Anh linh thần võ tộc Việt (từ hồi 21)
CDDLT 21.01.2005 17:42:24 (permalink)
Hồi thứ một trăm hai mươi mốt


Tru diệt ma vương quỷ dữ




Thuận-Thiên hoàng-đế chỉ nói được mấy câu rồi thiếp đi. Bên ngoài, tiếng quân reo, tiếng trống thúc vọng vào. Một thị vệ báo:
- Thưa vương gia, quân của các vương cùng tấn công vào thành. Quân thủ ít quá, e giữ không nổi.
Khai-Quốc vương cầm bút viết lệnh, rồi đưa cho Thiệu-Thái sai chim ưng mang đi. Bấy giờ vương mới chú ý nhìn phụ-hoàng đang thiêm thiếp giấc nồng. Vương hỏi Hoàng-Giang cư sĩ:
- Cư-sĩ điều trị cho phụ-hoàng, có thấy triệu chứng gì lạ không?
- Khải vương gia thần thấy có rất nhiều biến chứng, mà cho đến hôm nay, thần giải đoán không nổi. Giá có sư phụ tại đây thì người có thể tìm ra.
- Xin cư-sĩ giải rõ hơn.
- Khi thần được triệu hồi đến hầu mạch, thì thấy hồng đại mà hoãn, đúng như mạch của những người trong võ-lâm. Nhưng khi hoàng-thượng về tẩm thất thì chân tay người cảm thấy như tê dại, đầu nhức, mạch trở thành xác, hồng đại giống như bị cảm nhiễm. Hễ thần hiện diện thì mạch trở thành hồng đại mà hoãn. Phép trị bệnh có lý, pháp, phương. Vì không có lý nên thần không thể quyết đoán về pháp, phương. Thấy sự khác lạ, ngờ rằng mình thiếu minh mẫn, thần nhờ đại sư huynh Dương Bình chẩn mạch, người cũng thấy như thế.
Hoàng-Giang thở dài:
- Tình trạng kéo dài cho đến khi Hoàng-thượng bị trúng phong huyền dựng. Thần được triệu hồi vào tẩm thất, mới tìm ra nguyên do. Thì ra Hoàng-thượng bị người ta đánh thuốc độc bằng một thứ thuốc không hương, không sắc. Nên chi ngự y nếm thức ăn tìm không ra. Nhưng khi Người về tẩm cung, ngửi mùi hoa huệ, thì chính hương huệ với chất độc kia làm cho tim đập mau, người trở thành thực nhiệt. Hiện thần đã dùng châm cứu trị di chứng của trúng phong huyền dựng là bán thân bất toại.
Khai-Quốc vương bảo Thiệu-Thái:
- Như vậy rõ ràng phụ hoàng bị Hồng-thiết giáo đánh thuốc độc. Hoàng-Giang cư sĩ đã tìm ra đúng như lời cung khai của trưởng lão Ngô Bách-Vân. Tiếc rằng trước đó Hoàng-Giang cư sĩ không được vào tẩm thất, nên tìm không ra nguyên ủy. Người chỉ được vào tẩm thất khi phụ hoàng bị trúng phong bán thân bất toại. Bây giờ cháu thử hút chất độc trên người ông ngoại xem sao?
Hồi đại hội Lộc-hà, khắp võ lâm cho tới trong triều ai cũng biết mặt Thiệu-Thái: Ụt ịt như con lợn, mặt tròn, tướng đi kềnh càng, da xám ngắt, gồ ghề như da cam. Bây giờ sau thời gian luyện khô thiền, người chàng đã đổi khác hoàn toàn. Nên khi chàng theo Khai-Quốc vương vào, trên từ các hoàng hậu cho tới Khai-Thiên vương đều tưởng chàng là một thiếu niên nào theo hầu vương. Bây giờ nghe vương kêu tên, chàng ứng lời ra bắt mạch cho ông ngoại, thì không ai hiểu gì cả.
Vì bệnh tình Thuận-Thiên hoàng-đế trầm trọng, nên các quận chúa Kim-Thành, Trường-Ninh, Hồng-Phúc đều được đưa vào tẩm cung hầu ông nội, thay cho đám cung nữ. Từ lúc thấy Khai-Quốc vương, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái bước vào, ba quận chúa chưa có dịp ra chào. Hồng-Phúc vốn ghanh ghét với Mỹ-Linh, từ sau khi Mỹ-Linh cứu nàng trong vụ bị Hoàng Văn bắt sống, nàng vẫn không bỏ được thói cũ. Khi vắng mặt Mỹ-Linh, nàng thường nói cạnh, nói khóe:
- Tưởng võ công vô địch thiên hạ là hay lắm ư? Lấy chồng võ công cao, mà người không hơn con lợn thì thà ở giá còn sướng hơn.
Bây giờ tự nhiên thấy Khai-Quốc vương gọi Thiệu-Thái, mà một thiếu niên phong lưu, tiêu sái khác phàm, mặt tươi sáng, thân thể thanh thoát, trông như cây ngọc trước gió... thì Hồng-Phúc kinh hãi mở to mắt ra nhìn: Quả nhiên con người tuấn nhã kia hơi giống Thiệu-Thái thực.
Thiệu-Thái dùng nội công thăm bệnh Thuận-Thiên hoàng-đế, chàng dồn chân khí vào người ngài, không khó nhọc, chàng thấy rõ trong cơ thể ông ngoại đầy chất độc, hơn nữa một phần trên não bị bế tắc. Chàng hỏi Hoàng-Giang cư sĩ:
- Sư huynh, bây giờ phải trị như thế nào?
- Thế-tử được Bồ-tát sùng phạm truyền cho một trăm năm Thiền-công. Như vậy Thiền-công của thế tử với Hoàng-thượng đều là Thiền-công Tiêu-sơn. Trước hết thế-tử hút chất độc trong người Hoàng-thượng, sau đó thế-tử mới đả thông những bế tắc trong kinh mạch người.
Thiệu-Thái quỳ gối, để hai bàn tay mình áp vào hai bàn tay ông ngoại, rồi vận Hồng-thiết tâm pháp hút chất độc. Chỉ khoảng nhai dập miếng trầu, thì Thuận-Thiên hoàng-đế mở mắt ra, nhưng ngài vẫn không nói được.
Thiệu-Thái lại để tay vào huyệt Thái-uyên của ngài, vận Thiền-công mà đại sư Huệ-Sinh dạy chàng, rồi dồn chân khí sang. Chân khí chàng chạy vào Thủ Thái-âm phế kinh, rồi sang Thủ Dương-minh đại trường kinh, sau sang Túc Dương-minh vị kinh... đi qua một vòng Đại-chu thiên.
Phải hơn khắc, Thuận-Thiên hoàng-đế mới mở mắt ra, ngài từ từ ngồi dậy. Tất cả mọi người đều hiện ra nét hân hoan. Ngài nắm tay Khai-Quốc vương:
- Hoàng nhi hay lắm. Người về đúng lúc. Đáng lẽ ta đi rồi, nhưng ta cố dùng Thiền-công trì hoãn để chờ người về còn dặn dò truyện về sau.
Mỹ-Linh chợt nhớ lại: Hôm rời Biện-kinh, Lưu thái hậu có tặng cho
nàng một hộp mười viên Tuyết-sâm thiên niên hà thủ ô. Bà nói: Trong mỗi viên thì năm phần Tuyết-sâm của sứ Cao-ly, còn năm phần là Thiên-niên hà thủ ô của núi Trường-bạch. Hai thứ hợp lại là thuốc cứu tử cho những người bị nội thương thập tử nhất sinh. Nàng vội móc hộp thuốc trong bọc ra dâng cho ông nội.
Hoàng-Giang cư sĩ bóp vỡ một viên ra, rồi nếm thử. Ông gật đầu:
- Thuốc tốt lắm.
Mỹ-Linh cầm một viên thuốc bỏ vào miệng hoàng đế. Ngài vận công rồi nuốt đi. Khoảng nhai dập miếng trầu, người ngài trở thành hồng hào, tinh thần tỉnh táo. Ngài truyền lệnh cho Khai-Quốc vương:
- Ta tỉnh dậy, thêm con hiện diện, thì cuộc nổi loạn của các vương không đáng lo nữa. Con ra gọi tất cả các vương vào triều kiến ta.
- Tâu phụ hoàng, thần nhi đã cho chim ưng chuyển thư mời, nhưng không vương nào chịu tới cả.
- Vậy hoàng-nhi hãy kiên nhẫn lên mặt thành khuyến dụ họ một lần chót xem sao. Dùng binh lực chỉ là bất đắc dĩ.
Khai-Quốc vương vẫy Kim-Thành, Trường-Ninh, Hồng-Phúc theo, rồi bước ra ngoài. Sư phụ Huệ-Sinh và Nùng-Sơn tử đang đứng chờ. Dương Bình đến trước vương:
- Khải vương gia, Đông-Chinh vương dùng đạo Quảng-Vũ đánh phá cửa Quảng-phúc. Quân lọt được vào trong thành. Văn đệ cho đạo tả Ngự-long lui lại vì không muốn nồi da xáo thịt. Đông-Chinh vương đang tiến đến chiếm điện Giảng-võ, Tập-hiền, Cao-minh. Xin vương gia định liệu.
Khai-Quốc vương bảo Mỹ-Linh:
- Con ở lại hộ giá Hoàng-thượng với phụ vương.
Vương vẫy tay gọi Thông-Mai, Thiệu-Thái, Bảo-Hòa cùng ba quận chúa Kim-Thành, Trường-Ninh, Hồng-Phúc cùng đi theo, lên ngựa ra cửa Nam. Vương dặn Thiệu-Thái:
- Vì cơ thể cháu đã thay đổi, ít người nhận ra cháu. Vậy cháu coi như mình không phải Thiệu-Thái, để gây bất ngờ cho địch. Cháu nhớ nhé, khi gặp bọn trưởng lão Hồng-thiết, cứ thẳng tay dùng độc chưởng đập chết không tha.
Gần tới cửa Nam, xa xa thấy đạo quân Ngự-long do Lê Văn đứng đầu. Còn đạo Bổng-nhật do Phạm Trạch đứng đầu. Cạnh y còn một đội giáo chúng Hồng-thiết giáo. Cả hai dàn ra trước điện Giảng-võ, Tập-hiền và Cao-minh. Bên trong ba điện, thị vệ ở tư thế chuẩn bị tác chiến.
Thông-Mai vận sức quát lớn:
- Chư quân ngừng chiến, bái yết Khai-Quốc vương.
Tiếng quát làm mọi người muốn vỡ màng nhĩ. Phạm Trạch cười rung đôi môi như hai quả chuối:
- Khai-Quốc vương nào? Khai-Quốc vương về qua Bắc-biên đã bị vợ chồng Thân Thừa-Quý phục cung thủ giết rồi.
Thiệu-Thái nghe Phạm Trạch nhục mạ song thân, chàng nổi giận cành hông, nhưng vì đại cuộc, nếu chàng giết chết y, thì hai đạo quân sẽ chém giết nhau kinh khủng. Vì vậy chàng cố chế chỉ tâm thần để khỏi nổi giận.
Bảo-Hòa khoan thai nói:
- Phạm trưởng lão, làm gì có truyện đó. Người hãy nhìn xem ai kia?
Tay nàng chỉ vào Khai-Quốc vương.
Quân sĩ thấy Khai-Quốc vương hiện diện, đều hạ vũ khí xuống, rồi lui lại. Vương hỏi:
- Đông-Chinh vương đâu?
Phạm Trạch cười khành khạch:
- Vương gia không có ở đây.
Bảo-Hòa chỉ mặt Phạm Trạch:
- Phạm Trạch! Người chẳng là trưởng lão Lạc-long giáo ư? Tại sao người lại trở mặt theo Hồng-thiết giáo?
Phạm Trạch cười chế ngạo:
- Lạc-long giáo! Hừ Lạc-long giáo! Làm gì có cái tôn giáo quái gở này? Trước đây vì muốn được trị bệnh, ta phải tùng quyền tôn con lợn anh người làm giáo chủ. Chứ khi chúng ta đã luyện Hồng-thiết kinh thì đời nào ta bỏ Hồng-thiết giáo. Con lỏi kia, mi gọi thằng anh con lợn mi ra đây cho ta xem mặt nào.
Thiệu-Thái biết rằng vì mình luyện khô thiền nên cơ thể đã đổi đi, khiến Phạm Trạch không nhận được. Chàng im lặng chờ lệnh Khai-Quốc vương.
Khai-Quốc vương vận nội lực nói lớn:
- Chư quân nghe đây. Các người đều là Thiên-tử binh, tại sao Thiên tử đang yếu mình, mà chư quân đã mang vũ khí theo tên ma đầu Phạm Trạch làm loạn? Các người được đặt dưới quyền Vũ-kị đại tướng quân Quách Thịnh. Vậy Quách tướng quân đâu?
Quân sĩ đều ngơ ngác. Phạm Trạch nói lớn:
- Chư quân đừng tin gã này. Khai-Thiên vương làm phản, y giam Hoàng-thượng trong điện Long-thụy. Còn Khai-Quốc vương đi sứ về qua Bắc-biên, đã bị chị của Khai-Thiên vương phục quân, dùng tên bắn chết rồi. Cái gã kia là một tên quân nào đó giả mạo Khai-Quốc vương đấy. Nuôi quân ba năm, dùng chỉ một giờ. Các người ăn cơm chúa, vậy hãy xông lên cùng ta, chúng ta tuân chỉ Đông-Chinh vương chiếm lấy điện Long-thụy cứu Hoàng-thượng.
Một đội trưởng hỏi Phạm Trạch:
- Thế Quách tướng quân đâu?
- Quách-Thịnh là đệ tử của Thân Bảo-Hòa. Mà Thân Bảo-Hòa hùa theo phe đảng Khai-Thiên vương. Nên Thịnh đã bị Đông-Chinh vương sai đem chém rồi. Người cử ta thay thế chỉ huy chư quân mấy hôm nay, chư quân biết rồi mà.
Bỗng có tiếng quát lớn:
- Quách Thịnh đây.
Quách Thịnh từ trên cổng thành phi thân xuống. Chàng là đệ tử của Bảo-Hòa, nên hướng sư phụ hành lễ:
- Tiên cô. Đệ tử xin bái yết tiên cô.
Chàng chỉ vào mặt Phạm Trạch:
- Mi mưu cùng Đông-Chinh vương làm phản. Ta chống lại, thì bị vương hô võ sĩ bắt ta đem giam. Nhưng trong khi các người lừa dối chư quân làm phản ở đây, thì Khai-Quốc vương cho người âm thầm đột nhập dinh Đông-Chinh vương, giải thoát ta. Ta nói cho các người biết, phủ đệ Đông-Chinh vương đã bị phong tỏa, vương phi, thế tử cùng vợ con tướng sĩ đã bị thị-vệ bắt giam hết rồi. Ta đến đây để lột mặt nạ tên ma đầu Phạm Trạch mà thôi.
Chàng hô lớn:
- Chư quân, hãy vây bọn Hồng-thiết lại.
Nhanh như chớp, hai đạo Bổng-nhật vây tròn mấy trăm giáo chúng Hồng-thiết giáo lại. Chúng định chạy ra khỏi thành. Nhưng cổng thành đóng lại từ bao giờ.
Ngô Cẩm-Thi chỉ vào Tôn Đản nói lớn:
- Anh em giáo chúng nghe đây. Khai-Quốc vương đã về. Bọn Nhật-Hồ sẽ bị giết hết. Chính ta cùng Tôn huynh đã giải cứu Quách tướng quân. Các người mau đầu hàng thôi.
Đám giáo chúng còn đang ngơ ngác thì Thông-Mai ra lệnh:
- Bỏ vũ khí xuống, bằng không các người bị băm vằm ra như băm chả ngay.
Đám giáo chúng còn phân vân, thì Thông-Mai vẫy tay một cái, hai đệ tử Thượng-oai đẩy ra năm cỗ xe, một cỗ có cái cũi, trong cũi giam Ngô Bách-Vân. Còn bốn cũi nữa, mỗi cũi có một đôi hổ rất lớn. Thông-Mai chỉ cũi chở Ngô Bách-Vân:
- Các người đều biết mụ Ngô Bách-Vân này chứ? Trước đây mụ theo Nhật-Hồ lão nhân, đã được giáo chủ Thân Thiệu-Thái trị tuyệt độc tố Nhật-hồ độc chưởng cho, thế mà nay mụ lại tái phạm. Hôm nay mụ phải đền tội.
Thông-Mai nói dứt, chàng tiến tới mở cũi, rồi nhanh tay điểm huyệt Khúc-trì mụ Bách-Vân, khiến mụ không cử động được. Chàng phẩy sẽ một chưởng, mụ văng ra khỏi cũi. Mụ định bỏ chạy, thì chàng phóng hai chỉ hướng huyệt Hoàn-khiêu, khiến mụ ngã ngồi xuống, giống như người qùy gối vậy.
Trong khi đó, Bảo-Hòa hất hàm một cái, mấy đệ tử giữ cũi hổ rút then mở cửa. Nàng hú lên mấy tiếng, tám con hổ từ trong cũi phóng ra, chúng lượn xung quanh Ngô Bách-Vân, há mõm đỏ tươi ra tỏ vẻ thèm thuồng lắm. Khai-Quốc vương biết ông anh vợ vốn thẳng tay với bọn Hồng-thiết, chắc ông với Bảo-Hòa bầy ra vụ này để dọa Bách-Vân cùng đám đệ tử Hồng-thiết giáo, nên vương im lặng, không ngăn cản.
Ngô Bách-Vân bở vía, hai hàm răng đánh vào nhau lộp cộp, mụ run run:
- Xin... xin tiên cô tha cho.
Bảo-Hòa cười nhạt:
- Khi phu nhân giết người, nạn nhân kêu khóc van xin, phu nhân có tha họ bao giờ đâu, mà nay phu nhân cầu ta ân xá?
Nói dứt lời nàng gầm gừ, hộc hộc giống cọp, tám con cọp nhảy bổ đến vồ mụ Ngô Bách-Vân. Mụ kêu thét mấy tiếng khủng khiếp, nhưng những con cọp vẫn cắn, xé mụ, miệng nhai thịt trông rất ngon lành. Khoảng nhai dập miếng trầu, Ngô Bách-Vân mới chết.
Diễn tiến xẩy ra trong chớp nhoáng, Khai-Quốc vương muốn cản nhưng không kịp. Vương nghĩ thầm:
- Đám trẻ Thông-Mai, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh, Tôn Đản... bị sư bá Minh-Không, sư phụ Huệ-Sinh, và phụ hoàng dùng đức từ bi hỷ xả ngăn cản chúng tha cho bọn Hồng-thiết giáo bấy lâu, nên nay mới có vụ nổi loạn này. Bây giờ chúng uất ức, nên đã mật bàn với nhau thẳng tay tiễu trừ ma quỷ. Ta có muốn cản cũng không nổi.
Trong khoảng khắc, tám con cọp đã ăn gần hết thi thể Ngô Bách-Vân. Thông-Mai quát lớn:
- Các người muốn đầu hàng hay muốn cọp ăn thịt?
Biện pháp của Thông-Mai quả nhiên hiệu nghiệm. Đám giáo chúng Hồng-thiết giáo buông vũ khí đầu hàng. Quân sĩ trói lại.
Phạm Trạch cười ha hả:
- Các người định dùng số đông bắt ta ư? Nếu các người có còn là con người, hãy cùng ta chiết chiêu. Nếu các người thắng ta, thì ta chịu cho các người muốn băm vằm mổ xẻ thế nào tùy ý.
Y chỉ tay vào mặt Lê Văn:
- Thằng ôn con kia. Ta đã ngủ với mẹ mày biết bao lần. Không chừng mày là con tao cũng nên, thế mà mày dám vô phép với cha mày như thế này sao?
Lê Văn với Thông-Mai đều xuất thân tương tự. Cha là đại tôn sư võ học. Mẹ bị chết nhục nhã. Nhưng Thông-Mai ảnh hưởng của đại hiệp Tự-An, một thứ anh hùng thảo dã, coi trời bằng vung. Vì vậy chàng không thể quên thù mẹ, tha thứ cho bọn giáo chúng Hồng-thiết. Gặp chúng là chàng tàn sát thẳng tay. Ngược lại Lê Văn ảnh hưởng của Hồng-Sơn đại phu, một vị vương, một thầy thuốc, vì vậy tính tình chàng thuần hậu hơn. Tuy mẹ bị bọn Hồng-thiết làm nhục, rồi chết, nhưng vì đại nghĩa, chàng phải tuân chỉ đại xá của Thuận-Thiên hoàng đế. Chuyện cũ tưởng quên đi, thì nay gặp tên Phạm Trạch kinh tởm đang làm phản, lại nhục mạ chàng, hỏi chàng chịu sao nổi.
Lê Văn quát lên một tiếng, chàng phát Thiên-vương chưởng tấn công Phạm Trạch. Phạm Trạch khinh thường, y không đỡ chưởng của chàng, mà xuất một Nhật-hồ độc chưởng đánh thẳng vào người chàng. Nhưng chưởng chưa ra, y đã bị chưởng của Lê Văn bao trùm khắp người. Kinh hãi, y nhảy lùi hai bước, rồi quay tay đỡ chưởng của Lê Văn. Binh một tiếng, cả hai đều bật lui.
Phạm Trạch là trưởng lão Hồng-thiết giáo, nên bản lĩnh lưu manh có thừa. Y biết rằng nếu để Thông-Mai, hay Bảo-Hòa ra tay, ắt y khó thắng. Trong những người hiện diện, y cho rằng chỉ mình Lê Văn có bản lĩnh non kém nhất. Vì năm trước trong đại hội Thăng-long, chính y thấy công lực chàng thực không thể chịu của y một chưởng. Vì vậy y mới nhục mạ chàng, để y đấu với chàng. Khi y thắng chàng rồi, thì Khai-Quốc vương không thể dùng quân bắt y được.
Nhưng qua một chưởng, y phát kinh hoàng. Y chưa kịp phản ứng thì chưởng thứ nhì của Lê Văn đã đánh tới. Y nghiến răng đỡ, binh một tiếng. Cả hai lảo đảo lùi lại. Lê Văn phát hết tất cả tinh hoa võ học ra đấu với Phạm Trạch. Hai người đánh đến chiêu thứ một trăm, thì công lực Lê Văn giảm dần. Trong khi đấu, dù đã dùng hết khả năng, chàng cũng không hạ được đối thủ, vì chàng úy kị độc chưởng của hắn. Trong lúc mơ mơ hồ hồ, chàng chợt nhớ đến trận Tản-lĩnh, trận tại Biện-kinh, mỗi khi Tự-Mai gặp nguy, chàng lại nhắc bạn. Bây giờ, giữa lúc chàng gặp khó khăn, thì Tự-Mai lại không có ở đây ở đây để nhắc chàng.
Trong khi suy nghĩ, vô tình chàng phát ra chiêu Đông-hải lưu phong mà Tự-Mai dạy chàng. Bình một tiếng, Phạm-Trạch bật lui ba bước liền. Lê-Văn tỉnh ngộ, chàng đánh tiếp chiêu Phong-ba hợp bích rồi Phong đáo sơn đầu. Phạm Trạch cảm thấy tay nặng chĩu, thì nhanh như chớp, Lê Văn phóng một Lĩnh-Nam chỉ trúng huyệt Khúc-trì phải của y. Cánh tay y bị tê liệt, y chưa kịp phản ứng thì Lê Văn lại đánh ra chiêu Lôi-đả Ân-tặc. Bình một tiếng người Phạm Trạch bay tung lên không. Lê Văn đánh tiếp lên trời hai chiêu nữa, người y vỡ làm bốn năm mảnh rơi xuống đất, máu me, ruột gan tung tóe.
Bấy giờ Lê Văn mới thấy người như bị hàng trăm mũi dao đâm vào. Chàng nghiến răng để khỏi bật lên tiếng kêu. Nhìn qua, Thiệu-Thái biết Lê Văn bị trúng độc chưởng. Chàng đỡ sư đệ đệ ngồi xuống đất, rồi vung tay phát một chưởng vào huyệt Bách-hội. Lê Văn rùng mình một cái, mồ hôi phát ra như tắm, tanh hôi không thể tưởng tượng được.
Sau khi dẹp được mũi dùi của Đông-Chinh vương với Phạm Trạch, Khai-Quốc vương tuyên gọi các tướng vào điện Càn-nguyên nhận lệnh. Hoà thượng Huệ-Sinh nói nhỏ vào tai vương mấy câu. Vương cung kính gật đầu rồi phán:
- Chư quân tướng đều bị đám ma đầu Hồng-thiết giáo dối rằng Hoàng-thượng bị Khai-Thiên vương cầm tù, cần cứu giá. Cô gia thì bị vua Bà Bắc-biên phục binh bắn chết. Chư quân tướng trong lúc phẫn uất, lăn vào công thành để cứu chúa, không ngờ hại chúa. Vì vậy các tướng phải chú ý: Ta dùng số đông vây phủ, rồi nói rõ gian mưu cho chư quân biết. Nếu chư quân chưa tin, thì ta hãy dùng võ công kiềm chế bọn ma đầu Hồng-thiết là mọi chuyện êm ngay.
Vương trầm tư một lúc, rồi nói:
- Vì quân bị lừa, vì đám đệ tử Hồng-thiết giáo bị cưỡng bức. Đám Hồng-hương thiếu niên vừa bị lừa, vừa bị cưỡng bức. Chúng ta phải làm cách nào dẹp được cuộc phiến loạn, mà đổ máu rất ít. Cho nên chư tướng phải hết sức chế chỉ tâm thần, đừng để quỷ A-tu-la nhập nhĩ, mà cáu giận. Phương pháp tốt nhất là dùng đức từ bi, khoan thứ tội lỗi cho họ. Đối với bọn ma đầu, nếu cần, ta giết mấy đứa, những đứa khác thấy vậy phải bỏ chạy.
Vương nói với Tạ Sơn:
- Tạ sư đệ, người hãy trình bầy chi tiết, cùng diễn tiến cuộc nổi loạn cho chư tướng nắm vững tình hình chung trước khi chúng ta bắt tay vào việc dẹp loạn.
Tạ Sơn đứng lên cung tay chào mọi người, rồi nói:
- Khu-mật viện biết rất rõ, rất sớm chi tiết cuộc phản loạn này. Đúng ra, tất cả tin tức Khu-mật viện trực tiếp khải lên Thái-úy là Khai-Quốc vương. Nhưng Khai-Quốc vương đi sứ vắng. Luật định rằng khi Thái-úy vắng mặt thì Tể-tướng thay thế. Nhược bằng Tể-tướng cũng vắng mặt thì Khu-mật viện khẩu tấu lên Hoàng-thượng. Nhưng chẳng may trong lúc Khai-Quốc vương xuất ngoại; đúng lúc cuộc phản loạn manh nha, thì Hoàng-thượng với Tể-tướng lâm trọng bệnh. Thành ra Khu-mật viện không biết tâu trình cho ai.
Tạ Sơn ngừng lại cho mọi người theo kịp, rồi tiếp:
- Nếu là truyện quân quốc trọng sự khác, thì Khu-mật viện trình lên cho Dực-Thánh vương. Khổ một điều âm mưu tạo phản lại do chính vương phát động, thành ra Khu-mật viện bó tay. Khi thấy tình hình nguy ngập, Khu mật viện đành thông báo cho quan tổng trấn Thăng-long là Thái-tử thái phó Phiêu-kị đại tướng quân Dương Bình. Dương tướng quân mật đàm với Khu-mật viện chuẩn bị đối phó. Kế sách xong xuôi, thì đùng một cái có sắc chỉ chia mười đạo quân cho các thân vương. Mỗi vương coi hai đạo. Chính Dực-Thánh vương tâu với Hoàng-thượng rằng Dương tướng quân dù gì cũng là đại đệ tử của Hồng-Sơn đại phu. Mà nay Khai-Quốc vương vắng nhà, Hoàng- thượng với tể tướng lâm bệnh, để Dương tướng quân coi toàn bộ chư quân trong tay, lỡ có truyện gì thì trở tay sao kịp.
Khai-Quốc vương hỏi:
- Sao sư đệ không trình với sư phụ, để người can thiệp với phụ hoàng?
- Thần có trình sư phụ. Nhưng sư phụ xin yết kiến Hoàng-thượng mấy lần đều không thành công. Vì Hoàng-thượng đau nặng, nên luôn ở tẩm thất với Đàm quý phi. Lần nào sư phụ xin yết kiến Hoàng-thượng, quý phi cũng trả lời rằng thánh thể bất an, không thể tiếp sư phụ.
Lê Văn hỏi:
- Tại sao anh hai không thông báo cho phò mã Đào Cam-Mộc, hay vua Bà Bắc biên?
- Sư đệ hỏi vậy thực phải. Nhưng Khu-mật viện không được quyền thông báo tin tức cho ai ngoài Hoàng-thượng, Phụ-quốc thái úy, Tể-tướng. Nếu huynh báo cho hai nơi kia, thì sẽ bị tội sát thân toàn gia.
Đại sư Huệ-Sinh đỡ lời Tạ Sơn:
- Sau cùng bần tăng ra tay. Dù gì chăng nữa Hoàng-thượng hay bách quan cũng không thể bắt tội bần tăng. Bần tăng sai đệ tử âm thầm lên Bắc-biên cùng đến tổng đường các môn phái báo tin. Cho nên khi các đạo quân vừa khởi sự thì Bắc-biên đã chỉnh bị quân mã rồi. Các phái Mê-linh, Tiêu-sơn, Tản-viên, Tây-vu, Đông-a, Sài-sơn, bang Hồng-hà, Đông-hải đều sẵn sàng.
Đến đây ông ngừng lời, đưa mắt cho Tạ Sơn, ý bảo chàng tiếp.
- Lúc đầu Khu-Mật viện tưởng chỉ có chư vương tác loạn. Sau được tin chính Nhật-Hồ lão nhân cùng dư đảng Hồng-thiết giáo núp sau chư vương, thúc chư vương làm phản, để nước đục buông câu, rồi cướp ngôi vua. Các trưởng lão được phân chia làm gia tướng chư vương. Trưởng lão Lê Đức, Đỗ Xích-Thập được gửi sang Trung-nguyên, bề ngoài theo giúp giáo chủ Thân Thiệu-Thái, nhưng bề trong để theo dõi sứ đoàn. Nhưng hành tung hai người này bị tiên cô Bảo-Hòa biết trước. Tiên cô tương kế tựu kế, khiến họ thu nhặt tin tức sai lạc. Cuối cùng cả hai bị đại hiệp Thông-Mai với tiên cô giết ở trước vườn thượng uyển vua Tống.
Bảo-Hòa hỏi:
- Các trưởng lão Đào Nhất, Nhị, Tam-Bách ra sao?
- Cả ba đều trung thành với phái Tản-viên, với Thân giáo chủ. Vì vậy Đào Tam, Đào Nhị bị giết, còn Đào Nhất-Bách hút bị giết. May đâu trên đường bôn tẩu gặp Thân giáo chủ nên thoát hiểm. Về các trưởng đạo, trong 81 đạo trưởng Hồng-thiết giáo, hầu hết trung thành với Thân giáo chủ. Nhưng họ bị kiềm chế bằng độc chưởng, thành ra phải nhắm mắt theo Nhật-Hồ lão nhân. Khu-mật viện âm thầm liên lạc với họ. Họ đều hứa nếu Thân giáo chủ trở về, thì khi đối trận với quan quân, họ sẽ trở giáo theo triều đình.
Tôn Đản hỏi:
- Điều quan trọng là chúng ta phải biết chi tiết kế sách của Nhật-Hồ lão nhân ra sao. Xin nhị huynh tiếp cho.
- Lão áp dụng binh pháp của công chúa Thánh-Thiên thời Lĩnh-Nam: Phàm khi phát khởi cuộc nổi dậy thì phải phát ở nơi an ninh nhất, nơi ít ai ngờ tới nhất. Một mặt lão xui các vương làm loạn ở Thăng-long, còn chính lão với Hồng-thiết giáo lại nổi dậy ở Trường-yên.
Bảo-Hòa ngắt lời:
- Có phải lão chia làm hai mặt trận không? Mặt hư tại Thăng-long, mặt thực tại Trường-yên. Mặt Thăng-long lão trao cho Hoàng Văn phụ trách. Còn mặt Trường-yên lão trao cho Vũ Nhất-Trụ. Chính lão phối hợp hai mặt trận. Nhưng lão ẩn ở đâu?
- Đúng như tiên cô dạy. Lão lưu động thất thường. Nhưng dù lão ẩn thân thế nào, Khu-mật viện cũng biết. Hiện lão đang có mặt ở ngoài thành.
Tạ Sơn đưa mắt quan sát một lượt rồi tiếp:
- Kế sách của lão là hy vọng lúc Hoàng-thượng, tể tướng lâm bệnh, ắt trao quyền cho Dực-Thánh vương. Khi Dực-Thánh vương cầm quyền, các trưởng lão Nguyên-Hạnh, Bách-Vân xui Vũ-Đức vương. Trưởng lão Phạm Trạch xui Đông-Chinh vương... bất tuân lệnh, rồi hai vương vờ quy phục Khai-Thiên vương. Như vậy là Khai-Thiên vương cũng sẽ bất tuân lệnh Dực-Thánh vương. Bị đe dọa, dù muốn dù không Dực-Thánh vương phải tự vệ. Trưởng lão Vũ Nhất-Trụ, Đặng Trường, Hoàng Văn lại bầy kế cho Dực-Thánh vương đem ba hạm đội kéo về Thăng-long, hợp với hai đạo Quảng-thánh của vương để giữ Thăng-long, thế là quân của chư vương đánh nhau.
Mọi người suýt xoa nghiến răng ken két. Tạ Sơn tiếp:
- Bấy giờ Hoàng Văn khuyên Dực-Thánh vương sai Đàm An-Hòa đem hai đạo Quảng-thánh chiếm Trường-yên. Khi An-Hòa lên đường, Nhất-Trụ sẽ nắm lấy quyền chỉ huy hai đạo Quảng-thánh, bất thần diệt trang Thiên-trường, tổng đàn phái Đông-a. Mặt khác Nhất-Trụ sai con là Đàm Toái-Trạng dùng lực lượng Nam-thùy xuất kỳ bất ý đánh tiêu diệt Vạn-hoa sơn trang, Vạn-thảo sơn trang, rồi nhân danh Dực-Thánh vương đánh chiếm các trấn, các huyện. Hễ cứ quan quân đánh được vùng nào, Nhất-Trụ ra lệnh giao cho Hồng-hương thiếu niên cùng các đạo Hồng-thiết giáo trấn nhậm. Lão ước tính trong khi Dực-Thánhh vương cùng chư vương đại chiến, cuối cùng dù bên nào thắng chăng nữa thì tinh lực cũng kiệt quệ. Bấy giờ tất cả các trấn, các huyện nằm trong tay Hồng-thiết giáo. Đến đây lão chỉ trở tay một cái là chiếm được Thăng-long. Lão sẽ lên làm vua.
Tạ Sơn thở dài:
- Khu-mật viện vội vã diện tấu lên Hoàng-thượng. Nhưng khi thần nhập cung tấu trình thì Hoàng-thượng lâm bệnh. Thần vội sang dinh tể tướng Lý Đạo-Nghĩa, thì Lý tể tướng cũng bất thần bạo bệnh đang cơn hấp hối.
