờ để thảo luận văn nghệ với Thiếu tá. Tôi sắp đi khỏi đây. Người ta đang chờ tôi. Sáu tuần lễ trước đây, khi tạm giữ quyển thơ này của tôi, ông nói rằng ông sẽ hỏi Sở Kiểm duyệt. Ông đã hỏi rồi chứ?"

                        Shikin gập mạnh quyển thơ:

                        "Tôi không bắt buộc phải cho anh biết về việc làm của tôi. Tôi nhất định không trả anh quyển thơ này. Dù tôi có trả, anh cũng không mang đi được".

                        Nerzhin giận dữ đứng dậy, hai mắt chàng vẫn nhìn vào quyển thơ Yesenin. Chàng nhớ lại những nét chữ yêu đương, trìu mến của vợ chàng đã viết trên trang đầu quyển thơ nhỏ ấy:

                        "Cũng như tập thơ này, những gì anh mất sẽ trở lại với anh".

                        Tiếng nói vượt ra khỏi vành môi chàng một cách dễ dàng:

                        "Công dân Thiếu tá… tôi hy vọng ông không quên rằng tôi là kẻ, trong suốt hai năm trời, đã liên tiếp đòi Bộ An ninh phải trả lại tôi số tiền Ba Lan mà những sĩ quan an ninh như ông đã tịch thâu của tôi lúc tôi bị bắt. Hội đồng Xô Viết Tối cao sau cùng, đã ra lệnh hoàn trả tôi số tiền đó, mặc dù khi họ trả lại tôi, những đồng tiền đó đã hết lưu hành. Họ cười tôi, nhưng sau cùng, họ vẫn phải trả lại tôi nguyên số. Còn nhiều vụ nữa. Tôi nói trước cho ông biết: Tôi sẽ không cho ông quyển thơ này. Tôi sẽ chết ở băng tuyết Tây Bá Lợi Á nhưng từ cuộc sống bên kia tôi sẽ trở về giằng ra khỏi tay ông quyển thơ của tôi. Tôi sẽ gửi đơn đi khắp nơi kiện ông. Ông nên đưa trả tôi để khỏi phải bực bội".

                        Và ông Thiếu tá An ninh đành phải chịu thua gã tù nhân khốn khổ sắp lên đường đi đến chỗ chết dần mòn. Thực ra Shikin đã hỏi Sở Kiểm duyệt và ngạc nhiên khi được trả lời là quyển thơ Yenesin không bị chính thức cấm đọc. "Chính thức" có nghĩa là y có thể cấm nếu y thấy có hại hoặc y có thể cấm được. Hôm nay, y chịu trả lại vì tự vệ, y không muốn rắc rối vì tên tù chuyên môn gây sự này.

                        "Được rồi. Tôi trả anh, nhưng tôi sẽ không cho anh mang nó đi theo".

                        Như vậy có nghĩa là lát nữa đây, trong cuộc kiểm soát trước khi ra khỏi Viện, quyển thơ này của Nerzhin sẽ bị vứt lại, vì luật cấm tù nhân khi di chuyển không được mang theo sách báo, nhưng lúc này, đó là một chiến thắng của Nerzhin. Chàng ôm quyển thơ trước ngực, rảo bước đi trên cầu thang.

                        Trên hành lang, chàng gặp một nhóm tù nhân đang đứng bàn tán về tin di chuyển. Siromakha cũng có mặt trong đám người này. Họ nói nhỏ với nhau để bọn có quyền không nghe thấy:

                        "Họ làm chi vậy? Cho những người tài năng như thế đi khỏi Viện sao? Tại sao? Còn Ruska Doromin? Thằng chó nào đã tố cáo Ruska?"

                        Ôm chặt quyển thơ Yesenin trước ngực, Nerzhin rảo bước đi tới Phòng Âm thính. Chàng đang mãi nghĩ đến chuyện chàng sẽ làm cách nào để thủ tiêu cho xong những tờ giấy chàng ghi chép những cảm nghĩ của chàng về lịch sử trước khi bọn giám thị tới kéo chàng đi, ngồi yên một chỗ đợi giờ di chuyển. Theo luật, những tù nhân di chuyển kể từ phút được nhân viên quản đốc cho biết sự di chuyển này không được đi lại bừa bãi trong Viện nữa.

                        Chàng đẩy cánh cửa Phòng Âm thính và bước vào: Simochka hiện ra trước mắt chàng, nàng đang đứng giữa hai cánh cửa tủ sắt đựng hồ sơ, tài liệu; nàng đang lấy hồ sơ, tài liệu trao cho mọi người làm việc trong phòng này. Sáng nay, nàng lại bận bộ áo kẻ sọc dài không hợp với nàng chút nào với cái khăn choàng xám phủ trên đôi vai gầy.

                        Kể từ cuộc đối thoại tàn nhẫn hôm qua, đây là lần đầu họ gặp lại nhau.

                        Nàng không nhìn thấy nhưng nàng cảm thấy Nerzhin vào phòng, và nàng xúc động, nàng đứng ngây, như nàng đang suy nghĩ nên lấy những gì và không nên lấy những gì ra khỏi tủ sắt.

                        Trong khi đó, không suy nghĩ, không đắn đo, Nerzhin đi thẳng tới đứng sau lưng nàng, chàng khẽ nói:

                        "Serafima Vitolyevna… sau ngày hôm qua, tôi không còn có thể nhờ vả gì em được nữa, nhưng tôi sắp ra đi, những gì tôi viết lại trong nhiều năm trường sắp bị tiêu hủy. Tôi nên đốt chúng đi, hay là em có thể giữ giùm tôi?"

                        Nàng đã biết tin chàng đi, nàng không xúc động nữa khi nghe nói chuyện chàng sắp đi, nàng chỉ ngước đôi mắt buồn lên nhìn chàng và đáp:

                        "Đưa cho em".

                        Có người tới, Nerzhin đi về bàn làm việc của chàng. Chàng mở ngăn kéo, lấy hết giấy tờ, sổ sách ra để lên mặt bàn. Tất cả những thứ này đều phải trao lại cho Simochka. Chàng đã đặt ba quyển sổ ghi của chàng lên mặt bàn nhưng trong thâm tâm chàng, như có một viên cố vấn nội tâm khuyên chàng không đưa nên đưa những quyển sổ tay này cho người đàn bà kia, không nên tin ở nàng.

                        Nerzhin nhìn sang khuôn mặt bí mật, khó hiểu của Simochka. Bỗng dưng chàng nghĩ: Phải chăng đây là một cạm bẫy? Một thủ đoạn trả thù của đàn bà? Dù sao nàng cũng vẫn là một Trung úy MGB.

                        Dù nàng có không lừa dối mình hôm nay, liệu nàng có giữ được lời hứa mãi hay không? Có một ngày nàng sẽ có chồng và sẽ đưa những quyển sổ ghi này cho chồng nàng coi.

                        Chàng bỏ ba quyển sổ tay vào túi và cầm lấy bao quẹt, chàng đi vào cầu tiêu. Mười phút sau, chàng đi trở ra, da mặt chàng xanh xao nhưng thản nhiên.

                        Rubin từ trên Phòng Tối mật đi xuống. Đôi mắt anh buồn và có quầng thâm.

