Anh linh thần võ tộc Việt (từ hồi 11)
CDDLT 20.01.2005 17:58:01 (permalink)
Hồi thứ một trăm mười một


Triều đình Đại Tống


Lê Văn cùng Tôn Đản, Tự-Mai chạy vào phòng riêng. Y vội kéo quần Tự-Mai, Tôn Đản ra xem: Dương vật bị sưng lớn đỏ lòm. Y nói:
- Chúng mình bị trúng Chu-sa độc phấn rồi. Gọi ông heo mau.
Thiệu-Thái chạy vào, chàng nâng chim ba cậu em lên coi: Sưng đỏ lòm. Đúng là bị trúng Chu-sa phấn. Chàng bảo cả ba ngồi ngay ngắn lại, rồi vỗ tay lên huyệt Bách-hội ba người. Cả ba rùng mình một cái, mồ hôi toát ra ướt hết quần áo. Mùi hôi tanh khủng khiếp xông lên. Khoảng nhai dập miếng trầu, cả ba đã hết đau, cùng mặc quần áo lại.
Thiệu-Thái dặn:
- Ba đứa đi tắm, rồi trở ra đây cho cậu hai hỏi truyện.
Tắm xong, Tôn Đản văng tục:
- Con bà nó. Nếu không có ông ỉn, e bọn mình mất chim, phải làm thái giám không chừng.
Lê Văn hỏi Thiệu-Thái:
- Ông heo ơi. Em đề nghị thế này: Ông heo dạy bọn em luyện Hồng-thiết tâm pháp. Không cần dạy đến trình độ có thể giải độc cho người, mà chỉ cần tự chống được mọi độc tố cũng đủ rồi.
Mỹ-Linh bước vào, nàng nắm tai Lê Văn vặn tréo đi:
- Vừa rồi em gọi anh Thiệu-Thái là gì?
- Ối đau. Bà sề làm gì người ta đây. Tai em là tai người, vặn đứt đem cho chó, chó cũng không ăn đâu. Tốt hơn hết vặn tai ông heo làm giò thủ hoặc luộc lên ăn dòn đáo để.
Mỹ-Linh càng vặn tai mạnh hơn:
- Hôm ở Tân-Dã khi nhờ chị cứu Nong-Nụt cho. Em đã hứa từ nay không được gọi anh Thiệu-Thái bằng cái tên ỉn nữa. Tại sao nay lại nuốt lời?
- Ái, em hứa không gọi tên ỉn. Vừa rồi em gọi là ông heo chứ có gọi cái tên cúng cơm kia đâu?
Tính Mỹ-Linh vốn hiền hậu, lại tu Thiền từ bé. Vì vậy dù mấy cậu em phá đến đâu nàng cũng không giận. Biết môn võ mồm, muôn ngàn lần không thể địch lại Tự-Mai, Lê Văn, nàng đành buông tai nó ra:
- Chị không thèm nói truyện với em nữa.
Lê Văn chưng hửng, chàng nắm tay Mỹ-Linh:
- Chị giận đấy à? Đi tu mà giận thì sao thành Phật được?
Biết võ công này có hiệu quả với Lê Văn, nàng đẩy tay y ra:
- Từ nay chị không nói truyện với em nữa. Suốt từ khi sang Tống đến giờ, em với Tự-Mai phá chị đến điên đầu lên được.
- Em không phá chị thì phá ai bây giờ? Không lẽ phá hai bà chằng Bảo-Hòa, Thiếu-Mai để ăn đòn? Hay phá bà la sát Thanh-Mai để bà tụng cho mấy bộ kinh A-Di-Đà?
Thế là Mỹ-Linh bật cười, bẹo má y:
- Cái mỏ như con két.
Chị em cùng cười.
Khi Tự-Mai cùng Lê Văn trở ra, đã thấy Khai-Quốc vương, vương phi, Thông-Mai, Bảo-Hòa ngồi đó từ bao giờ. Thấy Thông-Mai, Bảo-Hòa, hai đứa trẻ phát rét, không dám đùa nữa.
Khai-Quốc vương hỏi Lê Văn:
- Em thử đoán xem ai đã hạ độc thủ này? Chúng hạ độc với mục đích gì?
Lê Văn đáp ngay:
- Chắc chắn người hạ độc thuộc bang Nhật-hồ Trung-quốc. Có hai trường hợp xẩy ra. Nếu do viên y quan bôi phấn vào tay khi khám hạ độc, thì ít nhất có ba tên đồng bọn. Vì ba đứa thuộc ba toán khác nhau.
Bảo-Hòa gật đầu:
- Đúng vậy.
Bảo-Hòa phân tích:
- Cháu nghĩ chúng không chỉ hạ độc bọn ba đứa nhà mình, mà còn hạ độc tất cả các ứng viên. Vậy có khi cả mười tám tên đều hạ độc thủ. Trường hợp này tất phải Lưu thái hậu, nhà vua hay Định-vương mới đủ uy quyền ra lệnh. Nhà vua vốn hiền hậu, lại đang nhờ vả ba đứa, chắc không phải ông. Định-vương là người quân tử, không thể làm truyện ác đức. Rút cuộc chỉ còn mình Lưu hậu mà thôi. Cuộc tuyển phò mã do Lưu hậu chủ xướng, không lẽ bà hại bà?
Mọi người đều công nhận lời Bảo-Hòa hợp lý. Nàng tiếp:
- Bây giờ chúng ta thám thính xem có ứng sinh nào trúng độc nữa không. Nếu tất cả đều bị trúng độc, ta lập tức cho Tự-Mai nhập cung báo với nhà vua, rồi ta bắt một tên y quan tra khảo, tất y khai ra người truyền lệnh. Còn như không có ai trúng độc cả, thì ba đứa trẻ nhà mình trúng độc do nguyên cớ khác.
Đến đó, Khấu Kim-Hồng vào cung tay:
- Khải vương gia, có Tây-sơn lão nhân cầu kiến.
Vương vội đứng dậy, vẫy Mỹ-Linh, Thiệu-Thái theo. Ngoài phòng khách Tây-sơn lão nhân cùng Địch Thanh, Triệu Tiết, Khúc Chẩn đang ngồi chờ. Thấy Vương ra, Tây-Sơn lão nhân cùng ba đệ tử đứng dậy chắp tay hành lễ. Vương vội đáp lễ mời ngồi. Cứ nhìn sắc diện ba đệ tử Hoa-sơn, Vương đã biết việc gì xẩy ra. Vương hỏi lão:
- Đạo sư. Đạo sư thử nghĩ xem ai đã đánh thuốc độc bọn trẻ?
Tây-Sơn lão nhân thở dài:
- Khó đoán quá. Dường như kẻ nào đó định phá hoại cuộc tuyển phò mã thì phải. Bần đạo phải khẩn tâu lên Hoàng-đế điều tra ngay mới được. Bần đạo nghe trong sứ đoàn Đại-Việt có công tử của Hồng-Sơn đại phu. Vì vậy bần đạo đem ba tên đệ tử tới nhờ người trị cho.
Khai-Quốc vương nhìn Địch Thanh:
- Trạng nguyên đã trúng Chu-sa phấn hai lần. Vậy lần trạng nguyên có thấy giống những lần trước không?
Địch Thanh cung tay:
- Khải vương gia giống hệt. Vừa nóng, vừa nhức, lại vừa đau.
Vương mỉm cười:
-- Thế thì có thuốc tạm cầm đau đớn. Thuốc này cô gia đã tặng Định-vương khá nhiều. Tuy vậy Lê Văn mang theo đây mười mấy bình, ta dùng để trấn tĩnh rồi tính sau.
Vương truyền mời Lê Văn. Y thấy tình trạng ba đệ tử Hoa-sơn thì lắc đầu:
- Ba anh em chúng tôi cũng bị trúng độc như các vị. Đây thuốc đây, các vị uống vào cầm cơn đau, rồi ta tìm cách trị sau.
Địch Thanh hỏi:
- Lê công tử, tại hạ nghe Thân giáo chủ có thể dùng thần công trị tuyệt độc tố Chu-sa. Xin công tử mời Thân giáo chủ trị cho anh em tại hạ, nguyện không bao giờ quên ơn.
Khai-Quốc vương đưa mắt nhìn Tây-Sơn lão nhân, rồi mỉm cười:
- Xin đạo sư hiểu cho. Chúng tôi đang trên đường đi sứ, nên không muốn, và không thể làm trái với những thế lực tối cao.
Lão nhân lắc đầu:
- Khải vương gia, bần đạo nghĩ Hoàng-thượng không hề biết gì về việc này.
Triệu Tiết ngơ ngác hỏi:
- Sư thúc, đệ tử không hiểu ý tứ cao xa của sư thúc với vương gia.
Địch Thanh vốn cực kỳ thông minh, y giảng giải cho Triệu Tiết:
- Sư đệ ơi! Sư đệ nên biết việc đầu độc này do mười tám y quan cùng ra tay. Phàm người thường, đụng vào Chu-sa phấn, thì tay mình bị trúng độc trước. Đây các y quan không bị trúng độc, hẳn họ đã có thuốc phòng. Việc tuyển phò mã do chỉ dụ của Thái-hậu, mà mười tám y quan cùng ra tay phá, e có thế lực cực lớn sai khiến.
Triệu Tiết hiểu ra:
- Đệ hiểu rồi. Vì thế Vương gia mới phán : Không muốn và không thể làm trái với thế lực tối cao. Sư thúc cho rằng ý vương chỉ Thiên-tử. Người mới nói rằng Hoàng-thượng không biết gì về việc này.
Lê Văn tiếp:
- Cho nên anh Thiệu-Thái không thể trị dứt cho các vị. Trị như vậy, là gây hấn với thế lực tối cao. Theo tại hạ, có lẽ Thái-hậu hoặc triều đình chủ trương việc này để thử công lực của sĩ tử không chừng.
Tây-Sơn lão nhân chắp tay hướng Khai-Quốc vương:
- Đa tạ vương gia cứu trị cho ba đệ tử thiểm phái. Bần đạo phải đi yết kiến Thiên-tử ngay, để tâu trình việc này.
Ba anh em Địch, Triệu, Khúc cáo từ ra về.
Tự-Mai hỏi Khai-Quốc vương:
- Sáng mai tất cả ứng sinh phải vào sân rồng điện Sùng-chính yết kiến nhà vua, cùng nhận hoa, sau đó thi văn, đấu võ. Trong khi bộ Lễ loan báo nhà vua tiếp anh cả cũng vào ngày mai. Vậy em có nên đợi cùng mọi người vào, hay theo sứ đoàn?
- Em nên vào cung báo cho nhà vua biết trước vụ này để người đề phòng.
Bảo-Hòa mỉm cười:
- Em với Lê Văn phải nhập cung thực sớm tâu trình cho nhà vua. Hiện Định-vương chuẩn bị giáp binh bao vây tư thất đại thần thuộc dư đảng Hồng-thiết giáo, những biến chuyển dồn dập, rất có thể Lưu hậu ra tay hại nhà vua. Em là em kết nghĩa với nhà vua phải xin theo đến điện Sùng-chính để hộ vệ cho nghĩa huynh.
Khai-Quốc vương ra hiệu cho mọi người im lặng, rồi nói rất chậm:
- Mai này sứ đoàn vào triều yết Thiên-Thánh hoàng đế. Trong lúc bách quan lâm triều thì Định-vương cùng Phụ-Quốc, Trung-Đạo với mười trưởng lão bang Nhật-hồ cũ tổ chức chính biến. Dinh thự của đại thần thuộc phe Lưu hậu bị bao vây. Trong cung, đội thị vệ cuối cùng của Lưu hậu sẽ bị bắt. Có người đánh thuốc cho Lưu hậu mê man. Nhưng ta sợ một điều là Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn cũng học được Hồng-thiết tâm pháp. Tuy bản lĩnh không bằng Nhật-Hồ lão nhân với Thiệu-Thái, nhưng y cũng có thể giải độc cho Lưu hậu. Còn Lý thái-phi được tôn lên làm Thái-hậu. Khi lâm triều Lý thái-hậu ngồi trong màn thính chính. Bọn thủ hạ Lưu hậu tưởng Lưu hậu ngồi đó. Vì vậy...
Vương nhìn năm trẻ:
- Năm hiền đệ tuyệt đối tuân lệnh anh Thông-Mai với chị Bảo-Hòa mà hành sự.
Tự-Mai, Lê Văn đưa mắt nhìn nhau mỉm cười. Thiệu-Thái hỏi:
- Có gì lạ không?
Lê Văn nheo mặt:
- Anh cả ra lệnh cho bọn em phải tuân lệnh ông kẹ, bà chằng e... thừa. Vì có bao giờ ổng bà nói mà bọn em dám cãi đâu?
Khai-Quốc vương cười:
- Đêm nay Bảo-Hòa nhập cung ở bên cạnh Lý hậu bảo vệ bà. Mai lâm triều, giả làm cung nữ ngồi sau bà để điều khiển năm ông phá trời. Còn anh Thông-Mai, sẽ được anh Trung-Đạo cấp thẻ bài giả làm thị vệ tại điện tiền.
Tự-Mai hỏi:
- Khi vào thành yết kiến nhà vua, em mặc giả thái giám hay mặc y phục Đại-Việt?
Vương đáp ngay:
- Em có thẻ bài, cùng chỉ dụ nhà vua chứng nhận là em kết nghĩa, thì việc gì phải giả thái giám? Cứ đường đường chính chính mặc y phục Đại-Việt nhập thành.
Vương bảo Lê Văn:
- Em theo đánh xe cho Tự-Mai cùng vào thành. Tuyệt đối không được đùa nghịch thái quá. Mang theo ít thuốc cùng kim châm cứu.
Sáng hôm sau, đầu giờ Mão.
Lê Văn đánh xe cùng Tự-Mai hướng cửa Đan-phượng tiến phát. Trên càng xe, một lá cờ Đại-Viêt bay phất phới. Xe tới cổng hoàng thành. Viên thị vệ ra ngăn lại hỏi:
- Hai vị là ai? Nhập hoàng thành có việc gì?
Tự-Mai trình thẻ bài cùng chỉ dụ ra. Viên thị vệ xem qua, rồi chạy vào trao cho một viên hiệu-úy. Viên hiệu-úy cung cung kính kính gọi một tên đội trưởng:
- Người lấy ngựa, đưa công tử vào cửa Đông-hoa trong Cấm-thành.
Viên thị vệ lên ngựa dẫn đường. Tới cửa Cấm-thành, y nói lớn:
- Có đại quý khách.
Một viên võ quan chạy ra. Tự-Mai trao thẻ bài cho y. Y xem qua, rồi cung cung kính kính:
- Hoàng thượng hiện ngự tại Sùng-văn điện. Tiểu nhân xin dẫn đường.
Y đi bộ, Lê Văn đánh xe theo sau. Tới điện Sùng-văn, viên võ quan cầm lấy cương ngựa cột vào gốc cây. Y gọi một tên thái giám:
- Trịnh công công. Có quý khách tới yết kiến thiên tử.
Tự-Mai đã nhận ra tên thái giám già Trịnh Đức mà nó đã gặp ở tửu lầu cùng nhà vua. Trịnh Đức thấy em kết nghĩa của thiên tử, y vội cúi rạp người xuống:
- Thần xin tham kiến nhị vị vương gia. Xin nhị vị chờ, thần vào tâu cùng hoàng thượng đã.
Trịnh Đức vào một lúc, rồi y trở ra cung tay:
- Hoàng-thượng tuyên triệu mời hai vị.
Y mở cửa. Tự-Mai, Lê Văn bước vào.
Trong căn phòng rộng thênh thang đầy những giá sách. Nhà vua đang ngồi trước án thư, cạnh đỉnh hương khói bốc nghi ngút. Tự-Mai, Lê Văn định hành lễ, nhà vua đã phất tay:
- Nhị đệ, Lê đệ! Miễn lễ.
Nhà vua đứng dậy ôm lấy hai trẻ:
- Ta biết sau cuộc sơ tuyển, thế nào nhị đệ, Lê đệ cũng đến thăm ta. Cho nên ta ngồi chờ sẵn ở đây.
Tự-Mai hỏi:
- Tại sao đại ca biết trước?
- Ta đoán thế này: hai đệ dự cuộc tuyển ở bộ Lễ xong, sẽ lo lắng không ít. Lê đệ sợ bị trúng tuyển, thì sao có thể kết hôn với công chúa Nong-Nụt? Vì vậy Lê đệ nhờ ta ban chỉ cho các quan đánh trượt. Còn nhị đệ, cũng không muốn dự tuyển vì sợ được gả cho một tiểu thư khác. Nhị đệ xin ta gả cung nữ Thuận-Tường cho. Có phải thế không?
Lê Văn vỗ vào đầu một cái:
- Bệ hạ xứng đáng là đệ tử của Định-vương. Việc gì bệ hạ cũng đoán trước được. Quả anh em hạ thần có ý đó. Nhưng anh em hạ thần yết kiến bệ hạ khẩn cấp vì lý do khác.
- Lý do gì?
Tự-Mai nói:
- Có âm mưu ám hại toàn thể các ứng tuyển viên phò mã. Mấy trăm thiếu niên tinh hoa con dân Thiên-triều chết tuy không phải việc lớn. Nhưng sĩ dân cho rằng triều đình ám hại anh tài mới là điều đáng buồn.
Nhà vua kinh ngạc:
- Truyện ra sao. Nhị đệ kể cho ta nghe từ đầu đến cuối. Ta chưa được tâu trình về việc này.
Tự-Mai tóm tắt tâu trình một lượt. Nhà vua kinh hãi:
- Ta nghĩ việc này không phải do Thái-hậu, cũng không do ta, lại càng không thể do Thái-sư. Nhưng ai mà dám lộng hành đến như thế?
Nhà vua bảo Tự-Mai:
- Nhị đệ gọi Trịnh Đức cho ta.
Tự-Mai ra ngoài, hô lên:
- Hoàng thượng tuyên triệu Trịnh công công.
Trịnh Đức vào quỳ gối. Nhà vua phán:
- Người tuyên triệu Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích cùng Lễ-bộ tham tri Phùng Nguyên khẩn cấp cho ta.
Trịnh Đức tâu:
- Tâu bệ hạ, Thái-hậu tuyên chỉ thỉnh bệ hạ tới Sùng-chính điện ngay, để dự tuyển phò mã.
Nhà vua nhìn Tự-Mai:
- Nhị đệ nghĩ sao.
- Đại ca đang ở vào thế bất lưỡng lập với bọn cường thần. Từ trước đến nay chúng chỉ biết có Thái-hậu. Chúng coi đại ca như bù nhìn. Việc này chắc do bọn chúng gây ra với mục đích gì khó mà biết được. Như vụ Tào Nhuế, rõ ràng hôm qua đại ca sai bắt giam y, mà sáng nay đệ thấy y đi nghênh ngang ngoài đường. Như vậy chúng còn coi đại ca ra gì đâu.
Tự-Mai ôm lấy nhà vua:
- Đại ca ơi, những biến chuyển dồn dập khó có thể đoán trước được. Đại ca cho đệ với Lê Văn theo sau hộ giá, đệ mới an tâm. Nếu như đại ca có gì thì...thì đệ sống không nổi. Một mặt đại ra tuyên chỉ cho tổng lĩnh thị vệ Trần Phụ-Quốc canh phòng Cấm-thành thực cẩn mật. Quanh Sùng-chính điện để một đội võ sĩ thực thân tín. Một mặt sai tổng lĩnh Ngự-lâm quân Trần Trung-Đạo truyền các đạo thiết kị ứng trực đề phòng biến cố.
- Nhị đệ thực cẩn thận. Trẫm đã làm như ngự đệ nói. Về đội thị vệ gác điện Cần-chính, trước đây đo Sử-vạn Na-vượng đưa đám đệ tử bang Nhật-hồ vào. Hôm qua trẫm đã thay thế bằng nhóm đệ tử của Yến Thù rồi.
- Như vậy đệ mới yên tâm.
Nói câu đó, Tự-Mai nghĩ thầm:
- Anh cả vừa là anh kết nghĩa, vừa là anh rể, vừa là chúa. Mình vừa yêu vừa kính lại vừa sợ. Còn Thiên-Thánh hoàng đế mình thấy thâm tình lạ lùng, mình vừa yêu vừa thương cảm. Tuy vậy về quốc sự thì mình phải theo anh cả.
Nhà vua cảm động:
- Nào chúng ta đi. Nhị đệ có biết Sùng-chính điện là điện gì không?
- Đệ nghe nói: Sùng-chính điện dùng để thiết đại triều hoặc tiếp sứ thần.
- Đúng vậy. Tới nơi, hai hiền đệ cứ đứng sau ta, không nói không rằng. Chỉ khi nào ta gặp nguy hiểm, hai hiền đệ mới ra tay. Ai hỏi gì, hai hiền đệ cũng đừng trả lời. Hai hiền đệ không phải hành lễ với bất cứ ai, ngoài Thái-hậu. Thôi ta đi.
Nhà vua đi trước, Tự-Mai, Lê Văn theo sau. Tới Sùng-chính điện, có tiếng hô lớn:
- Hoàng thượng giá lâm.
Nhã nhạc nổi lên nhu hòa, đầm ấm. Lê Văn là đệ tử phái Sài-sơn, rất giỏi âm nhạc. Chàng tò mò đưa mắt nhìn: Ban nhạc có tới hơn trăm nhạc công, họ xử dụng đủ mọi nhạc khí. Những nhạc khí này, chàng đều biết cả.
Nhà vua cùng hai trẻ bước vào trong đại điện giữa hai hàng quan văn võ quỳ gối. Có một người không phải quỳ đó là Định-vương Nguyên-Nghiễm (Triệu Thành). Định-vương thấy Tự-Mai, Lê Văn theo sau nhà vua, nhưng vương lặng thinh như không hề quen biết. Còn triều thần họ kinh ngạc khi thấy hai thiếu niên theo sau nhà vua mà trang phục lại không giống người Tống.
Tự-Mai liếc qua, trong điện, y than:
- Mình đã xem Thuận-Thiên hoàng đế thiết đại triều chỉ khoảng hơn trăm quan lại. Tống có nhiều quan lắm chắc chỉ hai trăm là cùng, không ngờ đông thế này... có lẽ năm trăm là ít.
Nhà vua hướng Định-vương:
- Hoàng nhi thỉnh an hoàng-thúc. Thỉnh hoàng-thúc an tọa.
Định-vương cúi đầu:
- Đa tạ bệ hạ.
Nhà vua lên ngai ngồi, phán:
- Chư khanh bình thân.
Các quan đồng loạt đứng dậy theo hai hàng. Một bên văn, một bên võ. Tự-Mai nghĩ thầm:
- Đám võ quan này đông gớm. Bao nhiêu tinh hoa võ công, bao nhiêu cao thủ tập trung cả vào đây. Mình phải chú ý theo dõi xem những tên nào chống Đại-Việt để còn tỉa chúng.
Tự-Mai chú ý thấy ngang với ngai vàng có hai màn bằng lụa thực dầy che kín. Trong thấp thoáng một phụ nữ ngồi trên chiếc ngai. Chàng đoán là Lưu thái-hậu.
Tự-Mai, Lê Văn đứng sau ngai vàng, hai tay khoanh lại.
Nhã nhạc ngừng. Một đại thần quỳ gối:
- Muôn tâu bệ hạ, thần Lã Di-Giản, lĩnh Hữu-bộc xạ, Đồng-bình chương sự, Thái-tử thiếu bảo, tước Quốc-công, tuân chỉ Thái-hậu thỉnh bệ hạ thiết đại triều. Hôm nay là ngày các ứng sinh phò mã nhập điện yết kiến bệ hạ, cùng tuyển hoa. Nhưng việc tuyển phò mã gặp biến cố.
Tự-Mai nghĩ thầm:
- Triều Đường dùng danh tự Thừa-tướng, Tể-tướng. Triều Tống dùng danh tự Bộc-xạ thay thế. Lão này làm Hữu bộc-xạ, còn Tả-bộc xạ là Tào Lợi-Dụng ta đã biết mặt.
Nhà vua gật đầu:
- Có phải các ứng sinh đều bị trúng Chu-sa phấn của bang Nhật-hồ chăng?
- Tâu bệ hạ quả như thế. Khi hay tin, thần đã cho câu lưu mười tám y quan phụ trách khám xét ứng sinh, giao cho Khu-mật viện điều tra. Thần xin để Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích tâu trình mọi sự.
Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích rời văn ban quỳ tâu:
- Thần Tôn Thích lĩnh Lễ-bộ thượng thư, phụ trách kỳ tuyển trạch ứng sinh phò mã xin tâu: Mười tám y quan đều thuộc Ngự-y viện, xưa nay hành sự cẩn trọng, chưa từng phạm lỗi lầm. Không hiểu sao nay lại xẩy ra cơ sự thế này.
Nhà vua hỏi Định-vương:
- Hoàng thúc nghĩ sao?
Định-vương tâu:
- Hiện chưa có cung từ của mười tám y quan, nên khó có thể đoán trước. Hồi thần sang Đại-Việt cùng sứ đoàn đã trúng phải phấn này. Người tung phấn hại sứ đoàn tên Chu An-Bình. Y giữ chức Nam-phương sứ giả trong bang Nhật-hồ cùng hai cháu y tên An-Khôi, An-Việt. Thần được Cổ-loa hầu Hoàng Văn cấp thuốc giải, tạm trấn cơn đau. Khi trên đường hồi Trung-thổ, thần lại bị người ta bôi phấn độc trên sách, thần đụng vào sách, lại trúng độc lần nữa được tiểu thư Lê Thiếu-Mai cấp thuốc giải trấn thống. Lại tới khi lên đỉnh Tuyệt-phong bị bang Nhật-hồ hại độc lần nữa. May thay gặp giáo chủ Lạc-long giáo Đại-Việt dùng thần công trị tuyệt bệnh cho thần cùng sứ đoàn.
Vương ngừng lại một lúc rồi tiếp:
- Cứ như thần nghĩ, nếu y quan hạ độc các ứng sinh, thì hẳn họ đã luyện thần công Chu-sa để độc chất không ngấm vào tay. Như vậy họ thuộc dư đảng bang Nhật-hồ. Khi hạ độc xong, họ phải trốn ngay chứ có đâu ngồi chờ để bị bắt, để rồi cả nhà bị tru diệt?
Một đại thần bước ra quỳ tâu:
- Thần Tào Lợi-Dụng lĩnh Đồng-bình chương sự, Thượng-thư Tả bộc-xạ, Tư-không, Hàn quốc công xin kính tâu: Trước hết phải tìm hiểu xem việc hạ độc này với mục đích gì? Ai được lợi trong vụ này, từ đó mới lần ra manh mối. Theo lời Định-vương, bang Nhật-hồ đã giải thể, biến thành bang Hoàng-Đế đi khắp nới cứu người. Vậy thì ai đầu độc? Theo ngu thần, trong khắp thiên hạ, không ai có khả năng, cũng như bản lĩnh phóng độc một lúc mấy trăm người, ngoài trừ bang Nhật-hồ. Vì vậy thần nghĩ, việc bang Nhật-hồ quy phục triều đình e không thực.
Tự-Mai nghĩ thầm:
- Tên này mình đã biết rồi. Chức tước của Lã Di-Giản là Hữu-bộc xạ, làm Hữu thừa-tướng. Còn y là Tả bộc xạ, tức Tả thừa tướng đây. Y tâu như vậy tỏ ra muốn ăn thua đủ với Định-vương. Không chừng bọn y phóng độc, để có thể làm mất uy tín của Định-vương.
Nhà vua đưa mắt nhìn quần thần một lượt rồi tuyên dụ:
- Đêm qua trẫm đã ban chế, tôn Lý thái-phi làm Trang duệ minh đức hoàng thái hậu. Nay cáo cho chư khanh biết.
Các đại thần cùng quỳ xuống đưa lời chúc tụng.
Tự-Mai nghe nhà vua nói, nó nghĩ thầm:
- Đêm qua, Định-vương, Khai-Quốc vương, nhà vua cùng các sư huynh Phụ-Quốc, Trung-Đạo, chắc đã tổ chức binh biến, khống chế hết phe đảng Lưu hậu, mà cho đến nay bọn văn võ quan phe Lưu hậu vẫn chưa biết. Người ngồi trong màn kia không biết có phải Lưu hậu không? Chắc bà bị Lý phi dùng phản Chu-sa độc chưởng khống chế, bây giờ mượn tay bà bắt hết phe đảng ...bà đây.
Một viên quan bước vào quỳ tâu:
- Muôn tâu, có Hoa-Sơn tứ lão dẫn ba đệ tử Hoa-sơn xin cầu kiến.
Nhà vua phán:
- Mời chư vị đạo sư vào.
Hoa-Sơn tứ lão bước vào vái ba vái, trong khi Địch Thanh, Triệu Tiết, Khúc Chẩn quỳ gối rập đầu tung hô vạn tuế. Nhà vua tuyên chỉ:
- Lã quốc công mời chư đạo sư an tọa.
Lã Di-Giản kéo ghế mời Hoa-Sơn tứ lão nhân cạnh Định-vương. Định-vương hỏi:
- Chư vị Đạo sư! Phải chăng chư đạo sư tới đây vì việc ba cao đồ bị trúng độc?
Bắc-Sơn lão nhân cung tay:
- Thưa vương gia quả thế.
Nhà vua hỏi:
- Theo đạo sư, ai là kẻ hạ độc thủ? Họ hạ độc thủ với mục đích gì?
- Tâu bệ hạ theo thần nghĩ họ muốn giết đi mấy trăm thiếu niên anh tài, làm nguyên khí bản triều giảm thiểu. Thứ nhì làm mất uy tín triều đình. Thứ ba họ làm cho trăm họ nghi kị Thiên-tử.
Tất cả đình thần đều gật đầu tán thành.
Tây-Sơn lão nhân tiếp:
- Hôm qua, trong lúc tệ đồ đau đớn vì bị trúng độc, thần dẫn tới Nam-thanh cung yết kiến sứ đoàn Đại-Việt để xin được giải độc. Thần thấy ba ứng viên phò mã Đại-Việt cũng bị trúng độc. Họ được giáo chủ Lạc-long giáo Thân Thiệu-Thái dùng Thiền-công giải độc cho. Thần xin Khai-Quốc vương trị dứt độc, mà vương không thuận, chỉ cấp thuốc trấn thống mà thôi.
Thượng-thư, Vũ-lâm đại học sĩ, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự Vương Tăng hỏi:
- Thưa đạo sư, kể từ khi bang chủ cuối cùng bang Nhật-hồ họ Đỗ bị giết, Hồng-thiết tâm pháp giải vĩnh viễn Chu-sa ngũ độc chưởng thất truyền. Nhưng bang chúng Nhật-hồ tản mát khắp nơi, dùng Chu-sa ngũ độc chưởng hại không biết bao nhiêu người. Nhưng họ chỉ có thể cấp cho thuốc giải trong một năm, chứ không thể giải vĩnh viễn. Không lẽ bên Đại-Việt còn có người biết xử dụng ư?
Đông-Sơn lão nhân gật đầu:
- Bên Đại-Việt có hai người biết thần công này. Một là sư phụ của Lưu Trí-Viễn tên Nhật-Hồ lão nhân. Hai là Thân Thiệu-Thái, giáo chủ Lạc-long giáo. Ngoài ra còn Ngũ-sứ Hồng-thiết giáo là Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn, Bun Thành, Khiếu Tam Bản, Sử-vạn Na-vương, và Nguyễn Tuyết-Minh cũng được truyền thần công này. Song họ chỉ có thể không bị lên cơn đau, chứ chưa trị dứt hoàn toàn cho người khác. Việc này Thái-sư biết rõ hơn bần đạo.
Triều thần đều hướng Định-vương chờ đợi. Định-vương khoan thai tường thuật chi tiết về việc Khu-mật viện Tống gửi Hồ Dương-Bá, Đỗ Lệ-Thanh sang Đại-Việt trong mưu đồ trường kỳ mai phục. Dương-Bá tiềm ẩn trong phái Tiêu-sơn, giam Đỗ Lệ-Thanh. Đỗ được Thiệu-Thái giải cứu, rồi được Đỗ truyền Hồng-thiết tâm pháp cho. Rồi bang Nhật-hồ sai chú cháu Chu An-Bình tìm Đỗ. Tình hình Hồng-thiết giáo Đại-Việt trong đại hội Thăng-long, cuối cùng tới việc bang Nhật-hồ biến thành bang Hoàng-Đế. Vương cùng sứ đoàn được Thiệu-Thái giải vĩnh viễn độc Chu-sa cho.
Có tiếng Thái-hậu nói sau màn:
- Tây-sơn đạo sư. Tại sao Lý Long-Bồ không sai Thân Thiệu-Thái trị cho ba đệ tử Hoa-sơn, mà chỉ cấp thuốc giải?
Nghe Thái-hậu nói, Tự-Mai tỉnh ngộ:
- Võ công bà này thuộc phái Hoa-sơn, vai vế bà ngang với Hoa-sơn tứ lão, tức ngang với Đặng Đại-Bằng. Rõ ràng bà là sư muội của tứ lão. Thế mà sao Tây-Sơn lão nhân lại khui bí mật về thân thế của nhà vua ra, điều này đại bất lợi cho bà, cho phái Hoa-sơn?
Chợt một tia sáng lóe lên trong đầu nó:
- Phải rồi bà này theo phe Đào Tường-Phúc, nên được y truyền Hồng-thiết công cho. Đặng Đại-Bằng sai mười trưởng lão áp lực cạnh bà. Bá dùng Đào, biến chúng thành tay sai cho bà đây. Nhưng sao tiếng bà giống tiếng Lý thái-hậu quá?
Tây-Sơn lão nhân đáp:
- Tâu thái hậu, Khai-Quốc vương đã nói rõ với bần đạo: Hiện Trung-nguyên có chân chúa nhân từ. Triều thần toàn bậc túc Nho đạo hạnh cực cao, hỏi sao gian nhân có thể tiềm ẩn trong Ngự-y mà ra tay hạ độc thủ mấy trăm thiếu niên anh tài? Thế nhưng mấy trăm thiếu niên đều trúng độc, thì hẳn họ bị triều đình trừng phạt hầu giáo hóa, cho bớt kiêu căng trước khi đại dụng. Hoặc giả thử thách công lực.
Tây-Sơn lão nhân nhìn khắp quần thần, rồi tiếp:
- Vương nhấn mạnh: Vương hiện đi sứ kết hiếu, nên không dám, không thể trị cho các thiếu niên. Trị cho các thiếu niên đang được triều đình thử thách, là điều đắc tội với thiên tử.
Thái-hậu ngắt lời:
- Triều đình không hề làm việc đó.
- Bần đạo biện minh với vương như vậy. Nhưng vương không tin, người trao cho bần đạo ba viên thuốc giải, và nói rằng: Tặng thuốc là vương. Còn trị cho đệ tử là bần đạo. Sau này nếu Thiên-tử nổi lôi đình, bần đạo phải chịu trách nhiệm. Bần đạo trao cho ba tệ đồ uống rồi.
Lưu thái-hậu lại nói với nhà vua:
- Hoàng nhi! Ta ban chỉ cho Lã Di-Giản gọi sứ đoàn Đại-Việt vào triều kiến cùng một lúc với các ứng sinh phò mã, để họ thấy rằng Trung-thổ lắm nhân tài. Nhưng sự việc này xẩy ra, làm ta khó nghĩ vô cùng.
Tào Lợi-Dụng hỏi Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích:
- Hôm nay các thiếu niên sẽ được tới đây bệ kiến hoàng thượng. Nhưng họ bị trúng độc, liệu họ có đến đúng giờ được không?
- Trình quốc công lệnh ban ra rằng giờ Mão họ phải tề tựu tại thiểm bộ. Giờ Thìn yết kiến hoàng thượng. Bây giờ mới cuối giờ Mão, phải chờ xem đã.
Đông-Sơn lão nhân nói:
- Theo bần đạo biết, người bị trúng Chu-sa chưởng cũng như Chu-sa phấn, mỗi ngày chỉ lên cơn trong một giờ. Sau đó lại tỉnh táo như thường. Hôm qua tệ đồ bị lên cơn lúc giờ Mùi, chắc các thiếu niên khác cũng lên cơn vào giờ đó. Vậy đương nhiên sáng nay họ tề tựu đông đủ tại bộ Lễ.
Có tiếng xướng:
- Sứ đoàn Giao-chỉ xin triều kiến.
Nhà vua nói với Định-vương:
- Thông thường các sứ thần tới thì Lễ-bộ thượng thư rước vào. Nhưng chánh sứ Đại-Việt là Khai-Quốc vương, một đấng anh hùng Nam-biên. Xin hoàng thúc ra rước, để tỏ lượng trọng khách của triều đình.
Định-vương rời điện ra ngoài. Tất cả bá quan văn võ đều hướng mắt nhìn theo. Vì từ lâu, không ít thì nhiều họ đã nghe nói về Khai-Quốc vương. Có kẻ nghi ngờ về vụ vương nhã lượng cho Lâm Huệ-Phương, Đào Hà-Thanh về với tình quân. Có kẻ nghe nói về vụ vương được tám vùng tộc Việt tôn làm thủ lãnh. Gần đây nhất, họ đều nghe biết về việc vương thu phục bang Trường-giang, Nhật-hồ. Kẻ ghét, người yêu đều muốn thấy diện mạo Vương ra sao. Trong điện hơn năm trăm người, mà không một tiếng động.
Họ không phải chờ lâu, cánh cửa điện mở rộng, Định-vương cùng Khai-Quốc vương sóng vai vào. Phía sau là vương phi Thanh-Mai, công chúa Mỹ-Linh, thế tử Thân Thiệu-Thái cùng Tôn Đản, Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm.
Khai-Quốc vương hô sứ đoàn quỳ gối hành lễ. Vương nói lớn:
- Thần Lý Long-Bồ, tước phong Khai-Quốc vương cùng vương phi và sứ đoàn bái yết thái hậu, hoàng thượng.
- Quốc vương bình thân. Xin hoàng-thúc mời Quốc-vương an tọa.
Định-vương chỉ vương phi Thanh-Mai:
- Tâu bệ hạ, chủ đạo tộc Việt rất trọng phụ nữ. Đại-Việt hoàng đế nghe Thái-hậu lâm triều, nên truyền cho vương phi Khai-Quốc theo sứ đoàn sang bái yết thái hậu. Vương-phi xuất thân gia đình danh tiếng võ học Lĩnh-Nam. Phụ thân vương phi là Trần Tự-An, chưởng môn phái Đông-a.
Khắp võ ban cùng bật lên tiếng ồ. Thời bấy giờ võ lâm Hoa-Việt không ít thì nhiều đều nghe danh phái Đông-a về võ công, về võ đạo. Danh tiếng đại hiệp Tự-An lừng lẫy bốn phương. Nên nghe nói Thanh-Mai là con đại hiệp Tự-An, họ đều đưa mắt nhìn.
Định-vương tiếp:
- Vương phi tuổi trẻ, nhưng võ công cực kỳ cao thâm. Trong đại hội Thăng-long đánh thắng đệ nhất đệ tử Nhật-Hồ lão nhân tên Vũ Nhất-Trụ, khiến y đau đớn đến chết đi sống lại.
Nghe Định-vương nói, mọi người tỏ ý không tin:
- Xưa đệ tử Nhật-Hồ là Lưu Trí-Viễn, một chưởng lập nên bang Nhật-hồ gây nghiệp Hán. Các đệ tử đời sau của y như Đặng Đại-Bằng, Phương Hổ, Phương Báo khét tiếng Trung-nguyên. Võ lâm Trung-thổ nghe tên chúng đều kinh hồn táng đởm. Thế mà Định-vương giới thiệu cô gái ẻo lả kia thắng Nhất-Trụ, đại đệ tự của Nhật-Hồ thì ai mà tin cho được?
Có tiếng thái hậu truyền:
- Mời vương phi vào sau màn đàm đạo cùng ta.
Thanh-Mai đứng dậy lui vào phía sau điện.
Định-vương chỉ Mỹ-Linh:
- Vị này nhũ danh Lý Mỹ-Linh sắc phong công chúa Bình-Dương, chưởng môn phái Mê-linh, kiếm thuật lừng lẫy trời Nam. Đông-Sơn đạo sư bị bại dưới tay công chúa.
Mỹ-Linh cúi đầu:
- Đa tạ vương gia quá khen. Tiểu nữ trẻ người non dạ, vô phép với Đông-Sơn đạo sư, được đạo sư nhường cho mấy chiêu hầu khuyến khích, chứ có đâu thắng được người?
Triều thần đã nghe nói đệ nhất kiếm thuật danh gia Trung-thổ là Đông-Sơn lão nhân bị một cô gái trẻ tộc Việt đả bại. Họ vốn không tin. Nay nghe Mỹ-Linh nói, họ cảm thấy tự ái thỏa mãn phần nào.
Tiếng Thái-hậu truyền chỉ:
- Mời công chúa vào đây đàm đạo với ta.
Mỹ-Linh đứng dậy lui vào hậu điện.
Định-vương chỉ Thiệu-Thái tiếp:
- Vị này là thế tử Thân Thiệu-Thái, một chưởng thắng Nhật-Hồ lão nhân, được tôn làm giáo chủ Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Sau khi lên ngôi, Thế tử đổi Hồng-thiết giáo thành Lạc-long giáo. Trước kia Hồng-thiết giáo chủ trương căm thù, chém giết, bỏ đạo lý cổ truyền, nay Lạc-Long giáo nêu cao chủ đạo tộc Việt. Mà chủ đạo tộc Việt gốc từ Nho, Lão, Phật cùng đạo đức cổ truyền của người Việt.
Bên võ ban cùng bật lên tiếng suýt xoa. Vì ai ai cũng sợ bóng sợ gió bọn bang Nhật-Hồ như ma như quỷ, không biết chúng bắt hồn đi lúc nào. Bây giờ nghe tổ sư của bang Nhật-hồ là Nhật-Hồ lão nhân bị Thiệu-Thái đả bại, ai nấy đều dương mắt nhìn. Lại nữa, hầu hết triều thần bị Lưu hậu sai Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản cùng mười trưởng lão bang Nhật-hồ dùng độc chưởng khống chế. Nay nghe Thiệu-Thái có thể giải vĩnh viễn độc chưởng này, họ đều hy vọng làm thân với y, để nhờ y giải ách cho.
Nhà vua truyền chỉ:
- Mời thế tử an tọa.
Định-vương giới thiệu đến Tôn Đản, Thuận-Tông, Thiện-Lãm. Sau khi ba trẻ an tọa. Tào Lợi-Đụng hỏi Khai-Quốc vương:
- Thế tử. Lão phu nghe sứ đoàn Giao-chỉ có ba ứng sinh phò mã, tại sao lại chỉ Tôn Đản hiện diện, hai thiếu niên kia đâu?
Khai-Quốc vương đáp:
- Thưa đại nhân còn Trần Tự-Mai, Lê Văn đã nhập cung yết kiến thiên tử. Cả hai đang thi hành chỉ dụ của thiên tử nên không thể trình diện đại nhân.
Tự-Mai chửi thầm:
- Con bà thằng Tào này. Y thuộc phe Lưu hậu đây, nên coi Thuận-Thiên hoàng đế là Nam-Bình vương. Còn anh cả là thế tử thôi. Được, ta sẽ có cách trị mi.
Khai-Quốc vương hướng vào Thiên-Thánh hoàng đế:
- Tâu bệ hạ. Phụ hoàng thần ở Nam-thiên, nghe thánh đức nhân từ, cùng uy danh các bậc đại Nho đất Trung-nguyên, nên sai thần đem phương vật sang cống hầu kết hiếu. Thần xin bệ hạ cho dâng phẩm vật.
Định-vương nói:
- Vương cứ dâng lên.
Tôn Đản lùi khỏi điện. Lát sau nó với Trần Bảo-Dân bưng vào một hộp sơn son thiếp vàng lớn, cùng ba ống tre sơn đỏ. Cả hai quỳ trước mặt nhà vua. Khai-Quốc vương bưng hộp dâng:
- Tâu bệ hạ, bảo vật này có từ thời Cao-tổ nhà Hán. Tệ quốc lưu giữ biết bao đời. Nay dâng bệ hạ để tuyên thánh đức.
Theo luật lệ cung đình nhà Tống, thì Chiêu-văn quan đại học sĩ coi như tể tướng sẽ mở hộp dâng tận tay Hoàng-đế. Hiện Tào Lợi-Dụng lĩnh chức Tả bộc-xạ, nhưng y tranh chức của Lã Di-Giản. Y đỡ hộp, định mở ra.
Khai-Quốc vương nói:
- Linh vật này phải người có đức, có uy lắm mới đụng vào được. Xin quốc-công chẳng nên mở ra.
Tào Lợi-Dụng bất bình:
- Lão phu thân làm tể thần, mà không thể tiếp lễ vật của đất Giao-chỉ sao?
Khai-Quốc vương xua tay:
- Vãn sinh đã thưa: Đây là linh vật của một vị đế uy trùm Hoa-hạ. Đức của Tào Tư-không dù cao đến đâu cũng không thể, và không nên mở ra. Vãn sinh chỉ khuyên vậy thôi, còn Thái-phó cho rằng đức cao bằng Vũ đế, xin cứ tự tiện.
Tào Lợi-Dụng không trả lời, tay y mở hộp ra. Cả triều thần cùng dương to mắt xem trong hộp có gì, mà Khai-Quốc vương dám bảo thái phó không thể mở ra. Hơn nghìn con mắt thấy Lợi-Dụng cầm ra một thanh kiếm, ánh sáng chiếu xanh lè.
Phiêu-kị đại tướng quân Trần Trung-Đạo quát lớn:
- Trước mặt Hoàng-thượng, không ai được cầm vũ khí. Xin Quốc-công để kiếm xuống.
Nguyên luật lệ Trung-quốc từ thời Tam-hoàng, Ngũ-đế đến nay có một điều không bao giờ đổi: Mỗi khi yết kiến Hoàng-đế, hoặc chầu Hoàng-đế, không ai có quyền mang vũ khí vào. Chỉ những đại thần quyền cao, chức trọng, được tin cậy cực kỳ, Hoàng-đế mới đặc cách phong cho khi vào chầu được đeo kiếm, tâu không phải xưng tên. Đó là lý thuyết. Trên thực tế những tể thần ấy không bao giờ mang kiếm khi triều yết cả. Vì vậy khi Kinh-Kha ám sát Tần Thủy-Hoàng, triều thần không ai có vũ khí chống lại.
Từ khi Tống triều lập lên, đời Thiên-Thánh chỉ có một người được danh dự mang kiếm vào triều đó là Định-vương Nguyên-Nghiễm, vì vương là chú, là sư phụ nhà vua. Bây giờ Tào Lợi-Dụng cầm kiếm chĩa ngay mặt vua là điều đại bất kính, đại tội.
Tiếng quát làm Lợi-Dụng cùng các văn quan muốn nổ tung màng nhĩ ra. Một là Lợi-Dụng bị ảnh hưởng của tiếng quát, hai là y bướng bỉnh không hạ kiếm xuống, nên mũi thanh kiếm vẫn chĩa thẳng về phía bụng nhà vua.
Thấp thoáng, có hai bóng cùng xẹt đến. Một bóng ôm lấy ngực nhà vua, đưa lưng vào thanh kiếm như che chở. Một bóng phóng chưởng đánh vào hông Lợi-Dụng. Lợi-Dụng thấy chưởng phong cực kỳ hùng hậu đánh vào phía trái. Y vội vung tay đỡ. Binh một tiếng, cánh tay y cảm thấy tê liệt. Y quay lại nhìn, người đánh y là viên quan võ, lĩnh quản thị vệ Trần Trung-Đạo. Còn người đưa lưng che cho nhà vua là Tự-Mai, y chưa biết lý lịch.
Trong khi y đang sững sờ, Tự-Mai thấy sư huynh Trần Trung-Đạo đánh một chưởng, không làm Lợi-Dụng lui bước. Đạo đang đánh sang chiêu thứ nhì. Thừa thế y đang kinh hoàng, lo đỡ chưởng của sư huynh. Chàng phát hai Lĩnh-Nam chỉ véo véo trúng huyệt Khúc-trì của y. Cánh tay Tào bị tê liệt. Tự-Mai đá mạnh vào thanh kiếm, thanh kiếm vuột khỏi tay Lợi-Dụng.
Kiếm đang rơi xuống, Tự-Mai dùng chân móc một cái, thanh kiếm bay ra xa trúng nền điện đến choang một tiếng. Chàng lạng mình tới chĩa ngón tay phóng liền hai chỉ, véo, véo vào huyệt Hoàn-khiêu, của Lợi-Dụng. Chân y tê liệt, ngã ngồi về trước giống như quỳ gối. Chàng phóng thêm một chỉ vào huyệt Á-môn khiến y câm không nói được nữa.
Nói thì chậm, chứ động tác điểm huyệt, đá kiếm rồi khống chế Tào của Tự-Mai nhanh như điện xẹt, khiến Tào không bị kiềm chế.
Tự-Mai cúi đầu quỳ trước nhà vua:
- Đại ca xá tội. Đứa em cứu giá chậm trễ, làm kinh động long tâm.
Nói rồi chàng lui lại sau ngai vàng khoanh tay.
Bàn cho thực phải, với võ công của Tào Lợi-Dụng, dù cả Tự-Mai lẫn Trung-Đạo cũng không phải là đối thủ của y. Nhưng vì vô tình cầm kiếm lên, bị Trung-Đạo quát, y bàng hoàng, rồi chàng đánh chiêu. Y vừa đỡ, khí huyết nhộn nhạo, luống cuống, thì bị Tự-Mai dùng Lĩnh-Nam chỉ pháp điểm huyệt. Hai môn võ công này y chưa thấy bao giờ, nên mới bị lạc bại.
Diễn biến xẩy ra, cả triều thần cùng kinh ngạc. Bởi từ thời vua Thái-tông đến giờ, Tào Lợi-Dụng là đệ nhất cao thủ của triều đình. Võ công y cao thâm không biết đâu mà lường. Nay không hiểu Tự-Mai dùng thứ chỉ pháp gì khiến y như bị trói chân tay. Duy có sứ đoàn với tùy tùng của Định-vương là hiểu rõ. Còn lại những võ quan cùng thị vệ có mặt đều kinh hãi tự hỏi:
- Phiêu-kỵ đại tướng quân lĩnh Kinh-châu tư mã trước đây tuy nổi danh thực. Y mới được phong làm Tổng-lĩnh Ngự-lâm quân mấy ngày... nhưng muôn ngàn lần không thể địch lại Tào quốc-công. Tại sao chỉ một chiêu khiến Tào lạc bại, rồi thiếu niên kia phóng chỉ khiến Tào tê liệt đến ngã ngồi thế kia?
Trong điện, ngoài Định-vương cùng đám Hoa-Sơn không ai biết tung tích Tự-Mai. Sau khi tâu, chàng lui lại phía sau ngai vàng khoanh tay.
Lã Di-Giản tâu:
- Xin hoàng thượng rộng dung. Tào quốc-công đâu biết trong hộp có kiếm, nên mở ra, rồi thuận tay cầm lên. Chứ không có ý khác.
Một văn thần bước ra tâu:
- Thần Vương Đức-Dụng lĩnh chức Ngự-sử đại phu, xin hoàng thượng cho thần được hỏi Tào quốc-công mấy câu.
Tự-Mai nghĩ thầm:
- Triều Tống đặt ra tới sáu ông Ngự-sử chuyên theo dõi các quan. Ông nào phạm lỗi, tâu lên xin vua trị tội. Khi Ngự-sử khép tội, dù Hoàng-đế muốn tha cũng không được. Lão Tào Lợi-Dụng chết đến nơi rồi.
Vương Đức-Dụng hỏi Tào Lợi-Dụng:
- Sứ thần Đại-Việt là Khai-Quốc vương đã can ngăn quốc công rằng vật trong hộp với chức vụ của quốc công không thể mở ra. Thế mà quốc công cứ mở. Có phải quốc công kiêu căng không? Một tể thần mà lòng kiêu căng, e khinh rẻ đấng quân phụ. Đó là một tội.
Tào Lợi-Dụng bị điểm huyệt Á-môn không nói được. Y chỉ lắc lư cái đầu. Mọi người cho rằng y nhận tội.