Tạ Sơn ngừng lại đưa mắt nhìn vợ là Ngô Thuần-Trúc. Thuần-Trúc nói:
- Thần quá lo sợ, vội về Mê-linh cầu kiến sư phụ. Nhưng lão nhân gia lại vắng nhà. Thần tâu mọi sự lên sư thúc Tịnh-Huyền. Vừa lúc đó sư thúc được thư cáo của Khai-Quốc vương, nhờ người đem chư đệ tử về phòng vệ cho hoàng tộc. Người bèn suất lĩnh hơn trăm nữ đệ tử về Thăng-long, cho sống lẫn với cung nga, để kịp thời cứu viện. Sư thúc vào tẩm thất thăm Hoàng-thượng. Đàm qúy phi ngăn cản không cho người vào. Đúng lúc đó Hoàng-thượng cho thái giám lĩnh chỉ tuyên triệu Dực-Thánh vương vào chầu để nhận chiếu ủy quyền trị nước. Biết không đừng được sư thúc xông thẳng vào cung diện kiến Hoàng-thượng tâu mọi sự. Bấy giờ Hoàng-thượng bệnh đã gần mê man. Sư thúc xin Hoàng-thượng triệu hồi Khai-Thiên vương vào trao quyền, thay vì triệu hồi Dực-Thánh vương. Hoàng-thượng đã quá yếu, Người chỉ còn biết gật đầu. Sư thúc sai thái giám ra triệu hồi Khai-Thiên vương vào tạm trao quyền nước cho vương, để chờ Khai-Quốc vương về. Khi-Thiên vương cầm quyền được một ngày, Khu-mật viện mật khải với vương về việc âm mưu của Hồng-thiết giáo. Khai-Thiên vương kinh hãi, vội cho điều hai đạo Ngự-long vào trong thành để đề phòng. Việc phòng Kinh-thành trao cho quan Thái-tử thiếu-phó Phiêu-kị đại tướng quân Dương Bình. Xin để Dương Thiếu-phó trình bầy kế hoạch.
Dương Bình đứng lên nói:
- Tôi truyền cho Tả-kiêu vệ đại tướng quân Lý Huyền-Sư chỉ huy đạo hữu Ngự-long trấn cửa Đại-hưng, Đan-phượng. Nhờ Nùng đạo trưởng chỉ huy đạo tả Ngự-long trấn cửa Quảng-phúc. Lại cho Hổ-uy đại tướng quân Lý Nhân-Nghĩa lĩnh Cấm-quân trấn cửa Phi-long, Tường-phù. Tạ tiết độ sứ lĩnh thị vệ trấn cửa Diệu-Đức. Sư thái Tịnh-Huyền cùng chư đệ tử Mê-linh bảo vệ hoàng tộc. Đại sư Huệ-Sinh cùng chư đệ tử Tiêu-sơn bảo vệ các cung điện, bách quan cùng gia quyến.
Tạ Sơn tiếp:
- Mặc dầu sư thái Tịnh-Huyền đã ngăn việc tuyên chỉ triệu Dực-Thánh vương, giữ chiếu chỉ lại, nhưng không hiểu sao, sau đó hai ngày, chiếu lại đến tay Dực-Thánh vương. Dực-Thánh vương nhận được chiếu chỉ tuyên triệu. Vương mừng lắm, truyền sắm sửa xa giá vào cung. Vương mang theo Đặng Trường, Hoàng Văn cùng với đám vệ sĩ hơn trăm người, hầu hết là cao thủ Hồng-thiết giáo. Khi vương tới cửa Đại-hưng thì Tả-kiêu vệ đại tướng quân Lý Huyền-Sư ngăn đám vệ sĩ của vương lại. Vương cự nự hỏi Lý tướng quân nhận lệnh ai, mà dám ngăn vương. Lý tướng quân tường thuật việc Hoàng-thượng trao quyền cho Khai-Thiên vương. Vương đã cho quân trấn các cửa thành. Dực-Thánh vương muốn vào, thì chỉ có thể vào một mình.
Từ lúc nhận được tin chư vương phản loạn, Khai-Quốc vương có cảm tưởng như người đi trong sương mù. Bây giờ vương mới hiểu rõ vấn đề. Vương gật đầu:
- Dực-Thánh vương được chiếu chỉ triệu hồi vào cung nhận quyền, rồi bị quân tuân lệnh Khai-Thiên vương ngăn lại, tất nhiên vương cho rằng Khai-Thiên vương làm phản. Với một người tham quyền như Dực-Thánh vương, dĩ nhiên vương triệu tập chư vương đem theo vệ sĩ cùng nhập thành. Vệ sĩ của chư vương bị ngăn lại. Chư vương trở về trong tức giận, thêm vào các trưởng lão Hồng-thiết giáo đâm bị thóc chọc bị gạo. Thế là các vương kéo quân vây kinh thành. Sự việc rất bình thường. Thế sau biến cố này, Nhật-Hồ lão nhân hẳn đổi phương án hành động.
- Vâng quả thế. Hoàng Văn bầy kế cho Dực-Thánh vương. Vương nhân danh người nhận chiếu chỉ lệnh đến: Đông-Chinh vương truyền cho Vũ-kị đại tướng quân Quách Thịnh đem hai đạo Bổng-nhật đánh cửa Quảng-phúc. Vũ-Đức vương truyền Đô-thống Nguyễn Khánh đem hai đạo Quảng-vũ đánh cửa Phi-long, Tường-phù. Đô đốc Đoàn Thông đem hạm đội Động-đình đánh cửa Diệu-đức. Chính vương truyền cho Hữu-kiêu vệ đại tướng quân Đàm An-Hòa đem hai đạo Quảng-thánh đánh cửa Đại-hưng, Đan-phượng. Nhật-Hồ lão nhân phân chia bọn trưởng lão ra các cửa thành giúp chư vương. Mỗi trưởng lão mang theo một đội thiết kị Hồng-thiết giáo nghìn người, đội giáo chúng hai nghìn người cùng đội Hồng-hương thiếu niên nghìn người nữa. Cửa Quảng-phúc thì Phạm Trạch, Linh Vũ-Nguyên. Cửa Phi-long thì Nguyên-Hạnh, Nguyễn Khánh. Cửa Tường-phù thì Ngô Bách-Vân, Thạch Nan-Biện. Cửa Đại-hưng thì Vũ Hào, Hoàng Văn. Cửa Đan-phượng thì Đặng Trường. Cửa Diệu-đức thì Lê Tấn.
Tôn Đản hỏi:
- Lê Tấn, Linh Vũ-Nguyện, Thạch Nan-Biện, Vũ Hào là ai vậy?
- Y cũng là đệ tử Nhật-Hồ lão nhân. Nguyên sau khi bọn Đỗ Xích-Thập, Lê Đức bị giết chết ở Biện-kinh, lão cho Linh Vũ-Nguyện, Thạch Nan-Biện thay thế. Ba anh em Đào Nhất, Nhị, Tam không theo lão, lão cho Lê Tấn, Vũ Hào, Nguyễn Khánh thay thế... Bốn cửa cùng phát pháo công thành. Quân phản loạn đông gấp bội, tưởng giữ không nổi. Bất đắc dĩ sư thái Tịnh-Huyền phải xuất hiện giảng giải cho chư vương nghe. Chư vương bị bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo phao rằng: Khai-Thiên vương làm phản, thí Hoàng-thượng. Vua Bà Bắc-biên theo Khai-Thiên vương phục binh ở biên giới, vương gia từ Tống về đã bị loạn tên giết chết rồi. Vì vậy chư vương ra điều kiện cho Khai-Thiên vương phải mở cổng thành đầu hàng. Để kéo dài thời gian chờ vương gia về, sư thái Tịnh-Huyền truyền chư vương án binh bất động để thuyết phục Khai-Thiên vương.
Dương Bình ngắt lời Tạ-Sơn:
- Giữa lúc đó thần nhận được tin vương gia về tới Bắc-biên. Sư muội Thanh-Mai về trấn Trường-yên. Hơn giờ sau quận chúa Bảo-Hoà, sư huynh Thông-Mai, cùng Văn đệ nhập thành báo cho biết vương gia đang điều động quân tướng dẹp loạn.
Khai-Quốc vương hài lòng:
- Khi nhận được tin sơ khởi Hồng-thiết giáo chuẩn bị làm loạn cùng xui dục chư vương, thì cô gia đang ở hồ Động-đình. Cô gia cho vương phi, cùng nhị sư huynh Bảo-Dân, sư tỷ Khấu Kim-An lấy thuyền ngày đêm về nắm Trường-yên. Sư huynh Thông-Mai đem Bảo-Hòa, Lê Văn khẩn về nhập thành giúp cô mẫu Tịnh-Huyền giữ thành Thăng-long. Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm trở về Bắc-biên mang bản bộ quân mã tiếp cứu Thăng-long. Còn cô gia với Bình-Dương, Thiệu-Thái, Tôn Đản, Cẩm-Thi về sau. Cô gia sai thần ưng, mang thư đến các vị quốc vương Đại-lý, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la để các nơi này đề phòng Hồng-thiết giáo ly khai Lạc-long giáo làm loạn. Cô gia cũng thư cho Ngô-quốc quận vương nước Tống là Trần Tự-Mai truy lùng diệt hết bọn Lạc-long giáo ly khai thành Hồng-thiết giáo khắp vùng Quảng-Đông, Quảng-Tây, Đàm-châu, Quế-châu.
Các tướng nghe vương nói đều thở phào nhẹ nhõm. Vương tiếp:
- Cô gia cũng viết thư cho các đại môn phái, nhờ các tôn sư lệnh cho chư đệ tử tùy nghi sống ở địa phương nào thì giúp quan quân bắt bọn Lạc-long giáo ly khai. Cô gia nhờ Đào Nhất-Bách đem đoàn đệ tử Tản-viên âm thầm về ngoài Thăng-long bảo vệ gia quyến các quan, cùng kiềm chế gia quyến chư vương, chư tướng phản loạn. Từ trước đến giờ người của Khu-mật viện nằm rải rác ở các đạo Lạc-long giáo cùng Hồng-hương thiếu niên rất nhiều. Cô gia mật đem lệnh cho họ cứ giả theo phản loạn, đợi khi đối trận với ta, thình lình họ trở giáo đánh phe phản loạn.
Các tướng vỗ tay hoan hô vang dội. Vương tiếp:
- Ở mặt trận phía Nam, giặc mạnh hơn ta nhiều. Quân phản loạn có ba thành phần. Một là quân của Đại-Việt, hai là giáo chúng Hồng-thiết, ba là bọn Hồng-hương thiếu niên. Tạ sư đệ hãy trình bầy quân số của phản loạn ở phương Nam cho bách quan rõ.
- Tất cả quân phản loạn ở Thăng-long là do Dực-Thánh vương trực tiếp chỉ huy; Hoàng Văn, Đặng Trường, Phạm Trạch, Nguyên-Hạnh chỉ là quân sư. Còn mặt trận phương Nam, đích thân Nhật-Hồ lão nhân với Vũ Nhất-Trụ chỉ huy. Quân số chính của chúng là quân Đại-Việt. Đầu tiên Đàm Toái-Trạng cho người mang chiếu chỉ giả truyền Vũ-Uy vương trao đạo quân Đằng-hải cho y, rồi vương phải lên đường về Thăng-long khẩn cấp. Vương không nghi ngờ, tuân chỉ liền. Khi vương cùng đám tùy tùng về gần tới Trường-yên thì bị bọn Hồng-thiết giáo phục kích bắt hết. Quân trực thuộc của Thanh-hóa có đạo Cửu-chân, gồm hai sư bộ, một sư kị, tổng số ba vạn người. Y vét quân của các quận huyện được một vạn nữa, thành bốn vạn. Đúng ra còn một hạm đội thủy quân, nhưng hạm đội này Dực-Thánh vương điều về Thăng-long rối.
Tạ Sơn ngừng lại uống một hớp nước lấy hơi rồi tiếp:
- Quân của Hồng-thiết giáo gồm năm đội Thiết-kị, mười đội bộ chiến, tổng cộng mười lăm đội, một vạn rưỡi người. Y gửi về Thăng-long mất hai đội kị, ba đội bộ. Quân của Nguyên-Hạnh gồm mười đội Hồng-hương thiếu niên, tổng số một vạn người. Chúng kéo về Thăng-long mất ba đội. Còn lại bẩy đội.
Bảo-Hòa hỏi:
- Đám quân của Nhật-Hồ tiến đánh những nơi nào trước?
- Vũ Nhất-Trụ là Đàm Can, y từng giữ chức Đô-nguyên soái, cho nên y điều quân rất giỏi. Đầu tiên, y tiến quân về đánh chiếm Vạn-hoa sơn trang. Cho đến nay Khu-mật viện vẫn chưa được tin Trung-nghĩa hầu cùng công chúa An-Quốc ra sao. Tiếp theo y đánh Vạn-thảo sơn trang. Trước kia Vạn-thảo sơn trang có rất nhiều đệ tử, tới năm nghìn người. Từ khi Hồng-Sơn đại phu hợp tác với triều đình, người tung ra bốn nghìn rưởi người đi khắp nơi lập y viện cứu dân. Tại sơn trang chỉ còn hơn năm trăm y sư. Cho nên Vũ Nhất-Trụ chiếm dễ dàng. Y đem quân về đánh Trường-yên, thì Trường-yên đã phòng vệ cẩn mật. Y chia quân làm hai. Hai đạo Đằng-hải, Cửu-chân vây Trường-yên. Còn đám Hồng-thiết giáo, Hồng-hương về đánh Thiên-trường. Trận chiến cho đến nay chưa có tin tức gì.
Lý Huyền-Sư đề nghị:
- Thần nghe: Binh quý hồ tốc. Sau khi dẹp được đạo quân vây cửa Quảng-phúc, sao vương gia không ra binh uy dẹp các cửa kia cho mau, để an thiên hạ?
Khai-Quốc vương nói:
- Tả-kiêu vệ đại tướng quân biết một mà không biết hai. Phàm ra quân phải có chính nghĩa. Từ Nhật-Hồ cho tới chư vương phản loạn đều là những người cầm quân giỏi. Nhưng họ chỉ biết xung phong hãm trận, mà họ quên mất một đều căn bản trong binh pháp: Binh quý thần tốc. Thời Lĩnh-Nam, ta thắng Hán hai trận đều nhờ yếu tố này. Trận đầu tiên tại hồ Động-đình, công chúa Phật-Nguyệt điều quân từ Linh-lăng, Trường-sa về hồ trong vòng có một đêm, trong khi Mã Viện cho rằng phải mười ngày, thành ra y thua. Lần thứ nhì, khi Lưu Long, Đoàn Chí đánh xuống Nam-hải. Chúng nghĩ rằng ở Nam-hải chỉ có đạo Nam-hải của công chúa Lê Chân với công chúa Đàm Ngọc-Nga chưa quá năm vạn người. Trong khi y có tới ba mươi lăm vạn, y nuốt dễ dàng. Y tưởng rằng lúc khởi chiến, Bắc-bình vương Đào Kỳ cùng công chúa Thánh-Thiên có điều được đạo Giao-chỉ, Nhật-Nam đến Thường-sơn tiếp cứu, ít ra phải ba tháng. Trong khi đó trong một tháng y tới Thường-sơn. Bắc-bình vương điều quân mau hơn, chỉ nửa tháng hai đạo Nhật-nam, Giao-chỉ cùng đạo thủy quân của công chúa Trần Quốc đã tới nơi.
Vương mỉm cười gật đầu:
- Nhật-Hồ với Đàm Can hành sự đặt trên căn bản dối bách quan, lừa chư quân cùng đệ tử, đáng lẽ y phải hành động thực mau chóng. Khi y đã thành công, bấy giờ mưu kế bị lộ ra thì sự đã rồi. Đây, lúc khởi đầu tin tức của y sai lạc. Y tin rằng Hoàng-thượng băng hà thực, Khai-Thiên vương phản nghịch, nên y hành động ngược lại. Tại Thanh-hóa, từ khi khởi sự đến lúc tiến quân ra Trường-yên chỉ cần ba ngày, mà y dùng dằng mất ba mươi bẩy ngày. Tại Thăng-long, đáng lý y phải dùng số đông tràn ngập thành ngay một giờ đầu, trong khi y kéo dài đến hơn tháng chưa đi đến đâu. Trong thâm tâm y, y cho rằng y có chính nghĩa, Khai-Thiên vương không chính nghĩa, thời gian càng dài y càng có lợi: Quân thủ thành mệt mỏi, y chỉ việc hô một tiếng là phải đầu hàng.
Chư tướng nghe vương phân giải, đều vỗ tay hoan hô. Vương tiếp:
- Khi cô gia ở hồ Động-đình, nhận được tin dữ; cô gia phải hành động thần tốc như đã trình bầy. Nếu cô gia chậm chạp, thì Nhật-Hồ với Dực-Thánh vương sẽ có chính nghĩa, mà Khai-Thiên vương trở thành phiến loạn, thì cuộc hành quân của phe phản loạn tức nhiên thành công. Cho đến nay, cô gia xuất hiện thì tại mặt trận Thăng-long ta trở thành có chính nghĩa, Dực-Thánh vương trở thành phản loạn. Bây giờ ta cần nói cho chư tướng, chư quân cùng võ lâm hương đảng biết rõ tội trạng của bọn phản loạn, thì khi ra quân, ta cứ dùng dằng, giặc tự tan.
Vương bảo Mỹ-Linh:
- Công chúa Bình-Dương khẩn soạn cho cô gia một bài hịch thảo nghịch tặc, rồi chép làm nhiều bản gửi đi khắp nơi.
Mỹ-Linh tuân lệnh, nàng cầm bút viết liền. Vốn văn hay, chữ tốt, vẫy bút thành văn, nàng chỉ soạn trong hơn giờ là xong, đem trình cho vương. Vương cầm lên đọc cho bách quan nghe:
Thừa thiên hưng vận, Thuận-Thiên hoàng đế ban chiếu đến bách quan, tướng, quân, võ lâm, hương đảng.
Từ khi trẫm ứng ý trời thuận lòng người, tiếp ngôi chính thống. Trước tiên đặt lại nền móng quốc hồn, quốc thể, quốc uy. Về quốc hồn, trẫm tuyên chỉ tôn phong Quốc-tổ, Quốc-mẫu, chư vị tiên thánh cùng sắc phong cho anh hùng liệt nữ thuộc Đại-Việt ta, lại ban ruộng đất, cùng miễn thuế lập đền thờ, quanh năm hương khói. Về quốc thể, trẫm giữ nguyên quốc danh Đại-Việt. Về quốc uy, trẫm kết thân với Tống trong thể huynh đệ bình đẳng. Chỉ mấy món quà, cùng lời phân giải của sứ đoàn, Khai-Quốc vương đã khiến Đại-Tống bãi trọng binh ở Nam-thùy, tru diệt bọn tham quan hiếu chiến, khiến cho Đại-Tống, Đại-Việt, Đại-Lý, Xiêm-la, Lão-Qua bãi binh ở biên cảnh, trăm họ khắp năm nước sống trong tình yêu thương của con cháu Phục-Hy, Thần-Nông.
Trẫm lại kết hợp được anh hùng võ lâm Đại-Việt, Đại-lý, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la, Lưỡng-Quảng trong tinh thần huynh đệ thời Lĩnh-Nam.
Về nội trị, sau mười tám năm cai trị, trong không có nội loạn, ngoài không binh cách, trẫm mở mang học hành, ban chỉ nuôi già dạy trẻ, mùa màng trúng liên tiếp. Trong mười tám năm cai trị, trẫm thu thuế có mười năm, tám năm tha tô miễn thuế. Trên khắp giang sơn, nơi nào cũng giầu có, nhà nhà no đủ. Trẫm tưởng thời vua Hùng, vua Trưng cũng không hơn.
Hay đâu thời Thập-nhị sứ quân giặc Nhật-Hồ đem một thứ tôn giáo từ Tây-vực vào Đại-Việt. Hồng-thiết giáo tôn thờ hai tên điên khùng Mã-Mặc, Lệ-Anh làm thánh. Chúng xui con giết cha giết mẹ; em giết anh giết chị; học trò giết thầy, phá bỏ kỷ cương xã tắc từ mấy nghìn năm của vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng truyền lại. Chúng giết người không gớm tay. Vì vậy nên các triều Đinh, Lê thẳng tay tiêu diệt chúng.
Khi trẫm lên ngôi, lấy từ bi hỷ xả của đức Thế-tôn ân xá cho chúng, lại cho chúng dự đại hội Lộc-hà, tế anh hùng thời Lĩnh-Nam. Nào ngờ trong đại hội, chúng mưu cướp ngôi, bị anh hùng dẹp tan. Võ lâm một lần nữa thuận cho chúng cải tà quy chính, đổi Hồng-thiết giáo thành Lạc-long giáo. Nào ngờ, khi trẫn khó ở, Khai-Quốc vương đi sứ, tên Nhật-Hồ cùng đám tàn quân giáo chúng Hồng-thiết nổi lên, dối chư vương, lừa chư quân làm loạn. Nay bệnh trẫm đã thuyên giảm, Khai-Quốc vương đã trở về. Trẫm ban chỉ này tới chư vương, chư tướng, chư quân cùng giáo chúng được rõ:
- Chư quân tướng đâu phải về đó. Trẫm hoàn toàn ân xá cho bản thân, cho cha mẹ, cho vợ con. Chức, tước, bổng lộc được giữ nguyên.
- Các giáo chúng hãy bỏ vũ khí, tìm đến quan quân đầu thú, sẽ được ân xá cho về quê sống với cha mẹ, vợ con.
Những kẻ nào còn cầm vũ khí chống lại quân tướng, không những thân bị giết, mà quan quân còn truy lùng về hương đảng giết cả cha mẹ, anh em , vợ con, quyết không ân xá.
Vậy chiếu chỉ này tới đâu, tướng truyền cho quân; quân truyền cho dân cùng đọc, ai nấy cùng quy phục chính thống.
Khâm thử.
Khai-Quốc vương trao chiếu chỉ cho Bảo-Hòa:
- Cháu được phụ hoàng ta sủng ái nhất, vậy cháu đệ lên để ngài kiềm thự, đóng ấn, rồi trao cho Hàn-lâm đại học sĩ, truyền sao khẩn cấp cho ta mấy nghìn tờ.
Bảo-Hòa lĩnh mệnh đi liền.
Khai-Quốc vương cùng chư tướng tiếp tục nghị sự. Cứ mỗi khi chim ưng đem thư từ các trấn về, vương lại ban lệnh rồi gửi đi. Suốt ngày không lúc nào ngưng. Đến đêm thì Bảo-Hòa đem chiếu chỉ đã sao thành hai nghìn bản đến. Vương sai Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm cho chim ưng mang đi khắp các môn phái, bang hội, chùa đến, các trấn, các huyện cùng các đạo quân.
Vương gọi Thông-Mai, Lê Văn, Tôn Đản, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Dương Bình lại, ban lệnh:
- Trong chúng ta đây, sáu người có nội lực cao nhất. Vậy mỗi người tới một cửa thành, phát ba tiếng pháo thực lớn đốt đuốc cho sáng, hầu chư quân tướng chú ý, rồi vận nội lực đọc thực lớn cho chư quân tướng ngoài thành nghe.
Sáu người lĩnh mệnh đi liền.
Hơn giờ sau, sáu người trở về phục mệnh. Vương ban lệnh:
- Từ giờ đến mai, chư tướng, quân theo phản loạn đều không ít thì nhiều bàn tán với nhau rồi. Bây giờ chúng ta chuẩn bị dẹp giặc quanh Thăng-long trước.
Vương nói với Đoàn Thông:
- Đoàn đô đốc đem hạm đội Động-đình tiếp tục giữ cửa Diệu-đức, cùng tiến chiếm các vùng sông ngòi quanh Thăng-long, bắt hết tàn quân giặc trốn chạy bằng đường thủy.
Đoàn Thông lĩnh mệnh đi liền. Vương gọi đô đốc Phạm Tuy:
- Sư đệ đem hạm đội Bạch-đằng về Thanh-hóa ngay. Ta biết Đàm Toái-Trạng đem quân đi hết, Thanh-hoá trống trơn, sư đệ nhân đó thình lình chiếm Thanh-hóa cắt đường vận lương, kiềm chế gia đình bọn phản loạn, rồi đánh phía sau đạo quân Đàm Toái-Trạng.
Vương đứng lên nhìn chư tướng:
- Bây giờ tới mặt trận Thăng-long.
Vương suy nghĩ một lúc rồi nói với Nùng-Sơn tử:
- Tổng chỉ huy cửa Quảng-phúc là Nùng đạo trưởng. Xin đạo trưởng cho Vũ-kị đại tướng quân Quách Thịnh điều động đạo Bổng-nhật xuất thành đánh quặt sang phía Đông, vây quân phản loạn đang công phá cửa Tường-phù, Phi-long. Tại cửa Tường-phù, Dương sư huynh cho mở cửa để Thuận-Tông đem đạo binh Phong-châu cùng Lý Nhân-Nghĩa dẫn đạo Cấm-quân đánh phía trước. Tôi đã ra lệnh cho đô đốc Vũ Minh đem thủy quân đánh từ Bắc xuống. Khi thấy ba tiếng pháo lệnh thì đồng tấn công. Ba mặt thọ địch, ắt Vũ-Đức vương với Nguyễn Khánh phải đầu hàng. Tổng chỉ huy mặt trận cửa Phi-long, Tường-phù là đô đốc Vũ Minh.
Các tướng lĩnh mệnh rời điện Uy-viễn, vương vẫy quận chúa Kim-Thành theo sau, tiễn đưa họ. Tới cửa cung, Thuận-Tông leo lên bành voi.
Vương bảo quận chúa Kim-Thành:
- Cháu cần tập gánh vác việc nước như cô An-Quốc, như cô Lĩnh-Nam Bảo-Hòa, như Bình-Dương. Ta đặt cháu thuộc quyền chỉ huy của châu trưởng Phong-châu Lê Thuận-Tông.
Vương túm cổ áo cháu tung bổng lên cao, Kim-Thành lộn một vòng trên không rồi rơi xuống bành voi ngay cạnh Lê Thuận-Tông nhẹ nhàng như đặt xuống vậy. Gì mà Thuận-Tông không hiểu Khai-Quốc vương. Chàng cung tay vái ba vái, rồi ra lệnh cho quản tượng thúc voi đi.
Vương trở vào điện Uy-viễn nới với Nùng đạo trưởng:
- Tổng chỉ huy mặt trận cửa Đan-phượng là đô đốc Phạm Tuy. Xin đạo trưởng cho Tạ sư đệ đem đạo Thượng-oai xuất ra cửa Nam, đánh vòng sang Tây, vây phía sau đạo quân của Dực-Thánh vương. Trong khi đó Tả kiêu vệ đại tướng quân Lý Huyền-Sư mở cửa Tây cho đạo Ngự-long xuất thành đánh trước mặt. Tôi đã cho lệnh đô đốc Phạm Tuy chuẩn bị. Khi thấy ba tiếng pháo nổ trên không là lúc tất cả các đạo đồng tấn công. Tuy cửa Quảng-phúc hiện không còn quân phản loạn, nhưng đạo trưởng vẫn phải đề phòng bất ngờ.
Lúc từ Trung-nguyên về tới cửa Bắc, Khai-Quốc vương được sư phụ Huệ-Sinh cho biết đệ tử Mê-linh tới hơn trăm người, hiện ẩn thân trong lớp áo cung nữ bảo vệ hoàng tộc rất chu đáo. Từ hôm xẩy ra biến cố, vợ Tạ Sơn là em Ngô An-Ngữ tên Ngô Thuần-Trúc đã đem con vào ở trong Khu-mật viện để cùng giúp chồng. Vương thấy Ngô Thuần-Trúc, vợ của Tạ Sơn đeo kiếm cạnh chồng, phía sau là đứa con gái tên Tạ Thuần-Khanh. Vương vẫy tay gọi nó. Thuần-Khanh tuy mới mười tuổi, nhưng lưng đeo kiếm, trông đã chững chạc lắm. Vương nhớ tới Ngô Thường-Kiệt, giờ chắc cũng đang cùng cha mẹ phòng vệ Trường-yên đây.
Thuần-Khanh cúi đầu hành lễ. Vương bảo nó:
- Cháu theo sư bá đi đánh giặc.
Vương nói với Hà Thiện-Lãm:
- Trong đạo binh Thượng-oai của em có bao nhiêu chim ưng đưa thư được?
- Em có hơn trăm chim ưng, thì đến chín mươi con thuộc ưng chiến đấu, chỉ mười hai con có thể đưa thư. Tất cả chim ưng đều do Vi Chấn chỉ huy.
- Vậy em để Vi Chấn cùng đội ưng binh lại. Ta nhờ Vi Chấn chỉ huy đám chim ưng Khu-mật viện thay Nguyễn Duệ đã tuẫn quốc.
Thiện-Lãm, Lưu Tường cùng các tướng lĩnh mệnh rời cung Uy-viễn. Vương vẫy quận chúa Trường-Ninh, Hồng-Phúc theo tiễn các tướng ra cửa. Lãm, Tường lên bành voi. Họ định thúc voi lên đường thì Khai-Quốc vương vẫy tay ra lệnh khoan khởi hành. Vương quay lại nói với Trường-Ninh, Hồng-Phúc:
- Ta đặt hai cháu dưới quyền Thiện-Lãm với Lưu-Tường. Các cháu phải xứng đáng là con cháu vua Trưng.
Vương đưa mắt cho Bảo-Hoà. Nàng vung roi ngựa quấn lấy Hồng-Phúc, rồi rung tay một cái, Hồng-Phúc rơi ngay cạnh Lưu Tường. Nàng lại vung roi lần nữa, Trường-Ninh rơi cạnh bành voi Hà Thiện-Lãm. Hà, Lưu cùng vái vương rồi thúc voi ra đi.
Vương hướng chư tướng hỏi:
- Có ai thắc mắc gì không?
Tạ Sơn đề nghị:
- Trình vương gia, các đạo phiến loạn đều có cao thủ Hồng-thiết giáo theo trợ giúp. Xin vương gia viện cho mỗi đạo mấy cao thủ, bằng không e nguy lắm.
- Được, vậy Thông-Mai theo giúp Thuận-Tông. Tôn Đản, Cẩm-Thi theo giúp Quách tướng quân. Còn cánh của hạm đội Âu-Cơ thì không cần. Vì võ công đô đốc Vũ Minh, dễ gì có người đương nổi.
Vương chỉ Bảo-Hòa:
- Cháu theo giúp Thiện-lãm. Còn Lê Văn theo giúp Lý Huyền-Sư tướng quân. Đạo quân hạm đội Bạch-đằng đã có các cao thủ phái Đông-a giúp đô đốc Phạm Tuy rồi.
Vương ghé tai Lê Văn dặn nhỏ mấy câu. Chàng gật đầu:
- Đại ca yên tâm. Gì chứ việc đó dễ mà.
Các tướng lục tục trở lại với quân. Khai-Quốc vương cùng Thiệu-Thái, Vi Chấn với đội ưng binh lên mặt thành, quan sát trận thế. Vương đến cửa Tường-phù, đội quân của Lý Nhân-Nghĩa dàn ra uy nghiêm trên mặt thành. Họ thấy vương đến thì đốt lên tiếng pháo lệnh, rồi hoan hô, thúc trống vang dội.
Vương đưa mắt nhìn xuống: Vũ-Đức vương ngồi trên mình ngựa đứng giữa. Bên phải là Nguyên-Hạnh, dưới cây cờ có chữ Thông-huyền bồ tát Nguyên-Hạnh. Bên trái là Nguyễn Khánh đứng dưới cây cờ có chữ Thái-tử thiếu bảo, Tả kiêu vệ đại tướng quân, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, Khu mật viện sứ, Nhật-Nam hầu Nguyễn. Phía sau, hai đạo binh Quảng-vũ ở giữa, bên phải là đạo Hồng-hương thiếu niên, bên trái là đội binh Hồng-thiết giáo. Tất cả đang chuẩn bị công thành.
Lý Nhân-Nghĩa tường trình:
- Khải vương gia, Dực-Thánh vương ỷ vào chiếu chỉ được trao trọng quyền, vương thăng Nguyễn Khánh từ Đô-thống lên tới Tả kiêu vệ đại tướng quân tức là nhảy vọt 27 bậc. Hơn nữa y cũng được phong chức văn tới Đồng-trung-thư môn hạ Bình-chương sự tức Tể-tướng.
Ông chỉ vào quân phản loạn:
- Từ ba hôm nay, họ chia ra ba đội. Mỗi đội công thành một ngày, mục đích làm cho quân thủ thành mệt. Từ sáng đến giờ, họ ngừng chiến, dường như họ định tập trung lực lượng quyết chiếm thành tối nay.
Khai-Quốc vương vận nội lực gọi lớn:
- Ta muốn nói chuyện với Vũ-Đức vương.
Vũ-Đức vương cùng Nguyên-Hạnh, Nguyễn Khánh đồng gò ngựa ngay dưới chân thành. Họ hướng mắt nhìn lên. Thấy Khai-Quốc vương, Vũ-Đức vương hơi luống cuống:
- Nhị huynh đấy ư? Người ta nói Phật-Mã làm phản, đem quân chiếm cung điện mưu thí phụ hoàng. Lĩnh-Nam Bảo-Hòa phụ theo Phật-Mã, cho phục binh ở Bắc-biên. Khi nhị ca về, bị trúng tên qua đời rồi. Vì vậy đệ phải đem quân hỏi tội Phật-Mã.
Thấy Vũ-Đức vương gọi mình là nhị ca, Khai-Quốc vương biết có thể thuyết phục ông em này. Vương nói:
- Chú tư. Chú có thể cho anh biết ai đã phao tin đó?
Vũ-Đức vương đưa mắt nhìn Nguyên-Hạnh, rồi nói:
- Chính đại sư Nguyên-Hạnh cho biết như vậy.
Khai-Quốc vương hỏi Nguyên-Hạnh:
- Hồ quân hầu. Quân hầu là người của Yên-vương gửi sang Đại-Việt ta. Khi mưu cơ bại lộ, phụ hoàng ta ban chỉ ân xá cho quân hầu. Nay Tống-Việt hoà hợp với nhau trong tình huynh đệ. Yên-vương với cô gia kết thân. Lê tiểu thư, là ái nữ của Hồng-Sơn đại phu, nay trở thành Yên-vương vương phi. Nghĩa đệ Tự-Mai trở thành phò mã, tước phong vương. Tại sao quân hầu lại phao tin, gây chia rẽ tương tàn tại Đại-Việt ta?
Mặt Nguyên-Hạnh xám ngắt lại, y chỉ vào Khai-Quốc vương:
- Chư quân nghe đây. Khai-Quốc vương đã bị loạn tên sát hại. Gã kia là Khai-Quốc vương giả. Chư quân hãy tiến lên công thành, giết Phật-Mã, tôn Vũ-Đức vương lên làm vua.
Nguyễn Khánh cũng nói:
- Chư quân mau tiến lên chiếm thành.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.02.2005 04:36:05 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 21.01.2005 17:43:46 (permalink)
    Hồi thứ một trăm hai mươi hai


