Nam Quốc sơn hà
CDDLT 21.01.2005 18:05:07 (permalink)
NAM QUỐC SƠN HÀ

Lịch-sử tiểu thuyết
Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ



NAM QUỐC SƠN HÀ
Lịch sử tiểu thuyết
Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ
Đại Nam, California Hoa-kỳ tái bản
Tác giả giữ bản quyền.
Copyright @ Trần Đại-Sỹ
All right reserved.




Cùng một tác giả :

Do Nam-á Paris xuất bản, tái bản nhiều lần.
Anh hùng Lĩnh-Nam, 4 tập, 1318 trang.
Động-đình hồ ngoại sử, 3 tập, 880 trang.
Cẩm-khê di hận, 4 tập, 1305 trang,1992.

Viện Pháp-á Paris (Institut Franco-Asiatique) tái bản:
Anh hùng Tiêu-sơn, 3 tập, 1120 trang,
Thuận-Thiên di sử, 3 tập, 1080 trang,
Anh-hùng Bắc-cương, 4 tập, 1556 trang,
Anh-linh thần-võ tộc Việt, 4 tập,1708 trang,

Do Đại-Nam Hoa-kỳ ấn hành. Viện Pháp-á Paris (Institut Franco-Asiatique) tái bản 2001.
Cốt tủy Tử-vi tuổi Tý, 1 tập, 362 trang,
Nam-quốc sơn-hà, 5 tập, 2230 trang,
Anh hùng Đông-a : Dựng cờ bình Mông, 5 tập 2566 trang.

Sẽ xuất bản:

Anh-hùng Đông-a : Gươm thiêng Hàm-tử.
Giáo huấn tình dục bằng y học Trung-quốc, (Sexologie Médicale chinoise)
Do Thư-viện Việt-Nam, California, Hoa-kỳ ấn hành.



Những chữ viết tắt trong sách này:

AHBC
Anh-hùng Bắc-cương

AHLN
Anh-hùng Lĩnh-Nam

AHĐA-DCBM
Anh-hùng Đông-a dựng cờ bình Mông

AHTS
Anh-hùng Tiêu-sơn

ALTVTV
Anh-linh thần võ tộc Việt

ANCL
An-Nam chí lược

CEP
Coopérative Européenne Pharmaceutique
(Liên hiệp các viện bào chế châu Âu)

CKDH
Cẩm khê di hận

CMFC
Commité Médical Franco-Chinois
(Ủy ban trao đổi y học Pháp-Hoa)

DTLSVH
Di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng

IFA
Institut Franco-Asiatique (Viện Pháp-Á)

KĐVSTGCM
Khâm định Việt sử thông giám cương mục

ĐĐHNS
Động-đình hồ ngoại sử

ĐNLTCB
Đại-Nam liệt truyện chính biên

ĐNLTTB
Đại-Nam liệt truyển tiền biên

ĐNNTC
Đại-Nam nhất thống chí

ĐNTLCB
Đại-Nam thực lục chính biên

ĐNTLTB
Đại-Nam thực lục tiền biên

ĐVSKTT
Đại-Việt sử ký toàn thư

MCMS
Mông-cổ mật sử

NS
Nguyên-sử

TS
Tống sử

TTDS
Thuận-thiên di sử




Thư viết cho tuổi trẻ tộc Việt
về những nguồn tài liệu
để tìm hiểu cuộc Bắc-phạt thời Lý

(Dẫn nhập bộ Nam Quốc Sơn Hà)



Những giòng dưới đây tôi viết dành cho tuổi trẻ Việt, chưa có chút vốn về thư tịch của chiến thắng Bắc phạt thời Lý, đánh chiếm các châu Ung, Liêm, Dung, Nghi, Bạch. Mong những bậc cao minh bỏ qua. Chẳng nên bận tâm.
Trân trọng.

Các bạn trẻ thân.

Các bạn đã từng nghe, từng đọc sơ lược về những chiến công hiển hách của tổ tiên ta, trong khoảng thời gian hai chục năm (1057-1077), Bắc tiến, đánh chiếm các châu Ung, Liêm, Dung, Nghi, Bạch của Tống vào thời Lý. Nam bình Chiêm đem các châu Ma-linh, Bố-chính, Địa-lý vào bản đồ Đại Việt. Bây giờ các bạn được đọc toàn bộ huân nghiệp này trong bộ Nam-quốc sơn hà. Đây là bộ sách, mà tôi đã dùng hết tâm huyết để thuật lại. Toàn bộ gồm 5 quyển, gần 2500 trang, lần đầu do viện Pháp-Á xuất bản, nhà Đại-Nam Hoa-kỳ ấn hành. Bốn chữ Nam-quốc sơn hà, tôi lấy trong bài thơ đánh Tống của ngài Thái-úy Lý Thường Kiệt.

Cũng trong việc ca tụng tổ tiên ta trong công cuộc giữ nước, mở rộng lãnh thổ, dưới triều Lý, vào khoảng thời gian trước bộ này 40-60 năm. Đó là các bộ :

Anh-hùng Tiêu-sơn,
Thuận-Thiên di sử,
Anh-hùng Bắc-cương,
Anh linh thần võ tộc Việt,

Đối với các độc giả cao minh, bài viết dưới đây dường như vô ích. Tuy vậy tôi thấy cần phải viết, để độc giả trẻ tuổi, thời thơ ấu ở ngoài lãnh thổ Việt-Nam, hoặc sống trong nước, nhưng không có dịp hiểu rõ hơn những vấn đề trong sách. Đó là vấn đề những nguồn tài liệu mà tôi dùng để sưu khảo, làm khung chính yếu, dựa vào đó, xây dựng tác phẩm.

Nguồn tài liệu chia làm bốn loại:

1. Tài liệu Việt-Nam.

Nói đến tài liệu Việt-Nam, tôi buồn lắm các bạn ạ, vì cuộc Bắc phạt của ta trong thời Lý có đến 6 lần khác nhau, mà khi tôi nói ra, người ta không tin. Những vị có kiến thức đọc được sách cổ của ta, của Trung-quốc thì coi đó là sự thường . Khi tôi nói, các vị ấy trêu tôi Biết rồi, khổ lắm nói mãi. Còn những người không biết thì phủ định, làm gì có. Thực đúng như sách Trung Dung nói "Tiểu nhân bất cập, quân tử quá chi".

Bây giờ tôi xin cố gắng trình bầy.

Nguồn tài liệu này gồm có ba :

Nguồn thứ nhất, do tiền nhân tôi để lại. Hầu hết chép tay, hoặc in mộc bản.
Nguồn thứ nhì do người Pháp sưu tầm, cất tại thư viện Paris.
Nguồn thứ ba, người Trung-quốc cất giữ tại thư viện Thượng-hải, Bắc-kinh, Quảng-Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam, Quý-châu và Hồ-Nam.

Vậy những tài liệu nào tôi căn cứ vào đó, viết bộ Nam-quốc sơn hà? Dưới đây tôi xin liệt kê. Những tài liệu nào tôi kê trước, thì chính yếu hơn các tài liệu liệt kê sau.

1.1.– Khâm-định Việt sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM),

do cụ Phan Thanh-Giản làm tổng tài. Nhóm sử thần bắt đầu biên tập vào niên hiệu Tự-Đức thứ 9 (Bính-Thân, 1856). Hoàn thành niên hiệu Kiến-Phúc nguyên niên (Giáp-Thân, 1884). Nội dung chia ra:

1.1.1. Quyển đầu, chép các sắc chỉ, tấu chương, thể lệ.

1.1.2. Tiền biên 5 quyển, chép từ Hồng-Bàng đến Thập-nhị sứ quân.

1.1.3. Chính biên, 47 quyển, chép từ Đinh Tiên-Hoàng đến Lê Mẫn-Đế.

Trong đó bút tích ngoại tổ cùng phụ thân phát biểu ý kiến, phê chằng chịt khắp mọi trang. Năm 1973, sợ để trong nhà, có khi bị mất, bị cháy. Tôi tặng cho phủ Quốc-vụ-khanh đặc trách văn hoá. Đầu quyển nhất, tôi dành ra mười lăm trang đánh máy, chỉ rõ cho độc giả biềt nguồn gốc bản này của gia đình tôi được lưu truyền như thế nào. Sau đó mỗi khi cần dùng, tôi lại tới mượn về sưu khảo. Từ năm 1975, tôi dùng bản của thư viện Paris. Trong khi dẫn chứng, tôi viết tắt là KĐVSTGCM.

1.2. Đại-Việt sử ký (ĐVSK)– Đại-Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT).

Bộ Đại-Việt sử ký, do Hàn-lâm-viện học sĩ, kiêm Quốc-sử viện giám tu, Bảng-nhãn đại khoa niên hiệu Thiên-Ứng Chính-Bình thứ 16 đời vua Trần Thái-Tông (Đinh-Mùi, 1247) Lê Văn-Hưu soạn; chép từ Triệu Đà đến Lý Chiêu-Hoàng. Bộ này hoàn tất vào tháng 6 niên hiệu Thiệu-Long nguyên niên (Nhâm-Thân, 1272), đời vua Trần Nhân-Tông.

Niên hiệu Diên-Ninh thứ nhì đời Lê Nhân-Tông (Ất-Hợi, 1455), vua sai Quốc-sử tế tửu bác sĩ Phan Phu-Tiên soạn quốc sử. Phan Phu-Tiên chép nối tiếp bộ Đại-Việt sử ký của Lê Văn-Hưu, tức từ niên hiệu Kiến-Trung nguyên niên đời Trần Thái-Tông (Ất-Dậu 1225) đến khi quân Minh bị đuổi về nước (1428). Vì vậy bộ sau này được mang tên là Đại-Việt sử ký tục biên (ĐVSKTB).

Niên hiệu Hồng-Đức thứ mười (Kỷ-Hợi, 1479), vua Lê Thánh-Tông sai sử thần Ngô Sĩ-Liên biên soạn một bộ chính sử. Ông Ngô Sĩ-Liên tu bổ bộ Đại-Việt sử ký của Lê Văn-Hưu, Đại-Việt sử ký tục biên của Phan Phu-Tiên, rồi chép thêm. Vì vậy bộ sử mới mang tên Đại-Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), chia làm 15 quyển. Từ Hồng-Hàng đến Ngô sứ quân 5 quyển, gọi là Ngoại-kỷ. Từ Đinh Tiên-Hoàng đến Lê Thái-Tổ 10 quyển, gọi là Bản-kỷ.

Bản của tiền nhân tôi để lại là bản do triều Tây-sơn in vào tháng chạp năm Canh-Thân (đầu 1801).

Xét nội dung hai bộ của Lê, Ngô, tôi thấy:

1.2.1. Ngô Sĩ-Liên hầu như chép lại bộ Đại-Việt sử ký của Lê Văo-Hưu từ Triệu Đà đến Lý Chiêu-Hoàng.

1.2.2. Ngô Sĩ-Liên thêm vào bộ của Lê Văo-Hưu hai thiên Hồng-Bàng ngoại kỷ và Thục-kỷ. Để viết hai thiên này, Ngô đã mượn càc truyện thần thoại trong Việt-điện u linh tập của Lý Tế-Xuyên và Lĩnh-Nam trích quái của Trần Thế-Pháp.

Bản của tiền nhân tôi có rất nhiều người phê bên cạnh. Phần châu phê, ông tôi bảo đó là của Dực-Tông Anh-hoàng-đế (Tự-Đức). Lời châu phê Hồng-bàng thị kỷ như sau :

"Ngưu quỷ, xà thần. Bất nghi tín dã".

Nghĩa là : Ma trâu-đầu rắn, không nên tin.

1.2.3. Ngô Sĩ-Liên chép tiếp tục từ Lý Chiêu-Hoàng đến Lê Thánh-Tông.

Hồi 1962, trong khi tôi đi du học chưa về. Phụ thân tôi trao cho viện Khảo-cổ, rồi cụ phó bảng Nguyễn Sĩ-Giác mượn, để dịch thuật. Khi tôi trở về nước, thì không tìm lại được. Tôi đành cho chụp microfilm bản của thư viện Paris, và dùng bản này. Gần đây, tôi dùng bản của Đông-kinh đại học, Đông-dương văn hóa nghiên cứu sở, phụ thuộc Đông-dương học văn hiến của giáo sư Trần Kinh-Hòa chú giải, xuất bản niên hiệu Chiêu-Hòa thứ 59. Khi dẫn chứng tôi viết tắt là ĐVSKTT.

Ghi chú,
Giáo-sư Trần Kinh-Hòa (Chen Chin Ho) 1912-1997, gốc người Trung-quốc, nhưng mang quốc tịch Nhật. Ông sang Việt-Nam nghiên cứu về văn chương, lịch sử, văn hóa Việt. Ông kết hôn với một thiếu nữ Việt có học thức, gốc người Hành-thiện, tỉnh Nam-định. Tôi là người bạn vong niên, và là bác sĩ điều trị của Giáo-sư. Thời gian 1954-1963 Giáo-sư từng dạy tại đại học Văn-khoa và Sư-phạm Sài-gòn. Sau năm 1963 Giáo-sư lại trở về Nhật, rồi Đài-loan dậy học. Cuối đời, Giáo-sư dạy học tại Hoa-kỳ, khi về hưu Giáo-sư lưu ngụ tại San Francisco. Giáo sư đã hiệu đính, chú giải, xuất bản hầu hết những bộ sách viết bằng chữ Hán của Việt-Nam.

1.3. Việt sử lược.

Bộ thứ ba mang tên Việt-sử lược (VSL), của một tác giả vô danh. Căn cứ vào câu Kim vương Xương-phù, nghĩa là đức vua hiện tại niên hiệu Xương-Phù. Tra trong sử, Xương-Phù là niên hiệu vua Trần Đế-Nghiện (Đinh-Tỵ, 1377). Như vậy bộ này viết vào thời gian trên. Bộ này chép trong Tứ-khố toàn thư của Trung-quốc.

Tiền nhân tôi có bản này, nhưng khuyết mất mấy trang. Từ năm 1965, tôi dùng bản của Cẩm-chướng thư cục, do chính phủ Trung-hoa dân quốc tặng Đại-học văn khoa Sài-gòn. Sau năm 1975, tôi dùng bản của Trung-hoa thư cục Thượng-hải. Gần đây, tôi dùng bản của đại học Soka Nhật-bản xuất bản niên hiệu Chiêu-Hòa thứ 62 do giáo sư Trần Kinh-Hòa chú giải. Trong khi dẫn chứng, tôi viết tắt là VSL.

1.4. Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái.

Bộ thứ tư, tôi dùng đến là bộ Việt điện u linh (VĐUL) và Lĩnh-Nam chích quái (LNCQ). Hai bộ này dường khởi đầu do Lý Tế Xuyên và Trần Thế Pháp viết, rồi người sau chép thêm vào. Việt-Điện u linh, của Lý Tế-Xuyên. Ông được coi là tác giả đầu tiên. Lĩnh-Nam chích quái, Trần Thế-Pháp cũng được coi như là tác giả biên tập đầu tiên vào niên hiệu Khai-hựu nguyên niên đời vua Trần Minh-Tông (Kỷ-Tỵ 1329). Trong khi dẫn chứng, tôi viết tắt là VĐUL và LNCQ.

1.5. Thiền uyển tập anh.

Thứ năm, phải kể tới bộ Thiền-uyển tập anh (TUTA), của một tác giả dấu tên, biên soạn năm Vĩnh-Thịnh thứ mười một đời vua Lê Dụ-Tông (Ất-mùi, 1715). Bản của tiền nhân tôi để lại là bản in vào thời vua Tự-Đức. Nội dung chép 62 tiểu truyện các thiền sư, cùng ghi lại 67 bài thơ, 98 đoạn thơ của các ngài. Bản của bổn sư Nam-Hải Diệu-Quang là bản chép tay. Tuy có đôi chút khác biệt. Nhưng đại thể vẫn giống nhau. Trong khi dẫn chứng, tôi viết tắt là TUTA.

1.6. Văn bia.

Tài liệu thứ sáu, là các văn bia thời Lý còn lại. Đa số những văo bia này, do học giả Hoàng Xuân-Hãn phát hiện, sao, dịch, chú giải. Tổng số dùng tới có sáu văn bia:

– Bia chùa Báo-ân.
– Bia chùa Sùng-nghiêm diên khánh.
– Bia Thập Sùng-thiện-diên-linh.
– Bia chùa Hương-nghiêm.
– Bia chùa Linh-xứng.
– Bia đền Ngọ-xá.

1.7. Ngọc phả.

Tài liệu thứ bẩy là những tập Ngọc-phả tại đền thờ anh hùng dân tộc, được chép, gửi về bộ Lễ triều Nguyễn xin phong thần. Tài liệu này, tiền nhân tôi khi làm việc tại Quốc-sử quán triều Nguyễn đã sưu tầm để lại. Thư viện trung ương Paris cũng có một số bản khác nhau. Tôi dùng đến 101 bản Ngọc-phả.

1.8. Yên-tử di sự lục

Tài liệu thứ tám mà tôi dùng là bộ Yên-tử di sự lục (YTDSL). Gồm ba mươi sáu quyển. Sách chép tay, bản sư Diệu-Quang dùng để dạy tôi từ khi qui y (Ất-dậu, 1945) cho đến ngày tôi phải xa người (Giáp-Ngọ, 19-8-1954). Năm đó, khi nghỉ hè (7-6-1954) tôi lên chùa ở nghe người giảng dậy. Ngày 20 tháng 7 được tin Việt-Nam chia đôi. Ngày 29 tháng 7 phụ thân cho gọi tôi về để theo gia đình di cư vào Nam. Bổn sư sai các sư cô Diệu-Hoà, Diệu-Đức, Diệu-Tịnh, Diệu-Minh ngày đêm sao cho tôi một bản.

Nội dung bộ sách gồm 36 quyển. Trong đó:

1.8.1. Quyển 1, chép tâm ấn truyền phả. Tức biểu đồ thầy truyền cho trò. Truyền pháp tại Ấn-độ khởi từ đức Thích-Ca Mâu-Ni cho ngài Ma-ha Ca-Diếp, tới ngài Bồ-Đề Đạt-Ma 28 đời. Truyền pháp tại Trung-quốc từ Bồ-Đề Đạt-Ma tới Tăng-Sán 3 đời. Tổ Tăng-Sán truyền cho ngài Tỳ-ni Đa-lưu-chi. Cộng bốn đời. Truyền pháp từ tổ Tỳ-Ni Đa-lưu-chi cho đến ngài Tiêu-Dao tại Đại-Việt trải 18 đời. Từ ngài Tiêu-Dao lập ra phái Yên-tử, truyền đến bản sư gồm 25 đời. Tới tôi là đời thứ 26.

Thích-ca Mâu-Ni 1
Ấn-độ 28
Trung-quốc 3
Tiêu-sơn 18
Yên-tử 25

Cộng chung 75

1.8.2. Quyển 2 đến quyển 10, chép hành trạng các tổ từ khi ngài Tỳ-Ni Đa-lưu-chi đến Đại-Việt, cho tới Vạn-Hạnh thiền sư (1018). Cộng 45 truyện.

1.8.3. Quyển 11 đến quyển 20, chép hành trạng các tổ từ sau Vạn-Hạnh cho đến ngài Huyền-Quang. Cộng 54 truyện.

1.8.4. Quyển 20 tới 36, chép hành trạng các tổ từ sau Tam-tổ tới ngài Nam-Hải Diệu-Quang. Cộng 72 truyện.


Tổng cộng 171 truyện.

Bộ sách do nhiều người chép. Thường sau khi bản sư viên tịch, đệ tử sẽ chép hành trạng lại cho đời sau biết. Vì vậy số tác giả có lẽ tới 30 vị. Khi du học trở về Việt-Nam (1966), tôi có ý dịch sang Việt-ngữ. Song vì bận rộn sinh nhai, lần lữa mãi tới năm 1970 vẫn chưa dịch xong phần đầu. Cư sĩ Chánh-Trí Mai Thọ-Truyền mượn về đọc. Ông trao cho ba chuyên viên phủ Quốc-vụ khanh đặc trách văn hoá dịch. Sau biến cố 1975, tôi không rõ bộ này lưu lạc đâu? Tôi ngờ rằng nó vẫn còn ở Sài-gòn. Tuy vậy, trong thời gian viết Anh-hùng Tiêu-sơn, Anh-hùng Đông-a (1968-1975) tôi đã dùng bộ này để thuật về các Bồ-tát đắc pháp.

Lưu ý độc giả
Tôi xin các vị quản thủ thư viện tại Việt-Nam, cũng như các tư nhân, nếu ai lưu giữ được bộ này xin cho tôi biết, tôi chỉ cần sao lại một bản. Tôi xin tạ một số tiền nhỏ là 20 nghìn USD. Trên đầu mỗi trang bộ sách tôi đều ghi bằng chữ Nho Trần Đại-Sỹ, cạnh đó tôi ghi một ký hiệu bằng số La-mã. Khi báo cho tôi, chỉ cần quý vị nói cho biết số đó là số gì, là tôi tin ngay. Địa chỉ của tôi ở cuối bài này.

1.9. Một số sách của Quốc-sử quán triều Nguyễn biên tập, bao gồm:

– Đại-Nam chính biên liệt truyện (ĐNCBLT),
– Đại-Nam nhất thống chí (ĐNNTC),
– Đại-Việt địa dư chí,
– Hoàng Việt nhất thống địa dư chí,
– Bắc-thành địa dư chí lục,
– Đồng-Khánh địa dư chí,
– Hà-nội tỉnh thần tích,
– Hà-nội sơn xuyên phong tục,
– Bắc-giang tỉnh thần tích,
– Chư dư tạp biên,
– Hoàn-vũ ký,
– Hưng-yên tỉnh nhất thống chí,
– Bắc-kỳ giang sơn cổ tích danh thắng khảo,
– Hải-dương tỉnh thần tích,
– Thăng-long cổ tích khảo,
– Thái-bình địa dư ký,
– Kim cổ thôn bi ký,
– Bắc-ninh tỉnh địa dư chí,
– Bắc-ninh tỉnh thần tích,
– Long-biên bách nhị vịnh,
– Lâm cổ ký,
– Lục Nam địa dư chí,
– Ngọc-phả cổ lục,
– Công dư tiệp ký.

Những bộ này đều có nói đến thần tích các danh nhân thời Lý.

2. Tài liệu Trung-quốc

Trái với tài liệu Việt, tài liệu Trung-quốc rất nhiều. Các bàn trẻ có biết tại sao không ? Vì việc quân Việt đánh sang các châu Ung, Liêm, Dung, Nghi, Bạch là một mối hận vô bờ bến của người Trung-quốc, nên họ viết sách để lại. Tôi dùng rất nhiều. Chỉ đơn cử ra một vài bộ chính.

2.1. Tống-sử.

Do Thừa tướng Thoát-Thoát và A-lỗ-Đồ triều Nguyên làm tổng tài. Cùng với bẩy người biên tập. Gồm 496 quyển. Đây là một trong 24 bộ chính sử Trung-quốc. Tiền nhân dùng cổ bản dạy tôi học. Khi rời Bắc vào Nam, tôi không mang theo được. Cho đến nay, tôi cũng không biết bản đó là bản in năm nào? Ai in? In ở đâu? Từ năm 1965, tôi dùng bản trong Tứ-bộ bị yếu của Trung-hoa dân quốc tặng đại học văn khoa Sài-gòn. Sau 1975, tôi dùng bản của Trung-hoa thư cục Thượng-hải. Bộ này in chữ nhỏ, nên số trang chỉ bằng một phần ba số trang cổ bản mà tiền nhân dạy tôi. Tổng cộng có 14.238 trang. Những quyển quan trọng nhất là:

– Quyển 1-2-3, Thái-tổ bản kỷ. Trang 1-52.
– Quyển 4-5 Thái-tông bản kỷ. Trang 53-120.
– Quyển 6-7-8 Chân-tông bản kỷ. Trang 121-174.
– Quyển 9-10-11-12 Nhân-tông bản kỷ. Trang 175-252.
– Quyển 13 Anh-tông bản ký. Trang 253-262.
– Quyển 14-15-16 Thần-tông bản kỷ. Trang 263-316.
– Quyển 290, Địch Thanh, Quách Quỳ liệt truyện. Trang 9.705-9.727.
– Quyển 318, Trương Phương-Bình liệt truyện. Trang 10.353-10.371.
– Quyển 320 Dư Tĩnh liệt truyện. Trang 10.397-10.413.
– Quyển 324, Phạm Trọng-Yêm liệt truyện. Trang 10.257-10.293.
– Quyển 327, Vương An-Thạch liệt truyện. Trang 10.541-10.560.
– Quyển 332, Lý Sư-Trung, Lục Sằn, Triệu Tiết liệt truyện. Trang 10.673-10.695.
– Quyển 334, Thẩm Khởi, Lưu Di, Hùng Bản, Tiêu Chú, Đào Bật liệt truyện. Trang 10.721-10.741.
– Quyển 336, Tư-mã Quang liệt truyện. Trang 10.757-10.779
– Quyển 349, Yên Đạt, Diêu Tự liệt truyện. Trang 11.049-11.064
– Quyển 350, Vương Quân-Vạn, Hòa Mân, Lưu Trọng-Võ, Khúc Chẩn liệt truyện. Trang 11.067-11.090.
– Quyển 446, Tô Giàm liệt truyện. Trang 13.149-13.172.
– Quyển 480, Ngô-Việt Tiền thị thế gia. Trang 13.897-13.917.
– Quyển 481, Nam Hán Lưu thị thế gia. Trang 13.919-13.951.
– Quyển 485, Ngoại quốc truyện Hạ-quốc thượng. Trang 13.991-14.006.
– Quyển 486, Ngoại quốc truyện, Hạ-quốc hạ. Trang 14.007-14.034.
– Quyển 488, Ngoại quốc truyện, Giao-chỉ, Đại-lý . Trang 14.057-14.076.
– Quyển 489, Ngoại quốc truyện, Chiêm-thành, Chân-lạp, Bồ-cam. Trang 14.077-14.099.
– Quyển 495, Man-di truyện, Quảng-nguyên châu. Trang 14.214-14.220.

