Anh linh thần võ tộc Việt (từ hồi 6)
CDDLT 20.01.2005 17:50:00 (permalink)
Hồi thứ một trăm lẻ sáu

Tử vì đẩu số



Nhà vua quay ra ngoài hỏi một thái giám:
- Hồi chiều ta tuyên chỉ cho người đi thỉnh Tây-Sơn đạo sư. Đạo-sư đã tới chưa?
- Tâu bệ hạ đạo sư tới lâu rồi, nhưng hạ thần thấy bệ hạ bận chính sự nên không dám vào tâu.
Nghe đến Tây-Sơn đạo nhân, Tự-Mai giật mình, tự hỏi:
- Không biết có phải Tây-Sơn lão nhân mà mình đã gặp trên Tản-lĩnh không? Mình cứ chờ xem, lát nữa sẽ biết.
Không phải chờ lâu, Tây-Sơn lão nhân từ ngoài bước vào. Lão chắp tay xá ba xá, chứ không lạy. Nhà vua đối với lão tỏ ra trọng vọng vô cùng. Ông đứng dậy đón lão, rồi mời ngồi xuống chiếc ghế cạnh án thư:
- Nghe đạo sư mới sang Đại-Việt chắc biết nhiều về xứ này, vì vậy trẫm thỉnh đạo sư đến đàm đạo.
Trên mặt Tây-Sơn lão nhân hiện ra vẻ bẽn lẽn:
- Cơ trời thực ảo diệu, bộ máy tạo hoá khéo xếp đặt. Năm nay bốn anh em hạ thần đều gặp hạn xấu. Bắc-Sơn lão nhân đại hạn ngộ Kình, tiểu hạn ngộ Kiếp, Phục. Nam-Sơn lão nhân đại, tiểu trùng phùng tại Hợi ngộ Liêm, Tham.
Nhà vua tính đốt ngón tay:
- Như vậy Bắc-Sơn đạo sư thế nào cũng bị người ta đánh lừa, rồi đến nỗi bị đau đớn thân xác. Còn Nam-Sơn lão nhân không bị thương cũng bị quan sự. À, nhưng Nam-Sơn lão nhân tuổi Bính có Hóa-kị đi với Liêm-trinh thì giải được cái độc Liêm, Tham, chắc chỉ bị thương thôi.
- Bệ hạ thực minh kiến. Còn đại hạn thần ngộ Không, Kình. Tiểu hạn bị Hình chiếu. Thành ra bị thương suýt mất mạng.
Nhà vua đưa mắt nhìn khắp người Tây-Sơn lão nhân:
- Sự thực ra sao? Không lẽ các vị bị người Việt đánh đến bị thương?
- Tâu bệ hạ bọn thần bị lừa, lại được võ lâm Đại-Việt cứu trợ. Họ tiếp đãi anh em thần rất chí tình, thế mới xấu hổ chứ.
Rồi lão thuật lại chi tiết bị Hồng-thiết giáo Tây-vực bắt sứ giả, sửa chiếu chỉ đánh lừa toàn phái Hoa-sơn sang Bắc-biên ra sao. Khi về còn được vua Bà đãi yến, cho uống rượu quý.
Nhà vua nghe xong bật cười:
- Khi vận hạn đến, thì dù minh mẫn như các vị cũng không tránh được. Người Việt cũng rộng lượng đấy chứ. Họ không thù oán, mà còn trợ giúp mình. Thành ra mình mắc nợ họ một món nhân tình lớn. Hôm nay trẫm muốn đạo sư giảng chi tiết về nguồn gốc phái Hoa-sơn cùng sự hình thành khoa Tử-vi cho trẫm nghe lại một lần.
Tây-Sơn lão nhân chắp hai tay vào nhau:
- Phái Hoa-Sơn được thành lập từ năm Thiên-thụ nguyên niên thời Vũ-hậu đời Đường (Canh-Dần, 690), do tổ Trương Hư đạo sư sáng lập. Nguyên tổ là người đọc sách, rồi làm tướng võ. Thấy Vũ hậu chuyên quyền, người có ý định khởi binh. Nhưng vua Duệ-Tông không có chí khí. Vì vậy người cùng một số tướng sĩ bỏ di tu. Sau nhân du ngoạn qua Hoa-sơn, xem cảnh trí hùng vĩ, người mới xây am, dựng đền thờ Tam-thánh, thu đệ tử, lập ra phái Hoa-Sơn.
Nghe Tây-Sơn lão nhân nói, Tự-Mai tỉnh ngộ:
- Hèn chi phái Hoa-Sơn do đạo sĩ cầm đầu, mà lại chủ trương nhập thế. Thì ra nguyên ủy từ ông tổ làm tướng.
- Lúc đầu bản phái chỉ dạy đệ tử về võ công. Trải mấy trăm năm, đến tổ Hy-Di, bản phái thay đổi, dậy đệ tử cả võ công lẫn thiên văn, lịch số. Nổi danh nhất là khoa Tử-vi.
Nhà vua mỉm cười:
- Nhờ khoa Tử-vi, mà bản triều được thành lập. Hồi còn tại thế, tiên đế hằng nhắc đến công ơn của các đạo sư phái Hoa-Sơn, người không tiếc lời xưng tụng. Xin đạo sư cho trẫm nghe về nguồn gốc tổ Hy-Di.
- Vâng, thần xin tâu.
Tây-Sơn lão nhân ngồi ngay ngắn lại:
- Tổ Hy-Di họ Trần, húy Đoàn, sinh trưởng ở phía Nam núi Đại-dữu. Thân phụ của tổ là một nhà Thiên-văn, Lịch-số đương thời. Người sinh vào giờ Tỵ, ngày mười sáu tháng giêng, niên hiệu Cảnh-phúc nguyên niên đời Đường Chiêu-Tông (Nhâm-Tý, 894). Thân mẫu lâm bồn sớm một tháng, nên thời thơ ấu tổ bị bệnh hoạn liên miên. Tuy nhiên tổ rất thông minh, học một biết mười. Trong khi đó gặp phải người anh lêu lổng ham chơi, thường hay đánh đập tiên sinh cực tàn nhẫn.
...Vào năm lên tám, tổ bắt đầu học thiên-văn. Bấy giờ tổ đứng xem phụ-thân quan sát Thiên-hà, để tính nhật thực. Phụ thân phải nhân chia dài hàng mười con số, mà tổ cứ hỏi vặt. Người tìm cách sao cho tổ đừng quấy rầy. Người trao cho tổ máy Trắc-thời-đồ, rồi chỉ lên Thiên-hà:
- Con hãy xem, kia là chòm sao Tử-vi, kia là chòm sao Thiên-phủ. Con hãy đếm xem hai chòm này có bao nhiêu sao?
Thế là tổ ngồi xử dụng Trắc-thời-đồ đếm sao. Thân phụ tổ tưởng rằng ít ra phải mất một giờ tổ mới đếm xong. Không ngờ chỉ mấy khắc sau, tổ chạy vào nói:
- Con đếm hết rồi. Đi sau Tử-vi gồm năm sao. Như vậy chòm Tử-vi có sáu sao. Đi sau Thiên-phủ có bẩy sao, như vậy chòm Thiên-phủ có tám sao.
Từ đấy tổ được phụ thân giảng dạy rất kỹ về khoa Thiên-văn, Lịch số. Năm hai mươi tuổi tổ ngộ đạo làm đệ tử phái Hoa-sơn, bắt đầu học võ công.
Khi thành danh, tổ ngao du khắp thiên hạ, rồi khải ngộ tìm ra khoa Tử-vi.
Nhà vua ngắt lời:
- Trẫm đọc bộ Tử-vi chính nghĩa phần tựa tổ viết rằng: Nhân người học thuyết Âm-dương, Ngũ-hành, Dịch-lý, Hình-tượng, Lịch-số, rồi hợp lại thành khoa Tử-vi.
Nhà vua rót chén sâm thang trao cho Tây-Sơn lão nhân:
- Mời đạo-sư uống cho tinh thần thanh thản.
- Đa tạ bệ hạ.
Tự-Mai không dám thở mạnh, vì nó biết nội công Tây-Sơn lão nhân rất cao thâm, chỉ hấp khí hay gây tiếng động nhỏ lập tức lão khám phá ra liền. Trước khi khởi hành, Khai-Quốc vương dặn nó:
- Đời vua Hùng, quan Lịch-lệnh nhìn Thiên-hà tìm ra phép làm lịch. Sau khi dùng trong hơn ba trăm năm, mỗi năm đều có sửa đổi. Niên hiệu Hồng-bàng thứ năm trăm hai mươi bẩy (Mậu-Thân, 2353 trước Tây-lịch), bấy giờ bên Trung-quốc là niên hiệu thứ năm đời vua Nghiêu; vua Hùng thấy Trung-quốc chưa biết làm lịch, mới sai chép phép làm lịch của người Việt lên lưng một con rùa lớn đem cống. Vua Nghiêu sai quan Thái-sử-lệnh chép lấy, rồi làm ra lịch. Bởi vậy gọi là Qui-lịch. Sau này người Hán nghiên cứu rất rộng về Lich-số. Trong khi đó bên mình chỉ có phái Sài-sơn nghiên cứu khoa này. Gần đây đạo sĩ Trần Đoàn tìm ra khoa Tử-vi, truyền cho Tống Thái-tổ. Học Tử-vi để biết kẻ trung người nịnh, vận số tốt xấu mà mưu đại sự. Nhưng họ dấu diếm, không truyền ra dân gian. Hiện tất cả bí mật đó, họ chép thành sách cất ở Tập-hiền viện. Ta phải tìm cách lấy đem về.
Nhưng từ lúc đột nhập vào đây, giữa rừng sách hàng mấy chục vạn quyển, nó không biết những sách đó để ở chỗ nào. Hơn nữa trong phòng chứa sách không có đèn, làm sao mà tìm. Bây giờ nghe Tây-Sơn lão nhân đàm luận với nhà vua về khoa Tử-vi, nó chỉ hiểu lờ mờ, nhưng đã có chút hy vọng.
Tây-Sơn lão nhân tiếp:
- Sau đó tổ được truyền ngôi chưởng môn.
" Một hôm đang cùng chư đệ tử ngắm Thiên-hà, coi vận số đất nước. Bỗng tổ chỉ lên trời kêu lớn:
- Kìa, quái lạ không kìa.
Đệ tử cùng nhìn theo tay tổ chỉ, thấy sao Tử-vi, Thiên-phủ đi vào địa phận sao Phá-quân và Hóa-kị, mà ánh sáng chiếu xuống Hoa-sơn.
Tổ nói:
- Tử-vi, Thiên-phủ thuộc đế tượng, tức là vua. Tử-vi bao giờ cũng đi trước. Thiên-phủ bao giờ cũng theo sau. Hai ngôi sao này chiếu xuống Hoa-sơn ứng vào anh em một gia đình nào đó, đang gặp thủa tiềm-long. Sau này sẽ làm lên sự nghiệp vẻ vang, vị tới đế-vương. Phá-quân là hao tinh, chủ nghèo đói. Hóa-kị chủ bần hàn, như miệng lưỡi kêu xin. Phá ngộ Kị, ắt nghèo quá phải đi ăn xin. Tử-Phủ ngộ Hao, Kị ứng vào đềm hai vị thiên tử chưa gặp thời, đang lưu lạc hành-khất. Tất cả chiếu xuống Hoa-sơn, chắc ngày mai hai vị thiên tử qua đây ăn mày. Vậy ngày mai, các người theo ta xuống núi cứu giúp người anh hùng đang khốn cùng.
Đệ tử thưa:
- Đệ tử nghĩ, nhân lúc thiên tử chưa gặp thời, ta nên cho người vay nợ. Sau này người thành đại nghiệp, ta đòi, để cứu giúp dân nghèo.
Tổ đồng ý. Hôm sau tổ dẫn chư đệ tử xuống núi, có đoàn người chạy loạn đi qua. Tổ để ý thấy một thiếu phụ gánh hai chiếc thúng, trong mỗi thúng để một đứa trẻ khôi ngô dung quang khác thường. Tổ biết hai trẻ ấy ứng vào sao Tử, Phủ. Tổ hỏi thiếu phụ:
- Này bà ơi. Bà gánh hai vị thiên tử đi đâu vậy?
Thiếu phụ đặt gánh xuống thưa:
- Con tôi đó, vua chúa gì đâu. Chúng đang đói. Từ sáng đến giờ bụng trống không. Tiên sinh bố thí cho chút đồ ăn được không?
Tổ truyền đem cơm chay khoản đãi thiếu phụ cùng hai trẻ. Tổ lại hỏi giờ, ngày, tháng cùng năm sinh của hai trẻ. Tổ bấm số Tử-vi rồi nói với đệ tử:
- Đứa lớn đắc cách Tử, Phủ, Vũ, Tướng, ngộ Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc. Ngặt đại hạn đang ngộ Hình, Kị, Kiếp, Không. Số của đứa nhỏ đắc cách Thiên-phủ lâm tuất, ngộ Tả, Hữu, Khoa, Quyền, đại hạn đang gặp Kiếp, Kị. Vì vậy cả hai nghèo đói trong nhất thời mà thôi.
Một đệ tử thưa:
- Sư phụ! Đệ tử nghĩ, hai trẻ là chân mệnh đế vương. Khi đại hạn gặp Khôi, Việt, Xương, Khúc là lúc thành đại nghiệp. Sư phụ nên giúp đỡ, mua lấy cảm tình. Khi thiên tử đắc thời ta nhân đó giúp dân.
Tổ mỉm cười nói với thiếu phụ:
- Bần đạo tính số, biết sau này hai con bà làm vua. Khi lên ngôi vua, tất cả giang sơn vạn dậm đều thuộc về con bà. Vậy bà bán giải núi Hoa-sơn này cho bần đạo, lấy tiền mà tiêu.
Thiếu phụ tưởng tổ điên khùng mới mua núi, nên đồng ý bán ngay. Bởi thiếu phụ không biết chữ, bà xé vạt áo hai con quấn vào đôi đũa, nhét trong ống, coi như văn tự... Tổ trao cho bà mười nén vàng.
Nhà vua bật cười:
- Thiếu phụ đó tức là Chiếu-Huệ thái hậu(1). Còn hai trẻ sau thành đức Thái-tổ, Thái-Tông nhà trẫm. Có phải vậy không?
- Tâu bệ hạ đúng thế.
- Vì vậy sau này suốt một giải Hoa-sơn, triều đình, cũng như quan lại địa phương không được quyền thu thuế. Nhưng không biết từ năm nào?
- Tâu bệ hạ năm Càn-đức nguyên niên (Quý-Hợi, 963), quan trấn thủ vùng Hoa-sơn tâu về triều rằng : Có đạo sĩ tên Trần Đoàn, tự Hi-Di bao dưỡng dân chúng khắp vùng Hoa-sơn không nộp thuế. Đạo sĩ nói rằng Hoa-sơn là đất riêng của ông, đã được thiên-tử bán cho rồi. Đức Thái-Tổ nổi giận, sai bắt tổ giải về triều. Vì tổ có đức, võ công cực cao nên các quan không dám trói, còn cấp lừa cho cỡi về kinh. Trên đường đi, tổ làm bài phú Tử-vi cốt tủy.
Nhà vua gật gật đầu:
- Khi giảng bài phú Tử-vi cốt tủy cho trẫm, Định-vương có nói: Vì bước chân lừa gập ghềnh, nên nhịp điệu bài phú bị ảnh hưởng.
Nhà vua đọc lớn:

"Phượng hàm thư nhi phùng Nhật, Nguyệt,
Tam kỳ lai nhập Tử, Sinh,
Nam tất uy bá quyền danh,
Nữ tất danh đằng xướng vũ.
Mã ngộ Khốc nhi phùng Hình, Quyền, Lộc, ấn tại quan cung,
Võ tất thăng ban đệ nhất, văn hội chuyển đạt Tam-công. (2)


- Người có Thiên-mã, Thiên-khốc thủ mệnh, cung quan có Điếu-khách, Thiên-hình, làm quan võ tới bậc đệ nhất. Cũng mệnh có Mã, Khốc, mà cung quan có Hóa-lộc, Quốc-ấn, làm quan văn tới Tam-công.
Nhà vua gật đầu đọc mấy câu nữa rồi hỏi:
- Cuộc triều hội giữa đức Thái-Tổ với tổ Hi-Di chắc lý thú lắm.
- Vâng. Tổ vào triều kiến. Đức Thái-Tổ hỏi : Đạo sư dù thông thiên, dù võ công cao cũng phải tuân phép nước chứ? Hà cớ phao ngôn rằng mua núi của triều đình?
Tổ tâu:
- Năm nay bần đạo tuổi trên bẩy mươi, đâu dám nói dối bệ hạ? Luật của bệ hạ nói rằng: Đời cha vay nợ, đời con phải trả. Trước đây thái hậu qua Hoa-sơn bán cho bần đạo toàn vùng này. Văn tự thần vẫn giữ.
Tổ trình ống đũa, vạt áo lên. Thái-Tổ truyền đem vào hậu cung hỏi
Chiếu-Huệ thái hậu. Thái-hậu nhớ truyện cũ phán:
- Vị thần tiên ở núi Hoa-sơn đây mà.
Thái hậu kể lại tích xưa. Đức Thái-Tổ và triều thần đều kinh sợ về tài tiên tri của tổ. Truyền lưu tổ sinh lại triều, kính như thầy. Đức Thái-Tổ hỏi về khoa Tử-vi, tổ xuất trong bọc ra bộ Tử-vi chính nghiã dâng lên. Tâu rằng:
- Đây, tất cả tinh nghĩa về khoa Tử-vi. Bần đạo không phải là người đặt ra khoa này. Bần đạo chỉ nhân thấy khoa Dịch-lý, Hình-tượng, Thiên-văn, Lịch-số, Địa-lý đều có uyên nguyên với nhau, mới tước bỏ những phần rườm rà, hợp thành. Với khoa Tử-vi, học tới bậc sơ đẳng, bệ hạ có thể biết kẻ trung, người nịnh, thời nào tốt, khi nào xấu mà mưu đại kế, tránh nhiễu sự. Học tới chỗ uyên thâm, có thể nhân số mạng người thân xấu, dùng loại người nào thì cứu được, cứu bằng cách nào. Thấy kẻ ác, thì dùng người nào, cách nào mới trị được. Còn học tới chỗ uyên nguyên cùng cực, có thể làm đảo lộn thiên hạ, nắm thiên hạ trong tay. Tuy nhiên bần đạo cũng xin dâng bệ hạ một câu: Khi dùng khoa này nên lấy chữ nhân làm gốc, đừng quá ỷ tài, mà đi vào chỗ ác độc tổn âm đức.
Nhà vua cười thích thú:
- Vì vậy từ ngày ấy đến giờ, phái Hoa-sơn được trọng vọng nhất võ lâm Trung-quốc. Phái Hoa-sơn cũng dâng cho triều đình nhiều nhân tài. Trẫm hy vọng kỳ này thiếu niên Hoa-sơn sẽ thành phò mã.
- Đa tạ bệ hạ.
Nhà vua vẫy tay gọi thái giám đang quạt lò sưởi:
- Người vào lấy bộ Tử-vi chính nghĩa cho ta.
Thái giám hỏi:
- Tâu bệ hạ có ba bản khác nhau. Bản Thái-Tổ ngự bút, bản Thái-Tông châu phê và bản Kim-quỹ, không biết bệ hạ muốn lấy bản nào?
- Lấy cả ba bản .
Nhà vua nói với Tây-Sơn lão nhân:
- Bản chính có thủ bút của tổ, đức Thái-Tổ cất vào hộp vàng, gọi là Tử-vi kinh. Người sai quan đại học sĩ chép thành ba bản. Người dùng một bản, ban cho đức Thái-Tông một bản, Tần-vương Đình-Mỹ một bản (3). Người ban chỉ dụ rằng khoa này mỗi đời chỉ có thể truyền cho ba người. Không truyền cho công chúa. Đức Thái-Tổ đọc đến đâu, ghi chú kinh nghiệm sang bên cạnh chính bản, thành bản Thái-Tổ ngự bút. Bản đức Thái-Tông khi học ngự phê bằng bút son, thành bản Thái-Tông châu phê. Đức Thái-Tông sai chép bản Kim-Quỹ thành hai bản. Một ban cho phụ hoàng trẫm, một ban cho Định-vương. Trẫm dùng bản của phụ hoàng. Vì phụ hoàng băng hà khi trẫm còn thơ, nên trẫm phải mò mẫm học lấy. Nay có đạo sư đây, trẫm xin hỏi đạo sư về những chỗ khó hiểu.
Thái-giám trình ra ba cuốn sách khác nhau. Nhà vua cầm lên một quyển đọc, rồi hỏi:
- Thắc mắc của trẫm về cách Tam-hóa liên châu. Theo trong Tử-vi kinh thì : Tam hoá là Khoa, Quyền, Lộc, khi đóng liền ba cung với nhau. Như vậy khi người tuổi Canh thì Khoa đi với Nhật, Quyền đi với Vũ, Khoa đi với Đồng. Vậy hễ tuổi Canh thì đắc cách này sao?
- Tâu bệ hạ không. Gọi là Tam-hóa liên châu khi Khoa, Quyền, Lộc đóng liên tiếp nhau, mà mệnh một hóa, bào một hóa, phụ mẫu một hóa. Như tuổi Canh, bắt buộc phải là Vũ-khúc thủ mệnh. Còn như ba hóa, mà một hóa ở cung mệnh, một hóa ở cung huynh đệ và một hóa ở cung phu-thê thì không phải.
Nhà vua thở phào một cái:
- Vậy mà trước đây trẫm tính một số, gặp Khoa ở phúc, Quyền ở điền, Lộc ở quan, mà cũng tưởng đắc cách Tam-hóa liên châu. Trẫm có một thắc mắc nữa: Trong cùng một giờ, một ngày, một tháng, một năm, có hàng vạn vạn người sinh ra, không lẽ cuộc đời họ cũng giống nhau ư?
- Bệ hạ hỏi thực phải. Điều này có chép trong Tử-vi kinh, nhưng bệ hạ không ngự lãm mà thôi.
Nhà vua cầm cuốn sách lên:
- Trẫm đã đọc kỹ, đọc đến thuộc làu, mà không thấy đoạn ấy. Đạo-sư chỉ cho biết vấn đề này chép ở chương nào.
- Xin bệ hạ mở trang đầu, bài phú Tử-vi cốt tủy, sẽ thấy.
- Quả thực trẫm sơ ý. Khi mở sách, trẫm đọc ngay chương nhất, mà không đọc phần tựa. Thì ra tổ chép ở đó.
Nhà vua trao sách cho Tây-Sơn lão nhân:
- Xin đạo sư chỉ cho.
- Tâu bệ hạ đây.
Nhà vua đọc lớn:

Phú, thọ, quý, vinh, yểu, bần, ai, khổ,
Do ư phúc trạch cát hung.
Thương, tang, hình, khổn, hạnh, lạc, hỉ, hoan,
Thị tại vận hành hung cát.


À, hai câu này trẫm có đọc qua, mà không hiểu rõ cho lắm.
- Không phải mình bệ hạ, mà hầu như những đệ tử Hoa-sơn đời sau, khi xem số đều chỉ chú ý đến những cung Mệnh, Tài, Quan cùng vận hạn. Ít người chú ý đến cung Phúc cũng như cung Tật-ách. Cái chìa khóa khoa Tử-vi là câu này.
- Trẫm chờ đạo-sư chỉ dạy.
- Tâu bệ hạ, cung Phúc rất quan trọng. Nó ảnh hưởng đến ba cung Phu-thê, Tài-bạch, Thiên-di là lẽ đương nhiên. Nó gần như khống chế toàn cuộc đời về: Giầu-nghèo, thọ-yểu, sang-hèn, vinh-nhục, sầu-thảm và khổ-cực. Tùy theo cung Phúc tốt hay xấu mà biết đương số giầu hay nghèo, sống lâu hay chết yểu; sang hay hèn, sang cũng có nghĩa làm quan lớn, có danh tiếng hay không? Tức có vinh không? Rồi cuộc đời bi-ai hay toại chí đắc thế?
- Không ngờ cung phúc quan trọng như vậy. Nhưng trẫm vẫn chưa hiểu rõ hơn về những người sinh cùng giờ, ngày, tháng, năm.
- Tâu bệ hạ, cung Phúc bao gồm nhiều yếu tố cuộc đời. Mà cung Phúc lại ứng vào với ngôi mộ mà đương số được hưởng phúc.
- Trẫm vẫn chưa hiểu. Xin đạo-sư lấy một vài lá số làm tỷ dụ.
- Vâng, thần xin lấy số của Chiêu-văn quan đại học sĩ Vương Tăng cùng với số của Kinh-lược sứ Quảng-Tây lộ Vương Duy-Chính. Cả hai cùng sinh vào giờ Tỵ, ngày hai mươi tháng sáu năm Bính-Tý. Thế nhưng cuộc đời hai vị hoàn toàn khác nhau về chi tiết, nhưng đại thể thì giống nhau.
- Ừ nhỉ, khi bổ nhiệm hai người, trẫm đều xem qua số trước, nhưng trẫm sơ tâm không chú ý đến hai người cùng một số. Cả hai người cùng đắc cách Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương. Mệnh lập tại Dần. Đồng, Lương thủ mệnh, thêm Mã, Lộc, Tang, Hình, Tam-thai. Đồng, Lương là cách làm quan, nhưng đắc cách cực tốt Lộc, Mã giao trì. Tử-vi kinh nói Lộc, Mã giao trì, kinh nhân giáp đệ. Nên hai người tuy thi hai khóa khác nhau, mà cùng đỗ cao cả. Thời thơ ấu của Tăng thì yên ổn, nhung lụa. Còn thời thơ ấu của Chính thì khổ cực đến phải đi làm nô bộc. Cả hai cùng bị người anh ngu si, dốt nát, lêu lổng ghen tỵ, đánh đập. Cả hai năm trước đây vợ đều chết. Tăng tục huyền với con nhà danh gia. Chính tục huyền với con nhà bần hàn. Tăng làm quan tại triều, Chính trấn ngự Nam-thùy.
- Thần xin giải cái khác nhau đó. Cả hai vị cung Phúc-đức do Thái-dương thủ, ngộ Triệt, gặp Kiếp, Đà. Thái-dương chỉ vào ngôi mộ ông nội. Ngôi mộ ông nội của Tăng để vào đầu mỏm núi, hướng ra vòm sông, cảnh trí rất dẹp, giống như ngồi trong cái nghiên bút. Thế đất đó trong khoa Địa-lý gọi là Bút mặc, văn giai. Còn mộ ông nội Chính để vào khu ruộng trũng, phía trước có cồn dâu, trên cồn có tượng thờ hổ đá. Thế đất đó gọi là Bạch-hổ tọa trấn. Vì vậy Tăng thi đậu sớm, làm quan tại triều, chức tới tể thần, ngoài ra còn lĩnh Khu-mật-viện sứ. Còn Chính thi đậu trễ hơn mấy năm, gốc là quan văn, sang làm quan võ, hay Tử-vi kinh gọi là Xuất võ do văn .
Tự-Mai nghe hai người bàn về khoa Tử-vi tuy nó hiểu lỗ mỗ, nhưng trong lòng nảy ra mối lo lắng:
- Làm vua cũng như thống lĩnh môn phái, bang hội, luôn gặp khó khăn là khó biết lòng người, khó biết người, cũng như vận so mà mưu đại sự. Triều Tống có khoa Tử-vi lợi hại thế này, làm sao mình địch lại? Anh cả bảo ta ăn trộm bộ sách này, thực có lý. Được, hôm nay ta vì nước mà ăn trộm. Sau chết xuống âm phủ, Diêm-vương hỏi ta tại sao trộm cắp. Ta đành chịu tội. Dù quỷ sứ có bỏ ta vào vạc dầu ta cũng cam tâm.
Tây-Sơn lão nhân tiếp:
- Cả hai người, đều đắc cách Mã đầu đới kiếm, trấn ngự biên cương đến hai lần. Vì vậy Chính lĩnh kinh lược sứ Quảng-Tây, trấn Nam-thùy. Còn Tăng tuy ở triều, nhưng trong Khu-mật viện, y lĩnh trọng trách Nam-phòng cũng giống như trấn ngự biên cương.
- Trẫm tưởng chỉ một lần thôi chứ. Hai người cùng có cách Kình-dương cư quan tại Ngọ, là Mã đầu đới kiếm.
- Tâu bệ hạ, Thiên-hình, Thiên-mã thủ mệnh tại Dần cũng là cách Mã-đầu đới kiếm. Nhưng vì ngôi mộ ông nội của Tăng thiên về văn, nên tiến trình của Tăng văn nhiều hơn võ. Còn ngôi mộ ông nội Chính thiên về võ nhiều hơn văn, nên ngôi sao võ có dịp nổi dậy.
Lão nhân ngừng lại một lúc, rồi tiếp:
- Hồi thơ ấu, đức Thái-Tổ có người bạn tên Chu Năng. Hai người cùng số Tử-Vi. Cung Phúc-đức có Tham-lang tại Tuất. Ngôi mộ ứng với Tham-lang của đức Thái-Tổ kết phát nên người lập được nghiệp rồng. Còn ngôi mộ ứng với cung Phúc của Chu Năng ở vào chỗ cùng cực xấu, nên Chu cũng sáng nghiệp bằng cách qui dân lập được mấy ấp, được tôn làm hương trưởng, rồi sau khi chết được tôn làm thần Thành-hoàng. Đó bàn về phúc. Cung Phúc-đức bao gồm phần phúc và đức. Hai người cùng một số, nhưng tổ-tiên, ông-bà, bố-mẹ, và bản-thân xây dựng cái thiện-đức, thì đương số được hưởng phú, thọ, quý, vinh nhiều hơn. Phần yểu, bần, ai, khổ giảm. Còn như tiền nhân gây nhiều ác-đức, thì phú, thọ, quý, vinh giảm; mà yểu, bần, ai, khổ tăng.
Nhà vua hiểu ra:
- Như vậy những người cùng số, có cuộc đời hao hao giống nhau. Nhưng tùy theo ngôi mộ ứng với cung Phúc-đức táng ở thế đất kết hay bại, mà phú, thọ, quý, vinh, yểu, bần, ai, khổ khác nhau. Bây giờ tới vấn đề khác. Như số những người chết một lúc như chiến-tranh, đắm thuyền. Không lẽ số những người đó đều đến ngày ly thế cả hay sao?
- Tâu bệ hạ, trong Tử-vi kinh có nói rồi. Thần xin đọc:

Vận con phải thua vận cha.
Vận người không bằng vận nhà.
Vận nhà không bằng vận làng.
Vận làng không bằng vận châu.
Vận châu không bằng vận nước.
Vận nước không bằng vận thiên hạ.


Nhà vua suýt xoa:
- Trẫm hiểu rồi! Trước đây trẫm đọc đoạn này chỉ hiểu lờ mờ. Bây giờ nhờ đạo sư nhắc, trẫm mới vỡ lẽ. Trẫm thử kiến giải xem có chỗ nào sai, đạo sư minh cho. Như hai trẻ cùng số, nhưng thời thơ ấu sống với cha mẹ. Nếu cha mẹ giầu sang, thì dù số nó xấu, vẫn được ấm no. Còn như cha mẹ nghèo khó, thì dù số nó tốt, vẫn bị cơ cực. Đó là vận con phải thua vận cha.
- Bệ hạ kiến giải thực minh mẫn. Rộng hơn chút nữa, một người ở trong làng, dù số tốt hay xấu cũng phải chịu chung số phận của cả làng. Tỷ như hai người cùng số giầu. Một người sống trong làng giầu, thì của cải súc tích. Còn người sống trong làng khó, thì chỉ giầu so với người trong làng, nghĩa là kha khá vậy thôi.
- Trẫm hiểu rồi, khi người ta đi cùng thuyền, giống như ở trong cùng làng. Nếu hơn phân nửa người trong thuyền tận số, thì thuyền đắm. Số còn lại bị chết oan theo. Như vận một châu không có người chết, nhưng vận nước có binh ách, châu cũng chịu chung, ắt có nhiều người chết.
- Không biết bệ hạ đã gặp một số nào giống số của bệ hạ chưa?
- Năm trước đây, trẫm tiếp sĩ tử trúng tuyển kỳ thi, gặp một tiến sĩ tên Chu Hội. Y sinh cùng giờ, ngày, tháng, năm với trẫm. Tại sao trẫm làm vua, đã mười năm, mà nay y mới đậu tiến-sĩ?
- Số của Chu ra sao?
- Y sinh tuổi Canh-Tuất, tháng bẩy, ngày sáu, giờ Dần.
- Như vậy là cuộc đời Chu đúng với lá số đấy chứ. Mệnh y lập tại Ngọ. Thiên-lương thủ mệnh. Cung quan Thiên-đồng gặp Hóa-lộc, cung tài Thiên-cơ gặp Hóa-quyền. Cung phúc có Văn-xương ngộ Hóa-khoa. Năm trước, mười bẩy tuổi, đại tiểu trùng phùng ở cung Thân ngộ Lộc-tồn, Văn-xương, Hóa-khoa. Trong khi mệnh y hưởng cách Tọa-qúy hướng-quý tức Thiên-việt ở mệnh, Thiên-khôi ở tài. Chu đậu đại khoa là phải.
- Tại sao năm ngoái, trẫm không có gì tốt cả?
- Bệ hạ sinh cùng ngày, tháng, năm với y, nhưng không cùng giờ. Bệ hạ sinh giờ Ngọ. Bệ hạ đâu có sinh giờ Dần?
- Rõ ràng lúc trẫm sinh ra, Thái-quốc phu nhân đỡ đẻ, đã ghi như vậy mà. Đạo sư có nhớ lầm không? Em trẫm, do Lý phi cũng sinh cùng ngày, tháng, năm với trẫm mới giờ Ngọ. Sau một ngày, em trẫm qua đời.
Tây-Sơn lão nhân lột mũ bỏ xuống đất, vái ba vái:
- Ngày hôm nay bần đạo muôn thác, tâu rằng bệ hạ sinh giờ Ngọ, để sau này... bệ hạ không bắt tội bần đạo.

Ghi chú
(1) Mẹ của Tống Thái-Tổ, Thái-Tông họ Đỗ. Khi con lên làm vua, phong cho bà làm Chiếu-Huệ thái hậu.
(2)Câu trên trong Triệu-thị minh thuyết Tử-vi kinh chú như sau:
- Đàn ông mệnh tại cung Thìn gặp Thái-dương thủ mệnh, đàn bà mệnh tại cung Tuất gặp Thái-âm thủ mệnh; được Khoa, Quyễn, Lộc củng, thêm sao Tử, cùng Trường-sinh. Nam quyền tới bá. Nữ nổi danh về ca, vũ.
(3) Tống-sử, quyển 242, Hậu-phi liệt truyện trang 8606 chép rằng: Chiếu-Huệ thái hậu lúc sắp băng gọi Tống Thái-Tổ đến bên giường bệnh. Bà hỏi:
- Con có biết tại sao Chu Thế-Tông băng, mà sự nghiệp lại vào tay con không?
Đáp:
- Vì con giữ chức Điểm-kiểm triều Chu.
Thái hậu lắc đầu:
- Không phải.
Nhà vua không sao trả lời được. Thái hậu cật vấn qúa, nhà vua đáp:
- Do tổ khảo trải đến thái hậu tích đức để lại.
Thái hậu lắc đầu:
- Vì con của Thế-Tông còn thơ ấu. Nếu bấy giờ họ Sài có ông vua lớn tuổi, liệu ngôi vua có đến con không. Vậy con đừng đi vào vết cũ nữa. Khi thấy mình già yếu, nên truyền ngôi cho em con là Quang-Nghĩa. Quang-Nghĩa già, truyền ngôi cho em thứ ba là Đình-Mỹ. Đình-Mỹ già, truyền ngôi cho con trưởng của con.
Sau này Tống Thái-Tổ truyền ngôi cho em là Triệu Khuông-Nghĩa tức Tống Thái-Tông. Thái-Tông không muốn truyền ngôi cho em là Tần vương Đình-Mỹ. Đình-Mỹ tài kiêm văn võ, lại có nhiều công lao chinh chiến. Nhưng sau Thái-Tông nghe lời xui khiến của Tể-tướng Triệu Tấn rằng nên truyền ngôi cho con. Ông mật sai các quan vu cho Đình-Mỹ tội phản nghịch, cách hết chức tước, đầy đi xa, rồi cho người ám toán. Khi về già ông lập con đầu lòng làm Thái-tử tước phong Sở-vương. Sở-vương bị ám toán hóa điên. Ông lập con thứ nhì làm Chiêu-Thành thái tử. Chỉ ít lâu sau, Chiêu-Thành bị ám toán chết. Ông định lập Nguyên-Nghiễm lên thay. Nguyên-Nghiễm thấy vua cha trái lời bà, trái lời bác, nên từ chối. Thái-Tông phải lập con thứ ba làm thái tử, truyền ngôi cho, tức vua Chân-Tông. Vua Chân-Tông đức còn kém hơn nữa, truyền ngôi cho Nhân-Tông (Thiên-Thánh) mới có mười ba tuổi, và để cho vợ là Lưu hậu cầm quyền
.