                        Tay cầm quyển thơ, Nerzhin nói với Rubin:

                        "Nếu anh thích đọc Yenesin, tôi biếu anh ngay…"

                        "Thật ư?" – Rubin ngạc nhiên hỏi. Rồi không chờ Nerzhin trả lời, anh rút trong túi áo ra một cái bàn chải để quét xà-bông cạo râu, cán bàn chải làm bằng xương, đối với tù nhân, một cái bàn chải nhìn thấy này được kể là rất lịch sự – "Anh không có bàn chải, còn tôi thì đã thề bao giờ được miễn tố tôi mới cạo râu, anh cầm lấy…"

                        Không bao giờ Rubin nói rằng "đến ngày tôi ra khỏi tù", vì nói như thế tức là công nhận án tù của mình. Rubin vẫn cho là mình vô tội, mình bị tù oan.

                        "Cám ơn bạn…" Nerzhin cười nhẹ – "Anh đã quen thuộc với cuộc sống trong Viện rồi, anh đã quen những luật lệ ở trại tập trung. Ở nơi tôi sắp tới, người ta đâu có cho phép tôi cạo râu?"

                        Hai người bạn đứng nhìn nhau. Rồi Nerzhin nói:

                        "Này bạn… trong ba năm qua chưa bao giờ chúng ta đồng ý với nhau lấy một lần, chúng ta tranh luận, đả kích nhau, chế nhạo nhau, nhưng giờ đây khi tôi sắp mất bạn, có thể là mất mãi mãi, tôi thấy là đối với tôi bạn là… là…"

                        Giọng nói của chàng vỡ ra.

                        Đôi mắt đen của Rubin sáng lên niềm trìu mến và ngượng ngùng.

                        "Đây là chuyện đã qua" – Rubin gật đầu – "Chúng ta là bạn…"

                        Anh ghé bộ râu quai nón vào mặt Nerzhin, hôn lên má Nerzhin.
                        #42
                          CTT 14.09.2008 17:36:29 (permalink)
                          43. Thịt

                          Khi những tù nhân được lệnh di chuyển vào tới Phòng An ninh, họ bị khám xét. Khi khám xét xong, họ được đưa vào một gian phòng chỉ có hai cái bàn và một cái ghế dài. Thiếu tá Myshin có mặt trong suốt cuộc khám xét. Y không thèm cúi xuống những túi hành lý của bọn tù nhân – việc làm này không xứng đáng với cấp bậc của y - nhưng y tin rằng sự có mặt của y thúc đẩy bọn Giám thị làm tròn bổn phận. Bọn giám thị dở xem từng cái quần áo rách của tù nhân, chúng đặc biệt để ý đến giấy tờ. Luật ghi rằng những tù nhân ra khỏi những Viện Khoa học tuyệt đối không được đem theo bất cứ một mảnh giấy có chữ viết, hay chữ in nào. Vì vậy, đa số tù nhân đã đốt những bức thư gia đình của họ trước khi chịu cuộc khám xét.

                          Hai mươi người tù được đưa vào phòng chờ với những món đồ được phép mang theo. Cửa phòng này khóa lại, một người gác đứng gác ở cửa này chờ xe Maria Đen tới đưa tù nhân đi. Sự liên lạc như vậy là đứt đoạn giữa 20 ra đi và 261 người còn ở lại.

                          Những người tù ra đi vẫn còn ở trong Viện, nhưng cũng như họ không còn ở đó nữa. Họ tìm chỗ ngồi nghỉ chân trong phòng. Thoạt đầu, tất cả đều im lặng.

                          Mọi người kiểm soát lại xem họ còn mang theo được những gì, họ bị lấy mất những gì. Họ nghĩ đến cuộc sống vừa qua trong Viện, họ mất những gì khi phải đi khỏi Viện, họ đã sống được bao nhiêu năm tháng trong Viện và họ còn phải sống bao nhiêu năm tháng nữa mới hết hạn tù. Như tất cả những người tù trên cõi đời này, họ đếm đi đếm lại những năm tháng: những năm tháng họ đã mất và những năm tháng họ còn phải mất.

                          Rồi họ nghĩ đến gia đình họ, đến những người thân họ phải xa cách, đến chuyện họ sẽ phải xin người thân viện trợ, giúp đỡ, vì ở nơi họ sắp tới, người đàn ông khoẻ mạnh làm việc mười hai tiếng một ngày vẫn không được ăn no đủ để sống.

                          Họ nghĩ lại những việc làm vô ý thức hoặc cố tình mà họ đã làm, những việc đưa họ đến chuyến đi này.

                          Họ nghĩ đến nơi họ có thể bị đưa tới, đến những gì chờ đợi họ ở đó, họ nghĩ trước đến những việc họ phải làm để có thể sống ở đó.

                          Không ai thổ lộ tâm trạng của mình với ai, nhưng tất cả đều u buồn, lo âu.

                          Mọi người đều muốn được trấn an và hy vọng.

                          Vì vậy, khi họ bắt đầu nói chuyện với nhau, một người trong bọn nói rằng rất có thể họ sẽ không bị đưa đến trại tập trung, họ chỉ phải qua một Viện Khoa học khác, cả những người không tin cũng lắng nghe.

                          Ngay cả Đấng Christ khi ở trong vườn Gethsemani, biết rõ số mệnh cay đắng của mình, vẫn còn cầu nguyện và hy vọng.

                          ...

                          Bên ngoài bức tường, họ nghe thấy tiếng động cơ xe hơi. Rồi tiếng nói gắt gỏng của Trung tá Klimentiev.

                          Họ được gọi ra khỏi phòng từng người một.

                          Những người tù tay xách hành lý, cúi thấp đầu xuống khi bước lên xe để khỏi đụng đầu vào vách cửa xe. Mười tám người tù cúi đầu lên xe như thế, không một ai nhìn từ biệt hàng cây cổ thụ ủ rũ trong sương.

                          Có hai người tù không cúi đầu khi đi lên xe. Hai người đó là Khorobrov và Nerzhin – nhưng hai người này cũng không nhìn về phía hàng cây. Họ tò mò nhìn chiếc xe chở họ đi.

                          Lâu rồi người ta không còn dùng chiếc xe bít vùng sơn đen chở tù đi trong các đường phố nữa – loại xe này làm cho dân chúng sợ hãi – bây giờ họ chở tù trong những chiếc xe giống hệt xe chở hàng tạp hóa, chở thực phẩm. Thùng xe cũng sơn màu cam và màu trắng xanh vui mắt. Thành xe cũng kẻ những hàng chữ bằng bốn thứ tiếng:

                          Khleb
                          Pain
                          Brot
                          Bread

                          Myaso
                          Viande
                          Fleish
                          Meat

                          Trước khi bước lên cửa xe Maria Đen, Nerzhin bước sang cạnh xe và chàng nhìn được một chữ kẻ trên thùng xe. Đó là chữ "Meat".

                          Trong lòng xe tối om, người ngồi và hành lý chật cứng. Sau khi đẩy người tù cuối cùng lên xe, người gác đóng cửa và khóa lại.

                          Ở phía đầu xe, sát với thùng tài xế ngồi, có một ngăn nhỏ để nhốt tù nhân chống đối, làm dữ. Tiếng nói của Ruska trong ngăn đó vang ra:

                          "Anh em… Tôi bị đưa đi Butyrskaya để thẩm vấn. Anh em nào đó? Những ai bị đưa đi?"

                          Cả hai mươi người tù cùng trả lời một lúc.

                          "Ruska… Ai tố cáo chú?" Nerzhin la lên.

                          "Thẳng Siromakha".

                          Một người chửi trong bóng tối:

                          "Thằng khốn nạn".

                          "Có bao nhiêu anh em phải đi?" Ruska hỏi lớn:

                          "Hai mươi người".