    Lấy chết chuộc tội




    Đạo quân Quảng-vũ nghe lệnh chúa tướng cùng dương cung bắn lên mặt thành. Khai-Quốc vương quơ tay một cái, vương đã bắt được năm mũi tên. Vương vận sức phóng về phía Nguyên-Hạnh. Kình lực mũi tên xé gió bay tới. Nguyên-Hạnh rút kiếm gạt. Nhưng y gạt hụt, vì cả năm mũi tên đến trước ngựa y khoảng một trượng thì rơi xuống. Vương nói lớn:
    - Tứ đệ! Hồ quân hầu! Nguyễn đô thống! Ta lấy đức từ bi hỷ xả trị người. Ta hẹn cho các người phải giải tán, quân đâu về đó. Ta sẽ tâu phụ-hoàng ân xá cho các người. Bằng các người còn u mê, thì các người phải lĩnh quả của chính nhân người gieo.
    Vương nói với Lý Nhân-Nghĩa:
    - Hổ uy đại tướng quân. Bằng như Vũ-Đức vương không kể đến phụ hoàng đến ta, thì vương trở thành con người bất hiếu, bất nghĩa. Tướng quân cứ thẳng tay.
    Vương cùng Thiệu-Thái, Vi Chấn đến cửa Đan-phượng. Lý Huyền-Sư cung kính hành lễ:
    - Khải vương gia, trong ba đám quân phản loạn, thì đám này hung hăng hơn cả. Chúng có đạo Quảng-thánh, chỉ huy bởi Đàm An-Hoà. Y ra mặt phản loạn, nói nhiều lời vô đạo. Ngoài ra còn có đoàn thiết kị Hồng-thiết giáo hơn nghìn người, đội thiếu niên Hồng-hương hơn nghìn người nữa. Chính Dực-Thánh vương chỉ huy công thành, nhưng từ sáng tới giờ, không thấy vương đâu cả.
    Khai-Quốc vương leo lên mặt thành. Vương đưa mắt quan sát, thấy ba đạo quân phản loạn đang nghỉ ngơi ăn uống. Chúng không thấy vương xuất hiện. Lý Huyền-Sư sai đốt pháo lệnh, rồi tung lên trời. Đám quân phản loạn đang ăn cơm, đưa mắt nhìn lên. Khai-Quốc vương vận nội lực gọi:
    - Ta muốn nói truyện với Dực-Thánh vương.
    Đàm An-Hòa cùng Lý Hưng-Long, Đặng Trường, Hoàng Văn đang ăn với nhau. An-Hòa thấy Khai-Quốc vương xuất hiện thì phát run. Y vội lên ngựa đến trước cổng thành. Còn bọn Đặng Trường thấy vương thì hơi khựng lại, chúng đưa mắt nhìn nhau như cùng báo hiệu cho nhau biết cuộc nổi loạn e khó thành công.
    Khai-Quốc vương hỏi An-Hòa:
    - Hữu-kiêu-vệ đại tướng quân. Ta muốn nói truyện với Dực-Thánh vương, hoặc Đàm quốc-cữu.
    Đàm An-Hòa tuy phát run, nhưng đã trót lâm thế cỡi cọp, y cầm roi chỉ lên mặt thành:
    - Tên Lý Long-Bồ kia, Dực-Thánh vương được hoàng-thượng ban chiếu nhường ngôi cho người. Nhưng Phật-Mã đem quân phong toả cung Long-thụy, nên phụ thân ta phải tôn chiếu phò Dực-Thánh vương lên ngôi. Mi mau mau mở cửa thành cho chúng ta vào tru diệt Phật-Mã, thì cái tước vương của mi có cơ bảo toàn. Bằng không thì họa sát thân khó thoát.
    Huệ-Sinh ghé tai Lê Văn nói nhỏ mấy câu. Chàng cung kính gật đầu:
    - Đại sư yên tâm. Tuy cháu là thầy thuốc, nhưng khi cần giữ nước, thì thầy thuốc cũng phải mạnh tay.
    Nguyên từ trước đến giờ Lê Văn đã nghe Tự-Mai nói nhiều về tên khả ố Đàm An-Hòa. Có lần Tự-Mai dặn chàng:
    - An-Hòa là một tên cực kỳ khả ố. Nó ỷ là em trai Đàm quý phi, mà quý phi đang được Hoàng-thượng sủng ái, nên hành sự vô thiên, vô pháp, không ai dám động vào nó. Trong Thuận-Thiên thập hùng thì anh cả, chị Thanh-Mai, chị Mỹ-Linh, đều là con cháu của Hoàng-thượng. Anh Tạ Sơn, Tôn Đản người thì làm quan, kẻ thì con quan càng phải kiêng nể y. Chỉ duy Văn đệ không vướng mắc gì cả. Nếu có dịp, Văn đệ nên trừ phắt nó đi cho rồi.
    Lê Văn ghi tâm điều đó. Hôm nay trước trận tiền, An-Hòa nhục mạ Khai-Quốc vương quá đáng, khiến chàng không chịu được nữa. Từ trên mặt thành, chàng tung mình nhảy xuống ngay đầu An-Hòa. An-Hòa coi thường Lê Văn, y rút kiếm chĩa lên không, định chờ cho chàng rơi xuống mũi kiếm của y. Lê Văn vốn cực kỳ thông minh, chàng biết cạnh An-Hòa còn có mấy ma đầu Hồng-thiết giáo. Nên chàng làm như bị rơi trúng kiếm của An-Hòa. Đợi cho lưng sắp chạm vào kiếm y, chàng mới phóng một Lĩnh-Nam chỉ. Choang một tiếng, kiếm bị gẫy, mà người chàng đã ngồi lên sau lưng y, tay trái kẹp cổ y, chân thúc vào bụng ngựa. Con ngựa lao tới chân thành.
    Trên thành, Huệ-Sinh tung xuống sợi dây, Lê Văn chụp dây giật mạnh, người chàng với An-Hòa bay bổng lên mặt thành. Diễn biến xẩy ra mau quá, dù bản lĩnh Đặng Trường, Hoàng Văn vô cùng cao siêu, mà muốn cứu không kịp. Lê Văn túm cổ áo tên An-Hòa dơ cao lên, rồi vận nội lực nói lớn:
    - Chư quân đạo Quảng-thánh nghe đây. Tên An-Hòa đánh lừa chư quân, thì chỉ mình y bị tội thôi. Còn chư quân đều được ân xá. Vậy chư quân hãy bao vây bọn Hồng-thiết giáo với đội Hồng-hương thiếu niên để lập công. Nào! Tiến lên.
    Hoàng Văn, Đặng Trường kinh hãi, vội đứng trấn trước đội thiết kị Hồng-thiết giáo và Hồng-hương thiếu niên nói lớn:
    - Chư quân không được nghe lời tên ôn con Lê Văn. Nó vốn thuộc giòng giống vua Lê, chống lại Thiên-tử. Chư quân thấy chủ tướng lâm nguy, phải lăn mình vào cứu chứ? Nay Hữu Kiêu-vệ đại tướng quân Đàm An-Hòa bị nó bắt sống, chư quân cùng chúng ta công thành, cứu chúa tướng. Nào tiến lên.
    Đám binh tướng ngơ ngác tiến thoái lưỡng nan, không biết nên nghe lời Lê Văn hay nghe lời đám trưởng lão. Lê Văn hiểu tâm lý đám Thiên-tử binh: Họ chẳng vạ gì mà nghe lời mấy tên ma đầu, nhưng quân luật triều Lý định rằng: Khi đồng đội bị địch bắt, mà mình không cứu thì bị xử tử. Chàng đưa mắt nhìn Khai-Quốc vương, thấy vương im lặng, chàng hiểu liền: Mình có giết tên này, vương cũng không buồn.
    Chàng túm tóc tên Đàm An-Hòa đưa ra cho chư quân nhìn rồi nói:
    - Nuôi quân ba năm, dùng chỉ một giờ. Chư quân là Thiên-tử binh mà đi nghe lời bọn ma đầu ư? Nếu chư quân không muốn giao chiến với đám Hồng-hương thiếu niên và thiết kị Hồng-thiết giáo thì có khác gì phiến loạn, sẽ bị xử tử. Chư quân coi đây.
    Tay phải rút kiếm, tay trái tung Đàm An-Hòa lên cao. Ánh thép lóe sáng, người An-Hòa bị chẻ dọc, cắt ngang thành bốn mảnh rơi xuống dưới thành.
    Chàng cởi cái bọc trên lưng đưa ra, rồi hướng vào đội thiết kị Hồng-thiết giáo, đội Hồng-hương thiếu niên vói lớn:
    - Chư vị giáo chúng Lạc-long giáo. Trước đây các người theo Hồng-thiết giáo, đã được ân xá. Nay chắc trong khi giáo chủ vắng nhà, các người bị bọn ma đầu kiềm chế phải không? Các người hãy buông vũ khí đầu hàng, các người sẽ được giáo chủ Thân Thiệu-Thái trị dứt độc tố cả đời cho.
    Chàng ngừng lại một lúc, rồi tiếp:
    - Trong khi các người theo bọn Hoàng Văn, Đặng Trường làm loạn, thì quân của Bắc-biên, của các trấn kéo về âm thầm bao vây. Ngày một ngày hai những ai theo Hồng-thiết giáo sẽ bị giết sạch. Các người hãy nhìn đầu tên Phạm Trạch và mụ Ngô Bách-Vân đây.
    Chàng cởi bọc, túm tóc thủ cấp Phạm Trạch, Ngô Bách-Vân đưa ra cho mọi người coi, rồi chàng liệng xuống chân thành.
    Thình lình đám đệ tử Hồng-hương hô tiếng lớn, rồi một cây cờ Lạc-long giáo được phất lên, và cây cờ Hồng-thiết giáo bị hạ xuống. Người cầm đầu nói lớn:
    - Chúng tôi là con dân của Đại-Việt, nguyện trung thành với Hoàng-thượng.
    Lê Văn liếc nhìn, chàng chợt nhận ra người cầm đầu đám thiếu niên này là Phan Thi, với Trần Minh. Hồi trước hai người này cùng đồng đội bị Cao Thạch-Phụng, Nguyên-Hạnh định giết chết ở trên đỉnh Dục-thúy, được Thanh-Mai, Bảo-Hòa cứu thoát. Bảo-Hòa dặn họ tiềm ẩn trong Hồng-hương mật cốc, làm tai mắt cho triều đình. Bây giờ, chắc Tạ Sơn mật lệnh cho họ trước, cho nên họ mới hiển lộ thân thế ra.
    Khai-Quốc vương đưa mắt cho Lý Huyền-Sư. Huyền-Sư lấy ba cây pháo lệnh châm ngòi rồi tung lên không từng cây một. Mỗi cây phát ra tiếng nổ lớn, hóa thành hình một bông sen mầu tím sáng rực trên trời. Khi ba cây pháo bông hình sen vừa tắt, thì lập tức trên không phận cửa Phi-long, Tường-phù cũng có ba cây pháo thăng thiên nổ tung, tỏa ra hình con chim ưng xoè cánh. Lê Văn reo:
    - Đô đốc Vũ Minh bắt đầu tấn công đạo quân của Vũ-Đức vương. Chắc chắn cửa thành mở để Lý Nhân-Nghĩa, Lê Thuận-Tông đánh thẳng ra. Đạo thủy quân của hạm đội Bạch-đằng đánh từ Bắc xuống.
    Tiếp theo trên không phận cửa Quảng-phúc lại nổ tung ba cây pháo bông nữa, Thiệu-Thái nhận ra đó là tín hiệu của Khu-mật viện. Chàng la lên:
    - Nùng đạo trưởng cho mở cửa Quảng-phúc để đạo quân anh Tạ Sơn với Quách Thịnh đánh bọc hông Vũ-Đức vương, Dực-Thánh vương.
    Đứng trên mặt thành, Khai-Quốc vương nhìn rất rõ đạo thủy quân của Phạm Tuy đang từ cửa Bắc tiến tới. Đạo quân của Tạ Sơn đang từ cửa Nam đi lên, trống thúc nhịp nhàng. Đặng Trường vốn kinh nghiệm hành quân. Y vẫy tay cho đội thiết kị Hồng-thiết giáo lui lại, chia làm hai. Đội giáo chúng chống với đội thủy quân. Đội thiết kị chống với đội của Tạ Sơn.
    Một người từ điện Long-thụy phi ngựa tới, chính là Khai-Thiên vương. Vương lên mặt thành, đứng cạnh Khai-Quốc vương. Vương nói nhỏ:
    - Chú hai! Khi chú rời cung Long-thụy thì thân mẫu Mỹ-Linh cũng đi ra ngoài. Ta tìm khắp cả mà không thấy.
    - Từ hôm chị từ Trung-nguyên về, tình hình ra sao?
    - Ta đã tâu trình lên phụ hoàng, phế bỏ xuống làm thị tỳ. Tuy vậy, vì là mẹ của bốn đứa con, ta không nỡ đuổi khỏi cung. Từ đấy suốt ngày thị không nói, không rằng. Đêm thì âm thầm luyện kiếm, đôi khi đóng cửa phòng khóc lóc một mình.
    Cuộc đối thoại phải ngưng lại vì trống trận hai bên thúc vang lừng.
    Thình lình cửa thành mở rộng, đạo Ngự-long hữu do Lê Văn, Lý Huyền-Sư chỉ huy hùng hổ tiến ra hợp với đội Hồng-hương thiếu niên. Thế là đám quân Hồng-thiết giáo bị bao vây ba mặt. Nhưng khi các đạo quân triều tới trước đám giáo chúng khoảng mười trượng thì ngừng lại reo hò.
    Đặng Trường nói với Hoàng Văn:
    - Tên Lý Long-Bồ rất nhiều mưu mẹo. Dường như y muốn uy hiếp tinh thần chúng ta, để tránh đổ máu. Tứ đệ giỏi binh bị. Vậy ta với giáo chúng rút về phía Thiên-trường trước. Tứ đệ với đội thiết kị cản hậu.
    Đám giáo chúng chuyển động, tiền đội đổi làm hậu đội rồi từ từ lui quân. Trong khi đội thiết kị dàn ra đoạn hậu.
    Đô đốc Phạm Tuy cầm cờ phất một cái, lập tức Tôn Đản, Cẩm-Thi hô quân xung vào trước đội thiết kị Hồng-thiết. Hoàng Văn cầm chắc thanh đao chuẩn bị tác chiến. Nhưng Tôn Đản ra lệnh cho quân dừng lại. Chàng cười ha hả:
    - Hoàng quân hầu. Người chẳng là thần tử nhà Tống ư? Người chẳng từng được phong làm Cổ-loa hầu ư? Trong đại hội Lộc-hà, Thân giáo chủ chẳng trị bệnh cho người đó ư? Thuận-Thiên hoàng đế chẳng từng ân xá tội cho người ư? Tại sao người lại theo Dực-Thánh vương làm loạn. Người hãy buông đao đầu hàng. Ta quyết Khai-Quốc vương sẽ ân xá cho người.
    Hoàng Văn còn đang tần ngần suy nghĩ, thì một kị mã, thân thể nhỏ bé, mặt bịt kín; từ trong đội Ngự-long phi ra như ánh chớp. Viên kị mã rút kiếm đâm Hoàng Văn, thế kiếm cực kỳ hiểm độc. Hoàng Văn giật cương cho ngựa lui lại, thì kỵ mã bịt mặt lại tung người nhảy lên cao, kiếm tà tà đâm vào cổ Hoàng Văn. Hoàng Văn nhận ra đó là Mê-linh kiếm pháp, y cười nhạt, vung đao lên gạt kiếm. Nhưng kiếm đã đổi chiều hướng vào trán y. Kinh hoàng y cúi rạp người xuống tránh, thì kiếm lại đổi chiều chúc vào đỉnh đầu y.
    Không hổ là đại ma đầu, kinh nghiệm chiến đầu có thừa, Hoàng Văn cúi rạp người xuống, rồi thúc chân vào bụng ngựa; thân hình y trườn qua dưới háng viên kị mã. Đối với bất cứ người trong võ lâm nào ở vào hoàn cảnh Hoàng Văn, thì thà chịu chết, chứ không ai chịu nhục xử dụng lối thoát thân vô lại, chui qua háng đối thủ. Nhưng những đệ tử Hồng-thiết giáo đều là bọn mặt dầy, vô liêm sỉ, bởi vậy Hoàng Văn thản nhiên như không.
    Viên kị mã giết hụt Hoàng Văn, tà tà đáp xuống đất. Chân vừa chạm đất, người đó quay lại rất nhanh, tung người lên xỉa kiếm vào hông y. Hoàng Văn vì khinh thường đối thủ, hút chết, chưa hết kinh hoàng, thì kiếm đã tới ngực. Y vội vọt người lên cao, đao khoa dưới chân đề phòng đối thủ dùng kiếm đánh ngược lên. Nhưng người kị mã lại đổi chiều kiếm, ánh thép loáng một cái, đầu ngựa của Hoàng Văn rơi khỏi cổ. Thân ngựa còn dư lực lộn lên khỏi mặt đất rồi ngã xuống.
    Quân, tướng hai bên đều kinh hoàng nhìn trận đấu. Người ra chiêu đã thần tốc, mà kẻ ứng phó cũng tuyệt diệu. Hoàng Văn rơi xuống đất, y ôm đao hất hàm hỏi kị mã:
    - Mi là ai? Ta không muốn đối chiêu với kẻ vô danh.
    Đứng lược trận trên thành Huệ-Sinh nói với Khai-Quốc vương:
    - Vương gia xem, Mê-linh kiếm pháp thực ảo diệu vô cùng. Nếu sư phụ hoặc vương gia là Hoàng Văn thì cũng chỉ có cách đó mới thoát chết. Nhưng kị mã là ai? Trông lưng quen quá. Không lẽ là công chúa Bình-Dương?
    Khai-Quốc vương lắc đầu:
    - Bình-Dương cao hơn người này một chút. Dường như người này là đàn bà, vì thức lượn trên không bà ta uốn cong lưng coi thực đẹp mắt.
    Bên phía đạo quân Tạ Sơn, quận chúa Trường-Ninh ngồi trên bành voi với Hà Thiện-Lãm. Nàng chỉ cho Lãm những chiêu kiếm của kị mã:
    - Người này dùng kiếm pháp Mê-linh ảo diệu hơn bọn em nhiều, có lẽ không thua chị Mỹ-Linh làm bao. Dường như y là đàn bà thì phải.
    Hồng-Phúc ngồi trên bành voi với Lưu-Tường. Vốn ỷ có mẹ che chở, đành hanh, ganh tỵ đã quen, nghe chị nói, nàng hứ một tiếng rồi bắt bẻ:
    - Không biết học được mấy cái múa, mà cũng ra vẻ ta đây giỏi kiếm pháp. Hơi một tý thì đem cô chị Mỹ-Linh ra dọa thiên hạ, làm như chỉ có Mỹ-Linh là giỏi nhất thế gian.
    Trường-Ninh khuyên em:
    - Em ơi, chúng mình đang đối đầu với quân giặc. Em muốn gây sự thì gây với giặc, chứ có đâu gây với chị hoài.
    - Người chờ đi.
    Người kị mã bịt mặt lại quay tròn kiếm đánh liền mấy chiêu, Hoàng Văn vừa hò hét, vừa nhảy nhót tránh né. Người ngoài không còn phân biệt được đao hay kiếm; không rõ kị mã hay Hoàng Văn nữa. Thình lình một ánh thép bay lên cao rồi rơi xuống. Hoàng Văn nhảy lui lại, máu trên cổ tay y chảy xuống xối xả. Kị mã chĩa kiếm vào ngực y quát lớn:
    - Quỳ xuống!
    Hoàng Văn cười ha hả:
    - Con bà mi! Thì ra mi là đàn bà. Ta giận vì học nghệ không tinh. Ta thà chết chứ không quỳ gối.
    Kị mã cười lanh lảnh:
    - Cái đó thì không khó.
    Kị mã áo đen chỉ nói mấy câu, mà Khai-Thiên vương, Trường-Ninh đều rúng động tâm thần. Vì cả hai nhận ra bà chính là vương phi Liên-Phương. Vương vội xuống dưới thành quan sát trận đấu.
    Thình lình Hoàng Văn, đưa người về phía trước, mũi kiếm đâm vào giữ ngực y, bình một tiếng, làn nước đen từ giữa ngực Hoàng-Văn tung vào Liên-Phương. Kinh hoàng bà nhảy lùi lại liền ba bước, nhưng mặt, ngực bà đã bị nước đen bắn vào. Hoàng-Văn cũng nhảy lùi liền ba bước, rồi co giò chạy. Nhưng y vừa chạy mấy bước thì một người rơi ngay trước mặt y. Không tránh kịp, hai người đụng vào nhau đến huỵch một tiếng, cả hai bật lui trở lại.
    Mọi người nhìn lại, thì ra người đụng nhau với Hoàng Văn là Tôn Đản. Nguyên Tôn Đản đứng lược trận, chàng thấy kiếm pháp người bịt mặt dường như không thua Mỹ-Linh làm bao, nhưng chàng để ý thấy ngực, bụng Hoàng-Văn sao tự nhiên lớn khác thường. Nếu bảo rằng y béo ra, thì phải béo đồng đều, chứ có đâu mặt, chân tay gầy hơn hồi đại hội Lộc-hà, mà bụng lại lớn. Chàng nhớ lại trận Tản-lĩnh, tên Cút-Độp đã dấu trong ngực một bọng da chứa chất độc, khiến Tây-Sơn lão nhân hút mất mạng... Vì vậy chàng quan sát trận đấu, nhưng chuẩn bị sẵn.
    Quả nhiên đúng như chàng ước tính, Khai-Thiên vương phi bị mắc bẫy Hoàng Văn. Y đang chạy, thì chàng tung người theo cản đường. Hoàng Văn đã nhận ra chàng. Y cười nhạt:
    - Mi không muốn sống nữa ư?
    Tôn Đản chưa kịp trả lời, thì tiếng vương phi Khai-Thiên vương đã gào thét kinh khủng. Bà ôm mặt nhảy lên, rồi hét lanh lảnh, chứng tỏ đau đớn cùng cực. Trường-Ninh vội bồng bà vào thành, miệng gọi Thiệu-Thái:
    - Anh mau cứu vương mẫu với. Vương mẫu bị trúng độc.
    Thiệu-Thái tung mình đến đỡ lấy mợ, rồi cùng Trường-Ninh đem bà vào cung Uy-viễn gần đấy.
    Ngoài này Tôn Đản với Hoàng Văn đã đấu được đến chiêu thứ năm mươi. Bàn về công lực, thì Tôn Đản hút nội lực của hai đại cao thủ phái Hoa-Sơn trên Tản-lĩnh. Trong trận Biện-kinh, chàng lại thu được công lực của các đối thủ Tống. Cho nên hiện công lực chàng cao hơn Hoàng Văn gấp bội. Nhưng chàng chưa thắng được y bởi, một là y rất bác học, khi thì y dùng võ công Tiêu-sơn, khi thì y dùng võ công Đông-a, lại có lúc y dùng võ công Mê-linh. Hai là chàng úy kị độc chưởng của y, nên chàng cứ phải dùng võ công Đông-a mà Tự-Mai dạy chàng, trong khi gốc võ công, nội công của chàng là Mê-linh. Nên chàng không phát xuất hết tinh lực ra nổi.
    Đấu được hơn năm mươi chiêu nữa, thì công lực của chàng phát ra tối đa. Hoàng Văn bắt đầu núng thế. Thình lình y đánh ra một chiêu, Tôn Đản cảm thấy trong chưởng có hơi lạnh. Ngô Cẩm-Thi đứng lược trận, bật lên tiếng la:
    - Cẩn thận! Võ công Liêu-Đông.
    Tiếng la của Cẩm-Thi đưa Tôn Đản trở về thực tại. Ngày nọ Mỹ-Linh đấu với Hoàng Văn tại phủ Khai-Thiên. Khi Mỹ-Linh đánh như vũ bão, khiến Hoàng Văn không thể dùng võ công tạp nhạp học lóm mà phải xử dụng võ công Liêu-Đông của y. Huệ-Sinh đã phân giải cho chàng biết rằng võ công Liêu-Đông là võ công Trung-nguyên, nên chàng nhắc Mỹ-Linh dùng võ công Cửu-chân mới thắng y. Còn khi y dùng võ công mới đây của Trung-nguyên, thì tính chất khắc chế không còn nữa.
    Bây giờ thấy Hoàng Văn dùng võ công Liêu-Đông, chàng nghĩ thầm: Chính mi tự tìm lấy cái chết của mi, thì đừng trách ta. Thình lình chàng xuất chiêu Kình nhập biển Đông, bình một tiếng, hai chưởng chạm nhau. Hoàng Văn bật lui liền ba bước, Tôn Đản di chuyển theo phát chiêu Hải-triều lãng lãng lớp thứ nhất. Bình tiếng nữa, Hoàng-Văn lại lui liền hai bước. Nhưng Tôn Đản không để cho y kịp thở chàng phát lớp thứ nhì. Lớp này mạnh gấp hai lớp đầu. Bình, Hoàng Văn lảo lảo muốn không vững. Tôn Đản hít một hơi, chàng phát lớp thứ ba, mạnh gấp bốn lần lớp thứ nhất. Chàng nói lớn:
    - Xin Khai-Thiên vương, vương phi hãy xem tên ma đầu đền tội. Bình một tiếng, người Hoàng Văn bay bổng lên cao. Tôn Đản hướng lên trời phát lớp thứ tư. Ầm một tiếng, người Hoàng Văn vỡ nát ra, thịt, xương, ruột, gan bay tung khắp nơi.
    Chàng ngừng lại, một kị binh thuộc đội thị-vệ đã nhảy xuống ngựa cắt đầu Hoàng Văn, rồi cung cung, kính kính dâng lên cho Khai-Quốc vương. Khai-Quốc vương truyền:
    - Hoàng Văn trước đây là gia tướng của Khai-Thiên vương, phạm tội với vương không ít. Người hãy dâng thủ cấp y cho vương.
    Tôn Đản quay lại tìm đội Thiết-kị Hồng-thiết giáo, thì không thấy một bóng người nào nữa. Chàng đưa mắt hỏi Tạ Sơn.
    Tạ Sơn ghé miệng vào tai Tôn Đản nỏi nhỏ:
    - Đám thiết kị này là người trung thành với Lạc-long giáo. Họ giả theo bọn Hồng-thiết giáo, rồi khi lâm trận sẽ trở giáo đánh chúng. Hồi nãy ta ra mật lệnh bằng ký hiệu bảo họ hãy rút theo Đặng Trường. Cho nên khi họ rút, quân mình không đuổi theo là thế.
    Khai-Quốc vương ra lệnh:
    - Tạ sư đệ hãy trở về giữ Khu-mật viện. Tôn Đản thay anh Tạ Sơn tổng chỉ huy Thuận-Tông với đạo binh Phong-châu, Phan Thi với đội Hồng-hương thiếu niên đuổi theo bọn giáo chúng Hồng-thiết giáo khẩn cấp. Ta tăng viện cho sư đệ Trấn-uy đại tướng quân Lê Phụng-Hiểu.
    Vương ghé tai Tôn Đản dặn nhỏ mấy câu. Tôn Đản gật đầu, chàng cùng Ngô Cẩm-Thi leo lên một bành voi, hô quân đuổi giặc.
    Vừa lúc đó, có ngựa lưu tinh đến báo:
    - Khải vương gia, tại cửa Phi-long, Tường-phù, đô đốc Vũ Minh bao vây kín đạo quân phản loạn, rồi kêu gọi đầu hàng. Vũ-Đức vương muốn nói truyện với vương gia trước khi đầu hàng, chứ không muốn nói truyện với các tướng. Vương còn nói: Nếu vương gia không tới, thì quyết chiến đấu đến người cuối cùng, đừng hy vọng đầu hàng hay rút lui.
    Khai-Quốc vương cùng Lê Văn, Tạ-thuần-Khanh lên ngựa hướng cửa Đông. Vương tới nơi, chư quân dãn vòng vây ra cho vương vào. Bên trong vòng vây, ba đạo quân phản loạn Quảng-vũ, Hồng-thiết, Hồng-hương dàn trận theo thế quay lưng vào nhau sẵn sàng sống chết. Vương gò ngựa hỏi lớn:
    - Vũ-Đức vương đâu?
    Vũ-Đức vương cùng Nguyên-Hạnh, Lê Tấn, Vũ Hào, Linh Vũ-Nguyên, Thạch Nan-Biện, Nguyễn Khánh tiến ra. Vũ-Đức vương hỏi Khai-Quốc vương:
    - Nhị ca! Nhị ca hãy nói thực đi, hiện thời phụ hoàng ra sao? Dực-Thánh vương xuất ra đạo chỉ dụ thủ bút của phụ hoàng, gọi người vào để nhận di chiếu, thay quyền nhị ca trong khi nhị ca vắng nhà. Thế rồi đại ca đem quân phong toả cung thất, không cho em thăm phụ hoàng. Rồi người nói rằng đại ca hợp với vợ chồng Thân Thừa-Quý ám hại nhị ca. Trong lúc phẫn chí, em phải nhờ các trưởng lão Lạc-long giáo trở giúp, đem quân hỏi tội Phật-Mã. Bây giờ thình lình nhị ca xuất hiện, đem đại quân vây em. Em không hiểu gì cả.
    Những lời nói của Vũ-Đức vương khiến Khai-Quốc vương nhớ lại một truyện: Hôm Tự-Mai vào hoàng-cung Tống trộm toàn bộ thư tịch về khoa Tử-vi trao cho vương. Vương cùng Thanh-Mai, Mỹ-Linh, Cẩm-Thi xúm vào nghiên cứu. Chỉ hơn mười ngày, bốn người đã có căn bản về khoa này. Mỹ-Linh, Cẩm-Thi chấm số của Thuận-Thiên hoàng đế, cùng chư vương, đại thần. Vương chú ý đặc biệt đến lá số của Vũ-Đức vương. Hôm đó Thanh-Mai, Mỹ-Linh đều giải đoán rằng:
    Phá-quân thủ mệnh tại Dần, ngộ Văn-xương, Thái-tuế. Trong Tử-vi kinh nói :Phá-quân nhất diệu tính nan minh, nghĩa là mệnh chỉ có Phá-quân thủ thì tính tình không minh mẫn, nhẹ dạ, dễ tin người. Hơn nữa Phá-quân ngộ Thái-tuế thì thuộc loại coi người thân như cừu thù, coi kẻ ác như chân tay. Năm nay đại tiểu hạn ngô Kiếp, Hình, Kị e bị chết thảm dưới đao thương.
    Bây giờ thấy em đứng cạnh sáu đại ma đầu Hồng-thiết giáo, vương suy nghĩ:
    - Mình hãy cố cứu ông em này xem sao.
    Vương nói nhỏ nhẹ:
    - Chú tư ơi! Chú có tin anh không? Chú có nghĩ rằng anh em chúng ta như cây liền cành không? Làm gì có truyện Khai-Thiên vương cướp ngôi? Làm gì có truyện ta bị giết chết? Tin anh đi. Chú hãy cho rút quân. Ta hứa tha hết tội lỗi cho chú, cho chư quân.
    Vũ-Đức vương chỉ đám ma đầu Hồng-thiết giáo:
    - Nhị ca có hứa ân xá cho mấy người chân tay của em không?
    Khai-Quốc vương nghĩ rất nhanh:
    - Thì ra ông em đặt vấn đề với mình chỉ với mục đích ân xá cho bọn sát nhân kinh tởm này. Trước đây phụ hoàng cùng võ lâm đã tha cho chúng một lần, rồi bây giờ chúng lại mưu phản, ta không thể tha cho chúng một lần nữa. Nhưng nếu ta không tha cho chúng, thì e có cuộc đổ máu mà số người chết đến hàng nghìn. Nhược bằng ta hứa, rồi tìm cách giết chúng sau thì mất tín với thiên hạ. Được ta có cách, ta hòa hoãn để cho quân của chúng lo sợ, rồi không đánh cũng tan.
    Vương khoan thai nói:
    - Việc ân xá cho chư quân thuộc thẩm quyền của anh, vì anh là Phụ-quốc thái-úy. Còn ân xá cho những người của Hồng-thiết giáo chỉ phụ-hoàng mới có quyền. Sau khi phụ-hoàng ân xá, họ còn phải được Lạc-long giáo tha cho nữa. Theo anh nghĩ thì họ có tội hay không thì sẽ do hội đồng giáo vụ xử họ. Anh không có quyền tha cho họ.
    Vương vận nội lực hướng chư quân nói lớn:
    - Chư quân tướng nghe đây! Các người có phải là Thiên-tử binh không? Có phải phụ-hoàng ta hằng tín nhiệm chư quân chăng? Có phải cơm chư quân ăn, áo chư quân mặc, nhà chư quân ở, vợ con chư quân cũng được ấm no vinh hạnh không? Tất cả những thứ đó có phải là ân điển của Thiên-tử không? Thiên-tử ưu đãi chư quân như thế, thì chư quân có phải là con Thiên-tử không?
    Chư quân tướng đồng dạ một tiếng lớn. Vương tiếp:
    - Chư quân đã là con của Thiên-tử. Ta là Phụ-quốc thái-úy, thống lĩnh chư quân bấy lâu nay. Như vậy chư quân có phải là em ta không? Còn chư tướng. Ta hỏi chư tướng câu này nhé: Chư tướng đều do ta cất nhắc, dạy dỗ mà lên. Bấy lâu nay ta đối với chư tướng có gì bất công chăng?
    Chư tướng đồng hô lớn : không.
    - Như vậy chư tướng, chư quân đều là em ta. Hồi nãy ta đứng trên mặt thành, chư quân tướng không tin ta là Khai-Quốc vương phụ quốc thái úy, nên đã dùng tên bắn ta. Song ta biết chư quân tướng lầm lẫn, nên ta không chấp. Ta từ Trung-nguyên trở về, đã đem quân Bắc-biên cùng các trấn, giải tỏa cửa Diệu-đức, Đan-phượng, Đại-hưng, Quảng-đức mà không đổ máu. Ta lại cho Hạm-đội Động-đình chiếm Thanh-hóa, đánh phía sau đạo phản loạn của Đàm Toái-Trạng. Hiện chỉ còn có cửa Phi-long, Tường-phù này mà thôi. Đô đốc Vũ Minh tổng chỉ huy quân giải tỏa cử Phi-long, Tường-phù. Chư quân tướng bị vây vào giữa. Chư quân thấy không, thủy quân Hạm-đội Âu-Cơ vây phía Bắc. Phía Nam thì Vũ-kị đại tướng quân Quách Thịnh chỉ huy hai đạo Bổng-nhật đánh lên. Phía trong thành thì Hổ-uy đại tướng quân thống lĩnh Cấm-quân cùng đạo binh Phong-châu từ trong đổ ra.
    Vương thấy quân tướng im lặng, biết có hiệu quả, vương tiếp:
    - Về gia quyến chư quân, tướng, ta đã cho Thị-vệ tới canh phòng cẩn thận, quyết không cho ai xâm phạm tới. Vậy chư quân, tướng còn đợi gì mà không rời nơi đây, đem vũ khí về đầu hàng. Ta Khai-Quốc vương, Phụ-quốc thái-úy thề sẽ ân xá mọi tội trạng cho chư quân tướng. Vậy ta nới vòng vây trong một ngày cho chư quân tướng suy nghĩ rồi hành động.
    Thấy Vũ-Đức vương còn ngần ngừ, Khai-Quốc vương tiếp:
    - Chú không tin anh ư? Vậy anh nới vòng vây, dành cho chú một ngày để suy nghĩ.
    Vương nói với đô đốc Vũ Minh:
    - Vũ đô đốc, xin đô đốc nới vòng vây trong vòng một ngày để Vũ-Đức vương cùng chư quân nghỉ ngơi, trong khi ta thỉnh mệnh ở Hoàng-thượng.
    Khai-Thiên vương trở về điện Càn-nguyên. Vương gọi đô đốc Vũ Minh lại bên cạnh nói:
    - Sư đệ thu quân, không vây Vũ-Đức vương nữa. Nếu như vương hối lỗi, ắt sẽ lệnh cho Nguyễn Khánh lui quân rồi vào thành gặp ta. Bằng vương còn tham quyền cố vị, ắt sẽ cùng chúng rút khỏi kinh thành về Trường-yên hội với Nhật-Hồ lão nhân. Tại cửa Đan-phượng, Đại-hưng, ta đã làm tương tự, tàn quân Hồng-thiết giáo do Đặng Trường chỉ huy đã rút về Thiên-trường. Ta muốn chúng tập trung tại Trường-yên rồi đánh một trận, diệt hết. Chứ đánh tại Thăng-long này, chúng sẽ tản vào dân chúng, khó mà quét sạch.
    Khai-Quốc vương trở vào cung Long-thụy thăm bệnh tình Thuận-Thiên hoàng đế. Hoàng-đế thấy vương vào, mặt rồng tươi tỉnh hỏi:
    - Ta biết con dẹp loạn xong rồi. Tình hình ra sao?
    Vương thuật chi tiết các trận đánh. Hoàng-đế hỏi:
    - Thế Dực-Thánh vương, Vũ-Uy vương, Đông-Chinh vương hiện ở đâu?
    - Dực-Thánh vương rút theo Đặng Trường về Trường-yên. Vũ-Uy vương bị Đàm Toái-Trạng giam ở Thanh-hóa, đã được đệ tử phái Đông-a cứu thoát. Hoàng nhi tạm cử vương trấn Thanh-hóa thay Đàm Toái-Trạng. Đông-Chinh vương đang cùng Phạm Trạch, Lê Tấn vây cửa Nam. Khi thấy hoàng nhi về, vương muốn bãi quân thì bị Phạm Trạch, Lê Tấn bắt giam vương cùng cung quyến quản thúc tại phủ đệ của vương. Chư đệ tử phái Tản-viên vừa cứu thoát vương xong.
    - Thế công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hòa với phò mã Thân Thừa-Quý đâu?
    - Đúng ra vua Bà cùng Thân phò mã đem các đạo quân về dẹp loạn. Đạo Thượng-oai, Phong-châu hoàng nhi dùng vào việc trấn Thăng-long. Hiện đang đuổi theo giặc về hướng Trường-yên. Đạo thứ ba do Nùng Tồn-Phúc chỉ huy, gồm quân của y tại châu Thảng-do, quân của em y là Tồn-Lộc tại châu Vạn-nhai; quân của em vợ y là Dương Đạo tại châu Vũ-lặc, tiến về trấn cửa Diệu-đức và các bến thủy quân. Còn chính quân của Bắc-biên định để giữ nhà, thần nhi khuyên vua Bà rằng: Bọn Hồng-thiết giáo ẩn thân ở Bắc-biên rất nhiều. Nay ta vờ điểm quân về cứu Thăng-long, tất ở nhà chúng nổi dậy. Ta đi giữa đường, thình lình trở về, diệt hết bọn chúng. Hiện dư đảng Hồng-thiết giáo ở Bắc-biên đã quét hết.
    Thuận-Thiên hoàng-đế hài lòng. Ngài hỏi:
    - Hoàng nhi định giải quyết phần còn lại ra sao?
    - Hiện tất cả các trấn, phủ, huyện, châu quận đã dẹp hết dư đảng Hồng-thiết giáo. Tuy nhiên loạn vừa dứt, dân chúng chưa an. Vậy thần xin trao Thăng-long cho Khai-Thiên vương chỉ huy các đạo quân Ngự-long, Bổng-nhật, Quảng-thánh, Cấm-quân, Thị-vệ trấn thủ. Nội cung nhờ đệ tử Mê-linh. Hạm đội Âu-Cơ chuyển lên trấn vùng lãnh hải giáp Trung-nguyên. Hạm đội Bạch-đằng trấn Thăng-long. Đạo quân của Nùng Tồn-Phúc cho về trấn Bắc-biên. Thần xin đem hai đạo Thượng-oai, Phong-châu, cùng đoàn đệ tử Tản-viên, Tiêu-sơn đuổi theo giặc về Trường-yên.
    Thuận-Thiên hoàng đế gọi Khai-Thiên vương lại bên dường:
    - Ta nghe nói Triệu Liên-Phương bị Hồng-thiết giáo làm nhục. Nó âm thầm luyện Mê-linh kiếm pháp để tự tay giết tên Hoàng Văn hầu trả hận. Nó... nó... bị trúng độc của Hoàng-Văn, tuy Thiệu-Thái hút độc tố cứu nó. Nhưng nó đã dùng kiếm tự sát để tạ tội với con. Nay ta ban chỉ ân xá cho Liên-Phương. Vậy con hãy dùng lễ vương phi an táng, chẳng nên nghĩ đến tội lỗi cũ làm gì.
    Khai-Thiên vương quỳ xuống khấu đầu:
    - Thần nhi xin tuân chỉ phụ hoàng.
    Đến đây Thuận-Thiên hoàng-đế quá mệt nhọc, ngài nắm tay Khai-Quốc vương:
    - Ta xuất thân là Phật-tử. Trong suốt thời gian làm vua, ta đem đức từ bi, hỷ xả của đức Thế-tôn ra tạo hạnh phúc cho dân. Không ngờ cuối đời ta lại gặp cái nạn này. Vậy Hoàng-nhi đem quân dẹp giặc, cũng nên khoan thứ cho kẻ ác một lần nữa. Dùng hình pháp chỉ là bất đắc dĩ. Thôi con lên đường mau.
    Khai-Quốc vương từ tạ Thuận-Thiên hoàng-đế rồi ra ngoài. Vương dẫn Khai-Thiên vương đến điện Càn-nguyên tuyên chỉ của Hoàng-đế đến các thân vương cùng văn võ bách quan. Vương dặn anh:
    - Họp chư tướng, thống chư quân, tụ anh hùng... anh không bằng em. Nhưng an định, tổ chức cai trị, nắm giữ giềng mối em không bằng anh. Vậy anh giữ Thăng-long, để em đi dẹp giặc.
    Vương phân chia các tướng: Dương Bình, Tạ Sơn, Quách Thịnh, Lý Huyền-Sư, ở lại trấn Thăng-long. Còn Thông-Mai, Bảo-Hòa, Thiệu-Thái, Mỹ-Linh, Lý Nhân-Nghĩa đuổi theo giặc về Trường-yên.
    Sáng hôm sau, đô đốc Vũ Minh khải với Khai-Quốc vương rằng đêm qua Vũ-Đức vương cùng bọn ma đầu Hồng-thiết giáo với quân sĩ thuộc quyền đã rút về hướng Trường-yên hội quân với Nhật-Hồ lão nhân. Trong khi rút dọc đường, quân sĩ thuộc đạo Quảng-vũ dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Khánh bỏ trốn hết. Từng toán lẻ tẻ đã về trình diện Thái-tử thiếu-phó Dương Bình. Họ đã được ân xá, đội ngũ lại giữ nguyên như cũ. Chỉ có rất ít đội trưởng theo Nguyễn Khánh mà thôi.
    Khai-Quốc nói với Dương Bình:
    - Phiền Dương sư huynh đích thân tổ chức, chỉ huy đạo Quảng-vũ. Hãy cho quân, tướng nghỉ về thăm nhà trong nửa tháng, để an ủi họ sau một thời gian lo lắng, kinh hãi.
    Ưng binh vào trình Khai-Quốc vương một ống đựng thư. Vương mở ra coi, thì ra thư của vương phi Thanh-Mai. Thông-Mai vốn cực kỳ sủng ái cô em gái này, chàng quên cả lẽ trung dung, hấp tấp hỏi:
    - Quốc vương. Thanh-Mai ra sao?
    Khai-Quốc vương cảm động về tình yêu của ông anh dành cho vợ mình. Vương cầm lấy tay chàng:
    - Chắc là không sao, nên mới có thư dài thế này.
    Vương đọc lướt qua, rồi nói với chư tướng:
    - Nhật-Hồ lão nhân đích thân chỉ huy đánh trang Thiên-trường cùng Trường-yên. Lão thất bại tại Thiên-trường, nhưng Trường-yên thì bất phân thắng bại. Ta phải tiếp cứu Trường-yên ngay.
    Vương hô mọi người lên đường. Khi ngựa cách xa Thăng-long khoảng bẩy chục dặm, thì gặp đạo quân Thượng-oai đang đi phía trước. Hà Thiện-Lãm, Trường-Ninh; Lưu Tường, Hồng-Phúc cứ mỗi cặp ngồi trên một bành voi. Lý Nhân-Nghĩa cỡi ngựa đi hậu quân. Lý Nhân-Nghĩa là học trò Bảo-Hòa, vì vậy khi y thấy Khai-Quốc vương với Bảo-Hòa, thì vội vã xuống ngựa đứng ven đường:
    - Thần xin bái kiến vương gia.
    Y cung kính hướng Bảo-Hòa:
    - Đệ tử khấu đầu trước tiên cô.
    Bảo-Hòa hỏi:
    - Nhân nghĩa! Có tin gì lạ không?
    - Tấu cô đúng như Khai-Quốc vương dự đoán, đạo quân của Đặng Trường không rút về Trường-yên, mà rút về Thiên-trường. Cho nên thiếu hiệp Tôn Đản cứ cho quân theo xa xa. Còn đạo quân của Vũ-Đức vương thì rút thẳng về Trường-yên, nên đệ tử đuổi theo đến đây.
    Y hướng Khai-Quốc vương:
    - Không rõ chủ ý của Nhật-Hồ lão nhân ra sao, mà y cứ nhất định chiếm bằng được Trường-yên. Y tung hầu hết đệ tử công thành Trường-yên, nhưng bên trong, vương phi với Ngô An-Ngữ phòng ngự rất chắc, nên đệ tử Hồng-thiết giáo với Hồng-hương thiếu niên chết khá nhiều.
    Khai-Quốc vương giảng giải:
    - Không phải y ngu đâu, mà có tính toán đàng hoàng. Sau khi xúi dục Dực-Thánh vương làm loạn thất bại, y dùng toàn lực chiếm lấy Trường-yên. Vì Trường-yên là thủ phủ tổng trấn Nam-thùy Đại-Việt. Y nghĩ rằng Đàm Toái-Trạng trấn Thanh-hóa sẵn rồi. Nếu y chiếm Trường-yên nữa, thì y có một giải đất phía Nam. Bấy giờ y cố thủ, nếu triều đình đem quân đánh, e phải tổn thất rất nhiều. Nhân đó y xin cho Dực-Thánh vương trấn thủ Nam-thùy làm mộc vị. Y sẽ dùng giáo chúng tại Chiêm-thành, Chân-lạp nổi dậy, rồi y chiếm hai nước này, sát nhập với mảnh đất Nam Đại-Việt, nghiễm nhiên y có một nước lớn hơn Đại-Việt. Bấy giờ y mới cất quân chiếm Thăng-long.
    Mọi người đều công nhận lý luận của Khai-Quồc vương đúng. Vương tiếp:
    - Cho nên ta nhanh tay, cho hạm đội Bạch-đằng âm thầm chiếm Thanh-hóa, Nghệ-an, trong khi ta đem quân từ Thăng-long về. Thế là y bị kẹt cứng ở giữa. Bây giờ y đang đắc thế vây Trường-yên. Mấy hôm nữa các đạo quân của ta tới, tất y phải lui về Thanh-hóa. Nhưng Thanh-hóa đã về ta rồi. Quân của y nghe tin, thì không đánh cũng tan.
    Lý Nhân-Nghĩa hỏi:
    - Khi thần nghe tin vương gia về, thấy vương gia tụ quân đông gấp mấy quân giặc, thần những tưởng vương gia sẽ tung quân thẳng tay dẹp loạn. Không ngờ vương lấy số đông ép cho giặc tan rã. Binh pháp đó gọi tên là gì vậy?
    Khai-Quốc vương giảng giải:
    - Trong Dụng binh yếu chỉ của công chúa Thánh-Thiên, thiên Phương lược. Cô-gia đánh vào nhân tâm các đạo binh bằng chính đạo, rồi dùng lực ép. Như vậy địch tự nhiên phải mất tinh thần, tự tan rã.
    Một kị mã từ trước phi ngựa lại như bay. Y thấy tiền quân của đạo Thượng-oai thì gò ngựa lại nói:
    - Tôi là đệ tử phái Đông-a, xin được gặp chúa tướng cao nhất ở đây.
    Hà Thiện-Lãm vội dẫn y đến yết kiến Khai-Quốc vương. Khai-Quốc vương nhìn thấy trên ngực y đeo hai con chim ưng, thì biết y là đệ tử đời thứ nhì như Thanh-Mai. Vương hỏi:
    - Sư đệ từ đâu tới. Sư đệ là đệ tử của vị nào trong Thiên-trường ngũ kiệt?
    - Thưa vương gia, đệ tên là Đào Hiển, sư phụ của đệ tên Vũ Anh. Đệ muốn khải với vương gia một vài tin tức.
    - Ta đang mong tin tức của môn phái Đông-a đây. Ta là chồng của Thanh-Mai, vậy sư đệ cứ coi như ta ngang vai với sư đệ.
    - Đa tạ sư huynh. Cách đây ít ngày, sư phụ được thư của sư huynh, thì người chuẩn bị đối phó với giặc ngay.
    - Lực lượng của phái Đông-a tổ chức như thế nào?
    Nghe vương hỏi, Đào Hiển nghĩ thầm:
    - Vị vương gia này muốn hỏi mình xem những thay đổi về tổ chức của bản phái đây. Chứ vương từng điều khiển Khu-mật viện không lẽ vương không biết tổ chức của lực lượng Đông-a.
    Vì vậy chàng cung tay đáp:
    - Thưa sư huynh, từ trước đến giờ đệ tử bản phái có năm đoàn. Đoàn khăn trắng tức Thiết-kị, đoàn khăn đen tức Thủy-quân. Đoàn khăn xanh tức Thần-nỏ. Đoàn khăn đỏ, khăn vàng tức lực lượng bộ chiến. Mỗi đoàn một nghìn linh tám mươi mốt người, tất cả đều ở nhà làm ăn. Khi có sự, nhanh chóng tập trung tại những địa điểm ước định riêng để nhận lệnh.
    Khai-Quốc vương tỏ vẻ tin tưởng:
    - Thế cuộc nghinh chiến bọn Nhật-Hồ ra sao?
    - Thư của sư huynh đến nơi thì chỉ nửa ngày sau, chư đệ tử đều tề tựu. Vì đại-sư bá vắng nhà, nên sư phụ của đệ cầm quyền. Người sai một đệ tử khẩn liên lạc với sư huynh Ngô An-Ngữ tổng trấn Trường-yên. Đúng lúc đó sư huynh An-Ngữ cũng nhận được chỉ dụ của vương gia. Nhưng lực lượng của Ngô sư-huynh tại Trường-yên chỉ có đạo Thiết-kị cùng đạo quân Thị-vệ vương phủ, mỗi đạo không quá nghìn người. Trong khi lực lượng phản loạn rất đông.
    Đào Hiển ngừng lại thở, rồi tiếp:
    - Sư huynh Ngô An-Ngữ cầu cứu với sư phụ. Sư phụ đang phác họa kế sách thì sư huynh Bảo-Dân cùng sư tỷ Thanh-Mai về. Sư tỷ Thanh-Mai đưa ra kế hoạch rằng: Nếu dùng lực đánh bọn Nhật-Hồ, thì chúng chết hết mình cũng chết mấy vạn người. Vậy ta dùng tâm chiến sao cho quân của chúng rã hết. Bấy giờ ta tung quân bắt hết bọn ma đầu là xong. Hịch do chính sư tỷ soạn. Nhưng hịch vừa soạn xong thì nhận được chiếu chỉ của Hoàng-thượng. Sư tỷ bèn sai sao làm nhiều bản, rồi cho chim ưng gửi đi khắp nơi. Sư phụ gửi hai nghìn đệ tử đến Trường-yên giúp sư tỷ Thanh-Mai. Với hai nghìn quân, ba nghìn đệ tử bản phái, không thể dẹp nổi bẩy vạn quân của Đàm Toái-Trạng. Vì vậy sư tỷ chỉ giữ thành, chờ quân Thăng-long tiếp cứu. Vì vậy trận chiến Trường-yên cực kỳ khốc liệt.
    Khai-Quốc vương kinh hãi:
    - Tại sao sư tỷ không gửi thư cầu cứu ta?
    Mỹ-Linh đứng cạnh vương, nàng nói:
    - Chú hai không hiểu thím tý nào cả. Thím vốn là người cực kỳ can đảm, lại hết tâm hết chí lo cho Đại-Việt, nên dù khổ sở, lo lắng đến đâu cũng cắn răng chịu đựng. Vụ cứu Đoàn Huy là một chứng cớ. Khi thím giữ Trường-yên thì thím biết rằng quân số của chú ở Thăng-long cũng không nhiều. Nên thím cố thủ, chờ chú giải vây Thăng-long, rồi cứu viện Trường-yên cũng không muộn. Bằng thím cầu cứu với chú, thì Thăng-long không đuổi được giặc, mà cứu Trường-yên cũng chẳng nổi.
    Khai-Quốc vương rùng mình:
    - Còn mặt trận Thiên-trường ra sao?
    Đào Hiển đáp:
    - Nhật-Hồ lão nhân đem lực lượng Hồng-thiết cùng Hồng-hương về đánh úp Thiên-trường. Khi y vừa tới nơi, thấy môn phái Đông-a phòng thủ nghiêm mật, thì chột đạ. Nhưng y nghĩ rằng với hai vạn rưỡi người, y dư sức đàn áp hai nghìn đệ tử bản phái. Y dàn quân bao vây quanh trang Thiên-trường, rồi cho người vào mời đại sư bá ra thương lượng. Bấy giờ đã là giờ Thân. Sư phụ hành sự theo kế hoạch của sư huynh gửi về là chần chờ kéo dài thời gian ra. Người hẹn giờ Ngọ hôm sau người sẽ ra cổng chính gặp lão. Lão cho các đạo giáo chúng thuộc trung ương lùi ra xa mười dặm đóng trại, chỉ để bốn đạo Thanh-hóa, Cửu-chân, Trường-yên, Thiên-trường với đội Thiết-kị bao vây.
    Bảo-Hòa cười:
    - Lão già Nhật-Hồ một đời xảo trá, không ngờ bị sư thúc Vũ Anh lừa cho. Y thất bại là phải.
    Đào Hiển gật đầu:
    - Đúng như tiên cô nói. Nhật-Hồ tưởng vây được trang là xong. Y đâu ngờ khắp vùng Thiên-trường đều có đệ tử của bản phái. Hôm ấy đám giáo chúng vào làng xóm bắt trâu, bò, lợn, gà ăn. Đệ tử bản phái ẩn trong dân được lệnh từ trước, đem thuốc độc tẩm vào rau tặng cho chúng, lại sai tẩm thuốc độc vào cỏ dâng cho chúng nuôi ngựa. Chúng ăn vào, đêm người ngựa bị tháo dạ nằm la liệt.
    Thiệu-Thái hỏi:
    - Hồng-thiết giáo nổi danh về dùng độc. Chúng trị độc rất giỏi, tôi sợ đánh thuốc độc chúng e khó thành công.
    Mặt Đào Hiển hiện ra vẻ tự đắc:
    - Sư phụ biết rất rõ điều đó. Sư thúc Trần Kiệt được Hồng-Sơn đại phu cho biết, phàm đánh thuốc độc phải hơn giờ mới kết quả. Nhưng khi trúng độc rồi, muốn cứu chữa, phải sáu giờ sức khoẻ mới phục hồi. Trong thời gian đó, ta ra tay được rồi. Sư thúc còn biết rằng, khi mặt trời lặn, bọn ma đầu Hồng-thiết giáo sẽ ở trong những mật thất hành dâm với gái tơ, tuyệt đối không cho ai vào. Vì vậy dù giáo chúng bị bệnh, dù bị tấn công, không ai được vào chỗ chúng ngủ.
    Khai-Quốc vương gật đầu:
    - Ngũ sư thúc thực mưu trí không thua công chúa Nguyệt-Đức Phùng Vĩnh-Hoa thời Lĩnh-Nam. Sư đệ tiếp cho.
    - Đến giờ Sửu, biết rằng người ngựa đội quân Hồng-thiết giáo cùng đám đệ tử Nguyên-Hạnh đều bệnh nghiêng ngửa. Sư thúc ra lệnh cho chư đệ tử thình lình xông ra tấn công vào hai đạo kị binh đóng trước cửa Nam và Bắc. Tại cửa Nam, nghìn đệ tử bản phái, bắt sống hơn hai nghìn kị binh. Tại cửa Bắc, đệ tử bản phái vừa mở cửa ra, thì năm đạo đệ tử Hồng-thiết giáo phất cờ theo. Thì ra họ đều là người của Khu-mật viện. Sau khi đánh chớp nhoáng, anh em rút vào trang. Bây giờ trong trang thêm bẩy nghìn đệ tử Lạc- long giáo của Khu-mật viện. Bốn thiếu niên chỉ huy bốn đạo Lạc-long giáo trình thẻ bài của vương gia ra. Họ tên là Trần Anh, Tôn Mạnh, Tôn Trọng, Tôn Qúy. Tiểu sư muội Thanh-Nguyên thấy bốn thiếu niên thì mừng lắm.
    Mỹ-Linh reo lên:
    - Thì ra mấy ông mãnh đó.
    Thông-Mai hỏi:
    - Công chúa. Họ là ai vậy?
    - Chúng là bạn của Tôn Đản, Thuận-Tông, Thiện-Lãm. Trước kia chúng có biệt danh là Tân-quy thất quỷ bởi chúng phá phách khiếp lắm. Từ khi Tôn Đản, Thuận-Tông, Thiện-Lãm vão kinh, chúng ở lại, và được một cao nhân phái Mê-linh thu làm đệ tử. Chú hai mật lệnh cho chúng nhập vào Lạc-long giáo để mai này có dịp giúp nước.
    - Đúng như công chúa nói. Bốn thiếu niên từ tư cách, đến võ công đều khác thường. Chúng tôi vội đem thuốc cứu chữa cho anh em Lạc-long giáo Khu-mật viện. Đến sáng họ khỏi hẳn. Trong khi đó đám Hồng-thiết giáo còn nằm nghêng ngả, bởi các đại ma đầu chưa ra khỏi nơi hành dâm. Sư thúc Trần Kiệt tung bẩy đội Hồng-hương thiếu niên với hai nghìn đệ tử bản phải đánh ra. Ba nghìn Lạc-long giáo còn lại theo chúng tôi, trở giáo đánh bọn Hồng-thiết. Tuy đám đệ tử Hồng-thiết giáo người ngựa bị bệnh, nhưng chúng cũng cố gắng chống trả. Phải hơn giờ chúng tôi mới thu phục được chúng. Về ngựa, chúng tôi bắt trọn. Về giáo chúng thì hơn bốn nghìn đầu hàng, họ tự nhận là Lạc-long giáo, chứ không phải là Hồng-thiết giáo. Gần nghìn bị giết.
    Thông-Mai nhăn mặt, tỏ vẻ không vui. Đào Hiển hỏi:
    - Dường như sư huynh có điều gì không vui?
    - Đúng thế. Các vị sư thúc cứ dem lòng dạ mình mà đo lòng bọn Nhật-Hồ. Nếu như sau khi giải vây Thiên-trường, lợi dụng bọn chúng đang bệnh, mà ma đầu không hiện diện. Nếu sư thúc xua toàn bộ đệ tử vượt mươi dặm tới chỗ đóng quân của chúng, tiêu diệt hết đám bộ chiến, thì có phải êm rồi không?
    - Sư thúc Phạm Hào cũng bàn thế. Các sư thúc cho rằng nếu mình thừa thắng xông lên ắt diệt được chúng. Nhưng đệ tử mình cũng hao mấy trăm. Chi bằng mình rút, chúng không chính nghĩa, đánh đã không nổi, thì phải rút. Rút thì quân sẽ tan.
    Khai-Quốc vương gật đầu:
    - Tam sư thúc nghị đúng. Rồi tình hình ra sao?
    - Hôm sau quả nhiên Nhật-Hồ ra lệnh cho rút quân về tấn công Trường-yên. Sư phụ sai đệ đến báo cho sư huynh biết, người đã đem một vạn người tiếp viện cho sư tỷ Thanh-Mai.
    Lý Nhân-Nghĩa hỏi:
    - Lúc sư huynh tới đây có gặp đạo quân của Đặng Trường rút về không?
    - Hoàn toàn không.
    Mỹ-Linh kinh ngạc:
    - Vậy chúng đi đâu?
    Khai-Quốc vương truyền Lý Nhân-Nghĩa lên tiền quân, lệnh cho Hà Thiện-Lãm dừng quân lại chờ lệnh. Lát sau voi chở Hà Thiện-Lãm, Lưu Tường, Trường-Ninh, Hồng-Phúc trở lại.
    Vương gọi Hà Thiện-Lãm lại gần:
    - Trong khi thiết kế giải phóng Thăng-long, ta được tin Nhật-Hồ lão nhân truyền rằng: Nếu như bọn phản loạn ở Thăng-long thất bại, thì Đặng Trường rút về Thiên-trường, rồi tiến lên đóng ở núi Cánh-diều. Còn Vũ-Đức vương thì rút về đóng ở bờ sông đánh cửa Bắc thành Trường-yên. Vì biết thế, nên ta ra lệnh cho Thuận-Tông với em nới vòng vây cho chúng chạy, rồi đuổi theo xa xa, khiến quân của chúng tự tan vỡ.
    Vương ngừng lại suy nghĩ rồi tiếp:
    - Bởi vậy ta lệnh cho em với Tôn Đản, Cẩm-Thi, Lê Phụng-Hiểu đuổi theo Đặng Trường. Thuận-Tông với Lê Văn đuổi theo Vũ-Đức vương. Để gây hoang mang cho giặc, ta dặn em với Thuận-Tông rằng: Khi tới ngã ba đi Trường-yên, Thiên-trường thì đổi lại Lê Văn, Lý Nhân-Nghĩa đi với em hướng Thiên-trường theo Đặng Trường. Còn Thuận-Tông với Tôn Đản, Cẩm-Thi, Lê Phụng-Hiểu hướng Trường-yên theo Vũ-Đức vương.
    Thiện-Lãm đáp:
    - Thì chúng em làm đúng như lệnh anh ban ra.
    - Em theo đạo binh Đặng Trường, thế sao nay chúng lại biến mất. Nếu chúng đi Thiên-trường, thì Đào sư đệ từ Thiên-trường tới đây phải gặp chúng chứ. Hà, chúng đi đâu mất?
    Hà Thiện-Lãm nói:
    - Tuy em theo chúng xa xa, không nhìn thấy binh mã chúng, nhưng dọc đường vẫn theo dõi dấu vết chúng để lại. Kìa đại ca xem, con đường trước chúng ta vẫn đầy phân ngựa, cùng dấu chân người, đâu có sai. Em lại cho đến sáu cặp chim ưng theo chúng. Một cặp theo tiền quân, một cặp theo trung quân và một cặp theo hậu quân, làm sao chúng chạy thoát được.
    Đào Hiển nhìn xa xa thấy ba cặp chim ưng bay lượn, chàng tỉnh ngộ:
    - Đúng rồi, thì ra bọn Đặng Trường ẩn vào thôn Yến-vĩ sương-sen, thành ra trên đường đi đệ không gặp.
    Khai-Quốc vương quyết định:
    - Bây giờ thế này, Lê Văn, Lý Nhân-Nghĩa, Mỹ-Linh đem theo đạo binh Thượng-oai của Hà Thiện-Lãm đánh Yến-vĩ sương-sen. Ta sẽ viết thư xin phái Đông-a viện cho một số đệ tử. Còn lại chúng ta tiếp cứu Trường-yên khẩn cấp.
    Hà Thiện-Lãm Hỏi:
    - Trong bọn em, ai làm chúa tướng?
    - Lý Nhân-Nghĩa làm quân sư, Hà Thiện-Lãm làm chúa tướng. Còn võ công thì nhờ Mỹ-Linh, Lê Văn. Thôi lên đường mau.
    Đào Hiển lên ngựa phi trước dẫn đường. Đoàn quân rầm rập di chuyển. Khoảng hai giờ sau thì tới Yến-vĩ sương-sen. Xa xa Mỹ-Linh đã thấy một đoàn tráng sĩ cỡi ngựa đi đi, lại lại xung quanh những lũy tre bao bọc. Một người trưởng toán cầm ngang thanh đao, ngăn đạo quân Thượng-oai lại hỏi:
    - Các vị thuộc đạo quân nào? Cho tôi gặp người chỉ huy.
    Thiện-Lãm từ bành voi tung mình nhảy xuống, chàng đánh dứ vào mặt người trưởng toán một cái. Người trưởng toán lạng mình tránh khỏi. Thiện-Lãm lại tấn công liền hai chiêu, rồi nói:
    - Thằng em không nhớ anh mày sao?
    Người trưởng toán nghe tiếng Thiện-Lãm thì liệng đao, rồi nhảy đến ôm lấy chàng. Hai người bật lên tiếng khóc, khóc nức nở, rồi lại buông nhau ra cười. Thiện-Lãm vội nói:
    - Để ta giới thiệu mi với chị Trường-Ninh, và các bạn.
    Chàng cầm mũi người đó tới trước Trường-Ninh:
    - Hiền muội! Anh vẫn thường nói với hiền muội rằng hồi xưa bọn anh có bẩy đứa sống trong thôn Tân-quy. Vì phá phách quá, người ta gọi bọn anh là Tân-quy thất quỷ. Lớn nhất là anh Đản, lớn nhì là Thuận-Tông, anh đứng hạng ba, thứ tư là Trần Anh. Nó là em, mà tên lại là Anh. Đây nó đây.
    Trần Anh chắp tay:
    - Trần em xin ra mắt bà chị.
    Trường-Ninh đáp lễ:
    - Thì ra những bậc anh hùng hào kiệt đều có phong tư khác nhau. Chị nghe nói về cậu hoài, nay mới được gặp. Cậu đang lĩnh nhiệm vụ gì ở đây?
    Trần Anh cung kính:
    - Sau khi anh Đản, Tông, Lãm về kinh, bốn đứa em được một vị sư thái thuộc phái Mê-linh nhận làm đệ tử. Từ đấy chúng em luyện võ. Khi Hồng-thiết giáo thành Lạc-long giáo, bọn em gia nhập giáo này, và mau chóng trở thành bốn đạo trưởng. Mỗi đứa chúng em coi một đạo. Em coi đạo Cửu-chân. Tôn Trọng coi đạo Nghệ-an. Tôn Mạnh coi đạo Trường-yên. Tôn Quý coi đạo Thiên-trường. Lúc bọn Nhật-Hồ tạo phản, chúng em định chống đối, nhưng nhận được mật lệnh của Khu-mật viện bảo phải giả thuận theo chúng, rồi chờ thời cơ làm lợi cho Đại-Việt. Khi tiến quân đánh tổng đàn phái Đông-a, thình lình chúng em trở giáo, làm cho chúng chạy bán mạng.
    Mỹ-Linh đã tới, nàng quên cả câu nam nữ thụ thụ bất thân, quên cả thân phận cô công chúa cao quý. Nàng nắm tay Trần Anh:
    - Em của chị to lớn kềnh càng thế này ư? Lúc xa em, chị với Đản nhắc đến em luôn.
    Thình lình Trần Anh cung tay:
    - Đệ Trần Anh xin tham kiến sư tỷ chưởng môn.
    Mỹ-Linh hỏi:
    - Em là đệ tử của cao nhân nào trong bản phái vậy?
    - Em là đệ tử của sư thái Tịnh-Huyền. Còn ba đứa này thì một vị khác của bản phái thu làm đệ tử. Khi truyền võ cho ba đứa em, người dặn rằng tuyệt đối không được tiết lộ danh tính người, bằng không người sẽ cắt chân.
    Mỹ- Linh nhìn Thiện-Lãm, rồi mỉm cười. Thiện-Lãm cũng cười theo. Trần Anh cúi xuống:
    - Sư tỷ đoán ra sư phụ của ba đứa rồi ư?
    Mỹ-Linh gật đầu.
    Trần Anh trình bầy:
    - Sáng nay, trên đường tiếp viện Trường-yên, thì có tin báo một đoàn quân của Hồng-thiết giáo rút về đóng ở Yến-vĩ sương-sen. Đại hiệp Trần Kiệt truyền cho chúng em bao vây làng liền. Nhưng vì quân số giặc đông ngang với bọn em, nên bọn em chỉ bao vây tuần phòng, mà không tấn công. Hồi nãy có chim ưng báo rằng một đạo quân triều đình đuổi theo giặc sắp tới, bọn em phải tiếp đón, và nghe lệnh tướng chỉ huy.
    Mỹ-Linh chỉ Thiện-Lãm:
    - Nguyên soái đạo quân này là Hà Thiện-Lãm. Quân sư là Hổ-uy đại tướng quân Lý Nhân-Nghĩa đây. Còn chị là... Thiên-lôi chỉ đâu đánh đó.
    Chợt nhớ ra một truyện, Lê Văn hỏi Đào Hiển:
    - Đào đại ca này, tôi muốm hỏi thăm đại ca tin tức một người?
    - Ai thế?
    - Phu nhân của sư thúc Hoàng Hùng.
    Đào Hiển chợt nhớ ra, sư thúc Hoàng Hùng của chàng kết hôn với một đệ tử phái Sài-sơn tên Quỳnh-Dao. Võ công của bà rất bình thường, nhưng y thuật cực cao minh. Trước kia bà là một trong những hoa khôi trong đám đệ tử Sài-sơn. Từ ngày về Thiên-trường, gần như bà chỉ biết chữa bệnh suốt ngày, nên ai ai cũng quý mến, kính trọng bà.
    Đào Hiển đáp:
    - Sư thẩm hiện theo sư thúc tiếp cứu Trường-yên. Người vẫn thường nhắc đến Văn đệ luôn. Đợi xong việc Yến-vĩ, Văn đệ tới giải vây Trường-yên sẽ gặp bà.
    Mỹ-Linh đi một vòng giới thiệu Lê Văn, Lưu Tường, Hồng-Phúc với đám Trần Anh. Hà Thiện-Lãm hỏi Lý Nhân-Nghĩa:
    - Hổ uy đại tướng quân, bây giờ chúng ta đánh Yến-vĩ sương-sen như thế nào đây?
    Đào Hiển móc trong túi ra một cuộn giấy trải xuống... lưng ngựa:
    - Đây là bản đồ làng Yến-vĩ. Cũng như tất cả các làng khác, làng có hai cổng chính. Cổng tiền hướng về Bắc. Cổng hậu hướng về Nam. Phía Đông, Tây đều có cổng xép mở cho trâu cùng lực điền đi làm. Làng được bao bọc bởi hai lớp. Lớp ngoài cùng là hào sâu gần hai trượng, dưới hào chông gai chằng chịt. Sau hào sâu tới những lũy tre đồng gộc rất dầy. Bề dầy lũy có chỗ tới bốn trượng, gai góc tua tủa. Bề cao lũy từ hai tới năm trượng. Ta không thể phá nổi.
    Chàng chỉ vào bốn cái cổng:
    - Đường tiến công duy nhất là mấy cái cổng. Nhưng trong cổng chúng đã làm những con bùi nhùi rơm ngăn mất lối đi, tên bắn không thể nào xuyên vào trong được. Rồi chúng thủ sau bùi nhùi, dùng cung tên chống. Không biết Lý tướng quân định sao?
    Lý Nhân-Nghiã hỏi:
    - Trong làng có bao nhiêu dân ở?
    - Khoảng ba nghìn hơn là dân lương thiện, còn lại hơn hai nghìn là phường trốn chúa lộn chồng. Tổng cộng tráng đinh hơn hai nghìn. Hương trưởng là con điếm già Anh-Tần, đệ tử của Đặng Trường.
    Lý Nhân-Nghiã thở dài:
    - Khó đấy, Đặng Trường đem từ Thăng-long về nghìn thiết kị, hai nghìn giáo chúng, cộng thêm hai nghìn tráng đinh, như vậy chúng có tới năm nghìn người. Trong khi lực lượng của thiếu hiệp Trần Anh năm nghìn, cộng với một nghìn của châu Thượng-oai. Về quân số hai bên tương đương nhau. Tuy nhiên ta có trăm hổ, trăm báo, mười voi, trăm chim ưng thì sức mạnh bằng mấy vạn người. Nếu ta thẳng tay thì dễ quá. Đằng này tên Đặng Trường muốn dựa vào dân chúng để ẩn thân. Ném chuột sợ vỡ đồ, ta không thể dùng sức mạnh được.
    Mỹ-Linh lắc đầu:
    - Lý tướng quân đánh thế nào thì đánh, miễn đừng để dân chúng chết oan là được rồi.