2.2. Tư-trị thông giám cương mục

của Tư-mã Quang chép theo lối biên niên. Bộ này gồm 294 quyển. Mục lục 30 quyển, khảo dị 30 quyển. Khởi từ Chiến-quốc, Ngũ-đại, trải 1362 năm. Hồi nhỏ tiền nhân chưa giảng cho tôi bộ này. Hồi 1963, nhân giúp cho người bạn Hòa-lan soạn luận án tiến sĩ văn chương Phương pháp chép sử của người Trung-quốc. Tôi mới để ra hơn tháng nghiên cứu. Bản tôi nghiên cứu của Cẩm-chướng thư cục Thượng-hải. Năm 1975 về sau, tôi dùng bản của Trung-hoa thư cục Thượng-hải.

2.3. Tục tư trị thông giám trường biên của Lý-Đào.


Chép theo lối biên niên. Khác với chính sử. Ở chính sử; các sử thần triều đại sau chép triều đại trước, nên có nhiều điểm không đúng sự thực. Lý-Đào chép ngay sự kiện đang diễn ra.

Bộ Tục tư trị thông giám trường biên chép từ Tống Thái-tổ lên ngôi vua, cho đến lúc nhà Tống phải dời đô xuống Lâm-An, trải 166 năm (960-1126). Tương đương với bên Đại-Việt, niên hiệu Ngô Xương-Văn (Canh-Thân, 960), đến niên hiệu Xương-phù Duệ-vũ thứ bẩy đời Lý Nhân-Tông (Bính-Ngọ, 1126). Thời gian này bao gồm tất cả bộ Anh hùng Tiêu-sơn, Thuận-Thiên di sử, Anh-hùng Bắc cương, Anh-linh thần võ tộc Việt, Nam-quốc sơn hà. Tổng cộng có 4.400 sự việc của 9 đời vua Tống. Sách chia làm 520 quyển.

Khi ông tôi qua đời, tôi tiếp nhận số sách của người để lại có bộ này. Bấy giờ tôi mới mười lăm tuổi, chưa đủ kiến thức khảo cứu, thành ra chỉ đọc qua, thấy đó là mộc bản, chữ lớn. Khi di cư vào Nam, tôi không mang theo được. Đây là mối ân hận đeo đẳng suốt đời tôi. Vì trong đó ông tôi phê chằng chịt khắp mọi trang.

Năm 1968, khởi sự viết lịch sử tiểu thuyết, tôi dùng bản của Trung-hoa dân quốc tặng đại học văn khoa. Từ sau năm 1975 tôi dùng bản của Trung-hoa thư cục Thượng-hải.

Ghi chú
Năm 1990 khi trở về Việt-Nam, tôi có ra Hà-nội, tìm lại ngôi nhà tôi ở hồi 1954 hỏi, thì chủ nhà cho biết : Khi được cấp ngôi nhà đó, họ có thấy rất nhiều sách. Những sách ấy, họ đã bán cho người ta gói đồ, và...đi cầu ! Hôm đó tôi bật lên tiếng khóc như trẻ nít !

2.4. Bút ký, khảo lược.

Ngoài ra tôi dùng rất nhiều sách khác, như:

2.4.1. Đông-đô sự lược của Vương Xung.

2.4.2. Lĩnh ngoại đai đáp của Chu Khứ-Phi.

3. Nguồn tài liệu đặc biệt,

3.1. Mộ chí, văn bia, địa phương chí, gia phả,


Những năm 1976-1995, trong khi làm việc cho Liên hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne Pharmaçeutique,CEP), Viện Pháp-Á (Institut Franco-Asiatique, IFA) và Ủy ban trao đổi y học Pháp Hoa (Commité Médical Franco-Chinois, CMFC)... Tôi có nhiều dịp du hành sang Trung-quốc, tôi sưu tầm được không biết bao nhiêu tài liệu chép trong điạ phương chí, mộ bia, của những vùng biên giới Hoa-Việt, mà trước đây thuộc Việt. Những tài liệu này tôi sao chụp bằng scaner mang về.

Tại thư viện Thượng-hải, Bắc-kinh, Quảng-Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam, Quý-châu, Hồ-Nam, tôi tìm được không biết bao nhiêu tài liệu liên hệ đến lịch sử Hoa-Việt giai đoạn 1010-1225 tức thời đại Tiêu-sơn.

Nhờ phương tiện truyền thông, tôi đã tìm lại được hầu hềt hậu duệ của các danh nhân Tống liên quan đến Đại-Việt; rồi xin được đọc gia phả của họ. Chắc các bạn hỏi, bằng cách nào tôi tìm được hậu duệ của các tướng Tống từng sang đánh Đại-Việt ? Tôi xin kể ra đây để tặng các bạn một nụ cười.

Tỷ như tôi tìm con cháu Quách Quỳ, nguyên soái đạo quân sang đánh Đại-Việt năm 1076-1077. Trước hết tôi tra trong Tống-sử, ông ta quê ở tỉnh nào, huyện nào. Cuối cùng tôi đăng trên vài tờ báo địa phương đó, ít giòng:

"Giáo-sư giám đốc Trung-quốc sự vụ viện Pháp-Á (Paris), muốn liên hệ với hậu duệ của An-Nam hành doanh kinh lược Chiêu-thảo sứ, kiêm Kinh Hồ, Quảng Nam tuyên huy sứ, Nguyên-soái Quách Quỳ, từng cầm quân đánh Đại-Việt vào thời cua Tống Thần-tông (1076-1077) ; để tìm hiểu huân nghiệp. Xin liên hệ với.... ".

Thế nhưng khi gặp nhau, họ không cho đọc gia phả, mà chỉ thuật cho nghe mà thôi. Tôi chọc giận họ :

"Tôi đọc trong sử Việt thấy nói ông tổ của các vị bị một nữ tướng Đại-Việt bắt sống, rồi phải quỳ gối lạy 100 lạy mới được phóng thích".

Thế là họ gân cổ lên cãi, cãi sùi bọt mép ra. Tôi vẫn không tin. Ức quá họ phài xì gia phả ra, rồi cho tôi đọc nhửng trang về Tổ tiên danh hùng của họ. Họ rất hãnh diện, đem từng giòng gia phả ra khoe, rồi còn mời tôi viếng thăm mộ tổ tiên họ để đọc mộ chí ghi huân nghiệp đương thời. Nhờ vậy, mà tôi tìm ra được rất nhiều chi tiết lịch sử.

3.2. Quách-thị Nam chinh, Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký.

Tại thư viện bộ Tư-lệnh hai Quân-khu tiếp giáp với Việt-Nam, cũng như tại bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng-Tây, Quảng-Đông, tôi đã tìm ra được bộ nhật ký hành quân của Quách Qùy mang tên Quách-thị Nam chinh, và của Triệu Tiết mang tên Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký, như đã thuật trong mục 5.1.4 bài tựa. Khi dẫn chứng, tôi viết tắt là QTNC và TTCTGCK.

3.3. Tống-triều công thần bi ký.

Bộ này do hai đại thần là Trần Hy-Cương, Tống Đạm soạn vào thời năm Mậu-Tuất (1718), Thanh Khang-Hy thứ 57. Nội dung sao chép tất cả văn bia, mộ chí các công thần nhà Tống. Thư viện Quảng-châu, Liễu-châu đều có bộ này.

3.4. Xã chí, thần tích.

Tại thư viện Quảng-châu, Nam-ninh, Liễu-châu, tôi tìm được một số sách do người địa phương, do các quan địa phương thời Tống viết. Những sách này đối với người Trung-hoa thì không có một chút giá trị nào, vì nội dung chép về phong tục, tôn giáo, di tích của các khê động giáp giới với Đại-Việt hồi đó. Nay các khê động đã biến thành làng xã, ranh giới không còn, di tích cũng mất. Nhưng đối với lịch sử Việt-Nam, với tôi, nó là cung cấp cho rất nhiều sự kiện về cuộc chiến tranh Tống Lý. Các bộ đó là:

– Ung-châu kỷ sự,
– Quảng-Tây địa dư ký,
– Quảng-Tây chư thần ký,
– Hy-Ninh hận sự bi ký,
– Thần tích Hỏa-giáp ngũ đại vương từ,
– Thái-bình phong vật chí,
– Hoành-sơn sơn xuyên phong vực,
– Ôn-nhuận sự tích,
– Quy-hóa địa dư chí,
– Vĩnh-bình sơn xuyên phong vực chí,
– Vĩnh-bình chư thần chí,
– Khâm-châu địa dư chí,
– Hổ-môn chư thần ký,
– Cổ-vạn sơn xuyên cương vực ký,
– Tây-bình chư thần chí,
– Tây-bình sơn xuyên cương vực chí,
– Lộc-châu sự tích,
– Lộc-châu cương vực chí,
– Thiên-long địa dư chí,
– Khâm-châu chư thần ký,
– Nghi-châu địa dư chí,
– Như-tích sơn xuyên phong vực chí,
– Để-trạo địa dư chí,
– Dung-châu sự tích,
– Đông-hải Hy-Ninh bản mạt,
– Bạch-hâu địa dư chí,
– Liêm-châu địa dư chí,
– Hổ-môn chư thần chí.

4. Cao-ly sử, gia phả Kiến-bình, Kiến-hải tại Hàn-quốc.

Do cuộc viếng thăm Việt-Nam Cộng-hòa ngày 6 tháng 11 năm 1958, Tổng-thống Lý Thừa-Vãn tuyên bố rằng tổ tiên ông là người Việt. Bấy giờ tuy mới 19 tuổi, tôi đã lưu tâm, rồi năm 1980, trong khi dự đại hội y khoa ở Hàng-châu, Trung-quốc, tôi được tiếp xúc với bác sĩ Lý Diệp Oanh, Lý Chiếu Minh, tôi đã tìm ra sự kiện Kiến-bình vương Lý Long Tường cùng tông tộc 6 nghìn người là thuyền nhân tới Hàn quốc năm 1226. Rồi năm 1983, tôi lại tìm ra một giòng họ Lý nữa là con cháu Kiến-hải vương Lý Dương-Côn, cũng là thuyền nhân tới Hàn quốc năm 1150.

Do vậy tôi được đọc gia phả của hai giòng họ Lý này. Gia phả cung cấp cho tôi rất nhiều sự kiện lịch sử về cuộc chiến tranh Tống-Lý. (xin đọc bài Nguyên-tổ hai giòng họ Lý tại Hàn-quốc, phụ lục quyển 3, bộ Anh-hùng Đông-A dựng cờ Bình-Mông).

5. Nguyên tắc xử dụng tài liệu.

Nam-quốc sơn-hà được viết dưới thể dạng bộ lịch sử tiểu thuyết tam hư thất thực nghĩa là ba phần hư, bẩy phần thực. Phàm đã là tiểu thuyết thì tha hồ phóng túng, tưởng tượng như Alexandre Dumas, Thi Nại-Am, La Quán-Trung, Kim-Dung. Thế nhưng lịch sử tiểu thuyết của tộc Việt lại không thể bịa đặt quá đáng, ma trâu, đầu rắn, phun kiếm, di sơn đảo hải. Tại sao? Bởi chỉ những sự kiện anh hùng trong lịch sử của chúng ta, cũng rất khó làm cho hậu thế tin được: Vua Trưng thắng Hán ba trận vĩ đại, vua Lê diệt Tống ở Chi-lăng, Bạch-đằng... quá dễ dàng. Nếu nay lại bịa đặt thêm nữa, thì hậu thế chẳng còn ai tin.

Với hoài bão, đem tài hèn, sức mọn, cùng tâm huyết ra thuật truyện tổ tiên anh hùng, giữ nước như thế nào; nên tôi tự đặt cho những nguyên tắc căn bản, để khỏi đi quá đà, trái với lịch sử. Tuy vậy độc giả sẽ hơi bỡ ngỡ, khi tôi trình bầy những bí ẩn lịch sử, mà những bậc tiền nhân đi trước, vì không chịu suy xét, cứ đọc sử Trung-quốc, rồi chép lại.

Với kho tàng tài liệu trên, tôi đã tự đặt cho mình những nguyên tắc sau:

4.1. Những gì sử Việt chép. Tuyệt đối gữa nguyên, không thay đổi về không gian, thời gian.

4.2. Những gì sử Trung-quốc như Tống-sử, Tư-trị thông giám cương mục, Tục Tư-trị thông giám trường biên, đã chép trái với sử Việt-Nam, được tước bỏ. Trái lại những gì sử Việt không ghi chép mà sử Trung-quốc chép có lý, được giữ nguyên.

4.3. Những gì trong sử Việt, Hoa không chép, mà các cuốn phổ, bia đá, gia phả , truyền sử nói sẽ được tôn trọng. Bởi truyền sử dân gian, tự nó đã thành triết học của người Việt.

4.4. Về niên biểu, ngày, tháng, chúng tôi tuân theo bộ sách chữ Hán Hoàng-Việt giáp tý niên biểu của cụ Nguyễn Bá-Trác, do Quốc-sử quán triều Nguyễn ấn hành. Khi mỗi sự kiện xẩy ra, tôi đều ghi năm theo Tây-lịch, đóng trong ngoặc đơn.

4.5. Những địa danh cổ, vẫn giữ nguyên.

4.6. Đầu đề mỗi hồi, chúng tôi đặt ra, hoặc dùng những câu thơ, văn đã có sẵn.

4.7. Khi có khúc mắc, chúng tôi chú giải khi thì cuối hồi, khi thì ngay dưới sự kiện.

4.8. Các nhân vật, hầu hết thuộc nhân vật thực sự. Thảng hoặc mới có nhân vật tiểu thuyết, để làm một vài nhiệm vụ đặc biệt cho thành cốt truyện.

4.9. Chúng tôi cố gắng làm nổi bật những vấn đề cổ như: Quan chế, Phong tục, luật pháp, tổ chức hành chánh, ăn uống, y phục đương thời. Nhất là bốn vấn đề: Thiền-học, y-học, võ-học và tình dục học (sexology). Tuy biết tình dục học có làm cho một số các vị cao niên không vui.


Nào bây giờ mời các bạn hãy mở những trang giấy rực hào quang của tổ tiên ta gần nghìn năm trước.

Thân mến chào các bạn.

Viết tại Pontault Combault, Pháp-quốc,
mùa hè, tháng sáu, năm Ất-hợi (1995).


Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ

<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.02.2005 03:22:14 bởi NuHiepDeThuong >
#1
    CDDLT 21.01.2005 18:07:02 (permalink)
    HỒI THỨ NHẤT

    Tiềm long hàn vi

    (Lấy ý trong Nhị-thập tứ hiếu:
    Ðức đại thánh họ Ngu tên Thuấn,
    Buổi tiềm long gặp vận hàn vi.

    Ý nói:

    vua Thuấn trong buổi vận số chưa tới, ví như con rồng còn chìm dưới nước, chưa vùng vẫy.

    Thuật giả mượn ý hai câu này để tả thời thơ ấu của Linh-Nhân hoàng thái hậu)




    Niên hiệu Long-thụy Thái-bình thứ sáu, đời vua Lý Thánh-tông, là năm Kỷ-Hợi (1059), bên Trung-nguyên nhằm niên hiệu Gia-hựu thứ tư, đời vua Tống Nhân-tông.

    Bấy giờ vào tiết tháng hai, hoa soan nở rực bầu trời. Mỗi trận gió thổi, là y như những cánh hoa tím nhạt bay lả tả trong không gian. Bên bờ những con sông nhỏ, hoa tầm xuân nở rực lên mầu hồng. Những áng cỏ non ven đường trổ mầu xanh non, mướt như tơ. Giữa cảnh hoa xuân rực rỡ ấy, một kỵ binh phi như bay trên con đường dài. Khi đến cổng làng Sủi, thì ngừng lại. Toán Hoàng-nam gác cổng đồng loạt đứng dậy hỏi:

    – Huynh ơi, có công văn gì đấy?

    Ghi chú:
    Thời Lý, con trai đến tuổi mười sáu, thì được làng làm lễ rất trọng thể, rồi ghi tên vào một cuốn sổ vàng. Kể từ ngày ấy được gọi là hoàng nam (con trai vua). Cũng kể từ đấy, hoàng nam được cấp ruộng công điền để cầy cấy, được tham dự những buổi họp của làng xã, cùng đóng góp vào công việc ích lợi chung trong làng, ngoài nước. Hoàng-nam được coi như một tài nguyên quốc gia. Sang triều Lê, Nguyễn được đổi thành xuất đinh.

    Viên kị binh vẻ mặt nghiêm trọng nói với người trưởng toán canh cổng làng:

    – Anh Tề à. Có lệnh khẩn, tôi cần trao tận tay cho ông Lý, anh đưa tôi vào ngay đi.

    Người trưởng toán Hoàng-nam, tên Tề cầm cái dùi đánh vào chiếc mõ hình con cá một hồi lẻ ba tiếng, rồi đứng lên, nói với viên kị binh chạy trạm:

    – Mời huynh đến nhà cụ Lý với tôi.

    Hai người sóng vai vào làng. Trong khi một hoàng-nam khác cầm lấy cương ngựa của viên kỵ binh, cột vào gốc cây bên cạnh. Cụ Lý-trưởng đã khăn áo chỉnh tề đứng đón ở trước cổng nhà. Viên kị binh cúi đầu chào:

    – Kính cụ Lý. Có thư của quan huyện Gia-lâm đạt đến cụ.

    Ông Lý tiếp thư, miệng cười:

    – Mời anh vào uống chén trà đã.

    Viên kị binh lắc đầu:

    – Cháu cảm ơn cụ nhiều, để khi khác. Cháu còn phải chạy trạm nữa.

    Ghi chú:
    Thời Lý, Trần, những kị binh chạy trạm, đem lệnh từ phủ huyện hay triều đình đi các nơi, được dân chúng, hương đảng quý mến, chiều đãi vì họ là những người có đức hạnh tốt, lại phải học lễ nghĩa rồi mới được giao việc. Từ đời Lê về sau, thì triều đình, hay nghe lời lính trạm bắt tội hương đảng, nên bọn lính trạm thường hống hách vô cùng. Hơi tý là hoạnh họe, đòi tiền, đòi ăn uống.

    Viên kỵ binh lễ phép chào rồi ra đi. Cụ Lý cầm bao thư lên xem, ngoài đóng dấu con chim ưng bay trên trời, chân cặp hai thanh gươm. Kinh nghiệm giúp cụ biết đây là công văn của Khu-mật viện. Cụ vội mở ra đọc. Bức công văn khá dài, đến bốn tờ giấy. Ðọc xong, cụ bảo Tề:

    – Cháu đánh trống mời quan viên ra đình làng họp khẩn cấp.

    Tề trở về điếm cánh, cầm dùi đánh trống. Mới sau một khắc, mà dường như tất cả chức sắc trong làng đã lục tục kéo đến đình. Như thường lệ, quan viên làng ngồi làm bốn chiếu trên bốn bệ. Bệ cao nhất dành cho các vị quan lớn về hưu, bệ này cao đến hơn ba thước (75cm). Bệ thứ nhì cao hai thước, dành cho các vị đỗ đạt. Bệ thứ ba cao hơn thước dành cho ông tiên chỉ, lý trưởng, phó lý, trương tuần. Các chiếu còn lại dành cho trưởng xóm, cùng các viên chức khác.

    Ghi chú:
    Hồi này thuật thời thơ ấu của Linh-Nhân hoàng thái hậu, thường gọi tắt là Ỷ-Lan thái hậu (1059). Mọi sự kiện tôi căn cứ vào cuốn phổ mà tiền nhân tôi để lại. Phần cuối cuốn phổ có chép hương ước của làng Siêu-loại, tức làng Sủi là quê hương ngài. Hương ước này làm vào niên hiệu Thiên-phù Duệ-vũ nguyên niên đời vua Lý Nhân-Tông, tức năm Canh-Tý 1120. Như vậy hương ước làm sau khi Ỷ-Lan thái hậu băng ba năm, tôi chắc những thủ tục điều hành trong làng chưa thay đổi làm bao so với hồi ngài còn niên thiếu, bởi chỉ cách nhau 61 năm. Làng Siêu-loại nay thuộc xã Phú-thị, huyện Gia-lâm, Hà-nội.

    Lý trưởng đứng lên cung tay:

    – Trình trên có các quan lớn, các chức sắc. Quan huyện Gia-lâm mới đạt thư khẩn cấp đến cho làng ta.

    Cụ Tiên-chỉ hỏi:

    – Có chuyện gì rồi ư?

    – Vâng, quả thế. Quân Tống lại xâm lăng vào Bắc-biên. Vua bà Bình-Dương cùng phò mã Thân Thiệu-Thái cấp báo về triều đình. Long-Thụy hoàng đế họp đình thần. Quan Tư-không Lý Ðạo-Thành, quan Tể-tướng Dương Ðạo-Gia, quan Văn-minh điện đại học sĩ Bùi Hựu bàn nên sai sứ sang cáo với Tống triều. Quan Thái-sư Dương Bình, Thái-úy Quách Kim-Nhật, cùng với quan Tả kiêu-vệ đại-tướng quân Lý Thường-Kiệt bác ý kiến, đòi áp dụng chính sách Bắc-cương của Khai-Quốc vương.

    Trưởng giáp Nhất hỏi:

    – Cụ Lý à, cháu còn trẻ, không biết rõ chính sách Bắc-cương ra sao, xin cụ chỉ dạy cho.

    Cụ Lý được dịp bầy tỏ sở kiến của mình:

    Nguyên vào niên hiệu Thuận-thiên thứ mười bẩy (1026), quan Thái-sư phụ quốc thái úy là Khai-Quốc vương cùng triều đình Bắc-biên họp mấy ngày, rồi đưa ra đường lối đối phó với bọn biên thần Tống hiếu sự. Chính sách gồm bẩy điều. Nhưng điều quan trọng nhất là: đối với triều đình thì hậu lễ, lời khiêm. Ðối với bọn biên thần thì thẳng tay dùng sức mạnh.

    Ghi chú:
    Xin đọc Anh-hùng Bắc-cương, cùng tác giả, 4 quyển.

    Ông Phó lý hỏi:

    – Vụ Tống dở quẻ ra làm sao xin cụ nói cho rõ để cả làng được hiểu.

    Lý trưởng bỡ ngỡ một chút rồi hướng vào một người già, tóc bạc phơ, nhưng không râu, ngồi ở chỗ cao nhất:

    – Vụ này Quân-hầu biết nhiều, xin Quân-hầu giảng cho .

    Lão già gật đầu nói:

    – Ðược, được chứ.

    Một thanh niên hỏi bạn:

    – Ông này có phải là Trung-nghĩa hầu không? Lý lịch ông ra sao?

    - À, ông có tên là Trịnh Quang-Thạch, vốn là gia tướng của quan Kiểm-hiệu Thái-phó, Tả-bộc-xạ, Ðồng-trung-thư môn hạ bình chương sự, Chiêu-văn-quan đại học sĩ, giám tu quốc sử Dương Ðức-Thành, tức Tể-tướng thời vua Thái-tông. Hồi trẻ ông hầu tiểu thư con quan Dương tể tướng. Sau tiểu thư tiến cung được phong Thiên-Cảm hoàng hậu, ông tự thiến làm thái giám hầu Hoàng-hậu. Vì ông có võ công cao, cùng văn tài, nên dần dần được thăng lên đến chức Nhập-nội đô-tri. Ông cũng có thời cầm quân. Lúc về hưu, ông được thăng hàm Trung-nghĩa đại tướng quân, tước Siêu-loại hầu. Vùng mình ở đây là ấp phong của ông. Khi mới được phong, ông đem tông tộc, rồi mượn thêm một số nhân sĩ, mở ra trường Trung-nghĩa để dạy văn, luyện võ cho thiếu niên. Hiện có rất nhiều võ tướng, văn quan xuất thân từ trường ông, nên ông có uy tín với triều đình.

    – Hèn gì ai cũng cung cung kính kính với ông.

    Siêu-loại hầu nói:

    – Từ xưa đến giờ biên giới Tống-Việt thường ngăn cách bằng 207 trang ấp. Các trang ấp này là lạc ấp còn sót lại từ thời vua Hùng. Mỗi trang là một giòng họ, người cai trị là một lạc hầu. Người Hán gọi là khê động. Các khê động thường bị biên thần Tống lấn áp, đe dọa, vì vậy khi thì họ theo Tống, khi thì họ theo Việt. Vào thời vua Thái-tông, Khai-Quốc vương giúp cho tộc Nùng nổi lên, đánh chiếm Lưỡng-quảng. Nùng Trí-Cao được tôn làm Nhân-Huệ hoàng đế (1052), quốc hiệu là Ðại-Nam. Nước Ðại-Nam bao gồm lãnh thổ 107 khê động với Lưỡng-Quảng. Ðại-Nam, Ðại-việt, Ðại-lý, Lão-quan, Xiêm-la, Chân-lạp, Chiêm-thành kết thành tộc Việt, để chống lại Tống, nếu Tống xâm lăng.

    Ông ngừng lại, đưa mắt nhìn cử tọa rồi tiếp:

    – Nhưng khi Trí-Cao đắc thế rồi thì y lại muốn dùng 9 tộc Nùng cai trị các tộc Mán, Thái, Trang, Mèo, Lô-lô, Tày. Các lạc hầu của 198 tộc khác chống lại. Trí-Cao thẳng tay đàn áp. Y còn bắt các tộc khác bỏ phong tục, tiếng nói của mình, mà học tiếng Hán, chữ Hán. Thế là Ðại-Nam bị rạn nứt. Thấy việc nguy hại, vua bà Bình-Dương phải can thiệp. Nhưng Trí-Cao cho rằng nước mình còn lớn hơn Ðại-Việt, dân đông hơn tất cả các nước thuộc tộc Việt, nên y không nghe. Sau cùng chính vua Thái-tông sai sứ sang khuyên răn, y cũng không nghe. Vì vậy, 198 tộc khác bỏ Ðại-Nam, xin trở về với Ðại-Việt, rút lại lãnh thổ của y chỉ có 9 khê động Nùng với phần đất Lưỡng-Quảng. Tống dò được tin đó, sai Ðịch Thanh mang đại quân sang đánh. Người Hán tại Lưỡng-Quảng nổi lên theo Tống. Lúc đầu Trí-Cao thắng được mấy trận. Sau bị bại, mất hết vùng Quảng-châu, Khâm-châu, Liêm-châu. Y vội rút về Quảng-Tây. Biết thế nguy, y cầu cứu với vua Thái-tông.