<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 08:24:09 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 20.01.2005 17:59:12 (permalink)
    Hồi thứ một trăm mười hai


    Sáng tổ tiêu thuật


    Tự-Mai nghe Vương gọi tên nước mình là Đại-Việt, thì biết y thuộc phe chống Lưu hậu, thân với Đại-Việt. Chàng nói thầm:
    - Ông này chơi được.
    Đức-Dụng tiếp:
    - Quốc-công không biện minh được, như vậy là nhận tội. Câu hỏi thứ nhì là: Khi Quốc-công mở ra, thấy rõ ràng trong hộp có thanh kiếm. Đáng lẽ Quốc-công phải buông hộp lùi bước. Lý đâu Quốc-công lại mang kiếm ra đưa vào trước ngực hoàng thượng. Nếu như không có Phiêu-kị đại tướng quân đẩy Quốc-công lui lại...
    Ông ta chỉ vào Tự-Mai:
    - Hơn nữa thiếu niên này không đem thân đỡ kiếm, có lẽ Hoàng-thượng đã bị hại rồi. Chiếu luật bản triều, tội kiêu căng với quân phụ, cùng tội thí chúa, phải tru di tam tộc.
    Tào Lợi-Dụng nghe buộc tội, y kinh hồn táng đởm, nhưng không nói được, chỉ biết lắc đầu, trong khi vẫn quỳ gối.
    Nhà vua nghĩ thầm:
    - Kể ra với tội trạng tên Tào này làm từ xưa đến giờ cũng đáng tru di tam tộc. Nhưng khốn nỗi y là cố mệnh đại thần, ta không thể giết y ngay được. Hơn nữa hôm qua ta truyền bắt giam con y về tội hà hiếp lương dân. Khi đem việc này ra đình nghị, chắc chắn con y bị xử tử. Y sẽ bị cách chức. Như vậy cũng đủ rồi. Còn hôm nay, y ngay tình, mà ta bắt tội y, e phe đảng y không phục.
    Nhà vua quay lại nói với Tự-Mai:
    - Tào quốc-công là võ quan, nên thiếu tinh tế. Chứ sự thực không tà ý. Nếu có tà ý, thì đêm qua, trong lúc hội kiến với trẫm Quốc-công đã ra tay gia hại, chứ đâu để đến hôm nay? Tội của Tào quốc-công sẽ đình nghị sau. Nhị đệ buông tha cho Quốc-công.
    Tự-Mai khoan thai bước đến trước Tào Lợi-Dụng, nó xoa tay vào huyệt Đại-trùy. Lợi-Dụng rùng mình, chân tay cử động được. Y lườm lườm nhìn Trung-Đạo, rồi về chỗ đứng.
    Xuất thân phái Liêu-Đông, Tào dùng võ công lập nghiệp. Trong suốt hai triều Thái-tông, Chân-tông không ai địch nổi Tào. Từ khi Lưu hậu nhiếp chính, Tào giúp bà điều khiển bọn Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản và mười trưởng lão bang Nhật-hồ khống chế triều thần, anh hùng thiên hạ. Tào tuy làm Tả bộc-xạ, nhưng y lấn át Lã Di-Giản làm Hữu-bộc xạ. Khắp quần thần không ai dám chống đối y. Hôm nay y bị viên tổng lĩnh Ngự-lâm quân, cùng thiếu niên vô danh làm nhục, y căm hận vô cùng, tự hứa trong lòng:
    - Đêm nay ta sẽ tìm đến chúng bay để đòi món nợ này.
    Mọi người cùng đưa mắt nhìn Tự-Mai. Thái-hậu hỏi:
    - Thiếu niên trung nghĩa kia là con cháu của bậc đại thần nào vậy? Hãy lại gần đây cho ta nhìn rõ mặt.
    Tự-Mai tiến đến trước màn rập đầu bốn lần. Nhưng chàng không nói một lời nào cả. Định-vương lên tiếng:
    - Trần hiền đệ. Hiền đệ khấu đầu chưa đủ, lễ nghi bản triều định rằng khi khấu đầu phải xưng tên họ. Hiền đệ xưng tên họ đi.
    Tự-Mai lắc đầu nhìn nhà vua. Nhà vua nhắc:
    - Nhị đệ! Nhị đệ ra mắt Thái-hậu đi.
    Tự-Mai lại rập đầu:
    - Tên nhà quê Trần Tự-Mai thuộc Đại-Việt xin tham kiến Thái-hậu. Kính chúc Thái-hậu được Trời, Phật hộ trì vạn sự nguyện đắc như sở cầu. Muôn tâu... khi thần tới đây, hoàng thượng ban chỉ dụ: Tuyệt đối không được nói. Dù ai hỏi cũng không trả lời. Vì vậy hạ thần chỉ khấu đầu, mà không thỉnh an Thái-hậu. Mãi tới khi hoàng thượng lên tiếng cho phép, thần mới dám nói.
    Thái-hậu trầm ngâm:
    - Thiếu niên này dùng võ công gì mà khống chế được Tào Lợi-Dụng, kể cũng lạ. Với tài của y mà ứng tuyển phò mã, thì thực xứng đáng.
    Bà hỏi Tự-Mai:
    - Cháu bình thân. Thì ra cháu là em của vương phi Khai-Quốc vương. Thức khinh thân vừa rồi của cháu hơi giống võ công Thiếu-lâm. Lúc co chân đá bay kiếm là chiêu gì, ta nhìn không ra. Lại ba chỉ phóng vào Tào Lợi-Dụng kình lực vô song. Ta chưa từng thấy qua.
    Tự-Mai đáp:
    - Tâu thái hậu, chiêu đó tên Kình ngư nhược thủy thuộc võ công phái Cửu-chân thời Lĩnh-Nam. Còn chỉ đó có tên Lĩnh-Nam chỉ pháp.
    Thái-hậu hỏi nhà vua:
    - Hoàng nhi, hoàng nhi gặp Tự-Mai ở đâu? Tại sao lại gọi là nhị đệ?
    Nhà vua tâu:
    - Hài nhi xuất thành vi hành, thăm dân cho biết sự tình. Chẳng may gặp bọn ác nhân nhận diện. Chúng định hại hài nhi. May nhờ Trần Tự-Mai đánh đuổi chúng đi. Hài nhi đã kết huynh đệ với y.
    Triều Tống gồm toàn Nho-thần, họ rất trọng những người trung nghĩa. Vừa rồi họ thấy Tự-Mai đem lưng đỡ kiếm cho nhà vua, nên người người đều nhìn chàng với con mắt thiện cảm.
    Trương Sĩ-Tổn hỏi:
    - Trần công tử. Công tử đem lưng đỡ kiếm cho Hoàng-thượng là cứu một Thiên-tử hay một nghĩa huynh?
    Tự-Mai đáp:
    - Thưa đại-học sĩ, vãn sinh không chủ tâm đem lưng đỡ kiếm cho ông vua Trung-thổ. Vãn sinh là người Việt, chẳng việc gì phải chết thay cho ông vua Tống triều.
    Mọi người tỏ vẻ bực mình:
    - Thằng nhỏ này vô phép quá.
    Tự-Mai tiếp:
    - Nhưng từ lúc vãn sinh theo sứ đoàn sang Tống, đã nghe khắp anh hùng võ lâm, nhân sĩ, dân Hán ca tụng: Trong triều có ông vua cực kỳ hiếu thảo, lại nhân từ, thương dân như thương con. Vì vậy vãn sinh nghĩ mình được chết thay một nhân quân, để nhân quân sống mà ban phúc cho dân, thì vãn sinh sẵn sàng.
    Lã Di-Giản hỏi:
    - Chú em bảo người ta ca tụng hoàng thượng nhân từ, cùng hiếu thuận, vậy họ có nói nhân từ cùng hiếu thuận ra sao không?
    Tự-Mai định trả lời, thì có tiếng Bảo-Hòa dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai:
    - Tự-Mai ngoan. Hãy nói theo chị. Ta nịnh ông vua cùng quần thần, để dùng họ diệt bọn mưu chiếm Đại-Việt. Nào nói theo chị nào.
    Tự-Mai nói:
    - Tể tướng thử vãn sinh hẳn? Từ trước đến giờ, cứ mỗi năm vua lại tăng thuế. Thế mà Hoàng-thượng lên ngôi mười năm không những không tăng, mà còn tha thuế ba năm. Hỏi suốt ba trăm năm qua, có vị Hoàng-đế nào nhân từ như vậy không?
    Cả triều thần cùng nhìn nhau gật đầu, công nhận lời Tự-Mai nói đúng. Chàng tiếp:
    - Khi tiên đế băng hà, xây lăng mộ tốn biết bao? Các vua đời trước đều bắt dân đóng thêm thuế, hoặc lấy công khố ra dùng. Đây Hoàng-thượng lại bắt hậu cung giảm chi. Thế mà số tiền xây lăng vẫn nhiều hơn bao giờ cả. Hỏi trong hơn nghìn năm qua, có vị Hoàng-đế nào nhân từ như vậy không?
    Mọi người đều gật đầu. Tự-Mai nói lớn:
    - Lại nữa, trong mười năm chấp chính, Hoàng- thượng luôn giảm án cho tù. Khắp nước chưa có vụ xử tử hình nào cả. Hỏi ngay thời vua Văn-vương cũng chưa chắc hơn. Như vậy không phải nhân từ là gì?
    Trương Tri-Bạch hỏi:
    - Vì thấy Thiên tử Thiên-triều nhân từ, nên chú em mới quyết định bỏ Đại-Việt theo Tống hẳn?
    Tự-Mai cười lớn:
    - Trương đại học sĩ lầm rồi. Hôm rồi vãn sinh dạo chơi Biện-kinh, thấy người ăn mày dắt con chó. Gặp người nhà giầu, ông ta trả cho lão ăn mày trăm đồng tiền để mua chó. Nhưng sau khi trả tiền, con chó nhất định không theo ông nhà giầu. Chó còn không nỡ tham phú phụ bần, huống chi người? Vãn sinh cứu giá là cứu một ông vua nhân từ. Chứ nếu Hoàng-thượng ác độc như Tùy Dương-Đế, e vãn sinh đá cho một đá chết tốt, chứ đừng nói cứu giá.
    Mọi người thấy Tự-Mai nói ngỗ nghịch, nhưng đúng đạo lý, họ đều bật cười. Tự-Mai tiếp:
    - Vì lý do đó vãn sinh không thể bỏ chúa Việt theo hoàng thượng. Vì bỏ chúa Việt, vãn sinh không bằng con chó. Huống hồ chúa Việt cũng là ông vua cực kỳ nhân từ. Nhân từ nhất cổ kim.
    Lã Di-Giản hỏi:
    - Lý Công-Uẩn nhân từ ở chỗ nào?
    Tự-Mai dõng dạc kể hết những năm xá thuế, tô tượng làm chùa, đúc chuông, cùng ân xá tù nhân. Rồi nó tiếp:
    - Chúa Việt làm vua mười tám năm, mà chỉ thu thuế trước sau có bốn năm. Hỏi còn chúa nào nhân từ hơn? Nhà tù trống trơn. Ngay cả phản thần Đàm Can, mưu thí chúa mà người cũng không bắt tội.
    Chàng nói lớn:
    - Các vị ở đây đều là đại Nho, trong lòng đầy trung quân. Hàng ngày phò tá đấng quân phụ nhân từ. Nhưng các vị có biết lòng nhân đó trong tâm Hoàng-thượng ở đâu mà nảy sinh không? Theo vãn sinh nghĩ, một là do từ Tiên-đế cùng mẫu hậu truyền lại. Hai là do các vị sư phó giảng dạy. Vãn sinh không biết ông thầy nào đã dạy Hoàng-thượng học? Người đó xứng đáng làm tể thần.
    Cả triều đình đều đưa mắt nhìn Định-vương, Vương Khâm-Nhược với Yến Thù.
    Trương Sĩ-Tổn hỏi:
    - Theo chú em, một vị vua cần nhất đức tính gì?
    Tự-Mai vẫn nói theo Bảo-Hòa:
    - Theo vãn sinh, một vị Thiên-tử không cần thông minh, chẳng cần võ công cao, văn chương quán thế, mà cần nhất cái đức.
    Sĩ-Tổn hỏi:
    - Chú em nói thiên tử cần đức. Nhưng có hàng trăm đức: Đức nhu, đức cương, đức dũng, đức liêm. Đức nào cần nhất?
    - Thưa trong bộ Thánh-tổ sự tích đại nhân Vương Định-Quốc (1) có luận rồi . Tiên sinh chẳng từng viết :« Than ôi, đấng quân phụ gặp lúc nước loạn cần đức dũng. Xã tắc đói khổ cần đức từ. Khi phải xét người cần đức minh. Nhưng thời nào cũng cần đức nhân. Không nhân thì sao thương dân. Thánh nhân nói: Bậc vua chúa như cha mẹ dân. Lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân ».

    Chú giải
    (1) Người xưa khi nói tới văn gia, thường gọi tên tự để tỏ ý kính trọng. Vương Khâm-Nhược tự là Định-Quốc, vì vậy Bảo-Hòa nhắc Tự-Mai gọi tên tự của ông ra, để lấy lòng.
    Hiện nay bốn biển thái bình, trong triều toàn túc Nho, trung thần. Ngoài dân, chỗ nào cũng mở mang truyền bá đạo thánh Khổng. Thiên-tử cần đức nhân hơn cả. Tỷ như vừa rồi, nếu Thiên-tử không nhân, ắt Tào quốc-công bị chặt đầu. Cho nên tiểu sinh nghĩ: Mình theo sứ đoàn để học văn minh Hoa-hạ, không ngờ được thấy một anh quân nhân từ... lại được đọc biết bao sách của Vương đại-nhân, Yến đại-nhân, Trương đại-nhân. Có lẽ tiểu sinh xin Khai-Quốc vương cho ở lại ít năm để học những cái hay của văn minh Hoa-hạ.


    Tào Lợi-Dụng vốn ghen tài với Khâm-Nhược. Y hận Tự-Mai điểm huyệt, nên cắt ngang:
    - Tên bé con Nam-man kia, mi nói đã đọc sách của Vương Khâm-Nhược, thế mi đã đọc những bộ nào?
    Tự-Mai hỏi nhà vua:
    - Tâu đại ca. Trong lịch sử Hoa-hạ, chưa đời nào văn học, tư tưởng thịnh bằng bản triều. Tại sao có một đại thần nói năng như phường vô học bất thuật vậy kià. Xin hoàng huynh trao y cho Yến đại-nhân, Vương đại-nhân dạy ít bộ sách. Y bảo đệ là người Nam-man, nhưng đệ dám thách y thi văn chương với đệ.
    Triều đình thấy Tào Lợi-Dụng nói năng cục súc, đều cau mặt khó chịu. Nhà vua nói với Lợi-Dụng:
    - Trần nhị đệ là em kết nghĩa của trẫm. Quốc-công chẳng nên quá lời.
    Nhà vua nghe Lợi-Dụng nói cũng muốn thử kiến thức của Tự-Mai, nên hỏi nó:
    - Nhị đệ đã đọc những bộ sách nào của Vương đại học sĩ?
    - Đệ mới tới kinh sư hai tháng qua, nên chỉ mới đọc được các bộ: Thiên-thư nghị chế, Thánh-tổ sự tích, Ngũ-nhạc quảng văn ký.
    Ba bộ sách trên là ba bộ Vương Khâm-Nhược viết vào thời vua Chân-tông. Triều thần cùng nghĩ rằng: Thư tịch Trung-quốc có hàng nghìn, hàng vạn. Sách của Khâm-Nhược chỉ mới in gần đây, thế mà thiếu niên này mới sang đã đọc hết ba bộ trên, thì e sách khác y đọc đến hàng trăm bộ.
    Tự-Mai nói một hồi làm Vương Khâm-Nhược, Trương Tri-Bạch, Yến Thù đều khoan khoái trong lòng. Nó chỉ vào thanh kiếm:
    - Tâu hoàng-thượng, xin hoàng-thượng cầm thanh kiếm mà Khai-Quốc vương đem cống. Cam đoan long tâm sẽ vui mừng.
    Nhà vua cầm thanh kiếm lên xem, ánh thép lạnh toát tỏa ra. Thoáng nhìn qua, cũng biết thanh kiếm lâu đời lắm. Dưới chuôi kiếm có khắc chữ:

    Đại phong khởi hề,
    Vân phi dương.
    Uy gia hải nội hề,
    Qui cố hương,
    An đắc mãnh sĩ hề,
    Thủ tứ phương.(2)


    Ghi chú
    Đây là bài ca rất cổ, do Lưu Bang, Cao-tổ nhà Hán làm. Sau khi thắng Hạng Vũ, thống nhất đất nước, Lưu Bang về thăm quê hương, rồi làm ra bài ca này. Tạm dịch:
    Gió lớn khởi chừ,
    Mây bay cao.
    Oai khắp bốn bể chừ,
    Về cố hương.
    Sao được mãnh sĩ chừ,
    Trấn giữ bốn phương.


    Nhà vua trầm ngâm suy nghĩ, rồi tiến đến bên Định-vương:
    - Hoàng-thúc. Hoàng-thúc xem này, quý vật mà đức Cao-tổ nhà ta suốt đời tìm kiếm không được, nay đã thấy rồi đây.
    Định-vương đỡ lấy kiếm xem qua một lượt, vương hỏi Khai-Quốc vương:
    - Nhị đệ, báu vật này nhị đệ tìm thấy ở đâu vậy?
    Khai-Quốc vương nói:
    - Tâu bệ hạ, nguyên thanh kiếm này của Cao-tổ nhà Hán là Lưu Bang. Khi Cao-tổ khởi nghiệp đã dùng nó chém rắn khởi nghĩa. Lúc thành đại nghiệp, Cao-tổ về đất Bái, họp con em đệ tử, mở tiệc mừng. Trong tiệc ngài hứng chí cầm kiếm múa và làm ra bài ca trên. Cho nên thanh kiếm có tên Đại-phong.
    Nhà vua gật đầu:
    - Suốt triều Tây-Hán, các vua dùng thanh Đại-phong này làm Thượng-phương bảo kiếm. Từ sau khi Vương Mãng cướp ngôi, Đại-phong kiếm bị tuyệt tích.

    Ghi chú
    Bộ Đông-Hán cảo lục chép rằng: « Khi Vương-Mãng cướp ngôi nhà Hán, y đoạt thanh Đại-phong. Y đem cất chung vào với bảo vật ở dưới đáy điện Vị-ương, rồi sai người chôn ở hồ Động-đình ».
    Thời vua Trưng thành đại nghiệp, ngài sai công chúa Trần Năng, Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa đào kho tàng Tần-Hán mang về. Trong kho tàng có thanh Đại-phong. Phái đoàn Lĩnh-Nam chở kho tàng về tới Khúc-giang, bị đoàn cao thủ của Mã hậu đuổi theo. Công chúa Trần Năng đem chôn kho tàng ở Tuyệt-phong.
    Khai-Quốc vương sai Bảo-Hòa, Thông-Mai, Tự-Mai đào kho tàng mang về Đại-Việt, nhân đó đem thanh Đại-phong cho Khai-Quốc vương làm lễ vật cống Tống-đế.
    Theo tin tức tế tác Đại-Việt, Tống thái tổ Triệu Khuông-Duẫn cướp ngôi của ấu quân nhà Chu. Cho nên trong lòng luôn luôn sợ thiên hạ dị nghị. Ông nghĩ rằng, nếu mình có thanh kiếm Đại-phong trong tay, thì dân chúng sẽ tin rằng trời trao thiên hạ cho. Ông truyền tìm thanh kiếm này khắp nơi mà không thấy. Vì vậy Bảo-Hòa khuyên Khai-Quốc vương nên cống Tống-đế, để mua cảm tình.


    Quả nhiên Thiên-Thánh hoàng đế mừng không bút nào tả siết. Ông bảo một võ quan:
    - Hoàng-môn chỉ hạp. Khanh đưa thanh kiếm này để bách quan xem một lần cho biết.
    Lý Chính vâng mệnh hai tay đỡ kiếm mang đi khắp điện.
    Khai-Quốc vương cho mở bốn ống tre ra. Trong mỗi ống có một ống tiêu chạm trổ xà cừ rất tinh vi. Một ống chạm sự tích vua Đế-Minh kết hôn với tiên nữ ở núi Ngũ-lĩnh, sinh ra thái tử Lộc-Tục. Nhà vua cầm ống tiêu xem:
    - À, đây là sự tích triều Thần-Nông phân ra Bắc sau thành Trung-nguyên. Nam sau thành Lĩnh-Nam đây.
    Ống thứ nhì chạm sự tích vua Đế-Minh tế cáo trời đất ở Thiên-Đài. Ống thứ ba chạm sự tích Lạc-Long quân kết hôn với Âu-Cơ, đẻ ra trăm con.
    Nhà vua cầm ba ống tiêu lên coi, tần ngần một lúc, rồi nói:
    - Đúng rồi, Hán, Việt vốn gốc cùng ông tổ. Hán là con nhà bác là vai anh. Việt là con nhà chú, là em.
    Một văn thần cầm ống tiêu lên xem xét một lúc rồi lắc đầu:
    - Nam-man học tiêu của Hoa-hạ, nhưng cơ chừng không biết tấu, nên làm ống to qúa. Ống tiêu này chỉ dùng để trang trí thôi, chứ dù hơi voi, hơi trâu cũng không tấu nổi.
    Từ lúc nhập điện, Lê Văn đứng sau ngai vàng, ít ai chú ý đến nó. Chàng lẳng lặng nghe Bảo-Hòa truyền ngữ cho Tự-Mai đối đáp. Đến đây, thình lình tiếng Bảo-Hòa rót vào tai:
    - Thằng này tên Phạm Ung, rất giỏi âm nhạc. Văn đệ ra bẻ gẫy lý luận của y đi.
    Lê Văn bước ra chắp tay xá Phạm Ung:
    - Ngài có phải là Phạm Ung, hiện lĩnh Long-đồ các trực học sĩ, kiêm Khu-mật viện phó sứ đấy không? Vãn sinh họ Lê tên Văn, y sinh nước Đại-Việt. Trước khi khởi hành, vãn sinh nghe danh đại nhân như sấm nổ bên tai. Không ngờ bây giờ trước mắt vãn sinh chỉ thấy một gã hủ Nho hồ đồ.
    Phạm Ung nổi giận:
    - Ta hồ đồ ở chỗ nào?
    - Theo vãn sinh, khi một người vị tới đại thần, ắt phải thông lịch sử. Ngài không thông lịch sử, mà làm đại thần thực khổ cho trăm họ. Thưa đại học sĩ, khắp thiên hạ, ai cũng biết rằng nhạc sư sáng chế ra ống tiêu họ Trương tên Chi. Ông là người Việt. Trương Chi chế ra ống tiêu vào niên hiệu Hồng-bàng bên Văn-lang năm 527 (Mậu-Thân, 2353 trước Tây-lịch). Bấy giờ bên Trung-nguyên là niên hiệu vua Nghiêu năm thứ năm.
    Phạm Ung ngơ ngác lắc đầu tỏ ý không tin.
    Lê Văn cười khúc khích:
    - Hỡi ôi! Đại-học sĩ lại quên quốc sử rồi.
    Chàng hỏi Yến Thù:
    - Thưa Hàn-lâm thị độc học sĩ. Xin tiên sinh dạy dỗ cho Phạm đại-học sĩ bài sử về giai đoạn này đi.
    Yến Thù biết Lê Văn muốn đưa mình lên, cùng hạ Phạm Ung xuống. Y cười:
    - Lê huynh đệ. Phạm đại học sĩ muốn thử kiến thức huynh đệ đó thôi, chứ truyện này ai mà không biết. Nguyên thời bấy giờ bên Trung-nguyên chưa biết làm lịch. Trong khi lịch pháp bên Văn-lang lại rất tinh kỳ. Vua Hùng sai chép phương pháp làm lịch lên lưng một con rùa rồi mang sang cống. Vua Nghiêu truyền chép lại mà dùng. Lịch pháp Hoa-hạ khởi đầu bằng việc này, nên gọi là Qui-lịch. Sau này các lịch gia Trung-thổ nghiên cứu rộng ra, chi tiết hơn, nhưng vẫn nằm trong nguyên tắc Qui-lịch. Trong lễ cống Qui-lịch còn có cả bốn ống tiêu.
    Lê Văn muốn cho đám quan lại chủ chiến chiếm Nam-địa chùn nhụt, đưa đám chủ hòa lên. Chàng nói:
    - Hỡi ôi! Yến đại học sĩ đúng là một bác học đa năng. Sau khi Văn-lang cống tiêu cho vua Nghiêu, tiêu thuật truyền sang Trung-nguyên. Nay Phạm tiên sinh nói ngược lại rằng Việt tộc học tiêu của người Hoa thì còn trời đất nào nữa.
    Phạm Ung cười nhạt:
    - Sử sách còn ghi: Tiêu Sử thổi tiêu mà được Tần Mục-công gả Lộng-Ngọc. Trương Lưu-hầu thổi tiêu ở Cai-hạ, làm tan mười vạn binh của Sở-bá vương. Rồi tiêu thuật lưu truyền lại hậu thế. Mãi sau này người Việt mới biết thổi tiêu, thì không học của Hoa-hạ là gì?
    - Tôi dám hỏi, ống tiêu mà Trương Lương dùng bằng vàng hay bạc?
    - Bằng trúc. Từ Lưu hầu về trước, người ta dùng ống tiêu bằng trúc. Sau này, đến đời Đường mới chế ống tiêu bằng bạc, bằng vàng.
    - Sai. Bộ Tả-truyện chép: Con gái Tần-mục công là Lộng-Ngọc, lớn tuổi chưa chồng. Một ngày, có thanh niên anh tuấn đến dùng ống tiêu tấu nhạc bên nàng. Hai người tâm đầu ý hợp, Tần Mục-công bèn gả Lộng-Ngọc cho nhạc sĩ. Vì vậy người ta gọi nhạc sĩ là Tiêu Sử. Từ Tần Mục-công đến Trương Lương ước hơn bẩy trăm năm. Nhưng Trương Chi chế tiêu trước Tần Mục-công hơn hai nghìn năm, vậy tiêu tộc Việt có trước tộc Hán.
    - Trương Chi chế tiêu trước, biết đâu y chẳng học của Hoa-hạ.
    - Được. Xin đại học sĩ cho vãn sinh biết: Có phải cổ thời, từ sông Trường-giang về Nam thuộc tộc Việt. Từ Trường-giang về Bắc thuộc tộc Hán không?
    - Dĩ nhiên như thế. Nguồn gốc tộc Việt với tiêu sử đâu có gì liên hệ với nhau?
    - Sao lại không? Đại học sĩ công nhận từ Trường-giang trở xuống thuộc lĩnh thổ tộc Việt. Vậy thì đại học sĩ công nhận tiêu tổ là người Việt rồi.
    - Ta công nhận bao giờ?
    - Không đúng ư? Tiêu bằng trúc, vì từ hồ Động-đình lên phía Bắc làm gì có trúc mà người Hoa chế tiêu? Công nhận lãnh thổ tộc Việt từ hồ Động-đình xuống Nam là công nhận tiêu tổ Trương Chi.
    Phạm Ung cố cãi:
    - Tiêu tổ là người Việt hay Hán cũng được. Nhưng hiện nay người Việt chế ống tiêu to như thế này là không biết tấu tiêu rồi.
    Tào Lợi-Dụng cắt ngang:
    - Đại học sĩ tranh biện với trẻ con làm gì? Tranh biện vô ích. Lão phu đề nghị hai bên tấu ít bản tiêu, để mọi người cùng nghe. Như vậy sẽ phân biệt ai là người cao thuật.
    Lê Văn cười:
    - Đa tạ Tào quốc-công. Tôi tuy còn niên thiếu, học chưa được một phần nghìn bản lĩnh của cao nhân nước tôi, nên không thể tranh tài cùng danh tiêu Hoa-hạ. Nhưng với Phạm đại-học sĩ thì tôi nhất định hơn. Thể lệ thế nào, xin đại-học sĩ dạy cho.
    - Giản dị lắm, mỗi người cùng dùng ống tiêu của mình tấu một bản nhạc. Tấu đi, tấu lại cho đến khi mệt thì thôi. Hễ ai tấu được nhiều lần thì thắng cuộc. Nhưng nếu cả hai cùng tấu đến lần thứ năm mà chưa phân thắng bại, thì thôi không đấu nữa, coi như trận này hòa, đấu trận thứ nhì. Trận thứ nhì giản dị thôi: Cả hai cùng tấu một bản, hễ âm điệu của người nào loạn, coi như thua cuộc. Đó là thể lệ đấu tiêu của Trung-nguyên.
    Lê Văn cười:
    - Đây thuộc đất Tống dĩ nhiên vãn sinh phải tuân theo lệ Tống. Vãn sinh chưa biết lệ Tống, ắt khó bằng đại-học sĩ. Giả như đấu theo lệ Việt, chắc chắn đại-học sĩ thua ngay.
    Nhà vua vốn thích Lê Văn ngay từ khi gặp y. Ông hỏi:
    - Lệ Việt thế nào? Hay là thế này, sau một trận đấu theo lệ Tống, hai người lại đấu một trận theo lệ Việt.
    Lê Văn tâu:
    - Lệ Việt định rằng khi đấu về âm nhạc, có ba phần. Phần thứ nhất ngồi trên lưng ngựa, vừa phi vừa tấu nhạc. Ngựa ai về trước, coi như thắng cuộc. Phần thứ nhì âm thanh của ai ít rối loạn coi như thắng cuộc. Phần thứ ba, đem đến cặp rắn hay cặp công. Ai dùng tiêu khiến chúng nhảy múa theo mình được coi như thắng cuộc.
    Phạm Ung nghe Lê Văn nói, y mừng thầm. Bởi tuy là văn quan, nhưng y nổi tiếng về thuật kị mã số một đế đô. Những võ quan giỏi nhất trong đội thiết kị cũng không hơn y. Y cười thầm:
    - Tự nhiên mi chui đầu vào rọ. Mi đừng trách trời oán đất bữa nhé.
    Phạm Ung nói:
    - Đây thuộc đất Tống. Ta là chủ, người là khách. Ta nhường cho người tấu trước. Nào, thi trận đầu theo lệ Tống.
    Lê Văn cầm lấy ống tiêu lớn, để cách xa miệng hơn gang tay, rồi vận nội lực dùng môi điều khiển khí lọt vào lỗ, thành âm điệu. Chàng thử mấy tiếng, âm thanh vang động rất xa, khiến mọi người đều kinh ngạc. Chàng hướng nhà vua:
    - Tâu hoàng thượng, thần xin tấu bản Động-đình ca, nói về Quốc-tổ, Quốc-mẫu tộc Việt kết hôn, rồi lên Tam-sơn hưởng thanh phúc.
    Hiện diện nhiều người biết thổi tiêu, nhiều người kinh lịch có thừa, nhưng chưa từng ai thấy lối tấu tiêu, để ống xa miệng hơn gang tay bao giờ. Lê Văn vận khí như sợi tơ truyền vào ống tiêu tạo thành tiếng véo von. Khi cao lên đến lưng trời khi trầm như nước suối đổ thấp đến độ thoang thoảng như tình nhân thủ thỉ bên tai. Những người biết thổi tiêu đều kinh hãi:
    - Tại sao âm điệu lại có thể xuống thấp đến trình độ này nhỉ? Xuống thấp như vậy thì làm sao thành tiếng được?
    Cả triều thần như bị tiếng tiêu của Lê Văn làm cho mơ mơ màng màng, tâm hồn thư thái lạ lùng. Tấu liền năm lần, chàng cầm ngang ống tiêu:
    - Xin bệ hạ ân xá cho, vì tài thần còn quá non kém.
    Chàng nói với Phạm Ung:
    - Đại-học sĩ. Tài tôi không hơn bất cứ nhạc công nào của đất Tống, nhưng chắc chắn hơn ngài.
    Phạm Ung không chấp trẻ con. Y rút trong bọc ra một ống tiêu dài. Y cung tay hướng nhà vua:
    - Thần xin tấu bản Trường-giang nguyệt lãng hầu hoàng thượng.
    Nói rồi y đưa tiêu ngang miệng thổi. Tiếng tiêu vừa cất lên, Trần Bảo-Dân, Lê Văn đều phải gật đầu công nhận tài của y thực hiếm thấy trên đời. Trong điện Sùng-chính có hơn năm trăm người, mà không một tiếng động. Lê Văn chú ý nghe, phân nhịp, điệu để học hỏi thêm.
    Phạm Ung tấu được hai lần, thì Trần Bảo-Dân bật lên mấy tiếng ho. Lạ lùng thay, tiếng ho của Bảo-Dân làm tiêu thanh hỗn loạn. Hơi của Phạm Ung bị nghẽn, y cố gắng tấu nữa, nhưng không ra. Kinh hoảng, y ngừng lại, rồi tấu từ đầu. Tiếng ho của Bảo-Dân chỉ nhiễu loạn trong chốc lát, nên lần này Phạm Ung thổi, âm thanh nhu hòa vang đi rất xa.
    Cả đình thần không ai hiểu tại sao. Duy sứ đoàn Đại-Việt biết Bảo-Dân dùng nội công thượng thừa truyền vào tiếng ho dài nhỏ như tơ xuyên qua ống tiêu, làm rối loạn âm điệu của Ung.
    Bảo-Dân dùng Lăng-không truyền ngữ nói với Mỹ-Linh:
    - Công chúa, trong chúng ta, nội công âm nhu của công chúa cực cao. Hôm đại hội Thăng-long công chúa đã dùng kiếm khí đấu với Đông-Sơn lão nhân. Bây giờ công chúa dùng Lăng-không truyền ngữ xử dụng Mê-linh kiếm pháp tấn công Phạm Ung giúp Văn đệ, bằng không y khó thắng tên họ Phạm.
    Mỹ-Linh tuyệt không ngờ Bảo-Dân lại giỏi về âm thanh như vậy. Nghe y nói, nàng thử vận công, rồi dùng Lăng-không truyền ngữ hướng vào ống tiêu của Phạm Ung. Nàng xuất chiêu Phong suy hoa lạc. Âm thanh của Ung đang véo von như chim hót giữa trời, bỗng tắt nghẽn bật thành tiếng ồ ồ như người bị suyễn. Mọi người không nhịn được, đều cười ồ lên. Phạm Ung kinh ngạc, cố thổi, nhưng âm không ra. Y ngừng lại nhìn tiêu: Bên trong vẫn như thường.
    Tào Lợi-Dụng hỏi:
    - Phạm đại-học sĩ. Sao vậy?
    - Tiểu nhân cũng không biết nữa.
    Y lại cầm ống tiêu thổi. Âm thanh trỗi dậy vi vu rất thanh nhã.
    Thấy lối phá phách của Bảo-Dân có kết quả, Mỹ-Linh tấn công chiêu thứ nhì, âm thanh lần này không tắt nghẽn, mà bị đổi thanh điệu. Chỗ đáng lẽ lên cao, thì lại xuống thấp. Chỗ đáng lẽ xuống thấp thì lại lên cao, thành ra âm thanh hỗn tạp, cực kỳ khó nghe. Phạm Ung có cảm tưởng như bị ma trêu quỷ ám, mặt y tái đi vì giận.
    Nhìn tình cảnh Phạm Ung; Tự-Mai biết Mỹ-Linh phá y. Nó dùng Lăng-không truyền ngữ nói:
    - Chị Mỹ-Linh, nhường cho em đùa với gã này đi.
    Vốn tính hiền hậu, Mỹ-Linh nghe Bảo-Dân phá Phạm Ung, mà trong lòng nàng không nỡ. Bây giờ được Tự-Mai lĩnh nhiệm vụ ác đức dùm, nàng mừng quá, thu chiêu.
    Phạm Ung đang bị Mê-linh kiếm đánh vào âm thanh làm rối loạn, bỗng y cảm thấy hơi phát ra êm dịu dìu dặt. Vui mừng, y tấu được nửa bản bằng tất cả nghệ thuật điêu luyện của mình.
    Tự-Mai dùng Lăng-không truyền ngữ, xuất chiêu Phong hoa hợp bích đánh vào tiêu Phạm Ung. Ung đang lên bổng, xuống trầm, thình lình bị tắc nghẽn, thổi không ra hơi. Y cảm thấy mệt mỏi, vội buông tiêu, than:
    - Thực là bị ma trêu quỹ ám. Chắc phía Giao-chỉ đùng tà thuật hại thần.
    Y đưa ống tiêu lên miệng thổi một hơi nữa, âm thanh vang lên rất mạnh. Tự-Mai sướng qúa, nó dùng Lĩnh-Nam chỉ pháp truyền lăng không đánh vào ngang ống tiêu. Cứ mỗi chỉ, âm thanh lại nghẽn, thành tiếng tiêu khi tắt, khi ra, khi lộc cộc như ngựa phi. Cả triều thần đều bật lên tiếng cười. Họ không hiểu tại sao tự nhiên Phạm Ung lại biến âm hưởng kỳ lạ như thế. Cứ vậy hết bản. Y ngừng lại, chân tay bải hoải.
    Tự-Mai reo lên:
    - Phạm đại học sĩ thua rồi, vì trong khi tấu khi thì đứt hơi, khi thì lạc điệu.
    Lã Di-Giản nói:
    - Đứt hơi là thế nào, âm điệu bản nhạc như thế đó, chứ Phạm đại-học sĩ đâu có đứt hơi?
    Tự-Mai cười nhạt:
    - Các vị là người lớn, mà dối trẻ còn ư? Như thế là văn phong của bậc đại Nho nhà Tống ư? Như thế là tư cách của đại thần ư?
    Tào Lợi-Dụng, Lã Di-Giản nói:
    - Phạm đại-học sĩ với Lê công tử đều tấu hết năm lần bản nhạc của mình. Như vậy là hòa. Bây giờ hai vị song tấu.
    Tự-Mai hỏi Lã Di-Giản:
    - Quốc công. Phải chăng bản nhạc vừa rồi mang tên Kị mã xuyên sơn cho nên cộc cộc không ra âm hưởng gì cả? Hay có tên Đắt-Kỷ ho gà?
    Di-Giản hỏi Phạm Ung:
    - Có phải bản nhạc vừa rồi mô tả tiếng ngựa phi, tiếng gió bão không?
    Phạm Ung đỏ mặt lên, đúng thể lệ, âm thanh của y loạn, coi như thua cuộc. Nhưng Di-Giản đỡ cho, y cũng phải làm mặt dầy gật đầu.
    Lê Văn tuy thắng cuộc, nhưng chàng tự biết mình thắng là do Bảo-Dân, Tự-Mai, Mỹ-Linh công phá đối thủ, nên chàng không tranh luận nữa. Nó nói:
    - Bây giờ đấu theo lệ Đại-Việt.
    Quần thần đều ra trước sân Sùng-chính điện. Hai con ngựa của thị vệ đầy đủ yên cương được đưa tới. Tự-Mai, Lê Văn hộ giá nhà vua. Thanh-Mai, Thiếu-Mai, Mỹ-Linh cũng ra trước sân. Nhưng không thấy Lưu hậu ra. Sân Sùng-chính điện rộng mênh mông.
    Quan điện tiền chỉ huy sứ, kiêm tổng lĩnh thị vệ Trần Trung-Đạo nói:
    - Một vòng sân này hơn hai mươi dặm (10 cây số ngày nay). Thị vệ thường đua ngựa với nhau. Bây giờ hai vị có thể phi ngựa men theo lối cũ. Không thể cho ngựa chạy vào trong vườn hoa, không thể cho ngựa chạy ra ngoài sân. Ai để ngựa phi vào vườn hoa, hay ra ngoài sân coi như thua.
    Phạm Ung, Lê Văn lĩnh ngựa. Lê Văn hướng vào nhà vua:
    - Tâu bệ hạ. Phàm cỡi ngựa có hai phép. Một là dùng yên cương như thường lệ. Còn ai có thuật kị mã cao, thì không cần tới yên cương.
    Lê Văn hỏi Ung:
    - Nào bây giờ đại học sĩ có dám phi ngựa không yên cương chăng? Rồi chúng ta cùng tấu một khúc nhạc. Tùy quan đại-học sĩ chọn.
    Nghe Lê Văn nói, các võ quan đều kinh hãi:
    - Mình có nghe nói, xưa một danh tướng bên Văn-lang giỏi thuật kị mã đến độ không dùng yên cương. Y luyện một đội kị binh thuật đó, rồi dùng đánh nhau với quân nhà Ân. Sau khi thắng quân Ân, y bỏ không làm quan, được phong làm Thiên-vương. Y gốc làng Phù-đổng nên võ lâm gọi y là Phù-đổng thiên vương. Y lập ra phái Sài-sơn. Có lẽ thiếu niên này thuộc phái võ Sài-sơn đây.
    Bị thách, nhưng Phạm Ung nghĩ thầm:
    - Trên đời làm gì có người cỡi ngựa không yên cương nhỉ? Thằng lỏi láu cá này bịa đặt dọa ta đây. Ta mà rút lui thì còn chi là thể thống?
    Y nói:
    - Nếu người có tài thì cỡi ngựa không yên cương thử coi. Nào, chúng ta cùng tấu bản Cai hạ loạn Sở binh của Trương Lưu hầu.
    Lê Văn nhắc bổng yên, tháo cương ra, trao trả viện thị vệ kị mã. Chàng quát một tiếng, phi thân ngồi lên trên lưng ngựa. Phạn Ung cũng nhảy lên yên, tay cầm cương. Hai ngựa đứng song song. Nhà vua cầm dùi đánh một tiếng trống. Phạm Ung thúc chân vào bụng ngựa, ra roi. Ngựa vọt tới trước. Lê Văn quát lên một tiếng, con ngựa tung vó lên sải bước như bay. Hai ngựa phi song song. Phạm Ung đưa tiêu lên miệng thổi. Còn Lê Văn, chàng dùng hai tay giữ ống tiêu bắt nhịp, miệng vận khí phát hơi vào lỗ. Tiếng tiêu của chàng lớn gấp mấy tiếng của Phạm Ung. Đến độ người nghe chỉ thấy tiếng tiêu của chàng, còn tiếng tiêu của Phạm Ung như sợi tơ.
    Ngựa Phạm Ung phi như bay. Trong khi ngựa Lê Văn cùng sải bước song song. Hai ngựa chạy hết vòng, trở lại trước thềm điện Sùng-chính. Phạm Ung ghì cương cho ngựa dừng lại. Y hướng hoàng-đế, cúi đầu ba lần.
    Lê Văn phi song song với Phạm Ung, khi đến thềm điện, chàng vận khí xuống chân truyền vào hai huyệt Chương-môn của ngựa. Con ngựa dựng đứng hai vó trước, chụm hai chân vào nhau gật đầu ba cái.
    Tất cả võ quan, thị vệ hiện diện đều kinh hãi:
    - Trên đời sao lại có kẻ giỏi thuật kị mã đến thế kia? Không dùng yên cương mà điều khiển được ngựa thì mình có thể làm được. Nhưng vừa phi ngựa không yên cương, vừa tấu nhạc, rồi lại sai ngựa dựng vó hành lễ, thực chưa từng thấy qua.
    Nhà vua nói:
    - Vòng đầu hai ngựa về cùng, coi như hòa. Bây giờ phi vòng thứ nhì.
    Nhà vua đánh tiếng trống. Hai ngựa vọt lên như tên bắn. Biết rằng qua vòng đầu, ngựa đã thấm mệt. Lê Văn nghĩ thầm:
    - Ta dùng khinh công thượng làm cho cơ thể nhẹ. Như vậy dù Phạm Ung cỡi ngựa giỏi đến đâu cũng thua ta.
    Chàng tung mình lên cao. Ở trên không chàng lộn một vòng, người vọt về trước. Khi chàng rơi xuống, ngựa vừa trờ đến. Chàng đáp một chân lên cuối sống lưng ngựa. Con ngựa của chàng mất đi trọng lượng, vó câu xẹt như tên bắn, lên trước ngựa Phạm Ung đến hơn hai trượng. Kỳ diệu ở chỗ tuy chàng nhảy lên cao, mà tiếng tiêu vẫn không rồi loạn. Thế là ngựa Lê Văn phi trước ngựa Phạm Ung mỗi lúc một xa. Khi Lê Văn về tới thềm điện, thì ngựa Phạm Ung mới chạy được ba phần tư vòng. Y luôn thúc chân vào bụng, nhưng sức ngựa có hạn. Rút cuộc y về sau Lê Văn một lúc khá lâu.
    Nhà vua phán:
    - Cuộc này Lê thế tử thắng. Phạm đại-học sĩ thua rồi.
    Nhà vua muốn biết thêm khả năng của Lê Văn. Ông truyền:
    - Đem ra đây cặp công, để hai người cùng thổi tiêu xem ai có thể làm cho công nhảy múa.
    La Sùng-Đản đã đem đến hai cặp công từ trước. Tiếng Bảo-Hòa rót vào tai Lê Văn:
    - Em nhường Phạm Ung tấu trước, để chị dạy cho em ít tiếng nói của loài công. Em dùng tiếng tiêu tạo âm thanh giống hệt tiếng công nói, sai khiến chúng hành lễ, cùng lui tới.
    Trong khi đó tiếng Trần Bảo-Dân rót vào tai Lê Văn:
    - Hôm trước trên hồ Động-đình ta cùng em đã nghiên cứu về âm thanh vũ-động. Chúng ta làm bọn thủy thủ cũng như hai lão Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ nhảy múa như điên như loạn. Bây giờ em cũng áp dụng lối đó khiến loài công múa theo điệu Việt mình. Còn ta, ta sẽ dùng Lăng-không truyền ngữ làm cho tên Phạm Ung nhảy chồm chồm cho bõ ghét.
    Nhà vua hỏi:
    - Trong hai người, ai sẽ trổ tài trước?
    Lê Văn chắp tay nói:
    - Tâu bệ hạ, thần chỉ là tên nhà quê, sao có thể so với vị đại-học sĩ. Xin mời đại-học sĩ trổ tài trước cho.
    Tấu nhạc cho hạc, cho công múa là môn giải trí rất cổ trong văn hóa Hán, Việt. Hầu hết những người hiện diện biết chơi nhạc đều đã học qua. Phạm Ung tiến tới chọn một cặp công. Hai thái giám ôm cặp công để trước sân, rồi lui lại.
    Trong khi đó Bảo-Hòa dùng Lăng-không truyền ngữ dạy Lê Văn những tiếng nói của loài công. Vốn thông minh, lại giỏi âm thanh, Lê Văn học hơn mười câu trong chốc lát.
    Phạm Ung cầm ông tiêu lên miệng tấu. Âm thanh dìu dặt phát ra, đôi công xòe cánh vươn cổ múa theo điệu nhạc rất đẹp mắt. Khi thì chúng cùng hướng vào nhau như đôi tình nhân e ấp. Khi thì chúng quay tròn, khiến mọi người hoa mắt, vỗ hay hoan hô vang dậy.
    Thình lình con công trống bay lên cao, rồi phóng tới mổ vào chân Phạm Ung. Phạm Ung kinh hãi lùi lại. Lập tức con mái bay đến sau y dương cổ lên mổ. Y vội buông tiêu, chạy ra sân. Đôi công đuổi theo, xù lông, dương cổ lên mà mổ y. Y la lên:
    - Đôi công này hóa điên rồi.
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 08:27:50 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 20.01.2005 18:00:58 (permalink)
      Hồi thứ một trăm mười ba