Nhà vua ngơ ngơ ngác ngác nhìn Tây-Sơn lão nhân, rồi nhớ lại dĩ vãng, cùng những lời úp úp mở mở của Định-vương Nguyên-Nghiễm, của Lý thần-phi, của Yến Thù. Nhất là gần đây vương với thái hậu chống đối nhau kịch liệt. Vương tổ chức hệ thống bảo vệ nhà vua cực kỳ chu đáo. Trong khi thái hậu lại xử dụng cao thủ khống chế quần thần. Nhà vua tự hỏi:
- Tại sao ông chú lại lo bảo vệ mình, mà mẹ mình lại bỏ lơ ? Bây giờ đến Tây-Sơn đạo nhân cũng úp mở nói về bí mật đó. Hình như thân phận mình có điều gì không minh bạch. Mình làm tới Hoàng-đế, uy quyền nhất Thiên-hạ mà không tìm ra được, thì còn ngồi trên ngai vàng được không?
Nhà vua thở dài:
- Thôi được, coi như trẫm sinh giờ Ngọ, vậy số của trẫm có gì đặc biệt?
- Như lá số của bệ hạ. Bệ hạ tuổi Canh-Tuất, tháng bẩy, ngày sáu, giờ Ngọ. Bệ hạ đắc cách Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương. Mệnh lập tại Dần, Thiên-đồng, Thiên-lương thủ mệnh.
- Trước đây trẫm tưởng số đó của hoàng đệ. Trẫm tính thử, y không thể nào chết yểu. Hơn nữa y đắc cách Tam-hóa liên châu. Bây giờ mới biết không phải. Nếu như trẫm sinh giờ Tỵ, mệnh lập tại Mão, Vũ-khúc, Hóa-quyền thủ mệnh mới được hưởng cách đó.
- Vâng, Lộc ở Phụ-mẫu, Quyền ở mệnh, Khoa ở Huynh-đệ, như vậy mới là một trong cách Tam-hóa liên châu. Bây giờ trở lại số của bệ hạ. Cung Phúc của bệ hạ cực tốt vì Thái-dương thủ tại Thìn. Tử-vi kinh gọi là Nhật xuất Thiên-môn. Như vậy bệ hạ bẩm sinh do ngôi mộ của tam đại. Tam đại tức đức Thái-Tông. Suốt cuộc đời bệ hạ: Phú, thọ, quý, vinh, yểu, bần, ai, khổ do ngôi mộ đức Thái-Tông kết phát hay không. Có điều Thiên-hình, Hóa-quyền, đóng với Vũ-khúc, Thất-sát ở phụ mẫu, phải xa cách một trong hai thân.
- Chắc vì vậy thái hậu mới đem trẫm giao cho Dương Thục-phi nuôi.
- Tâu bệ hạ, Vũ, Sát, Hình không ứng với việc giao bệ hạ cho Dương Thục-phi nuôi.
Nhà vua cau mặt lại:
- Dường như đạo sư dấu trẫm một điều gì thì phải.
- Tâu bệ hạ không phải bần đạo dấu, mà không thể nói ra. Bệ hạ là cháu, là đệ tử của Định-vương, bệ hạ cứ hỏi Định-vương thì rõ điều bí mật này. Bần đạo chỉ thỉnh cầu: Bệ hạ không thể, và không nên hỏi thái hậu, e người nổi lôi đình.
- Thôi được, trẫm sẽ hỏi Định-vương. Bây giờ đạo sư tính xem vận số năm tới của trẫm ra sao.
- Năm nay là năm Đinh-Mão. Đại vận của bệ hạ đóng ở cung Thìn ngộ Thái-dương miếu địa. Thái-dương lại được Tả, Hữu, Xương, Khúc, Hóa-lộc phò trợ, như vậy là cực tốt. Tiểu vận đóng ở cung Dậu ngộ Thiên-phủ, Kình-dương hãm. Phủ ngộ Kình, e có tiểu nhân hại. Nhưng mệnh bệ hạ có Đồng là phúc tinh, Lương là ấm tinh, lại thêm Khoa thuộc đệ nhất giải thần, vì vậy vẫn vô sự. Lại có Thiên-hình, Hóa-quyền từ Mão chiếu sang. Hình chiếu thì xấu. Nhưng Hình đắc địa ngộ Quyền chủ chiến thắng. Như vậy trong cái tốt có cái xấu. Tốt, bệ hạ mưu đại sự gì dù khó đến đâu cũng thành công. Xấu vì có truyện bất hòa giữa mẫu tử. Một tin vui nhỏ: Cung Mão có Đào-hoa chiếu, bệ hạ ắt có duyên tình kỳ lạ. Tất cả bằng ấy biến cố sẽ xẩy ra nay mai.
Lão tính đốt ngón tay rồi tiếp:
- Năm tới đại hạn ở Thìn. Tiểu hạn ở Tuất, ngộ Tả, Hữu, Xương, Khúc, Lộc trong cách Âm-Dương Thìn, Tuất cực tốt. Nhưng tuổi Thìn, Tuất tối kị hạn tới cung Thìn, Tuất đối nhau. Vì vậy tuy cực tốt, mà cũng bị giảm đi một chút. Thần kính mong bệ hạ nguyện đắc như sở cầu.
Nhà vua nhìn Tây-Sơn lão nhân:
- Như vậy ngày sinh của trẫm lại chính là ngày sinh hoàng đệ. Trẫm sẽ tìm cho ra điều bí ẩn về thân thế.
Trầm tư suy nghĩ một lúc, nhà vua tiếp:
- Bây giờ trẫm có thắc mắc nữa, theo lịch số thì mặt trời từ Đông di chuyển dần sang phía Tây, cứ mười hai giờ là một ngày. Như lúc rạng Đông ở Thái-hồ (4) giờ Thìn thì ở Biện-kinh giữa giờ Mão, trong khi ở Hàm-dương mới giờ Dần, ở Tây-vực lại giờ Sửu. Vậy nếu một người sinh tại Tây-vực vào giờ Sửu, khi lấy số để nguyên giờ Sửu hay đổi lại thành giờ Thìn, giờ Mão? (5)
- Sinh ở đâu, lấy giờ theo đó.
- Xin đạo sư giải rõ nguyên lý?
- Khoa Tử-vi đặt cơ sở trên Thiên-văn, căn cứ vào sự vận chuyển tinh tú trên thiên-hà. Khi sinh ở đâu, thì chịu ảnh hưởng bởi tinh tú. Lúc ra đời, sao này sáng, sao kia tối tức là cái sáng tối ở nơi mình ra đời. Tỷ như số của Chu Hội. Chu sinh tại Thường-sơn vào giờ Dần. Nếu đổi ra giờ Hoa-sơn thì y sinh giờ Sửu. Nào, xin bệ hạ hãy tính số của Chu, nếu theo giờ Hoa-sơn xem nào?
Nhà vua tính đốt ngón tay khoảng một khắc rồi nói:
- Nếu quy về giờ Hoa-sơn, tức giờ Sửu thì mệnh y lập tại Mùi, Liêm-trinh, Thất-sát thủ mệnh, thêm Kình-dương.
- Bệ hạ thấy hai số khác nhau chưa? Đúng số, y là người ôn nhu, văn nhã, bút mặc công danh, suốt cuộc đời tài lộc phi tiễn. Còn quy về giờ Hoa-sơn, y trở thành một tên thợ rèn tàn tật, thô lỗ cộc cằn.
Nhà vua chỉ bút, nghiên, cùng giấy:
- Xin đạo-sư chấm dùm trẫm một lá số. Nhất là định rõ vận hạn sắp tới của đương số, vì đây là điều chính yếu của vận mệnh xã tắc: Nam mệnh tuổi Giáp-Tuất, tháng hai, ngày 12, giờ Dậu.
Tây-Sơn lão nhân lấy tờ giấy, tính đốt ngón tay rồi viết liên tiếp một lúc. Mỗi khi lão viết xong một chữ, nhà vua lại gật đầu. Một lát sau, lão cầm tờ giấy lên, rồi nói:
- Chà số tốt đấy. Bần đạo e đương số không phải người Tống, mà là người ngoại quốc.
- Tại sao đạo sư biết?
Tự-Mai nghe nhà vua hỏi câu đó, nó nghĩ thầm:
- Lão Tây-Sơn đoán đúng rồi. Nếu sai, nhà vua sẽ hỏi : Với lý do nào đạo sư lại cho rằng y không phải người Tống. Nay nhà vua hỏi : Tại sao đạo sư biết đương nhiên công nhận lão đoán trúng.
- Bởi đây là một kỳ nhân, xuất thân bần hàn, rồi lập thành sự nghiệp đế vương. Mà Trung-quốc chỉ có bản triều. Vị đế vương này ắt hẳn thuộc nước khác.
- Đúng thế.
Nhà vua tính đốt ngón tay nói:
- Trẫm đã tính số của y: Mệnh y lập tại Thân, Liêm-trinh, Hoá-lộc thủ mệnh. Tài Tử-vi, Thiên-tướng tại Thìn. Quan Thiên-phủ, Vũ-khúc, Hoá-khoa tại Tý. Lộc-tồn cư Thiên-di. Phá-quân, Hóa-quyền cư Phúc-đức. Nhưng giải không ra.
- Tâu bệ hạ, Liêm-trinh chủ nghèo khó. Vì vậy đương số xuất thân trong gia đình bần hàn. Đúng ra Liêm ngộ Hóa-lộc cũng không đến nỗi khổ cho lắm. Nhưng Liêm, Lộc lại bị Tuần, Triệt phá mất. Đương số bị cả Tuần lẫn Triệt đương đầu. Tử-vi kinh nói: Tuần, Triệt đương đầu, thiếu niên tân khổ . Kết hợp Liêm thủ mệnh, thêm Tuần, Triệt đương đầu, vì vậy hồi niên thiếu trải qua thời kỳ cực khổ, đến nỗi phải đi làm đầy tớ cho người.
- Ừ, có thế chứ, vậy mà trẫm nhìn không ra.
- Cung Phúc-đức có Phá-quân, Hóa-quyền thủ mệnh, lại thêm Thiên-hình đắc địa. Phá-quân thuộc võ cách, thêm Hình, Quyền thì sẽ khởi đầu bằng võ nghiệp. Cung quan cực tốt: Thiên-phủ thuộc đế tượng. Vũ-khúc thuộc võ cách. Hóa-khoa phù cho Phủ-Vũ công danh lên cao đến tột đỉnh thiên hạ, vị tới đế vương. Cho nên người này lúc đầu làm quan võ, rồi được tôn lên làm vua, giống như đức Thái-Tổ nhà ta.
- Thế người này có được bầy tôi trung thành chăng?
- Tâu cung nô có Nhật, Nguyệt thủ tại Sửu. Phù trợ có Xương, Khúc, Khôi, Việt. Cả bốn sao này chủ học hành, khoa cử. Vậy người này được sư phụ, cùng bạn hữu dạy dỗ, rồi phù trợ mà thành nghiệp lớn. Tuy nhiên cung nô còn có Hóa-kị. Hóa-kị tuy xấu, nhưng gặp Nhật, Nguyệt rất tốt. Mệnh người này do Liêm-trinh tọa thủ, đúng ra là người ác độc. Nhưng cung nô có Kị. Mà Kị có khả năng giải tính ác của Liêm. Vậy người này nhờ thầy dạy dỗ, bỏ được tính ác, thành người thiện.
Nghe Tây-Sơn lão nhân giải lá số, Tự-Mai kinh hãi:
- Chà! Tống có khoa này lợi hại quá. Họ biết hết những gì đã và sắp xẩy ra cho các tướng tá, đại thần của họ đã đành. Họ còn biết rõ từng ly từng tý về kẻ thù nữa.
Nhà vua hỏi:
- Bao giờ người này chết?
Tây-Sơn lão nhân lẩm nhẩm tính một lúc rồi nói:
- Y sắp chết rồi! Chỉ ba tháng nữa thôi. Hiện y đang khỏe mạnh, nhưng sang năm tới thì chết.
Mặt nhà vua hơi nhăn:
- Đạo sư tính lại một lần nữa cho thực kỹ.
- Đây! Bệ hạ xem: Năm tới là năm Mậu-Thìn, đương số năm mươi sáu tuổi. Đại hạn đến cung Thiên-di gặp Tham-lang, Lộc-tồn, Thiên-không (6) lưu niên Thiên-mã, tức cách rất độc : Lộc đảo, Mã đảo, Thiên-không. Tiểu hạn tới cung Tuất ngộ Thái-tuế, Thiên-hình thêm lưu Thái-tuế ở Thìn chiếu sang thành Lộc đảo, Mã đảo, ngộ Thái-tuế chi hợp Kiếp, Không. Chết trăm phần trăm.
Nhà vua gật đầu:
- Như vậy trẫm có thể quyết định chính sách Nam-thùy được rồi.
- Tâu bệ hạ, số của ai thế?
- Của Lý Công-Uẩn.
Tự-Mai kinh hoàng, nó nghĩ thầm:
- Mình phải nói điều này cho anh cả biết, hầu chuẩn bị mới được. Ông vua này biết Thuận-Thiên hoàng đế sắp băng, e sẽ mang quân sang đánh không chừng. Nếu ngài băng, thì anh cả phải hiện diện để giúp Khai-Thiên vương lên làm vua. Bằng không thì rắc rối to.
Nhà vua suy nghĩ một lúc, rồi nói:
- Bây giờ phiền đạo sư tính lại cho trẫm một lá số nữa. Nam mệnh sinh ngày mười hai, tháng ba, giờ Dần, tuổi Tân-Sửu.
Tây-Sơn lão nhân tính đốt ngón tay một lúc rồi nói:
- Dây là số của một anh hùng hiếm có trên thế gian. Nếu bệ hạ được người này phò tá, thì sự nghiệp e không thua vua Vũ nhà Hán, vua Thái-tông nhà Đường.
- Trẫm cũng thấy như vậy. Mệnh lập tại Dần các sao lớn tụ cả về đây. Cự-môn, Thái-dương thủ mệnh. Tử-vi kinh nói:
Quyền hội Cự, Vũ anh hùng.
- Đương số tuổi Tân nên Hóa-lộc đi với Cự-môn. Hóa-quyền đi với Thái-dương. Hóa cho nên bốn sao Cự, Nhật, Quyền, Lộc tụ cả một chỗ, tạo thành con người có tư cách anh hùng, hành sự quang minh lỗi lạc. Đương số lại văn võ kiêm toàn, trông rộng, nhìn xa, nhã lượng, cao trí. Tam hợp hội đủ Tả, Hữu, Xương, Khúc, thì sự nghiệp thực không nhỏ.
Nhà vua gật đầu:
- Tỷ như đương số thuộc loại đối đầu với ta. Trẫm phải làm gì để thắng y?
Tây-Sơn lão nhân suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu thở dài:
- Không có cách nào thắng y được cả. Tại sao bệ hạ phải thắng y, mà không thể kết thân với y?
- Trẫm cũng muốn kết thân với y, mà e thái hậu không muốn mới khổ chứ. Vận số của y ra sao?
- Năm nay đại hạn ở Sửu, Thiên-phủ ngộ Hình. Tiểu hạn ở Thân ngộ Văn-xương, gặp những điều bất như ý, nhưng sự nghiệp lên cực cao. Sang năm, tiểu hạn Liêm, Phá ngộ Thiên-không, e công danh gặp nhiều gian truân. Tuy nhiên cuối cùng vẫn vô sự. Chỉ có cung thê lưu niên Bạch-hổ ngộ Nguyệt, Đồng, e vợ con nan toàn.
- Trẫm cũng thấy thế. Thái-âm cư Tý cực tốt, vợ đẹp, học giỏi, nhưng khi lưu hạn ngộ Tang, Hổ thực khó bảo trọng.
- Thần thấy trong triều chỉ Định-vương mới có thể so sánh với người này. Tâu bệ hạ y là ai vậy? Thần mong gặp y để kết thân.
Nhà vua mỉm cười:
- Y... Y đã kết huynh đệ với Định-vương. Y là Khai-Quốc vương bên Đại-Việt.
Tây-Sơn lão nhân bật lên:
- Ái chà.
- Chỉ còn mấy hôm nữa, trẫm sẽ tiếp y. Bây giờ biết y rồi, trẫm sẽ tùy nghi xếp đặt. Rất tiếc Lã Duy-Giản, Tào Lợi-Dụng theo thái hậu chống y. Trẫm khó mà kết thân với y được.
Qua cuộc hội kiến giữa nhà vua với Tây-Sơn lão nhân. Tự-Mai nói thầm:
- Tống có khoa Tử-vi như thế này, thực lợi hại. Mình phải ăn trộm sách của họ mới được.
Nhà vua đứng dậy tỏ ý tiễn khách:
- Bây giờ để đạo sư về nghỉ. Mai trẫm sẽ thỉnh Định-vương, cùng với đạo sư bàn về mấy là số của Đoàn Tố-Trinh bên Đại-lý, rồi quyết định chính sách Nam-thùy.
Tây-Sơn lão nhân đứng dậy cáo từ ra về.
Nhà vua vẫy thái giám:
- Người cất ba tập sách này đi cho trẫm, rồi đốt đèn trong thư phòng, đợi trẫm ăn xong, sẽ trở về đọc sách.
Nói rồi nhà vua đi ra. Tự-Mai đã được Bảo-Hòa cho biết: Hoàng đế ăn uống không có giờ giấc nhất định. Khi đói thì truyền thái-giám, cung nữ dọn lên ăn. Nó nghĩ thầm:
- Ông hoàng đế này chắc ăn ở nơi khác chứ không ăn ở đây.
Thái giám mang ba bộ sách cất vào chỗ cũ. Y thắp lên mười ngọn nến cực lớn, rồi đốt trầm. Thư phòng sáng rực. Xong công việc y sang phòng bên cạnh ngồi chầu chực.
Tự-Mai từ trên giá sách nhảy xuống như chiếc lá rụng. Nó lấy cả ba bộ Tử-vi chính nghĩa dấu vào bọc. Tò mò, nó nhìn sang bên cạnh, thấy toàn cách sách nói về Lịch-số.
Nó nói thầm:
- Lịch Trung-quốc gốc từ Quy-lịch của triều Hồng-bàng. Cho đến thời Lĩnh-Nam, Tư-đồ Phùng Vĩnh-Hoa soạn lịch cho vua Trưng đã chia năm làm hai mươi bốn tiết, cùng tính nhật thực, nguyệt thực cực chính xác. Mã Viện chiếm Lĩnh-Nam rồi y chở hết sách nghiên cứu về lịch dâng cho vua Quang-Vũ. Từ đấy lịch Trung-quốc đổi đến hai mươi bẩy lần. Ta cần lấy hết sách của họ mang về cho lịch quan nghiên cứu xem có gì hay hơn không?
Nó đếm : Từ Thái-sơ lịch pháp của Đặng Bình đời Hán. Càn-tượng lịch pháp của Lưu Hồng cho tới Minh-Thiên lịch pháp của Lưu Tông mới soạn xong, gồm hai mươi bẩy bộ. Nó xé khăn choàng cổ bện thành sợi dây, bó lại rồi vác lên vai, vượt qua cửa sổ ra ngoài.
Nó tiến thẳng đến chỗ Mỹ-Linh, Thiệu-Thái núp. Hai người từ bóng tối nhảy ra hỏi:
- Việc xong chưa mà về sớm vậy?
- Xong một nửa. Anh Thiệu-Thái mang về đi. Để chị Mỹ-Linh ở lại canh chừng được rồi.
Trao bọc sách cho Thiệu-Thái rồi Tự-Mai theo đường cũ trở về, nó lại leo lên núp trên nóc kệ sách. Nó thấy nhà vua đã trở về, đang ngồi đọc sách. Nó nghĩ thầm:
- Ông vua này ăn uống gì mà mau như ma đói vậy à?




Ghi chú,
(4) Thái-hồ thuộc Tô-châu, Thượng-hải, nằm sát bờ biển phía Đông của Trung-quốc, thuộc kinh-tuyến thứ bẩy, cùng giờ với Đại-Việt.
(5) Như ngày nay, người Việt sinh ở Paris giờ Tý, trong khi ở Hoa-sơn là giờ Mão. Khi lấy số nên lấy giờ Tý hay Mão? Theo Tử-vi kinh phải lấy giờ Tý.
(6) Xin lưu ý độc giả: Tây-Sơn lão nhân cùng vua Nhân-Tông tính Tử-vi theo chính phái: Không có sao Địa-không, mà chỉ có sao Thiên-không. Thiên-không an như sao Địa-không, chứ không đứng trước Thái-tuế một cung. Đại hạn thứ nhất ở cung Phụ-mẫu, hoặc Huynh-đệ, chứ không phải ở mệnh. Còn Hỏa, Linh cũng an khác:
* Tuổi Thân, Tý, Thìn: Hỏa ở Dần, Linh ở Tuất.
* Tuổi Dần, Ngọ, Tuất: Hỏa ở Sửu, Linh ở Mão.
* Tuổi Tỵ, Dậu, Sửu: Hỏa ở Mão, Linh ở Tuất.
* Tuổi Hợi, Mão, Mùi: Hỏa ở Dậu, Linh ở Tuất.


<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 08:06:06 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 20.01.2005 17:51:13 (permalink)
    Hồi thứ một trăm lẻ bẩy


    Ngậm đắng, nuốt cay


    Thiên-Thánh hoàng đế lên tiếng gọi:
    - Các người đâu?
    Hai thái giám vào. Nhà vua nói:
    - Các người tâu với Hoàng-hậu rằng đêm nay quốc sự đa đoan, trẫm ngự tại đây. Còn thị vệ cho về nghỉ. Hai con hổ canh gác cũng đủ rồi.
    Ngẫm nghĩ một lúc, nhà vua truyền chỉ tiếp:
    - Người pha nước cho trẫm tắm.
    - Tâu bệ hạ nước đã nấu với Hương-nhu, Bạc-hà, Mộc-hương chờ bệ hạ. Không biết bệ hạ ban hồng ân cho phi tần nào kỳ lưng hôm nay?
    - Trẫm muốn yên tĩnh. Trẫm tự kỳ lấy. Thôi người lui về ngủ đi.
    Thái-giám lui ra.
    Nhà vua đi đi lại lại trong phòng một lúc, rồi mở tráp lấy ra cuốn trục trải lên án thư, chăm chú quan sát. Tự-Mai tò mò không biết trên trục lụa vẽ gì, mà khiến nhà vua nhìn chăm chú đến thế. Quan sát một lúc, rồi nhà vua trịnh trọng ôm cuốn trục lên ấp vào ngực bằng tất cả âu yếm nhất.
    Nó tự hỏi:
    - Trục lụa vẽ gì mà nhà vua yêu thương đến như thế kia. Không chừng hình một giai nhân đây. Y là Hoàng-đế Tống, uy quyền bốn phương, nhất hô bách nặc, muốn cô gái nào mà chẳng được; không ngờ cũng có tư tình tuyệt vọng.
    Nhà vua cuộn cuốn trục lại, rồi lui vào phòng phía sau. Tự-Mai nghe tiếng nước đổ, biết nhà vua đang tắm. Nó buông mình nhảy xuống cạnh án thư, tay mở cuốn trục lụa xem. Bất giác nó ngẩn người ra, vì trong trục vẽ hình Lý thái phi sống động như người bên ngoài. Nhận được nét bút của sư huynh Trần Trung-Đạo, nó nghĩ thầm:
    - Rõ ràng nhà vua do Lưu hậu sinh ra, mà ông ta lại thương nhớ Lý thái phi như thế này, thực kỳ lạ. Tại sao Lưu hậu ngăn cấm Lý thái phi gần nhà vua?
    Nhớ lại nhiệm vụ, nó buông cuốn trục, lạng người vào phòng tắm. Một mùi hương dễ chịu xông lên mũi. Nó khen thầm:
    - Thái y của hoàng đế biết hầu hạ đấy chứ. Y dùng mấy thứ hương liệu nấu nước thế này, dù mệt mỏi, sau khi tắm cũng cảm thấy khoan khoái.
    Nhà vua trong tư thế trần truồng đang đứng trước tấm gương lớn, nghẹo đầu ra sau nhìn vết chàm trên mông phải của mình, nên không biết Tự-Mai vào. Nhìn chán, nhà vua quay lại định mặc quần áo. Chợt thấy một bóng lạ in trước mặt. Ông cho rằng bóng mình. Nhưng ông hiểu ngay không phải. Vì bóng ông đang lồng lên tường. Còn bóng này của một người ngồi. Bất giác ông quay lại: Trước mặt ông một người ngồi bất động như pho tượng. Nhà vua kinh hãi tự hỏi:
    - Ta đã cấm không cho ai vào, tại sao người này cả gan dám ngồi đây? Y mặc quần áo thái giám, nhưng sao ta chưa thấy mặt y bao giờ?
    Nhà vua lên tiếng hỏi:
    - Người là ai mà lớn mật dám vào đây?
    Tự-Mai vẫn ngồi bất động.
    Nhà vua tưởng ma quái hiện hình, bất giác chân tay ông bủn rủn:
    - Nếu mi là ma chết oan, hãy hiện hồn trong giấc mộng. Trẫm sẽ xử cho. Nơi này không phải chỗ người tới được.
    Tự-Mai vẫn không trả lời. Nhà vua vội lấy áo quần mặc vào. Nhanh như chớp Tự-Mai chĩa ngón tay ra điểm liền hai tiếng véo, véo vào huyệt Dương-trì ở cườm tay nhà vua. Hai bàn tay nhà vua tê liệt, quần áo rơi xuống. Ông quát:
    - Thì ra người là người. Người định làm gì đây?
    Tự-Mai lại chĩa ngón tay điểm một tiếng véo nữa trúng huyệt Á-môn. Nhà vua bị câm, không nói lên lời. Tính quật cường nổi dậy, nhà vua co chân phóng một cước vào ngực nó. Nó chĩa ngón tay điểm vào huyệt Phong-thị lập tức chân nhà vua tê liệt. Ông ngã ngồi xuống chiếc ghế, đưa con mắt hằn học, lo sợ nhìn nó.
    Tự-Mai nở một nụ cười. Nó cầm con hổ bằng ngọc bích bầy trên án thư lên, rồi vận tay bóp mạnh. Con hổ biến thành bột. Nó từ từ trải bột rơi xuống nền nhà:
    - Tôi hứa không làm khó dễ bệ hạ. Nhưng tôi yêu cầu bệ hạ không được tri hô lên. Nếu bệ hạ giữ lời hứa, tôi giải huyệt cho bệ hạ. Nhược bằng bệ hạ cưỡng lời, tôi sẽ bóp bể đầu bệ hạ như con hổ này.
    Nói rồi nó ướm bàn tay lên đầu nhà vua, bóp nhè nhẹ. Nhà vua kinh hãi run lật bật. Nó xoa tay vào sau cổ nhà vua. Lập tức huyệt đạo được giải. Nhà vua hỏi:
    - Thiếu hiệp là ai, vào đây với mục đích gì?
    - Tôi là người Việt, không phải người Hán. Tôi biết người ta sắp sát hại bệ hạ, sau khi vu cho bệ hạ đủ tội: Hôn ám, hồ đồ. Bệ hạ băng hà là lẽ đương nhiên. Nhưng triều Tống sẽ vào tay bọn Hồng-thiết-giáo mới tiếc.
    - Trẫm không tin.
    - Được, tôi sẽ vì bệ hạ mà nói. Âm mưu sát hại bệ hạ do nhóm Hồng-thiết-giáo chủ động. Bệ hạ là thiếu niên nhân từ, thế mà sau khi bị giết chết rồi, lịch sử còn ghi tên bệ hạ là đứa con đại bất hiếu. Vì vậy tôi phải cứu giá.
    - Tại sao thiếu hiệp lại cứu trẫm?
    - Vì tôi muốn có lợi trong việc này.
    - À, thì ra thiếu hiệp muốn làm quan. Kể ra với võ công của thiếu hiệp cũng xứng tài đại tướng.
    - Không, tôi không thủ lợi cho tôi, mà muốn Tống, Việt đều có lợi. Cho nên tôi tới đây thương lượng với bệ hạ những điều trọng đại sao cho dân hai nước hạnh phúc.
    Nhà vua nói:
    - Thiếu hiệp giải huyệt cho trẫm. Trẫm mặc quần áo đã rồi hãy thương lượng. Chứ cơ thể trẫm trần truồng như thế này, còn ra thể thống gì nữa.
    - Không vội. Câu của tôi muốn hỏi bệ hạ: Bệ hạ có muốn biết rõ tại sao trên mông phải của bệ hạ lại có hình một bông hoa, với chữ Lý không? Tại sao từ Định-vương, Yến Thù cho tới Tây-Sơn lão nhân đều úp úp mở mở hé lộ cho bệ hạ biết về một bí ẩn của thân thế bệ hạ? Theo tôi nghĩ, bệ hạ muốn biết minh bạch hơn.
    - Đó là điều từ khi khôn lớn trẫm muốn biết, nhưng không ai giải thích cho trẫm thỏa đáng cả. Mãi gần đây hoàng thúc, Yến đại học sĩ với Tây-Sơn đao sư cùng hé lộ cho trẫm biết đôi chút mà thôi. Trẫm còn kinh ngạc hơn: Nếu trẫm có điều cơ mật về thân thế. Tại sao suốt mười tám năm nay không ai nói gì. Mà gần đây chẳng hẹn, ba vị lại muốn tỏ cho trẫm biết?
    - Vì trước kia có ai nói, bệ hạ cũng chưa đủ trí khôn giải quyết. Nói ra sớm e người nói lẫn bệ hạ đều bị họa sát thân. Bây giờ bệ hạ đã lớn tuổi rồi, đủ sức phán đoán. Hơn nữa người ta đang định giết bệ hạ, nguy cơ gần kề, nên ba vị kia, một vị thương yêu bệ hạ như con, một vị là Nho-sĩ trung quân, một vị là đạo-sư nhân từ. Cả ba không hẹn mà cùng quên thân mình, nói cho bệ hạ biết.
    - Tại sao họ không nói trắng đen, mà chỉ nói lờ mờ thôi.
    - Vì điều này tối cơ mật. Nên họ dò dẫm đấy. Nếu bệ hạ tin, họ sẽ nói tiếp.
    - Ba người kia, họ vì trẫm hy sinh, trẫm tin được. Định-vương thương yêu trẫm hơn cả phụ hoàng. Tây-Sơn đạo sư là thầy trẫm. Yến đại-học-sĩ là gan ruột của trẫm. Còn người, người là ai mà cũng vì trẫm hy sinh?
    - Ba người kia chỉ biết bệ hạ có thể gặp nguy hiểm. Còn tôi, tôi biết người ta sắp sát hại bệ hạ đến nơi, nên phải ra tay gấp, hầu kiếm lợi. Tôi sẽ giải thích cho bệ hạ biết tất cả cơ mật về thân thế bệ hạ.
    Nó móc trong bọc ra chiếc hộp bằng vàng, rồi mở nắp để trước mặt nhà vua:
    - Đây, cành thoa in vào mông bệ hạ vào lúc sơ sinh đây.
    Nó xoa tay hai cái, huyệt Dương-trì được giải. Nhà vua cầm cành thoa ướm vào mông. Vết thẹo tuy lớn hơn, nhưng khuôn khổ không khác biệt chút nào cả.
    Tự-Mai nói:
    - Thôi bệ hạ mặc y phục vào. Bệ hạ đừng quên rằng tôi đến đây để cứu giá. Nếu bệ hạ tri hô lên, tôi phải tàn ác với bệ hạ đấy.
    Nó vận âm kình dùng cườm tay chém vào góc cái bàn. Bịch một tiếng, cái bàn bị chặt đứt bằng phẳng như dao cắt vậy.
    - Võ công thiếu hiệp thực kinh nhân. Tại sao lại đi làm thái giám?
    - Tôi yêu một cung nữ, nên hằng đêm vào cấm thành tâm tình với nàng. Chẳng may truyện đổ bể, tôi hút bị giết. May có người cứu tôi thoát nạn. Người ấy khẩn khoản yêu cầu tôi cứu bệ hạ. Vì vậy tôi giả thái giám đến đây.
    Nhà vua mặc quần áo rồi, nói:
    - Chúng ta ra ngoài kia nói truyện.
    Tự-Mai cùng nhà vua sóng đôi ra trước án thư. Nó rót chén sâm thang trao cho nhà vua:
    - Bệ hạ mới tắm xong, thân thể lạnh, uống bát sâm thang này cho khỏe đã.
    Nhà vua tuyệt không thấy Tự-Mai có ác ý, ông yên tâm bưng bát sâm thang uống. Tự-Mai trải cuốn trục có hình Lý thái phi ra, hỏi nhà vua:
    - Tại sao bệ hạ lại phải chờ lúc đêm khuya thanh vắng mới dám ôm hình Lý thái phi vào ngực để tỏ ý thương cảm? Tại sao bệ hạ là người con cực có hiếu. Trong khi thái hậu ghét Lý phi, mà bệ hạ lại yêu thương Lý phi hơn mẹ đẻ?
    - Trẫm cũng không biết nữa. Thiếu hiệp hãy giải thích cho trẫm biết đi.
    - Giản dị lắm. Vì bệ hạ do Lý thái phi sinh ra. Mẹ con cùng giòng máu, nên cả bệ hạ lẫn Lý thái phi đều thương yêu nhau.
    - Trẫm không tin.
    Tự-Mai cười nhạt:
    - Tôi có đủ chứng cớ.
    - Thiếu hiệp cứ nói.
    - Tôi nhắc lại, tôi đến đây để thương lượng. Nếu tôi có đủ bằng chứng bệ hạ do Lý thái phi sinh ra, và hiện đang có âm mưu sát hại bệ hạ với Lý thái phi. Bệ hạ phải thuận với tôi ba điều.
    - Người cứ nói.
    - Điều thứ nhất, bệ hạ triệt trọng binh ở Nam-thùy, bỏ hẳn tham vọng đánh chiếm Đại-lý, Đại-Việt, hầu dân hai tộc Hán, Việt sống trong thương yêu nhau.
    - Điều đó trẫm vẫn ước mơ. Chỉ có thái hậu với một vài đại thần muốn mở rộng Nam-thùy mà thôi. Hiện nay trẫm đã trưởng thành, nhưng quyền thái hậu vẫn giữ, điều này trẫm không thực hiện được.
    - Dễ! Tôi có cách giúp bệ hạ có thực quyền của ông vua.
    - Điều này rất khó. Trước kia tể tướng Khấu Chuẩn đã làm rồi, nhưng thất bại.
    - Xưa khác, nay khác.
    - Xưa thực quyền do tiên đế. Thái-hậu chỉ trợ giúp mà còn không làm gì nổi. Huống hồ nay văn võ bá quan đều do Thái-hậu bổ nhiệm cả. Lại nữa, Thái-hậu dùng dư đảng Nhật-hồ xử dụng độc chưởng khống chế từ ngoài triều cho đến nội cung.
    - Thế nhưng độc chưởng trở thành vô dụng với chúng tôi. Bệ hạ có nhớ việc cách nay mấy tháng Thái-hậu dùng chưởng này đánh thích khách, không những không hại được thích khách, mà còn bị độc chất chạy ngược trở lại, suýt mất mạng không?
    - Trẫm nghe biết vụ đó. Thái-hậu tấn công người ấy ba chưởng. Người ấy vô tình đỡ, chứ không chủ đánh lại. Nếu người ấy đánh thực, e Thái-hậu lâm nguy rồi.
    - Sự thực không phải vậy. Người ấy vào cung vì việc khác, chẳng may gặp Thái-hậu, bị Thái-hậu tấn công người ấy tự vệ mà thôi.
    - Trẫm nghĩ khác, có người muốn cảnh cáo Thái- hậu, mới bầy kế để người ấy nhập cung, rồi phối trí cho gặp Thái-hậu, để Thái-hậu biết rằng độc chưởng không còn là vô địch nữa.
    Tự-Mai nghĩ thầm:
    - Thiếu niên này là học trò của Định-vương có khác. Y thông minh thực, đoán ra thâm ý của anh cả với Định-vương. Trong khi mình phải chờ tới khi anh Thông-Mai nói mới biết.
    - Bệ hạ minh mẫn ít ai bằng. Nhưng cái minh mẫn không có chỗ phát triển cho trăm họ nhờ.
    - Đúng thế. Trẫm vì đạo hiếu mà tự giới hạn mình. Trẫm còn trẻ mà. À, người có biết võ công của kẻ đối chưởng với thái hậu không? Võ công ấy của môn phái nào? Ai đã đối chưởng với Thái-hậu đêm đó?
    - Người sáng chế ra nội công đó họ Trần tên Tự-An.
    - Ủa! Y là người Việt. Hồi Thái-hậu mới lên cầm quyền, có sai sứ sang mời y làm nguyên soái đánh Tây-hạ. Y đuổi sứ về. Trẫm nghe nói, y là bác học về võ thuật đương thời. Người có quen biết y không?
    - Không những quen, mà còn rất thân nữa.
    - Thân đến độ nào?
    - Ông ấy là bố tôi.
    - À, vậy kẻ đối chưởng với Thái-hậu là thiếu hiệp ư?
    - Đúng thế.
    Nhà vua ngồi ngay ngắn lại:
    - Thiếu hiệp biết xử dụng võ công khắc chế Chu-sa ngũ độc chưởng. Thế thiếu hiệp có thể giải được vĩnh viễn độc chưởng này không?
    - Tôi không làm được, nhưng có hai người rất thân với tôi làm được?
    - Trẫm cũng bị trúng độc này. Liệu thiếu hiệp có thể nhờ người trị giúp trẫm không?
    - Được. Nhưng...
    - Điều kiện gì?
    - Tôi đã nói rồi.
    - Được rồi! Trẫm hứa, nếu trẫm nắm thực quyền, trọn đời trẫm sẽ
    triệt trọng binh ở Nam-thùy, không bao giờ xâm lấn Đại-Việt.
    - Đại-lý nữa.
    - Dĩ nhiên. Đại-Lý, Đại-Việt cũng thế cả. Nơi đó tộc Việt sống. Trẫm sẽ thay đổi hết bọn quan lại Nam-thùy cũng như trong triều chủ trương gây hấn giữa hai tộc Việt-Hán. Nhưng điều này hơi khó. Cần phải có sự tương thuận giữa hai nước Tống-Việt. Bây giờ trẫm hứa với người, trong khi bên Đại-Việt gây hấn thì sao?
    Tự-Mai bật cười:
    - Kể từ khi vua Đế-Minh chia thiên hạ làm hai. Nam cho tộc Việt. Bắc cho tộc Hán. Có bao giờ tộc Việt hướng lên Bắc gây rối không?
    - Được rồi. Trẫm tin người, điều kiện thứ nhì là gì?
    - Mở cửa biên giới, cho dân hai nước tự do thông thương, hầu kết chặt tình Hán-Việt đều cùng một tổ. Như vậy tình thân hai tộc sẽ được nối tiếp, sau này khó có thể xẩy ra chiến tranh.
    - Thiếu hiệp thông minh thực. Hai đề nghị đều hợp ý trẫm. Giá thiếu hiệp làm vua Đại-Việt, thì Hán-Việt sẽ hoà thuận đời đời. Còn đề nghị thứ ba?
    - Công nhận quốc hiệu Đại-Việt, cũng như niên hiệu của Đại-Việt hoàng đế.
    - Khi trẫm đã muốn Hoa-Việt sống trong tình anh em, dĩ nhiên phải có điều này. Nào bây giờ người hãy chứng minh rằng Lý thái phi sinh ra trẫm đã.
    - Được, tôi vì bệ hạ mà nói.

