Anh linh thần võ tộc Việt (từ hồi 26)
CDDLT 21.01.2005 17:47:35 (permalink)
Hồi thứ một trăm hai mươi sáu


Anh em như thể chân tay



Trời chập choạng tối, cửa thành phía Tây hé mở, ba bóng người xẹt ra ngoài nhanh như tia chớp, nên dù đội quân Hồng-thiết giáo vây phía ngoài cách đó không xa, mà không ai thấy. Ba bóng đó núp vào một bụi cây quan sát địa thế, nghe ngóng. Chợt họ nhìn về góc phải có ánh lửa bùi nhùi đỏ chuyển qua, chuyển lại. Họ lao về phía đó. Tới nơi, đã có mười người chờ họ.
Mười ba người không nói, không rằng cùng tiến về một căn lều. Vào trong lều rồi, họ đóng cửa lại. Dưới ánh sáng lờ mờ của mấy ngọn bạch lạp, chín người cúi gập xuống hành lễ với ba bóng đen:
- Bọn tiểu nhân kính cẩn tham kiến công chúa điện hạ, vương phi và Ngô tướng quân.
Nguyên ba người đó là công chúa Mỹ-Linh, vương phi Thanh-Mai và tướng Ngô An-Ngữ. Còn chín người kia là hai tướng chỉ huy hai đạo Đằng-hải tả, hữu, và bẩy viên đô thống. Trong bẩy viên đô thống thì một chỉ huy kị binh, sáu sư trưởng thuộc hai đạo binh Đằng-hải.
Mỹ-Linh lên tiếng trước:
- Khai-Quốc vương nhận được tin các vị trở về với triều đình thì mừng lắm. Cho nên vương gia nhờ vương phi dẫn chúng tôi ra gặp các vị. Vương gia nói: Tất cả các vị đều do vương gia đào tạo ra, nên vương gia hiểu thấu lòng các vị.
Thanh-Mai tiếp:
- Các vị đừng lo nghĩ gì cả, bọn Hồng-thiết giáo cực kỳ sảo quyệt, các vị thân vương như Dực-Thánh, Vũ-Đức, Đông-Chinh đều bị lừa cả. Bây giờ các vị với chúng tôi bàn định kế sách. Thế Hữu-kiêu vệ đại tướng quân đâu rồi?
Nguyên trước kia tổng chỉ huy hai đạo Đằng-hải là Hữu-lãnh vệ thượng tướng quân Trần Tự-Quang. Chỉ huy đạo hữu Đằng-hải là Thiên-tướng Lý Duy, tả Đằng-hải là Thiên-tướng Lê Mai. Nay không thấy Trần Tự-Quang đâu, Mỹ-Linh mới hỏi thăm.
Lê Mai cung tay:
- Khải công chúa, từ lúc quân trẩy đến đây, Trần tướng quân được thăng chức tước như sau: Thái-tử thiếu phó, Hữu kiêu vệ thượng tướng quân, Nghệ-an tiết-độ sứ, An-sơn hầu. Người phải ở chung với Đô nguyên-soái Đàm Can, hầu bàn truyện quân quốc. Bọn tiểu nhân không biết tướng quân ở đâu nữa.
Mỹ-Linh tính nhẩm:
- Không biết tên ngụy nào mà dám lộng hành, thăng cho Trần Tự-Quang nhảy một lúc tám bậc. Rồi lại ban cho cả chức văn nữa. Còn đám tướng này chắc y cũng thăng chức tước lớn chứ không nhỏ đâu. Ta phải hỏi cho biết mới được.
Nàng hỏi:
- Ai thăng chức tước cho chư tướng vậy? Các tướng tá được phong chức tước như thế nào?
Lê Mai đáp:
- Lúc khởi binh, Dực-Thánh vương lấy cớ có chiếu chỉ của Hoàng-thượng trao quốc sự, nên người thăng chức, tước đồng loạt cho tướng sĩ. Kẻ lên năm bậc, người lên bẩy bậc. Như Đàm nguyên soái được phong làm Kiểm-hiệu thái-sư, Bình-hải tiết độ sứ, Thị-trung, Thượng-trụ quốc, Cửu-chân vương. Tuyên-vũ sứ Đàm Toái-Trạng được thăng lên làm Thái-tử thái phó, Tả kim-ngô đại tướng quân, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, Đồng-tri khu mật viện sự, tước Trung-Thành vương. Nguyễn Khánh được thăng lên cao nhất. Trước kia y dưới bọn tiểu nhân mấy bậc, nay được thăng Thái-tử thiếu bảo, Tả-kiêu vệ đại tướng quân, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, Khu-mật viện sứ. Tước Nhật-Nam hầu. Tức là nhảy một lúc 27 bậc. Riêng bọn tiểu nhân thì không tham dự lúc đầu, nên người hứa sau khi hạ được thành Trường-yên, sẽ thăng cho tiểu nhân lên làm Hữu lâm-môn vệ đại tướng quân, Lý Duy được thăng lên làm Hữu lãnh huy vệ đại tướng quân.
Thanh-Mai hỏi:
- Từ lúc đến đây, các vị không được gặp Trần Tự-Quang, thế ai là người đem lệnh cho các vị?
- Thông thường một giáo chúng Hồng-thiết giáo.
Ngô An-Ngữ hỏi:
- Hai đạo Đằng-hải được Hoàng-thượng đặt trực thuộc Vũ-Uy vương. Tại sao lại trao cho Đàm Toái-Trạng?
- Hồi ở Thanh-hóa, Đàm Toái-Trạng mời Vũ-Uy vương cùng ba tướng tới dinh Tuyên-vũ sứ họp, rồi y cho người xưng là sứ giả tuyên chỉ của Hoàng-thượng cho vương rằng giao đạo Đằng-hải cho y để lên đường về kinh khẩn cấp.
Thanh-Mai chau mày lại nói:
- Vũ-Uy vương là anh của phụ hoàng, không lẽ vương không biết phân biệt chiếu chỉ thực hay giả?
- Khi được chiếu chỉ, vương cũng ngạc nhiên không ít. Bởi vậy vương mới xem kỹ lại thì là chiếu chỉ thực, không có chút nào giả mạo. Tiểu nhân còn giữ tờ chiếu đây.
Y cung cung kính kính xuất trên lưng ra trục giấy trao cho Thanh-Mai. Nàng mở trục ra, bên trong có cuộn giấy in hình hai con rồng đang bay trên thành Thăng-long, dưới là bản văn tờ chiếu. Nàng nhìn kỹ chỗ ấn đóng, thì thấy đó là ấn thực, không có chi giả mạo. Nhưng khi nhìn xuống chỗ thự danh của Thuận-Thiên hoàng đế, thì thấy hơi khác. Như vậy rõ ràng ấn thì có bàn tay gian nhân lấy kiềm thự vào, rồi chúng nhái theo thự danh của Hoàng-đế, nên Vũ-Uy vương mới bị lầm. Nàng nghĩ thầm:
- Hôm trước phụ hoàng tuyên chỉ trao việc cho Dực-Thánh vương, mới định ban hành, thì sư phụ ta về kịp, người ngăn cản, nên mới đổi lại tuyên triệu Khai-Thiên vương vào. Thế rồi không hiểu sao chiếu để ở tẩm cung mà biến mất, rồi vào tay Dực-Thánh vương, nên vương mới có cớ làm loạn. Tạ chỉ huy sứ nghi có cung nữ nào ở tẩm cung làm gian tế, ăn cắp tờ chiếu cho giặc.
Mỹ-Linh nói với Thanh-Mai:
- Như vậy vì có tờ chiếu giả mà thực này ban cho Vũ-Uy vương, nên mới ra nông nỗi. Từ trước đến giờ ông nội vẫn có hai ấn. Một ấn để ở điện Càn-nguyên, do quan Tả bộc-xạ, Trung thư thị lang, Thái-tử thái bảo, Cần-chính điện đại học sĩ Lý Đạo-Nghĩa giữ. Một để ở cung Long-thụy do hoàng hậu Tá-quốc giữ. Khi ban chiếu liên quan đến hậu cung, hoàng tộc thì dùng ấn ở điện Càn-nguyên. Còn khi ban chiếu liên quan đến triều đình thì dùng ấn ở cung Long-thụy. Cháu xem ấn này đúng ở điện Càn-nguyên, vậy thì ắt có gian tế tại đây. Việc này xong, cháu phải thưa với chú hai, tìm ra kẻ phản bội để tru diệt cho mát lòng những người chết vì chúng.
Lý Duy cung tay:
- Bây giờ anh em tiểu nhân cùng đem bản bộ binh mã đánh úp bọn giáo chúng Hồng-thiết giáo, giết cho sạch bọn hôi hám, thế là gọn hơn cả.
Mỹ-Linh lắc đầu:
- Hành động như vậy thì giản dị quá. Chư vị tướng quân nên biết rằng từ mấy chục năm nay, bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo bầy ra đủ trò, đủ loại bịp bợm. Chúng nói rằng Nhật-Hồ lão nhân phép tắc như thiên tướng. Vì vậy có nhiều người tin theo. Họ là nạn nhân của chúng. Ta phải thương xót họ, mở cho họ con đường trở về.
- Khải công chúa, thế ý chỉ của vương gia ra sao?
- Chú tôi đã luận bàn rất kỹ với chư tướng rồi. Ta đem thực nhiều quân bao vây, hầu làm nát tinh thần bọn giáo chúng. Như vậy quân giặc không đánh cũng tan. Nhưng tan rồi mà lão Nhật-Hồ còn đó, thì chúng lại tụ tập nữa. Nhổ cỏ phải nhổ tận rễ. Muốn diệt Hồng-thiết giáo, ta phải dùng võ công giết lão trước mặt đám giáo chúng. Lão chết rồi, gốc rễ ma giáo không còn nữa.
Các tướng đều bái phục:
- Vậy vương gia định đánh chúng ra sao?
- Chúng tôi âm thầm giả làm đội trưởng của các vị. Ngày mai khi đối trận, thình lình ta trở cờ, rồi giáo chủ Lạc-long giáo Thân Thiệu-Thái dùng võ công giết lão Nhật-Hồ.
Lê Mai bàn:
- Khải vương phi, hồi chiều tiểu tướng được lệnh đêm nay Trần tướng quân sẽ hội với anh em tiểu tướng cùng với các sư trưởng để ban lệnh tiến đánh thành ngày mai. Không biết ý chỉ vương phi ra sao?
- Tôi cũng đang muốn gặp mặt Trần tướng quân đây. Vậy chúng tôi sẽ giả làm tùy tùng của các tướng quân, đợi khi giáp mặt, chúng tôi sẽ tùy nghi ứng phó.
Lý Duy lấy quần áo của đạo binh Đằng-hải cho Thanh-Mai, Mỹ-Linh, và Ngô An-Ngữ thay. Thế là ba người hiên ngang di chuyển trong chỗ đóng quân của đạo Đằng-hải.
Có tiếng vó ngựa lộp cộp, rồi một giáo chúng Hồng-thiết bước vào. Y cung tay nói với Lê-Mai:
- Hữu-kiêu vệ thượng tướng quân mời nhị vị tướng quân cùng bẩy vị đô thống tới bàn chuyện hành quân.
Lê Mai hỏi:
- Trần tướng quân hiện ở đâu?
- Người ở chung lều với Đàm nguyên soái tại bờ suối cách đây không xa. Tôi xin dẫn đường.
Thanh-Mai đưa mắt cho Lê Mai, ý nói cứ đi họp xem sự thể ra sao. Lê Mai đưa mắt cho Thanh-Mai, Mỹ-Linh, Ngô An-Ngữ, rồi nói với tên giáo chúng:
- Chúng tôi cần mấy người tuỳ tùng này đi theo, không biết có được không?
- Được chứ.
Bẩy viên sư trưởng, hai tướng cùng bọn Thanh-Mai ba người, cộng mười hai người lấy ngựa, theo tên giáo chúng lên đường. Trái với ý nghĩ của Mỹ-Linh rằng lều của Trần Tự-Quang ở trong khu vực đóng quân, không ngờ khi cả bọn rời xa chỗ đóng quân hơn ba dặm mà tên giáo chúng vẫn chưa dừng vó ngựa. Ngô An-Ngữ hỏi:
- Này người anh em. Sao Trần tướng quân ở xa quá vậy?
- Người ở cùng Đàm nguyên soái mãi trong khu vực núi Cánh-diều kia.
Thanh-Mai dùng Lăng-không truyền ngữ nói với Ngô An-Ngữ:
- Sư huynh thấy thế nào. Muội nghĩ dường như chúng có âm mưu gì thì phải, chứ không sao chúng đưa ta vào núi thế này.
- Theo sư huynh nghĩ, chúng không thể biết mình hiện diện. Chắc Trần Tự-Quang bị bắt giam hay bị giết rồi. Nay chúng mới ra tay giết nốt các tướng chỉ huy hai đạo binh cùng các sư trưởng, để mai này chúng giả chiếu chỉ bổ nhiệm bọn ma đầu thay thế thì đúng hơn.
- Muội sẽ dùng Lăng-không truyền ngữ nói với Mỹ-Linh. Sư huynh nói cho chư tướng biết mà đề phòng.
- Được.
Lại đi thêm quãng nữa, tới sườn núi. Bên sườn có khoảng hơn mười cái lều đóng quân. Tên giáo chúng chỉ vào bọn Thanh-Mai:
- Hữu kiêu-vệ thượng tướng quân chỉ ra lệnh triệu hồi các tướng mà thôi. Còn ba vị huynh đệ đây phải ở ngoài.
Ngô An-Ngữ nói:
- Dĩ nhiên. Tôi xin ở ngoài này giữ ngựa.
Mọi người xuống ngựa, Ngô An-Ngữ nhanh tay tiếp cương ngựa mọi người, rồi cột vào gốc cây. Viên giáo chúng chỉ lều trước mặt, trong có ánh đèn rọi ra:
- Mời chư vị vào đi thôi.
Bọn Lê Mai vừa bước đi, thì tên giáo chúng dẫn đường lên ngựa biến vào đêm tối. Thanh-Mai vẫy tay cho Ngô An-Ngữ, Mỹ-Linh cùng núp ngoài liều nghe ngóng.
Lê Mai đứng ngoài lều nói vọng vào:
- Thiên-tướng Lê Mai, Lý Duy xin tham kiến Trần tướng quân.
Cửa lều mở, một người thò đầu ra ngoài nói:
- Mời các vị vào.
Thanh-Mai nhận ra y chính là một đạo trưởng Hồng-thiết giáo tên Trần Trọng-Cựu, hồi đại hội Lộc-hà đã được Thiệu-Thái trị bệnh cho.
Chín người vào trong lều, họ thấy Đàm Can, thì đều hành lễ quân cách. Bởi đẳng cấp Đàm Can hiện cao nhất triều Lý, tới Đô nguyên soái, trong khi Lê Mai, Lý Duy mới làm tới cấp Thiên-tướng, so với Đàm Can thì còn cách quá xa. Đàm Can chỉ ghế nói:
- Mời các tướng an tọa.
Lê Mai nhìn quanh lều, bên trong đã có gần hai chục người ngồi đó từ bao giờ: Đàm Toái-Trạng, Vũ Linh-Nguyện, Lê Tấn, Vũ Hào.
Lê Mai hỏi ngay:
- Thưa nguyên soái. Tiểu tướng muốn được diện kiến với Trần tướng quân.
Đàm Can sẽ đập tay lên bàn:
- Hữu kiêu vệ thượng tướng quân, vì có công cứu giá, nên đã được cử đi trấn thủ Nghệ-an rồi. Bản soái mời các tướng đến họp, để chuẩn bị ngày mai công thành.
Ngô An-Ngữ dùng Lăng-không truyền ngữ nói với Lê Mai, Lý Duy:
- Cứ giả nhận lệnh chúng, rồi tính sau.
Đàm Can hô:
- Chư vị chuẩn bị tiếp giá Nhật-Hồ giáo chủ cùng Vũ-Đức vương.
Vũ-Đức vương với Nhật-Hồ vào trong lều. Đàm Can cung cung, kính kính mời hai người ngồi lên bàn chủ tọa. Vũ-Đức vương lên tiếng:
- Chư vị trưởng lão, chư vị tướng quân. Cô gia được ủy nhiệm thúc phụ là Dực-Thánh vương đến đây hội chư vị để chuẩn bị ngày mai tiến đánh thành Trường-yên. Bây giờ cô-gia để Nhật-Hồ giáo chủ điều động chư vị.
Nhật-Hồ lão nhân khoan thai nói:
- Chư tướng cùng các trưởng lão. Như chư vị biết, từ khi đức Thuận-Thiên hoàng-đế vâng mệnh trời, ứng lòng người lên ngôi báu đến giờ, ngài dùng đức từ bi, hỷ xả của đức Thích-ca Mâu-Ni cai trị thiên hạ. Trong ban ân huệ cho dân, ngoài mở mang bờ cõi, khiến cho tám nước thuộc tộc Việt cùng quay đầu qui phục. Trong thâm tâm ngài định khi về già sẽ trao ngôi trời cho hoàng-đệ là Dực-Thánh vương. Nhưng hỡi ơi! Nào ngờ, người sinh ra đứa nghịch tử Lý Đức-Chính. Không biết bằng cách nào y biết được việc đó. Y đánh thuốc độc ngài. Lúc biết rõ mọi sự, tuy sức cùng, lực kiệt, nhưng ngài còn đủ minh mẫn ban chiếu chỉ tạm trao việc lớn cho Dực-Thánh vương. Tên nghịch tử Đức-Chính nghe tin, đem quân vào phong toả Hoàng-thành, rồi bức hại ngài...
Đến đây y ôm mặt khóc hu hu, khóc nức nở, nước mắt, nước mũi chảy đầm đìa. Đám trưởng lão cũng khóc theo. Có tên đập đầu xuống bàn kêu gào thảm thiết.
Thanh-Mai lợm giọng:
- Nếu chính mình không được nhìn cảnh này, mà nghe ai thuật lại thì mình sao có thể tin được trò hề kia!
Khóc một lúc Nhật-Hồ tiếp:
- Đức-Chính thí được ngài, nhưng chiếu chỉ vẫn tới tay Dực-Thánh vương. Vương bèn triệu tập anh hùng cùng chư vương đem quân hỏi tội y. Lão phu tuy tuổi cao, đang thanh tu với sư phụ là Di-lặc Tôn-Phật. Ngài ban giáo chỉ cho lão phu phải trở lại trần thế tru diệt Đức-Chính hầu báo đáp khi xưa Hoàng-thượng đã ân xá cho lão phu cùng giáo chúng.
Lão lau khô nước mắt:
- Nhưng khi chư vương vây Thăng-long, chính lão phu khuyên chư vương tránh không cho đổ máu. Đức-Chính lợi dụng đức từ bi của lão phu, y giết mất trưởng lão Hoàng Văn, Phạm Trạch, Ngô Bách-Vân cùng Hữu-kiêu vệ đại tướng quân Đàm An-Hoà. Rồi trận đánh Yến-vĩ, y hại mất trưởng lão Đặng Trường, Đinh Hiền, Thạch Nan-Biện. Mới đây y hại thêm trưởng lão Nguyên-Hạnh, cùng Trấn-quốc đại tướng quân Nguyễn Khánh. Con dun đạp mãi cái đầu phải quằn, lão phu không thể tuân lời sư phụ, dùng đức từ bi với Đức-Chính.
Lão chỉ Đàm Can:
- Đại đệ tử của lão phu là Đàm nguyên-soái hãy điều động tướng sĩ, giáo chúng tiến chiếm Trường-yên rồi chỉ ngọn cờ về Thăng-long, trước tru diệt nghịch tử, sau khuông phò Dực-Thánh vương lên ngôi bảo tộ.
Đàm Can cúi đầu, kính cẩn vái Nhật-Hồ lão nhân, rồi ngửa mặt lên nói:
- Hai ngày nữa, giờ Thìn, thế nào Lý Long-Bồ cùng với tùy tùng cũng xuất ra cửa Đông để hội với Vũ-Đức vương. Đó là kế diệu hổ ly sơn. Tuy chỉ với chưa tới hai vạn người, nhưng y thủ Trường-yên thì ta khó mà đánh được. Bây giờ ta phải đánh thực nhanh, sao chiếm được Trường-yên trong một ngày. Chiếm được Trường-yên rồi, ta mới có thể tiến ra Thăng-long tru diệt bọn nghịch tử Đức-Chính. Nếu ta chậm trễ, Thăng-long yên rồi, y đem quân các nơi khác về, ta khó mà thắng nổi y.
Lý Duy hỏi:
- Thưa nguyên soái, tiểu tướng có thắc mắc rằng hôm trước chúng ta vây Thăng-long, Trường-yên, sao ta không đem đại lực lượng về chiếm Thăng-long, để đến nay các đạo vây kinh kỳ tan vỡ mất rồi, ta khó mà thành công.
Đàm Can thở dài:
- Lỗi chính về Dực-Thánh vương. Ngay ngày đầu, nếu ta chịu hy sinh một số quân, tiến công Thăng-long, thì mọi truyện đã ngã ngũ. Đây vương sợ đánh như vậy sẽ đổ máu nhiều, cho nên Phật-Mã với Thân Thừa-Quý mới có thời giờ gọi quân các nơi về.
Y ngồi thẳng người dậy nói:
- Ngày mai đạo tả Đằng-hải vây cửa Nam, đạo hữu Đằng-hải vây cửa Bắc. Cửa Đông do quân của trấn Thanh-hóa. Còn cửa Tây do giáo chúng. Khi Lý Long-Bồ ra cửa Đông rồi, chúng ta cùng công thành một lượt. Sau khi công thành hơn giờ, ta chuyển hai đạo tả, hữu đánh quặt sang Đông. Bọn thủ thành ắt tung quân ra hai cửa Bắc, Nam để đánh vào hậu quân ta hầu cứu chúa. Bấy giờ các vị quay lại giao tranh với chúng. Tất cả các cửa Bắc, Đông, Nam đều là hư. Thực sự ta dồn quân chiếm cho được cửa Tây. Vì tại cửa này ta có người ẩn ở trong giết quân canh cửa cho chúng ta vào. Khi ta chiếm được thành rồi bấy giờ các cửa Đông, Bắc, Nam chỉ còn cách đầu hàng.
Sau đó Đàm Can cho lệnh chi tiết, cùng những ứng phó khi có biến cố xẩy ra. Cuối cùng y nói:
- Ta cho trưởng lão Vũ Hào dẫn ba đội giáo chúng cảm tử giúp Lê tướng quân. Tại cửa Bắc, ta cho trưởng lão Trần Trọng-Cựu cùng đội cảm tử giáo chúng giúp Lý tướng quân.
Y quay lại hỏi lớn:
- Có ai thắc mắc gì không?
Mọi người im lặng. Đàm Can nói:
- Thôi chư tướng lui về nghỉ.
Các tướng đứng dậy lục tục ra về. Bên ngoài Thanh-Mai đưa mắt ra hiệu cho Mỹ-Linh, Ngô An-Ngữ. Hai người vội rời chỗ núp đến cạnh cột buộc ngựa. Còn nàng, vẫn nằm im nghe ngóng.
Nhật-Hồ lão nhân nói với Vũ-Đức vương:
- Xin vương gia về an nghỉ, để lấy sức, ngày mai công thành.
Vũ-Đức vương muốn nói gì, nhưng lại thôi, vương cùng đoàn tùy tùng ra về. Đợi cho bọn Vũ-Đức vương đi xa rồi, Nhật-Hồ lão nhân đưa mắt nhìn chư đệ tử. Lão thở dài:
- Các con! Tuổi ta nay đã trên một trăm, không biết ngày một ngày hai ta về với thế giới người hiền Mã-Mặc, Lệ-Anh bao giờ. Tuy vậy, dù còn một hơi thở, ta cũng phải cố gắng sao chiếm được đất nước này đã. Trận đánh ngày mai là trận then chốt. Ta đã khiến Vũ-Đức vương viết thư cho tên Lý Long-Bồ dụ y ra ngoài. Với bản tính y, chắc chắn y sẽ ra, nhưng thế nào y cũng mang theo những cao thủ bậc nhất. Cao thủ gì, chúng ta cũng không sợ. Ta chỉ sợ duy nhất có con lợn Thân Thiệu-Thái. Tuy nhiên ta đã có cách giết y rồi. Sau khi giết Thân Thiệu-Thái, những bọn còn lại ta dùng độc chưởng khống chế, chẳng mấy lúc ta lại có thêm nhiều cao thủ.
Lão nhìn Đàm Can:
- Đêm mai người cùng mấy cao thủ nhập thành làm việc đó, liệu có thành công chăng?
- Tấu sư phụ nhất định là thành công rồi.
Sợ bị lộ hình tích thì e nguy hiểm, Thanh-Mai lạng mình biến vào đêm tối, lát sau nàng thấy dưới gốc cây bên đường có con ngựa. Nhìn kỹ lại thì ra con ngựa của nàng cỡi ban nãy. Nàng nghĩ thầm:
- Chu đáo thế này, hẳn là Ngô sư huynh của ta đây.
Nàng tung mình lên ngựa, lát sau về tới lều của Lê Mai. Ngô An-Ngữ hỏi:
- Sư muội! Có gì lạ không.
Vì muốn bảo mật, Thanh-Mai nói lảng ra:
- Không có gì lạ cả. Bây giờ chúng ta định kế sách ngày mai. Xin sư huynh ban lệnh.
Ngô An-Ngữ ngồi nghiêm chỉnh lại hỏi Mỹ-Linh:
- Công chúa. Trước khi xuất thành, dường như vương gia ủy cho công chúa toàn quyền quyết định mọi việc thì phải.
Tuy Ngô An-Ngữ chỉ nói mấy câu, nhưng Mỹ-Linh cũng hiểu ý viên tướng này: Dực-Thánh vương hứa thăng chức tước cho bọn tướng phản loạn, để chúng hết lòng. Bây giờ mấy viên tướng này tuy trở về với triều đình, nàng cũng phải hứa thăng chức cho họ, để họ cố gắng lập công. Nàng nói:
- Thay mặt Khai-Quốc vương, tôi hứa với các vị: Sau khi diệt xong bọn phản loạn, bất kể quân tướng, đều được thăng một cấp. Ngoài ra ai có công trạng đặc biệt có thể được thăng lên từ ba tới mười cấp.
Quả nhiên trên mặt chư tướng hiện ra vẻ hân hoan không bút nào tả xiết. Vương phi Thanh-Mai nói:
- Lát nữa tôi với công chúa Bình-Dương sẽ trở về thành. Sùng-ban lang tướng Ngô An-Ngữ sẽ ở lại thay tướng Trần Tự-Quang để chỉ huy đạo Đằng-hải. Chư vị phải nhất nhất tuân theo mệnh lệnh của người. Từ nay chư vị cứ giả tuân lệnh của Nhật-Hồ lão nhân. Đợi khi quân trong thành đổ ra, thay vì các vị đánh quặt lại, thì tiến thẳng về phía Đông diệt bọn Hồng-thiết giáo. Tuy nhiên, bấy giờ các vị cứ nhìn lên địch lâu, theo lệnh của cờ phất chỉ huy mà hành động.
Sau khi căn dặn chi tiết cùng ban chỉ dụ cho chư tướng, Thanh-Mai, Mỹ-Linh, âm thầm vào trong thành. Bấy giờ trời đã gần hết canh hai. Ba người trở về dinh tổng trấn Trường-yên. Khai-Quốc vương cùng mọi người đang ngồi chờ. Thanh-Mai tường trình mọi chi tiết với vương.
Vương trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Có một việc rất khó là đêm mai tên Đàm Can sẽ nhập thành cùng với các cao thủ, chúng âm mưu gì, khó mà ta biết được. Vì còn hai ngày nữa trận đánh diễn ra rồi, ta không thể theo dõi y rồi tương kế tựu kế, bởi thời giờ quá cấp bách. Đúng ra với tội của Đàm Can, thì ta có tru di tam tộc nhà y cũng đáng. Nhưng phụ hoàng ta...
Lê Văn là thầy thuốc, tuy chưa lớn tuổi, nhưng chàng đã có nhiều kinh nghiệm về tâm lý. Chỉ nghe Khai-Quốc vương nói mấy câu chàng đã nắm ngay được vấn đề: Đàm Can là khai quốc công thần của triều Lý. Y lại là bạn cố tri của Hoàng-đế. Hơn nữa con gái y hiện là quý phi, mới sinh ra một hoàng nam. Cho nên vai vế y cao hơn Khai-Quốc vương đến hai bậc. Vì thế nên từ Khai-Quốc vương, vương phi, Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, Thiệu-Thái đều không thể giết y. Vì giết y, thì sau này e có rạn nứt trong hoàng tộc. Còn đám cao thủ phái Đông-a cũng như chư tướng, lại không có đủ bản lĩnh giết y. Vương nêu vấn đề ra, với ý định gián tiếp tìm phương cách giết y. Chàng đã nghĩ ra kế giết Đàm Can, nên đưa mắt nhìn vương rồi nói:
- Đại ca để em dùng vệ sĩ vây bắt y, sau đó giải về kinh để Hoàng-thượng phát lạc, như vậy là êm truyện.
Khai-Quốc vương thấy Lê Văn nháy mắt, vương hiểu ý em, vui vẻ:
- Được! Ngô sư huynh hiện vắng mặt, vậy Văn đệ thay người chỉ huy đội Thị-vệ. Văn đệ toàn quyền điều động Thị-vệ bảo vệ chư tướng trong khi Ngô sư huynh vắng mặt.
Trước đây Tạ Diệu-Chi được vương phi Thanh-Mai trao cho thống lĩnh đội Thị-vệ phủ Khai-Quốc. Bây giờ nàng dẫn Lê Văn ra ngoài để trao quân cho chàng. Sau khi nhận nhiệm vụ, Lê Văn tìm đến khu trú ngụ của các cao thủ phái Đông-a.
Nguyên thành Trường-yên là cố đô thời Đinh, thời Lê, nên trong thành có đủ cung điện như Thăng-long. Dinh Khai-Quốc vương chính là điện Càn-nguyên trước đây. Còn chỗ các cao thủ phái Đông-a là cung Tuyên-hòa của các công chúa. Lê Văn vừa bước vào, thì gặp Thông-Mai. Thông-Mai nắm tay Lê Văn:
- Chú mày đến đây để vấn kế ta phương cách giết người hả?
Lê Văn vốn ớn Thông-Mai như Tự-Mai:
- Sao đại ca biết?
- Ta biết, vì ta biết. Việc đó chú mày cũng làm được, lọ là phải hỏi ta?
- Nhưng công lực em không đủ, phải nhờ đến đại ca.
- Khi Thuận-Thiên hoàng-đế lên ngôi, ngài đưa ra chủ trương trong hoàng tộc tuyệt đối tránh tỵ hiềm. Vì vậy luật lệ về nội cung hoàng triều định rằng: Khi một ngoại nhân có tỵ hiềm với bất cứ người nào trong hoàng tộc, thì không thể được làm dâu, làm rể triều Lý. Cho nên ta vô dụng mất rồi. Chú biết truyện ta với Bảo-Hòa chứ? Bảo-Hòa ở dưới cái gã hoàng-tử do Đàm quý phi đẻ ra một bậc. Ta mà giết Đàm Can, đương nhiên sẽ có mối tỵ hiềm lớn với gã hoàng tử đó. Vì vậy không hy vọng gì vua Bà Bắc-biên thuận cho ta với Bảo-Hòa thành vợ chồng.
- Bộ đại ca không làm hòa-thượng nữa sao mà định lấy vợ?
Thông-Mai cốc lên đầu Lê Văn:
- Ta đi tu có hạn kỳ. Ta tu chỉ với lời nguyện được thấy mẫu thân. Khi thấy mẫu thân rồi, thì ta hoàn tục. Sau vụ này, ta sẽ nhờ sư thái Tịnh-Huyền hỏi Bảo-Hòa cho ta. Vì vậy ta không giúp chú mày được gì cả.
- Không, em không nhờ đại ca xuất lực, mà nhờ đại ca chỉ điểm cho một vài chi tiết về võ công bản môn.
- Võ công nào của bản môn, chú mày cũng thông hơn ta, ta có hơn chú mày cái gì đâu mà chỉ cho chú mày. À, ta biết rồi, chú mày muốn học Thiên-vương mật dụ phải không?
- Gần như thế.
Thông-Mai xoa đầu em:
- Thiên-vương mật dụ là yếu quyết tối cao của Phù-Đổng Thiên-vương, rất khó luyện tập. Khi luyện, thì con trai phải còn đồng tử, con gái phải còn đồng trinh, trong lòng lại chưa vướng vít yêu đương...
- Em vẫn còn đồng tử mà, em đã lấy vợ đâu!
- Nhưng chú mày đã có công chúa Thái trong tâm rồi, khi luyện Thiên-vương mật dụ, vô tình chỉ nghĩ đến nàng thôi, cũng đủ rung động tâm mạch mà chết.
- Thế sao anh có chị Bảo-Hòa mà vẫn luyện được? Tại sao thái sư phụ với bố em, vợ con cả đàn mà vẫn luyện thành?
Thông-Mai cốc lên đầu Lê Văn:
- Sư phụ luyện thành Thiên-vương mật dụ rồi mới cưới vợ. Còn ta, khi ta luyện Thiên-vương mật dụ, ta chưa gặp chị Bảo-Hòa.
- Có phải khi luyện Thiên-vương mật dụ, tâm tính con người thay đổi đi không?
- Đúng thế. Tổ sư chúng ta là thánh Gióng. Vì hồi niên thiếu ngài luyện công phải tịnh khẩu, nên người ta bảo ngài câm. Khi luyện thành rồi thì tự nhiên ít nói, mỗi lời nói phát ra uy nghiêm, khiến ai nghe thấy cũng phải lạnh gáy, răm rắp tuân theo.
Lê Văn như tìm được điều gì mới lạ : hồi trước chính chàng là người hay nói, nên bị bố, mẹ, chị gái gọi là cà chớn, rồi dần dần mỗi ngày võ công một cao, thì trở thành nghiêm nghị, mà thân với chàng như Thanh-Mai cũng không biết. Chàng thở phào:
- Thì ra thế. Trên đường đi sứ, bọn em thấy đại ca lạnh lùng, mỗi lời nói đều uy nghiêm, khiến bọn em líu ríu tuân theo. Thì ra đó là cái uy của thánh còn để lại. Nhưng em muốn đại ca dạy em một thuật mới của bản phái.
Thông-Mai đưa mắt nhìn sư thúc Hoàng Hùng, Trần Kiệt:
- Hai sư thúc trí tuệ vô biên, may ra có cách giúp Văn đệ. Cháu nghĩ hai vị đón giết tên Vũ Nhất-Trụ đi cho rồi.
Trần Kiệt là bạn thân của Hồng-Sơn đại phu từ nhỏ, nên ông rất
thương Lê Văn. Ông bảo Hoàng Hùng:
- Tứ ca, chúng ta giúp thằng cháu ngoan ngoãn này một tay. Mình Thông-Mai chưa chắc đã làm nổi, vì võ công tên Nhất-Trụ rất cao thâm, không dễ gì cháu thắng được y.
Ông hỏi Lê Văn:
- Cháu có mang theo những vị thuốc cần thiết đó không?
Lê Văn rùng mình hỏi:
- Sư thúc, sao sư thúc biết...
Trần Kiệt vỗ vai Lê Văn:
- Sư thúc đoán ra mà thôi. Cháu muốn giết tên Đàm Can dùm Khai-Quốc vương, nhưng công lực cháu không đủ. Công lực không đủ thì phải dùng một thuật nào đó của phái Sài-sơn thay thế. Trong các thuật, chỉ có thuật đẩy thuốc vào người đối phương mà Thái-sư phụ cháu mới sáng chế ra gần đây hữu hiệu nhất. Cho nên cháu muốn xin Thông-Mai dạy cháu thuật đó, rồi dùng để giết Đàm Can như Thái sư-phụ với bố cháu làm ở Biện-kinh. Có đúng không?
Lê Văn bẽn lẽn gật đầu. Trần Kiệt tiếp:
- Thuật đó những người công lực tới mức tối cao như bố cháu, như Thông-Mai mới luyện được, vả phải luyện cả tháng mới thành. Nay cháu muốn luyện khẩn cấp thì e vô ích. Nhưng ta có cách.
Ông nhìn Lê Văn tủm tỉm cười:
- Những ngày đi cùng Tôn Đản, Tự-Mai sang Tống, cháu đã dạy tất cả sở học của mình cho chúng, ngược lại chúng cũng dạy cháu tất cả những gì chúng biết. Có phải thế không?
- Sao sư thúc biết?
- Trời ơi, cứ nhìn tướng đi của bọn cháu là thấy ngay chứ có gì lạ đâu. Bây giờ ta giúp cháu sao cho công lực cao hơn tên Đàm Can, rồi cháu giết hắn có phải hay biết bao không? Nhưng cháu ơi! Công lực tên Đàm Can không tầm thường. Trong phái Đông-a hiện chỉ có đại sư huynh ta với Thông-Mai, Thanh-Mai là thắng được y. Còn bọn ta may lắm thì ngang với y. Nhưng muốn cho công lực cháu hơn y cũng không khó.
Ông bảo Lê Văn:
- Bây giờ cháu ngồi vận khí ôn lại thuật Âm dương hỗ căn của Bắc-bình vương Đào Kỳ để lại, mà Tôn Đản dạy cháu. Sau đó ta với sư thúc Hoàng Hùng, sư huynh Thông-Mai truyền cho cháu ít chân khí, thì công lực cháu ngang với tên Đàm Can ngay.
- Nghĩa là...
- Cháu vận khí hút, còn bọn ta đẩy, chỉ mấy khắc, công lực cháu sẽ cao hơn Đàm-Can.
Lê Văn rùng mình:
- Như vậy chẳng hóa ra hai sư thúc bị tổn hại nguyên khí, phải luyện mấy tháng mới phục hồi. Muôn ngàn lần cháu không dám.
- Vì việc nước, thì phải hy sinh. Có hy sinh thì sự thành mới đáng quý. Thôi, cháu vận công đi.
Không đừng được, Lê Văn ngồi xuống vận công, trong lòng nhẩm ôn lại những gì Tôn Đản giảng cho nó về thuyết Âm-dương hỗ căn. Vốn là thầy thuốc giỏi, trong học thuyết kinh lạc, không chỗ nào mà chàng không biết. Hơn nữa chàng lại thông minh, nên thoáng một cái, kinh khí luân lưu đều trong cơ thể.
Thình lình Hoàng Hùng nắm tay trái, Trần Kiệt nắm tay phải Lê Văn rồi vận khí đẩy vào người chàng. Lê Văn rùng mình một cái, chàng qui liễm chân khí của hai sư thúc vào đơn điền. Người chàng căng như chiếc bong bóng, muốn nổ tung ra. Khoảng hơn khắc sau chàng thấy chân khí thu được với chân khí cơ hữu không hòa hợp được với nhau, nên trong người cực kỳ khó chịu.
Vì mãi suy nghĩ, chậm qui liễm một chút, chân khí ngoại nhập tràn ra khắp cơ thể. Kinh hoảng chàng vận khí chuyển vào vòng Tiểu-chu-thiên, thế là hai luồng chân khí hỗ tương đấu tranh. Nhưng chỉ được một lát, chàng thấy chân khí mình với chân khí thu thái không hoà lẫn vào được với nhau ngay bên ngoài kinh mạch.
Chàng định lên tiếng cho hai sư thúc dừng lại, nhưng chân khí hai ông mạnh quá, nếu chàng ngừng, e sẽ bị vỡ lồng ngực mà chết. Chàng đành vận công chống, nhưng công lực chàng may chỉ có thể chống được một vị, chứ sao đấu nổi với hai?
Thông-Mai đứng ngoài, nhìn hoàn cảnh đó, chàng chợt hiểu, vội lên tiếng:
- Hai vị sư thúc mau thu chân khí lại, bằng không nguy lắm.
Nhưng Hoàng Hùng, Trần Kiệt đã nhập tĩnh thực sâu, rồi đẩy chân khí ra, đâu có nghe thấy Thông-Mai nói gì. Trong khi đó Lê Văn nghiến răng định giật hai tay ra, nhưng không nổi. Chàng đành buông lỏng, tự than:
- Hôm nay là ngày mình phải chết đây.
Thình lình cửa sổ bị đánh tung ra, rồi hai người từ ngoài lách mình vào trong. Cả hai cùng chắp tay để lên vai Lê Văn. Hai lực đạo hơi giống chân khí của chàng mạnh như nghiêng trời lệch đất dồn vào người, đẩy tung Trần Kiệt, Hoàng Hùng bắn ra xa. Hai người đó tiếp tục dồn vào người chàng. Hai luồng chân khí này, chàng qui liễm thực dễ dàng.
Cứ như vậy khoảng một khắc, hai người đó thu tay lại, Lê Văn rùng mình mở mắt nhìn. Thì ra Thái sư-phụ Phan Nam với Ngô Quảng-Thiên. Chàng vội vàng quỳ gối hành đại lễ:
- Đệ tử xin tham kiến Thái sư-phụ cùng Ngô thái sư-bá. Đa tạ Thái sư-phụ cùng Thái sư-bá cứu nạn.
Phan Nam bảo Lê Văn:
- Bé con! Ngồi ngay ngắn lại, hấp khí, rồi dẫn theo vòng tiểu Chu-thiên. Được rồi. Phát một chưởng Thông-Mai xem nào.
Không nghĩ ngợi, Lê Văn hít một hơi rồi phát chiêu Lôi đả Ân-tặc hướng Thông-Mai. Chưởng chưa ra hết, mà Thông-Mai đã cảm thấy lực đạo mạnh kinh người. Chàng vội tránh sang bên trái. Chưởng của Lê Văn trúng vào con lân bằng đá đến bộp một tiếng. Con lân to bằng người ôm bị đẩy bắn tung ra xa đến hơn thước.
Ngô Quảng-Thiên reo:
- Thành công rồi. Bây giờ thì công lực cháu muốn hơn bố cháu rồi. Cháu nhớ nhé, trên thế gian này chỉ có hai loại công lực khắc chế lại Hồng-thiết công mà thôi. Mà cháu may mắn có một loại.
Lê Văn gật đầu:
- Thưa cháu hiểu.
- Cháu thử nói ta nghe xem có hợp lý không?
Lê Văn chắp tay vái Thái sư-phụ với Ngô Quảng-Thiên:
- Thưa, võ công Hồng-thiết giáo là võ công tà ma. Muốn thắng ma công, quỷ chiêu phải dùng võ công của chư thánh, hoặc dùng thiền công nhà Phật hóa giải. Xét võ học Đại-Việt ta, thì chỉ có võ công bản môn vốn xuất từ Thiên-vương, cùng võ công phái Tản-viên xuất từ thánh Tản có thể tru diệt được chúng. Nếu muốn thắng chúng, ta dùng thiền công hóa giải Hồng-thiết công, rồi dùng chiêu số của chư thánh thì chúng phải thua.
Phan Nam lắc đầu:
- Không phải thua, mà phải chết. Đối với bọn ma quỷ không thể nhân nhượng, nhớ đấy.
- Dạ, cháu nhớ.
Phan Nam tiếp:
- Bây giờ ta giải thích cho cháu nghe về những thắc mắc của cháu. Trong đại hội Lộc-hà, công lực Bảo-Hòa thấp hơn Đặng Đại-Khê, mà thắng Xích-Thập, Phạm Hổ, Phạm Trạch. Tại sao? Vì khi Đại-Khê với Xích-Thập đấu với nhau bằng võ công Tản-viên. Hai người cùng một môn hộ, công lực ai cao người ấy thắng. Còn khi Bảo-Hòa đấu với Xích-Thập, Phạm Trạch, Phạm Hổ, thì Bảo-Hòa dùng võ công thánh Tản, còn chúng chuyên dùng võ công Hồng-thiết.
Ông xoa đầu Lê Văn:
- Công lực bố cháu không cao hơn Tự-An, mà Tự-An không thắng nổi Nhật-Hồ. Trong khi bố cháu đánh bốn chưởng, khiến y bay trở lại đài là tại sao? Vì bố cháu dùng nội công trong Thiên-vương mật dụ là võ công thánh, đương nhiên thắng võ công tà ma của Nhật-Hồ. Đến cặp vợ chồng Ưng-sơn...
Lê Văn gật đầu liên tiếp, Phan Nam bẹo tai chàng:
- Cháu thử nói xem có đúng không nào?
- Thưa thái sư phụ, công lực Ưng-sơn không cao hơn Đặng Trường làm bao, nhưng y dùng nội công Đông-a là nội công nhà Phật hóa giải ma công của Đặng Trường, rồi phát chiêu Thiên-vương chưởng, là chưởng của thánh Gióng có khả năng tru diệt ma quỷ, vì vậy Đặng Trường chết nát thây.
- Đúng thế. Thành ra công chúa Bình-Dương với cháu đứng lược trận, cứ tưởng võ công Ưng-sơn cao lắm, kỳ thực y biết cách hòa hợp võ công mà thôi. Thông-Mai giết Lê Ba cũng bằng phương pháp này. Bây giờ cháu có thể đấu ngang tay với Nhật-Hồ rồi, cháu phải giết cho được tên Vũ Nhất-Trụ để trừ hại cho dân.
Hoàng Hùng, Trần Kiệt hành lễ, rồi hỏi Phan Nam:
- Thưa tiền bối, xin tiền bối giảng cho bọn hậu sinh được biết, tại sao với phương pháp qui liễm Âm-dương, xưa Bắc-bình vương Đào Kỳ thu được chân khí Phong-châu song quái, rồi Khất đại phu thu được của Lê Đạo-Sinh, mới đây Tôn Đản thu một lúc chân khí của hai cao thủ phái Hoa-sơn đều vô sự. Thế mà Lê Văn thu của hai tiểu bối, hút nữa cả ba bị mất mạng?
- Hai vị đại hiệp hết lòng với đất nước, tưởng giúp cháu giết tên hại nước. Nhưng hai vị quên mất một điều : Công lực Song-quái, Lê Đạo-Sinh cũng như hai cao thủ Hoa-sơn đều là công lực của tục gia. Giữa chân khí tục-gia, hòa hợp với nhau dễ dàng. Công lực của Lê Văn gốc ở thánh Gióng, cũng là công lực tục gia. Trong khi công lực hai vị là công lực Đông-a, xuất từ thiền công. Nên hai thứ không hòa hợp được. Dĩ chí công lực của già này với Ngô lão sư, cũng đều là công lực tục gia, nên cháu nhỏ thu thái không khó khăn.
Hai đại hiệp Hoàng Hùng, Trần Kiệt vái tạ Phan Nam. Phan Nam bảo Thông-Mai, Lê Văn :
- Sau khi việc đây xong, các con phải về Vạn-thảo sơn trang ngay. Hồng-Sơn đi vắng, nên con phải tập trung đệ tử chiếm lại sơn trang. Bọn Hồng-thiết chiếm sơn trang, song chúng không hại ai, mà trái lại còn cầu khẩn các y sĩ chữa chạy cho người của chúng bị thương trong trận Thăng-long.
Nói rồi hai ông nhảy qua cửa sổ, thoáng một cái, đã biến mất.
Lê Văn rời cung Tuyên-hòa ra ngoài. Chàng tung mình lên mặt thành để đi tuần tiễu. Người chàng vọt lên cao như con én nhẹ nhàng rồi rơi xuống nhẹ nhàng. Chàng kinh ngạc:
- Trời ơi! Công lực ta đến dường này ư? Không lẽ hai ông cụ dồn chân khí cho ta hết rồi chăng? Nếu vậy ta thử ra ngoài thành thám thính xem sao?
Nghĩ là làm. Chàng vọt mình khỏi mặt thành, đáp xuống đất nhẹ nhàng, rồi dùng khinh công hướng nơi có ánh đèn phi tới. Thì ra đó là khu chuồng ngựa. Cứ thế chàng thám thính hết một vòng bốn khu vực đóng quân của đám phiến loạn. Chàng nghĩ thầm:
- Ta phải về trình anh cả biết, để người cho quân xuất thành đánh phá chúng trong đêm cho bõ ghét.
Chàng hướng thành Trường-yên trở về. Đang vọt người như gió, chàng cảm thấy như có ai vỗ vào vai mình rồi cười hì một tiếng. Kinh hãi, chàng nhìn lại, thì một bóng người đã chạy khá xa. Vốn can đảm, lại tự thị vào võ công, chàng đuổi theo người kia. Người kia chạy về hướng Đông, thân pháp y hơi giống thân pháp Đông-a. Khi tới chân một ngọn núi, người kia quay lại dơ tay vẫy chàng bằng cử chỉ khá thân ái.
Chạy tới khi trời tảng sáng, thì người kia dừng lại trước một trại quân. Y cung tay hành lễ với chàng. Chàng nhận ra y là Ưng-sơn nam hiệp. Nam hiệp hú lên hai tiếng dài, một số người trong trại chạy ra, Lê Văn ngẩn người không nói lên lời: Nào là Trường-giang thất hiệp; nào là Hoa-Sơn tứ lão; nào là tả hữu hộ pháp, ngũ sứ cùng mười trưởng lão bang Hoàng-Đế; nào là vợ chồng Phạm Văn, Hàn Ngọc-Quế, Chu Minh phái Thiên-tượng nước Đại-lý. Thêm mấy người nữa xuất hiện, chàng nhận ra lão sư Rát-ta-Na cùng An-Nan Tam-gia-la-sun phái Tha-nôm; kìa là Chế Ma Thanh với đám cao thủ phái Phật-thệ, cạnh đó còn có hoàng thân Phủ-Vạn với cao thủ phái Vạn-tượng; rồi các cao thủ phái Cửu-long, bang Đông-hải, bang Động-đình, bang Hồng-hà... Tất cả các phái, các bang thuộc tộc Việt, nhưng ở ngoài lãnh thổ Đại-Việt.
Lê Văn vội cung tay hành lễ với mọi người, cùng hỏi thăm hành trạng. Chàng đến bên Tây-Sơn đạo sư cung tay muốn hỏi thăm tin tức Thiếu-Mai:
- Thưa đạo sư, tiểu bối muốn hỏi thăm tin tức của Yên-vương cùng...
Có tiếng nói trong trẻo:
- Cà chớn, chị đây.
Nghe tiếng nói, Lê Văn chạy lại ôm chầm lấy chị, cả hai chị em cùng không cầm được nước mắt. Luân lý thời bấy giờ định rằng: Con trai với mẹ, anh với em gái, chị với em trai; khi đến tuổi mười ba là không được chạm vào người nhau. Nhưng chị em Thiếu-Mai đều là thầy thuốc, nên không mấy tuân thủ lễ nghi này. Lại nữa, mẹ mất sớm, Thiếu-Mai đóng vai bà mẹ dạy dỗ Lê Văn bấy lâu, bây giờ chị em xa cách, nay gặp lại thình lình, vì vậy cả hai cùng không giữ được súc động.
Thiếu-Mai buông em ra, rồi kéo chàng vào căn lều lớn. Lê Văn tường trình mọi tin tức liên quan đến tình hình quân phản loạn cùng quân triều. Chàng đưa mắt nhìn Ưng-sơn nam hiệp, ngụ ý hỏi Thiếu-Mai. Thiếu-Mai lắc đầu:
- Chị không thể tiết lộ danh tính người này, chẳng phải không tin em, nhưng để giữ tình giao hảo Tống-Lý mà thôi. Khi được thư của Khai-Quốc vương báo bọn Nhật-Hồ làm phản, anh hùng các nơi kịp thời đề phòng. Bên Trung-nguyên chỉ có khoảng hơn nghìn tên nổi lên, bị giết sạch. Bên Xiêm, Lào, Chiêm, Chân-lạp, Đại-lý cũng có nhiều bọn làm loạn, song bị võ lâm giết ngay trong ngày đầu. Anh hùng tám vùng tộc Việt đại hội tại Đại-lý, bầu vợ chồng Ưng-sơn làm thủ lĩnh viện binh cho Khai-Quốc vương. Chúng ta được vua Bà Bắc-biên mở cửa biên giới, cùng cung cấp lương thực.
Lê Văn đưa mắt nhìn thái tử An-Nan Tam-gia-la-sun muốn hỏi tin tức Nong-Nụt. An-Nan mỉm cười vẫy chàng đi theo. Tới một lều nhỏ, ông chỉ vào trong:
- Hiền đệ vào đó trước, ta đi tìm Nong-Nụt cho.
Lê Văn bước vào, chàng bật lên tiếng kêu:
- Nong-Nụt.
Hai người lặng đi một lúc rồi mới nói truyện. Truyện của đôi trai gái yêu nhau thường chẳng có đầu, có cuối gì cả. Lát sau Thiếu-Mai vào, nàng xoa đầu em:
- Thôi em trở về Trường-yên, báo kế hoạch cho Khai-Quốc vương biết để người còn liệu. Chuyện em với Nong-Nụt, bố giao cho chị. Còn đức vua Xiêm cũng giao cho An-Nan. Chị với An-Nan sẽ làm lễ thành hôn cho em với Nong-Nụt khi hết tang mẹ.
Lê Văn nhìn Nong-Nụt lòng bịn rịn không ngôi, nhưng vì quốc sự, đôi thiếu niên đành buông nhau ra. Lê Văn hú lên một tiếng hướng thành Trường-yên dùng khinh công phóng tới. Khoảng giờ Thìn thì đến gần nơi đóng quân của đám Hồng-hương thiếu niên. Tên canh gác thoáng thấy chàng, y chưa kịp lên tiếng hỏi, thì chàng đã vượt qua đến chân thành, rồi tung mình lên cao. Chàng đáp xuống mặt thành nhẹ nhàng. Có tiếng quát:
- Ai?
Rồi một kình phong ụp lên đầu. Kinh hãi, chàng vội phát chiêu Thiên-vương chưởng đỡ. Bình một tiếng, người kia lảo đảo lui lại. Bấy giờ chàng mới nhận được y là sư huynh Bảo-Dân. Bảo-Dân mở to mắt kinh hãi hỏi:
- Chú mày... chú mày... công lực đến dường này ư?
Khai-Quốc vương đã tới. Vương nhìn em mỉm cười:
- Thế nào, gặp nàng rồi hả?
Chỉ một câu nói của vương, Lê Văn biết ông anh này đã hiểu mọi sự bên ngoài. Chàng theo vương vào trướng, rồi trình bầy chi tiết cuộc vượt thành ra, cùng mưu kế của đạo Ưng-sơn do Phạm Văn thiết lập.
Khai-Quốc vương vỗ vai Lê Văn:
- Mừng cho em.
Vì thức suốt đêm, Lê Văn ngủ một giấc tới tối, chàng vừa thức dậy ăn cơm xong thì một thị vệ vào chắp tay nói:
- Thưa thiếu hiệp, có ba người vượt thành vào, hiện ẩn ở miếu thờ bà Triệu. Trình để thiếu hiệp định liệu.
Lê Văn vội tung mình theo thị vệ đến miếu thờ bà Triệu. Thị vệ ẩn thân trong các lùm cây trong tư thế bao vây. Lê Văn vẫy tay, đám thị vệ đồng xuất hiện. Lê Văn đến gần cửa miếu nói vọng vào:
- Cao nhân nào, xin xuất hiện.
Cánh cửa miếu mở, ba người xuất hiện. Lê Văn nhận một trong ba người là Vũ-Đức vương. Chàng chắp tay hành lễ:
- Thì ra vương gia. Vương gia giá lâm thành Trường-yên, cứ đường đường chính, tại sao phải ẩn thân vào chỗ tối tăm này. Tiểu bối lớn mật xin mời vương gia đến tương kiến với Khai-Quốc vương.
Vũ-Đức vương đưa mắt nhìn hai người đi cùng, rồi nói:
- Đành vậy. Hai vị theo ta.
Nhìn kỹ hai tùy tùng của Vũ-Đức vương, Lê Văn thấy bàn tay chúng đỏ lòm, thì biết chúng luyện Hồng-thiết công rất cao. Nhớ lời Thái sư-phụ dặn : Đối với bọn ma quỷ phải thẳng tay. Vì vậy chàng hướng hai tên này phóng liền bốn chỉ vào huyệt Khúc-trì của chúng. Sau bốn tiếng véo, cánh tay chúng hoàn toàn bị tê liệt.
Lê Văn ra hiệu cho thị vệ dẫn đường. Còn chàng theo sau. Tới trước điện Càn-nguyên. Khai-Quốc vương được báo trước. Vương vừa ra cửa đã thấy Vũ-Đức vương đi vào. Hai anh em cùng ngừng lại nhìn nhau. Biết bao nhiêu kỷ niệm hồi thơ ấu hiện về, nào chơi đùa, nào học văn, nào luyện võ, nào bàn quốc sự với nhau. Bây giờ hóa ra thù nghịch. Bỗng Vũ-Đức vương òa lên khóc, rồi tiến đến ôm lấy Khai-Quốc vương.
Hai anh em dắt tay nhau vào nhà.
Chư tướng thấy vậy, đều lảng ra xa, bên trong chỉ còn Thanh-Mai với đám Thiệu-Thái, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh, Kim-Thành, Trường-Ninh. Vương phi Thanh-Mai chỉ ghế:
- Chú tư ngồi đây đi. Anh hai với chú là anh em cùng cha như cây cùng gốc. Anh em như thể chân tay. Thà chú phụ chúng ta, chứ chúng ta không phụ chú đâu.
Nàng chỉ hai tùy tùng của vương nói với Thiệu-Thái, Bảo-Hòa:
- Hai vị này chắc là chân tay của chú hẳn. Vậy Thiệu-Thái, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh thù tiếp dùm thím.
Gì mà Bảo-Hòa không hiểu ý Thanh-Mai. Nàng biết cậu hai không thể thẳng tay với Vũ-Đức vương, nên Thanh-Mai bảo nàng đem hai tên này ra ngoài thẩm vấn xem mục đích cuộc nhập thành của vương để làm gì. Bảo-Hòa vẫy tay:
- Mời hai vị theo tôi.
Thiệu-Thái, Mỹ-Linh, Bảo-Hòa dẫn hai tên tùy tùng của Vũ-Đức vương ra ngoài. Khai-Quốc vương hỏi em:
- Chú tư. Anh nhận được thư chú, ngày mai anh định xuất thành tương kiến với chú để bàn định sao cho khỏi lâm cảnh nồi da xáo thịt. Mọi việc chỉnh bị xong. Nhưng nay sao chú lại nhập thành trước?
Thoáng nhìn thấy đôi mắt của Vũ-Đức vương láo liên thoát trông lên rồi khép nhỏ lại, chứng tỏ vương định hoa ngôn xảo ngữ nói láo, Kim-Thành nghĩ thầm:
- Mình phải chặn trước, bằng không ông nói láo, rồi khi bị lật mặt nạ, ông còn nói láo mãi.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.02.2005 02:57:28 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 21.01.2005 17:48:55 (permalink)
    Hồi thứ một trăm hai mươi bẩy