    <bài viết được chỉnh sửa lúc 03.02.2005 04:37:34 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 21.01.2005 17:44:37 (permalink)
      Hồi thứ một trăm hai mươi ba


      Ưng Sơn song hiệp




      Tôn Mạnh bàn:
      - Hay ta dùng lối bao vây, lâu ngày chúng hết lương, ắt phải đầu hàng.
      Lê Văn lắc đầu:
      - Không ổn rồi. Khi ta bao vây, lương hết, e chúng lấy lương của dân ăn, như vậy dân chết đói trước. Khi chúng thực sự hết lương đầu hàng thì không còn người dân nào nữa.
      Hà Thiện-Lãm hỏi Đào Hiển:
      - Đào huynh! Huynh có biết nhà nào của dân, nhà nào của bọn Hồng-thiết giáo không?
      Đào Hiển chỉ lên bản đồ:
      - Biết chứ, đây huynh đệ xem này: Căn nhà nào có dấu khoanh tròn là nhà của Hồng-thiết. Còn căn nhà nào có gạch chéo là nhà của dân.
      Thiện-Lãm hỏi Lý-nhân-Nghĩa:
      - Ta có thể dùng lối phóng mã-não, hoàng-thạch đốt nhà chúng được không?
      - Kể đốt thì đốt được, nhưng khi nhà của chúng cháy, chúng sẽ đuổi dân ra rồi vào nhà dân mà ẩn thân, rút cuộc dân chúng lại khổ.
      Lê Văn nói:
      - Trước khi tìm được kế đánh vào, ta hãy cho bao vây làng đã, để chậm thì chúng trốn mất. Sau khi bao vây, chúng ta chia người thành năm toán, cứ một toán tấn công, bốn toán nghỉ. Như vậy ta đặt chúng vào thế bị động. Chỉ ba bốn ngày, chúng mệt nhừ, ta nhân đó tấn công, ắt thành công.
      Hà Thiện-Lãm ra lệnh:
      - Lê Văn, Trần Anh đánh cửa Bắc. Đào Hiển, Tôn Mạnh đánh cửa Nam. Lý Nhân-Nghĩa, Tôn Trọng, quận chúa Trường-Ninh đánh cửa Đông. Tôi với Tôn Quý, Lưu Tường, quận chúa Hồng-Phúc đánh cửa cửa Tây. Công chúa Bình-Dương tiếp ứng các mặt. Mỗi mặt ta chia người làm năm đội, mỗi đội tấn công một ngày.
      Chàng nói với các tướng chỉ huy thú :
      - Về hổ, báo, voi các em phân chia đều cho bốn cửa. Riêng chim ưng thì dùng để tuần phòng. Thôi, xin các em lên đường cho.
      Các thiếu niên dẫn quân bao vây làng Yến-vĩ. Tại cửa Tây, Hà Thiện-Lãm cho đốt ba pháo lệnh rồi tung lên trời. Sau khi ba tiếng pháo nổ, các cửa cùng cho voi đi trước xông vào. Lập tức sau những ụ bằng rơm giáo chúng Hồng-thiết dùng tên bắn ra như mưa. Các quản tượng vội cho voi lui lại, vì sợ chúng bị thương.
      Cứ như thế, sau hai giờ quân bên ngoài lại tấn công một lần, khi thì xua voi đi trước, khi thì xua hổ, xua báo đi trước, khi thì dùng pháo thăng thiên, dùng tên bắn hoàng-thạch vào trong. Cuộc công hãm được ba ngày, thì có chim ưng đưa thư của Khai-Quốc vương, truyền:
      Cuộc giao chiến giữa quân triều với phản loạn tại Trường-yên rất gay go. Nếu hạ được Yến-vĩ ngay thì hạ, bằng không phải bỏ về tiếp viện Trường-yên.
      Thiện-Lãm nhờ Lê Văn đi các cửa mật ra lệnh cho chư tướng chuẩn bị rút quân. Lê Văn đang đi qua hông phía Đông của làng, thì gặp đúng lúc các cửa bắn pháo thăng thiên tấn công. Khi pháo nổ đồng loạt, tiếp theo là tiếng chó tru bên trong. Chàng chú ý thấy dưới chân một lũy tre có bốn năm con chó đang cụp đuôi nằm bên nhau rên rỉ. Một tia sáng loé trong đầu. Chàng trở về cửa Đông gặp Lý Nhân-Nghĩa:
      - Lý tướng quân, tôi có cách đánh vào trang Yến-vĩ rồi.
      - Thiếu hiệp có cách gì?
      - Tôi đi tuần thấy một chỗ có năm, sáu con chó chui ra ngoài lũy tre ẩn núp. Như vậy ắt có lỗ xuyên qua lũy vào trong. Chỉ cần sao ta âm thầm dùng thuốc độc trộn với cơm, ném cho mấy con chó. Chúng ăn vào, chỉ lát sau là lăn ra chết. Bấy giờ ta theo lỗ chó chui dùng dao cắt tre cho thành lỗ lớn, rồi thình lình lùa đoàn hổ, báo vào trong, ta đánh quặt ra chiếm các cổng, mở cửa cho quân vào.
      Lý Nhân-Nghiã mừng lắm:
      - Trước hết ta thám thính xem đã. Người thám thính võ công phải thực cao mới được.
      Lê Văn nói nhỏ với Mỹ-Linh:
      - Chị với em hành sự đủ rồi.
      Chàng với Mỹ-Linh tới chỗ mấy con chó núp. Lê Văn vận sức ném mươi nắm cơn qua hào vào bụi tre. Quả nhiên mấy con chó xúm vào tranh nhau ăn. Khoảng nhai dập miếng trầu, chúng đều gục xuống không động đậy nữa. Mỹ-Linh, Lê Văn tung mình vượt qua hào. Lê Văn lần theo lỗ chó chui vào. Nhưng chỉ được nửa trượng thì lỗ nhỏ quá, không đi nổi. Chàng rút dao ngắn vận sức cắt tre. Không khó nhọc, chàng chỉ cắt có ba cây, thì chui lọt vào trong. Mỹ-Linh cũng chui theo. Vào trong rồi, hai người thấy đây là một khu vườn trồng toàn cam. Sau khi ghi nhận mọi chi tiết, hai người lại chui ra.
      Hai chị em trở về cửa Bắc hội họp cùng chư tướng, trình bầy chi tiết cuộc thám thính.
      Lý Nhân-Nghiã nói với Thiện-Lãm:
      - Xin châu trưởng cho tiểu tướng mượn kiếm lệnh.
      Thiện-Lãm rút kiếm trao cho Lý Nhân-Nghĩa. Lý Nhân-Nghiã cầm kiếm lệnh rồi nói:
      - Lê thiếu hiệp đã tìm ra phương pháp đánh làng đêm nay. Bây giờ là giờ Dậu. Chư tướng cho tấn công vào các cửa ráo riết, để địch không có thời giờ tuần tra. Trong khi đó Lưu Tường mang thực nhiều rơm tẩm bùn, cho voi chở đến hông phía Đông, rồi ném xuống lấp hào. Khi hào lấp xong thì cho voi trở về vị trí cũ. Sau đó rút tất cả hổ, báo về cửa Đông. Đến đây thì tôi cho phát năm tiếng pháo, các cửa lại tấn công như vũ bão. Các vị thiếu hiệp Đào Hiển, Lê Văn, cùng công chúa Bình-Dương mỗi vị dẫn theo một trăm võ sĩ đột nhập theo đường đặc biệt vào nhập làng trước, rồi bảo vệ cho châu trưởng Thiện-Lãm, châu phó Lưu Tường xua hổ, báo vào trong. Khi tất cả lọt vào rồi, thì chia lực lượng làm ba. Thiếu hiệp Đào Hiển cùng các võ sĩ đi đốt nhà bọn Hồng-thiết giáo. Trong khi công chúa cùng châu trưởng dẫn đoàn hổ đánh vào phía sau quân giữ cửa Đông. Thiếu hiệp Lê Văn cùng châu phó Lưu Tường xua đoàn báo đánh vào sau lưng đám quân giữ cửa Bắc.
      Chàng ngừng lại cho chư tướng theo kịp, rồi tiếp:
      - Khi phá vỡ cửa Bắc, thì thiếu hiệp Trần Anh cùng một đội quân giữ cửa chắc, để không cho tàn quân chạy trở ra. Còn toàn quân tiến vào quặt sang cửa Tây. Tại cửa Đông thiếu hiệp Tôn Trọng giữ cửa, để quân chúa Trường-Ninh với tôi đánh quặt sang cửa Nam.
      - Còn chư tướng trấn cửa Nam, cửa Tây, hãy dùng tre, gai lấp cửa ra vào, rồi dùng voi, với hổ, báo trấn bên ngoài, cần giữ thực chắc, không cho chúng thoát khỏi làng.
      Chàng hỏi Mỹ-Linh:
      - Xin công chúa ban chỉ dụ.
      - Theo như tin tức, thì đạo rút theo Đặng Trường có Vũ Hào, Thạch Nan-Biện võ công chúng rất cao. Trong khi đó hiện diện tại đây chỉ một tôi với Văn đệ đủ khả năng loại trừ chúng. Vậy nếu cánh quân nào gặp chúng, ta dùng hổ, báo vây lấy, rồi đốt pháo thăng thiên báo cho tôi với Văn đệ biết.
      Nàng hỏi Thiện-Lãm:
      - Em có ý kiến gì không?
      - Chúng ta phải bàn cho rõ, khi bốn cửa bị tràn ngập, phản ứng của chúng sẽ ra sao? Tôi nghĩ, một là chúng bỏ hàng ngũ chạy lẫn vào với dân chúng. Trường hợp này ta phải mất công thanh lọc, e thời gian không quá một ngày. Hai là chúng tập trung lại, phá vòng vây ra ngoài. Trường hợp đó, ta không nên dồn chúng vào đường cùng, cứ để cho chúng chạy, ta sẽ dùng voi đuổi theo. Vả hiện khắp hương đảng đều thù hận chúng, chúng chạy đâu cho thoát?
      Trần Anh hỏi Thiện-Lãm:
      - Anh Lãm này, anh học binh pháp bao giờ, mà dùng binh hay quá vậy?
      Thiện-Lãm ghé miệng vào tai Trần Anh:
      - Trên đường đi sứ, Khai-Quốc vương tìm được bộ Dụng binh yếu chỉ, Thuận-Thiên thập hùng thi nhau nghiên cứu, nên ta có kiến thức như đại tướng. Ta sẽ dạy cho em sau. Thôi lên đường.
      Chỉ lát sau, các tướng đâu về đó, Lý Nhân-Nghĩa đốt pháo lệnh. Cả bốn cửa cùng xua quân tiến đánh. Lần trước mỗi lần, họ chỉ xung phong lấy lệ, rồi lui ra. Nhưng lần này họ dùng hỏa pháo, tên lửa bắn vào mấy ụ rơm phía trong. Ụ rơm bốc cháy. Đám quân thủ phải liều chết lăn xả vào cứu hỏa.
      Trong khi đó, Mỹ-Linh, Lê Văn, Đào Hiển cùng điểm ba đội võ sĩ phái Đông-a, mỗi đội hơn trăm người. Nàng dặn dò họ chi tiết cuộc tấn công, cùng ứng phó khi có biến cố, nhất là mật khẩu trong đêm, vì sợ ngộ nhận với các cánh quân khác. Sau khi ôn, tập rồi, tất cả hướng phiá Đông. Lưu Tường đã lấp xong hào. Hổ, báo để trong cũi, do xe chở tới đang chờ.
      Đào Hiển quen đường, chui qua lũy vào trước. Thấy không có gì trở ngại, chàng huýt sáo, Lê Văn chui vào theo. Vừa lúc đó có tiếng quát lớn:
      - Ai? Đứng lại!
      Một ánh kiếm sáng loáng hướng cổ Đào Hiển. Chàng kinh hãi nhảy lui lại, thì ánh kiếm đuổi theo hướng ngực chàng. Chàng lộn liền hai vòng tránh kiếm, thì kiếm lại lia dưới chân. Chàng vội tung mình lên cao tránh, thì kiếm quang bao trùm hạ bàn. Chàng tự than:
      - Mạng ta cùng rồi.
      Nhưng chàng đáp xuống an toàn, chưa hết kinh ngạc thì nghe bên cạnh có tiếng vũ khí chạm nhau, chàng nhìn sang: Lê Văn đang đấu kiếm với kẻ tấn công. Trong bóng tối, không biết kẻ đó là ai, nhưng chàng biết kiếm pháp y cao minh khôn lường.
      Mỹ-Linh cùng một đội võ sĩ phái Đông-a đã vào trong. Nàng đang đứng lược trận. Biết Mỹ-Linh lòng dạ nhân từ, Lý Nhân-Nghĩa nhắc:
      - Công chúa. Xin công chúa kiềm chế tên này, vì kiếm pháp y rất cao minh, e Lê công tử khó hạ y trong vòng vài trăm chiêu. Ta phải thắng gấp, bằng không tụi nó kéo đến thì đội võ sĩ không vào trong nổi. Không thể nhân nhượng, dùng võ đạo với ma đầu Hồng-thiết giáo được.
      Mỹ-Linh tỉnh ngộ, nàng rút kiếm ra nói:
      - Văn đệ lui lại.
      Lê Văn vừa lui, thì kiếm Mỹ-Linh đưa vào ngực người kia. Trong bóng tối y không biết Mỹ-Linh là ai, nhưng y cũng nhận ra nàng là một thiếu nữ. Y khinh thường dùng hai tay kẹp sống kiếm của nàng. Mỹ-Linh không thu, cũng chẳng đổi chiêu, nàng dùng Vô-ngã tướng thiền công. Kẻ kia kẹp được kiếm Mỹ-Linh, y mừng thầm, vận khí bẻ gẫy. Nhưng khí ra đến đâu, bị Vô-ngã tướng thiền công chuyển vào người Mỹ-Linh mất. Thấy sự lạ, y dồn hết chân khí ra, nhưng y dồn ra bao nhiêu, chân khí mất bấy nhiêu. Kinh hãi y định thu chân khí về, mà không được.
      Đào Hiển sợ Mỹ-Linh tha cho tên ma đầu này, chàng vung tay túm ngực y liệng xuống đất. Lê Văn điểm vào huyệt Á-môn khiến y không nói được nữa. Chàng lại điểm thêm huyệt Dương-lăng-tuyền, thế là y ngã lăn ra. Bấy giờ nàng mới nhận ra y là Đinh Hiền, đệ nhất kiếm khách của Hồng-thiết giáo. Trước đây trong lần đột nhập vào tổng đàn Hồng-thiết giáo, nàng đã đấu với y, rồi bắt sống y. Sau đại hội Lộc-hà, y được ân xá, và giữ một chức rất cao trong Lạc-long giáo.
      Thình lình có tiếng quát, rồi đuốc đốt lên sáng rực. Một giọng nói khàn khàn, trầm trầm:
      - Buông vũ khí, bằng không ta ra lệnh nhả tên.
      Mỹ-Linh, Lê Văn, Đào Hiển kinh hãi nhìn quanh: Trên nóc nhà, trên cây, hàng ngàn tiễn thủ cung dương, mũi tên chĩa. Một người đứng trên nóc nhà chỉ huy bọn tiễn thủ. Y chính là gã Thạch Nan-Biện. Y nói vọng xuống:
      - Đứng sát lại với nhau, buông vũ khí xuống.
      Mỹ-Linh, Lê Văn, Đào Hiển đưa mắt nhìn nhau chưa kịp có quyết định gì, thì có tiếng quát lớn:
      - Buông tên.
      Sau tiếng quát, mọi người nằm rạp sát mặt đất tránh tên. Nhưng không có mũi nào bắn tới, mà đám tiễn thủ trên nóc nhà, trên cây ngã lộn xuống đất. Người nào cũng bị trúng tên ở lưng, ở trán. Lê Văn tinh mắt, chàng nhận ra có một đội tiễn thủ khác, cổ quàng khăn trắng, đã bắn đám tiễn thủ Hồng-thiết giáo. Biết là người nhà, chàng hô lớn:
      - Xông vào.
      Đào Hiển vọt mình lên trước, Mỹ-Linh, Lê Văn cùng đám đệ tử Đông-a tả xung hữu đột, chỉ trong khoảng nhai dập miếng trầu, đám tiễn thủ Hồng-thiết giáo bị giết hết.
      Đào Hiển cùng đội võ sĩ tiến vào giữa làng. Đám này nhanh chóng đánh lửa, châm vào đuốc, đốt những dẫy nhà của đám giáo chúng Hồng-thiết giáo. Mỹ-Linh, Thiện-Lãm xua đội hổ quặt sang cửa Đông. Lê Văn, Lưu Tường xua đội báo xung sang cửa Bắc. Mỹ-Linh nhìn lên nóc nhà, xem ai đã cứu mình, nàng chỉ thấy Thạch Nan-Biện đang đối chưởng với một người, mà từ đầu đến chân trùm kín bằng chiếc áo đen thui. Người này dùng võ công Hoa-sơn.
      Tại cửa Đông, Lý Nhân-Nghĩa đang cùng Tôn Trọng, Trường-Ninh tấn công ráo riết, nhưng không lọt vào trong cửa được bởi người trấn tại đây là hai nhà sư trẻ Trí-Nhật, Trí-Nguyệt, con trai của Nguyên-Hạnh, võ công chúng rất cao thâm.
      Hai bên đang giao chiến ác liệt, thì phía sau có nhiều tiếng gầm gừ, rồi hàng trăm con cọp xông vào trận. Đám giáo chúng đang chống trả với các đợt tấn công, người người mệt đứt hơi, thì phía sau bị cọp ào đến vồ. Kinh hoảng, họ bỏ hàng ngũ chạy về phía Nam. Tôn Trọng, Trường-Ninh thúc voi tràn vào trước, rồi đánh quặt sang cửa Nam.
      Hai nhà sư Trí-Nhật, Trí-Nguyệt quát lên một tiếng xông vào tấn công Mỹ-Linh. Mỹ-Linh nghĩ đến Đỗ Lệ-Thanh, không muốn thẳng tay với hai đứa con của bà, nàng phẩy tay một cái, chưởng cửa Trí-Nhật hướng người Trí-Nguyệt. Trí-Nguyệt kinh lãi thu chiêu về đỡ chưởng của anh. Binh một tiếng, cả hai anh em lui lại đưa mắt nhìn nhau. Trí-Nguyệt hỏi:
      - Sư huynh, tại sao sư huynh lại đánh đệ.
      Trí-Nhật chỉ Mỹ-Linh:
      - Tự... tự con kia dùng tà thuật.
      Cả hai anh em cùng nhảy lại xuất chiêu tấn công Mỹ-Linh. Mỹ-Linh cười nhạt, nhảy lùi ra ngoài vòng vây của đội hổ. Anh em Trí-Nhật, Trí-Nguyệt đứng giữa đoàn thú, nhe nanh gầm gừ, miệng đỏ lòm. Trường-Ninh hô lớn:
      - Buông vũ khí đầu hàng, bằng không ta cho hổ ăn thịt liền.
      Anh em Trí-Nhật, Trí-Nguyệt đưa mắt nhìn: Làng Yến-vĩ biến thành biển lửa. Đám giáo chúng Hồng-thiết đã biến đâu mất. Xa xa tiếng vũ khí chạm nhau chan chát đưa lại. Hai anh em chưa có quyết định gì, thì Mỹ-Linh tung mình vào điểm lên huyệt Kiên-ngung hai người. Hai anh em Trí-Nhật, Trí-Nguyệt ngã lăn xuống đất. Võ sĩ trói lại.
      Tại cửa Bắc, Lê Văn, Lưu Tường xua hổ nhanh chóng đánh lui đám đệ tử Hồng-thiết tại đây. Tên tướng chỉ huy tỏ ra có bản lĩnh. Y hô giáo chúng rút lui vào giữa làng. Còn y đi đoạn hậu. Trần Anh thúc voi dẫn đầu đoàn quân đuổi theo, rồi đánh quặt sang cửa Tây.
      Lê Văn ngạc nhiên vô cùng, vì tại cửa Tây không thấy một giáo chúng Hồng-thiết nào, cũng không thấy một giáo chúng Lạc-long thuộc quyền của Tôn Quý đâu. Chàng để lại một toán giáo chúng Lạc-long giáo cho Trần Anh trấn tại đây, rồi dẫn số còn lại đánh vào trung ương. Tại trung ương, đuốc đốt sáng rực. Đám giáo chúng Lạc-long cùng đệ tử Đông-a đang vây tròn một đám giáo chúng Hồng-thiết ước hơn nghìn người.
      Trong vòng vây, người trùm khăn đen vẫn đấu với tên Thạch Nan-Biện. Lê Văn lại bên Mỹ-Linh. Chàng hỏi:
      - Chị thấy trận đấu thế nào?
      - Võ công của người trùm khăn dường như là võ công Hoa-sơn bên Trung-nguyên lại pha lẫn với võ công Đông-a, nội công thì cực kỳ phực tạp. Còn tên Thạch Nan-Biện y hoàn toàn xử dụng võ công Hồng-thiết giáo. Bản lĩnh y hơi thấp hơn Đỗ Xích-Thập một chút, nhưng cao hơn Phạm Trạch. Từ nãy đến giờ họ đấu với nhau đã trên một trăm chiêu, mà chưa phân thắng bại. Vậy Văn đệ vào giải quyết chiến trường đi thôi, để lâu e việc cứu Trường-yên gặp khó khăn.
      Lê Văn nhún mình tung lên cao rồi nhảy xuống cạnh người trùm khăn đen với Thạch Nan-Biện. Chàng quát lên một tiếng:
      - Ngừng đấu !
      Rồi chắp hai tay xỉa vào giữa hai người. Ầm một tiếng, hai người bật lui lại. Lê Văn cười ha hả:
      - Hai vị tạm ngừng đấu. Tại hạ xin có đôi lời phân giải với hai vị.
      Thạch Nan-Biện chỉ người trùm khăn đen:
      - Mi phân giải với ta thì cứ việc phân. Còn cái tên kia đã lĩnh của ta trước sau mười chiêu Nhật-Hồ độc chưởng, thì chỉ lát nữa đây y sẽ phải kêu cha gọi mẹ, rồi chết, thì cần gì phân biện !
      Người trùm khăn cười khúc khích, rồi xòe hai bàn tay ra. Hai bàn tay y trắng mà nhỏ, thon mà hồng mịn vô cùng, chứng tỏ y không bị trúng độc. Thình lình Thạch Nan-Biện kêu lên tiếng ai rồi nhăn mặt tỏ vẻ đau đớn. Y quát lớn lên:
      - Mi là ai? Phải chăng mi là người phái của phái Đông-a, mi đã dùng phản Nhật-Hồ độc chưởng? Tại sao mi không dám chiềng mặt ra?
      Y nói đến đây, lại bật lên tiếng ái rồi thét lên lanh lảnh. Y đến trước một người mặt vàng như nghệ run run:
      - Sư huynh cứu đệ với.
      Mỹ-Linh nói nhỏ với Lê Văn:
      - Người trùm khăn kia xử dụng thần công phản Nhật-Hồ độc chưởng bằng nội lực Đông-a, thì tên mặt vàng kia làm sao biết nội công Đông-a mà thu lại để cứu y.
      Không ngờ người mặt vàng để tay lên đầu Thạch xoa một cái, Thạch rùng mình, bao nhiêu cái đau đớn biến mất. Lê Văn nhanh mắt, nhận ra y xử dụng võ công Đông-a, đó là chiêu Phong đáo sơn đầu. Y dùng bàn tay hút nội lực trên người Thạch, cứu Thạch.
      Thạch Nan-Biện hất hàm cho người trùm khăn đen:
      - Chúng ta tái đấu, nên chăng?
      Người trùm khăn đen mỉm cười, không trả lời, tay ra chiêu Phong ba hợp bích. Thạch Nan-Biện dường như đã ê càng. Y bước lùi hai bước, rồi rút kiếm đưa vào cổ người kia. Người kia vọt lên không, trong khi lơ lửng trên không y lộn liền ba vòng, tay rút kiếm. Khi y rơi xuống thì đưa kiếm vào ngực Nan-Biện. Nan-Biện kêu lên tiếng ủa đầy vẻ kinh ngạc, vì y nhận ra chiêu kiếm của đối thủ thuộc Hoa-sơn kiếm pháp .
      Lê Văn hỏi nhỏ Mỹ-Linh:
      - Chị thấy thế nào, liệu người kia có thắng được Nan-Biện không?
      Mỹ-Linh lắc đầu:
      - Khó quá. Người này dường như còn trẻ, công lực tuy cao, nhưng y đấu với Nan-Biện đã mấy trăm chiêu, thì nguyên khí hao tổn rồi. Nay y dùng kiếm pháp Hoa-sơn là loại kiếm pháp lấy kiếm chiêu khắc địch, lấy mau thắng chậm, khi xử dụng rất hao nội lực; trong khi đó Nan-Biện xử dụng kiếm khí nhiều hơn. Đáng lẽ người kia phải biết lợi dụng điều đó, đánh như mưa sa, như sóng vỗ thắng đối thủ ngay trong năm mươi chiêu đầu mới phải. Đằng này y không biết lợi dụng điều đó. Kìa em nhìn xem...
      Quả nhiên kiếm của người kia bắt đầu chậm lại, Nan-Biện lợi dụng tấn công tới tấp. Mỹ-Linh nói nhỏ vào tai Lê Văn:
      - Chị muốn giúp người kia một tay. Em có mang tiêu theo không?
      Lê Văn hiểu ý bà chị, chàng gật đầu:
      - Chị muốn em thổi tiêu, rồi chị dùng Lăng-không truyền ngữ xử dụng Mê-linh kiếm pháp tấn công Nan-Biện chăng?
      - Ừ, em thổi tiêu mau.
      Giữa lúc hai cao thủ đang đấu kiếm, một chết một sống thì Lê Văn rút ống tiêu ra tấu bản nhạc bình dân Chăn trâu lúc bình minh. Tiếng tiêu của chàng vang đi rất xa, mọi người đều khoan khoái. Riêng Nan-Biện, y nghĩ thầm:
      - Tên ôn con này ban nãy xử dụng một chiêu Thiên-vương chưởng, nội lực cực hùng hậu. Không biết tại sao y lại tấu nhạc để làm gì?
      Mỹ-Linh chờ cho Lê Văn tấu hết một đoạn, rồi nàng dùng Lăng-không truyền ngữ xử dụng chiêu Hoa lạc phong suy hướng tai Nan-Biện. Bị chiêu kiếm khí trúng tai, Nan-Biện choáng váng rùng mình một cái, đom đóm mắt toé lên. Y bật lui liền ba bước, thì Mỹ-Linh lại xuất chiêu Hoa khai kiến nhật, lần này Nan-Biện suýt ngã, y nhảy liền ba bước. Người kia dường như hiểu Lê Văn tấu nhạc giúp mình, y đánh liền ba chiêu. Đến chiêu thứ tư thì Nan-Biện đang lảo đảo, kiếm trúng ngực y đến xoẹt một tiếng, máu phun ra như vòi nước.
      Tên mặt vàng như nghệ xuất chiêu đánh vào ngực người trùm khăn. Người trùm khăn xuất một chiêu trong Hoa-sơn chưởng đỡ. Bùng một tiếng, người trùm khăn đen bật lui liền ba bước, chân lảo đảo. Mỹ-Linh kinh hãi tự hỏi:
      - Tên mặt vàng là ai, mà công lực dường như ngang với Đỗ Xích-Thập, Lê Ba vậy kià?
      Nàng chưa kịp can thiệp thì có tiếng quát lớn:
      - Ngừng tay!
      Tiếng quát làm mọi người ù tai, chóng mặt. Rồi một người quần áo nâu từ trên cây gần đó nhảy xuống ngăn giữa tên mặt vàng và người trùm khăn đen, tay phát chiêu chưởng Đông-a. Ai cũng tự hỏi:
      - Chưởng phát từ xa như vậy, sao có kết quả mà cũng phát.
      Y nghĩ chưa dứt, thì người kia đã phát chiêu Thiên-vương chưởng Thiên-vương trấn thiên. Chiêu sau dồn chiêu trước mạnh đến long trời lở đất. Tên mặt vàng còn đang ngỡ ngàng, thì chưởng đã bao trùm người. Y biết rằng nếu y đỡ chưởng đó thì sẽ nát thây ra mà chết. Y vội lăn tròn người xuống đất bốn vòng liền. Chưởng trúng đất đến ầm một tiếng, lủng thành hố sâu. Người ấy ôm lấy người bịt mặt nhảy lui lại, dầy vẻ thân thiết.
      Qua một chiêu, dù phe Hồng-thiết, phe Lạc-long hay đệ tử Đông-a đều tự hỏi:
      - Trông dáng người này dường như còn trẻ, mà sao công lực mạnh đến thế này?
      Lê Văn nói nhỏ vào tai Mỹ-Linh:
      - Người này xử dụng võ công Đông-a, Sài-sơn bằng nội lực Đông-a. Công lực y không thua sư bá Tự-An làm bao, có lẽ ngang với ông kẹ Thông-Mai.
      - Có phải Thông-Mai không?
      - Không, vì anh Thông-Mai cao hơn người này một chút.
      Tên mặt vàng cười khành khạch, hỏi người áo nâu:
      - Tên ôn con kia, mi...mi đánh trộm ta mà đắc thế một chiêu. Nào chúng ta hãy đấu với nhau ngàn chiêu.
      Người áo nâu cười nhạt, y xuất chiêu Phong đáo sơn đầu của phái Đông-a tấn công tên mặt vàng. Tên mặt vàng cũng xuất chiêu Phong ba hợp bích của phái Đông-a rồi chuyển qua chiêu Thiên-vương kị mã đánh lại. Hai người dùng võ công Đông-a đấu với nhau. Mỹ-Linh hỏi Lê Văn:
      - Văn đệ! Văn đệ nghe nhiều, biết rộng, Văn đệ thử đoán xem hai người này là ai? Họ thuộc phái Đông-a hay Sài-sơn?
      Lê Văn lắc đầu:
      - Chị coi kià, tên mặt vàng xử dụng võ công Đông-a có những chỗ không hoàn toàn đúng. Y lại dùng nội công Hồng-thiết. Còn người áo nâu chuyên dùng nội lực Đông-a rất tinh vi. Nhưng cứ một chiêu Đông-a, một chiêu Sài-sơn.
      Đấu được trên trăm hiệp, Lê Văn bảo Lý Nhân-Nghiã:
      - Tên mặt vàng sắp chết rồi. Đợi y lạc bại, tướng quân cho bắt hết đám thủ hạ y còn sót, đừng để chúng chạy thoát.
      Lý Nhân-Nghĩa lui lại truyền lệnh. Y để ý thấy người trùm khăn đen cũng đang ra lệnh cho đám tiễn thủ của y chuẩn bị tác chiến. Lê Văn tinh mắt, chàng thấy đám người này khoảng hơn nghìn, nhưng dường như họ thuộc nhiều môn phái khác nhau, mỗi môn phái trang phục một loại quần áo riêng, nhưng họ đều trùm khăn đen che kín mặt. Chàng đến bên y người thủ lĩnh chắp tay xá:
      - Thiếu hiệp đã trợ giúp anh em tại hạ. Xin thiếu hiệp cho biết đại danh, để anh em tại hạ ghi nhớ công đức.
      Người đó lắc đầu tỏ ý không muốn trả lời. Một mùi u hương từ người y bốc ra thơm ngát, Lê Văn cười thầm:
      - Thì ra y là thiếu nữ.
      Người áo nâu với tên mặt vàng vẫn quay tròn đấu với nhau. Thình lình người áo nâu quát lên một tiếng, y phát chiêu Sài-sơn, rồi chuyển sang Đông-a mạnh kinh người. Tên mặt vàng nghiến răng đỡ. Ầm một tiếng y choáng váng lùi lại. Người áo nâu phát tiếp chiêu Thiên-vương chưởng, rồi chuyển sang chiêu Trùng-dương nộ lãng của phái Đông-a. Tên mặt vàng biết rằng mình đỡ chiêu đó ắt nát thây ra mà chết. Y tung mình nhảy lên cao tránh. Người áo nâu hướng hai tay lên không, một tay phát chỉ, một tay phát chưởng. Chỉ trúng trán tên mặt vàng, bốp một tiếng, óc lẫn máu vọt ra khỏi đầu y. Y đang quay trên không thì chiêu chưởng đã tới, bịch một tiếng, người y gẫy làm đôi, văng đi mỗi nơi một mảnh. Mặt nạ y rơi ra, mọi người bật lên tiếng ái chà vì y chính là Đặng Trường.
      Mọi người đang há hốc miệng ra kinh hãi, thì nhóm người bịt mặt đã xông vào đám đệ tử Hồng-thiết giáo, họ ra tay nhanh không thể tưởng tượng được. Cứ mỗi chiêu một tên mất mạng. Lạ một điều họ chỉ giết đám đội trưởng toán trưởng. Còn đám giáo chúng kia thì bình yên.
      Người áo nâu nhấp nhô mấy cái, y đã cắt đầu Đặng Trường với Thạch Nan-Biện bỏ vào cái túi đeo trên lưng. Y vẫy tay cùng người trùm khăn đen với đồng bọn phóng mình ra phía cửa Tây, phút chốc biến mất vào đêm tối.
      Mỹ-Linh hỏi Đào Hiển:
      - Đào sư huynh! Người mặc áo nâu có thể là một trong Thiên-trường ngũ kiệt không? Võ công người này thực tinh diệu, nội công lại cao thâm khôn lường.
      Đào Hiển lắc đầu:
      - Thưa công chúa người này nhất định không thể là một trong Thiên-trường ngũ kiệt, vì y ta dùng võ công Sài-sơn, Đông-a hỗn hợp.
      Mỹ-Linh chợt nhớ lại, có lần Thanh-Mai đã nói với nàng rằng: Phụ thân nàng cùng các sư thúc rất cao ngạo, nên không bao giờ xử dụng võ công phái khác. Mà người này xử dụng đến bốn thứ võ công: Đông-a, Sài-sơn, Cửu-chân, Hoa-sơn, thì không thể là Thiên-trường ngũ kiệt. Nàng hỏi Đào Hiển:
      - Trong phái Đông-a còn vị nào võ công cao ngang với Thiên-trường ngũ kiệt không?
      Đào Hiển lắc đầu:
      - Không. Ngoài Thiên-trường ngũ kiệt ra, chỉ có bẩy đệ tử của đại sư bá. Trong bẩy vị thì đại sư huynh Trần Phụ-Quốc tức Vương Văn, tam sư huynh Trần Trung-Đạo đều đang ở Trung-quốc. Nhị sư huynh Trần Bảo-Dân hiện trấn ở Trường-yên. Tứ sư huynh là đô đốc Đoàn Thông; ngũ sư huynh là Chiêu-thảo sứ Ngô An-Ngữ; lục sư huynh là Trần Thông-Mai, thất sư tỷ là Khai-Quốc vương phi. Xét kỹ ra người này võ công cao muốn hơn đại, nhị, tam sư huynh.
      Lê Văn tiếp lời Đào Hiển:
      - Cả người áo nâu với người trùm khăn đen đều còn rất trẻ. Người áo nâu là đàn ông vì cơ thể y tiết ra mùi khét khét. Còn người trùm khăn đen là phụ nữ, người bà ta tiết ra u hương thoang thoảng. Có lẽ họ là hai vợ chồng.
      Mỹ-Linh bật cười hỏi:
      - Tại sao họ không thể là anh em. Tại sao em lại quyết đoán họ là vợ chồng?
      Lê Văn chù mỏ ra trêu Mỹ-Linh:
      - À, em biết vì em là thầy thuốc. Bất cứ người đàn bà đẹp nào cũng tiết ra hương thơm đặc biệt. Nhưng giữa hương thơm của thiếu nữ với thiếu phụ có chỗ hơi khác.
      Lý Nhân-Nghiã cầm mũi tên chìa ra:
      - Tên của đội tiễn thủ này có khắc phù hiệu, tiểu tướng chưa hề thấy phù hiệu này bao giờ.
      Mỹ-Linh cầm lên xem, thấy chuôi mũi tên khắc hình con chim ưng bay trên đỉnh ngọn núi. Nàng hỏi Lê Văn:
      - Văn đệ kiến thức vô biên, Văn đệ có biết phù hiệu này của môn phái, bang hội nào không?
      Lê Văn đáp:
      - Trong các môn phái, thì phù hiệu phái Đông-a vẽ hình chim ưng. Ngày xưa phái Thiên-sơn cũng lấy hiệu chim ưng đang bay. Còn phù hiệu núi thì có phái Nga-mi, Trường-bạch, Hoa-sơn bên Trung-nguyên. Phù hiệu chim ưng bay trên núi em chưa từng nghe nói bao giờ.
      Lý Nhân-Nghĩa ra lệnh thu quân, chàng cùng Thiện-Lãm kiểm điểm lại tù binh, cùng tổn thất bên mình, chàng ngạc nhiên vô cùng, vì số giặc chết chưa tới nghìn. Số bị bắt, cùng đầu hàng khoảng nghìn nữa. Vậy số còn lại ba nghìn nữa chúng đi đâu?
      Về phía đệ tử Đông-a, Lạc-long giáo, chỉ có hơn trăm người bị thương. Nhưng về phiá châu Thượng-oai, mười người chết, cùng năm chục bị thương.
      Thiện-Lãm nói với Đào Hiển:
      - Đây thuộc phạm vi phái Đông-a, xin sư huynh cùng chư huynh đệ kiểm soát lại, bắt hết dư đảng Hồng-thiết giáo. Còn đám tù binh này đệ giải về kinh định đoạt.
      Bỗng có tiếng kêu la ầm ĩ ở phiá cửa Tây. Mỹ-Linh, Lê Văn, Nhân-Nghiã cùng chạy ra xem: Trần Anh đang ôm Tôn Quý, Lưu Tường ôm người quản tượng của Quý. Cả hai người thân thể bê bết những máu.
      Lê Văn nhấp nhô mấy cái lại bên Trần Anh, chàng đỡ Tôn Qúy để nằm dài xuống bãi cỏ, rồi xem xét. Máu chảy ra ở phiá lưng, rõ ràng y bị kiếm đâm từ phía sau ra phía trước. Chàng vội điểm vào mấy huyệt cầm máu, rồi lấy cao trị thương dán lên. Chàng bắt mạch. Mạch nhảy rất yếu, vì máu ra nhiều quá. Mỹ-Linh hỏi:
      - Còn hy vọng gì không?
      - Vết thương không trúng tạng phủ, duy mất máu nhiều quá, nếu có nhân sâm, kỷ tử với phục linh thì trị được.
      Chàng xem vết thương quản tượng, rồi nói:
      - Kiếm đâm trúng dưới nách, xuyên vào tim, y chết lâu rồi.
      Mỹ-Linh móc trong bọc ra một hộp thuốc trao cho Lê Văn:
      - Hôm ở Biện-kinh, lúc sư tổ của em rời vườn thượng uyển ra đi, có trao cho chị hộp thuốc này. Người bảo rằng để trị bệnh cho những người kiệt sức. Em xem có dùng cho Quý được không?
      Lê Văn bóp vỡ viên thuốc ra rồi bỏ vào miệng nếm thử. Chàng gật đầu:
      - Thuốc bổ khí đây. Y kinh nói : Khí vi huyết chi sư. Nghiã rằng: Khí là thầy của huyết. Muốn bổ huyết, cần bổ khí đã.
      Chàng cậy miệng Tôn Quý ra, rồi bỏ vào ba viên thuốc. Chàng bảo Mỹ-Linh:
      - Nội công của chị là Thiền-công. Chị hãy để tay vào huyệt Trung-uyển của Quý rồi dồn chân khí sang cho thuốc chạy khắp các kinh mạch.
      Mỹ-Linh xoè tay để vào huyệt Trung-uyển Tôn Quý rồi vận Vô-ngã tướng công truyền vào. Khoảng nhai dập miếng trầu, Tôn Quý rùng mình mở mắt ra. Lê Văn cùng các y sĩ băng bó cho những người bị thương. Chàng nói với Đào Hiển:
      - Trong trận chiến vừa qua chúng ta có nhiều người bị thương.
      Thương tích không nặng cho lắm, vậy đệ để họ với mấy y sĩ ở lại đây, nhờ đại ca lo liệu dùm. Bọn đệ phải tiếp cứu Trường-yên.
      Lê Văn, Hà Thiện-Lãm, Lý Nhân-Nghiã kéo Mỹ-Linh ra chỗ vắng. Mỹ-Linh kinh ngạc hỏi:
      - Có truyện gì không?
      Thiện-Lãm hỏi:
      - Chị không thắc mắc gì tại cửa Tây ư?
      - Không.
      - Khi thiết kế, Lý tướng quân đã định rằng: Chúng ta tấn công vào cửa Bắc, Đông. Còn cửa Nam thì Tôn Mạnh dùng voi cùng đội Lạc-long giáo trấn không cho giặc chạy ra. Tại cửa Tây, thì Tôn Quý với quận chúa Hồng-Phúc dùng tre rào kín, rồi xử dụng đội thiếu niên Lạc-long trấn phía ngoài. Thế mà khi Lê Văn, Trần Anh đuổi giặc tới đây chẳng thấy một bóng người bên ta, mà cửa lại mở rộng. Ban nãy em quan sát, thì thấy rõ ràng giặc thoát ra bằng cửa này. Em có hỏi đội Lạc-long giáo của Quý tại đây, họ nói rằng quận chúa Hồng-Phúc lệnh cho họ mở cửa tấn công về phía Nam. Em hỏi quận chúa thì quận chúa mắng em là tên mọi rợ ở rừng không có tư cách gì hỏi người.
      Mỹ-Linh nắm tay Thiện-Lãm;
      - Chị xin lỗi em về vụ Hồng-phúc.
      Mỹ-Linh hỏi Lê Văn:
      - Văn đệ nghĩ sao?
      Lê Văn cười nhạt:
      - Chúng ta thiết kế chui qua lũy tre, trời không biết, thần không hy, tại sao bọn Hồng-thiết giáo biết trước mà phục cung nỏ tại đây?
      Mỹ-Linh gọi Hồng-Phúc lại, nàng hỏi:
      - Em với Tôn Quý trấn tại cửa Tây. Lệnh ban ra rằng phải dùng tre lấp cửa, rồi cho voi, hổ, cùng đội Lạc-long giáo giữ chắc đừng để giặc thoát ra. Tại sao nay cửa lại mở, để giặc rút về phía này? Em với Quý ngồi cùng voi, thế Quý bị kiếm đâm sau lưng lúc nào, em có biết không? Ai đâm Quý? Tại sao quản tượng lại bị đâm vào nách?
      Mặt Hồng-Phúc lạnh như tiền:
      - Tên mọi Tôn Quý ra lệnh mở cửa, rồi xua quân tấn công vào. Trong khi xung sát, quản tượng với nó bị đâm lúc nào em không rõ.
      Lý Nhân-Nghiã lắc đầu:
      - Thưa quận chúa...quận chúa ngồi sau Tôn thiếu hiệp với quản tượng, mà Tôn thiếu hiệp với quản tượng bị trọng thương, không lẽ quận chúa không thấy?
      Hồng-Phúc quát lên:
      - Mi chỉ là một viên tướng hiệu nhỏ, mà cũng muốn tra vấn ta ư? Bộ mi không muốn sống nữa rồi.
      Mỹ-Linh thấy cô em nổi chứng, nàng đành nín nhịn không thắc mắc nữa. Hà Thiện-Lãm mời chư tướng lại hội. Chàng truyền lệnh:
      - Chúng ta khẩn cấp tiếp cứu Trường-yên ngay. Đạo quân Thượng-oai đi tiền đội. Chị Mỹ-Linh, anh Lê Văn, Lưu Tường, quận chúa Trường-Ninh với tôi theo đạo này. Đạo thứ hai gồm giáo chúng Lạc-long giáo. Vì Tôn Quý bị thương nặng, đội Lạc-long giáo của y trao cho Lý tướng-quân chỉ huy. Quận chúa Hồng-Phúc theo đạo này.
      Hồng-Phúc quát lên:
      - Ta đường đường là quận chúa phủ Khai-Thiên vương. Ta không nghe lệnh tên mọi. Ta đi tiên phong.
      Hà Thiện-Lãm đưa mắt nhìn Mỹ-Linh hỏi ý kiến. Mỹ-Linh an ủi:
      - Thôi Hà đệ cho chị chịu lỗi về vụ này, để cho Hồng-Phúc đi đầu.
      Hai đạo quân rầm rộ lên đường. Thiện-Lãm cho chim ưng bay trước tuần phòng. Chàng viết thư báo cáo tình hình, rồi sai chim ưng mang đi cho Khai-Quốc vương.
      Đi được khoảng hai chục dặm, tiền quân quay lại báo:
      - Dường như phía trước vừa có trận đánh, xác người chết nằm la liệt, máu chưa đông hết.
      Mỹ-Linh, Lê Văn vội lên trước xem xét. Lê Văn quan sát qua, rồi nói:
      - Đám người chết đều là giáo chúng Hồng-thiết vừa rút lui từ Yến-vĩ sương sen. Hầu hết chúng chết vì tên.
      Lê Văn cầm mũi tên soi vào đuốc, chuôi mũi tên có khắc hình chim ưng bay trên núi. Lý Nhân-Nghĩa kinh hãi nói:
      - Thì ra vẫn cặp vợ chồng ban nãy ra tay. Thưa công chúa, thần đoán như thế này: Cặp vợ chồng Ưng-sơn dường như là người Việt. Không biết bằng cách nào họ ẩn vào trong làng Yến-vĩ sương sen trước. Rồi không biết cơ duyên từ đâu đến, họ biết rõ việc chúng ta bị nội phản, bị phục kích, họ phối trí tiễn thủ cứu chúng ta. Sau khi giết chết Đặng Trường, Thạch Nan-Biện họ đuổi theo đám tàn quân Hồng-thiết giáo, rồi giết chết chúng tại đây.
      Hồng-Phúc cau mặt:
      - Ngu dốt mà lại ra mặt dạy khôn mọi người. Ta hỏi mi: Nếu bảo cặp vợ chồng khả ố kia đuổi theo giết giáo chúng Hồng-thiết, thế sao không giết chết cả năm nghìn người, mà chỉ giết có hơn nghìn?
      Lý Nhân-Nghĩa đáp:
      - Thưa quận chúa, Hồng-thiết giáo chia ra từng toán mười người. Mười toán thành đội trăm người. Mười đội thành đạo nghìn người. Có lẽ khi rút, họ chia ba đạo chạy ba ngả. Chẳng may đạo này gặp cặp vơ chồng Ưng-sơn, nên bị giết hết.
      Lưu Tường nói với Thiện-Lãm:
      - Anh Lãm, hổ, báo, ưng của mình từ chiều đến giờ chưa cho ăn...
      Thiện-Lãm hiểu liền:
      - Tường mở cũi cho chúng đánh chén một bữa no nê đi.
      Mỹ-Linh nghe Thiện-Lãm đối đáp với Lưu-Tường, nàng ớn da gà, phát rùng mình. Nhưng nàng nghĩ lại:
      - Những người này chết thì cũng chết rồi. Để cho thú ăn thịt họ vẫn hơn giết lợn, trâu, bò cho thú ăn, sát nghiệp còn nặng hơn.
      Nàng lẩm nhẩm đọc kinh vãng sinh cho đám người chết.
      Khi đi qua khu rừng thông ven sông, Mỹ-Linh chỉ vào phía trong nói:
      - Kia là đất thiêng của phái Đông-a. Kể từ đời tổ Tự-Viễn về khai sáng ra vùng này, bao nhiêu người thuộc con cháu Trần gia đều chôn tại đây. Hồi chị với chị Bảo-Hòa, anh Thiệu-Thái đến Thiên-trường, thím Thanh-Mai dắt vào đây lễ tổ. Đất có thần, nhà có chủ. Chúng ta qua đây cũng nên vào lễ tổ phái Đông-a cho phải đạo.
      Thiện-Lãm cho quân cứ tiếp tục lên đường, chàng với Mỹ-Linh, Lê Văn, Trường-Ninh rẽ vào rừng thông. Không biết nghĩ sao, Hồng-Phúc cũng theo vào. Dưới ánh đuốc chập chờn, hàng nghìn ngôi mộ đủ loại lớn nhỏ nằm im lìm. Tiếng thông reo vi vu, như tiếng vọng của biết bao âm hồn thì thào. Tại giữa nghĩa địa có ngôi từ đường rất lớn. Mỹ-Linh vẫy hai em xuống ngựa rồi thắp hương. Nàng kinh ngạc biết bao, khi thấy trong nhà từ khói hương nghi ngút, nến thắp sáng trưng như ban ngày.
      Nàng để ý thấy trên bàn thờ có đến hai con trâu, bốn con lợn và mười con gà đặt trên bàn cùng xôi, hoa quả. Lê-Văn kinh ngạc:
      - Rõ ràng trước chúng ta đã có người vào đây lễ, dường như họ mới ra đi. Nhưng không biết là ai?
      Mỹ-Linh vẫy các em quỳ gối lễ tám lễ. Thấy Hồng-Phúc đứng nhìn, mặt cau có, nàng hỏi:
      - Đất có chủ, khi em qua đây, cũng nên kính lễ người xưa cho phải đạo lý.
      Hồng-Phúc xì một tiếng:
      - Có ai vô duyên như chị em nhà cô không. Mình đường đường là công chúa, quận chúa lại đi thì thụp lạy trước bài vị bọn quê mùa ăn cướp này. Nếu quả chúng linh thiêng, thì cứ gọt đầu ta đi. Ta không lạy chúng.
      Mỹ-Linh không muốn nói truyện với cô em hung dữ; nhớ đến Thanh-Mai, Tự-Mai, Mỹ-Linh kéo Thiện-Lãm, Lê Văn, Trường-Ninh tìm mộ bà Cao Huyền-Nga (vợ Trần Tự-An) để thắp hương cho phải đạo. Vừa tới mộ bà, bất giác Mỹ-Linh đứng dừng lại, vì ngay trước mộ có cái bệ xây bằng đá, trên bệ đặt một bát hương, hương khói nghi nghút. Trên bàn còn bầy ngay ngắn mấy cái đầu lâu. Lê Văn vốn can đảm, chàng soi đuốc lại nhìn cho rõ, bất giác chàng bật lên tiếng kêu:
      - Ối! Này đầu tên Đặng Trường, Hoàng Văn, Phạm Trạch, Thạch Nan-Biện, Ngô Bách-Vân.
      Mỹ-Linh bớt sợ, nàng cùng các em chắp tay lễ bốn lễ. Nàng khấn:
      - Bá mẫu sống đã không lấy làm sướng, thì chết cũng siêu sinh về thế giới Cực-lạc cho yên ổn.
      Nàng ngồi xuống tụng bài kinh A-di-đà, trong khi Trường-Ninh, Thiện-Lãm, Lê Văn tụng theo. Lê Văn nói:
      - Nhất định cặp vợ chồng Ưng-sơn có liên hệ với phái Đông-a, nên mới đem đầu bọn ma về tế mộ bà Cao Huyền-Nga, vì hồi sinh tiền, chính chúng làm nhục bà đủ điều, đến phải tự tử.
      Mỹ-Linh trầm tư:
      - Không biết họ là ai? Nhất định không phải ông Thông-Mai với bà Bảo-Hòa, vì hai ông bà ấy cao hơn cặp vợ chồng này nhiều. Lại càng không thể là Tự-Mai, vì võ công người này cao hơn Tự-Mai một bậc.
      Ba chị em trở lại từ đường. Không thấy Hồng-Phúc đâu, Mỹ-Linh lên tiếng gọi:
      - Hồng-Phúc! Hồng-Phúc!
      Không có tiếng đáp lại. Bỗng Thiện-Lãm bật lên tiếng úi chà, rồi chỉ lên ngọn cây phía trước từ đường: Hồng-Phúc bị trói hai chân, treo ngược trên cành cây. Mỹ-Linh tung người lên, đưa một nhát kiếm, dây đứt, nàng đỡ lấy Hồng-Phúc. Hồng-Phúc bị trói chân, trói tay, dẻ nhét đầy miệng, đầu bị gọt nhẵn bóng.
      Mỹ-Linh vội cắt dây trói cho em. Nàng hỏi:
      - Hồng-Phúc! Cái gì đã xẩy ra?
      Mặt Hồng-Phúc lạnh như tiền, ả không nói, không rằng tung mình lên ngựa, rồi ra roi phi khỏi rừng thông. Mỹ-Linh, Lê Văn, Thiện-Lãm, Trường-Ninh cũng lên ngựa trở lại với đoàn quân. Thiện-Lãm bàn:
      - Nhất định là cặp vợ chồng Ưng-sơn đã mang thủ cấp bọn ma đầu về tế mộ bà Cao Huyền-Nga, rồi cũng chính cặp vợ chồng này ra tay trừng phạt Hồng-Phúc. Có lẽ vì nể chúng ta, nên họ không h.... (bản gốc thiếu.)

      Đang đi thì có chim ưng mang lệnh của Khai-Quốc vương tới. Thiện-Lãm, Lý Nhân-Nghiã cùng mở thư ra coi. Hai người đọc xong rồi, Thiện-Lãm nói với Mỹ-Linh:
      - Lệnh Khai-Quốc vương cho biết, vương đuổi theo Vũ-Đức vương tới gần Trường-yên thì ngừng lại, không tiến quân nữa. Vì tiến lên ắt có giao tranh khủng khiếp, mà số người chết lên tới hàng vạn. Vương tạm đóng quân ở bờ sông, chờ đô đốc Phạm Tuy về đánh chiếm Thanh-hóa, khiến quân Đàm Toái-Trạng hỗn loạn thì vòng vây Trường-yên tự mở ra. Bấy giờ ta đuổi theo đánh chúng cũng vừa. Vậy đêm nay ta đóng quân tại đây nghỉ dưỡng sức đã.
      Tôn Trọng đề nghị:
      - Chúng ta đóng quân ngay dốc núi này, dựa lưng vào sườn, lại có suối lấy nước uống nữa, như vậy tiện lắm.
      Trần Anh đang cắt cử quân tuần tiễu, canh gác, thì Lưu Tường lắc đầu:
      - Không cần. Xung quanh trại, tôi bố trí mười toán cánh gác. Mỗi toán có ba đệ tử Thượng-oai ngủ dưới gốc cây với cặp hổ. Trên cây có một đội ưng đậu. Trên vùng trời lại có mấy cặp ưng bay tuần phòng. Bất cứ người, vật đột nhập, chúng sẽ báo liền.
      Mỹ-Linh, Trường-Ninh, Hồng-Phúc có mấy nữ binh theo hầu, lo mắc võng cho ba chị em ngủ. Thiện-Lãm, Lê Văn ngủ chung một lều.
      Bấy giờ đã sang canh ba. Sau một ngày chiến đấu, mọi người đặt mình xuống là ngủ say liền. Chỉ riêng Lê Văn, những biến cố xung quanh vụ Tôn Quý bị ám hại làm chàng không ngủ được. Chàng nghĩ thầm:
      - Trong đội quân này, thì chị Mỹ-Linh với Mình là người thông minh nhất. Nhưng chị Mỹ-Linh bản tính chân thật, không thể nhìn ra sự thực. Còn mình, mình phải tìm cho ra lẽ. Nhất định Hồng-Phúc có liên quan đến việc Tôn Quý bị ám hại.
      Chàng nằm im hướng mắt về phía mấy chị em Mỹ-Linh nằm ngủ. Dù mắt buồn ngủ rí lại, nhưng chàng nhất định không ngủ. Không phải chờ lâu, trong bóng đêm, chàng thấy rõ Hồng-Phúc xuống khỏi võng hướng về phía suối. Nhìn trước, nhìn sau không có ai, Hồng-Phúc lấy châm vạch lên cây, ý chừng như viết chữ. Sau đó nàng bới đất ở gốc cây rối xuất trong túi ra cái hộp chôn xuống. Việc xong xuôi, nàng âm thầm trở về chỗ ngủ.
      Nhanh nhẹn Lê Văn chạy lại bới gốc cây, lấy cái hộp bỏ vào túi, rồi về chỗ. Chàng nằm xuống, rồi ngủ thiếp đi.