    Ghi chú
    Sử chép vua Tống Nhân-Tông (Thiên-Thánh) là một minh quân cực nhân từ, thương yêu dân như con đỏ. Trong thời gian đầu mới lên ngôi (1018-1027) nhà vua còn niên thiếu, Lưu thái hậu buông rèm thính chính, nắm mọi quyền hành. Bà chủ trương mở rộng Nam-thùy, nên trọng dụng bọn hiếu chiến. Khi nhà vua nắm thực quyền, ông cách chức từ tể tướng trở xuống đến bọn quan Nam-trấn hơn ba trăm người, rồi thực thi chính sách ôn hòa với các nước lân bang. Cho nên trong triều không có gian thần, ngoài biên không chiến tranh, dân chúng sống những ngày Nghiêu, tháng Thuấn. Dân Tống sung sướng chỉ thua dân Việt dưới triều Thuận-Thiên. Nhưng các sử gia đời sau không biết tính nhân từ đó của nhà vua do đâu mà có. Chỉ độc giả Anh-linh thần võ tộc Việt biết mà thôi.

    Nhà vua rót một chén sâm thang để trước mặt Tự-Mai:
    - Thiếu hiệp uống đi cho tỉnh. Tiếc quá.
    Tự-Mai chĩa ngón tay vào chén sâm thang. Nước vọt lên thành một tia nhỏ rơi trúng họng nó. Nó uống rồi nói:
    - Đa tạ bệ hạ. Bệ hạ tiếc gì vậy?
    - Ta tiếc vì người là người Việt. Nếu người là người Hán, ta sẽ để người ngồi ở toà Bình-chương cùng ta chung lo sao cho dân hạnh phúc.
    Tự-Mai nắm lấy tay nhà vua cảm động:
    - Tự cổ đa số vua chúa chỉ lo gái đẹp, sung sướng, làm những điều khiến cho dân đau khổ. Trọn đời, tôi mới thấy hai vị hoàng đế lúc nào cũng chỉ lo cho dân hạnh phúc. Bệ hạ là một. Sau này nếu bệ hạ cần, tôi luôn ở cạnh bệ hạ, nhưng tôi không muốn làm quan. À, hiện bệ hạ đang bị bó tay.
    - Người vừa nói hai vị hoàng đế chỉ nghĩ đến dân. Người thứ nhì là ai?
    - Thuận-Thiên hoàng đế của Đại-Việt.
    - Trẫm nghe nói Lý Công-Uẩn cướp ngôi của ấu quân, hiện y làm cho trăm họ Đại-Việt điêu linh vô cùng. Sao thiếu hiệp lại so sánh trẫm với y?
    Tự-Mai lắc đầu:
    - Biên thần của bệ hạ tâu láo đấy. Sự thực như thế này.
    Rồi nó thuật lại những điều ác độc kinh khủng của vua Lê Ngọa-triều. Sau khi vua Ngọa-triều chết, anh hùng Đại-Việt tôn Lý Công-Uẩn lên làm vua như thế nào. Trong mười bẩy năm qua, xá thuế ra sao, dùng đức cai trị dân khiến đạo lý hưng thịnh hơn bao giờ cả. Cuối cùng đại hội Lộc-hà vừa qua lại tôn ngài lên làm vua vĩnh viễn.
    Nhà vua nghe Tự-Mai thuật, ông cau mặt, rồi thình lình đập tay xuống bàn:
    - Trẫm phải cách chức hết bọn biên thần mới được. Trời ơi, từ trước đến giờ chúng coi trẫm như con nít vậy.
    - Không phải mình bệ hạ lầm, mà Định-vương cũng lầm nữa.
    Nó thuật lại việc Định-vương bị biên thần tâu lầm, sang Đại-Việt hống hách ra sao, sau biết sự thực, vương hối hận, rồi kết thân với Khai-Quốc vương.
    Nhà vua hỏi:
    - Thiếu hiệp tiếp cho.
    Tự-Mai hắng giọng rồi nói:
    - Tự cổ, đàn bà Hán hay Việt đều giống nhau. Ai cũng cho rằng mình thương yêu con mình nhất, nên chỉ mượn vú nuôi sữa. Còn dạy đỗ, quản chế, bao giờ cũng tự làm lấy. Nếu Lưu hậu sinh bệ hạ với công chúa Huệ-Nhu. Tại sao người không nuôi dạy, mà giao bệ hạ cho Dương thục phi, giao Huệ-Nhu cho Lý thần phi.
    - Trẫm cũng nhận thấy cái bất thường dó.
    - Không đàn bà nào có thể xa con được. Thế sao Lưu hậu giao bệ hạ với công chúa Huệ-Nhu cho hai vị phi tần nuôi, cũng được đi. Nhưng mỗi tháng chỉ hai lần, lệnh cho hai phi đem bệ hạ với công chúa chầu Lưu hậu một lần? Bệ hạ thử xét lại mà xem, các bà phi của tiên đế, sinh con xong tuyển vú nuôi. Nhưng lúc nào cũng để con ở cạnh. Có đâu bắt con xa cách, tháng thăm đôi lần? Được làm mẹ, dạy con, nuôi con là điều hạnh phúc nhất của đàn bà. Cớ sao Lưu hậu bỏ phế không hưởng?
    - Ừ nhỉ, bây giờ trẫm mới chú ý đến điều đó.
    - Thôi, tôi nói thực hết. Thái-hậu là người của Hồng-thiết giáo.
    - Điều này trẫm biết rồi.
    - Bệ hạ chỉ biết một mà không biết hai.
    - Còn gì nữa?
    - Thế nguồn gốc Thái-hậu ra sao? Bệ hạ thử nghĩ xem, bất cứ con người ta phiêu bạt đến đâu cũng biết rõ nguốn gốc mình: Cha mẹ là ai, họ hàng, quê quán. Tại sao Thái-hậu lại không biết mình họ gì, phải lấy họ Lưu của chủ?
    Để cho nhà vua suy nghĩ một lát, Tự-Mai tiếp:
    - Bệ hạ có biết việc những cao thủ Hồng-thiết giáo thường dùng thiếu nữ trẻ làm cây thuốc luyện công không?
    - Trẫm được Khu-mật viện tâu rất chi tiết việc này.
    - Cách đây mấy chục năm, Nhật-Hồ lão nhân lập ra Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Trên cao nhất lão làm giáo chủ.
    - Trẫm biết rất chi tiết vấn đề tổ chức Hồng-thiết giáo. Dưới Nhật-Hồ có Tả, Hữu hộ pháp. Tả tên Đào Tường-Phúc, hữu tên Chu Bội-Sơn. Đào phụ trách giáo chúng vùng Lưỡng-quảng. Chu phụ trách giáo chúng vùng Hồ-Nam. Dưới nữa có Ngũ-sứ. Trung-sứ tên Nguyễn San. Nam-sứ tên Khiếu Tam Bản. Đông-sứ tên Sử-vạn Na-vượng. Tây-sứ tên Bun-Thành. Bắc-sứ tên Nguyễn Thúy-Minh. Thúy-Minh là vợ của Đào Tường-Phúc.
    - Khu-mật viện Tống thực giỏi. Nhưng có một điều Khu-mật viện không biết là: Nguyễn Thúy-Minh tuy làm vợ Đào Tường-Phúc, nhưng Nhật-Hồ lão nhân cũng dùng làm cây thuốc. Vì vậy sau thị có thai sinh ra một gái, không ai rõ y thị là con Nhật-Hồ hay Tường-Phúc. Đứa con gái ấy trao cho giáo chúng Lưu Đình-Mỹ nuôi. Còn thị giả đi tu làm đạo cô, rồi nhập cấm cung được phong lễ nghi học sĩ.
    - Trẫm không tin.
    - Nhưng đó là sự thực. Khi Đặng Đại-Bằng tái lập bang Nhật-Hồ, y không biết gốc tích Lưu hậu. Y cho mười trưởng lão xâm nhập làm thị vệ khống chế Lưu hậu bằng Chu-sa chưởng. Không ngờ Lưu hậu nhờ cha mình khống chế lại, biến mười trưởng lão thành người của bà.
    - Trẫm biết việc này.
    -- Sau, người được giáo chủ Hồng-thiết giáo Đại-Việt sai hai vị Tả, Hữu hộ giáo cùng ba vị sứ giả theo giúp bên cạnh từ khi còn thơ ấu .
    - Trẫm cũng biết rất rõ.
    - Lưu hậu được Tả, Hữu hộ giáo thuộc Hồng-thiết giáo Đại-Việt ở cạnh. Họ truyền Hồng-thiết tâm pháp cho Lưu hậu, để tự giải vĩnh viễn độc chưởng Chu-sa. Nhưng công lực Lưu hậu không đủ, nên chỉ có thể không lên cơn hàng năm mà thôi. Hai người đó cũng được phong Nhập-nội đô-tri. Chính hai người này bầy mưu cho Lưu hậu có con. Họ được Lưu hậu phong chức tước rất lớn.
    - Hai người đó tên gì?
    - Một người tên Đào Tường-Phúc, một người tên Chu Bội-Sơn.
    - Hai người này, một làm giáo chủ Hồng-thiết giáo vùng Quảng-Tây, Hồ-Nam. Một người làm giáo chủ Hồng-thiết giáo Quảng-Đông, Ngô-Việt. Họ đâu có làm quan với bản triều?
    - Khi họ làm quan với Tống, Đào Tường-Phúc đổi tên là Tôn Đức-Khắc. Chu Bội-Sơn đổi tên là Lê Lục-Vũ.
    - À, hai lão đó. Mới đây thái hậu đề nghị với trẫm phong cho Tôn Đức-Khắc làm Tổng-lĩnh thị vệ, cùng Ngự-lâm-quân. Còn Lê Lục-Vũ làm kinh lược sứ Nam-thùy. Hà, nguy thực. Người nói tiếp đi.
    - Cái nguy kinh khiếp khi Lê Lục-Vũ làm kinh lược sứ Nam-thùy. Y sẽ gây sự với Đại-Việt, Đại-Lý. Trong triều Lưu hậu với bọn Tào Lợi-Dụng, Lã Di-Giản lấy cớ đó đem trọng binh xuống Nam. Bấy giờ y mới hòa hoãn với Đại-Lý, Đại-Việt, kéo quân lên Bắc. Trong triều Tôn Đức-Khắc tổ chức chính biến. Giang sơn Đại-Tống sẽ biến thành giang sơn Hồng-thiết giáo.
    Mặt nhà vua tái đi.
    - Nhưng nay nhân Định-vương điều tra ra vụ Lưu thái-hậu sai người hại Sở-vương rồi Chiêu-Thành thái tử, để Tiên-đế lên ngôi vua. Người hại là một trong bốn ma đầu Lê Lục-Vũ, Tôn Đức-Khắc, Khiếu Tam Bản, Sử-vạn Na-vượng. Bốn tên này bị lộ tông tích, chúng định hại bệ hạ, rồi Lưu hậu lập một ấu quân lên thay. Ai cũng tưởng bệ hạ là con Lưu hậu, đâu có nghi ngờ đến việc mẹ hại con. Trong khi bệ hạ là con Lý thái-phi.
    - Trẫm vẫn chưa tin Lý phi sinh ra trẫm.
    - Được, tôi sẽ vì bệ hạ mà nói.
    Tự-Mai biết rằng đã có Định-vương, Tây-sơn lão nhân, Yến Thù, dọn đường rồi. Nó chỉ đánh đòn cuối cùng mà thôi. Vấn đề quá ư trọng đại: Nhà vua được Lưu hậu nuôi dạy, lại bảo vệ đưa lên ngôi vua, rồi phụ chính mười năm qua, tình nghĩa thâm trọng biết bao. Bây giờ bảo nhà vua phản lại bà rất khó. Nếu nhà vua không tin nó. Ông chỉ hé lộ cho Lưu hậu biết, ắt Lưu hậu dùng bọn Tào Lợi-Dụng tổ chức chính biến diệt Định-vương. Trong trường hợp ấy bà có chính nghĩa, tướng sĩ theo bà. Định-vương cùng sứ đoàn e khó toàn mạng. Vì vậy nó gằn từng tiếng:
    - Về nguồn gốc bệ hạ. Khi biết Lý phi mang thai. Lưu hậu cũng vờ mang thai. Cho đến ngày Lý phi lâm bồn, Lưu hậu cũng vờ lâm bồn. Lý phi sinh hoàng nam, Lê Lục-Vũ bắt một hài nhi dân giã đem vào giả làm hoàng nam do Lưu hậu sinh ra. Trong khi Tôn Đức-Khắc pha Di-hồn tán vào với thuốc bổ máu của Lý phi. Lý phi ngủ say rồi, y bắt hoàng nam của Lý phi sang cung trao cho Lưu hậu. Bóp mũi cho đứa trẻ dân dã chết, thay vào chỗ hoàng nam của Lý phi. Hoàng nam do Lý phi sinh ra chính là bệ hạ.
    - Trời! Bây giờ trẫm như người mù được mở mắt. Trước nghe phụ hoàng thuật rằng trẫm với hoàng đệ con Lý phi sinh cùng ngày, cùng lúc, mà hoàng đệ chết ngay. Lý phi tỉnh dậy cho rằng hài nhi chết không phải của người sinh ra. Phụ hoàng tưởng Lý phi mới sinh con, thấy con chết, tinh thần thác loạn mà tưởng tượng con mình còn sống. Thì ra thế.
    Thấy nhà vua đã tin, Tự-Mai phóng vào người ông tia sáng nữa:
    - Bởi vậy mới có việc ghi chú ngày, giờ, tháng, năm sinh của bệ hạ không đúng sự thực. Tây-Sơn lão nhân nhân giải lá số cho bệ hạ đã tiết lộ một điều: Thái hậu không sinh ra bệ hạ. Còn bệ hạ chính là con Lý phi.
    Nhà vua run run cầm tay Tự-Mai:
    - Thiếu hiệp tiếp đi.
    Tự-Mai biết mình đã thành công. Nó tiếp:
    - Bất cứ người đàn bà nào sinh con xong cũng phải cho bú một thời gian, rồi mới từ từ ngừng, giao cho nhũ mẫu nuôi. Nếu Lưu hậu sinh ra bệ hạ, tại sao phải trao cho Thục-phi nuôi ngay? Thục-Phi đâu có sữa?
    - Trước đây trẫm nghe phụ hoàng kể rằng, sau khi sinh trẫm, hậu kiệt sức không có sữa!
    - Bệ hạ quên mất Lưu hậu là một võ lâm cao thủ hiếm có thuộc phái Hoa-sơn, trước khi tuyển cung ư? Với công lực như vậy, sinh con ra sao kiệt lực được?
    Nhà vua gật đầu:
    - Phụ hoàng kể rằng sau khi sinh rồi, tất cả các phi tần đều phải uống thuốc bổ khí-huyết. Riêng hậu không phải uống. Ừ, sinh xong kiệt lực không sữa, mà lại không cần uống thuốc bổ cho khỏe, cũng là điều hãn hữu.
    - Khi Lý phi sinh xong, người lấy chàm bôi trên cành thoa tiên đế ban cho hôm nhập cung, in vào mông hoàng nam. Vì vậy sau khi thuốc mê di hồn hết hiệu lực. Người tỉnh dậy, thấy hoàng nam chết, mà trên mông không có dấu chàm, người cho rằng con người chưa chết. Ban nãy tôi cố ý để bệ hạ trần truồng, rồi đem cành thoa cho bệ hạ so sánh là thế.
    - Cành thoa người trao cho trẫm ban nãy là cành thoa ấy ư? Ai đã trao cho người?
    - Bệ hạ khoan hãy hỏi ai trao cho, để chúng ta có thời giờ nói truyện với nhau. Sau khi kể hết cho bệ hạ nghe, chúng ta có nhiều việc phải làm. Bằng để sáng mai, e tôi không còn thời giờ gần bệ hạ nữa.
    - Trẫm hiểu hết rồi, sau khi Lý phi mang thai lần thứ nhì, thảm kịch cũ lại tái diễn phải không?
    - Đúng thế. Song có điều lần này Lưu hậu lại trao công chúa Huệ-Nhu cho chính mẹ đẻ nuôi làm con nuôi.
    - Thái hậu làm được nhiều việc như vậy, ắt phải có chân tay thân tín giúp. Ngoài bọn Hồng-thiết ra còn ai là nhân chứng không?
    - Những cung nga, thái giám tham đự vào vụ này đều bị Lưu hậu sai Tôn Đức-Khắc giết hết. Nhân chứng quan trọng nhất là thái hậu với Lý phi, rồi tới Sở-vương, Định-vương, Tào Lợi-Dụng, Trương Sĩ-Tổn. Sau này thêm Lã Di-Giản, Trương Kỳ, Hạ Tủng, Trần Nghiêu-Tá, Phạm Ung, Triệu Thực, Yến Thù. Nhất là hai lão Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ. Nhưng nếu bệ hạ hỏi thái phi, người sẽ im lặng, không nói gì đâu?
    - Tại sao?
    - Dễ hiểu. Con mình sinh ra, đau đớn đứt ruột, thế mà lỗi đạo thần hôn định tỉnh, đã là một điều đau đớn cùng cực. Hơn nữa khi lên ngôi, chỉ thí cho chức Thuận-dung, như một cung nga, chứ không được bằng như phi tần, rồi đầy ra coi Vĩnh-định lăng, sống với sương gió như kẻ lưu đầy. Đau đớn, phẫn hận, tủi nhục biết bao? Trong khi kẻ thù thì ngồi trên uy quyền đầy đọa mình. Bây giờ phải nhờ người ngoài nói ra, con mới biết. Sau khi biết không tin thì chớ, còn đến cật vấn, hỏi người mẹ nào chịu cho nổi nỗi phẫn hận đó?
    - Trẫm đi gặp Thái-sư ngay. Thái sư vừa là hoàng thúc, vừa là sư phụ của trẫm, ắt người không nỡ dấu diếm trẫm làm gì?
    - Thái sư là ai?
    - Định-vương Nguyên-Nghiễm.
    - Bệ hạ không nên nóng nảy. Hiện đang có sứ đoàn Xiêm-la, Đại-Việt cùng ba trăm thiếu niên ứng tuyển phò mã ở kinh. Thái-hậu tung thị vệ, tế rác khắp nơi, bệ hạ tìm gặp Định-vương sẽ bị lộ ngay. Tôi đề nghị bệ hạ cùng tôi bí mật đi gặp Lý phi. Bệ hạ núp ở ngoài nghe ngóng. Còn tôi vào thăm Thái- phi. Bệ hạ sẽ rõ ngay. Sau đó chúng ta gặp Thái-hậu.
    - Gặp Thái-hậu? Nếu sự thực trẫm do Thái-hậu sinh ra, mà trẫm đặt câu hỏi về xuất thân, e người nổi lôi đình. Còn trường hợp trẫm do Lý phi sinh ra, người thấy bị lộ, sẽ trở mặt, e Lý phi với trẫm khó toàn tính mệnh.
    - Dễ lắm. Phàm phụ nữ sinh đẻ rồi, da bụng dăn deo, thớ thịt đứt ra. Còn người chưa đẻ bao giờ, da bụng nhẵn, trơn. Bệ hạ tìm cách xem bụng thái hậu thì rõ trắng đen ngay.
    - Khi Thái-hậu đau yếu, trẫm thường thoa bóp cho người. Hiện nay người không đau, làm sao sờ vào bụng được?
    - Tôi có dự trù rồi. Hôm trước tôi đỡ của Thái-hậu ba chưởng, tôi đẩy chất độc chạy ngược vào kinh Dương-minh, nên vào lúc giờ Tý huyệt Thiên-khu, Đại-hoành, Quan-nguyên của người vẫn còn bị đau. Bây giờ đang giờ Tý, bệ hạ lấy lý do nghe tin người đau bụng, tới thăm, rồi dùng bàn tay chà vào năm huyệt này , bệ hạ sẽ thấy ngay sự thực.
    - Trước đây trẫm thăm Thái-hậu rất thường. Nhưng nay sự đã ra thế này, lỡ Thái-hậu trở mặt thì sao? Người mặc y phục thái giám như vậy, có thể theo hộ giá không?
    - Mình tôi thì đấu ngang tay với Thái-hậu. Muốn chắc hơn, tôi sẽ gọi một người thân, võ công cực cao siêu cùng tôi hộ giá bệ hạ.
    - Y là ai?
    - Y là con gái Hồng-Sơn đại phu họ Lê tên Thiếu-Mai. Y thuật y rất cao minh.
    - Có phải Hồng-Sơn đại phu là Lê Long-Mang, con của Lê Hoàn không?
    - Đúng thế.
    - Lê Thiếu-Mai hiện ở đâu?
    - Lê Thiếu-Mai hiện ở phủ Định-vương. Vương sắp xin bệ hạ phong làm vương phi.
    - Thực tuyệt. Từ trước đến nay trẫm tuyển không biết bao nhiêu mỹ nữ cho Thái-sư, mà không người nào được Thái-sư để mắt tới. Bây giờ Lê thị được Thái-sư xin lập làm vương phi, ắt tài sắc phải vẹn toàn lắm.
    Tự-Mai chợt nghĩ ra điều gì:
    - Vậy bây giờ bệ hạ sai một thái giám sang phủ thái sư thỉnh Lê tiểu thư vào cung trị bệnh cho Thái-hậu. Bệ hạ đứng cạnh sẽ có dịp nhìn bụng người.
    - Người nghĩ ra biện pháp này hay thực.
    Nhà vua hướng cửa gọi lớn:
    - Có thái giám nào không?
    Một thái giám chạy vào. Nhà vua trao cho y một lệnh bài:
    - Người sang phủ Thái-sư thỉnh Lê vương-phi mang kim vào cung trị bệnh cho Thái-hậu.
    Tự-Mai hỏi:
    - Hồi nãy bệ hạ đá tôi một đá bằng võ công Hoa-sơn. Dường như chiêu đó tên là Phong suy hoa lạc thì phải. Song nội công lại của Thiếu-lâm là tai sao? Ai là sư phụ của bệ hạ?
    - Người còn trẻ mà kiến thức đã siêu phàm. Trẫm khai tâm với phụ hoàng. Phụ hoàng dạy trẫm võ công Hoa-sơn. Sau trẫm học với hoàng thúc Định-vương. Như người biết, Định-vương theo học với Minh-Thiên phái Thiếu-lâm. Cho nên nội công của trẫm thuộc phái này.
    Tự-Mai chợt nhớ ra một điều:
    - Tôi có một thắc mắc. Vì đạo sư Trần Đoàn liên hệ sâu sa với Thái-Tổ do vậy các hoàng tử đều học võ công Hoa-sơn. Sao Định-vương lại học với phái Thiếu-lâm?
    - Cũng như tất cả các hoàng tử khác, phụ hoàng bắt buộc phải học võ công phái Hoa-sơn. Duy có hoàng-thúc người say mùi đạo đức Thế-tôn nên học võ với phải Thiếu-lâm.
    Thái-giám đi rồi, nhà vua nói:
    - Từ đây đến cung Ôn-đức không xa. Chúng ta đi thôi.
    Hai người rời Tập-hiền viện. Một bọn thái giám, thị vệ đốt đèn lồng đi theo. Nhà vua truyền:
    - Các người ở lại. Trẫm vấn an Thái-hậu.
    Gần tới cung Ôn-đức, Tự-Mai ngạc nhiên vì mọi hôm lúc nào cũng có cung nga, thái giám, thị vệ ứng trực. Mà hôm nay sao vắng lặng vô cùng. Nó kéo nhà vua núp phía ngoài cửa sổ. Có tiếng người nói từ trong vọng ra. Lắng tai nghe, bất giác nó cũng như nhà vua đều giật mình, vì đó là tiếng Lưu hậu cùng Lý phi.
    Tiếng Lý phi nói:
    - Thái-hậu cầm quyền lâu như vậy cũng đủ rồi. Thái-hậu nên lui về hậu cung tĩnh dưỡng tuổi trời chẳng nên ư? Thái-hậu ơi, Thái-hậu nên trả quyền về cho hoàng nhi đi.
    Lưu hậu quát lên:
    - Người nói sao? Người chỉ là chức phi hèn hạ, mà dám gọi Thiên-tử là hoàng nhi ư?
    - Thái-hậu dối tiên đế, dối quần thần, dối sĩ dân bấy lâu, rồi bây giờ tưởng điều man trá đó là sự thực ư? Thái-hậu ơi, hoàng nhi cũng như Huệ-Nhu đều do tôi sinh ra cả. Tôi cắn răng chịu đựng bao lâu cũng đủ rồi.
    Tự-Mai lấy ngón tay thấm nước bọt để lên dấy dán cửa sổ, giấy mủn ra. Nó ra hiệu cho nhà vua nhìn vào. Nó cũng đục hai lỗ khác cùng nhìn. Trong phòng Lưu hậu ngồi đối diện với Lý phi. Mặt Lưu hậu tái đi, tay bà run run:
    - Bằng vào đâu mi dám nói điều loạn này? Chắc mi hóa điên quá. Ta phải chặt đầu mi mới được?
    Lý phi thản nhiên:
    - Không dễ đâu! Chân tay của Thái-hậu có gã Tào Lợi-Dụng cùng bốn tên Lê Lục-Vũ, Tôn Đức-Khắc, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản với mười trưởng lão bang Nhật-hồ. Nhưng Tôn, Lê, Sử, Khiếu cũng như bọn mười trưởng lão đều phản Thái-hậu rồi. Chúng đã đến đây khấu đầu thuật hết mọi truyện.
    Người Thái-hậu run lên:
    - Mi nói láo.
    - Bây giờ Tổng lĩnh thị vệ, Ngự-lâm-quân cũng như Điện-tiền chỉ huy sứ đều đã thay bằng người thân của tôi rồi. Hoàng nhi cũng biết rõ sinh mẫu mình là ai, đời nào y để cho Thái-hậu hại mẹ đẻ mình? Thái-hậu cô thân, thì làm gì được nữa mà hy vọng.
    Thình lình Thái-hậu cười nhạt:
    - Sự đã như vậy, thì hai ta cùng chết cả.
    Thái-hậu vung chưởng tấn công Lý phi. Lý phi né người tránh khỏi, chưởng đó đánh bay tung cửa sổ đi. Lý phi vọt mình ra ngoài, Lưu hậu tung người theo. Vừa đáp xuống đất, Lưu hậu tấn công liền ba chưởng. Lý phi vung tay đỡ. Bình, bình, bình. Cả hai người đều bật lui lại. Lưu hậu cười nhạt:
    - Mi thực đáng tội chết. Mười năm trước mi bại dưới tay ta, xin đầu hàng để được thuốc giải Chu-sa độc chưởng. Mi tuyên thệ rằng tuyệt đối bỏ không luyện võ công nữa. Thế mà... thế mà mi vẫn âm thầm luyện. Hôm nay mi đừng trách ta.
    Lý phi cười nhạt:
    - Có ai ngu như hậu không nhỉ? Con mình đẻ đứt ruột ra, bị người ta cướp đi mất, rồi dùng võ công khống chế, nhục nhằn, mà cứ cúi đầu chịu cả đời ư ? Con dun đạp mãi cái đầu cũng quằn. Trước tôi phải theo gương Hàn Tín, chịu nhục cho con mình vinh hiển, an ninh. Nhưng không lẽ chịu suốt đời? Vì vậy tội vẫn âm thầm luyện võ để chờ ngày hôm nay. Thái-hậu ơi! Nghĩ cho cùng, hoàng nhi chỉ là con thứ sáu của tiên đế. May nhờ Thái-hậu bắt làm con mà được lên ngôi vua. Công Thái-hậu phò tá hoàng nhi bấy lâu, nay tôi nào không biết. Bây giờ Thái-hậu lui về cung đi, tôi hứa sẽ giữ nguyên danh dự cho Thái- hậu.
    Lưu hậu tức quá, không chịu được, vung chưởng tấn công. Chưởng phong của bà có mùi hôi tanh khủng khiếp. Lý phi ung dung trả đòn. Cứ mỗi chiêu Lưu hậu đánh ra, bà lại lui một bước. Tự-Mai mừng thầm, vì Lý phi đã xử dụng thành thạo phản Chu-sa chưởng pháp nó truyền cho bà. Trong khi nhà vua không hiểu, cho rằng Lý phi bị kém thế. Nhà vua hỏi Tự-Mai:
    - Thiếu hiệp có cách nào can hai vị ra không? Lý phi nguy đến nơi rồi.
    Quan sát trận đấu, Tự-Mai thấy công lực Lưu hậu mạnh ơn Lý phi. Nhưng vì Lý phi xử dụng phản Chu-sa độc chưởng, nên Lưu hậu không thắng được bà, Nó an ủi nhà vua:
    - Hoàng thượng đừng lo. Tôi hứa không để Lưu hậu hại Lý phi đâu.
    Trong khi đó Lưu hậu tiếp tục phóng chưởng đánh Lý phi. Lý phi thủy chung không trả đòn. Bà ung dung phát chưởng đỡ. Cứ sau mỗi chưởng bà lui lại một bước. Lưu hậu cười:
    - Lý phi. Mi trúng của ta trước sau mấy chục Chu-sa ngũ độc chưởng, mi chết đến nơi rồi.