    Phúc Hoạ khó lường




    Quận chúa Kim-Thành chắp tay hướng Vũ-Đức vương:
    - Có phải chú tư định mời chú hai ra ngoài thành tương kiến là hư kế của Nhật-Hồ lão nhân, với mục đích điệu hổ ly sơn không? Hồi chiều chú tư mới họp với Nhật-Hồ cùng chư tướng đã chuẩn bị kế hoạch rằng khi chú hai ra ngoài thành, thì trong thành chú với bọn Nhất-Trụ điều khiển bọn cao thủ Hồng-thiết giáo thình lình đốt phá, rồi mở cửa Tây cho giặc vào. Thế là chú hai tiến ra thì bị vây, lui về không có chỗ. Bấy giờ lão mới dùng tiễn thủ giết chú hai...
    Vũ-Đức vương nổi cáu, ông văng tục:
    - Con nỡm con này! Bố mày đối với tao cũng phải nói bằng giọng ôn tồn, cái mã mày lấy quyền gì mà đòi hạch hỏi tao ?
    Kim-Thành chắp tay:
    - Dĩ nhiên cháu không thể hạch hỏi chú. Nhưng những lời cháu nói có đúng không? Cháu còn lớn gan, muốn biết hiện giờ Dực-Thánh vương ở đâu nữa kia.
    Vũ-Đức vương kinh hãi vô cùng. Vì mới ban nãy đây, Nhật-Hồ với vương bàn kế đánh thành tuyệt mật như vậy, mà sao đến con cháu bé con này cũng biết, thì còn hy vọng gì nữa?
    Trường-Ninh tiếp lời chị:
    - Chú bị tên Nhật-Hồ đánh lừa chú rồi. Chú tưởng rằng với quân số của đạo Đằng-hải, quân địa phương Cửu-chân, cộng với giáo chúng... Y có tới gần mười vạn, nên chú theo y. Chú thực ngây thơ quá đi. Lão Nhật-Hồ đã hại Dực-Thánh vương rồi, thì khi sự thành đời nào y tôn chú lên làm vua ?
    Nàng ôn tồn hơn:
    - Chú ơi! Tất cả kế hoạch mà chú hai vận trù về cuộc tương kiến với chú, cùng trao Thượng-phương bảo kiếm cho Lê Phụng-Hiểu là hư kế của chú hai, để gian tế Nhật-Hồ thông báo tin ma cho lão đấy. Thực sự giờ này chư tướng đạo Đằng-hải đã nhận lệnh đánh úp bọn Hồng-thiết giáo khi hai bên dàn trận. Hạm đội Bạch-Đằng đã chiếm Thanh-hóa, rồi tiến quân ra. Hiện quân đã chiếm lại Vạn-hoa sơn trang, Vạn-thảo sơn trang. Chỉ nội đêm nay sẽ bịt phía Nam Trường-yên. Hạm đội Âu-Cơ đổ lên Thiên-trường, sáng mai tiến về vây phía Đông Trường-yên. Hai đạo Ngự-long, Bổng-nhật khởi hành từ Thăng-long, giờ Mão ngày mai sẽ vây phía Bắc Trường-yên.
    Thấy mặt Vũ-Đức vương tái đi, Trường-Ninh tiếp:
    - Sáng mai, chú hai vờ xuất thành tương kiến với chú, rồi chỉ cần một tiếng pháo lệnh, hai đạo Đằng-hải đánh úp đám giáo chúng Hồng-thiết giáo. Rồi đạo quân Âu-Cơ, Bạch-đằng, Ngự-long, Bổng-nhật vây kín ba phía. Trong khi đạo Phong-châu, Thượng-oai tung thú dữ đánh từ trong ra.
    Vương phi Thanh-Mai vẫy tay cho Trường-Ninh im lặng, nàng nói:
    - Chú tư à! Sự việc đã ra thế này, chú tư còn hy vọng gì cái ngôi vua nữa? Dù Nhật-Hồ có chiếm được đất nước, thì lão cũng sẽ giết chú đi để lên làm vua, chứ có đâu y tôn chú lên ngôi.
    Biết sự không thể đừng được Vũ-Đức vương thở dài, nói với Khai-Quốc vương:
    - Đúng như hai con Kim-Thành, Trường-Ninh nói. Nhật-Hồ lão nhân cho em với Vũ Nhất-Trụ, đem một số cao thủ vào ẩn trong thành. Đợi ngày mai anh xuất thành, thì Nhất-Trụ với em xuất lĩnh đội cảm tử đốt nhà, cùng đánh ra cửa Tây cho quân ngoài vào.
    Thanh-Mai hỏi:
    - Thế lát nữa Nhất-Trụ sẽ vào thành bằng cách nào? Những ai ở trong thành tiếp tay cho y?
    - Em không biết tên bọn nội phản. Nhưng tại cửa Tây, khi ngoài thành có ánh bùi nhùi phất qua, phất lại, thì trong thành có người tung dây ra, rồi Nhất-Trụ với mấy tên cảm tử bám dây leo vào.
    Thanh-Mai đưa mắt cho Kim-Thành. Kim-Thành hiểu ý bà thím liền:
    - Ta phải ra ngoài báo cho Lê-Văn biết tin tức này, để bắt tên Nhất-Trụ.
    Nàng cúi đầu lùi ra ngoài.
    Trong này Vũ-Đức vương nói tiếp:
    - Lão Nhật-Hồ thực xảo quyệt. Y không cho em biết gì về các đạo quân Âu-Cơ, Bạch-đằng, Ngự-long, Bổng-nhật đang xiết chặt vòng vây. Bây giờ em tùy lượng nhị ca. Còn hai tùy tùng của em, chúng tuy xuất thân Hồng-thiết giáo, nhưng lại rất trung thành với em. Vậy nhị ca hãy để chúng thư thả theo hầu em.
    - Được. Trường-Ninh gọi Bảo-Hòa đem hai người tùy tùng của chú tư vào đây.
    Vương phi Thanh-Mai truyền bầy tiệc, anh em, chú cháu cùng ăn uống. Lát sau Bảo-Hòa dẫn hai tùy tùng vào. Khai-Quốc vương cầm bản cung khai xem, quả nhiên chúng đều khai giống Vũ-Đức vương. Trong hai người, một tên Vũ Ngọc-Phụng và một tên Chu Tấn. Cả hai đều là đạo trưởng Hồng-thiết giáo. Phụng là đạo trưởng vùng Thiên-trường. Tấn là đạo trưởng vùng Quảng-Đông. Hồi Thiệu-Thái theo sứ đoàn sang Tống, chàng đã trị bệnh cho Chu Tấn ở Khúc-giang.
    Khai-Quốc vương bưng chung rượu lên nói:
    - Nào chú tư, hãy uống với anh chung rượu này, mừng anh em ta thoát khỏi cảnh cốt nhục tương tàn.
    Vũ-Đức vương vừa cầm chung rượu lên, thì bên ngoài có tiếng trống, tiếng thanh la báo động. Mọi người vội chạy ra xem.
    Nguyên khi giải giao Vũ-Đức vương cho Khai-Quốc vương, Lê Văn nghĩ:
    - Dù sao mình cũng là người ngoài, không thể xen vào việc nhà họ Lý. Ta nên tránh mặt để cho anh cả xử vụ này.
    Chàng dẫn thị vệ ra ngoài, rồi leo lên mặt thành đi tuần tiễu. Bỗng có tiếng Kim-Thành gọi chàng. Chàng quay lại hỏi:
    - Bà chị dâu xinh đẹp, dữ hơn chằng tinh. Có tin gì đấy?
    Kim-Thành nói nhỏ vào tai Lê Văn, rồi cười:
    - Chúc chú em thành công.
    Lê-Văn núp vào địch lâu, nhìn ra góc Tây thành. Hơn bốn khắc sau, bỗng chàng để ý thấy có ánh bùi nhìn đỏ đưa qua đưa lại. Nhanh nhẹn, chàng nằm sát xuống mặt thành quan sát, thì thấy có người tung sợi dây ra ngoài thành, rồi một người trong bóng tối nhảy ra nắm lấy. Người trên thành giật thực mạnh. Người dưới thành bay tung lên cao. Cứ như thế đến người thứ mười một thì dưới chân thành không còn người nữa. Tên thứ mười một còn đang lơ lửng trên không, thì Lê Văn đã phóng đến, tay xuất hổ trảo bắt sống y. Không ngờ phía sau, một ánh đao chém vào ngang lưng chàng. Lê Văn kinh hãi, vội biến trảo thành chưởng đẩy thanh đao ra ngoài. Thanh đao vuột khỏi tay người kia bay bổng lên cao. Còn người kia bị vỡ làm năm sáu mảnh tung ra xa.
    Lê Văn thấy công lực mình mạnh đến không tưởng tượng nỗi, chàng ngẩn người ra.
    Còn người từ ngoài thành đầu trùm khăn kín mít. Y vừa rơi xuống đất đã bị một người khác đưa tay chụp. Lê Văn tinh ý, nhận ra người trong thành tấn công tên bịt mặt, chính là Thanh-Mai. Thoáng một cái hai người đã chiết với nhau hơn mười chiêu. Lê Văn kinh hãi tự hỏi:
    - Võ công sư tỷ Thanh-Mai hiện không thua bố mình làm bao, kẻ kia là ai, mà coi bộ ngang với sư tỷ.
    Yên tâm về kẻ đột nhập đã có người kiềm chế, chàng nhìn lại người bị mình đánh vỡ làm năm sáu mảnh. Cái đầu y còn nguyên vẹn, chàng nhận ra y là tên Trần Trọng-Cựu. Kinh ngạc, chàng tự hỏi:
    - Trần Trọng-Cựu là sư đệ của Phạm-Hổ, công lực y còn có phần trội hơn sư huynh, mà tại sao mình chỉ phát có ba thành công lực đã khiến y tan xương nát thịt?
    Thị vệ đã đốt đuốc lên sáng rực. Khai-Quốc vương, Vũ-Đức vương cùng chư tướng đã tới. Khai-Quốc vương hỏi Thông-Mai:
    - Đại ca, người thử đoán xem tên thích khách kia là ai, mà công lực đến dường ấy?
    Thông-Mai lắc đầu:
    - Thực khó hiểu, vì y dùng võ công Tiêu-sơn, còn nội lực thì pha lẫn Tiêu-sơn với Hồng-thiết giáo. Nhưng không hiểu sao y chưa dùng Nhật-hồ độc chưởng? Có lẽ y úy kị phản độc chưởng của nhị muội chăng? Tôi chưa từng nghe trong Hồng-thiết giáo có cao thủ nào võ công cao đến thế này. Kìa, nhị muội muốn thắng y mà không được. Có lẽ ta nên bắt y ngừng tay đi thì vừa.
    Đến đó, tên bịt mặt đánh liền ba chiêu như vũ bão, bình, bình, bình, rồi y tung mình lên chạy về phía Nam thành. Lê Văn nhô lên thụp xuống mấy cái, chàng đã đứng trước mặt y. Y tung vào người chàng một chưởng với tất cả bình sinh công lực. Lê Văn không dám coi thường, thuận tay chàng phát ra chiêu Thiên-vương chưởng. Ầm một tiếng. Trên không có hàng trăm mảnh vải bay như bươm bướm. Thì ra chưởng của Lê Văn với tên bịt mặt chạm nhau, sức ép làm khăn trùm cùng quần áo rách làm nhiều mảnh bay tứ tung, y rơi xuống trước mặt Thanh-Mai. Trên người y chỉ còn cái quần lót.
    Bấy giờ mọi người mới nhận ra y chính là Vũ Nhất-Trụ. Vũ Nhất-Trụ ọe một tiếng, miệng phun ra một búng máu. Y hỏi Lê Văn:
    - Tên nhãi con kia, phải chăng mi là con của Hồng-Sơn đại phu. Nhưng sao... sao công lực mi lại cao đến dường này. Trong nội lực của mi dường như pha lẫn Mê-linh với Sài-sơn?
    Thấy thân thể Nhất-Trụ thảm thiết, mối từ tâm của người thầy thuốc khiến lòng Lê Văn nhũn ra. Nhưng lời dạy của Phan Nam sống dậy, chàng hít một hơi chân khí rồi nói lớn:
    - Ma đầu Vũ Nhất-Trụ, hãy đỡ chưởng của ta.
    Miệng nói, tay chàng phát chiêu Thiên-vương trấn thiên, chưởng phong của chàng chưa ra hết, mà mọi người đều cảm thấy nghẹt thở. Những người công lực thấp như Kim-Thành, Trường-Ninh, Tĩnh-Ninh, Trần Anh đều nhảy lui liền ba bốn bước để tránh áp lực, thế mà vẫn còn thấy choáng váng. Khai-Quốc vương túm áo Kim-Thành, Trường-Ninh. Bảo-Dân túm áo Trần Anh, Tôn Trọng. Tôn Đản túm áo Tôn Mạnh, Lưu Tường...cùng nhảy lùi về sau ba bốn bước, tay phất chưởng hoá giải kình phong.
    Vũ Nhất-Trụ đã đánh quen trăm trận, thấy chưởng phong Lê Văn quá mạnh, y vội nằm ép mình xuống đất, hai tay phát chiêu đỡ vào mấy nhánh chưởng tỏa ra trước ngực y. Ầm một tiếng chưởng trúng vào hòn giả sơn gần đó, làm hòn giả sơn vỡ tan tành, đá, gạch, nước bay tứ tung.
    Vũ Nhất-Trụ kinh hãi, y lăn liền mấy vòng, nhảy về phía Thanh-Mai, tay y phát chưởng tấn công nàng để mở đường. Y nghĩ rằng với thân thể không áo quần của y, ắt Thanh-Mai phải bỏ chạy. Quả đúng như y nghĩ, Thanh-Mai xuất chiêu Phong-ba hợp bích đỡ, rồi nhảy lui lại. Vũ Nhất-Trụ chỉ chờ có thế, y tấn công liền ba chiêu nữa, rồi tung mình chạy. Y vừa bước đi, thì Lê Văn đã chặn trước mặt y, chàng phát chiêu Lôi-đả ân-tặc. Nhất-Trụ kinh hãi vội phát chiêu trong Hồng-thiết độc công đỡ. Bình một tiếng, y cảm thấy như trời long đất lở, chân tay tê liệt, thì Lê Văn đã phát chiêu thứ nhì. Y nghiến răng đỡ, bình một tiếng, người y bay lên cao rồi rơi lên đầu Thanh-Mai. Thanh-Mai kinh hãi nàng phát chiêu Phong đáo sơn đầu đẩy y tung đi, y rơi xuống đất, miệng phun máu có vòi.
    Lê Văn không nhân nhượng, chàng phát chiêu Thiên-vương trấn thiên, rầm một tiếng, người Nhất-Trụ bẹp dí như con tép bị dẵm lên. Y chỉ còn là miếng thịt bầy nhầy.
    Trong khi đó thị vệ đã bắt hết bọn cảm-tử theo Nhất-Trụ vào thành, cùng với bọn gian tế tung dây.
    Khai-Quốc vương nắm tay Lê Văn:
    - Mừng cho em, với công lực của em, hiện thời có lẽ không thua gì Thiệu-Thái. Hai vị lão sư Phan Nam, Ngô Quảng-Thiên thực là bất tử khi người đem chân khí gửi vào người em.
    Lê Văn nói:
    - Khi thái sư phụ truyền công lực cho em, người dạy anh Thông-Mai với em phải về Vạn-thảo sơn trang ngay, vì bố em đi vắng, trong khi đại sư huynh Dương Bình đang trấn Thăng-long.
    Khai-Quốc vương đưa mắt nhìn, thấy Thông-Mai đang đứng bên Bảo-Hòa. Động tâm tư, vương nói:
    - Bây giờ trí dũng của em có thừa, mình em về được rồi. Sau khi dẹp loạn xong thì anh Thông-Mai với Bảo-Hòa sẽ về sau cũng được.
    Chợt nhớ ra điều gì, vương hỏi sẽ Lê Văn:
    - Em đã đoán ra Ưng-sơn song hiệp là ai chưa?
    - Em vẫn không đoán nổi. Thực lạ, họ còn trẻ thế, mà từ Trường-giang thất hiệp cho tới Hoa-sơn tứ lão đều tuân lệnh họ răm rắp.
    Khai-Quốc vương nắm tay Lê Văn:
    - Đúng ra thì với minh kiến của em, em đã đoán ra y là ai rồi. Vì y biết vậy, nên y cho em gặp công chúa Thái, thế là tam hồn thất phách em thăng thiên, nên em đoán không ra. À, anh muốn cho quân mình khoẻ để đánh ban đêm. Vậy em có thứ thuốc nào, mà uống vào buổi sáng cho ngủ suốt ngày, rồi đêm có sức đánh giặc không?
    - Có thì có đấy, nhưng kiếm đâu ra đủ dược vị cung cấp cho mười vạn người? Em nghĩ ta dùng châm cứu giản dị hơn, mà lại mau chóng.
    - Nhưng ta không đủ thầy thuốc, cũng không đủ kim.
    Lê Văn cười lớn:
    - Trí tuệ như anh mà nghĩ không ra à?
    - Không.
    - Bây giờ anh cho gọi đám quân khéo tay lại, rồi em sẽ dạy họ làm kim. Không đủ kim bằng vàng, bằng bạc, thì ta dùng kim bằng tre. Như vậy trong nửa ngày mình sẽ có hàng triệu kim. Sau đó ta phát cho chư quân mỗi người sáu cái. Ta chia họ thành từng cặp, rồi dùng thầy thuốc trong quân dạy họ tự châm cho nhau.
    - Chỉ có sáu huyệt mà ngủ ngon sao?
    - Đúng vậy, đối với bệnh mất ngủ thì cần nhiều kim, cùng luận trị. Còn đối với người khoẻ mạnh như chư quân, thì chỉ cần châm vào huyệt Thần-môn, Đại-lăng, và Phong-trì là đủ.
    - Vậy Văn đệ với Hoàng phu nhân điều khiển làm kim khẩn cấp, sao cho chiều mai xong. Văn đệ viết thư dặn cách thức làm, rồi ta sai chim ưng mang tới đạo Ngự-long, Bổng-nhật, Đằng-hải, cùng hạm đội Âu-cơ, Bạch-đằng, để các nơi cùng thi hành.
    Lê Văn vội lấy bút viết thư. Rồi trao cho Lê Thuận-Tông sai chim ưng mang đi.
    Khai-Quốc vương nói với Vũ-Đức vương:
    - Sáng mai, sau khi cửa thành Bắc mở ra, thì chú với chị Thanh-Mai, đem theo hai cháu Kim-Thành, Trường-Ninh về kinh để gặp phụ hoàng cho người yên tâm.
    Vương gọi Lê Phụng-Hiểu:
    - Tướng quân đem theo đội thị vệ trăm người theo hầu Vũ-Đức vương. Mọi việc nhất nhất theo lệnh của vương phi.
    Câu nói của Khai-Quốc vương, chỉ có Thanh-Mai, Kim-Thành, Trường-Ninh hiểu rằng: Vương phi Thanh-Mai với Lê Phụng-Hiểu áp giải Vũ-Đức vương về triều. Chứ nếu bảo Phụng-Hiểu theo hầu Vũ-Đức vương thì sao không truyền cho ông tuân lệnh vương, mà tuân lệnh vương phi? Chẳng qua vương nói vậy để gỡ thẹn cho em mà thôi.
    Chư tướng hội họp đông đủ. Bên ngoài Lê Thuận-Tông dùng đội sói canh phòng cực nghiêm mật. Trên trời đội ưng bay tuần phòng. Khai-Quốc vương ngồi trước chiếc đỉnh hương khói lên nghi ngút, cạnh vương là sư phụ Huệ-Sinh, đạo sư Nùng-Sơn tử, hai vị sư thúc Hoàng Hùng, Trần Kiệt. Chư tướng không hiểu bằng cách nào, ngoài thành quân giặc vây kín, mà hai vị tôn sư Huệ-Sinh, Nùng-Sơn tử lọt vào trong được, và lọt vào lúc nào?
    Họ đưa mắt nhìn, thấy vắng mặt vương phi Thanh-Mai, quận chúa Kim-Thành, Trường-Ninh, Lê Văn cùng Vũ-vệ đại tướng quân Lê Phụng-Hiểu, Sùng-ban lang tướng Ngô An-Ngữ. Trong lòng họ thắc mắc, nhưng vì việc quân họ không dám hỏi.
    Khai-Quốc vương đứng dậy cung tay hành lễ với sư phụ Huệ-Sinh, đạo sư Nùng-Sơn tử cùng hai sư thúc Hoàng Hùng, Trần Kiệt rồi nói:
    - Hôm nay cô-gia mới quyết định giải quyết bọn phiến loạn. Hôm trước cô-gia đã ra lệnh cho các vị chuẩn bị sẵn, còn cô-gia sẽ mở cửa thành tương kiến với Vũ-Đức vương; nhất là giao cho Vũ-vệ đại tướng quân Lê Phụng-Hiểu thay cô-gia điều quân. Mục đích của lệnh hôm đó là hư, để gian tế báo cho giặc, hầu chúng không bỏ chạy. Chứ thực sự, cô gia điều quân các nơi về. Hai hạm đội Bạch-đằng, Âu-Cơ vây phía Nam, Đông. Trong khi hai đạo Ngự-long, Bổng-nhật từ Thăng-long kéo tới. Cho đến giờ này ba nơi chỉ đợi pháo lệnh là tiến đến phía sau giặc.
    Chư tướng xoa tay, gật đầu tỏ vẻ khâm phục.
    - Còn đạo Đằng-hải, Hữu vũ-vệ thượng tướng quân Trần Tự-Quang bị hại, song chư tướng đã qui phục triều đình. Cô-gia cử Sùng-ban lang tướng Ngô An-Ngữ thay thế tướng Trần Tự-Quang. Rút cuộc giặc chỉ có đám Hồng-thiết giáo. Cô-gia muốn thẳng tay, nhưng sư phụ của cô-gia lòng dạ từ bi, người cho rằng giáo chúng đều là kẻ yêu nước. Chẳng may bị bọn Nhật-Hồ lừa dối mà ra. Cho nên người muốn dùng quân bao vây, rồi chúng ta giết hết đám trưởng lão, như vậy tự nhiên chúng đầu hàng. Cả hai bên cùng không đổ máu.
    Vương đưa mắt nhìn hai vị sư thúc Hoàng Hùng với Trần Kiệt:
    - Nhưng nhị vị sư thúc lại cho rằng trước đây triều đình đã ân xá cho bọn giáo chúng một lần, biến chúng thành Lạc-long giáo, mà chúng còn theo Nhật-Hồ thì ta phải tru diệt, không có vấn đề khoan thứ.
    Vương mỉm cười:
    - Cô-gia có kế hoạch vừa lòng cả sư phụ lẫn nhị vị sư thúc. Nghĩa là ta ép, bao vây, rồi kêu gọi chúng hàng. Nếu chúng hàng thì ân xá. Còn chúng không hàng, ta mở đường cho chúng chạy. Trên đường chạy, ta phục quân giết hết.
    Huệ-Sinh cúi đầu xuống, mắt ông nhắm lại, miệng niệm khẽ:
    - A-Di Đà-Phật.
    Khai-Quốc vương tiếp:
    - Vậy ngày mai, bị các đạo Âu-Cơ, Bạch-đằng, Ngự-long, Bổng-nhật ép ba phiá, thế nào tàn binh Hồng-thiết giáo cũng chạy về phía Tây, rồi vượt rừng sao nước Lào. Các đội đệ tử Tiêu-sơn, Tản-viên, Đông-a, hai đạo binh Phong-châu, Thượng-oai sẽ do hai sư thúc Hoàng Hùng, Trần Kiệt điều động, xuất thành truy sát chúng. Các tướng Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm, Hoàng Tích, Lưu Tường đi theo quân mình.
    Vương ngừng lại cho các tướng theo kịp:
    - Hổ-uy đại tướng quân Lý Nhân-Nghĩa làm chánh tướng trấn giữ thành. Các tướng Trần Anh, Tôn Trọng, Tôn Mạnh, nữ tướng Tĩnh-Ninh cùng quân trực thuộc hợp với đạo quân Lạc-long giáo đặt dưới quyền chỉ huy của hai
    tướng An-Ngữ, Nhân-Nghĩa.
    ... Còn lại sư huynh Thông-Mai, cùng với Thiệu-Thái, Mỹ-Linh, Bảo-Hòa, theo cô-gia ra đối đầu để giết cho hết bọn ma đầu trưởng lão.
    ... Đây là thực kế. Nhưng chư tướng cứ sẵn sàng để biến hư kế hôm trước thành thực kế, hôm nay có thể thành hư kế. Nhưng hư kế có đôi chút thay đổi. Vì Vũ-vệ đại tướng quân Lê Phụng-Hiểu phải lĩnh nhiệm vụ mới đặc biệt, nên cô-gia để nghĩa đệ Tôn Đản cùng Ngô Cẩm-Thi thay Lê tướng quân.
    Lý Nhân-Nghĩa hỏi:
    - Khải vương gia, từ sáng nay, chư quân, đều chia cặp rồi châm cứu cho nhau, nên bây giờ họ ngủ say li bì. Trường hợp này lỡ giặc công thành thì sao?
    Khai-Quốc vương cười:
    - Không những quân phải ngủ cho có sức, mà tướng cũng phải ngủ nữa. Vậy chư tướng thuộc phái Tiêu-sơn, Đông-a hãy lên mặt thành mà xem giặc bị đánh. Còn các tướng thuộc phái khác hãy chia cặp châm cứu cho nhau, để đêm nay còn có sức mà làm việc.
    Trần Anh hỏi:
    - Thưa vương gia, tại sao các tướng thuộc phái Đông-a, Tiêu-sơn lại không được ngủ?
    - Giản dị! Vì nội công Đông-a, Tiêu-sơn là thiền công. Những người thuộc phái này chỉ cần bỏ ra ngoài nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý một lúc thì cũng như ngủ một ngày rồi.
    Trời dần dần sáng, trong trại giáo chùng Hồng-thiết quân phía Đông thành Trường-yên, ba tiếng pháo lệnh nổ, tiếp theo một hồi trống. Đội Thiết-kị hàng ngũ ngay thẳng khoan thai gõ bước, tiến đến dưới chân thành thì dàn ra thành trận thế. Tiếp theo đội võ sĩ cảm-tử, lưng đeo bảo đao dàn ra bên trái đội Thiết-kị. Theo sau đội võ sĩ cảm-tử, tới đội cung-thủ, dàn bên phải. Cuối cùng là các đoàn giáo-chúng Hồng-thiết, cứ nghìn người thành một đoàn. Sau khi trận dàn xong, tất cả đều hô lên một tiếng lớn, rồi im lặng. Trước trận, các trưởng lão Linh-Nguyện, Vũ Hào, Lê Tấn đi đi lại lại.
    Khai-Quốc vương cùng chư tướng lên mặt thành quan sát: Bên ngoài bọn phản loạn dàn trận xong. Bảo-Hòa nói nhỏ:
    - Có lẽ chúng chờ tới giờ Thìn, cửa thành sẽ mở, rồi cậu sẽ ra hội họp với Vũ-Đức vương. Kìa! Hai đạo Đằng-hải vây cửa Bắc, Nam. Còn cửa Tây, cửa Đông thì do giáo chúng Hồng-thiết giáo với đội Hồng-hương thiếu niên. Riêng đạo binh trấn Thanh-hóa thì đóng ở cửa Đông.
    Quan sát quân tình giặc một vòng, rồi Khai-Quốc vương nói nhỏ vào tai Tôn Đản. Tôn Đản mỉm cười, chàng lấy ra ba cây pháo lệnh buộc vào đầu một mũi tên. Sau khi châm lửa, chàng lắp tên vào cung, tay kéo dây, cánh cung uốn như trăng mùng ba, tên xé gió bay lên nền trời trong xanh mùa Xuân. Ba tiếng nổ đùng, đùng, đùng vang dội. Đám quân phiến loạn tưởng cửa thành sẽ mở, rồi Khai-Quốc vương cùng chư tướng ra; nên chúng lùi lại, tay cầm vũ khí trong tư thế chuẩn bị. Nhưng chúng chờ mãi, chờ mãi cũng không thấy cổng thành mở.
    Rồi đâu đó, xa xa có tiếng trống thúc nhịp nhàng đưa lại, mỗi lúc một gần. Vũ Linh-Nguyện hỏi một đạo trưởng tế tác:
    - Người cho thám mã đi tìm xem trống của đội quân nào vậy?
    Nhưng viên đạo trưởng chưa kịp đi, thì đã có thám mã đến cung tay:
    - Thưa trưởng lão, đạo quân hạm-đội Âu-cơ khoảng hai vạn người đã vượt đèo, đang vây ép phía Nam mình. Trong khi từ phía Đông, đạo quân hạm-đội Bạch-đằng đổ bộ, đang tiến về vây phía sau ta. Còn phía Bắc thì hai đạo Ngự-long, Bổng-nhật đang tiến tới.
    Nhưng cả ba mặt, quân triều chỉ đánh trống ra oai mà không tiến lên. Bây giờ Nhật-Hồ lão nhân mới thấy kinh hãi. Lão chỉ có bản lĩnh xảo trá, chứ về quân sự thì lão mù tịt. Trong đám trưởng lão, chỉ có Vũ Nhất-Trụ với Hoàng Văn là có tài dùng binh bậc nhất, bậc nhì Đại-Việt. Nhưng Hoàng Văn bị Tôn Đản giết ở Thăng-long. Còn Vũ Nhất-Trụ lại nhập thành mất rồi.
    Thình lình từ xa, một đội kị mã phi tới như bay. Đi đầu một lá cờ trên có hình chim ưng bay qua núi. Đám này khoảng ba nghìn người, nên Nhật-Hồ không coi vào đâu, lão truyền tiền đội đổi ra hậu đội, chuẩn bị tác chiến.
    Đội kị mã Ưng-sơn tới gần, lập tức phân ra làm đôi, xung thẳng vào trận. Khi hai bên giáp nhau, mỗi cánh lại phân làm hai, rồi phân thành tám. Mỗi kị mã vung tay, một giáo chúng ngã xuống. Khi đội Ưng-sơn chọc thủng phòng tuyến Hồng-thiết giáo, lập tức cánh trái vòng sang phải, cánh phải vòng sang trái, phút chốc cả hai biến vào phương trời xa xa.
    Nhật-Hồ lão nhân nhân nhìn đội Ưng-sơn, lão kinh hãi, tự hỏi:
    - Tại sao lại có đội Thiết-kị nhiều cao thủ đến như thế kia?
    Lão ra lệnh cho chỉnh đốn lại hàng ngũ lùi ra cách xa thành hai dậm dàn trận. Trận chưa dàn xong, bỗng trên thành phát ba tiếng pháo, hai cửa Tây, Đông mở rộng. Một đàn hổ, báo xông ra trước, theo sau là đội Thiết-kị xung thẳng vào trận phản loạn.
    Nhưng đội cửa Đông lao vào vòng chiến chớp nhoáng, rồi rút vào thành thực mau. Còn đội cửa Tây thì tách làm hai. Đám giáo chúng vây cửa Tây lên đến hai vạn người, chúng thấy đội hổ báo chưa quá trăm con, thì tỏ ra không sợ, đội cung thủ được đưa lên đầu giáp chiến.
    Giữa lúc đó, từ phía Tây, đội Ưng-sơn lại xuất hiện. Đội này như hổ đói, xung vào hàng ngũ giáo chúng Hồng-thiết giáo. Họ đi đến đâu, người ngã đến đó, không một giáo chúng nào đương nổi lấy một hiệp. Sau khi xung vào, chém giết chớp nhoáng, họ lại tập trung, rồi biến vào khu rừng núi mênh mông. Đám giáo chúng bị đánh hai mặt, hàng ngũ rối loạn, bỏ chạy vào rừng.
    Nhật-Hồ lão nhân được tin báo về mặt trận cửa Tây tan vỡ. Lão truyền cho hai đạo Đằng-hải đánh sang mặt Tây tiếp viện. Đạo Đằng-hải vừa chuyển động, thì trong thành lại phát pháo, cửa thành Bắc, Nam mở rộng, kị-mã trong thành tuôn ra. Hai đạo Đằng-hải vội dàn trận. Khi trận dàn xong, thì kị mã rút vào trong thành, cửa thành đóng lại mau chóng. Trong khi đó mặt trận phía Tây đám giáo chúng tản vào khu rừng núi trùng điệp.
    Từ hôm ra ngoài thành Ngô An-Ngữ mặc giả làm một Đô-thống của đạo Đằng-hải. Nhưng ông cầm cờ ra lệnh, khiến Nhật-Hồ lão nhân chú ý theo dõi. Bây giờ rõ ràng lão ra lệnh cho hai đạo đánh quặt sang phía Tây để cứu đám giáo chúng tại đây, mà An-Ngữ lại hành động ngược lại, án binh bất động. Rồi bây giờ An-Ngữ còn ra lệnh cho hai đạo Đằng-hải quay về hướng Đông dàn trận ra trong tư thế chuẩn bị tác chiến. Nhật-Hồ lão nhân kinh hãi, lão thấy khuôn mặt An-Ngữ rất quen, dường như đã gặp ở đâu rồi. Bỗng lão tỉnh ngộ:
    - Mình đáng chết thực, thì ra tên Ngô An-Ngữ đã xuất thành nắm hai đạo này bao giờ.
    Bất giác lão rùng mình kinh sợ:
    - Làm sao bây giờ? Lực lượng cơ động của ta chỉ có hai đạo Đằng-hải, mà tên Lý Long-Bồ cho người âm thầm thuyết phục chư tướng, gửi tên An-Ngữ ra chỉ huy. Thôi rồi, như vậy là hết hy vọng. Được, ta đánh ván bài chót xem sao.
    Lão lui vào trận, nói nhỏ với Vũ Linh-Nguyện, Vũ Hào, Lê Tấn về tình trạng trên, rồi ra lệnh:
    - Ta giả vờ nói truyện với tên Lê Mai, thình lình ba người phóng đến cùng xuất chiêu tấn công, cùng phun thuốc độc giết tên Ngô An-Ngữ như sét nổ. Y chết rồi, thì đạo Đằng-hải rối loạn, chúng ta mới có thể thoát thân hôm nay.
    Lão lững thững lại phía trận của đạo Đằng-hải, tay vuốt râu mỉm cười:
    - Lê tướng quân, tướng quân nghĩ sao? Chúng ta phải hành động như thế nào bây giờ?
    Lê Mai hỏi ngược lại:
    - Tiểu bối cũng...
    Thình lình Nhật-Hồ quát lên một tiếng, lão tung mình tới, tay phóng một chiêu chưởng như sét nổ. Chưởng mang theo một đám phấn độc, chụp xuống đầu Ngô An-Ngữ. Ngô An-Ngữ ẩn sau Lê Mai, ông tuyệt không ngờ Nhật-Hồ lão nhân nhận ra mình. Dù bị tấn công bất ưng, không hổ là đệ tử thứ tư của Trần Tự-An, An-Ngữ tung mình lên cao tránh thế chưởng quái ác. Nhưng Nhật-Hồ đổi chiều, hướng chưởng lên trên, trong khi đó Vũ Linh-Nguyện, Lê Tấn, Vũ Hào mỗi người cùng phóng vào người ông hai thanh nga mi kiếm.
    An-Ngữ chơi vơi trên không, tay rút kiếm gạt nga mi kiếm. Ông chỉ gạt được bốn thanh, còn hai thanh một trúng ngực, một trúng vai ông. Ông quát lên một tiếng đá gió một cái, người bật ra xa Nhật-Hồ lão nhân để thoát khỏi kình phong ác chưởng. Nhưng lão di chuyển theo đánh một chưởng nữa, trong khi Linh-Nguyện, Vũ-Hào, Lê Tấn cùng rút kiếm đâm ông. An-Ngữ chơi vơi trên không, bị trúng chưởng mạnh quái ác cùng ba thanh kiếm, người ông bắn lên cao, rồi rơi xuống đất.