      Quốc sự tối khẩn


      Mọi người cùng ngơ ngác. Lê Văn cũng kinh ngạc. Nhưng chợt nó hiểu ngay:
      - Bà chằng Bảo-Hòa chứ không ai lạ. Bả dùng Lăng-không truyền ngữ sai đôi công đánh Phạm Ung.
      Nguyên từ thời Lĩnh-Nam, công chúa Hồ Đề cùng chư đệ tử phái Tây-vu nghiên cứu về tiếng nói của các loài thú vật, luyện thành tám đạo quân ưng, sói, voi, ong, rắn, khỉ, hổ, báo gây kinh hoàng cho quân Hán. Sau khi vua Trưng tuẫn quốc, các đệ tử Hồ Đề lập thành phái Tây-vu chuyên nghiên cứu về âm thanh của thú vật.
      Trải hơn nghìn năm đến nay chưởng môn phái Tây-vu là ông nội Bảo-Hòa thì bản lĩnh học tiếng thú vật càng tinh thâm đến cùng cực. Ngay từ nhỏ, Bảo-Hòa được chân truyền thuật này. Bây giờ nàng cùng Thông-Mai ẩn thân trong lớp áo thị vệ, cung nữ. Nàng thấy Phạm Ung dùng tiêu tấu nhạc cho công múa. Tính tinh nghịch nổi dậy, nàng dùng lăng không truyền ngữ sai nó tấn công Phạm Ung. Vì vậy không ai hiểu tại sao bỗng dưng đôi công lại hóa điên như vậy.
      Duy sứ đoàn Đại-Việt biết ngay đây là tuyệt tác của Bảo-Hòa. Bắc-ban chỉ hậu La Sùng-Đản vội sai hai thái giám trông coi thú vật trong ngự hoa viên ra bắt đôi công về.
      Mặt Phạm Ung tái đi:
      - Ma nhập! Quỷ ám. Hai con công này hóa điên.
      Tào Lợi-Dụng hất hàm cho Lê Văn:
      - Bây giờ đến lượt chú bé kia.
      Hai thái giám ôm cặp công khác để giữa sân. Lê Văn dùng ống tiêu phát ra tiếng loài công, sai chúng. Đôi công đến trước thềm đình hướng Hoàng-đế cúi đầu, xòe cánh, qùy gối lạy đủ tám lạy. Mỗi lần lạy chúng lại hót mấy tiếng.
      Từ nhà vua đến quần thần thấy Lê Văn sai công hành đại lễ, đều hoan hô. Trong lòng họ nảy ra sự cảm phục thiếu niên nhiều biệt tài.
      Lê Văn dịch:
      - Đôi công tham kiến Thái-hậu, Hoàng-thượng cùng chư vị đại thần.
      Sau khi chúng lạy đủ tám lạy. Lê Văn ra giữa sân cầm tiêu tấu nhạc. Tiếng tiêu cất lên, đôi công múa thực đẹp. Có khi chúng bay lên cao, nhào lộn trên không, cùng cất tiếng hót theo âm tiêu. Có khi chúng tới trước nhà vua xòe cánh, cúi đầu. Cứ như vậy cho đến hết bản nhạc, chúng lại hành lễ với nhà vua, rồi lạy Lê Văn bốn lạy.
      Tự-Mai hỏi Phạm Ung:
      - Phạm đại học sĩ. Người thấy sao?
      Mặt Phạm Ung xám như tro. Y nói:
      - Đây là ta không may, trúng phải cặp công điên khùng, chứ về tiêu thuật ta đâu thua thằng láu cá kia?
      Tự-Mai cười nhạt:
      - Thú vật vốn có linh tính. Khi thấy người bất trung, bất hiếu, thì chúng mổ, cấu là lẽ đương nhiên. Ngài bảo chúng điên ư? Vãn sinh cho rằng chúng rất tỉnh. Ngài thử nhìn, Lê đệ của vãn sinh sai nó múa cho ngài coi.
      Nghe anh nói, Lê Văn cười rất tươi. Chàng để tiêu lên miệng thổi bài Phụng cầu kỳ hoàng. Bốn con công cùng cất cánh bay lên trời, múa theo tiếng tiêu. Khi bản nhạc dứt, nó bay về phía ngự viên, chứ không đáp xuống cạnh thái giám chăn nó nữa.
      Triều Tống cùng cảm thấy trong cuộc đấu ẩn tàng điều bí mật gì, nhưng không có chứng cớ, nên đành im lặng.
      Phạm Ung nói:
      - Bây giờ đấu theo lệ Tống. Hai bên cùng tấu nhạc. Ai muốn tấu bản gì tùy ý. Cả hai dùng âm thanh nhiễu loạn nhau. Ai mệt, tiếng tiêu bị rối loạn coi như thua cuộc.
      Lê Văn cười nhạt, nghĩ thầm:
      - Thiên đường có nẻo mi không đến. Địa ngục không đường dẫn xác vào. Nếu mi chịu thua ta có thể tha cho mi. Mi cãi chầy, cãi cối, ta sẽ cho mi bài học.
      Chàng nói:
      - Nào chúng ta cùng tấu.
      Lê Văn, Phạm Ung đưa ống tiêu lên miệng. Hai người tấu được nửa bản, thình lình Lê Văn truyền nội lực vào tiếng tiêu. Âm thanh phát ra khiến Phạm Ung không tự chủ được người y lảo đảo. Lê Văn càng thổi, người y càng ngả nghiêng. Lát sau y buông hai tay, ống tiêu rơi xuống thềm điện. Hai chân y bước loạn, chân nam đá chân xiêu như người say rượu. Mặc Ung nghiêng ngả, Lê Văn tiếp tục thổi, tiếng tiêu lọt vào vào tai mọi người rất dễ chịu. Trong khi cũng tiếng tiêu đó vào tai Phạm Ung, thì y ngả nghiêng múa may theo điệu nhạc.
      Cả triều thần không ai hiểu tại sao cả. Chỉ duy Khai-Quốc vương là hiểu rõ:
      - Thì ra Bảo-Dân dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai Phạm Ung một thứ âm giai. Thứ này hợp với tiếng nhạc của Lê Văn thành bản nhạc ma quái mà y đã dùng để hại hai lão Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ trên hồ Động-đình. Cho nên ai nghe tiếng nhạc cũa Lê Văn cũng khoan khoái. Còn Phạm Ung thì khốn khổ thế kia. Nhị sư huynh quá lắm. Nhưng đối phó với bọn hủ Nho, mà lại tham vọng muốn gây hấn với lân bang này không thế không xong.
      Tiếng tiêu của Lê Văn thì rất lọt tai. Trong khi Phạm Ung múa may quay cuồng như người điên. Y muốn dừng lại, nhưng không được. Y lảo đảo đến gần ngai vàng, rồi lại lui sang tả ban, hữu ban. Có lúc người quay tròn như chong chóng. Lát sau, mệt quá, y ngồi thụp xuống điện, nhưng tay vẫn múa, đầu vẫn lắc. Bản nhạc hết, Lê Văn hạ tiêu xuống, thì Phạm Ung cũng thôi múa. Y mệt quá, y gục xuống điện. Thị vệ vội vực y đem ra ngoài.
      Lê Văn khấu đầu trước nhà vua:
      - Chút tài mọn, thực không bõ làm trò cười. Xin bệ hạ khoan thứ.
      Cả đình thần nhà Tống đều thấy trong cuộc ấu này, phía Đại-Việt ẩn tàng một điều kỳ bí, mà không ai biết rõ. Nhưng vì không chứng cớ, họ đành ngậm tăm.
      Thái-hậu hỏi:
      - Lê công tử. Phải chăng người là con trai của Hồng-Sơn đại phu bên Đại-Việt?
      - Tâu thái hậu, thần trẻ người, non dạ, tính bồng bột, nên chưa học được một phần trăm bản lĩnh của phụ thân, nghĩ thực xấu hổ. Vừa rồi thần lộ cái xấu xa ra, mong Thái-hậu khoan dung đại độ.
      Tự-Mai với Lê Văn cùng xuất thân trong gia đình danh gia, hơi giống nhau. Tự-Mai ảnh hưởng tính ngang tàng của Trần Tự-An, một anh hùng thảo dã coi trời bằng vung, nói năng không cần quy củ phép tắc. Ngược lại Lê Văn là cháu nội một Hoàng-đế, nên nó quen với ngôn từ của cung đình. Nó nói mấy câu, làm Thái-hậu cũng như triều đình hài lòng.
      Thái-hậu nghĩ:
      - Thiếu niên này có thực tài. Ta phải ban khen cho đúng thể diện mẫu nghi thiên hạ.
      Nghĩ vậy bà tuyên:
      - Thực không hổ con cháu vua Lê. Vừa rồi thế tử dùng nội lực dồn vào tiếng tiêu, làm Long-đồ các đại học sĩ không tự chủ được, đến phải múa may quay cuồng. Lối để tiêu xa miệng, rồi dùng môi khiến hơi thành gió vào ống tiêu, ta có nghe nói, nay mới được thấy. Này Lê thế tử, năm trước Lê triều đem cống tiên đế một cây đàn cùng nhạc công. Đàn gì mà chỉ có một dây? Nay nhạc công đã qua đời rồi nên không ai biết xử dụng. Lê công tử thử tấu cho triều đình biết một lần.
      Một nhạc quan bưng ra cây đàn bầu. Lê Văn tiếp đàn, rồi tâu:
      - Tâu thái hậu, nguyên cây đàn này được chế ra hồi vua Hùng bên Văn-lang. Người chế ra là công chúa Tiên-Dung cùng Chử đồng tử. Hai vị dùng cây đàn này làm vật trị bệnh cho dân chúng. Sau Trương Chi sửa chữa lại, lưu truyền cho đến nay.
      Tập-hiền viện đại học sĩ Lý Điệt hỏi:
      - Lê thế tử. Lối trị bệnh bằng âm nhạc, lão phu có nghe nói, nhưng thực sự chưa bao giờ thấy. Không biết thuật ấy của tộc Việt có còn lưu truyền chăng? (1)

      Chú giải
      (1) Dùng âm nhạc trị bệnh do Trương Chi khởi
      xướng từ thời vua Hùng, trị cho Mỵ-Nương. Sau đến Nam-quốc vương Lê Long-Mang đặt hẳn thành hệ thống. Ngày nay Tây-phương mới mò mẫm dùng tới, gọi là Sorphonogy, hay Misicotherapy, rất thô sơ, chưa có căn bản.