    <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 08:08:27 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 20.01.2005 17:52:59 (permalink)
      Hồi thứ một trăm lẻ tám


      Nhớ ơn chín chữ cao sâu



      Lý phi hứ một tiếng:
      - Thái-hậu sao chưa tỉnh ngộ? Phàm khi người ta trúng Chu-sa độc chưởng, chỉ một chiêu đã đau đớn thấu tim gan rồi. Có đâu tới mấy chục chưởng?
      Từ lúc phóng chưởng tấn công Lý phi, Lưu hậu cảm thấy như có gì không ổn, mà bà tìm không ra. Trước kia công lực Lý phi thấp hơn bà. Từ khi bà khống chế phi rồi, thì bỏ không tích cực luyện nữa, nên công lực không tiến, không giảm. Trong khi đó Lý phi âm thầm luyện, nên nay công lực không kém gì bà. Thế nhưng Lý phi chỉ đỡ, mà không phản công là tại sao? Cứ sau mỗi chiêu, tay bà cảm thấy nặng nề, chân khí mất đi một chút.
      Thình lình Lưu thái-hậu lui lại, quay một vòng, rồi xuất một Hồi-phong cước đánh vào ngực Lý phi. Lý phi trầm người xuống cho chân Thái-hậu qua đầu, sau đó thuận thế đẩy tay vào bàn chân bà. Lưu hậu đánh hụt, dư lực làm bà choáng váng, lại thêm lực Lý phi, nên người bà quay tròn. Bà vội nhảy vọt lên cao, lộn một vòng, đáp xuống như con đại bàng, tay chụp lên đầu Lý phi.
      Tự-Mai nhận ra đó là chiêu Loa thành nguyệt chiếu của phái Mê-linh. Võ công Mê-linh xuất từ phái Cửu-chân thời Lĩnh-Nam. Võ công Cửu-chân khắc chế với võ công Trung-nguyên. Mà võ công Lý phi do võ công Trung-nguyên cổ truyền lại. Nếu Lý phi đỡ chiêu đó thì nguy hiểm vô cùng. Nó định la lên, nhưng không kịp.
      Bình một tiếng, Lý phi cảm thấy trời long đất lở, bà lảo đảo lui lại. Lưu hậu không bỏ lỡ dịp, bà xuất chiêu Loa-địa song thu, tay trái vòng như vòng cầu, tay phải đánh từ trên xuống. Hai lực đạo ập vào người Lý phi. Lý phi nào biết trời cao đất dầy là gì, bà lùi hai bước, tay phải đỡ tay trái, tay trái đẩy ngược lên hóa giải kình lực Lưu hậu. Bốn lực đạo gặp nhau, binh một tiếng, Lý phi bật lui ba bốn bước, đầu óc choáng váng.
      Lưu hậu cười gằn:
      - Hôm nay cho con tiện nhân nát thây.
      Tay phải bà quay tròn, tay trái đẩy về trước, đó là chiêu võ công ác độc nhất của phái Mê-linh tên Hải-triều lãng lãng lớp thứ nhất. Lý phi phát chiêu chưởng Nga-mi đẩy vào hông Lưu hậu. Tự-Mai biết mình chậm trễ thì e Lý phi tan xương nát thịt mà chết. Nó nhặt viên sỏi búng đến véo một tiếng, trúng huyệt Khúc-trì tay trái Lưu hậu. Lập tức tay bà bị tê liệt, kình lực phát không ra. Trong khi chưởng của Lý phi ập tới.
      Lưu hậu tưởng kết liễu tính mệnh đối thủ, nào ngờ tự nhiên tay trái đau nhói một cái, kình lực bế tắc. Bà kinh hãi vội nhảy vọt lên cao tránh thế chưởng của Lý phi.
      Lý phi nghe tiếng viên sỏi bay qua tai mình trúng tay Lưu hậu, thì biết rằng Tự-Mai đã hiện diện, ra tay cứu bà. Tinh thần bà phấn chấn lên, bà buông tiếng cười nhạt:
      - Thái-hậu. Thái-hậu đánh tôi bẩy mươi hai chưởng. Bây giờ tôi xin trả lại ba chưởng. Nếu sau ba chưởng mà Thái-hậu không bại, tôi xin chịu thua Thái-hậu. Thái-hậu muốn băm vằm, mổ xẻ sao tùy ý.
      Nói rồi bà hít hơi nói:
      - Chưởng thứ nhất này.
      Bà phát một chưởng cực mạnh, gió lộng ào ào. Bình một tiếng, Lưu hậu cảm thấy như trời long đất lở, bà bật lui liền ba bước.
      Lý phi để cho bà hít một hơi, chân khí bình hòa, rồi nói:
      - Chiêu thứ nhì, thứ ba này.
      Bà phát hai chiêu nữa, Lưu hậu nghiến răng đỡ, bình một tiếng, bà lảo đảo bật lui liền ba bước, cơ hồ đứng không vững. Lý phi hắng rặng một tiếng:
      - Thái hậu đánh tôi bẩy mươi hai độc chưởng, tại sao tôi không việc gì? Tôi nói cho Thái-hậu biết cũng không sao. Cứ mỗi chiêu đỡ, tôi lại đẩy những gì Thái-hậu đánh tôi trở về cơ thể Thái-hậu mà thôi.
      Lưu hậu cảm thấy chân khí muốn tuyệt, thình lình bà bật lên tiếng ái. Toàn thân bà đau đớn giống như hồi bị Tự-Mai đánh. Bà vội nghiến răng hướng Ngọc-thanh chiếu ứng cảnh linh cung dùng khinh công vọt mình tới. Nhưng thấp thoáng, Lý phi đã chặn trước bà. Hai người đụng vào nhau đến binh một tiếng. Lưu hậu loạng choạng ngã ngồi xuống, người run bần bật:
      - Ái, đau quá, giết ta đi.
      Lý phi nhắc bổng Lưu hậu đem vào phòng, để ngồi ngay ngắn xuống ghế hỏi:
      - Trước đây Thái-hậu xuất thân từ phái Hoa-sơn. Hoa-sơn là danh môn chính phái. Ai cũng tưởng chỉ vì Thái-hậu thích uy quyền, học Chu-sa độc chưởng, mà theo Đặng Đại-Bằng phản sư môn đi vào đường tà. Nhưng không phải thế! Suốt bao năm qua, Thái-hậu dùng dư đảng bang Nhật-hồ khống chế triều thần nắm quyền bính. Riêng tôi còn biết rõ hơn: Thái-hậu là con của hai nhân vật uy quyền bậc nhất Hồng-thiết giáo Đại-Việt.
      - Ai cho người tin đó?
      - Thái hậu chưa biết việc Nhật-Hồ lão nhân bị một thiếu niên đả bại. Y lên làm giáo chủ, vì vậy bao nhiêu điều cơ mật trong Hồng-thiết giáo y được báo cáo hết. Y trao tin tức đó cho Khu-mật viện Đại-Việt biết. Khu-mật Đại-Việt sai người sang báo cho tôi biết.
      Bà cười nhạt:
      - Thái-hậu nắm quyền mặc Thái-hậu. Song Thái-hậu làm cho tình mẹ con của tôi bị ngăn cách. Trên thế gian, không tội nào lớn hơn. Đường mà Thái-hậu đi toàn tà khí. Gieo gió thì gặt bão, vay nợ thì phải trả. Nay Thái-hậu tính sao đây?
      Thái-hậu tuy đau đớn, nhưng vẫn quật cường:
      - Đường tà là thế nào? Ta hỏi ngươi, ta đã làm gì tổn hại cho họ Triệu không? Ta đã thấy bọn hủ Nho nguyền rủa Võ hậu, rồi nguyền rủa đàn bà nắm quyền. Ta phải chứng minh cho hậu thế biết rằng đàn bà cai trị dân còn hơn đàn ông. Thời Võ hậu nắm quyền, bà tàn sát tôn thất nhà Đường. Còn ta, ta làm ngược lại. Ta rất thân ái với các công chúa, trọng dụng các thân vương. Hừ!
      Bà ngước mắt nhìn lên nóc nhà:
      - Ước vọng của ta giản dị thôi: Sau khi dùng binh lực Tống chiếm Đại-Việt, Đại-lý rồi thì nào Xiêm, nào Chiêm, nào Chân ta chỉ truyền hịch là bình định. Bấy giờ ta sẽ lên ngôi giáo chủ Hồng-thiết giáo. Ta sẽ hợp với Tây-dương giáo chủ, biến gầm trời này thành Thiên-hạ Hồng-thiết.
      Nghe Lưu hậu nói, nhà vua với Tự-Mai đều rùng mình về mưu đồ của bọn Hồng-thiết giáo.
      Bà ngừng lại run rẩy mấy cái rồi tiếp:
      - Võ hậu dâm tà, cướp ngôi rồi đổi tên triều đại. Ta không thế, một lòng thờ tiên đế, hết tâm hết dạ phù trợ hoàng nhi. Người có thấy không? Hơn mười năm qua, ta làm cho nước giầu dân mạnh. Mấy tên cẩu Nho khuyên ta lên ngôi vua, ta đã đầy chúng đi hết rồi.
      Bà hừ một tiếng:
      - Ta hỏi người, nếu ta không dùng dư đảng bang Nhật-hồ làm sao có thể khiến cho bọn hủ Nho chịu khuất phục?
      Lý phi hỏi:
      - Thái hậu khống chế ta bằng Chu-sa độc chưởng, bắt hai con ta làm con mình. Làm cho mẹ xa con, như vậy còn tội nào nặng hơn nữa?
      - Hai trẻ là con ai, cho đến giờ này không thể bàn đến nữa. Ta hỏi người: Ai đã dạy ngươi phương pháp phản Chu-sa ngũ độc chưởng này? Thì ra thích khách đấu chưởng với ta hôm trước cùng đảng với người. Y là ai?
      - Y là cháu của tôi.
      - Ta không tin. Hôm nay ta bại dưới tay mi là do tự nhiên tay trái bị tê. Ta không phục. Mi khống chế ta, làm ta đau đớn, nhưng ta nhất định không khuất phục. Mi muốn giết ta thì cứ xuống tay đi. Ta về đây.
      Lý thái phi cười nhạt:
      - Như vậy, chỉ nội đêm nay Thái-hậu băng hà mà thôi. Thái-hậu ơi, tôi muốn đền đáp công ơn Thái-hậu bảo trọng hoàng nhi, nên không muốn Thái-hậu chết.
      - Người muốn thế nào?
      Thái-phi để tay lên huyệt Bách-hội Thái-hậu vuốt một cái. Thái-hậu rùng mình rồi đau đớn từ từ giảm. Lý thái-phi ghé tai bà nói nhỏ một hồi lâu. Thái-hậu gật đầu liên tiếp. Thái phi đứng dậy:
      - Thôi kính thỉnh thái hậu về. Chúng ta cứ thế mà làm.
      Lưu thái-hậu run rẩy ra về.
      Lưu thái-hậu ra về rồi, Lý phi cười hì một tiếng:
      - Hoàng nhi, điệt nhi, ra đây mau.
      Nhà vua cùng Tự-Mai vội rời chỗ núp chạy ra. Lý phi vòng tay ôm lấy nhà vua, tay kia bà dắt Tự-Mai vào phòng. Bà nâng cằm nhà vua dậy, tay sẽ tát vào má, trong khi nước mắt bà chan hòa:
      - Hoàng nhi, mười tám năm qua, ta sống trong đau đớn nhục nhằn, để chờ có ngày hôm nay.
      Bà bẹo má Tự-Mai:
      - Hảo điệt nhi, người hay lắm. Nếu người không búng sỏi cứu ta, e giờ này ta không còn tại thế, mà sự nghiệp nghìn năm của Đại-Tống cũng mất theo.
      Tự-Mai biết mẹ con nhà vua trùng phùng, ắt có nhiều truyện muốn nói với nhau. Nó lẻn ra ngoài tuần phòng quanh cung Ôn-đức, vì sợ Lưu hậu có phản ứng gì không. Nó nghĩ thầm:
      - Hôm trước Thuận-Tường nói, nàng ở cung Ôn-đức. Tại sao mình không đi tìm Thuận-Tường nhỉ?
      Tò mò, nó tới phía ngoài một căn phòng có ánh đèn, định chọc thủng giấy đòm vào. Có tiếng thị vệ hỏi:
      - Người là ai, mà dám đến chỗ cấm địa này?
      Rồi một thanh đao chĩa ngay vào cổ nó. Kinh hoàng, nó chìa hai ngón tay cặp cứng thanh đao. Viên thị vệ vận sức giật ra, nhưng thanh đao như cắm sâu vào tường. Tự-Mai vung tay một cái, thanh đao gẫy làm năm sáu mảnh. Viên thị vệ phóng chân đá vào bụng Tự-Mai. Tự-Mai búng tay điểm vào huyệt Dương-lăng-tuyền. Lập tức viên thị vệ ngã lăn xuống đất. Y la lớn:
      - Có gian tế.
      Hoảng kinh, Tự-Mai vội điểm vào huyệt Á-môn của y. Viên thị vệ bị cấm khẩu ngay, nhưng đâu đó vang lên tiếng thanh la báo động. Tự-Mai vội đẩy cửa sổ căn nhà trước mặt. Nó chuồn vào trong như chiếc lá rụng, rồi khép cửa lại. Trong phòng, ánh sáng lờ mờ, nhưng nó cũng nhận ra đó là phòng tắm. Một thiếu nữ đang nằm trong bể nước nóng, khói bốc lên nghi ngút, thoang thoảng mùi thơm.
      Tự-Mai định lùi trở ra. Trong khi thiếu nữ kinh hãi mở to mắt nhìn nó, nàng kinh hoàng đến chết trân. Biết rằng chậm trễ, thiếu nữ sẽ hét lên, thì nguy tai. Tự-Mai xẹt tới phóng chỉ điểm vào huyệt Hạ-quan của nàng. Thiếu nữ vừa mở miệng ra, thì bị phong tỏa, không ngậm lại được nữa. Nàng dùng cùi trỏ thúc vào ngực Tự-Mai. Nó cúi đầu xuống, khòm lưng lại, thành ra cùi trỏ tuy trúng, mà rất nhẹ nhàng.
      Thiếu nữ co chân lên một gối. Tự-Mai vận công chịu đòn. Bình một tiếng, nó cảm thấy ngực đau đớn. Thuận tay nó điểm vào huyệt Phong-thị thiếu nữ. Nàng lảo đảo ngã xuống. Trong đầu óc nó nghĩ thực nhanh:
      - Chết thực, phải làm sao bây giờ?
      Nghĩ vậy nó chụp chiếc khăn lớn bọc lấy thân thể thiếu nữ rồi đặt nàng lên dường. Bấy giờ nó mới có thời giờ nhìn mặt thiếu nữ. Bất giác nó ngẩn người ra, chân tay không cử động được nữa.
      Nguyên nàng là Thuận-Tường.
      Thuận-Tường cũng đã nhận ra nó, nàng chớp mắt lia lịa, không biết ngụ ý muốn nói gì. Nó biết mình có lỗi, ghé tại Thuận-Tường nói nhỏ:
      - Ngu huynh đi tìm muội muội, bị thị vệ phát giác, nên nhảy đại vào. Trong phòng đầy khói nước, vì vậy huynh không nhận ra muội muội.
      Nước mắt Thuận-Tường từ chảy ra tuôn trên má.
      Tự-Mai vô cùng hối hận. Trong lòng nó bồn chồn không tả. Nó nói:
      - Tường muội đừng giận ngu huynh nhé.
      Thuận-Tường vẫn khóc. Tính ngang tàng nổi dậy, Tự-Mai nghĩ:
      - Mình giải khai huyệt đạo cho nàng. Bất quá nàng la lên, mình bị chết chém còn hơn để nàng giận.
      Nó vuốt tay một cái, chân tay Thuận-Tường cử động được. Nàng vung tay tát nó hai cái. Nó không tránh, cũng không vận công chống trả. Thuận-Tường bật lên tiếng khóc.
      Bên ngoài vọng vào tiếng hỏi:
      - Khải tấu công chúa, có gian tế đột nhập. Không biết ngọc thể công chúa ra sao?
      Thuận-Tường chỉ gầm dường, ý bảo Tự-Mai chui vào. Không suy nghĩ, nó lạng người ẩn thân dưới gầm dường. Thuận-Tường nói vọng ra:
      - Công chúa ngủ rồi, các người giải tán đi.
      Bước chân đám thị vệ xa dần. Thuận-Tường mặc quần áo, rồi ngồi trên chiếc ghế bọc nhung. Nàng lên tiếng:
      - Tên to gan lớn mật làm càn đâu, ra đây mau.
      Tự-Mai chui ra, nó thấy Thuận-Tường khóc. Biết không thể một vài câu mà chuộc được lỗi, nó vội quỳ xuống, ôm lấy hai chân nàng:
      - Huynh nhớ Tường muội qúa, nên đánh bạo đi tìm, không ngờ... không ngờ bị thị vệ khám phá ra.
      Thuận-Tường hắt hai tay nó ra:
      - Đứng dậy đi. Người có biết đây là tẩm cung của công chúa không? Ta... ta hầu công chúa nên ở chỗ này. Cũng may công chúa ngủ rồi. Bằng không đại ca với muội bị chết chém hết.
      Tự-Mai đứng dậy. Thuận-Tường đổi giận làm vui hỏi:
      - Đại ca đến đây từ bao giờ? Làm sao qua được màng lưới thị vệ mà vào được ? Nhất định phải có người dẫn tới. Người đó là ai?
      - Là hoàng thượng.
      - Hoàng thượng?
      - Đúng vậy.
      Nó thuật sơ lược cuộc thám thính nhà vua, cùng những gì đã diễn ra ở điện Tập-hiền, cuối cùng là cuộc đấu chưởng của Lý thái-phi với Thái-hậu. Thuận-Tường chăm chú nghe, nàng hỏi lại vài chi tiết, rồi nói với nó:
      - Đại ca nên rời khỏi đây ngay hầu bảo vệ hoàng thượng. Đại ca nhớ nhé: Phải cố ứng tuyển phò mã. Khi điện thí, đại ca xin Hoàng-thượng gả muội cho. Như vậy chúng ta mới có thể đoàn tụ. Thôi đại ca đi đi. Đại ca ở đây, thị vệ khám phá ra, thì cả hai chúng ta cùng cụt đầu.
      - Huynh mà ra bây giờ, e bị thị vệ giết chết.
      - Ngốc ơi là ngốc. Hôm trước Thái-phi có cho đại ca thẻ bài, chứng nhận là thái giám cung Ôn-đức. Thì bây giờ đại ca mang ra, rồi đường đường chính chính di chuyển, hỏi ai dám làm khó dễ?
      Tự-Mai tỉnh ngộ, nó sờ tay vào túi, thẻ bài còn nguyên. Nó nắm lấy tay Thuận-Tường:
      - Muội muội ở lại.
      Thuận-Tường nói vọng ra:
      - Thái giám Mai-Tự mau sang hầu Thái-phi ngay.
      Tự-Mai lên tiếng:
      - Tuân chỉ.
      Nó ra khỏi phòng. Thuận-Tường đóng cửa lại. Tự-Mai đến phòng Lý phi khoanh tay đứng ở ngoài. Một thị vệ cầm đao dí vào cổ nó:
      - Người đi đâu? Ai cho người đến đây?
      - Ta theo hầu hoàng thượng.
      Một cung nữ dơ đèn vào mặt nó, viên thị vệ thấy nó lạ mặt, định hỏi, thì nhà vua nói vọng ra:
      - Mai-Tự đâu. Vào đây ngay.
      Tự-Mai méo mặt trêu tên thị vệ với cung nữ, rồi bước vào trong.
      Lý phi nói:
      - Mọi chuyện coi như xong. Ta muốn giữ kín sự trong cung. Bây giờ điệt nhi nên tìm cách trị bệnh cho Thái-hậu. Ta không ngờ Lưu hậu dám làm lộng đến thế. Nếu điệt nhi chậm trễ mấy hôm nữa thì bà với bọn Hồg-thiết Đại-Việt mưu thí Hoàng-thượng. May sao Thái-sư với Khai-Quốc vương đã khám phá ra. Ta ngồi im nhìn Thái-hậu xử dụng bọn Tào Lợi-Dụng cùng bọn Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản dẫy chết. Khu-mật viện do Định-vương cùng Yến Thù trực tiếp rồi. Bọn Tào không làm gì được đâu. Về Ngự-lâm quân, quan điện tiền chỉ huy sứ Trần Trung-Đạo chỉ huy. Trong nội cung này, thị vệ đã do Vương Văn thống lĩnh, an ninh của ta được bảo đảm.
      Lý phi xoa đầu Tự-Mai:
      - Hài điệt nhi, người hay lắm. Ta hứa việc Thuận-Tường sẽ tốt đẹp. Hồi nãy người làm quấy, bị Thuận-Tường đánh mấy bợp tai có đau lắm không? Thôi người cùng Hoàng-thượng đi đi.
      Tự-Mai kinh hãi, không hiểu sao Lý phi biết nó bị Thuận-Tường tát tai. Nó lưỡng lự định hỏi. Bà cười:
      - Điệt nhi! Người đừng ngạc nhiên tại sao ta biết. Có khó gì đâu? Trong nội cung này không ai đủ bản lĩnh tát trúng người hai cái. Mà nếu có đủ bản lĩnh tát trúng người, thì ắt võ công phải cao thâm lắm. Đã cao thâm mà tát người, thì người còn sống được chăng? Ta thấy má người đỏ lên, in vết ngón tay, tỏ ra người không vận công, không tránh né. Trên đời này chỉ mình Thuận-Tường mới khiến người thích được tát mà thôi.
      Nói rồi bà mỉm cười tỏ ra tha thứ.
      Nhà vua bảo Tự-Mai:
      - Từ đây đến Ngọc-thanh Chiếu-ứng Cảnh-linh cung không xa. Chúng ta đi thôi.
      Nhà vua cùng Tự-Mai rời khỏi cung Ôn-đức, hướng Ngọc-thanh cung. Còn cách xa hơn năm mươi trượng, bên ngoài có lần cổng. Viên thị vệ canh gác hỏi:
      - Ai đó?
      Tự-Mai lên tiếng:
      - Hoàng-thượng giá lâm.
      Viên thị vệ kinh hoảng vội mở cổng, quỳ gối tiếp giá.
      Tự-Mai hô:
      - Miễn lễ.
      Trong cung đèn, nến sáng trưng. Tự-Mai hô:
      - Hoàng thượng giá lâm thỉnh an thái hậu.
      Hai người vào trong, đám cung nga, thái giám đồng loạt quỳ gối. Thái-hậu nằm trong màn người run run, dường như đau đớn lắm. Nhà vua vẫy Tự-Mai lui ra ngoài. Nghĩ lại tình cảm Lưu hậu dành cho mình bấy lâu không khác mẹ đẻ, nhà vua nắm tay Thái-hậu:
      - Thần nhi nghe mẫu hậu bất an, nên thỉnh một danh y tới trị bệnh cho mẫu hậu?
      Thái-hậu thở dài:
      - Vô ích! Thái-y đều bó tay rồi. Vả ta bị trúng độc chưởng của gian nhân, y sĩ thường trị không nổi đâu. Trừ khi thỉnh được Hồng-Sơn đại phu bên Giao-chỉ, mới hy vọng.
      - Tâu mẫu hậu, danh y này là con gái Hồng-Sơn đại phu, hiện là vương phi của Định-vương.
      Thái-hậu ngồi nhỏm dậy:
      - Hoàng nhi cho thỉnh Lê thị đến ngay đi.
      - Thần nhi đã ban chỉ rồi, Lê phi sắp tới.
      Lát sau, có mấy thái giám, cung nữ cầm đèn lồng đi trước, Lê Thiếu-Mai đi sau. Tự-Mai sợ Thiếu-Mai nhận ra nó. Nó lui lại chỗ tối đứng. Một thái giám hô:
      - Lê Thiếu-Mai bái kiến Thái-hậu, Hoàng-thượng.
      - Thỉnh Lê vương-phi vào.
      Lưu thái-hậu đưa mắt nhìn Thiếu-Mai. Bà từng tiếp xúc với hàng triệu người, nên chỉ liếc qua, nhìn tướng đi, bà đã biết Thiếu-Mai còn đồng trinh. Bà chỉ ghế:
      - Mời tiểu thư ngồi. Hà, tiểu thư còn nhỏ tuổi, mà võ công đã cao đến trình độ này rồi, thực hiếm có. Nghe hoàng nhi tâu y thuật tiểu thư cao minh lắm. Vậy tiểu thư hãy trị bệnh cho ta.
      Thiếu-Mai kính cẩn:
      - Đa tạ Thái-hậu quá khen.
      Lê Thiếu-Mai tiến tới cầm hai tay Thái-hậu bắt mạch. Nàng cau mặt tỏ vẻ đăm chiêu, rồi thở dài:
      - Xin thái hậu cho cung nga, thái giám lui, thần mới dám tâu trình.
      Nhà vua đưa mắt một cái, đám cung nga thái giám lui ra hết. Lê Thiếu-Mai tâu:
      - Thần thấy mạch Thái-hậu hồng đại. Hồng-đại thuộc thực nhiệt. Thế nhưng cứ mười tiếng lại chen vào sáu tiếng hư nhược. Như vậy bệnh Thái-hậu không phải bệnh thường. Nguyên Thái-hậu luyện nội công chính đại quang minh phái Hoa-sơn. Sau lại luyện Chu-sa ngũ-độc chưởng. Thành ra trong người Thái-hậu, nội lực chính, tà công phá lẫn nhau. Đêm thuộc âm, thuộc tà. Cho nên khi đêm xuống, âm khí thịnh, tà khí mạnh trấn nhiếp tâm thần, nên Thái-hậu hay có ý nghĩ ác. Dương thuộc ngày, thuộc chính khí. Nên ban ngày, dương khí thắng, trấn tà khí, nên những gì Thái-hậu nghĩ đều cao minh không thể tưởng tượng nổi.
      - Giỏi.
      - Thần bạo gan khuyên Thái-hậu không nên lo chính sự về đêm, mà chỉ lo ban ngày mới thuận lý.
      - Ta sẽ nghe lời tiểu thư.
      Tự-Mai nghĩ thầm:
      - Chưa chắc sự thực như Thiếu-Mai nói. Ta nghi chính anh cả tính trước rằng Thiếu-Mai sẽ trị bệnh cho bà, nên dặn Thiếu-Mai nói như vậy, hầu đêm đêm Hoàng-đế có dịp tiếp xúc với đại thần, với ta.
      Thiếu-Mai tiếp:
      - Cách nay mấy tháng, Thái-hậu đối chưởng với một võ lâm cao thủ. Nội lực y cao thâm hơn Thái-hậu, nên khi Thái-hậu vận độc chưởng đánh y. Y đẩy chất độc ngược lại. Vì vậy Thái-hậu bị đau đớn hai tay hơn tháng, rồi bây giờ chất độc chạy vào đại-trường, tiểu trường, thành ra mỗi đêm vào giờ Tý, Thái-hậu bị lên cơn hơn giờ, đau đớn như đứt ruột ra.
      Khi bắt mạch Lưu thái hậu, Lê Thiếu-Mai biết bà đã đối chưởng với người của phái Đông-a. Nàng thấy nội lực người này thấp hơn Thiên-trường ngũ kiệt với Thông-Mai, Thanh-Mai. Thoáng một cái biết ngay là Tự-Mai, nàng muốn mượn dịp này gây chút cảm tình giữa Lưu hậu với Tự-Mai, nên tiếp:
      - Người đối chưởng với Thái-hậu còn rất trẻ. Dường như mười bẩy, mười tám mà thôi. Rõ ràng y không muốn hại Thái-hậu, bằng không e Thái-hậu nguy rồi.
      - Thực là thần y.
      Thiếu-Mai tiếp:
      - Vừa rồi Thái-hậu lại đối chưởng với đại cao thủ phái Nga-mi. Công lực người này thấp hơn Thái-hậu nhiều. Không hiểu sao tự nhiên chân khí Thái-hậu bị tắc nghẽn. Nên đối thủ đẩy độc chất trở về người Thái-hậu. Thái-hậu tưởng mình trúng Chu-sa độc chưởng, rồi uống thuốc giải, khiến thuốc công hãm, nên Thái-hậu đau đớn đến đứt ruột ra được.
      - Lê tiểu thư biết bệnh ta, vậy có thể trị được không?
      - Tâu Thái-hậu thần xin cố gắng. Thỉnh Thái-hậu nằm trên ngự sàng. Thần dùng châm cứu trị mới được.
      Thái-hậu nằm trên dường. Thiếu-Mai cúi xuống kéo xiêm áo bà lên, lộ ra làn da bụng trắng mịn, trơn nhẵn, không một vết răn như bụng con gái. Nàng cầm kim, châm vào huyệt Thiên-khu, Đại-hoành, Quan-nguyên, Trung-uyển. Rồi xoay kim.
      Nàng lại vén xiêm lên, châm vào huyệt Túc-tam-lý, Thượng-cự-hư, Hạ-cự-hư, Tam-âm-giao, rồi xoay kim.
      Nàng xoay kim một lúc, Thái-hậu ợ lên mấy tiếng, bao nhiêu cái đau đớn từ từ tan biến đi mất. Thiếu-Mai nói:
      - Tâu Thái-hậu, hiện chất độc tan ra khắp cơ thể. Đêm nay Thái-hậu cảm thấy ớn lạnh, rồi mồ hôi vã ra như tắm, hôi hám cùng cực. Mai thần trị một lần nữa, coi như khỏi.
      Thái-hậu ngạc nhiên:
      - Ta có một điều thắc mắc, những huyệt mà tiểu thư châm trên người ta, thái-y cũng đã châm. Tại sao tiểu thư châm ta thấy hết đau liền, còn thái-y châm lại vô hiệu?
      - Tâu Thái-hậu, vì công lực Thái-hậu cao thâm, mà thái-y không luyện võ, sao có thể dùng chân khí đả thông kinh mạch hầu Thái-hậu!
      - Ta hiểu rồi. Này Lê cô nương. Cô nương thuộc giòng dõi vua Lê bên Giao-chỉ. Thân phụ cô nương trị bệnh hàng vạn, hàng triệu người, ân đức trải khắp nơi. Cô nương được hưởng cái đức đó. Ta muốn phong cô nương làm Định-vương vương phi. Cô nương nghĩ sao?
      Dù võ công cao, dù y thuật thần thông, Thiếu-Mai cũng là thiếu nữ. Nghe Thái-hậu nói, nàng cúi đầu làm thinh. Thái-hậu cười:
      - Ta hiểu rồi, có lẽ tiểu thư chưa được lệnh của đại phu, nên không dám trả lời. Tiểu thư đừng ngại. Ta sẽ cử sứ sang thưa với đại phu sau.
      Được hai khắc, Thiếu-Mai rút kim ra. Thái-hậu ngồi dậy.
      Trong khi Thái-hậu, Thiếu-Mai đối đáp, nhà vua chú ý nhìn rất rõ bụng Thái-hậu. Trong lòng nhà vua nổi lên cơn bão táp:
      - Ta thực không xứng đáng bằng loài quạ. Loài quạ khi biết bay, lập tức kiếm mồi mớm lại mẹ trong ba tháng để tỏ lòng hiếu. Còn ta, thân làm Hoàng-đế, ngồi cao ban phúc giáng họa cho người mà, mẹ ngay trước mắt không biết. Đã vậy còn đầy mẹ ra coi lăng miếu... Mọi việc đều do Thái-hậu cả. Ôi bấy lâu nay mẹ ta đau đớn biết bao!
      Chợt nhà vua nghĩ lại:
      - Ta chỉ là con trai thứ sáu của phụ hoàng. Nếu như ta không được Lưu hậu cướp làm con, thì ngôi vua đâu đến tay ta? Còn việc Thái-hậu lâm triều, ngay từ khi phụ hoàng còn tại thế, Thái-hậu đã cầm quyền rồi kia mà? Khi ta lên ngôi vua mới mười ba tuổi. Nếu không có Thái-hậu xử lý việc nước, liệu giang sơn còn được như ngày nay không?
      Nghĩ vậy lòng nhà vua lại nhũn ra.
      Thái-hậu phán:
      - Hoàng nhi hồi cung thôi. Lê tiểu thư ở lại đây làm bạn với ta. Ta phải có người bạn gái vong niên như Lê tiểu thư ở cạnh tâm tình cho vui.
      Bà nắm tay Thiếu-Mai:
      - Trong các hoàng tử của vua Thái-Tông, Định-vương là người tài trí, đức hạnh nhất. Vua Thái-Tông định nhường ngôi cho vương, mà vương từ chối. Vương là sư phụ của hoàng nhi, thương yêu hoàng nhi còn hơn ta nữa. Ta với Lê tiểu thư thành chị em dâu, cùng lo phù trì cho hoàng nhi thì hay biết mấy.
      Lời nói của Thái-hậu, làm cho nhà vua mềm lòng:
      - Thái-hậu chỉ vì thích quyền hành mà áp chế sinh mẫu ta. Còn đối với ta như mẹ đẻ. Ta không thể trở mặt với người.
      Nhà vua vùng Tự-Mai rời Ngọc-thanh cung trở về Tập-hiền viện. Tự-Mai hỏi nhà vua:
      - Bệ hạ tin lời tôi chưa?
      - Tin! Ta sẽ hết sức làm tròn lời hứa. Nhưng người thử nghĩ xem, ta phải có thái độ nào với Thái-hậu.
      Nhớ lại lời Định-vương dặn, Tự-Mai cười:
      - Việc triều đình, việc hậu cung, kiến thức tôi không bằng bệ hạ. Kiến thức bệ hạ lại càng không bằng một người. Người đó thương yêu bệ hạ hơn con đẻ, xin bệ hạ thỉnh người thì hay hơn.
      - À, người muốn nói Thái-sư chăng?
      - Đúng thế! Tôi hứa, phía Đại-Việt sẽ diệt hết mầm mống bọn bang Nhật-hồ trong cung, cùng tay chân Lưu hậu dùm bệ hạ.
      Về tới Tập-hiền viện, nhà vua nắm tay Tự-Mai:
      - Thiếu hiệp! Trẫm ở trong cung, suốt ngày chỉ thấy thái giám, cung nga, phi tần, thực không khác gì ngồi tù. Lâm triều, thì Thái-hậu cùng mấy lão già phe đảng quyết định hết. Trẫm không có lấy một người bạn. Phải chi trẫm có người bạn như thiếu hiệp, mới thực sung sướng. Thiếu hiệp có nhiều bạn cùng lứa tuổi không?
      Tự-Mai thấy thương hại nhà vua:
      - Tôi có rất nhiều bạn, nhưng thân với nhau nhất chỉ có năm đứa.
      - Chắc năm vị được đặt cho cái tên Ngũ-hổ tướng mới xứng.
      Tự-Mai bật cười:
      - Không! Làm gì có tên đẹp như vậy! Người ta đặt cho chúng tôi nhiều tên khác nhau. Chị gái tôi gọi là Năm thằng giặc trời. Còn chị Mỹ-Linh gọi chúng tôi là Năm ông Thiên-lôi. Mấy quan Tống ở Nam-thùy gọi là Năm ông phá trời.
      Nói rồi nó kể hết tình hình đùa bỡn với nhau trong năm anh em. Nhà vua thở dài:
      - Ước gì trẫm có năm người bạn như vậy.
      Tự-Mai chợt động tâm cơ:
      - Mình đi sứ mục đích để kết hiếu. Tại sao ta không kết hiếu với ông vua này?
      Nó nắm tay nhà vua:
      - Hán-Việt vốn cùng một tổ. Chỉ vì những ông vua ác độc muốn xâm chiếm tộc Việt, mới tạo Hán-Việt thành thế thù nghịch. Nếu bệ hạ giữ lời hứa với tôi, năm đứa chúng tôi luôn ở cạnh bệ hạ.
      Nhà vua cảm động:
      - Trẫm muốn kết bạn với thiếu hiệp, không biết thiếu hiệp nghĩ sao?
      - Phải làm bạn với ông vua, tôi thấy chán ngấy. Nhưng được làm bạn với người ngày quên ăn, đêm quên ngủ, chỉ lo cho dân như bệ hạ, làm tôi sung sướng vô cùng.
      - Vậy hai chúng ta kết bạn ngay đêm nay.
      - Tạo sao lại không?
      Nhà vua gọi thái giám lấy hương. Hai người đốt hương, ngửa mặt lên trời khấn:
      - Xin Quốc-tổ Phục-Hy, Thần-Nông, thái cô Nữ-Oa chứng kiến. Chúng con là Triệu Nguyên-Trinh mười tám tuổi, cùng Trần Tự-Mai, mười bẩy tuổi, nguyệt kết làm anh em, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Nếu ai sai lời, chết dưới muôn nghìn đao thương.
      Thề xong, Tự-Mai hướng nhà vua lạy một lạy:
      - Đại ca.
      Nhà vua chắp tay đáp lễ:
      - Nhị đệ.
      Nhà vua hỏi Tự-Mai:
      -- Nhị đệ cho trẫm biết về thân thế nhị đệ đi.
      Thế rồi Tự-Mai tường thuật tỷ mỉ thân thế mình, cùng những gian nan trên đường đi sứ. Nó bỏ qua, không thuật việc trêu hai lão Tôn, Lê, vu oan cho Sử, Khiếu cùng việc nó tìm Thuận-Tường.
      Nhà vua lấy một thẻ bài, cầm bút viết lên mấy chữ trao cho Tự-Mai:
      Người cầm lệnh bài này tên Trần Tự-Mai, nghĩa đệ của trẫm. Bách quan văn võ từ tể-tướng trở xuống, thấy người như thấy trẫm. Phải tuyệt đối kính trọng.
      Nhà vua nói:
      - Với thẻ bài này, nghĩa đệ tự do ra vào mọi nơi trong cấm cung, không ai có quyền hạch hỏi.
      Bấy giờ đã sang canh ba. Hai người trải qua những suy tư, những triết luận, nên cả hai cùng buồn ngủ. Nhà vua nhớ lại Tự-Mai kể truyện nó với các bạn thường ôm nhau ngủ trong rừng, ông đề nghị:
      - Đêm nay nhị đệ nghỉ tại đây với trẫm, nên chăng?
      - Ừ, chúng ta ngủ với nhau tha hồ mà nói truyện.
      Nhà vua cùng Tự-Mai dẫn nhau về tẩm-cung. Mấy thái giám, cung nữ đồng quỳ gối vấn an. Họ thấy nhà vua nắm tay một thái giám lạ mặt đi vào, đều dương mắt lên nhìn. Nhà vua ra hiệu cho chúng bình thân. Một thái giám cung kính:
      - Không biết đêm nay bệ hạ tuyên chỉ cho cung-nga nào hầu hạ?
      Nhà vua lắc đầu:
      - Trẫm muốn yên tĩnh. Các người đi nghỉ thôi.
      Hoàng đế Tống bao giờ cũng có một hoàng-hậu, và khoảng từ một tới hai mươi bà phi. Mỗi bà đều có cung riêng với thái giám cung nữ hầu hạ. Ngoài ra nhà vua còn có hằng trăm cung nga, tùy theo nhan sắc, tài ba được phong chức Tu-dung, Dung-nghi, Tu-nghi, Mỹ-nữ v.v. gọi chung là phi tần. Những người này cũng là vợ vua, nhưng theo hầu hoàng hậu cùng các vị phi. Đôi khi họ được nhà vua sủng ái, cấp cho cung điện riêng. Mỗi khi nhà vua sủng ái hoàng hậu, hoặc phi, thì tới thẳng cung điện của họ. Còn nhà vua muốn gần các phi-tần không có cung riêng, thì cho thái giám tuyên triệu đến tẩm cung của mình.
      Hai người dắt nhau vào tẩm cung. Tự-Mai đã được thấy giường nằm của Khai-Quốc vương cùng những đại thần triều Lý. Nhưng đây là lần đầu tiên nó thấy một phòng ngủ rực rỡ như thế này. Trên chiếc giường sơn son, thiếp vàng, chạm trổ ngọc ngà sáng rực. Nệm, chăn dầy thoang thoảng mùi thơm. Nhưng vì mệt qúa nó không có thời giờ quan sát thêm. Nó cởi dầy, cùng nhà vua leo lên giường ôm nhau nằm ngủ.
      Nó nói với nhà vua:
      - Đại ca này, hôm nay đại ca trải qua những suy tư rất mệt tâm thần. Để đệ điểm vào mấy huyệt cho đại ca ngủ ngon.
      Không đợi nhà vua có đồng ý hay không, Tự-Mai điểm vào huyệt Thần-môn, Nội-quan, Phong-trì của nhà vua. Quả nhiên nhà vua ngáp một cái, mắt chĩu xuống:
      - Nhị đệ có võ công gì kỳ diệu vậy? Nhị đệ dạy ta được không?
      - Được chứ.
      Đến đó cả hai nhập vào giấc ngủ.
      Tự-Mai giật mình vì có tiếng động sẽ ngoài cửa, rồi có tiếng gõ cửa ba lần nhỏ, ba lần lớn. Nó nhận ra đó là ký hiệu của Khu-mật viện Đại-Việt. Nó ngồi nhỏm dậy, có tiếng Mỹ-Linh dùng lăng không truyền ngữ hỏi:
      - Tự-Mai! Thức dậy chưa? Ngủ sướng nhé, quên mất bà chị chờ mỏi mắt ngoài vườn hoa quỳnh lạnh thấu xương. Có ra đây ngay không?
      Tự-Mai sẽ mở cửa, nó thấy hai thái giám, một cung nữ ứng hầu ngủ gật trên ghế, biết Mỹ-Linh đã điểm huyệt chúng. Mỹ-Linh vẫy nó ra ngoài bụi hoa:
      - Sự thể ra sao?
      - Tốt đẹp vô cùng.
      Nó thuật lại mọi chi tiết. Mỹ-Linh nói:
      - Chị Bảo-Hòa truyền lệnh ngày mai em phải dụ nhà vua trốn ra ngoài kinh thành chơi, và nhớ làm như thế... như thế... Làm được không?
      - Được chứ.
      Mỹ-Linh tung người đi. Tự-Mai lại trở về, nó chui vào chăn ngủ tiếp.
      Sáng hôm sau, Tự-Mai tỉnh giấc trước. Nó ngồi dậy, làm nhà vua cũng thức giấc. Nó hỏi:
      - Hôm nay đại ca có thiết triều không?
      - Không.
      Cung nga dâng nước nóng súc miệng. Một thái giám dâng trà, cùng bánh điểm tâm. Tự-Mai đã được ăn uống không thiếu của ngon vật lạ, nhưng thức điểm tâm của Tống-đế nó chưa ăn bao giờ cả. Lạ miệng, lại đói, nó ăn hết ba điã bánh. Hai người vừa ăn vừa nói truyện.
      Tự-Mai đề nghị:
      - Đại ca này. Việc quan trọng là phải giải Chu-sa ngũ độc chưởng cho đại ca. Đại ca cùng đệ ra ngoài thành gặp Thân Thiệu-Thái. Thiệu-Thái sẽ giải độc chưởng cho đại ca. Vậy đại ca mặc giả làm dân chúng. Mình dạo chơi kinh thành một chuyến cho biết mùi. Chứ sống trong hoàng cung không khác cá chậu chim lồng.
      Nhà vua chợt thấy rằng: Mình sinh ở đế đô, nhưng chỉ luẩn quẩn trong cấm thành, chưa một lần dạo chơi Biện-kinh bao giờ cả. Đúng như Tự-Mai ví với cá chậu, chim lồng.
      - Ừ nhỉ, chúng ta đi chơi ngay sáng nay được không?
      - Được chứ! Tại sao không? Bây giờ đại ca lấy quần áo thái giám mặc, rồi chúng ta đi chơi.
      Nhà vua gọi một thái giám vào truyền lệnh:
      - Người mang cho ta một bộ quần áo của người, cùng thẻ bài, mũ, dầy.
      Tên thái giám đứng hầu, đã nghe hết truyện của nhà vua với Tự-Mai hôm qua, nên y không ngạc nhiên. Y lui trở ra, một lúc đem vào đủ: Quần, áo, mũ, khăn choàng cổ, áo lạnh, thẻ bài. Y cùng Tự-Mai giúp nhà vua thay quần áo. Phút chốc nhà vua trở thành một thái giám đẹp trai. Nhà vua cầm kính soi, nhìn hình mình, ông bật cười:
      - Trẫm cũng không nhận ra mình thì người khác khó mà biết trẫm là ai.
      Nhà vua cầm thẻ bài lên xem, thấy đề tên: Lê Luyện, mười chín tuổi, thuộc Ngự-thư phòng. Ông truyền lệnh cho Lê Luyện:
      - Người phải ứng trực tại đây. Ai tìm trẫm phải nói rằng trẫm với một tân cung nữ nghỉ ở tẩm-cung. Người mà tiết lộ truyện này ra ngoài, trẫm sẽ cắt lưỡi.
      Lê Luyện biết thể lệ ở nội cung: Khi vua cùng một cung nữ nhập tẩm-thất, dù hoàng thái hậu cũng không được vào. Y cúi đầu:
      - Thần xin thủ kín miệng bình.
      Nhà vua cầm bút viết vào tờ giấy in hình con rồng vàng chầu nguyệt mấy chữ:
      Truyền chỉ cho thái giám Lê-Luyện, Mai-Tự xuất thành khẩn cấp.
      Hai người hướng cửa Nam đi ra. Bấy giờ sang giờ Mão. Hai người tới cửa Thuần-dương cấm thành, một thị vệ hỏi:
      - Hai vị công công đi đâu đây?
      Tự-Mai trình lệnh của nhà vua. Viên thị vệ kính cẩn lui lại. Hai người qua hoàng thành, rồi tới kinh thành. Đám phu xe thấy hai thái giám trẻ từ trong hoàng thành đi ra, chúng đon đả chào:
      - Mời hai công công đi xe.
      Tự-Mai vẫy một xe song mã:
      - Người đưa ta về khách điếm Nam-phong.
      - Xin công công cho ba chục đồng.
      - Được rồi.
      Nhà vua hỏi:
      - Mình đi đâu đây?
      - Đại ca về chỗ trọ của em. Chúng mình thay y phục thường dạo chơi mới thú. Chứ làm thái giám thế này chán ngấy.
      Xe lăn bánh trên đường phố.
      Thiên-Thánh hoàng đế ( Sau này, khi qua đời được truy hiệu là Nhân-Tông) sinh trưởng ở đế đô, mà chưa bao giờ được ngao du hoàng thành. Suốt từ thời thơ ấu, nhà vua chỉ được rời cấm thành có hai lần. Lần đầu đưa linh cữu phụ hoàng đến sơn lăng, và một lần trong ngày lễ đăng cực. Cả hai ngày, đều đi giữa đám thị vệ tiền hô hậu ủng, dân chúng đứng nghẹt hai bên đường xem mặt nhà vua. Vì vậy đâu biết gì về đời sống dân chúng.
      Bây giờ nhà vua ngồi xe ngựa chạy trên phố phường. Bất cứ cái gì đối với nhà vua cũng đều lạ hết. Tự-Mai tuy mới đến Biện-kinh, nhưng mấy tháng qua, nó cùng các bạn suốt ngày dạo chơi, nên thông thuộc mọi ngõ ngách. Nó luôn chỉ cửa hiệu này, gian hàng nọ giảng giải cho nhà vua.
      Lát sau xe tiến vào khu Bồng-lai của lữ điếm Nam-phong. Nó dặn nhà vua:
      - Đại ca! Lát nữa gặp anh rể, chị gái, và các bạn kết nghĩa của đệ. Đệ sẽ giới thiệu đại ca là Nho-sinh Lê Luyện mà đệ mới kết thân.
      Nhà vua nghe Tự-Mai nói, ông nghĩ thầm:
      - Khó đấy! Mình kết bạn với Tự-Mai, lát nữa đây gặp chị, anh rể y, không lẽ mình lại hành lễ trước? Mình đường đường là Thiên-tử, trong khi Lý Long-Bồ chỉ là một thái-tử của tiểu quốc?
      Nhà vua nghĩ lại:
      - Mình kết thân với nhị đệ, rồi lại ước mong kết thân với người Việt. Họ hứa giúp mình trong vụ đối phó với đám Nhật-hồ của Thái-hậu. Như vậy có nghĩa mình đi cầu hiền tài như vua Thành-Thang cầu Y-Doãn. Vua Văn cầu ông Khương. Hậu chúa cầu Gia-cát. Mình càng nhún nhường, càng được sĩ dân thiên hạ tôn phục. Không sao!
      Hai người vượt cầu vào đảo Bồng-lai. Lê Văn trông thấy Tự-Mai, nó reo lên:
      - Anh đi đâu suốt từ qua đến giờ làm bọn này tìm muốn chết. Tại sao lại mặc quần áo thái giám thế này?
      - Ta mới được hoàng đế tuyển làm tân thái giám.
      Lê Văn rút trong bọc ra con dao sáng loáng:
      - À, làm thái giám phải cắt cái đó đi. Để em xẻo. Cam đoan đứt ngon.
      Nó làm bộ định cắt. Tự-Mai chỉ nhà vua:
      - Ta mới kết bạn với anh Lê Luyện này.
      Lê Văn cười lớn:
      - Chắc cũng thái giám giả?
      - Không! Thái giám thực.
      Lê Văn phát một chưởng hướng bụng nhà vua, rồi nó để tay lên mũi:
      - Xạo! Nói dối không xem ngày. Em phát chưởng, thấy của qúy còn nguyên, đâu phải thái giám.
      Nhà vua kinh ngạc nghĩ thầm:
      - Ta tưởng Tự-Mai đã là thiếu niên tài ba có một không hai. Nào ngờ chú bé này coi bộ không kém Tự-Mai. Các thái y của ta khi khám thái giám phải thay quần ra mới quyết được. Trong khi y chỉ phất tay một cái đã biết rõ.
      Tự-Mai nói:
      - Ta với anh Lê Luyện giả làm thái giám dạo chơi trong cung cấm xem vườn thượng uyển thỏa thích.
      Lê Văn suýt xoa:
      - Thế mà không rủ em đi.
      Nó nhìn nhà vua:
      - Ôi cùng họ Lê với nhau, mà sao anh Luyện đẹp thế này. Ừ, anh ấy đẹp hơn tất cả bọn mình.
      Nhà vua hỏi:
      - Ta làm sao mà đẹp hơn Văn đệ.
      Lê Văn phân giải:
      - Em nói đẹp là đẹp tướng. Em công nhận, mặt em với Tự-Mai đẹp hơn Lê đại ca. Nhưng tướng Lê đại ca đẹp hơn bọn em. Trong tướng mệnh, đại ca xú mạo, nhưng mỹ tướng. Còn bọn em mỹ mạo mà xú tướng.
      - Tướng ta mỹ ở chỗ nào?
      Lê Văn cười:
      - Lê đại ca muốn xem tướng ư? Phải đặt quẻ thầy mới nói.
      Suốt đời, nhà vua chỉ tiếp xúc với quan thái phó dạy văn, cùng cung nga thái giám, lúc vào họ cũng dập đầu lạy, cho đến nay lần đầu tiên mới được vui đùa cùng Tự-Mai, Lê Văn. Nhà vua sờ tay vào túi: Không vàng, chẳng bạc. Bí qúa nhà vua nói:
      - Cho nợ được không?
      Lê Văn nghe tiếng Bảo-Hòa đâu đó dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai:
      - Ông này là Thiên-Thánh hoàng đế đấy. Chị nói sao, em nhắc lại như vậy. Em ra giá như chị dặn. Nào nhắc lại.
      Lê Văn cung kính:
      - Được. Bây giờ thế này: Đại ca là nhà Nho tất văn hay chữ tốt. Em đoán trúng một câu, đại ca phải làm tặng em một bài thơ hay bài từ. Được không?
      - Được chứ.
      Nó mời nhà vua vào phòng, truyền pha trà đãi khách.
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 08:15:45 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 20.01.2005 17:54:01 (permalink)
        Hồi thứ một trăm lẻ chín