    Nói thì chậm, chứ trên thực tế diễn biến xẩy ra quá đột ngột, khiến đội cung thủ đạo Đằng-hải phản ứng không kịp. Bấy giờ đội cung thủ mới ra tay. Thấy trò Nhật-Hồ vung tay gạt, rồi trở về trận mình. Lão ra lệnh cho giáo chúng tấn công vào đạo Đằng-hải. Đám giáo chúng đứng nhìn Nhật-hồ tấn công một Đô-thống của cánh quân bạn thì cho rằg lão muốn trừng phạt viên tướng này, nên họ không chuẩn bị. Bây giờ thấy chúng thấy lão ra lệnh tấn công, thì ngơ ngơ ngác ngác. Trong khi đó Lê Mai đã ra lệnh cho quân lùi lại, chĩa cung tên chờ sẵn.
    Thế là sau cái chết của Ngô An-Ngữ, hai đạo Đằng-hải không còn vờ theo quân phản loạn nữa, mà dàn ra trong tư thế đối nghịch. Quân phản loạn chỉ còn cửa Đông, dàn trận trong thế tuyệt vọng.
    Trời đã về chiều, quân phản loạn vừa sợ, vừa đói, vừa khát, vì lúc nào cũng phải chuẩn bị ứng phó với quân trong thành, cùng các đội quân Bạch-đằng, Âu-Cơ, Ngự-long, Bổng-nhật.
    Vũ Hào nói với Nhật-Hồ:
    - Sư phụ, theo đệ tử nghĩ, chúng ta đợi trời tối, rồi rút lui vào trong rừng ẩn cư chờ thời. Chứ nay các sư huynh, sư đệ tuẫn giáo gần hết rồi...
    - Con ơi! Con phải biết rằng chỉ cần lát nữa đây tên Lý Long-Bồ xuất thành, ta dùng võ công giết con lợn Thiệu-Thái, giữa lúc đó Nhất-Trụ với Vũ-Đức vương đốt thành. Bấy giờ chúng ta vào thành.
    Lão ngửa mặt nhìn trời:
    - Còn đám trưởng lão già ư? Từ lâu rồi, ta muốn cho bọn nó chết hết đi, để bọn trẻ các người thay thế, nhưng không có cớ giết chúng. Nay chúng tuẫn giáo thì còn gì bằng nữa? Hôm nay sau khi giết tên Thiệu-Thái, ta sẽ dùng độc chưởng khống chế các cao thủ, thì mười chứ một nghìn trưởng lão ta cũng có, cần gì!
    Mặt trời đã ngả bóng về Tây.
    Sau ba tiếng pháo nổ lớn, cửa Đông thành Trường-yên mở rộng. Khai-Quốc vương ngồi trên chiếc xe song mã do Bảo-Hòa điều khiển. Ghế sau của xe là Kim-An, Mỹ-Linh, Cẩm-Thi. Bảo-Dân, Thông-Mai, Thiệu-Thái, Tôn Đản cỡi ngựa đi hai bên. Phía sau hơn ngàn dũng sĩ phái Tản-viên, tay mang đoản đao. Xe rời khỏi cửa thành, khi còn cách quân phản loạn mươi trượng thì dừng lại.
    Bảo-Dân hô lớn:
    - Khai-Quốc vương mời Vũ-Đức vương ra nói truyện.
    Cửa trận bên phiến loạn vẫn đóng chặt, quân sĩ cầm cung tên trong thế chuẩn bị tác chiến.
    Bảo-Dân nhắc lại:
    - Mời Vũ-Đức vương ra nói truyện.
    Cửa trận vẫn đóng. Đám cung thủ vẫn trong tư thế chuẩn bị buông tên.
    Bỗng có ba tiếng trống, rồi cửa trận mở, một tráng sĩ cầm cây cờ, trên có hàng chữ Trung-thành vương Đàm. Một cây cờ khác có chữ Thái-tử thái phó, Tả kim ngô đại tướng quân, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, Đồng-tri khu mật viện. Tiếp theo Đàm Toái-Trạng, Vũ Linh-Nguyện từ trong trận cỡi ngựa thung dung tiến ra. Đàm Toái-Trạng nghiêng mình hướng Khai-Quốc vương:
    - Tiểu vương Đàm Toái-Trạng, lĩnh Thái-tử thiếu sư, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, Tả kim ngô đại tướng quân, Thanh-hóa Tiết-độ-sứ xin bái yết Khai-Quốc vương. Không biết vương gia đi đâu đây?
    - Ta có ước hẹn gặp Vũ-Đức vương tại đây vào giờ này. Người mời vương ra nói truyện với ta.
    Đàm Toái-Trạng trở mặt:
    - Vũ-Đức vương không có mặt ở đây. Vương gia muốn nói gì, tiểu vương xin đại diện người được rồi.
    Khai-Quốc vương cười thầm:
    - Vũ-Đức vương trốn vào thành với ta, giờ này Thanh-Mai với Lê Phụng-Hiểu đã áp tải vương đang trên đường về Thăng-long, thế mà bọn này còn giả bộ để cáo mượn oai hùm đây. Đã vậy ta cứ giả như không biết, xem y làm trò gì.
    Khai-Quốc vương vận nội lực nói thực lớn:
    - Đàm tướng quân! Phụ hoàng ta đãi cha con người hậu hĩ nhất triều đình. Về văn, cha người được phong tới Đồng-bình chương sự, Thái-tử thái-phó, võ tới Đô-nguyên-soái, tước tới quốc công. Chị gái người được tuyển làm quý phi. Người mới hai mươi bẩy tuổi, công lao không có, nhờ cha, chị mà được giữ chức Tuyên-vũ sứ Thanh-hóa. Em người văn không thông, võ không lực, mà đang từ một chức Hiệu-úy nhỏ bé, bỗng chốc được thăng lên giữ chức Đại-tướng quân. Thực là một nhà vinh hoa phú quý. Thế mà...cha con người vẫn theo tên ma đầu Nhật-Hồ phản lại triều đình. Trong đại hội Lộc-hà, thể theo lời của võ lâm, phụ hoàng ta đã ân xá cho cha con người. Thế mà nay người lại kéo binh làm phản, hỏi anh hùng thiên hạ, ai theo người.
    Trong khi Khai-Quốc vương nói, Thông-Mai nói nhỏ với Thiệu-Thái:
    - Trong chúng ta ở đây, Thiệu-Thái với ta võ công cao nhất. Vậy lát nữa tên Đàm Toái-Trạng sẽ trả lời Khai-Quốc vương. Trong khi y mải nói, thình lình Thiệu-Thái kiềm chế y. Còn ta kiềm chế tên Vũ Linh-Nguyện.
    Thiệu-Thái gật đầu, vận khí chuẩn bị sẵn.
    Quả nhiên Đàm Toái-Trạng ngửa mặt lên trời cười ha hả:
    - Chư quân nghe đây. Cha ta vốn là bạn, là cha vợ của Hoàng-thượng, cho nên khi Hoàng-thượng bị hai đứa nghịch tử là Đức-Chính, Long-Bồ hành thích, rồi đem quân làm phản, nên cha con ta phải suất lĩnh anh hùng để tiễu trừ bọn tặc thần tặc...
    Y định nói tặc tử. Nhưng tiếng tử chưa phát ra hết, thì hai bóng người vọt tới như ánh sao xẹt. Đó là Bảo-Hòa với Kim-An. Kiếm Kim-An đưa vào ngực y, chưởng của Bảo-Hòa chụp xuống đỉnh đầu y. Võ công Đàm Toái-Trạng vốn bình thường, không hơn bọn Tung-sơn tam kiệt làm bao, lại bị tấn công thình lình bởi hai chiêu hiểm ác thần tốc, nên y chỉ còn biết nhắm mắt chờ chết.
    Vũ Linh-Nguyện thấy vậy vội rút kiếm đâm vào vai Bảo-Hòa. Y hy vọng Bảo-Hòa phải thu chiêu về đỡ kiếm của y, thì Toái-Trạng có thể thoát hiểm. Nhưng Bảo-Hòa vẫn không thu chiêu về, mà tay trái phóng về sau một chỉ. Chỉ trúng kiếm của Linh-Nguyện đến choang một tiếng, kiếm gẫy làm đôi, trong khi chưởng vẫn tiếp tục đánh vào đỉnh đầu Toái-Trạng.
    Không hổ là trưởng lão Hồng-thiết, kiếm bị gẫy, Linh-Nguyện vội ném chuôi kiếm vào người Bảo-Hòa. Thoáng một cái hai người đã đấu với nhau ba chiêu liền. Trong khi đó thì kiếm Kim-An chặt cụt đầu ngựa của Toái-Trạng, thuận tay nàng điểm vào huyệt Kiên-ngung của y, rồi túm cổ áo y, vọt người lên cao, tà tà đáp xuống sau xe Khai-Quốc vương.
    Thấy Toái-Trạng bị kiềm chế, Bảo-Hòa chuyển chưởng hướng người Linh-Nguyện. Linh-Nguyện cười nhạt một tiếng rồi trầm người xuống tránh chưởng của đối thủ. Nhưng Bảo-Hòa biến chưởng thành chỉ, điểm vào vai Linh-Nguyện đến bốp một tiếng, cánh tay y bị tiện đứt. Nàng phát thêm một chưởng nữa, định đánh y nát thây ra, thì từ trong trận phản loạn, một người vọt ra nhanh như ánh chớp. Người này phóng tay chụp Bảo-Hòa.
    Thấy kình phong của đối thủ mạnh kinh khiếp, trọn đời chưa hề thấy qua, nàng vội đổi chỉ thành thế gạt, gạt tay người kia. Bộp một tiếng, Bảo-Hòa bị bật tung lên cao, toàn thân nàng gần như bị tê liệt. Người kia đánh một chưởng như sét nổ định kết thúc tính mệnh Bảo-Hòa. Bảo-Hòa vận khí ba âm, bẩy dương đánh thẳng vào người kia, giống như lối đánh cả hai cùng chết. Người kia vội thu chiêu về đỡ chưởng của Bảo-Hòa. Ầm một tiếng, người Bảo-Hòa lảo đảo muốn ngã. Người kia không nhân nhượng, đánh liền một chưởng vào đỉnh đầu nàng.
    Thấy em gặp nguy hiểm, Thiệu-Thái phát chiêu Nhân ngưu câu vong trong Mục-ngưu thiền chưởng đánh thẳng vào người kia. Sức ép chưởng của chàng làm mọi người phải bật lui. Thế mà người kia coi như không, y cũng phát một chiêu chưởng đánh thẳng vào hạ bàn Thiệu-Thái. Hai chưởng gặp nhau phát ra tiếng bùng lớn. Râu tóc người kia dựng ngược, còn Thiệu-Thái cũng rung động toàn thân. Bấy giờ chàng mới nhận ra y là Nhật-Hồ lão nhân.
    Trong khi Thiệu-Thái đối chưởng với Nhật-Hồ lão nhân thì Bảo-Hòa đã chụp tên Linh-Nguyện tung về trận mình. Bảo-Dân bắt lấy y, điểm huyệt vứt sau xe Khai-Quốc vương.
    Hai đối thủ Nhật-Hồ, Thiệu-Thái mấy năm về trước, bây giờ lại gặp. Cả hai gườm gườm nhìn nhau. Nhật-Hồ không nhận ra Thiệu-Thái, y hất hàm hỏi:
    - Tên ôn con kia, mi là ai?
    Thiệu-Thái khoan thai trả lời:
    - Lão tiên sinh, người không nhận ra ta ư?
    Nhật-Hồ vẫn chưa nhận ra Thiệu-Thái, y cười nhạt:
    - Ta thấy võ công mi hơi giống võ công con lợn Thân Thiệu-Thái, nhưng tướng tá mi coi được hơn.
    Thiệu-Thái nảy ra ý đùa cợt, chàng trêu y:
    - Ta là em của Thiệu-Thái, ta tên là Thân Thiệu-Cực.
    Nhật-Hồ lão nhân xua tay:
    - Ta không muốn đấu với bọn hậu bối. Năm trước ta sơ ý bị bại dưới tay anh mi. Nay ta đã luyện được pho chưởng mới tên là Mã-Mặc chưởng, để phá Mục-ngưu thiền chưởng của anh mi. Mi mau gọi anh mi ra đây cho ta báo thù.
    Thiệu-Thái vẫn đùa:
    - Anh ta bảo lão đã bại dưới tay người rồi, nên người không muốn đấu với lão. Vậy lão hãy đấu với ta.
    Nói rồi chàng cung tay như ôm vòng Thái-cực xuất một chiêu trong Thái-cực quyền. Nhật-Hồ lão nhân thấy võ công kỳ lạ, y tung ra một chưởng, chưởng phong mang theo mùi hôi tanh khủng khiếp. Thiệu-Thái đẩy chưởng phong tỏa chưởng của lão, kình lực của lão biến mất. Lão kinh hãi:
    - Chiêu vừa rồi đâu phải Mục-ngưu thiền chưởng, mà là thứ chưởng vô danh.
    Tuy miệng nói, nhưng lão lại phát chiêu khác. Thiệu-Thái không dám đùa nữa, chàng phát chiêu Kị-ngưu qui gia, chưởng phong xoáy cực mạnh. Nhật-Hồ thấy chưởng phong quái ác, lão tung người lên cao. Ở trên cao lão phóng chướng trở xuống định cắt đôi chưởng của Thiệu-Thái, rồi mượn đà vọt mình lên cao nữa. Thiệu-Thái đoán được ý lão, chàng buông lỏng kình lực tay phải, mà dồn chân khí ra tay trái, đánh một chiêu như vòng cung vào ngang sườn lão. Nhật-Hồ tưởng kình lực của mình gặp kình lưc đối thủ, không ngờ lão đánh vào chỗ trống không, người lão đang chơi vơi trên không, thì bị kình lực chiêu vòng cung đánh vào hông. Lão thét lên một tiếng kinh hoàng, phản ứng tự nhiên lão khoanh hai tay vào ngực vận công chịu đòn miệng kêu be be như lợn bị chọc tiết.
    Nhìn lão ma đầu sắp chết, Khai-Quốc vương chép miệng:
    - Thế là tộc Việt hết đại họa.
    Thình lình đám cung thủ Hồng-thiết giáo đồng quát lên, rồi hơn trăm người hướng Thiệu-Thái buông tên. Thiệu-Thái vội hạ chưởng xuống rồi đẩy về phía trước, hơn trăm mũi tên bay ngược trở lại, tiếp theo là những tiếng rú khủng khiếp. Đám cung thủ bị chính tên của mình quay ngược trở về xuyên qua ngực, bụng, cổ. Người chúng tung lên, ngã lăn ra.
    Nhờ đám cung thủ, Nhật-Hồ thoát chết, lão chuyển thân mình đáp xuống đất, hai tay như hổ vồ mồi, lão chụp Thiệu-Thái. Thiệu-Thái khoanh hai tay, rồi một tay co lại, một tay đánh từ phải qua, tạo thành chiêu Đắc-ngưu hội thủ. Nhật-Hồ lão nhân bị chiêu chưởng huyền diệu đẩy lui về sau. Nhưng lão là một đại tôn sư võ học, lão biến trảo thành quyền đánh vào ngực Thiệu-Thái. Thiệu-Thái xử dụng chiêu Lam-tước vĩ trong Thái-cực quyền chụp tay lão kéo mạnh. Kình lực trên tay lão bị mất, nhưng lão hét lên một tiếng, miệng phun vào mặt Thiệu-Thái một đám cát hôi tanh cực kỳ. Biết bị phun độc tố, nhưng nhờ có thiền công hộ thể, Thiệu-Thái vô sự. Chàng nhảy lùi lại sau, để mắt có dịp phục hồi. Lão chuyển tay thành quyền đập vào ngực chàng. Miệng la lớn:
    - Thì ra mi là con lợn Thân-thiệu-Thái. Xưa kia tướng mi ụt ịt coi mà phát gớm. Nay sao mi lại đẹp thế này?
    Thiệu-Thái bị thuốc độc trúng mặt, mắt chàng hoa lên. Nhưng không việc gì nên chỉ trong chốc lát, chàng phát liền bốn chiêu Kiến-tích dã ngưu, Nhân-ngưu câu vong, Phản-bản hoàn nguyên, Nhập-triền hội thủ. Mỗi chiêu của chàng gặp chưởng của Nhật-Hồ đều phát thành tiếng kêu lớn.
    Thiệu-Thái thấy trong bốn chiêu chưởng vừa rồi của Nhật-Hồ phảng phất phân nửa là Thiền-công Tiêu-sơn, chàng hiểu ngay:
    - Tên ma đầu này giả bái Bố-Đại hoà thượng làm sư phụ, nên y đã học được Thiền-công của người.
    Chàng cười lớn, để kéo dài thời giờ cho mắt phục hồi:
    - Sư huynh! Người với ta cùng là đệ tử của Di-Lặc Tôn-Phật. Vậy ta cũng không dấu người làm gì. Thân hình ta thay đổi, vì sư phụ dạy ta Thiền-công. Ta cứ luyện mãi, không chừng một ngày kia ta có tới ba mươi sáu tướng đẹp như Phật-tổ, lại trường sinh bất lão. Này lão sư huynh, nếu người nhất tâm, nhất chí tu hành, cũng sẽ trẻ lại bằng ta, rồi thành Phật, sống lâu vạn vạn năm chẳng thú lắm ư?
    Nhật-Hồ bị lời của Thiệu-Thái làm cho cuồng vọng sống dậy, tâm linh lão mất đi, đến nỗi không phân biệt được tiểu thuyết với thực tế. Lão nghĩ thầm:
    - Ừ nhỉ, tại sao ta không thể thành Phật, rồi bay đến Tây-phương Cực-lạc, cướp chùa Lôi-âm của Thích-ca, ta sẽ thành giáo chủ của thế giới Ta-bà chẳng thú hơn làm vua Đại-Việt ư?
    Đầu óc lão trở thành mơ mơ, hồ hồ, lão đứng ngây ra suy nghĩ, rồi thử vận Thiền-công cho người bay lên. Thiền-công trong người lão trở thành mạnh, đẩy ma công Hồng-thiết ra ngoài, lão cảm thấy nhẹ nhõm, khoan khoái vô cùng. Trong những người lược trận, chỉ Thông-Mai là hiểu được: Bố-Đại hòa thượng biết lão không thực tâm quy y cùng sám hối. Nhưng người vẫn dạy Thiền-công cho lão, để dùng Thiền hóa giải ma công. Như vậy sau này lão dùng Hồng-thiết công hại người, thì chính Thiền-công sẽ cản trở. Chàng hô lớn:
    - Thiệu-Thái, Nhân ngưu câu vong gấp.
    Nghe Thông-Mai hô, Thiệu-Thái không suy nghĩ, chàng xuất chiêu Nhân-ngưu câu vong đánh vào người Nhật-Hồ. Chiêu này nhẹ như gió, nhưng có khả năng hóa giải sắc tướng rất mạnh. Nhật-Hồ vội phát chiêu Hồng-thiết chưởng đỡ. Vèo một tiếng, người lão rung động mãnh liệt, lão lảo đảo suýt ngã. Bấy giờ lão mới trở về thực tại, xuất chiêu đánh trả.
    Hai người đấu với nhau được trên trăm chiêu, vẫn bất phân thắng bại. Khai-Quốc vương hỏi Bảo-Dân, Thông-Mai:
    - Sư huynh, đại ca. Hai vị thử đoán xem kết quả trận này sẽ đi về đâu?
    - Khó có thể biết trước được. Trong thời gian hơn năm qua, Thiệu-Thái luyện thêm được Thái-cực quyền, phép điểm huyệt. Còn lão ma đầu, lão sáng chế ra được gì, không ai biết. Còn như công lực, thì chỉ trăm chiêu nữa Nhật-Hồ bị bại, vì tuổi lão đã lớn.
    Thông-Mai cười nhạt:
    - Bố-Đại hoà thượng thực là một Bồ-tát đắc đạo. Ngài biết trước sau gì Nhật-Hồ cũng tái xuất giang hồ làm loạn, cho nên người dạy thiền công cho lão. Thiền là võ công nhà Phật, có sức hóa giải ma công Hồng-thiết giáo rất mạnh. Nên khi lão vận dụng Hồng-thiết công đến chỗ tối đa, thì chính thiền công trong người lão giảm hẳn uy lực Hồng-thiết công. Chỉ mấy chục chiêu nữa, lão ắt lâm nguy.
    Quả đúng như Thông-Mai nói, sau năm chục chiêu nữa, Nhật-Hồ cứ lui dần, lui dần về phía trận lão. Đến chiêu thứ bẩy mươi hơn, thì hai người đã vào giữa trận bên địch.
    Thông-Mai, Bảo-Hòa đã kinh lịch nhiều, khi thấy Nhật-Hồ lui về trận bên lão, ắt có mưu kế gì đây, nên hai người theo sát Thiệu-Thái để đề phòng.
    Bỗng Thiệu-Thái đẩy ra chiêu Lâm-trung kiến ngưu, Nhật-Hồ lộn người về sau liền hai vòng để tránh áp lực. Thiệu-Thái theo bén gót, tay đẩy ra chiêu Kị-ngưu qui gia, Đắc-ngưu hội thủ. Nhật-Hồ vẫn lộn ra sau tránh. Đến vòng thứ bẩy, lão không tránh nữa mà vọt người lên cao đánh xuống một chiêu rất thô kệch. Thiệu-Thái chuyển chưởng lên cao đỡ. Hai chưởng gặp nhau, ùm một tiếng, người Nhật-Hồ bật tung lên cao, trong khi Thiệu-Thái thấy dưới chân chuyển động, đất sụt xuống. Kinh hãi chàng nhún chân tung người lên, thì chân chàng đạp vào quãng không, người rơi xuống cái hố sâu.
    Nhật-Hồ lão nhân lại tung người lên đánh từ trên cao tỏa ra như cái nơm. Thiệu-Thái bị rơi xuống một hố sâu bùn tới ngực. Bình tĩnh, chàng nhảy lên, nhưng bị chiêu chưởng của Nhật-Hồ đánh tới, chàng phải đưa tay đỡ. Người chàng lại lún sâu xuống bùn hơn nữa, rồi dưới bùn như có nhiều sợi dây quấn lấy người chàng. Chàng không nhảy lên được nữa, trong khi chưởng của Nhật-Hồ đánh tới. Chàng hít một hơi phát chiêu đỡ, nhưng vì chân thiếu chỗ tựa, nên chưởng không ra.
    Nhật-Hồ lão nhân nghiến răng dáng xuống đầu Thiệu-Thái hai chiêu, định kết liễu tính mạng chàng. Nhưng lão cảm thấy một kình lực mạnh như sét nổ đánh vào lưng lão. Lão kinh hãi vội đổi chiêu ra sau đỡ lực đạo này. Ầm một tiếng, người lão bị bật tung về sau. Lão tà tà đáp xuống đưa mắt nhìn xem ai đã đánh mình, thì ra Thông-Mai. Lão cười nhạt:
    - Thiếu hiệp! Thiếu hiệp là ai, mà xử dụng chiêu Thiên-vương chưởng thực kinh nhân. Dường như lão phu đã thấy thiếu hiệp ở đâu rồi thì phải. Trọn đời lão chưa từng thấy một thiếu niên nào có chưởng lực như thiếu hiệp.
    Lão ngắm nhìn chàng rồi tặc lưỡi:
    - Này thiếu hiệp. Thiếu hiệp hãy gia nhập bản giáo đi, lão phu sẽ truyền Hồng-thiết tâm pháp cho thiếu hiệp. Chúng ta liên thủ diệt bọn Lý Công-Uẩn, lão phu lên làm vua, thiếu hiệp làm Tể-tướng. Thiếu hiệp nghĩ sao?
    Thông-Mai thấy lão điên khùng quá, chàng chỉ cười nhạt. Lão thấy chàng cười, lại tưởng rằng chàng bằng lòng, lão hỏi:
    - Cao danh quý tính thiếu hiệp là gì vậy?
    - Tiểu bối họ Trần tên Thông-Mai.
    - Chẳng hay thiếu hiệp là đệ tử của cao nhân nào vậy?
    - Sư phụ của tiểu bối họ Phan.
    Nhật-Hồ lão nhân cau mặt lại:
    - Lão nghe Phan Nam đã thu nhận con trai Trần Tự-An làm đệ tử, và truyền hết bản lĩnh cho. Thì ra là thiếu hiệp đấy. Lão phu cũng nghe thiếu hiệp vừa đi Trung-nguyên về, không biết có đúng không?
    - Đúng vậy.
    - Lão phu muốn lĩnh mấy cao chiêu của thiếu hiệp.
    Trong khi Nhật-Hồ với Thông-Mai đối đáp, Bảo-Hòa đã tung dây xuống kéo Thiệu-Thái lên. Chàng bị mười con trăn quấn lấy chân, không hiểu sao chúng đều chết cả rồi. Kim-An đưa nhát kiếm, đám trăn đứt rời ra. Quỳnh-Dao sợ Thiệu-Thái bị rắn cắn trúng độc, bà chạy lại xem xét một lát, rồi bật cười:
    - Người ta bảo độc như nọc rắn, nhưng trong người ông ỉn chứa nhiều độc tố quá, đến nỗi rắn cắn ổng, mà rắn phải chết, trong khi ổng vô sự. Khiếp.
    Thiệu-Thái cùng mọi người đứng xem Nhật-Hồ đấu với Thông-Mai.
    Thì ra Nhật-Hồ lão nhân vẫn ớn Thiệu-Thái. Lão biết rằng mình tuổi đã cao, khó có thể thắng chàng. Lão mới cho đào một hố rất sâu, rồi đóng cọc nhọn bên dưới, sau đó đổ bùn lên trên, rồi thả vào hơn chục con trăn lớn. Cuối cùng lão làm một cái phên tre đậy lên, rồi trải ít cát phủ phên. Lão nghĩ rằng nếu đấu với Thiệu-Thái bị kém thế, lão sẽ lùi dần vào trận. Đợi khi chàng bước chân lên phên tre, lão sẽ nhảy lên cao, rồi đánh xuống. Tất nhiên Thiệu-Thải ngửa tay đỡ. Sức nặng của chàng, hợp với sức ép của chưởng lão đè xuống, chàng sẽ sụt hố. Khi rơi xuống hố, chân chàng vướng vào bùn, khó mà nhảy nổi, trong khi ấy đám trăn quấn lấy chàng. Bấy giờ lão giết chàng dễ dàng.
    Không may cho lão, khi thấy lão lùi, Bảo-Hòa, Thông-Mai theo bén gót, và Thông-Mai cứu Thiệu-Thái kịp thời.
    Nhật-Hồ với Thông-Mai đã đấu được đến chiêu thứ hơn trăm. Xét về công lực, Thông-Mai tuy thấp hơn lão một chút, song chưởng của chàng là Thiên-vương chưởng, có tính chất khắc chế ma vương, quỷ dữ. Trong khi đó Nhật-Hồ đấu với Thiệu-Thái công lực yếu đi một chút, mà chưởng của lão rút trong Hồng-thiết kinh, một thứ ma quái. Ma gặp Thiên-vương, lão bị khắc chế mạnh nên không thắng được chàng.
    Thấy mỗi lúc công lực mình lại yếu đi,lão nghĩ ngay:
    - Công lực tên này tiến mau thực, hiện đã ngang với bố nó, với tên Hồng-Sơn. Ta mà dềnh dàng, e chết về tay nó như chơi. Chi bằng tìm cách đấu nội lực, rồi dùng độc tố giết tên ôn con này mới được.
    Nghĩ là làm, thình lình lúc đó Thông-Mai đánh ra chiêu Lôi-đả ân-tặc. Lão chỉ chờ có thế, lão đẩy ra một chiêu rất thô kệch đánh vào lòng bàn tay chàng. Bộp một tiếng, hai chưởng dính vào nhau. Thế là cuộc chiến trở thành cuộc đấu nội lực.
    Nhật-Hồ lão nhân dồn Hồng-thiết công lực với độc tố ra, mong giết Thông-Mai. Trong khi chàng xử dụng phản Nhật-Hồ độc chưởng của cha: Ba kinh âm thủ, ba kinh dương tấn công.
    Đúng ra, chỉ cần công lực hai người ngang nhau, thì Thông-Mai đã đẩy chất độc của đối thủ trở lại người y. Nhưng vì công lực Nhật-Hồ quá cao, hơn nữa y lại giả bái Bố-Đại hòa thượng làm sư phụ, nên được ngài truyền thiền công cho. Vì vậy công lực ba kinh dương của chàng không đủ phá tan vệ khí của lão.
    Đấu thêm được một lúc nữa, Thông-Mai bắt đầu yếu thế, chàng phải lui một bước. Bảo-Hòa đứng lược trận, nàng nói với Bảo-Dân:
    - Hôm trước Nhật-Hồ đấu với anh Thiệu-Thái, Mỹ-Linh tụng bài chú kinh Thủ-lăng-nghiêm làm cho ma tính của y yếu đi, mà anh Thiệu-Thái thắng y. Vậy bây giờ muội cũng tụng kinh lên, rồi đại ca tìm cách đưa âm thanh vào tai lão, ắt công lực lão giảm.
    Bảo-Dân lắc đầu:
    - Kinh Thủ-lăng-nghiêm chủ về khắc chế ma quỷ. Hôm trước công chúa Bình-Dương tụng kinh này lên, khiến ma công Nhật-Hồ giảm. Nhưng nay lão cũng học Thiền-công, thì e tụng lên vô ích.
    Giữa lúc Bảo-Dân, Bảo-Hòa đang bàn tán thì Quỳnh-Dao đến bên cạnh. Bảo-Hòa hỏi bà:
    - Sư thúc đã luyện Thiên-vương công, vậy sư thúc có cách nào giúp anh Thông-Mai không?
    Quỳnh-Dao cau mày suy nghĩ, rồi lắc đầu:
    - Không.
    Bảo-Hòa chợt nghĩ ra một điều:
    - Các khó của anh Thông-Mai là không biết cách nào phá được ba vệ khí của ba kinh dương lão. Hôm trước nghe sư bá Tự-An bàn với Hồng-Sơn đại phu rằng: Khi luyện Hồng-thiết kinh đệ tử Hồng-thiết giáo phải bế các lỗ chân lông lại. Nếu không thì chân khí thoát ra hết. Vậy bây giờ sư thúc có cách gì tung cho anh Thông-Mai viên thuốc gì đó, đẩy vào người lão Nhật-Hồ, khiến mồ hôi lão vã ra, thì chân khí theo đó thất thoát, anh Thông-Mai có thể phá vệ khí của y.
    Quỳnh-Dao gật đầu:
    - Quận chúa đúng là tiên nữ, kiến thức khôn lường. Cô có thứ thuốc đó. Thuốc mang tên là Phát hãn hoàn nếu thuốc này vào da người thường thì chỉ hơi ra mồ hôi mà thôi. Còn vào người bệnh, hoặc lão Nhật-Hồ thì mồ hôi ra như tắm.
    Kim-An hỏi:
    - Thuốc đó chữa cảm mạo mà.
    - Đúng thế. Thuốc gồm có Quế-chi, Sinh-khương, Ma-hoàng, Bạc-hà, Cam-thảo. Để cô tung cho lão mấy viên.
    Quỳnh-Dao móc túi lấy ra ba viên thuốc, bà vận khí sẽ bắn lên cao, thuốc biến thành đám bụi rơi xuống người Nhật-Hồ. Giữa lúc đó lão hít hơi vào. Thuốc nhập phế, da, người lão trở thành cực kỳ khoan khoái, lão hướng bà:
    - Đa tạ phu nhân.
    Người lão nóng bừng lên, rồi mồ hôi từ từ xuất ra. Lúc đầu lão thấy khoan khoái, nhưng sau một lúc mồ hôi ra nhiều quá, lão cảm thấy chân khí yếu đi dần dần. Lão muốn cố cơ cho lỗ chân lông đóng lại mà không được. Nếu lão cố cơ, thì chân khí Thông-Mai sẽ phá vệ khí vào người lão.
    Cứ thế Thông-Mai đẩy chân khí tấn công lão, lão vẫn phải dồn chân khí chống với chàng, vệ khí theo da căng phồng lên, rồi thoát ra với mồ hôi. Lão kinh hãi, nhưng không thể thu công lại, mồ hôi với vệ khí cứ thế tuôn ra. Biết không tránh được cái chết, lão buông lỏng chân khí cho Thông-Mai thúc vào tạng phủ lão, lão vận khí vào tay trái đấm ngực một cái, chiếc túi da trước ngực lão phun thành vòi nước bắn vào người Thông-Mai. Thông-Mai nhắm mắt chịu đựng, vì chàng tự hiểu rằng chất độc của lão bị vệ khí trên người chàng ngăn lại.
    Nhật-Hồ lão nhân biết thế, lão nghĩ:
    - Đằng nào ta cũng chết, thì cùng chết với tên này.
    Lão thu tay về, rồi ôm lấy Thông-Mai, miệng lão cắn vào má chàng, đứt một miếng. Trong khi Thông-Mai vẫn dùng phản độc chưởng tấn công, quyết giết lão. Người lão bị chân khí của Đông-a, Sài-sơn tấn công khiến lão hóa điên, hai tay lão ôm cứng lấy chàng, miệng ngoặm đứt từng miếng thịt trên mặt chàng. Những vết thương trên mặt Thông-Mai không nặng, nhưng thuốc thấm vào thịt, chàng đau quá thét lên một tiếng khiến mọi người điếc tai. Mặt chàng bị mất năm sáu miếng thịt. Chàng phóng vào người lão chiêu Thiên-vương trấn thiên. Thân hình lão bay bổng lên cao. Chàng phóng theo chiêu Thiên-vương hồi thể. Mọi người đều khoan khoái:
    - Rồi đời đại ma đầu.
    Nhưng thình lình từ phía sau trận, một người thét như sấm nổ, y phóng liền hai chiêu vào người Thông-Mai.
    Mặt Thông-Mai mất mấy miếng thịt, máu me trông thực khủng khiếp, nhưng trí minh mẫn vẫn còn. Chàng đã đấu hàng trăm trận, kinh nghiệm có thừa, chàng thấy phía sau bị tấn công, bèn đổi chiều chiêu đó xuống thấp đỡ chưởng của người kia. Người kia bay bổng lên cao, thân hình vỡ làm năm, sáu mảnh, thịt với máu me bay tứ tung. Thoáng nhìn mặt kẻ đánh trộm, Thông-Mai thấy rõ y là trưởng lão Vũ Hào.
    Trong khi Thông-Mai giết Vũ Hào thì Nhật-Hồ đã rơi xuống ngay trước mặt chàng, người lão lắc lư không vững. Cơn giận của Thông-Mai vẫn chưa dứt, chà phát chiêu Thiên-vương kị mã hướng vào ngực lão, người lão lại bay tung lên cao, rồi rơi xuống đất, lão dãy dụa mấy cái, sau đó nằm im. Sợ lão giả chết, chàng bồi thêm chiêu Lôi-đả Ân-tặc, thân hình của lão dập nát như miếng thịt bằm chả.
    Sau khi giết Nhật-Hồ, Thông-Mai mới cảm thấy đau đớn, chàng rú lên khủng khiếp, mặt chàng lồi lõm, máu me trông thực khủng khiếp. Bảo-Hòa vội điểm vào huyệt Hạ-quan, Cư-liêu của chàng để trấn tĩnh cơn đau. Thiệu-Thái lạng người đến bồng Thông-Mai đem vào thành cứu chữa.