                          "Đừng sợ, Ruska" – một người la lớn – "Mình sẽ gặp nhau ở Trại Tập trung".

                          Xe chạy, Nerzhin và Gerasimovich va mạnh vào nhau. Cả hai cùng giương mắt nhìn để nhận ra nhau trong bóng tối. Có một cái gì đó ngoài sự chật chội của thùng xe này làm cho họ gần nhau hơn.

                          Ilya Khorobrov, tinh thần đã lên cao hơn được một chút, đột nhiên nói lớn và rõ:

                          "Đừng sợ, anh em. Đừng sợ khi chúng mình phải đi. Anh em đừng thèm coi cuộc sống trong Viện này là cuộc sống đáng để cho ta luyến tiếc. Ở đó chúng ta phải sống chung với những thằng khốn nạn như thằng Siromakha. Ở đó cứ trong năm mươi tên lại có một thằng chỉ điểm. Mình đánh rắm trong cầu tiêu bọn quản đốc chúng nó cũng biết. Chúng nó không cho mình nghỉ ngày Chủ nhật trong suốt hai năm nay. Ở đó mình phải làm việc mười hai tiếng một ngày. Chúng nó còn cấm mình không được viết thư về cho gia đình. Còn công việc mình phải làm cho chúng ở đó nữa. Đó là địa ngục".

                          Khorobrov yên lặng. Anh như người nói không nổi vì hờn giận.

                          Trong tiếng máy xe nổ êm và tiếng bánh xe lăn trên mặt nhựa xa lộ, giọng nói từ tốn của Nerzhin cất lên:

                          "Không, Ilya Terentich… Đó không phải là địa ngục. Bây giờ chúng ta mới đi vào địa ngục. Chúng ta trở về địa ngục. Nơi chúng ta vừa rời bỏ là tầng cao nhất, tầng tốt nhất, tầng đầu tiên của địa ngục. So với những tầng địa ngục chúng ta sắp xuống, tầng đầu tiên ấy có thể coi là thiên đường".

                          Chàng không nói thêm nữa, vì thấy không cần phải nói. Mọi người đều biết rằng nơi họ đến cuộc sống sẽ khổ sở, ghê rợn hơn cuộc sống ở Viện Khoa học nhiều, ở những trại tập trung lạnh giá, họ nhớ lại Viện trong giấc mơ, như những giấc mơ vàng. Nhưng ngay lúc này, để khỏi mất can đảm, để có thể nghĩ là mình làm đúng, họ phải chê bỏ cuộc sống trong Viện, để đừng ai hối hận, đừng ai tự trách mình dại dột…

                          Khorobrov nói bằng một giọng quả quyết:

                          "Anh em nên nghe tôi… Thà mình ăn bánh hẩm với nước lã mà lương tâm vẫn yên ổn hơn là ăn thịt mà hèn hạ".

                          Những người trong xe yên lặng.

                          Đúng thế, những cánh rừng hoang ở Tây Bá Lợi Á chờ đón họ, miền Oymyakon lạnh nhất trái đất và những mỏ đồng ở Dzhezkazan chờ đón họ, ở đó họ sẽ đói, sẽ chết. Nhưng trái tim họ được yên ổn.

                          Trái tim họ tràn đầy cảm giác vô úy của những kẻ đã mất tất cả, sự vô úy này không tự nhiên mà có, người ta chỉ vô úy khi người ta chịu đựng.

                          Chở đầy nhóc những người, chiếc xe sơn màu cam vui mắt chạy qua những đường phố đông trong thành phố. Xe chạy qua cửa một trạm xe hỏa và dừng lại ở ngã tư chờ đèn xanh. Một chiếc xe du lịch nhỏ cũng đậu chờ đèn xanh ở đây. Người lái chiếc xe du lịch nhỏ này là đặc phái viên của tờ nhật báo tiến bộ Libération của Pháp quốc. Chàng đặc phái viên này đang trên đường tiến tới Vận động trường Dynamo để coi trận đấu hockev. Chàng nhìn sang chiếc vận tải sơn màu cam đậu bên cạnh va những chữ viết trên thành xe cho chàng biết đó là xe chở thịt.

                          Chàng nhớ rằng trong buổi sáng hôm nay, chàng đã nhìn thấy nhiều chiếc xe chở thịt như xe này chạy trong những đường phố của Mạc Tư Khoa, chàng lấy quyển sổ tay ra ghi vội vài dòng:

                          "Trong đường phố Mạc Tư Khoa người ta thường thấy những chiếc xe chở thực phẩm rất sạch sẽ, vệ sinh được bảo đảm đến mức tối đa. Ta có thể kết luận rằng việc tiếp tế thực phẩm cho thủ đô này thật là hoàn hảo".

                          1955 - 1964

                          - Hết -




                          *

                          Hoàng Hải Thủy
                          Tầng đầu địa ngục và lương tâm của một văn sĩ

                          Khảo luận về tác phẩm Tầng đầu địa ngục

                          Là một dân tộc tương đối nhỏ yếu, tuy chúng ta vẫn giữ được một nền văn hóa riêng, giữ được độc lập và những bản chất đặc biệt của dòng giống, nhưng trong lịch sử, dân tộc chúng ta đã quá nhiều lần phải chịu đựng nạn ngoại xâm. Vì vậy, chúng ta quen thuộc nhiều với nền văn chương ngoại quốc.

                          Trước đây, chúng ta quen thuộc văn chương Trung Hoa, ông cha chúng ta học chữ Hán, viết chữ Hán, làm thơ Đường luật. Sử sách của chúng ta ngày xưa cũng được ghi bằng chữ Hán. Rồi trước đây năm mươi năm, chúng ta học chữ Pháp, kiếm ăn bằng tiếng Pháp, dân tộc ta đã sản xuất ra được vài nhà văn viết tiểu thuyết hoặc khảo luận bằng tiếng Pháp.

                          Gần đây, chúng ta quen biết, gần gụi với văn chương Hoa Kỳ, qua sách báo, phim ảnh, Tivi, nhất là trong những năm nửa triệu người lính Mỹ lên đất ta giúp chúng ta đánh lại Cộng sản.

                          Ngoài văn chương Pháp và Hoa Kỳ, chúng ta cũng được biết khá nhiều về văn chương Anh.

                          Chúng ta chỉ được biết rất ít về văn chương Nga.

                          Sự kiện này không có gì khó hiểu. Nước Nga, từ một nửa thế kỷ này, nói rõ hơn, từ ngày chế độ Cộng sản được thiết lập trên nước Nga, đã trở thành một quốc gia thù hằn với tất cả những quốc gia không Cộng sản trên thế giới. Những người Cộng sản cầm quyền ở Nga thực hiện một chính sách bất thân thiện với toàn thể thế giới. Họ chỉ gây hận thù và chỉ nghĩ đến chuyện phá hoại để rồi nhuộm đỏ cả thế giới. Họ bao vây đất nước họ, đồng bào họ trong một bức màn sắt. Người thế giới tất nhiên là không thể liên lạc được với người dân Nga trong khi người dân Nga sống như những tù nhân trong lãnh thổ bị bưng bít của họ.

                          Văn chương Nga, từ trước thời Cộng sản vẫn là một thứ văn chương đứng hàng đầu ở Âu châu. Những văn hào Nga như Tolstoy, Dostoyevsky, Gogol, Tchekov nổi tiếng khắp thế giới. Tác phẩm của họ được kể là những sản phẩm tinh thần quý báu của toàn thể nhất là.