        Trăm năm chữ tòng



        Tiếng Bảo-Hòa vẫn nhắc Lê Văn. Nó nhìn nhà vua rồi nói:
        - Mắt của đại ca là mắt rồng, mũi lân, miệng sư tử. Tướng đi ngay, mắt nhìn thẳng. Ôi! Thực đệ chưa từng thấy ai có quý tướng như vậy.
        - Liệu ta thi tiến sĩ có đậu không?
        - Không! Đại ca không thể là tiến sĩ, vì thi không bao giờ đậu, nhưng văn mô, vũ lược đến bậc thầy tiến sĩ cũng không bằng. Đại ca sinh trong gia đình cực kỳ phú quý. Nhưng vừa sinh ra đã gặp bất hạnh, phải ly cách một trong hai thân.
        Nhà vua gật đầu:
        - Giỏi.
        - Đại ca có mẹ nuôi. Mẹ là người học ít, mà thành công lại nhiều. Chính nhờ người này, mà đại ca có công danh sự nghiệp vượt hơn anh em mình.
        - Giỏi.
        - Đại ca được đến sáu anh em. Người nào cũng có sự nghiệp hiển hách, nhưng không thể nào bằng đại ca.
        - Đúng qúa.
        - Đại ca là người nhân từ, bình dị ít thấy trên đời.
        Cứ thế Lê Văn đoán trúng ba mươi sáu câu. Nhà vua hỏi:
        - Văn đệ nói ta sắp gặp biến cố lớn trong đời. Biến cố đó tốt hay xấu?
        Lê Văn nháy mắt cười:
        - Vấn đề này cực kỳ quan trọng. Đệ xin đoán, nếu trúng, sau này đại ca phải làm cho đệ một việc.
        Nhà vua nhớ lại vụ bán núi của tổ tiên xưa, nên cẩn thận hơn:
        - Việc gì, Văn đệ phải nói trước, xem ta có đủ sức không đã?
        - Dễ lắm, nếu bọn đệ dự thi, trường hợp có thể, đại ca gà cho bọn đệ trúng tuyển. Thế thôi.
        Nhà vua quên mất mình đang giả làm Nho-sinh, ông nghĩ thầm:
        - Thằng bé này định thi tiến sĩ chắc? Tài của nó cho đến ba lần trạng nguyên cũng đáng. Ta nên hứa.
        Nhà vua dơ tay:
        - Ta hứa giúp.
        Lê Văn nói nhỏ vào tai nhà vua:
        - Từ trước đến giờ đại ca như cọp trong chuồng, voi trong cũi, phượng hoàng trong lồng. Chỉ nay mai thôi, có quý nhân phương xa tới sẽ phá cũi xổ lồng. Đại ca gặp mọi sự như sở cầu.
        Nhà vua nắm tay Lê Văn:
        - Ta sẽ tặng Văn đệ ba mươi sáu bài thơ.
        Mỹ-Linh từ trong chạy ra, nàng kéo tai Tự-Mai:
        - Em giả thái giám vào cấm thành chơi đấy à?
        - Giả mà thực.
        Mỹ-Linh cốc lên đầu Tự-Mai:
        - Giả hay thực không thể giống nhau. Em đừng quên rằng mình đi sứ để kết hiếu. Kết hiếu mà làm truyện phi pháp sau lưng hoàng đế Tống, như vậy là vô phép, là thiếu tự trọng.
        Tự-Mai lè lưỡi trêu Mỹ-Linh:
        - Đúng là ngôn từ của công chúa, cha mẹ dân.
        Nó chắp tay:
        - Tấu lạy công chúa điện hạ. Hạ thần thấy Thiên-tử Tống lâm nguy, phải giả thái giám cứu người. Sau đó được Thiên-Thánh hoàng đế ban thưởng bằng cách cho phép mặc quần áo thái giám, rồi dắt đi khắp cấm thành.
        - Thực không?
        - Nếu em nói dối thì không đáng làm em bà chị xinh đẹp nữa. Em nói cho chị mừng, Hoàng-đế còn rót sâm thang thưởng cho em uống.
        Nó chỉ nhà vua:
        - Có anh Lê Luyện làm chứng. Anh là Nho-gia chính tông, anh không nói dối đâu.
        Mỹ-Linh thấy nhà vua, hỏi:
        - Ai đây?
        - Anh bạn mới của em tên Lê Luyện. Anh là nhà Nho.
        Mỹ-Linh cúi chào:
        - Kính chào Lê công tử. Mời công tử vào chơi.
        Nhà vua thấy Mỹ-Linh, trong lòng nảy ra mối cảm hoài:
        - Cứ như Tự-Mai nói, cô này là Lý Mỹ-Linh, được phong công chúa Bình-Dương đây. Gái Việt đẹp thực. Trong hậu cung mình làm gì có người như thế này. Những lời nàng trách Tự-Mai, tỏ ra Đại-Việt có thiện chí kết hiếu với Tống bằng tất cả chân tình. Hà! Một cô gái, cháu nội Lý Công-Uẩn mà tư cách đã như thế này, thì đủ biết y đạo đức biết chừng nào! Tự-Mai nói đúng. Bọn biên thần của mình tâu láo hết.
        Nhà vua nắm tay Tự-Mai:
        - Công chúa yên tâm. Chính mắt tôi hấy Thiên-tử dắt tay nhị đệ dạo chơi khắp cấm thành. Người còn lưu nhị đệ ngủ tại tẩm cung nữa.
        Mỹ-Linh dặn Tự-Mai:
        - Em nhớ nhé, tuy Thiên-tử kết huynh đệ với em, nhưng vẫn phải giữ lễ. Em đừng quên Định-vương Nguyên-Nghiễm là sư phụ, là chú thiên tử, mà người vẫn giữ lễ như quần thần.
        Tự-Mai biết câu này Mỹ-Linh dặn thực. Nó tỉnh ngộ:
        - Dĩ nhiên trước mặt mọi người em cũng phải giữ lễ như thường. Còn trường hợp hai người với nhau không lẽ ???
        - Đạo lý Hán, Việt rất trọng trung nghĩa. Em kết thân với Thiên-tử tức là mang nhiều trọng trách lắm. Một là trọng trách của bậc tôi đối với vua. Hai là trọng trách người em đối với nghĩa huynh.
        - Em sẽ noi gương Quan Vân-Trường đời Tam-quốc.
        Mỹ-Linh vuốt tóc nó:
        - Ít ra phải như vậy.
        Mỹ-Linh hỏi Tự-Mai:
        - Em cứu giá trong trường hợp nào?
        - Em không thể nói ra được. Khi nào Hoàng-đế cho phép, em mới dám nói.
        Lê Văn vào nhà lấy ra tấm lụa, nó mài mực, để bút trước mặt nhà vua:
        - Đại ca là nhà Nho, chữ viết hẳn đẹp lắm, xin thứ cho thầy tướng ba mươi sáu bài thơ đi.
        Nhà vua cầm bút thoăn thoắt đưa lên tấm lụa, phút chốc đủ ba mươi sáu bài. Mỹ-Linh nhìn ba mươi sáu bài thơ nhà vua chép vào lụa; nàng thấy cả ba mươi sáu bài đều tình ý đậm đà, nhưng toát ra nỗi cô đơn của tuổi niên thiếu. Nàng nói:
        - Lê đại ca là nhà Nho, mà tình cảm lại trầm hùng, đâu kém gì Ngụy Võ-Đế thời Tam-quốc?
        Thiệu-Thái, Thuận-Tông, Thiện-Lãm cùng ra. Tự-Mai đi một vòng giới thiệu. Thấy vắng mặt Khai-Quốc vương, Thanh-Mai, Thông-Mai, Bảo-Hòa nó hỏi Tôn Đản:
        - Ông kẹ Thông-Mai với hai bà chằng đâu rồi?
        Tôn Đản chỉ vào trong nhà:
        - Anh cả với chị Thanh ở trong đó. Còn anh Thông-Mai với chị Bảo-Hòa có bao giờ cho chúng mình thấy mặt đâu? Hai ông bà ấy như chim vậy.
        Nó nói với Thiệu-Thái:
        - Ông ỉn ơi. Người này là nghĩa huynh của em, nhân từ nhất thiên hạ. Không may bị trúng Chu-sa ngũ độc chưởng. Xin ông ỉn trị cho anh ấy với.
        Thiệu-Thái xòe tay ra:
        - Trị cũng được, nhưng em phải trả tiền cho thầy lang chứ? Cứu một mạng người chứ có ít đâu?
        Tự-Mai thấy từ xưa đến giờ bất cứ nó với Lê Văn nói gì Thiệu-Thái cũng chiều theo. Tự nhiên lần này chàng lại lý sự đòi tiền, thì chắc Bảo-Hòa xui đây. Nó hậm hực hỏi:
        - Thầy lang đòi bao nhiêu tiền?
        - Ta trị bệnh vẫn có lệ chia làm hai loại người. Có loại người anh phải năn nỉ để xin trị cho. Có loại người trả bao nhiêu tiền anh cũng không trị.
        - Nói rõ hơn một chút đi ông ỉn!
        - Loại ác đức, không những anh không trị, mà còn truyền độc chất vào người cho chết luôn. Còn loại chính nhân quân tử thì anh xin trị không lấy tiền.
        Tự-Mai chỉ nhà vua:
        - Lê đại ca của em là nhà Nho, dĩ nhiên là chính nhân quân tử rồi còn gì nữa.
        Thiệu-Thái lắc đầu:
        - Nho có Nho quân tử, Nho tiểu nhân. Khi anh sang Tống, đi đâu cũng thấy dân chúng, võ lâm, nhân sĩ ca tụng Thiên-Thánh hoàng đế là một nhân quân. Trong triều có những bậc quân tử như Trương Sĩ-Tổn, Lý Điệt, Vương Tùy, Lý Ty, Vương Đức-Dụng, Phạm Trọng-Yêm, Yến Thù. Ngược lại họ chửi bọn khuyển Nho như Lã Di-Giản, Trương Kỳ, Hạ Tủng, Trần Nghiêu-Tá, Phạm Ung, Triệu Thực.
        Nghe Thiệu-Thái nói, Tự-Mai biết muôn ngàn lần ông ỉn không thể có ngôn từ đó. Nó đoán chắc là Bảo-Hòa mớm cho. Những người mà Thiệu-Thái nói là quân tử chắc thuộc phe thân Đại-Việt. Còn bọn mà chàng bảo là tiểu nhân chắc thuộc phe chủ Nam xâm.
        Nhà vua tò mò:
        - Vì lý do gì họ thống mạ sáu người ấy là khuyển Nho?
        - Họ nói: Khuyển Nho còn khá. Bọn chúng đều phạm tội khi quân cực kỳ gia trọng. Nhưng Hoàng-đế vô quyền nên chưa thể tru lục chúng.
        Nhà vua kinh ngạc:
        - Họ nói chúng khi quân ra sao?
        - Chúng a tùng với Lưu thái-hậu, đưa nhà vua vào đường đại bất hiếu. Chúng biết nhà vua không xuất từ Lưu thái-hậu, mà xuất từ Lý phi. Thế nhưng chúng ngậm tăm, hùa theo Thái-hậu, soạn chiếu để Hoàng-đế phong Lý phi làm Thuận-dung đầy ra coi lăng tiên đế. Ôi, trong lịch sử cổ kim chưa có ông vua nào lại đầy mẹ như vậy. Hết hạn lưu đầy, chúng đem bà về cung Ôn-đức hầu hạ công chúa Huệ-Nhu. Như vậy còn trời đất nào nữa không?
        Tự-Mai biết Bảo-Hòa ở quanh đây đang dùng lăng không truyền ngữ nhắc Thiệu-Thái, chứ muôn ngàn lần ông ỉn cũng không nói được những lời đó. Thấy mặt nhà vua tái đi, trong lòng nó khoan khoái:
        - Chị Bảo-Hòa hay thực, sai ta đem nhà vua ra đây, rồi dùng lối khích ông. Có như thế mới hạ được bọn chủ chiến. Đã vậy ta phải đổ dầu thêm vào mới đựợc:
        - Chắc vì bọn khuyển Nho này sợ Thái-hậu, hoặc giả chúng bị khống chế bằng Chu-sa độc chưởng nên mới phải a tòng chăng?
        Mỹ-Linh bẹo tai Tự-Mai:
        - Nói thế mà cũng nói. Phàm làm nhà Nho, là kẻ sĩ, phải lấy chính đạo, lòng trung phò tá quân phụ. Chị đọc Xuân-Thu thấy nói nhiều kẻ sĩ nhìn chúa bị nhục, biết rằng nói ra sẽ chết, mà dám khẳng khái đối địch với giặc. Em chẳng nghe quan thái sử Giản nước Tề, quan thái sử Đổng-Hồ nước Tấn, khi cường quyền kề gươm vào cổ bắt chép sai lịch sử. Hai ông cứ chép sự thực rồi thung dung chịu chết đó sao? Đây bọn này đẩy chúa vào đường vô đạo, bất hiếu, tội ấy phải tru di tam tộc.
        Tự-Mai văng tục:
        - Con bà nó, bọn này ăn cơm chúa, mặc áo chúa, mà đưa chúa vào đường bất hiếu, bất nghĩa. Anh cả cấm bọn mình không được xử dụng võ công trên đất Tống, nhưng em không thể tuân lệnh trong vụ này. Em phải bắt tụi nó đánh cho nát thây, cạo đầu bôi vôi, rồi bắt đeo bảng mang chữ Khuyển Nho dong khắp phố cho thiên hạ xem mới được.
        Lê Văn reo:
        - Cho em đi với. Bọn mình làm vậy nhất định Thiên-Thánh hoàng đế khoan khoái lắm.
        Mỹ-Linh lắc đầu:
        - Nhưng Hoàng-đế lại không biết sự thực. Hai em làm vậy e người nổi lôi đình lên thì nguy.
        Tự-Mai đang cầm chung trà trong tay, giận qúa, nó bóp mạnh, bốp một tiếng, chung vỡ nát. Nó vo thành bột rồi tung lên cao:
        - Em cứ làm. Dù nghĩa huynh Hoàng-đế có phải vì quốc pháp chặt đầu em, em vẫn làm. Trước khi bị chém, em cười thỏa mãn mà không giận hờn chi hết.
        Nhà vua nói với Tự-Mai:
        - Nhị đệ. Theo ta nghĩ nếu như nhị đệ làm điều đó, không chừng nghĩa huynh Hoàng-đế còn ban thưởng cho nhị đệ nữa. Khai-Quốc vương cấm nhị đệ xử dụng võ trên đất Tống do lòng tôn trọng Tống mà ra. Khi nhị đệ làm truyện đó, thì nhị đệ không còn nhân danh sứ đoàn, mà nhân danh nghĩa đệ Hoàng-đế. Ai dám trách nhị đệ. Vả lại sử cũng ghi một gương tương tự.
        Mỹ-Linh cười:
        - Lê huynh nói đúng đó. Thời Tam-quốc, Tiên-chúa truyền cắt ba quận thuộc Kinh-châu trả cho Ngô. Khi sứ Ngô đến nhận đất, Quan Vân-Trường không trao, ông lý luận: Đất trong thiên hạ là của nhà Hán. Huynh trưởng ta là hoàng thúc, khởi binh trung hưng Hán thất, trao cho ta trấn Kinh-châu, mà ta cắt cho Ngô, thì ra ta trao đất cho giặc ư? Rồi ông đuổi sứ đi.
        Nhà vua nhìn Mỹ-Linh, trong lòng khâm phục:
        - Cô công chúa này kiến thức không tầm thường. Hèn chi Đại-Việt muốn đòi lại cố thổ Lĩnh-Nam.
        Thiệu-Thái vái nhà vua:
        - Mời Lê đại ca ngồi im, giống như người ngủ. Nếu có thấy khó chịu, cũng đừng vận công chống lại, để tôi trị bệnh cho.
        - Thân huynh vẫn chưa nói rõ ta phải trả bao nhiêu tiền mà?
        - Chỉ cần mấy câu nói của Lê huynh, đệ biết Lê huynh là chính nhân quân tử.
        Thiệu-Thái để tay lên huyệt Bách-hội nhà vua, dồn chân khí sang. Nhà vua rùng mình một cái, rồi mồ hôi toát ra như tắm. Mùi hôi thối bốc ra khủng khiếp. Khoảng ăn xong bữa cơm, Thiệu-Thái thu công lại. Tự-Mai nói:
        - Đại ca đứng dậy thôi. Độc chất thúc ra khỏi cơ thể đại ca rồi.
        Nhà vua hướng Thiệu-Thái:
        - Đa tạ Thân huynh, nguyện sẽ có ngày báo đáp.
        Tự-Mai nói với Tôn Đản:
        - Anh Đản cho Lê đại ca mượn bộ quần áo, rồi chúng ta đại náo Biện-kinh một ngày cho thỏa thích. Ngày mai phải ứng tuyển phò mã rồi.
        Nhà vua hỏi:
        - Trong sứ đoàn Đại-Việt có mấy người ứng tuyển phò mã?
        Mỹ-Linh chỉ Tôn Đản, Lê Văn:
        - Hai cậu này với Tự-Mai là ba. Công tử có phải ứng viên phò mã không?
        - Không. Vì võ công tôi thấp lắm. Tuy văn thì dư thừa.
        Lê Văn nói nhỏ:
        - Tôi đâu có muốn làm phò mã? Tôi bị bố bắt buộc đấy chứ. Khi đấu võ, tôi sẽ giả thua để bị đánh trượt. Anh Đản cũng thế. Anh ấy có Ngô Cẩm-Thi rồi. Cuối cùng chỉ còn Tự-Mai thôi. Mà coi bộ Tự-Mai cũng không muốn làm phò mã. Anh ấy đang si tình một cung nữ.
        Nhà vua hỏi:
        - Cung nữ Đại-Việt hay Tống?
        Mỹ-Linh đáp thay em:
        - Cung nữ Tống triều. Chứ nếu cung nữ Đại-Việt tôi đã tâu ông nội gả cho y rồi. Ông nội tôi là con nuôi một vị Bồ-tát, là đệ tử một Bồ-tát mà.
        Nhà vua tò mò:
        - Công chúa! Tôi nghe nói Hoàng-đế Đại-Việt hai lần kén khắp nước mới được hai giai nhân cho Khai-Quốc vương. Vương tuy say mê hai nàng, nhưng nghe hai nàng nói có ý trung nhân, vương cho tiền bạc để hai nàng về với tình quân. Hơn nữa tình quân của hai nàng là hai người lăm le khởi loạn chống triều Lý. Có đúng thế không?
        Mỹ-Linh nhoẻn một nụ cười, ánh mắt nàng sáng long lanh:
        - Kiến thức Lê huynh rộng lắm nhỉ. Quả chú tôi có làm việc đó.
        - Khai-Quốc vương thực rộng lượng. Nhưng khi vương làm truyện đó, thì phạm trọng tội đối với phụ hoàng. Lý hoàng-đế không nói gì ư?
        - Lúc mới nghe truyện, ông tôi định đem chú hai ra chặt đầu. Hoặc phế làm thứ dân. Nào ngờ ý trung nhân của hai giai nhân kia sau khi nghe các nàng thuật lại lý do được trả về... Hai vị ấy cảm động, bỏ ý định chống triều đình. Hơn nữa còn trở thành hai trợ thủ đắc lực.
        Nhà vua suýt xoa:
        - Chỉ mất có hai người đẹp, mà tránh đổ biết bao nhiêu máu. Hỡi ơi! Vua Lý cũng như Khai-Quốc vương thực là những người tài trí nhất thiên hạ. Trẫm... à tôi nghĩ Thiên-Thánh hoàng đế cũng không bằng vậy.
        Mỹ-Linh chắp tay:
        - Đa tạ Lê huynh quá khen.
        Nhà vua nói với Lê Văn:
        - Lê công tử! Ta coi tướng của công tử, biết công tử thế nào cũng thành công trong việc ứng tuyển phò mã này.
        - Nhưng tôi không muốn làm phò mã Tống.
        - Sao vậy? Làm phò mã cao sang cực điểm, lầu son, gác tía. Hơn nữa công chúa Huệ-Nhu vừa xinh đẹp, vừa ôn nhu văn nhã.
        - Tôi biết vậy. Nhưng bọn tôi ba đứa, mà chỉ có một công chúa thôi. Tôi nhường cho Tôn Đản, Tự-Mai. Vì tôi đã có một công chúa khác rồi.
        - Công chúa Đại-Việt chăng? Nàng tên gì?
        - Không! Công chúa Thái. Nàng tên An-Nan Tam-gia La-sun Nong-Nụt.
        Nhà vua hỏi Tự-Mai:
        - Nhị đệ. Em si tình cô cung nữ nào vậy? Nhị đệ gặp nàng bao giờ?
        Tự-Mai xấu hổ:
        - Em gặp nàng hồi nàng chưa bị tuyển cung.
        - Nàng tên gì? Hiện thuộc cung nào? Ty nào?
        Trong lòng Tự-Mai nảy ra tia sáng:
        - Tại sao ta không nói với đại ca gả Thuận-Tường cho ta? Việc gì ta phải tranh dành khổ sở? Lỡ ra hôm ấy Thái-hậu gả cho ta người khác thì hỏng bét.
        Nó đáp nho nhỏ:
        - Nàng tên Thuận-Tường. Dường như thuộc cung Ôn-đức phục thị Lý thần-phi.
        - Cung Ôn-đức à? Cung Ôn-đức của công chúa Huệ-Nhu. Hồi tiên đế còn tại thế Lý phi chỉ là cung nữ thôi. Vì Lý phi là nhũ mẫu công chúa Huệ-Nhu, nên ở cùng.
        Nói đến Lý phi long tâm cảm thấy đau nhói một cái. Nhà vua hỏi:
        - Nhị đệ. Ta nhớ trong cung Ôn-đức không có cung nữ nào tên Thuận-Tường cả. Ta e nhị đệ nhớ lầm đấy.
        Lê Văn cãi dùm Tự-Mai:
        - Lê đại ca ơi, tên người yêu làm sao mà nhớ lầm được. Chính đệ cũng gặp nàng. Mọi người đều gọi nàng là Thuận-Tường mà.
        Nhà vua chau mày:
        - Nhị đệ có thể kể cho ta nghe chi tiết về cuộc gặp gỡ với nàng chăng?
        Tự-Mai chưa kịp đáp, Lê Văn đã thuật vắn tắt việc phái Hoa-sơn sang Đại-Việt cùng trận đánh Tản-lĩnh cho nhà vua nghe. Nhà vua hỏi:
        - Em có chắc Thuận-Tường là học trò Bắc-sơn lão nhân không?
        Tự-Mai gật đầu:
        - Đúng vậy. Nàng gọi ông bằng sư phụ.
        Mặt nhà vua biến sang mầu hồng, cười mà không phải cười:
        - Ta biết nàng là ai rồi. Nhị đệ ơi! Nhị đệ có thương yêu nàng thì phải hết sức trong cuộc tranh đua này. Lúc đầu nàng chỉ là cung nữ. Sau khi tuyển cung, vì thấy nhan sắc diễm tuyệt, võ công cao, văn chương quán thế, Thái-hậu nhận nàng làm con nuôi. Nàng chính là một trong mười tám giai nhân sẽ gả cho các ứng sinh đấy. Ta nói cho nhị đệ biết, có ít nhất ba người cũng xin ứng tuyển phò mã vì muốn được kết hôn với nàng, chứ không phải muốn làm phò mã.
        - Những ai thế?
        - Triệu Tiết, Khúc Chẩn.
        Tự-Mai cười:
        - Hai tên đó em thừa sức thắng. Còn người thứ ba?
        - Y chính là trạng nguyên Địch Thanh.
        - Ái chà!
        - Nhị đệ đã đấu với Địch Thanh rồi à?
        - Chưa, nhưng đã thấy y đấu với một trưởng lão Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Gay nhỉ. Nhưng nếu đại ca giúp em thì mười Địch Thanh em cũng không sợ. Đại ca hứa không?
        Nhà vua cầm tay Tự-Mai:
        - Ta hứa. Nhị đệ yên tâm. Nào bây giờ chúng ta đi chơi.
        Tôn Đản chỉ ra ngoài:
        - Hôm nay anh cả cho chúng mình tự do đi chơi. Nào, chúng mình năm đứa, thêm anh Lê Luyện nữa là sáu. Chúng mình tiếu ngạo Biện-kinh nào.
        Tự-Mai, nhà vua vào trong nhà thay quần áo. Sáu người lên một chiếc xe song mã. Lê Văn nói:
        - Để em đánh xe.
        Lê Văn cho xe chạy khắp những con đường lớn trong thành Biện-kinh. Khi mặt trời đứng bóng, Thuận-Tông đề nghị:
        - Chúng mình kiếm một tửu lầu nào đánh chén đi?
        - Ừ nhỉ. Đói lè lưỡi ra rồi đây.
        Lê-Văn ngừng lại trước tửu lầu Cô-tô:
        - Chúng ta vào đây. Hôm nay có Lê đại ca, chúng ta đãi đại ca một bữa. Nhưng Lê đại ca à, đệ nói một câu, đại ca đừng giận nghe.
        - Văn đệ cứ nói.
        - Sau nửa ngày đi chơi Biện-kinh, đệ có cảm tưởng lần đầu tiên đại ca du ngoạn đế đô quá.
        - Văn đệ nói đúng đó. Ta vì lý do riêng, chỉ biết đọc sách, chứ nào có
        biết ngoài đời là gì.
        Chủ tửu lầu Cô-tô thấy có sáu thiếu niên quần áo sang trọng vào, vội chạy ra tiếp. Nhà vua nói như ra lệnh:
        - Người cho ta một bàn, càng yên tĩnh càng tốt.
        Thấy dáng điệu uy nghiêm của nhà vua, chủ nhân chắp tay chỉ vào cầu thang:
        - Mời mấy công tử lên lầu.
        Y thân dẫn sáu người tới căn phòng. Trong phòng chỉ có hai bàn. Bàn nào cũng chưng hoa thực đẹp. Bốn vách đều treo tranh cùng bút thiếp.
        Nhà vua hỏi:
        - Nhà hàng có những món gì đặc biệt?
        Chủ nhân đáp đầy vẻ tự hào:
        - Bản tửu lầu có thể cung cấp hầu quý công tử bất cứ món gì quý nhất thế gian. Ngoài ra còn có ba hoa khôi. Ba nàng đều thuộc con nhà danh gia bị hàm oan. Các nàng chỉ nhận tiếp thiếu niên công tử, với lời ước hẹn: Nếu nói lên được mối oan khuất của phụ thân, các nàng nguyện theo hầu trọn đời.
        Nhà vua gật đầu hài lòng:
        - Vậy nhà người đem cho ta sáu cân Thái-tổ ngự tửu. Hai con gà nướng xứ Thục. Ba con cá hồ Động-đình hầm nấm Đại-lý. Sáu con cua Liêu-Đông hấp tương Đàm-châu. Còn tráng miệng thì cam Giang-Nam, quýt Tương-dương. Người cho chúng ta gặp ba đóa hoa tươi được không?
        Chủ nhà tửu lầu nghe nhà vua gọi toàn món trân quý, thì biết đây là những thiếu niên con nhà danh gia. Y cúi đầu chào, rồi lui xuống lầu. Lát sau ba thiếu nữ tuổi khoảng mười tám, y phục tha thướt bưng rượu lên. Ba người mặc quần áo ba mầu khác nhau: Hồng, thanh, tím. Cô mặc áo hồng giới thiệu:
        - Chúng em được chủ nhân sai lên hầu tiếp sáu vị công tử. Em tên Hồng. Con hai cô này tên Thanh và Tử.
        Tự-Mai giật mình, vì cả ba thiếu nữ đều nhan sắc tuyệt thế, không thua gì Mỹ-Linh, Hà-Thanh, Huệ-Phương. Nét mặt nàng Hồng trông quen quen, mà Tự-Mai không nhớ ra đã gặp ở đâu.
        Ba nàng thay nhau rót rượu. Nhà vua bưng chung rượu uống một hớp, cầm đũa khuấy lên ba lần rồi uống hớp nữa. Ông gật đầu nói:
        - Được! Đúng là Thái-tổ ngự tửu đây.
        Nàng Tử nói:
        - Công tử thực sành sỏi. Bọn em tiếp vương tôn quý khách tới hàng nghìn người. Họ cứ gọi Thái-tổ ngự tửu rồi uống như trâu uống. Nào có biết gì thực hay giả. Chỉ công tử biết thử mà thôi.
        Thiện-Lãm thực thà:
        -- Cô nương ơi! Trong sáu anh em tôi , chỉ mình Lê đại ca biết giá trị của Thái-tổ ngự tửu. Còn chúng tôi thì chưa từng nghe danh loại rượu này bao giờ, nên dù có uống cũng uống như trâu mà thôi.
        Ba nàng bật cười.
        Nhà vua thấy Thiện-Lãm thực thà thì vừa lòng:
        - Hà đệ tính tình trung thực đấy. Thái-tổ ngự tửu nguyên do thừa tướng Cao Hoài-Đức nghiên cứu, tìm ra một thứ nấm trong hang Tý-Ngọ đất Thục về cấy thành men, rồi nấu với nếp trồng trên sườn núi vùng Kinh-châu. Khi cất phải cất đến bốn lần. Sau khi cất, bỏ hũ rượu xuống đáy sông hay giếng. Lúc uống mới lấy lên.
        Bỗng chủ tửu lầu dẫn thêm hai người khách vào phòng. Y mời khách ngồi vào cái bàn còn lại, rồi nói:
        - Xin các vị đại nhân thông cảm. Phòng này đã có sáu tiểu công tử chiếm một bàn. Còn một bàn dành cho các vị.
        Một khách phất tay:
        - Thôi được rồi. Người dọn các món ăn ta đã đặt sẵn ra đi. Gọi con hát lên tiếp ta.
        Tôn Đản liếc nhìn hai thực khách. Nó thấy dáng điệu quen thuộc, nhưng không nhớ đã gặp nhau ở đâu. Nó đưa mắt cho Lê Văn. Lê Văn dùng
        Lăng-không truyền ngữ nói cho cả bọn nghe:
        - Phải cẩn thận. Ngồi im, đừng quay lại. Hai tên đại địch đã tìm tới. Có lẽ chúng theo dõi, biết ta lên đây, nên theo sau định mưu đồ gì.
        Tôn Đản hỏi:
        - Chúng hoá trang chăng?
        Lê-Văn đáp:
        - Đúng vậy. Hai lão già kia chính là Khiếu Tam Bản, Sử-vạn Na-vượng. Lê đại ca nội công thấp quá, không thể dùng Lăng-không truyền ngữ nói với anh ta. Làm sao bây giờ?
        Tự-Mai đưa hai ngón tay ra hiệu ngụ ý: Tuyệt đối không xử dụng võ công. Nó dùng ngón tay viết lên đùi nhà vua, kể cho nhà vua nghe về lý lịch hai tên Sử-vạn, Khiếu. Nhà vua cũng dùng tay viết lên đùi Tự-Mai:
        Ta nhận ra chúng rồi. Chúng hóa trang chắc có mục đích riêng. Nhị đệ hứa trừ bọn chúng cho ta. Vậy làm đi thôi. »
        Tự-Mai viết:
        «Không vội. Chúng theo lên đây ắt có mưu đồ. Cứ chờ xem
        Nhà vua viết:
        «Sử-vạn Na-vượng trước thống lĩnh Ngự-lâm quân. Còn Khiếu-tam-Bản thống lĩnh Thị-vệ cùng tế tác của thái hậu. Không hiểu chúng có nhận diện được ta không? Nhị đệ trị được hai tên này, ta mới hy vọng nắm quyền
        Tự-Mai viết:
        «Đại ca yên tâm
        Nó tảng lờ hỏi nhà vua:
        - Đại ca có biết nguyên lý cất rượu Thái-tổ ngự tửu không?
        - Không.
        Lê Văn cười khì khì:
        - Phương pháp không có gì lạ hết. Để em giải thích cho các anh nghe. Ai đã tìm ra phương pháp cất rượu này thực tuyệt! Giống nấm ở trong hang không mặt trời vốn thuộc vật chí âm. Lúa trên núi hứng ánh nắng thuộc chí dương. Khi cất, hơi bốc lên thành dương khí. Sau lại bỏ xuống nước tẩm âm khí. Vậy rượu này uống vào sẽ có vị ngọt, vị cay, cùng hương thơm rất lâu trong miệng. Còn uống bình thường với uống sau khi quậy lên quả tình em không biết.
        Nhà vua nắm tay Lê Văn:
        - Văn đệ giỏi y lý thực. Thái-tổ ngự tửu có tính chất rất đặc biệt. Nếu uống bình thường, hương tỏa ra khắp miệng, cổ hầu, cay cay, ngọt ngọt. Còn quậy lên uống, thì chỉ còn ngọt ngọt thôi, cay cay giảm phân nữa.
        Ba thiếu nữ cúi đầu tạ:
        - Công tử thực sành điệu.
        Cả bọn bắt chước nhà vua, uống một hớp, rồi lấy đũa quậy lên uống. Cả năm đều gật đầu:
        - Đúng như đại ca nói.