    Khai-Quốc vương ôm đầu ngồi nhìn thi thể Ngô An-Ngữ. Cạnh An-Ngữ là Hàn Diệu-Chi, Bảo-Dân, Kim-An. Chư tướng đứng xung quanh nhìn An-Ngữ, người người đều nhỏ lệ. Vương ôm hai trẻ Thường-Kiệt, Thường-Hiến trong lòng, không biết nói sao. Từ hôm xẩy ra trận đánh, bên giặc lớn nhất là Nhật-Hồ lão nhân với mười tám trưởng lão đều bị giết. Phía vương chỉ có mình An-Ngữ tuẫn quốc. Tuy rằng thắng, nhưng vương đau đớn vô cùng, vì An-Ngữ ngoài tình chúa tướng với thuộc hạ, ông còn là sư huynh của vương phi. Một sư huynh thân tín nhất của vương. Vương nói:
    - Sư huynh, người tuy vì nước tuẫn quốc, nhưng anh linh sẽ còn mãi với Đại-Việt. Bây giờ sư huynh vắng mặt, đệ sẽ thay sư huynh nuôi dạy các cháu, sao cho sau này chúng làm lên sự nghiệp vẻ vang. Đệ đã thượng biểu tâu lên phụ hoàng để truy phong cho tứ sư huynh.
    Hàn Diệu-Chi chắp tay:
    - Đa tạ vương gia chiếu cố.
    Chợt có chim ưng mang thư từ kinh về, Lê Thuận-Tông vội lấy thư trình Khai-Quốc vương. Vương hô lớn:
    - Tất cả quỳ gối nghe chiếu chỉ.
    Mọi người đều quỳ gối. Vương cầm chiếu đọc:
    Thừa thiên hưng vận, Đại-Việt hoàng-đế chiếu viết:
    Từ khi vua Hùng dựng nước đến nay, trải ba nghìn năm, đời nào đất Đại-Việt ta cũng có anh hùng, liệt nữ, nghĩa sĩ hy sinh bảo vệ đất tổ, che chở cho muôn dân. Đến nay, khắp giang sơn, không nơi nào mà không có đền thờ, quanh năm hương khói.
    Trẫm ứng lòng người, thuận lòng trời, cai trị muôn dân trải mười tám năm thanh bình. Vừa rồi bọn Nhật-Hồ lừa dối, xúi dục chư vương làm phản. Nhưng may nhờ liệt tổ anh linh phù hộ, cùng chư quân tướng hết lòng vì xã tắc, giặc đã tan.
    Sùng-ban lang tướng Ngô An-Ngữ, trước đã thay Khai-Quốc vương trấn Trường-yên, chống lại phản tặc suốt mấy tháng nay. Tài trí cùng lòng trung-nghĩa thấu tới trời xanh. Chẳng may trong trận đánh, vị quốc vong thân, trẫm thương xót vô cùng. Nay trẫm ban cho đôi câu đối:

    Đã đem xương máu đền non nước,
    Còn mãi tinh thần với gió trăng.
    Chiếu công lao, truy phong chức tước như sau:
    Thái-tử thái phó,
    Tả kim ngô thượng tướng quân,
    Đồng trung thư môn hạ bình chương sự,
    Trường-yên tiết độ sứ,
    Côi-sơn quốc công.


    Vợ là Hàn Diệu-Chi, đeo kiếm cùng chồng, vào sinh ra tử có thừa, nay trẫm phong cho làm: Công chúa Bảo-Trung.
    Hai con Ngô Tuấn tự Thường-Kiệt, Ngô Hiến tự Thường-Hiến trao cho Khai-Quốc vương nuôi dạy, ban cho mang họ Lý.
    Khâm thử.
    Hàn Diệu-Chi cùng hai con lạy tạ. Thường-Kiệt, Thường-Hiến hướng Khai-Quốc vương lạy tám lạy, gọi vương:
    - Phụ vương.
    Vương đỡ hai cháu dậy, nói trong nước mắt:
    - Bố không thích con gọi bố là phụ-vương, mà gọi là bố nghe thuận tai hơn.
    Vương chỉ Thiệu-Thái, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh:
    - Trước bố đã nuôi các anh các chị rồi. Còn Nhật-Tông đang ở Thăng-long nữa, bây giờ thêm hai con là sáu. Trong các anh, các chị đây, con muốn ai sẽ dạy con?
    Thường-Kiệt chạy lại ôm lấy Bảo-Hòa, còn Thường-Hiến ôm lấy Thiệu-Thái. Khai-Quốc vương ôn tồn nói với các con nuôi:
    - Thiệu-Thái, Bảo-Hòa phải hết sức chiếu cố cho hai em, thay bố dạy các em. Nếu các em không nên người là các con có tội với xã tắc đó.
    Vương truyền khâm liệm Ngô An-Ngữ, đợi đưa về quê an táng. Mọi người đến y viện thăm bệnh tình Thông-Mai.
    Thông-Mai đã tỉnh lại, tuy chàng đau đớn đến gần như mê man, nhưng vì nội công cao cường, chàng vẫn nhận biết mọi sự. Bên cạnh chàng, Bảo-Hòa ngồi ủ rũ, đầy vẻ lo lắng. Thấy chàng tỉnh dậy, Bảo-Hòa mừng qúa:
    - Đại ca! Đại ca có nhận ra em không?
    Thông-Mai nói trong hơi thở thều thào:
    - Bảo-Hòa, anh chưa chết sao? Trong cơn mê anh cứ nghĩ là mình chết rồi.
    Chàng nắm tay Bảo-Hòa:
    - Bảo-Hòa ạ! Anh sinh ra là con một đại-tôn sư võ học, nhưng bất hạnh giáng xuống nhà anh, mẫu thân anh bị bọn Hồng-thiết giáo làm nhục đến chết. Anh phẫn chí bỏ đi tu, cơ duyên đưa đẩy, anh học được trọn vẹn bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, rồi anh gặp sư phụ. Người cũng như anh, thầy trò cùng căm hận bọn Hồng-thiết giáo, ngày đêm mưu tru diệt chúng. Trong đại hội Lộc-hà, anh đã giết chết tên ma đầu dâm đãng cùng cực nhất thiên hạ là Lê Ba. Sau đó anh với Bảo-Hòa âm thầm sang Trung-nguyên giúp sứ đoàn. Một lần nữa chúng ta lại thành công trong việc diệt bọn ma đầu ở Khúc-giang, biến cải Trường-giang thất quỷ, bang Nhật-hồ thành Thiện-nhân. Cuối cùng là trận đánh trong thành Biện-kinh, tưởng đâu sau trận đó, chúng bị tuyệt diệt...Anh em mình sẽ như đôi chim, ngao du khắp thắng cảnh của đất nước, cùng nhau hưởng thanh phúc.
    Chàng ngừng lại, vì khi nói, các vết thương trên mặt bị động, miệng nứt ra, đau đớn cùng cực. Chàng thở dài:
    - Chúng ta cứ tưởng rằng khi đại thể tan nát, thì tất cả đều tan nát. Bọn Hồng-thiết ở Trung-nguyên bị diệt, ắt bọn sâu bọ con con ở Đại-Việt sẽ tỉnh. Nhưng... chúng ta chỉ lượng được kẻ trí, mà không lượng được bọn điên điên khùng khùng như Nhật-Hồ, như Nhất-Trụ, chẳng ai ngờ chúng dám nổi loạn. Bây giờ chúng bị tận diệt, đất nước trải qua một thời gian yên ổn. Nhưng...
    ... Nhưng tuy anh giết được ma đầu Nhật-Hồ, thì anh không còn là anh nữa. Thân thể anh ra thế này thì còn sống làm gì. Bảo-Hòa ạ, em còn trẻ quá, em đẹp quá, tương lai em còn nhiều, em...
    Đến đây chàng riu riu rồi ngủ đi, vì thuốc an thần đã ngấm.
    Khai-Quốc vương hỏi Quỳnh-Dao:
    - Hoàng phu nhân! Cháu Thiệu-Thái đã hút hết chất độc trong người Thông-Mai ra rồi, mà sao Thông-Mai vẫn còn mê man như vậy?
    - Vương gia ơi! Cháu Thông-Mai bị trúng hai thứ độc một lúc. Một là độc trong bầu trước ngực Nhật-Hồ vào da, vào người. Sau đó chính độc do răng lão cắn mà truyền vào. Hai thứ độc đó hỗ tương công phá tạng phủ. Khi Thân thế tử hút hết ra, thì độc tố đã làm hại não, tâm, thận, bây giờ họa chăng sư phụ hay Hồng-Sơn sư huynh hiện diện thì mới hy vọng.
    - Thế nhưng lão tiên Phan Nam với sư bá Hồng-Sơn không biết vân du nơi nào mới khổ.
    - Hiện cơ thể cháu Thông-Mai đang kịch chiến với độc chất. Nếu cháu thắng, thì tự nhiên bệnh khỏi. Còn cháu bại thì...
    Bà thở dài não nuột, rồi cầm kim châm vào mấy huyệt Nội-quan, Túc-tam-lý, Thái-khê, Thái-xung. Sau cùng bà châm vào huyệt Tố-liêu, rồi bà nói bâng quơ:
    - Đành vậy, cố gắng, biết đâu.
    Bảo-Hòa gọi Thiện-Lãm:
    - Em cho chim ưng đem thư về Vạn-thảo sơn trang, kể rõ tình hình bệnh trạng đại ca Thông-Mai, nhờ Văn đệ cho chim ưng mang thi đi khắp bẩy trăm y viện của đệ tử Sài-sơn, nhờ họ tìm sư phụ của cô hoặc Hồng-Sơn đại phu dùm.

    <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.02.2005 03:02:05 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 21.01.2005 17:49:46 (permalink)
      Hồi thứ một trăm hai mươi tám



      Thế giới Phật A-Di-Đà




      Chim ưng mang thư đi một lát thì trở về với thư của Lê Văn tường trình việc chiếm lại Vạn-hoa sơn trang. Hà Thiện-Lãm đưa cho Khai-Quốc vương. Vương cầm thư đọc cho mọi người nghe:
      Kính trình anh cả là Khai-Quốc vương.
      Em cùng với đoàn võ sĩ phái Tiêu-sơn lên đường buổi sáng, thì xế trưa tới Vạn-thảo sơn trang. Trong khi đi đường, bọn em cứ tưởng sẽ có trận đánh nhau khủng khiếp với bọn Hồng-thiết giáo. Không ngờ khi tới nơi thì đoàn Ưng-sơn đã đánh chiếm lại từ bao giờ. Họ để nhóm người của phái Tha-nôm giữ trang. Còn lại họ lên đường chiếm Vạn-hoa sơn trang.
      Khi đánh chiếm Vạn-thảo sơn trang, Nhật-Hồ lão nhân sai tên Vũ Hào chỉ huy giáo chúng. Chiếm được trang rồi, y đuổi tất cả bệnh nhân ra, những bệnh nhân này đói khát, lê lết ăn mày, chết dần, chết mòn ở dọc đường. Chúng dành sơn trang để chữa đám giáo chúng bị thương. Tuy vậy chúng không giết một y sĩ nào cả.
      Thái-tử An-Nan thuật lại rằng trước khi khởi sự trận đánh, Ưng-sơn nam hiệp hứa: Nếu giáo chúng nào đầu hàng thì được tha, còn kẻ nào chống đối, sẽ giết chết. Vì chúng chống đối, nên sau khi chiếm trang, Ưng-sơn nam hiệp sai giết sạch, tổng cộng hơn năm trăm đứa, mà gốc gác toàn xuất thân từ trộm cướp, đầu trâu mặt ngựa.
      Tuy nhiên Ưng-sơn nữ hiệp khuyên không nên giết bọn bị thương. Vì vậy lúc em về, vẫn để các y sĩ trị thương cho họ. Trang hiện đã trở lại bình thường. Đội võ sĩ Tiêu-sơn nhận được thư của Minh-Không Bồ-tát bảo phải về chùa ngay. Em đã kính cẩn tiễn đưa họ lên đường sáng nay.
      Được thư tiên cô nói anh Thông-Mai bị thương nặng, em đã cho chim ưng mang thư đi 711 y viện, để họ cùng tìm Thái sư-phụ với bố em. Nếu tin này đến tai Thái sư-phụ hay bố em, hẳn người sẽ trở về trị bệnh cho anh ấy ngay. Em vẫn trấn tại đây, không dám đi đâu xa cả. Còn anh, em nghĩ anh nên về Thăng-long ngay để ổn định mọi việc.