      <bài viết được chỉnh sửa lúc 03.02.2005 04:39:25 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 21.01.2005 17:45:28 (permalink)
        Hồi thứ một trăm hai mươi bốn


        Thượng bất chính, hạ tắc loạn




        Tiếng chim rừng hót líu lo làm Lê Văn tỉnh giấc trước. Chàng ngồi ngắm muôn hoa Xuân nở rực rỡ, hương đưa ngào ngạt, trong lòng dạt dào nguồn vui. Nhìn sang phía Mỹ-Linh ngủ, thì ba chị em nàng đã tắm rửa, thay y phục từ lâu. Chàng gọi Thiện-Lãm, Lý Nhân-Nghĩa ra chỗ khuất thuật lại hành động đêm qua của Hồng-Phúc. Lý Nhân-Nghĩa thở dài:
        - Việc của quận chúa Hồng-Phúc, tiểu tướng với Hà châu trưởng muôn nghìn lần không dám xen vào. Duy thiếu hiệp là người có thể bàn với công chúa xem phải đối phó ra sao. Tiểu tướng nghĩ: Có lẽ công chúa Bình-Dương cũng không dám động đến quận chúa Hồng-Phúc đâu. Vậy lát nữa Hà châu trưởng cho đánh trống họp chư tướng ở chỗ xa nơi quận chúa chôn hộp, rồi thiếu hiệp nhìn xem quận chúa viết gì trên thân cây. Sau đó thiếu hiệp nên khẩn khải với Khai-Quốc vương thì hơn.
        Trong khi Thiện-Lãm đánh trống họp chư tướng, thì Lê Văn ra chỗ cây mà Hồng-Phúc viết đêm qua. Trên thân cây, chàng thấy vẽ hình con ngựa phi, giống như biểu hiệu của Khai-Thiên vương. Chàng trở về lều, lấy cái hộp ra xem, thì trong hộp có một tờ giấy kể rõ kế hoạch của Khai-Quốc vương chờ Phạm Tuy đánh Thanh-hóa rồi mới tấn công giải cứu Trường-yên.
        Kinh hoàng, chàng trở về lều họp nói với Mỹ-Linh:
        - Chị với anh Lãm lo sự ở đây. Em về Yến-vĩ trị bệnh cho thương binh một lát rồi trở lại ngay. Từ đây về Yến-vĩ chắc phải nửa giờ sức ngựa.
        Mỹ-Linh không nghi ngờ, nàng dặn em:
        - Văn đệ mau trở lại, đừng để chị mong.
        Lê Văn lấy ngựa lên đường, không khó khăn, nửa giờ sau đến chỗ đóng quân của Khai-Quốc vương. Vương kinh ngạc hỏi:
        - Tại đạo quân Thượng-oai ta hoàn toàn trông vào võ công cùng sự linh mẫn của em. Sao em lại bỏ về đây. Em đi mà không cho ta biết trước, vậy hẳn có điều gì cơ mật chăng?
        Lê Văn đưa mắt nhìn các tướng một lượt, rồi nói:
        - Em muốn nói truyện riêng với đại ca.
        Các tướng lùi ra ngoài trướng. Tuy ngồi đối diện với Khai-Quốc vương mà Lê Văn vẫn dùng Lăng-không truyền ngữ thuật chi tiết những bí mật xung quanh Hồng-Phúc, rồi chàng trình cái hộp ra cho Khai-Quốc vương.
        Khai-Quốc vương lặng đi giờ lâu, rồi nói:
        - Như vậy thì Hồng-Phúc bí mật theo Hồng-thiết giáo rồi. Chính nó báo kế hoạch đánh úp Yến-vĩ cho bọn Đặng Trường, cho nên Mỹ-Linh với Văn đệ mới bị phục kích. Cũng may có vợ chồng Ưng-sơn cứu kịp, bằng không thì e Mỹ-Linh, Đào Hiển với Văn đệ đều bị hại, mà cánh quân Thượng-oai e bị tan nát. Cũng chính Hồng-Phúc ngồi phía sau rút kiếm đâm Tôn Quý. Khi Tôn Quý ngã xuống, quản tượng quay lại, thì bị nó đâm, cho nên kiếm trúng nách. Bây giờ nó lại báo tin cho bọn Hồng-thiết giáo biết kế hoạch của ta.
        Vương trầm tư thở dài:
        - Từ trước đến nay, ta thấy Hồng-Phúc đành hanh, bang bạnh với chị em, với kẻ hầu người hạ. Ta tưởng nó chỉ nhân mẹ được sủng ái mà lên mặt. Không ngờ nó phản nước, phản cả ông cha. Mà nó phản để được gì? Công danh ư? Chắc chắn là không. Vàng bạc ư? Muôn ngàn lần Hồng-thiết giáo không có mà cho nó. Vậy tại sao nó phản? Văn đệ là thầy thuốc, Văn đệ thử giải đoán xem, may ra tìm được chút ánh sáng nào không?
        Lê Văn nói ngay:
        - Người xưa nói rằng : Con giết cha không phải một ngày mà đến, vợ phản chồng không phải một lúc mà thành. Từ trước đến giờ Hồng-Phúc cùng Đinh phi vẫn có những hành vi khác lạ. Anh có nhớ vụ tết Trung-thu năm nào không? Trước mặt Khai-Thiên vương, trước mặt anh, mà bà còn đanh đá, nói năng như phường vô học, bất thuật. Em nghĩ, nguyên do có ba. Một là bà ta ỷ được Khai-Thiên vương sủng ái, hai là phụ thân bà lĩnh ấn tổng trấn Thanh-hóa. Ba là bà ta biết rõ Hoàng Văn làm trưởng lão Hồng-thiết giáo, nhưng vẫn tin dùng y. Bằng ấy điều, có thể qui tụ vào một mối: Bà hy vọng dùng lực lượng Hồng-thiết giáo để sát hại những phi tần nào Khai-Thiên vương sủng ái, để lên làm vương phi. Nhưng bà không ngờ, càng gần bọn Nhật-Hồ, bà càng vương mắc với chúng nhiều hơn, riết rồi thành người phản quốc. Em nghĩ việc đây xong, anh có thể thẩm vấn Hồng-Phúc để biết rõ tình tiết.
        - Em biết rằng việc ngoài thì dễ, việc nhà thì khó vô cùng. Như trước kia ta biết rõ thân mẫu Mỹ-Linh cùng vương phi Đông-Chinh ô danh thất tiết với bọn Hồng-thiết giáo, mà ta không thể dùng hình pháp. Ta đành dùng lối khác, là che chở, khuyến dụ, để họ biết tội mà tự xử. Song chỉ có Chu Vân-Nga biết tự xỉ. Còn thân mẫu Mỹ-Linh thì không. Phải đợi đến khi bị bọn Hoàng Văn, Lưu hậu bắt sang Biện-kinh, được Thônng-Mai, Bảo-Hòa giải cứu đem về Đại-Việt, bấy giờ anh ta không nhịn được nữa, nhiếc móc bà ta, bà ta mới âm thầm lấy kiếm phổ của Mỹ-Linh luyện, rồi định giết Hoàng Văn trả thù, nhưng không thành. Việc đó chư quân tướng biết hết, bấy giờ bà ta mới tự xử. Hà... khó quá.
        Vương đưa mắt nhìn núi rừng xa xa:
        - Ta thiếu bản lĩnh thẳng tay của quốc trượng Tự-An, lại càng không bằng Thông-Mai, hay Tự-Mai. Trong Thuận-Thiên thập hùng, thì Văn đệ có tài, võ công cao, trí lực tuyệt luân. Nhưng dù sao Văn đệ cũng là thầy thuốc, có nhiều việc mà thầy thuốc không thể làm được.
        Lê Văn nổi cáu:
        - Không biết giờ này Tự-Mai ở đâu? Chắc đang ruổi ngựa ở biên thùy Hoa-Việt. Anh yên tâm, khi cần thì thầy thuốc cũng có thể mạnh tay. Có những việc với địa vị của anh, anh không thể làm đựợc thì không lẽ trong thiên hạ không ai làm được chăng? Trên đời này không lẽ cứ để cho thiên hạ kề đao vào cổ, rồi vì lẽ này hay lẽ kia mà không phản ứng được ư?
        Khai-Quốc vương nắm tay Lê Văn:
        - Đa tạ Văn đệ.
        Vương rùng mình:
        - Cũng may Văn đệ khám phá ra vụ này, bằng không Vũ Nhất-Trụ biết được kế của ta, ắt y cho một đạo quân trở về giữ Thanh-hóa thì nguy thay. Được, ta phải tương kế tựu kế.
        Vương sai thư lại nhại theo nét chữ của Hồng-Phúc viết một lá thư, trình bầy rõ kế hoạch như sau: "Khai-Quốc vương không muốn tiến quân, vì các hạm đội đang trên đường đi chiếm lại các trấn, các huyện ngoài Bắc. Rút cuộc vương chỉ có hai đạo binh Thượng-oai với Phong-châu mà thôi".
        Vương bỏ thư vào chiếc hộp của Hồng-Phúc rồi dặn Lê Văn:
        - Bây giờ Văn đệ trở về chôn cái hộp này vào chỗ cũ. Sau đó hết sức theo dõi Hồng-Phúc cho ta.
        Lê Văn lên đường trở về núi Cánh-diều, thì trời đã xế trưa. Ba chị em Mỹ-Linh đang hội họp, ăn cơm chung với các tướng. Chàng lẻn ra chỗ gốc cây, chôn cái hộp vào chỗ cũ, mật thuật cho Hà Thiện-Lãm, Lý Nhân-Nghĩa chi tiết cuộc hội kiến với Khai-Quốc vương. Chàng vờ cáo mệt về lều nằm nghỉ.
        Lát sau, chàng thấy một giáo chúng Lạc-long giáo lần mò theo các cây quan sát. Khi tới cây Hồng-Phúc khắc con ngựa, thì y xụp xuống bới đất lấy cái hộp lên, rồi nhanh nhẹn bỏ vào túi.
        Suốt hai ngày, Lê Văn luôn theo dõi Hồng-Phúc. Sang ngày thứ ba, thì có chim ưng đem thư lại. Hà Thiện-Lãm mở thư ra đọc, rồi đốt đi. Chàng thăng trướng ra lệnh:
        - Khai-Quốc vương truyền cho chúng ta tiến quân về Trường-yên. Trên đường tiến quân có thể gặp đạo binh Cửu-chân của Đàm Toái-Trạng. Vậy công chúa, quận chúa Trường-Ninh, Lý tướng quân, Lưu Tường với tôi đi tiền quân. Trung quân là Trần Anh, Tôn Mạnh, Tôn Trọng. Văn đệ cùng quận chúa Hồng-Phúc theo hậu quân.
        Đợi cho tiền, trung quân lên đường rồi, Lê Văn nhảy lên bành voi ngồi trước. Hồng-Phúc ngồi sau. Quản tượng thúc voi lên đường. Lê Văn giả bộ gợi truyện với Hồng-Phúc:
        - Này quận chúa. Dường như mai này Khai-Quốc vương ra lệnh tấn công Trường-yên, quận chúa tha hồ mà trổ thần oai. Tôi nghe võ công quận chúa cao thâm không biết đâu mà lường. Thế quận chúa học võ với ai vậy?
        - Tôi học khai tâm với phụ vương. Nhưng bản lĩnh chân thực của tôi lại do một cao nhân truyền thụ.
        - Không biết tôn sư đại danh là gì? Quận chúa có thể cho tôi biết được không?
        - Tôi không thể nói ra được. Một ngày kia công tử sẽ biết.
        Lê Văn nghĩ thầm:
        - Ta có nên cho voi xung trận, để mượn tay giáo chúng Hồng-thiết giáo giết con rắn độc này, mà không ai nói vào đâu được không? Mưu này hơi giống vụ ông nội ta định giết Đinh Toàn. Nhưng ta muốn tra vấn nó để biết ai là người chủ mưu với nó đã.
        Có tiếng trống thúc nhịp nhàng ở tiền quân. Biết tiền quân đang chuẩn bị giao chiến với địch. Lê Văn nói:
        - Quận chúa! Đây còn cách cửa Bắc thành Trường-yên đến năm dặm. Giặc đang vây thành. Cửa Bắc do Vũ-Đức vương hãm. Ta phải lên tiếp viện cho Thiện-Lãm.
        Theo binh pháp của Khai-Quốc vương, chàng lệnh cho hậu quân tiến lên dàn ra bên phải cánh quân của Thiện-Lãm, trong khi cánh trung quân của Trần Anh dàn ra bên trái. Ba đạo quân gươm đao sáng ngời, trống thúc nhịp nhàng. Mỹ-Linh đứng giữa, bên trái có Hà Thiện-Lãm, bên phải có Lý Nhân-Nghiã. Phía sau là Lưu Tường, Trường-Ninh, mỗi người đứng đầu một cánh quân.
        Đạo quân phản loạn nổ ba tiếng pháo, cửa trận mở rộng, một võ sĩ cầm cây cờ cực lớn tiến ra. Trên cờ có hàng chữ: Diệt loạn cứu giá một lá cờ khác có hàng chữ : Vũ-Đức đại vương. Tiếp theo Vũ-Đức vương cùng Nguyễn Khánh, Nguyên-Hạnh phi ngựa ra trước trận. Vương quan sát trận tuyến một lượt rồi nói với Nguyễn Khánh:
        - Đức-Chính với Long-Bồ đâu mà chỉ thấy tụi ôn con này.
        Nguyên-Hạnh nói lớn:
        - Ta muốn nói truyện với Đức-Chính hay Long-Bồ.
        Hà Thiện-Lãm cho voi tiến ra, chàng nghiêng mình hành lễ với Vũ-Đức vương:
        - Hà Thiện-Lãm, châu trưởng Thượng-oai xin tham kiến vương gia. Khai-Thiên vương, với Khai-Quốc vương hiện ở Thăng-long, chứ không ở đây.
        Mục đích của Vũ-Đức vương là muốn biết hành trạng của Khai-Quốc vương. Nay vương nghe Thiện-Lãm trả lời như vậy, thì yên tâm. Vương hất hàm cho Thiện-Lãm:
        - Này châu trưởng. Tuổi người còn trẻ, tương lai còn dài, người phải biết rõ thế nào là chính đạo, thế nào là đạo tặc. Nay Đức-Chính đem quân làm loạn, chiếm kinh thành, soán ngôi vua, thế mà châu trưởng đem quân về giúp y, là đạo lý đấy ư? Cô gia khuyên châu trưởng nên cùng với cô-gia đem quân trở về Thăng-long bắt Đức-Chính, cứu giá. Việc hoàn tất, không những danh châu trưởng được chép trong sử xanh, mà cái tước hầu, tước bá e không xa làm mấy.
        Thiện-Lãm cười nhạt, chàng phất tay ra hiệu, các tướng chỉ huy voi, báo, hổ, ưng đồng cầm tù và thổi lên một hồi. Đội quân voi, hổ, báo cùng rống lên muốn rung động trời đất. Lưu Tường châm ngòi đốt cây pháo lệnh rồi tung lên không. Sau tiếng nổ đùng, đội binh thú vật cùng im lặng.
        Hà Thiện-Lãm vận nội lực nói lớn:
        - Chư quân nghe đây.
        Chàng phất tay, Lê Văn tiến ra, tay cầm tờ hịch của Thuận-Thiên hoàng đế hướng sang đạo quân Vũ-Đức vương rồi đọc. Đợi Lê Văn đọc xong, Thiện-Lãm nói:
        - Chư quân đã nghe hịch của Thiên-tử. Vậy chư quân còn đợi gì mà không buông vũ khí để được ân xá.
        Đám quân sĩ nhìn nhau, hàng ngũ hơi dao động. Vũ-Đức vương kinh hãi, ông định cho quân đánh tràn ra, thì có tiếng tù và, tiếng trống thúc, rồi một đội quân hùng tráng từ phía Bắc tiến tới. Cây cờ đi tiên phong có chữ lớn :Phụng chỉ thảo nghịch tặc. Một cây nữa có chữ : Phong-châu Lê Thuận-Tông. Lê Thuận-Tông, Kim-Thành ngồi trên một bành voi hùng dũng tiến tới. Bên phải là Tôn Đản, Ngô Cẩm-Thi cỡi ngựa. Bên trái là Hoàng Tích, Lê Phụng-Hiểu.
        Vũ-Đức vương hơi chột dạ. Vương hỏi Lê Phụng-Hiểu:
        - Lê tướng quân, ta muốn gặp Khai-Quốc vương.
        Lê Phụng-Hiểu chắp tay xá dài:
        - Khải vương gia, Khai-Quốc vương hiện chầu hầu Hoàng-thượng chứ người không có mặt ở đây.
        Vũ-Đức vương hất hàm hỏi quận chúa Kim-Thành:
        - Người có phải là con gái Phật-Mã chăng?
        Tuy là chị em cùng cha, cùng mẹ, nhưng Kim-Thành khác hẳn Mỹ-Linh. Mỹ-Linh vừa học Nho vừa học Phật, nhưng nàng thâm nhiễm đạo Phật hơn. Còn Kin-Thành nàng chỉ được học Nho, mà hiểu rất lờ mờ về Phật, vì vậy tính tình nàng rất cương quyết. Nghe chú nhục mạ phụ vương, mắt phượng quắc lên, nàng cầm roi ngựa chỉ vào vương:
        - Người ngồi trên ngựa kia là tên phản tặc nào vậy?
        Tôn Đản biết ý Kim-Thành, chàng đáp:
        - Người đó ư? Trước đây y là Vũ-Đức vương, được Hoàng-thượng phong làm Thái-tử. Nhưng nay Hoàng-thượng mới khó ở, mà y đã bán tổ tiên, bán cha mẹ, bán anh em, đi theo Hồng-thiết giáo. Y có tên là Bất-vũ, Bất-đức.
        Chư quân cười ầm lên. Vũ-Đức vương nổi cộc chỉ mặt Kim-Thành:
        - Cha nào con ấy, cha mi làm phản, còn mi thấy thúc phụ không hành lễ, lại còn buông lời vô phép vô tắc. Mi... mi thực là đồ mất dạy.
        - Khi có người con Vũ-Đức vương phản Thuận-Thiên hoàng-đế, có người em Vũ-Đức vương phản Khai-Quốc vương, tất có đứa cháu Kim-Thành buông lời nhục mạ ông chú. Sự đời là thế, có gì lạ đâu. Người Việt có câu: Bụt ngồi trên toà, gà nào mổ mắt được. Sách có chữ : Thượng bất chính, hạ tắc loạn. Nay có người chú phản ông, tất có đứa cháu không nhận chú.
        Nàng cầm roi chỉ vào Vũ-Đức vương:
        - Ai bắt được tên phản thần Vũ-Đức kia, ta sẽ tâu lên Thiên-tử phong cho tước Vạn-hộ hầu.
        Thuận-Tông cầm tù và rúc lên một hồi, đội báo, đội hổ của Phong-châu, Thượng-oai gầm gừ rung chuyển trời đất rồi xông vào trận. Vũ-Đức vương lui vào trong trận. Còn Nguyên-Hạnh, Nguyễn Khánh, Lê Tấn, Linh Vũ-Nguyện, Vũ Hào vội rút vũ khí đứng cản hậu.
        Song Thuận-Tông, Thiện-Lãm chỉ được lệnh dọa già Vũ-Đức vương, chứ không được lệnh giao chiến. Cho nên đội hổ, báo chỉ đuổi theo một quãng ngắn, rồi lùi lại đóng trại.
        Hai đạo quân Thuận-Tông, Thiện-Lãm gặp nhau, các chúa tướng mừng mừng, tủi tủi kể cho nhau nghe về những biến chuyển vừa qua. Nhất là đám Trần Anh gặp lại Tôn Đản, Thuận-Tông. Đám Trần Anh với anh em Tôn Mạnh, Tôn Trọng thấy Ngô Cẩm-Thi xinh đẹp, thông minh, võ công cao, chúng cứ hỏi nàng hết câu nọ đến câu kia.
        Ngô Cẩm-Thi chỉ Mỹ-Linh, Kim-Thành, Trường-Ninh nói:
        - Như vậy trong Tân-quy thất quỷ còn bốn cậu em ở trong tình trạng thuyền không bến. Chúng ta là chị, phải có bổn phận lo cho các em. Sau trận này, các em đều có công, nhất định Hoàng-thượng sẽ hỏi cho mỗi cậu một tiểu thư con đại thần trong triều.
        Thuận-Tông thuật về cuộc đuổi theo Vũ-Đức vương:
        - Kể từ lúc rời Thăng-long, đạo Phong-châu cứ theo xa xa đạo quân Vũ-Đức vương. Dọc đường vương bàn luận với bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo những gì, người của Khu-mật viện ẩn thân trong đạo quân của vương báo cho mình biết hết. Có hai vấn đề họ thắc mắc là hiện Khai-Quốc vương ở đâu? Tại sao với quân số đông đảo, mà vương không cho tấn công chúng? Tại sao lại cho đuổi xa xa, mà không đuổi cùng kỳ mạt.
        Thuận-Tông nói với Mỹ-Linh:
        - Chị Bình-Dương này, trong đạo quân mình đây kể về vai vế thì chị lớn nhất, kể về chức tước chị cũng lớn nhất. Vậy chị viết thư báo cho anh Bảo-Dân với chị Thanh-Mai biết tình hình đi.
        Mỹ-Linh bẹo tai Thuận-Tông:
        - Làm tướng, làm châu trưởng mà dở thế thì có đáng đánh đòn không? Trước khi chúng ta rời Thăng-long chú hai đã báo cho thím Thanh-Mai biết rồi. Sau trận đánh Yến-vĩ chị cũng viết thư thuật tỉ mỉ mọi chi tiết. Ban nãy, lúc cậu tiá lia cái miệng, chị cũng viết thư gửi vào thành rồi.
        Tôn Đản tỏ ra trầm tư, chàng hỏi Lê Văn:
        - Văn đệ! Anh có thắc mắc, sau trận đánh Yến-vĩ, trong đám tù binh sao không thấy có con điếm già Anh-Tần, với bọn trốn chúa lộn chồng của nó. Vậy chúng đi đâu?
        - Có, cả bọn đều bị bắt, em trao chúng cho anh Đào Hiển giam lại, chờ xử tội một thể.
        Tôn Đản cật vấn về cặp vợ chồng Ưng-sơn, rồi thừ người ra suy nghĩ. Ngô Cẩm-Thi đoán:
        - Hay họ là các sư huynh Phụ-Quốc, Trung-Đạo chăng?
        Tôn Đản lắc đầu:
        - Chị Phụ-Quốc là người không biết võ. Chị Trung-Đạo là thi nhân liễu yếu đào tơ. Đây người đàn bà này võ công cao muốn ngang bằng Văn đệ. Vậy chắc chắn không thể là hai bà chị kia rồi.
        - Hay là anh Bảo-Dân với chị Kim-An?
        - Không thể nào như thế được. Chị Kim-An cao hơn người đàn bà này nhiều. Vả hai ông bà đang trấn thủ Trường-yên, đâu có thời giờ ra ngoài làm trò ú tim?
        Mỹ-Linh gạt vấn đề đi:
        - Đợi vào thành Trường-yên, mình hỏi thím Thanh-Mai may ra biết được tông tích cặp vợ chồng Ưng-sơn.
        nhàng như chiếc lá bên ngoài lều. Nội công Mỹ-Linh, Tôn Đản, Cẩm-Thi, Lê Văn rất cao, cả bốn người đều nghe rõ. Tôn Đản ra hiệu, bốn người tung mình ra bốn cửa, vây bốn cái bóng vào giữa. Cẩm-Thi lên tiếng:
        - Quý khách giá lâm, xin mời vào tương...
        Tiếng kiến chưa kịp nói ra khỏi miệng, nàng vội ngừng lại, vì mùi trầm hương từ một bóng đen đưa ra, nàng biết chắc một trong bốn bóng là Bảo-Hòa.
        Bốn bóng khoan thai bước vào lều. Mỹ-Linh bật cười, vì bốn người là Khai-Quốc vương, Thông-Mai, Thiệu-Thái, Bảo-Hòa. Khai-Quốc vương ra hiệu cho mọi người im lặng, rồi bảo Thuận-Tông:
        - Ta nghe nói em có mang theo mười cặp chó sói. Vậy em hãy dùng chó sói gác quanh lều. Trên trời cho mười cặp ưng canh bay tuần phòng. Chúng ta bàn kế sách giải vây Trường-yên.
        Thuận-Tông ra khỏi lều bố trí một lúc rồi trở vào. Khai-Quốc vương kiểm điểm tướng sĩ: Đạo Thượng-oai gồm Hà Thiện-Lãm, Mỹ-Linh, Lê Văn, Trường-Ninh, Lưu Tường, Trần Anh, Tôn Mạnh, Tôn Trọng, Lý Nhân-Nghĩa. Vắng mặt Hồng-Phúc vì bị bệnh. Đạo Phong-châu gồm Lê Thuận-Tông, Kim-Thành, Tôn Đản, Ngô Cẩm-Thi, Hoàng Tích, Lê Phụng-Hiểu.
        Khai-Quốc vương nhìn qua đám tướng trẻ một lượt, rồi nói:
        - Trận Yến-vĩ kết thúc thực tốt đẹp, ít đổ máu, đánh mau. Nhưng có hai điều đáng tiếc là vụ Tôn Quý bị ám hại và mưu kế bị kẻ phản bội thông báo cho giặc. Một chi tiết đáng lưu ý nhất là vụ vợ chồng Ưng-sơn. Bây giờ chúng ta bàn việc giải vây Trường-yên.
        Vương đưa ra một bức thư:
        - Thư của đô đốc Phạm Tuy báo cho biết đã chiếm xong Thanh-hóa. Cô gia ban chỉ cho Phạm Tuy lựa lấy một số người trẻ trong đám con cái bọn phản loạn ở Thanh-hóa, phóng thích để chúng chạy ra Trường-yên báo cho binh tướng của Đàm Toái-Trạng. Như thế đám quân này không đánh cũng tan. Tin Khu-mật viện cho biết, đám đệ tử Hồng-thiết giáo vẫn trung kiên với Nhật-Hồ, như vậy ta sẽ phải chịu một trận đánh hết sức dữ dội. Cho đến giờ này, Nhật-Hồ vẫn tưởng ta chỉ có hai đạo Phong-châu, Thượng-oai, quân số chưa quá một vạn, trong khi lão có tới gần mười vạn, ta lại không có mặt đây nên chúng coi thường.
        Thông-Mai đưa mắt nhìn cử tọa một lượt rồi nói:
        - Hiện bên địch có Nhật-Hồ võ công cực cao. Ở đây Thiệu-Thái, Mỹ-Linh đủ khả năng giết y. Còn Vũ Nhất-Trụ thì Khai-Quốc vương, Bảo-Hòa, Lê Văn với tôi đủ sức kiềm chế. Ngoài ra chúng còn Nguyên-Hạnh, Lê Tấn, Vũ Hào, Vũ Linh-Nguyện, Nguyễn Khánh. Khi xuất trận, ta bất chấp lề luật võ lâm, nếu phải dùng hổ, dùng báo, dùng cung nỏ giết chúng, ta cũng không từ. Đối với bọn ma đầu, chúng đâu có còn nhân tính mà áp dụng lề luật võ lâm với chúng. Hôm tru diệt bọn Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ ở Biện-kinh, phụ thân tôi đã nói: Không lẽ giết con chó điên mà cũng phải hỏi xem chúng có phục hay không sao? Khi ta đã giết bọn ma đầu, tự nhiên đám giáo chúng tan vỡ.
        Khai-Quốc vương biết ông anh vợ của mình tính khí cương quyết, thẳng tay với bọn ma đầu. Lời đề nghị tuy khắt khe, nhưng có lẽ đó là lối hành động tốt nhất.
        Vương chỉ lên tấm lụa vẽ bản đồ Trường-yên:
        - Lời của anh Thông-Mai, Thiện-Lãm, Thuận-Thông nên ghi nhớ, để sai hổ, báo lúc lâm trận. Trong thành quân của ta quá ít, sở dĩ ta giữ được là nhờ đám đệ tử Đông-a trợ giúp. Việc diệt giặc hoàn toàn nhờ vào quân bên ngoài, ta không thể dùng trong đánh ra, ngoài đánh vào được. Ta cứ đóng hai đạo quân ở đây, cứ cách ngày lại giả xua quân làm như giải vây, dùng hổ, báo giết ít tên giáo chúng. Như thế giỏi lắm hơn nửa tháng nữa quân tan, lương hết, đám giáo chúng cũng trốn đi...bấy giờ ta mới đánh một trận, giết sạch đám ma đầu. Nhưng phải cẩn thận, có thể chúng cướp trại của ta.
        Bỗng có tiếng sói tru lên ngoài lều. Nhanh như chớp, Thông-Mai, Thiệu-Thái tung mình ra, thì thấy một bóng người đầu trùm khăn đen đang chạy về phía bờ suối. Thông-Mai nhô lên thụp xuống mấy cái, chàng đã đuổi kịp bóng đen. Chàng điểm vào huyệt Đại-trùy của y, lập tức y ngã lăn xống đất. Thuận-Tông cũng đã đuổi đến nơi, chàng túm cổ áo y nhắc bổng lên đem vào lều. Bảo-Hòa giật khăn trùm đầu của y ra, mọi người đều ồ lên một tiếng kinh ngạc, thì ra y là Hồng-Phúc.
        Mỹ-Linh cúi xuống giải huyệt cho em. Hồng-Phúc chỉ tay vào mặt Thông-Mai:
        - Tên mọi quê mùa kia, đây thuộc doanh trại Thiên-tử binh, ta là quận chúa phủ Khai-Thiên vương, ta muốn đi đâu thì đi, hà cớ gì mi cho chó đuổi ta, rồi điểm huyệt ta. Mi có quỳ xuống lạy tạ ta hay không? Bộ mi tưởng ta không thể tru di tam tộc cái gọi là phái Đông-a nhà mi sao?
        Từ trước đến nay, đối với các cháu, dù gọi bằng chú, bằng cậu, bằng bác, Khai-Quốc vương lúc nào cũng ôn nhu ngọt ngào. Chưa từng một lần vương khắt khe về lễ giáo với các cháu. Cho nên các cháu coi vương như hiện thân của ông Phúc, của Phật A-di-đà. Từ hôm nghe Lê Văn trình bầy việc phản ông cha, phản xã tắc của Hồng-Phúc, vương định im lặng để lợi dụng ả làm phương tiện cung cấp tin giả cho Hồng-thiết giáo. Bây giờ, tội trạng nghe trộm quân quốc trọng sự bị bắt tại trận, mà ả còn già mồm, khiến vương không giữ được bình tĩnh. Vương tát cho Hồng-Phúc một cái. Ả ngã lộn cổ xuống đất. Tuy bị tát đau, mà ả vẫn già mồm:
        - Ông chú cầm đại quyền, mà để cho tên nhà quê làm nhục quận chúa trước mặt... Đã không giết nó rửa nhục cho cháu, lại còn bênh nó...hu... hu.
        Vương gọi mấy nữ võ sĩ theo hầu Mỹ-Linh:
        - Gô cổ nó lại, đem chặt đầu làm hiệu lệnh.
        Đám võ sĩ vốn ghét cay ghét đắng Hồng-Phúc, họ nghe vương truyền lệnh, thì dạ ran, rồi túm lấy ả trói lại. Ả vẫn già mồm:
        - Cháu tội gì mà chú đánh cháu, rồi đem chém. Cháu không phục.
        Vương chỉ mặt ả :
        - Mi bị bắt tại trận đang dò thám quân tình, đó là một tội đáng chém. Khi bị bắt, được giải huyệt, thấy thúc phụ không hành lễ, rồi còn nỏ mồm nhục mạ đại tướng, đó là mi tự chối bỏ nghĩa của đứa cháu, nên ta cho mi cái tát.
        Mỹ-Linh, Kim-Thành, Trường-Ninh đồng quỳ gối xuống chắp tay, nước mắt đầm đìa:
        - Xin thúc phụ mở lượng từ bi khoan hồng cho Hồng-Phúc. Bởi hôm trước Hồng-Phúc bị kẻ lạ gọt đầu, quá phẫn uất, nên có lời lẽ vô phép với Trần đại hiệp.
        Mắt phượng Bảo-Hòa quắc lên:
        - Ba em đứng dậy. Họ Lý nhà ta sở dĩ thu được nhân tâm thiên hạ là nhờ đức từ bi, yêu thương dân của ông ngoại. Sĩ dân thiên hạ quy phục cô An-Quốc, mạ mạ với chú hai là biết kính yêu anh tài, nhân sĩ, võ lâm. Phái Đông-a không nhận một đồng, không lĩnh một đấu gạo của triều đình, mà trên cao nhất là Thiên-trường ngũ kiệt, thấp nhất là đệ tử mới nhập môn... nhất nhất xả thân cứu nước. Bây giờ con quái này bị bắt về tội dò thám binh tình cho giặc, thế mà ả còn nỏ mồm mắng chửi người bắt thị. Cậu hai truyền đem chém còn là tội nhẹ. Theo chị thì phải băm vằm ra từng mảnh mới cũng chưa đền hết tội.
        Hồng-Phúc vừa khóc vừa nói:
        - Hu hu... người là chị ta, mà dám lên mặt kết tội ta ư? Người chỉ là con thằng mọi Thân Thừa-Quý ở động Giáp, mà người gọi ta là con quái à?
        Khai-Quốc vương vẫy tay ra lệnh cho Bảo-Hòa:
        - Cháu thay cậu lấy khẩu cung nó, để gửi về cho ông xử.
        Bảo-Hòa túm cổ áo Hồng-Phúc, rồi vẫy tay cho Lưu Tường theo nàng sang lều bên cạnh. Nàng đưa mắt cho Lưu Tường. Chàng chạy ra ngoài một lúc rồi dẫn vào đôi cọp mun, lông đen như nhung. Bảo-Hòa chỉ giấy bút bảo Hồng-Phúc:
        - Hồng-Phúc, ta với em là chị em con cô con cậu, cùng lo quốc sự, đáng lẽ thân với nhau như Mỹ-Linh, Kim-Thành, Trường-Ninh. Nhưng em phản lại xã tắc, tổ tiên, vì vậy bây giờ ta ngồi chấp cung em. Khi ta chấp cung, ta là đại diện ông ngoại. Nếu em có một cử chỉ, lời nói vô lễ, ta dư biện pháp đối phó liền.
        Nàng ngừng lại rồi tiếp:
        - Em phải khai chi tiết rằng tại sao em lại báo cho Đặng Trường biết kế hoạch đánh làng Yến-vĩ.
        - Ta không khai, thử xem con mọi làm gì được ta.
        Bảo-Hòa gầm gừ mấy tiếng, đôi hổ há miệng đỏ lòm, nhe răng, dơ vuốt vờn vờn vào mặt Hồng-Phúc. Hồng-Phúc định lùi, thì Bảo-Hòa vung roi ngựa một cái, đầu roi trúng huyệt Thừa-sơn của ả. Huyệt Thừa-sơn nằm phía sau bắp chân, vì vậy chân ả bị tê liệt, không cử động được. Ả hét lên kinh hoàng, nhưng mọi người thản nhiên ngồi xem Bảo-Hòa đối phó với ả đành hanh.
        Sợ quá, ả té đái vãi phân ra, thối um cả lều. Trần Anh hận Hồng-Phúc ám toán Tôn Quý, chàng hỏi Bảo-Hòa:
        - Tiên cô, có cách nào sai hai ông kễnh này chỉ cào mặt ả thành những vệt dài như con dun. Sau đó chị bán ả cho em, em sẽ đóng cũi mang đi khắp nơi quảng cáo rằng: Ai muốn xem dun cô nương phải nộp một đồng. Người người xúm vào xem trầm trồ: Kìa dun cô nương, coi đẹp gớm.
        Bảo-Hòa gật đầu:
        - Được chứ.
        Nàng gầm gừ mấy tiếng. Con hùm xám hộc lên rồi chân trước vờn vờn sát mặt Hồng-Phúc. Cô ả kinh hãi quá nói:
        - Tôi xin khai.
        Bảo-Hòa chỉ giấy bút:
        - Người ngồi đó viết đi. Hễ người dấu diếm chỗ nào, lập tức ta cho hai con hùm cào nát mặt người ra liền.
        Từ trước đến nay, Khu-mật viện cứ cho rằng chính Hoàng Văn đã khống chế Đinh phi cùng Hồng-Phúc, mà chính Đinh phi đã trực tiếp tìm đến Lê Ba. Không biết cơ duyên nào đó, Đinh phi biết Lê Ba là người cầm thực quyền của Hồng-thiết giáo, khi Nhật-Hồ lão nhân bị y giam ở Cổ-loa. Hai người hẹn ước với nhau rằng:
        Đinh phi sẽ cung cấp tất cả những tin tức của triều đình cho Lê Ba. Ngược lại Lê Ba phải ám sát những người mà Đinh phi yêu cầu. Đinh phi muốn con gái của mình có võ công cao, bà yêu cầu Lê Ba thu làm đệ tử. Cho nên từ hồi Hồng-Phúc sáu tuổi đêm đêm Lê Ba thường đột nhập phủ Khai-Thiên dạy võ cho nàng. Sau này Lê Ba khám phá ra rằng Hoàng Văn tiềm ẩn trong phủ Khai-Thiên vương, chiếm được lòng tin của vương, thì sẽ có ngày y mượn thế vương, giết hắn. Hắn biết Hồng-Phúc với các chị thường luyện võ với nhau. Hắn muốn mượn tay Hồng-Phúc hạ Hoàng Văn. Dịp may đến khi hắn thấy Hồng-Phúc đeo chiếc nhẫn do Hoàng Văn tặng. Hắn giả mượn nhẫn xem, rồi tẩm thuốc độc vào để khi Hồng-Phúc đấu với chị, ắt chị bị trúng độc chết. Khi một quận chúa bị trúng độc chết do vết thương chiếc nhẫn của Hồng-Phúc gây ra, ắt rúng động vương phủ, hoàng thành. Đương nhiên sẽ có cuộc điều tra rộng rãi. Kết quả điều tra, nảy ra cái chết do chiếc nhẫn của Hoàng Văn tặng, thì y không bị giết ắt cũng phải rời vương phủ.
        Sau khi Lê Ba chết, đệ tử thân tín của y là Linh Vũ-Nguyện thay thế. Y lại tiếp nối việc của sư phụ dạy Hồng-Phúc luyện võ, rồi y sai nàng làm tế tác cho Hồng-thiết giáo. Hôm hội ở Long-hoa đường, Khai-Quốc vương đã nhận Nhật-Tông em Mỹ-Linh làm con nuôi. Đinh phi yêu cầu Linh Vũ-Nguyện tìm cách ám sát vì mụ biết rằng chắc chắn Khai-Quốc vương sẽ lên làm vua. Tuổi vương đã hơn ba mươi, mà vương phi Thanh-Mai chưa có thế tử, ngôi vua sau này hẳn về Nhật-Tông. Nếu Nhật-Tông chết, thì con mụ sẽ được lên làm vua.
        Đúng ra, Hồng-Phúc với Mỹ-Linh, Kim-Thành, Trường-Ninh là con cùng cha, học văn cùng thầy, dẫu có khác nhau về tính tình thì cũng chỉ khác đôi chút, chứ có đâu không có điểm nào giống nhau như vậy. Nguyên do, thân mẫu Mỹ-Linh là học trò của sư thái Tịnh-Tuệ, đạo cao, đức trọng, từ bi hỷ xả nức tiếng, nên bà cũng thừa hưởng nền giáo dục của sư phụ. Bởi vậy khi sinh con, con bà có đủ đức tính của một Phật-tử.
        Còn Hồng-Phúc, mẫu thân là con một võ tướng, bà được giáo dục của một ông bố chỉ biết chém giết, nến tính tình khác khác xa với mẫu thân Mỹ-Linh. Khi Hồng-Phúc sinh ra, cơ thể có tố tính của mẹ, khác Mỹ-Linh rồi. Sau này Mỹ-Linh học võ với Huệ-Sinh, một Bồ-tát, nên nàng được hưởng tất cả cái kho vô tận về đức từ bi, hỷ xả. Ngược lại Hồng-Phúc luyện võ công Hồng-thiết giáo, một thứ võ công ma quái từ Tây-vực truyền qua, võ đạo lấy thù hận, chém giết, đầu độc làm gốc. Sư phụ Hồng-Phúc là Lê Ba, một ma đầu cộc cằn, thô lỗ, suốt cuộc đời chỉ thích lấy việc hiếp dâm gái có chồng làm thú vui. Vì vậy nàng trở thành một nữ ma đầu ương ngạnh không thể chữa trị.
        Vô tình Khai-Quốc vương không biết Hồng-Phúc làm tế tác cho Hồng-thiết giáo, vương nghĩ rằng sở dĩ Hồng-Phúc hẹp hòi, ích kỷ là do chưa được ra đời, ít thông thế tục, lại ghanh tị với Mỹ-Linh. Cho nên vương cho cháu theo quân đi dẹp loạn, hầu có dịp học hỏi. Nào ngờ Hồng-Phúc đi đến đâu là để dấu hiệu, rồi thông báo mọi tin tức cho Hồng-thiết giáo. Trong khi đánh trận Yến-vĩ, ả thông báo kế hoạch của Hà Thiện-Lãm cho Đặng Trường. Trường nhân đó cho Đinh Hiền, Thạch Nan-Biện phục kích, định giết chết Mỹ-Linh, Lê Văn, Đào Hiển cùng đội cảm tử phái Đông-a. Sau khi trận phục kích thất bại, y lại ra lệnh cho Hồng-Phúc mở cửa Tây để giáo chúng rút chạy. Hồng-Phúc phải bịa ra rằng được mật lệnh Mỹ-Linh, khi trong trang có lửa cháy, thì mở cổng đánh quặt về hướng Nam. Tôn Quý tưởng thực, thúc voi, dẫn quân xung vào trong làng, đánh xuống Nam, thế là mấy đạo giáo chúng Hồng-thiết thoát thân.
        Giữa trận đánh, Hồng-Phúc sợ rằng việc ả bịa lệnh Mỹ-Linh thế nào cũng bị lộ, vì vậy thình lình ả rút kiếm đâm sau lưng Tôn Quý, rồi đẩy y ngã xuống đất. Người quản tượng thấy chúa tướng ngã, y quay lại quan sát, cũng bị ả đâm chết luôn.
        Bảo-Hòa đọc xong bản cung khai của Hồng-Phúc, rồi trình cho Khai-Quốc vương. Vương nghĩ thầm:
        - Đến nước này thì sự thể xấu xa của phủ Khai-Thiên không thể, và không nên dấu diếm chư tướng, vì họ là chân tay, tâm phúc của ta. Chi bằng ta công bố cho họ biết, như vậy tốt hơn là che đậy vô lý.
        Vương trao bản cung khai cho Bảo-Hòa. Bảo-Hòa đọc cho chư tướng nghe. Khai-Quốc vương hỏi:
        - Cháu nên hỏi cho ra lẽ vụ Hồng-Phúc bị treo lên cây trong khu nghiã địa của phái Đông-a, cùng tên tuổi những người của Hồng-thiết giáo cử ra liên lạc với Đinh phi cũng như với nó.
        Bảo-Hòa lại sang lều bên cạnh cật vấn. Lát sau nàng trở sang trình:
        - Hồng-Phúc khai rằng, chính vợ chồng Ưng-sơn đã treo nó lên cây. Còn danh tính bọn Hồng-thiết ẩn thân trong phủ Khai-Thiên vương thì chỉ có mười người.
        Khai-Quốc vương đọc qua, thấy Đinh Ngô-Thương không dính dáng gì đến vụ này, thì thở phào một cái như trút được gánh nặng. Vương sai giải Hồng-Phúc qua, rồi ôn tồn nói:
        - Tội lỗi người nặng quá, dù ta có che chở, ít ra người với mẫu thân cũng bị xử giảo. Ông ngoại người cũng bị cách hết chức tước đuổi về dân dã. Phụ vương người sẽ bị phế thành thứ dân. Duy Mỹ-Linh, Kim-Thành, Trường-Ninh cùng Nhật-Tông đã làm con nuôi ta thì được ân xá. Hà... anh ta... sinh con ai có sinh lòng. Ta không thể che lấp vụ này được rồi.
        Mỹ-Linh, Kim-Thành, Trường-Ninh cùng quỳ gối khóc:
        - Chú hai, ba chúng con tình nguyện đem hết công lao đã làm, cùng chịu chết để chuộc tội cho phụ vương.
        Khai-Quốc vương phẩy tay cho các cháu đứng dậy. Vương ôn tồn:
        - Vụ này lớn quá, để ông nội xử. Ta vô thẩm quyền.
        Bảo-Hòa nói với chị em Mỹ-Linh:
        - Các em đã ra ngoài làm việc lớn, các em đã cầm quân đánh giặc. Các em dư biết rằng có những sự xử theo tình được, nhưng cũng có những sự phải xử theo lý. Thời Âu-Lạc, đáng lẽ vua An-Dương không thể cho Trọng-Thủy ở rể để bảo mật, thì ngài lại xử theo tình, tin rằng y là con rể không thể hại ngài. Cuối cùng sự nghiệp của ngài tan vỡ, Mỵ-Châu chết cũng không đáng kể. Cái đáng kể đau đớn cho đến nay cũng chưa dứt là nước Âu-lạc bị mất.
        Nàng gằn từng tiếng:
        - Đến thời Lĩnh-Nam, võ lâm đã tha tội cho Lê Đạo-Sinh, Phong-Châu song quái bao phen, mà chúng vẫn đi theo giặc. Thế mà trong trận Luy-lâu, quần hào chỉ vì võ đạo phái Tản-viên không để người ngoài giết đồng môn trước mặt mình, rồi Tăng-giả Nan-Đà lý luận theo thuyết quả báo, theo thuyết kinh Phật rằng khi Lê xám hối là hết tội, tha cho chúng lần nữa, nên mới xẩy ra cái hận Cẩm-khê, kết quả tộc Việt bị trầm vào đêm tối mất nước.
        Nàng chỉ mặt Hồng-Phúc:
        - Luân lý tộc Việt dạy ta làm dân phải tuyệt đối trung thành, tận tâm với nước; làm con phải hiếu thảo với cha mẹ. Ai trái đạo lý đó nhẹ thì phải tội sát thây, nặng thì giết cả nhà. Nay ông ngoại cùng nhân sĩ võ lâm đang dùng hết tâm chí sao diệt được cái họa do bóng ma quái Mã-Mặc, Lệ-Anh bị lão ma đầu điên khùng Nhật-Hồ mang vào. Thế mà Đinh phi, rồi Hồng-Phúc quỳ gối cúc cung theo chúng, định phá sự nghiệp của tộc Việt, định làm tan công đức của họ Lý, sẵn sàng giết chị em ruột, thử hỏi trời nào dung, đất nào tha được?
        Nàng nghiến răng:
        - Ông ngoại làm vua cũng được. Ông ngoại có băng hà, cậu cả, cậu hai, ai ngồi lên ngai thì cũng phải ngày đêm mưu tạo hạnh phúc cho dân, phải nghĩ đất nước này là xương máu của toàn tộc Việt bao đời đổ mồ hôi, nước mắt ra mới còn đến nay. Hoàng-đế là người sinh ra để làm tôi tớ Bách-Việt chứ không phải Hoàng-đế là người ngồi cao, ban phúc, giáng họa cho dân. Nếu Hoàng-đế theo nghĩa thứ nhì thì không khác loài cú diều, trước sau tộc Việt cũng nổi lên tru diệt.
        Nàng trở lại ôn tồn chỉ vào Hồng-Phúc:
        - Con quái này là chồn hôi, là ma-quỷ đầu thai vào phủ Khai-Thiên vương để hại nước, hại họ Lý, tội nó đã rành rành. Nếu như không có vợ chồng Ưng-sơn, thì liệu giờ này Mỹ-Linh, Lê Văn, Thiện-Lãm, Lưu Tường, Trường-Ninh có còn ngồi đây chăng? Đạo binh Thượng-oai tan vỡ, các đạo Lạc-long giáo Nghệ-an, Cửu-chân, Trường-yên, Thiên-trường ắt chết hết mà Trần Anh, Tôn Mạnh, Tôn Trọng, Lý Nhân-Nghĩa đã phơi xác ở Yến-vĩ. Trường-yên bị Đặng Trường tiến công uy hiếp... Chắc chắn nước Việt bị xẻ đôi, rồi sau đó Đinh phi cùng con quái này tiếp tục phản ở trong, không chừng đất nước ta sẽ do bọn ma đầu Hồng-thiết cai trị.
        Nàng hỏi Khai-Quốc vương:
        - Thưa cậu, giết một con quái, để những con quái khác kinh hồn, như vậy có đúng đạo lý không?
        - Dĩ nhiên là đúng, nhưng trước đây, anh cả với ta có chỗ không thuận trong vụ ta bị vu hãm làm phản. Nên ta...
        Bảo-Hoà cười rất tươi:
        - Cậu sợ thiên hạ dị nghị rằng cậu giết con quái này để trả thù cậu cả phải không? Cháu xin thưa với cậu: Muôn ngàn lần không ai nghĩ thế đâu, mà họ còn khoan khoái trong lòng. Họ sẽ khen cậu đặt quốc sự lên trên: Đến cháu ruột phản nước, Khai-Quốc vương còn xử tử nừa là.
        Bảo-Hòa lơ đãng nhìn trời:
        - Hồi trước cậu khám phá ra vụ Dực-Thánh vương đi đêm với Tống, mưu hại nước. Giá như hồi đó ông ngoại giết vương đi, thì nay đâu có cảnh chém giết này. Giết đi hơn trăm người trong vương phủ, có phải đỡ tốn mấy vạn người ngày nay không? Cháu xin chịu tội với ông ngoại, chịu tội với cậu cả, với cậu...
        Thình lình nàng xuất chiêu Ác-ngưu nan độ, vận tam dương, thất âm hướng Hồng-Phúc. Binh một tiếng người Hồng-Phúc bay tung lên cao, xương thị vỡ thành từng mảnh nhỏ bằng quả ổi một, rơi tung toé xuống đất. Nàng hú ba tiếng, mấy con hùm từ lều bên cạnh chạy ra ghé mõm ăn đống thịt Hồng-Phúc.
        Diễn tiến xẩy ra quá đột ngột, Bảo-Hòa đang nói, thình lình phát chiêu như sét nổ, không ai kịp phản ứng đỡ chưởng của nàng. Mỹ-Linh ôm lấy mặt, rồi thét lên:
        - A-di Đà-Phật.
        Còn Khai-Quốc vương rùng mình cúi mặt xuống.
        Bảo-Hòa quỳ gối:
        - Vừa rồi cháu nhân danh võ lâm, nhân danh chưởng môn phái Tản-viện xử tôi một con quái. Bây giờ cháu là Thân Bảo-Hòa, là con nuôi của cậu, xin nhận cái tội giết người mà cậu không cho phép.
        Khai-Quốc vương vẫy tay cho Bảo-Hòa đứng dậy:
        - Việc này để ông xử, cậu không lòng nào xử được.
        Vương bảo Lưu Tường, Mỹ-Linh:
        - Lưu phó châu ra lệnh cho cọp ngừng ăn thịt Hồng-Phúc. Mỹ-Linh thu nhặt mấy nắm thịt của Hồng-Phúc khâm liệm, rồi đem về Thăng-long cho phụ vương cháu với Đinh phi.
        Hôm sau, Khai-Quốc vương đang ngồi nghị sự với các tướng, thì quân dẫn vào mười bô lão. Các bô lão dâng lên vương mấy chậu hoa, cùng mấy mâm quả. Vương nói lời ủy lạo, rồi ghi nhận những thỉnh nguyện của bô lão: Hồng-thiết giáo cướp nhà, cướp ruộng của dân. Nay quan quân lấy lại xin hoàn cho dân. Vương đồng ý, an ủi:
        - Giữ nước không yên, để cho giặc hại dân là tội của cô gia, cô-gia cầu xin với tổ tiên rằng, nếu dân, nước có tội, cô gia xin thay dân chịu tội, đừng để dân khổ.
        Vương tiễn các bô lão ra khỏi dinh. Suốt ngày hôm đó, các toán bô lão vào thỉnh nguyện đủ mọi truyện, cùng dâng lễ vật. Vương nhất nhất thu nhận. Đến chiều thì quân vào dâng lên một thùng lớn, và khải rằng:
        - Khải vương gia, có một cô rất đẹp, mang đến hộp này, nói rằng do lòng hiếu thảo dâng lên vương gia, làm quà cho chư tướng.
        Mỹ-Linh là con nuôi của vương. Mỗi khi ai dâng vật gì nàng đều tiếp lấy rồi mở ra. Nàng tiếp hộp, mở bọc nhiễu điều, bên trong có chiếc hộp gỗ sơn son thiếp vàng, đậy nắp rất đẹp. Trên nắp có phong thư. Nàng để hộp trước mặt vương rồi mở nắp ra, mọi người đều chú ý xem trong hộp có gì. Bất giác Mỹ-Linh thét lên lùi lại, thì ra trong hộp có hai cái đầu lâu ướp muối. Đỉnh đầu bị một mũi tên bằng bạc xuyên ngập tới chuôi.
        Lưu Tường bình tĩnh cầm tóc đầu lâu thứ nhất nhắc khỏi hộp, đó là đầu một người đàn ông. Các tướng cùng nhìn, gương mặt của đầu lâu có vẻ đần độn. Chợt Tôn Đản la lên:
        - Thủ cấp tên Nguyễn Quý-Toàn.
        Nhiều người không biết tên Quý-Toàn là ai, Tôn Đản phải nhắc lại những gì chàng với Tự-Mai gặp ở Yến-vĩ sương-sen hồi trước.
        Lưu Tường cầm cái đầu thứ nhì nhắc ra khỏi hộp, Kim-Thành tinh mắt, nàng la lên:
        - Đinh phi.
        Khai-Quốc vương nhìn lại, quả nhiên là thủ cấp của mẹ Hồng-Phúc, máu còn tươi, chứng tỏ bà bị giết không lâu. Vương bỏ đầu bà vào hộp rồi nhổ mũi tên ra. Mọi người cùng bật lên tiếng ái chà, vì mũi tên có khắc hình con chim ưng bay trên ngọn núi.
        Mỹ-Linh than:
        - Thì ra cặp vợ chồng ấy.
        Nàng kinh hãi nói với Khai-Quốc vương:
        - Chú ơi! Hiện Thăng-long mới dẹp xong loạn, trong Hoàng-thành có tới mấy trăm cao thủ phái Mê-linh canh gác, làm sao cặp vợ chồng này lọt vào trong mà giết Đinh phi?
        Khai-Quốc vương công nhận lý luận của Mỹ-Linh đúng. Vương bảo cháu:
        - Cháu mở thư ra, đem trong có gì?
        Mỹ-Linh mở bao thư, trong có một tập giấy. Trên tờ giấy có vẽ hình chim ưng bay trên núi, dưới viết đầy chữ. Nàng đọc cho mọi người nghe:
        Đinh Kim-Linh, thân là tiểu thư, con quan tiết độ sứ, mới đẻ ra đã được hưởng Hoàng-ân, sắc phong Khâm-linh tiểu thư. Mười sáu tuổi được tuyển làm thứ thiếp cho Khai-Thiên vương. Vương sủng ái hơn các phi tần khác.
        Đạo lý tộc Việt, luật pháp Đại-Việt định rằng: Làm dân phải tận tâm với nước. Làm tôi phải trung với vua. Làm vợ phải hết sức gánh vác giang sơn nhà chồng.
        Nay Kim-Linh âm thầm theo Hồng-thiết giáo, mưu hại con chồng, mưu hại chồng, mưu hại nhà chồng; lại phản xã tắc, phải xử tử để cho đàn bà Việt lấy đó làm gương.
        Hai tập giấy còn lại là thủ bút của Đinh phi cùng tên Quý-Toàn cung khai. Mỹ-Linh đọc một lượt rồi nói:
        - Thì ra Đinh phi âm thầm xuất thành mật báo tin tức cho Hồng-thiết giáo. Nhờ vào khuôn mặt đần độn, cùng tính điên điên khùng khùng, tên Quý-Toàn lẫn trong dân không ai chú ý; nên bọn Hồng-thiết giáo sai y đi nhận thư của Đinh phi. Không may cho Đinh phi cùng y gặp phải vợ chồng Ưng-sơn. Cặp vợ chồng này tra khảo bắt Đinh phi cùng tên Quý-Toàn phải cung khai hết.
        Nàng trình tập thủ bút nhận tội của Đinh phi cho Khai-Quốc vương. Vương đọc xong thì phát rùng mình. Vương nói với chư tướng:
        - Nếu thư báo cáo này của Đinh phi tới tay bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo thì e Trường-yên nguy mất. Bây giờ ta tiến quân.