        Tửu bảo dọn các món ăn lên. Nhà vua giảng chi tiết những hương vị khác nhau cho năm người bạn mới. Trong năm trẻ, Tự-Mai đã được hưởng hầu hết thực vật trân quý của Đại-Việt. Còn những món ăn Trung-quốc quả tình nó chỉ biết lờ mờ. Nay vừa được ăn, vừa được giải thích, khiến nó muốn nuốt cả lưỡi vào.
        Chợt nhà vua để ý đến một bức trướng lụa treo trên tường. Ông hỏi nàng Hồng:
        - Ai viết bức trướng này thế?
        Nàng Hồng chỉ vào nàng mặc áo tím:
        - Nguyên bức này của Tử muội mang đến. Tử muội vốn con nhà danh gia. Phụ thân bị hàm oan. Người buồn khổ qúa, đã viết bức trướng này để tỏ mối ẩn ức của bậc tôi trung. Tử muội hứa rằng: Nếu ai hiểu thấu tâm tư phụ thân nàng. Nàng nguyện theo hầu cả đời.
        Nàng ngừng lại chỉ vào nàng Thanh:
        - Còn Thanh muội thì hứa rằng, nếu ai đoán đúng tên tuổi, chức tước của người viết. Thanh muội cũng xin dâng cả cuộc đời. Nàng liếc mắt nhìn Khiếu Tam Bản:
        - Còn tiểu nữ. Tiểu nữ lại đi tìm một vị nam tử thực thông minh hầu trao thân gửi phận.
        Nàng chỉ Sử-vạn Na-vượng:
        - Hai vị đại nhân đây đã thử, nhưng không vị nào đạt được cả.
        Sử-vạn Na-vượng giật mình:
        - Ta... ta đã thử bao giờ đâu mà cô nương bảo không đạt được?
        Nàng Hồng vội chắp tay:
        - Nếu vậy tiểu tỳ xin lỗi hai đại nhân. Tiểu tỳ thấy hai đại nhân hao hao giống hai đại thần tên Sử-vạn Na-vượng cùng Khiếu Tam Bản. Hai vị đó thường hay tới đây xơi rượu, đã từng dự việc bình văn này, nhưng không trúng cách.
        Khiếu Tam Bản chỉ bức trướng:
        - Mỗi lần cô nương đưa ra một bức khác nhau. Hôm trước cô nương đưa ra bức trướng viết bài Ly-tao của Khuất-Nguyên, nói rằng của thân phụ cô. Còn hôm nay sao lại là bức này? Tuồng chữ hoàn toàn khác với tuồng chữ hôm trước.
        Tự-Mai cười thầm:
        - Tên này dấu đầu hở đuôi rồi. Sử vừa nói: Chưa thử bao giờ. Thế mà tên Khiếu lại phun ra: Hai bức trướng khác nhau, thì rõ ràng đã thử rồi.
        Nàng Hồng đáp:
        - Thưa tiên sinh, bức viết bài Ly-tao là bút tích của thân phụ Thanh muội. Bức hôm nay là bút tích của thân phụ Tử muội.
        Mọi người đều nhìn vào bức trướng bằng lụa, trên viết bài Tiền xuất sư biểu của Gia-cát Lượng, Thừa-tướng Thục đời Tam-quốc. Đối với Tôn Đản, Thuận-Tông, Thiện-Lãm, chữ Hán của chúng chỉ đủ để đọc những bản văn thông thường thì sao hiểu được bài biểu uẩn súc trên? Còn Tự-Mai, Lê Văn, cả hai đã thuộc làu hai bài Xuất sư biểu của Gia-cát từ hồi chín mười tuổi.
        Nhà vua hỏi Tự-Mai:
        - Nhị đệ có biết hai bài văn này không? Nhị đệ thử kiến giải, biết đâu không trúng ý Tử cô nương? Người đẹp thế kia, thực xứng làm nhà vàng cho ở.
        Tự-Mai lắc đầu:
        - Đệ có học Bắc-sử. Nhưng bản văn này bây giờ mới thấy lần đầu. Mà dù văn gì chăng nữa, đệ chỉ đọc một lần thì thuộc ngay.
        Nàng Hồng, Thanh, Tử cùng lắc đầu:
        - Công tử khéo đùa thì thôi. Bài Tiền xuất sư biểu này dài thế kia, dù người thông minh nhất cũng phải học hàng chục lần mới thuộc. Có đâu công tử chỉ đọc một lần đã thông.
        Lê Văn biết ý Tự-Mai, nó nói:
        - Anh tôi học chữ Hán không làm bao, nên bản văn trên có thể nhiều chữ không biết đọc, dĩ nhiên làm sao hiểu nổi. Tuy nhiên nếu có ai đọc cho nghe một lần, ắt anh ấy thuộc.
        Nàng Thanh nói:
        - Vậy chúng ta đánh cuộc.
        - Cuộc gì nào?
        Lê Văn hỏi: Cả ba tiểu thư đánh cuộc hay một mình Tử tiểu thư?
        Nàng Hồng đáp:
        - Bây giờ thế này. Nếu như tiểu nữ bình lên một lần, mà Trần công tử đọc lại được. Tiểu nữ nguyện làm tỳ nữ cho công tử cả đời. Còn như Trần công tử đoán được tâm sự người viết, Tử muội hoàn toàn thuộc Trần công tử.
        Nhà vua để ngón tay lên đùi Tự-Mai viết mấy chữ:
        Nhị đệ đừng sợ. Ta nói gì mặc ta, nhị đệ ậm ừ cho qua.
        Nhà vua nói:
        - Nếu như nhị đệ của tôi tìm ra được lý lịch người viết, thì các cô tính sao? Tôi nói cho các cô hay, nhị đệ của tôi chỉ nhìn nét chữ, có thể biết tiểu sử người viết nữa.
        Cả ba cô đều trợn mắt lên kinh ngạc. Nàng Thanh đáp:
        - Nếu Trần công tử có thể gọi ra tên người viết thôi. Tiểu nữ cũng xin làm tỳ nữ cho Trần công tử. Nhưng còn trường hợp Trần công tử thua thì sao?
        Trong khi mọi người truyện trò, bàn bên cạnh, bọn Sử-vạn Na-vượng vẫn thản nhiên đánh chén, nói truyện thì thào.
        Tự-Mai đáp:
        - Tôi cũng xin làm nô bộc cho ba cô nương.
        Nàng Hồng đáp:
        - Bọn tiểu nữ đâu dám thế. Tiểu nữ chỉ yêu cầu; nếu Trần công tử thua cuộc, xin sáu vị công tử giết dùm sáu người.
        Lê Văn lắc đầu:
        - Chúng tôi từ muôn dặm tới đây, phải tuyệt đối tuân theo phép vua Tống. Có đâu giết người Tống. Tuy nhiên nếu sáu người mà các cô muốn giết thuộc loại ác bá, giết đi mà vua Tống vui lòng, thì chúng tôi xin tình nguyện ra tay.
        Nàng Tử đáp:
        - Thế thì dễ quá rồi. Xin thưa với sáu công tử rằng sáu tên mà bọn tiểu nữ nhờ giết tội ác ngập đầu. Hoàng-đế đều muốn giết chúng, nhưng ngài cũng không giết được.
        - Vậy thì hay quá. Nào chúng ta bắt đầu cuộc đánh cuộc.
        Tự-Mai nghĩ thầm:
        - Tuy ta thuộc lòng, nhưng cũng nên dò lại xem, bản chép này có giống bản mình học chăng? Lỡ có chỗ không giống nhau, hoá ra mình đọc sai, thì thua cuộc mất.
        Nàng Tử cất cao giọng đọc. Tự-Mai đọc theo. Thỉnh thoảng vờ không biết đọc một vài chữ, nó ngừng lại chỉ vào hỏi, rồi đọc tiếp cho đến hết. Nó nhận ra bản này với bản nó học không khác nhau một chữ nào. Nhưng có nhiều chữ người viết cố ý bớt đi vài nét, viết nhỏ lại, đó là những chữ: Nghĩa, Trinh. Nó biết người viết kiêng tên vua Thái-Tông, Chân-Tông, Thiên-Thánh. Như vậy ắt là thần tử Tống triều.
        Đọc xong nó nói:
        - Bây giờ tôi quay lưng lại bức trướng đọc. Xin ba vị cô nương dò xem có sai không?
        - Bọn tiểu nữ chờ công tử.
        Nó hắng rặng một tiếng, rồi đọc:
        « Thần, Lượng ngôn: Tiên đế sáng nghiệp vị bán, nhi trung đạo băng tồ; kim thiên hạ tam phân, Ích-châu bì tệ, thử thành nguy cấp, tồn vong chi Thu dã. Nhiên, thị vệ chi thần, bất giải vu nội; trung chí chi sĩ, vong thân vu ngoại giả: Cái truy Tiên-Đế chi thù ngộ, dục báo chi ư bệ hạ dã... »
        Trung khí Tự-Mai cực hùng hậu, nó đọc lớn, khi trầm khi bổng, mọi người đồng theo dõi bản văn trên vách xem có chỗ nào sai không. Trong khi đó Thiện-Lãm hỏi Lê Văn:
        - Văn gì mà trúc trắc qúa, mình hiểu lờ mờ. Lê Văn dịch cho nghe đi.
        Lê Văn dịch nhỏ:
        Thần là Lượng, xin tâu: Tiên-Đế sáng lập nghiệp rồng chưa được một nửa, mà giữa đường đã sớm băng. Nay thiên hạ chia ba, Ích-châu nghèo khó, nguy cấp đến trong sớm tối. Tuy nhiên bậc thần trong triều không quản ngại khó khăn; trung, chí sĩ bỏ mình ở ngoài đều vì ơn Tiên-Đế tri ngộ, muốn báo đáp ở bệ hạ vậy...
        Cứ như thế Tư-Mai đọc cho đến câu Kim đương viễn ly, lâm biểu thế khấp, bất tri sở vân . Nghĩa là : Nay phải đem quân đi xa, dâng biểu lệ ứa, nói không hết lời , rồi ngừng lại. Tôn Đản reo:
        - Chú Sáu của tôi thắng rồi. Hồng cô nương! Cô nương tính sao đây?
        Sử-vạn Na-vượng cười khúc khích:
        - Thằng nhỏ láu cá này bịp cô nương đấy. Có khi nó được học từ nhỏ, nay vờ đóng kịch, rồi đọc lại mà thôi.
        Tôn Đản cãi:
        - Đó chẳng qua là tiên sinh tưởng tượng mà thôi. Anh Sáu của tôi đâu có phải người Hán mà thuộc áng văn cổ kính này?
        - Được, bây giờ đánh cuộc lại. Ta sẽ đưa ra bài thơ, nếu mi đọc một lần thuộc, ta mới chịu phục, không can thiệp vào truyện này nữa.
        Lê Văn hỏi nàng Hồng:
        - Ông cụ này là người ngoại cuộc. Chúng tôi chỉ xin hỏi cô nương mà thôi. Cô nương có chịu thua cuộc hay còn nghi ngờ như ông cụ kia?
        Nàng Hồng phân vân nghĩ một lát rồi nói:
        - Trần công tử. Xin Trần công tử cho tiểu nữ được kiến thức trí thông minh một lần nữa.
        Lê Văn hỏi:
        - Mình anh Sáu thôi ư? Có cho bọn này thử không?
        - Xin tùy lượng chư quân tử.
        Nàng Hồng lui ra ngoài một lúc, khi trở lại mang vào một cuốn trục lụa treo lên tường, rồi cung kính nói:
        - Đây là một bài từ, mà trên thế gian này chỉ có chưa đầy năm người biết. Xin Trần công tử cho tiểu nữ được thấy thần thông của công tử.
        Trong khi Tôn Đản cãi, Lê Văn dùng lăng không truyền ngữ nói với Tự-Mai:
        - Dễ quá, anh cứ đọc qua một lần, rồi quay lưng lại. Em dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai anh. Anh đọc lên cho họ khiếp vía một bữa.
        Mọi người nhìn lên bức trướng. Trên bức trướng vẽ một giai nhân đang đứng bên vườn đầy hoa. Cạnh giai nhân, đề một bài từ, nét chữ không lấy gì làm đẹp cho lắm. Thoáng nhìn, bọn Tự-Mai nhận ra giai nhân chính là Khấu Kim-An, vợ của Trần Bảo-Dân. Bất giác cả bọn đưa mắt nhìn nhau.
        Nhà vua thấy bức trướng, long tâm dâng lên mối buồn vô hạn. Kỷ niệm hơn mười năm trước trở về:
        Năm ấy vua Chân-Tông đang buồn bực vì quần thần phản đối, muốn truất phế Lưu hoàng hậu. Vì hoàng hậu xuất thân bần hàn. Một lần đến dinh tể tướng Khấu-Chuẩn, vô tình liếc thấy tiểu thư Khấu-kim-An, Chân-Tông như ngây như dại. Rồi không đừng được, ngài sai đón nàng về, những tưởng sẽ phong nàng làm hoàng hậu. Vì Kim-An là con tể thần, lập nàng làm hoàng hậu, không ai bàn tán dị nghị được nữa. Khi đón nàng về, ngài sai họa sĩ vẽ hình. Chính ngài cầm bút viết lên bài từ tả nhan sắc nàng. Đêm ấy ngài cùng nàng uống rượu. Khi sắp động phòng, nhà vua bị một võ lâm đột nhập bắt nàng đi mất. Khấu thừa tướng lại tưởng Lưu hậu ghen tuông, sai người hại Kim-An. Để đền bù, nhà vua tặng lại bức tranh cho Khấu Chuẩn. Sau vua Chân-Tông có ngự bút tặng nhà vua một bản. Nhà vua đọc riết rồi thuộc làu.
        Nay nhìn nhìn nét chữ của phụ hoàng, nhớ lại mối nhu tình tuyệt vọng của người, mà lòng nao nao.
        Nhà vua nghĩ thầm:
        - Ba nàng này thế nào cũng có liên hệ với Khấu Chuẩn.
        Nhà vua nói với Tự-Mai:
        - Nhị đệ, người nhường cho đại ca đánh cuộc được không?
        - Đệ xin nhường.
        Nhà vua cất cao giọng đọc. Bài từ gồm hơn bốn mươi câu. Giọng nhà vua tuy không hay, nhưng cũng diễn tả được hồn thơ tả người đẹp. Đọc xong, nhà vua nói:
        - Hồng tiểu thư. Ta xin đọc lại. Tiểu thư kiểm xem có sai không nghe.
        - Xin công tử diễn cho.
        Nhà vua lại cất cao giọng ngâm. Lần này giọng ngân dài hơn lần trước. Thoáng một cái, hơn bốn mươi câu được ngâm xong.
        Tự-Mai vỗ tay:
        - Hồng cô nương. Người chịu phục đại ca tôi chưa?
        Sử-vạn Na-vượng cãi:
        - Gã họ Lê kia cũng thuộc bài từ này trước rồi.
        Nhà vua nghĩ mình là đế vương, không muốn đánh lừa người con gái của bầy tôi, ông định lên tiếng xác nhận mình thuộc từ trước. Nhưng nàng Hồng đã nói:
        - Sử lão gia. Bài từ này chưa quá năm người đọc qua, muôn ngàn lần Lê công tử không thể thuộc trước được.
        Nàng Thanh hỏi:
        - Cuộc thứ nhất Trần công tử thắng. Cuộc thứ nhì Lê công tử thắng. Vậy Hồng thuộc về ai bây giờ?
        Tự-Mai nói:
        - Tôi xin nhường cho đại ca.
        Nàng Hồng tươi mặt lên, vén vạt áo quỳ trước nhà vua:
        - Tiểu tỳ xin tham kiến công tử. Từ nay đến hết đời, tiểu tỳ nguyện theo hầu công tử. Theo hầu một thiếu niên thông minh nhất thiên hạ, thực không uổng tấm hồng nhan.
        Nhà vua tháo sợi dây vàng trên cổ có tượng Tống Thái-Tổ đeo vào cho nàng Hồng:
        - Gọi là chút quà diện kiến. Sau này ta sẽ tặng nàng nhiều món khác.
        Nàng Hồng chắp tay đứng hầu sau nhà vua.
        Nàng Tử chỉ lên bức trướng viết bài Tiền xuất sư biểu nói:
        - Các công tử thử đoán tâm sự người viết. Ai đoán đúng, thân của tiểu nữ thuộc về người đó.
        Nhà vua viết trên đùi Tự-Mai:
        - Xin được nghiên cứu một khắc.
        Tự-Mai vội đáp:
        - Đại ca được nàng Hồng. Còn lại hai nàng, tôi xin nhập cuộc. Hãy cho tôi suy nghĩ một khắc, sẽ trả lời cô nương.
        Nó ngồi mở to mắt lên đọc. Trong khi đó nhà vua viết lia lịa trên đùi nó. Chưa hết một khắc, nhà vua viết xong. Tự-Mai làm bộ cau mày, kỳ thực nhắc lại những gì nhà vua viết:
        - Xưa Vũ-hầu được Tiên-đế Lưu Bị thác con côi là Hậu-Chúa cho. Lúc ông xuất sư đánh giặc, dâng bài biểu này lên Hậu-Chúa. Vậy người viết cũng là đại thần nhận cố mệnh của chúa, cùng một tâm sự với Vũ-hầu.
        Nàng Tử gật đầu khen:
        - Đúng.
        - Nét bút người này hoa dạng, mà lại sắc. Hai thứ đó hợp lại, hẳn đã đỗ đại-khoa, rồi lên tới bậc tể thần. Có là tể thần mới được chúa thác con côi cho.
        Nàng Tử gật đầu:
        - Giỏi.
        - Nết chữ hoa dạng ắt là tay văn chương quán thế. Sắc, hẳn là người trực tính. Khi một tể thần, lại trực tính muốn thi hành đạo Nho cho chính đạo, bên cạnh ấu quân sao khỏi bị dèm pha, tôi e đường công danh khó toàn vẹn được.
        Cả ba nàng đều gật đầu:
        - Tuyệt.
        - Người này chắc cũng được chúa thác cô, phù ấu quân. Nhưng tại sao văn chương ông quán thế, không làm thơ, văn ký thác tâm sự như Khuất Nguyên mà phải chép lại bản văn của người xưa? Có lẽ ông được chúa ủy thác con côi. Một tấc lòng son vì chúa. Nhưng bị vu oan, bị hiểu lầm, nên bị cách chức, phải xa chúa. Đau đớn thay, mình là tể thần, được tiên đế ủy thác đại sự, tài có, chí có, mà không được giúp chúa hành đạo. Hơn nữa bị vu hãm oan khuất, dù chết cũng khó nhắm mắt nên mất bình tĩnh, đâu có thể làm thơ văn ký thác tâm sự? Nên đành chép văn của Vũ-hầu, để lại cho hậu thế, may ra có ai thấu tấm lòng cô trung cho chăng?
        Nàng Tử ôm mặt bật lên tiếng khóc thút thít, rồi tới trước mặt Tự-Mai quỳ gối lạy:
        - Trần công tử. Kể từ nay, tấm thân bèo bọt này thuộc về công tử. Công tử đã minh oan dùm cho phụ thân tiểu tỳ.
        Tự-Mai phất tay một cái, kình lực đỡ nàng dậy:
        - Cô nương! Tự-Mai này vốn vô tài, sở dĩ tôi đoán trúng là do...
        Nó định nói thực do nhà vua mách nước. Nhưng nhà vua viết trên đùi nó:
        Cứ nhận nàng làm tỳ nữ đi. Sau này có nhiều điều hay. Tặng nàng vật gì làm lễ diện kiến.
        Tự-Mai tiếp:
        - ... nhờ ơn trên giúp cho.
        Nó nói câu này, dự trù sau đây sẽ thú thực do nhà vua ám trợ. Rồi nó tháo sợi dây vàng trên cổ có tượng con rồng với con chim âu tượng trưng Quốc-tổ, Quốc-mẫu đeo cho nàng Tử:
        - Đây là vật bố tôi cho tôi năm mười hai tuổi. Xin tặng cô nương làm lễ diện kiến.
        Nàng Tử tạ ơn, rồi chắp tay đứng sau Tự-Mai.
        Nhà vua hỏi nàng Thanh:
        - Thế nào, Thanh cô nương có còn muốn đánh cuộc với nhị đệ tôi không?
        Nàng Thanh đáp:
        - Tiểu nữ vẫn không đổi ý. Trần công tử. Xin công tử tiếp cho.
        Tự-Mai không thấy nhà vua viết trên đùi nữa. Nó biết vị tể thần thân sinh nàng Tử bị Lưu hậu cách chức oan, nên nhà vua không muốn bàn tới lỗi lầm của mẹ. Nó kết hợp những gì Thiệu-Cực nói, những gì Lý thái-phi tiết lộ, và những gì nhà vua viết trên đùi nó, rồi nói:
        - Xét cho kỹ, tấm lụa còn mới, chắc viết chưa lâu. Vị tể tần này cũng mới viết mấy năm gần đây thôi. Vậy việc ủy thác con côi ứng vào với triều Tống. Con côi không ai khác hơn Thiên-Thánh hoàng-đế.
        Nhà vua bẹo đùi Tự-Mai một cái, mỉm cười. Nó tiếp:
        - Thiên-Thánh hoàng đế năm nay mới mười tám. Như vậy khi ngài lên ngôi năm mười hai tuổi. Chắc chắc đức Ứng phù, kê cổ, thần công, tuyên đức, văn minh, võ định, chương thánh nguyên hiếu hoàng đế tức vua Chân-Tông khi băng hà đã thác côi cho người viết bản văn này.
        Nàng Thanh thản nhiên:
        - Xin công tử tiếp cho.
        Tự-Mai xua tay:
        - Tôi đã nói hết đâu! Dường như năm Càn-hưng nguyên niên (Nhâm-Tuất, 1022), tháng hai ngày Giáp-Thìn vua Chân-Tông phong cho Đinh Vị tước Tào-quốc công lĩnh Thái-tử thiếu-sư môn hạ thị lang. Phùng Thừa tước Ngụy-quốc công lĩnh Thiếu-phó lại bộ thượng thư, đồng bình chương sự. Tào Lợi-Dụng tước Hàn-quốc công lĩnh Thiếu-bảo đồng bình chương sự. Như vậy ba ông là tể thần bấy giờ. Sau vụ thăng chức tước này mười bốn ngày sau tức ngày Mậu-Ngọ vua băng. Vậy chắc chắn ngài thác cô cho ba ông Đinh, Phùng, Tào chứ không phải ai khác.
        Cả ba cô đồng reo lên:
        - Tuyệt.
        - Có ba đại thần được ủy thác con côi. Thế nhưng tháng bẩy năm đó, ngày Tân-Mão, Đinh quốc-công bị cách chức, biếm làm Nhai-châu tư hộ tham quân. Năm sau, Thiên-Thánh nguyên niên ( Quý-Hợi, 1023) tháng chín, ngày Bính-Dần, đến lượt Phùng quốc công bị cách chức, Vương Khâm-Nhược lên thay. Cũng năm, tháng đó ngày Kỷ-Hợi, tức chín ngày sau Phùng quốc công chết. Hiện nay trong ba tể thần được ủy thác con côi chỉ còn có mình ông Tào Lợi-Dụng. Vậy người viết bản văn này là một trong hai ông Đinh, Phùng.
        Nhà vua gật đầu khen:
        - Giỏi.
        - Cứ lý mà suy, ông Đinh bị đầy, hy vọng có ngày được phục chức, vì vậy đâu dám chép văn người xưa ký thác tâm sự? Bởi khi chép lời người xưa ủy thác tâm sự, tức cho rằng mình bị hàm oan. Chúa đầy, mà mình cho rằng oan, có nghĩa rằng chúa bất minh, là hôn quân. Còn ông Phùng, bị cách chức oan uổng, tâm tư rối loạn đến nỗi chết, viết văn ký thác tâm sự không nổi, nên đành chép văn người tỏ lỗi lòng mà thôi. Vậy người viết bản văn này là ông Phùng Thừa.
        Nó hỏi nàng Thanh:
        - Tiểu thư. Thì ra tiểu thư là ái nữ của Ngụy quốc công Phùng Thừa đó ư?
        Đến lượt nàng Thanh quỳ gối hành lễ với Tự-Mai.
        - Trần công tử đã minh oan cho tiên phụ. Tiểu tỳ nguyện theo hầu cả đời.
        Nhà vua vỗ vai Tự-Mai:
        - Nhị đệ! Mừng cho nhị đệ. Nhị đệ thấy con gái Hán tộc giữ lời hứa không?
        Lời nói của nhà vua làm hình ảnh Đỗ Lệ-Thanh hiện lên trước mặt Tự-Mai. Nó vội lắc đầu:
        - Đệ không thể, không dám nhận hai tiểu thư khuê các này làm tỳ nữ đâu. Còn thu nàng làm tỳ thiếp, đệ lại càng không dám. Trong tâm đệ chỉ có Thuận-Tường mà thôi. Đệ nhường cho đại ca đấy.
        Nhà vua nói như ra lệnh:
        - Nhị đệ là em ta, thì bất cứ cô gái trong thiên hạ này làm tỳ thiếp cho nhị đệ cũng là vinh hạnh. Nhị đệ cứ thu nhận hai nàng, thêm Thuận-Tường là ba, có sao đâu?
        - Đệ là người Việt, không phải người Hán, cũng chẳng là vua là quan, đệ chỉ muốn một vợ thôi.
        Nó nói với hai nàng:
        - Tôi thực không xứng đáng làm chồng hai tiểu thư, lại càng không thể làm chủ nhân hai vị. Vả lại việc kiến giải này do người trên dạy dỗ tôi. Tôi... tôi không muốn lừa dối hai nàng. Thôi, hai tiểu thư có thể đi được rồi.
        Nàng Thanh nói:
        - Công tử ơi, công tử hiểu cho tiểu tỳ. Kinh Thi nói Phiếm bỉ bách chu, nghĩa là thân con gái như chiếc thuyền lênh đênh. Khi gặp được đấng quân tử mình mơ ước, thì dù chết cũng không bỏ. Chị em tiểu tỳ nhất định theo công tử đến cùng.
        Tự-Mai vò đầu:
        - Trời đất ơi! Tuổi tôi còn nhỏ, trên có cha, anh, chị. Tôi đâu dám quyết định càn. Huống hồ Hán, Việt khác nhau, tôi đâu có thể...
        Đến đây nó chợt nhớ lại: Thuận-Tường cũng là người Hán, chứ đâu phải người Việt. Nó xua tay:
        - Vạn vạn lần tôi không dám nhận hai vị cô nương làm tỳ thiếp hay nô bộc. Thôi hai cô nương nên rời đây. Xung quanh có hàng vạn vạn đấng quân tử khẩn cầu.
        Hai nàng òa lên khóc:
        - Nếu công tử không thu dụng, bọn tiểu tỳ đành tự tận thôi.
        Tự-Mai hoảng kinh:
        - Thôi, đừng! Đừng làm thế. Hai cô mà tự tử, bản sư nghe biết ắt đốt tôi thành than mất.
        Nó thở dài:
        - Hôm nay tôi đi chơi, không mang theo vật dụng làm lễ diện kiến. Đợi lát nữa trở về, tôi sẽ xin chị tôi mấy món tặng hai nàng. Tôi nói trước: Tính tôi ưa nghịch, ưa phá. Các cô theo tôi e mang khổ vào thân.
        Thiên-Thánh hoàng đế quên mất mình là Lê Luyện. Ông phán như truyền chỉ:
        - Hai nàng cứ theo hầu nhị đệ. Hễ nhị đệ vui lòng, thì tương lai trẫm... ta tin rằng phụ thân các nàng sẽ được truy hồi chức tước.
        Sử-vạn Na-vượng nói với Khiếu-tam-Bản:
        - Hiền đệ coi sáu thằng nhãi ranh chưa ráo máu đầu bịp bợm ba cô gái. Nhất là cái tên họ Lê kia làm như Hoàng-đế không bằng.
        Nhà vua quát:
        - Không được vô phép.
        Sử-vạn Na-vượng cười ha hả:
        - Ta cứ vô phép, thì mi tính sao?
        Nói rồi y cầm cái chung trà bóp vỡ ra thành bột tung về phía nhà vua. Tự-Mai phất tay một cái, đám bụi bay chéo ra sau lưng nó.
        Tôn Đản là người thâm trầm, nó dùng lăng không truyền ngữ nói với anh em:
        - Chưa chắc nhà vua đã thực sự ghét hai tên này. Ta phải làm sao cho chúng vô lễ với nhà vua. Trong khi anh em ta càng tỏ ra sức nhũn nhặn, như vậy chúng càng làm tới. Thuận-Tông khéo nói, hãy lên tiếng trước đi.
        Thuận-Tông đứng dậy chắp tay hướng Sử-vạn:
        - Lão tiên sinh! Hôm nay tam sinh hữu hạnh anh em vãn sinh được ngồi ăn cùng phòng với tiên sinh. Chẳng hay anh em vãn sinh có chỗ nào vô phép, bịp bợm, mong tiên sinh chỉ cho.
        Nói rồi nó xá một xá nữa. Sử-vạn Na-vượng thấy dáng điệu Tôn Đản, Lê Văn rất quen, kể cả giọng nói. Nhưng vì hôm trước hai đứa hóa trang, nên y không nhận được. Thấy Thuận-Tông nói năng lễ độ, Sử-vạn cho rằng đám thiếu niên này sợ y. Y càng lớn lối:
        - Ba thiếu nữ sắc nước hương trời này là của hiếm có trên thế gian. Hôm nay đại giá ta đến đây, các thị phải hầu hạ chúng ta. Vậy kể từ lúc này, ta cấm bọn mi không được đụng tới ba nàng.
        Nhà vua bực mình hỏi:
        - Phải chăng mi tên Sử-vạn Na-vượng trước đây thống lĩnh Ngự-lâm quân? Còn lão kia tên Khiếu Tam Bản trước làm tổng lĩnh thị vệ. Các người ỷ làm quan lớn, rồi muốn ăn hiếp thiên hạ ư? Dù các ngươi làm quan tới tể thần, cũng không thể vô lý như vậy.
        Sử-vạn Na-vượng kĩnh hãi hỏi:
        - Mi, mi là ai?
        Tự-Mai dọa già:
        - Hai lão tiên sinh ơi, dù hai lão có hóa trang đến đâu cũng không dấu được tông tích. Thế nào, hôm trước đây võ lâm Trung-nguyên đồn rằng hai tiên sinh mới phát tài một món lớn. Người ta nói những gì, tiên sinh nhập phủ Kinh-lược sứ Kinh-châu lấy cống phẩm xứ đoàn Xiêm đến hàng cân ngọc trai, hàng tạ vàng... Hai tiên sinh muốn anh em tại hạ nhường ba nàng này cho ư? Dễ lắm.
        Khiếu Tam Bản kinh hãi hỏi:
        - Mi... mi là ai?
        Lê Văn cười:
        - Bọn vãn sinh là ai, hai tiên sinh khỏi cần hỏi. Chỉ cần hai tiên sinh xác nhận xem những lời đồn đó có đúng hay không mà thôi.
        Khiếu Tam Bản quát:
        - Chúng ta cứ bắt bọn sáu tên về tra xét xem ai xui chúng phao vu chúng ta ăn trộm.
        Nói rồi y vung tay chụp nhà vua. Lê Văn lạng người dùng lưng đỡ cho ông. Nó bị Sử-vạn chụp. Sử-vạn không ngờ chụp Lê Văn dễ dàng quá. Y nhắc bổng nó lên, rồi cười khành khạch:
        - Ta chỉ định trừng phạt tên họ Lê mà thôi. Không ngờ mi tự hứng lấy đau khổ. Mi đừng trách ta tàn nhẫn.
        Lê Văn cười lớn:
        - Lão Sử-vạn Na-vượng kia! Vì muốn làm phò mã, ta phải kính trọng Tống thiên-tử nên không thể dùng võ công. Chứ ta dùng võ công, thì e mười mi chúng ta cũng giết chết.
        Khiếu Tam Bản hỏi:
        - Người nói cái gì phò mã?
        Lê Văn đáp:
        - Chúng ta là ứng tuyển sinh phò mã. Khi làm phò mã đương nhiên thành cha mẹ dân, có đâu dụng võ với bọn mi?
        - Mi là ứng sinh phò mã, chứ dù mi có là phò mã, công chúa, ta cũng không cần biết tới. Bây giờ mi phải kêu ta ba tiếng Ông nội ta sẽ tha cho mi.
        Lê Văn cười khành khạch, nó chĩa ngón tay điểm vào huyệt Khúc-trì Sử-vạn. Tay Sử-vạn bị tê liệt liền, Lê Văn cựa mình một cái đứng xuống cạnh nhà vua.
        Khiếu Tam Bản lạng người tới chụp nhà vua. Nhà vua kinh hãi gọi Tự-Mai:
        - Nhị đệ cứu ta với.