      Thấy Lý Điệt gọi mình bằng thế tử, Lê Văn nghĩ thầm:
      - Ông này thân với Đại-Việt đây. Vì vậy ông coi ông nội mình là vua, phụ thân mình là vương, mình là thế tử. Mình phải lấy lòng ông mới được.
      Chàng chắp tay:
      - Lý đại học sĩ hỏi câu này thực phải, vãn sinh tuy mới học qua từ phụ thân, nhưng đã lòng quân tử dạy đến, cũng đành trình bầy cái xấu ra để được các vị cao minh Hoa-hạ dạy dỗ.
      Mỗi lời của Lê Văn đều làm mọi người đẹp lòng. Trần Trung-Đạo nghĩ thầm:
      - Lúc đầu thấy Khai-Quốc vương dẫn năm trẻ đi sứ, mình cho rằng vương chiều chúng quá đáng. Có ai đời đi sứ kết hiếu mà mang mấy đứa phá trời theo, chúng sẽ làm triều thần nhà Tống cười cho. Bây giờ mình mới thấy, vương quả thực biết người. Chỉ cần Tự-Mai trổ tài, tỏ cái tự hào dân tộc, rồi Lê Văn nói vài câu, thực nhũn nhặn mà từ Thái-hậu đến quần thần đều lọt tai.
      Lê Văn lên phím đàn, rồi nói:
      - Thưa đại học sĩ. Xưa tộc Việt có một nhạc sĩ tài ba, tên Trương Chi. Trương Chi làm nghề đánh cá ven sông. Đêm đêm thường tấu nhạc. Ông chính là tổ của tiêu thuật, tổ của đàn cò, tổ của đàn bầu. Quan tể tướng có một Mỵ-Nương. Nàng ở trên lầu Tây bên sông, hàng đêm nghe tiếng hát, tiếng đàn, tiếng tiêu của Trương Chi, rồi cảm chàng. Nàng lâm bệnh, không thuốc gì trị khỏi. Sau nàng thú thực cùng cha. Tể tướng cho mời Trương Chi vào lầu Tây. Trương Chi tấu một khúc nhạc, Mỵ-Nương nghe xong, khỏi bệnh liền. Từ đó, Trương Chi nghiên cứu thành hẳn một nhạc trị liệu, lưu truyền khắp tộc Việt.
      Chàng ngừng lại tiếp:
      - Bên Trung-nguyên, tại nước Lỗ, đức thánh Khổng là thủy tổ của nhạc trị liệu. Bất cứ đi đâu ngài cũng mang theo cây đàn. Ngài dùng nhạc để tâm hồn thư thái. Đó là gốc của việc dùng nhạc trị bệnh. Bên Văn-lang, sau Tiên-Dung đến Trương Chi nghiên cứu ra rằng trong nhạc dùng năm âm Cung, Thương, Dốc, Chủy, Vũ. Phầm âm Cung thuộc tỳ, thuộc tiếng ca. Âm Thương thuộc phế, thuộc tiếng khóc. Âm Dốc thuộc can, thuộc tiếng hô. Âm Chủy thuộc tâm thuộc tiếng cười. Âm Vũ thuộc thận thuộc tiếng thân tức rên rỉ.
      Miệng nói tay chàng bật những âm thanh tương ứng, kéo dài ra cho mọi người nghe. Chàng tiếp:
      - Y kinh nói: Tâm chứa thần. Phế chứa phách. Can chứa hồn. Tỳ chứa ý. Thận chứa chí. Tiên-Dung áp dụng như sau: Khi thần bị tổn thương, đưa đến tâm bệnh. Ngược lại tâm bệnh đưa đến thần thương. Cũng như can bệnh đưa đến hồn tổn thương hay cáu giận. Ngược lại bị uất ức hay cáu giận đưa đến thương can. Người bị bệnh thận thường thiếu ý chí. Ngược lại người chí suy cũng đưa đến thận suy. Tất cả bệnh do thần, phách, hồn, ý, chí đều dùng âm thanh trị được.
      Chàng đưa mắt nhìn một vòng quần thần, rồi chỉ vào Lý Điệt nói:
      - Tỷ như Lý đại học sĩ, vì cần lao chính vụ quá độ, nên gần đây trí nhớ giảm, đầu mề mệt. Y kinh nói: Thận chủ não tủy. Theo ngũ hành, thận thuộc thủy, phế thuộc kim, can thuộc mộc. Kim sinh thủy, thủy sinh mộc. Trong khoa trị bệnh phải tả tử, bổ mẫu. Như vậy cần phải dùng bản nhạc với những âm tương ứng sao cho bổ kim thuộc phế là mẹ thủy thuộc thận mạnh tức phế mạnh. Công năng thận sinh công năng can. Vậy thận thủy là mẹ, can mộc là tử. Cần dùng những âm nhiễu loạn sao cho trấn áp công năng can. Như vậy bệnh của đại học sĩ giảm ngay.
      Tào Lợi-Dụng thấy triều đình lắng tai nghe Lê-Văn nói, lão ấm ức, nói bâng quơ:
      - Ranh con nói láo.
      Lê Văn mỉm cười:
      - Vãn sinh xin tấu một bản hầu trị bệnh cho Lý đại-học sĩ.
      Chàng bật giây đàn. Mọi người đều thấy âm thanh choang choảng, khiến cho tâm thần bừng bừng muốn khoa chân múa tay. Riêng Lý Điệt, lão cảm thấy những âm thanh lọt tai khiến cho trong người nóng bừng, chân khí chạy rần rật khắp người. Bản nhạc chưa hết mà mặt lão hồng hào khác thường.
      Bản nhạc dứt, Lê Văn nói với Lý Điệt:
      - Đại-học sĩ thấy thế nào?
      Lý Điệt chắp tay:
      - Đa tạ công tử trị bệnh cho.
      Nhà vua chỉ Phạm Ung:
      - Vừa rồi Long-đồ các đại học sĩ đấu nhạc với khanh, mà bị âm thanh đưa vào trận đồ. Trẫm công nhận Phạm đại học sĩ thua rồi. Vậy khanh hãy trị cho đại-học sĩ đi.
      Lê Văn nhìn lại, Phạm Ung mệt lử, đang ngồi dựa cột điện. Chàng cúi đầu:
      - Thần xin tuân chỉ.
      Rồi chàng bật lên những âm thành dài nhỏ như tơ. Phạm Ung đang ngồi mệt lử, lập tức riu riu, rồi nhập vào giấc ngủ rất sâu. Lê Văn tâu:
      - Tâu bệ hạ, Phạm đại học sĩ chỉ bị mệt vì múa qúa nhiều. Thần tấu nhạc cho đại-học sĩ ngủ một giấc thì mêt mỏi hết ngay. Tuy vậy trong khi đại học sĩ ngủ, thần vẫn dùng âm thanh làm cho can, thận khỏe lên. Bởi y học nói: Can chủ cân, thận chủ cốt. Vừa rồi Phạm đại học sĩ múa nhiều tất gân, cốt bị tổn hại, nên cần bổ.
      Nói rồi chàng lại tấu một khúc nhạc nữa. Lưu thái-hậu khen:
      - Lê công tử quả thực là con nhà danh gia. Hôm nay ta muốn ban cho công tử một đặc ân, vậy công tử có ước nguyện gì cứ tâu trình. Ta sẽ ưng cho.
      Thái-hậu thấy Lê Văn nhiều tài, bà yêu tài đó. Nhân nghe chàng xin ứng tuyển phò mã, bà mới nói câu này, ngụ ý nếu chàng thích giai nhân nào, bà đặc ơn gả cho chàng, hầu tỏ lòng cầu hiền tài.
      Tự-Mai dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai Lê Văn:
      - Văn đệ cứu ta với. Văn đệ xin thái hậu gả Thuận-Tường cho ta.
      Lê Văn mừng quá, chàng quỳ xuống tạ ơn, định xin Thái-hậu gả Thuận-Tường cho Tự-Mai. Thình lình tiếng Bảo-Hòa lọt vào tai:
      - Sư đệ nói theo chị. Truyện Tự-Mai để đó, lấy quốc sự đặt lên trên tình huynh đệ.
      Lê Văn kinh hãi vội nói theo Bảo-Hòa:
      - Thần xin Thái-hậu cứu mạng cho một người bị oan khuất, không biết chết sống lúc nào.
      Thái-hậu hỏi:
      - Nếu là việc oan khuất, cháu khỏi cần xin ân huệ. Thế nào việc đó ra sao?
      Lê Văn nói lớn:
      - Tâu thái-hậu, tại Triệu-châu có một Nho-sinh tên Triệu Đức-Sùng, vô tội. Y cưới cô vợ cực kỳ xinh đẹp. Vì vậy y bị viên giám-binh vu cho tội phản nghịch, bắt giam, rồi cướp vợ. Ức lòng, y vượt ngục về kinh, đến cửa Thuần-dương đánh trống kêu oan. Y bị viên giám binh cùng võ sĩ tùy tòng đánh đập, bắt giam. Bấy giờ có Bắc-ban chỉ hậu La Sùng-Đản đi qua, bắt viên giám binh giam lại. Nhưng thế lực viên giám binh lớn quá, y được thả ra, rồi lại thung dung ứng tuyển phò mã.
      - Viên giám binh tên gì?
      - Y họ Tào tên Nhuế, công tử của tể tướng Tào Lợi-Dụng.
      Tào Lợi-Dụng kinh hãi bước ra tâu:
      - Tấu thái hậu, mấy tên ôn con theo sứ đoàn Đại-Việt mưu hãm hại công thần. Thần quả có con trai làm giám binh Triệu-châu tên Nhuế. Nhưng con thần văn hay chữ tốt, đạo đức hiếm ai bì. Không thể có truyện con thần hãm hại lương dân.
      Vương Đức-Dụng nói với Lê Văn:
      - Lê thế tử. Có chắc Tào công tử làm việc vô pháp, vô thiên không? Nếu triều đình điều tra ra thế tử vu hãm công thần, e thế tử sẽ bị tội khi quân, khó tránh khỏi sát thân.
      Lê Văn nói:
      - Xin quan Ngự-sử cho triệu Tào Nhuế, La Sùng-Đản cùng Triệu Đức-Sùng vào đối chất sẽ ra ngay đen trắng.
      Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích tâu:
      - La Bắc-ban chỉ hậu hiện diện tại đây. Còn Tào công tử ứng tuyển phò mã đang chờ ở ngoài. Chỉ còn thiếu Triệu Đức-Sùng mà thôi.
      Thái hậu ra lệnh:
      - Triệu Tào Nhuế vào.
      Tào Nhuế bước vào điện quỳ gối tung hô vạn tuế. Y liếc mắt thấy La Sùng-Đản, thì đã đoán ra mấy phần bất tường.
      Vương Đức-Dụng hỏi:
      - Tào công tử, Lê thế tử đây tố đích danh công tử ức hiếp ngoan dân Triệu Đức-Sùng, cướp vợ y. Vậy công tử trả lời đi.
      Tào Nhuế rập đầu tâu:
      - Muôn tâu Thánh-hoàng. Phụ thân thần lăn mình vào chỗ trăm chết, một sống trải ba đời vua, mới có địa vị ngày nay. Cho nên trong triều, ngoài dân dã không thiếu gì người ghen ghét bịa đặt. Xin bệ hạ đừng nghe tên Nam-man Lê Văn.
      Vương Đức-Dụng hỏi La Sùng-Đản:
      - La Bắc-ban chỉ hậu. Lê công tử nói chính người bắt giam Tào công tử. Việc này có không?
      La Sùng-Đản run rẩy, không nói lên lời. Tào Lơi-Dụng tâu:
      - Thái độ của La Sùng-Đản như vậy, chứng tỏ không hề có truyện y bắt giam con hạ thần. Xin bệ hạ cho chặt đầu Lê Văn để trừng trị tội vu hãm công thần.
      Lê Văn thoáng nhìn qua La Sùng-Đản, Tào Nhuế, chàng đã hiểu tự sự: Tào Nhuế luyện Chu-sa độc chưởng. Chắc hôm qua Đản bắt Nhuế, rồi bị Nhuế dùng Chu-sa độc chướng đánh, sau đó y cho thuốc giải, với lời đe dọa. Hôm nay trước triều thần, nếu y nói thực, thì mối nguy Chu-sa hành hạ đến chết khó tránh. Còn y nói theo Nhuế, thì nhà vua ngồi kia không tha cho y tội khi quân.
      La Sùng-Đản chưa biết nói sao, thì một giọng trầm rót vào tai y:
      - Đừng sợ, cứ nói thực, sẽ được cung cấp thuốc giải. Hơn nữa còn được trị vĩnh viễn độc tố. Người nói láo ắt Hoàng-thượng tru di tam tộc.
      Sùng-Đản rùng mình rập đầu, y thuật lại chi tiết vụ Triệu Đức-Sùng đến cửa Thuần-dương đánh trống khiếu oan, rồi Tào Nhuế xuất hiện với đám võ sĩ đánh đập, bắt giam ra sao. Tới lúc đó y xuất hiện bắt giam Nhuế. Nhuế dùng Chu-sa ngũ độc chưởng khống chế y, nên y phải thả Nhuế ra. Còn Triệu Đức-Sùng không hiểu Nhuế giam đâu.
      Tào Lợi-Dụng kinh hoàng nghĩ:
      - Không ngờ con ta lớn mật làm càn, mà ta không biết gì cả.
      Y hỏi Nhuế:
      - Sự thực ra sao, người phải tâu thực.
      Tào Nhuế rập đầu:
      - Bịa đặt. Trước đây Bắc-ban chỉ hậu La Sùng-Đản phạm tội, Thái-hậu giao cho phụ thân thần quản chế, nay y toa rập cùng mấy thiếu niên Nam man trả thù cũ. Mong bệ hạ xét lại lời khai của y.
      Một võ quan bước ra cúi đầu:
      - Thần Chinh thảo đại tướng quân Đặng Tấn, lĩnh Tiết độ sứ Giang-hoài xin bệ hạ xét lại lời La Sùng-Đản. Tào công tử học võ với Tào quốc công, thuộc danh môn chính phái, đâu biết gì về Chu-sa ngũ độc chưởng.
      Nhà vua nghe đối chất, trong lòng giận vô cùng:
      - Ấy là chính ta ra lệnh bắt giam Tào Nhuế, mà chúng còn dám chối bai bải, huống hồ việc khác. Hôm nay ta mà không hạ được tên Tào Lợi-dụng này, e có ngày chúng hại ta. Nhưng ta không thể làm chứng được, vì việc ta rời thành đâu có thể nói với quần thần?
      Nhà vua liếc nhìn Tự-Mai:
      - Nhị đệ biết xử dụng phản Chu-sa ngũ độc chưởng. Ta sai nhị đệ đấu với Tào Nhuế, thì y hết chối.
      Nhà vua bảo Tự-Mai:
      - Nhị đệ! Ta nhờ nhị đệ ra đấu mấy chiêu với Tào Nhuế, để các quan thấy rõ Nhuế có luyện Chu-sa ngũ độc chưởng không.
      Tự-Mai dạ một tiếng, rồi tiến tới trước Tào Nhuế:
      - Tào công tử. Tuân chỉ Hoàng-thượng, tôi xin công tử chỉ giáo cho mấy chiêu võ cao siêu.
      Tào Nhuế bái tổ rồi nói:
      - Ta sẵn sàng dạy cho tên Nam-man mấy chiêu, để bọn bay biết rằng võ công Trung-thổ vô địch thiên hạ.
      Y xuất chiêu đánh thẳng vào mặt Tự-Mai. Chưởng phong của y hùng hậu vô cùng. Tự-Mai bước xéo sang một bên tránh khỏi. Chàng nghĩ thầm:
      - Võ công tên này hơn xa bọn Quách Qùy, Triệu Tiết, Khúc Chẩn. Ta có nên giết chết y không?
      Bỗng nghe tiếng Khai-Quốc vương rót vào tai:
      - Đánh thực mau, dồn cho y luống cuống, như vậy y sẽ xử dụng Chu-sa ngũ độc chưởng. Nhớ chớ dùng Đông-a chưởng pháp, bằng không y đề phòng trước thì hỏng bét.
      Trong khi đó tiếng Tôn Đản rót vào tai chàng:
      - Tự-Mai, tên này dùng võ công Không-động. Vậy em dùng võ công Mê-linh, khắc chế võ công Liêu-Đông, thì tên Tào Nhuế té đái vãi phân ngay.
      Tự-Mai lùi lại, chàng tấn công liên tiếp mười chiêu bằng võ công Mê-linh tức Cửu-chân cũ. Võ công của Tào Nhuế là võ công Không-động, gặp võ công khắc chế, thành ra y kinh hoảng cứ lùi liên tiếp. Đến chiêu thứ mười, y bị đồn vào chân cột, không còn đường tránh. Tự-Mai ra chiêu Kình qúa đông ba. Theo chiêu này, tay phải đánh thẳng vào ngực. Tay trái vòng từ dưới lên.
      Phàm con người học nhiều thứ võ công. Khi bị đồn đến chỗ nguy hiểm, thường trở lại với nguồn gốc căn bản mình. Tào Nhuế học võ công Không-động, rồi luyện Chu-sa ngũ độc chưởng. Y rất thành thạo chưởng pháp ác bá này. Nhưng vì muốn dấu chân tướng, nên khi đấu với Tự-Mai, y chỉ dùng võ công Không-động. Bây giờ trong lúc thập tử nhất sinh, bị Tự-Mai dồn đến chỗ cùng, khiến y không còn đường thoát thân. Khi Tự-Mai ra chiêu Kình quá đông ba, cái chết khó tránh, y tòng tâm tự phát một chiêu trong Chu-sa ngũ độc chưởng. Chưởng phòng cực kỳ trầm trọng. Mùi hôi tanh bay khắp điện.
      Tự-Mai lùi lại không đỡ. Tào Nhuế thừa thắng đánh liền năm chiêu. Cứ mỗi chiêu phát ra, Tự-Mai khoan thai đỡ, rồi lùi lại một bước. Chàng dùng phương pháp phản Chu-sa độc chưởng.
      Tào Nhuế nào hiểu mỗi chiêu y đi dần đến chỗ chết. Cứ sau một chiêu y thấy tay nặng nề thêm. Đến chiêu thứ mười, tay y như bị đeo viên đá nghìn cân. Tự-Mai cười lớn:
      - Tào công tử. Công tử đánh tôi mười chiêu Chu-sa ngũ độc chưởng. Bây giờ tôi trả lại công tử ba chiêu. Nếu trong ba chiêu, công tử chưa bại, tôi nguyện theo làm đầy tớ cho công tử cả đời.
      Chàng phát chiêu Đông-hải lưu phong, nhưng chỉ xử dụng có ba thành công lực, bằng không Tào Nhuế nát thịt ra mà chết. Miệng chàng đếm:
      - Chiêu thứ nhất này.
      Tào Nhuế vung tay đỡ. Bình một tiếng, y loạng choạng lùi lại. Tự-Mai phát chiêu thứ nhì:
      - Chiêu thứ nhì này.
      Tào Nhuế vung tay đỡ, binh một tiếng, y bật lui hai bước mặt tái xanh. Tự-Mai vỗ tay vào nhau:
      - Chiêu thứ ba này.
      Chàng phát nhẹ một chiêu, Tào Nhuế chưa kịp đỡ, người y đã lảo đảo. Tự-Mai cười lớn:
      - Tào công tử, người thua rồi.
      Tào Nhuế định vung chưởng đánh nữa, y cảm thấy như có con dao đâm vào hông đau đớn muốn đứt ruột. Y vội ngừng lại thở. Thình lình y hét lên một tiếng khủng khiếp.
      Từ lúc Tào Lợi-Dụng thấy con mình phát Chu-sa ngũ độc chưởng, y hoảng kinh, như vậy Nhuế tự tố cáo luyện Chu-sa độc chưởng đúng như La Sùng-Đản tố cáo. Y nghĩ thầm:
      - Ta phải dùng một chiêu, giết tên Nam-man con, rồi đổ rằng chính y dùng Chu-sa ngũ độc chưởng. Triều đình ai dám cãi mình?
      Bây giờ thấy con bị bại, y lạng mình tới, tay phát chiêu tấn công Tự-Mai, miệng quát:
      - Nam man dùng Chu-sa ngũ độc chưởng.
      Chưởng của y chưa ra hết. Mà mọi người muốn nghẹt thở. Ai cũng nghĩ rằng chưởng đó đánh ra ắt Tự-Mai nát thịt ra mà chết. Có nhiều tiếng quát:
      - Ngừng tay.
      - Không được hại người.
      Nhiều người muốn can thiệp, nhưng đứng quá xa, biết có nhảy vào cũng vô ích. Họ chỉ biết nhắm mắt lại, không dám nhìn một thiếu niên chết thảm.
      Tự-Mai thấy chưởng của Tào Lợi-Dụng ngang với Đại-Việt ngũ long. Chàng kinh hãi. Trong lúc thập tử nhất sinh, nhớ lại phương pháp qui liễm chân khí của công chúa Trần Năng xưa, mà trong trận Tản-lĩnh Đặng Đại-Khê dạy chàng. Chàng vội hít một hơi phát chiêu Ác ngưu nan độ đỡ. Bình một tiếng, người chàng bay bổng lại phía sau. Khi còn lơ lửng trên không, chàng mượn đà lộn liền ba vòng, rồi từ từ đáp xuống. Tay chàng lĩnh chân khí Tào, khiến trong người đầy chân khí, muốn nổ tung ra. Chàng vội thở một hơi để phân tán khắp người.
      Lợi-Dụng xuất thân phái Liêu-Đông. Nội công Liêu-Đông thuộc loại tà môn. Khi đệ tử phái này đấu với ai, chỉ cần hai chưởng chạm nhau, sẽ làm tiêu tan công lực đối thủ. Đối thủ bị tuyệt chân khí, hóa ra người tàn tật. Trong khi phương pháp qui liễm của phái Tản-viên xuất thân từ Thiền-công Vô-ngã tướng thuộc chính phái: Nếu đối thủ tấn công ta, ta thu chân khí của người. Còn như đối thủ không tấn công ta, thì không sao.
      Khi hai đệ tử phái Liêu-Đông đấu với nhau, nội công ai cao hơn, sẽ hóa giải công lực đối thủ.
      Bởi vậy từ xưa đến giờ, võ lâm Trung-nguyên nghe đến tên Liêu-Đông đều táng đởm kinh hồn. Khắp võ quan hiện diện đều biết Tào Lợi-Dụng là cao thủ bậc nhất phái này. Họ thấy Tào phát chưởng với mười thành công lực đánh vào Tự-Mai. Ai cũng tưởng chàng không tan xương nát thịt, ắt cũng tàn tật. Không ngờ chàng đáp xuống an toàn. Trong khi Tào Lợi-Dụng cảm thấy chưởng phong như nắm muối rơi xuống biển, chân tay bải hoải. Y nhìn Tự-Mai, nghĩ thầm:
      - Dường như thằng Nam-man này cùng môn phái với mình. Nhưng với tuổi của nó sao có thể luyện nội công tới mức cao hơn mình?
      Trần Trung-Đạo mới gặp sư đệ. Y không biết nhiều về những gì Tự-Mai đã học được. Y sợ sư đệ lâm nguy, quát:
      - Quốc-công không thể can thiệp vào truyện này.
      Tự-Mai nhảy lui lại. Tào Lợi-Dụng cũng không dám phát chiêu nữa. Y chỉ mặt Tự-Mai:
      - Người... người là dư đảng của bang Nhật-hồ, dùng độc chưởng hại con ta.
      Tự-Mai cười lớn đưa hai bàn tay ra:
      - Quốc công sao lại chỉ trâu bảo ngựa vậy? Này quốc công ơi, phàm khi người luyện Chu-sa ngũ độc chưởng, lòng bàn tay phải đỏ. Lòng bàn tay tôi thế này, mà bảo rằng luyện Chu-sa chưởng ư?
      -- Thế sao con ta bị trúng độc?
      -- Công tử dùng Chu-sa độc chưởng tấn công tôi. Nhưng nội công người thấp hơn tôi xa, nên bị tôi đẩy ngược trở về thân người. Tôi chỉ trả những gì người đánh tôi mà thôi.
      Tào Nhuế vừa rên vừa thét lên kinh khủng. Y móc trong bọc ra viên thuốc, cho vào miệng nuốt, rồi ngồi xuống vận công cho mau tan. Nhưng càng vận công y càng đau đớn khủng khiếp.
      Thái- hậu hỏi Lê Văn:
      - Thế tử. Liệu thế tử có thể trị được bệnh cho Tào Nhuế chăng?
      Lê Văn tâu:
      - Thần có thể làm cho Tào công tử tê liệt trong hai giờ mà thôi.
      Lê Văn bước tới điểm vào huyệt Đại-trùy, khiến cho Tào Nhuế bớt đi phân nửa đau đớn. Chàng cười lớn:
      - Tào công tử. Người hãy trả lời những câu hỏi của tôi, tôi sẽ trị bệnh cho. Bằng không tôi để mặc. Câu hỏi thứ nhất: Có phải người luyện Chu-sa ngũ độc chưởng không?
      - Ái, đau chết đi được. Giết ta đi. Ta... ta có luyện Chu-sa độc
      chưởng. Ái.
      - Thế sư phụ công tử là ai?
      - Ái, ái... là Lê Lục-Vũ. Giết ta đi.
      - Triệu Đức-Sùng công tử giam đâu?
      - Ta... ta giết chết, chôn xác ở ngoài thành rồi.
      Lê Văn điểm vào huyệt Nội-quan của Tào Nhuế. Y hết đau liền. Tự-Mai cúi đầu hướng nhà vua xá ba xá, rồi về chỗ đứng. Còn Lê Văn hướng hướng Thái-hậu:
      - Điều mộng ước của thần là mong Thái-hậu xử vụ này công bằng cho người chết được ngậm cười.
      Thái-hậu ra lệnh:
      - Giam Tào Nhuế lại, giao cho Hình-bộ thượng thư xét trị tội.
      Luật triều Tống rất nghiêm. Phàm con cháu đại thần phạm tội lấn át lương dân, thì dù là tể thần, cũng bị cách trật, chức tước, bắt đi đầy. Tự-Mai thấy Thái-hậu lờ không trị tội Tào Lợi-Dụng, chàng biết rằng chưa thể hạ y được. Vì Lợi-Dụng là cột trụ của Thái-hậu.
      Một đại thần bước ra quỳ tâu:
      - Tâu hoàng thượng, thần Trương Sĩ-Tổn, lĩnh Văn-minh điện đại học sĩ, Đồng bình chương sự, Hữu bộc xạ xin tâu: Xét trong sử Việt, Hán, cũng như di tích còn ghi ở vùng Động-đình, Tương-giang, Tương-đài, thì tộc Hán, tộc Việt vốn cùng một nguồn gốc. Sau này những người hiếu sự mới gây ra cuộc Nam, Bắc chiến tranh, khiến cho Việt, Hán thù hận nhau.
      Tự-Mai nghe Tổn tâu, nó nghĩ thầm:
      - Ông này chủ trương thân Lĩnh-Nam, mình phải đưa hơi cho Hoàng-đế phong ông làm tể tướng mới được.
      Chàng bước ra tâu:
      - Tâu đại ca. Nếu như trong triều toàn Nho-sĩ giữ chính đạo như Trương đại-học sĩ, đệ e khắp bốn phương nghe danh, đều cúi đầu như cỏ rạp hướng về thiên triều, khỏi cần binh cách. Hỡi ôi! Trương đại-học sĩ là hình bóng của đức thánh Khổng cùng Mạnh á-thánh vậy.
      Trương Sĩ-Tổn cùng phe chủ hòa nghe Tự-Mai tâu, họ đều nghĩ thầm:
      - Với một thiếu niên tuổi nhỏ thế kia đâu có thể nói được những điều cao xa như vậy. Đây hẳn là ý Hoàng-đế đây. Người sai nó ra nói, để dằn mặt bọn hiếu chiến. Nghĩ vậy y tâu tiếp:
      - Hoàng thượng nức danh thiên hạ về đức hiếu, đức nhân. Nay nhân có Khai-Quốc vương đây. Bệ hạ làm vua tộc Hán, thì là anh. Thuận-Thiên hoàng đế làm vua tộc Việt, thì là em. Bệ hạ nên tỏ ra bao dung, phủ dụ Thuận-Thiên hoàng đế, hầu kết chặt tình Hán-Việt.
      Nhà vua hướng vào quần thần:
      - Hôm nay chư khanh cùng hiện diện với sứ thần Đại-Việt. Chúng ta nghị sự về việc này. Bây giờ chư khanh cho biết ý kiến.
      Lã Di-Giản bước ra tâu:
      - Từ khi đức Thái-tổ nhà ta lập nghiệp rồng, Đinh Bộ-Lĩnh sai sứ sang triều phục, được phong Khai phủ nghị đồng tam tư, kiểm hiệu thái sư, Giao-chỉ quận vương . Sau Lĩnh, Liễn bị giết, Lê Hoàn cướp ngôi từ ấu chúa, nên niên hiệu Thái-bình hưng quốc thứ năm (Canh-Thìn 980), triều đình quyết đem quân chinh thảo. Đức Thái-tông sai Lan-châu đoàn luyện sứ Tôn Toàn-Hưng, Bát-tác sứ Trương Tuyền, Tả-giám vệ tướng quân Thôi Lượng, Tả ngưu vệ thượng tướng quân Hầu Nhân-Bảo, Trang-võ đại tướng quân Trần Khâm-Tộ, Tuyên-uy đại tướng quân Triệu Phụng-Huân, Ninh-viễn đại tướng quân Quách Quân-Biện...đem bộ quân theo đường Ung-châu tiến sang. Lại sai Ninh-châu thứ sử Lưu Trừng, Quân-khí khố phó sứ Giả Thực, Cung-phụng quan chỉ hậu Vương Tuyển, theo đường thủy từ Quảng-châu nhập. Hoàn dám đem quân chống cự.
      Tự-Mai cười thầm:
      - Mẹ cha tên cẩu Nho này trí nhớ tốt gớm.
      Di-Giản tiếp:
      - Thái-bình hưng quốc thứ sáu (Tân-Tỵ, 981), vì thủy thổ bất hợp, tướng sĩ bị bệnh. Triều đình ra lệnh thoái quân. Năm sau Lê Hoàn hậu lễ xin quy phục. Triều đình nghị tha tội Hoàn, phong cho Kiểm hiệu thái bảo, đô đốc Giao-chỉ chư quân, An-Nam đô hộ, Tĩnh hải quân tiết độ sứ. Sau thăng lên Kiểm hiệu thái úy. Đời Tiên-đế gia cho làm Nam-bình vương, đới Thị-trung. Niên hiệu Đại-trung tường phù thứ ba (Canh-Tuất 1010), nhân Lê Long-Đĩnh chết, con còn thơ, cường thần Lý Công-Uẩn cướp ngôi. Y biết điều, sai sứ hậu cống xin phong. Tiên đế khoan thứ, phong cho Kiểm hiệu thái phó. Tĩnh hải tiết độ sứ, quan sát sứ, xử trí sứ. An-Nam đô hộ. Ngự sử đại phu. Thượng trụ quốc, Giao-chỉ quận vương, suy thành thuận hoá công thần dần dần đến nay là Kiểm hiệu thái sư. Đồng bình chương sự. Nam-bình vương.
      Di-Giản đưa mắt nhìn Định-vương:
      - Xét ra chức tước triều đình phong cho Uẩn lên đến tột đỉnh. Thế mà y rắp tâm làm phản dám xưng là Thuận-Thiên hoàng đế, bỏ tên quận Giao-chỉ, đổi thành Đại-Việt. Đại để tỏ ra nước y lớn. Việt là vượt, tức vượt biên hướng lên Bắc, xâm phạm đất của Thiên-triều. Nay có con Uẩn là Long-Bồ đây, xin triều đình bắt y trả lời rõ về việc đại nghịch của cha. Nếu y trả lời không thông, Thiên-triều phải mang quân sang chinh thảo, chém bọn phản nghịch, để bọn Man-di kinh hồn không dám phạm biên nữa.
      Tào Lợi-Dụng được dịp trả thù. Y tâu:
      - Mới đây, con gái Lý Công-Uẩn là vợ Thân Thừa-Quý cho quân vượt biên lên Bắc, tiến chiếm hết các khê-động theo Thiên-triều. Chúng chỉ dừng quân lại khi chiếm được vùng Tả-giang, Hữu-giang. Quân Giao-chỉ giết hại biết bao lương dân, cùng văn võ các quan ở Nam-biên. Lý Long-Bồ lĩnh Phụ-quốc thái-úy Giao-chỉ, y không thể chối cái tội này.