      Khai-Quốc vương họp chư tướng để ban lệnh. Vương thấy thiếu hai sư thúc Hoàng Hùng, Trần Kiệt với đội võ sĩ phái Đông-a. Vương hỏi Thuận-Tông:
      - Hai vị sư thúc đâu rồi?
      Thuận-Tông đáp:
      - Hai sư thúc cùng đội võ sĩ Đông-a giúp bọn em đuổi theo bọn Hồng-thiết giáo cửa Tây. Khi đuổi đến khu rừng Nhạn-sầu thì tiêu diệt hết không còn tên nào. Hai sư thúc lệnh cho em với Lãm đem quân về thành. Người nhờ em thưa với anh rằng người phải về chỉnh đốn lại các trang ấp vùng Thiên-trường. Sau khi chỉnh đốn xong, người sẽ về Thăng-long gặp anh hầu bàn kế sách sao cho dân giầu nước mạnh.
      Khai-Quốc vương truyền xét công thăng thưởng cho chư quân. Vương truyền đạo Đằng-hải vào trấn Nghệ-an. Đạo Ngự-long, Bổng-nhật đóng lại Trường-yên đặt trực thuộc Lý Nhân-Nghĩa, để lùng bắt hết dư đảng Hồng-thiết giáo vùng Trường-yên, Cửu-chân. Vương với chư tướng khẩn lên đường về Thăng-long.
      Vương truyền:
      - Đạo Phong-châu, Thượng-oai do hạm đội Bạch-đằng chở thẳng lên vùng Thăng-long, rồi từ Thăng-long theo đường bộ về Bắc-biên.
      Vương cùng với đám Bảo-Hòa, Thiệu-Thái, Mỹ-Linh lên đường về Thăng-long bằng đường bộ.
      Bỗng y sĩ điều trị cho Thông-Mai mặt tái nhợt chạy vào cung tay hành lễ với Khai-Quốc vương:
      - Khải tấu vương gia.
      Khai-Quốc vương giật mình:
      - Việc gì đã xẩy ra?
      - Thưa, thần xuống bếp sắc thuốc cho đại hiệp Thông-Mai uống. Khi thần bưng thuốc lên thì không thấy đại hiệp đâu cả.
      Khai-Quốc vương cùng chư tướng chạy vào, thì thấy giường Thông-Mai nằm trống trơn. Cả bọc quần áo của chàng cũng biến mất.
      Vương hỏi Bảo-Hòa:
      - Cháu thử đoán xem, việc gì đã xẩy ra?
      - Theo cháu nghĩ, có lẽ anh Thông-Mai tỉnh dậy, vì phẫn chí bởi những vết thương trên mặt, nên đã bỏ đi rồi.
      Tôn Đản lắc đầu:
      - Không thể như thế được. Nếu anh Thông-Mai tỉnh dậy, ắt sẽ gọi chúng ta, chứ có đâu bỏ đi?
      Mỹ-Linh chỉ đôi guốc, cùng dầy của Thông-Mai:
      - Nếu anh ấy đi đâu, thì phải đi dày dép, chứ đâu có đi chân không? Theo cháu nghĩ, một nhân vật nào đó mang anh ấy đi, nên mang cả hành lý của anh ấy theo. Có thể là lão tiên Phan Nam hay Hồng-Sơn đại phu đã đem anh ấy đi để trị bệnh.
      Cẩm-Thi bàn:
      - Không lẽ? Nếu hai đại-tôn sư đó đến đây, thì với thân phận lớn lao, hai vị đã xuất hiện gặp chúng ta, chứ có đâu âm thầm mang anh ấy đi như vậy? Còn người mang anh ấy là kẻ thù, thì chúng mang theo làm gì? Trong cũng như ngoài thành hiện quân sĩ đóng chật ních, kẻ nào mà có bản lĩnh vác anh ấy đi khiến cho không ai biết?
      Chợt Lý Thường-Kiệt hít hít hơi rồi nói:
      - Con nghĩ là Di-Lặc tôn Phật đã mang sư thúc Thông-Mai đi thì đúng hơn. Vì lúc mới vào đây con ngửi thấy mùi trầm hương. Mùi này khác với mùi của tiên cô Bảo-Hòa.
      Lời của Thường-Kiệt làm mọi người tỉnh ngộ, vì khi mới vào ai cũng thấy mùi trầm cả, nhưng mọi người cứ tưởng mùi ấy từ người Bảo-Hòa xông ra. Nay Thường-Kiệt nói họ mới chú ý phân biệt. Mọi người đưa mắt nhìn đại sư Huệ-Sinh như cùng thỉnh ý kiến. Đại sư khoan thai đáp:
      - Có thể là Thái sư-thúc thực. Hành trạng của ngài thực khó mà lường được. Chúng sinh hàng ngày niệm kinh A-Di-Đà với hy vọng được gặp ngài. Đại-hiệp Thông-Mai đã gặp may. Có thể hành trạng tru diệt ma vương quỷ dữ của đại-hiệp Thông-Mai đã thấu đến tâm ngài, nên ngài đón đi cứu chữa cho chăng?
      Ngài thấy Bảo-Hòa sụt sùi khóc, thì an ủi:
      - Tiên cô chẳng nên buồn mà chi. Trên thế gian hàng ngày, có đến ức ức, triệu triệu người niệm kinh A-Di-Đà với hy vọng khi lâm chung được ngài mang về thế giới Tịnh-độ. Xét hành trạng của Thông-Mai, khi mẹ chết bỏ đi tu trong chùa Sơn-tĩnh, nơi ngài chịu giam để trả quả. Hiếu tâm của thiếu hiệp đã động đến ngài. Rồi trong đại hội Thăng-long, khi sang Trung-quốc, thiếu hiệp tru diệt biết bao nhiêu ma vương quỷ dữ, mới đây diệt đại ma đầu Nhật-Hồ vì vậy ngài đến độ cho. Hoặc ngài đem đi chữa bệnh cũng nên. Hà, trong chúng thế gian biết bao nhiêu người đi tu, chỉ mong đắc pháp hoặc thoát được lẽ sinh, lão, bệnh, tử về thế giới Tịnh-độ. Mà nay Thông-Mai bỗng chốc thành chính quả, thì thực đại phúc hiếm có.
      Bảo-Hòa vẫn khóc:
      - Đại sư an ủi cháu đấy thôi, chứ cháu nghĩ anh ấy mười phần chết may mới có một phần sống. Nhất định anh ấy phẫn chí vì những vết thương trên mặt. Nay anh ấy tỉnh dậy, bỏ đi cho mọi người khỏi thấy... Hoặc anh ấy bị kẻ gian bắt đi mất rồi. Cháu, cháu phải tìm cho ra vụ bí mật này.
      Nói rồi nàng tung mình chạy ra ngoài, tới chân thành, nàng nhấp nhô mấy cái, đã vượt ra ngoài. Thiệu-Thái, Mỹ-Linh cùng đuổi theo:
      - Bảo-Hòa! Bảo-Hòa nghe anh nói đã.
      - Chị Bảo-Hòa! Đừng! Chờ em!
      Nhưng khi hai người lên mặt thành, thì không thấy bóng dáng Bảo-Hòa đâu nữa.
      Đoàn người ngựa của Khai-Quốc vương kéo cờ đại thắng lên đường về Thăng-long. Đi đầu là một viên Đô- thống, với mười ngựa, bên phải là lá cờ Phụ quốc thái úy, tả tướng quốc bên trái là lá cờ Khai-Quốc vương. Vương ngồi trên cỗ xe song mã đo Lý Thường-Kiệt điều khiển. Phía sau vương còn có Mỹ-Linh, Thường-Hiến. Rồi tới xe của công chúa Bảo-Trung trên có Kim-An, Cẩm-Thi, Tĩnh-Ninh.
      Đoàn người ngựa còn cách Thăng-long mười dặm, thì đã thấy Vũ-Uy vương, Khai-Thiên vương ra đón. Khai-Quốc vương thấy bác với anh đi đón, vương vội hô chư tướng xuống xe hành lễ. Vương cung tay:
      - Thực nhọc thúc phụ cùng huynh trưởng.
      Bác, cháu, anh em cầm tay nhau, nghĩ lại việc vừa qua, cùng chảy nước mắt. Chợt một bàn tay nhỏ bé nắm lấy tay vương. Vương nhìn lại thì ra Nhật-Tông. Vương bế bổng cháu lên mà hôn. Nghĩ đến Liên-Phương gặp biết bao gian truân, khiến cho Nhật-Tông phải mồ côi. Vương trao Nhật-Tông cho Mỹ-Linh. Mỹ-Linh ôm chặt lấy em, rồi đặt nó lên ngồi cùng xe.
      Ba vương cùng ngồi trên xe vào thành. Dân chúng kéo nhau ra đầy đường thắp hương đón Khai-Quốc vương bình giặc trở về. Khai-Quốc vương nói với Khai-Thiên vương:
      - Khuất thân cầu hiền, dự mưu, ước kế, cùng xung phong hãm trận anh không bằng em. Nhưng an ủi trăm họ, tổ chức cai trị, muôn ngàn lần em không bằng anh. Trận giặc Thăng-long vừa qua như vậy, mà chỉ hơn hai tháng, anh đã làm cho trăm họ trở lại thanh bình như thủa nào, thực chỉ vua Trưng mới hơn được.
      Vương tiếp:
      - Thời Lĩnh-Nam, công chúa Thánh-Thiên chia tướng làm ba loại. Một là đại-tướng, ngồi trên yên ngựa mà an thiên hạ. Hai là đại-tướng vỗ an trăm họ, tổ chức cai trị khiến cho dân ấm no, hạnh phúc. Ba là tướng xung phong hãm trận. Cứ xét việc đem đạo Ngự-long vào trấn Hoàng-thành của anh thực vụng về quá đáng. Nếu việc đó ở tay em thì không đến nỗi. Nhưng sau cơn binh lửa, lòng người ly tán, trăm họ sợ hãi, thế mà chỉ hai tháng qua, anh thay phụ-hoàng cầm quyền, khiến cho đời sống phồn thịnh hơn xưa, quả thực anh có tài của vua Trưng của tể tướng Phương-Dung. Anh là tướng của thời bình.
      Thiệu-Thái nói:
      - Con nghĩ cậu cả có tài cai trị, vỗ an bách tính, mà không có đức cầu hiền tài, uy trấn an bờ cõi cùng đồi phó với phương Bắc của cậu hai thực nguy vô cùng. Ngược lại uy, đức của cậu hai mà thiếu tài cai trị của cậu cả thì dân không hạnh phúc. Do đó, trời mới sinh ra hai cậu để an định trăm họ Đại-Việt. Con nghĩ cậu cả, cậu hai, cậu nào làm vua cũng thế. Vấn đề quan trọng là hai cậu cùng hợp lại, thì nước mới yên, mà dân mới hạnh phúc.
      Từ khi nghe người ta thuật chuyện Thiệu-Thái, Mỹ-Linh đi sứ Tống làm những truyên ngoài sức tưởng tượng của vương. Khai-Thiên vương đã gạt bỏ hoàn toàn ác cảm đối với chàng. Vương đưa tay vỗ vai cháu:
      - Nhưng cả ta với cậu hai chập lại cũng không bằng mạ mạ cháu. Làm vua Bắc-biên khó vô cùng.
      Không thấy Thanh-Mai đâu, Thiệu-Thái hỏi:
      - Thưa cậu, mợ hai...
      - À, mợ về tới nơi, thì vội vào chầu ông ngoại. Con biết đó, trong tất cả con gái, con dâu, thì mợ hai hợp với ông nhất, nên trong lúc trận Trường-yên còn diễn ra, ông cứ hỏi thăm tin tức mợ hai hoài. Nghe tin mợ hai về, ông gọi vào chầu, để nghe mợ hai tâu trình về trận đánh. Ta... ta nhờ mợ hai trong khi tấu với ông, xin ông ân xá cho Dực-Thánh vương, Vũ-Đức vương và Đông-Chinh vương. Không biết kết quả ra sao.
      Vương hỏi Mỹ-Linh:
      - Con có biết rằng tội con nặng lắm không?
      Mỹ-Linh kinh hãi:
      - Thưa phụ vương, thực con không biết.
      - Hừ! Con đã từng theo chú hai làm việc ở trấn Thanh-hóa, rồi dự trận Lộc-hà, đi sứ Trung-nguyên. Như vậy hẳn con biết rõ quân luật chứ?
      Mỹ-Linh lạnh gáy:
      - Dạ con biết.
      - Khi trận đánh Yến-vĩ diễn ra, trong các tướng, thì con có chức tước lớn hơn hết. Thế mà Hồng-Phúc phạm các trọng tội không thể được ân xá là: Vi phạm lệnh, bảo trấn cửa Tây, lại mở cửa, đánh vào trong, khiến giặc có đường rút lui. Làm gian tế, cung cấp tin cho giặc. Giết tướng bên mình. Cả ba tội đều đáng giết cả nhà. Đáng lẽ con phải sai võ sĩ chặt đầu nó ngay để an lòng tướng sĩ, thì con lại vẫn cho nó cầm quân, đến nỗi hút nữa mặt trận Trường-yên tan.
      Mỹ-Linh tự biết tội, nàng cúi đầu:
      - Con xin chịu tội.
      - Mai phi bị Ưng-sơn giết chết, ta thực thâm cảm vô cùng, bằng không chính ta phải chặt đầu thị. Bảo-Hòa xử tội Hồng-Phúc như vậy là nhẹ đấy. Ta đem thi thể mẹ con Đinh phi về quê an táng, chứ không cho táng ở khu lăng tẩm họ Lý. Còn mẹ con, đã có chỉ ân xá của ông thì vẫn được chôn cất theo lễ vương-phi như thường.
      Nghe anh xử lý việc nhà, Khai-Quốc vương mới nhận thấy rằng mình quá hiền, câu nệ tiểu tiết, luôn xử sự bằng tình cảm. Xử sự bằng tình cảm, thì tuy dễ thu phục lòng người, nhưng việc gìn giữ luật lệ cùng điển chế, kỷ cương quốc gia thiếu nghiêm minh. Hình ảnh cũ hiện về: Việc giết mụ Ngô Bách-Vân, cùng bọn Phạm Trạch, Đàm An-Hòa, Hoàng Văn là do đám trẻ không chịu nổi lối xử sự ôn hòa của vương, chúng phải lấn quyền vương mà làm. Cho đến Đàm Can cũng do Lê Văn giết.
      Vương tự nhủ:
      - Vào thời mạt pháp này, mình khó có thể áp dụng đức từ-bi của nhà Phật vào việc trị nước. Phải dùng Nho mới được. Về phương diện thẳng tay với kẻ ác, mình thua Thông-Mai, Bảo-Hòa đã đành, mà thua cả Lê Văn nữa. Có lẽ mình phải hành sự theo Tự-Mai mới được.
      Nghĩ vậy, trong tâm vương nảy ra ý không muốn làm vua.
      Bỗng có ba kị mã chạy ngược chiều từ xa lại, phía sau một đội Thị-vệ đuổi theo. Ba kị mã cúi gập người xuống, tay ra roi. Dường như ba người đã nhìn thấy đội binh Khai-Quốc vương, nên họ phóng đại ngựa xuống một khu đồng. Mỹ-Linh tinh mắt, nàng kêu lên:
      - Ba người chạy trước là Vũ-Đức vương, cùng hai tùy tòng là Vũ Ngọc-Phụng, Chu Tấn. Còn người đuổi theo là Lê Phụng-Hiểu với đội Thị-vệ.
      Bảo-Dân, Tôn Đản, Kim-An, Cẩm-Thi vội phi ngựa lên chặn đầu ba người.
      Hai ngựa của Chu Tấn, Vũ Ngọc-Phụng phi thẳng vào khu làng xóm, còn ngựa của Vũ-Đức vương thì bị khụyu gối, hất vương ngã lăn xuống đường. Lê Phụng-Hiểu đuổi tới, ông đưa một đao chặt Vũ-Đức vương làm hai khúc, rồi cắt lấy đầu.
      Diễn biến xẩy ra đột ngột, vả từ chỗ Vũ-Đức vương đến xe của Khai-Quốc vương còn cách xa đến hơn ba dặm, dù vương có muốn can thiệp cũng không được.
      Bảo-Dân chỉ đánh có ba chưởng, ông đã điểm huyệt bắt được Chu Tấn. Còn Vũ Ngọc-Phụng bị Tôn Đản dùng Lĩnh-Nam chỉ điểm ngã.
      Tôn Đản hỏi Lê Phụng-Hiểu:
      - Lê tướng quân, cái gì đã xẩy ra?
      Lê Phụng-Hiểu chưa kịp trả lời, thì xe Khai-Quốc vương đã tới nơi. Lê quỳ gối phủ phục đầu xuống đất khóc:
      - Tiểu tướng vô tài, xin vương gia chặt đầu cho đáng tội.
      Khai-Quốc vương nhảy xuống xe đỡ Lê dậy:
      - Vũ-vệ đại tướng quân, việc gì vậy?
      Trong khi Lê Phụng-Hiểu xụp lạy Khai-Quốc vương thì Mỹ-Linh đã đem thi thế, cùng đầu Vũ-Đức vương để lên một chiếc xe.
      Lê Phụng-Hiểu khóc:
      - Tiểu tướng theo hầu vương phi đưa Vũ-Đức vương về. Đúng luật thì vương bị bỏ vào trong tù xa giải đi. Nhưng vương phi tha cho vương cái nhục nhã đó, cho vương cỡi ngựa đi như thường. Chỉ hai tùy tùng của vương bị bỏ vào cũi mà thôi. Về tới Thăng-long, thần giao vương với hai tùy tùng cho Khu-mật viện giữ cùng với Dực-Thánh vương, Đông-Chinh vương. Còn vương phi vào tẩm cung triều kiến Hoàng-thượng. Hoàng-thượng nổi lôi đình truyền đem ba vương ra xử trảm, vợ con thì bị cách làm thứ dân, đuổi khỏi kinh thành.
      Khai-Thiên vương gật đầu:
      - Phụ hoàng thực minh kiến. Có như vậy mới làm gương cho bọn gian thần, tặc tử.
      - Vương phi khóc lóc, khẩn thiết xin Hoàng-thượng ban chỉ ân xá hoàn toàn cho Dực-Thánh vương, Đông-Chinh vương, vì trót nghe lời xui dại của Nhật-Hồ. Còn Vũ-Đức vương tội quá nặng, chỉ xin được tha tội chết, rồi cách làm thứ dân. Hoàng-thượng còn lưỡng lự, thì vương phi đem chuyện phái Đông-a cùng chư vị đại hiệp tiếp cứu như thế nào tâu lên, làm cho long-tâm vui vẻ. Nhưng hoàng thượng vẫn chưa quyết định.
      Lê khóc:
      - Giữa lúc đó có biểu tâu về việc giết Nhật-Hồ lão nhân, quốc công An-Ngữ tuẫn quốc, đại hiệp Thông-Mai bị thương nặng chưa biết sống chết ra sao. Hoàng thượng xót xa không ít. Nhân đó vương phi lại phủ phục xuống tâu xin tha tội chết cho Vũ-Đức vương. Hoàng thượng mủi lòng, tuyên chỉ ân xá cho vương, nhưng vương phải đem vợ con rời khỏi vương phủ trong ngày.
      Lê Phụng-Hiểu òa lên khóc lớn:
      - Vương phi đem chỉ ân xá đến Khu-mật viện tuyên đọc. Hai vị Dực-Thánh vương, Đông-Chinh vương vội vào cung Long-thụy tạ ơn Hoàng-thượng. Trong chỉ Hoàng-thượng chỉ ân xá cho Vũ-Đức vương cùng gia quyến, chứ không nói ân xá cho hai tên Chu Tấn cùng Vũ Ngọc-Phụng. Nhưng Vũ-Đức vương khẩn thiết xin vương phi lấy lý hai tên này cũng là gia nhân của vương, mà ân xá cho chúng. Vương phi đồng ý.
      Khai-Thiên vương chỉ vào thây Vũ-Đức vương:
      - Rồi sau ra sao mà đến nông nỗi này?
      - Trong lúc quan Đình-úy đem thị vệ đến để trục xuất những người trong vương phủ Vũ-Đức vương, thì vương với hai tên này đến phủ Khai-Quốc vương cảm tạ vương phi. Vương xuất một bình rượu, thân rót ra chung mời vương phi, với lời lẽ thống thiết : Đứa em trăm lần chết được chị cứu sống, thực là chị đẻ ra em một lần nữa. Từ nay quan sơn cách trở khó mà gặp nhau, xin chị uống với em một chung rượu từ biệt. Vương phi bùi ngùi uống liền ba chung. Không ngờ khi uống xong, thì vương phi lảo đảo ngã xuống.
      Mọi người đều bật lên tiếng kêu kinh ngạc:
      - Ủa!
      - Ái chà!
      _Trời ơi!
      Lê Phụng-Hiểu tiếp:
      - Thần chờ ở ngoài, nghe tiếng vú Hậu kêu thét lên, vội chạy vào, thì chỉ vừa kịp thấy hai tên này dáng xuống người vương phi hai chưởng. Thần hô Thị-vệ xông vào bắt, ba người đánh lui thần, rồi lấy ngựa bỏ chạy. Thần vội đem Thị-vệ đuổi theo.
      Khai-Quốc vương lòng như lửa đốt. Vương vội thúc ngựa thực gấp. Vương vừa vào thành thì thái giám đã đón trước ngựa:
      - Hoàng thượng tuyên triệu vương gia gấp.
      - Có gì lạ không?
      - Bệnh tình hoàng-thượng có mòi thuyên giảm, nhưng khi nghe tâu việc Vũ-Đức vương hại vương phi Khai-Quốc vương chưa biết sống chết thế nào, còn Vũ-Đức vương thì bị giết. Ngài ngất đi một lúc, Hoàng-Giang cư sĩ cứu chữa mãi ngài mới tỉnh.
      Ba vương vào đến nơi, thì các hoàng hậu, quý phi, chư vương cùng mười hai công chúa, phò mã đều ngồi trước long sàng. Thuận-Thiên hoàng đế ngồi tựa mình vào vai Bảo-Hòa. Ngài vẫy tay ra hiệu miễn lễ cho ba vương. Ngài nói trong hơi thở yếu ớt:
      - Bồ nhi đấy à! Con hay lắm, con về vừa kịp. Mọi việc tốt đẹp trước khi ta đi như vậy thì ta yên tâm.
      Ngài hít một hơi chân khí, rồi tiếp:
      - Tộc Việt ta từ khi lập quốc, trải hai nghìn năm yên ổn. Đến đời Thủy-Hoàng, y mới có dã tâm chiếm nước Âu-lạc, ta mất ba vùng Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận. Vua An-Dương dựa vào dân, ỷ vào địa lợi mà giết Đồ Thư cùng năm mươi vạn quân Tần. Rồi sau đó lại mất hết về tay Triệu Đà, chỉ vì nhẹ dạ tin người. Đó là một thời. Đến vua Trưng, trăm vạn người như một, chúng ta kiến tạo lên một nước giầu mạnh, nhưng chẳng được bao lâu. Hán dùng số đông mà thắng ta. Đó là một thời. Chúng ta bị cai trị hơn nghìn năm, tưởng bị đồng hóa. Sau này vua Lý Nam-Đế, rồi vua Ngô, vua Đinh, vua Lê không đời nào được lấy hai ba đời vua. Với hai đời, không đủ để đặt nền móng vững vàng cho một nước hùng mạnh. Đó là một thời.
      Ngài ngừng lại nghỉ một lát rồi tiếp:
      - Vua Trưng dựng triều Lĩnh-Nam bằng chiến công. Vua Ngô lên ngôi vua sau trận Bạch-đằng, vua Đinh có công dẹp sứ quân. Vua Lê lên ngôi vua sau chiến thắng Chi-lăng, Bạch-đằng. Còn ta, ta lên ngôi vua là nhờ ân đức của sư phụ Vạn-Hạnh. Cho nên khi ta lên nối ngôi trời, lấy vỗ về dân chúng, cùng tạo hạnh phúc cho họ, mà được lòng người. Gần đây Bồ nhi qui phục được nhân tâm tộc Việt. Trong lòng ta tự nhủ, sao kiến tạo lại một nước có cơ chế lâu dài, bằng không mất nước nữa thì e khó mà lấy lại được. Trong các con, thì Đức-Chính, Long-Bồ là có hùng tài, hùng tâm. Tiếc rằng Đức-Chính thì hay kiểu cách, không biết khuất thân cầu hiền. Nhưng có tài an bang tế thế. Long-Bồ thì có đủ, nhưng chí lại lớn quá, ta e gây thành vạ binh đao khó thoát khỏi. Vậy hai con nghĩ sao?
      Khai-Quốc vương tâu:
      - Con nghĩ nếu đòi lại cố thổ không được thì cũng thống nhất sáu vùng Đại-Việt, Đại-lý, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la, như vậy ta mạnh, Bắc mới để ta yên. Nhưng sau cơn chính biến vừa rồi, hài nhi mới thấy rằng nếu hài nhi rời đất nước đi kết hợp anh hùng tám vùng tộc Việt, thì ngôi vua lại bị chính người trong nhà cướp lấy, rồi cốt nhục tương tàn. Còn như ngồi trên ngai cai trị, thì giỏi lắm thống nhất được Lão-qua, Chiêm-thành là may.
      - Bồ nhi biết nghĩ như vậy là hay lắm. Nếu như hài nhi lên làm vua, thì trao việc trị dân cho anh con. Có như vậy con mới có thời giờ kết hợp anh hùng. Có điều cho đến bây giờ trong lòng ta vẫn không yên là: Bồ nhi tuổi đã đi vào ba mươi hơn, mà chưa có con, như vậy sau này khi Bồ nhi chết đi, lại lâm vào cảnh ấu quân trị vì, giống như vua Đinh, thì e sự nghiệp này lại không bền.
      Khai-Quốc vương rập đầu xuống đất:
      - Tâu phụ hoàng, hài nhi quả không có ý muốn làm vua, mà chí chỉ mong sao thỏa được ba điều. Một là tạo cho dân được sung sướng như thời vua Hùng, vua Trưng. Hai là bảo vệ được giang sơn của tổ tiên để lại. Ba là đòi cố thổ cùng thống nhất tộc Việt. Còn hài nhi làm vua hay bất cứ ai cũng được. Như xưa kia vua Trưng phán :Vua là một người ngồi trên cao nhất của những người phục thị trăm họ. Ai có tài, có đức đều có thể làm vua. Vì vậy nếu như anh hùng đồng ý tôn một người khác lên thay thế hài nhi, hài nhi sẽ có thời giờ qui tụ nhân tâm tộc Việt.
      Vương chỉ vào các cháu:
      - Hài nhi đã nuôi Thiệu-Thái, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh, Nhật-Tông, Thường-Kiệt, Thường-Hiến làm con nuôi, vì vậy hài nhi có con hay không cũng vậy thôi. Con nuôi, con đẻ, hay người nào đó làm vua cũng được, miễn sao có lòng dạ từ bi, thương dân như phụ hoàng là được rồi. Trong tâm hài nhi, hài nhi muốn cho Mỹ-Linh hay Bảo-Hòa lên kế vị. Nhưng Bảo-Hòa là tiên nữ, không thích lăn mình trong cõi hồng trần, vậy chỉ còn Mỹ-Linh. Ngay bây giờ phụ hoàng có thể nhường ngôi cho Mỹ-Linh được rồi.
      Thuận-Thiên hoàng đế nắm tay Mỹ-Linh:
      - Ta cũng đã nghĩ đến điều này rồi. Nói về lòng dạ nhân từ, ta e chính ta cũng không bằng Mỹ-Linh. Nhưng hài nhi phải biết rằng hiện Nho-giáo đã có uy ngang với Phật-giáo. Nho giáo chủ trọng nam, khinh nữ, nên không thể nhường ngôi cho Mỹ-Linh...
      Ngài nắm tay vua bà Bắc-biên:
      - Mỹ-Linh cũng như ta, như con, không ai muốn làm vua cả. Làm vua chẳng qua là sao mưu hạnh phúc cho dân. Làm vua Đại-Việt tuy lớn hơn Chiêm, Lào, Xiêm, Chân, Bắc-biên, nhưng tương đối không khó. Khó là Bắc-biên, ngoài phải đối phó với Tống. Trong thì hòa giải, chỉnh đốn 207 khê động. Làm vua Bắc-biên phải có đức, có nhân, để thương yêu những sắc dân phức tạp như nhau. Làm vua Bắc-biên cần lòng kiên nhẫn để hòa giải xung đột giữa các khê động. Lại phải có uy, có tính cương nghị để đối phó với Tống. Ngoài con ra, thì chỉ Mỹ-Linh, Thiệu-Thái mới hội lĩnh đủ bằng ấy điều kiện... Sau này con phải trao Bắc-biên cho Thiệu-Thái, Mỹ-Linh.
      Phò-mã Thân Thừa-Quý và vua bà Bắc-biên cung kính:
      - Thần nhi xin tuân di chỉ của phụ hoàng.
      Ngài vẫy tay gọi Nhật-Tông, Thường-Kiệt:
      - Hai cháu lại đây.
      Hai trẻ lại bên long sàng quỳ gối. Ngài xoa đầu hai cháu:
      - Nhật-Tông sinh ra không may mắn, mẹ gặp bất hạnh. Nhưng cũng nhờ đó Nhật-Tông hiểu rõ những cái khổ của kẻ mồ côi. Thường-Kiệt theo cha mẹ chinh chiến, chí khí như người lớn, thực hợp ý ta. Cách đây mấy năm, trong buổi sơ giao tại Long-hoa đường, hai cháu đã nắm tay nhau như anh em. Bây giờ cả hai đều là con nuôi Khai-Quốc vương, tình như anh em ruột. Sau này việc lớn không thể nào không trao cho hai trẻ này. Nếu sau có vì người khác xen vào chia rẽ, hai cháu cứ nhớ đến buổi trăn trối hôm nay mà đừng xa nhau.
      Nhật-Tông, Thường-Kiệt cùng cúi đầu:
      - Các cháu nguyện ghi nhớ di chỉ.
      Ngài chỉ Kim-Thành:
      - Hai cháu ra gọi Tôn Đản, Cẩm-Thi, Thuận-Tông, Thiện-Lãm, Trần Anh, Tĩnh-Ninh, Lê Văn vào cho ta.
      Lát sau, tất cả cùng vào quỳ trước long-sàng. Thuận-Thiên hoàng đế ra hiệu cho miễn lễ, ngài xoa đầu từng người một:
      - Đám trẻ quanh Bồ nhi sau này tài trí e hơn ta với Đức-Chính, Long-Bồ, An-Quốc, Lĩnh-Nam Bảo-Hòa nhiều. Hôm nay ta truyền gả Bình-Dương cho Thiệu-Thái ; lại gả Kim-Thành cho Thuận-Tông, Trường-Ninh cho Thiện-Lãm; Tĩnh-Ninh cho Trần Anh; Cẩm-Thi cho Tôn Đản; sau này Bồ nhi phải sai sứ sang Xiêm cầu hôn công chúa An-Nan Tam-gia-la-sun Nong-Nụt cho Lê Văn. Trong tâm, ta thương yêu nhất Tự-Mai, nhưng tiếc rằng lúc này không biết Tự-Mai ở đâu?
      Bỗng có tiếng nói vọng vào:
      - Tên nhà quê Trần Tự-Mai ở Thiên-trường cùng Triệu Huệ-Nhu ở Hoa-sơn xin yết kiến Thuận-Thiên hoàng-đế.
      Tiếng nói ở rất ra, nhưng khi đến tiếng cuối cùng thì hai người đã ở ngay trước cửa cung.
      Thời bấy giờ tuy Thuận-Thiên hoàng đế làm vua, nhưng đối với Tống ngài chỉ là Thái sư, Nam-bình vương của một quận xa xôi. Trong khi Tự-Mai là Thái-tử thiếu bảo, Tả-kiêu vệ đại tướng quân, Ngô quốc quận vương, tổng trấn Nam thùy tuy có nhỏ hơn Thuận-Thiên hoàng-đế một bậc, nhưng lãnh thổ của Tự-Mai lớn gấp bốn lần Đại-Việt. Hơn nữa Tự-Mai còn là phò mã. Đúng lệ bang giao thời đó, khi Tự-Mai tới biên giới thì chính ngài phải thân lên đón. Nay vì ngài trọng bệnh, Khai-Thiên vương hiện có vai vế lớn nhất trong đám Thái-tử, công chúa hiện diện, vì vậy vương vội ra ngoài cung tay đón:
      - Kính thỉnh công chúa Điện-hạ cùng Ngô-quốc quận vương.
      Thuận-Thiên hoàng-đế vẫy tay gọi Tự-Mai, Huệ-Nhu cho ngồi bên long sàng. Long-tâm mở ra, mặt hớn hở:
      - Công chúa cùng vương gia...
      Huệ-Nhu nói tiếng Việt:
      - Thưa sư bá, lấy lễ xưa kia Vạn-tín hầu Lý Thân, tuy thân làm nguyên soái, tước phong hầu của Tần Thủy-Hoàng , nhưng khi về Âu-lạc vẫn dùng lễ của một thần dân yết kiến vua An-Dương. Nay tuy trượng phu cháu tước phong Thái-tử thiếu bảo, Ngô-quốc quận vương, ngang với tước Kiểm-hiệu thái sư Nam-bình vương của sư bá, nhưng vẫn là thần dân Đại-Việt.
      Tự-Mai thấy hồi đại hội Lộc-hà, Thuận-Thiên hoàng-đế là một người hùng vĩ, oai phong, từ ái, bây giờ ngài xanh xao, vàng vọt trông thực thảm thiết, bất giác vương rơi nước mắt, hai tay nắm lấy bàn tay ngài:
      - Cháu xa Đại-Việt bấy lâu, thân tuy làm vua Ngô quốc, quyền khuynh thiên hạ, nhưng lòng vẫn tưởng cố quốc, tưởng từ con sông, từng bến đò, cả đến tiếng nói bình dân. Thưa bác, chị cháu là con dâu bác, cháu lại là em kết nghiõa của anh Long-Bồ, chị Mỹ-Linh. Dù cháu có làm gì chăng nữa, đối với dân Việt, cháu vẫn là thằng bé đùa nghịch phá phách năm xưa. Cháu về đây để thăm bác lần cuối.
      Thuận-Thiên hoàng đế chỉ Tự-Mai nói với Khai-Thiên vương:
      - Cháu Tự-Mai cho con một bài học. Nếu con có lối suy nghĩ của Tự-Mai thì con có thể làm vua Đại-Việt.
      Khai-Thiên vương cung tay hướng Tự-Mai:
      - Kể từ ngày Thanh-Mai hiện diện ở Long-hoa đường, thần nhi đã theo dõi, học được rất nhiều về phương cách hành sự của chư đệ tử phái Đông-a.
      Đến đó thái-giám vào định tâu gì, nhưng bị chư vương đẩy lùi ra. Thuận-Thiên hoàng đế hỏi:
      - Cho y vào, chắc có truyện gì khẩn hẳn.
      Thái-giám quỳ gối:
      - Đạo quân chiếm lại Vạn-hoa sơn trang đã tìm ra thi thể phò mã Đào Cam-Mộc cùng công chúa An-Quốc.
      Thuận-Thiên hoàng đế nghe tâu dứt, ngài giật mạnh tay Khai-Quốc vương rồi niệm :
      - Nam mô A-Di Đà-Phật.
      Rồi miệng xùi bọt, mắt trợn ngược.
      Hoàng-Giang cư sĩ bắt mạch, lắc đầu:
      - Hoàng thượng băng hà rồi.
      Khai-Quốc vương được thị vệ cùng Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Tôn Đản, Bảo-Dân hộ vệ trở về vương phủ. Thấy vú Hậu, vương hỏi:
      - Bệnh tình vương phi ra sao?
      Vú Hậu khóc:
      - Xin vương gia về ngay, bằng không e khó gặp lại vương phi.
      Khai-Quốc vương cùng mọi người vào trong sảnh đường. Tự-Mai, Huệ-Nhu lách mình vào trước: Vương phi Thanh-Mai đặt nằm dài trên giường, người đắp một chiếc chăn lụa mầu vàng. Vương tiến đến cầm mạch vương phi, mạch nhảy rất yếu. Quan Thái-tử thái phó Dương Bình tay cầm kim đang châm lên người vương phi.
      Đúng luật ra, thì phải đợi Khai-Quốc vương về, Dương Bình mới có quyền lật y phục vương phi ra trị bệnh. Nhưng Dương Bình tùng quyền làm trước, bởi ông là đại đệ tử của Hồng-Sơn đại phu, trong khi vương phi chỉ là đệ tử thứ mười. Vì vậy ông dùng quyền anh em một nhà mà chữa trị cho vương phi Thanh-Mai.
      Tự-Mai nắm lấy tay chị, nước mắt chảy dài:
      - Chị Thanh! Tự đây, chị có nhận ra em không?
      Vương phi Thanh-Mai hơi rung động chân tay, miệng mấp máy như định nói gì, nhưng nói không được.
      Tự-Mai khóc:
      - Chị Thanh! Chị đừng bỏ bọn em mà đi nghe. Em nhớ chị Thanh quá, em phải trốn làm vua về thăm chị Thanh. Chị Thanh tỉnh dậy đi.
      Thanh-Mai từ từ mở mắt ra, vương phi nắm tay Tự-Mai:
      - Tự đừng lo, đừng trách ai hết. Tự ơi, những gì chị bị ngày hôm nay là kết tinh của nghiệp quả muôn vàn kiếp trước mà thành. Thù, hận, oán, hờn, buồn, khóc cũng vô ích.
      Nói rồi vương phi lại nhắm mắt thiêm thiếp.
      Khai-Quốc vương liếc nhìn Tự-Mai, thấy trên mặt người em vợ đằng đằng sát khí, vương rùng mình:
      - Không xong rồi! Cậu này thọ lĩnh tính cương quyết, thẳng tay với bọn ác của thân phụ, bây giờ võ công y cực cao, lại tổng lĩnh hàng triệu quân Tống ở Nam-thùy. Nếu mình không làm một cái gì, thì e toàn gia mấy trăm người của Vũ-Đức vương khó mà tránh khỏi tai ách.
      Một người từ ngoài lách mình vào như trận gió thoảng, mọi người nhìn ra, thì là sư thái Tịnh-Huyền. Khai-Quốc vương cung tay:
      - Thần nhi tham kiến cô mẫu.
      Tự-Mai cũng cung tay:
      - Đệ tử vấn an sư phụ.
      Tịnh-Huyền nắm tay Tự-Mai:
      - Mừng cho con. Bây giờ con làm vua một nước, không biết có còn nghe lời ta không?
      Tự-Mai kính cẩn:
      - Đệ tử lúc nào cũng tuân chỉ của sư phụ.
      - Một mình con, mà con quy tụ được hết các môn, các phái, các bang hội thuộc tám vùng tộc Việt trong khoảng thời gian có hơn tháng, thực vua Trưng sống dậy cũng không hơn; con lại họp được cả bang Trường-giang, Hoàng-Đế, các cao thủ Hoa-sơn, Thiếu-lâm, thành lập đội Ưng-sơn cứu nước... Thực Bắc-bình vương Đào Kỳ có sống lại cũng phải khen. Tuy nhiên, hành động đa sát của con ta không vui lòng.
      Tự-Mai quỳ gối sám hối:
      - Đệ tử xin nhận lời trách phạt của sư phụ.
      Lời nói của sư thái Tịnh-Huyền, rồi Tự-Mai tạ tội, làm mọi người bàng hoàng, bởi muôn ngàn lần họ không ngờ Ưng-sơn song hiệp lại là Tự-Mai với công chúa Huệ-Nhu. Mỹ-Linh nắm tay Tự-Mai:
      - Tự-Mai quá lắm, hành động tàn nhẫn... thực vô...
      Nàng định nói tiếp vô pháp vô thiên, nhưng nàng chợt nhớ rằng Tự-Mai không còn là cậu em nhỏ bé, mà là Ngô-quốc quận vương; một ông vua của vùng Quảng-Đông, Quảng-Tây, Hồ-Nam, rộng lớn gấp ba Đại-Việt. Những hành động giết Đinh-phi, treo Hồng-Phúc, tàn sát bọn Hồng-thiết giáo khi chiếm lại Vạn-thảo, Vạn-hoa đều hợp với quốc pháp, đúng với phong cách của một ông vua trị dân.
      Lê Văn với Tự-Mai như tay phải với tay trái. Lê Văn bẹo tai Tự-Mai:
      - Hôm ở ngoài thành Tự-Mai vỗ vai, rồi hì em một tiếng, bỏ chạy, em hơi nghi. Nhưng sau Tự-Mai cho em gặp Nong-Nụt, thì ba hồn bẩy vía em lên mây hết. Nhưng, sao võ công Tự-Mai lại tiến mau chóng chư vậy?
      Tự-Mai thở dài:
      - Như Văn đệ biết, gốc võ công của anh là Đông-a, rất gần với Thiền. Hồi ở trong động Xuân-đài anh với anh cả, anh Đản học Vô-ngã tướng công của công chúa Yên-lãng, khiến công lực anh cao một bậc. Lại trên Tản-lĩnh, anh thu nội lực của đám Hoa-sơn, khi đến Biện-kinh lại thu của cha con Tào Lợi-Dụng, Sử-vạn Na-vương, Khiếu Tam Bản. Nhưng anh chưa hòa lẫn được với nhau. Trên đường đi trấn nhậm Nam-thùy, anh gặp bố với sư bá Hồng-Sơn. Hai ông cụ nghĩ ra được phương pháp hoà lẫn mọi luồng chân khí, rồi dạy anh. Vì vậy chỉ trong hai tháng luyện tập, anh thành công, nên nội lực mạnh gấp mấy lần. Anh lại dạy công chúa Huệ-Nhu võ công Đông-a. Nàng hợp được nội lực Đông-a với Hoa-sơn, nên công lực tiến đến chỗ tối cao. Nhờ võ công cao, hai chúng ta vào Hoàng-thành Thăng-long chỉ mình sư phụ biết; vào Cấm-thành Trường-yên chỉ mình anh cả với hai lão tiên Phan Nam, Quảng-Thiên là biết mà thôi.
      Tạ Sơn từ ngoài vào, tay ông cầm một tờ giấy trình Khai-Quốc vương:
      - Thưa vương gia.
      - Có gì lạ không?
      - Toàn bộ gia quyến Vũ-Đức vương gồm ba trăm mười tám người, trên đường rời Thăng-long về Thiên-đức, bị một người trùm vải nâu từ đầu đến chân xuất hiện giết sạch. Sát nhân giết luôn cả trâu bò, lừa ngựa, chó mèo, gà vịt.
      Nghe Tạ Sơn thuật, tự nhiên da mặt Bảo-Hòa rung động mạnh, rồi thấp thoáng một cái nàng đã rời khỏi phủ Khai-Quốc.
      Thấy Tạ Sơn trình bày chi tiết việc gia quyến Vũ-Đức bị giết, mọi người đưa mắt nhìn Ngô-quốc quận vương Tự-Mai. Vương lắc đầu tỏ ý phủ nhận rồi hỏi:
      - Nhị ca! Thế có tung tích gì của sát nhân để lại phạm trường không?
      - Thưa vương gia không! Sát nhân chỉ có một người, nhưng y ra tay cực kỳ tàn bạo. Dường như y muốn dấu tung tích, nên y dùng một thanh giới đao, chứ không dùng quyền chưởng. Mỗi chiêu y đưa ra, đám vệ sĩ phủ Vũ-Đức đều bị chém cả người lẫn vũ khí gãy làm đôi.
      Thanh-Mai tỉnh lại, nàng bảo Tạ Sơn:
      - Nhị ca, xin nhị ca hãy sai người thu nhặt thi thể gia quyến Vũ-Đức vương an táng cho ấm thân thể người đã chết. Việc em bị hại, thì sự đã rồi, dù có giết bao nhiêu người nữa cũng không làm cho em khỏi hết đau đớn này.
      Khai-Quốc vương nắm chặt tay vương phi:
      - Thanh muội! Bất cứ giá nào Thanh muội cũng không thể chết được.
      - Nhưng em lại thấy cái chết gần kề rồi. Lần này e không thoát khỏi. Thôi thì sống chết là nghiệp quả. Em mong sẽ được thác sinh về thế giới Tịnh-độ.
      - Đừng, Thanh muội đừng nghĩ thế.
      - Khi mà tạng phủ nát ra, thì sống cũng thành người tàn tật mà thôi.
      Khai-Quốc vương hỏi Dương-Bình::
      - Đại sư huynh, bệnh tình Thanh-Mai ra sao?
      - Thần chưa thể đáp sự thực được. Vương phi uống phải ba chung rượu độc, rồi bị đánh hai chưởng. Nội lực vương phi rất cao thâm, đúng ra hai chưởng này không thể làm vương phi bị thương nặng. Nhưng vương phi không vận công chống được, thành ra chỉ có chân khí tự động hộ thể. Bây giờ tạng phủ đều bị thương nặng.
      Giữa lúc đó, thái giám vào khải:
      - Thưa vương gia, triều thần, cùng anh hùng các nơi tụ tập ở điện Càn-nguyên để chờ vương gia ra cáo tang, cùng mời vương gia lên ngôi Cửu-ngũ.
      Khai-Quốc vương vội đứng lên, nắm chặt bàn tay vương phi, rồi buông ra, hướng điện Càn-nguyên. Phía sau vương là Thiệu-Thái, Mỹ-Linh, Bảo-Dân, Kim-An, Tôn Đản, Cẩm-Thi. Vương kinh ngạc vô cùng, vì không thấy Tự-Mai với Huệ-Nhu đâu.
      Điện Càn-nguyên đầy người. Vương đưa mắt nhìn, hiện diện đủ ba hoàng hậu, Đàm quý phi, chư vương, mười hai công chúa, mười hai phò mã. Hai vị tể tướng, lục bộ thượng thư. Về phía anh hùng võ lâm có đủ chưởng môn nhân các phái. Sáu phái nội địa: Tiêu-sơn, Đông-a, Tản-viên, Sài-sơn, Mê-linh, Tây-vu. Năm phái tộc Việt: Thiên-tượng, Trường-sa, Cửu-long, Vạn-tượng, Phật-thệ. Bốn bang: Hồng-hà, Đông-hải, Quảng-nguyên, Trường-giang. Vắng mặt chưởng môn phái Sài-sơn là Hồng-Sơn đại phu; chưởng môn phái Đông-a là Trần Tự-An; chưởng môn phái Tản-viên là Thân Bảo-Hòa.
      Mọi người thấy vương vào, vội đứng dậy chào. Vương thăm hỏi từng vị một, mời tất cả an tọa. Vương cung kính hướng chư vị thân vương, đại thần cùng anh hùng võ lâm hành lễ rồi về chỗ ngồi.
      Chưởng môn phái Tiêu-sơn là Minh-Không bồ tát chắp tay hướng ba hoàng hậu cùng chư vương:
      - Bần tăng nghe tin Hoàng-thượng băng hà, vì vậy vội mời các vị anh hùng về để cùng triều thần trước là chịu tang, sau là bái yết tân-quân. Vậy xin chư vị Hoàng-hậu cho biết, Hoàng-thượng di chiếu cho vị Thái-tử nào lên kế vị.
      Hoàng-hậu Tá-quốc đưa chiếu chỉ ra, truyền cho quan Hàn-lâm đại học sĩ đọc. Quan Hàn-lâm đại học sĩ cầm chiếu chỉ cung kính đọc:
      Thừa thiên hưng vận, Thuận-Thiên hoàng đế chiếu rằng:
      Đại-Việt ta gồm có trăm tộc, cùng giang sơn hoa gấm từ ba nghìn năm để lại. Đất nước này là công lao gìn giữ của anh hùng biết bao đời. Đất nước này không phải của một Lý Công-Uẩn, của một họ Lý. Vì vậy việc tôn một tự quân phải do anh hùng các nơi đồng tâm.
      Nay trẫm vắn số, không thể tiếp tục việc mưu cầu hạnh phúc cho dân, nên đành phải về Tây-phương cực lạc chầu Phật-tổ. Vậy trẫm viết di chiếu sẵn, chép làm ba bản, trao cho ba Hoàng-hậu giữ. Sau khi trẫm băng hà, phải triệu hồi đủ mặt ba hoàng hậu, các thân vương, công chúa, phò mã, chưởng môn nhân các môn phái cùng bang trưởng võ lâm thuộc tộc Việt, để đọc di chiếu chỉ định người kế nghiệp. Bất cứ hoàng tử, thân vương nào chống đối, xin chư vị anh hùng xúm vào tru diệt cho.
      Khâm thử.

      Ba bà Hoàng-hậu cùng xuất ra ba cuốn trục, quan Hàn-lâm đại học sĩ cung kính tiếp lấy mở ra, so sánh, rồi nói:
      - Ba bản cùng giống hệt nhau.
      Rồi ông đặt ba tờ chiếu chỉ lên chiếc mâm vàng đưa qua cho các thân vương, đại thần, cùng chư vị võ lâm xem. Cuối cùng ông cầm lên đọc:
      Thừa thiên hưng vận, Thuận-Thiên hoàng-đế chiếu rằng:
      Trẫm có một anh, một em và bốn con, đều phong tước vương. Xét ra việc lớn chỉ có thể trao cho con thứ tên Lý Long-Bồ tước phong Khai-Quốc vương. Vậy chư vị hãy vì trẫm, mà giúp Long-Bồ.
      Khâm thử.

      Quần hào tung hô vạn tuế, rồi thỉnh Khai-Quốc vương lên ngôi vua. Vương cung kính chắp tay nói:
      - Cô-gia xin thâm cảm lòng yêu mến của quý vị. Nhưng cô-gia xin quý vị nghe cô-gia nói ít lời đã.
      Mọi người đều im lặng.
      - Qua cuộc binh biến vừa rồi, cô-gia rút ra được một kinh nghiệm: Phàm khi làm vua, không thể rời xa kinh thành, lúc bị bệnh phải ủy thác cho tự-quân giữ việc nước. Đức như phụ-hoàng, thế mà chỉ vì khi người bị bệnh, cô-gia vắng nhà, thì lập tức bóng ma, bóng quỷ trong lòng chư vương nổi lên. Cũng may nhờ sư phụ của cô-gia, khéo léo xếp đặt cuộc dẹp loạn, để nguyên khí Đại-Việt không vì thế mà hao tổn.
      Vương thở dài:
      - Vừa rồi cô-gia đi sứ. Đối với Tống triều, ta giải được dã tâm xâm lăng Nam-thùy, hơn nữa kết thân được với Thiên-tử, thân vương, đại thần. Do đó Tống không dồn trọng binh ở Nam phương nữa. Ta giải được chi phí cho những đạo quân đông đảo ở Bắc-biên, mà dùng sức quân, tài vật nuôi quân làm cho nước giầu dân mạnh. Nhưng giữa những kết quả tốt đẹp đó, trong nước xẩy ra nội loạn, suýt nữa tinh lực quốc gia kiệt quệ.
      Vương đưa mắt nhìn Trấn-Nam vương Đoàn Huy nước Đại-lý, Thái-tử An-Nan Tam-gia la-sun:
      - Xong việc Tống, bây giờ phải thống nhất võ lâm Đại-lý, Xiêm-la, Chiêm-thành, Lão-qua, Chân-lạp. Việc này cần phải chính cô-gia đi. Nhưng nếu bây giờ cô-gia lên làm vua thì không thể xa Thăng-long, thành ra đại nghiã thống nhất không làm được.
      Lão sư Rát-ta-Na nói:
      - Theo lão phu khi vương-gia lên làm vua, rồi giao cho Thái-tử làm giám-quốc, khi vương-gia vắng nhà, thì không sợ nội loạn nữa.
      Khai-Quốc vương lắc đầu:
      - Căn bản của chúng ta là sao cho nước giầu dân mạnh. Muốn vậy phải có ông vua giỏi trị dân, chứ trao cho một thiếu niên thì không ổn. Bằng như cứ để thiếu niên giám-quốc, rồi mọi việc do tể tướng đảm nhiệm, e lại xẩy ra cái vụ dèm pha như vừa rồi đại tướng quân Dương Bình đã trải qua.
      Vương chỉ Nhật-Tôn:
      - Cô-gia chưa có con, nên đã tâu với phụ hoàng. Người thuận cho nghiã tử của cô-gia là Nhật-Tông ngồi vào ngôi trừ quân. Nếu như để cho Nhật-Tông làm giám quốc, trong khi đó quyền tể tướng trao vào tay Khai-Thiên vương, thì sao bằng để vương làm vua có hơn không?
      Mọi người im lặng theo dõi lời Khai-Quốc vương. Vương suy nghĩ một lát rồi tiếp:
      - Vua là gì? Vua là người ngồi trên, nhưng để lo cho dân. Ai biết lo cho dân thì làm vua được. Vậy thế này, cô-gia vẫn làm minh chủ tám vùng tộc Việt. Khi xưa, thời vua Trưng, sáu vùng có sáu vị vương. Trên cao có hoàng-đế. Sau này thống nhất tám vùng tộc Việt, anh hùng sẽ suy cử một vị hoàng-đế. Còn vùng Đại-Việt cũng nên có một vị vương, thì sao bằng nay ta cử một người ngồi vào, có phải tiện không?
      Có tiếng nói từ xa vọng lại:
      - Đúng thế. Bạn trẻ Long-Bồ bàn đúng. Nay Đại-Việt không giặc dã, ta cần một vị vua có tài cai trị. Vậy bạn trẻ hãy đề cử đi.
      Đến đó hai người dắt tay nhau vào điện Càn-nguyên là Hồng-Sơn, với Đặng Đại-Khê. Hai vị đi một vòng hành lễ. Hồng-Sơn đại phu nói với Khai-Quốc vương:
      - Trong di chiếu, Thuận-Thiên hoàng đế chỉ nói trao việc lớn cho Khai-Quốc vương, chứ không hề nói vương phải làm vua. Vậy vương hãy đề cử một người làm vua Đại-Việt đi.
      Nguyên Khai-Quốc vương thấy anh mình là Khai-Thiên vương có tài cai trị dân, vương muốn đưa anh lên làm vua, còn mình thì nắm quyền quân sự, võ lâm, để thống nhất tám vùng tộc Việt. Nhưng vương chưa dám nói ra, vì trước đây Hồng-Sơn đại phu rút lại không tranh ngôi vua với triều Lý, với điều kiện sau này Thuận-Thiên hoàng-đế phải nhường ngôi cho Khai-Quốc vương. Bây giờ thấy Hồng-Sơn đại phu nói vậy, vương mừng vô cùng. Vương cung tay nói lớn:
      - Khuất thân cầu hiền, thu phục nhân tâm thiên hạ, thì Bồ này hơn hẳn các anh em trong nhà. Nhưng gìn giữ phép nước, un ủi người già, vỗ về trăm họ, dạy dỗ trẻ nhỏ, cùng làm cho dân an, nước giầu, Bồ này muôn ngàn lần không bằng Khai-Thiên vương. Nếu như chư vị đây cùng đồng ý, thì chúng ta tôn Khai-Thiên vương lên làm vua Đại-Việt.
      Quần hào reo mừng. Ba hoàng hậu, các công chúa, phò mã, hai tể tướng, lục vị thượng thư cùng hoan hô. Duy Dực-Thánh vương, Đông-Chinh vương thì cúi đầu im lặng. Chư vị võ lâm đều hoan hô.
      Khai-Quốc vương nắm tay anh, dẫn lại, để ngồi trên ngai vàng. Bách quan cùng bái kiến. Quan Thái-phó Văn-minh điện đại học sĩ trình sổ vàng để tân Hoàng-đế chọn niên hiệu. Tân hoàng-đế lấy niên hiệu là Thiên-Thành. Quan thái-sư, tả-bộc-xạ, đồng trung thư môn hạ bình chương sự nói với bách quan:
      - Theo điển lệ, thì hôm nay là ngày ba, tháng ba, năm Mậu-thìn (31-03-1028), năm nay là năm Thuận-Thiên thứ mười chín, năm tới mới là năm Thiên-Thành thứ nhất. Xin các vị nhớ đừng quên.
      Khai-Quốc vương lắc đầu:
      - Đúng theo điển lệ Đại-Việt thì như thế. Nhưng phụ hoàng đã viết chiếu trao đại quyền cho Khai-Thiên vương từ ngày 23 tháng chạp năm Đinh-Mão. Như vậy kể từ ngày hôm ấy là ngày Khai-Thiên vương tiếp nhận ngôi vua, thời đại Thuận-Thiên đã hết. Vậy bắt đầu từ ngày mồng một tết năm nay là niên hiệu Thiên-Thành thứ nhất. ( Sau này được tôn miếu hiệu là Thái-Tông).
      Quần hùng cùng bách quan đều đồng ý lý luận của Khai-Quốc vương. Nhưng Thiên-Thành hoàng-đế liếc nhìn ông em trí dũng đầy người, long tâm tự nhủ:
      - Trí lự mình muôn ngàn lần không bằng chú hai. Sở dĩ chú hai nêu lên việc cho ta dùng niên hiệu Thiên-Thành ngay chẳng qua chú hai muốn làm sáng tỏ việc chư vương vu cáo ta đem quân bức tử phụ hoàng, việc chư vương khởi loạn một lần nữa bị đem ra kết tội.
      Sau khi tôn Khai-Thiên vương lên làm vua Đại-Việt. Triều đình đãi tiệc chư vị anh hùng. Thiên-Thành hoàng đế cùng chư thân vương, công chúa, phò mã đến làm lễ cử ai trước tẩm quan của Đại-Hành hoàng-đế. Lễ vừa tất, thì Lê Phụng-Hiểu mặt hớt hải chạy vào cung tay trước Khai-Quốc vương:
      - Khải vương gia, không biết vương phi đâu, thần sai cung nữ , thị vệ tìm khắp nơi mà vẫn biệt tăm.
      Khai-Quốc vương kinh hãi, vội tung người về vương phủ. Thị vệ, cung nữ cùng vú Hậu dang nhớn nhác, nước mắt đầm đìa. Vú Hậu nói:
      - Tiểu tỳ thấy vương phi tỉnh dậy, nên xuống bếp nấu cháo dâng vương phi. Khi tiểu tỳ lên thì không thấy vương phi đâu. Tiểu tỳ cho rằng vương phi đi tiểu tiện, nên chạy tìm quanh, cũng không thấy. Tiểu tỳ sai cung nữ tìm khắp vương phủ cũng vô tăm tích, vì vậy tiểu tỳ phải báo cho Lê tướng quân.
      Khai-Quốc vương hỏi Lê Văn:
      - Văn đệ thử đoán xem, sự thể ra sao? Thanh-Mai biến mất giống hệt trường hợp anh Thông-Mai. Có thể nào Tự-Mai làm việc này không?
      Lê Văn lắc đầu:
      - Tự-Mai tuy đa sát, nhưng hành động bao giờ cũng quang minh chính đại. Giả tỷ Tự-Mai đem Thanh sư tỷ đi, thì đem đi đâu, đem làm gì, trong khi thân thể sư tỷ chưa khỏi, mỗi di chuyển có thể làm cho sư tỷ đau đớn?
      Thình lình Mỹ-Linh chỉ vào mảnh giấy để trên bàn:
      - Dường như ai viết gì kìa?
      Khai-Quốc vương cầm tờ giấy đưa lên: Rõ ràng nét chữ vương phi. Trên tờ giấy chỉ có mấy giòng xiêu vẹo:

      Nhất thiết chư nghiệp quả,
      Do ư vạn kiếp lai.
      Thống khổ giai tiền định,
      Khấp, khốc tận bi ai,
      Bất nghi giải chư ách,
      Kim khứ tâm đại khai.
      Thập lục niên chi hậu,
      Tái ngộ tại Chương-đài.


      Suốt thời gian đi sứ, cũng như thời gian ở Trường-yên; Thanh-Mai, Kim-An thân thiết với nhau như bóng với hình. Nàng quên cả lễ nghi, tay tiếp tờ giấy, nước mắt đầm đìa:
      - Hừ! Sư muội bỏ đi thực rồi.
      Vương hỏi Khấu Kim-An:
      - Sư tỷ! Sư tỷ thử đoán xem ý nghĩa trong tờ thư này ra sao? Như vậy rõ ràng Thanh-Mai bỏ đi. Tại sao Thanh-Mai lại bỏ đi?
      Khấu Kim-An đọc xong, nàng nói:
      - Dễ hiểu. Nếu tôi là Thanh muội tôi cũng bỏ đi.
      - Tại sao?
      - Vương gia ơi, xin vương gia tự đặt mình vào địa vị Thanh sư muội thì vương gia mới hiểu thấu lòng sư muội được. Thanh muội học y khoa, chắc tự biết tính mệnh mình khó qua khỏi, nên bỏ đi, tìm chỗ nào vắng vẻ hầu chết trong yên lặng. Nhưng có điều... tôi ngồi đây mà lo cho tính mệnh của mấy nghìn người trong phủ Dực-Thánh vương, Đông-Chinh vương.
      - Ái chà! Nguy thực. Vậy người giết cả nhà Vũ-Đức vương chỉ với mục đích trả thù cho Thanh muội. Nguy quá. Nhưng ai đã làm việc đó? Không lẽ là Tự-Mai?
      - Chưa hết đâu.
      Khai-Quốc vương lắc đầu tỏ ý không hiểu. Kim-An nói:
      - Ở đây không phải mình tôi hiểu rõ lòng Thanh-Muội, mà tôi e Cẩm-Thi cũng hiểu nữa. Chỉ có vương gia là không hiểu mà thôi. Được, tôi vì vương gia mà nói rõ lòng Thanh muội ra. Trước hết Cẩm-Thi giải mấy câu kệ của Thanh muội để lại đã.
      Ngô Cẩm-Thi vừa khóc vừa giảng:

      Nhất thiết chư nghiệp quả
      Do ư vạn kiếp lai


      Nghĩa là tất cả nghiệp quả, nào là bị Đoàn Huy dồn độc tố vào người, nào là bị Vũ-Đức vương hại, đều bắt nguồn từ vạn kiếp trước. Với hai câu này, Thanh sư tỷ gần như đắc pháp, thành chính quả rồi.

      Thống khổ giai tiền định,
      Khấp, khốc tận bi ai,
      Bất nghi giải chư ách,
      Kim khứ tâm đại khai.


      Cái đau khổ của chúng ta vì việc sư tỷ bị nạn, đều do tiền định. Ta có khóc lóc buồn khổ đến đâu cũng không giải được cái ách cho sư tỷ. Nay sư tỷ ra đi, lòng mở rộng, vì nghiệp quả như vậy rồi.

      Thập lục niên chi hậu,
      Tái ngộ tại Chương-đài.