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 08:18:38 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 20.01.2005 17:54:57 (permalink)
          Hồi thứ một trăm mười


          Ứng tuyển phò mã


          Tự-Mai lạng người tới trước mặt y, chàng chĩa ngón tay trỏ về trước. Nếu Khiếu tiếp tục đánh tới, thì lòng bàn tay của y bị thương trước. Khiếu Tam Bản vội biến chưởng thành cầm nã định bẻ ngón tay Tự-Mai. Tự-Mai xoè tay thành chưởng quay một vòng. Kình lực trên tay Khiếu Tam Bản tự nhiên biến mất. Y kinh hãi lùi lại hỏi:
          - Mi... mi dùng ma thuật gì thế?
          Tự-Mai cười:
          - Chiêu đó gọi là Lam tước vĩ trong Thái-cực quyền Bạch-Đằng giang thập ngũ thức.
          Tay Sử-vạn đã hoạt động lại được. Lập tức, y phát một chưởng bằng tất cả bình sinh công lực. Chưởng của y chưa ra mà mọi người đã muốn nghẹt thở. Trong chưởng có mùi hôi tanh khủng khiếp. Tôn Đản thấy nếu để chưởng đó đánh ra, e tất cả bọn Tự-Mai sáu người cùng ba thiếu nữ ắt tan xác mà chết, chàng vội phát chiêu Loa-thành nguyệt chiếu đánh thẳng vào người Sử-vạn. Trong khi Tự-Mai vòng tay trái ôm nhà vua, tay phải ôm nàng Tử vọt ra ngoài. Lê Văn chụp cổ áo nàng Hồng, nàng Thanh cùng nhảy ra khỏi phòng.
          Hai chưởng dương cương chạm nhau đến rầm một tiếng. Bao nhiêu bát đũa vỡ tan tành.
          Sau khi đối nhau một chưởng, Sử-vạn đã nhận ra Tôn Đản. Y cười khành khạch:
          - Thì ra mi. Thiên đàng có nẻo mi không đến. Địa ngục không đường dẫn xác vào. Hôm nay mi đừng hòng thoát tay ta.
          Chủ tửu lầu đã xuất hiện từ bao giờ. Y chắp tay:
          - Mong các vị đại nhân, các vị công tử bớt nóng giận. Nếu như các vị muốn dùng võ, xin xuống dưới nhà. Chứ ở đây mà mấy vị kịch đấu, e tửu lầu tan nát hết.
          Y hỏi ba thiếu nữ:
          - Cái gì đã xẩy ra?
          Nàng Hồng chỉ vào Tự-Mai với nhà vua:
          - Hai công tử đây thắng cuộc, rồi bị hai lão gia bắt phải trao ba chị em tôi cho người.
          Chủ tửu lầu chắp tay hướng Sử-vạn Na-vượng:
          - Xin đại nhân bớt nóng giận. Ba ca kỹ này tới bản lầu đã hơn năm. Ba nàng dùng văn chương kén chồng, tài tử giai nhân khắp kinh thành đều biết. Nay hai công tử đây trúng cách, được ba nàng theo về là lẽ thường. Không biết sao nhị vị lại nổi giận?
          Sử-Vạn chợt nhớ ra mình đang giả trang, không phải quan thống lĩnh Ngự-lâm quân. Y nói lảng:
          - Ta giận vì sáu tên nhãi con này khi không gán cho ta mang tên quan thống lĩnh Ngự-lâm quân Sử-vạn Na-vượng, như vậy ta... ta có thể mất mạng như chơi, cho nên ta nổi giận mà thôi.
          Sử-vạn Na-vượng cùng Khiếu Tam Bản trước đây đã được phong chức tước cực lớn. Song chức tước đó khi họ còn ở nước họ. Từ khi thất thế, họ sang Tống, chỉ được thí cho chức Nhập-nội đô-tri, tức thống lĩnh một đội thị vệ. Tuy chức quan nhỏ, nhưng Lưu hậu tín cẩn, chuyên sai hai lão đi khống chế quần thần. Hai lão lập nhiều công lớn với bà. Trước kia Tôn Đức-Khắc, giữ chức thống lĩnh Ngự-lâm quân. Lê Lục-Vũ giữ chức tổng lĩnh thị vệ. Mới đây Lưu hậu phong cho Tôn Đức-Khắc làm kinh lược Nam-thùy. Lê Lục-Vũ làm thống lĩnh Ngự-lâm quân cùng thị vệ. Bà mới cải phong cho Sử-vạn Na-vượng thống lĩnh Ngự-lâm quân. Khiếu Tam Bản coi thị vệ.
          Tuy hai lão được phong chức tước lớn, nhưng ngay tại triều cũng ít ai biết tên cùng mặt chúng ra sao. Huống hồ các quan ở ngoài xa? Hai lão nhận mật dụ của Lưu hậu tìm sứ đoàn Đại-Việt, hộ tống về kinh. Nhưng thực sự để dò la tung tích kho tàng Tần-Hán hầu có thể cướp lại. Nếu cần, dùng Chu-sa độc chưởng khống chế sứ đoàn để tra khảo.
          Không ngờ tất cả mưu kế của Lưu hậu bị tế tác Đông-a, Đại-Việt biết được. Trong bóng tối, Bảo-Hòa, Thông-Mai thiết kế cho Lê Văn, Tôn Đản hóa trang làm hai lão đột nhập dinh Kinh-lược Kinh-châu ăn trộm cống phẩm sứ đoàn Xiêm, rồi gây cuộc đấu kinh thiên động địa, vờ làm gẫy kiếm có khắc tên hai lão. Kiếm để lại phạm trường. Quan quân nhặt được, tin ngay thủ phạm là chủ kiếm.
          Mặt khác Thông-Mai gặp riêng Trần Trung-Đạo. Đạo đang là Tư-mã Kinh-châu, nhờ y giúp một phần kế hoạch. Vì vậy khi đấu với hai tên trộm Lê Văn, Tôn Đản, y không xử dụng hết công lực. Bằng không chỉ vài chiêu Trung-Đạo đã biết lai lịch võ công hai tên trộm rồi chụp cổ đem giam. Trung-Đạo vờ đuổi theo Tôn Đản, Tự-Mai. Trở về y họa hình Sử, Khiếu, niêm yết khắp nơi truy tầm hai tên đại đạo.
          Trung-Đạo trình lên cho Kinh-lược Kinh-châu. Kinh lược sứ sai ngựa lưu tinh khẩn cấp về Biện-kinh tâu việc sứ đoàn Xiêm bị hai đại đạo Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản ăn trộm cống vật. Trong khi đó hai lão Khiếu, Sử nào biết gì, đang trên đường đi với sứ đoàn Đại-Việt về kinh, thấy khắp nơi niêm yết bảng văn truy tầm. Hai lão định vào dinh Kinh-lược lý luận. Nhưng khổ cho hai lão: Thái hậu ban mật dụ rằng suốt thời gian theo sứ đoàn, không được lộ chân tướng, làm như mình là đạo tặc vậy.
          Hai lão ấm ức lai kinh. Bảo-Hòa sai Tôn Đản ăn cướp túi hành lý của Sử, rồi cho Lê Văn xuất hiện gây sự, hầu Sử, Khiếu gặp đoàn hộ tống sứ đoàn Xiêm. Tướng hộ tống sứ đoàn Xiêm đâu biết gì? Y chỉ tin vào bảng văn niêm yết của Kinh-lược sứ Kinh-châu, cùng lời tố cáo của công chúa An-Nan Tam-gia La-sun Nong-Nụt, Đặng Tông (Tôn Đản). Rồi hai lão đụng chạm với sứ đoàn Xiêm. Sau khi hai lão bại tẩu. Diêu Vạn cùng thái tử An-nan Tam-gia La-sun sai phi mã thượng biểu về triều: Dọc đường bị hai tên đại đạo Sử, Khiếu đón cướp, nhưng đã đánh đuổi được chúng.
          Bảo-Hòa nhờ Trung-Đạo sai người thượng biểu chậm ít ngày, chờ biểu của Thái-tử Xiêm với Diêu Vạn tới trước. Lưu hậu cùng triều đình nhận được hai tờ biểu, một của Thái-tử Xiêm, một của Diêu Vạn thì cho rằng hai tên đại đạo Sử, Khiếu trùng tên với hai đại thần mà thôi. Chứ có đâu hai lão đi ăn trộm. Mãi tới khi biểu của Kinh-lược Kinh-châu tới, với hình vẽ giống như người bên ngoài, cả Lưu hậu lẫn triều đình đều tin rằng hai lão đã trộm bảo vật thực.
          Triều thần biết hai lão là người thân của Lưu hậu, nên không dám bình luận gì. Việc này làm lòng tự ái của Lưu hậu bốc lên ngùn ngụt. Bà quyết định chờ hai lão về triều, sẽ đem chặt đầu, hầu bịt miệng thế gian. Tin này lọt vào tai chân tay hai lão. Bọn chúng cho người tìm hai lão báo hung tín. Vì vậy hai lão phải hóa trang để trên đường về kinh không lộ hình tích, rồi đêm nhập cung, biện minh oan khuất với Lưu hậu.
          Hai lão tưởng mình cải trang, không ai nhận ra; điềm tĩnh vào đại tửu lầu ăn uống. Không ngờ bị Lê Văn nhận được, rồi bị nhà vua, Tự-Mai gọi đích danh. Hai lão vừa tức vừa sợ, đi đến gây sự. Bây giờ nghe chủ tửu lầu can, hai lão mới thấy hối hận.
          Khiếu Tam Bản móc trong bọc ra đĩnh vàng trao cho chủ tửu lầu:
          - Đây ta bồi thường tất cả thiệt hại đổ vỡ.
          Chủ tửu lầu cung cung kính kính tiếp vàng bỏ vào túi. Lê Văn nói với y:
          - Ông chủ. Ba nàng này thua cuộc, hứa trọn đời theo Lê đại ca cùng anh sáu của tôi. Không biết bao giờ ba nàng có thể đi được.
          - Việc đó không thể làm ngay hôm nay. Ba tiểu thư yết bảng tuyển phu hơn năm, có hàng nghìn tao nhân mặc khách nhập cuộc, nhưng đều không thành. Nay nhị vị công tử hạnh ngộ, thiểm tửu lầu phải cáo yết cùng anh hùng thiên hạ, rồi mới có thể để ba tiểu thư theo nhị vị công tử đi.
          Lê Văn lắc đầu:
          - Tôi muốn ba bà chị dâu đi ngay, chứ chậm một chút, e bị quan quân đến bắt chặt đầu cùng với chủ nhân, đầu bếp, tửu bảo; chẳng hóa ra hai ông anh tôi bị mất vợ ư?
          Chủ nhân kinh ngạc hỏi:
          - Công tử nói sao lạ quá. Chúng tôi làm ăn lương thiện đã ba đời, chưa hề phạm pháp, có đâu quan quân bắt chặt đầu?
          Lê Văn chỉ vào túi chủ nhân:
          - Ông tuy không phạm pháp, nhưng tình ngay, lý gian. Ông sẽ bị ghép vào tội ăn trộm vàng của công khố. Kìa ông nhìn xem nén vàng trong túi ông do đâu mà ra?
          Chủ nhân cầm nén vàng Khiếu Tam Bản trao cho, trên khắc hai con rồng tranh viên châu, cạnh có chữ Thiên-thánh bảo khố. Y rùng mình hỏi Khiếu Tam Bản:
          - Vàng này của đức Hoàng-đế. Tại sao lại ở trong tay khách quan?
          Khiếu Tam Bản thản nhiên:
          - Vàng nào trên toàn đất Tống mà không in hình rồng cùng chữ Thiên-Thánh bảo khố. Có gì lạ đâu?
          Chủ tửu lầu lắc đầu:
          - Khách quan chưa rõ. Phàm vàng trong bảo khố đều giống nhau. Nhưng châu nào đem ra chi tiêu, đều có kiềm ấn chìm của quan Chuyển-vận sứ. Còn như vàng không kiềm ấn là của gian.
          Khiếu Tam Bản cau mày:
          - Vô lý, tại sao ta chưa nghe biết điều này?
          Thấy chủ nhân với khách dằng co, đám tửu bảo bu lại đứng coi. Chủ nhân nháy mắt cho tửu bảo, rồi xua tay:
          - Người lui xuống nhà mau. Có gì lạ đâu mà đứng đó.
          Thường tửu lầu hay gặp những khách giang hồ gây sự đánh nhau, hoặc ăn quịt, chủ nhân chỉ việc nháy mắt, vẫy tay ra hiệu, là tửu bảo chạy đi mời quan quân tới ngay.
          Khiếu Tam Bản cầm lấy nén vàng coi, bất giác y rùng mình, vội mở bọc ra xem. Trong bọc của y còn bốn nén nữa, cũng giống như nén vừa trao cho chủ tửu lầu.
          Nguyên khi y khởi hành, viên quan phụ trách tài vật của ty tế tác trao cho y năm nén vàng, với dấu kiềm ấn của Tuyên-huy Nam-viện-sứ. Sao bây giờ vàng lại không còn dấu nữa? Y đờ người ra.
          Bất giác y nhớ lại: Trên đường đi, y bị Đặng Tông (Tôn Đản) cướp hành lý. Sau khi Tôn Đản trả hành lý, y đã kiểm điểm lại, vàng bạc, châu báu không mất thứ gì. Y yên tâm, không xem kỹ. Bây giờ y mới hiểu: Đặng Tông đã đổi vàng của y.
          Y đưa mắt nhìn Tôn Đản, trong lòng nảy ra một nghi vấn:
          - Tại sao tên Đặng Tông này lại đón đường ăn cướp túi hành lý của ta? Tại sao một tên ôn con cỡi ngựa đón đường gây sự với ta đúng lúc bọn Diêu Vạn tới? Tại sao Kinh-lược Kinh-châu yết bảng truy tầm ta? Rồi bây giờ chúng gặp ta ở đây? Chắc chắn đều do một thế lực nào đó hại ta. Ai? Ta nghĩ chẳc chắn chỉ Định-vương Nguyên-Nghiễm mới có khả năng này. Định-vương không thù, không oán mà hại ta, chắc chỉ vì ta theo phe Lưu hậu. Được. Ta phải nhập cung tâu với Thái-hậu mọi truyện.
          Y nói với chủ tửu lầu:
          - Ta giữ nén vàng này lại. Tất cả tiền ăn uống ta sẽ cho người đem đến trả sau.
          Tửu bảo la lớn lên:
          - Đâu có dễ dàng vậy. Người ăn rồi định quịt hay sao đây?
          Khiếu Tam Bản vung tay chụp tửu bảo nhắc bổng y lên. Tiểu bảo la oai oái:
          - Loạn rồi! Loạn rồi. Đại-Tống ta trên có thánh Thiên-tử trị vì, mà mi làm càn ư? Mi có bỏ ta xuống không?
          Có nhiều tiếng lao xao, tiếng binh khí chạm nhau, rồi mười tên bộ khoái, dẫn đầu bởi viên hiệu-úy lên lầu. Viên hiệu-úy hỏi chủ tửu lầu:
          - Ông Thuận-Hỷ, bọn du thủ du thực đâu?
          Lão Thuận chỉ vào Sử-vạn, Khiếu:
          - Không có du thủ du thực. Nhưng hai vị tiên sinh đây ăn xong trả bằng vàng không dấu kiềm thự, rồi hành hung tiểu bảo.
          Mười tên bộ khoái bao vây hai lão Sử-vạn, Khiếu vào giữa. Viên hiệu úy tiếp vàng từ tay lão Thuận-Hỷ, y xem qua rồi nói:
          - Vàng này của hoàng cung. Trước khi đem xử dụng phải có dấu kiềm ấn của Tuyên-huy Nam viện sứ. Vàng không kiềm ấn là vàng gian. Bắt hai lão về phủ Khai-phong.
          Thông thường với chức vụ tổng quản Thị-vệ, cùng thống lĩnh Ngự-lâm quân của hai lão, thì đến quan phủ Khai-phong cũng không dám nhìn thẳng vào mặt, huống hồ viên hiệu-úy? Nhưng hai lão biết rằng chức tước mình chưa bị cách, mà Lưu hậu đang căm hận vì hiểu lầm. Hai lão cần bí mật nhập cung phân giải, nên không thể xưng chức tước ra được.
          Hai lão đưa mắt nhìn nhau, rồi đồng phát chưởng tấn công đám bộ khoái. Đám bộ khoái bị bật lui lại. Hai lão phóng thêm chưởng nữa, cửa sổ vỡ tan tành. Cả hai tung mình nhảy ra.
          Khi còn lơ lửng trên không, hai lão cảm thấy hai luồng lực đạo từ dưới đánh ngược lên mạnh đến long trời lở đất. Hai lão kinh hoàng vội đánh xuống chân một chưởng. Bùng, bùng hai tiếng. Người hai lão bay bổng lên không, chân tay như tê dại, tai phát ra tiếng vo vo không ngừng. Mùi hương thơm như trầm thoang thoảng trong chưởng. Hai lão kinh hoảng nghĩ:
          - Nếu hai kẻ kia phát thêm chưởng nữa thì mình về với thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh mất.
          Nhưng hai người kia không đánh tiếp. Hai lão rơi xuống đến hụych một cái như bà già ngã. Cả hai vội hít một hơi rồi đứng dậy. Sử-vạn đưa mắt nhìn quanh. Trong bóng đêm y thấy hai người đứng xa xa khoanh tay nhàn nhã. Biết gặp kình địch, dù có đấu cũng mất mạng vô ích, Khiếu Tam Bản lên tiếng:
          - Tôn giá là ai? Tại sao lại tấn công anh em tại hạ?
          Có tiếng trầm trầm đáp lại:
          - Có cút mau không? Trái lệnh ta đánh thêm chưởng nữa mất mạng bây giờ.
          Hai lão tung mình vào đêm tối.
          Vừa lúc đó Tônn Đản, Tự-Mai, cũng đáp xuống. Một trong hai người đứng trong bóng tối lên tiếng:
          - Hai thằng cà chớn, xuống đây làm gì, để các bạn ở trên đó bị người ta hại thì sao?
          Tự-Mai đã nhận ra tiếng người nói. Chàng cảm thấy ớn xương sống, vội dạ một tiếng rồi tung mình lên lầu đứng cạnh nhà vua.
          Tuy võ công Thiên-Thánh hoàng đế không cao, nhưng ông đã từng xem hàng nghìn trận đấu, đã được các đại cao thủ phân giải, nên kiến thức võ công rất quảng bác. Nhà vua nghĩ thầm:
          - Thái hậu thực có con mắt tinh đời, nên mới dùng hai lão Sử-vạn, Khiếu bấy lâu. Mình e tại triều khó có võ tướng nào địch lại một trong hai lão.
          Bất giác nhà vua đưa mắt nhìn Tự-Mai:
          - Ban nãy một lão phóng chưởng cực kỳ hùng hậu, Tôn Đản đỡ chưởng ấy, dường như ngang sức nhau. Như vậy võ công y ngang với nhị đệ. Ừ, còn hai người ở dưới lầu là ai, võ công thực kỳ diệu, chỉ một chiêu làm cho hai lão già kia kinh hoảng bỏ chạy.
          Thuận-Tông hỏi Lê Văn:
          - Chú mười! Hai người đó là ai vậy? Một người xử dụng võ công Sài-sơn dường như chiêu Thiên-vương bạt sơn. Còn người kia xử dụng chiêu Ác ngưu nan độ của Tản-viên.
          Lê Văn méo miệng trêu:
          - Ông mập! Đần nó vừa vừa thôi nhé.
          - Ta đần ở chỗ nào?
          - Trên đời này làm gì có người nào toả ra mùi hương thơm ngát ngoài tiên cô nhà mình? Thế gian cũng không hai người, mà chỉ nói một câu, khiến ông Thiên-lôi Tự-Mai tuân lệnh răm rắp.
          - Ừ, ta đần thực. Thì ra ông kẹ, bà chằng. Hai ông bà ấy như chim vậy. Bố ai biết đâu mà tìm.
          Viên hiệu-úy kinh khiếp về võ công hai lão Sử-vạn, Khiếu vừa hoàn hồn. Trở lại thực tại, liếc qua một cái y đã nhận ra trong sáu thiếu niên, thì năm không phải là người Hán. Vừa rồi nghe nàng Thanh thuật, một thiếu niên đối chưởng ngang tay với Sử-vạn. Y tỏ vẻ khách khí:
          - Xin các công tử cho xem thẻ bài.
          Tôn Đản trình thẻ bài ra. Trên thẻ bài có khắc dấu hiệu của Khu-mật viện rằng người xử dụng thuộc sứ đoàn Đại-Việt sang kết hiếu. Y hỏi nhà vua:
          - Vị công tử này mặc y phục Nho-sinh, vậy thẻ bài của trường Quốc-tử giám đâu?
          Tự-Mai đáp:
          - Anh tôi không có thẻ bài của Quốc-tử giám.
          Viên hiệu úy tỏ vẻ cương quyết:
          - Nếu công tử không có thẻ bài của Quốc-tử giám, thì phải theo chúng tôi về phủ Khai-phong.
          Nhà vua quên mất mình là Lê Luyện:
          - Không được vô lễ.
          Viên hiệu úy kinh ngạc:
          - Bản chức thi hành luật của đức Hoàng-đế, mà bảo là vô lễ ư?
          Mấy bộ khoái vây xung quanh sáu người.
          Giữa lúc ấy có tiếng hô lớn:
          - Kính chào hai lão công công. Không biết luồng gió nào thổi hai công công tới đây.
          Mọi người nhìn ra: Hai thái giám lớn tuổi đang đi vào. Nhà vua thấy hai lão, thì than thầm:
          - Hỏng bét. Hai lão này nhận ra ta mất.
          Nguyên đó là hai thái giám hầu cận nhà vua. Một lão tên Trịnh Đức, một lão tên Trịnh Ngọc. Trịnh Đức hầu hạ nhà vua từ hồi mới sinh ra. Hiện lão làm tổng lĩnh thái giám coi tẩm cung của hoàng hậu. Một lão tổng lĩnh thái giám coi tẩm cung của nhà vua. Nhà vua vội đứng lui ra sau Tự-Mai.
          Viên hiệu-úy cũng như đám bộ khoái, thấy hai lão Trịnh vội cung cung kính kính nhường lối cho hai lão.
          Nguyên theo quan chế nhà Tống, Tổng-lĩnh thái-giám, đẳng trật cao ngang bằng quan phủ, thấp hơn quan phủ Khai-phong một chút. Nhưng vì hai lão hầu cận vua vùng Hoàng-hậu, quan xa không bằng lính gần, hai lão được kính trọng hơn.
          Hai lão vẫy tay đáp lễ, rồi lên lầu. Nhác thấy nhà vua, hai lão vội phủ phục xuống:
          - Trịnh Đức, Trịnh Ngọc xin...
          Tự-Mai rất nhanh trí, chàng nói lớn lên át giọng hai lão:
          - Hai lão Trịnh không nên đa lễ. Đại ca ta họ Lê tên Luyện, hiện làm Ngự-sử trung thừa. Người vâng mật chỉ thiên tử ra ngoài có việc trọng đại. Hai lão đứng dậy thôi.
          Hai lão thái giám hiểu rằng nhà vua giả làm Nho-sinh vi hành thăm dân, ông không muốn hiển lộ thân thế. Hai lão vội đứng dậy, chắp tay lui lại.
          Lê Văn móc ra một nén vàng đưa cho lão Thuận-Hỷ:
          - Đây là vàng Đại-Việt. Ta trả cho tửu lầu về chi phí sứ đoàn Đại-Việt ăn uống. Trả luôn chi phí rượu thịt cho hai tên du thủ du thực, cùng bồi hoàn đổ vỡ ở đây. Chủ nhân dọn cho một tiệc khác.
          Nhà vua vẫy bọn Tôn Đản:
          - Chúng ta lại đối ẩm.
          Ông ban chỉ cho hai lão thái giám:
          - Các người xuống lầu ăn uống, chờ ta.
          Trước khi hai lão thái giám xuống lầu Lê Văn nói vọng ra:
          - Hai lão Trịnh. Liệu cái lưỡi nhà người có dai bằng gân bò không?
          - Dạ...dạ lưỡi của lão nô cứng như sỏi, như đá, không nói được nhiều.
          - Vậy thì hơn hết kiếm cái gì bỏ đầy miệng, bằng không lúc nằm mơ xủa bậy thì không còn chỗ đội nón.
          - Bọn lão nô nhất định đậy kín miệng bình.
          Nhà vua đến bên nàng Hồng, mời ngồi xuống cạnh ông:
          - Hồng cô nương! Ta với nhị đệ thực không phải với ba cô nương. Mấy bài từ trên bức lụa mà cô nương đem thử trí thông minh của ta; thực ra ta đã thuộc làu từ trước. Còn nhị đệ, y cũng thuộc bài Tiền xuất sư biểu từ hồi chín mười tuổi.
          Nàng Tử nói:
          - Thế nhưng Trần đại ca đoán được tâm sự phụ thân tiểu muội, thì Trần đại ca vẫn trúng cách như thường.
          Nhà vua xua tay:
          - Lỗi tại ta. Khi nhìn nét bút của lệnh tôn, ta đã nhận ra ngay. Tất cả tiến trình cũng như tâm sự của lệnh tôn ta đều biết trước cả. Ta dùng ngón tay viết lên đùi gà cho nhị đệ. Vì vậy y mới nói được tâm sự lệnh tôn. Chỉ có việc gọi ra tên họ, chức vụ lệnh tôn do y suy luận mà thôi. Như vậy coi như anh em chúng ta gian lận. Gian lận tức thua cuộc.
          Lê Văn hỏi nàng Tử:
          - Đinh tỷ tỷ. Hai ông anh thua cuộc rồi. Vậy Đinh tỷ tỷ bảo chúng tôi phải giết ai, xin nói ra đi thôi. Tôi nhắc lại, những kẻ đó phải là bọn ác đức. Chứ giết người ngay, thì chúng tôi không dám làm. Mà ví dù chúng tôi có làm, khi về nước đức Hoàng-đế của tôi cũng chặt đầu. Hơn nữa đức Hoàng-đế Đại-Việt có khoan thứ, bố tôi cũng đánh què.
          Nàng Thanh chắp tay:
          - Đúng là mệnh trời. Nếu không do trời xui khiến, sao đưa Lê đại ca đến đây? Dù hai đại ca thuộc thơ văn từ trước. Dù Lê đại ca nhận ra nét bút Phùng quốc công, rồi nhân đó giải đoán, cũng do thiên mệnh. Vì vậy ba chị em tiểu muội vẫn không đổi ý.
          Tự-Mai biết khi con gái người Hán đã nguyện theo ai, không bao giờ đổi thay. Chàng đành chấp thuận:
          - Tử muội. Thôi được, coi như anh em ta thắng cuộc. Tuy thắng chúng ta vẫn sẵn sàng giúp muội hoàn thành những điều tâm nguyện.
          Nàng Tử chỉ vào nàng Hồng:
          - Hồng tỷ tỷ họ Khấu tên Kim-Hồng.
          Nhà vua nghĩ thầm:
          - Nàng là con thừa tướng Khấu Chuẩn đây.
          Tự-Mai chửi thầm:
          - Mình thực ngu, lúc đầu nhác thấy nàng Hồng quen quen, mà không nhận được gặp ở đâu. Thì ra nàng là em vợ anh Bảo-Dân, nên khuôn mặt hao hao giống nhau.
          Khấu Kim-Hồng chỉ bức tranh vẽ Kim-An nói với nhà vua:
          - Việc đầu tiên tiểu muội muốn nhờ đại ca tìm kiếm tung tích chị Kim-An dùm.
          Rồi nàng tóm lược sơ sài vụ Kim-An tiến cung làm phi tần cho vua Chân-Tông. Nhà vua định phế Lưu hậu, phong Kim-An làm hoàng hậu theo lời quần thần. Sau đó Kim-An mất tích. Triều thần cho rằng gian nhân bắt Kim-An là của Lưu hậu. Không chừng Kim-An bị giết rồi cũng nên.
          Nhà vua nắm tay nàng Hồng lắc đầu:
          - Ta không thể hứa trước được. Hồi tiên đế còn tại thế, người sai thị vệ, cùng Khu-mật viện truy lùng khắp nơi cũng không ra tung tích, thì nay anh em chúng ta e cũng uổng công. Nhưng Khấu muội đừng vội tuyệt vọng. Ta hứa sẽ làm hết sức.
          Lê Văn nghe tiếng Bảo-Hòa dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai chàng:
          - Thằng em cà chớn, hãy làm theo lời chị nói để được kết hôn với Nong-Nụt. Bằng không thì đừng hòng. Nào nói đi.
          Lê Văn nói theo lời Bảo-Hòa:
          - Hai ông anh giỏi văn chương mà được vợ đẹp. Nhưng bây giờ người đẹp nhờ vả lại bó tay. Trong khi thằng nhỏ có thể thực hiện được điều Khấu tỷ tỷ nhờ, thì không trúng cách. Ôi! Phải chi có nàng thứ tư cho mình dự thi.
          Nhà vua cầm tay Lê Văn:
          -- Văn đệ ngoan. Nếu Văn đệ tìm ra được tung tích Khấu Kim-An, bất cứ Văn đệ yêu cầu điều gì ta cũng chiều.
          Lê Văn ngồi ngay ngắn lại, chỉ mọi người:
          - Các vị làm chứng cho nghe. Nếu tôi tìm được Khấu quý phi, Lê đại ca phải giúp tôi một việc.
          - Một việc chứ mười việc ta cũng thuận.
          Lê Văn ghé tai nhà vua nói nhỏ mấy câu. Nhà vua gật gật đầu:
          - Được, ta sẽ làm như lời Văn đệ muốn. Bao giờ Văn đệ cho biết tin tức Khấu quý phi?
          Lê Văn bấm đốt ngón tay nói:
          - Đệ biết bấm độn. Phương pháp của đệ theo Lý Thuần-Phong lão tiên. Hôm nay là ngày mười tám, tháng chạp. Bây giờ thuộc giờ Tuất. Như vậy được quẻ Tốc hỷ. Tốc là mau chóng. Tốc hỷ chủ tin vui đến gấp. Tỷ tỷ sẽ tìm thấy Khấu quý phi trong một vài ngày.
          Nó làm bộ đọc thơ:

          Tốc hỷ, hỷ lai lâm,
          Cầu tài hướng Nam hành.
          Thất vật Thân, Mùi, Ngọ.
          Phùng nhân lộ thượng tầm.
          Quan sự hữu phúc đức,
          Bệnh giả vô họa xâm,
          Điền trạch lục súc cát,
          Hành nhân hữu tín âm.


          Thuận-Tông hỏi:
          - Mấy câu thơ đó nghĩa là gì vậy?
          Lê Văn nói với nhà vua:
          - Lê đại ca. Ông anh mập ù của đệ muốn đệ dịch sang tiếng Việt. Đệ phải nói tiếng Việt. Mong đại ca tha thứ.
          Chàng nói tiếng Việt:
          - Mấy câu thơ đó tạm dịch như sau:

          Tốc hỷ, vui đến mau,
          Ước tiền hướng Nam cầu,
          Vật mất Thân, Mùi, Ngọ,
          Mong người sẽ gặp nhau.
          Việc quan hưởng phúc đức,
          Đau yếu thoát âu sầu.
          Ruộng vườn lục súc tốt,
          Tìm người nào khó đâu?