                          Nhưng từ khi chế độ Cộng sản được thiết lập trên đất Nga, nửa thế kỷ qua, văn chương Nga Cộng sản không còn đóng góp được gì đáng kể cho nhân loại. Số nhà văn Nga được thế giới biết đến có thể được đếm trên một ngón tay. Đó là những Ilya Ehrenbourg, Vladimir Dutdinsev… Và mới đây Boris Pasternak, Cholokov, rồi nhà văn Nga mới nhất: Aleksandr I. Solzhenitsyn.

                          Đáng kể nhất là điều mỉa mai nhất là Boris Pasternak và Aleksandr I. Solzhenitsyn, cả hai cùng đoạt giải Văn chương Nobel, lại nổi tiếng ở ngoại quốc hơn là nổi tiếng ở trong nước Nga, tác phẩm của cả hai nhà văn này đều được ấn hành, xuất bản ở Âu châu và Mỹ châu trước khi được ấn hành, xuất bản ở ngay trong nước Nga cho người Nga đọc. Tại sao có sự lạ lùng như vậy? Hai nhà văn lớn này có muốn thấy những đứa con tinh thần của họ có cuộc sống trái ngược với tự nhiên như vậy không: sách của văn sĩ Nga hiện sống trong đất Nga được đưa từ ngoại quốc vào đất Nga cho người Nga đọc lén? Họ có lén gửi tác phẩm của họ ra ngoại quốc để được dịch và xuất bản ở ngoại quốc hay không? Và nếu có, vì sao họ phải làm như thế?

                          Trường hợp đặc biệt của Aleksandr I. Solzhenitsyn và tác phẩm Tầng đầu địa ngục của ông đặt trước mặt nhân loại một vấn đề lớn – ta có thể gọi đây là vấn đề nan giải nhất của thế kỷ XX – đó là vấn đề tự do của con người bị giới hạn vì những quyền lợi chủ nghĩa, quốc gia, con người bị tan vỡ, bị tiêu diệt khi con người đụng chạm với những quyền lực lớn ở ngay trong đất nước của mình. Aleksandr I. Solzhenitsyn, với tác phẩm Tầng đầu địa ngục, kêu lên tiếng kêu xé trời của những người bị áp bức, tù đày trong Liên bang Xô Viết, nơi từng được tất cả những đảng viên Cộng sản trên khắp thế giới thành kính hướng về như những tín đồ hướng về đất thánh. Aleksandr I. Solzhenitsyn cũng là nhà văn Nga duy nhất hiện còn sống được ví cùng một lúc với Tolstoy và Dostoyevsky. Ông được coi giống với Tolstoy về văn pháp, về cách sử dụng văn Nga tài tình và phong phú, ông được coi giống với Dostoyevsky về tư tưởng, về sự đề cao giá trị con người trước những bất công của xã hội, những đè nén của bạo lực, và nhất là vì việc đưa tiểu thuyết những kinh nghiệm tù đày của chính bản thân. Cũng như Dostoyevsky từng bị tù đày nhiều năm ở Tây Bá Lợi Á, bị kết án tử hình, Aleksandr I. Solzhenitsyn đã phải ở tù mười một năm trong các trại tập trung và cưỡng bách lao động của chế độ Nga Xô Viết. Và cũng như Dostoyevsky, tù đày và những hành hạ về thể xác không thể làm mất được ý chí tinh thần của Aleksandr I. Solzhenitsyn, con người trong ông vẫn đứng thẳng và người văn sĩ trong ông vẫn tiếp tục ghi nhận sự thật, vẫn can đảm viết ra những sự thật ấy.

                          Chúng ta không thể hiểu được Aleksandr I. Solzhenitsyn và Tầng đầu địa ngục nếu chúng ta không được hiểu biết khá đủ về tình trạng "chế độ cai trị bằng công an, mật vụ ở các nước Cộng sản, điển hình nhất là ở Nga Xô Viết. Nhân viên mật vụ là bọn nắm quyền và được tả kỹ nhất trong những trang Tầng đầu địa ngục. Bọn Yakanov, Klimentiev, rồi cao hơn là Oskolupov, Sevastyanov, Abakumov chiếm nhiều trang ngang với những tù nhân vai chính như Gleb Nerzhin, Lev Rubin, Pryanchikov. Vì vậy, trước khi đi sâu vào đời tư nhà văn và tác phẩm, chúng tôi thấy sự cần thiết phải trình bày với bạn đọc về lịch sử những cơ quan Mật vụ của Nga Xô kể từ ngày chế độ Cộng sản được thiết lập ở đó.


                          *

                          Trước hết, chúng ta thấy rằng trong Tầng đầu địa ngục, nhà tù như Viện Khoa học Mavrino không phải là một nhà tù thường. Trên khắp trái đất này, có lẽ chỉ có ở Nga Xô mới có loại nhà tù đặc biệt ấy. Tiếng lóng của tù nhân Nga gọi nhà tù này là "Sharaska", theo tiếng Nga, sharaska có nghĩa là "một nơi bịp bợm và giả dối". Người tù trong những sharaska này được gọi bằng tiếng lóng là Zek. Những tiếng này không thể dịch đúng sang được các thứ tiếng khác tiếng Nga. Trong bản dịch The First Circle của Thomas P. Whitney (bản tiếng Mỹ này được bạn Hải Triều dùng để chuyển ngữ tiếng Việt) – chúng tôi thấy hai danh từ sharaska và zek được giữ nguyên.

                          Năm 1917, trước năm Aleksandr I. Solzhenitsyn ra đời được một năm, Cơ quan Mật vụ Nga Cộng được thành hình. Kể từ ngày đó, cơ quan này đã nhiều lần đổi tên, nhưng dù nó có mang bất cứ tên gì, công việc chính của nó là việc tìm tòi, bắt bớ, tra tấn và thủ tiêu những người mà những đảng viên Cộng sản coi là có hại, bất lợi cho họ, bất kể những người này có làm hại nhân dân hay không. Trong số những nạn nhân của Mật vụ Nga có cả những đảng viên Cộng sản Nga, như trường hợp anh chàng Lev Rubin chẳng hạn.

                          Từ tháng 12 năm 1917 cho tới năm 1922, Cơ quan Mật vụ Nga Cộng được gọi là Cheka, bọn nhân viên của Cheka được gọi là Chekist. Cái tên Chekist này cho tới bây giờ vẫn còn được dùng mặc dù cái tên Cheka đã bị đổi. Từ năm 1922, Cheka trở thành GPU – đọc là GuéPéOu – cũng trong năm 1922, GPU được đổi lại là OGPU. Hai cái tên GPU và OGPU được dùng lẫn lộn mãi cho đến năm 1934.

                          Tới năm 1934, OGPU được sáp nhập vào Cơ quan NKVD: Ủy ban Nội vụ Nhân dân, Ủy ban này này dưới quyền chỉ huy của Tổng Ủy viên Yezhov. Trong khoảng ba năm trời từ 1935 cho tới 1939, theo lệnh của Stalin, Tổng ủy Yezhov, với Cơ quan NKVD đã phát động một chiến dịch thanh trừng nội bộ lớn lao, khủng khiếp, đẫm máu. Hàng triệu người Nga bị giết trong chiến dịch này, hàng trăm ngàn đảng viên Cộng sản Nga, trong số đó cả những đảng viên cao cấp, kỳ cựu trung kiên nhưng chỉ vì không tán thành chủ trương của Stalin, không chịu phục Stalin, đã bị đưa ra tòa, bôi lọ, bắt nhận tội phản quốc, bị xử tử hoặc bị giết chết trong ngục tù.