    Ông ngừng lại, nhấm một chung trà. Ðám thanh niên trẻ nhao nhao lên hỏi:

    – Thưa cụ thế Ðại-Việt có cứu Trí-Cao không?

    Siêu-loại hầu hỏi ngược lại:

    – Theo chư vị, Ðại-Việt có nên cứu hay không?

    Lập tức cả đình ồn lên bàn tán, kẻ thì bảo nên cứu, người thì bảo không nên. Siêu-loại hầu hỏi một trung niên nam tử:

    – Thầy đồ Thái, thầy là người có kiến thức, thầy cho biết ý kiến?

    Làng Thổ-lội có hai thầy đồ dạy chữ. Thầy thứ nhất ăn lương của trường Trung-nghĩa, họ Trần, tên là Trọng-San. Thầy đồ thứ nhì ăn lương vua, họ Quách tên Sĩ-An, nhưng vì cụ Tiên-chỉ trong làng cũng tên là Sĩ-An, nên thầy xin đổi là Thái, để kiêng húy vị ngồi đầu hương đảng. Nghe Siêu-loại hầu hỏi, thầy đứng dậy cung tay:

    – Thưa cụ, nếu cháu là vua Thái-Tông thì cháu cứu y.

    Lập tức có nhiều tiếng ồn ào:

    – Không cứu tên phản bội. Không, không cứu.

    Thầy đồ Thái nói:

    – Thưa cụ, theo như cháu nghĩ, người xua quân đánh chiếm Lưỡng-Quảng là Khai-Quốc vương chứ không phải vua Thái-Tông. Chính Vương đã ứng mệnh trời, hợp lòng người, cùng võ lâm suất lĩnh tộc Việt tiến đánh chiếm lại đất cũ thời vua Hùng. Vương giao cho tiên-cô Bảo-Hòa tổng chỉ huy. Còn sắc dân Nùng với Trí-Cao chỉ có một đạo quân nhỏ. Ngôi vua với nước Ðại-Nam như từ trên trời rơi xuống cho Trí-Cao với 9 khê động Nùng. Nên sau khi lên ngôi vua, Trí-Cao bắt buộc phải dùng người Hán, dùng văn tự Hán. Dĩ nhiên người Hán khuyên y nên tách khỏi tộc Việt thành một nước riêng. Cái ngu của Trí-Cao là phía Bắc Ðại-Nam tiếp giáp với vùng Kinh-hồ của Tống. Vùng này vua Tống phong cho phò mã Tự-Mai làm Kinh-Nam vương. Ðáng lẽ Trí-Cao phải biết rằng Kinh-Nam vương là người dùng binh giỏi nhất Hoa-Việt, y cứ dựa vào Vương để Vương làm bức tường trấn Tống cho, thì Ðại-Nam vững như bàn thạch. Ðây y lại vô lễ với Vương. Y viết thư cho Vương mà dám xưng trẫm, coi như mình là Hoàng-đế, còn Vương chỉ là một quận vương mà thôi. Nên Vương mới để cho Ðịch Thanh đem quân vượt Kinh-Nam đánh y. Bây giờ, quân Tống đến đánh, tất nhiên người Hán phản y về với Tống, y lâm đường cùng. Nếu ta cứu y, thì sau này vĩnh viễn y phải quy phục Ðại-Việt.

    Mọi người vỗ tay hoan hô.

    Siêu-loại hầu nói:

    – Khi Ðịch Thanh tới đánh Trí-Cao thì Khai-Quốc vương đang vân du tại Chân-lạp. Vua Thái-Tông không chịu cứu y. Khai-Quốc vương được tin, trở về, xin vua xuất binh cứu Trí-Cao. Vua bằng lòng, nên Vương sai Trấn-Bắc đại tướng quân Vũ Nhĩ đem đạo quân biên phòng vượt biên đánh phía sau Ðịch Thanh. Nhưng khi quân ta vừa vào đất Tống thì toàn thể nước Ðại-Nam đã bị Ðịch Thanh chiếm. Vì vậy Vũ Nhĩ phải rút quân về (1053).

    Hầu thở dài:

    – Chuyện đó vừa dứt thì vua Thái-Tông băng hà. Thấm thoát nay đã bẩy năm (1059). Sau khi Ðịch Thanh diệt Trí-Cao, y tổ chức lại vùng Lưỡng-Quảng. Triều đình Tống biết dùng những tướng bại trận để trấn Nam-thùy, vì họ có kinh nghiệm. Nhưng chính bọn này lại hay gây rối.

    Phó lý hỏi:

    – Bẩm quân hầu, đó là những tên nào vậy?

    Một trong những viên quan có tài là Tiêu Chú. Y xuất thân tiến sĩ, nhưng giỏi việc binh. Hồi Trí-Cao đánh, y làm chức Tri huyện ở Quảng-châu. Y khôn khéo rút quân về vùng Chương-giang, đợi Ðich Thanh tới đánh, y mới phản công. Chính y bắt sống được mẹ và con Trí-Cao. Sau khi Trí-Cao bị dẹp, Tống phong cho y coi Ung-châu, cuống họng của Tống thông với ta. Y có ý định đánh lấy Ðại-Việt. Y cho tuyển quân, huấn luyện, gửi tế tác sang ta. Y đã nhiều lần dâng biểu về triều để xin trình bầy phương lược đánh Ðại-Việt. Nhưng quan trên của y là Lý Sư-Trung, Tiêu Cố luôn bác ý kiến của y. Vả trong triều, vua Tống là anh em kết nghĩa của Kinh-Nam vương Tự-Mai, ngài chủ trương giữ vững mặt Nam, để chống mặt Bắc, nên Chú không làm được gì. Nhờ Kinh-Nam vương Tự-Mai cho biết rõ ý vua Tống cùng bọn quan coi Quảng-Tây không muốn gây hấn ở Nam-phương, vì vậy vua Thái-tông mới cương quyết: hơi đụng chạm là phản ứng thực mạnh. Nên nay mới có việc đem Thiên-tử binh lên để làm cho Tống kinh hãi .

    Ghi chú:
    Sự kiện này chép trong Tống-sử, quyển 332, trang 10.676, Lý Sư-Trung truyện. Trang 10.690 Lục Sằn truyện. Quyển 334, trang 10.727 Thẩm Khởi truyện. Trang 10.732 Tiêu Chú chuyện.
    Phó lý hỏi:

    – Vậy bây giờ Tống dở quẻ, không rõ Long-Thụy hoàng-đế quyết định sao?

    Lý trưởng đáp:

    – Ngài đồng ý giải quyết theo chính sách Bắc-cương thời Thuận-thiên. Ngài truyền cho Tả kiêu-vệ đại tướng quân, Thái-hà hầu Lý Thường-Kiệt mang mười đạo Thiên-tử binh lên Bắc-cương đặt dưới quyền vua bà Bình-Dương, để đối phó với giặc. Vì vậy quan huyện Gia-lâm truyền cho làng ta phải cấp một trăm dân đinh chuyên chở lương thảo trong vòng một tháng.

    Ghi chú:
    ÐVSKTT, Lý Kỷ: Năm Kỷ-Hợi, niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh nguyên niên, (Tống niên hiệu Gia-hựu năm thứ tư) mùa xuân, tháng ba, đánh Khâm-châu nhà Tống, dương oai rồi rút về, vì (vua) ghét Tống phản phúc.

    Các quan viên xã đồng ồn lên những tiếng bàn tán xôn xao. Cụ Tiên-chỉ hỏi Trương-tuần:

    – Anh Huy, anh có thể cấp được trăm Hoàng-nam ngay ngày mai không? Làng ta có đủ lương thực cho trăm Hoàng-nam ăn một tháng không?

    Trương tuần Huy gãi đầu:

    – Bẩm cụ được chứ. Tính tuổi từ mười ba đến ba mươi, xã mình có hơn hai trăm xuất đinh. Hiện nay ruộng mới cấy, công việc đồng áng tạm ổn. Tuy nhiên xã mình đang có vụ khơi sâu lòng con lạch dẫn nước. Nếu nay lấy đi trăm hoàng nam, thì phải tạm ngưng vét lạch. Còn lương thảo thì làng mình dư giả.

    Siêu-loại hầu dơ tay lên, ý muốn nói, lập tức trong đình im phăng phắc. Tiếng cụ oang oang:

    – Nước Ðại-Việt ta có truyền thống nam hùng, nữ kiệt. Nay nhân lúc không bận việc nông tang, khi nam phải ra trận, thì nữ thay thế vét lạch. Ta tuy tuổi trên bẩy mươi, nhưng sức còn tráng kiện, ta cũng ra vét lạch với bọn cháu chắt. Bà nhà ta thì thổi xôi, nướng gà cho chúng ăn.

    Lập tức các cụ già chiếu nhất cũng hưởng ứng:

    – Quân hầu đã dạy thế thì chúng tôi cũng xin theo gương quân hầu.

    Cụ Lý lắc đầu:

    – Bẩm các quan dạy thế, chứ bọn con đâu dám.

    Một cụ già cười:

    – Bọn già này chưa chết mà, chúng tôi tuy chân tay run, không vét kinh được, thì cũng chống gậy ra kể chuyện đời xưa cho bọn cháu gái nghe, hầu cổ động lòng hăng say của chúng.

    Buổi họp định rõ những Hoàng-nam nào được cử đi vận lương; những phụ nữ nào phải đi vét lạch. Tuy buổi họp diễn ra êm đẹp, vì người người đều một lòng với đất nước, một lòng với làng xã. Nhưng khi chấm dứt, thì gà đã lên chuồng khá lâu, bóng đêm phủ xuống trong làng. Mọi người thư thả ra về, trong làng rộn lên niềm vui, vì tin tưởng rằng ta sẽ thắng giặc Tầu.

    Trương tuần Huy nói với thầy đồ Thái, trưởng giáp Nhì trong làng:

    – Này thầy đồ Thái, giáp thầy có bao nhiêu Hoàng-nam đi biên?

    – Gần như hết. Còn thanh nữ thì mất bốn đứa phải đi vét lạch, bây giờ tôi đi báo cho cha mẹ chúng biết.

    Thầy đồ Thái đến xóm Nhì, tới trước cổng một căn nhà thanh lịch, thầy giật chuông. Một thiếu nữ cầm đèn chạy ra, thấy ông, cô vội cung tay:

    – Lạy thầy ạ. Mời thầy vào chơi.

    – Minh-Ðệ đấy à. Bố, mẹ có nhà không?

    – Thưa thầy bố mẹ con sắp về đấy ạ, rước thầy an tọa ạ.

    Thầy đồ Thái hỏi:

    – Minh-Ðệ à, con đã hiền hậu, lại học giỏi, sao không thi vào trường Trung-nghĩa mà học? Bỏ học uổng quá.

    – Thưa thầy tại vì nhà con thiếu người làm, nên mẹ con bảo con ở nhà làm việc đấy ạ.

    – Kể cũng lạ, với hoàn cảnh nhà con, thì mượn đến mười người ở cũng cứ được đi. Con vừa thông minh, cần cù, lại có đức tốt, mà bỏ học thực đáng tiếc. Trong khi Minh-Can vừa hung dữ, vừa đành hanh đỏ mỏ, thì lại cho đi học. Khó hiểu quá.

    Minh-Ðệ rơm rớm nước mắt:

    – Thưa thầy tuy không được đến trường nữa, nhưng con vẫn đọc sách để hiểu biết thêm. Con lại mượn sách của Trinh-Dung về đọc cho khỏi quên.

    – Ừ, như vậy cũng được. Con đã được học Tứ-thư, Ngũ-kinh, Bắc-sử, Nam-sử, lại biết làm thơ, làm phú. Như vậy tạm đủ. Nhà Trinh-Dung có nhiều sách quý, con mượn về đọc để mở mang kiến thức. Cổ nhân dạy rằng: học thầy không tầy học bạn. Thế con đã đọc thêm được những bộ nào?

    – Thưa thầy con đọc thêm được bộ Chiến-quốc sách, Lục-thao, Tam-lược, Tôn-Ngô binh pháp, Ðạo-đức kinh, Nam-hoa kinh, Hàn-Phi tử.

    – Chà, con đọc rộng đấy. Sách của Ðạo gia chỉ đọc để biết mà thôi, chứ không ích lợi gì. Con nên tìm đọc về sử. Với sử, mỗi kỷ, mỗi thế gia, mỗi truyện là một tấm gương sáng cho mình. Trong tất cả học trò của làng, thầy thấy con có ngộ tính cao nhất, tiếc rằng con không được theo học thêm. Thôi, vua Trưng, cùng chư tướng như Trưng Nhị, Thánh-Thiên, Trần Quốc đâu có ai được học nhiều.

    – Ða tạ thầy.

    Ðến đó có tiếng xe ngựa long cong, rồi ba người xuống xe. Minh-Ðệ đon đả chạy ra cầm lấy giây cương ngựa:

    – Bố ơi, mẹ ơi, có thầy đến chơi.

    Một trung niên nam tử dáng người thanh nhã, cung tay:

    – Kính thầy. Thầy đi họp việc làng có tin gì lạ không? Ðệ, con pha trà mời thầy.

    Chủ khách yên vị, thầy đồ nói:

    – Anh Thiết này. Nước nhà có sự, dùng binh ở Bắc-biên. Làng ta phải cấp trăm hoàng nam chuyển lương. Các cụ trong làng quyết định bắt đám thanh nữ vét lạch thay cho đám hoàng nam. Trong nhà ông thì Minh-Ðệ, Minh-Can phải góp mỗi cháu mười công.

    Một người đàn bà tầm thước bước xuống xe cùng một cô gái ngang tuổi với Minh-Ðệ, nhưng quần áo lụa sang trọng vô vùng. Thầy đồ Thái đứng dậy:

    – Chào chị Thiết.

    – Chào thầy.

    Ðến đó Minh-Ðệ bưng nước ra, khép nép cúi đầu:

    – Mời thầy xơi nước ạ, mời bố mẹ xơi nước ạ.

    Người đàn bà cau mày nhìn Minh-Ðệ như nhìn con quái vật:

    – Mày có câm cái mõm mày đi, rồi cút vào nhà không? Ra đây làm gì? Minh-Can đâu?

    Minh-Ðệ cúi đầu vào nhà, thiếu nữ quần áo sang trọng cung tay:

    – Thưa thầy ạ.

    – Không dám, Minh-Can hồi này ra sao?

    – Thưa thầy con theo học trường Trung-nghĩa, văn, võ đều tiến lắm ạ.

    Bà Thiết hỏi:

    – Này thầy, nhà tôi phải góp hai đứa, mỗi đứa mười công. Như vậy tôi xin để con Minh-Ðệ làm cả hai mươi công có được không? Trời tháng hai mưa phùn, gió bấc lạnh thế này, mà bắt con Minh-Can đi đắp đất bùn ở lạch thì chết chứ sống sao được.

    Thầy đồ Thái ngạc nhiên:

    – Trong hai đứa, tôi thấy Minh-Can khỏe hơn Minh-Ðệ nhiều. Nếu phải thay thế thì Minh-Can phải thay Minh-Ðệ mới phải chứ?

    – Thầy ơi, con Minh-Can là vàng là ngọc của nhà tôi, mới cần giữ sức, chứ con Minh-Ðệ, nó có chết cũng không sao.

    Thầy đồ tỏ ý bất mãn:

    – Tôi chỉ biết truyền lệnh của làng, còn cử ai đi là việc của gia chủ.

    Nói rồi thầy từ tạ bước ra khỏi nhà. Bà Thiết để chồng tiễn thầy đồ. Bà gọi hai con gái lại:

    – Sáng nay con Minh-Ðệ đã dã bèo cho lợn ăn chưa?

    – Thưa mẹ rồi ạ.

    – Mày đã giặt quần áo chưa?

    – Thưa mẹ xong rồi ạ.

    Minh-Can xen vào:

    – Nó chỉ giặt quần áo của bố mẹ, của nó thôi. Còn quần áo của con, nó bỏ lại. Con bảo nó giặt, nó lủng bủng, rồi lờ luôn.

    Bốp, bốp. Bà Thiết tát Minh-Ðệ hai cái. Gò má nàng nổi lên những nốt ngón tay đỏ hỏn:

    – Này bướng này! Này hỗn này. Từ nay mày mà không giặt quần áo cho nó, thì tao dần vào xác mày.

    Minh-Ðệ xoa tay vào má:

    – Thưa mẹ, con cho lợn ăn, rồi giặt quần áo. Giặt chưa xong, con phải ngừng lại thổi cơm. Con đợi ăn xong, sẽ giặt tiếp chứ có phải con không giặt đâu? Nó là em, cũng khoẻ mạnh như con, sao nó không giặt, mà bắt con giặt?

    Bốp, bốp. Bà Thiết tát cho Minh-Ðệ hai cái nữa, nàng ngã chúi xuống nền nhà:

    – Mày còn so bì hả? Bà đánh cho mày chết thì thôi. Cái ngữ như mày mà cũng so đo với nó được sao.

    Bà tru tréo lên:

    – Hừ, mày là cái thứ bèo bọt, cái thứ tôm tép; còn nó là tiên nga, là công chúa. Mày không biết thân, dám so đo. Hứ ! Bà nói cho mày biết, mai mày phải dậy sớm dã bèo, nấu cám lợn, giặt quần áo, sao cho tờ mờ sáng phải xong, rồi mang móng ra đình làng để theo người ta đi vét lạch. Nhớ đấy, mày phải làm thay cho con Minh-Can nữa. Ði!

    Minh-Ðệ lau nước mắt, ra bờ sông giặt quần áo.

    Minh-Ðệ là con đầu lòng của một gia đình khá giả trong làng Sủi. Phụ thân nàng, ông Thiết là người theo đòi nghiên bút. Dáng người mảnh khảnh, tính tình ôn nhu văn nhã, lại có học, đúng ra năm mười tám hai mươi, bố mẹ đã hỏi vợ cho ông. Nhưng vì theo đuổi việc học, lại lận đận nơi quan trường, nên mãi năm 24 tuổi, ông mới kết hôn với một thiếu nữ môn đăng hộ đối, 16 tuổi tên Vũ-thị Tỉnh. Nhưng sau ba năm, bà Tỉnh không có con. Song thân lại hỏi cho ông người con gái kẻ chợ tên Minh-Giang. Sáu tháng sau Minh-Giang mang thai, đẻ ra Minh-Ðệ. Còn bà Vũ-thị Tỉnh thì bỏ nhà ra đi. Minh-Giang không phải là một thiếu nữ xinh đẹp, dáng người nàng cao lớn, trông hơi thô, giọng nói đục đục, pha với cái oang oang, thành ra hơi giống tiếng người quát tháo. Minh-Giang cũng được theo học chút ít chữ nghĩa.

    Không hiểu sao, ngay từ khi sinh ra, dù là con đầu lòng, Minh-Ðệ không đã bị bà mẹ ghét cay ghét đắng. Minh-Ðệ được trao cho người vú nuôi, ăn ngủ cùng vú, thảng hoặc ông Thiết có bế bồng thì bà vợ cau có nhìn ông như không hài lòng. Mỗi lần Minh-Ðệ khóc, là lập tức bị mẹ tát cho hai cái liền. Vì vậy suốt cuộc đời thơi ấu, mỗi lần thấy mẹ,là y như Minh-Ðệ tìm chỗ trốn, như phải thấy một cái gì kinh hãi trên thế gian. Minh-Ðệ sống cô độc với vú, sống với người ở, nàng không được hưởng một chút gì về tình mẫu tử. Vì mẹ coi con như một thú vật bất đắc dĩ phải nuôi trong nhà, nên từ vú, đến người ở đều nuôi Minh-Ðệ như nuôi lợn, không mấy thiết tha chăm sóc. Minh-Ðệ thơ thẩn chơi một mình, đứa trẻ luôn kinh sợ, không biết khi làm cái này, có bị đánh không? Nói điều kia có bị chửi không ?

    Hai năm sau nữa, Minh-Giang lại sinh ra một gái, đặt tên là Minh-Can, với ngụ ý đứa con này là gan là ruột của mình. Lạ thay, vừa sinh ra, Minh-Can đã được mẹ yêu thương cực kỳ. Bà không mượn vú, mà đích thân mình nuôi. Mọi săn sóc như tắm rửa, thay quần áo, nhất nhất bà đều tự tay làm. Sau Minh-Can đến hai con trai tên Mãnh, Tráng, một con gái tên Minh-Nhàn, cuối cùng là đứa con trai tên Lợi. Tuy có sáu mặt con, nhưng bà cũng rửng rưng không mấy quan tâm đến chúng. Bà chỉ không quan tâm, chứ không đến nỗi ghét như đối với Minh-Ðệ.

    Triều Lý tôn sùng đạo Phật, nên không có việc trọng nam khinh nữ, lại nữa hào quang của vua Trưng cùng 162 tướng còn sáng rực. Mới đây thời Thuận-thiên (1010-1028) những danh tướng như vua bà Bình-Dương đương kim trị vì Bắc-biên kiêm chưởng môn phái Mê-linh; trưởng đại công chúa Bảo-Hòa, chưởng môn phái Tản-viên, sư phụ của đương kim thiên tử; Vương-phi Khai-Quốc vương Thanh-Mai; các công chúa Kim-Thành, Trường-Ninh, Côi-Sơn... với những trận đánh sang Tống kinh thiên động địa. Cho nên trong hương đảng, ngoài lăng miếu phụ nữ được tôn trọng, con gái được hoc văn, luyện võ như con trai.

    Làng Sủi có ba trường học lớn. Một trường của thầy đồ Thái, ăn lương vua, dạy khai tâm cho trẻ con. Khi học trò trường làng có trình độ khá, mới nhập học trường của Trung-nghĩa đại tướng quân Siêu-loại hầu. Trường này thường được gọi là trường Trung-nghĩa hầu. Trường dạy cả văn lẫn võ. Trường thứ ba cũng dạy văn, luyện võ, nhưng hơi xa, điều kiện thu nhận khó khăn hơn, đó là chùa Dâu. Sư trưởng của chùa, thuộc phái Tiêu-sơn, phái võ xuất thân của vua Thái-tổ nhà Lý, đương kim chưởng môn hiện là Quốc-sư. Nên những học sinh được thu nhận đều trở thành đệ tử Tiêu-sơn, điều mà tất cả phụ huynh đều mơ ước con mình được thu nạp.

    Chị em Minh-Ðệ, Minh-Can đều theo học với thầy đồ Thái. Bà Thiết chỉ theo dõi đường học vấn của Minh-Can. Còn Minh-Ðệ học ra sao, ăn ra sao, bệnh thế nào bà không biết tới. Bà xử dụng nàng như con ở, thứ con ở bị khinh miệt bị hắt hủi, để hầu Minh-Can. Hơi một tý là bà đánh, bà chửi. Minh-Can lại đành hanh, đụng chút là khóc bù lu bù loa, bịa chuyện mách mẹ, để Minh-Ðệ phải đòn. Bà ra lệnh: khi bà đánh, mắng thì Minh-Ðệ tuyệt đối phải cúi đầu chịu đựng, không được khóc, không được cãi, cũng không được nói

    Chị em Minh-Ðệ, Minh-Can đều theo học với thầy đồ Thái. Bà Thiết chỉ theo dõi đường học vấn của Minh-Can. Còn Minh-Ðệ học ra sao, ăn ra sao, bệnh thế nào bà không biết tới. Bà xử dụng nàng như con ở, thứ con ở bị khinh miệt bị hắt hủi, để hầu Minh-Can. Hơi một tý là bà đánh, bà chửi. Minh-Can lại đành hanh, đụng chút là khóc bù lu bù loa, bịa chuyện mách mẹ, để Minh-Ðệ phải đòn. Bà ra lệnh: khi bà đánh, mắng thì Minh-Ðệ tuyệt đối phải cúi đầu chịu đựng, không được khóc, không được cãi, cũng không được nói năng gì. Năm mười tuổi bà cho Minh-Can thi vào trường của Trung-nghĩa hầu. Minh-Ðệ cũng xin cha mẹ cho thi. Lập tức bà Thiết mắng:

    – Cái ngữ như mày, ăn không nên đọi, nói không lên lời, học hành được dăm ba chữ mèo cào, mà cũng xin thi vào trường quan ư? Ăn mày đòi xôi vò, sao mày không lên núi Tản xin tiên cô Bảo-Hòa thu làm đệ tử, rồi sau gả mày cho Thái-tử một thể. Hừ ! Người chẳng đáng giá hòn chì. Ba hồn bẩy vía đòi đi võng đào.

    Bà nói nói bâng quơ một mình:

    – Voi đú, chó đú, chuột chù cũng nhảy.

    Minh-Can đậu vào trường Trung-nghĩa hầu, học văn, luyện võ, nghiễm nhiên trở thành thiếu nữ được khắp huyện kính trọng, với những hy vọng vào tương lai. Tuy mới mười tuổi, nhưng đã có nhiều gia đình danh giá đánh tiếng kết thân.

    Còn Minh-Ðệ thì được cho nghỉ học, ở nhà giúp việc, phụ với người ở. Nàng trở thành người ở bậc nhì, loại người ở không công để hầu hạ Minh-Can cùng các em. Không được học, nhưng Minh-Ðệ vẫn âm thầm đọc sách. Ngoài những sách của bố có sẵn, Minh-Ðệ còn mượn thêm sách của nhà Trinh-Dung để đọc thêm. Hóa cho nên cái cô đơn, phẫn hận, khiến Minh-Ðệ âm thầm đọc sách, kiến thức trở thành rất rộng, mà trong nhà không ai hay.

    Mấy năm sau, một biến chuyển lớn đã làm thay đổi cuộc sống trong nhà ông Thiết.

    Nhân bà chị ông Thiết mở một khách điếm và một tửu lầu lớn ở huyện, ông được chị cử làm quản lý, bà được cử trông coi trang trí tiếp khách. Từ nhà lên huyện khoảng một giờ đi bộ, nhưng hai ông bà đi về bằng xe ngựa. Công việc làm đòi hỏi ông bà phải có mặt từ sáng tinh mơ cho đến tối, đôi khi khuya ông bà mới trở về nhà.