          Trong mấy người, chỉ mình Tự-Mai biết Lê Văn dịch tào lao, nhưng thoát ý. Chàng bấm bụng cười thầm:
          - Lê Văn khéo giả bộ thực. Không chừng Đản, Lãm, Tông cũng tin mất.
          Chàng làm bộ tính toán nhắm mắt một lúc rồi nói:
          - Khấu quý phi vẫn còn tại thế. Người hiện đang ở Biện-kinh này.
          Khấu Kim-Hồng giật mình:
          - Chị Kim-An bị giam trong ngục ư?
          - Không! Trong đêm đó, chị bị một võ lâm cao thủ, tuân lệnh người nữ bắt đem ra ngoài Cấm-thành giết. Nhưng may mắn thay, Khấu quý phi được một đại hiệp cứu sống. Hiện hai người thành vợ chồng.
          Nhà vua hỏi:
          - Bao giờ Văn đệ cho Hồng muội với Khấu quý phi gặp nhau?
          - Không thể và không nên. Theo đúng phong hóa Nho-gia, Khấu quý phi đâu được quyền kết hôn với bất cứ ai, mà phải ở vậy suốt đời thờ Chân-Tông hoàng đế. Nay nàng đã kết hôn với người khác, mà xuất hiện, e Thiên-Thánh hoàng đế chặt đầu.
          Nhà vua vẫy tay:
          - Ta chắc hoàng đế ân xá.
          - Vậy lát nữa đây Hồng tỷ tỷ có thể gặp Khấu quý phi.
          Đến đó tiếng Bảo-Hòa nói tiếp:
          - Cà chớn, sang vấn đề Tự-Mai đi.
          Lê Văn hỏi nàng Thanh, nàng Tử:
          - Vấn đề thứ nhất đã xong. Bây giờ đến lượt hai bà chị. Hai bà chị muốn ông anh chúng tôi làm gì? Tôi nói cho hai tỷ tỷ biết, ông anh của tôi đang ứng tuyển phò mã. Lỡ mà thành phò mã thì e hai tỷ tỷ phải làm phận tiểu tinh.
          Nàng Tử nói:
          - Nơi này đông người, nói ra e không tiện.
          Lê Văn cười:
          - Thì nói thầm vậy.
          Nàng Tử ghé miệng trái đào nói vào tai Tự-Mai. Tự-Mai gật đầu liên tiếp tỏ ý vui lòng.
          Ăn uống xong nhà vua nói với Tự-Mai:
          - Muộn rồi, để đệ đưa ta về thôi. Ta xuất hành dấu tung tích, lý lịch. Nhưng các hiền đệ thông minh ắt biết ta là ai rồi. Nếu chưa biết, sau Tự-Mai sẽ nói cho các đệ biết. Đừng đa lễ.
          Ông nói với Tôn Đản, Lê Văn:
          - Nhị vị hiền đệ nhớ nhé, cứ dự tuyển phò mã như thường. Ta hứa Đản sẽ được kết hôn với Cẩm-Thi, Văn đệ sẽ được kết hôn với Nong-Nụt. Còn Tự-Mai cũng phải dự thi, ta sẽ gả Thuận-Tường cho.
          Nhà vua nắm lấy tay Khấu Kim-Hồng:
          - Hồng muội đi với Văn đệ để gặp chị Kim-An. Ta hứa nội trong một tháng sẽ nhờ mai mối đến rước Hồng muội về với ta.
          Nhà vua bảo lão Thuận-Hỷ:
          - Nhà ngươi để ba tiểu thư đi với nhị đệ của ta được chứ?
          Lão Thuận-Hỷ chắp tay:
          - Dạ, xin đại nhân cứ tự tiện.
          Tự-Mai nói với Lê Văn:
          - Em ở lại dọn hành lý của ba bà chị về Bồng-lai. Còn ta tiễn Lê đại ca về.
          Nhà vua, Tự-Mai giã từ mọi người, rồi lên xe ngựa vào Cấm-thành. Vừa tới cửa Chính-dương thì thấy có đám đông đang bao quanh đội thị vệ. Một trung niên nam tử kêu gào thảm thiết:
          - Trời hỡi trời có thấu cho không? Tôi đến cửa khuyết kêu oan. Oan không được xét, mà còn bị bắt thế này.
          Một viên võ quan hất hàm ra lệnh cho thị vệ:
          - Lệnh của tể tướng, bắt tên này đem điều tra. Bỏ nó lên xe cho ta.
          Đám thị vệ chưa kịp ra tay, thì hai võ sĩ đã nắm cổ người dân đó liệng lên xe. Người này không vừa. Y nhảy xuống xe cầm dùi định đánh trống tiếp. Hai võ sĩ trói anh ta lại. Anh ta kêu lớn:
          - Bàn dân thiên hạ biết cho. Tôi tên Triệu Đức-Sùng, ngoan dân ở Triệu-châu. Viên Giám-binh bắt vợ tôi về làm tỳ thiếp, còn vu cho tôi làm phản. Ức lòng tôi lên cửa vua đánh trống kêu oan. Không ngờ lại bị bắt.
          Nhà vua hỏi:
          - Viên Giám-quan đó tên gì?
          Thanh niên chỉ vào viên quan võ:
          - Chính là y. Y là con quan tể tướng Tào Lợi-Dụng tên Tào Nhuế. Y biết tôi về kinh kêu oan, nên dẫn thủ hạ đón bắt tôi.
          Tào Nhuế tát Đức-Sùng một cái:
          - Nói láo, đem y đi ngay.
          Nhà vua quát:
          - Ngừng tay.
          Đám võ sĩ với Tào Nhuế vội ngừng tay nhìn lại thấy hai thái giám, có hơi ngại. Tào Nhuế hỏi:
          - Hai công công ở cung nào? Đêm khuya ra ngoài có việc gì?
          Nhà vua quát:
          - Ta ra ngoài có việc gì, cái thứ như mi không có quyền hỏi.
          Nhà vua bảo thị vệ:
          - Bắt tất cả đem giao cho Bắc-ban chỉ hậu La Sùng-Đản.
          Đám thị vệ trù trừ chưa quyết định, thì một võ quan cỡi ngựa đi tới. Y hỏi:
          - La Sùng-Đản là ta. Ai vừa nói đến ta đó?
          Vừa thấy nhà vua với Tự-Mai, Sùng-Đản kinh hoảng. Nhà vua vội nói:
          - Ta là thái giám Lê Luyện, vâng chỉ Hoàng-thượng ra ngoài có việc. Nay gặp con Tào Lợi-Dụng ức hiếp dân. Vậy người hãy bắt cả bọn này điều tra, rồi tâu lên thiên tử.
          Bắc-ban chỉ hậu nội phẩm là chức tước cao bậc nhất của quan tại nội cung. Sùng-Đản hiện coi cung nga, thái giám cùng thị vệ Cấm-cung. Trước đây La phạm lỗi, bị thái hậu sai tể tướng Tào Lợi-Dụng quản thúc. Tào cho lột khăn, đai của Sùng-Dản, cùng làm nhục y biết bao phen. Y giận căm gan, mong có ngày trả thù. Nhưng chức tước y nhỏ bé thì làm gì được Tào. Trong khi đó Tào còn là cao thủ bậc nhất triều đình. Hôm nay được chỉ dụ của nhà vua, La Sùng-Đản mừng rú. Y truyền thị vệ bắt Tào Nhuế cùng đám vệ sĩ giam lại.
          Trời đã khuya, thị vệ tưởng nhà vua là thái giám Lê Luyện, nên phải mở cửa cho vào. Nhà vua nắm tay Tự-Mai:
          - Thôi nhị đệ về với sứ đoàn. Ngày mai chúng ta gặp nhau.
          Tự-Mai bái biệt nhà vua, chàng tung mình vào đêm tối. Khi chàng về đến khách điếm thì trời quá khuya, mọi người đã ngủ. Chàng về phòng trùm chăn, đánh một giấc ngon lành.
          Tự-Mai giật mình tỉnh giấc vì nhiều tiếng nói lớn:
          - Thượng-thư tả thừa, lĩnh Hàn-lâm thị độc học sĩ Yến Thù, tuân chỉ Thiên-Thánh hoàng đế đến rước Khai-Quốc vương cùng sứ đoàn về Nam-thanh điện cư ngụ.
          Có tiếng Khai-Quốc vương:
          - Thực nhọc công đại học sĩ. Kính mời đại học sĩ vào.
          Vương thân ra tiếp Yến Thù, truyền pha trà. Phân ngôi chủ khách xong, vương nói :
          - Xin đại-học sĩ chờ mấy khắc, để tiểu vương cho tùy tùng chuẩn bị.
          Vào trong, thấy nét mặt vương phi bối rối, vương hỏi:
          - Có truyện gì không?
          - Bảo-Hòa, Thông-Mai, Tự-Mai không có tin tức gì cả.
          - Hỏi chim ưng xem.
          - Thiệu-Thái hỏi rồi, nhưng chim ưng không biết nói. Bảo nó đi tìm ba người, chúng đi mất tích từ sáng tới giờ.
          Ngô Cẩm-Thi lo nghĩ:
          - Hay bị bắt hết rồi.
          Lê Văn lắc đầu:
          - Với võ công ba người, nếu chẳng may bại lộ, ắt có trận đấu long trời lở đất mới bị bắt. Ba người mà bị bắt, thì thị vệ đã kéo tới vây kín Bồng-lai đảo rồi. Em chắc vô sự.
          Mỹ-Linh sủng ái cậu em Tự-Mai cùng cực. Nàng nói:
          - Thôi ta cứ dọn hành trang của nó tới điện Nam-thanh. Hễ nó trở về, khách điếm chỉ cho nó tới chỗ ta ở.
          Nói rồi Mỹ-Linh vào phòng Tự-Mai dọn đồ cho cậu sư đệ. Vừa vào tới phòng, một cảnh làm nàng vừa bực mình, vừa vui mừng: Tự-Mai ngồi xếp bằng tròn trên dường, hai bàn tay banh mắt, căng miệng, thè lưỡi nhát nàng.
          Vừa lo lắng cho em, bây giờ thấy nó an toàn, còn trêu mình. Mỹ-Linh nổi giận. Nàng nhảy tới kéo tai y. Tự-Mai không dám chống lại, để Mỹ-Linh nắm tai lôi ra ngoài. Nàng kéo Tự-Mai chạy khắp nhà. Mọi người đều bật cười.
          Khai-Quốc vương bảo cháu:
          - Tạm thời cho Tự-Mai nợ một lần. Khi khác tính tội cũng chưa muộn.
          Yến Thù rước cả sứ đoàn lên xe ngựa, có thiết kị hộ tống, hướng Nam-thanh điện. Nam-thanh điện đã được lau chùi, đốt trầm hương chờ đón sứ đoàn. Thù nói bằng tiếng Việt:
          - Vương gia! Nam-thanh điện có đủ xe cộ, mã phu, ngựa tốt, cùng nữ tỳ, bộc phụ. Viên quản Nam-thanh cung tên Triệu Tiền. Vương gia cần gì xin cứ sai y. Y sẽ lo liệu đủ.
          Trước khi rời Nam-thanh điện, Yến Thù nói:
          - Vào giờ Tỵ ngày mai, các ứng sinh phò mã chín mươi ba châu sẽ đến bộ Lễ để tuyển chọn vòng đầu. Nếu vương gia có thời giờ, xin thỉnh ghé qua xem cho vui.
          Đợi Yến Thù đi rồi, Trần Bảo-Dân gọi chim ưng canh gác, còn tất cả vào trong phòng nghe Tự-Mai thuật về tất cả những gì đã diễn ra hôm qua. Y thuật lại tỷ mỷ từng chi tiết một, chỉ dấu không nói đến việc nhà vua trao thẻ bài trên
          ghi nó là nghĩa đệ.
          Tôn Đản hỏi Lê Văn:
          - Có ba điều anh không hiểu.
          - Ba điều gì?
          - Một là, tại sao Văn đệ không yêu cầu nhà vua ưng cho vấn đề to lớn, mà chỉ đòi viết tặng ba mươi bài thơ.
          Thanh-Mai nói sẽ:
          - Không phải Văn đệ yêu cầu đâu, mà tiên cô Bảo-Hòa sai nó đấy. Chị đoán thế này: Bảo-Hòa thấy nhà vua với Tự-Mai kết bạn, ắt sau này khắp Tống, Việt đều biết. Vì vậy nếu như Tự-Mai cầm lệnh chỉ của nhà vua trao một đại thần. Đại thần thấy bút tích của hoàng đế thì tin ngay.
          Lê Văn nhảy dựng lên:
          - À, phải rồi, bà Bảo-Hòa muốn biết tuồng chữ của nhà vua. Sau này, nếu cần sẽ làm lệnh chỉ... giả.
          Thanh-Mai cười:
          - Đề phòng vậy thôi.
          Tôn Đản hỏi:
          - Còn vấn đề thứ nhì: Lê Văn nhờ nhà vua một điều. Nhà vua gật đầu. Thế việc đó là việc gì vậy?
          Lê Văn cười:
          - Em nghĩ rằng: Bố em bắt em phải ứng thí phò mã. Khi đấu võ, em mà giả bộ thua thì tiên cô Bảo-Hòa biết liền. Bà ấy không bẹo tai, mà mách bố. Bố sẽ đánh em què giò. Vì vậy em xin nhà vua: khi em điện thí về văn, nhà vua tìm cớ đánh em trượt. Thế là hòa cả làng.
          Khai-Quốc vương lắc đầu:
          - Hư qúa. Còn điều nàng Tử yêu cầu Tự-Mai là điều gì vậy?
          Tự-Mai nói sẽ:
          - Phụ thân nàng bị Tào Lợi-Dụng hại. Nàng nhờ chúng ta hạ y dùm. Việc hạ Tào không khó, bởi chính nhà vua cũng muốn làm việc đó. Vì vậy em gật đầu.
          Vương nghe xong, nắm tay Tự-Mai:
          - Mục đích chuyến đi của chúng ta là kết hiếu với Tống. Nay Thiếu-Mai kết thân được với Lưu hậu. Tự-Mai kết thân với Lý thái phi, cùng Thiên-Thánh hoàng đế. Hôm nay chúng ta tới bộ Lễ xem tuyển phò mã, nhân tiện kết thân với anh hùng bốn phương. Vả ta cần đi, để xem ba ứng sinh Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn trổ tài.
          Ăn sáng xong, vương phân phối cho Bảo-Dân, Khấu Kim-An, Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm, Ngô Cẩm-Thi giữ nhà. Nhất là thù tiếp ba nàng Hồng, Thanh, Tử. Còn lại vương với vương phi, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái áp tải ba ông thiên lôi đi ứng tuyển phò mã.
          Tôn Đản thấy rõ ràng mình đi ứng tuyển phò mã, trong lòng như lửa đốt, sao Ngô Cẩm-Thi vẫn vui cười như không có gì xẩy ra? Y muốn phân trần với nàng, mà không có dịp.
          Trước khi lên xe, Khai-Quốc vương dặn các em:
          - Trong gần ba trăm người về ứng tuyển lấy một phò mã, mười bẩy rể của đại thần này, chúng ta có ba ứng sinh. Về võ công chúng ta không sợ bất cứ thiếu niên nào. Nhưng việc tuyển chọn có ba kỳ. Kỳ một xem hình thể, bệnh tật, tuổi tác, lý lịch đều do các quan bộ Lễ đảm nhiệm. Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích, thuộc phe chủ xâm lăng Đại-Việt. Tôn Thích vốn xuất thân làm Ngự-y. Y đã nghe tiếng Hồng-Sơn đại phu, tỏ ra ganh ghét, dèm pha người. Nay gặp Lê Văn, chắc y sẽ gây khó dễ. Ngược lại Phùng Nguyên kiêm thêm chức vụ Thiên-văn lịch số, chủ trương đánh Tây-hạ, Kim trước. Vì vậy các sư đệ phải khéo léo lắm mới được. Dù y gây rắc rối gì, ta cũng thản nhiên như không. Nhưng...
          Vương ngừng lại, suy nghĩ, rồi tiếp:
          - Nếu bất cứ kẻ nào nhục mạ quốc thể, ta không để yên. Ta phải nhân dịp này, tìm xem những kẻ nào chủ Nam xâm, kẻ nào chủ hòa bình, rồi còn đối phó. Thôi ta đi.
          Xe tới bộ Lễ.
          Hào kiệt các nơi tụ về đông như kiến, đều đứng chờ ở ngoài cổng. Kẻ đi ngựa, người đi xe. Cứ mỗi ứng viên lại có thân thuộc tháp tùng, thành ra số người hội về có đến hàng mấy vạn.
          Mỹ-Linh dặn các em:
          - Theo như thể lệ, lát nữa sẽ có quan Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích, Lễ-bộ tham-tri Phùng Nguyên đích thân đọc danh sách ứng viên vào. Tổng cộng Tống có chín mươi ba châu, mỗi châu ba người trúng sơ tuyển, thành hai trăm bẩy mươi chín người. Ngoài ra còn Đại-Việt, Bắc-biên, Tây-hạ, Thổ-phồn, Đại-lý, Đại-liêu, Xiêm-la, mỗi nơi ba người nữa thành ba trăm. Ba trăm người chia làm ba mươi cửa. Mỗi cửa mười người vào. Các em phải nhớ một điều: Chúng ta sang Tống kết hiếu với anh hùng. Phải hết sức lễ độ, nhũn nhặn. Trừ trường hợp nguy đến tính mệnh, còn ngoại giả cấm xứ dụng võ công.
          Thanh-Mai tiếp:
          - Các em xuống xe làm quen với anh hùng thiên hạ đi. Kìa, phái Hoa-sơn kìa.
          Phái Hoa-sơn đi trên ba chiếc xe, chiếc đầu có Bắc-Sơn lão nhân ngồi với Khúc Chẩn. Chiếc thứ nhì có Tây-Sơn lão nhân ngồi với Triệu Tiết. Chiếc thứ ba Địch Thanh ngồi với Nam-sơn lão nhân,.
          Đám Hoa-sơn đã từng thân quen với Tự-Mai, Lê Văn, Tôn Đản. Hai bên gặp nhau truyện trò nổ như pháo rang. Chỉ riêng Triệu Tiết, Khúc Chẩn, nhìn Tôn Đản, Tự-Mai bằng con mắt hằn học.
          Lê Văn vồn vã hỏi Triệu Tiết:
          - Thế nào, thương thế Triệu huynh khỏi hẳn chưa?
          Triệu Tiết nhớ lại trận đánh Tản-lĩnh, y xấu hổ cau mặt lại:
          - Đa tạ Lê huynh. Đệ khỏi rồi.
          Người mà Triệu Tiết thù ghét nhất là Tự-Mai. Y hỏi mát:
          -_Trần huynh cũng ứng tuyển phò mã đấy à? Tôi tưởng trên thế gian này Trần huynh chỉ có sư muội Thuận-Tường mà thôi?
          Tự-Mai cười:
          - Câu hỏi này xin nhường cho Triệu huynh tự trả lời. Triệu huynh nhất tâm, nhất trí chỉ biết có Thuận-Tường, mà sao cũng ứng tuyển phò mã?
          Triệu Tiết nổi giận:
          - Dĩ nhiên ta chỉ biết có sư muội. Ta ứng tuyển...
          Tây-Sơn lão nhân đưa mắt cho Triệu Tiết:
          - Không được nhiều lời.
          Tự-Mai vái Tây-Sơn lão nhân:
          - Đại sư! Tiểu bối nghe đại sư có tài thông thiên, huyền diệu, mong đại sư tính số Tử-vi xem tiểu bối có thể trở thành phò mã không?
          Tây-Sơn lão nhân kinh ngạc nghĩ thầm:
          - Tại sao thiếu niên này biết mình giỏi Tử-vi? Điều mà chỉ có hoàng cung Tống cùng đệ tử phái Hoa-sơn rõ thôi. Y từ xa tới cũng biết, quả thực sứ đoàn Đại-Việt nhiều tai, lắm mắt.
          Ông chỉ vào gốc cây gần đó:
          - Bần đạo cũng đang muốn nghiên cứu lá số kỳ diệu của công tử đây. Nào, chúng ta lại gốc cây kia cho yên tĩnh.
          Tự-Mai xuống xe, theo Tây-Sơn lão nhân. Chàng biết lão sẽ hỏi chàng về giờ, ngày, tháng, năm sinh. Chàng nghĩ thầm:
          - Mình khai trước lá số, tỏ cho lão rõ mình cũng biết sơ về khoa này.
          Nghĩ vậy chàng chắp tay:
          - Thưa đại sư, tiểu bối tuổi Nhâm-Tý, sinh tháng năm, ngày hai mươi bốn, giờ Sửu.
          Tây-Sơn lão nhân xòe bàn tay ra bấm, ông gật gật đầu rồi nói:
          - Công tử! Công tử thuộc loại người hiếm có trên thế gian. Nói rằng số công tử tốt cũng cực tốt, mà xấu cũng cực xấu. Nhưng cũng may cái xấu đã được Trần đại hiệp vô tình giải cho rồi, nên chỉ còn cái tốt thôi.
          - Xin đại sư chỉ rõ hơn.
          - Mệnh công tử lập tại Tỵ. Tử-vi, Thất-sát thủ mệnh. Công tử tuổi Nhâm, đắc cách cực tốt, mà trong Tử-vi kinh nói:

          « Tử, Sát Tốn cung,
          Đế huề bảo kiếm.
          Tử, Tuyệt nhập xâm,
          Đa sát chi nhân.
          Hạnh ngộ chiến công, vi đại tướng
          ».

          (Câu trên nghĩa là: Người có Tử-vi, Thất-sát thủ mệnh tại Tỵ, thêm sao Tử, Tuyệt nữa, thì luôn gặp chiến công thành đại tướng. Nhưng tính hay đa sát).

          - Tử-vi là sao đế tượng, lớn nhất của tinh đẩu. Tử-vi thủ mệnh, thì mệnh công tử thuộc loại lớn, lớn vô cùng. Bản chất lớn, mà Tử-vi lại chủ thông minh. Nên công tử học một biết mười. Tử-vi là vua, cần phải có văn, võ phù tá, bằng không cũng là cô quân. Thất-sát cư chung với Tử-vi... Thất-sát là thượng tướng tinh đẩu, là võ quan. Công-tử sinh giờ Sửu, được Văn-khúc thủ mệnh, Văn-xương cư quan. Như vậy là có đủ văn võ phò tá. Mệnh công tử lớn là thế đó.
          Ông chau mày suy nghĩ:
          - Tử-vi vốn thông minh, lại thêm Văn-khúc thủ mệnh nữa, thành ra công tử thuộc loại thông minh quán thế. Ông vua thông minh, có văn võ phù tá, thế nhưng vua có uy quyền hay vua bù nhìn? Làm vua, mà không có của cũng vô ích. Đây công tử tuổi Nhâm nên được thêm Hóa-quyền thủ mệnh; Lộc-tồn cư Hợi, thêm Hóa-khoa ở Thiên-di. Thành ra ông vua có quyền, có của chứ không phải cô quân nghèo khó.
          Tự-Mai định hỏi, Tây-Sơn lão nhân xua tay không cho chàng hỏi. Ông tiếp:
          - Về công danh. Cung quan có Liêm-trinh, Phá-quân, Văn-xương, Đào-hoa, Liêm, Phá chủ về võ. Văn-xương chủ về văn. Vậy công tử xuất ra làm võ, rồi lĩnh luôn cả văn lẫn võ. Đào-hoa cư quan là cách sớm hiển đạt công danh. Vì Tử-vi kinh nói:
          « Đào hoa cư quan,
          Tảo tuế thanh vân đắc lộ
          »
          Nghĩa là người mà có Đào-hoa đóng ở cung quan, thì sớm hiển đạt.
          Tự-Mai hỏi:
          - Đại sư nói số tiểu bối tốt, cũng cực tốt. Xấu cũng cực xấu. Cực tốt đại sư đã nói rồi. Còn cực xấu nó ra làm sao?
          - Xấu vì mệnh công tử có Tử-vi thủ, thêm Thất-sát. Tử-vi là ông vua. Thất-sát là thượng tướng của tinh đẩu, hóa hình là thanh kiếm. Cái cách Tử-Sát trong Tử-vi kinh gọi là Đế huề bảo kiếm tức ông vua đeo kiếm. Trong khi công tử thuộc Hỏa-lục-cục, sao Tử cư quan, sao Tuyệt ở thiên-di, đúng với câu trên.
          ... Tóm lại công tử thông minh, công danh hiển đạt, được chúa yêu trao cho trọng quyền. Nhưng hiềm vì sau này làm đại tướng, lâm vào tình trạng đa sát, thành ra thất đức.
          Ông ngừng lại, mỉm cười:
          - May thay cái xấu của công tử đã được phụ thân giải cho rồi, do vậy không đáng ngại nữa.
          - Tiểu bối không hiểu.
          - Vô tình, Côi-Sơn đại hiệp gửi công tử cho sư thái Tịnh-Huyền giảng về Phật-pháp, lòng dạ công tử trở thành từ bi, sát nghiệp do đó giải được phần nào. Nhưng cũng chính vì lẽ ấy, công tử sẽ chán mùi thế tục, thích tiêu dao với cỏ cây.
          Tự-Mai định hỏi xem việc ứng tuyển phò mã của chàng sẽ ra sao, nhưng chàng chợt nghĩ lại:
          - Ông này đang phò trợ cho hai đệ tử Triệu Tiết, Khúc Chẩn ứng tuyển, đương nhiên đối đầu với mình. Mình chả nên hỏi ông việc này.
          Chàng chắp tay:
          - Đa tạ đạo sư.
          Chợt có tiếng quát tháo, rồi một cỗ xe tứ mã phóng tới. Tự-Mai nhìn thấy rõ: Tào Nhuế ngồi chễm chệ ở trên. Xung quanh có hơn mười võ sĩ theo hầu. Chàng nghĩ thầm:
          - Rõ ràng hôm qua nhà vua sai Bắc-ban chỉ hậu La Sùng-Đản bắt giam y, mà sao nay y còn thung dung ứng tuyển phò mã? Thế lực Tào Lợi-Dụng thực kinh khiếp.
          Có tiếng lóc cóc, chàng nhìn thấy ba chiếc xe chạy tới, trên xe kéo lá cờ, trên lá cờ thêu hình bông sen. Giữa nhụy sen một nhà sư ngồi kiết già. Tự-Mai biết đó là biểu hiệu của phái Thiếu-lâm. Thoáng nhìn thấy Quách Quỳ ngồi bên một nhà sư lớn tuổi trên xe đi đầu, tính tinh nghịch nổi dậy, Tự-Mai hướng Quách Quỳ chắp tay vái:
          - Quách huynh! Quách huynh đã trúng sơ tuyển làm phò mã ư?
          Nghe tiếng quen quen, Quách Quỳ quay lại thấy Tự-Mai, Tôn Đản, Lê Văn, mặt y sa sầm, nhưng bất đắc dĩ phải đáp lễ:
          - Vâng, tiểu đệ nhờ ơn Thái-sư phụ, trúng sơ tuyển. Nên hôm nay về đây.
          Tự-Mai nhớ lại, Mỹ-Linh kể truyện Triệu Anh chết thảm trên ngọn Tuyệt-phong, chàng nói bằng giọng ôn nhu:
          - Hôm trước nghe tin tôn sư vị quốc vong thân, anh em chúng tôi cùng bùi ngùi thương tiếc. Hôm nay gặp Quách huynh đây, chúng tôi xin chia buồn.
          Tự-Mai hướng nhà sư:
          - A-di Đà-Phật, đệ tử Trần Tự-Mai, thuộc Đại-Việt, không dám thỉnh pháp danh đại sư.
          Vị sư già thấy Tự-Mai lễ độ, rõ ra một Phật-tử thuận-thành, ông cũng đáp lễ:
          - Bần tăng pháp danh Minh-Đức. Chẳng hay thí chủ thuộc châu nào?
          - Đệ tử không thuộc chín mươi ba châu, mà thuộc Đại-Việt.
          Mắt nhà sư hiện ra tia sáng long lanh:
          - Đại-Việt nổi tiếng nhiều cao nhân võ học, không biết tôn sư là ai? Chắc thí chủ nhờ tôn sư truyền cho tuyệt học, nên mới được cử đại diện cho quý quốc ứng tuyển phò mã.
          Nhà sư muốn hỏi sư phụ truyền thụ võ công cho Tự-Mai, chàng vờ như hiểu lầm, đáp:
          - Bổn sư của đệ tử pháp danh thượng Tịnh hạ Huyền. Thưa đại sư, nói ra thực xấu hổ, bổn sư dạy thực nhiều, mà đệ tử vẫn chưa vượt xa hơn được bộ Kim-cương cùng bài kinh Bát-nhã Ba-la mật-đa tâm kinh.
          Chàng suýt xoa:
          - Sau đệ tử có duyên gặp Minh-Thiên đại sư giảng cho yếu chỉ của Thiền-môn. Đệ tử ước ao mãn việc ở đây sẽ được viếng chùa Thiếu-lâm để nghe các cao tăng giảng về lẽ huyền diệu đạo đức Thế-tôn.
          Thiền-sư Bồ-đề Đạt-Ma cỡi thuyền từ Tây-trúc qua Đại-Việt, rồi sang Trung-thổ, mục đích hoằng đương đạo pháp, độ cho những người trong bến mê. Sau đó, đồ tử đồ tôn của người thành lập phái Thiếu-lâm. Võ lâm Trung-thổ chỉ biết về võ công Thiếu-lâm. Trong khi các cao tăng lại tự hào về Thiền-học của mình.
          Minh-Đức thấy Tự-Mai không chú ý đến võ học, mà chỉ ước ao nghe giảng Thiền-học, ông mở to mắt nhìn chàng, trong lòng nghĩ thầm:
          - Đúng là đệ tử danh gia, mới có cái nhìn thấu đạt như vậy.
          Ông chắp tay:
          - Bản tự lúc nào cũng mở cửa rộng đón nhận những người có túc duyên như thí chủ.
          Quách Quỳ quen cả hai bên, y giới thiệu một lượt. Khi y giới thiệu đến một thiếu niên dáng điệu thanh nhã tên Đào Bật. Tự-Mai nghe tên y quen quen, chưa nhớ ra đã nghe ở đâu, thì Thanh-Mai đã hỏi:
          - Đào công tử. Hôm trước công tử ghi danh ứng tuyển làm động trưởng Bắc-biên, rồi sao lại bỏ cuộc? Với võ công, nhân phẩm của công tử mà ứng tuyển làm châu trưởng Phong-châu, chắc chắn phải được.
          Đào Bật chắp tay:
          - Tiểu bối cũng định tham dự đấy, nhưng cuối cùng sư phụ truyền lệnh phải luyện võ hầu ứng tuyển phò mã, nên bỏ cuộc.
          Thanh-Mai cười:
          - Tôn sư thực xứng đáng là người tính xa. Làm phò mã dĩ nhiên hơn làm châu trưởng.
          Đến đó, tiếng trống nổi lên. Mọi người cùng im lặng. Quan Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích xuất hiện trên đài, cầm loa xướng:
          - Xin các vị anh hùng bốn phương nghe.
          Chờ cho mọi người hoàn toàn im lặng Tôn Thích tiếp:
          - Vâng chỉ dụ của Thiên-Thánh hoàng đế về việc tuyển phò-mã. Hôm nay thiểm bộ trách nhiệm tuyển kỳ thứ nhất. Các vị khi nghe đến tên, xin ứng thanh dạ, rồi tiến vào cổng.
          Tôn Thích ngừng lại môt lát, rồi tiếp:
          - Những ai trúng sơ tuyển, nhưng vắng mặt hôm nay, coi như bỏ cuộc, dĩ nhiên không được vào kỳ tuyển võ. Sau đây là những điều lệ cuối cùng: Một là gái giả trai, phải tự biết thân phận rút lui. Hai là những người đời ông, đời cha từng phạm tội đại nghịch, trộm cướp, hoặc bất cứ tội gì phải đi tù, phát vãng, không được vào dự kỳ này. Dù cố vào dự, sau khám phá ra, bị mang tội khi quân, phải tội trảm. Ba là những người đời ông, cha, hay sư phụ từng theo Hồng-thiết giáo, bang Nhật-hồ, phải lui ngay. Nếu miễn cưỡng dự, sẽ bị chém đầu.
          Tham-tri Phùng Nguyên cầm loa tiếp:
          - Bây giờ xướng tên ai, người ấy vào. Phải giao vũ khí, ám khí cho thân thuộc ở ngoài giữ.
          Tiếng loa xướng:
          - Hoa-sơn Triệu Tiết, Khúc Chẩn.
          Hai người dạ thực lớn, rồi bái biệt sư phụ vào trong cổng. Tiếng loa tiếp:
          - Thiếu-lâm Yên Đạt, Tu Kỷ.
          Hai người dạ, rồi tiến vào. Lê Văn nói nhỏ:
          - Tu Kỷ bị dập chim ở Bắc-biên rồi, chỉ nên ứng tuyển thái giám mà thôi, chứ làm phò mã sao được?
          Mọi người cười ồ. Tiếng loa lại gọi:
          - Thiếu-lâm Đào Bật, Quách Quỳ.
          Hai người ứng thanh, rồi vào cổng. Loa gọi hai trăm bẩy mươi chín người, nhưng chỉ có hai trăm năm chục người hiện . Tiếp theo Tôn Thích nói lớn:
          - Bây giờ tới bẩy ngoại quốc.
          Loa gọi đủ hai mươi mốt người. Tên Tự-Mai, Lê Văn đứng cuối cùng sau cả Tôn Đản. Ba thiếu niên vào trong, lập tức cánh cổng bộ Lễ đóng lại. Ngay khi bước vào sân, ba anh em bị chia nhập làm ba toán khác nhau.
          Khai-Quốc vương cùng vương phi, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái trở về Nam-thanh điện.
          Tối hôm đó, Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn trở về. Khai-Quốc vương hỏi:
          - Lê Văn kể cho anh nghe công cuộc tuyển ra sao?
          - Bọn đệ bị chia làm mười tám toán. Mỗi toán do một quan bộ Lễ khảo hạch. Họ hỏi về nguồn gốc từ ông tam đại trở xuống. Hỏi về sư phụ. Sau đó một thái y khám bệnh.
          Mỹ-Linh hỏi:
          - Ông ta khám ra sao?
          Lê Văn lắc đầu:
          - Ông nói thầm vào từng tai xem có bị điếc không? Ông bắt mạch, xem lưỡi. Cuối cùng...
          - Cuối cùng cân xem nặng bao nhiêu cân, đo xem cao bao nhiêu
          thước phải không?
          - Không! Không nói với con gái được.
          Mỹ-Linh cốc vào đầu Lê Văn:
          - Tất cả con gái ở đây đều lớn hơn cậu nhiều. Cậu là em nhỏ nhất, cứ nói đi. Ai mà chấp với cậu.
          Lê Văn bẽn lẽn:
          - Ông ta sờ chim, rồi nắn hai hột. Nhột chết đi được.
          Mọi người cười ồ. Lê Văn tiếp:
          - Có hai người bị loại về vụ khám chim này.
          Thuận-Tông tò mò:
          - Sao?
          - Còn sao nữa. Một người tên Lý Hiến. Y không có chim. Còn một người hai trứng lép. Y tên Tu Kỷ.
          Nghe đến tên Tu Kỷ, mọi người đều nhớ lại trận đấu tuyển người thống lĩnh Khê-Động. Tu Kỷ bị đối thủ bóp chim đến trợn mắt hút chết. Hôm đó Lê Văn khám đã nói: Y không thể làm chồng nữa.
          - Sau khi đúc kết, bộ Lễ chỉ còn giữ lại một trăm tám chục người. Ngày mai vào yết kiến nhà vua, dự thi văn trước điện.
          Cơm chiều dọn ra, mọi người chuẩn bị ăn cơm, thình lình Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn cùng kêu thét lên tỏ vẻ đau đớn.
          Thanh-Mai hỏi:
          - Cái gì vậy?
          Lê Văn nhăn nhó:
          - Con chim. Con chim, ối đau chết.
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 08:22:28 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9