      Cẩm-Thi định giải thực ra rằng:
      Nay Thanh sư tỷ chết rồi, sẽ đầu thai làm kiếp khác, thì mười sáu năm sau, vẫn có thể tái ngộ với Khai-Quốc vương. Nhưng bỗng có tiếng đại sư Huệ-Sinh dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai Cẩm-Thi:
      - Ngô tiểu thư. Đừng nói sự thực, nói sự thực e Khai-Quốc vương thương tâm đến chết mất. Hãy nói theo bần tăng.
      Ngô Cẩm-Thi vội nói theo lời Huệ-Sinh:
      - Vì những nghiệp quả quá nặng, cho nên nay Thanh sư tỷ phải ra đi, tìm lấy nơi nào yên tĩnh để thanh tu hầu giải nghiệp. Sư tỷ hẹn với vương gia mười sáu năm sau, khi tu hành giải nghiệp xong, người sẽ trở về tương hội với vương gia.
      Thuận-Tông hỏi:
      - Thế Chương-đài ở đâu?
      Biết cậu em ít đọc sách Trung-quốc, Kim-An giải:
      - Làm gì có Chương-đài? Chương đài là điển cố dùng trong văn chương. Nguyên thi sĩ Liễu Tông-Nguyên có người tình. Vì phải xa nhau, ông để nàng ở Chương-đài, nhớ nàng, ông viết thư như sau: Cành liễu ở Chương-đài có còn xanh xanh như xưa hay đã bị người ta hái đi rồi. Vì vậy chữ Chương-đài để chỉ nam nữ hẹn hò nhau.
      Thấy lời giải của Cẩm-Thi tuy có hơi gượng gạo, song Khai-Quốc vương vẫn bán tín, bán nghi:
      - Tại sao Thanh muội không chờ... chờ mọi người, nói mấy lời dã biệt đã.
      Kim-An thở dài:
      - Vương gia là chồng của sư muội mà không hiểu sư muội chút nào cả, vì vậy sư muội bỏ đi là phải.
      Lời kết tội của Kim-An làm Khai-Quốc vương như bị gáo nước lạnh dội vào đầu. Vương lặng đi, rồi hỏi:
      - Sư tỷ giải rõ hơn chút nữa được chăng.
      - Giản dị thôi! Vương gia biết rằng sư muội mồ côi mẹ từ nhỏ, được cha thương yêu rất mực, các em kính trọng. Trong khi phái Đông-a thù hận với triều Lý. Thế nhưng vào ngày sơ giao, sư muội yêu thương vương gia, tức là phản lại môn hộ, phản lại cha. Từ đấy trong lòng sư muội đã có chỗ ân hận. Trên đời này, không có gì đau đớn bằng ân hận. Vương gia nghĩ xem có đúng không?
      - Quả không sai.
      - Thế rồi sư muội phải hết sức lôi kéo, thuyết phục sư phụ, mọi người theo giúp triều Lý. Khi ở trong Long-hoa đường, sư muội hy sinh cả mạng sống để giải cái nguy Đoàn Huy cho triều Lý, mà phải chịu cái đau đớn cùng cực, đến chết đi sống lại. Tiếp theo, trong đại hội Lộc-hà, sư muội lại phản cả sư phụ là Hồng-Sơn đại phu, lôi kéo, thiết kế, để giữ vững ngôi vua cho Thuận-Thiên hoàng-đế.
      - Thanh muội đã hy sinh quá nhiều cho bản triều.
      - Rồi sư muội thuyết phục, lôi kéo sư đệ Thông-Mai, Tự-Mai giúp triều Lý trên đường đi sứ, trải biết bao gian nan. Đã hết đâu, sư muội kéo luôn ba sư huynh Phụ-Quốc, Bảo-Dân, Trung-Đạo giúp cho triều Lý. Đến khi chư vương tạo phản, chính sư muội cùng sư huynh Bảo-Dân với tôi lặn lội gian nan, trấn thủ Trường-yên. Trong việc dẹp loạn, các sư thúc cùng chư đệ tử Đông-a xung tên đụt pháo nhiều nhất. Ngũ sư đệ An-Ngữ chết thảm, sư đệ Thông-Mai chết sống ra sao chưa rõ. Cuối cùng Thanh muội vẫn kiên nhẫn hoà giải trong hoàng tộc nhà Lý, để rồi lĩnh lấy hậu quả thân thể trọng thương, e khó qua khỏi. Nhưng vương gia không biết đến chỗ đó...
      - ???
      - Đáng lẽ ngay trong trận đánh vương gia phải nhận biết ngay mới phải chứ? Khi sư thúc Hoàng Hùng, Trần Kiệt cùng chư đệ tử phái Đông-a diệt xong cánh quân cửa Tây, phải về hội với vương gia chứ có đâu lại bỏ đi? Bỏ đi tức là phẫn chí rồi vậy. Đấy là mở đầu cho việc Thông-Mai bỏ đi về sau. Đến đây thì trong lòng Thanh muội bị ân hận cấu xé vô cùng đau đớn. Nhưng Thanh muội vẫn cố gắng, hàn gắn lại trong hoàng tộc, cứu Dực-Thánh vương, Vũ-Đức vương, Đông-Chinh vương, mà mua lấy cái đau đớn cùng cực này.
      - ???
      Ngô Cẩm-Thi biết Khai-Quốc vương bị những biến cố xẩy ra dồn dập, làm mất linh mẫn, nàng giải thêm:
      - Nếu em là Thanh sư tỷ em đã bỏ đi từ lâu rồi, chứ không đợi đến ngày hôm nay. Này nhé, mình hy sinh tình yêu thương của bố, của anh em, của sư phụ, của sư thúc, của hai đại môn phái Sài-sơn, Đông-a cho triều Lý, để rồi chính những người trong họ Lý lại không biết tự giữ vững những gì mình xây dựng cho. Triều Lý có khác gì triều Lê trước đây không? Em nghĩ có khác hơn là khi vua Lê vừa băng hà, thì các vương chém giết nhau chí mạng. Cuối cùng chỉ còn một người sống sót lên làm vua. Nay triều Lý khác đôi chút là Thuận-Thiên hoàng-đế còn đó, mà chư vương đã chém giết nhau rồi. Khác nhau nữa là chư vương đời Lê giết nhau vì tham vọng của mình. Còn chư vương đời Lý giết nhau vì nghe lời bọn dơ bẩn Hồng-thiết giáo. Mình hy sinh tất cả cho họ trong chủ đạo tộc Việt, mà họ lại không lý gì đến. Hỡi ôi, thực là bán bò tậu ễnh ương, thực là gánh vàng đi đổ sông Ngô. Vậy mình có nên ở lại trong họ Lý, tiếp tục hy sinh để họ phá phách không ? Nhưng Thanh sư tỷ tâm mở lớn, không trách ai, mà tự trách cái nghiệp quả của mình mà thôi. Chính tiên cô Bảo-Hòa là giọt máu của vua bà Bắc-biên mà cũng bỏ đi nữa là Thanh sư tỷ.
      Khai-Quốc vương như người đi trong đêm, chợt có ánh đuốc đốt lên, mà hiểu hết. Vương thở dài:
      - Mình ngu quá! Mình ngu quá.



      <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.02.2005 03:08:45 bởi NuHiepDeThuong >
      #3
        CDDLT 21.01.2005 17:50:38 (permalink)
        Hồi thứ một trăm hai mươi chín


        Trên bến Bắc Ngạn




        Gió heo may rít lên từng cơn trong bầu trời u ám, mây phủ đen kịt, mưa phùn dài lê thê. Trên bến đò Bắc ngạn sông Hồng, suốt khoảng phố dài trăm trượng, dựng đứng lên mười khách điếm hai tầng ngạo nghễ giữa những quán nhỏ bán quà trải dài ven sông. Bên kia sông là đế-đô Thăng-long. Thăng-long đang giữa thời thịnh trị. Trong nước không sự, biên cương yên ổn, mấy năm được mùa liên tiếp, khiến đế-đô càng thêm phồn thịnh. Người người từ miền Bắc, miền Nam, từ thôn quê tải hàng hoá ra kinh kỳ bán. Trong thành chia làm Phường. Phường lại chia thành Phố. Tiếng rằng Thăng-long có ba mươi sáu phố phường. Nhưng đấy chỉ nói nội thành. Thành chật quá, dân chúng phải làm nhà ngoài thành mà ở, cùng buôn bán. Có đến mười khu thịnh vượng. Nhưng khu thịnh vượng nhất là khu Bắc-ngạn sông Hồng. Người đương thời coi như đó là kinh kỳ thứ nhì.
        Bấy giờ là năm Đinh-Sửu nhằm niên hiệu Thông-thụy thứ tư đời vua Thái-Tông nhà Lý (1037), bên Trung-nguyên là năm Cảnh-hựu thứ tư đời vua Nhân-Tông. Trời tháng chạp lất phất mấy hạt mưa phùn, gió lạnh căm căm. Một đoàn ba kị mã đến bến đò Bắc-ngạn sông Hồng thì gò cương lại. Họ gồm một người già, nhưng mặt hồng hào khó biết bao nhiêu tuổi; một trung niên nam tử tuổi khoảng bốn chục và một thiếu niên tuổi khoảng mười ba mười bốn.
        Người già nhìn bến sông vắng lặng, không một con đò, thì than:
        - Trời lạnh quá mà không còn nhà đò nào nữa. Làm sao bây giờ?
        Thiếu niên nói:
        - Thôi đành vào khách điếm kia ngồi trú ngụ qua đêm vậy, vả mình có sang sông thì cổng thành cũng đóng rồi, vào thành không được nữa.
        Ba người vào một căn khách điếm còn mở cửa. Người già nói:
        - Xin chủ nhân cho chúng tôi ba phòng trọ.
        Chủ nhà cung tay:
        - Xin quý khách thông cảm, tất cả phòng của tệ điếm đều có người thuê cả rồi. Nếu quý khách muốn, xin vào ngồi đỡ ở phòng ăn sưởi ấm, uống trà, nói truyện qua đêm vậy.
        Thiếu niên nhảy xuống đất, rồi cầm cương cả ba con ngựa cột vào gốc cây. Chủ quán sai tiểu đồng rót ra ba chung trà:
        - Kính mời quý khách dùng trà cho ấm bụng.
        Ba người khách ngồi xuống ghế. Họ đưa mắt quan sát: Trong quán dễ thường có đến mười bàn. Bàn nào cũng đầy khách. Bốn góc phòng, bốn lò sưởi, than cháy đỏ lừ, tiếng củi nổ lách bách, bắn tung những tia sáng tóe ra xung quanh.
        Trung niên nam tử nói với chủ quán:
        - Trong quán còn gì ăn không ông chủ?
        - Thưa trong dịp cử hiền này, chúng tôi tích trữ đủ thức ngon vật lạ. Quý khách thích xơi gì ạ?
        - Vậy thì tốt quá, cho tôi hai cút rượu tăm, mấy con mực khô hoặc cua bể nướng. Cho một đĩa mướp hương xào thịt nai và một con gà hấp.
        Chủ quán đưa mắt nhìn thiếu niên:
        - Phải chăng công tử đây về kinh ứng thí?
        Thiếu niên đáp:
        - Vâng.
        Rồi y chỉ vào trung niên nam tử:
        - Vị này là bố tôi.
        Y cung cung, kính kính chỉ vào lão nhân:
        - Vị này là sư phụ tôi.
        Chủ quán đưa mắt tò mò nhìn ba người, rồi hỏi:
        - Nghe tiếng công tử, tôi đoán dường như công tử từ Bắc-biên về đây. Không biết công tử có thể cho tôi biết cao danh quý tính chăng?
        Thiếu niên nhanh nhẩu:
        - Sư phụ tôi họ Hoàng, chúng tôi thuộc phái Sài-sơn. Tôi họ Nùng, tên Trí-Cao.
        Trên mặt chủ quán hiện ra sắc kính cẩn, hướng vào người họ Hoàng:
        - Phải chăng tiên sinh là Hoàng-Giang cư-sĩ lừng danh thiên hạ là thần y đó chăng ?
        Người họ Hoàng gật đầu:
        - Chủ quán kiến thức rộng lắm nhỉ!
        Chủ quán được khen, y vui mừng ra mặt, hướng trung niên nam tử:
        - Còn vị này hẳn là Trường-sinh hầu, tổng lĩnh ba mươi sáu châu động sức Nùng, có đại danh Nùng Tồn-Phúc. Chúng tôi ở miền xuôi này cũng từng nghe đại danh quân hầu theo vua Bà Bắc-biên đánh phá bọn phỉ tặc Tống mấy năm trước.
        Nùng Tồn-Phúc cảm động:
        - Mình là con cháu vua Hùng, thì khi giặc tới phải giết chúng để bảo vệ đất tổ mà. Ông khen chi cho tôi thêm thẹn.
        Chủ quán cung kính:
        - Đối với quân hầu thì quân hầu không coi công lao ấy ra gì. Nhưng chúng tôi ở miền xuôi này sở dĩ được yên ổn là nhờ những việc làm của quân hầu đấy.
        Chủ quán bảo tiểu nhị:
        - Con mau lấy hũ rượu tăm thời Thuận-thiên ta để dành đem ra để thiết quân hầu.
        Chủ quán cũng như khách phải ngừng câu truyện, vì những tiếng cãi cọ từ mấy người đang tụm lại bên ngọn bạch lạp. Trí-Cao hỏi tiểu nhị:
        - Này anh, họ cãi nhau cái gì vậy?
        - Không phải họ cãi nhau đâu, mà họ chỉ trích thầy đồ kể truyện đấy. Nguyên thầy đồ này có tài xem bói, nhưng ai đặt quẻ, ông ta cũng chỉ cho hỏi ba câu thôi. Nay có thiếu niên trả thêm tiền để hỏi nữa, ông ta không chịu nói. Vì vậy có tiếng cãi cọ.
        Trí-Cao kinh ngạc:
        - Vậy hẳn ông ta là một dị nhân rồi. Để tôi lại xin xem một quẻ cho biết tài.
        Chủ quán nói nhỏ:
        - Không những ông ta là dị nhân, mà là quái nhân, bởi ông mang mặt nạ da người, nên không ai biết ông ta bao nhiêu tuổi. Mỗi ngày ông ta chỉ xem cho mười người, rồi kể truyện. Ông ta kể rất hay.
        Thầy đồ nhấp chung trà rồi hỏi:
        - Hôm nay các vị muốn nghe truyện gì nào?
        - Truyện công chúa Gia-Hưng chém Đoàn Chí trên biển Đông.
        - Truyện đó kể hôm qua rồi mà.
        - Truyện bà Triệu chém Lục Dận ở núi Chung-chinh.
        - Truyện đó kể hôm kia rồi.
        - Truyện đức Thái-tổ bản triều hồi thơ ấu phải đi ở chùa.
        - Truyện này kể tháng trước rồi.
        - Vậy tùy thầy muốn kể gì thì kể.
        - Được, hôm nay tôi sẽ kể sự tích chùa Diên-hựu.
        Một người hỏi:
        - Chùa Diên-hựu là chùa gì vậy?
        - Tức là chùa Một-cột ở giữa thành Thăng-long đó.
        Một người tỏ vẻ hiểu biết:
        - Chùa Một-cột có sự tích gì lạ đâu mà kể. Nghe nói năm trước, đức Hoàng-đế nằm mơ thấy Phật bà Quan-thế-âm dắt ngài lên một ngôi chùa giống hình hoa sen. Ngài mới sai làm chùa một cột để tạ ơn.
        Một người khác nói:
        - Đâu phải. Nguyên đức vua dạo chơi đến chỗ làm chùa bây giờ thì gặp một nàng tiên áo trắng đẹp tuyệt trần. Ngài truyền đem kiệu chở về làm phi. Nhưng khi đến cung thì chỉ thấy kiệu không. Đức vua nhân đó làm ngôi chùa để tưởng nhớ.
        Thầy đồ cười:
        - Hai truyện các ông nói đều đúng cả. Nhưng cũng sai hết.
        - Vậy thì truyện ra sao? Thầy kể đi.
        - Tôi sẽ kể, khi nào các vị im lặng đã. Chứ các vị nói lao xao như vậy làm sao tôi kể được.
        Mọi người ngồi im lặng, mắt hướng thầy đồ chờ đợi.
        Thầy đồ hắng giọng rồi nói:
        - Câu truyện bắt đầu vào niên hiệu Thiên-Thành nguyên niên (1028). Bấy giờ đức Thái-tổ bản triều lâm bệnh nặng, Khai-Quốc vương đang đi sứ bên Tống, các vị Dực-Thánh, Vũ-Đức, Đông-Chinh vương làm loạn. Khai-Quốc vương trở về, nhờ lực lượng phái Đông-a trợ giúp, dẹp xong chư vương. Trong các vương làm loạn thì Vũ-Đức vương tội nặng nhất. Vương-phi Thanh-Mai nhất tâm nhất trí cứu vương. Không ngờ vương đánh thuốc độc vương-phi Thanh-Mai, rồi ám toán. Vương bị bị thương nặng. Trong lúc Khai-Quốc vương mải tiếp bách quan, cùng chư vị anh hùng, thì Vương-phi bỏ đi mất.
        Một người nói:
        - Việc đó quốc dân đều biết. Nhưng từ ngày ấy đến giờ không có tin tức gì của Vương-phi. Cho nên người ta nghĩ rằng Vương-phi được đại hiệp Tự-An mang đi một nơi vắng, để Khai-Quốc vương khỏi nhìn thấy Vương-phi qua đời mà đau lòng.
        Một người khác xen vào:
        - Lại có tin nói, Hồng-Sơn đại phu đem Vương-phi đi xa chữa trị khỏi bệnh. Nhưng Vương-phi hận triều đình, thành ra không muốn trở về.
        Thầy đồ nói:
        - Hỡi ơi, muôn nghìn năm mới có một người vừa xinh đẹp, vừa tài trí như Vương-phi. Vương-phi chịu làm vợ Khai-Quốc vương chỉ vì hai vị cùng có chí lớn kiến thiết Đại-Việt thành một nước hùng mạnh, rồi chỉ ngọn cờ lên Bắc đòi lại cố thổ thời Lĩnh-Nam. Nhưng than ôi, trời không chiều người, khi Vương vắng mặt thì các vị vương khác nổi loạn. Vương-phi thấy khó mà thành ước nguyện, nên bỏ đi mà thôi.
        Thầy nhìn Hoàng-Giang cư sĩ, nháy mắt một cái, rồi tiếp:
        - Khai-Quốc vương thực là nòi tình. Trước khi gặp Vương-phi, đức Thái-tổ đã kén cho Vương không biết bao nhiêu giai nhân tuyệt thế, Vương đều không nhận. Hoặc có nhận rồi cũng đem cho người ta. Hai người nổi tiếng là Lâm Huệ-Phương vương gả cho Hồng-Sơn đại phu, danh kỹ Hà Thanh, vương gả cho đại hiệp Trần Tự-An. Thế mà khi Vương gặp Vương-phi là say mê liền. Các vị vương khác đều có hàng chục bà phi, rồi mỹ nữ, rồi nàng hầu. Còn Vương, Vương chỉ nhất tâm có Vương-phi. Than ôi, chỉ anh hùng mới đa tình. Khai-Quốc vương mới đích thực là người biết thế nào là tình yêu. Còn chúng nhân thì chỉ hiếu sắc mà thôi!
        Thầy ngước mắt nhìn vào cõi xa xôi:
        - Từ ngày Vương-phi ra đi, Hoàng-thượng kén cho Vương không biết bao nhiêu giai nhân tuyệt thế con các đại thần. Vương nhận hết, kết làm anh em rồi đối xử thực tử tế, chiều chuộng nào khác gì đối với Vương-phi, nhưng không bao giờ chung chăn gối. Lúc nhàn rỗi, Vương dạy chủ đạo tộc Việt, dạy võ công, dạy văn học. Sau đó Vương kiếm những võ tướng, văn thần có tài, rồi đem gả cho. Gần đây nhất phò-mã Xiêm là Lê Văn, nghĩa đệ của Vương, gửi tặng Vương hai thiếu nữ Thái, sắc nước, hương trời, đàn ngọt hát hay. Một cô tên Vong-si-vít Si-pi-phôn. Một cô tên Bou-Khet Bun-tha-vy. Vương thu nạp hết, dạy tiếng Việt cho. Nhân tướng quân Lê Phụng-Hiểu góa vợ, vương gả cô Vong-si-vít làm kế thất. Còn Bun-tha-vy, nhân Vương-phi Đông-Chinh qua đời, vương xin Khai-Quốc vương gả cho. Khai-Quốc vương dặn rằng : lấy cô Bun-tha-vy là em nuôi Khai-Quốc vương thì Đông-Chinh vương chỉ được sủng ái mình nàng, cấm em không được thu một cung tần, mỹ nữ nào khác bằng không sẽ bị đánh đòn.
        Mọi người đều gật gù tỏ vẻ thích thú. Thầy đồ tiếp:
        - Nhưng sau bẩy tháng, Đông-Chinh vương thu nạp một con hát làm thiếp. Tin này tới tai Khai-Quốc vương. Vương tới phủ Đông-Chinh, nọc ngay ông em ra đánh mười roi về tội thiếu chung thủy. Đông-Chinh vương kinh sợ, vội cho con hát về.
        Một người đàn bà hỏi:
        - Thưa thầy, tôi nghe Tống-đế cũng gả cho Vương hai thiếu nữ sắc nước hương trời. Vậy việc này ra sao?
        - Không phải Tống-đế mà là phò mã Trần Tự-Mai. Nguyên hồi phò mã theo Khai-Quốc vương đi sứ Trung-quốc. Một đêm phò mã cùng Thiên-Thánh hoàng đế đến tửu lầu Cô-tô dự tuyển phu của ba giai nhân tuyệt sắc, con đại thần Tống. Nhà vua trúng Khấu Kim-Hồng, con của Khấu Chuẩn, đem về phong làm Tây-cung quý phi. Nay là Hoàng-hậu. Còn phò-mã trúng hai tiểu thư. Một là Phùng Kim-Thanh con của đại thần Phùng Thừa. Một là Đinh Hương-Tử con của đại thần Đinh Vị. Nhưng bấy giờ phò-mã đã gặp công chúa Huệ-Nhu rồi, nên kết làm anh em với hai nàng. Sau này dù phò mã thành hôn với công chúa, mà hai nàng nhất định không lấy ai.
        Đến đó thầy đồ ngừng lại hỏi Trí-Cao:
        - Đúng không cậu?
        Trí-Cao giật mình chỉ Tồn-Phúc:
        - Theo bố cháu kể: khi vương phi Thanh-Mai bỏ đi, phò-mã đem hai nàng tặng cho nghĩa huynh Khai-Quốc vương. Vương gửi sang hai cụm phong lan tạ ơn phò mã, lại kèm theo một cái roi mây ngụ ý đánh đòn.
        Mọi người kinh ngạc đến đờ ra hỏi:
        - Tại sao lại kỳ lạ vậy?
        Thầy đồ cười:
        - Có gì lạ đâu. Hai cụm phong lan ngụ ý tạ ơn rằng phò mã đã cho hai người đẹp, vương nâng niu như phong lan. Phong lan để xa thì thơm, chứ ghé mũi vào ngửi thì không có hương gì hết. Ý vương muốn nói, vương sẽ nâng niu hai nàng, nhưng chỉ để xa mà ngắm thôi. Còn cái roi mây ngụ ý rằng: Chính phò mã mai mối chị gái cho vương, hiểu rõ rằng vương chỉ sủng ái vương phi, mà sao còn gửi mỹ nữ tặng vương. Như vậy tội đáng đánh đòn.
        Mọi người đều bật lên tiếng à tỏ vẻ hiểu mọi sự. Một người hỏi:
        - Thế hai nàng đó bây giờ ở đâu?
        - Hồi ấy, phu nhân của Tả-kim ngô đại tướng quân, tổng quản Khu-mật viện, Cổ-loa hầu Tạ Sơn mới qua đời. Nhân hầu là sư đệ của vương, nên vương gả tiểu thư Đinh Hương-Tử cho. Còn nàng Phùng Kim-Thanh, vương gả cho Trấn-võ đại tướng quân, Vũ-dương hầu Tôn Quý.
        Một người hỏi:
        - Có phải hầu làm em kết nghĩa của đại hiệp Tôn Đản không?
        - Đúng đó. Hồi thơ ấu Tôn đại hiệp cùng phò mã Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm, với Trần Anh, Tôn Mạnh, Tôn Trọng, Tôn Quý phá phách quá, người Tân-quy gọi là Tân-quy thất quỷ. Sau cả bẩy vị theo Khai-Quốc vương, được vương dạy dỗ, nay đều là rường cột quốc gia. Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm thành phò-mã. Trần Anh được vương gả nghĩa muội của vua bà Bình-Dương là Tĩnh-Ninh cho. Tôn Mạnh được vương phi Thanh-Mai xin đại hiệp Tự-An gả em gái vương phi tên Thanh-Nguyên cho. Tôn Trọng được vương hỏi quận chúa Đào Phương-Hồng, ái nữ của công chúa An-Quốc với phò mã Đào Cam-Mộc. Trong trận đánh Yến-vĩ, Tôn Quý bị quận chúa Hồng-Phúc ám hại suýt mất mạng, nên vương thương Tôn Quý lắm, nay gả nàng Thanh cho để lao tưởng.
        Một thiếu nữ hỏi:
        - Thưa thầy cháu nghe cách nay mấy tháng, có một tiên nữ đẹp tuyệt trần, xuất hiện ở vùng Cổ-loa chữa bệnh cho biết bao người. Dân chúng tả hình dáng cùng cử chỉ, thì ai cũng biết đó là vương phi. Khai-Quốc vương nghe báo tìm đến, thì tiên nữ đó biến đâu mất. Vương tới chỗ tiên nữ ngồi, nghe thoang thoảng hương thơm, thì là đúng hương thơm của vương phi.
        Thầy đồ nói:
        - Đúng thế, hồi ấy, vú Hậu là nhũ mẫu của Khai-Quốc vương bị bệnh nặng, ngự y chữa không khỏi. Sau quan thái phó Dương Bình, đại đệ tử của Hồng-Sơn đại phu cầm mạch thì biết rằng vú thương nhớ vương phi Thanh-Mai mà thành bệnh, nên không thuốc nào trị khỏi. Tin ấy đồn ra ngoài. Một hôm có sư cô khất thực trước vương phủ Khai-Quốc vương. Sư cô thấy vú Hậu liền nói rằng: Vú hãy lập đàn cầu Phật Quan-thế-Âm thì trăm bệnh đều khỏi. Vú lập đàn lễ đêm thứ nhất, không thấy gì lạ. Qua đêm thứ nhì thì thấy Phật-bà hiện trên nóc nhà. Ngài tung dây cuốn lấy vú Hậu đem đi mất. Ba hôm sau vú Hậu trở về, bệnh khỏi hẳn. Khai-Quốc vương không tin Phật-bà xuất hiện, cật vấn vú Hậu chi tiết về việc Phật-bà đem đi, bấy giờ vú Hậu mới nói thực rằng bóng trắng chính là vương phi Thanh-Mai.
        Thầy đồ ngừng lại uống chung trà rồi tiếp:
        - Khai-Quốc vương nhất quyết tìm cho ra Vương-phi. Một hôm tế tác báo rằng đã tìm thấy tung tích sư cô khất thực ở phủ Khai-Quốc hôm trước. Hiện sư cô ấy thường hay quanh quẩn ở hồ Tây trị bệnh cho người. Khai-Quốc vương cho rằng sư cô ấy nhất định là chân tay của Vương-phi. Vương sai tùy tùng đem kiệu bắt sư cô đưa về vương phủ để hỏi tin tức. Nhưng khi kiệu về đến nơi, thì sư cô biến đâu mất. Khai-Quốc vương tới kiệu khám xét, thì thấy hương thơm của Vương-phi còn thoang thoảng. Thì ra sư cô đó chính là Vương-phi giả dạng.
        Thầy đồ mỉm cười nhìn mọi người:
        - Đức vua nghe truyện, truyền cất chùa Diên-hựu, để ghi công đức Vương-phi với triều Lý.
        Thầy đồ kết luận:
        - Chính vì vậy mà người ta đồn đại ra ngoài nào đức vua được Phật-bà dẫn lên mây, rồi đức vua đón sư cô vào cung. Sự thực là như thế.
        Thầy đồ quay lại nói:
        - Kể truyện xong rồi, bây giờ tôi coi bói. Ai muốn coi?
        Hoàng-Giang bảo Trí-Cao:
        - Con đến cầu thầy một quẻ đi.
        Trí-Cao tiến lại, nó để ý thấy hai người ngồi trước mặt thầy đồ là đôi thiếu niên nam nữ. Nam tuổi khoảng hai mươi, nữ tuổi khoảng mười sáu, mười bẩy, nhan sắc tuyệt thế. Cả hai trang phục rất sang trọng, lưng đeo bảo kiếm, rõ ràng thuộc giới võ lâm. Nam nói:
        - Này ông đồ. Ban nãy ông coi cho em tôi, nó muốn hỏi thêm ít câu mà ông không chịu trả lời. Bây giờ tôi hứa, nếu ông trả lời cho anh em tôi thêm mỗi câu, tôi thưởng cho ông một trăm đồng tiền, mà tại sao ông không chịu trả lời.
        Thầy đồ lạnh lùng:
        - Dương công tử. Thể lệ của tôi đã ra như vậy. Dù Vua, dù Tể-tướng, tôi cũng chỉ trả lời ba câu hỏi mà thôi. Dương tiểu thư đã hỏi đủ ba câu, như vậy là hết, tôi không trả lời nữa.
        Thiếu nữ cau mày:
        - Bây giờ coi như tôi đặt quẻ khác, ông có chịu nói không?
        - Không, mỗi người, trọn đời tôi chỉ coi cho một lần thôi.
        Có hai thanh niên từ ngoài bước vào. Một người tuổi khoảng mười chín hai mươi mặc quần áo nâu, một người tuổi khoảng mười bẩy, mười tám mặc quần áo xanh. Hai người trang phục theo lối dân quê. Họ vái thầy đồ, rồi thõng tay lui lại sau.
        Thầy đồ đưa mắt nhìn Trí-Cao:
        - Hình như cậu cũng muốn coi?
        Trí-Cao cung tay:
        - Thưa thầy vâng.
        Rồi nó chỉ vào hai thah niên mới tới:
        - Thưa thầy, xin thầy coi cho hai vị nhân huynh đây trước, dường như họ có truyện khẩn.
        Thấy đồ hài lòng:
        - Vậy cậu ngồi chờ một tẹo.
        Thầy đồ chỉ thanh niên áo xanh:
        - Hồi nãy tôi đã coi cho cậu rồi mà, bây giờ tôi không coi cho cậu nữa đâu.
        Giọng nói của ông rất đầm ấm, ôn nhu như cha đối với con, như thầy đối với trò, khác hẳn giọng lạnh lùng đối với cặp nam nữ thiếu niên vừa rồi. Thanh niên áo xanh chỉ thanh niên áo nâu:
        - Thưa thầy tôi đâu dám phiền thầy nữa. Chẳng dấu gì thầy, hồi nãy được thầy coi cho, trở về tôi thuật lại với đứa cháu tôi đây. Cháu tôi không tin. Vì vậy tôi với nó đánh cuộc.
        Thầy đồ cười, tay vỗ lên vai thiếu niên, cử chỉ thân mật như cha với con:
        - Chắc cậu muốn đánh cuộc rằng nếu tôi đoán trúng thì cháu cậu phải biếu cậu cái gì. Ngược lại, nếu tôi đoán sai, cậu phải cho cháu cậu món quà tương tự. Có phải vậy không?
        - Thưa thầy đúng thế.
        - Được, cậu đặt quẻ đi.
        Thanh niên áo xanh móc trong bọc ra nén vàng, để lên điã:
        - Xin thầy đoán cho.
        Thiếu nữ họ Dương thấy thanh niên áo xanh trang phục theo lối thôn quê, mà đặt quẻ những một nén vàng, thì tức không chịu được, nói đổng:
        - Thằng quê mùa này làm sao mà có vàng? Chắc là vàng giả, hoặc vàng ăn cắp cũng nên.
        Thanh niên áo nâu nghe thiếu nữ họ Dương nói lời khinh bạc, mắt y mở lớn, tia hàn quang chiếu ra cực mạnh, ý định trả lời. Nhưng thanh niên áo xanh vẫy tay ra hiệu tỏ ý bỏ qua.
        Thanh niên họ Dương nói với em:
        - Em cứ để nguyên, xem gã đồ này có tham vàng mà cho hỏi quá ba câu không? Nếu y để cho tên nhà quê hỏi từ bốn câu trở đi, ta hãy đập vào xác hắn, rồi lột cái mặt nạ hắn ra xem hắn là ai.
        Thầy đồ không thèm để ý đến lời đe dọa của anh em họ Dương. Ông liếc nhìn thanh niên áo nâu, rồi mỉm cười:
        - Với cậu, tôi xin coi tướng. Hà! Tướng cậu tốt thì cực tốt, mà xấu thì cũng cực xấu.
        Thiếu nữ họ Dương nói đổng:
        - Đoán mò rồi. Để tôi đoán tướng cho gã nhà quê:

        Số cậu có mẹ, có cha,
        Mẹ cậu đàn bà, cha cậu đàn ông.
        Số cậu có vợ, có chồng,
        Sinh con đầu lòng không gái thì trai.


        Đọc hết mấy câu thơ, thiếu nữ họ Dương để ý nhìn thanh niên áo nâu, thị phải sửng sốt, vì đó là một thanh niên tướng mạo hùng vĩ, nhưng cử chỉ lại ôn nhu văn nhã. Tự nhiên trong lòng thị bừng lên một dục vọng: Phải chi mình có một ông chồng như tên này thì cũng không uổng đời nhan sắc.
        Thầy đồ lờ đi, tiếp:
        - Mắt cậu là mắt hổ, mũi là mũi sư tử, răng trắng đẹp, tướng đi như rồng. Như vậy cậu không phải là con nhà nông dân đâu. Cậu sinh ra trong một gia đình quyền quý, cha mẹ đều là những đấng tài hoa. Mí mắt cậu có ba tia, như vậy cậu chỉ có hai anh em trai. Cậu là con cả.
        Thanh niên áo xanh suýt xoa:
        - Thần thực.
        - Dưới mí mắt phải, cậu có mụn nốt ruồi đen nhỏ, như vậy cậu mồ côi cha từ năm mười tuổi. Đôi mắt cậu hiện quầng thâm, chứng tỏ cậu mới trải qua một đau đớn ghê ghớm, đó là thân mẫu cậu mới qua đời được mấy tháng.
        Đến lượt thanh niên áo nâu cung tay:
        - Phục thầy.
        Thầy đồ phóng mắt như nhìn vào cõi xa xôi nào, rồi tiếp:
        - Cậu tuy trang phục theo lối quê, nhưng tôi biết cậu là đệ tử của một đại tôn sư võ học có bản lĩnh nghiêng trời lệch đất. Bàn tay cậu đẹp thế kia, như vậy sư phụ cậu là nữ chứ không phải nam. Hà, tôi đoán ra sư phụ cậu là ai rồi.
        Thanh niên áo nâu cung tay:
        - Xin thầy đừng nói tên sư phụ tôi ra đây, e làm ô danh người.
        - Cậu lo xa đấy thôi. Sư phụ cậu yêu cậu hơn yêu con nữa.
        Cô gái họ Dương xen vào:
        - Lão này đoán mò chứ đâu phải xem tướng.
        Thầy đồ vẫn nhìn vào cõi xa xôi:
        - Cậu mới đính hôn năm trước đây. Vợ cậu thuộc loại thân thượng thành thân, tức là người dưới cậu, hoặc anh em xa, nhưng thấp vai hơn cậu.
        - Phục thầy.
        - Năm nay cậu đi thi nhưng không được thi. Tuy không được thi nhưng đường công danh cực tốt. Cuộc đời oanh liệt của cậu bắt đầu từ cuối năm nay. Sau này sự nghiệp của cậu sẽ lên đến tuyệt đỉnh. Trong lịch sử, chỉ Bắc-bình vương Đào Kỳ là có thể so sánh với cậu.
        - Đa tạ thầy.
        Thầy đồ chợt nhìn ra xa, rồi nắm lấy tay thanh niên áo nâu bằng cử chỉ thân ái như cha với con, hoặc như thầy với trò, ông nói bằng giọng thương cảm:
        - Tiếc quá, cậu sắp gặp một tai biến kinh khủng nhất đời cậu. Tai biến đó khiến muôn ngàn năm sau, hậu thế còn nuối tiếc cho cậu. Tuy vậy, chính tai biến này lại đem lại cho cậu một cái may: Cậu luôn được kề cận Thiên-tử, sớm tối, ăn cùng mâm, ngủ cùng dường... Rồi cậu trở thành đại anh-hùng.
        Cô gái họ Dương xì một tiếng:
        - Anh coi, gã thầy đồ này thấy vàng, tối mắt lại, nịnh bợ hai thằng ôn con nhà quê coi chán không kìa.
        Thầy đồ buông tay thanh niên ra:
        - Cậu có hỏi gì nữa không?
        Thanh niên áo nâu chắp tay:
        - Thưa thầy bây giờ tiểu sinh không có sự chi để hỏi, ba câu hỏi đó, tiểu sinh sẽ xin thỉnh thầy mai sau.
        - Được.
        Thanh niên áo xanh cười với thanh niên áo nâu:
        - Người tuy lớn hơn ta bốn tuổi, nhưng người hứa rằng: Nếu như thầy đồ đoán đúng hết ba câu, thì người phải bái ta làm bố nuôi. Vậy bây giờ người tính sao?
        Thanh niên áo nâu nghĩ ngợi một lúc, rồi quỳ gối:
        - Xin hoàng thiên chứng giám cho, tôi là Lý Thường-Kiệt, hai mươi tuổi. Tôi hứa rằng nếu thầy đồ đoán đúng vận mệnh của tôi, tôi sẽ bái chú tôi làm nghĩa phụ, và trọn đời phải trung thành với người. Nay tôi thua, xin giữ lời hứa.
        Nói rồi Thường-Kiệt lậy thanh niên áo xanh tám lậy:
        - Nghĩa phụ.
        Thanh niên áo xanh đỡ Thường-Kiệt dậy:
        - Người giữ lời hứa, thực xứng đáng là anh hùng.
        Cô gái họ Dương nói với anh:
        - Thực là trò hề, một tên ôn con, mà bắt người lớn tuổi hơn gọi bằng bố.
        Thường-Kiệt lờ đi như không nghe thấy.
        Nguyên thanh niên áo nâu là Lý Thường-Kiệt, còn thanh niên áo xanh là Nhật-Tông. Sau vụ binh biến do chư vương gây ra, Khai-Thiên vương lên ngôi vua, lấy hiệu là Thiên-Thành. Khai-Quốc vương giữ chức Thái-sư tại triều. Vì có lời ước hẹn với Khai-Quốc vương, cùng di chiếu của Thuận-Thiên hoàng-đế, Thiên-Thành hoàng-đế truyền lập con trai là Nhật-Tông làm Thái-tử, giao cho nghĩa phụ là Khai-Quốc vương nuôi nấng dậy dỗ.
        Thiên-Thành hoàng-đế khác với em là Khai-Quốc vương. Hoàng-đế không có tài đối phó với những biến cố khẩn cấp, lại càng không có tài qui tụ võ lâm, thao luyện binh mã. Nhưng nhà vua rất giỏi cai trị. Tự biết vậy, nên vấn đề đối ngoại với Tống, Đại-lý, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la, cùng giải quyết những xung đột võ lâm, nhà vua giao cho Khai-Quốc vương hết. Mỗi đề nghị của vương, nhà vua đều nghe theo. Hoá cho nên trong không có xung đột, ngoài biên cương yên ổn. Chỉ mấy năm, mà Đại-Việt trở thành giầu có súc tích. Các nước xung quanh cùng hướng mắt nhìn về.
        Sau cuộc nội chiến, tinh lực quốc gia còn nguyên, nhưng tinh lực võ lâm hao tổn không ít. Bởi võ lâm sỡ dĩ thống nhất, cùng phò trợ triều Lý chỉ vì muốn cùng Khai-Quốc vương chỉnh bị binh mã đòi lại cố thổ. Nhưng sau vụ chư vương nổi loạn, võ lâm mới bật ngửa ra rằng, tất cả bao nhiêu công trình mình làm cho đất nước, phút chốc bị phá tan bởi chư vương tham quyền cố vị. Khai-Quốc vương tuy dẹp được loạn, nhưng võ lâm có cảm tưởng như mình làm đầy tớ không công cho bọn tham danh, tham quyền. Hai phái Sài-sơn, Đông-a không ra mặt chống triều đình, nhưng rửng rưng trước mọi sự. Hai đại tôn sư Hồng-Sơn và Tự-An cùng tuyệt tích. Các đại tướng quân thuộc hai phái này lấy cớ đất nước yên ổn, cùng treo ấn từ quan về thôn dã ngao du thắng cảnh.
        Khai-Quốc vương cảm thấy mối nguy, nếu Tống biết rõ nội tình, e dã tâm xâm lăng Đại-Việt của đám đại thần lại nổi dậy. Vương vội ôm Nhật-Tông, Thường-Kiệt qua lại giang hồ thăm các môn phái, nhờ vậy nhân tâm tương đối không đến nỗi ly tán.
        Về phía triều đình, vừa lên ngôi vua, Thiên-Thành hoàng-đế ban chỉ kính sư phụ là Minh-Không bồ-tát làm Quốc-sư. Lại truyền gả công chúa Bình-Dương cho thế-tử Thân Thiệu-Thái; lại gả công chúa Kim-Thành cho lạc hầu Lê Thuận-Tông, công chúa Trường-Ninh cho lạc hầu Hà Thiện-Lãm. Sắc phong quận chúa Thân Bảo-Hòa làm Đại-Việt trưởng công chúa, tức là ngôi vị cao nhất trong các phụ nữ hoàng tộc.
        Năm sau vua bà Bắc-biên thấy con mình đã trưởng thành về mọi phương diện. Bà nhường ngôi cho công chúa Bình-Dương. Thân Thiệu-Anh nhường chức chưởng môn phái Tây-vu cho Thân Thừa-Quý rồi ngao du thiên hạ, cuối cùng cũng tuyệt tích. Phái Tiêu-sơn, Bồ-tát Minh-Không thấy thân thể sắp mục, ngài gọi chư đệ tử đến để thuyết pháp lần cuối, cùng truyền chức cho sư đệ Huệ-Sinh, sau đó viên tịch. Trước khi viên tịch ngài dặn chư đệ tử rằng ngài sẽ tái sinh làm người Việt, cũng lấy pháp danh Minh-Không.
        Từ khi công chúa Bình-Dương lên ngôi vua Bà Bắc-biên, hàng tháng vua Bà hội các động chủ, châu chủ một lần. Những lần như thế triều đình Bắc-biên đều đạt thư mời Ngô-quốc quận vương Trần Tự-Mai tham dự, để giải quyết những vấn đề đụng chạm giữa hai bên. Những biên thần Tống cũng như các động chủ, châu chủ bên Việt không ít thì nhiều đều nghe danh Thái-tử thiếu-bảo, Đồng-bình chương sự, Tả-kiêu vệ đại tướng quân, Ngô-quốc quận vương là người trị quân cực nghiêm, lại hết sức bảo vệ tinh thần tộc Việt, nên dù họ có muốn gây sự hay khi có đụng chạm, cũng vội tự giảng hòa. Các nho-thần Tống, Việt đều luôn thượng biểu về triều ca tụng công đức của vua bà Bắc-biên với Ngô-quốc quận vương.
        Niên hiệu Thiên-Thánh thứ tám (Tân-Mùi, 1031) bên Đại-Việt là niên hiệu Thiên-Thành thứ tư, vua Tống sai sứ phong cho Ngô-quốc quận vương chức tước như sau :Thái-tử thiếu-sư, Đồng-bình chương sự, Tả-kim ngô đại tướng quân, Ngô-quốc vương. Công chúa Huệ-Nhu được phong Ngô-quốc trưởng công chúa.
        Niên hiệu Thiên-Thánh tứ chín (Nhâm-Thân, 1032), vì Hạ-vương băng, con tên Nguyên-Hạo lên nối ngôi. Tân quân là một người trẻ, văn mô vũ lược, lại có chí lớn nên chỉnh bị binh mã, khuyến khích chăn nôi, tự tách ra làm một nước, không phụ thuộc Tống nữa. Triều đình Tống lo sợ, nhưng cử các tướng cũng như danh sĩ đem quân trấn Tây-thùy, ai nấy đều từ chối. Bởi khi trấn Tây-thùy, khó mà đương nổi binh hùng tướng mạnh Tây-hạ, thắng không hy vọng gì, mà bại thì ắt gia quyến bất toàn. Cho nên không ai dám đi. Lại nữa tại triều, các quan hay chia phe phái dèm xiểm, hại lẫn nhau. Cương trực như Phạm Trọng-Yêm, tài như Yến Thù mà cũng không không dám nhận.
        Triều đình cử Địch Thanh, Tôn Tiết, Trương Ngọc ra trấn, nhưng đánh năm trận thì bại bốn, vì các quan địa phương ăn cánh với đại thần, khinh thường ba tướng, cung ứng lương thực không đủ. Cuối cùng các quan cùng tâu xin cử Ngô-quốc vương Trần Tự-Mai vào chức tổng trấn Tây-thùy. Nhà vua ban chiếu triệu hồi Ngô vương cùng công chúa Huệ-Nhu về triều. Chính nhà vua cùng Lý thái-hậu đãi yến phò-mã, công chúa tại cung, rồi khẩn khoản trao việc lớn. Vương tâu:
        - Mẫu hậu với hoàng huynh ban chỉ, thì thần nhi đâu dám từ. Tuy nhiên trấn thủ Tây-thùy, thắng coi như khó đạt, nhưng bại thì cầm chắc. Trong khi thần gốc là người Việt, vậy xin ban cho thần ba điều.
        - Phò-mã cứ đưa ra.
        - Một là xin hoàng-thượng ban cho đệ thanh Thượng-phương bảo kiếm, được tiền trảm hậu tấu tất cả các quan dù là Tể-tướng, nếu họ không tuân lệnh, hoặc nói ra nói vào, dèm xiểm.
        Thái-hậu gật đầu:
        - Con xin như vậy là phải.
        - Điều thứ nhì, thần được toàn quyền rút quân vào nội địa để nhử địch, hoặc đánh thẳng sang Linh-châu khi thấy cần.
        Nhà vua gật đầu:
        - Trẫm thuận.
        - Điều thứ ba, tất cả những gì thần đã xây dựng hoà hiếu của biên dân Tống-Việt xin giữ nguyên.
        - Trẫm hứa.
        Hôm sau, thiết đại triều, trước mặt bá quan văn-võ nhà vua nêu ra mối nguy: Bắc-thùy hiện chính Thái-sư Yên-vương với vương-phi Thiếu-Mai phải trấn Hung-Nô (Liêu). Phía Tây thì Địch Thanh, Tôn Tiết, Trương Ngọc mới bại, trong triều không ai dám lĩnh mệnh trấn Tây-thùy, vì vậy nhà vua phải triệu phò-mã Tự-Mai với công chúa Huệ-Nhu lĩnh trọng trách. Sau đó Sùng-chính điện đại-học sĩ Yến Thù đọc chiếu chỉ phong phò mã Trần Tự-Mai chức tước như sau:

        Kiểm hiệu thái phó
        Tả kim ngô đại tướng quân,
        Thượng-thư lệnh kiêm Trung-thư lệnh,
        Tây-thùy chinh thảo sứ.
        Tước Tần-vương.