      <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 08:35:23 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 20.01.2005 18:01:55 (permalink)
        Hồi thứ một trăm mười bốn


        Trọng tội khi quân




        Một văn quan quỳ tâu:
        - Thần Trần Nghiêu-Tá lĩnh Tham-tri chính sự, đồng tri Khu-mật viện xin tâu: Lý Công-Uẩn gần đây lộng quyền quá đáng. Y chỉ là một tước Nam-bình vương quận Giao-chỉ, thế nhưng y dùng võ lực ép Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua tiến cống. Tin tế tác cho biết con y là Lý Long-Bồ còn tiến xa hơn. Y muốn thống nhất tám vùng tộc Việt, rồi đem quân xâm vương thổ. Bây giờ y hiện diện ở đây, xin hoàng thượng đem y ra xử lăng trì, để an Nam-biên.
        Tiếp theo bọn Hạ Tủng, Phạm Ung, Triệu Thực đều cùng một luận điệu. Nhà vua biết bọn này theo chủ trương của Lưu hậu, khó lòng bẻ gẫy lý luận của chúng, ông hỏi Định-vương:
        - Hoàng thúc. Hoàng thúc vừa từ Nam-phương trở về, sự thực thế nào, Hoàng-thúc cho trẫm biết.
        Định-vương nghĩ thầm:
        - Hôm nay ta mà không hạ được mấy tên hủ Nho này, e rằng Tống-Lý chiến tranh khó lòng tránh khỏi. Đã vậy ta hãy làm giảm khí thế bọn chúng trước. Ta dùng nhị đệ đối phó cho chúng biết Nam-quốc không sợ chiến tranh như chúng tưởng.
        Vương hỏi Khai-Quốc vương:
        - Vương gia hãy trả lời các đại thần đi.
        Khai-Quốc vương khoan thai bước ra, vận nội lực nói thực lớn:
        - Tâu bệ hạ. Từ xưa đến giờ Hán-Việt phân Nam, Bắc lấy Ngũ-lĩnh làm ranh giới trải mấy nghìn năm có dư. Theo nghi lễ đời Thần-Nông, ngày tết em phải đem lễ tới tặng anh, đó là đạo lý áp dụng cho dân chúng. Còn giữa hoàng đế Trung-thổ với hoàng đế Lĩnh-Nam, thì hoàng đế Lĩnh-Nam làm em, nên bao đời theo lệ hằng năm tiến cống, để tỏ lòng hiếu đễ. Vì vậy dù Bắc phong chức tước gì chăng nữa, Nam vẫn có triều đình, quốc hiệu, niên hiệu riêng. Như vậy việc phụ hoàng hạ thần lấy hiệu Thuận-Thiên, quốc danh Đại-Việt chỉ theo truyền thống. Các đại thần tại đây không thể, và không được bàn đến.
        Vương ngừng lại tiếp:
        - Còn các đại thần coi phụ hoàng thần như một chức quan của Tống triều, xin bệ hạ cho thần được hỏi các vị ấy mấy câu.
        - Vương cứ hỏi.
        Khai-Quốc vương đưa mắt nhìn Lã Di-Giản. Nội công Vương cực cao, ánh mắt chiếu ra tia hàn quang, khiến Giản bật lui liền ba bước. Vương hỏi:
        - Ngài có phải quan cao tới tước Quốc-công, lĩnh Đồng-bình chương sự, Tả bộc xạ, Khu-mật viện sứ đó không? Triều Tống có hai cơ quan cao nhất: Tòa Bình-chương coi về nội trị, thuộc văn. Khu-mật viện coi về võ. Cả hai thường được gọi là Nhị-phủ. Đại nhân ngồi trùm cả hai phủ. Nhưng đại nhân lại phạm tội đại bất kính. Đại nhân có biết không?
        Lã Di-Giản hỏi:
        - Lão phu phạm tội đại bất kính ư? Thế tử thử nói ra xem. Nếu đúng, Lã này xin lột mũ từ chức ngay ngày hôm nay.
        Khai-Quốc vương nói:
        - Nếu coi phụ hoàng vãn sinh như một chức quan triều Tống. Mà phụ hoàng tước phong tới Nam-bình vương cao hơn hàm Quốc-công của đại nhân mấy bậc. Thế mà đại nhân cứ gọi tên phụ hoàng ra loạn lên, có phải là tội đại bất kính không? Chức văn phụ hoàng tới Khai phủ nghị đồng tam ty, đồng bình chương sự cao hơn chức Đồng-bình chương sự của đại nhân nhiều. Chức võ của đại nhân là Khu mật viện sứ, thua hẳn chức Thượng trụ quốc kiểm hiệu thái sư của phụ hoàng rất xa.
        Vương nói chậm lại:
        - Đại nhân ơi. Đại nhân làm tể thần, mà không biết giữ qui củ, luật lệ, phạm tội đại bất kính với thượng quan hỏi có đáng ngồi ở tòa Bình-chương nữa không? Đại nhân trả lời cho đi?
        Lã Di-Giản cười nhạt:
        - Này Lý Long-Bồ. Người nên biết rằng người đang ngồi ở sân rồng Thiên-triều. Văn quan như rừng. Võ chức như núi. Người chưa có một chút chức tước cũng như công lao nào, kể cả cái hàm thế tử con trai Nam-bình vương, người không đủ tư cách tranh luận với tể thần.
        Khai-Quốc vương thấy bọn cường thần quên đi vụ Đại-Việt tiến công lên Bắc. Vương mừng thầm, vận khí phát ra tiếng cười hướng Lã Di-Giản, khiến y muốn nổ tung màng nhĩ ra. Vương nói:
        - Lã quốc công có nghĩ kỹ trước khi nói không? Vãn sinh biết thân phận mình không nhận chức tước nào của Thiên-triều, nên đã tâu hoàng thượng xin phép rồi mới nói kia mà? Hơn nữa đây là cuộc đối thoại của sứ thần Đại-Việt từ xa đến kết hiếu với Hoa-hạ. Thế mà tể thần có ngôn từ của phường vô học bất thuật như thế này ư? Hơn nữa chính kim khẩu hoàng thượng cho phép vãn sinh hỏi đại nhân mà?
        Vương nghĩ thầm: Đã vậy ta cứ hành xử như tước vương, để chúng biết rằng ta không sợ. Vương tiếp:
        - Còn Quốc-công bảo cô-gia không có công với Tống ư? Này Quốc-công ơi, có phải từ khi đức Thái-tổ dựng nghiệp, đến nay trải bốn đời. Lúc nào triều-đình cũng lao tâm khổ tứ với dư đảng bang Nhật-hồ. Triều đình tốn không biết bao nhiêu tiền bạc, mà cũng không diệt được chúng. Chúng không bị diệt thì chớ, chúng còn len lỏi lên tới tể thần. Kìa, chính công tử Tào quốc công đã học Chu-sa độc chưởng với một đại thần. Bang Nhật-hồ hoành hành như không coi thiên hạ ra gì, phải chờ đến khi trên đường đi sứ, cô-gia khuyến dụ chúng cùng bang Trường-giang qui thuận triều đình. Như vậy mà Lã quốc-công bảo cô-gia không chút công lao nào ư?
        Vương gằn từng tiếng:
        - Mới đây, gần ba trăm ứng sinh phò mã bị trúng Chu-sa phấn. Chắc chắn dư đảng Nhật-hồ phải lớn lắm mới làm nổi việc đó. Nếu Lã quốc-công có tài, xin trị bệnh cho các ứng sinh đi!
        Khắp điện Sùng-chính im phăng phắc. Vương nói lớn:
        - Cô gia xin hỏi Quốc-công: Bấy lâu trong hoàng cung có hai vụ án lớn lao vô cùng. Một là, ai hại Sở-vương Nguyên-Tá? Ai ám toán Chiêu-thành thái-tử Nguyên-Hy? Các vị đầy tài chí, ăn cơm, mặc áo chúa bấy lâu, các vị đã tìm ra thủ phạm chưa?
        Nguyên trước đây, con đầu lòng vua Thái-tông tên Nguyên-Tá được lập làm thái tử tước phong Sở-vương. Anh hùng tài kiêm văn võ, bị gian nhân dùng Huyền-âm độc chưởng đánh lén, đến hóa điên, rồi bị giáng chức. Vua Thái-tông lập con thứ nhì là Nguyên-Hy làm Chiêu-Thành thái-tử. Ít lâu sau cũng bị trúng Huyền-âm độc chưởng mà chết. Vì vậy vua Chân-tông là con thứ ba mới được lập lên làm thái tử, rồi kế vị.
        Bấy giờ khắp triều thần không ai biết hung thủ thuộc loại người nào. Sự việc dần dần lãng quên theo thời gian. Nhưng mấy năm trước, khi biết mình sắp lìa trần, Sở vương gọi Định-vương lại nói cho biết rằng ông bị Lưu hậu ám hại. Ông khẩn khỏan nhờ Định-vương trả thù cho. Định-vương đã bàn với Minh-Thiên, nhưng vẫn chưa xuống tay được, vì thế lực Lưu hậu quá lớn.
        Bây giờ Khai-Quốc vương nhắc lại truyện cũ, trong ý Vương tỏ cho triều thần biết rằng ông đã tìm ra hung thủ hai vụ án lớn. Tào Lợi-Dụng nghe Khai-Quốc vương nói, y kinh hoảng. Nhưng rồi y tự nhủ:
        - Ngay đương thời, vua Thái-Tông còn tìm không ra thủ phạm, huống hồ tên này mới qua Biện-kinh mấy ngày.
        Nhà vua nghe Khai-Quốc vương nói, ông hỏi:
        - Khai-Quốc vương đã biết hung thủ là ai rồi phải không? Vương có thể nói ra cho triều đình cùng nghe, hầu tru di tam tộc kẻ đó.
        - Dĩ nhiên hạ thần biết. Hạ thần cam đoan hôm nay sẽ bắt hung thủ để các đại thần đây biết rằng thần nhất tâm nhất trí kết hiếu giữa hai tộc Hoa-Việt.
        Nói đến đây vương biết mình đã khai chiến với bọn phe đảng của Lưu hậu chủ xâm Nam phương. Mà bọn chúng hầu hết bị khống chế bằng Chu-sa ngũ độc chưởng. Chi bằng đem vụ Thiệu-Thái trị được họa này nói toẹt ra, để lôi kéo những nạn nhân về với mình. Nghĩ vậy vương tiếp:
        - Cô-gia xin nói rõ, có rất nhiều vị hiện diện tại đây bị trúng Chu-sa ngũ độc chưởng, đã được Thân Thiệu-Thái trị dứt vĩnh viễn. Hành động đó của sứ đoàn có thể coi là tốt hay xấu? Công hay tội?
        Lã Di-Giản tím mặt lại, y hỏi:
        - Đâu? Ai trong chúng ta bị trúng Chu-sa độc chưởng đã được Thân Thiệu-Thái trị khỏi? Chứng cớ ở đâu?
        Định-vương đứng dậy nói bằng giọng khoan thai:
        - Chính cô-gia cùng sứ đoàn đi Nam-thùy đều bị trúng Chu-sa độc đến hai ba lần, được Thân giáo-chủ cứu trị. Khai-Quốc vương còn gửi công chúa Bình-Dương với thế tử Thân Thiệu-Thái theo sứ đoàn Tống về triều để trị cho bất cứ ai bị trúng chưởng này. Nhưng vì sứ đoàn Đại-Việt chưa điện kiến, nên cô-gia không thể tâu lên Hoàng thượng.
        Vương gằn từng tiếng:
        - Thế nhưng sứ đoàn vừa tới triều kiến thiên tử, thì các đại thần tự hào về văn minh Hoa-hạ, tự hào về Nho, tự hào về đủ thứ lại lên tiếng vấn nạn sứ đoàn, coi Đại-Việt như man di. Hỡi ôi.
        Khắp triều Tống nghe Định-vương nói, đều hiện ra vẻ hân hoan không bút nào tả xiết. Vì họ hy vọng sẽ được giải thoát khỏi cái ách độc chưởng đè lên người bấy lâu.
        Định-vương tiếp:
        - Những người đã được trị Chu-sa độc chưởng trong sứ đoàn gồm bản sư Minh-Thiên. Đông-Sơn đạo sư, Dư Tĩnh, Vương Duy-Chính, Địch Thanh, Triệu Anh, Triệu Huy, Quách Quỳ. Cũng chính Thân thế tử trị cho Trường-giang thất quỷ, cùng bang chúng Nhật-hồ vì vậy khi nghe Vương thuyết phục họ cảm động, qui phục triều đình.
        Từ khi nghe tin sứ thần Đại-Việt thuyết phục hai bang Nhật-hồ, Trường-giang quy phục triều đình. Trên từ Lưu hậu, Hoàng-đế cho tới quần thần không hiểu bằng cách nào mà Vương nói cho bọn đại ma đầu nghe theo. Bây giờ Định-vương nói ra, mọi người mới hiểu. Họ nghĩ thầm:
        - Thì ra thế. Bọn Nhật-hồ dùng bá đạo khống chế người. Đại-Việt dùng ân đức thu phục nhân tâm chúng.
        Hầu hết các quan văn thần đều có thiện cảm với sứ đoàn Đại-Việt. Còn những người bị trúng Chu-sa độc chưởng lại mong Hoa-Việt thân thiện để được giải ách. Bởi bị độc chưởng hành hạ bấy lâu, họ như sống trong địa ngục. Nếu không có Lưu hậu ngồi trong màn, có lẽ họ đã chạy tới xin Thiệu-Thái trị bệnh cho rồi.
        Bỗng nhà vua lên tiếng:
        - Bách quan nghe cho rõ.
        Tất cả mọi tiếng xì xầm đều tắt hết. Nhà vua tiếp:
        - Chính trẫm cũng bị trúng độc chưởng này. Cách đây hai ngày, Thân thế-tử đã trị cho trẫm rồi.
        Từ trước đến giờ quần thần đều nghe biết nhà vua cũng bị trúng chưởng này, nhưng không ai dám nói ra. Bây giờ chính miệng nhà vua tuyên phán, thì còn sai thế nào được? Khi nhà vua đã nói ra, chắc chắn bọn bang Nhật-hồ tiềm ẩn trong triều sẽ bị chỉ mặt điểm tên.
        Yến Thù vái Khai-Quốc vương:
        - Thưa vương gia, vương gia nói trong triều có nhiều dư đảng bang Nhật-hồ, thế chúng là những ai?
        Khai-Quốc vương nghĩ thầm:
        - Yến Thù biết rõ mọi biến cố nội cung. Khi y dám nói câu này, có nghĩa là Thái-hậu đã bị kiềm chế hoàn toàn. Phe đảng hiếu chiến không còn nữa. Đã đến lúc nên công khai hạ chúng đây. Ta phải can đảm mới được.
        Vương chắp tay vái Yến:
        - Đa tạ đại-học sĩ hỏi đến. Vãn sinh xin thưa: Hiện có những đại thần bậc nhất bậc nhị xuất thân Hồng-thiết giáo. Cao nhất là ngài Thái-tử thiếu phó, Kinh-hồ tiết độ sứ, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, Tổng-quản ngự-lâm quân, Tổng-lĩnh thị vệ, Ngô quốc-công Tôn Đức-Khắc. Tôn quốc-công nguyên có tên Đào Tường-Phúc lĩnh Tả hộ pháp của Hồng-thiết giáo Đại-Việt.
        Khai-Quốc vương không nói, thì cả triều đình nhà Tống đều tưởng Tôn Đức-Khắc là dư đảng bang Nhật-hồ Trung-quốc, mà Lưu hậu dùng y khống chế quần thần. Muôn ngàn lần họ không bao giờ ngờ y lại chính là Đào Tường-Phúc, một đại ma đầu, một khâm phạm từ đời vua Thái-tông. Vì vậy khi vương nói xong, họ kinh ngạc đến nỗi không ai dám bật lên tiếng súyt xoa.
        Khai-Quốc vương tiếp:
        - Nhân vật thứ nhì là ngài Thái-tử thiếu bảo, Tả-vệ thượng tướng quân, Nam-thiên kinh lược sứ, Việt-quốc công Lê Lục-Vũ. Lê quốc-công nguyên có tên Chu Bội-Sơn lĩnh Hữu hộ-pháp của Hồng-thiết giáo Đại-Việt.
        Đến đây thì triều thần chỉ biết mở to mắt kinh ngạc, không ai nói lên lời. Khai-Quốc vương tiếp:
        - Nhân vật thứ ba là ngài Sử-vạn Na-vượng. Ngài Sử-vạn nguyên là em của quốc-vương Lão-qua. Người được phong chức tước như sau: Kiểm-hiệu thái sư, Tĩnh hải tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, Nam-phương tĩnh lự công thần, Lão-qua quận vương. Thực ấp vạn hộ, thực phong ngũ thiên hộ. Nhưng vì theo Hồng-thiết giáo, nên khi về nước tranh ngôi vua với anh bị thất bại. Ngài sang Thiên-triều, được phong Trấn-quốc đại tướng quân lĩnh chức Tổng-lĩnh ngự lâm quân. Nhưng có ai ngờ ngài lại là Đông-phương sứ giả của Hồng-thiết giáo Đại-Việt.
        Triều thần không ít thì nhiều đã bị Sử-vạn dùng Chu-sa độc chưởng khống chế, vì vậy khi Khai-Quốc vương nói y là Đông-phương sứ giả Hồng-thiết giáo Đại-Việt, họ đều mặc nhiên công nhận là đúng.
        Khai-Quốc vương tiếp:
        - Nhân vật thứ tư là ngài Khiếu Tam Bản, chức tước tại Chân-lạp là Thái-tử thiếu sư, Nam-thiên tiết độ sứ, Tả vệ thượng tướng quân, Đồng bình chương sự, Chân-lạp quận vương. Vì theo Hồng-thiết giáo bị thất thế, sang Thiên-triều được phong Hoài-hóa đại tướng quân, Tổng-lĩnh thị vệ. Không ai ngờ ngài là Nam-phương sứ giả của Hồng-thiết giáo Đại-Việt.
        Tào Lợi-Dụng thấy bao nhiêu cơ mật mà chỉ Lưu hậu với y cùng bọn Lã Di-Giản biết, nay bị Khai-Quốc vương nói toẹt ra giữa triều đình. Y hoảng kinh, chờ Lưu hậu phản ứng, mà tuyệt không thấy bà nói gì cả. Cơ chừng này nhà vua cầm quyền đến nơi rồi. Nhà vua mà cầm quyền, thì chỉ nguyên tội con y hiếp đáp lương dân cũng đủ làm cho y mất hết chức tước. Huống hồ cái tội kiềm chế Lý phi, hoán chúa, khi quân bấy lâu, có khi cả Lưu hậu với y cũng không còn đất mà chôn. Trước thế nguy, y quát lên:
        - Tên ôn con Lý Long-Bồ kia, mi... mi giám bịa đặt truyện vu hãm công thần. Hai vị đại thần Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ mà mi dám bảo là Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn không khác gì nói mặt trời mọc đằng Tây. Còn hai vị Sử-vạn, Khiếu, mi bảo là sứ giả Hồng-thiết giáo Giao-chỉ. Mi láo đến như thế, khiến lão phu không thể chịu nổi nữa rồi. Mi có câm họng không?
        Khai-Quốc vương vẫn khoan thai tiếp:
        - Ngoài ra còn mười trưởng lão bang Nhật-hồ ẩn thân dưới lớp áo thị vệ, được phong chức Nhập-nội đô-tri.
        Tào Lợi-Dụng kinh hoảng nghĩ thầm:
        - Ta phải giết ngay tên này để bịt miệng mới được. Sau khi y chết rồi, hỏi ai dám xung chàng lý luận với ta?
        Nghĩ vậy y bước ra, phát một chưởng bằng tất cả bình sinh công lực hướng vào người Khai-Quốc vương. Y ra tay như điện chớp. Mọi người đều la hoảng, nhắm mắt lại, vì không muốn nhìn Khai-Quốc vương tan xương nát thịt.
        Không ngờ khi chưởng sắp tới, vương lách mình một cái nhảy lên cao. Chưởng trúng ghế vương ngồi. Rầm một tiếng, chiếc ghế bằng gỗ trắc lớn như vậy vỡ tan thành từng mảnh. Trong khi đó vương đáp xuống bên văn ban.
        Tào Lợi-Dụng đánh hụt. Y quyết không tha, chuyển tay phát chưởng nữa nhanh như điện chớp. Khai-Quốc vương thấy nếu mình nhảy tránh, ắt ít nhất có mấy văn quan tan xương nát thịt mà chết. Vương vận sức theo Vô-ngã tướng Thiền-công của công chúa Yên-Lãng, tay như ôm vòng Thái-cực. Chưởng của Tào Lợi-Dụng trúng người vương, bao nhiêu kình lực bị thu hết. Vù một cái, y cảm thấy như đánh một chưởng lên trời, kình lực trong người mất. Kinh hoảng y nhảy lui lại, miệng la:
        - Mi... mi dùng tà thuật.
        Nhà vua quát lên:
        - Tào quốc công ngừng tay.
        Từ ngày vua Chân-tông băng hà, Lưu hậu cầm quyền, Lợi-Dụng phụ chính. Y coi nhà vua như đứa trẻ đã quen. Mỗi khi y tâu gì, Lưu hậu quyết định hết. Hôm nay là ngày đầu tiên Lưu hậu im lặng, và nhà vua quát lên tỏ ra có uy quyền. Y vội lùi lại.
        Nhà vua nói với Khai-Quốc vương:
        - Việc vương tố đích danh bốn đại thần cùng mười thị vệ thuộc dư đảng bang Nhật-hồ, hiện mới có bên nguyên. Đợi mười bốn vị kia về đây, trẫm sẽ cho đối chất. Bây giờ hãy nghị về quốc danh Đại-Việt đã.
        Nghe nhà vua nói: Nghị về quốc danh của Giao-chỉ, mà lại gọi Giao-chỉ bằng danh tự Đại-Việt. Quần thần đều biết ý nhà vua muốn để yên cho Giao-chỉ với quốc danh Đại-Việt. Cho nên phe thân Đại-Việt, phe trung lập đều hiểu vấn đề đã ngã ngũ.
        Yến Thù tâu:
        - Kể từ khi đức Thái-tổ ta dựng nghiệp. Những nước xung quanh, vì nghe thánh đức, dùng Nho trị dân, nên đều hướng về. Trong tất cả các nước đó, Đại-Việt là đất văn hiến nhất. Hiện nay trên có nhân quân trị vì. Dưới có văn võ bá quan trung thành. Nhất là võ học cực thịnh. Thuận-Thiên hoàng đế lại lễ hậu, cử Khai-Quốc vương đi sứ kết hiếu. Trên đường sang Tống, vương thu phục được bang Trường-giang, bang Nhật-hồ, công lao ấy thực quý không gì bằng. Thần nghĩ, bệ hạ nên triệu những quan biên trấn thích gây thù hận với tộc Việt, hầu nêu cao thánh đức.
        Bọn Lã Di-Giản thấy Yến Thù từ trước đến nay là người cùng phe đảng với mình, chủ xâm Đại-Việt. Hơn nữa y thuộc tâm phúc của Thái-hậu, cùng Hoàng-đế. Nay bỗng dưng đổi hẳn thái độ... thì cho rằng Hoàng-đế đã bỏ ý chiếm Nam phương. Chúng đưa mắt nhìn nhau:
        - Không chừng là ý riêng của Hoàng-đế, chứ không phải của Thái-hậu. Ta cứ chờ xem.
        Lã Di-Giản im lặng. Nhà vua nói với Định-vương:
        - Như vậy nghị sự đã quyết. Từ khi trẫm lên ngôi, được các khanh phò tá, lấy đức nhân trị dân. Bốn phương phẳng lặng. Thế nhưng mấy biên thần hiếu sự, khi quân, nói xàm, tâu bậy về Nam-biên, khiến bao lần Hán-Việt suýt có chiến tranh. Ngược lại tế tác Khu-mật viện cho biết Đại-Việt đang có nhân quân trị vì, dân chúng sống những ngày Nghiêu, tháng Thuấn. Vì vậy trẫm phải để đích thân Thái-sư vi hành Nam-phương. Chính mắt Thái-sư đã thấy, lại chính tai Thái-sư đã nghe về đời sống hạnh phúc trăm họ Nam-phương, khiến trẫm nghe tâu lại mà lòng hân hoan đến vô cùng. Biên thần tấu rằng Thuận-Thiên hoàng đế là tên chăn trâu, là tên ở chùa, vô học bất thuật. Điều này đúng, thủa thơ ấu Thuận-Thiên Hoàng-đế theo học với Bồ-tát Vạn-Hạnh tại chùa Tiêu-sơn, cho nên văn võ toàn tài. Vả dù người có là tên ở chùa chăng nữa, thì anh hùng đâu quản xuất thân? Hán Cao-tổ không xuất thân ti tiện đó ư? Bậc quân phụ không cần giỏi, mà cần đức, sao đem hạnh phúc cho dân.
        Nhà vua nói lớn:
        - Vương cho triệu hồi biên thần Nam-phương đã dối triều đình tâu rằng Thuận-Thiên hoàng đế là hôn quân ác độc, thay vào đó những văn thần ôn hòa, đem văn phong, lễ nghĩa dạy dân chúng. Những đạo quân đóng ở Nam-biên phải di về Bắc-biên, hầu đối phó với Khất-đan.
        Lại tuyên chỉ cho Yến Thù:
        - Yến đại học sĩ thu thập tất cả thư tịch về kinh, sử, tử, tập, mỗi lọai chọn lấy hai bộ giao cho sứ đoàn Đại-Việt mang về tặng cho Thuận-Thiên hoàng đế. Như vậy từ nay tộc Hán, tộc Việt sống như anh em.
        Quần thần ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu những gì đã xẩy ra. Vì từ trước đến giờ, triều thần nghị sự rồi, thì chính Thái-hậu ban chỉ dụ. Nay những việc lớn lao vô cùng về Nam-thùy, Thái-hậu ngồi kia, mà sao Hoàng-đế lại tự quyết không hỏi ý kiến bà?
        Lã Di-Giản biết ý nhà vua đã định. Y kinh hoảng nghĩ thầm:
        - Nếu để cho nhà vua nắm quyền, thì việc Lưu hậu khống chế Thần-phi sẽ đổ bể. Bọn ta bị liên đới, ắt họa tru di tam tộc khó tranh. Âu là ta cứ coi như nhà vua vô quyền.
        Y đâu biết rằng chính Lưu hậu bị Lý phi khống chế, nhà vua thay đổi hết chức vụ Ngự-lâm quân cùng thị vệ rồi? Y đến trước màn tâu:
        - Tâu Thái-hậu, Hoàng-thượng quyết định về chính sách Nam-thùy có phần không ổn. Mong Thái-hậu ban chỉ dụ.
        Thái-hậu quát lên:
        - Lã Di-Giản! Người thực là to gan lớn mật, dám chống lại cả chỉ dụ của Hoàng-thượng ư? Tiên-đế di chỉ cho ta thính chính, chứ có cho ta định quốc sự đâu? Thế mà mi dám nói Hoàng-thượng quyết định không ổn. Mi khinh khi Hoàng-thượng là ấu quân ư? Thị vệ đâu! Bắt Lã Di-Giản bỏ ngục chờ đình thần luận tội.
        Trần Bảo-Dân dạ một tiếng tiến đến nhắc bổng Di-Giản mang khỏi điện.
        Quần thần ngơ ngác nhìn nhau không ai hiểu gì cả.
        Bọn Trương Kỳ, Hạ Tủng, Trần Nghiêu-Tá, Phạm Ung, Triệu Thực cùng đến trước màn quỳ gối:
        - Muôn tâu Thái-hậu.
        Tiếng Thái-hậu quát:
        - Các người muốn gì?
        Trần Nghiêu-Tá tâu:
        - Từ hơn mười năm nay, Thái-hậu cùng triều đình mất không biết bao nhiêu tâm huyết cũng như tiền bạc. Nào luyện binh tuyển tướng. Nào mua sắm vũ khí, nào đóng thuyền chuẩn bị Nam-chinh. Nay chỉ vì sứ đoàn Giao-chỉ sang, mà đổi ngược lại. Hơn nữa, Lã tể-tướng là lão thần phò tá đã ba đời vua, không hề phạm tội. Chỉ vì trung thành với Thái-hậu, nên thấy Thái-hậu chưa tuyên thánh ý, trong khi Hoàng-thượng còn qúa trẻ, bồng bột quyết định chính sách Nam-biên hấp tấp mới can gián... thế mà Thái-hậu truyền bắt giam.