    Vì phải đi làm xa, nên ông bà cho vú già nghỉ, rồi mượn một người làm để trông coi con cái, cùng cơm nước. Nhưng một người làm, thì không xuể đối với cả gia đình tám người, lại thêm một đàn gia súc, nào là cặp chó, một đực tên Ðức-Tâm, một cái tên Tâm-Ðức. Tiếp theo là cặp mèo, mười con ngỗng, hơn hai chục con gà, bốn con lợn. Nên bà Thiết bắt Minh-Ðệ phải trợ giúp cho chị người làm.

    Chị này tên Sửu.

    Chị Sửu nguyên là một nông dân, vì chồng chết, lại không con, nên khi đi vào tuổi bốn mươi, sức khoẻ không cho phép chị làm những việc nặng nhọc như gánh lúa, bừa ruộng, tát nước, nên chị phải đi ở. Trái với cái tên Sửu, người chị nhỏ thó, khẳng khiu, dáng đi lịch bịch, cánh tay như chỉ còn xương, mặt chị tái mét, mà trên lớp da lúc nào cũng bóng những mỡ, mụn lớn, mụn nhỏ mọc lố nhố rất mất trật tự. Hàm răng chị nhuộm từ hồi còn con gái, nay đã bong hết lớp bên ngoài, nên trông nó hơi vàng vàng, xam xám. Vì yếu như thế, cho nên mọi công việc trong nhà chị đều đẩy cho Minh-Ðệ hết.

    Mỗi khi chị không chu toàn được việc chủ giao cho, thì y như tối ông bà Thiết về, chị đi một đường kể lể nào thằng Tráng phá phách, thằng Lực nghịch ngợm, con Minh-Nhàn quấy khóc. Chị rất khôn. Chị biết rằng Minh-Can là đứa con cưng, nên chị chiều chuộng cô này rất mực. Ðối với Minh-Ðệ, chị thẳng tay bắt làm đủ mọi công việc đầu tắt, mặt tối. Hễ nàng mở miệng than là chị xui Minh-Can bịa chuyện về mách mẹ, lập tức nàng bị bà Thiết đánh đập. Mỗi lần như thế, bà Thiết nghiến hai hàm răng vào nhau, miệng rít lên:

    – Trời hở trời! Con diều tha quạ mổ kia, mày có biết bố mẹ mày làm đầu tắt, mặt tối ra mới có miếng ăn cho mày không? Thế mà ở nhà mày còn tác quái hử ??? Hử ??? Hử ???

    Bà nói với chị Sửu:

    – Từ nay tôi cho phép chị, ngoài trừ con Minh-Can ra, bất cứ đứa nào không nghe lời chị, chị được dần vào xác chúng nó cho tôi.

    Từ đấy chị em Minh-Ðệ sợ chị Sửu một phép. Tiền ăn, tiền chợ, bà Thiết trao cho chị Sửu cả. Chị khôn lắm, chị biết ông bà đều ăn trưa, ăn chiều ở khách điếm, nên chị bớt đi một nửa tiền chợ. Thời bấy giờ, bữa sáng thường ăn vào lúc rạng đông, rồi người lớn ra đồng làm việc, trẻ con đi học. Buổi chiều ăn vào lúc gà lên chuồng. Cho nên hai bữa cơm, thì bữa sáng chị cho bọn trẻ ăn rau, ăn tôm, cá. Bữa chiều chị cũng làm những món sang như thịt lợn kho, cá hấp, cá rán, nhưng chỉ cho mỗi đứa ăn chút ít thôi, duy Minh-Can thì được ăn thả dàn; cốt sao còn dư lại chị cất vào chạn. Tối bà Hàn về, thấy trong chạn, nào thịt, nào cá dư thừa ê hề, thì cho rằng chị Sửu thực thà, nuôi con mình đầy đủ. Vào những ngày sóc, ngày vọng, bà Thiết dặn chị:

    – Nhớ phải mua hoa quả, mua gà, nấu xôi để cúng gia tiên. Con gà đó, chị dành hai cái đùi cho Minh-Can, còn lại thì cho bốn đứa kia. Cái cổ, cái cánh cho con nợ đời con Minh-Ðệ.

    Ðiều đó chị Sửu làm đúng. Chị giết gà, xôi xôi, mua hoa quả cúng, hai cái đùi cho Minh-Can, chị chỉ cho mỗi trẻ một miếng nhỏ, còn lại chị đem về nhà cho cháu, cho em chị ăn. Ðối với Minh-Ðệ, ngay chút ít nước luộc gà chị cũng không cho, chứ đừng nói là miếng thịt.

    Ông Thiết thì dù sao cũng là đàn ông. Ở cái xã hội xưa, xã hội đời Lý, chủ đạo tộc Việt dành cho người đàn bà rất nhiều quyền trong gia đình. Nào nuôi con; nào dạy con; nào quản trị tiền bạc, của cải; nào giỗ tết; giao tế trong họ, ngoài làng đều do đàn bà đảm đương hết. Thành ra cái gia đình ông Thiết, do bà Thiết nắm quyền, nhưng bà quên mất tất cả thiên tính trời cho để làm mẹ, dĩ nhiên làm sao bà có đủ đức của một phụ nữ trong chủ đạo tộc Việt. Cho nên, người ngoài nhìn vào, thì thấy các con ăn mặc tươm tất, nhưng thực ra đám trẻ sống bơ vơ như mồ côi, không được hưởng chút tình mẫu tử nào.

    Theo tục lệ làng xã tộc Việt từ thời vua Hùng, mỗi khi có những buổi họp quan trọng đến vận mệnh toàn xã như hôm nay, thì mọi người phải hiện diện. Nếu như có những công việc tạp dịch góp sức vào công ích như đắp đường, làm cỏ, vét sông v.v. lệ làng định rõ những chức sắc nào, quan viên nào, được miễn. Tuy nhiên những người phải góp công, nếu vì sức khoẻ, vì việc nhà đa đoan, thì có thể mượn người thay thế, làng cũng cho. Hôm nay, buổi họp diễn ra lúc buổi trưa, ông bà Thiết không có nhà, nên người trưởng xóm phải báo cho ông bà những quyết định của buổi hội. Việc làng bắt Minh-Ðệ, Minh-Can mỗi người góp mười công, ý ông Thiết muốn dùng tiền mượn người thay thế cho con khỏi mệt nhọc, như những gia đình khá giả khác. Trước đây, mỗi lần như vậy, ông lên tiếng đề nghị, thì y như bà Thiết nhảy choi choi như khỉ đói xỉa xói vào mặt ông mà nêu ra đủ thứ tội của Minh-Ðệ, thành ra lâu ngày, ông không còn tý quyền hành nào cả. Muốn giữ cho nhà cửa êm thắm, ông đành buông xuôi để mặc vợ.

    Trời đã về khuya, cái lạnh tháng hai còn bao phủ không gian, nhưng Minh-Ðệ vẫn phải ra bờ sông giặt quần áo. Từ hồi sáu bẩy tuổi, khi còn đi học, nàng được nghe thầy đồ kể chuyện rằng Bụt (Phật)có nghìn mắt nghìn tai, luôn nghe tiếng chúng sinh kêu cứu. Khi gặp đường cùng, cứ khấn Bụt là ngài hiện ra cứu giúp. Hồi nhỏ, bị mẹ đánh, bị Minh-Can hành hạ, nàng chỉ biết cắn răng chịu đựng. Sau này lớn lên, nàng thường khấn Bụt, mong Bụt hiện lên để che chở cho nàng. Rồi nàng tưởng tượng Bụt đứng trên mây, nàng chắp tay hướng lên không gian vô tận mà khấn Bụt, tâm sự với Bụt.

    Có một lần Minh-Can dẫn bạn về nhà chơi, bắt nàng làm cơm đãi khách, nàng không chịu làm, vì làm thì lấy đâu ra thịt, cá cho bữa cơm chiều? Lập tức Minh-Can cùng bạn xúm vào dùng võ đánh nàng. Dù nàng là chị, hơn hai tuổi, lớn trước, nhưng vì Minh-Can học võ, nên nàng đành chịu đòn. Mỗi lần nàng bị đấm, bị đã ngã lăn quay ra, chúng lại reo hò cười nói, tỏ vẻ khoan khoái. Chiều về, nàng đem chuyện mách bố mẹ, thì bà Thiết cau mặt:

    – Học thì phải hành. Nó học võ mà không có chỗ thử thì sao biết được kết quả. Nay nó có mượn cái thây thối tha của mày mà đấm đá, thì cũng là vạn phúc cho mày, mày còn đành hanh gì nữa đây?

    Từ đấy Minh-Can thường rủ bạn về nhà chơi, mỗi khi thấy Minh-Ðệ, chúng ngứa mắt, lại lôi nàng ra mà đấm đá. Nàng đành nghiến răng chịu đựng.

    Một lần, chị Sửu mua thức ăn không nhiều, mà Minh-Can mang những bẩy tám người bạn về nhà đòi làm cơm ăn giữa trưa. Minh-Ðệ vừa mở miệng nói rằng không đủ thức ăn, thì Minh-Can cùng đám bạn xúm vào mà đánh, chửi. Nó hạ lệnh:

    – Con ở hôi thối này. Không còn thức ăn thì mày giết hai con gà mái trong chuồng kia cũng được chứ gì?

    Biết rằng cãi thì ăn đòn, nàng đành bắt hai con gà đang đẻ làm thịt cho chúng ăn. Chiều hôm đó, bà Thiết về, không thấy hai con gà mái đẻ đâu, bà hỏi, Minh-Can le te đáp:

    – Hồi trưa con Ðệ nó giết gà đãi bạn nó là con Ngọc-Nam, Trinh-Dung, Ngọc-Huệ, Thanh-Thảo cùng với mấy thằng bạn mất rồi.

    Minh-Ðệ kinh hãi cãi:

    – Thưa mẹ, chính nó đem bẩy đứa bạn về, bắt con giết gà làm cơm đãi. Con chối, chúng nó xúm vào đánh con. Ðây, mẹ xem, khắp người con đầy vết thâm tím đây.

    Bà Thiết xỉa xói vào mặt nàng:

    – Tiên sư bố mày, mày nứng l... lên, đem trai về nhà, lại bắt gà mái đẻ của tao giết đãi nó, rồi mày lại đổ cho con gái tao ư? Tao phải giết chết mày mới được.

    Thế là bà đánh nàng túi bụi. Xưa nay, mỗi lần bị đòn, mà nàng phân trần, thì y như bà Thiết còn đánh đến khi nàng không nói gì mới thôi. Vì vậy nàng nghiến răng chịu mưa roi, bão vọt cho qua.

    Sau trận đòn, nàng ra bờ sông ôm mặt ngồi khóc. Nàng khấn Bụt, nói chuyện với Bụt. Nàng chắp tay:

    – Lạy Bụt chứng giám cho con.

    Rồi nàng kể hết nguồn cơn. Nàng vừa kể xong, thì có tiếng nói trong, êm đềm phát ra:

    – Tất cả những gì con đang phải gánh chịu, là do cộng nghiệp từ muôn vàn kiếp trước kết tụ. Nếu nay con cứ chống, cứ tránh né, thì cái nghiệp xưa bao giờ mới giải hết?

    Nàng ngửa mắt nhìn lên, thì không phải là Bụt, mà là một bà quần áo trắng. Trong bóng đêm mờ ảo, nàng nghĩ ngay đến đức Quan-Thế-Âm hiện xuống cứu khổ cứu nạn. Nàng thụp lạy:

    – Nam-mô cứu khổ, cứu nạn Quan-thế-âm Bồ-tát, xin Bồ-tát thương tình cứu con khỏi cảnh đau khổ này.

    – Ðau khổ, đau khổ. Thế con có biết trên thế gian này có không biết bao nhiêu chúng sinh đau khổ hơn con không? Ta cho con bốn câu để giải cái ẩn ức trong tâm. Con hãy nghe đây:

    Nhân sinh đô thị mệnh an bài.

    Con người ta sinh ra, đã được số mệnh an bài, nhà Phật gọi là nghiệp quả. Khi nghiệp nó tới, thì phải thản nhiên chịu đựng, chứ nếu cứ chống đối thì kiếp sau nó sẽ theo mà đòi mãi.

    Nhân thế nan phùng khai khẩu tiếu.

    Trong thế gian này, đau khổ đầy dẫy, khó mà mở miệng cười được. Vậy thì con có khổ một mình đâu?

    Khởi khả nhân vô đắc vận thời?

    Cuộc đời thay đổi, người nào đang khổ rồi cũng có ngày vận tốt nó tới. Con muốn gấp làm chi?

    Cử đầu tam xích hữu thần minh.

    Ngửa đầu nhìn lên ba thước (75 cm) là có thần minh chứng giám. Con khỏi phải kêu oan!

    Qua bốn câu khuyên của Quan-âm, Minh-Ðệ cảm thấy trong người khoan khoái lạ thường. Ngài tiếp:

    – Thôi, bây giờ ta tạm giảm cái đau đớn thân xác cho con đã. Con hãy ngồi im, không được động đậy.

    Quan-Âm cúi xuống, xòe bàn tay để lên đỉnh đầu, một luồng nhiệt khí chạy khắp cơ thể nàng. Lạ thay, nhiệt khí chạy đến đâu, bao nhiêu cái đau đớn đều biến mất.

    Nàng lại thì thụp lạy, Quan-Âm phán:

    – Thôi, lạy vậy đủ rồi. Bây giờ ta cho con ba cái bửu bối để tránh khỏi hoạn nạn. Con nhớ nhé, tuyệt đối không được kể cho ai nghe, bằng không con sẽ gặp tai ách ghê lắm.

    – Con xin tuân lệnh.

    Quan-Âm móc trong túi ra một tập sách nhỏ trao cho nàng:

    – Ðây là quyển sách loại bỏ túi, trong có chép bài kinh Bát-nhã, cùng yếu chỉ kinh Kim-cương. Lúc nhàn rỗi, trước khi đi ngủ, con hãy đem ra đọc, cùng suy nghĩ ý nghĩa thâm sâu. Nào, con hãy đọc theo ta.

    Gì chứ kinh Bát-nhã thì nàng thuộc lòng, đã đọc hàng trăm, hàng nghìn lần. Nàng cất tiếng đọc:

    "Quán-tự-tại Bồ-tát,
    Hành thâm Bát-nhã ba-la mật đa thời,
    Chiếu kiến ngũ uẩn giai không,
    Ðộ nhất thiết khổ ách.
    ...........
    Yết đế, yết đế, ba la yết đế,
    Ba la tăng yết đế,
    Bồ đề tát bà ha
    ".

    – Con có hiểu nghĩa bài kinh này không?

    – Dạ, con hiểu nghĩa Hán-Việt thôi, còn ý thâm sâu thì con không được học.

    – Như vậy cũng được rồi. Ta đã kiến giải bài kinh này, và chép trong tập yếu quyết mà ta cho con đây. Khi có thời giờ thì con đem ra mà đọc. Ta cho con một yếu quyết: lúc nào trong lòng cũng phải để trống không, nhãn không, nhĩ không, tỵ không, thiệt không, thân không, ý không. Nhớ đấy, hãy bỏ lục tặc ra ngoài.

    Minh-Can nhận tập sách. Quan-Âm tiếp:

    – Bây giờ con nhắm mắt, rồi từ từ bỏ hết nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý. Trước hết bỏ nhãn đã. Con nhắm mắt lại. Bây giờ chỉ tưởng tượng thấy ta đứng trước mặt.

    – Ðược rồi, con bỏ, không chú ý đến miệng đắng nữa. Ðược rồi, khá lắm, như vậy bỏ được thiệt rồi đó. Bây giờ không còn nghĩ tới thân mình bị đau đớn, nóng hay lạnh nữa. Ðược. Như vậy vô thân rồi đó. Nào, hãy quên đi, không nhớ tới bị mẹ đánh, bị em làm nhục. Ðược, con quên mau lắm, thế là vô ý rồi. Cuối cùng là vô nhĩ. Con đừng chú ý đến xung quanh nữa, chỉ chú ý đến lời ta nói thôi. Ðược rồi, bây giờ hãy tập trung tinh thần đừng chú ý đến lời nói của ta nữa.

    Thế là Minh-Ðệ như người mê đi, không còn biết gì đến xung quanh. Cứ như thế, nàng nhập vào một giấc triền miên thâm sâu không biết bao nhiêu lâu, cho đến khi bàn tay Quan-Âm vỗ lên đầu, nàng mới tỉnh giấc.

    Nàng cảm thấy người sảng khoái vô cùng tận. Quan-Âm phán:

    – Con ngồi ngay ngắn lại. Ðược rồi. Từ từ hít hơi, hít làm nhiều nhịp. Mắt nhắm, nhưng nhìn vào tỳ-vị (lá lách, dạ dày),tưởng tượng khí từ ngoài vào mũi lên đỉnh đầu, rồi tỏa ra hai thái dương, mặt, cổ, chạy xuống bụng giữa. Ðược rồi. Bây giờ lại thở ra, thở làm nhiều nhịp, tưởng tượng khí từ bụng giữa xuống chân qua gối, bàn chân. Ðược rồi. Bây giờ lại hít vào, vẫn hít làm nhiều nhịp, tưởng tượng khí từ hai bàn chân chạy lên bụng trên. Ðược rồi. Bây giờ con thở ra làm nhiều nhịp, tưởng tượng khí tứ bụng trên lên đầu, rồi ra ngoài.

    Sau hai lần hít, thở, người Minh-Ðệ cảm thấy khoẻ mạnh vô cùng. Quan-Âm tiếp:

    – Ta cho con ba bảo bối. Một là bài kinh Bát-nhã, hai là phương thức nhập tĩnh, ba là phương pháp thở hít cho khoẻ. Sau này, khi gặp nguy cơ về thần chí, thì chiếu kinh Bát-nhã mà tự giải lấy. Gặp đau đớn thể xác thì nhập tĩnh. Còn như người mệt mỏi thì thở hít. Nhưng nếu con nhập tĩnh rồi thở hít và nhẩm đọc kinh Bát-nhã thì con sẽ có sức khoẻ vô biên.

    – Con xin đa tạ ngài.

    – Ta có một số yếu quyết, ta đọc cho con. Tùy theo duyên phận, con có ngộ tính cao thì thuộc được nhiều. Còn ngộ tính thấp, thì thuộc ít.

    Nói rồi bà đọc:

    Âm nhu tâm pháp thị vô song,
    Luyện khí, luyện công thực bất đồng.
    Khí đắc, công thành, hậu luyện kiếm,
    Giải trừ dương lực, phá ngạnh công.


    Bà đọc đến đâu Minh-Ðệ thuộc đến đó. Bà đọc một lúc 99 câu, Minh-Ðệ cũng thuộc cả 99. Bà hỏi:

    – Con thử đọc lại xem, con thuộc được mấy câu.

    Minh-Ðệ đọc thông 99 câu. Bà kinh ngạc:

    – Ngộ tính con cao thực. Ðể ta giải thích cho con mười câu đầu, con luyện xong, ta sẽ giải thích tiếp.

    Bà giảng giải ý nghĩa mười câu. Minh-Ðệ luyện cho đến khi trời gần sáng thì xong. Quan-Âm phán:

    – Kể từ nay ta đặt tên cho con là Yến-Loan. Sau này mỗi khi con dùng tên này, thì người của ta khắp nơi sẽ biết con là đệ tử của ta, mà giúp đỡ con. Ta dặn con một điều, từ nay bất cứ ai hỏi về ba bảo bối mà ta cho con, tuyệt đối con không được tiềt lộ gặp ta trong trường hợp nào. Nhớ không?

    – Con ghi nhớ rồi.

    Nói rồi nàng cúi xuống đảnh lễ. Sau khi lễ ba lễ, nàng ngẩng đầu nhìn lên, thì không thấy Quan-Âm đâu cả.

    Từ đấy nàng âm thầm thở hít, nhập tĩnh, đọc kinh Bát-nhã. Nhưng chưa bao giờ thử kết hợp cả ba thứ lại với nhau. Nàng ngẫm thấy rằng, trước đây người nàng bè bè ra, coi rất chướng mắt. Cứ sau thời gian luyện ba bảo bối, thì sức khoẻ tăng lên, cơ thể thon dần lại, mắt sáng hơn lên.

    Mười ngày sau Quan-Âm lại xuất hiện, giải thích thêm mười câu nữa, rồi nàng luyện trong mười ngày là song. Cứ như thế sau chín lần xuất hiện, Minh-Ðệ được Quan-Âm giải thích hết 99 câu. Rồi từ đấy không thấy ngài hiện ra nữa. Còn nàng thì cứ âm thầm luyện một mình.

    Tiếng chuông chùa ban mai, làm Minh-Ðệ tỉnh giấc, súc miệng qua loa rồi nàng phải vác một rổ lớn bèo đem thái nhỏ, trộn với cám, nhóm lửa nấu. Vì nấu bằng rơm, nên nàng phải ngồi bên bếp, không rời ra được. Tuy ngồi nấu cám lợn, mà nàng vẫn thở hít, để bồi bổ lại việc mất sức vì không được ngủ.

    Nồi cám sôi rồi, thì chị Sửu mới thức giấc, chị le te sai nàng nhặt rau, nấu cơm.

    Trời tảng sáng, cả nhà thức giấc. Cơm dọn lên. Cơm chia làm hai mâm. Mâm thứ nhất, ông bà Thiết ngồi với Minh-Can, còn lại tất cả ngồi chung một mâm với chị Sửu. Tuy ngồi không cùng mâm, nhưng bà Thiết luôn luôn hướng đôi mắt cá quả về phía Minh-Ðệ:

    – Con trời đánh, tại sao không ngồi cho thẳng lên, mà lại khòm khòm thế kia.

    Minh-Ðệ vội ngồi ngay ngắn lại.

    – Cái đầu cá rô thế kia mà mày bỏ không ăn à?

    Minh-Ðệ vội gắp cái đầu cá rô bỏ vào bát.

    – Ðấy, nó ăn cá không à? Không bao giờ nó ăn dưa cả. Ăn hỗn thế thì thôi.

    Minh-Ðệ vội gắp dưa ăn.

    Minh-Can xen vào:

    – Cái thứ hủi mà mẹ cứ nói hoài chi cho mệt. Từ nay mỗi bữa mẹ để bọn con ăn xong rồi cho nó ăn có phải khỏi chướng mắt không?

    Bà Thiết như tìm ra cái gì mới mẻ:

    – Này chị Sửu, từ nay chị đợi cả nhà ăn xong rồi hãy cho nó ăn nghe.

    – Thưa bà vâng.

    Vừa lúc đó, có tiếng trống ngũ liên thúc dân làng phải tới bờ sông nhận nhiệm vụ. Có tiếng gọi từ cổng vào:

    – Minh-Ðệ ơi! Ði thôi, mọi người đang tụ họp ở bờ sông chờ chúng mình đấy.

    Minh-Ðệ vội buông bát đứng dậy, tìm cái móng, khoác áo tơi, chào bố mẹ rồi cúi đầu ra đi. Nếu ai tinh ý, sẽ thấy vai nàng rung động, và hai hàng nước mắt tuôn rơi. Ðến cổng, đám bạn gái reo mừng:

    – Ðệ đấy à? Lại khóc rồi. Hôm nay chúng mình vừa vét, vừa nói chuyện, tha hồ mà họp chợ như chim vỡ tổ.

    – Tiểu thư Can đâu rồi? À, đời nào bà Thiết cho chân tay nàng lấm bùn nhỉ? Con vàng, con ngọc mà.

    Minh-Ðệ lẫn vào trong đám bạn gái. Trong đám bạn gái cùng lứa tuổi với Minh-Ðệ thì có bốn người là Trinh-Dung, Ngọc-Huệ, Thanh-Thảo, với Ngọc-Nam là thân nhất. Năm người nguyên là bạn học với nhau từ hồi năm sáu tuổi. Ngọc-Nam hỏi:

    – Nghe thầy Thái nói, thì Minh-Ðệ phải làm những hai mươi công phải không? Chà, hai mươi ngày thì chịu sao nổi?

    Minh-Ðệ thản nhiên:

    – Ðành chịu vậy chứ sao? Mẹ bắt thì phải làm.

    – Vô lý chi thậm, con nào cũng là con, tại sao Minh-Ðệ lại phải cực khổ cho con Minh-Can sung sướng?

    – Tự mẹ mình muốn vậy, thì làm sao bây giờ.

    Thanh-Thảo bực mình:

    – Nói với Minh-Ðệ tức bỏ bu đi ý. Chính bà ấy không có lấy một chút ý thức nào để tự vệ, thì Ngọc-Nam có nói cũng vô ích.

    – Mình là người đọc sách thì phải lấy chữ hiếu làm đầu.

    Trinh-Dung lắc đầu:

    – Bà làm như vậy mới chính là bất hiếu, chứ không thể coi là hiếu.

    – Tại sao?

    – Trời ơi! Bà thuộc làu Luận-ngữ, Hiếu-kinh mà không đọc Thuyết-uyển của Lưu Hướng sao? Trong đó Lưu nhắc chuyện thầy Tăng Sâm là người ngu hiếu.

    – Nhắc cho mình đi.

    Trinh-Dung thuật:

    "... Tăng Sâm bừa ruộng với cha, lỡ tay làm đứt mất một ít rễ. Cha là Tăng Tích giận lắm, lấy gậy đánh vào lưng. Tăn Sâm đau quá điếng đi một lúc mới hồi lại. Khi về nhà ông đến thưa với cha rằng:

    – Hồi trưa con có tội, đến nỗi cha phải đánh, làm đau tay cha, con thực là lỗi đạo.

    Nói xong ông lùi lại vừa gảy đàn, vừa hát, có ý để cha nghe tiếng, cho rằng Tăng Sâm không còn đau đớn gì nữa. Khổng-Tử nghe chuyện ấy, bảo học trò cấm cửa không cho Tăng Sâm vào. Tăng Sâm tự nghĩ mình vô tội, nhờ bạn hỏi ngài rằng mình tội gì? Khổng-Tử đáp :

    – Ngày ông Thuấn phụng sự cha là Cổ Tẩu, lúc cha sai khiến gì, ông luôn ở bên cạnh; lúc cha giận dữ muốn giết thì lánh xa; cha đánh bằng roi vọt thì cam chịu; đánh bằng gậy gộc thì chạy trốn. Thế cho nên ông Cổ Tẩu không mang tiếng bất từ. Nay Sâm thờ cha liều mình để chiều cơn giận đến nỗi ngất đi. Giá lỡ cha quá tay, mà chết đi, thì có phải làm cho cha mắc tội không? Tội bất hiếu đó còn to hơn nữa.