        Như vậy quan cao cực phẩm, chỉ thua có Yên-vương Nguyên-Nghiễm mà thôi.
        Phò-mã cùng công chúa lạy tạ lĩnh mệnh. Triều thần thở dài, như trút được mối lo. Ngay lúc đó, một văn quan, ngồi cao cực phẩm bước ra quỳ tâu:
        - Thần Lã Di-Giản, lĩnh Thượng-thư tả thừa, Chiêu-văn quan đại-học sĩ, Ngụy quốc-công xin có lời tâu: Phò-mã Trần Tự-Mai, tuổi bất quá mới hai mươi bốn, gốc người Nam-man, đời ông là Trần Trí-Đức đã giúp Lê Hoàn chống thiên triều ở Bạch-đằng. Đời cha là Trần Tự-An, ngang ngược cùng với Lê Long-Mang nhập Hoàng-thành giết người trước bệ hạ và đại thần. Nhưng vì Tự-Mai có công cứu giá mà được phong tước tới vương, lại được làm phò mã. Tưởng như vậy là quá rồi. Nay bệ hạ phong chức tước quá lớn, còn trao trọng binh cho y, lỡ ra khi Nam-biên ta có sự với Giao-chỉ, thì Nam đánh lên, Tự-Mai từ Tây đánh về, bấy giờ ai đương nổi?
        Công chúa Huệ-Nhu cầm Thượng-phương bảo kiếm chỉ vào mặt Lã Di-Giản:
        - Người thân là lão thần, trước đây vào đảng với Lưu hậu, hại mẫu hậu, dối hoàng-thượng mười tám năm trời, đáng lẽ bị tru di tam tộc. Nay nước nhà đang nguy như trứng chồng, quân triều bại liên tiếp ở Tây-thùy, người không có kế gì vẹn toàn, lại còn dèm pha phò-mã với ta ư? Trước kia hoàng-thượng ban chỉ cấm không được dùng những tiếng Nam-man, Tây-nhung, Bắc-địch, Đông-di, nay người lại đem những tiếng đó ra nhục mạ phò mã ư ? Xét về quan đẳng, phò mã cao hơn người gấp bội, mà người dám gọi tên phò-mã ra như vậy ư?
        Công chúa quát:
        - Võ sĩ đâu, bắt Lã Di-Giản chặt đầu để răn chúng.
        Lã Di-Giản hơi run:
        - Thần có nhục mạ phò mã tội cũng chưa đến phải sát thây.
        Công chúa quát:
        - Chiếu chỉ vừa ban ra, trong có khoản: Phò-mã với ta được trảm thủ những tên nào dèm xiểm, người không nghe sao?
        Công chúa rút Thượng-phương bảo kiếm định trảm thủ Lã. Lã run run:
        - Công chúa điện hạ. Hạ thần đã thờ tới ba đời vua, xin công chúa dung tình.
        Các đại thần xúm vào lột mũ, tâu xin tha cho Giản. Nhà vua truyền tạm tha, chờ đình thần nghị tội. Công chúa thấy vậy cũng đủ dằn mặt bọn văn quan lắm chuyện, nên bỏ qua.
        Tối hôm đó, toàn gia Lã Di-Giản hơn nghìn người gồm vợ con, tỳ nữ, bộc phụ, mã phu, võ sĩ, binh lính đều bị kẻ vô danh giết chết. Quan phủ Khai-phong đến điều tra, thấy cả lừa ngựa, chó mèo, chim muông đều bị giết một lượt. Gian nhân còn để để lại mấy chữ viết bằng máu:

        Gian nhân hiệp đảng,
        Khi quân, tham nhũng,
        Ác tâm gây chiến,
        Sát bất khả dung


        Nghĩa là: Kẻ gian hợp đảng với nhau, dối chúa, lại ăn hối lộ; trong lòng ác tâm muốn gây chiến, phải giết không tha.
        Trên tường vẽ hình con chim ưng bay qua núi. Vụ án làm trấn động kinh thành. Khắp triều đình đều cho rằng phò mã Tự-Mai với công chúa đã ra tay. Nhưng trong đêm xẩy ra án mạng, phò-mã với công chúa họp với Khu-mật viện để bàn định phương lược, chi tiết việc Tây-phòng. Phủ Khai-Phong tâu lên rằng: Kẻ sát nhân chắc gồm nhiều người, từ bốn phía nhập phủ Tể-tướng, rồi ra tay. Dù trâu, bò, dù lừa ngựa, kẻ sát nhân chỉ đánh có một chiêu, là chết ngay. Người cũng như thú chết không có một chút thương tích, nhưng tạng phủ thì nát nhừ ra. Các võ quan đều lắc đầu, vì trên đời chưa từng nghe thứ võ công nào kinh khiếp như vậy. Hung thủ chắc chắn không phải Phò-mã với Công-chúa. Vì Phò-mã xử dụng võ công Đông-a. Công-chúa xử dụng võ công Hoa-sơn. Võ công hai phái này đường đường, chính chính, chứ không bá đạo như vậy.
        Sau khi phò-mã Tự-Mai lên trấn Tây-thùy, thì tại Nam-thùy bọn Dư Tĩnh, Vương Duy-Chính thay thế. Giữa hai người với Bắc-biên không có sự gì.

        Khai-Quốc vương rủ Tôn Đản, Cẩm-Thi dẫn hai trẻ Nhật-Tông, Thường-Kiệt, Thường-Hiến, Tạ Thuần-Khanh ngao du Chiêm, Chân, Xiêm, Lào, rồi về Bắc-biên. Mục đích chuyến đi của Vương để kết hợp võ lâm các vùng tộc Việt, nhân thể dò la tin tức những người tuyệt tích: Hồng-Sơn, Tự-An, Thông-Mai, Thanh-Mai. Nhưng sau hơn năm, đi khắp nơi, vẫn tuyệt âm tín. Nhân về qua Bắc-biên, Vương để Thường-Kiệt, Nhật-Tông lại núi Tản cho chưởng môn Bảo-Hòa huấn luyện; để Thường-Hiến lại cho Thiệu-Thái, Thuần-Khanh lại cho Mỹ-Linh dạy dỗ. Còn Vương đi khắp nơi tìm Vương-phi.
        Thường-Kiệt, Thường-Hiến, Thuần-Khanh phải ở thường trực với sư phụ. Duy Nhật-Tông thì chỉ ở trên núi Tản sáu tháng, còn lại sáu tháng phải về Thăng-long cho quan thái-phó Dương Bình giảng dạy Nho-học, cùng làm việc cạnh Khai-Quốc vương, hầu quen với chính sự.
        Niên hiệu Thiên-Thành thứ sáu (Quý-Dậu, 1033), Thái-sư Khai-Quốc vương nhận thấy ngôi Hoàng-hậu vẫn chưa định, mà Hoàng-đế có tới 13 bà phi, 18 ngự nữ, cha, anh của họ đều làm quan tại triều, mầm mống tranh dành ngôi Hoàng-hậu, Thái-tử bắt đầu manh nha. Vương thúc anh khẩn cho Nhật-Tông mở phủ đệ riêng, dù mới mười một tuổi. Nhà vua ban sắc phong cho Nhật-Tông làm Khai-Hoàng vương, cử Dương Bình làm Thái-phó dạy Thái-tử học văn.
        Trong khi đó Tả-kim ngô đại tướng quân, tổng quản Khu-mật viện kiêm tổng trấn Thăng-long, Cổ-loa hầu là Tạ Đức-Sơn, được thư của vua Bà Bắc-biên cho biết trong những lần luyện võ, ngao du chung, Thường-Kiệt với Tạ Thuần-Khanh tình ý rất thâm trọng, vì vậy vua Bà muốn cho hai trẻ làm lễ đính hôn. Vì Thường-Kiệt với Thuần-Khanh là anh em con cô, con cậu, y lại là con nuôi quan Thái-sư Lý Long-Bồ... cho nên đích thân Hoàng-đế đứng ra chủ hôn cho hai trẻ. Tuy đính hôn, nhưng Thường-Kiệt vẫn phải ở trên Tản-lĩnh, Thuần-Khanh ở động Giáp. Tháng đôi lần gặp nhau mà thôi.
        Sau bốn năm tìm kiếm Vương-phi mà không thấy, Khai-Quốc vương tuyệt vọng trở về Thăng-long để chỉnh bị nhân mã. Vương bàn với Hoàng-đế mở khoa thi võ, để tuyển nhân tài. Chiếu chỉ ban ra định rằng: Chọn một trạng nguyên, ba bảng nhãn, năm thám hoa, và tám mươi mốt tiến sĩ. Đặc biệt còn tuyển mười nữ tiến-sĩ để lĩnh những chức vụ trong Hoàng-cung.
        Tin này đưa ra, chưởng-môn phái Tản-viên Thân Bảo-Hòa vội xuống động Giáp, thủ đô của triều đình Bắc-biên bàn luận với vua bà Bình-Dương, chưởng môn phái Mê-linh. Sau một ngày bàn định cả hai quyết định cho Thường-Kiệt, Thường-Hiến, Thuần-Khanh về kinh ứng thí.
        Ngày thi, ấn định là ngày lễ Thượng-nguyên, tức rằm tháng giêng. Vua bà Bắc-biên cùng Phò-mã cũng sẽ về kinh trong dịp tết Nguyên-Đán để chầu hầu Hoàng-đế, nên dẫn Thường-Hiến, Thuần-Khanh lên đường trước. Còn Nhật-Tông với Thường-Kiệt về sau.
        Chưởng môn Thân Bảo-Hòa muốn hai trẻ đi một mình, giả dạng làm nông dân cho biết sự tình, nên cho Nhật-Tông, Thường-Kiệt đi trước. Trước khi lên đường, công chúa gọi hai trẻ lên điện thờ thánh Tản, dạy rằng:
        - Hai người đều là đệ tử của ta. Nhật-Tông tuy ít tuổi hơn, nhưng là vai em ta. Thường-Kiệt tuy lớn tuổi hơn, nhưng là vai cháu ta. Vậy Thường-Kiệt phải gọi Nhật-Tông bằng sư thúc. Khi đi đường, Thường-Kiệt vẫn giữ nguyên tên cũ là Ngô Tuấn, còn Nhật-Tông thì đổi là Lý Tông, như vậy tránh tai mắt của mọi người dòm ngó.
        Đợi cho hai trẻ lĩnh hội ý mình, công chúa nói với Nhật-Tông:
        - Em ở trên núi với chị, muốn làm gì thì làm. Em làm lỗi gì chị cũng tha thứ, bởi ngoài tình chị em, còn tình sư phụ đệ tử. Nhưng về kinh, em là Thái-tử, là trừ quân, là Khai-Hoàng vương, mỗi cử chỉ sao cho đường bệ. Trên đường đi, nhất nhất phải dấu thân phận. Em nhớ nhé, hiện giờ mỗi tháng, ngày 1- 10- 20 Hoàng-thượng thiết triều. Bây giờ Thái-sư đề nghị ngày 5- 15- 25 thì các quan tới phủ của em thiết tiểu-triều, bàn chính sự. Em sẽ thay phụ-hoàng quyết định những việc nhỏ, nhất là xử kiện. Vì vậy chị cũng sẽ về để cùng em dự cuộc thiết triều đầu tiên.
        Thường-Kiệt hỏi:
        - Thưa tiên cô, trong các quan, những ai dự thiết tiểu triều?
        - Tả, hữu Tể-tướng. Nhưng bản triều không dùng danh xưng Tể-tướng, mà dùng danh xưng Bộc-xạ, lục bộ thượng thư, Tham-tri, quản Khu-mật viện, Tổng-trấn Thăng-long.
        Công chúa tiếp:
        - Bất cứ làm gì, nghĩ gì, em cũng phải tâm niệm: Trăm họ như ruột thịt của em, luôn lo lắng cho họ. Chị nói ít, em hiểu nhiều. Hiện trong triều Tể-tướng Dương Đức-Thành là văn quan, có tài trị nước. Nhưng ông ta quá thâm Nho, nên coi việc cúi đầu phục tùng Tống triều làm lẽ an dân. Việc này Thái-sư bực bội vô cùng.
        Nhân dịp đó công chúa kể lại tích xưa: Công-chúa Hồng-Châu, Bình-Dương thân phận cao quí biết mấy, võ công đại sư Huệ-Sinh cao như thế nào, mà bị cầm tù, bị vu vạ, vẫn kiên nhẫn, bình tĩnh đối phó. Nhờ vậy mà khám phá ra tất cả gian mưu của cha con Đàm Can. Công chúa nhấn mạnh:
        - Chị xem tướng, thấy em với Thường-Kiệt về kinh thế nào cũng gặp biến cố. Nhớ rằng phải nhẫn để nghiệp quả qua đi.
        Nhật-Tông hỏi:
        - Thưa chị, thế có nên cho Thường-Kiệt ứng thí không? Em nghĩ, đợi một mai em lên làm vua, sẽ phong y làm Đại tướng quân. Tỷ như Ngô-quốc vương Tự-Mai là em kết nghĩa với vua Tống, có thi ngày nào đâu mà cũng làm Tả-kiêu vệ đại tướng quân?
        - Em nói vậy không được. Đây là ý chị. Thân phụ Kiệt vị quốc vong thân, Kiệt có thể được tập ấm làm quan. Nhưng tập ấm xuất thân thì không ai phục. Ta muốn cho Kiệt làm quan, thì ta thượng biểu lên, ắt Hoàng-thượng phong y làm Đại tướng quân ngay. Nhưng ta muốn Kiệt do khoa cử xuất thân, rồi từ từ lập công mà lên, mới xứng mặt anh tài.
        Hai trẻ về tới Bắc-ngạn thì trời tối. Cả hai thuê phòng ngủ qua đêm. Trong khi Thường-Kiệt ngồi luyện công, thì Nhật-Tông tò mò ra ngoài sảnh đường gọi chung trà uống. Thấy mọi người xúm vào coi bói, Tông cũng coi. Nghe thầy bói nói câu nào cũng đúng, Tông về phòng kể cho Thường-Kiệt nghe. Thường-Kiệt báng nhạo không tin. Nhật-Tông mới đánh cuộc: Nếu thầy bói nói đúng hết thì Thường-Kiệt phải bái Nhật-Tông làm nghĩa phụ. Ngược lại thầy nói sai hết, thì Nhật-Tông phải gọi Thường-Kiệt bằng anh.
        Bây giờ thầy gọi ra được cuộc đời Thường-Kiệt, vì vậy chàng phải hành lễ, gọi Nhật-Tông bằng nghĩa phụ. Khi bái, trong lòng Thường-Kiệt nghĩ:
        - Người là chú của ta. Chú cũng như cha, nay ta bái người làm cha cũng không có gì là quá.
        Thầy đồ thấy hai trẻ mượn mình để đánh cuộc, cũng thấy vui vui, ông đưa mắt nhìn Nhật-Tông, Thường-Kiệt với đôi mắt đầy thương cảm. Thường-Kiệt thấy đôi mắt ông rất uy nghiêm, rất quen, rất thân ái, mà chàng không nhớ đã gặp ông ở đâu. Chàng đồ chừng ông là bạn của phụ thân cũng nên. Vì vậy chàng cúi đầu hành liền bốn lễ. Thầy đồ như không giữ được bình tĩnh, tay ông hơi run run, rồi nói với chàng:
        - Cháu ngoan lắm.
        Ông mình quay sang phía Trí-Cao, ngụ ý muốn hỏi y cầu gì. Trí-Cao chắp tay:
        - Thưa thầy, tiểu sinh muốn cầu thầy coi cho một quẻ.
        Thầy đồ ngước mặt nhìn Trí-Cao, rồi chỉ ghế:
        - Cậu ngồi đây. Cậu cho tôi giờ, ngày, tháng, năm sinh.
        - Tiểu sinh tuổi Giáp-Tý, sinh vào tháng 6, ngày 6, giờ Tỵ.
        - Cậu đặt quẻ đi.
        - Xin thầy cho biết tiền quẻ bao nhiêu?
        - Ít nhất là trăm đồng. Còn nhiều hơn thì tùy hỉ.
        Trí-Cao tính nhẩm:
        - Một đồng một đấu gạo (gần bằng 1kg ngày nay), giá này đắt thực. Nhưng không sao.
        Nó móc túi lấy một nén vàng cung kính đặt lên đĩa, rồi đưa ngang mày. Thầy đồ thản nhiên tiếp đĩa. Thời bấy giờ một nén vàng ăn mười lượng bạc. Mỗi lượng ăn ba quan, mỗi quan là 600 đồng. Như vậy Trí-Cao đặt tới 180 lần hơn giá thầy đồ ra. Thầy tính đốt ngón tay một lúc, rồi đưa mắt nhìn Trí-Cao:
        - Để ta nói đại cương số của cậu, sau khi ta nói, cậu được hỏi ba câu, và phải trả lời ta ba câu. Cứ như số của cậu, mệnh lập tại Dần. Tử-vi, Thiên-phủ thủ mệnh, đó là cách Tử, Phủ, Vũ, Tướng. Cậu tuổi Giáp, được cách Lộc-tồn thủ mệnh nữa. Tử, Phủ là đế tinh, tức là vua. Vua mà không Lộc thì là vua nghèo. Cậu được cách Tử, Phủ, Lộc thì là cách cực phú, cực quý. Đã vậy còn được Hóa-lộc cư quan, Hóa-khoa cư tài. Mệnh cậu được Tang-môn, Thiên-hình thủ. Cái cách đó gọi là : Hình, Hổ cư dần, hổ đới kiếm hùng. Tương phùng đế cách, uy vũ trấn động.
        Nghĩa là Thiên-hình, Bạch-hổ thủ mệnh ở Dần, là cách hổ đeo kiếm, nếu gặp bộ Tử, Phủ thì uy vũ trấn động.
        Trí-Cao thấy thầy đồ ngừng lại nó nói:
        - Thưa thày như vậy tiểu sinh đắc quý cách phải không?
        - Đúng thế ! Nhưng tiếc rằng cung quan Thiên-không ngộ Hóa-lộc. Hóa-lộc đóng đâu cũng tốt cả, duy ngộ Thiên-không thì hình ngục nan đào. Để ta nói toàn bộ cuộc đời cho cậu nghe.
        - Tiểu sinh xin kính cẩn nghe thầy dạy.
        - Cậu sinh ra là đấng anh hùng. Tư cách, hành sử, sự nghiệp đều là trân anh hùng. Nhưng vì cung quan có Thiên-không, thành ra người đời sẽ gọi cậu là giặc cướp. Cậu có buồn không?
        - Thưa thầy cháu nghĩ sinh làm con cháu vua Hùng, vua Trưng thì chỉ cần làm một việc ích quốc lợi dân, rồi có chết, có bị tù, hay có bị người ta gọi là chó, là mèo cũng cứ được đi.
        - Câu nói của cậu chính là câu nói của anh hùng vậy.
        - Năm nay là năm Mậu-Dần. Đại hạn tại Mão có Thái-âm ngộ Kình, tiểu hạn tại Hợi có Thái-dương hãm ngộ Kị. Như vậy phụ-mẫu e bất toàn.
        Sang năm tiểu hạn tại Tý. Tử-vinh kinh nói: Người tuổi Tý sợ nhất hạn nhập cung Tý, Ngọ, Dần, Thân. Nhưng cung Tý của cậu có Hoá-khoa, vì vậy sau biến cố tán gia, bại sản, nhưng công danh cậu lên cao. Cho đến năm Thìn, tiểu vận đi vào cung Dần, công danh cậu lên tột đỉnh, danh trấn thiên hạ. Rồi, tôi nói hết rồi. Bây giờ cậu đặt câu hỏi đi.
        - Thưa thầy kỳ này tiểu sinh về kinh ứng thi có đậu không?
        - Không! Trọn đời cậu, thi không bao giờ đậu. Trong chuyến đi này, cậu sẽ gặp nhiều bạn tốt, nhưng cũng chính vì vậy, mà gây ra tai họa cho cha mẹ. Cậu có thể hỏi câu thứ nhì.
        Trí-Cao cung tay:
        - Thưa thầy, thầy thông thiên mệnh như vậy, thầy dạy cho tiểu sinh biết, liệu thời gian này, người Việt ta có thể đòi lại vùng Lưỡng-Quảng hay không?
        Thầy đồ đưa con mắt sắc như dao nhìn Trí-Cao một lượt, tia hàn quang chiếu ra, làm nó rùng mình. Thấy đồ thở dài:
        - Chẳng cần phải xem thiên mệnh, mà cứ lý suy ra cũng thấy.
        - Tiểu sinh cũng đã từng suy nghĩ, thấy rằng việc đòi lại cố thổ lúc này thực thuận lợi vô cùng, nhưng người ta mắng tiểu sinh là đồ con nít nói càn.
        - Con nít! Con nít nhưng chí lại lớn, còn người ta tự cho là người lớn, thì chí lại không hơn con chuột nhắt. Cậu thử lý giải cho ta xem nào?
        - Từ thời vua Chân-Tông, nhà Tống quá yếu, phía Bắc bị bại bởi Liêu, phải cắt đất cầu hòa, rồi hàng năm tiến cống. Trong lịch sử Trung-quốc chưa bao giờ người Hoa bị nhục như vậy. Tiểu sinh nghĩ: Liêu đánh Tống, bắt Tống xưng thần. Tại sao ta không đánh Tống, để đòi cố thổ. Võ lâm nước ta hơn hẳn Liêu, văn hiến ta càng bỏ xa họ. Quốc dụng ta giầu hơn Tống gấp bội mà.
        - Được lắm. Cậu tiếp đi.
        - Mới đây, niên hiệu Thiên-Thành thứ tư (Tân-Mùi, 1031), vua Hưng-Tông nước Liêu lên nối ngôi. Hưng-Tông là một vua trẻ, lại có chí lớn. Ông ta trọng dụng nhân tài, khuyến khích chăn nuôi, canh nông, võ bị hưng thịnh, dường như để đánh xuống Nam, chiếm Tống. Năm Thiên-Thành thứ năm (Nhâm-Thân, 1032) Hạ-vương Triệu Đức-Minh băng, con là Nguyên-Hạo lên nối ngôi. Sau hai năm cầm quyền, Hạ-vương đã làm cho nước cường thịnh hẳn lên, rồi xưng Đế, không thần phục Tống nữa. Tống phải điều Ngô-quốc quận vương Trần Tự-Mai với công chúa Huệ-Nhu đem quân từ Nam-thùy về phía Tây để trấn Tây-hạ. Năm sau, Thông-Thụy thứ nhì, ở Cao-ly vua Tĩnh-tông Khang-Hiến lên ngôi, ông vua này còn tài ba hơn các vua Liêu, Hạ, vì vậy ông ấy đem quân chiếm lại ba vùng đất bị mất thời Đường. Tống triều phải cử Yên-vương Nguyên-Nghiễm đem quân trấn Cao-ly. Còn phía Nam ta, thì Đại-lý, Đại-Việt đang hồi cường thịnh. Trong khi đó, Tống triều được cầm đầu bởi những Nho-thần hủ lậu, chuyên bàn nhân nghĩa hão. Cột trụ của triều đình là Âu-dương Tu với Phạm Trọng-Yêm bàn nên chỉnh bị binh mã, trước đánh Cao-ly, sau khi Cao-ly bại, thì Tây-hạ ắt nhụt, rồi tập trung quân đánh Liêu. Vua không nghe, lại giáng chức hai người này, rồi đầy đi xa.
        - Giỏi. Tiếp.
        - Trước kia, biên giới Tống-Việt do Ngô-quốc quận vương Trần Tự-Mai trấn thủ, nay vương mang hết quân về phía Tây, Nam-thùy Tống trống rỗng. Tại sao Đại-Việt mình không nhân đó, ước hẹn với Đại-lý, Cao-ly, Tây-hạ, Liêu cùng đem quân đánh Tống. Ta nhân đó chiếm lại vùng đất tới hồ Động-đình. Ta khởi binh bất thần, đánh như vũ bão, thì chỉ một trận là chiếm được đất cũ. Bấy giờ Tống có chỉnh bị quân mã xuống đánh, e cũng phải mấy năm. Mấy năm đó, ta thao luyện sĩ tốt, binh ta hùng, tướng ta mạnh, ta há sợ họ sao?
        - Cậu biết một mà không biết hai. Trước đây, thời Thuận-Thiên, chí lớn ai bằng Khai-Quốc vương. Vương được võ lâm tám vùng tộc Việt tôn làm minh chủ, Vương lại cầm trọng quyền, vua Bà Bắc-biên với Vương đồng một lòng. Mà Vương làm không nổi. Sau vì chư vương nội loạn, Vương-phi bỏ đi, Vương lưu lạc giang hồ tìm Vương-phi đã mười năm, mà không thấy. Cho nên võ lâm anh hùng không người cầm đầu.
        - Thì nay Vương vẫn còn đó, nếu vương khởi binh, thì không dịp nào bằng dịp này. Tiểu sinh nghe nói hiện trong triều, quan Tả-bộc-xạ, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, sinh ra Thiên-Cảm hoàng-hậu là một cường thần, thường chủ xướng ta phải cúi đầu triều cống Tống cho thực hậu, thì giang sơn này vững như bàn thạch. Dường như Hoàng-thượng nghiêng theo Dương quốc-trượng thì phải.
        Anh em họ Dương nghe thầy bói với Nùng Trí-Cao phê bình quốc trượng họ Dương thì im lặng đưa mắt nhìn nhau.
        Trước khi khởi hành, Bảo-Hòa ân cần dặn Nhật-Tông rằng : Chị cho em đi một mình, để biết rõ dân tình, thì sau này mới đủ kinh nghiệm làm cho nước giầu dân mạnh. Vì vậy khi đi đường, tuyệt đối dấu thân phận. Nếu có ai bàn tán, phê bình triều đình, phải lắng tai nghe.
        Nay Nhật-Tông với Thường-Kiệt thấy Nùng Trí-Cao với thầy đồ bàn đến những điều cơ mật trong triều, cả hai im lặng, nhìn đi chỗ khác, nhưng chú ý theo dõi.
        Thầy đồ gật đầu:
        - Cái gã Dương này nhờ con gái làm Hoàng-hậu, mà được đắc dụng, chứ thực sự thì văn dốt, vũ rát, có biết gì đâu. Hắn ta không tự biết thế, mà đôi khi còn xung chàng với Thái-sư.
        Cô gái họ Dương chửi xéo:
        - Thầy bói không mù, cũng như mù, dám phê phán Dương quốc-trượng ư?


        <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.02.2005 03:12:24 bởi NuHiepDeThuong >
        #4
          CDDLT 21.01.2005 17:51:26 (permalink)
          Hồi thứ một trăm ba mươi