        Vương Đức-Dụng tâu:
        - Tâu bệ hạ, giữa triều đường mà Trần thượng-thư dám buông lời khi quân tác loạn. Xin bệ hạ truyền bắt chặt đầu ngay để răn chúng.
        Từ trước đến giờ bọn Lã Di-Giản, Trần Nghiêu-Tá nịnh hót theo Lưu hậu, khinh khi nhà vua cùng đồng liêu đã quen. Nay đà cũ còn, Nghiêu-Tá hách dịch quát:
        - Vương Đức-Dụng, mi định phản thái hậu ư?
        Thái-hậu quát:
        - Vương ngự-sử đàn hạch đúng. Thị vệ đâu, bắt năm tên này giam lại cho ta.
        Thị vệ dạ ran. Nghiêu-Tá hỏi:
        - Tâu Thái-hậu bọn thần tội gì?
        - Còn tội gì ư? Chính mi vừa nói Hoàng thượng còn quá trẻ, quyết định chính sách Nam-thùy bồng bột hấp tấp. Như vậy là khi quân, nhục mạ chúa, tội phải tru di tam tộc.
        Thị vệ dẫn năm người rời khỏi điện.
        Tự-Mai cười thầm:
        - Tiên sư cha bọn hiếu chiến. Đám đầu sỏ quan văn bị bắt hết rồi, còn bọn võ quan nữa là xong.
        Đến đó lễ quan vào quỳ tâu:
        - Có sứ đoàn Xiêm-la xin vào triều kiến.
        Thái-tử An-Nan Tam-gia La-sun cùng vương phi, công chúa Nong-Nụt cùng vào quỳ gối hành lễ. Diêu Vạn theo sau. Diêu Vạn tâu:
        - Hạ thần Diêu Vạn, lĩnh Chiêu-thảo sứ thuộc Kinh-châu, giữ trách vụ hộ tống sứ đoàn Xiêm xin triều kiến. Thần kính chúc Thái-hậu cùng Hoàng-thượng vạn tuế, vạn vạn tuế.
        Tiếp theo An-Nan Tam-gia La-sun, vương phi và Nong-Nụt cùng quỳ tâu, chúc tụng. Thái hậu nói vọng ra:
        - Mời vương phi An-Nan Tam-gia La-sun cùng công chúa Nong-Nụt vào trong này đàm đạo với ta.
        Vương Kỳ hỏi Diêu Vạn:
        - Chiêu thảo sứ. Triều đình nhận được tấu chương của Kinh-lược sứ Kinh-châu cùng Chiêu-thảo sứ về việc hai đại thần Sử-vạn Na-vượng cùng Khiếu Tam Bản làm đạo tặc. Bây giờ Chiêu-thảo sứ hiện diện tại đây, người hãy trực tiếp tấu trình lên Hoàng-thượng.
        Diêu Vạn khoan thai thuật lại từ đầu đến cuối việc y hộ tống sứ đoàn Xiêm, dọc đường xẩy ra cuộc động thủ với Sử-vạn, Khiếu một lượt.
        Nhà vua hỏi Định-vương:
        - Hoàng thúc nghĩ sao?
        Định-vương tâu:
        - Triều đình cần phải làm cho sáng tỏ việc tiếp sứ đoàn Đại-Việt, Xiêm-la, bằng không uy của Thiên-tử bị giảm rất nhiều. Còn gì nhục nhã bằng Thiên-triều mà không bảo vệ nổi sứ đoàn, để đạo tặc lộng hành? Thần xin để Khai-Quốc vương tâu trình nữa mới có thể quyết đoán được sự thực ra sao.
        Khai-Quốc vương tâu tỉ mỉ chủ trương của Đại-Việt: Đất có chủ, nước có vua. Tống là nước lớn. Đại-Việt sang cống là để tỏ lòng hiếu kính. Vì vậy mọi sự xẩy ra trên đất Tống, sứ đoàn tuyệt đối không xử dụng võ công. Khi tới biên giới gặp tiếp dẫn sứ Tào Khánh dẫn mười thị vệ đi đón. Sau đó bang Trường-giang dùng kế bắt Tào Khánh, cùng đám kị binh hộ tống, rồi quay lại uy hiếp sứ đoàn bắt đi tìm kho tàng ở Khúc-giang. Dọc đường sứ đoàn thuyết phục bang Trường-giang quy phục triều đình ra sao.
        Lý Điệt bước ra xá Khai-Quốc vương:
        - Vương gia! Lão phu nghe nói Trường-giang thất quỷ vốn thuộc dư đảng của bang Nhật-hồ. Hai gã Phương Hổ, Phương Báo trước đây là tả, hữu sứ của bang này, võ công, độc công chúng cao thâm không biết đâu mà lường. Lại nữa, Động-đình tam ưng nức tiếng vùng Giang-hạ. Vương gia làm thế nào mà khuyến dụ họ theo triều đình?
        Khai-Quốc vương biết Lý Điệt muốn vương đi vào chi tiết, để bọn hiếu chiến nể mặt. Vương gật đầu:
        - Thưa đại học sĩ. Thực sự nếu dùng bản lĩnh võ công, anh em vãn sinh dư sức đàn áp chúng. Nhưng khổ nỗi anh em vãn sinh đi sứ kết hiếu với triều đình, nhân sĩ, võ lâm Tống, lại nữa có Tiếp-dẫn sứ cùng thị vệ hộ tống. Vì vậy anh em vãn sinh nhất định không dùng võ công. Cuối cùng Thân Thiệu-Thái trị dứt Chu-sa độc chưởng cho họ. Còn vãn sinh đem chính đạo ra thuyết phục. Họ nghe theo.
        Bọn theo phe đảng Lưu hậu lòng như lửa đốt. Bang Trường-giang lớn biết bao. Bọn chúng mất mấy năm mới thu phục được, bang này dùng khống chế các quan vùng Giang-Nam. Mới đây nghe bọn Trường-giang quy phục Định-vương, chúng cứ nghĩ rằng vương dùng đại binh diệt. Bây giờ chúng mới vỡ lẽ do Khai-Quốc vương khuyến dụ. Nhưng khuyến dụ như thế cách nào, vương lại không chịu khai rõ.
        Tào Lợi-Dụng nói:
        - Lão phu không tin.
        Định-vương dơ tay ra hiệu im lặng. Vương nói:
        - Quốc công không tin cũng phải tin. Cô-gia đã sung đám bang chúng Trường-giang vào thủy quân rồi. Ai không muốn làm quan, đã ngoan ngoãn về quê làm ăn. Hiện giờ khắp vùng Trường-giang không còn nạn đạo tặc nữa.
        Khai-Quốc vương lại kể đến việc hai lão Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ hợp với Dư Tĩnh đánh thuốc độc sứ đoàn cùng Định-vương với tùy tùng. Chúng còn nói rõ nhận chỉ dụ của Thái-hậu làm điều đó.
        Quần thần nghe vương thuật họ tin ngay. Trong khi Thái-hậu, nổi giận đùng đùng:
        - Hai tên này nói láo. Hoàng-nhi mau truyền chỉ truy tầm chúng đem về xẻo từng miếng thịt ra để trị tội.
        Vương thuật tiếp, hai lão Tôn, Lê tưởng sứ đoàn bị trúng độc. Trong khi sứ đoàn được Thiệu-Thái giải độc, vẫn mạnh khỏe như thường. Khi đến Tương-giang bị một lực lượng bí mật bắt gần hết mười thị vệ. Thuyền vào hồ Động-đình hai lão mải đuổi theo địch thủ, bỏ mặc sứ đoàn. Sứ đoàn tự lên Kinh-châu, thì bị Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản nói rằng tuân chỉ Thái-hậu áp tải về kinh. Rồi dọc đường xẩy ra cuộc đụng độ với thiết kị hộ tống sứ đoàn Xiêm. Hai lão Sử, Khiếu bỏ chạy. Sứ đoàn tự đến kinh một mình.
        Triều đình biết tất cả những điều vương kể đều đúng. Họ chờ xem Thái-hậu phản ứng ra sao. Lý Ty tâu:
        - Tâu hoàng thượng, xét cho kỹ hai đại thần Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ quả có phạm tội thực, nhưng phải chờ hai vị đó về mới có thể kết tội được. Còn Sử-vạn Na-vượng vốn người Lão-qua, nhờ võ công cao, cần mẫn chính vụ, nên được phong Trấn-quốc đại tướng quân thống lĩnh thị vệ. Khiếu Tam Bản vốn người Chân-lạp, nhờ võ công cao, từ chức Nhập-nội đô-tri, thăng lên Hoài-hóa đại tướng quân, lĩnh Bắc-ban nội phẩm. Cả hai đã tới cực phẩm, không lẽ đang lĩnh chỉ đón sứ đoàn Đại-Việt, lại làm đạo tặc? Tuy có tấu trình của Kinh-lược sứ Kinh-châu cùng như Chiêu-thảo sứ, xin Hoàng-thượng chờ hai vị đó về đây đối chất, rồi hãy kết tội.
        Vương Đức-Dụng tâu:
        - Tâu hoàng thượng, việc Sử, Khiếu làm đạo tặc không phải mình Kinh-lược sứ Kinh-châu tấu, mà chính ngay Tư-mã Kinh-châu Trần Trung-Đạo trực tiếp đánh đuổi Sử, Khiếu cũng đã về triều điện tấu thì còn sai thế nào được? Sau đó tới Chiêu-thảo sứ Diêu Vạn cùng đội thiết kị trăm người, hơn hai trăm con mắt đã chứng kiến, liệu có lầm được chăng? Lại nữa sứ thần An-Nan Tam-gia La-sun cùng vương phi, công chúa cũng chứng kiến. Xin Hoàng-thượng ban chỉ triệu bốn người vào triều kiến ngay để rõ ngay gian.
        Đến đó Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích quỳ tâu:
        - Tâu hoàng thượng, đến giờ các ứng sinh phò mã vào điện kiến. Xin bệ hạ cho ngừng triều nghị.
        Nhà vua gật đầu:
        - Mời các ứng sinh vào.
        Tôn-Thích vẫy tay, từ ngoài, các ứng sinh hàng mười lũ lượt tiến vào điện. Đám Địch-Thanh, Triệu-Tiết, Khúc-Chẩn lẫn vào với các ứng sinh. Khai-Quốc vương ra hiệu cho Tôn-Đản đứng vào chỗ của nó. Thấy vương không gọi, Lê-Văn, Tự-Mai vẫn khoanh tay hầu sau nhà vua.
        Tôn-Thích hô:
        - Các ứng sinh phò mã bái kiến Thái-hậu cùng Hoàng-thượng.
        Các ứng sinh đồng rập đầu bốn lần. Tôn Thích ra hiệu, các ứng sinh đứng sang một bên. Một văn quan dùng tay ra hiệu, nhã nhạc êm dịu nổi lên. Một lễ quan xướng:
        - Công chúa điện hạ cùng các thiên kim tiểu thư hội diện với chư ứng sinh.
        Từ sau màn, tiếng ngọc bội khua rổn rang, rồi cứ ba thiếu nữ một từ từ tiến ra, tay mỗi người cầm một cành hoa bằng vàng. Trong đại điện hơn năm trăm người, mà không một tiếng động. Các thiếu nữ tiến ra, mỗi người ngồi vào một chiếc ghế đặt đối diện với ứng sinh. Các nàng cầm cành hoa bằng vàng cắm vào chiếc ống bạc gắn trước ghế của mình.
        Mọi người cùng đưa mắt nhìn, xem trong mười tám hoa khôi, ai là công chúa Huệ-Nhu, mà tuyệt không nhận ra.
        Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn nhìn nhau, như tự nói:
        - Hỡi ôi! Có đi ra ngoài mới biết đất thấp trời cao, ngoài bầu trời này còn bầu trời khác. Trước kia mình cứ tưởng Thanh-Mai đẹp hồng hào, đẹp lồ lộ như đóa hoa hải đường. Mỹ-Linh đẹp như đóa hoa lan, trong cái đẹp có cái ôn nhu văn nhã. Đào Hà-Thanh đẹp tươi như bông hồng dưới nắng ban mai. Lâm Huệ-Phương đẹp huyền ảo, mờ mờ như người trong mộng. Bây giờ mới thấy mười tám thiếu nữ này mỗi người một vẻ, đâu kém gì Hà-Thanh, Huệ-Phương?
        Tự-Mai đưa mắt nhìn một lượt, bỗng chàng giật bắn người lên, vì thiếu nữ ngồi ở ghế thứ chín chính là Thuận-Tường. Bất giác chân tay chàng run run. Chàng muốn làm một cử chỉ gì cho Thuận-Tường nhận ra chàng, nhưng Thuận-Tường vẫn nhìn vào đám ứng sinh.
        Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích nói:
        - Bây giờ các ứng sinh tự chọn lấy một hoa khôi, rồi đến đứng trước hoa khôi đó.
        Các ứng sinh khoan thai đến trước các hoa khôi. Hoa khôi có nhiều người đứng trước nhất là mười lăm. Hoa khôi có số người đứng trước ít nhất là năm. Tự-Mai giật mình khi thấy Triệu Tiết đứng trước Thuận-Tường. Mà Thuận-Tường chính là hoa khôi có nhiều ứng sinh nhất.
        Tôn Thích hỏi Tự-Mai, Lê Văn:
        - Dường như hai vị cũng ứng tuyển phò mã thì phải? Nếu có xin chọn hoa khôi đi chứ?
        Tự-Mai lẳng lặng đến đứng trước Thuận-Tường. Thuận-Tường đã nhận ra chàng. Bốn mắt nhìn nhau, biết bao nhiêu tình. Còn Lê Văn, chàng chọn một hoa khôi ít ứng viên nhất.
        Tôn Thích hướng vào các ứng sinh:
        - Các vị đây sắp sửa thành phò mã, cũng như rể đông sàng của đại thần. Tuy các vị đã được An-vũ sứ châu quận xét lý lịch. Tuy vậy bây giờ nếu vị nào thấy mình ở trong phạm vi cấm, hãy xin rút tên ra cho kịp. Bằng không sau này truyện đổ bể sẽ mang tội khi quân.
        Các ứng sinh im lặng. Tôn Thích tiếp:
        - Trong các quan cũng như ứng sinh, nếu vị nào nhận ra một ứng sinh dối trá, phải thẳng tay tố cáo. Bằng không cũng mang tội khi quân.
        Quách Quỳ tiến ra quỳ tâu:
        - Thần Quách Quỳ, giòng dõi Quách Quân-Biện. Tâu bệ hạ. Trong chỉ dụ tuyển phò mã nói rằng: Ứng sinh tam đại không được ở trong các trường hợp sau: Không thuộc bọn ngụy, phản tặc chống triều đình. Không thuộc bọn bọn trộm cướp. Không thuộc dư đảng của bang Nhật-hồ. Thần thấy ở đây có hai người thuộc phản tặc chống triều đình.
        Tôn Thích hỏi:
        - Quách sinh cho biết hai người đó là ai?
        Quách Quỳ chỉ Lê Văn:
        - Người này họ Lê tên Văn. Phụ thân y là Lê Long-Mang, con thứ Lê Hoàn. Như vậy y là cháu nội của Hoàn. Thời vua Thái-tông, triều đình sai nguyên soái Hầu Nhân-Bảo, cùng nội tổ thần sang chinh thảo Giao-chỉ. Hoàn mang quân chống lại làm quan quân chết rất nhiều. Vì vậy y không thể được ứng tuyển.
        Vương Đức-Dụng hỏi Lê Văn:
        - Ứng sinh Lê Văn phải trả lời cho rõ. Việc ấy có đúng không?
        Lê Văn vốn nhũn nhặn, nhưng từ ngày sinh ra nó đã tự hào về chiến công của ông nội. Chàng nghĩ thầm:
        - Mình có cần trúng cách đâu? Mình cần trượt kia mà. Đã vậy mình nói ngang như cua, như ghẹ cho chúng biết mặt anh hùng. Rối bị trượt càng tốt.
        Chàng nói vang cả điện lên:
        - Quách huynh thực không hổ giòng dõi trung thần. Đúng đấy, tôi nghe phụ thân kể rằng trong trận đánh trên sông Bạch-đằng, tên Quách Quân-Biện bị bắt sống. Y kinh sợ, run rẩy đến nỗi rập đầu ba trăm lần trước một nữ tướng để khỏi bị giết. Trong thời gian ở tù, mỗi ngày y đều khóc lóc xin được về quê sống với vợ con. Sau khi Tống, Việt hòa, y được trao trả. Nghe đâu về Tống, y huênh hoang kể công trận anh hùng tưởng tượng của y.
        Tự-Mai chêm vào một câu:
        - Lúc bị bắt, y rập đầu binh binh trước nữ tướng: Xin tiểu cô nương tha cho cái mạng kiến ruồi này. Nữ tướng khinh khi hỏi: Người đường đường là tướng của Tống triều. Tại sao lại hèn hạ qúa vậy? Nữ tướng đá vào đít mấy cái, rồi truyền cho y mỗi ngày múc mười thùng phân tưới rau.
        Lê Văn tiếp:
        - Đã hết đâu. Ngày nào y cũng khóc lóc thảm thiết xin được phóng thích...
        Quách Quỳ tức qúa văng tục:
        - Mi... mi nói như người ta đánh... rắm ấy.
        Lê Văn làm bộ điếc để tay lên tai hỏi:
        - Quách huynh nói gì? À, có phải Quách huynh nói lúc bị cầm tù, tổ phụ phải ăn thịt rắn ư? Trời ơi, làm gì có truyện đó. Nước tôi là nước nhiều gạo, lắm thịt, dù nuôi tù cũng không đến nỗi bắt ăn thịt rắn.
        Quách Quỳ nhảy vọt lên tấn công Lê Văn bằng một chưởng Thiếu-lâm, chưởng phong khá hùng hậu. Mọi người kinh ngạc khi thấy Lê Văn không đỡ, chàng thản nhiên vận công chịu đòn. Bình, rắc rắc. Một thân hình bay bổng lên cao, rơi xuống đến huỵch một tiếng. Mọi người tưởng Lê Văn bị đánh bay đi. Không ngờ lại chính là Quách Quỳ.
        Quách Quỳ đánh trộm mà không thành. Y bị nội công Lê Văn phản ứng, xương tay bị gẫy đau thấu ruột gan. Nhưng nó không dám rên la vì tự biết rằng mình dùng võ công trước mặt Hoàng-đế là tội đại bất kính, có thể mất đầu. Y vội giả vờ nằm quằn quại không bò dậy được.
        Lê Văn là thầy thuốc, thoáng nhìn chàng đã biết gian mưu của Quách Quỳ, chàng cười:
        - Chà Quách huynh qủa thực giòng dõi tướng môn, mưu trí tuyệt vời. Nhưng Quách huynh ơi, cái khổ nhục kế của Quách huynh chẳng nên dùng ở đây.
        Nói rồi chàng chĩa ngón tay phóng một Lĩnh-Nam chỉ vào huyệt Kiên-ngung, Phong-thị của Quách Quỳ. Quỳ cảm thấy hết đau, nó ngồi dậy:
        - Tôi với Lê huynh không thù, không oán. Nhưng chiếu chỉ của triều đình nói... nếu tôi biết mà không tố cáo, thì cũng mang tội khi quân.
        Lê Văn cười:
        - Đa tạ Quách huynh.
        Chàng đưa mắt nhìn Nong-Nụt. Câu nói đó của chàng chỉ sứ đoàn Việt biết chàng nói thực. Nói rồi chàng bước khỏi chỗ đứng, ra sau nhà vua khoanh tay thái độ ngang tàng, coi như không cần cái ngôi phò mã. Vô tình chàng đứng cạnh ghế của Nong-Nụt. Bốn mắt nhìn nhau chan chứa tình.
        Quách Quỳ chỉ Tự-Mai:
        - Cũng trong lần Nam chinh thời vua Thái-tông, có Trần Trí-Đức. Trần Tự-Mai là con của Trần Tự-An. Mà Tự-An là con Trần Trí-Đức. Chính Trần Trí-Đức chỉ huy đệ tử phái Đông-a đánh trận Bạch-đằng. Vì vậy Tự-Mai không thể được ứng tuyển.
        Tự-Mai thấy Thuận-Tường cau mặt lại. Nàng nhìn Quách Quỳ như muốn ăn tươi nuốt sống nó. Tự-Mai hứng chí, chàng cười ha hả gật đầu:
        - Đúng thế. Ông nội tôi cùng đệ tử Đông-a giết không biết bao nhiêu giặc ở trận Bạch-đằng. Sau khi giết giặc người không nhận bất cứ chức tước nào của triều Lê. Đó là chủ đạo của tộc Việt.
        Chàng nhìn lên thấy Thuận-Tường cau mày lắc đầu, dùng ngón tay ra hiệu cho chàng, ý bảo: Đừng nói nữa. Chàng định lui lại. Nhưng khi nhìn thấy vẻ mặt đắc chí của Tào Lợi-Dụng, cáu quá chàng nghĩ thầm:
        - Tổ bà nó. Ta đếch cần. Bất biết Thuận-Tường sẽ được gả cho ai. Ta hãy bênh vực chủ đạo của tộc Việt đã. Đêm nay ta đi tìm cứu nàng ra, rồi ngao du như nhị sư huynh. Ta đía cần ứng tuyển nữa.
        Tào Lợi-Dụng vẫn hầm Tự-Mai. Lão hỏi chàng:
        - Trần huynh đệ. Nếu như huynh đệ trúng tuyển làm phò mã, triều đình sai huynh đệ mang quân Nam chinh. Huynh đệ sẽ hành động như thế nào?
        - Dĩ nhiên vãn sinh sẽ từ chối.
        Lợi-Dụng cười lớn:
        - Làm phò mã mà bất tuân chỉ của triều đình, chẳng hóa ra khi quân phạm thượng ư? Chủ đạo của tộc Việt thế sao?
        Tự-Mai cười lớn:
        - Ngài là tể tướng mà không hiểu gì về đạo lý cả. Ngài thử nghĩ xem, vãn sinh xuất thân là người Việt, mà lại cầm quân nước ngoài về đánh quê hương mình, giết đồng bào mình, thì sau khi thành công, Hoàng-đế cũng chém đầu vãn sinh. Vì sao? Hoàng-đế sẽ nghĩ: Đất nước nó, mồ mả tổ tiên nó mà có còn vì chút danh lợi đem quân về phá, thì nó trung gì với ta? Nếu sau này nó gặp lợi lớn hơn, ắt nó cũng sẽ phản ta.
        - Trường hợp triều đình mang quân Nam chinh, mà huynh đệ đang cầm quân ở Bắc. Chắc huynh đệ đem quân về chiếm Biện-kinh cứu nước Việt.
        - Ngài đừng suy bụng ta ra bụng người. Vãn sinh là tên nhà quê của đất Việt, hạnh ngộ kết huynh đệ với Hoàng-thượng. Hoàng-thượng với vãn bối đã vượt ra ngoài những gì là Hán, là Việt, những gì là Hoàng-đế chí tôn với tên nhà quê. Như vậy Hoàng- thượng đãi ngộ vãn bối quá nhiều, trọn đời vãn bối không làm lợi cho Hoàng-thượng, thì cũng không làm hại. Dù vãn bối không là Quan Vân-Trường thì cũng không thua Nghiêm-Tử-Lăng.
        Thái-hậu, lẫn nhà vua đều nhìn chàng gật đầu.
        Lợi-Dụng cười vang cả điện:
        - Dù huynh đệ có lý luận đến đâu, huynh đệ cũng thuộc giòng dõi phản tặc.
        Tự-Mai cười ha hả. Chàng vận nội công làm tiếng cười vang khắp điện:
        - Phản tặc. Thế nào là phản tặc? Tào quốc công có đọc kinh Xuân-Thu không? Tôi sinh ra làm người Việt, lại được giáo dục về chủ đạo tộc Việt, tôi phải giữ chủ đạo đó. Từ mấy nghìn năm nay, Hán, Việt phân cương vực. Theo nghĩa quốc tổ tôi là con thứ, quốc tổ Trung-quốc là con cả. Vì vậy vua tôi là vai em, hằng năm phải đem phương vật tiến cống. Khi Trung-nguyên có vua nhân từ, để chúng tôi yên, thì Nam, Bắc hòa thuận. Còn như Trung-quốc ỷ lớn, ỷ mạnh mang quân sang đánh, chúng tôi tuy bé nhỏ, nhưng tự hào đủ sức bảo vệ đất tổ. Thời Ân, Phù-Đổng thiên vương đốt hai mươi vạn quân, nay vết tích vẫn còn.
        Chàng ngừng lại nhìn Khai-Quốc vương, thấy vương tỏ ý tán thành, chàng tiếp:
        - Thời Thủy-Hoàng, sai Đồ Thư mang năm mươi vạn quân sang, chỉ một trận, Trung-tín hầu đốt sạch tại khe Ma-tần-lĩnh, Đồ Thư bị nướng như nướng chả. Thời vua Trưng, Quang-Vũ sai Mã Viện, Lưu Long mang quân sang đánh. Hai phen trận hồ Động-đình, xác lấp Trường-giang. Tại Tượng-quận, công chúa Nguyệt-Đức đốt hai chục vạn quân Vương Bá. Trận Nam-hải, đô đốc Trần Quốc chém tươi Đoàn Chí. Trận Lãng-bạc, đến nay còn hơn trăm gò mả xương chưa mục. Mới đây vua Ngô một trận, vua Lê một trận, sông Bạch-đằng cá ăn thịt quân Thiên-triều vẫn còn no. Gò Chi-lăng cao hơn núi, oan hồn hai chục vạn quân chưa tan.
        Chàng nhìn Tào Lợi-Dụng:
        - Nếu như Tào quốc công muốn lĩnh ấn nguyên nhung sang đánh Đại-Việt ư? Xin người về dặn con cháu đóng bàn thờ, rồi leo lên đó mà ngồi, đỡ phải khó nhọc lặn lội đi xa, rồi kết quả cũng giống Đồ Thư, Đoàn Chí, Hầu Nhân-Bảo mà thôi.
        Nhà vua cũng như Yến Thù thấy Tự-Mai vì bảo vệ chủ đạo tộc Việt, mà đang từ thiếu niên ôn nhu văn nhã, bỗng biến thành ương ngạnh, ngang như cua, vội đưa mắt cho chàng như muốn bảo:
        - Thôi đi. Bây giờ bọn chủ chiến chưa bại hẳn, nếu cứ lối nói này, chúng vin vào đó mà tấn công thì thực khó chống đỡ nổi.
        Tự-Mai tuy hiểu ý hai người, nhưng chàng vẫn bất chấp:
        - Tôi nhắc lại: Nước tôi tuy nhỏ, nhưng chí khí anh hùng dân tôi không nhỏ. Tổ tiên tôi bảo vệ nước, mà bảo rằng phản tặc, thực không còn đạo lý nào vô đạo hơn nữa. Tống Thiên-tử là nhân quân, quần thần đều là những bậc hiền Nho, lấy đức trị thiên hạ, không hề có dã tâm Nam xâm. Duy một vài quái vật đa sự, việc bằng con tép, thổi phồng thành con cá voi; tìm cái xương trong qủa trứng gà...
        Chàng chợt nhìn thấy ánh mắt đau khổ của Thuận-Tường, hùng khí trong lòng chàng nguội như tro tàn, chàng không nói nữa, lùi lại sau nhà vua khoanh tay.
        Sau đó nhiều ứng sinh tố lẫn nhau. Có ba mươi mốt ứng sinh bị loại vì lên hệ với bang Nhật-hồ.
        Tôn Thích lại hô:
        - Phò mã hay rể đông sàng đại thần phải văn võ kiêm toàn. Bây giờ các ứng sinh thi văn. Mỗi người phải trả lời một bài văn sách. Giám khảo lựa mỗi hoa khôi hai ứng sinh. Cuối cùng hai ứng sinh sẽ đấu võ. Ai thắng thì được.
        Các ứng sinh đã mang theo giấy bút. Mỗi người được chỉ định một chỗ ngồi trước chiếc tráp. Tôn Thích quỳ gối:
        - Xin bệ hạ ban đầu đề thi.
        Nhà vua gật đầu nói:
        - Tôn Tử viết Phù, dụng binh chi đạo, công tâm vi thượng, công thành vi hạ. Tâm chiến vi thượng, binh chiến vi hạ. Mạnh-tử viết Ta hồ! Binh đao chi sự hung khí dã. Thánh nhân bất đắc dĩ dụng chi.(1)