    Tăng Sâm nghe lại chuyện, vội đến tạ tội với Khổng-Tử" .

    Minh-Ðệ chợt tỉnh ngộ:

    – Mình nhớ rồi. Cảm ơn Trinh-Dung.

    – Cảm ơn! Nhưng rồi Minh-Ðệ không có một chút chí khí nào thì đâu cũng vào đấy.

    – Mình sẽ đổi dần dần.

    Năm người tới bờ sông. Ðây là con sông nhỏ, chiều ngang chưa quá hai chục trượng. Con sông này là chi nhánh của con sông cái. Sông tuy không sâu, nhưng nó là con sông dẫn nước cho hai ba xã trong việc nông tang. Bấy giờ vào tiết tháng hai, nước sông đang cạn tới đáy, nên rất thuận tiện việc vét lòng cho sâu thêm. Dân làng được chia thành từng toán. Mỗi toán phụ trách vét một quãng. Cứ năm người là một toán. Trong toán, một người dùng móng xới đất, một người đỡ đất, rồi chuyển cho người thứ nhì, người thứ nhì chuyển cho người thứ ba. Người thứ ba chuyển cho người thứ tư. Người thứ tư giữ nhiệm vụ đắp đất lên bờ sông.

    Vì hoàng nam bị gửi đi tải lương, nên cứ năm sáu cô gái, mới có người đàn ông. Những người đàn ông này, tuổi trên bốn mươi cả rồi. Có thể nói, họ ở tuổi cha, tuổi chú của Trinh-Dung, Minh-Ðệ. Những người đàn ông được chỉ định cầm móng xới đất. Còn đám con gái thì chuyển, đắp đất. Họ vừa làm, vừa hát, vừa cười đùa hồn nhiên, như không biết gì đến những nguy cơ tại Bắc-biên.

    Khi mặt trời mọc cao, thì các bô lão xuất hiện. Các cụ chống gậy đến hỏi thăm, giám sát từng toán một. Cứ khoảng hơn giờ (120 phút ngày nay), thì lại có hồi trống báo hiệu nghỉ một khắc (14 phút ngày nay). Trong lúc nghỉ ngơi, họ nói chuyện huyên thiên. Nào chuyện nhà, chuyện ruộng, chuyện vườn, chuyện đàn gà, chuyện ao cá. Có toán lại nói chuyện cổ tích về những mưu mẹo của người Tầu sai sứ sang gây rắc rồi với vua ta, rồi những thần đồng Việt xuất hiện, đối đáp với sứ Tàu v.v.

    Toán của Minh-Ðệ thì chỉ bàn chuyện gia đình nàng, về bà mẹ khắt khe với nàng, và cưng chiều Minh-Can. Trinh-Dung nổi cáu:

    – Bà muốn chiều Minh-Can thì chiều, nhưng ít ra nó cũng phải biết điều, chứ có đâu đành hanh đỏ mỏ, đặt điều làm cho chị phải đòn. Mình như Minh-Ðệ mình nhè lúc bố mẹ đi vắng, mình đập cho nó một trận, rồi muốn ra sao thì ra.

    Ngọc-Nam lắc đầu:

    – Không ổn rồi! Con Minh-Can nó theo học trường Trung-nghĩa hầu, nó có võ, đụng vào nó thì nhừ đòn.

    Trinh-Dung lắc đầu:

    – Hoàn cảnh của Minh-Ðệ thì họa chăng có đại sư Mộc-Tồn Vọng-Thê mới cứu được mà thôi.

    Nghe đến tiếng Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng, mọi người đều im bặt, tỏ vẻ sợ hãi. Minh-Ðệ hỏi:

    – Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng là ai vậy?

    Ðến đó cụ Lý-trưởng đi qua, nghe Minh-Ðệ hỏi, cụ vẫy tay:

    – Làm việc đi, làm việc đi, đừng nói bậy mà chết cả bọn bây giờ.

    Thanh-Thảo than:

    – Thôi thì chỉ có cách khấn Bụt hiện lên giúp, may ra được mà thôi.

    Gì chứ khấn Bụt thì Minh-Ðệ đã khấn nhiều rồi, nhưng chẳng bao giờ Bụt hiện lên giúp đỡ nàng cả. Dù Bụt không hiện ra nhưng Quan-Âm lại giáng trần ban cho nàng ba bảo bối. Vì vậy, đêm đêm nàng vẫn thở hít, nhập tĩnh, và đọc kinh. Nàng chỉ có thể thở hít nhập tĩnh, nhập tĩnh đọc kinh và đọc kinh thở hít, mà không thể vừa đọc kinh, vừa nhập tĩnh, vừa thở hít được.

    Cứ như vậy, mười buổi vét sông qua đi, người nào cũng mệt đứ đừ. Sau khi đã hết mười công, họ được nghỉ. Còn Minh-Ðệ lại phải làm mười công nữa thay cho em. Tuy nàng có mệt mỏi, nhưng tối về, thở hít, thì cái mệt lại biến đi mất. Sang buổi thứ mười một, nàng lại được phân công vào toán khác.

    Buổi vét sông thứ mười một của Minh-Ðệ chấm dứt vào lúc xế Ngọ.

    Vì bị trúng lạnh từ hơn hai ngày trước, thành ra, tối về nàng thở hít, mà khí bế tắc không thông, nên hôm nay nàng mệt nhừ. Vừa về đến nhà, nàng thấy Minh-Can cùng với hai bạn trai, hai bạn gái đang luyện võ với nhau ở sân. Minh-Can thấy nàng về, nó lên lớp:

    – Về mau, đun nước pha chè cho khách uống.

    Minh-Ðệ thản nhiên vào bếp nấu nước, rồi pha trà. Một người bạn trai của Minh-Can hỏi:

    – Con ở nhà chị đấy à?

    – Gần như vậy.

    Minh-Ðệ đã quen với cảnh này, nên nàng nín nhịn. Vì mệt quá, nàng vào bếp, chui trong đống rơm nằm nghỉ. Vừa thiu thiu thì chị Sửu gọi:

    – Ðệ đâu?

    Nàng chưa kịp trả lời, thì cái cán chổi đập vào chân nàng hai cái. Ðau quá, nàng nhảy dựng dậy. Chị Sửu quát:

    – Có đi xay thóc, dã gạo không? Chiều nay mà không có gạo nấu cơm thì chỉ có chết, nhớ nhá.

    Sau khi đập Minh-Ðệ hai cán chổi, chị Sửu ngẫm ra một điều là mọi khi chị đập sẽ thôi, là Minh-Ðệ ôm chân ngồi nhăn nhó một lúc mới đi nổi. Bây giờ nàng chỉ kêu lấy lệ, dường như không đau đớn gì.

    Minh-Ðệ vội lấy thúng vào gian nhà chứa thóc, xúc thóc đem ra cối xay. Xay xong lại phải sàng, xảy, rồi đem gạo ra cối dã. Gạo dã xong, thì trời về chiều. Chị Sửu quát:

    – Con ngẫn ngờ kia, mau quét nhà, rồi gánh nước rửa chuồng lợn.

    Minh-Ðệ tuy mệt nhừ, người hâm hấp sốt, nhưng vẫn phải tuân hành. Nàng gánh được hai gánh nước trót lọt. Ðến gánh thứ ba thì trượt chân ngã lăn xuống đất. Không may, bắp chân chà phải mảnh sành, máu chảy ra chan chứa. Từ chị Sửu, cho tới Minh-Can, cùng mấy đứa em trai là Thắng, Lực đều dương mắt thản nhiên nhìn. Nàng quằn quại một lúc, rồi cố gắng ngồi dậy, uể oải ra vườn tìm cây thuốc dấu, hái mấy lá cho vào cối dã ra, đắp lên vết thương, rồi xé vạt áo cũ băng lại. Lát sau vết thương cầm máu. Nàng lê bước về buồng, nằm xuống nghỉ. Nhưng chị Sửu đã oang oang:

    – Con ngớ ngẩn làm bộ, giả đau trốn việc đâu rồi? Có ra ngay không thì bảo?

    Ghi chú:
    Cây nhọ-nồi: loại cây mọc hoang khắp Việt-Nam. Tên Hán-Việt gọi là Bách-thảo-sương. Tên khoa học là Pulvis Fumu carbonissantus. Khi dã cây này ra, thì có chất mầu đen, giống như nhọ nồi. Cây này tính vị cay, hơi ấm, nhập tâm, phế kinh, tác dụng cầm máu, trợ tiêu hóa, giải độc. Có thể dùng trị chảy máu cam, chảy máu chân răng, tả lỵ. Chảy máu chân răng: dã nhọ nồi bôi vào. Chảy máu cam: án nhọ nồi khô, thổi vào mũi. Chữa ghẻ ngoài da trẻ con: tán nhọ nồi khô, trộn với mỡ heo, mỡ gà bôi lên. Chữa tả lỵ: nhọ nồi khô uống với cháo nóng, ngày hai lần, mỗi lần 8g.

    Minh-Ðệ chưa kịp trả lời, thì tiếng Minh-Can nói:

    – Chị để em vào, lôi nó ra cho chị nhá!

    – Ừ, em làm dùm chị.

    Minh-Can xồng xộc bước vào buồng, nó vung tay tát Minh-Ðệ hai cái, rồi quát:

    – Giả đau trốn việc này!

    Mọi khi Minh-Can tát, thì Minh-Ðệ cảm thấy đau đớn. Nhưng nay sau hai cái tát với tất cả sức lực dáng vào mặt nàng, mà nàng chỉ cảm thấy hơi ran rát thôi. Minh-Can cũng nhận ra điều đó, thị bẻ quặt cánh tay nàng, rồi nhắc bổng lên, ném ra sân đánh huỵch một cái. Ðau quá, Minh-Ðệ nằm im, không bò dậy được.

    Minh-Can cáu:

    – Con chết tiệt giả bộ nữa hả?

    Nó co chân đá vào mông nàng hai cái. Vốn đã bị đòn nhiều thành kinh nghiệm, Minh-Ðệ ngẫm ra khi bị đòn, nàng cứ nhập tĩnh thực sâu, rồi thở hít, thì cái đau giảm một nửa. Vì vậy nàng nhắm mắt nhập tĩnh rồi thở hít. Hai cái đá khiến thân thể nàng lăn đi hai ba vòng, nhưng nàng vẫn nằm bất động. Thằng Mãnh chạy ra lay nàng:

    – Chị Ðệ, chị Ðệ.

    Nàng vẫn nằm bất động. Nó oà lên khóc:

    – Chị Ðệ chết rồi, mau đi báo làng.

    Nói rồi nó chạy vội đi. Chị Sửu vội ngăn lại:

    – Con nỡm này nó giả đò đấy, em mà báo làng, thì làng họ nọc cổ em ra họ đánh cho mà coi.

    Thằng bé vội ngừng lại. Chị Sửu với Minh-Can vội khiêng Minh-Ðệ vào nhà, rồi đi luộc trứng, đánh cảm. Bấy giờ Minh-Can, chị Sửu mới biết sợ. Chị sờ tay vào ngực nàng, thấy còn thoi thóp thở, nên yên tâm. Chị chỉ mặt thằng Mãnh, Tráng và con Minh-Nhàn:

    – Muốn sống thì câm cái miệng, đứa nào hé môi thì tao đập chết, nghe không?

    Ba đứa trẻ im lặng gật đầu.

    Khi mặt trời lặn, thì ông bà Thiết về. Xe vừa dừng trước ngõ bà Thiết không thấy Minh-Ðệ ra dắt ngựa đi tắm, cùng cho ăn cỏ như thường lệ, bà hét lên:

    – Cái con trời đánh thánh đâm đâu rồi? Có ra tắm ngựa hay không?

    Minh-Can đon đả cùng bốn đứa trẻ chạy ra:

    – A, bố về, mẹ về.

    Thằng Lợi chạy đến ôm chân bà, bà đẩy nó ra:

    – Làm gì thế này, cút.

    Sau khi đẩy đứa trẻ ra, bà chợt thấy nét mặt Minh-Can như có vẻ sợ hãi, tay bà vòng ra ôm lấy cổ con gái:

    – Con gái của mẹ. Sao hôm nay ở trường có gì lạ không? Mẹ mua quà cho con đây này.

    Bà móc trong bọc ra cái khăn lụa, choàng lên cổ Minh-Can. Thằng Lợi mới có bốn tuổi, thấy mẹ hắt hủi mình, nó ngơ ngác nhìn bà Thiết bằng con mắt sợ hãi, rồi không hiểu nghĩ sao nó òa lên khóc. Ông Thiết vội bế nó lên lên, nó nức nở:

    – Chị Sửu với chị Can đánh chết chị Ðệ rồi.

    Bà Thiết chép miệng:

    – Cứ đánh chết nó đi cũng chẳng sao.

    Ông Thiết cau mày hỏi chị Sửu:

    – Bây giờ nó ở đâu?

    – Thưa ông, sau khi đi việc làng về, cháu bảo nó gánh nước rửa chuồng lợn, nó giả bệnh rồi vào buồng nằm ngủ, mọi việc nào xay thóc, nào dã gạo, nào thổi cơm, em Can phải làm hết.

    Lập tức bà Thiết rống lên như trâu gầm:

    – Ông thấy không, con trời tru, đất diệt; con tù đâm chó đéo nó như vậy đấy, nó làm khổ cho con tôi, trời hở trời???

    Bà cầm hai bàn tay Minh-Can lên xem xét tỷ mỉ dưới ánh đèn, trong lòng đầy xót xa, bà bảo chị Sửu:

    – Từ nay trở đi, cái con thiên lôi đánh nó có dở chứng gì, thì mặc nó, chị đừng bắt đứa con châu ngọc của tôi phải làm việc.

    Minh-Can xen vào:

    – Tự con muốn chính tay mình xay thóc, dã gạo để dâng hiến cho bố mẹ chứ có phải chị Sửu bảo con đâu? Mẹ đừng mắng chị ấy mà con phải tội.

    Bà Thiết ôm sát Minh-Can vào lòng:

    – Ông thấy con nó có hiếu không? Thực không thua Tử-Lộ đội gạo, đâu kém vua Thuấn. Nó thực được cả người, cả nết, chứ đâu có như con khốn nạn kia.

    Ông bà vào nhà thay quần áo, cơm đã dọn lên. Cả nhà ngồi vào hai mâm cơm. Ông Thiết bảo Lực:

    – Con vào gọi chị dậy ăn cơm.

    Thằng Lực vào buồng nói lớn:

    – Chị Ðệ ơi, dậy ăn cơm.

    Minh-Ðệ đau đớn, mệt mỏi, lại đang lên cơn sốt, chỉ ngất đi chứ chưa chết. Tuy nhiên trong cái ngất, nàng ngủ được một giấc, thành ra sức lực dần dần trở lại. Nghe tiếng em gọi, nàng nói trong hơi thở hổn hển:

    – Các em cứ ăn cơm đi, chị không ăn đâu.

    Lực trở ra nói với mẹ:

    – Chị Ðệ không ăn cơm.

    Bà Thiết nghiến hai hàm răng vào nhau, mắt bà đỏ gay, mở tròn như hai con ốc ang to. Bà rít lên:

    – Mày lại hờn hả? Mày dỗi hả? Có dậy ngay không?

    Giữa lúc đó, Minh-Ðệ từ từ tỉnh giấc, tay đau, chân đau, mông bị vết đá tím bầm, nàng nghiến răng ngồi dậy, nhưng vẫn không nổi. Bà Thiết chụp ngay đôi đũa cả rồi lao người vào buồng Minh-Ðệ; không nói, không rằng, bà quất vào mông, vào lưng, vào vai nàng liên tiếp không biết bao nhiêu cái. Mấy cái đầu Minh-Ðệ còn dãy đụa, nhưng mấy cái sau nàng lại ngất đi, không biết gì nữa, mặc cho bà Thiết đánh. Ðánh một lúc mỏi tay, bà Thiết hơi ngạc nhiên, vì thấy Minh-Ðệ không rên siết như mọi khi, bà chán nản ngừng tay:

    – Ðể thằng cha mày dạy mày.

    Bà ra nhà ngoài rống lên khóc với chồng:

    – Ông thấy chưa? Nó làm gan, nằm lỳ ra không chịu dậy. Con ông đấy, ông dạy nó đi.

    Kinh nghiệm cho ông Thiết biết, nếu ông đưa ra lời bênh Minh-Ðệ, thì vợ sẽ đánh chết đứa con gái bất hạnh của mình. Nhược bằng ông hùa theo vợ, thì tội cho nó, nên ông im lặng.

    Bà Thiết thở hổn hển bảo Minh-Can:

    – Con vào nắm cổ nó ném ra ngoài vườn kia cho mẹ. Mẹ không chịu được nữa rồi.

    Ðược mẹ sai hành hạ kẻ thù, Minh-Can sướng quá, ả bước vào buồng chị túm áo ngực nàng nhắc bổng lên, rồi chạy ra vườn. Lúc đầu thị định ném nàng ra sau vườn thôi, nhưng bỗng tính ác nổi dậy, thị chạy ra chuồng hôi rồi ném nàng xuống. Bụp, Minh-Ðệ rơi xuống dưới hố đầy phân, đầy dòi bọ ngập đến ngang lưng. Nhưng vừa đau đớn, vừa mệt mỏi, nàng nào biết gì? Ðầu nàng gục vào bờ chuồng hôi.

    Ghi chú:
    Thời Lý, chưa có cầu tiêu che kín như bây giờ. Thường mỗi nhà hay nhiều nhà chung nhau đào một hố sâu, bắc ván lên để ngồi đi đại tiểu tiện. Xung quanh trồng cây ré để che phòng người ta "nhìn thấy". Cứ mấy ngày, phân nhiều thì đem tro đổ lên trên. Khi nào phân đầy, thì múc lên pha với nước đem bón cây, bón lúa.

    Trong nhà, mọi người vẫn tiếp tục ăn uống, vui vẻ. Bà Thiết vừa ăn, vừa nói với chồng:

    – Không biết ma quái, của nợ ở đâu nó lạc vào nhà này làm khổ cho tôi, làm khổ cho con Minh-Can.
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.02.2005 03:27:01 bởi NuHiepDeThuong >
    #2
      CDDLT 21.01.2005 18:08:44 (permalink)
      HỒI THỨ NHÌ

      Hoa trôi, bèo dạt đã đành,
      Biết thân mình, biết phận mình thế thôi

      (Ðoạn-trường tân thanh)





      Minh-Ðệ mê mê tỉnh tỉnh, trong cơn sảng đó, phản ứng tự vệ của cơ thể khiến nàng nàng thở hít theo thức Quan-Âm dạy để chống lại đau đớn. Chỉ lát sau sức lực sinh ra, nàng bám bờ leo lên khỏi chuồng hôi. Người đầy phân, nàng lội xuống ao tắm trong đêm khuya. Biết rằng về nhà sẽ bị đánh đòn nữa, nàng nghĩ:

      – Mình đã đến thế này thì thôi đành chịu thua nghiệp quả, nếu như mình về nhà bây giờ không chừng bị đánh chết cũng nên. Nhưng biết đi đâu đây?

      Chợt một tia sáng lòe lên trong đầu:

      – Hay ta sang chùa Từ-quang xã Dương-xá xin sư cụ trị bệnh cho, bệnh khỏi rồi, ta sẽ trở về nhà sau vậy.

      Nàng thất thểu đi trong đêm khuya, trong khi cơn sốt hành hạ. Biết rằng bây giờ, cổng làng đã đóng, nàng chui theo lỗ chó, vượt qua lũy tre rào ra ngoài. Sau khi đi được một quãng, người vừa sốt, vừa mệt, nàng vấp chân phải mô đất, ngã lộn đi hai vòng, nằm lăn ra, không bò dậy được nữa. Tuy đau đớn, mệt mỏi cùng cực, nhưng đầu óc nàng vẫn tĩnh táo, nàng vẫn thở hít, để có sức lực.

      Cứ như vậy không biết bao nhiêu lâu, khi thì nàng nhập tĩnh, khi thì nàng tụng kinh Bát-nhã. Nàng nghĩ thầm:

      – Quan-Âm phán rằng khi nào ta hợp được cả thở hít, nhập tĩnh mà trong tâm niệm kinh Bát-nhã thì nghiệp chướng mới hết. Nhưng đã hơn năm qua, ta cố gắng làm hoài mà nào có đạt được. Bây giờ ta vừa thở hít, vừa tụng kinh Bát-nhã cho tăng sức khoẻ vậy.

      Thế rồi nàng tiếp tục, nhưng cơn sốt làm cho đầu óc nàng mê loạn đi, trong khi tâm thức vẫn thở, vẫn hít, vẫn nhẩm đọc kinh Bát-nhã. Thực là chủ ý trồng hoa hoa chẳng mọc, vô tình tiếp liễu, liễu xanh tươi, trong cơn mê nàng đã làm được cái công việc mà Quan-Âm dạy. Nhưng chợt nàng thấy phía sau cần cổ cứng đơ, rồi hai đầu gối không động đậy được nữa, người nàng nóng bỏng như hòn than. Kinh hãi, nàng nghĩ thầm:

      – Giá như có ai đập vào cổ mình một cái thì hay biết mấy?

      Người càng cứng đơ, nàng càng như mê loạn, tức nhập tĩnh, trong khi mũi vẫn thở hít, trong tâm nhẩm đọc kinh Bát-nhã, rồi nàng ngất đi, nhưng tiềm thức vẫn làm việc.

      Ðâu đó tiếng chuông chùa ban mai vọng lại, các cổng làng mở ra, người người đi chợ, ra đồng làm việc. Một cỗ xe ngựa từ xa đi tới. Thình lình thằng bé đánh xe thấy phía trước có cô gái nằm ngang đường. Nó vội giật cương cho ngựa dừng lại. Con ngựa bị kéo cương gấp, nó cất cao vó trước hí lên inh ỏi. Một người ngồi trong xe ngó đầu ra hỏi:

      – Cái gì vậy Ðoan?

      Ðứa bé đánh xe đáp:

      – Thưa thầy có người đàn bà nằm chết trên đường.

      Người trong xe vội vàng nhảy xuống, ông sờ tay lên trán Minh-Ðệ thấy còn nóng. Ông bắt mạch, thấy mạch còn nhảy. Nhưng người Minh-Ðệ tiết ra mùi phẩn hôi thối cùng cực. Ông gọi phu xe:

      – Ðoan, xuống đây giúp thầy mau, người này đang bị sốt, chưa chết.

      Vừa lúc đó, một nông dân già dắt trâu đi tới. Anh ta hỏi:

      – Ủa kìa thầy lang Hòa, kìa cháu Ðoan có chuyện gì vậy?

      Ðoan đáp:

      – Thầy trò tôi đi thăm bệnh ở làng Thổ-lội vừa về tới đây thì thấy người này nằm chết ngang đường.

      Ông Hòa xua tay:

      – Người ta mới bị bệnh chứ chưa chết. Không biết nhà cửa đâu, mà lại ra nằm ở ngoài đường, ngoài chợ thế này. Mau gọi làng đưa về nhà, để tôi trị cho.

      Người nông dân chỉ ngôi chùa:

      – Kìa là chùa Từ-quang, tôi xin giúp thầy đưa người này vào đó tạm trú đã.

      Lão nông dân, cùng với thằng Ðoan khiêng Minh-Ðệ để lên xe, rồi ra roi cho ngựa chạy đến cổng chùa. Tới cổng, lão giật chuông inh ỏi. Một đứa bé đầu trọc lóc, nhưng mặc y phục thường, không phải người đi tu, chạy ra cung tay:

      – A-Di-Ðà Phật, chư khách có chuyện chi mà lên chùa sớm thế này? Ô kìa thầy lang Hòa. Ờ, cả Ðoan nữa.

      Thầy lang Hòa đáp:

      – Có người đàn bà nằm mê man trên đường, chúng tôi vực vào đây để nhờ bóng Phật cứu chữa cho bà ta.

      Ðứa bé đánh xe hỏi đứa trẻ ở chùa:

      – Nghi ơi! Thằng Ninh đen, thằng Quang con ghế đâu?

      Hai đứa trẻ khác từ trong sân chạy ra. Một đứa mặt đen thui nói:

      – Ninh Mai hắc đế là tao đây.

      Nó chỉ vào thằng bé da trắng:

      – Thằng Quang con gái, hồi này hết con gái rồi. Bọn tao nghe nói sáng nay mày theo thầy Hòa đi chữa bệnh, nên nghỉ học. Sao mày lại dẫn thầy vào đây?

      Vừa nói thằng Ninh đen vừa mở cổng chùa mở. Xe vào trong sân.

      Thằng Ðoan chỉ Minh-Ðệ:

      – Có người bị bệnh dọc đường, thầy lang bảo tao đánh xe đưa họ vào đây để trị bệnh. Bọn bay giúp tao một tay.

      Trời tảng sáng.

      Ba đứa trẻ Ðoan, Ninh, Quang cùng khiêng Minh-Ðệ đưa vào nhà sau, để lên chiếc dường tre. Thầy lang Hòa xem mạch, ông chưa giải đoán xong bệnh thì sư trưởng tới. Thầy vội chắp tay:

      – A-Di-Ðà Phật, bạch sư cụ.

      Sư cụ đã đứng tuổi, khoảng trên dưới năm mươi, chắp tay đáp lễ thầy lang rồi hỏi:

      – Bệnh tình tiểu thí chủ này ra sao?

      Ghi chú:

      Thời trước, các vị tăng thường được giới bình dân gọi bằng danh xưng: chú tiểu, sư bác, sư ông, sư cụ tùy theo tuổi hoặc tùy theo thứ bậc tu hành. Khi Phật-tử xưng hô với các vị sư, thường gọi là thầy hay sư-phụ. Như nhà sư còn trẻ thì gọi là tiểu-sư-phụ, trung niên thì gọi là sư phụ, còn đạo cao, đức trọng hoặc cao niên thì gọi là đại-sư-phụ. Những người không phải là Phật tử thì gọi chung các vị tăng bằng danh tự hòa thượng. Vị tăng còn nhỏ tuổi thì gọi là tiểu-hoà-thượng, trung niên thì gọi là hòa-thượng. Còn khi những vị ấy cao niên, hoặc đạo cao đức trọng thì gọi là đại-hòa-thượng, lúc đối thoại thì gọi là đại-sư. Còn những danh xưng đại đức, thượng tọa chỉ mới đây thôi.