                          Để rồi sau đó, đến 1939, ít ngày trước khi trận Thế chiến thứ hai bùng nổ, Tổng Ủy viên Yezhov bị Stalin ra lệnh tước quyền, bắt giam, đổ cho tội đã làm bậy, đã giết oan nhiều người, đi sai đường lối của đảng (?) và bị… xử tử. Stalin cho Lavrenty Beria nắm quyền chỉ huy Mật vụ Nga. Qua suốt thời kỳ chiến tranh, mãi tới năm 1946, Mật vụ Nga mới có cái tên mới là MGB, thuộc quyền Bộ Nội vụ Nga. Cũng năm 1946, Victor S. Abakumov được trao quyền Tổng Bộ trưởng Bộ An ninh và chỉ huy Cơ quan MGB. Như vậy là chúng ta thấy Tổng trưởng Abakumov được Aleksandr I. Solzhenitsyn tả trong Tầng đầu địa ngục là người thật, là Tổng trưởng thật. Abakumov tuy rất trung thành với Stalin nhưng vẫn không được Ông chúa đỏ tin dùng lâu. Vào khoảng giữa hai năm 1951-1952, Abakumov bị Stalin cất chức và bỏ tù vì tội… làm bậy. Stalin đã quyết định giết Abakumov nhưng chưa kịp ra lệnh thì Stalin chết. Vào tháng 12 năm 1954, khoảng một năm rưỡi sau ngày Stalin chết, tên tù Abakumov bị Kruschev, người hạ bệ Stalin, lôi từ nhà tù ra tòa vì tội đã vu cáo một số lãnh tụ Xô Viết và thủ tiêu những ông này trong vụ án bôi lọ gọi là "Vụ Leningrad" năm 1950. Abakumov bị tòa xử bắn.

                          Do đó, ta có quyền tin rằng Viện Khoa học Mavrino tả trong Tầng đầu địa ngục là có thật, tất cả những nhân vật trong Tầng đầu địa ngục cũng đều có thật. Toàn truyện Tầng đầu địa ngục là có thật. Vì là sự thật, nên ngoài giá trị văn chương Tầng đầu địa ngục còn có giá trị như một bản cáo trạng kết án nặng nề cuộc đời phi nhân của những người Cộng sản.


                          *

                          Trong Tầng đầu địa ngục, nhân vật Gleb Vikentyevich Nerzhin chính là hình ảnh của Aleksandr I. Solzhenitsyn.

                          Gleb Nerzhin là một giáo sư toán học, gia nhập quân đội trong những năm đầu của trận Thế chiến thứ hai, sau khi quân Đức Quốc Xã ồ ạt tiến vào đất Nga như vào chỗ không người. Chàng trở thành một sĩ quan pháo binh, mang cấp bậc Đại úy, chỉ huy một pháo đội ở mặt trận biên giới. Chàng bị bọn Mật vụ bắt khi còn đang ở trên mặt trận.

                          Aleksandr I. Solzhenitsyn cũng là giáo sư toán học, ông cũng gia nhập quân đội với chức vụ sĩ quan pháo binh. Và ông cũng bị bọn Mật vụ bắt khi còn đang ở trên mặt trận.

                          Theo chính lời kể chuyện của Solzhenitsyn, ông gia nhập quân đội với đơn tình nguyện nhập ngũ ghi rõ ông có khiếu viết văn – trước đó ông đã hoàn thành vài cuốn tiểu thuyết nhưng chưa được xuất bản – và xin làm phóng viên báo chí chiến trường. Nhưng người ta không xét đơn ông, họ cho ông vào ngành Yểm trợ Tiếp vận và ông phải phục vụ trong một đơn vị dùng toàn xe ba bánh đẩy đồ tiếp tế ra chiến trường. Trong những năm đầu của cuộc chiến, vì Stalin ngu xuẩn tin chắc là Hitler sẽ không xua quân đánh Nga nên không cho chuẩn bị gì cả, khi bị tấn công, quân Nga thiếu thốn đủ thứ. Nhập ngũ từ 1940 mãi 1942, Solzhenitsyn mới được đưa vào học ở Trường Huấn luyện Sĩ quan Pháo binh. Tới năm 1945, khi trận chiến sắp kết liễu, quân Đức Quốc Xã đã thua và đang rút về Đức, Solzhenitsyn mang cấp bậc Đại úy Pháo binh. Ông dự trận đánh dữ dội ở vùng Orel Kursk. Thắng trận này, Hồng quân Nga vượt qua được Ba Lan để đi vào biên giới Đức Quốc, trực chỉ Bá Linh đổ nát, chấm dứt chiến tranh ở Âu Châu.

                          Tháng Giêng năm 1945, Đại úy Solzhenitsyn nhận được lệnh của Tướng Travkine, Sư đoàn trưởng Sư đoàn Pháo của ông, gọi về ngay Bộ Tư lệnh Sư đoàn. Đại úy Solzhenitsyn về trình diện Tướng Travkine và được ông này, với một vẻ bất đắc dĩ, khổ sở khó hiểu, yêu cầu cởi khẩu súng lục võ khí tùy thân. Đại úy Solzhenitsyn vừa cởi bao súng đặt lên bàn theo lệnh vị chỉ huy của mình thì hai tên Mật vụ áp vào còng tay lột ngay cấp hiệu cùng những huy chương tưởng thưởng trên ngực ông.

                          Tướng Travkine đứng lặng im nhìn cuộc bắt bớ này. Nhưng khi Đại úy Solzhenitsyn, bây giờ đã thành một tù nhân của Mật vụ Nga, sắp bị đưa ra khỏi phòng, Tướng Travkine đi tới lặng lẽ xiết chặt tay ông trước cái nhìn của hai tên Mật vụ. Nhiều năm sau, khi viết lại chuyện này, văn sĩ Solzhenitsyn cho rằng hành động bắt tay tù nhân của Tướng Travkine là hành động dũng cảm hào hùng nhất ông được chứng kiến ở cấp tướng lãnh trong suốt 5 năm trời đánh nhau với Đức.

                          Ngay cả khi chưa chiến thắng hẳn, chưa đánh quỵ hẳn Đức Quốc Xã, Stalin đã nghĩ đến chuyện cho mật vụ đi bắt các sĩ quan, tướng lãnh nào mà y biết là không phục y. Stalin sợ rằng khi những chiến sĩ anh hùng này trở về, họ sẽ hạch tội những tên cầm quyền ngu ngốc làm cho chiến hữu của họ phải chết quá nhiều và vô ích. Trong số tội phạm này, tội của Stalin là lớn nhất. Về sau, Kruchev, trong chiến dịch hạ bệ Thần tượng Stalin, đã công bố hết những tội ngu đần, tàn ác, mù quáng của Stalin, trong số này có những tội Stalin ngu ngốc không chuẩn bị chiến tranh với Đức Quốc Xã vì tin rằng Hitler sẽ không bao giờ xua quân đánh Nga, ra những mệnh lệnh xuẩn ngốc làm chết oan không biết bao nhiêu binh sĩ Nga v.v.

                          Đại úy Pháo binh Solzhenitsyn đã phạm tội gì để bị bắt? Chính Solzhenitsyn đã nói ra nguyên do: chỉ vì ông đã dám viết thư cho một người bạn chỉ trích những sai lầm của Stalin, ông quên rằng những thư từ gửi từ mặt trận về đều bị kiểm duyệt kỹ, thư của ông rơi vào tay bọn mật vụ và ông bị bắt chỉ vì thế.