        Ghi chú
        (1) Câu « Phù, dụng binh chi đạo, công tâm vi thượng, công thành vi hạ. Tâm chiên vi thượng, binh chiến vi hạ » lấy trong Tôn-tử binh pháp. Nghĩa là: Than ôi! Phàm cái đạo dùng binh xưa nay, đánh vào lòng người là thượng sách, đánh vào thành người là hạ sách. Dùng tâm chiến là thượng sách, dùng binh chiến là hạ sách. Câu « Ta hồ! Binh đao chi sự hung khí dã. Thánh nhân bất đắc dĩ dụng chi » nghĩa là: Than ôi! Binh đao là đồ ác độc. Phàm thánh nhân, thì bất đắc dĩ mới phải dùng đến.

        Các ứng sinh thi nhau cầm bút viết.
        Trong khi các ứng sinh viết, thì có tiếng hô:
        - Trấn-quốc đại tướng quân thống lĩnh Ngự-lâm quân Sử-vạn Na-vượng. Hoài-hóa đại tướng quân tổng lĩnh Thị-vệ Khiếu Tam Bản xin triều kiến.
        Sử-vạn, Khiếu tuy lĩnh chức tước của triều đình, nhưng chúng chỉ trực tiếp với Lưu Thái-hậu thi hành mật lệnh khống chế quần thần. Cho nên ngay Hoàng-đế cũng không biết mặt chúng. Mãi gần đây, Lưu hậu nhân Định-vương vắng mặt, ban mật chỉ cho đại thần làm biểu tâu lên bà về công trạng hai người. Bà truyền phong chức tước cho chúng, để thay thế vào chỗ của Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ. Từ hôm sắc chỉ ban ra, hai người lĩnh mật lệnh Lưu hậu thi hành sứ mạng, nên đến giờ chưa ai biết mặt chúng.
        Thái-hậu truyền:
        - Cho vào.
        Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản bước vào phủ phục rập đầu xưng tên họ chức tước. Thái hậu hỏi:
        - Hai vị đại tướng quân. Ta giao cho hai vị đi đón sứ đoàn Giao-chỉ. Thế sứ đoàn đâu?
        Khiếu Tam Bản tâu:
        - Hai anh em thần tới Giang-Bắc thì gặp sứ đoàn, rồi hộ tống về kinh. Dọc đường không hiểu sao có lệnh của quan Tư-mã Kinh-châu truy tầm anh em hạ thần về tội trộm. Vì không mang thẻ bài, chiếu chỉ theo, nên thần đành lui trước thiết kị.
        Khiếu Tam Bản tiếp:
        - Anh em thần có cảm tưởng như một thế lực nào đó, trong bóng tối mưu hại anh em hạ thần.
        Nói rồi y thuật lại chi tiết những gì xẩy ra trên đường đi, đụng chạm với Diêu Vạn. Cả triều thần cùng nhìn nhau tự hỏi:
        - Vậy ai là người bầy mưu hãm hại y? Điều vô lý là võ công y rất cao thâm, sao có thể để bị một thiếu niên đả bại?
        Vương Đức-Dụng hỏi:
        - Nhị vị đại tướng quân. Kinh-lược-sứ Kinh-châu thượng biểu rằng nhị vị nhập dinh người trộm cống bảo. Quan quân đều thấy mặt. Nhị vị giao chiến với tư-mã Trần Trung-Đạo. Kiếm nhị vị bị gẫy, cán kiếm để tại phạm trường. Hiện Trần Trung-Đạo lĩnh điện tiền chỉ huy sứ có mặt tại đây. Lại nữa Khai-Quốc vương tố đích danh hai vị là Đông-phương và Nam-phương sứ giả của Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Xin các vị đối chất với nhau đi.
        Sử-vạn Na-vượng kêu lên:
        - Oan uổng! Oan uổng, thần chưa từng biết dinh Kinh-lược sứ, cũng chẳng hề giao chiến với ai tên Trần Trung-Đạo. Vậy Trần Trung-Đạo là vị nào?
        Quần thần thấy y lờ vụ bị tố là người Hồng-thiết giáo, tức y mặc nhiên công nhận rồi.
        Trần Trung-Đạo từ võ ban bước ra, tay chỉ vào mặt Sử-vạn, Khiếu:
        - Tâu, đêm đó thần cùng chư tướng nghe tiếng báo động bên dinh Kinh-lược, vội chạy sang. Thần có giao chiến với hai người, tướng mạo tương tự như hai vị này. Sau khi giao chiến mấy chiêu, kiếm của hai người đó bị gẫy. Chúng quẳng kiếm lại, tháo chạy. Hiện tang vật thần có mang theo.
        Y vẫy tay. Một thị vệ bưng tới gói vải để giữa điện. Trung-Đạo mở ra, trong có hai cán kiếm cùng mảnh kiếm gẫy. Sử-Vạn trông thấy vội chạy lại cầm kiếm lên xem. Bất giác mặt y tái xanh, vì đúng là kiếm của y với Khiếu. Hai thanh kiếm này chúng để ở Biện-kinh, chứ nào có mang theo. Chứng cớ sờ sờ như thế này còn chối vào đâu?
        Vương Đức-Dụng tiếp:
        - Khai-Quốc vương nói rằng nhị vị dùng thuốc Di-hồn ngũ-hoa phấn đầu độc sứ đoàn, rồi lại còn nói đó là chỉ dụ của Thái-hậu. Sau đó dùng Chu-sa ngũ độc chưởng đánh Trần Bảo-Dân. Hiện sứ đoàn Đại-Việt cũng như Trần Bảo-Dân có mặt ở đây. Hai vị hãy đối chất với sứ đoàn đi.
        Khiếu Tam Bản nghĩ rất nhanh:
        - Khi Thái-hậu ban chỉ dụ cho bọn ta, có dặn rằng không được cho người khác biết. Nhưng nay không biết ma quỷ nào hai ta, không chừng là Định-vương. Chứng cớ sờ sờ, ta không chối nổi. Muốn thoát chết chỉ có cách đổ cho Thái-hậu, rồi sau đó cao chạy xa bay. Với võ công của ta, dễ gì ai làm địch nổi?
        Nghĩ vậy Khiếu tâu:
        - Muôn tâu, Thái-hậu không ban chỉ trực tiếp cho thần đánh thuốc độc sứ đoàn. Người dạy rằng phải bắt sứ đoàn lai kinh. Vì võ công nhân vật trong sứ đoàn rất cao thâm, nên thần phải đánh thuốc, mới bắt nổi.
        Chợt nhìn thấy Lê Văn đứng sau nhà vua, Khiếu kinh hãi nghĩ:
        - Rõ ràng tên này phi ngựa trêu chọc bọn mình. Y là đồ đảng của tên Đặng Tông. Tại sao y lại đứng sau nhà vua? Thôi rồi, người hại ta là nhà vua chứ không phải Định-vương.
        Bất giác đưa mắt nhìn nhà vua, Khiếu nhận ra nhà vua là thiếu niên đi cùng Tôn Đản vào tửu lầu hôm trước, khiến y càng tin tưởng thêm rằng nhà vua sai bọn này hại mình. Y chú ý thấy trong đám sĩ tử ứng tuyển phò mã có Tôn Đản, máu giận sôi lên, y nghĩ thầm:
        - Hoàng-đế hại mình, nhưng mình không có chứng cớ. Bây giờ chỉ cần bắt tên này, dùng Chu-sa ngũ độc chưởng tra khảo, hy vọng y khai sự thực. Như vậy ta đổ cho Hoàng-đế mưu hại Thái-hậu. Tất Thái-hậu sẽ truất phế Hoàng-đế, lập một vua bù nhìn khác lên thay.
        Thấy cử chỉ, con mắt của Sử-vạn, Khiếu. Khai-Quốc vương đoán ra y muốn làm gì rồi. Vương dùng lăng không truyền ngữ nói với Tôn Đản:
        - Cẩn thận! Bọn Khiếu muốn bắt sống em đấy. Đừng chống lại, để cho Hoàng-đế sai các tướng bắt y. Như vậy sẽ có trận đấu của những người trong triều đình. Ta ở giữa làm ngư ông hưởng lợi.
        Tiếng Vương vừa dứt, Khiếu Tam Bản lạng người đến chộp Tôn Đản. Tôn Đản thản nhiên cười hô hố. Khiếu tức qúa quát:
        - Con bà mi! Mi mới đích là thủ phạm hại ta. Mi có chạy đằng trời. Bây giờ mi phải nói thực, ai xui mi hại lão gia. Bằng không lão gia phải bóp chết mi ngay lập tức.
        Tôn Đản thản nhiên:
        - Tôi là ứng sinh phò mã, nhưng gốc thuộc sứ đoàn Đại-Việt. Đây là Sùng-chính điện, tôi không thể và không nên dùng võ. Bằng không đại tướng quân đâu có thể bắt được tôi?
        Hôm trước, nhà vua thấy Tôn Đản đấu hai chưởng với Sử-vạn ngang tay. Mà bây giờ y đành để cho Khiếu Tam Bản bắt. Ông tin ngay rằng Đản không dám dụng võ trong Sùng-chính điện. Nhà vua quát:
        - Khiếu Tam Bản! Bỏ ngay Tôn Đản xuống.
        Khiếu Tam Bản còn ngần ngừ, thì từ phía võ ban, một người nhảy ra chụp lưng y. Y vội trầm người xuống tránh, rồi vòng tay ra sau gạt. Hai tay chạm nhau đến bộp một tiếng. Cả hai người đều bật lui.
        Mọi người nhìn lại, thì ra quan Chuyển-vận sứ Vương Duy-Chính thuộc Quảng-Tây. Duy-Chính phóng chưởng đánh thẳng vào mặt Khiếu. Khiếu thấy chưởng lực hùng hậu, vội tung Tôn Đản lên cao, rồi vung chưởng đỡ. Bình một tiếng cả hai đều lảo đảo lui lại.
        Còn Tôn Đản, nó cảm thấy trong người bứt rứt, biết bị Khiếu nhả độc chưởng vào vai. Nó lạng người qua chỗ Thiệu-Thái. Thiệu-Thái vỗ vai nó một cái. Bao nhiêu bứt rứt hết. Nó trở lại chỗ cũ, tiếp tục viết...bài.
        Duy-Chính, Khiếu đấu đến chiêu thứ mười, vẫn ngang tay. Bỗng hai chưởng chạm nhau đến binh một tiếng. Sử-vạn bật lui liền ba bước. Y cười lớn:
        - Mi bị trúng Chu-sa chưởng của ta rồi.
        Chính nhảy lui lại ôm tay nhăn nhó, miệng mắng:
        - Đồ hèn hạ. Mi dùng Chu-sa ngũ độc chưởng hại ta.
        Thị vệ đã xuất hiện bao vây kín xung quanh Sùng-chính điện. Trần Trung-Đạo hô:
        - Khiếu, Sử-vạn. Hai vị xử dụng Chu-sa ngũ độc chưởng, như vậy lời tố cáo của Khai-Quốc vương rằng hai vị là Đông, Nam sứ Hồng-thiết giáo Đại-Việt là đúng rồi. Hai vị chịu trói đi. Bằng không tôi hô lên một tiếng, hai vị sẽ bị bằm nát ra như chả ngay.
        Một liều ba bẩy cũng liều. Khiếu Tam Bản nghĩ thầm:
        - Sự đã ra thế này, chỉ có cách khống chế Hoàng-đế, mới mong sống sót ngày hôm nay.
        Y đưa mắt cho Sử-vạn, cả hai cùng nhảy bổ về phía Hoàng-đế. Dư Tĩnh đứng sát ngai vàng. Y vung tay phát chưởng đánh vào người Sử-vạn. Phía bên kia Địch Thanh phát chưởng cản Khiếu Tam Bản. Bình, bình hai tiếng. Khiếu, Sử lảo đảo lui lại. Trong khi Dư Tĩnh, Địch Thanh đều cảm thấy cánh tay ê ẩm.
        Nhà vua kinh hãi truyền lệnh:
        - Dư an phủ sứ. Người bắt ngay tên Sử-vạn cho trẫm. Trẫm sẽ tha tội đánh thuốc mê sứ đoàn Đại-Việt ở Khúc-giang cho người.
        Dư Tĩnh vung tay tấn công Sử-vạn. Trong khi phía bên này Địch Thanh đang khai diễn trận đấu với Khiếu Tam Bản. Chưởng phong tràn ngập điện. Bọn văn quan vội lui lại, để tránh áp lực chưởng. Thị vệ vây kín vòng trong vòng ngoài.
        Trong khi đó, sứ đoàn Đại-Việt đều được lệnh dụ của Khai-Quốc vương tuyệt đối không được can thiệp. Chỉ can thiệp khi có lời yêu cầu của Hoàng-đế.
        Nhìn trận đấu nhà vua hỏi Tự-Mai:
        - Nhị đệ. Nhị đệ liệu Dư, Địch có thắng được hai lão Sử-vạn, Khiếu không?
        Tự-Mai lắc đầu:
        - Bàn về công lực, thì Dư dư sức thằng Sử-vạn. Địch hơi thấp hơn Khiếu một chút. Nhưng trong hai trăm chiêu trở đi, Khiếu sẽ bị bại, vì Khiếu già rồi, trong khi đó Địch còn trẻ. Cuộc đấu này khó nói trước, vì Sử, Khiếu xử dụng Chu-sa ngũ độc chưởng. Lỡ ra Dư, Địch chạm vào chưởng Sử, Khiếu, ắt nguy ngay.
        Đấu được trên trăm chiêu, các võ quan đều kinh hãi nghĩ thầm:
        - Bản lĩnh Dư Tĩnh, Địch Thanh là thế, mà không đàn áp được Khiếu với Sử-vạn. Hèn gì Thái-hậu chẳng xử dụng y vào chức vụ thống lĩnh thị vệ.
        Bàn cho thực, công lực Dư Tĩnh ngang với Sử-vạn. Nhưng vì y úy kị Chu-sa độc chưởng, nên không dám đỡ vào chưởng của y. Vì vậy cuộc chiến kéo dài. Sử-vạn cũng biết thế. Y tìm trăm phương ngàn kế để hai chưởng chạm vào nhau. Y phát liền ba chiêu đánh thẳng vào mặt Dư. Dư vung chưởng đỡ. Bình, bình, bình. Sử-vạn bật lui liền ba bước, lưng y chạm vào tường. Dư Tĩnh mừng thầm phát chưởng như trời long đất lở, mong kết liễu tính mệnh Sử. Sử-vạn Na-vượng chỉ chờ có thế. Y vận độc công, đẩy cả hai tay ra đỡ. Bộp một tiếng, mùi hôi tanh bay khắp điện.
        Dư Tĩnh biết nguy, đưa tay lên nhìn, thấy cả bàn tay tím bầm. Nhờ lúc Dư kinh hoảng, Sử-vạn nhảy ra giữa sân điện, miệng cười ha hả:
        - Dư Chuyển-vận sứ, người trúng độc chưởng rồi, mau ngồi xuống vận công, may ra sống được. Còn như cố xử dụng võ công càng mau chết.
        Nhà vua hỏi đám ứng sinh:
        - Ai bắt được tên Sử-vạn, thì muốn giai nhân nào trẫm sẽ gả cho.
        Một ứng sinh dạ tiếng lớn. Y nhảy vọt ra phóng chưởng đánh Sử-vạn. Chưởng của y hùng hậu vô cùng. Mọi người cùng kinh ngạc:
        - Người này còn trẻ, mà sao công lực đã đến mức thượng thừa?
        Đó là một thiếu niên tuổi khoảng hai mươi, nước da trắng, mặt đẹp như ngọc. Nhà vua nhìn Tự-Mai, Lê Văn rồi cười phán nho nhỏ:
        - Hai hiền đệ có thấy thiếu niên này không? Y đẹp trai đâu thua gì hai hiền đệ.
        Tự-Mai tâu nhỏ:
        - Y đẹp hơn đệ với Văn nhiều. Nhưng kém đại ca xa.
        Nhà vua bật cười. Tự-Mai nói câu đó là nói thực. Cứ như trong Tống sử chép, Tống Nhân-tông là một Hoàng-đế đẹp trai hiếm có.
        Lễ-bộ thượng thư tâu sẽ với nhà vua:
        - Y tên Trương Ngọc thuộc phái Không-động.
        Trương Ngọc đánh liền ba chưởng vào Sử-vạn. Sử-vạn lùi lại đỡ. Bình, bình, bình. Cả hai lảo đảo lui lại. Tự-Mai đưa mắt cho Lê Văn:
        - Võ công Trương Ngọc thực chẳng kém bọn trưởng lão Lạc-long giáo. Không biết y có khống chế nổi Sử-vạn không?
        Về phía Khiếu Tam Bản, càng đấu công lực y càng giảm. Nhưng y lợi dụng Địch Thanh úy kị độc chưởng, nên thẳng tay tấn công. Địch Thanh cứ phải lui hoài. Khiếu thấy thế lại tiến về phía Hoàng-đế. Y nghĩ thầm:
        - Cơ chừng này, mình sẽ bị bại mất thôi. Chi bằng mình dương Đông kích Tây, giả tấn công Hoàng-đế, khiến Địch phải đỡ. Mình sẽ đẩy độc chất vào người y.
        Nghĩ vậy y nhảy bổ về phía nhà vua, tay phát một chưởng như sét nổ. Quả nhiên Địch Thanh vội lạng mình đỡ cho nhà vua. Bình một tiếng. Cả hai đều bật lui. Bấy giờ Địch Thanh mới biết mình trúng kế Khiếu Tam Bản. Y từng bị trúng Chu-sa độc, nên biết lợi hại của nó. Y nhảy lùi lại góc điện ngồi vận công.
        Khiếu Tam Bản thừa dịp nhào tới định chụp nhà vua, thì một thiếu niên khác nhảy ra cản lại. Bình, bình, bình. Hai người đấu với nhau liền ba chiêu.
        Lễ bộ thượng thư tâu:
        - Tâu bệ hạ, thiếu niên này tên Tôn Tiết thuộc phái Côn-luân.
        Xem trận đấu, Tự-Mai, Lê Văn đưa mắt nhìn nhau như cùng nói:
        - Mình những tưởng thuộc giòng dõi danh gia, lại gặp nhiều kỳ duyên, so với thiếu niên ngang tuổi, khó ai sánh kịp. Không ngờ bây giờ thấy bản lĩnh Trương Ngọc, Tôn Tiết, mình mới biết quả thực ngoài bầu trời này còn bầu trời khác.

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 08:37:42 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 20.01.2005 18:02:36 (permalink)
          Thiếu đoạn đầu của hồi 115. Xin cáo lỗi cùng độc giã.



          Đến đây mọi người cùng đưa mắt nhìn Hoa-Sơn tam lão.
          - Rồi cơ duyên đưa đến, Hồng-Minh được chưởng môn phái Hoa-sơn thu làm đệ tử. Vốn thông minh, lại có căn bản võ công từ trước, nên Hồng-Minh mau chóng theo kịp các sư huynh sư tỷ, liệt vào đồng hàng với Hoa-sơn Thập-nhị thái bảo, thành Thập-tam thái bảo.
          Hồi Thái-tổ, Thái-tông nhà Tống còn hàn vi, được đạo sĩ Trần Đoàn giúp đỡ, sau khi thành đại nghiệp, hai vị hoàng đế này cùng triều đình hậu đãi phái Hoa-sơn cực kỳ. Cho nên khắp bá quan văn võ đều nghe biết Hoa-sơn Thập-nhị thái bảo gồm Hoa-sơn ngũ lão, thất hùng. Ngũ lão họ chỉ biết gồm Đông, Tây, Nam, Bắc. Còn thất hùng gồm Chu Chiếu-Anh, Vương Lệ-Ngọc, Giáp Kim-Quy, Trí Thành, Du Minh, Ngô Nam, Vạn Quang. Giang hồ võ lâm tuyệt không biết người đứng đầu Hoa-sơn ngũ lão tức Trung-ương lão nhân với người thứ mười ba trong Thập-tam thái bảo hành tung, danh tính ra sao. Bây giờ họ mới biết một người là Lưu thái hậu.
          - Thấy Hồng-Minh xinh đẹp, võ công cao, Nhật-Hồ, Lê Lục-Vũ cùng có ý định đưa vào làm cung nữ, để biết rõ tình hình Tống triều. Từ đó giáo chủ định thống nhất vùng đất tộc Hoa, tộc Việt thành một nước dưới quyền giáo chủ Hồng-thiết Tây-vực Xích-Trà-Luyện. Người bầy ra kế cho để con gái vào làm tỳ nữ cho Sở-vương. Thất bại. Lão nhân gia bàn cách dâng cho Chiêu-Thành thái tử. Nhưng cũng không thành nốt. Cuối cùng thành công với hoàng tử Nguyên-Hằng.
          Nguyên-Hằng là tên vua Chân-tông. Nên khi triều đình nghe Sử-vạn nói đến tên tục tiên đế, họ đều quát mắng. Nhưng Sử-vạn bỏ sống chết ra ngoài, y tiếp tục:
          - Vì muốn cho Nguyên-Hằng lên ngôi vua, nên Nhật-Hồ lão nhân gia sai ta ám hại Sở-vương với Chiêu-Thành. Rồi từ đó tìm cách đưa Hồng-Minh lên làm Hoàng-hậu, rồi Thái-hậu. Ta... nói cho bọn Tống chúng bay biết gã Hoàng-đế kia là con của Lý thần phi, chứ không phải con của Hồng-Minh. Tất cả triều thần đều biết thế, nhưng họ hèn nhát, sợ oai Lưu hậu, mà không dám nói ra. Ngược lại hoàng-tộc cùng gã Hoàng-đế như người mù.
          Nói rồi y tường thuật tất cả chi tiết vụ Lưu hậu giả có thai, sau bắt con của Lý phi nuôi làm con mình để có thể danh chính ngôn thuận thính chính, dần dần cho phe đảng Hồng-thiết nắm quyền. Chính vì vậy Lê Lục-Vũ, Tôn Đức-Khắc, Khiếu Tam Bản với y mới được phong chức tước lớn.
          Có tiếng Lý thái-hậu cười trong màn:
          - Sử-vạn Na-vượng, người lầm rồi. Tất cả việc làm của Lưu hậu đều bị Khai-Quốc vương, Định-vương biết hết. Hoàng-thượng cũng biết rõ. Nhưng chúng ta chưa muốn xuống tay, vì một là không muốn hại Lưu hậu. Dù sao Lưu hậu cũng là người tiên đế sủng ái. Nay thì hoàng thượng trưởng thành, mọi việc sáng tỏ. Người có thấy tất cả phe đảng của Lưu hậu bị bắt hết rồi không? Chức tước của Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn, Khiếu Tam Bản, cùng mười trưởng lão bang Nhật-Hồ với người đều bị tước cả? Từ lúc lâm triều, ta ngồi đây ban lệnh, mà các người ngu quá, tưởng là Lưu hậu.
          Sáng nay, lúc khai triều, bách quan nghe tiếng nói của Lưu hậu hơi khác, nhưng không thấy nhà vua nói gì, nên im lặng. Rồi Lưu hậu hành xử trái ngược hẳn với thường nhật, họ tuyệt không hiểu tại sao. Bây giờ Lý thái-hậu lên tiếng, họ mới vỡ lẽ rằng có một cuộc chính biến lớn lao do Định-vương, Khai-Quốc vương cùng nhà vua làm, mà họ tuyệt không biết.
          Lý thái-hậu tiếp:
          - Trong khi bách quan cùng các người chầu ở đây, thì dinh thự phe đảng Lưu hậu, cùng gia quyến đã bị bắt hết. Của cải bị xung công.
          Có tiếng phụ nữ the thé vọng lại:
          - Chưa chắc mi đã thắng. Ta chưa chết mà!
          Tiếp theo rầm, rầm, rầm ba tiếng. Mái điện thủng một lỗ. Có bốn người bịt mặt cùng nhảy xuống. Một người đàn ông áo đen chụp nhà vua. Một người đàn bà giật màn che chỗ Thái-hậu ngồi. Trong màn không thấy Lưu thái-hậu, mà chỉ có Lý thái-hậu.
          Mọi người nhìn lại: Người giật màn đó chính là Lưu thái-hậu. Lưu hậu tấn công Lý thái-hậu liền ba chưởng. Một người áo trắng chụp Thuận-Tường. Còn một người đàn bà buông tay đứng lược trận. Bắc-Sơn đạo nhân xỉa tay phát một ưng trảo đánh người áo trắng cứu Thuận-Tường.
          Tào Lợi-Dụng lách mình đứng chắn trước nhà vua, đánh ra chiêu Liêu-Đông chưởng cứu chúa. Bình một tiếng. Cả người áo đen với y đều bật lui. Lợi-Dụng lùi liền bốn bước, khí huyết trong người đảo lộn cực kỳ khó chịu. Còn người kia cảm thấy cánh tay tê rần, y lùi hai bước. Hai bên gườm gườm nhìn nhau.
          Sứ đoàn Đại-Việt đều kinh hãi vô cùng. Vì võ công Lợi-Dụng cao hơn đám trưởng lão Lạc-long giáo nhiều, e ngang Thiên-trường ngũ kiệt . Người kia là ai, mà võ công đến như thế. Người áo đen đánh một chiêu, không kết quả, cười nhạt:
          - Tả-bộc-xạ, người chẳng là Tể-tướng được Lưu thái-hậu tin dùng bấy lâu ư? Địa vị người do đâu mà có? Mà nay Thái-hậu bị người ta mưu hại, người lại chống Thái-hậu? Liệu khi gã vua con nít kia cầm quyền, thì người có thoát khỏi ách tru di tam tộc không?
          Miệng tuy nói, mà người áo đen vẫn phát chiêu. Mỗi chiêu đánh ra mạnh muốn nghiêng trời lệch đất. Giọng y khàn khàn, thành ra Lợi-Dụng không biết y là ai. Tuy nhìn lưng y rất quen thuộc. Nghe người ấy nói, Lợi-Dụng kinh hãi tự nghĩ:
          - Ừ nhỉ, gã hoàng-đế con nít với Định-vương tổ chức cuộc binh biến âm thầm mà ta không hay. Chúng khéo loại Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản cùng mười trưởng lão bang Nhật-hồ khỏi chức vụ, cho nhà vua nắm quyền. Bây giờ ta phải theo phe nào? Theo Lưu hậu ư? Bà cùng bốn ma đầu Hồng-thiết giáo lộ hình tích, e tướng sĩ không phục. Ta có giúp bà cũng vô ích. Còn như ta giúp nhà vua, thì sau này, với tội trạng quá lớn, làm sao ta thoát khỏi họa sát thân?
          Nghĩ vậy, y phát chiêu cầm chừng.
          Định-vương biết rõ tâm trạng Tào. Ông nói lớn:
          - Tào quốc công. Nếu như người bắt được thích khách, thì tội trạng cũ sẽ được khoan hồng.
          Nghe Định-vương nói, Tào thêm phấn khởi, y phát liền ba chiêu như trời long đất lở. Mỗi chiêu chạm vào chưởng của thích khách, bật lên tiếng bùng lớn. Hai người lảo đảo lui lại.
          Trong khi đó bên cạnh, Bắc-Sơn lão nhân đang đấu với người áo trắng. Còn Lý thái-phi đấu với Lưu thái-hậu.
          Trong điện náo loạn cả lên.
          Tây-Sơn, Nam-Sơn lão nhân đến đứng sau nhà vua để đề phòng. Minh-Thiên cùng Đông-Sơn lão nhân đứng cạnh Định-vương.
          Nhìn trận đấu, Đông-Sơn lão nhân hỏi Khai-Quốc vương:
          - Vương gia! Người đấu với Tào quốc công phải chăng thuộc phái Mê-linh ? Còn người đấu với Bắc-Sơn lão nhân phải chăng y dùng võ công Khúc-giang. Còn Lưu hậu dùng võ công hỗn hợp Hồng-thiết, Hoa-sơn, với Tản-viên. Vậy bọn họ là người Việt chăng?
          Khai-Quốc vương mỉm cười:
          - Đạo sư thực tinh mắt. Quả đúng họ là người Việt, lại có lý lịch rất lớn. Đạo sư cứ chờ đi, họ sẽ lộ chân tướng ra bây giờ.
          Nhà vua nhìn Lưu hậu đấu với Lý hậu, trong lòng phân vân cực điểm. Những kỷ niệm về thời thơ ấu được Lưu hậu trông coi, dạy dỗ cực kỳ chu đáo sống dậy. Nhà vua nghĩ thầm:
          - Phụ hoàng ta có sáu con, ta nhỏ hơn hết. Nếu không được Lưu hậu bắt làm con, đời nào ta được lên ngôi? Lưu hậu giết hại các thân vương, đại thần, tội ác thực không nhỏ. Nhưng đối vơi ta, bà một lòng từ ái. Nếu bà tàn ác, thì đã hại mẫu hậu ta để phi tang rồi, đâu có còn sống đến nay? Phụ hoàng ta băng khi ta còn thơ, bà cầm quyền bấy lâu nay, làm cho nước giầu, dân mạnh, so với hồi phụ hoàng tại thế cũng không bằng. Bây giờ việc vỡ lở, ta phải làm sao cho vẹn toàn?
          Định-vương thấy nhà vua trầm ngâm, thì hiểu tâm sự cháu. Ông bảo Trần Phụ-Quốc:
          - Vương Tổng-lĩnh thị vệ, mau bắt Lưu hậu.
          Phụ-Quốc dạ một tiếng, rồi hướng Lý hậu hô lớn:
          - Xin Thái-hậu lui lại, để thần bắt thích khách.
          Miệng nói chàng phát chiêu Phong-ba hợp bích đánh vào hông Lưu hậu. Lưu hậu cười lên the thé:
          - Lý thị tỳ. Mi hèn hạ, định dùng số đông thắng ta ư?
          Lý hậu lên tiếng:
          - Vương đô đốc mau lùi lại. Ta với thị có thù sâu tựa biển, để chúng ta giải quyết với nhau.
          Phụ-Quốc vội thu chưởng, đứng sang bên cạnh.

          <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2005 08:38:38 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9