      – Bạch thầy khó chẩn đoán vô cùng. Tạm thời con làm cho cô ấy tỉnh lại đã, rồi sẽ tính sau.

      Thầy rút trong bọc ra cái hộp bằng bạc, mở hộp lấy kim châm vào huyệt Nhân-trung của Minh-Ðệ. Minh-Ðệ đang mơ mơ, tỉnh tỉnh, nàng rùng mình rồi mở mắt ra. Nhìn thấy sư ông cùng những người lạ, nàng lên tiếng hỏi:

      – Thưa thầy, đây là đâu? Tại sao con lại ở đây?

      Vị sư nói:

      – Ðây là Từ-quang tự. Bần tăng pháp danh Viên-Chiếu. Không rõ nguyên do nào tiểu cô nương lại nằm giữa đường, may gặp y-sư Xuân-Hòa đi qua, mang vào đây để chữa trị.

      Nhìn gương mặt từ ái, cùng lời nói ôn nhu của nhà sư, bất giác Minh-Ðệ òa lên khóc. Viên-Chiếu nhỏ nhẹ:

      – Tiểu cô nương chẳng nên thương tâm làm chi. Trên thế gian này có biết bao nhiêu điều đứt ruột ra được, mà chúng sinh vẫn phải chịu. Những đau khổ của cô nương là do nghiệp quả muôn vàn kiếp trước để lại, chứ đâu phải mới đây?

      Mấy bà làm công quả cho chùa đã đến từ bào giờ. Viên-Chiếu bảo một bà:

      – Bà Ðinh mau vực cô đây ra ao tắm rửa sạch sẽ, rồi cho cô mượn bộ quần áo mặc tạm. Tắm xong đưa cô vào phòng dành cho khách, để y-sư khám bệnh.

      Ghi chú:

      VIÊN-CHIẾU Bồ-tát (999 – 1091)tục danh là Mai Trực, người đất Phúc-Dương, huyện Long-Ðàm, là cháu của Linh-Cảm thái hậu, tức anh em con cô con cậu với Nhật-Tông (dương kim Long-thụy Thái-bình hoàng đế tức vua Lý Thánh-Tông). Ngài thuộc thế hệ thứ bẩy dòng thiền Quán-bích. Ngoài ra ngài còn là một thi sĩ. Ðộc giả sẽ thấy trong những hồi sau, ngài có rất nhiều công lao trong việc đánh Tống, cùng hoằng dương chính pháp thời Lý.

      Bà Ðinh vực Minh-Ðệ đi rồi, nhà sư hỏi thầy lang:

      – Phải chăng tiên sinh là đệ tử của Vạn-thảo sơn trang? Bần tăng mắt kém không biết tiên sinh là cao đồ của vị nào trong Vạn-thảo tứ tiên?

      Thầy lang cung tay:

      – Bạch thầy con là đệ tử của đệ tam tiên.

      Viên-Chiếu á một tiếng:

      – Thì ra tiên sinh là đệ tử của Yên-vương vương phi đấy, hèn chi y đạo cao thực.

      Nguyên Hồng-Sơn đại phu có nhiều đệ tử, nhưng chỉ bốn người nổi danh y-thuật, y-đạo. Người lớn nhất là Dương Bình, thầy của nhà vua, hiện giữ chức Thái-sư, lĩnh Tả kim-ngô đại tướng quân, tổng chỉ huy thập đạo Thiên-tử binh, quyền hành cao hơn tể tướng. Người thứ nhì là Hoàng Giang cư sĩ, hiện là chưởng môn phái Sài-sơn, uy đức trải khắp thiên hạ. Người thứ ba là Lê Thiếu-Mai, con gái của đại phu, trước đây là Vương phi của Yên-vương Triệu Thành nhà Tống. Từ khi Yên-vương hoăng, Vương phi đi khắp một giải Hoa-Nam, Ðại-Việt, Ðại-lý cùng chư đệ tử hành y-đạo cứu nhân độ thế. Người thứ tư cũng là con trai đại phu tên Lê Văn, hiện là phò-mã Xiêm-quốc, lĩnh U-bon vương, tổng lĩnh binh mã toàn quốc. Tuy bận rộn quân vụ, nhưng Vương cũng thiết lập một trường y khoa, đào tạo y sĩ, đệ tử của vương hiện diện khắp nơi. Vì cả bốn đều có địa vị cao quý, nhưng vẫn hành y-đạo, phơi phới nay đây, mai đó, cứu nhân độ thế, nên được người đương thời tặng cho mỹ tự là Vạn-thảo tứ tiên.

      Ghi chú:

      Về hành trạng, xuất thân của Hồng-Sơn đại phu, Lê Thiếu-Mai, Lê Văn xin đọc Anh-hùng Tiêu-sơn, của Yên-tử cư-sĩ. Còn về việc Dương-Bình, Hoàng giang cư-sĩ oai trấn Hoa-Việt, xin đọc Anh-linh thần võ tộc Việt, cùng tác giả, cũng do Xuân-thu Hoa-kỳ ấn hành.

      Bà Ðinh chạy ra cung tay:

      – Thưa thầy cô ấy đã tắm xong, xin thầy ra tay tiên.

      Thầy Xuân-Hòa chẩn mạch, xem xét qua cơ thể Minh-Ðệ, rồi trầm ngâm nói một mình:

      – Cô này còn là một trinh nữ, tuổi khoảng mười sáu, do lao lực quá độ, khí huyết hư nhược nên trúng phong-hàn cảm mạo từ hơn năm ngày nay. Nhưng nhờ cô luyện nội công phái Mê-linh từ lâu, nội lực phi thường, nên không bị liệt giường. Ừ, bị cảm đã không thuốc thang, không nằm nghỉ thì chớ, lại còn lao lực ở chỗ ẩm thấp, vì vậy kinh khí bế tắc, nên nội công cao, chân khí mạnh mà không đẩy được hàn tà ra ngoài. Hôm qua bị ngã, toạc chân đổ máu. Ðã dùng thuốc dấu, nhọ nồi cầm lại rồi.

      Thầy hỏi Minh-Ðệ:

      – Tiếp theo, cô nương còn bị người ta dùng cầm nã thủ bẻ tay, dường như là một chiêu trong Tản-viên quyền pháp. Sau khi bẻ tay, người ta ném cô nương xuống đất, nên trán, vai, đầu xương hông bị bầm. Cuối cùng cô nương bị họ dùng hai chiêu cước của phái Tản-viên đá vào huyệt Hoàn-khiêu phải, và Chí-thất trái. Chiêu số khá mạnh. Có lẽ người đánh muốn giết cô đấy, vì với hai cái đá này nếu người thường thì e mất mạng rồi, nhưng cô nương có nội công cao thâm, nên chỉ ngất đi thôi. Ai đã đánh cô nương? Ðánh trong trường hợp nào? Tại sao cô nương cũng biết võ công mà không chống trả?

      Minh-Ðệ thấy thầy lang chẩn sơ mà biết rõ ngọn nguồn, nên nàng không dấu diếm:

      – Thưa thầy người đánh con là em ruột con. Con không biết võ, mà nó lại là học trò trường Trung-nghĩa, vì vậy con chỉ biết nghiến răng chịu đau thôi.

      Tất cả mọi người đều kinh ngạc kêu lên tiếng ồ.

      Thầy lang lắc đầu:

      – Tôi phải gặp Trung-nghĩa đại tướng quân để lý luận với ông ta về việc này mới được. Mang danh là Trung là Nghĩa, mà để cho học trò đả thương người không biết võ thì còn dạy ai được? Hơn nữa em định giết chị. Hừ...

      Thầy im lặng một lát rồi tiếp:

      – Tiếp theo, người ta dùng trứng gà luộc đánh cảm cho cô nương, rồi cô nương lại bị người nào đó đánh bằng gậy cứng tất cả 68 lần vào lưng, vào vai, bốn lần vào cánh tay. Như vậy chứng tỏ cô nương bị đánh trong lúc ngồi, mà tuyệt cô nương không có ý chống cự. Người đánh này không biết võ, nên các vết thương chỗ sâu, chỗ nông.

      – Dạ, thưa thầy đúng đấy ạ. Người đánh con chính là mẹ con. Mẹ con đánh con bằng đũa cả.

      Nhà sư Viên-Chiếu bật lên tiếng niệm Phật:

      – A-Di-Ðà Phật.

      – Rồi không hiểu sao trong lúc cô nương đau đớn ngất đi, lại rơi xuống nhà cầu, đáng lẽ đến đây thì cô nương chết. Nhưng nhờ cô nương luyện nội công phái Mê-linh đến trình độ khá thâm hậu, nên lại tỉnh dậy, rồi đi trong đêm đến nỗi ngất đi. Dám hỏi, cô nương là đệ tử của cao nhân nào trong phái Mê-linh?

      Minh-Ðệ ngơ ngác:

      – Thưa thầy con chưa từng học võ, con cũng không có sư phụ, con cũng chưa biết phái Mê-linh là gì!

      Thầy lang Xuân-Hòa tỏ vẻ không hài lòng:

      – Tiểu cô nương, tôi đem tâm não trị bệnh cho cô nương, sao cô nương lại dấu tôi? Cô nương đã luyện nội công thượng thừa của phái Mê-linh từ mấy năm nay rồi, mà cô nương còn dấu tôi làm gì?

      Minh-Ðệ chắp tay lạy:

      – Thưa thầy quả con chưa hề tập võ, nếu con tập võ, thì đời nào con để cho đứa em nó đánh đập nhục nhã như vậy?

      Nàng ngồi dậy chắp tay ngửa mặt nhìn ra tượng Quan-Thế-Âm ngoài sân:

      – Nam-mô cứu khổ cứu nạn Quan-Thế-âm bồ tát, đệ tử xin thề trước ngài rằng đệ tử chưa từng tập võ, cũng không hề biết phái Mê-linh là gì. Nếu đệ tử nói dối, thì thân này sa mười tám tầng địa ngục đời đời, kiếp kiếp.

      Thời bấy giờ Phật-giáo là quốc giáo, từ tăng ni cho tới Phật tử đều hết sức thuần thành, đạo đức. Bất cứ người ta bị nghi ngờ điều gì, thì chỉ cần tới bàn thờ Phật thề, là sự oan uổng được cởi bỏ. Thấy Minh-Ðệ tâm thành, thề độc như vậy, nhà sư Viên-Chiếu bước tới cầm mạch, rồi ông dùng nội công đẩy vào người nàng. Ông thấy trong người nàng có một luồng nội công âm nhu, pha lẫn thiền công, đúng là nội công Mê-linh, phản ứng lại cực mạnh. Ông dồn chân khí sang mạnh hơn, sức chống tự nhiên biến mất, mà lại hóa thành sức hút, khiến chân khí của ông ào ào tuôn ra. Kinh hãi ông vội thu liễm chân khí lại, rồi nhảy lùi ba bước. Ông biến sắc nhìn Minh-Ðệ, thấy nét mặt nàng ôn hòa, thành thực chứ không phải sảo trá. Như vậy nội công của nàng do đâu mà có?

      Thầy lang Xuân-Hòa thở dài:

      – Bạch thầy, đệ tử nói có đúng không?

      – Vâng, thầy luận đúng.

      Viên-Chiếu đáp: Nhưng bần tăng e trung gian có điều gì bí mật chăng. Tiểu cô nương đây là con Phật, ắt không dám thề dối đâu. Ta không nên kết tội cô vội.

      Ông hỏi Minh-Ðệ:

      – Thế từ trước đến giờ có ai giảng cho con về yếu quyết kinh Bát-nhã không?

      – Bạch thầy có. Con là Phật-tử, nên ngày nào sáng, chiều, cùng những lúc gặp điều khổ ải, con đều niệm kinh Bát-nhã cả.

      Viên-Chiếu, Xuân-Hòa nhìn nhau gật đầu.

      – Thế có ai dạy con thở hít không?

      – Thưa thầy có.

      Thầy lang Xuân-Hòa gật đầu:

      – Ai đã dạy cô nương, dạy trong trường hợp nào?

      Minh-Ðệ cúi đầu thuật chi tiết việc nàng được dạy nhập tĩnh, thở hít, nhưng nàng không nói rõ là do Quan-Âm dạy, mà lướt qua:

      – Người dạy con, bắt con phải phát thệ không được nói cho ai biết danh hiệu của người, nên con... con không dám khai.

      Xuân-Hòa thở phào:

      – Tôi nói cho cô nương biết, phúc trạch cô nương dồi dào còn hơn núi Tản-viên nữa. Cô nương đã được một vị có thân phận cao không biết bao nhiêu mà kể dạy khí-công thượng thừa cho cô nương, rồi lại giảng tâm pháp thiền công cho cô nương nữa, mà cô nương không biết đấy thôi.

      Sự thực Xuân-Hòa muốn nói đến một người tại thế, trong khi Minh-Ðệ lại tưởng là ông nói đến ngài Quán-Thế-Âm, nàng gật đầu, tỏ ý hiểu:

      – Dạ khi con thấy người xuất hiện, con đã biết người là ai và đảnh lễ rồi.

      Thầy lang Hoà gật đầu:

      – Bây giờ trước hết tôi trị cảm mạo cho cô nương bằng châm cứu, sau tôi tặng cô nương mấy lá cao để dán vào các vết thương.

      Nói rồi thầy lấy kim châm vào huyệt Phong-trì, Phong-phủ, Phong-môn, Túc-tam-lý, Hiệp-cốc, Thận-du, sau đó quay kim. Một khắc sau mồ hôi trên người Minh-Ðệ xuất ra như tắm, bao nhiêu cái mệt mỏi, bao nhiêu cái nặng nề trên cơ thể biến mất. Thầy hỏi:

      – Sao, cô nương thấy sao?

      – Thưa thầy con chỉ còn thấy nhức trên trán một tẹo thôi ạ.

      – Dễ mà.

      Thầy lại dùng kim châm vào huyệt Dương-bạch, Toán-trúc, Hậu-khê, rồi quay kim, chưa đầy mười tiếng đập tim, thì cảm giác đau đơn, nhức trán của Minh-Ðệ hoàn toàn biến mất. Thầy móc trong bọc ra hai hộp cao:

      – Tôi biếu tiểu cô nương hai hộp cao này. Hộp xanh, cô nương bôi vào mấy vết thương chảy máu. Khi nào những vết đó đóng vảy, thì cô nương dùng hộp mầu vàng xoa lên các vết bầm. Cứ như vậy khoảng nửa tháng thì khỏi hẳn, không lo gì nữa. Thôi tôi xin kiếu.

      Minh-Ðệ chắp tay lễ ba lễ:

      – Hiện trên người con không có một đồng, chả biết lấy gì tạ thầy.

      Xuân-Hòa xua tay:

      – Cô nương đừng ái ngại.

      Minh-Ðệ cúi đầu:

      – Ân đức này của thầy không bao giờ con quên.

      Thầy lang bước khỏi phòng. Thằng bé đánh xe tên Ðoan nói với hai đứa trẻ tên Ninh, Quang:

      – Chiều gặp lại.

      – Ừ, chiều gặp lại.

      Nhà sư Viên-Chiếu tiễn thầy lang ra cửa, rồi trở vào nói với bà Ðinh:

      – Bà cho tiểu cô nương đây trú tại căn phòng phía sau nhà tổ, hằng ngày chăm sóc cho cô. Khi nào cô khỏi, thì thầy sẽ cho người đưa cô về với bố mẹ cô.

      Hai đứa trẻ tên Ninh, Quang lăng xăng dọn phòng cho Minh-Ðệ ở. Minh-Ðệ nhìn hai đứa: mặt mũi khôi ngô, dáng khoẻ mạnh, tuổi khoảng 8-9. Thằng Quang chỉ cái giường bảo nàng:

      – Chị nằm đây mà nghỉ, em đi lấy cháo nóng cho chị ăn. Cháo nóng nấu với lá hành, gừng, chữa cảm hay lắm.

      Minh-Ðệ hỏi thằng Ninh:

      – Các em đi tu đấy à?

      – Không! Bọn em là trẻ trong làng, cùng đến trường học chữ với nhau. Ðợi lớn lên mới xin học thầy đồ Thái.

      – Trong chùa có mấy đứa như em?

      – Tất cả mười tám đứa. Nhưng chỉ năm đứa em là chơi thân với nhau thôi. Năm đứa chúng em là con nhà nghèo, nên phải giúp đỡ việc vặt trong chùa, làng mới nuôi bọn em. Năm trước, riêng thằng Ðoan được thầy lang Hòa đem về nhà dạy thuốc nên chỉ còn bốn đứa. Em tên là Ninh, vì da em đen nên chúng nó gọi em là Ninh đen, rồi Ninh Mai hắc-đế. Thằng Quang tính rụt rè như con gái, nên có qúy danh là Quang con ghế. Trước kia thằng Ðoan không có qúy danh, từ ngày theo thầy lang Hòa, nó có tên là Ðoan lang băm.

      – Em nói bọn em có năm đứa, sao chỉ thấy có ba?

      À thằng Nghi lùn vắng mặt, vì sư cụ sai nó đi đưa thư. Có lẽ chiều mới về. Còn thằng Dật lé thăm quê, mai mới lên.

      – Thế bọn em làm việc gì trong chùa?

      – Có làm gì đâu? Sáng dậy sớm nhập thiền, xong làm việc vặt như lau tượng, quét sân. Trưa thì học chữ. Thằng Ðoan ở với thầy lang Hòa nhưng trưa phải đến đây học chữ.

      Vì vết thương trên người quá nhiều, hơi cử động là đau, nên Minh-Ðệ đóng cửa, ngồi trong phòng thở hít, nhập tĩnh cùng luyện yếu chỉ kinh Bát-nhã. Bốn đứa trẻ Dật, Quang, Nghi, Ninh thay nhau đem cháo, nước đến phòng cho nàng. Nhờ thầy lang, nàng biết ba bảo bối mà Quan-Âm dạy nàng là nội công thượng thừa của phái Mê-linh, nên nàng cứ luyện đi, luyện lại suốt ngày. Sang đến ngày thứ tư, thì các vết thương chảy máu đã đóng vảy, nên sáng, chiều nàng đều lên bảo điện dự khóa lễ. Thời giờ còn lại, nàng giúp việc chùa như quét sân, nhặt rau, dã gạo, nấu bếp, kể cả làm cỏ. Những người làm công quả trên chùa, ngoài bà Ðinh ra, còn đến trên mười bà. Họ đều ở vào tuổi trên năm mươi, rất thuần thành. Nghe chuyện Minh-Ðệ, bà nào cũng thương cảm hết. Các bà may quần áo cho Minh-Ðệ mặc. Trong các bà, thì bà Hiếu, bà Liên, bà Ðức là ba bà hay săn sóc nàng nhất. Vì vậy, đôi khi nàng tủi thân:

      – Tại sao mẹ mình lại không thương mình bằng mấy bà này? Giá mình có một bà mẹ như mấy bà này có phải hạnh phúc biết bao nhiêu không?

      Trong chùa, ngoài sư trưởng Viên-Chiếu, còn có năm nhà sư trẻ, pháp danh Viên-Căn, Viên-Mộc, Viên-Chi, Viên-Diệp, Viên-Hoa, tuổi khoảng 24-25 và mười chú tiểu, tuổi từ 10 đến 15, với năm đứa trẻ Dật, Quang, Nghi, Ðoan, Ninh.

      Công việc của chư tăng trong chùa rất giản dị. Sáng sớm dậy dự khóa lễ, sau đó ngồi nghe sư trưởng giảng kinh. Buổi giảng kinh thường kết thúc trước Ngọ. Ăn cơm trưa xong, thì chư tăng phân tán đi làm việc. Chiều, ai nấy về tịnh thất của mình nhập thiền.

      Khi dọn dẹp Tàng-kinh các, Minh-Ðệ thấy ở đây cạnh những kinh điển nhà Phật, còn có không biết bao nhiêu sách của Nho-gia, Ðạo-gia, cùng kinh, sử, tử, tập. Vì vậy ngoài những lúc làm việc, nàng lại đem sách về phòng đọc, thành ra cuộc sống ở chùa với nàng trở thành những ngày thanh nhàn, hạnh phúc gấp trăm, gấp nghìn lần ở với cha mẹ.

      Năm đứa trẻ đối với nàng cực kỳ thân thiết. Tuy chúng mới học có ba năm, mà đã hết Tam thiên tự, Ấu học ngũ ngôn thi, và bắt đầu học Nam sử. Sau buổi học trên chùa do thầy đồ trong làng dạy, chúng lại xuống phòng nàng, xin nàng kể chuyện cổ tích, chuyện lịch sử cho chúng nghe. Riết rồi Minh-Ðệ trở thành một bà đồ của chúng. Vì nàng ngọt ngào, dễ tính, nên chúng luôn luôn ở cạnh nàng.

      Một hôm sư trưởng gọi bà Ðinh với Minh-Ðệ lên bảo điện, dạy rằng:

      – Thầy có việc cùng chư tăng phải đi xa dự kiết hạ trong mấy tháng mới về. Vậy nhất thiết mọi việc ở nhà thầy giao cho bà với Minh-Ðệ. Nếu có chư tăng, hoặc khách vãng lai, thì phải làm cơm chay, mang hoa quả cúng dàng cho chu đáo.

      Ông dặn năm đứa trẻ:

      – Năm con ở nhà phải hết sức nghe lời chị Minh-Ðệ. Mỗi khi có điều gì không hiểu, thì nhờ chị giảng cho.

      Năm đứa reo hò:

      – Bạch cụ, chúng con xin tuân pháp dụ của cụ ạ.

      Ðúng là vắng chủ nhà, gà mọc đuôi tôm. Năm đứa trẻ đang tuổi lớn, chúng leo trèo, nghịch ngợm khiếp lắm. Lúc đầu Minh-Ðệ la chúng. Nhưng hôm nay la, thì mai chúng lại tái phạm. Biết cái tuổi này ưa ngọt, nàng bảo năm đứa:

      – Nếu trong năm em, mà em nào phạm tội, thì tối chị không kể chuyện cho nghe nữa.

      Quả nhiên biện pháp này hiệu nghiệm. Từ đấy, nàng nói gì, chúng nghe răm rắp. Trong năm đứa thì Phạm Dật lớn tuổi nhất, tính tình cẩn trọng. Bố mẹ nó làm tá điền, nhưng năm ngoái ruộng bị sâu ăn, không đủ lúa dẫn tô cho chủ điền, nên chủ điền siết nợ căn nhà ọp ẹp với miếng đất nhỏ đem bán trừ nợ. Mẹ nó phải bán thân làm đầy tớ cho một phú gia, bố nó thì làm lực điền cho nhà giầu kiếm ăn. Riêng nó, được sư cụ mang về chùa nuôi cho ăn học. Trong chùa, nó phụ trách chăn trâu cắt cỏ. Thứ nhì là Vũ Quang, gia đình nó tương đối khá giả, nhưng năm trước đây bố nó bị bệnh hoạn, nên gia đình khánh kiệt. Khi bố nó chết, mẹ nó phải vay tiền của một ông nhà giầu chôn cất. Ðoạn tang chồng, mẹ nó không có tiền trả nợ, phải chịu tái giá, làm lẽ cho chủ nợ. Nhưng ông chủ nợ chỉ yêu mẹ, mà không yêu con, ông đánh đập nó hoài, chịu không nổi, nó bỏ đi ăn mày. Sư cụ thương tình, đem nó về nuôi dạy. Ðứa thứ bà là Hoàng Nghi, không biết lý lịch ra sao. Người trong làng thuật rằng, cách đây mười năm, có một ông cỡi ngựa bị thương nặng, lưng địu đột đứa trẻ đến chùa xin trú ngụ qua đêm. Sư cụ thương tình băng bó vết thương cứu ông, cùng nấu cháo cho đứa trẻ uống. Ðêm đó sư cụ với ông ta nói chuyện đến sáng. Hôm sau, ông ta trao đứa trẻ cho sư cụ nuôi dùm, rồi lên ngựa ra đi. Ðứa trẻ lớn lên trong chùa, không biết cha mẹ là ai. Cái tên Hoàng Nghi là do sư cụ đặt cho nó. Trong năm trẻ, thì Nghi cực kỳ thông minh. Tuy mới mười tuổi, mà nó đã học sang Tứ-thư, biết làm thơ, phú, soạn văn tế; nó lại lắm mưu nhiều mẹo. Ðứa trẻ thứ tư là Lý Ðoan. Bố mẹ nó làm nghề thợ rèn, năm trước đây có giặc, bố nó bị xung quân, rồi tử trận. Làng cấp ruộng tử tuất cho mẹ con nó. Nhưng năm sau, mẹ nó chết, làng lại giao ruộng tuất cho chùa, để chùa nuôi dạy nó. Cuối cùng là Trần Ninh, nó là con ông thủ bạ trong làng. Cho nên sáng nó đến chùa học, chiều lại trở về nhà.

      Hơn nửa tháng sau, có chiếc xe song mã đậu trước chùa, trên xe, một đôi nam nữ ngồi rất nhàn nhã, tuổi khoảng trên bốn chục. Nam thì tướng mặt, thân hình cực kỳ hùng tráng, uy vũ. Nữ thì thanh nhã, nhưng đẹp tuyệt trần. Cả hai đeo kiếm trên lưng. Phu đánh xe là một người đàn ông lực lưỡng tuổi trên hai mươi. Minh-Ðệ vội chạy ra chắp tay:

      – Kính chào quý khách. Không mấy khi quý khách vãng cảnh chùa, mời qúy khách vào chùa lễ Phật.

      Người nữ hỏi:

      – Cháu gái, thế sư trưởng đâu?

      Minh-Ðệ nghe giọng nói của bà hơi lạ, nàng cung tay:.

      – Thưa bà thầy cháu cùng chư tăng vắng nhà ít ngày.

      Người đàn bà nói:

      – Tiếc quá, Viên-Chiếu đại sư vân du xa. Chúng tôi với đại sư là chỗ thâm giao. Tuy đại sư vắng nhà nhưng chúng tôi cứ vào chùa chờ ít ngày vậy.