                          Từ mặt trận, Solzhenitsyn bị đưa về khám đường Lubyanka, khám đường lớn nhất Mạc Tư Khoa, nơi ông tả tỉ mỉ trong Tầng đầu địa ngục đoạn nhân vật Innokenty Volodin bị bắt. Khi ấy ông ta có vợ nhưng chưa có con – tình trạng y hệt tình trạng của Gleb Vikentich Nerzhin trong truyện – vợ ông đột nhiên mất tin tức của ông. Không cho tù nhân gửi thư về nhà, bọn Mật vụ Nga còn tàn ác hơn nữa ở điểm không nhận là chúng đã bắt người đó với thân nhân của người bị bắt. Người vợ thứ nhất của Solzhenitsyn không trung thành với chồng bằng nàng Nadya, vợ của Nerzhin trong truyện: chừng vài năm sau Solzhenitsyn bị tù, bà vợ này của ông bỏ đi lấy chồng khác.

                          Đúng ra, Aleksandr I. Solzhenitsyn bị tù 8 năm và 3 năm biệt xứ. Ông ở tù không ra tòa, không có án, ở tù vì một lệnh đặc biệt do bọn Abakumov quyết định. Số tù của ông là số 232.

                          Sau hai năm tù ở Khám đường Lubyanka, Solzhenitsyn được đưa về một Sharaska gần Mạc Tư Khoa vì người ta biết ông là toán học gia. Sống ở đây bốn năm, Solzhenitsyn thâu thập tài liệu để viết cuốn Tầng đầu địa ngục. Đúng như lời nhân vật Gleb Nerzhin nói ở đoạn cuối của tác phẩm, so với những nhà tù khác, đời sống trong Sharaska Mavrino là sung sướng nhất, ở đó người tù đỡ khổ nhất, tuy cũng vẫn là bị tù.

                          Sau bốn năm sống tương đối đỡ khổ ở Sharaska, Solzhenitsyn bị đổi đến những trại tập trung ở miền hoang vu Krasnoyarsk. Nơi đây tù nhân phải làm việc trong một mỏ đồng, sự ăn uống khổ cực và khí hậu rét lạnh khủng khiếp làm cho tù nhân chết dễ như ruồi.

                          Việc tù chết quá nhiều không làm cho bọn Mật vụ Nga xúc động mảy may, bởi vì chúng nó quá nhiều tù. Người ta ước lượng rằng diện tích những nhà tù, trại tập trung đủ thứ, đủ kiểu trong lãnh thổ Liên bang Xô Viết còn lớn rộng hơn cả toàn thể diện tích lãnh thổ một quốc gia hạng trung ở Âu châu, như Thụy Sĩ chẳng hạn, và số tù nhân trên đất Nga còn đông hơn cả tổng số dân Thụy Sĩ.

                          Tháng 2 năm 1953, Solzhenitsyn được trả tự do. Lúc này Stalin đã chết và Kruschev, người kế vị Stalin, vì chủ trương hạ bệ Stalin nên ra lệnh tha một số người chỉ vì chống Stalin mà bị tù. Tuy vậy, Solzhenitsyn cũng vẫn phải đi lưu đày ở vùng hoang vu tuyết trắng mênh mông xứ Balkan. Tới đây ông sống trong một làng quê, làng Koh-Teren của người Tartare, một giống dân thiểu số sống trong lãnh thổ của họ nhưng bị sáp nhập vào Liên bang Nga Xô Viết.

                          Đây là thời gian Solzhenitsyn bị án biệt xứ. Ông sống ở Koh-Teren ba năm. Ở đây nhờ không có ai giỏi Toán, ông xin được chân giáo viên dạy Toán, và nhờ vậy đời ông đỡ khổ vì số tiền lương giáo viên này.

                          Nhưng cũng ở đây, ông phát giác ông bị đau ung thư. Thực ra, trong thời gian bị tù 8 năm, ông đã bị ung thư rồi và đã được giải phẫu một lần, nhưng các y sĩ giấu không cho biết ông đau ung thư.

                          Tù biệt xứ, không tiền, ở một nơi hoang vắng, lạc hậu, không bệnh viện, không thuốc men điều trị, nhà văn nắm chắc cái chết. Sau nhiều ngày nằm liệt giường, ông gắng lần ra Tashkent xin điều trị ở bệnh viện công. Tuy vẫn không có thuốc nhưng có lẽ vì số chưa đến ngày tận, Solzhenitsyn vẫn không chết. Những ngày sống vất vưởng ở bệnh viện với bệnh ung thư thập tử nhất sinh ấy cho nhà văn tài liệu sống để viết thành tiểu thuyết Viện ung thư (Cancer Ward) sau này.


                          *

                          Năm 1955, trong khi còn ở Koh-Teren, Aleksandr I. Solzhenitsyn đã bắt đầu viết tác phẩm tiểu thuyết dài và giá trị nhất của ông: Tầng đầu địa ngục.

                          Tác phẩm lớn này được ông hoàn thành vào 9 năm sau - năm 1964 – ở Mạc Tư Khoa.

                          Tình yêu đến với ông. Một nữ kỹ sư hóa học trẻ đẹp yêu ông và chung sống với ông mặc dù nàng biết rằng ông chỉ là một nhà văn bị chế độ ghét bỏ, bị tù đày và có thể lại bị tù đày bất cứ lúc nào.

                          Cho đến năm 1964, chỉ có mới có một cuốn tiểu thuyết của Aleksandr I. Solzhenitsyn được xuất bản ở Nga. Đó là quyển Một ngày trong đời Ivan Denisovich. Các truyện khác của ông, trong số có nhiều truyện ngắn, kịch bản, đều bị Sở Kiểm duyệt ngầm ra lệnh cho các báo không được đăng. Khi biết chắc rằng ông nhất định không chịu khuất phục chế độ, những người cầm quyền lại mở chiến dịch khủng bố, vu cáo, bôi lọ ông. Nhân viên Mật vụ đến xét nhà ông ban đêm, tịch thu những bản thảo của ông, xét hỏi, làm khó những người bạn đến thăm vợ chồng ông. Những tờ báo của Đảng Cộng sản Nga đăng những bài mạ lỵ Aleksandr I. Solzhenitsyn: Họ vu cho ông bị tù vì tội phản quốc, tư thông với địch quân, những bài báo họ viết về ông có những đoạn nửa kín, nửa hở cố ý làm cho người đọc nghĩ rằng ông chỉ là một tên bất lương, một phần tử lưu manh của xã hội không đáng được để ý đến. Họ còn ngụy tạo cả những bằng chứng kết tội ông bị tù vì tội phản quốc.

                          Mật vụ Nga và những người Cộng sản cầm quyền ở Nga có cả ngàn thủ đoạn ác độc để hãm hại những người họ muốn hãm hại. Ngoài việc vu khống Aleksandr I. Solzhenitsyn, họ cô lập vợ chồng ông. Nhà văn không kiếm được tiền vì những truyện ông viết không được đăng báo, không sao có thể xuất bản, ông phải sống nhờ vợ ông, nhưng vợ ông bỗng dưng vô cớ bị sở cho nghỉ việc, rồi đi xin việc ở đâu cũng không được. Nhà văn lại còn bị pháp luật làm khó vì một chuyện cũ: bà vợ thứ nhất của ông bỏ đi lấy chồng khác trong lúc ông bị tù nhưng vẫn chưa ly dị chính thức với ông – có lẽ bà này chưa ly dị vì thời ấy, bà không sao liên lạc được với chồng để làm việc này – thành ra bây giờ nhà văn sống với bà vợ thứ hai này trong tình trạng … bất hợp pháp, phạm luật v.v.