          Luyện tập đức nhẫn




          Trí-Cao nhăn mặt không thèm để ý đến lời của anh em họ Dương:
          - Thái-sư tuy không làm vua, nhưng uy trùm hoàn vũ, là em hoàng thượng, là thầy dạy của Thái- tử Nhật-Tông, mà y dám hỗn sao ?
          - Y cũng dư biết thế. Nhưng vì y muốn cho cháu ngoại lên làm vua, thay thái tử Nhật-Tông. Muốn hạ Thái-tử thì phải hạ Thái-sư. Giản dị như vậy đó.
          - Cháu nghĩ không dễ đâu! Đúng ra Thái-sư lên làm vua, nhưng vì người chưa có con, nên để cho anh ngồi vào ngôi báu, rồi sau này nhường cho con nuôi mình, cũng là con đẻ của anh. Hỏi ai có thế thay Thái-tử Nhật-Tông.
          - Khổ một điều Dương hậu được hoàng-thượng cực kỳ sủng ái, bà luôn ở cạnh ngài, rồi tìm cách bôi bác Thái-tử.
          - Cháu nghĩ vô ích. Vì Thái-tử là đệ tử yêu của tiên cô Bảo-Hòa. Nếu hoàng-thượng muốn truất ngôi Thái-tử của người, phải có ý kiến của tiên cô. Cháu nghe tiên cô yêu Thái-tử hơn yêu con, uốn nắn, dạy dỗ đủ điều. Người bắt Thái-tử nấu cơm, bổ củi, làm vườn, giặt quần áo, cầy ruộng, cuốc đất... lại còn bắt sống với dân cho biết dân tình. Thực từ khi lập quốc đến giờ, chưa một Thái-tử nào được huấn luyện chu đáo như vậy, hỏi Dương hậu tìm đâu ra lỗi của người mà dèm xiểm.
          - Nhưng gã Dương điên khùng, nên mới cưỡng làm. Tuy nhiên y cũng có đôi chút kết quả.
          Trí-Cao ngửa mặt lên trời than:
          - Tiếc quá, phải chi những tiền nhân thế thiên hành đạo như đại hiệp Tự-An, Thông-Mai còn tại thế thì y đã mất mạng lâu rồi. Tần-vương Tự-Mai, đại y sư Lê Văn hiện đều ở xa. Chứ bốn vị ấy mà hiện diện thì tể tướng họ Dương đâu dám lôi thôi. Cháu thấy còn một nhân vật, có thể khiến chúng sợ, mà sao nhân vật này lại tiềm ẩn cuộc đời với cỏ cây như vậy?
          - Ai?
          -- Thưa thầy là đại hiệp Tôn Đản. Trong thời Thuận-Thiên có ba thiếu niên mà đức Thái-tổ nhà ta cực kỳ sủng ái là Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn. Ba vị đều trở thành nhân vật có tài kinh thiên động địa. Tự-Mai thành phò mã Tống, tước tới Tần-vương. Lê-Văn thành phò mã Thái, tước tới quận vương. Giá như đại hiệp Tôn Đản muốn làm quan, e đức Thái-tổ đã phong vương cho. Chẳng hiểu lý do nào, người lại làm căn nhà tranh bên hồ Tây, làm nghề trồng hoa, nuôi tằm, câu cá không lý gì đến cuộc đời. Ví như người mà ra tay, thì đâu kém hai vị Tự-Mai, Lê Văn?
          - Cháu không biết đấy thôi. Sở dĩ đại hiệp Tôn-Đản bỏ về với cỏ cây, vì chiều theo ý của công chúa Ngô Cẩm-Thi. Xét lại, một nhà Tôn đại hiệp đều ra gánh vác giang sơn. Ông Tôn Trung-Luận hiện làm tổng trấn Nam-thùy giữ chức Tiết-độ sứ, tước Quốc- công đâu có nhỏ? Ba em của Tôn đại hiệp là Mạnh, Trọng, Quý đều làm đại tướng quân, tước phong hầu. Đúng ra đức Thái-tổ phong cho Tôn đại hiệp tước vương, thay Khai-Quốc vương trấn Trường-yên, nhưng công chúa Ngô Cẩm-Thi sinh ở đất Tống, nay mới được về đất Việt, nên thích ngao du tự tại. Vì vậy mà đại hiệp mới xin từ quan, cùng công chúa trồng hoa, nuôi tằm, câu cá.
          - Cháu phải đi tìm Tôn đại hiệp, để người ra tay tính tội lão tể tướng họ Dương mới được.
          Nghe Trí-Cao nói, thầy đồ rùng mình:
          - Cậu yên tâm, ta bói thấy ông ấy vẫn còn đâu đó, chắc chưa ra tay đấy thôi.
          Trí-Cao tỏ vẻ cương quyết:
          - Cháu nghĩ đến chuyện thời Thuận-Thiên mà khoan khoái. Như tiên cô Bảo-Hòa ra tay xử tử quận chúa Hồng-Phúc. Ưng-sơn xử tử Đinh phi, toàn gia Vũ-Đức vương. Đại hiệp Thông-Mai xử tử toàn gia tên Đặng Đức-Kềnh. Giả như bây giờ đại hiệp Thông-Mai xuất hiện xử tử lão họ Dương.
          Cô gái họ Dương chỉ tay vào mặt thầy đồ với Trí-Cao:
          - Bọn mi là một tên thầy bói chết đói, một tên mọi, thì biết gì về chuyện thiên hạ, quốc gia đại sự mà bàn. Người phải biết rằng bên Thiên-triều, trên có thánh Thiên-tử trị vì, lại có các nho-thần uyên bác phò tá. Chúng ta là phiên thần, phải nhìn về đó mà cúi đầu thần phục. Như vậy trước được hưởng ân mưa móc phong tặng, sau là giữ được nước yên như bàn thạch. Nay các người bàn chuyện bạo thiên nghịch địa, đem quân phạm thiên cảnh. Việc này mà đến tai biên thần Thiên-triều, ắt thánh thiên tử nổi giận, đem quân xuống, thì Đại-Việt ta có còn không? Vì vậy Dương tể tướng ngồi cầm vận mệnh triều đình biết thức thời, sai sứ phủ phục trước Thiên-triều, để nước ta yên. Các người ngu si, không biết gì, mà nói xấu người.
          Trí-Cao cũng không vừa:
          - Cô nương nói lạ, cái gì là Thiên-triều ? Cái gì là thánh Thiên-tử. Từ xưa đến giờ đất Việt của người Việt. Đất Trung-nguyên của người Hoa, mấy nghìn năm đều như vậy cả. Sở dĩ ta phải nhận sắc phong là vì đất họ rộng, dân họ đông mà thôi. Nay từ Đại-liêu, Cao-ly, Tây-hạ đều hưng thịnh, tự đứng một góc trời. Tống phải thần phục Khất-đan, thì có còn tư cách để ta phải thần phục không ? Ta không nhân lúc này đòi lại cố thổ thì đợi lúc nào đây ? Cô nương cho rằng ta bàn chuyện nghịch thiên bạo địa, vậy có khác gì cô nương bảo vua An-Dương, vua Trưng, vua Ngô, vua Lê cùng chư vị anh hùng võ lâm thời Thuận-Thiên là nghịch tặc không? Cô nương liệu mà giữ mồm, kẻo...
          - Mi nói gì?
          - Kẻo toi mạng lúc nào không hay.
          Thình lình cô gái họ Dương vung tay tát Trí-Cao một cái. Trí-Cao trầm người tránh khỏi. Cái tránh của y làm thấy bói lẫn cô gái đều bật lên tiếng Ủa kinh ngạc. Cô gái tát hụt tức qúa, tay rút kiếm đưa một chiêu vào giữa ngực Trí-Cao. Trí-Cao thấy chiêu kiếm hung hiểm, vội tung người lên cao tránh. Cô gái không tha, chĩa kiếm lên định chặt cụt chân đối thủ. Trí-Cao chơi vơi ở không gian, thấy sắp mất mạng, y kêu thét lên hãi hùng.
          Lý-thường-Kiệt thấy vậy vội đẩy lên cao chiêu Ngưu tẩu như phi vào người Trí-Cao. Kình phong đưa Trí-Cao bật ra xa khỏi mũi kiếm. Cô gái buông kiếm, dùng hai tay chụp lấy hai xương quai xanh Thường-Kiệt, định bẻ gẫy. Vì hai người đứng gần nhau quá, nên Thường-Kiệt không tránh kịp, chàng dùng ngón tay điểm vào huyệt Khúc-Trì cô gái, lập tức cô ngã chúi người vào vai chàng. Tỵ hiềm nam nữ, Thường-Kiệt nhảy lui lại, nhưng không kịp, cô gái đã ngã vào ngực chàng. Chàng định đưa tay đỡ vào hai vai cô, rồi thuận tay giải huyệt cho cô, nhưng cô ngã xuống, nên tay chàng chụp đúng nhũ hoa của cô.
          Kinh hãi chàng vội khai huyệt đạo cho cô, định nói lời xin lỗi, thì gã thanh niên họ Dương thấy em bị bại, y phóng tới, tay rút kiếm chĩa vào ngực Thường-Kiệt. Miệng mắng:
          - Đồ vô lại! Ta phải giết mi.
          Thường-Kiệt định phân trần, thì cô gái đã nhặt kiếm thúc vào hông chàng. Chàng vội trầm người tránh khỏi mũi kiếm anh em họ Dương.
          Trí-Cao đứng ngoài quát lớn:
          - Ngừng tay. Tại hạ muốn nói mấy lời.
          Nhưng cô gái lên tiếng gọi:
          - Đinh, Phùng hai vị ở đâu?
          Từ ngoài, hai võ quan lạng mình chạy vào, hỏi:
          - Tiểu thư, công tử, cái gì đã xẩy ra.
          Cô gái khóc nức nở tay chỉ Trí-Cao, Thường-Kiệt:
          -- Hãy bắt hai tên này cho ta.
          Thoáng nhìn hai võ quan, Nhật-Tông đã nhận ra một người tên Phùng Lộc, một tên Đinh Luật hiện làm chức Đô-thống, trong đạo Thị-vệ Hoàng-cung. Sáu tháng trước, trong lần theo phụ hoàng xem đạo Thị-vệ thao luyện, chàng đã thấy mặt chúng. Nay một là vì chàng lớn lên, khuôn mặt thay đổi đi, hai là chàng trang phục như dân quê, nên hai người không nhận ra chàng.
          Đinh Luật hất hàm hỏi Trí-Cao:
          - Người vô lễ với tiểu thư, công tử đây, thì đến mười cái đầu người cũng không còn. Người có mau quỳ gối tạ lỗi không? Người tên gì?
          Trí-Cao đáp:
          - Tôi họ Nùng tên Trí-Cao. Tôi đàm luận với thầy đồ, rồi cô này hùng hổ đánh tôi, bất đắc dĩ tôi phải tránh. Tôi chẳng có tội gì, nên tôi không thể xin lỗi.
          Phùng Lộc thấy Trí-Cao xử dụng võ công Sài-sơn đến trình độ tinh vi, còn Lý Thường-Kiệt xử dụng võ công Tản-viên vào hàng thượng thừa; y biết đây là danh môn đệ tử, y không muốn gây sự với chúng. Y chỉ Lý Thường-Kiệt:
          - Người mau xin lỗi tiểu thư, bằng không ta phải bắt người đem về trị tội.
          Nhật-Tông xen vào giữa Thường-Kiệt với viên võ quan:
          - Đinh, Phùng, nhị vị là đô thống trong đội thị-vệ. Thị-vệ có nhiệm vụ canh phòng Hoàng-cung, tại sao lại đi tuân lệnh một cô gái điêu ngoa, đanh ác, rồi bắt người ? Nếu quan Tổng-lĩnh thị vệ biết được, thì liệu các vị có còn chỗ đội mũ không?
          Giọng nói Nhật-Tông hết sức uy nghiêm, lại hơi quen, khiến hai võ quan khựng lại. Phùng Lộc chỉ Thường-Kiệt:
          - Nhưng tên này phạm vào thân thể tiểu thư, ta phải bắt y.
          Y chỉ vào Trí-Cao:
          - Tên này nói lời phản nghịch cần phải bắt y trị tội.
          Nhật-Tông không lùi bước, tay chỉ vào Thường-Kiệt:
          - Được! Gã này là sư điệt của ta, là nghĩa tử của ta. Nếu y phạm tội là do gia pháp ta bất nghiêm, ta xin thay y đến cửa quan phủ Thăng-long đối chất chịu tội.
          Rồi lại chỉ tay vào Trí-Cao:
          - Y, y không hề nói lời nào phản nghịch cả. Các vị không thể bắt y.
          Nhưng Phùng Lộc không coi lời Nhật-Tông vào đâu, y vung tay chụp Trí-Cao. Thấp thoáng một cái, Nhật-Tông đã xen giữa Phùng Lộc với Trí-Cao, miệng hô:
          -- Ngừng tay.
          Gã họ Dương rút kiếm chĩa thẳng vào ngực Nhật-Tông đưa một chiêu cực hiểm độc. Nhật-Tông chĩa tay điểm một Lĩnh-Nam chỉ, choang một tiếng, kiếm của gã họ Dương bị gẫy đôi.
          Thình lình một bóng người chuyển động nhanh như điện chớp, tay y phẩy một cái, khiến Nhật-Tông bật lui liền hai bước. Người đó quát:
          - Lĩnh-Nam chỉ! Người xử dụng Lĩnh-Nam chỉ bằng nội lực Đông-a. Ban nãy người xử dụng chiêu chưởng Hoa-sơn. Phải chăng người là đệ tử của Ưng-sơn song hiệp ?
          Ưng-sơn song hiệp là biệt hiệu của Trần Tự-Mai cùng công chúa Huệ-Nhu. Trong suốt thời gian mười năm, lĩnh chức Ngô-quốc quận vương, tổng-trấn Nam-thùy, cặp vợ chồng này trị quân cực nghiêm. Bất cứ trộm- cắp, tham-quan, dù Hoa, dù Việt nếu phạm tội, trốn đâu cũng đều bị truy lùng đến cùng rồi trừng trị thẳng tay. Cho nên hắc, dù bạch, phe nào nghe đến Ưng-sơn song hiệp cũng ớn da gà.
          Dù Bảo-Hòa đã dặn dấu căn cước. Nhưng Nhật-Tông được huấn luyên để trở thành ông vua. Vì vậy cử chỉ của chàng đường bệ, giọng nói uy nghiêm. Chàng đưa mắt nhìn lão già. Đó là một người gầy còm, da dăn deo, tóc trắng như cước, đôi mắt cực kỳ sáng. Chàng trả lời bằng giọng uy nghiêm:
          - Ta rất thân với Ưng-sơn song hiệp, nhưng không phải là đệ tử của người. Chị gái ta là sư tỷ của Nam-hiệp.
          Ý chàng muốn nói sự liên hệ giữa vua bà Bắc-biên Bình-Dương với Tần-vương Tự-Mai. Chàng chỉ vào Lý Thường-Kiệt:
          - Nam-hiệp là sư thúc của gã con nuôi ta.
          -- Vậy thì tốt quá! Ta đang muốn tìm tên ôn con Tự-Mai để đòi món nợ năm xưa, bây giờ y không có mặt ở đây, thì người thay thế cũng được.
          Nói rồi y vung tay chụp Nhật-Tông, cái chụp kình lực mạnh không thể tưởng tượng được. Nhật-Tông lùi lại, tay ra chiêu Tứ ngưu phân thi đánh thẳng vào ngực người kia, chưởng phong ào ào tuôn ra. Người kia vội biến trảo thành quyền. Bộp một tiếng, Nhật-Tông bật lui lại sau hai bước. Chàng cảm thấy ngực đau nhức không thể tưởng tượng nổi. Hai gã Phùng, Đinh lạng người tới bắt lấy chàng trói lại.
          Lý Thường-Kiệt quát lên một tiếng phát chưởng tấn công lão già, mong cứu Nhật-Tông. Lão già thấy chưởng phong hung dữ, vội lùi một bước, rồi vung tay đỡ. Bình một tiếng, lão già bật lên tiếng ái chà, tỏ vẻ đau đớn. Nhưng cũng như Nhật-Tông, hai lão Đinh, Phùng đã nhảy vào xuất chiêu bắt Lý Thường-Kiệt.
          Bỗng có tiếng nói rất uy nghiêm:
          - Xin ngừng tay.
          Hoàng-Giang cư-sĩ chắp tay hướng lão già:
          - Tại hạ mắt kém, nhận không ra, phải chăng lão tiên sinh đây cao danh quý tính là Đinh Kiếm-Thương, nức danh thiên hạ vào thời Thuận-thiên?
          Lão già gật đầu:
          - Lão phu ẩn tích hơn hai mươi năm, không màng đến việc thiên hạ, vì vậy không được biết cao danh của tiên sinh.
          Tuy bị bắt trói, nhưng Lý Thường-Kiệt cười nhạt:
          - Đinh Kiếm-Thương! Thì ra lão là sư phụ của trưởng lão Đinh Hiền trong Hồng-thiết giáo trước đây có đúng thế không?
          - Không sai.
          Hoàng-Giang cư sĩ hướng Đinh Kiếm-Thương xá một xá, rồi chỉ vào Nhật-Tông, Thường-Kiệt:
          -- Không biết lão sư áp dụng võ đạo thế nào, mà ba người đánh một đứa trẻ như thế này.
          Lão già hất hàm hỏi:
          - Người là ai, mà dám chất vấn lão phu.
          Gã họ Dương chắp tay:
          - Sư phụ ! Người này là Hoàng-Giang cư sĩ, nhị đệ tử của Hồng-Sơn đại phu. Y được Hồng-Sơn sai lên vùng Bắc-biên mở trường dạy thuốc.
          Lão già gật gù cái đầu:
          - Thì ra thế. Hoàng-Giang đại y sư là nhân vật trọng kính của triều đình, cớ sao để đệ tử nói lời phản nghịch, phạm thượng?
          Nùng Tồn-Phúc đến bên lão già, y cung tay:
          - Lão tiên sinh, chẳng hay đứa con của bản chức đã nói những điều gì là phản nghịch? Khi y nói, thì lão tiên sinh không hiện diện. Không hiện diện thì sao lão tiên sinh có thể biết y nói gì mà kết tội y?
          Lão Đinh- Kiếm-Thương thản nhiên:
          - Không cần biết y nói gì, dù y nói lời trung nghiã, nhưng tiểu thư đây bảo là lời đại nghịch thì nó trở thành lời đại nghịch.
          Chủ quán đã tới nơi, y chắp tay nói với lão Đinh Kiếm-Thương:
          - Thưa tiên sinh, tôi dám quyết không bao giờ tiểu công tử đây nói lời phản nghịch.
          Y chỉ Nùng Tồn-Phúc:
          - Vị này hiện là một biên cương trọng thần, họ Nùng tên Tồn-Phúc, lĩnh hàm Thái-bảo, tước tới hầu, chức tới đại tướng quân, đang làm vua nước Trường-sinh bao gpm ba mươi sáu khê động sắc dân Nùng, danh người trấn thiên hạ trong những trận đánh với bọn quân Tống sang cướp biên giới trước đây.
          Trước kia Nùng Dân-Phú được vua Bà là công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hòa cho thống lĩnh chín châu thuộc sắc dân Nùng. Nhưng trong đó năm châu thì các động chủ, trâu chủ theo Tống. Từ khi Nùng Dân-Phú qua đời, Nùng Tồn-Phúc lợi dụng Ngô-quốc quận vương tổng trấn Nam-thùy của Tống che chở, y bắt các châu động Nùng phải thống nhất lại, đặt dưới quyền Lý triều. Y lại được phò mã Thân Thiệu-Thái, công chúa Bình-Dương; phò mã Lê Thuận-Tông, công chúa Kim-Thành; phò mã Hà Thiện-Lãm, công chúa Trường-Ninh giúp đỡ tiến lên vùng Tây Tả-giang gom góp hơn ba mươi khê cộng Nùng. Vì vậy y nghiễm nhiên có địa vị ngang với vua bà Bình-Dương. Đất của y đặt tên là động Trường-sinh.
          Dân số, tài nguyên động Trường-sinh lớn muốn hơn động Giáp, vì vậy triều đình coi như Trường-sinh là một nước riêng, tách hẳn với Bắc-biên của vua Bà Bình-Dương. Tồn-Phúc lại được đệ nhị đệ tử của Hồng-Sơn đại phu là Hoàng-Giang cư sĩ khuyến khích giúp đỡ, huấn luyện binh sĩ, tổ chức vũ bị, cho nên tiếng tăm của y vang dội.
          Nghe chủ quán nói, lão già có hơi chột dạ, lão hỏi cô gái họ Dương:
          - Tiểu thư! Tiểu thư chẳng nên chấp nhặt với một thiếu niên làm gì. Ta đi thôi.
          Trí-Cao chỉ vào Thường-Kiệt, Nhật-Tông:
          - Hai nhân huynh đây vì cứu mạng cho tiểu sinh mà phải dùng võ công. Xin lão tiên sinh tha cho.
          Nhật-Tông nói với Trí-Cao:
          - Nùng tiểu hữu. Người cứ để chúng bắt ta, chúng không dám làm hại ta đâu.
          Thình lình thầy đồ đứng bật dậy, tay chỉ vào mặt Đinh Kiếm-Thương:
          - Hồi nãy người nói rằng người muốn tìm Ưng-sơn song hiệp để trả hận phải không ? Ta là viên võ sĩ hầu cận của hai vị đó. Người có dám theo ta đi gặp Ưng-sơn song hiệp không?
          Lão già cười nhạt:
          - Dĩ nhiên ta muốn.
          Thầy đồ khoan thai rời khỏi căn đại sảnh ra sân. Lão già theo bén gót. Mọi người đồng đi theo. Vừa tới sân, thầy đồ quát lên một tiếng rồi xuất chiêu chưởng. Chưởng phong làm mọi người nghẹt thở. Hoàng-Giang cư sĩ phải xuất một chiêu đánh tạt ngang để hoá giải kình lực, đẩy mọi người lui lại. Lão già vội xuống tấn, xuất chiêu đỡ. Ầm một tiếng, lão già choáng váng bật lui lại. Thầy đồ đánh tiếp một chiêu nữa, lão già kinh hãi vội nằm rạp xuống lăn đi mấy vòng để tránh áp lực. Ầm một tiếng, sân lủng một hố lớn sâu đến hơn gang tay.
          Trong lúc mọi người đang kinh hoảng, thì thầy đồ nhấp nhô một cái,
          tay vỗ lên đầu gã họ Dương, rồi biến mất.
          Gã họ Dương trợn trừng mắt, chân tay cứng đơ. Cô gái chạy lại gọi:
          - Anh ba, anh ba có sao không ?
          Gã họ Dương từ từ ngã xuống đất. Hoàng-Giang cư sĩ chạy lại cầm mạch y, rồi lắc đầu:
          - Thế là xong!
          Bấy giờ mọi người mới để ý, thấy trên đỉnh đầu gã họ Dương bị một mũi phi tiễn bằng sắt cắm ngập vào não. Gã chết vì vết thương này. Lão già nhổ phi tiễn ra, bỗng mặt lão tái nhợt, chân tay run lật bật.
          Cô gái hỏi:
          - Sư phụ, cái gì vậy?
          Lão già đưa mũi tên ra, trên mũi tên có khắc hình con chim ưng bay qua ngọn núi. Lão nói:
          - Ưng sơn song hiệp.
          Chủ quán chạy ra nói với lão già Đinh Kiếm-Thương:
          - Xin tiên sinh tha cho hai tiểu công tử, vì họ vô tội.
          - Vô tội! Thế người có biết công tử đây là ai không? Người chính là cháu đích tôn Dương tể tướng, và gọi Hoàng-hậu bằng cô ruột. Vụ này thực không nhỏ đâu. Ta phải đưa hai tên này về cho quan Tể-tướng để điều tra ra tung tích tên thầy đồ gian tế kia mới được.
          Chủ quán nghe lão già nói mà phát run.
          Lão già Đinh Kiếm-Thương cùng hai Đô-thống truyền bỏ Nhật-Tông, Thường-Kiệt lên xe, rồi ôm xác gã thanh niên, ra roi cho ngựa chạy đến bến thủy quân. Một chiến thuyền chờ ở đó bao giờ, xe chạy thẳng xuống.
          Thủy quân bơi thuyền qua sông. Gió thổi, sóng vỗ ào ào, nhưng cô gái vẫn ôm xác anh khóc nức nở. Cô chỉ Thường-Kiệt nói với lão già:
          -- Sư phụ. Xin sư phụ ném thằng ôn vật này xuống sông. Nó... nó vô phép với đệ tử.
          Lão già dường như ớn Ưng-sơn song hiệp, nên nói lảng:
          - Tiểu thư đừng nóng nảy, hai thằng nhỏ này rất quan trọng. Chúng là nhân chứng để chúng ta trình với Tể-tướng, hầu tìm ra tung tích thầy đồ.
          Sự thực lão nghe Nhật-Tông nói Thường-Kiệt là sư điệt của Ưng-sơn Nam-hiệp tức Trần Tự-Mai. Mà Tự-Mai hiện tước phong tới Tần vương, cầm quân nghiêng nước bên Tống. Lão biết trước đây Ưng-sơn song hiệp giết cả nhà Vũ-Đức vương mấy trăm người, cả trâu bò, gà vịt, thế mà Thiên-Thành hoàng đế cũng im lặng không nói gì. Bằng như thầy đồ ban nãy là Tự-Mai, thì dù Tự-Mai giết gã giữa triều đình, e cũng không ai bắt lỗi cả. Lão đã tính trước: Giải Nhật-Tông, Thường-Kiệt trao cho Tể-tướng, như vậy lão sẽ phủi tay.
          Cô gái họ Dương đưa mắt nhìn Thường-Kiệt, nghĩ đến lúc hai tay Thường-Kiệt chụp vào nhũ hoa mình, tự nhiên một cảm giác kỳ lạ chạy khắp người cô. Cô nghĩ:
          - Gã này là cháu của Tần-vương Trần-tự-Mai thì thân phận đâu nhỏ. Không biết cha mẹ gã là ai, trông mặt mũi gã khôi ngô, tướng mạo hùng vĩ, giá mình có người chồng như vậy cũng không uổng đời người.
          Trong khi cô gái họ Dương nghĩ ngợi, thì giọng nói rót vào tai Thường-Kiệt:
          - Thường-Kiệt. Ta là thầy đồ đây. Cháu là học trò tiên cô Bảo-Hòa, vậy cháu có biết ta là ai không? Cháu dùng lăng không truyền ngữ trả lời ta đi.
          Thường-Kiệt đưa mắt nhìn về hướng có tiếng nói, thì chỉ thấy một tên lính thủy quân ngồi ủ rủ ớ góc chiến thuyền. Biết là thầy đồ ẩn đã giả làm lính thủy. Chàng dùng lăng không truyền ngữ trả lời:
          - Đệ tử không biết cao nhân là ai cả.
          - Ta là bạn của phụ thân cháu là sư thúc của cháu đây. Trước kia sư phụ cháu với ta là chỗ thâm tình vô cùng. Sư phụ cháu kết anh em với ta, ta là em.
          - Cháu xin ra mắt sư thúc. Từ sau trận Trường-yên, phụ thân tuẫn quốc, rồi cháu về phủ Khai-Quốc ở, nên không biết tin tức của bạn hữu phụ thân nhiều. Thế cao danh sư thúc là gì?
          - Người cứ gọi ta là thầy đồ được rồi.
          - Không biết sư thúc có gì dạy bảo cháu không?
          - Có chứ. Ta sẽ dạy cháu rất nhiều. Từ nay ta theo sát bên cạnh cháu. Nhất định ta sẽ dạy cháu một bản lĩnh nghiêng trời lệch đất. Cháu yên tâm, không sợ gì cả. Ai đụng đến cháu, ta sẽ giết cả nhà nó, kể cả con chó, con mèo.
          Thường-Kiệt nghe thầy đồ nói, mà chân tay run lên vì cảm động. Hình ảnh thời thơ ấu hiện về: Chàng được các sư thúc Thông-Mai, Tự-Mai, Lê Văn yêu thương vô bờ bến. Không lẽ thầy đồ là một trong các sư thúc ấy? Trong tâm chàng, hai sư thúc Tự-Mai, Lê Văn để lại nhiều tình cảm nhất. Nhưng hai vị đó hiện là phò mã, nghìn trùng cách biệt. Sư thúc Thông-Mai có lẽ qua đời rồi. Vậy vị này là ai?
          Thuyền đã đến bến, lão Kiếm-Thương đánh xe, hai đô thống Phùng, Đinh cỡi ngựa đi hai bên. Xe chạy vào trong thành.
          Bấy giờ là thời cực thịnh trị, nên thành Thăng-long mở cửa suốt đêm. Xe hướng phủ Tể-tướng chạy tới.
          Khi Thiên-Thành hoàng đế còn là Khai-Thiên vương, đã có chính phi Triệu Liên-Phương cùng các bà Đinh, Mai, Vương phi. Chính phi Liên-Phương tự sát, nhưng được Thuận-Thiên hoàng đế ân xá, nên ngôi vị không mất, Nhật-Tông vẫn được giữ ngôi Thái-tử. Bình-Dương, Kim-Thành, Trường-Ninh vẫn còn là công chúa. Trong trận Trường-yên, Đinh phi bị Ưng-hiệp Tự-Mai xử tử. Khi Khai-Thiên vương lên ngôi vua thì ngôi chính cung Hoàng-hậu vẫn bỏ trống. Mãi năm Ất-Hợi (1035) niên hiệu Thông-Thụy thứ nhì mới cưới con gái của Lại-bộ thượng thư Dương Đức-Thành là Dương Hồng-Hà và phong làm Hoàng-hậu. Nhờ con làm Hoàng-hậu, Đức-Thành được phong làm Tả bộc xạ, đồng trung thư môn hạ bình chương sự, chiêu văn quan đại học sĩ, Kinh-nam hầu. Tức là Tể-tướng.
          Điều tréo cẳng ngỗng là Dương Bình, đại đệ tử của Hồng-Sơn đại phu, do võ nghiệp xuất thân, vào sinh ra tử bao phen, được phong làm Thái-tử thái phó, hữu bộc xạ, đồng trung thư môn hạ bình chương sự, trấn-quốc đại tướng quân, Thăng-long tiết độ sứ, Vạn-sơn công. Nếu bàn về tước thì Dương Bình tước Công cao hơn tước Hầu của Dương Đức-Thành. Nếu bàn về hàm, thì Thành là quốc trượng, cao hơn Thái-tử thái phó một bậc. Thành ra viên quan xếp chỗ thiết triều không biết để ai đứng trước, ai đứng sau. Cuối cùng phải hỏi Thái-sư Khai-Quốc vương. Thái-sư giải quyết bằng cách cho Dương Đức-Thành đứng đầu văn quan. Dương Bình đứng đầu võ quan.
          Đức-Thành là văn quan, công danh của y lên đến tột đỉnh. Điều y sợ nhất là hoàng đế nghe theo Thái-sư Khai-Quốc vương đem quân Bắc chinh, thì quyền sẽ vào tay võ quan, nên y tìm đủ mọi cách làm nản lòng nhà vua cùng bách quan trong vấn đề đòi lại cố thổ Lĩnh-Nam. Con trai của y tên Dương Đức-Uy hiện lĩnh Lại-bộ tham tri (thứ trưởng nội vụ ngày nay). Nhân cuối năm, Đức-Uy cho con trai là Dương Đức-Khai với con gái là Dương Hồng-Hạc do viên gia tướng Đinh Kiếm-Thương dẫn về thăm quê ngoại.
          Bây giờ thình lình giữa đêm, thấy Kiếm-Thương chở xác Đức-Khai về, thuật rõ bị người ta giết chết. Hung thủ để lại dấu hiệu là người của Ưng-sơn song hiệp. Tuy đau đớn cùng cực, nhưng Đức-Thành chết lặng giờ lâu. Từ trước đến giờ trong lòng y ngay ngáy lo sợ võ lâm sẽ giết y vì y chủ hoà. Nên y ra sức chiêu mộ võ sĩ phòng thân. Từ khi y chiêu mộ được Kiếm-Thương làm gia tướng, y nghĩ rằng bản lĩnh hắn vô địch, không ngờ chỉ một chiêu đã bại dưới chân tay Ưng-hiệp thì còn hy vọng gì. Y đâu biết rằng bản lĩnh như thầy đồ, thời ấy e khó có hai.
          Y cho con trai đem xác cháu về nhà lo khâm liệm, rồi ngồi suy nghĩ:
          - Ta hãy truyền giam hai thiếu niên này lại, để hôm sau giải vào triều cho Hoàng-đế tra xét, như thế dù Hoàng-đế xử thế nào, ta cũng không sợ Ưng-sơn trừng phạt.
          Nghĩ vậy y cho hai gã đô thống Phùng, Đinh trở về, rồi gọi Hồng-Hạc vào hỏi chi tiết những việc xẩy ra ở bến đò Bắc-ngạn.
          Y hỏi thư lại:
          - Ngày mai hoàng thượng không thiết triều, bách quan phải sang phủ Thái-tử Khai-hoàng vương giải quyết mọi sự. Người đã thấy Khai-Hoàng vương về chưa?
          - Hồi chiều tiểu nhân cho người sang dò la động tĩnh, thì chỉ nghe công chúa Bảo-Hòa nói đã cho Thái-tử với Lý Thường-Kiệt về trước rồi, mà sao chưa thấy tới.
          Mỗi lần nghe đến tên Bảo-Hòa, Bình-Dương, Thiệu-Thái, trong lòng Đức-Thành lại muốn phát run, vì khi y tâu trình, đề nghị việc gì lên Hoàng-đế, mà trái với ý ba người này, thì y như trên từ Thái-sư cho tới các quan đều thuận theo ý họ. Y đã nghe Bảo-Hòa xử tử Hồng-Phúc, Thuận-Thiên hoàng đế không những không trách phạt, mà còn khen ngợi. Phò mã Thân Thiệu-Thái không giữ một chức tước gì của triều đình. Công chúa Bình-Dương làm vua Bắc-biên. Thế nhưng gần như mọi truyện trong nước đều do ba người này quyết định. Trong ba người, y ngán sợ nhất là vua bà Bình-Dương. Bà là tượng trưng cho một Quan-thế-âm, ôn nhu, từ tốn, khoan dung, từ bi, hỷ xả. Vì vậy vua bà được Hoàng-đế cực kỳ sủng ái, bất cứ bà tâu trình việc gì, Hoàng-đế đều nghe theo hết. Mà vua Bà chủ trương đòi lại đất tổ thời Lĩnh-Nam, điều mà y chống.
          Ngày mai đây, y phải khải việc cháu nội bị giết với Khai-Hoàng vương, kẻ giết dường như liên quan tới Tần-vương Trần Tự-Mai. Mà Tần vương được Thái-sư, Bảo-Hòa, Bình-Dương, Thiệu-Thái cực kỳ yêu quý. Ban nãy y thấy hai tội phạm hơi quen mặt, nhưng không nhớ đã gặp ở đâu. Y muốn thẩm vấn hai thiếu niên bị bắt để biết rõ nội vụ hơn.
          Y vẫy một gia tướng đi theo xuống phòng giam. Trong phòng giam Nhật-Tông ngủ ngon lành, dường như không coi việc bị bắt giam ra gì cả. Y sang phòng Thường-Kiệt, thì chàng ta đang ngồi vận công.
          Thường-Kiệt đã vận công xong, đưa mắt nhìn Đức-Thành. Đức-Thành hỏi:
          - Thiếu niên kia, người tên gì?
          - Tôi họ Ngô tên Tuấn.
          - Người có biết kẻ giết cháu ta tông tích ra sao không?
          - Tôi không biết. Tôi đoán rằng đó là một anh em kết nghĩa với Nam-hiệp
          - Người là tòng phạm giết người, người không khai ra sát nhân, người sẽ bị tử hình.
          - Tôi xin hỏi Tể-tướng, thế nào là tòng phạm? Tể-tướng có biết những gì xẩy ra trước khi Dương công tử bị giết không?
          - Ta muốn người khai cho rõ.
          Thường-Kiệt thuật tỷ mỉ mọi việc xẩy ra trong khách điếm một lượt. Đức-Thành suy nghĩ:
          - Nếu ta không giết được hung thủ trả thù cho cháu ta, ít nhất ta cũng phải làm sao khiến Khai-Hoàng vương giết hai đứa này với cha con Nùng Tồn-Phúc, như vậy cho phe chủ chiến ê càng. Bằng không ta khó có thể ngồi ở ghế Tể-tướng được.
          Nghĩ vậy, Đức-Thành ngồi viết một bức thư, rồi sai thị nữ nhập cung trao cho con gái là Thiên-Cảm hoàng hậu, để Hoàng-hậu tâu nhỏ với nhà vua rằng cha con Tồn-Phúc bàn truyện mưu phản, hai thiếu niên Ngô Tuấn với Lý Tông là đồng phạm.
          Y lại giả một tờ hịch ký tên Nùng Tồn-Phúc kể tội triều Lý cướp ngôi vua của Lê Ngọa-Triều. Nay Tồn-Phúc cùng Hoàng-Giang cư sĩ quyết khởi binh để lập chính thống. Y mật gọi thư lại lên sao làm mười bản. Một bản gửi cho Hoàng-hậu, hầu mật tấu lên nhà vua. Còn chín bản, y gọi gia tướng, dặn đem dán ở khắp các cửa thành.
          Hành sự xong xuôi, trở vào, thì tờ giấy nháp biến mất. Cho rằng tờ giấy đó lẫn vào với đám hịch gửi đi dán. Y yên tâm.
          Sáng hôm sau, trời vừa bình minh, hai đô thống Phùng, Đinh tới trói Nhật-Tông với Thường-Kiệt bỏ sau xe Dương Đức-Thành, rồi họ cỡi ngựa theo sau xe y đến phủ Khai-Hoàng vương. Đây là lần đầu tiên Khai-Hoàng vương thiết tiểu triều, nên văn võ bách quan tề tựu rất sớm.
          Cái tin cháu của quan Tả bộc xạ bị người của Ưng-sơn song hiệp giết đêm qua lan thực nhanh, khiến các quan bàn tán xôn xao. Những người làm bậy cảm thấy lo sợ không ít khi bóng dáng Ưng-sơn xuất hiện ngay ở kinh thành.
          Giờ thiết triều đã điểm. Ba hồi trống, tiếp theo đội nhạc phủ Thái-tử đồng tấu nhạc. Các quan đứng vào chỗ. Vừa vào trong phủ, mặt Đức-Thành cau lại cực khó coi: Vì y là Tả-bộc xạ, mà phải đứng. Trong khi Dương Bình là hữu-bộc xạ lại được ngồi bên phải Thái-tử. Nguyên do, Dương Bình là quan Thái-phó, tức thầy dạy của Thái-tử. Chủ đạo tộc Việt cực kỳ trọng sư đạo nên có sự sắp xếp như thế.
          Dương Bình cung tay nói:
          _- Thưa chư vị đồng liêu, hôm nay là ngày Thái-tử thiết tiểu triều đầu tiên. Ty chức là Thái-phó, trách nhiệm ở đây, xin kính chào quý đồng liêu. Hy vọng quý đồng liêu ban cho những lời dạy dỗ.
          Rồi ông truyền cung nữ dâng trà mời bách quan cùng uống.
          Công chúa Bảo-Hòa từ trong bước ra. Quần thần cùng cúi đầu hành lễ. Bởi công chúa được phong là trưởng công chúa, tức là tước vị cao quý nhất, chỉ thua có Thái-hậu với Hoàng-hậu mà thôi. Công-chúa lại lập quá nhiều công với Đại-Việt, đương kim chưởng môn phái Tản-viên, sư phụ truyền võ cho Khai-Hoàng vương. Dương Bình cung kính thỉnh công chúa ngồi vào ghế bên phải của Thái-tử.
          Hổ-uy đại tướng quân Lý Nhân-Nghĩa, Vũ-vệ đại tướng quân Lê Phụng-Hiểu tiến đến trước công chúa quỳ gối khấu đầu:
          - Đệ tử kính cẩn bái kiến sư mẫu. Vì đường xá xa xôi lâu ngày bọn đệ tử không lên Tản-lĩnh ra mắt được, nhưng trong lòng luôn tướng nhớ đến sư mẫu.
          Bảo-Hòa vẫy tay:
          - Miễn lễ. Cô ở trên Tản-lĩnh, lúc nào cũng mong nhị vị an khang hầu báo quốc, hộ dân. Nay cô có món quà này, ban cho nhị vị tướng quân, gọi là lao tưởng.
          Công chúa xuất trong bọc ra hai chuỗi ngọc trai, ban cho hai đệ tử. Lê Phụng-Hiểu hiện được phong Thái-tử thiếu-sư, đồng tri khu mật viện, Thiên-trường tiết độ sứ, vũ-vệ đại tướng quân, Vạn-thảo hầu, kiêm thống lĩnh cấm quân. Lý-nhân-Nghĩa được phong Thái-tử thiếu bảo, khu mật viện sứ, Sơn-nam tiết độ sứ, hổ-uy đại tướng quân, Dục-thúy hầu, kiêm tổng quản thị vệ. Hồi hai người gặp công chúa ở Vạn-hoa sơn trang, được thu làm đệ tử, được truyền võ công Tản-viên. Nhờ võ công cao, lại là đệ tử của trưởng công chúa, hai người lập được không biết bao nhiêu công lao, hiện giữ chức cực tín cẩn của triều đình. Ai cũng khen : Tốt phước, được làm học trò tiên.
          Hai người cung cung, kính kính lĩnh thưởng rồi lui về võ ban.
          Dương Bình nói với quần thần:
          _- Tiên cô Bảo-Hòa dạy rằng: Thái tử cùng sư điệt là Lý Thường-Kiệt đã lên đường lai kinh từ năm ngày rồi, không hiểu sao nay chưa thấy tới?
          Ông nhìn Dương Đức-Thành:
          - Đệ nghe tiểu công tử qua đời đêm qua ở Bắc-ngạn. Vậy sự thể ra sao, xin Quốc-trượng cho biết để quý đồng liêu cùng chia sẻ thương tâm. Đệ là Long-thành tiết độ sứ, đệ xin thụ lý vụ này.
          Đức-Thành nghĩ thầm:
          - Trong khi Khai-Hoàng vương chưa tới, ta cứ giao phạm nhân cho tên này, để y với bọn Ưng-sơn chém giết nhau cho vui.
          Y trao cho Dương Bình tờ biểu:
          - Đứa cháu nội của tôi đang trên đường từ Kinh-Nam tới Bắc-ngạn, thì gặp thầy đồ vô danh, hai cha con Nùng Tồn-Phúc, hiệp đảng bàn truyện phản nghịch. Cháu lấy chính đạo ra thống trách bọn chúng, rồi đi đến động thủ. Chúng cậy số đông, đánh bại gia tướng Đinh Kiếm-Thương với hai đô thống Phùng Lộc, Đinh Luật, sau ám toán cháu, rồi bỏ chạy. Tuy vậy tệ gia tướng cũng bắt sống được hai tên vô lại. Hiện tôi có giải chúng theo. Nay có quan Thái-phó là Long-thành tiết độ sứ đây, xin ngài xử cho.
          Bảo-Hòa hỏi Phùng Lộc:
          - Phùng đô thống. Võ công của người giết Dương công tử ra sao?
          Phùng Lộc nghe Bảo-Hòa hỏi, y phát run:
          - Khải công chúa, Nùng Tồn-Phúc dùng võ công Tây-vu, còn Nùng Trí-Cao dùng võ công gì tiểu nhân thực không hiểu. Còn hai đồ đảng đi theo, chúng dùng võ công... võ công Tản-viên.
          Bảo-Hòa cười lạnh như tiền:
          - Ta muốn hỏi cái người chỉ đánh một chiêu khiến Đinh Kiếm-Thương hút mất mạng kia? Y dùng võ công gì?
          Phùng Lộc run run:
          - Y dùng võ công hơi giống võ công Sài-sơn, dường như chiêu Thiên-vương trấn thiên.
          Bảo-Hòa hỏi Dương Bình:
          _Dương Thái-phó, Đinh Kiếm-Thương là sư phụ của ma đầu Đinh Hiền, võ công y cao thâm không biết đâu mà lường, vậy thì cái người xử dụng chiêu Thiên-vương trấn thiên hẳn công lực vô song. Không biết trong quý phái những ai có công lực như vậy?
          Dương Bình đã đoán được phần nào những gì xẩy ra ở Bắc-ngạn, ông nói:
          - Hiện trong bản phái, công lực cao như vậy chỉ có Thái sư-phụ, sư phụ, sư đệ Thông-Mai, Lê Văn mới đạt tới mức đó. Thái sư-phụ đã quy tiên. Sư phụ như chim hạc, nay đây, mai đó ắt không phải người. Sư đệ Thông-Mai thì tuyệt tích sau trận Trường-yên. Còn sư đệ Lê Văn, hiện là phò mã Xiêm, lâu lắm không về Đại-Việt.
          Ông hướng hai viên đô thống Đinh Luật, Phùng Lộc:
          - Như hai người nói, trong khi thảm kịch xẩy ra còn có cả sư phụ của Nùng Trí-Cao tức Hoàng-Giang cư sĩ. Ta giám quyết có sự hiện diện của sư đệ Hoàng-Giang, muôn ngàn lần Nùng Trí-Cao cũng không thể nói lời phản nghịch.
          Dương Đức-Thành nói dỗi:
          - Không lẽ cháu tôi tự nhiên lăn đùng ra chết chăng?
          Y vẫy tay, Phùng Lộc mở cửa xe, giải Nhật-Tông cùng Lý Thường-Kiệt vào. Khi ba người bước qua ngưỡng cửa, các quan đồng la hoảng, vì họ nhận ra Nhật-Tông là Khai-Hoàng vương.
          Nhật-Tông khoan thai bước vào giữa điện. Vương đưa mắt nhìn bách quan một lượt. Lễ quan phủ Khai-Hoàng tuy kinh hãi, nhưng vẫn hô lớn:
          - Thái-tử giá lâm, hành lễ.
          Các quan ngơ ngác nhìn nhau, họ không hiểu những gì đã xẩy ra. Nhật-Tông hỏi Dương Bình:
          - Thưa thầy, Bắc-ngạn có phải thuộc phạm vi Thăng-long không? Thầy có phải là Thăng-long tiết độ sứ không? Tôi không biết mình bị tội gì, mà bị ma đầu Đinh Kiếm-Thương trói bỏ lên xe như con chó ghẻ? Không biết quan Tả-bộc-xạ lấy quyền gì mà trói tôi bỏ vào nhà tù suốt đêm qua đến giờ? Không lẽ đây là lễ nghi để Thái-tử thiết triều lần đầu chăng?
          Bảo-Hòa gằn từng tiếng, nội công bà cao thâm khôn lường, nên âm phát ra lạnh như tiền:
          - Dù Thái-tử không phải là trừ quân, thì đệ tử của tôi cũng không thể để cho người ta gọi là vô lại, gọi là gian nhân, gọi là nói lời phản nghịch rồi trói, rồi làm nhục như thế kia.
          Dương Bình dường như đã biết trước những gì xẩy ra, ông hỏi Dương Đức-Thành:
          - Xin Quốc-trượng dạy cho một lời.
          Trong khi Đức-Thành lặng người đi thì Phùng Lộc kinh hãi, y quỳ mọp xuống đất hướng Nhật-Tông rập đầu binh binh:
          - Khải vương gia, tiểu nhân chỉ biết tuân lệnh của Dương công tử, Dương tiểu thư mà thôi. Đây, mũi tên cắm lên đầu khiến Dương công tử bị thiệt mạng đây.
          Bảo-Hòa cầm mũi tên, tâm tư bà rúng động, vì trên chuôi có khắc hình chim ưng bay qua núi. Bà nói:
          - Cứ như mũi tên này, thì người ra tay không thể là Tần-vương Trần
          Tự-Mai. Ta nghĩ có lẽ một người nào đó thuộc quyền của vương, chứ không phải vương. Ta ở cạnh vương một thời gian lâu, ta biết. Nếu vương mà ra tay thì từ Dương gia huynh đệ, Đinh Kiếm-Thương, hai Đô-thống, cho đến toàn gia, kể cả trâu bò, chó mèo, gà vịt cũng mất mạng rồi, chứ có đâu an toàn đến nay? Ta nghĩ chuyện này chưa hết đâu, nếu triều đình xử tội Dương gia đúng luật thì thôi, bằng thiên vị thì ta e tính mệnh toàn thể Dương gia khó toàn. Hỡi ơi! Dù vương hay người của vương đã ra tay, thì trên thế gian này chỉ có đại hiệp Tự-An, vương phi Thanh-Mai hay vua bà Bình-Dương cản được mà thôi.
          Vừa lúc đó, lễ quan hô:
          - Thái-sư giá lâm.
          Mọi người kinh hoảng vội quỳ xuống hành lễ, kể cả Thái-tử. Chỉ có hai người được miễn mọi lễ nghi không phải quỳ gối là trưởng công chúa Bảo-Hòa với quan Thái-phó Dương Bình. Khai-Quốc vương vẫy tay miễn lễ cho mọi người.
          Dương Đức-Thành quỳ gối khấu đầu:
          - Thái sư. Mong Thái-sư nghĩ tới Thiên-Cảm hoàng hậu mà xử nhẹ cho lão thần đã thờ hai triều vua.
          Khai-Quốc vương đưa mắt nhìn Thái-tử, rồi chĩa ngón tay điểm véo véo hai tiếng, dây trói Nhật-Tông với Thường-Kiệt bị đứt rời. Vương nói với quần thần:
          - Việc này liên quan tới Ưng-sơn song hiệp. Nếu không khéo xử thì e mấy nghìn người trong Dương phủ, toàn gia Đinh, Phùng khó toàn mạng. Vì phò mã Tự-Mai là nghĩa đệ của cô gia, cũng là nghĩa đệ của vua bà Bắc-biên thực. Nhưng y còn là nghĩa đệ của Tống đế, địa vị phò mã quá lớn, cô gia muốn can thiệp cũng phải có lý chứ không thể vượt qua luật nước. Cứ coi gương toàn thể nhân mạng trên ba trăm người của phủ Vũ-Đức vương, rồi Đinh phi, rồi hơn nghìn người của Tể-tướng Lã Di-Giản thì rõ. Đến Tống đế, đến hoàng huynh ta, mà cũng không qua cái lý được với y.
          Vương thở dài:
          - Y hành xử đúng luật lệ, đạo lý tộc Việt. Cái khó khăn, tế nhị là tước của Tự-Mai tới Tần-vương, ngang với Thái-sư Yên-vương Triệu Nguyên-Nghiễm, cao hơn tước Giao-chỉ quận vương của hoàng huynh ta nhiều. Phải chi vương phi Thanh-Mai hiện diện ở đây, thì chỉ một bức thư viết cho Tự-Mai là xong.
          Nhật-Tông ngồi vào ghế Thái-tử. Thái-sư Khai-Quốc vương vẫy tay:
          - Nhật-Tông, ta mang Dương tể tướng, cùng Đinh, Phùng triều yết hoàng huynh để cứu mạng cho Dương gia. Cháu cứ thiết tiểu triều đi thì vừa.
          Vừa lúc đó, thái giám hô lớn:
          - Hoàng thượng giá lâm.
          Các quan vội quỳ gối hành lễ, trừ Thái-sư được miễn. Thông-Thụy hoàng đế vẫy tay:
          - Miễn lễ.
          Mọi người đứng dậy. Nhà vua ngồi vào ghế của Thái-tử. Thái-sư Khai-Quốc vương cùng trưởng công chúa Bảo-Hòa ngồi hai bên. Nhà vua tuyên:
          - Chú hai. Có chuyện lớn xẩy ra rồi, chú hai biết không?

          <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.02.2005 03:14:25 bởi NuHiepDeThuong >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9