      Tiếng « đại » bà nói thành tiếng « lại ».

      Người đàn ông nói nhỏ với vợ:

      Người đàn ông nói nhỏ với vợ:

      – Em xem, sư huynh mình thực ngang tàng. Ai lại chùa toàn tiểu sa di, mà anh ấy dám cho con gái ở nhờ, không sợ làng bắt lỗi ư?

      Người nữ cười, nét mặt bà rất tươi:

      – Tự sư huynh nhiễm phải tính ngang tàng của chúng mình đấy.

      Tiếng « tính » bà nói thành « lính ».

      Minh-Ðệ cung kính dẫn đường cho hai ông bà. Dường như ông bà đã đến đây nhiều lần, nên tỏ vẻ thành thạo đường lối. Sau khi lễ Phật xong, người đàn bà nói:

      – Chúng ta là bạn hữu của đại sư Viên-Chiếu. Chắc cháu mới đến đây, nên chưa gặp ta. Ta họ Trần, phu quân ta họ Triệu. Chúng ta tạm ở lại đây mấy ngày chờ sư huynh ta về vậy.

      Minh-Ðệ sai năm ông thiên lôi dọn phòng vãng lai cho hai ông bà ở. Nàng bưng một mâm quả, pha trà bưng lên:

      – Kính mời ông bà thụ lộc Phật ạ.

      Nàng điều khiển năm đứa trẻ, hầu hạ ông bà cực kỳ chu đáo. Sang ngày thứ ba, bà hỏi:

      – Này cháu, ta thấy dáng đi của cháu nhẹ như chim, thân uốn cong đẹp vô cùng. Lại nữa, cháu làm đủ việc, việc đồng, việc vườn, bổ củi mà bàn tay thon nhỏ, mịn màng. Hơi thở của cháu dài liên miên bất tuyệt, vậy phải chăng cháu là đệ tử của phái Mê-linh?

      Minh-Ðệ chắp tay lễ phép:

      – Thưa ông bà cháu chưa từng học võ, nhưng trong lần hoạn nạn, cháu được một người cứu giúp, rồi dạy cháu mấy thức thở hít cho khoẻ, thế thôi. Chứ cháu không được biết người là ai, phái võ Mê-linh là gì? Hôm trước thầy lang chẩn mạch cho cháu, rồi cũng nói thế...

      Ông họ Trần hỏi:

      – Có phải người đó mặc quần áo trắng, mặt rất đẹp không?

      – Dạ.

      Ông nhìn vợ cười khúc khích:

      – Không ngờ bà chị mình xuất hiện ở đây, mà mình không biết. Bà đã ban ơn cho nó mà lại không cho nó biết thân thế. Mấy hôm nay nó hầu hạ mình thực chu đáo, nói năng lễ độ, mỗi lời đều tỏ ra lòng dạ lương thuần. Phu nhân tính sao? Phải thưởng cho nó cái gì chứ, bằng không mình mắc nợ nó rồi kiếp sau mình lại phải trả thì khổ lắm.

      Bà vợ bàn:

      – Con bé này tướng người rất tốt, tương lai sự nghiệp e không tầm thường. Ta dạy gì cho nó bây giờ?

      Ông hỏi Minh-Ðệ:

      – Bà chị ta đã dạy cháu nhập tĩnh, bỏ ra ngoài Ngũ-uẩn, Lục-tặc, rồi giảng yếu quyết kinh Bát-nhã, có đúng thế không?

      – Dạ.

      Thình lình ông vung tay đánh vào đỉnh đầu nàng. Minh-Ðệ choáng váng, nàng nghiến răng vận sức chống trả, nhưng sức ép mạnh quá, khiến người nàng lảo đảo suýt ngã.

      Người đàn bà phất tay đỡ nàng, rồi vuốt tóc nàng như vuốt tóc con gái:

      – Cháu phúc trạch khôn lường. Ta là bạn của sư trưởng chùa này, cũng như sư thúc của cháu. Ta hỏi gì cháu phải nói thực cho ta nghe. Vậy vì lý do gì cháu là gái, mà lại được ở trong chùa?

      Minh-Ðệ thấy cử chỉ của bà từ ái quá, khiến nàng cảm động, hai hàng nước mắt chảy dài xuống má. Nàng thuật lại những thảm cảnh của mình cho hai ông bà nghe. Ông nói:

      – Bà Quan-Âm chỉ dạy cháu nội công thượng thừa, để cháu có thể chịu đòn, mà không dạy cháu cách chống trả. Vậy ta dạy cho cháu mấy thức võ, để khi gặp ai đánh mình, cháu sẽ dùng để tự vệ.

      Rồi không đợi nàng có thuận hay không, ông bảo:

      – Cháu ngồi ngay ngắn lại.

      Ông móc trong bọc ra một cuốn trục lụa, rồi treo lên tường. Trên tấm lụa có vẽ ba đồ hình của người đàn ông. Một cái vẽ phía ngực, một cái vẽ phía ngang, một cái vẽ phía sau, trên mỗi hình đều có những đường vẽ chằng chịt xanh, đỏ, trắng, vàng, đen. Ông đưa mắt cho bà. Bà giảng:

      – Ðây là đồ hình của mười hai kinh mạch và Kỳ-kinh bát mạch. Cháu tuy luyện Thiền-công, nhưng chưa biết vận khí bằng kinh mạch để phát lực, thì cũng giống như con trâu khỏe mạnh, mà bị trói chân trói tay vậy; người ta đánh thì chịu, không thể chạy, hay chống đỡ gì được cả. Ta dạy cháu vòng Tiểu-chu thiên cùng cách phát lực, thì cháu mới biết xử dụng cái lực của Thiền-công mà cháu luyện.

      Ghi chú:

      Kỳ-kinh bát mạch: trong cơ thể con người có mười hai chính kinh. Mỗi kinh liên hợp với một tạng, một phủ. Ngoài ra còn có Kỳ-kinh bát mạch, tức những mạch không liên hợp đặc biệt với tạng phủ nào. Ðó là Nhâm-mạch, Ðốc-mạch, Âm-kiêu, Dương-kiêu, Âm-duy, Dương-duy, Xung-mạch, Ðới-mạch.

      Minh-Ðệ như người trong đường hầm ra ánh sáng, như người bịt mắt được mở ra, nàng sung sướng gật đầu:

      – Dạ cháu hiểu.

      – Trên cơ thể con người có ngũ tạng, lục phủ, thêm tâm bào, cộng là mười hai. Cứ mỗi tạng, mỗi phủ lại liên hợp với một đường kinh, vì vậy có mười hai chính kinh. Ngoài ra còn có Kỳ-kinh bát mạch. Kỳ kinh bát mạch là Nhâm-mạch thống lĩnh các kinh âm. Ðốc-mạch tổng hội các kinh dương. Ðới-mạch như cái dây lưng buộc ngang thân mình. Xung-mạch chạy từ phía trong chân, toả ra lồng ngực. Âm-kiêu, Dương-kiêu chạy từ mắt cá lên đầu. Dương-duy nối các kinh dương, Âm-duy nối các kinh âm chạy từ chân lên đầu.

      – Cháu nhớ rồi.

      – Khi cháu vận khí từ bất cứ bộ phận nào trong cơ thể về Nhâm, Ðốc mạch, rồi đi một vòng từ Nhâm về Ðốc hoặc ngược lại, là vòng Tiểu-chu-thiên. Muốn dẫn như vậy cần đả thông Ðốc, Nhâm mạch. Nào bây giờ cháu hít hơi, tưởng tượng khí từ mũi vào óc, rồi thở, nhưng tưởng tượng khí từ óc xuống mũi ra ngoài.

      Minh-Ðệ làm theo, lập tức người nàng nóng bừng lên. Ông chỉ vào Ðốc-mạch:

      – Bây giờ cháu dẫn khí từ mũi lên đỉnh đầu, tới huyệt Ðại-trùy rồi xuống ngang lưng...

      Nàng làm thử, nhưng bị tắc ở xương sống chỗ ngang vai. Ông mìm cười:

      – Nếu để cháu tự vận khí đả thông Kỳ-kinh bát mạch, rồi vận khí theo vòng Tiểu-chu-thiên cũng được, nhưng e quá lâu. Ðể chúng ta giúp cháu.

      Bà chỉ viên gạch ở sân:

      – Cháu xòe bàn tay ra, vỗ lên viên gạch cho ta xem nào.

      Minh-Ðệ vung tay lên, bộp một tiếng, nàng cảm thấy đau đớn vô cùng. Vị phu nhân xoa tay một cái, cảm giác đau đớn biến mất. Ðến đây bà đưa mắt nhìn ông. Ông mỉm cười, xòe bàn tay để lên huyệt Bách-hội Minh-Ðệ, nàng cảm thấy như một chậu nước nóng đổ lên đầu, rồi cái nóng đó chạy theo cần cổ xuống xương sống. Tới ngang lưng luồng nhiệt khí chia làm hai. Một chạy vào thận, rồi bào cung. Một tiếp tục theo xương sống tới hậu môn, sau đó qua bụng dưới, gặp nhánh trước, đi giữa bụng lên ngực, cổ trước, tỏa ra mặt, cuối cùng lên đỉnh đầu. Bất giác không tự chủ được, nàng rùng mình một cái, toàn người nàng như rơi vào một hồ nước nóng, cảm giác khoan khoái không bút nào tả xiết.

      Ông bảo nàng:

      – Cháu hít hơi, rồi dẫn khí từ lưỡi, xuống cổ, qua ngực, bụng dưới, sau đó đưa ra lưng, từ lưng cháu dẫn khí dọc xương sống lên huyệt Ðại-trùy, sau đó đưa ra bàn tay.

      Minh-Ðệ làm theo, nàng thấy bàn tay căng thẳng run lên như muốn nổ tung ra ngoài. Bà nhắc:

      – Cháu làm lại lần nữa, khi thấy tay căng thẳng thì vỗ vào viên gạch một cái.

      Minh-Ðệ hít hơi, dẫn khí, vung tay vỗ vào viên gạch. Bộp một tiếng, viên gạch vỡ ra làm năm sáu mảnh, mà tay nàng không hề đau đớn. Nàng há hốc miệng ra kinh ngạc:

      – Thưa phu nhân, tại sao tay cháu lại mạnh như vậy? Phu nhân cũng là đức Phật-bà phân thân dạy cháu ư?

      Phu-nhân nắm tay nàng, tay kia bà vuốt tóc, rồi nói bằng giọng ôn nhu:

      – Ta không phải Phật bà đâu. Ta cũng là người trần như con vậy.

      – Thế sao ông mới vỗ lên đầu con, bà mới dạy con chốc lát mà sức con đã như thế này. Nếu như con phải bổ củi, thì sẽ hạ búa, cũi đã vỡ ra rồi.

      Ông cười:

      – Nếu như có kẻ nào đánh con, con vỗ vào đầu nó một cái, thì đầu nó cũng vỡ ra như viên gạch.

      Minh-Ðệ bật lên tiếng la:

      – A-Di-Ðà Phật, dù kẻ nào ác đến đâu, con cũng không đánh nó vỡ đầu nó đâu.

      Ông lắc đầu:

      – Giả như có đứa nó giết con, thì con có đánh lại nó không?

      – Dạ con chạy, hay đỡ đòn mà thôi.

      Ông nhăn mặt, gằn từng tiếng. Giọng của ông trở thành lạnh lùng:

      – Không được. Ðể ta dạy con một phương cách đối phó với kẻ ác. Phàm những kẻ, mà ta đụng chạm đến chúng, chúng hại ta, đó là lẽ thường, ta có thể tha thứ cho chúng. Còn đối với những kẻ mà ta không đụng đến chúng, tự nhiên chúng hại ta, thì ta phải trả đòn gấp đôi. Còn như kẻ mà ta ra ơn cho chúng, chúng lại hại ta, thì ta phải tru diệt bố mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, chó mèo, gà vịt nhà nó. Còn như cháu cứ hành xử theo mấy cụ sư, thì cháu sẽ bị chết oan có ngày.

      Ông ngửa mặt nhìn trời, như nói một mình:

      – Việc nhà, việc đời, việc nước cũng thế. Hiện ngoài biên cương có việc dụng binh. Vua Tống không muốn gây sự, nhưng bọn biên thần Nam phương cho binh lính phạm biên. Vua bà Bình-Dương đã nhiều lần sai sứ sang lý luận với họ, mà họ vẫn chứng nào tật đó. Nếu cháu là Thông-Thụy hoàng đế, cháu sẽ làm gì? Hay cháu cứ để dân biên giới cho binh lính Tống sang mưốn cướp là cướp, muốn giết là giết?

      – Cháu phải làm cho hai bên không chém giết nhau.

      – Làm bằng cách nào?

      – Cháu cho quân mình đánh lại bọn cướp, có thế chúng mới sợ, không gây hấn nữa, rồi cáo với triều Tống. Như vậy may ra hai nước tránh khỏi binh ách.

      – Ðược. Tạm được. Nhưng con ơi, cái gốc là bọn biên thần Tống. Ta nghĩ phải xua quân sang, giết bớt đi mấy tên đầu sỏ đó, nếu cần thì giết hết cả nhà nó, từ bố mẹ, vợ con, anh em, tôi tớ, chó mèo, gà vịt.

      Tiếng ông lạnh như băng, khiến nàng không tự chủ được:

      – Dạ, con xin đa tạ ông đã dạy con bài học quý giá.

      Người sau đọc sử Tống-Việt chỉ biết Lý Thường-Kiệt, Tôn Ðản, Tự-Mai, Lê Văn tuân chỉ Linh-Nhân thái hậu mang quân đánh Khâm, Liêm làm rung động nước Tống; không ai biết rõ chủ trương này của bà. Chỉ độc giả Nam-quốc sơn hà là biết rằng hành động của bà là do lời dạy dỗ của vợ chồng ông Trần này cho bà trong lúc còn hàn vi mà thôi.

      Ông tiếp:

      – Bây giờ trở lại việc tự nhiên con có sức mạnh. Sức ở đâu mà ra? Không phải chúng ta dạy một lúc, mà con có thầm lực như vậy.

      Minh-Ðệ gật đầu tỏ ý hiểu. Ông hỏi:

      – Con gật đầu, thế con cho ta biết tại sao chỉ mới đây mà công lực con lại biến đổi mau như thế không?

      – Thưa ông ban nãy phu-nhân đã giảng rồi, con như con trâu có sức, mà bị trói không thể phát lực. Từ trước đến giờ, con đã được đức Quan-Âm dạy thiền, dạy nhập tĩnh, dạy khí công, con luyện tập mấy năm, chân khí đầy ắp, nhưng không biết phát lực, nên bị người ta khi khiến, nhục nhằn.

      Bà tỏ ý vui vẻ:

      – Con thông minh lắm, ngoài sự ước đoán của chúng ta. Bây giờ ta dạy con sang phần khác.

      Bà chỉ lên đồ hình:

      – Ban nãy ta nói, trên người có 12 chính kinh. Chính kinh chia ra làm sáu kinh tay, gọi là thủ kinh; sáu kinh chân gọi là túc kinh. Trong sáu kinh tay có ba kinh dương, ba kinh âm. Trong sáu kinh chân cũng thế.

      – Con nhớ rồi.

      – Con thông minh lắm. Các thủ kinh, túc kinh chia làm từng cặp. Cứ một kinh dương với một kinh âm nối với nhau bằng lạc mạch. Bên trong cơ thể cũng có lạc mạch nối tạng với phủ. Trong khi bên ngoài, các kinh dương chân, tay lại giao hội thông với nhau. Như vậy chân khí tuần lưu trong mười hai kinh. Nếu cháu vận khí từ một điểm nào đó, đi theo 12 kinh mạch, rồi trở về chỗ cũ, là đã tuần lưu một vòng Ðại-chu-thiên.

      Thế rồi ông bà ở lại dạy Minh-Ðệ trên nửa tháng, mà chưa thấy Viên-Chiếu về. Ông bàn với bà:

      – Thôi ta đi thôi, anh ấy dẫn đệ tử đi như vậy ít ra là ba tháng, đợi sao được.

      Trước khi đi, ông bảo Minh-Ðệ:

      – Võ chia làm hai phần, một là nội lực, muốn có nội lực phải luyện Thiền-công, Khí-công. Thứ nhì là chiêu thức, tức cách xử dụng nội lực khắc chế địch. Quan-Âm của con, cũng như ta với phu nhân chỉ dạy con luyện nội lực. Hôm nay ta dạy con một vài thế ngoại công phòng thân.

      Thế rồi ông bà dạy nàng 18 thế tấn, 36 đòn tay, 36 đòn chân căn bản, và mấy bài quyền. Cuối cùng ông dạy nàng ba chiêu chưởng. Ông nói:

      – Chúng ta dạy con, nhưng không thu con làm đệ tử, con chả nên biết tên chúng ta làm gì. Nếu như sau này con bị người ta uy hiếp quá, mà không đủ sức chống trả, thì con cứ xử dụng ba chiêu chưởng này, tự nhiên chúng sợ mà không dám uy hiếp con nữa.

      Trước lúc lên đường, không biết nghĩ sao, bà móc túi trao cho Minh-Ðệ ba nén vàng, mười nén bạc, rồi nói:

      – Con giữ lấy, sau này sẽ có dịp dùng đến.

      Tuy là con gái một gia đình tương đối giầu có trong làng, nhưng Minh-Ðệ chưa từng được sờ đến bạc, chứ đừng nói sở hữu chủ một nén vàng. Từ ngày sinh ra, bị bố mẹ ghét bỏ, nên chẳng bao giờ nàng cầm tiền trong tay. Một dịp duy nhất vào năm mười tuổi, nàng được bà cô mừng tuổi cho hai đồng tiền trinh. Nàng lấy dây xuyên vào lỗ rồi đeo lên cổ. Trong khi Minh-Can thì đeo đầy người vàng và cả ngọc nữa. Nàng bị Minh-Can cùng với đám bạn chúng cười chế diễu là ngẫn ngờ, ngố con. Bây giờ nàng được Trần phu nhân tặng cho số vàng bạc quá lớn, nhưng nàng lại để hết tâm ý vào cuộc chia tay, mà không biết bao giờ nàng gặp lại cặp vợ chồng này. Nước mắt chảy dài trên má, mắt đỏ hoe, nàng cầm chặt tay bà mà khóc:

      – Biết bao giờ con mới được gặp lại ông bà?

      Trần phu-nhân ôm đầu nàng vào ngực bà một lúc, rồi buông ra, hai ông bà vọt lên xe. Anh phu xe đánh xe rời chùa. Minh-Ðệ đứng nhìn theo cho đến khi chiếc xe khuất vào chân trời, rồi mới đóng cổng.

      Vì những lúc ông bà dạy võ cho Minh-Ðệ, nhằm vào buổi học của năm đứa trẻ, nên chúng không biết gì về việc ông bà quý nhân đã làm.

      Từ đấy, ngày ngày nàng luyện nội công, ôn lại các thế võ, thoáng một cái, đã qua hai tháng. Hôm ấy, nàng đang cùng năm trẻ quét sân, thì có tiếng chân chạy rầm rập, cùng tiếng người reo hò. Nàng nhìn ra cổng, thì thấy trên đường dẫn vào chùa có con trâu đang chạy. Phía sau, xa xa là năm người, kẻ cầm dao, người cầm gậy đuổi theo. Trong năm người, thì một người đàn ông tuổi khoảng năm mươi, một người đàn bà tuổi khoảng bốn mươi, một trung niên nho sĩ tuổi trên ba mươi, và hai thiếu niên. Nàng đoán rằng con trâu ăn lúa, phá vườn sao đó, nên bị người ta đuổi đánh. Nàng vội vàng mở cổng chùa cho trâu chạy vào. Con trâu đến trước thềm lên chùa, thì quỳ gối xuống, khóc rống lên, nước mắt dàn dụa ra.

      Ðoàn người đã đến cổng chùa, người đàn ông lớn tuổi chỉ vào mặt Minh-Ðệ :

      – Cô kia, trả trâu cho chúng tôi ngay.

      Thằng Ninh cãi:

      – Trâu này chưa chắc là của ông, ông có gì làm bằng rằng ông là chủ nó không?

      Người đàn ông mắng thằng Ninh:

      – Ranh con, cút đi.

      Minh-Ðệ ôn tồn trả lời:

      – Tự nhiên trâu chạy vào chùa, chứ tôi có bắt của các ông đâu mà trả?

      Mấy người cầm gậy bao quanh con trâu. Người tuổi khoảng ba mươi chỉ vào con trâu:

      – Chúng tôi chuẩn bị giết trâu mừng lễ thượng thọ sư phụ, thì nó giật đứt dây bỏ chạy.

      Nhìn con vật có linh tính đang quỳ rước thềm chùa khóc rống lên, Minh-Ðệ nói:

      – Các ông ơi, hiện bây giờ đang thiếu trâu, mấy nhà mới có một trâu cầy, sao các ông lại nỡ giết con vật giúp ích cho nông tang như vậy? Vả lễ thượng thọ là cầu cho cụ nhà sống lâu, thêm phúc, mà lại đi giết trâu thì thực là tổn âm đức quá.

      Người đàn bà văng tục:

      – Con đĩ kia, mày biết gì mà nói, lễ thượng thọ không giết trâu thì giết tiên nhân cha mày à?

      Minh-Ðệ vẫn không giận, nàng đứng ngăn trước con trâu như che chở cho nó, năm đứa trẻ cũng đứng quanh nàng:

      – Bà ơi, bà đứng trước thềm của chùa, là chốn đạo đức thanh nhàn, thì chẳng nên nói lời thô tục, e có tội với đức Phật. Tôi không đụng chạm đến bà, mà bà gọi tiên nhân tôi ra mà chửi, thế là đạo nghĩa gì vậy?

      Nàng nói với người đàn ông lớn tuổi:

      – Cháu khuyên các bác đừng giết nó. Nó có linh tính, biết chạy lên chùa cầu cứu, mà còn giết nó thực ác quá.

      Thằng Ðoan cũng nói:

      – Ví thử có ai giết ông, ông có khóc không? Ông có đau không?

      Một người trẻ nắm tay Minh-Ðệ kéo mạnh, lôi nàng sang bên cạnh. Phản ứng tự nhiên, Minh-Ðệ giật tay lại. Chỉ nghe đến vuø một cái, người trẻ bay bổng qua đầu nàng, ngã sóng xoài trên bãi cỏ trước sân chùa.

      Năm đứa trẻ reo hò hoan hô:

      – Chị giỏi thực!

      Thiếu niên khác trong bọn bắt trâu kêu lớn:

      – Cái gì vậy Ðạt?

      – Không hiểu nữa, dường như nó có tà thuật.

      Y chỉ vào mặt Minh-Ðệ chửi:

      – Ðồ ăn cướp!

      Bà Ðinh đã xuất hiện, bà nói lớn:

      – Các ông ở đâu mà dám tới trước cửa chùa làm rộn, rồi vu cho người ta cái tội ăn cướp? Bộ không còn phép nước, lệ làng nữa sao? Này tôi nói cho các ông biết, đây là xã Dương-xá chứ không phải là đình làng Sủi mà các ông tự tác, tự lộng đâu nhá.

      Trung niên nam tử, tuổi khoảng ba mươi rẽ mọi người ra tiến tới chỉ vào người lớn tuổi và người đàn bà:

      – Ðây là ông bà hương Hiệp của làng tôi, chuyên nghề giết trâu, làm lợn. Còn lại chúng tôi là môn sinh trường Trung-nghĩa bên làng Sủi. Hôm nay nhân sinh nhật thượng thọ sư phụ chúng tôi, nên chúng tôi hạ trâu ăn mừng. Con trâu biết rằng bị giết, nó giật đứt dây chạy vào chùa. Chúng tôi đến bắt về. Nhưng cô này không cho chúng tôi bắt trâu, còn đánh người.

      Bà Ðinh lắc đầu:

      – Một cô gái bé nhỏ, mảnh khảnh thế này mà dám đánh ai. Tôi trông thấy rõ ràng anh ta nắm tay cô ấy giật mạnh, cô ấy vùng vẫy, nên anh ta mới bị ngã, thế mà ông lại nói điêu. Thôi các ông dắt trâu đi đi.

      Thiếu niên tên Ðạt tiến đến cầm dây, dắt trâu đi. Con trâu khóc rống lên thực thảm thiết. Khi đi qua trước mặt Minh-Ðệ, gã Ðạt co chân đá vào mông nàng một cái. Minh-Ðệ đã học đủ 36 đòn chân cùng 36 phản đòn chân. Nàng vội xuống trung bình tấn, trầm người cho chân y qua đầu. Y đá hụt, người đang mất đà, thì tay phải của nàng đẩy vào dùi phải của y, rồi chân trái quét chân trái y. Lập tức y ngã lăn xuống đất. Mọi người đều bật lên tiếng kêu ủa kinh ngạc.

      Năm đứa trẻ reo hò:

      – Hi hi! Ðánh trộm người, bị người đẩy ngã. Cho đáng kiếp.

      Gã Ðạt uốn cong người đứng dậy, y phóng quyền vào mặt nàng đến vù một cái cực kỳ thần tốc. Minh-Ðệ bật ngửa bàn tay lên, nắm lấy cườm tay y giật mạnh. Người y ngã chúi về trước. Ðầu y đâm phải bụng trâu đến binh một cái. Y đau quá không ngồi dậy được nữa. Lập tức cả năm người đều la lên. Hương Hiệp chỉ thiếu niên khác:

      – Ðức, em vào cho nó bài học.

      Tên Ðức dạ một tiếng, rồi đứng theo đinh tấn, hai tay chắp vào nhau như hành lễ:

      – Vũ Ðức, đệ tử trung đẳng trường Trung-nghĩa xin được lĩnh cao chiêu của cô nương. Mong cô nương đừng tiếc công chỉ dạy.

      Minh-Ðệ lắc đầu:

      – Tôi không biết võ vẽ thì làm sao mà đấu với anh? Thôi bây giờ thế này, con trâu đáng giá bao nhiêu tiền, tôi xin mua lại, rồi anh dùng tiền đó đi mua thịt lợn mà mừng thượng thọ thầy anh, có được không?