                          Boris Pasternak đã gửi tác phẩm Doctor Zivago sang Ý quốc để dịch và xuất bản khi thấy bọn "đồ tể văn chương" ở Nga không chịu cho xuất bản, trường hợp của Aleksandr I. Solzhenitsyn hoàn toàn khác. Solzhenitsyn cũng muốn thấy tác phẩm của ông được xuất bản, tất nhiên, nhưng ông muốn tác phẩm của ông được xuất bản ở Nga trước ở ngoại quốc. Từ năm 1967, Solzhenitsyn đã nhiều lần viết thư cho Hiệp hội Những nhà văn Nga Xô yêu cầu can thiệp để tác phẩm của ông có thể được xuất bản trên đất Nga, trong những bức thư này, ông có đề cập đến tình trạng tác phẩm của ông có thể bị lọt ra ngoại quốc và xuất bản trước ở ngoại quốc. Ông nói rõ đó là tình trạng ông không muốn.

                          Nhưng nếu nhà văn không gửi tác phẩm đi, làm sao tác phẩm của nhà văn lại có thể lọt ra ngoại quốc? Solzhenitsyn giải thích sự kiện này như sau: có những người bạn mượn bản thảo tác phẩm của ông về đọc, những người này đánh máy tác phẩm đó để giữ lại hoặc truyền cho người khác, dưới hình thức bản đánh máy, tác phẩm cứ thế phổ biến, để rồi sau cùng, một bản đánh máy đó được mang ra ngoại quốc mà chính tác giả không hề hay biết.

                          Chính phủ Nga Xô lại không gia nhập Tổ chức Bảo vệ Quyền tác giả Quốc tế nên các nhà văn Nga không thể thưa kiện gì được khi tác phẩm của họ bị những nhà xuất bản Âu Mỹ xuất bản không có sự đồng ý của họ.

                          Năm 1970, Viện Hàn Lâm Nobel đã mặc nhiên trở thành giải thưởng quan trọng nhất, giá trị nhất thế giới. Được giải này là sự vinh hạnh nhất cho những người làm văn học, nghệ thuật, khoa học.

                          Chính quyền và Đảng Cộng sản Nga không muốn thấy Aleksandr I. Solzhenitsyn được giải Nobel vì lẽ dễ hiểu là tác phẩm của nhà văn này tố cáo chế độ cai trị bằng mật vụ, nhà tù tàn ác trên đất Nga. Nhưng nhà văn đã được giải Nobel văn chương, cả thế giới đã biết, giá trị và tài năng của nhà văn đã được quốc tế công nhận. Như vậy cũng có nghĩa là quốc tế công nhận những gì Aleksandr I. Solzhenitsyn viết trong tiểu thuyết là đúng. Đó là điều đau đớn thâm gan, tím ruột cho những người Cộng sản Nga. Họ mất mặt nhưng họ chẳng thể làm gì được.

                          Họ phản ứng bằng cách trả thù tẹp nhẹp là cấm không cho Aleksandr I. Solzhenitsyn sang Thụy Điển để lãnh giải Nobel. Họ sợ sang đó, nhà văn đã trở thành nhà văn quốc tế, sẽ tuyên bố sự thật về họ và những lời này sẽ được công bố cho toàn thế giới biết, họ sẽ còn tai hại nhiều nữa.

                          Không mời được Aleksandr I. Solzhenitsyn sang Stockholm, Viện Hàn Lâm Nobel đề nghị mời nhà văn tới Tòa Đại sứ Thụy Điển ở Mạc Tư Khoa để trao giải – một đại diện của Viện sẽ tới Mạc Tư Khoa để thực hiện việc này – nhưng chính phủ Nga cũng không chịu. Họ đòi đưa giải đó cho họ để họ trao lại cho người được giải. Viện Hàn Lâm Nobel không chịu, vì việc đó trái với tinh thần của Viện, Viện không nhờ đến bất cứ một thứ chính quyền nào trong việc chọn lựa trao giải. Vì vậy được giải Nobel văn chương từ năm 1970 cho tới nay – 1973 – nhà văn Aleksandr I. Solzhenitsyn vẫn chưa được chính thức lãnh giải.

                          Tất nhiên là các báo xuất bản ở nước Nga – tất cả đều là báo Đảng, do Đảng chỉ huy – đều không loan tin Aleksandr I. Solzhenitsyn được giải Nobel văn chương cho dân Nga biết.

                          Thực ra, theo sự tiết lộ của chính Solzhenitsyn với những nhà báo Tây phương đã lén gặp được ông và phỏng vấn ông ở Mạc Tư Khoa, chính quyền Cộng sản Nga không phản đối việc ông đi ra ngoại quốc, nhưng họ muốn ông… đi luôn không trở về nữa. Nếu ông chịu đi luôn, họ sẽ để mặc cho ông đi cùng vợ con. Ông đi luôn không về nữa, họ sẽ nhổ được cái gai trước mắt họ, và họ sẽ có lý do để tuyên truyền với dân Nga: tên văn sĩ bất lương sa đọa đó đã bỏ nước trốn sang Tây phương, tên đó chỉ là tên thèm khát bơ sữa Tây phương, một tên lưu manh trốn tránh trách nhiệm với tổ quốc. Và rồi dân Nga sẽ vĩnh viễn không bao giờ còn được nghe nói đến cái tên Aleksandr I. Solzhenitsyn nữa.

                          Và mặc dù bị chính quyền bạc đãi, bị tù đày, bị cô lập, bị đói khổ và rất có thể là lại bị tù bất cứ lúc nào, Aleksandr I. Solzhenitsyn vẫn nhất định ở lại trên quê hương ông. Ông coi việc bỏ nước đi sống ở ngoại quốc để được yên thân, được no ấm là việc làm hèn nhát. Ông ở lại để tiếp tục tranh đấu chống những bất công, đàn áp ở Nga Xô – không phải ông ở lại vì yêu mến chế độ Cộng sản – và ông chấp nhận tất cả những hậu quả của việc ông làm.

                          Trong một bức thư gửi cho Hiệp hội Những nhà văn Liên Xô, Aleksandr I. Solzhenitsyn viết:

                          "… Hiện nay, việc sáng tác của tôi bị bóp chết cứng, cá nhân tôi bị bao vây, cô lập và bôi lọ đủ điều…

                          Nhưng tôi hoàn toàn yên tâm, vì tôi biết tôi đã và sẽ làm trọn sứ mạng nhà văn trong mọi hoàn cảnh …

                          Không ai có thể ngăn cản được sự thực xuất hiện. Riêng tôi, tôi sẵn sàng chấp nhận cái chết để cho sự thực được sống và cho sự tiến bộ của nhân loại.."


                          *

                          Viết về Aleksandr I. Solzhenitsyn và The First Circle khi tác phẩm này được ấn hành ở Hoa Kỳ, phê bình gia Harrison E. Salisbury đã viết trên tờ The New York Times Book Review:

                          "Đây là tác phẩm tiếp tục tập Hồi ký của Dostoyevsky. Trong thời kỳ Xô Viết cầm quyền ở Nga, người ta đã có rất nhiều những tiểu thuyết viết về đời sống trong lao tù trên đất Nga. Và giờ đây, vóc dáng to lớn của Aleksandr I. Solzhenitsyn nổi bật lên. Cũng như Dostoyevsky, Solzhenitsyn là một kẻ sống sót. Ông cũng đã sống nhiều năm trời trong lao tù và lưu đày".