        <bài viết được chỉnh sửa lúc 03.02.2005 04:40:40 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 21.01.2005 17:46:21 (permalink)
          Hồi thứ một trăm hai mươi lăm


          Nam Thiên đệ nhất mỹ nam tử




          Khai-Quốc vương nói với chư tướng:
          - Hôm trước cô gia được tin Đinh phi, Hồng-Phúc tạo phản, cô gia nghĩ rằng trong quân không chỉ có một mình Hồng-Phúc, nên cô gia họp chư tướng, rồi trình bầy một kế sách diệt giặc rất tỷ mỉ. Kế hoạch đó giờ này đã nằm trong tay Vũ Nhất-Trụ. Trụ tin rằng cô gia chưa dám giải vây Trường-yên, nên y chuẩn bị đêm nay ra tay đánh ta trước. Y định rằng, một đạo quân hai vạn người, thình lình cướp trại ta. Y hy vọng diệt hai nghìn quân Thượng-oai, Phong-châu cùng bốn đạo Lạc-long giáo Nghệ-an, Cửu-chân, Trường-yên, Thiên-trường chớp nhoáng. Trong khi đó, chủ lực chính y tấn công vào thành.
          Hôm rồi nghe Khai-Quốc vương chuẩn bị giải vây Trường-yên, nơi mà lực lượng giặc gần mười vạn; trong khi vương chỉ có mấy nghìn người, đóng chơ vơ giữa đồng. Chư tướng tuy tin tài vương, nhưng ai cũng phập phồng lo lắng. Bây nghe vương kiến giải, họ mới hiểu rằng vương định kế sách đó chỉ với mục đích mượn bọn tế tác giặc, thông báo tin tức giả cho giặc mà thôi. Họ thở phào nhẹ nhõm.
          Vương tiếp:
          - Bây giờ ta ra tay trước. Ta nhập thành, rồi thủ ở trong.
          Lê Phụng-Hiểu cung tay:
          - Khải vương gia, kể cả quân trong thành, quân ngoài thành ta chỉ bằng một phần mười giặc, không hiểu vương gia định nghênh chiến ra sao?
          Khai-Quốc vương khen ngợi:
          - Giỏi như Lê tướng quân mà còn tin rằng cô-gia phản công, thì ắt Nhất-Trụ sẽ mắc mưu ta. Trấn tại cửa Bắc là Vũ-Đức vương với Nguyễn Khánh, Nguyên-Hạnh, Vũ Hào. Quân của chúng là giáo chúng Hồng-thiết. Chúng dàn quân như sau: Ngoài cùng là đội cung thủ để chống với thú rừng. Phòng tuyến thứ nhì là đội thiết kị. Phòng tuyến thứ ba là đội bộ chiến. Ta cần đánh dạt chúng ra cho các đạo quân vào thành. Muốn đánh dạt chúng phải có tướng hét ra lửa với đội quân thú rừng.
          Vương nhìn Thông-Mai, Bảo-Hòa:
          - Vậy như thế này: Đại huynh Thông-Mai, cùng với Hà Thiện-Lãm, Lưu-Tường, Trường-Ninh chỉ huy đoàn đệ tử Đông-a với đạo Thượng-oai. Bảo-Hòa, Thuận-Tông, Hoàng Tích, Kim-Thành chỉ huy đoàn đệ tử Tản-viên, Phong-châu. Hai đoàn xua hổ, báo, voi đi trước, xông thẳng vào phòng tuyến đạo quân Vũ-Đức vương, cắt đôi đạo quân của vương ra. Đạo Thượng-oai đánh quặt sang trái, đạo Phong-châu đánh quặt sang phải. Khi thấy quân địch rẽ ra thì ngừng lại, không đuổi theo, vì đuổi theo đạo Phong-châu sẽ gặp quân của Vũ Nhất-Trụ đông gấp hai mươi lần tại cửa Đông; còn đạo Thượng-oai sẽ gặp đạo quân của Đàm Toái-Trạng, Lê Tấn, Vũ Linh-Nguyện đông gấp ba mươi lần ở cửa Tây.
          Lưu Tường hỏi:
          - Thưa vương gia, nếu như xua hổ báo đi trước, e làm mồi cho đám cung thủ. Bởi chúng có tới ngàn người, mà ta có tất cả bốn trăm vừa hổ, vừa báo. Như vậy hai cung thủ của họ thừa sức giết một thú của ta.
          Vương cười:
          - Cô gia có kế hoạch đối phó rồi, phó châu đừng sợ.
          Vương ghé tai Thông-Mai, Bảo-Hòa dặn dò một lúc. Hai người gật đầu tỏ ý hiểu.
          Vương gọi Tôn Đản, Cẩm-Thi, Trần Anh:
          - Ba em dẫn bản bộ giáo chúng Lạc-long đi sau Thông-Mai, Bảo-Hòa. Khi Thông-Mai, Bảo-Hòa đánh dạt quân giặc ra, thì các em vào thành đầu tiên. Các em quặt sang cửa Đông, hiện sư thúc Hoàng Hùng đang trấn tại đây. Các em được đặt dưới quyền sư thúc trấn cửa Đông.
          Vương gọi Lê Văn, Tôn Mạnh, Lý Nhân-Nghĩa:
          - Lê Văn làm chúa tướng, cùng Tôn Mạnh, Lý Nhân-Nghĩa đem giáo chúng trực thuộc, đi kế đạo của Tôn Đản. Khi vào thành thì tiến sang cửa Tây, đặt dưới quyền điều khiển của sư tỷ Khấu Kim-An trấn tại đây.
          Vương gọi Thiệu-Thái, Mỹ-Linh, Lê Phụng-Hiểu, Tôn Trọng:
          - Thiệu-Thái dẫn Mỹ-Linh, Lê Phụng-Hiểu, Tôn Trọng đem giáo chúng Lạc-long thuộc quyền cùng đoàn đệ tử Tiêu-sơn đi sau cùng, vào thành rồi thì đến cửa Bắc đặt trực thuộc sư thúc Trần Kiệt trấn tại đây.
          - Sau khi các đạo quân vào trong rồi, thì Bảo-Hòa cho đạo Phong-châu vào thành trước, rồi đến đạo Thượng-oai của Thông-Mai. Bảo-Hòa, Thông-Mai cùng đội hổ vào sau cùng. Sau khi vào hết, thì đóng cửa thành lại.
          - Khi chúng ta đã vào trấn trong thành, thì Nhật-Hồ lão nhân có mười vạn người chứ lão có trăm vạn người cũng không đánh nổi.
          Đợi cho chư tướng chỉnh bị binh mã xong, Khai-Quốc vương truyền đốt ba cây pháo lệnh. Hà Thiện-Lãm cầm tù và rúc lên ba hồi. Xe chở hổ, báo đồng mở cũi ra một lượt. Các tướng hổ, tướng báo cầm cờ phất. Đoàn hổ đi trước, đoàn báo theo sau, chúng gầm gừ rảo bước tiến về cửa Bắc thành Trường-yên.
          Thông-Mai, Lưu Tường cỡi trên một bành voi. Hà Thiện-Lãm, Trường-Ninh cỡi trên một bành voi khác đi bên trái. Phía sau là đội võ sĩ phái Đông-a, người nào cũng cầm đoản đao. Bên phải Bảo-Hòa, Hoàng Tích ngồi chung một voi; Thuận-Tông, Kim-Thành ngồi chung một voi. Phía sau là đội võ sĩ Tiêu-sơn, tay cầm thiền trượng. Trống thúc nhịp nhàng.
          Tới gần cửa Bắc, thì xa xa trận của Vũ-Đức vương đã dàn ra. Vương ngồi trên ngựa. Bên phải là Vũ Hào, bên trái là Nguyễn Khánh, phía sau là Nguyên-Hạnh. Một đội cung thủ ngàn người chuẩn bị đối phó với thú rừng.
          Liếc mắt nhìn qua, Bảo-Hòa đã nhận ra quân của bên địch gồm một đội thiết kị Hồng-thiết giáo với mười đạo giáo chúng. Như vậy giặc đông tời hơn hai vạn người.
          Vũ Hào đã đọc binh thư của Khai-Quốc vương. Y biết rằng phàm chư tướng dẫn quân đối địch, khi cách quân địch hơn trăm trượng sẽ dừng lại, để chư tướng có điều cuối cùng muốn nói với nhau. Cho nên y cầm cờ phất phất ra hiệu cho đạo quân Thông-Mai, Bảo-Hòa dừng lại.
          Vũ-Đức vương cùng Nguyễn Khánh, Vũ Hào thủng thỉnh cho ngựa tiến ra. Voi của Thông-Mai, Bảo-Hòa cũng rẽ đoàn thú tiến tới. Vũ-Đức vương cất giọng kẻ cả hỏi:
          - Bảo-Hòa, người thân là con gái...
          Ông chưa nói hết câu, thì phía sau các hổ, báo tướng cầm cờ phất, đoàn thú gầm lên rồi phóng sang trận Vũ-Đức. Đám cung thủ cũng như Vũ-Đức vương tưởng Thông-Mai, với Bảo-Hòa cũng như các tướng khác, ít nhất đối thoại dăm ba câu. Nào ngờ họ xua thú tấn công liền. Một đời Vũ-Đức vương cùng đám ma đầu xảo quyệt, chuyên lừa thiên hạ, mà không biết rõ Thông-Mai với Bảo-Hòa là hai người có một quyết định với Hồng-thiết giáo: Nói vô ích, gặp là giết thẳng tay.
          Vì vậy đội thú xung vào trận rồi mà đám cung thủ còn ngỡ ngàng, không trở tay kịp. Đội ngũ đám cung thủ tan rã ngay. Thông-Mai không nói không rằng, chàng phóng chưởng tấn công Vũ Hào liền. Vũ-Hào thấy Thông-Mai ở xa phóng chưởng, y khinh thường không thèm đỡ. Nào ngờ Thông-Mai tung người khỏi bành voi, phát chiêu thứ nhì. Chiêu sau chồng lên chiêu trước mạnh đến kinh người. Vũ Hào kinh hãi vội tung mình khỏi cật ngựa. Thông-Mai lại đánh một chưởng từ trái qua, đẩy kình phong hai chiêu trước vào người Vũ-Đức vương. Trong khi người chàng đáp trên ngựa Vũ Hào. Vũ Hào bỏ chạy sang phía trái.
          Vũ-Đức vương kinh hãi, vội lăn người xuống đất tránh chưởng của Thông-Mai. Chưởng trúng ngựa của vương đến bùng một tiếng, con ngựa bay tung lên cao, cùng với tiếng hí đau đớn, rồi rơi xuống đất, máu me chan hòa. Nó chỉ dẫy được ba cái rồi nằm im. Vương hoảng sợ đến đờ người ra, vội chạy vào trong trận cung thủ trốn, thì trận này đã bị hổ, báo chọc thủng.
          Phía sau, voi của Thiện-Lãm, Trường-Ninh đuổi theo Vũ-Đức vương như bóng với hình. Thiện-Lãm cầm cờ xanh chỉ chỗ ông trốn cho đội hổ nhảy vào. Kinh hãi, ông chạy bất kể sống chết, nhưng voi Thiện-Lãm, Kim-Thành theo sát nút. Thấy chúa tướng bỏ chạy, đám giáo chúng cung thủ cũng chạy theo.
          Thông-Mai biết rằng quân mình ít, cần phải thừa thắng, đánh chớp nhoáng cướp tinh thần địch. Nếu chàng ngừng một chút, là chúng lấy lại tinh thần thì nguy tai. Vì vậy chàng lệnh cho Lưu Tường cứ xua hổ, báo lao vào đội thiết kị. Ngựa thấy hổ, báo thì sợ quá lồng lên rồi chạy trốn. Mấy đội trưởng làm gan hô quân lấy cung tên bắn. Thông-Mai nhắm các tướng thiết kị, mỗi chưởng chàng đánh tan thây một người. Chàng đánh đến người thứ mười thì phòng tuyến thứ nhì của Hồng-thiết giáo bị vỡ.
          Thông-Mai thoáng thấy Vũ-Đức vương đã kiếm được ngựa, đang đứng ở phòng tuyến thứ ba là đám giáo chúng bộ chiến đốc thúc. Chàng chỉ cho Lưu Tường. Tường phất cờ, đám hổ, báo bỏ phòng tuyến thứ nhất, thứ nhì lao vào phòng tuyến thứ ba. Hổ, báo tiến quá nhanh, voi của Thông-Mai tiến theo sát phía sau. Bất kể nguy hiểm, chàng rút kiếm, tung mình khỏi bành voi. Ở trên không, chàng chĩa kiếm hướng Vũ-Đức vương. Mười võ sĩ cận vệ cùng hướng vũ khí lên trời đâm chàng. Thông-Mai lia kiếm một cái, sáu trong mười võ sĩ bị đứt tay, gãy cổ. Chàng đã đáp ngay cạnh Vũ-Đức vương.
          Vũ-Đức vương lùi lại phía sau, Thông-Mai quát lên một tiếng như sét nổ, chưởng tung ra, bốn võ sĩ cận vệ của vương bay tung lên cao, xương thịt nát hết. Chàng định đánh chiêu nữa kết thúc tính mạng vương, thì một kình phong ập vào phía phải của chàng. Chàng vội chuyển chưởng ra đỡ, binh một tiếng, cánh tay chàng ê ẩm. Kinh ngạc, chàng quay lại nhìn xem ai mà có chưởng mạnh đến như vậy. Thì ra y là Nguyên-Hạnh. Chàng phản công liền hai chưởng. Y đỡ được một chưởng. Đến chưởng thứ nhì, y ọe một tiếng, miệng phun máu có vòi, người lảo đảo ngã ngồi xuống. Một thiếu niên Hồng-hương chạy lại đỡ y lên.
          Thông-Mai đã tu ở chùa Sơn-tĩnh, sống dưới quyền Nguyên-Hạnh một thời gian. Chàng la lớn:
          - Phương trượng, nghĩ tình xưa nghiã cũ ta tha cho phương trượng ngày hôm nay.
          Nói rồi chàng thúc võ sĩ Đông-a đuổi theo đội quân Hồng-thiết giáo.
          Nguyên-Hạnh chạy theo Vũ-Đức vương. Nhưng y vừa đi được mươi bước thì đụng phải voi của Hà Thiện-Lãm, Trường-Ninh. Hà Thiện-Lãm thấy mồm y phun ra máu, thì biết y bị thương. Chàng tung theo sợi dây, cuốn tròn lấy người y rồi giật mạnh. Nguyên-Hạnh bay bổng lên cao, rơi xuống ngay trước voi Cẩm-Thi. Nàng điểm huyệt y, rồi quẳng xuống đất cho quân trói lại.
          Bên phải, Bảo-Hòa cũng phóng chưởng tấn công Nguyễn Khánh. Nàng vận âm kình. Nguyễn Khánh thấy nàng trẻ tuổi, vốn đã khinh thường. Bây giờ nàng lại phát chưởng âm nhu, không kình lực, y càng khinh thường. Y dơ tay định bắt sống nàng. Bảo-Hòa chỉ chờ có thế, nàng chĩa ngón tay phát chiêu Lĩnh-nam chỉ trúng huyệt Đản-trung của y. Y bị tuyệt chân khí ngã lăn xuống ngựa. Nhấp nhô một cái, Bảo-Hòa đã xuống ngựa chụp Nguyễn Khánh tung lại sau cho đội võ sĩ Tản-viên trói lại.
          Đến đây, ba phòng tuyến của Vũ-Đức vương bị tan. Thông-Mai, Bảo-Hòa xua hổ báo đuổi chúng lui ra xa, rồi ngừng lại quan sát quân mình, thì thấy đạo binh của Tôn Đản, Cẩm-Thi vào trong thành trót lọt. Đạo của Lê Văn đã vào được một nửa.
          Trống trận hai bên thúc nhịp rung động trời đất.
          Thông-Mai, Bảo-Hòa đứng trên bành voi quan sát quân mình vào thành. Bỗng Lưu Tường la hoảng. Thông-Mai hỏi:
          - Gì vậy em.
          Lưu Tường dơ tay chỉ vào hậu quân, nơi có đạo quân của Thiệu-Thái. Bởi phía sau đạo quân Thiệu-Thái xa xa, một đội kị binh kéo cờ Hồng-thiết giáo đang phi đến như bay. Đạo quân ước khoảng năm nghìn người. Thiệu-Thái, Mỹ-Linh, Lê Phụng-Hiểu vội đứng trấn phía sau cho quân mình vào thành. Đạo binh của chàng vừa vào tới cửa thì đạo kị binh đã đuổi tới.
          Bảo-Hòa than:
          - Làm sao bây giờ. Đội của anh với em cộng lại chưa quá hai nghìn mà phải nghênh chiến với hai vạn quân Vũ-Đức vương với năm nghìn kị binh kia, thì giỏi lắm chịu được ba giờ là chết hết.
          Thông-Mai quan sát trận giặc, đám tướng binh của Vũ-Đức vương đã tập hợp lại được, chúng đang chuẩn bị bao vây chàng với Bảo-Hòa. Vương đứng ở cánh trái, còn cánh phải là Vũ Hào. Vốn can đảm, Thông-Mai nói:
          - Dù gì chúng ta cũng quyết bảo vệ cho quân vào trong thành. Nếu có chết, thì chết hết đội hổ báo mà thôi.
          Chàng với Bảo-Hòa dàn quân, chia làm ba. Đội hổ, báo bảo vệ hai sườn chống với quân Vũ-Đức vương. Đạo Phong-châu, Thượng-oai chuẩn bị đánh với đám kị binh. Đưa mắt nhìn lên địch lâu, chàng ngạc nhiên khi thấy đạo quân của mình với Bảo-Hòa nguy đến nơi, mà Khai-Quốc vương vẫn cầm cờ phất ra lệnh bắt hai người chuẩn bị tác chiến, không cho rút vào thành.
          Đạo kị binh mới tới dàn phía phải, hợp với Vũ Hào.
          Thông-Mai đang định xua quân tử chiến, thì từ phía bên trái, lại một đội kị binh nữa phi tới. Chàng hô lên:
          - Tử chiến.
          Vũ Hào vẫy quân chuẩn bị dùng cung tên bắn vào đội hổ, báo. Bảo-Hòa cầm kiếm đứng trước trận sẵn sàng tử chiến. Bên này Vũ-Đức vương vẫy tay gọi Thông-Mai:
          - Mau đầu hàng, bằng không ta buông tên.
          Vương vừa nói đến đây thì đội kị mã đã tới. Hai tướng cỡi ngựa đi tiên phong, đầu trùm khăn đen kín mít. Phía trước, một cây cờ, trên vẽ hình con chim ưng bay trên núi. Hai tướng vừa tới, lập tức xua tay, đội kị mã hướng bộ binh của Vũ-Đức vương buông tên. Vũ-Đức vương hô đội thiết kị của mình tiếp chiến, thì đội kị mã Ưng-sơn đã lẫn vào với quân của vương, chém giết hung hãn hơn hổ đói. Người đàn ông trùm khăn đen cầm cờ chỉ vào vương. Đám thiết kị xông vào định bắt vương. Vương vội bỏ chạy.
          Phía bên này Vũ Hào thấy đội kị binh Hồng-thiết giáo, y nhìn cờ thì biết đội đó thuộc quyền Vũ-Đức vương đánh Thăng-long. Sau khi có lệnh bỏ Thăng-long, thì tuyệt tin tức. Nay thấy chúng trở lại y mừng lắm, y cầm cờ chỉ vào đội quân Bảo-Hòa:
          - Tiến lên diệt chúng.
          Viên tướng chỉ huy cười ha hả, tay cầm cờ xanh phất, lập tức đội thiết kị đã bỏ khăn đỏ, đeo khăn vàng, thay cờ Hồng-thiết giáo bằng cờ Lạc-long giáo, rồi xung vào tấn công quân của Vũ Hào.
          Bị bất ngờ, quân của Vũ Hào, Vũ-Đức vương vừa tập trung được, vội bỏ chạy tán loạn. Trên thành Khai-Quốc vương đánh trống thu quân. Đạo Phong-châu vào trước, rồi tới đạo Thượng-oai. Thông-Mai, Bảo-Hòa vào sau cùng. Tiếp theo là đạo kị binh Hồng-thiết giáo cũng vào theo. Còn đội kị binh Ưng-sơn thì phi về hướng Côi-sơn.
          Bấy giờ Thông-Mai, Bảo-Hòa mới biết đội kị binh Hồng-thiết giáo kia vẫn trung thành với Lạc-long giáo. Trước họ đã dự chiến ở Thăng-long trong cánh quân Dực-Thánh vương. Khi cánh quân Dực-Thánh thất bại, Khai-Quốc vương dặn họ cứ ẩn nhẫn chờ khi nào đối trận sẽ trở giáo, khiến chúng bị bất ngờ. Bây giờ gặp dịp họ mới ra tay.
          Cổng thành đóng lại. Khai-Quốc vương truyền kiểm điểm binh mã, cho quân tướng nghỉ mệt, để chuẩn bị đại chiến.
          Vì vương phi Thanh-Mai, với Ngô An-Ngữ làm tổng trấn Trường-yên, nên hai người phải ngồi trong trung quân hầu điều khiển Ưng-binh thư tín liên lạc khắp nơi, cùng ban lệnh cho bốn cửa thành. Do vậy tuy biết Khai-Quốc vương đang đem quân vào thành cứu viện, mà hai người vẫn không thể ra ngoài đón. Đến khi quân viện đã vào hết trong thành, vương về vương phủ, bấy giờ vương phi Thanh-Mai, Ngô An-Ngữ, Hàn Diệu-Chi, Ngô Thường-Kiệt, Ngô Thường-Hiến mới ra chào.
          Tuy cách nhau có ba tháng, nhưng biến cố xẩy ra dồn dập, mà vương với vương phi cảm thấy như xa nhau đến mấy năm.
          Sau khi nghe vương phi Thanh-Mai cùng An-Ngữ, Bảo-Dân tường trình mọi sự. Vương cũng kể cho họ nghe biết tất cả biến cố bên ngoài. Bảo-Dân rất quan tâm đến cặp vợ chồng Ưng-sơn. Dù minh mẫn như Khai-Quốc vương, thông minh như vương phi Thanh-Mai, nghe nhiều biết rộng như Bảo-Dân, kinh nghiệm như Ngô An-Ngữ, mà cũng không đoán ra vợ chồng Ưng-sơn là ai.
          Thuận-Tông đưa mắt cho Thiện-Lãm rồi nói:
          - Sau trận Yến-vĩ bọn em cho chim ưng theo dõi cặp vợ chồng này mà vô hiệu, vì chính họ cũng biết sai chim ưng. Em cho bao nhiêu chim ưng theo họ, họ giữ làm của riêng luôn, không trả về.
          Thiện-Lãm hỏi:
          - Hay là anh Thiệu-Cực với chị Thanh-Trúc. Không lẽ ngoài bọn Bắc-biên chúng em, còn có người biết điều khiển chim ưng?
          Ngô Cẩm-Thi bẹo tai chàng:
          - Chú này nói tào lao rồi.
          - Em tào lao ở chỗ nào?
          Mỹ-Linh đỡ lời Cẩm-Thi:
          - Em nên biết, ai cũng có thể trùm chăn, trùm khăn, giả làm người này, người kia. Nhưng có hai điều không thể giả được là võ công, công lực. Anh Thiệu-Cực võ công bình thường. Chị Thanh-Trúc chỉ mới tập đây. Làm thế nào bản lĩnh hai người đó cao đến như vậy? Chị e bản lĩnh người đàn ông hơn Lê Ba, kém sư bá Tự-An một chút. Còn người đàn bà thì thua chị Bảo-Hòa, ngang với chị Cẩm-Thi. Cho nên em ngờ họ là Thiệu-Cực với Thanh-Trúc, mới bị chị Cẩm-Thi bảo em tào lao.
          Tôn Mạnh vốn ít nói, bây giờ cóc mới mở miệng:
          - Từ đầu đến cuối không thấy cặp này lên tiếng. Có thể họ sợ lên tiếng thì ta nhận được căn cước họ. Hoặc giả họ là người Thái, người Chiêm, người Lào, người Khờ-me, hay người Đại-lý, Đại-Tống chăng, họ không biết tiếng Việt chăng?
          Thanh-Mai đồng ý với Tôn Mạnh:
          - Đúng rồi, họ là người Đại-Tống, bởi chị thấy đám tuỳ tùng theo họ đều xử dụng võ công Thiếu-lâm, Nga-mi, Không-động, Hoa-sơn cả. Chị đoán họ thuộc bang Hoàng-Đế hoặc bang Trường-giang. Biết đâu họ chẳng được Tự-Mai sai sang trợ chiến cho chúng ta. Vì vậy họ mới tới tế tổ phái Đông-a cùng thân mẫu chị.
          Nhưng chợt Thanh-Mai đờ người ra suy nghĩ. Bảo-Dân hỏi:
          - Sư muội nghĩ gì vậy?
          - Muội lại thấy lời giải đoán ban nãy có ba chỗ không ổn. Một là nếu họ do Tự-Mai sai sang, không biết tiếng Việt, làm sao họ có thể hiểu lời vô lễ của Hồng-Phúc với phái Đông-a, rồi ra tay trừng trị? Nhất định họ biết tiếng Việt, nhưng không muốn lên tiếng, sợ lộ hình tích đấy thôi. Hai là cặp vợ chồng này với đội kị mã tới ba nghìn người. Nếu họ từ các nước thuộc tộc Việt tới thì sao có thể vào Đại-Việt được. Bởi nước ta đang có nội chiến, các đội biên phòng canh gác cực kỳ nghiêm mật, họ tới mấy nghìn người, thì làm sao vượt biên mà không bị ngăn chặn? Không bị bại lộ? Mà dù có nhập cảnh rồi, với hành tung bí mật như vậy vô tình họ bị cả quân triều lẫn quân phiến loạn nghi ngờ, chặn đánh. Thế mà sao họ di chuyển dễ dàng quá đi. Ba là dù họ có vào được trong nước mình rồi nhưng với quân số đông đảo người ngựa, mỗi ngày phải nuôi ăn, đêm đêm đồn trú. Tất họ đến vùng nào quan quân phải biết, đây không thấy các phủ huyện báo về tình trạng của họ. Vậy họ phải là người Việt, thuộc một bang hội nào đó.
          Tất cả nghe Thanh-Mai phân tích đều phục vương phi cực kỳ thông minh. Vương truyền chư tướng về nghỉ, vì sau một ngày chiến đấu, các tướng đều mệt bở hơi tai. Vương phi Thanh-Mai lưu Khấu Kim-An, Cẩm-Thi, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh, Kim-Thành, Trường-Ninh lại vương phủ để đàm đạo. Lần đầu tiên Kim-Thành, Trường-Ninh được gặp Ngô Cẩm-Thi. Truyện như pháo nổ.
          Khấu Kim-An đùa Thiệu-Thái:
          - Tôi nghe trước đây Thiệu-Thái mập ú, bộ tịch giống con lợn, nên Khai-Thiên vương không chịu gả Mỹ-Linh cho, dù đã lập biết bao nhiêu công trạng, kể cả cứu danh dự cho vương. Bây giờ trong tất cả các thân vương, cùng chư tướng không ai đẹp bằng Thiệu-Thái cả, chắc hẳn vương gia vui lòng lắm.
          Bảo-Hòa nói:
          - Bàn cho thực phải, trước đây phò mã Đào Cam-Mộc được tôn là Nam-thiên đệ nhất mỹ nam tử. Hầu lại văn hay chữ tốt, nói năng ngọt ngào. Nhưng...
          Kim-An đùa:
          - Bây giờ hầu là Nam thiên đệ nhất mỹ bô lão rồi phải không? Tôi nghe năm nay công chúa An-Quốc đã bốn mươi hơn, còn hầu thì trên sáu mươi tuổi thì phải.
          Bảo-Hòa nắm tay Kim-An:
          - Khấu sư thúc hay thực, đoán trước được ý nghĩ của cháu. Sau này trong các thiếu niên, thì Tự-Mai với Lê Văn đẹp nhất. Cả hai khéo nói nhất, cứ mỗi lần gần hai cậu em đó, cháu cảm thấy vui vẻ âm ấm trong lòng. Bây giờ hai cậu đều thành phò mã. Tục lệ tộc Thái là khi lấy vợ, con trai phải ở với nhà vợ. Hôm gặp sư bá Hồng-Sơn tại Biện-kinh, em có đem truyện này ra nói với sư bá. Sư bá đáp: Tộc Thái cũng là giống Việt. Vậy Văn nó sang bên đó mở trường dạy thuốc giúp nhà vợ thực đúng ý ta. Hà! Trước sau chúng mình cũng phải xa Văn đệ.
          Kim-An quay lại hỏi Lê Văn:
          - Thiệu-Thái đang ụt ịt như lợn, bỗng thành đệ nhất mỹ nam tử, chị cũng không ngạc nhiên. Chị ngạc nhiên nhất là Lê Văn thay đổi tính tình. Trước kia Lê Văn, Tự-Mai hùa nhau phá phách suốt ngày. Bây giờ Lê Văn thành trầm tư lạ lùng. Chị nghe nói hồi trước Lê Văn giết một con cào cào, một con châu chấu cũng không nỡ, thế mà hôm lâm trận ở Thăng-long, bỗng trở thành cương nghị vô cùng, giết chết Phạm Trạch, Hoàng Văn, Đàm An-Hòa. Trong trận Yến-vĩ, cậu xung sát hơn ai hết. Rồi từ nãy đến giờ, ngồi như bù nhìn, không hé môi. Hà... thực lạ.
          Thanh-Mai nắm tay sư đệ:
          - Không phải Văn đệ thay đổi tính tình đâu, mà vì tuổi lớn rồi, không dám đùa nữa. Còn Văn đệ thẳng tay với đám ma đầu, vì đó là võ đạo của phái Sài-sơn.
          Sự thực Thanh-Mai biết rõ sở dĩ Lê Văn trở thành đa sát, vì sau đại hội Lộc-hà chàng được chứng kiến tận mắt cái chết nhục nhã của mẫu thân mà ra.
          Bỗng Lê Văn ngồi thẳng dậy bật cười:
          - Nếu nói về đẹp trai, tất cả bọn đàn ông xung quanh anh cả, không ai đẹp bằng đại sư Huệ-Sinh.
          Mọi người đều gật đầu công nhận lời Lê Văn nói đúng. Đại sư Huệ-Sinh có đủ hết các tướng đẹp, mà chỉ đức Thích-ca mâu-ni xưa mới hơn được. Nước da ông hồng hào, đôi môi lúc nào trông cũng như cười, đôi mắt lộ ra ánh từ bi, thương xót mọi chúng sinh. Nhưng cái đẹp của ông là cái đẹp trang trọng, ai trông thấy cũng muốn chắp tay, quỳ gối. Ông lại ít nói. Ông là thầy, là cố vấn cho Khai-Quốc vương. Có thể nói cuộc dẹp nội loạn này, ông đưa ra đường lối, rồi mưu trí thì chính vương hoạch định.
          Kim-An hỏi Thanh-Mai:
          - Liệu sau này Khai-Thiên vương có phản đối việc gả Kim-Thành cho Thuận-Tông; Trường-Ninh cho Thiện-Lãm không?
          - Em nghĩ là không. Bởi về đạo đức, một chú là đệ tử của cô mẫu Tịnh-Huyền, một chú là đệ tử của Nùng-sơn tử. Về công danh, thì cả hai đều thành đại tướng, có nhiều công với xã tắc. Về gia thế, cả hai đều là con nuôi của vua Bà Bắc-biên. Vương không thể viện lý gì mà chối nổi. Nếu vương từ chối, em là thím của Kim-Thành, Trường-Ninh, em có quyền đặt vấn đề: Xin vương tìm cho em hai thiếu niên mà tài, đức cùng công lao với xã tắc bằng Tông, Lãm. Sau đó em bệ kiến phụ hoàng, xin người đứng ra gả ba cháu gái ắt vương bó tay.
          Bảo-Hòa nói:
          - Trong tất cả các con dâu, con gái của ông ngoại, thì mợ Thanh-Mai được cả ông lẫn ba hoàng hậu thương yêu, tin tưởng vô tận. Bất cứ mợ nói gì, làm gì, ông bà cũng vừa lòng xứng ý cả. Thứ nhì đến cô An-Quốc rồi mới đến mạ mạ cháu. Chính mạ mạ cháu đã nói: Thực là lạ lùng. Ông xuất thân trong chùa Tiêu-sơn, bất cứ nghĩ, làm điều gì cũng phải có nguyên tắc, luật lệ. Mợ là con quốc trượng Tự-An, nức tiếng thiên hạ về ngang tàng, mỗi hành sự đều tự quyết. Ấy vậy, mà lại hợp với ông.
          Ngô Cẩm-Thi phân giải:
          - Theo em nghĩ thì như thế này: Hoàng thượng xuất thân từ một võ tướng, bên cạnh có sư thái Tịnh-Huyền theo giúp ngài khi chinh chiến bấy lâu. Anh em hợp tình, hợp ý. Cho nên ngài thích con dâu mình cũng có những điểm giống em gái mình.
          Lê Văn tiếp:
          - Vả, hình ảnh đầu tiên bao giờ cũng có uy lực nhiều. Ngày Hoàng-thượng gặp chị Thanh-Mai buổi sơ kiến đã có những gì xẩy ra? Chị Thanh-Mai xinh đẹp, ôn nhu, văn nhã... rồi bỗng nhiên đứng ra trị bệnh cho đám người Đại-lý, chinh phục tình cảm của họ. Cuối cùng xả thân cứu Đoàn vương gia, đúng theo đạo lý nhà Phật: Nhảy vào miệng hổ đói, xẻo thịt cho chim ưng ăn. Hình ảnh đó đã in sâu vào trong tâm ngài. Nên ngài sủng ái chị là phải.
          Lê Văn chỉ bọn Trần Anh:
          - Chúng ta còn đến bốn đứa em. Không biết các chị định hỏi cô nào cho chúng đây? Em nghĩ mình đã có sẵn hai cô rồi, chỉ còn thiếu hai cô nữa thôi.
          Thanh-Mai kinh ngạc:
          - Hai cô nào vậy?
          Lê Văn chỉ Mỹ-Linh:
          - Một người là em gái nuôi của công chúa Bình-Dương. Cô này nên gả cho Trần Anh.
          Cả bọn quay lại nhìn Tĩnh-Ninh. Bởi Tĩnh-Ninh là con gái vú Hậu, ngang tuổi với Mỹ-Linh. Được Mỹ-Linh nhận làm em nuôi. So với Mỹ-Linh, Thanh-Mai thì Tĩnh-Ninh không đẹp bằng, nhưng so với những người khác, nàng cũng thuộc loại xinh đẹp hiếm có.
          Bị Lê Văn ghép với Trần Anh, Tĩnh-Ninh vội chui đầu vào sau lưng Mỹ-Linh. Thanh-Mai kéo Tĩnh-Ninh ra:
          - Nào cho thím nhìn mặt xem nào? Ừ đẹp đáo để đây. Tĩnh-Ninh có hai điều, mà trong chúng ta không ai bằng. Một là cô bé làm bếp giỏi hơn cả ngự trù trong Hoàng-cung. Hai là cô nàng có cái lưng ong với hai bàn tay cực kỳ xinh đẹp.
          Nói dứt, Thanh-Mai kéo vai bắt Tĩnh-Ninh đứng dậy, rồi xoay lưng, chiềng tay nàng cho mọi người nhìn. Ai cũng phải công nhận Thanh-Mai tinh tế, nhận ra hai nét đẹp của Tĩnh-Ninh.
          Thanh-Mai nghiêm trang trở lại:
          - Mỹ-Linh vào mời vú Hậu cho thím.
          Một lát vú Hậu ra, ngơ ngơ ngác không hiểu gì cả. Thanh-Mai mời vú ngồi rồi nói:
          - Có phải vú cho Tĩnh-Ninh làm em nuôi Mỹ-Linh không?
          - Khải vương phi, từ bé đến giờ công chúa với nó chơi cùng nhau thân như sam, tự nhiên cả hai thành chị em rồi. Tĩnh-Ninh còn được công chúa dạy văn, luyện võ nữa.
          Thanh-Mai chỉ Trần Anh:
          - Tôi có cậu em nuôi, đang làm đại tướng, vậy tôi xin đứng hỏi Tĩnh-Ninh cho cậu ta, vú có thuận không?
          - Tiểu tỳ xin tuân chỉ của vương phi.
          Thời Lý, nô bộc, tỳ nữ trong nhà coi như thân thể họ đều do chủ quyết định gả, bán cả. Nay Thanh-Mai nói một lời, tự nó đã thành quyết định. Tuy Thanh-Mai quyết định, nhưng vú Hậu thấy con gái mình có chồng là một tướng cầm quân thì bà mừng chi siết kể.
          Tôn Đản bảo Trần Anh:
          - Mau mau ra làm lễ bái kiến nhạc mẫu đi.
          Nói rồi chàng phẩy tay vào lưng Trần Anh một cái. Trần Anh rơi ngay trước mặt vú Hậu. Chàng lạy liền bốn lạy, miệng hô:
          - Mẹ.
          Vú Hậu bảo Trần Anh, Tĩnh-Ninh:
          - Hai con mau tạ ơn vương phi đi.
          Hai trẻ chắp tay vái Thanh-Mai. Lê Văn nói đổng:
          - Chàng rể tạ ơn nhạc mẫu, cặp vợ chồng trẻ tạ ơn vương phi tác thành. Chàng nhìn nàng, nàng liếc chàng, nhưng quên mất ông mai rồi.
          Tuy là lời đùa bỡn, nhưng đó là lễ nghi thực sự của Đại-Việt. Trần Anh, Tĩnh-Ninh vội hướng Lê Văn:
          - Đa tạ Lê đại ca đã đóng vai ông tơ bà nguyệt.
          Lê Văn nghiêm mặt:
          - Ta có lời muốn nói với chú Trần Em. Sau này thành vợ chồng rồi chú phải tuân theo ta ba việc.
          - Em xin tuân lời đại ca.
          - Hừ ! Bây giờ được vợ đẹp, tề gia nội trợ giỏi thì ba điều chứ trăm điều chú cũng tuân. Này lắng tai nghe cho rõ ba điều. Một là lúc tối lửa tắt đèn, vợ chồng có cắn cấu nhau thì đừng đem ông mai ra mà nhiếc móc.
          Mọi người cười ồ lên.
          - Hai là không được coi Tĩnh-Ninh như người thường, mà phải nhớ nàng là em của công chúa Bình-Dương đấy, vì vậy cả đời chỉ được một Tĩnh-Ninh thôi, cấm không cho tuyển thêm thứ thiếp. Bằng không, có chuyện với ta đa! Ta chỉ điểm hai huyệt Thận-du là chú mày thành thái giám liền.
          Mội người cười ồ lần nữa.
          - Thứ ba là sau này dù ở phương trời nào, mỗi năm phải mời ta đến nhà ăn một bữa cơm, do cô vợ nấu nướng giỏi nhất thiên hạ đích thân làm.
          - Em xin tuân lời đại ca.
          Thanh-Mai hỏi:
          - Ông mai Lê Văn nói có hai cô, vậy còn cô thứ hai đâu?
          Lê Văn chưa kịp trả lời thì quân đem vào trình một mũi tên có mang theo bức thư gửi cho Khai-Quốc vương.
          Khai-Quốc vương mở phong bì, vương nhận ngay ra nét chữ của Vũ-Đức vương. Vương trao cho Mỹ-Linh:
          - Cháu đọc cho mọi người nghe.
          Mỹ-Linh cất cao giọng đọc:
          Em là Vũ-Đức vương, thư cho anh là Khai-Quốc vương
          Nhị ca.
          Chúng ta là anh em cùng cha, sống bên nhau từ nhỏ, nhị ca dư biết tính em chứ. Em vốn là người nhiệt thành, dễ cảm xúc, dễ tin người. Vì vậy khi nghe phụ hoàng lâm bệnh trầm trọng, người ban chiếu tuyên triệu Dực-Thánh vương vào ủy thác việc lớn. Nhưng khi vương vào cung thì Phật-Mã đóng kín cửa thành, rồi đem quân phong toả các cung. Dực-Thánh vương không vào được, khẩn báo cho bọn em biết, để cùng giải quyết. Em điểm vệ sĩ theo hầu, rồi vào cung xin yết kiến phụ hoàng, thì vệ sĩ bị ngăn lại, chỉ cho mình em đi thôi.
          Nhị ca thử đặt mình vào trường hợp em mà xem, liệu nhị ca có dám vào một mình không? Thế rồi Dực-Thánh vương tuyên cáo với quốc dân, rồi cho lệnh bọn em công thành. Giữa lúc phần thắng nghiêng về phần Dực-Thánh vương thì nhị ca về. Đương nhiên với tài nhị ca, thì Dực-Thánh vương bại .
          Bây giờ quân thuộc quyền em đông gấp mười nhị ca. Nhị ca bị hãm trong thành, em lo lắng không nguôi. Nghe lời chiếu của phụ hoàng do nhị ca gửi tới. Em tin nhị ca rằng phụ hoàng còn tại thế. Vậy nhị ca hãy mở cửa thành ra, để anh em mình trực tiếp nói truyện với nhau, không biết nhị ca nghĩ sao?
          Ba ngày nữa, giờ Thìn, em với mấy vệ sĩ đón nhị ca ở cổng thành phía Đông. Cả hai bên cùng không mang theo quân. Mong nhị ca nghĩ đến đại cuộc, nghĩ đến tình máu mủ mà ra gặp em.
          Khai-Quốc vương đưa mắt nhìn Tôn Đản, Lê Văn, Cẩm-Thi:
          - Các em nghĩ sao?
          Cả ba ôm gối ngồi im lặng. Vương ngạc nhiên:
          - Sao các em lại im lặng như vậy?
          Tôn Đản nói:
          - Đại ca ơi! Đại ca với bọn em thân nhau còn hơn ruột thịt, nếu bảo bọn em chết thay đại ca, bọn em sẵn sàng. Huống hồ bọn em theo đại ca không phải vì công danh, cũng chẳng vì vàng bạc, mà vì anh em chúng ta cùng lập chí xây lại những gì thời vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng, nay đã bị mất. Đối với quốc gia đại sự, đại ca hỏi, chúng em sẵn sàng góp ý. Nhưng đây là việc nhà, việc của họ Lý, muôn ngàn lần chúng em không dám xen vào. Cổ nhân có nói : Sơ bất gián thân là thế. Em nghĩ đại ca nên hỏi chị Thanh-Mai, anh Thiệu-Thái, chị Bảo-Hòa, chị Mỹ-Linh thì hơn.
          Khai-Quốc vương thở dài. Vương hỏi Bảo-Hòa:
          - Trong chúng ta đây, thì cháu được trời ban ơn cho thần minh sáng suốt nhất. Cháu cho cậu ý kiến.
          - Cháu không tin cậu tư lại thay đổi mau thế. Hôm đầu tiên, cậu xuất hiện, cậu tư còn để Nguyên-Hạnh, Nguyễn Khánh bắn tên lên thành kia mà. Hôm sau, cậu đã diệt được hai cánh quân Đông-Chinh vương, Dực-Thánh vương, một lần nữa cậu lên tiếng kêu gọi cậu tư. Cậu tư ậm ừ, rồi cùng bọn chúng kéo về đây, với hy vọng dựa vào Hồng-thiết giáo chiếm nửa nước. Nay không lẽ chỉ một trận hôm qua, cậu tư đã đổi thái độ? Vả khi người ta yếu thế mới chịu nói chuyện với quân địch. Còn khi người ta mạnh thì đời nào người ta hạ thể. Nay quân của cậu tư đông gấp bốn, gấp năm cậu, mà cậu tư viết thư với lời lẽ nhún nhường thì phải nghi ngờ.
          Thiệu-Thái bàn:
          - Cậu nên thận trọng. Có ba vấn đề xẩy ra. Một là có thể cậu tư bị bọn Hồng-thiết giáo khống chế, nên phải mật viết thư cho cậu, rồi tìm cách thoát thân. Hai là biết đâu giờ này tin từ Thanh-hóa cho biết, đô đốc Phạm Tuy đã đổ bộ lên, làm chủ tình hình rồi, nên cậu tư mới tìm kế hòa giải. Ba là bọn Hồng-thiết giáo bầy ra kế này, để điệu hổ ly sơn. Khi cậu ra ngoài thành họp, họ cho cao thủ vây cậu, trong khi đó họ đánh thành.
          Vương phi Thanh-Mai trầm tư một lúc rồi tiếp lời Thiệu-Thái:
          - Thiệu-Thái có lý. Bất cứ trường hợp nào, ta cũng phải đề phòng gian mưu của bọn ma đầu vẫn hơn.
          Sáng hôm sau, trong phủ Khai-Thiên vương, các tướng hội họp đầy đủ. Khai-Quốc vương với vương phi thấy Hoàng Hùng, Trần Kiệt vào, vội vàng đứng lên chào, rồi rước lên trướng. Vương mời hai vị sư thúc ngồi ngang với mình. Vương cung tay nói:
          - Hai sư thúc vì quốc sự, mà phải lao tâm khổ tứ, khiến bọn chúng cháu áy náy vô cùng.
          Trần Kiệt phất tay:
          - Thiên-trường ngũ kiệt buông tay vui với cỏ cây, nhưng không phải vì thế mà để cho ma quái hại dân hại nước. Chú đến đây tiếp cứu cho Thanh-Mai chỉ là cái cớ nhỏ rằng sư phụ cứu đệ tử, chứ thực sự ra là vì sự nghiệp mấy nghìn năm của tổ tiên. Vương khỏi cần khách sáo.
          Vợ của Hoàng Hùng là Quỳnh-Giao, xuất thân từ phái Sài-sơn. Bà ngang vai với Hồng-Sơn đại phu. Võ công bà rất bình thường, gần như là chỉ đủ để tự vệ. Nhưng y thuật bà rất cao minh. Hồi Lê Văn còn thơ ấu, bà thường bế bồng chàng, dẫn chàng đi chơi. Cho nên trước trận đánh Yến-vĩ, nghe Đào Hiển nói bà theo chồng tiếp cứu Trường-yên, đề phòng khi hữu sự còn trị bệnh cho thương binh, cho dân chúng... Lê Văn cứ mong vào thành để gặp lại bà. Bây giờ thấy Hoàng Hùng mà không thấy bà, chàng hỏi:
          - Hoàng sư thúc...
          Hoàng Hùng đoán trước được ý Lê Văn, ông cười:
          - Cô cháu nhà bay thực thân nhau quá sam. Suốt mấy ngày cô cứ nhắc cháu, bây giờ cháu lại tìm cô phải không? Cô đang trị bệnh cho thương binh ở y viện.
          Lê Văn đưa mắt nhìn Khai-Quốc vương. Vương hiểu ý cậu em giầu tình cảm:
          - Việc ở đây cũng tạm yên. Văn đệ có thể đến y viện tiếp cứu sư thúc trị bệnh cho thương binh được rồi.
          Lê Văn vui vẻ lui ra ngoài liền.
          Mở đầu buổi họp, Ngô An-Ngữ đứng dậy trình bày chi tiết tất cả diễn biến từ khi cuộc khởi loạn của chư vương, tới lúc Khai-Quốc vương về giải phóng Thăng-long, rồi trận Yến-vĩ, trận tấn công chớp nhoáng nhập thành hôm qua. Ông kết luận:
          - Quân ngoài thành hiện tới mười vạn, hầu hết là quân của Thanh-hóa, Đằng-hải, với Hồng-thiết giáo, họ phối hợp nhịp nhàng đã quen. Trong thành chúng ta không có một đạo binh nào chính thức cả. Quân số ta chỉ bằng một phần mười của chúng, mà lại rất phức tạp. Nếu phòng vệ thì chúng ta dư sức giữ thành. Còn mở cửa ra nghinh chiến với giặc, e không đủ sức.
          Tôn Đản thấy chư tướng có nhiều người không hiểu hết lời của Ngô An-Ngữ. Chàng nhắc:
          - Nhị ca! Nhị ca trình bày chi tiết lực lượng của mình cho mọi người hiểu.
          - Đầu tiên lực lượng kị binh của Trường-yên có hơn nghìn, với nghìn thị vệ. Khi cuộc nổi loạn nổ ra, phái Đông-a có năm nghìn đệ tử, viện cho hai đoàn đệ tử, gồm ngàn tay cung nỏ, ngàn bộ chiến. Khai-Thiên vương phi trở về, thu dụng đám giáo chúng Lạc-long giáo trong thành được nghìn nữa. Tổng cộng thành năm nghìn người. Tôi chia cho mỗi cửa một nghìn người trấn thủ. Còn nghìn thị vệ thì lưu động tiếp cứu. Nhờ đội cung thủ nghìn người của phái Đông-a, nên quân phản loạn tấn công bao nhiêu lần đều thất bại.
          Ông chỉ vào Thuận-Tông, Thiện-Lãm:
          - Lực lượng nghĩa đệ Thiện-Lãm đánh Yến-vĩ, chỉ có hai nghìn người, với đội thú rừng. Sư thúc Vũ Anh lại viện cho năm trăm đệ tử phái Đông-a. Trong trận này bốn trong Quy-trang thất kiệt mang về bốn nghìn giáo chúng Lạc-long giáo nữa. Nên sau trận đánh, cánh Thượng-oai tới năm nghìn, năm trăm. Lực lượng Phong-châu của nghĩa đệ Thuận-Tông cũng chỉ có nghìn người với đội thú, sau được tiên cô Bảo-Hòa viện cho năm trăm đệ tử Tản-viên, đại sư Huệ-Sinh viện cho năm trăm đệ tử phái Tiêu-sơn. Trong trận tấn công phá vòng vây, giáo chủ Lạc-long giáo thu hồi hơn nghìn thiết kị nữa. Như vây tổng cộng ta có một vạn ba nghìn năm trăm người thiếu thống nhất, phải chống với mười vạn người thống nhất.
          Khai-Quốc vương đưa mắt nhìn các tướng một lượt, rồi nói rất chậm:
          - Tuy lực lượng chênh lệch như vậy, nhưng hầu hết quân của chúng ta đều là đệ tử võ phái, một người thừa sức đánh hai mươi người. Hai trăm hổ, hai trăm báo, hai mươi voi có sức mạnh bằng mấy vạn địch. Từ trước đến giờ ta chưa có phối hợp, nên cửa Đông, Nam do đệ tử Đông-a. Còn cửa Bắc, Nam do quân Trường-yên với đệ tử Lạc-long giáo. Bây giờ ta cho phối hợp lại. Kế hoạch phòng thủ của ta như thế này: Chia đều các lực lượng cho mỗi cửa thành.
          Vương cung tay hướng Hoàng Hùng, Trần Kiệt:
          - Đội cung thủ của Đông-a chia làm bốn toán, mỗi toán trấn một cửa thành. Còn lực lượng bộ chiến Đông-a thì chia đôi, trấn cửa Đông và Nam.
          Vương hướng Thuận-Tông, Thiện-Lãm:
          - Hai em chia chim ưng làm bốn, trấn bốn cửa thành. Hai đội hổ trấn cửa Đông, Nam. Hai đội báo trấn cửa Tây, Bắc.
          - Ta có bốn đạo thiết kị. Thiết kị của Lạc-long giáo trấn cửa Đông. Thiết kị Đông-a trấn cửa Nam. Thiết kị Trường-yên trấn cửa Tây. Còn cửa Bắc, ta đã có thiết kị của Ưng-sơn đánh từ ngoài vào.
          Nghe nói đến Ưng-sơn song hiệp, kể cả Hoàng Hùng, Trần Kiệt đều đều lắc đầu không hiểu họ là ai. Đã không hiểu họ là ai, mà sao Khai-Quốc vương nghĩ rằng có thể điều động họ?
          Mỹ-Linh hỏi:
          - Hiện không biết Ưng-sơn song hiệp ở đâu, làm sao chú có thể điều động họ khi cần?
          Khai-Quốc mỉm cười nhìn mọi người:
          - Các vị thử đoán xem, tại sao cô gia có thể liên lạc, nhờ vả họ?
          Chư tướng nhìn nhau, cao nhất là Hoàng Hùng, Trần Kiệt; thấp nhất là Tôn Mạnh, Tôn Quý đều tỏ vẻ không hiểu. Chợt mắt Thiệu-Thái sáng lên:
          - Cháu hiểu rồi.
          Mọi người cười thầm:
          - Ông đần này hiểu được thì có mà mặt trời mọc đằng Tây.
          Thanh-Mai vẫy tay cho Thiệu-Thái:
          - Thiệu-Thái khoan nói đã, để mợ viết ra, rồi cháu nói, xem có giống nhau không.
          Thanh-Mai cầm bút viết một lúc đến hơn tờ giấy, rồi gấp lại:
          - Cháu nói đi.
          - Ưng-sơn song hiệp đã trợ giúp ta trong nhiều trường hợp, lại tế tổ phái Đông-a, nhất định họ là người nhà. Khi họ là người nhà, thì cậu hai có thể dùng đại nghĩa nhờ họ trợ giúp mình được.
          Mọi người đều gật đầu, công nhận lời Thiệu-Thái là đúng. Chàng tiếp:
          - Thuận-Tông, Thiện-Lãm cho chim ưng theo dõi Ưng-sơn song hiệp, nhưng đâu ngờ họ cũng biết chỉ huy chim ưng, nên bị họ giữ lại không trả về. Vậy bây giờ cậu viết thư, rồi sai chim ưng đi tìm họ. Họ thấy thư ắt sẽ giúp mình. Như vậy mình có thêm đạo quân tinh nhuệ nữa.
          Thanh-Mai trao tờ giấy của mình cho Mỹ-Linh, nàng đọc lên cho chư tướng nghe: Thanh-Mai cũng kiến giải giống hệt Thiệu-Thái.
          Việc Thanh-Mai kiến giải ra, không ai ngạc nhiên, vì nàng nức tiếng thông minh từ lâu. Còn Thiệu-Thái ? Trừ Khai-Quốc vương với Mỹ-Linh không ai có thể tưởng tượng Thiệu-Thái xưa nay vốn chậm chạp, hết bị gọi là lợn lại bị gọi là đần, mà nay lại phân tích nổi một sự kiện đặc biệt như vậy. Người người đều đưa mắt nhìn nhau như tự hỏi: Cái gì đã xẩy ra làm thay đổi Thiệu-Thái.
          Mỹ-Linh giải thích:
          - Các vị ngạc nhiên về anh Thiệu-Thái ư? Rất giản dị. Anh ấy được thụ lĩnh trăm năm thiền công của Bồ-tát Sùng-Phạm. Suốt cuộc đời, ngài Sùng-Phạm luyện khô-thiền với thiền tuệ. Khi anh Thiệu-Thái tiếp nhận, thì chưa hiểu gì về thiền cả, giống như người ngồi trên đống gạo, mà không biết làm sao nấu cơm mà ăn. Phải chờ đến khi thăm Thiên-trường, được đại hiệp Tự-An giảng giải, anh ấy mới biết phát lực mà thôi. Rồi khi thím Thanh-Mai bị nạn, bản sư dạy anh ấy cách vận thiền công Tiêu-sơn, nên anh ấy phát lực gần bằng ngài Sùng-Phạm. Lại đến lúc gặp Bố-Đại Bồ tát, ngài giảng cho anh về thiền cùng Mục-ngưu thiền chưởng. Từ đấy anh biết luyện thiền công.
          Tôn Đản ngắt lời:
          - Những việc đó em biết hết rồi. Nhưng sao ông ỉn lại biến thành đệ nhất mỹ nam tử, rồi thông minh quán thế?
          - Chị đã giảng hết đâu. Khi anh ấy biết vận khí theo Tiêu-sơn, thì bao nhiêu chân khí ngài Sùng-Phạm ban cho luân chuyển trong người. Khô-thiền làm cho anh ấy gầy đi. Thiền tuệ làm cho trí tuệ sáng suốt. Do đó, anh ấy mới thay đổi như vậy.
          Khai-Quốc vương kéo chư tướng trở về:
          - Bây giờ tới các đội võ sĩ. Cửa Đông, Nam do hai đội phái Đông-a đảm nhiệm. Cửa Bắc do đội phái Tản-viên trấn. Cửa Tây do đội phái Tiêu-sơn giữ. Về giáo chúng Lạc-long giáo thì chia đều bốn đạo cho bốn cửa.
          Vương ngừng lại, rồi gọi Lê Phụng-Hiểu:
          - Về chư tướng ta chia làm sáu. Bàn về mưu kế, luận bàn lý lẽ, bản lĩnh công lực e Vũ-vệ đại tướng quân Lê Phụng-Hiểu thua cả Lê Văn, Tôn Đản đã đành, mà không hơn Tôn Mạnh, Tôn Trọng. Nhưng chỉ huy quân xung phong hãm trận, phối hợp khi tiến, khi thoái, bỏ mặt này, cứu mặt kia, cùng ứng phó với nguy nan, ta nghĩ khắp Đại-việt không ai bằng tướng quân đã đành, mà ngay cả Tống cùng Xiêm, Lào, Lý, Chân, đều khó kiếm được ai ngang với tướng quân. Vậy ta trao cho tướng quân ngồi ở trung ương điều binh. Ta cho Sùng-ban lang tướng Ngô An-Ngữ, Hổ-uy đại tướng quân Lý Nhân-Nghĩa trợ giúp tướng quân.
          Một tướng nhỏ, được người chỉ huy tối cao khen ngợi, khiến Lê Phụng-Hiểu đỏ mặt lên. Ông nói:
          - Khải vương gia, đẳng trật của tiểu tướng thấp quá, e chư tướng không phục.
          Khai-Quốc vương rút thanh Thượng-phương bảo kiếm của Thuận-Thiên hoàng đế trao cho Lê Phụng-Hiểu:
          - Tướng quân đeo kiếm này, thì mỗi lệnh của tướng quân ban ra là chỉ dụ của phụ hoàng. Các tướng không ai dám cãi. Còn chư vị đại hiệp, thì ai nấy đầy người võ đạo, chẳng ai rắc rối với tướng quân đâu.
          Lê Phụng-Hiểu cung kính tiếp kiếm đeo vào ngang lưng.
          Khai-Quốc vương tiếp:
          - Phần tướng trấn trung ương xong rồi. Bây giờ tới những tướng làm
          trừ bị cùng theo cô gia ra hội kiến với Vũ-Đức vương, đó là đại huynh Thông-Mai, cùng ba cháu Bảo-Hòa, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái. Xin nhắc lại khi ra ngoài thành, mười chết mới có một sống. Gặp giặc phải cương quyết như Thông-Mai, Bảo-Hòa, Lê Văn, giết thẳng tay, chứ không nhân nhượng. Cô gia nhắc lại, khi cô gia giao cho ai đánh tướng nào của giặc, thì phải giết bằng được tướng đó.
          Vương đứng dậy cung tay:
          - Trấn cửa Đông là sư thúc Hoàng Hùng với Thuận-Tông, Trần Anh và Tĩnh-Ninh. Trấn cửa Nam là thúc phụ Trần Kiệt với Thiện-Lãm, Tôn Mạnh. Trấn cửa Tây là sư huynh Bảo-Dân, sư tỷ Kim-An với Lưu Tường, Tôn Trọng. Trấn cửa Bắc là Tôn Đản, Cẩm-Thi, Hoàng Tích.
          Vương hỏi:
          - Có ai thắc mắc gì không?
          Lê Văn hỏi:
          - Thế còn sư tỷ Thanh-Mai, hai bà chị Kim-Thành, Trường-Ninh với em thì làm gì?
          - Bốn vị sẽ có nhiệm vụ riêng.
          Ngô Thường-Kiệt, Thường-Hiến hỏi:
          - Hai con làm gì?
          - Hai con đặt trực thuộc Lê tướng quân để thông tin bốn cửa. Nào, bây giờ ta xin để Lê tướng quân điều động.
          Tuy Lê Phụng-Hiểu có Thượng-phương bảo kiếm trong tay, nhưng ông là đệ tử của Bảo-Hòa. Ông không dám hạ lệnh cho sư phụ. Ông kính cẩn chắp tay:
          - Đệ tử xin tiên cô xá tội.
          Rồi ông nói:
          - Đến giờ Thìn thì Khai-Quốc vương đem sư phụ cùng các vị đại hiệp Bảo-Dân, Kim-An, Thông-Mai, với công chúa Bình-Dương, thế-tử Thiệu-Thái ra ngoài thành hội kiến với Vũ-Đức vương. Vậy giờ Mão, các cửa thành cho chuẩn bị đoàn cảm tử xung phong. Mỗi đội theo thứ tự như sau: Trước tiên đội hổ, hay báo, rồi tới tướng chỉ huy cỡi voi. Tiếp theo đội thiết kị, rồi đội võ sĩ, cuối cùng là đội giáo chúng Lạc-long giáo.
          Ông ngừng lại cho các tướng theo kịp rồi tiếp:
          - Dù cuộc hội có kết quả hay không, khi vương cùng phái đoàn vào thành, ta cũng đánh chớp nhoáng một trận trước cổng thành cho chúng kinh hồn vỡ mật.
          Vậy...
          ... Khi có tiếng pháo lệnh tỏa ra hình bông sen, lập tức các cửa mở rộng. Đội tiễn thủ trên địch lâu bắn vào đám quân vây bên ngoài. Sau khi giặc lui, lập tức mở cửa thành, xua đội thú ra xông thẳng vào phòng tuyến thứ nhất của địch, cướp tinh thần chúng. Tất nhiên chúng bị cắt làm đôi. Bấy giờ đội thú rẽ làm hai đánh quẹo sang phải, trái. Đội kị mã tiến lên trước chọc vào lớp phòng thủ thứ nhì. Phòng tuyến thứ nhì đứt đôi, thì đội võ sĩ chỉ huy đám giáo chúng Lạc-long giáo chọc vào phòng tuyến thứ ba.
          ... Tới lúc có pháo thăng thiên nở ra hình chim ưng, thì lập tức đội võ sĩ với đội kị binh cản hậu. Đội thú rút trước, đội giáo chúng rút sau. Nếu trường hợp giặc đuổi gấp thì cung thủ trên thành bắn cán cho đội võ sĩ với kị binh vào.
          ... Có ai thắc mắc gì không?
          Bảo-Hòa hỏi:
          - Tướng quân không dự trù trường hợp có biến cố lợi cho mình, ta đuổi giặc tới cùng ư?
          - Tiên cô thực anh minh, đệ tử xin tuân ý chỉ. Xin chư tướng lưu tâm, bằng như trong khi xung sát, mà không có lệnh thu quân, thì có nghĩa là vẫn đánh đến cùng.
          Vừa lúc đó ưng binh vào trình Khai-Quốc vương một ống đựng thư mới tới. Vương mở ra xem, rồi nói với chư tướng:
          - Đúng như cô gia ước tính. Sáng nay cô-gia sai chim ưng đưa thư cho Ưng-sơn song hiệp. Họ cũng biết điều, không giữ chim ưng lại như mọi khi, mà còn cho nó mang thư trả lời cô gia. Họ hẹn rằng, đúng giờ Thìn họ sẽ đến cách thành mươi dậm. Khi có pháo thăng thiên, quân trong thành ra thì họ đến đánh phía sau đám quân vây cửa Bắc.
          Đợi các tướng đi rồi, vương vẫy tay gọi Lê Phụng-Hiểu lại bên cạnh, hai người sóng đôi ra sân. Vương nói rất nhỏ:
          - Vì nghi trong quân chúng ta có gian tế, nên cô gia cho họp chư tướng, truyền lệnh như vậy để chúng thông báo tin ma cho Vũ Nhất-Trụ. Bây giờ chúng ta thiết kế thực sự. Chúng ta đứng giữa sân nói truyện thế này, tuy hở mà kín, không sợ ai nghe trộm.
          Phụng-Hiểu tỏ vẻ kính phục:
          - Hèn gì! Từ trước đến nay tiểu tướng thấy vương gia luôn hành sự cẩn trọng, thế mà chỉ mấy nghìn quân trong thành, mà vương gia dám quyết xuất thành là một điều không tưởng nổi. Thì ra vương gia dùng hư kế để lừa giặc.
          - Đúng vậy! Kế hoạch ban nãy là hư kế bây giờ ta lập thực kế. Khi hư kế tới tay giặc, Vũ Nhất-Trụ sẽ thiết kế chống ta. Ta thi hành thực kế thì Vũ Nhất-Trụ biết rằng y bị lừa, y thiết kế khác phòng thủ, bấy giờ ta lại dùng hư kế. Giặc sẽ điên đầu, lâm vào thế bị động.
          Vương nói nhỏ hơn:
          - Về lực lượng của ta, cô-gia đã liên lạc được với các lữ trưởng, sư trưởng thuộc hai đạo Đằng-hải. Họ biết rằng bị Đàm Toái-Trạng đánh lừa, nhưng chưa biết cách nào trở về với triều đình. Đêm nay vương phi Thanh-Mai với công chúa Bình-Dương âm thầm vượt thành ra gặp họ truyền lệnh của cô gia. Cô gia hứa rằng sau khi dẹp xong giặc không những đẳng trật họ được giữ nguyên, mà còn thăng lên cao hơn. Rút cuộc giặc chỉ còn mấy đạo binh Hồng-thiết giáo.
          - Tiểu tướng chắc vương gia không muốn giết hết đám này.
          - Đúng thế. Về ba hạm đội, cô-gia cũng ban lệnh giả cho hạm đội Âu-Cơ rằng lên tuần phòng lãnh hải Bắc-biên, nhưng kỳ thực hiện họ đã ở ngoài khơi. Ngày mai quân của hạm đội Bạch-đằng từ Thanh-hóa vượt đèo, đánh vào mặt Nam quân giặc. Trong khi hạm đội Âu-Cơ đổ bộ lên biển Thiên-trường, đánh ép mặt Đông. Giữa lúc chúng bị ép hai mặt, thì hai đạo Đằng-hải đánh quặt từ phía Tây lại. Còn tướng quân thì cho bốn đội quân bên trong đánh ra, dồn chúng vào giữa vòng vây.
          - Như vậy, dù muốn dù không đám giáo chúng cũng phải đầu hàng.
          - Chưa chắc đâu. Lão già Nhật-Hồ lã linh hồn của Hồng-thiết giáo. Nếu lão còn, thì khó mà diệt hết mầm móng bọn chúng. Cho nên cô-gia đã có kế hoạch giết y cùng các trưởng lão trước trận. Bấy giờ tự nhiên giáo chúng phải đầu hàng.
          - Vương gia nghĩ thế nào về Vũ-Đức vương?
          - Cô gia không tin vương hối lỗi. Chắc đây là mưu của Nhật-Hồ định nhử cho cô gia ra ngoài thành, rồi phục kích ám hại. Tuy nhiên cô gia cũng cứ ra. Ta tương kế tựu kế. Cô gia sẽ xuất cửa Đông tương kiến với vương. Mọi việc điều quân do tướng quân định liệu.

          <bài viết được chỉnh sửa lúc 03.02.2005 04:41:50 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9