                          Những nhân vật đàn ông, đàn bà trong tác phẩm của ông đều là những người bằng xương bằng thịt, họ yêu, họ ghét, họ cười, họ khóc, họ trò chuyện, họ ước mơ và đột nhiên ta hiểu rằng thúc đẩy, khủng bố, sa đọa và tàn ác chỉ làm trong sạch thêm tinh thần con người. Cuối cùng, không phải tù nhân là những kẻ bị tiêu diệt dù rằng họ có thể bị mất đời sống. Bọn bị tiêu diệt chính là bọn cai ngục. Bọn đàn áp chính là bọn thất bại …

                          Harrison E. Salisbury là người hiểu biết tận tường về đời sống ở Nga Xô Viết, ông đã từng sống nhiều năm trên đất Nga và chính ông tiên đoán từ năm 1956 rằng Nga Xô và Trung Cộng thế nào cũng đi đến tranh chấp, trở thành tử thù và vì việc này, cả Nga Xô lẫn Trung Cộng đều bắt buộc phải hòa hoãn với Hoa Kỳ.

                          Đọc Tầng đầu địa ngục, ta thấy tình trạng xảy ra đúng như Harrison E. Salisbury nhận xét: những tù nhân như Gleb Nerzhin, Pryanchikov, Khorobrov, những người tù vì không chịu khuất phục nên bị bọn mật vụ đẩy ra khỏi Sharashka vẫn là những con người còn nguyên vẹn những đức tính của con người, tình yêu thương và họ vẫn có thể ngẩng đầu cao nhìn trời. Chúng ta chỉ có thể kính phục họ chứ không thể khinh họ. Trong lúc bọn cai ngục như Abakumov, Yakanov chỉ là những tên hèn nhát, quỵ lụy, nịnh bợ, chúng còn chết sớm và chết nhục nhã hơn ai hết.

                          Aleksandr I. Solzhenitsyn bị tù dưới thời Tổng trưởng Abakumov, ông ra khỏi tù và trở thành nhà văn lớn trong khi Abakumov bị thất sủng và bị bắt nhốt, bị giết như một con quái vật. Theo tôi, những chương tả cuộc gặp gỡ ban đêm giữa hai tù nhân Pryanchikov và Bobyer với Tổng trưởng Abakumov, những chương viết về Stalin trong Tầng đầu địa ngục là những chương hay nhất, những chương tả cảnh Innokenty Volodin bị bắt vào khám đường Lubyanka là những chương rùng rợn nhất.

                          Và lời tù nhân Bobyer nói với Tổng trưởng An ninh Abakumov là một bài học giá trị cho những kẻ cầm quyền ở cõi đời này:

                          "Công dân Tổng trưởng… Ông có thể quát tháo dọa nạt bọn tướng tá dưới quyền ông. Họ có quá nhiều thứ ở đời nên họ sợ ông vì họ sợ mất những cái đó.

                          Còn tôi, tôi không có gì cả, tôi không còn gì cả. Ông không thể hại vợ con tôi, vì một trái bom đã hại vợ con tôi từ lâu rồi. Cha mẹ tôi đều đã chết. Những gì tôi có trên thế gian này chỉ là cái khăn tay này, bộ quần áo mất nút tôi đang bận đây. Tất cả đều là của chính phủ phát. Ông đã lấy mất tự do của tôi từ lâu rồi, và ông không có khả năng trả lại tự do cho tôi bởi vì chính ông, ông cũng không có tự do. Năm nay tôi đã bốn mươi hai tuổi và ông bắt tôi tù hai mươi nhăm năm. Tôi đã sống ở trại khổ sai, bị còng tay, bị chó săn canh gác, tôi đã chết đi sống lại nhiều lần. Ông còn có gì để có thể đe dọa tôi nữa? Ông còn có thể làm tôi mất những gì nữa? Ông không cho tôi làm công việc kỹ sư của tôi ư? Cấm tôi làm việc, ông sẽ thiệt nhiều hơn là tôi thiệt.

                          Ông nên hiểu một điều và ông nên chuyển lại điều này cho những kẻ có quyền như ông hoặc cao hơn ông, những kẻ không biết rằng các ông chỉ có thể mạnh khi nào các ông không làm cho người ta mất hết tất cả mọi thứ. Một người bị các ông tước đoạt hết tất cả mọi thứ sẽ không còn nằm trong quyền hạn của các ông nữa. Người đó lại hoàn toàn tự do".


                          *

                          Vì sao người tù Gleb Nerzhin thản nhiên đi khỏi Viện Mavrino mặc dù chàng biết rằng đi là khổ hơn, đi là có thể chết, mặc dù chàng có thể xin ở lại? Bởi vì Nerzhin đã mất tất cả và chàng đã chấp nhận mất hết để được sống thảnh thơi như một con người còn có lương tâm, còn cá tính, còn tự trọng.

                          Câu nói trên đây của Bobyer có thể coi là chủ đề của Tầng đầu địa ngục.

                          1.6.1973
                          Hoàng Hải Thủy


                          *

                          Lời nhà xuất bản

                          Tác phẩm Tầng đầu địa ngục do Nhà xuất bản Đất Mới chúng tôi gửi tới tay bạn đọc được dịch theo bản Anh văn The First Circle do Nhà Bantam Books ấn hành. Quyển này dày 674 trang và gồm 87 chương.

                          Như các bạn đã thấy, tiểu thuyết Tầng đầu địa ngục của Aleksandr I. Solzhenitsyn diễn tả cuộc sống mất tự do trong tù ngục của những chính trị phạm Nga trên Liên bang Xô Viết. Chính tác giả từng sống trong những ngục tù này nên những gì ông viết lại đều rất trung thực, rất sống, làm rung động tâm hồn người đọc. Trong truyện, ông viết lại cuộc đời của rất nhiều tù nhân, mỗi tù nhân là một trường hợp đặc biệt, một cảnh ngộ riêng. Vì muốn diễn tả thật nhiều trường hợp bị tù đày nên trong The First Circle có quá nhiều nhân vật không liên lạc gì đến cốt truyện.

                          Với mục đích làm cho cốt truyện được đúc kết hơn, có liên lạc hơn, chúng tôi đã lược bỏ một số trang khi dịch The First Circle sang Tầng đầu địa ngục. Việc lược bỏ của chúng tôi chỉ làm cho tác phẩm thêm trong sáng, chặt chẽ, cốt truyện vẫn còn nguyên, những nhân vật chính vẫn có đủ mặt. Giá trị văn chương của The First Circle, qua bản dịch của chúng tôi, theo chúng tôi nghĩ, chỉ có tăng chứ không giảm.

                          Chúng tôi mong bạn đọc nhận xét, so sánh, nhận biết sự cố gắng của chúng tôi và đồng ý với chúng tôi rằng khi chuyển ngữ một tác phẩm tiểu thuyết ngoại ngữ sang tiếng Việt, đôi khi việc lược bỏ vài đoạn không liên hệ đến cốt truyện là việc làm cần thiết và hợp lý.

                          Trân trọng cám ơn bạn đọc.

                          Nhà xuất bản Đất Mới
                           
                          HẾT
                          Nguồn :Talawas
                          #43
                            Ct.Ly 17.09.2008 19:54:44 (permalink)
                            #44
                              Thay đổi trang: < 123 | Trang 3 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 44 trên tổng số 44 bài trong đề mục
                              Chuyển nhanh đến:

                              Thống kê hiện tại

                              Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
                              Kiểu:
                              2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9