      Vũ Ðức nhìn người đàn ông trung niên, như hỏi ý kiến. Người đàn ông trung niên đưa mắt ra hiệu, Vũ Ðức vận khí đấm thẳng vào mặt nàng một chiêu quyền. Nhanh như chớp, Minh-Ðệ xuống trung bình tấn, tay phải gạt quyền của Ðức, tay trái đấm một quyền vào ngực y. Nàng ra tay sau, mà lực đến trước. Binh một tiếng, Vũ-Ðức lộn đi hai vòng, ngã ngửa trên mặt đất, miệng y mửa ra máu. Y không ngồi dậy được nữa.

      Trung niên nam tử kinh ngạc, vội tiến ra chắp tay vái Minh-Ðệ:

      – Thì ra cô nương là cao thủ đấy. Hèn chi mỗi chiêu hạ một sư đệ của tôi. Tôi Trịnh Phúc, xin được lĩnh giáo cao chiêu của cô nương.

      Nói rồi y vung quyền tấn công đến vù một cái, Minh-Ðệ không phản ứng kịp, quyền trúng vai nàng đến binh một tiếng. Nàng chỉ hơi trấn động một chút, nhưng Trịnh Phúc cảm thấy như trời long đất lở, người y bật tung trở lại. Y phải lùi liền bốn bước mới giữ được thăng bằng cho khỏi ngã, tai y phát ra tiếng vo vo không ngừng.

      Gã hương Hiệp hô lớn:

      – Xông cả vào!

      Thế là gã với vợ, Ðạt, Ðức cùng Phúc cùng múa gậy, vung dao tấn công Minh-Ðệ. Minh-Ðệ mới lâm chiến lần đầu, nàng luống cuống lùi lại. Năm đứa trẻ đã kiếm đâu ra mỗi đứa một thanh củi cùng xông vào đập loạn xạ. Con trâu rống lên một tiếng múa sừng húc vợ chồng hương Hiệp. Vợ chồng y kinh hãi chạy ra khỏi cổng chùa. Con trâu quay lại tấn công tên Phúc, Ðức, Ðạt. Ba tên này cũng bỏ chạy. Gã hương Hiệp chỉ tay vào mặt Minh-Ðệ:

      – Tao sẽ đi trình làng bắt mày giải lên quan.

      Nói rồi cả năm tên bỏ đi.

      Ðám trẻ con reo hò:

      – Chị giỏi võ thế mà bọn em không biết. Chị dạy bọn em đi.

      – Ðược, để chị hỏi sư cụ đã, rồi sẽ dạy các em.

      Minh-Ðệ sai trẻ đóng cổng lại, rồi dẫn trâu ra mảnh đất cạnh đấy, thả cho nó ăn cỏ cùng với đàn trâu của chùa. Bà Ðinh bảo nàng:

      – Chà, không ngờ cháu có nghề, đánh đuổi được bọn chúng đi, lát nữa làng kéo đến, mà sư trưởng lại không có nhà thì biết nói sao đây? Thôi thì trả trâu cho họ để khỏi lôi thôi.

      – Thì cháu có bắt trâu của họ đâu?

      Năm đứa trẻ cầm củi nói:

      – Nếu chúng trở lại, bọn em quyết chiến với chị.

      – Các em còn nhỏ, lại không biết võ, thì đừng dại mà đánh nhau với bọn Trung-nghĩa. Cứ để chị đối phó được rồi.

      Khoảng nửa giờ sau, một toán mười người mặc quần chẽn, áo ngắn có thắt lưng, tay mang mã tấu, cùng trương tuần Huy tiến vào chùa. Minh-Ðệ nhận ra đó là môn sinh trường Trung-nghĩa. Nàng đã thấy Minh-Can cùng với bọn bạn nó mặc như vậy từ mấy năm nay rồi. Phía sau là bọn Hiệp, Phúc, Ðức, Ðạt. Trương tuần Huy nói lớn:

      – Cho tôi gặp sư trưởng.

      Bà Ðinh cùng Minh-Ðệ mở cổng chùa:

      – Kìa anh trương tuần Huy. Anh đi đâu đây? Thầy chúng tôi hiện không ở trong chùa, người đi dự kiết hạ. Mọi việc do tôi trông coi.

      Tuy thời gian cách biệt chưa quá sáu tháng, nhưng vì Minh-Ðệ luyện nội công Mê-linh, Thiền-công, nên đang từ một cô gái cứng, thô, thân thể phục phịch, da rạm nắng, nàng trở thành một thiếu nữ da mịn màng, người thon hẳn lại, mông ngực nở ra, những nét cong tuyệt mỹ trên người khiến cho nàng thành một cô gái khác, nhất là đôi mắt sáng lóng lánh, thần thái cực tinh anh. Trương tuần Huy thấy Minh-Ðệ hơi quen quen, nhưng nhất thời y không nhận được nàng. Trong khi nàng lại tưởng y biết mình rồi, nên khẽ nghiêng mình chào.

      Huy quay lại hỏi hương Hiệp:

      – Ðâu, ai ăn cướp trâu, cùng đánh người đâu?

      Hương Hiệp chỉ vào Minh-Ðệ:

      – Con nặc nô kia chứ ai.

      Trương tuần Huy cau mặt:

      – Ông có chắc không? Một thiếu nữ ẻo lả, da trắng, môi hồng thế kia mà mỗi chiêu lại đả bại một đệ tử trường Trung-nghĩa ư? Hơn nữa Phật tử chùa Từ-quang xưa nay hiếu hòa nổi tiếng, đâu có ăn trộm trâu? Tôi không tin.

      Bà Ðinh tường trình:

      – Ban nãy, cháu đây đang quét chùa, thì có con trâu lồng vào sân, phía sau mấy người cầm gậy đuổi đánh. Nó thương tình mở cửa cho trâu vào, rồi mấy ông này đánh nó, bảo nó trộm trâu, có ai vô lý như mấy anh đó không?

      Trương tuần Huy phân vân:

      – Trung-nghĩa đại tướng quân truyền cho chúng tôi đem người con gái đánh ba đệ tử ngài đến để ngài phân xử. Vậy bà cứ để cô đây đi với tôi, làng có lệ, nước có vua, quân hầu lại là người công minh, thì không thể phân xử oan ức cho cô đâu mà lo. Xin mời bà Ðinh đi làm chứng.

      Năm đứa trẻ cũng nói:

      – Ông trương tuần ơi! Chúng tôi cũng xin theo làm chứng.

      Ghi chú:

      Hồi này thuật cuộc gặp gỡ của Linh-Nhân hoàng thái hậu với Long-biên ngũ hùng, năm đại tướng sau này làm cho quân Tống, quân Chiêm kinh hồn vỡ mật. Sử Tống, Việt đều không nói đến việc này. Nhưng trong QTNC và TTCTGCK chép đầy đủ.

      Ghi chú:

      Hồi này thuật cuộc gặp gỡ của Linh-Nhân hoàng thái hậu với Long-biên ngũ hùng, năm đại tướng sau này làm cho quân Tống, quân Chiêm kinh hồn vỡ mật. Sử Tống, Việt đều không nói đến việc này. Nhưng trong QTNC và TTCTGCK chép đầy đủ.
      #3
        CDDLT 21.01.2005 18:09:40 (permalink)
        HỒI THỨ BA

        Oan này dẫu có kêu trời cũng xa
        (Ðoạn-trường tân thanh)





        Minh-Ðệ đinh ninh rằng Trương-tuần Huy đã nhận ra nàng, nên nàng không nói, không rằng, theo anh ta cùng đám đệ tử Trung-nghĩa về dinh hầu tước. Ðám Hợp, Phúc, Ðức, Ðạt vênh váo dắt trâu đi. Bà Ðinh lẽo đẽo theo sau. Năm đứa trẻ theo bén gót.

        Khoảng hơn nửa giờ thì tới nơi. Trong sân dinh, đệ tử chia làm nhiều toán đang tập võ. Toán thì đánh côn, múa kiếm, toán thì đấu quyền. Khi thấy Trương-tuần Huy dẫn Minh-Ðệ cùng trâu trở về, họ đều ngừng tay, trố mắt nhìn nàng. Một trung niên nam tử tuổi trên bốn mươi cầm dùi đánh ba tiếng trống, lập tức đám môn sinh ngừng tậy, im lặng vào đại sảnh đường, theo thứ tự ngồi.

        Ghi chú:

        Bấy giờ làng Sủi thuộc tổng Dương-quang, lộ Kinh-Bắc. Sau đổi là Siêu-loại. Nay là xã Phú-thị huyện Gia-lâm, Hà-nội. Xã Phú-thị phía Tây-Bắc giáp xã Phù-đổng, Dương-xá, Ðặng-xá. Ðông giáp xã Dương-quang. Trước năm 1945 xã thuộc huyện Giia-lâm, tỉnh Bắc-ninh. Xã Phú-thị là đất văn học có tiếng: Nguyễn Huy-Cận (1728-1780) trong khoa thi 1780, đáng lẽ ông đỗ trạng nguyên, nhưng vì bài làm thất cách, phải giáng xuống đồng tiến sĩ; ông là nhà thơ, nhà văn có tiếng. Nguyễn Huy-Lượng đỗ hương cống thời Lê, đã có thời làm quan với Trịnh. Sau ông làm quan cho nhà Tây-sơn. Tác phẩm của ông được truyền tụng nhiều nhất là bài «Tụng Tây-hồ phú. Giòng họ Cao ở Phú-thị cũng lắm người nổi danh: Cao Huy-Diệu, đỗ đầu thi hương năm 1807. Cao Bá-Ðạt (?-1854), Cao Bá-Quát (1808-1854), con Bá-Ðạt là Cao Bá-Nhạ. Hồi ấy các xã Phú-thị (Sủi, Siêu-loại), Dương-xá, Ðặng-xá, Dương-quang là ấp phong của Siêu-loại hầu. Theo quan chế triều Lý, khi một vùng được phong cho ai, thì ấp ấy coi như một nước nhỏ, hoàn toàn là sở hữu chủ của người được thụ phong. Những chánh tổng, lý trưởng đều do hầu tước chỉ định để thu thuế cho ông ta. Vì vậy Minh-Ðệ bị tội, thì giải về dinh hầu tước,rồi để cho lý dịch xử, sau đó đệ lên cho hầu xử chung thẩm.

        Một đứa bạn của Minh-Can chỉ Minh-Ðệ nói nhỏ:

        – Minh-Can này. Trông cô nàng đẹp đấy chứ, nhưng sao tướng hơi giống con chị ngẫn ngờ của của Minh-Can quá. Hay là y thị?

        – Anh nói lạ.

        Minh-Can trả lời: Mới sáu tháng qua, bộ y thị tu tiên lột da hay sao mà đang đen thủi đen thui, dáng đi lạch bạch như con vịt, béo ị như lợn, nay người thon, da trắng, môi hồng, tư thái ôn nhu văn nhã thế kia? Vả lại mấy tháng trước, chúng mình thường gọi thị là cái bị thịt, mỗi khi buồn thường đem ra đấm đá cho vui, thị chỉ biết khóc, sao thị có thể đả bại thập bát thái bảo trường Trung-nghĩa là sư huynh Trịnh Phúc?

        Minh-Ðệ thấy tình hình người người vào đại sảnh, nàng nghĩ thầm:

        – Họ tập hợp làm gì đây? Thôi hẳn là để xem ta bị hành tội chắc? Nghiệp quả, nghiệp quả, ta cũng đành nhắm mắt đưa chân, đến đâu hay đến đó.

        Lát sau, nàng thấy các chức sắc, tiên chỉ, thứ chỉ, kỳ mục, lý trưởng, phó lý, khán thủ, lục tục kéo đến, ngồi ở dẫy ghế đầu của đám môn sinh Trung-nghĩa.

        Trung niên nam tử đánh trống ban nãy cung tay chào khách rồi nói:

        – Thưa các cụ chức sắc, các cụ tiên thứ chỉ cùng các vị chức dịch trong làng. Hiện sư phụ chúng tôi trẩy Thăng-long chưa về. Tôi là Ðoàn Quang-Minh, trưởng tràng, xin có lời kính trình các cụ. Hôm nay là ngày mừng thượng thọ của sư phụ chúng tôi. Anh em chúng tôi định hạ trâu mừng. Không ngờ con trâu bỏ chạy, rồi bị người ta bắt trộm. Ðệ thập bát sư đệ của tôi là Trịnh Phúc, dẫn các sư đệ Vũ Ðức, Vũ Ðạt cùng ông bà Ðào Hợp đuổi theo bắt trâu về, thì bị người trộm trâu đả thương. Tôi phải nhờ trương tuần dẫn mười đệ tử mới tróc nã được thủ phạm về cho làng xử. Vậy xin trao thủ phạm cho các cụ.

        Anh ta chỉ vào Minh-Ðệ:

        – Kẻ trộm trâu, đánh người là cô này.

        Cụ tiên chỉ nguyên là một quan văn về hưu. Cụ vuốt râu hỏi:

        – Phạm trường ở đâu?

        – Thưa là sân chùa Từ-quang.

        – Chùa Từ-quang ư? Chùa này nổi tiếng đạo đức khắp vùng, sao lại có trộm ẩn náu trong chùa. Tại sao không trình sư cụ giải quyết có phải êm đẹp không?

        Quang-Minh đáp:

        – Thưa cụ, sư trưởng vân du xa, ở nhà mọi việc do bà Ðinh trông coi. Chúng tôi có mời bà đến làm chứng đây. Xin cụ hỏi bà.

        Cụ tiên chỉ quay sang bà Ðinh:

        – Cô này làm gì ở trong chùa?

        – Thưa cụ, cô ấy làm công quả cho chùa từ lâu rồi. Khi thầy chúng tôi đi kiết hạ, có giao cho cô với tôi trông coi chùa.

        – Bà thuật cho tôi nghe từ đầu đến cuối sự việc xẩy ra.

        Bà Ðinh thuật từng ly từng tý, từ khi con trâu chạy vào chùa cho đến khi bà cùng Minh-Ðệ bị bắt về đây. Nhưng bà không biết võ, nên khi thuật tới chỗ hai bên động thủ bà lướt qua.

        Cụ tiên chỉ hỏi đám trẻ:

        – Chúng bay là học trò, khi ta hỏi phải khai thực. Thế sự việc xẩy ra như thế nào?

        Trần Ninh nhanh nhảu thuật lại từng chi tiết một.

        Cụ tiên chỉ hỏi cung Trịnh Phúc, cùng anh em Vũ Ðức, Vũ Ðạt. Sau khi nghe xong, cụ phán:

        – Trong vụ này có hai sự việc. Sự việc thứ nhất là cô gái kia bị cáo trộm trâu, sự việc thứ nhì là thị cùng đệ tử trường Trung-nghĩa đánh nhau. Việc thứ nhất, thì xã chịu trách nhiệm phân xử. Còn việc thứ nhì nằm trong luật lệ võ lâm, xin để Siêu-loại hầu chủ trì.

        Ông hỏi:

        – Con kia, họ gì? Quê ở đâu? Bố mẹ là ai?

        Minh-Ðệ thấy em mình, cùng bạn chúng thường đánh đập nàng mà cũng không nhận ra nàng, nên nàng nghĩ thầm:

        – Sự việc đã như thế này, thì mình phải nói dối, để tránh tai vạ cho bố mẹ.

        Nghĩ vậy nàng nói:

        – Thưa cụ cháu mồ côi từ nhỏ, không biết bố mẹ là ai, chẳng biết họ gì. Cháu bị người dì bán cháu làm nô bộc cho người ta ở trấn Thanh-hóa, chủ đặt tên cho cháu là Yến-Loan. Nhân vì chủ ác độc, cháu bỏ trốn lên chùa xin làm công quả, để chuộc tội cho bẩy kiếp phụ mẫu.

        Ông chỉ vào mặt Minh-Ðệ:

        – Thì ra quân trốn chúa lộn chồng đây.

        Ông hỏi lại:

        – Những lời cáo buộc của bên nguyên là Trịnh Phúc có chỗ nào sai không?

        Minh-Ðệ lắc đầu:

        – Không.

        – Thế là được rồi.

        Cụ đứng lên chỉ tay vào mặt Minh-Ðệ:

        – Thấy trâu của người ta chạy, đáng lý mi không được mở cổng chùa cho nó cho vào. Khi mi mở cổng cho nó vào hẳn có ý định bắt lấy, thế là tà tâm muốn chiếm đoạt, tức tội trộm. Rồi khi người ta đòi trâu, mi muốn giữ lại, không cho đem trâu về giết, lại một lần nữa có gian ý công khai chiếm đoạt, thế là mang tội cướp. Sau đó mi ỷ võ công cao, đánh ba người đến bị thương. Người ta bỏ chạy, đáng lẽ mi phải đem trâu giao cho xã để trả lại cho chủ mới phải. Ðây mi lại giữ trong bãi cỏ của chùa, thế là có ý cưỡng đoạt công khai. Trước sau, mi phạm một lần tội trộm, hai lần tội cướp. Theo bộ Hình-thư của bản triều, thì tội trộm trâu bị lao dịch trong quân một năm. Hai lần tội cướp, bị đầy đi xa nghìn dặm. Vậy phải đợi quân hầu về xử.

        Ghi chú:

        Các nhà làm luật triều Lê, triều Nguyễn thường bị ảnh hưởng của luật Trung-quốc. Như bộ luật Hồng-Ðức bị ảnh hưởng rất lớn của bộ luật triều Minh. Bộ Hoàng-Việt luật lệ của triều Nguyễn không những bị ảnh hưởng luật triều Thanh, mà đôi khi còn chép nguyên văn những điều vô lý trong luật Trung-quốc đã lỗi thời, không còn xử dụng tới. Luật triều Lý được soạn thảo bởi các vị vua Phật-tử, nên đặt nặng vấn đề nhân trị, các hình phạt thường rất nhẹ. Tuy nhiên, vì đương thời triều đình rất quan tâm đến canh nông, do đó phạt nặng những kẻ trộm trâu. Sau này Minh-Ðệ lên làm Linh-Nhân hoàng thái hậu, bà đã nghiêm cấm, cùng ra lệnh phạt những kẻ giết trâu rất nặng. Hậu thế không ai hiểu tại sao cả. Chỉ độc giả Nam-quốc sơn-hà mới rõ ngọn nguồn mà thôi.

        Bà Ðinh nói:

        – Bẩm cụ tiên chỉ, thực oan uổng. Cô cháu đây làm công quả ở chùa, nên thâm nhiễm Phật pháp, vì vậy thấy trâu bị đuổi cùng đường, nên nảy từ tâm mở cửa cho nó vào. Thưa cụ, con trâu này có linh tính lắm, nó nằm phục trước thềm chùa khóc rống lên thảm thiết, nên cô cháu xin mua lại con trâu, nhưng các cậu này không chịu, ba người cùng ông bà hương Hợp xúm vào đánh cô ấy, chứ cô ấy đâu đó đánh trước?

        Ðám trẻ nhao nhao lên:

        – Thưa cụ tự mấy anh ấy cậy có võ đánh người trước, rồi chị cháu mới phải đánh lại đấy chứ? Thưa cụ như vậy là tự vệ. Tự vệ là không có tội.

        Cụ thứ chỉ vẫy tay cho đám trẻ im lặng:

        – Ta chỉ xử tội cướp trâu thôi. Còn chuyện đánh nhau để quân hầu xử.

        Cụ hỏi Minh-Ðệ:

        – Mi định hỏi mua trâu, thế mi có tiền không?

        Minh-Ðệ gật đầu:

        – Bẩm cụ có ạ.

        Trịnh Phúc cười nhạt:

        – Thưa các cụ, cháu nhìn cái ngữ cô này, thì e đến một đồng dính túi cũng không có, thế mà thị đòi mua trâu. Vì vậy cháu mới đoán ra rằng y thị muốn trộm trâu, cho nên sư đệ Vũ Ðạt mới giằng lấy trâu, rồi bị y thị đánh. Bẩm các cụ, nếu tính rẻ ra, thì con trâu mộng này đáng giá đến hai lạng bạc đấy ạ. Y thị làm gì có.

        Cụ tiên chỉ hỏi Minh-Ðệ:

        – Mi có hai lạng bạc để trả tiền mua trâu không? Nếu mi trình ra được hai lạng bạc, thì ta cải tội danh trộm cướp ra tội cưỡng mại, thì mi chỉ bị đánh đòn thôi.

        Minh-Ðệ móc cái túi nhỏ, may phía dưới nách, trong vạt áo trước lấy ra một nén bạc. Nén bạc này ở trong số ba nén vàng và mười nén bạc, mà ông bà họ Trần cho nàng hôm trước. Nàng trao cho Trịnh Phúc:

        – Ðây, nén bạc này nặng tới mười lạng. Tôi trả anh hai lạng để mua trâu, còn tám lạng, xin anh hoàn cho tôi.

        Mọi người mở to mắt ra ngạc nhiên, ngay bà Ðinh cũng ngơ ngẩn cả người. Ông tiên chỉ nhìn ông thứ chỉ, ông thứ chỉ nhìn lý trưởng, cả ba không biết giải quyết sao. Nếu vẫn cứ bắt tội người con gái này, thì ra già đầu, làm quan mà nuốt lời với dân gian sao? Còn như tha tội cho y thị thì thực trái với luật lệ.

        Cuối cùng ba cụ đành phải giữ lời hứa. Cụ tiên chỉ nói:

        – Như vậy thị Yến-Loan được tha tội trộm, tội cướp, mà chỉ bị tội dùng lực cưỡng bức mua hàng mà thôi. Tội này thì phạt đánh hai mươi trượng.

        Trịnh Phúc nói với Minh-Ðệ:

        – Mua, hay bán là sự thỏa thuận giữa kẻ bản, người mua. Ta đâu có đồng ý bán trâu cho mi. Ta trả bạc cho mi đây.

        Nói rồi y đưa bạc cho Minh-Ðệ.

        Cụ tiên chỉ vẫy tay cho trương tuần Huy:

        – Nọc cổ Yến-Loan ra đánh đủ hai mươi trượng.

        Trương tuần Huy dạ, rồi chỉ chỗ trống phía trước:

        – Yến-Loan nằm xuống thụ hình.

        Ðám trẻ nhao nhao lên phản đối, thằng Quang nói:

        – Thưa cụ hai mươi trượng đó, cụ để cho năm đứa cháu chị thay cho chị cháu được không ạ? Mỗi đứa chúng cháu chịu năm trượng, như vậy là đủ rồi. Xin cụ bằng lòng cho chúng cháu lĩnh đòn thay chị chúng cháu.

        Nói rồi năm đứa nằm dài ra.

        Minh-Ðệ vẫy tay:

        – Chị cảm ơn em. Em cứ để cho chị chịu đòn.

        Minh-Ðệ thấy thoát được trọng tội, lại không liên quan đến bố mẹ thì vui mừng chi siết kể. Nàng nằm dài xuống đất, hai tay buông xuôi. Chợt nhớ đến lời dạy của vợ chồng quý nhân:

        "Can chủ cân. Tỳ chủ cơ nhục, khi bị trúng đòn dù bằng quyền, bằng chưởng hay bàng côn, bằng roi, thì gân thịt tổn thương đầu tiên. Vì vậy cần hít một làn khí, rồi dẫn lực về can kinh, tỳ kinh, thì có thể chống lại đau đớn".

        Ghi chú:

        Lý thuyết y khoa "Ngũ tạng sở chủ" này, ngày nay vẫn còn giá trị. Ngũ tạng sở chủ là: Can (gan) chủ cân (gân), tỳ chủ nhục (thịt), thận chủ cốt (xương), tâm (tim) chủ mạch, phế (phổi) chủ bì (da) mao (lông).

        Bây giờ Minh-Ðệ sắp bị đòn, nàng vội vận khí về can kinh, tỳ kinh rồi chuyển qua mông, trong khi nàng bỏ ra ngoài Ngũ-uẩn, Lục-tặc, không tâm theo Bát-nhã.

        Ghi chú:

        Ngũ-uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Lục-tặc là sáu kẻ cướp, lời tỷ dụ để chỉ Lục-trần từ ngoài nhập vào gồm Sắc, Thanh, Hương, Vị, Súc, Pháp, do Lục-căn tiếp thụ là Nhãn, Nhĩ, Tỵ, Thiệt, Thân, Ý. Ðây là những danh từ trong kinh Phật, đã giảng giải rõ trong bộ Anh-hùng Tiêu-sơn và Thuận-thiên di sử của Yên-tử cư-sĩ.

        Một tên tuần đinh cầm côn dơ lên cao đánh thẳng xuống. Mọi người im lặng theo dõi. Bộp một tiếng, tiếp theo tiếng rắc, cây côn bằng gỗ lim gẫy làm đôi, cả hai khúc đều bay bổng lên cao. Viên tuần đinh ôm tay nhăn nhó tỏ ra đau đớn vô cùng.

        Ðại sảnh đều kêu lên những tiếng kinh ngạc.

        Trương tuần Huy hỏi:

        – Sao vậy?

        – Không hiểu nữa.

        Trương tuần Huy gọi viên tuần đinh khác. Anh này lực lưỡng hơn anh trước. Anh ta cầm côn dơ thực cao rồi nện xuống. Chát một tiếng, cả cây côn vượt khỏi tay anh ta bay lên trúng xà nhà đánh bốp. Còn anh ta ngã ngồi ra sau, hai tay đau đớn vô cùng.

        Cả đại sảnh la lớn kinh hoàng.

        Bỗng một người học trò vào cung tay nói với cụ tiên chỉ:

        – Thưa cụ, sư phụ cháu đã về.

        Cụ tiên chỉ vẫy tay cho trương tuần Huy:

        – Cho ả đứng dậy, tạm ngưng hành hình.

        Từ cụ Tiên-chỉ cho đến chư đệ tử đều đứng dậy cung tay hành lễ. Siêu-loại hầu bước vào đại sảnh đường, đáp lễ mọi người. Sau khi mọi người an tọa, ông nói lớn:

        – Tôi xin loan báo cho các vị biết hai tin mừng. Tin thứ nhất liên quan đến Bắc-cương, đó là vụ Tống chuẩn bị binh lương, vũ khí, đe dọa ta ở biên giới. Triều đình gửi mười đạo Thiên-tử binh của chúng ta, do ngài Thái-tử thiếu bảo, tả kiêu vệ thượng tướng quân, Thái-hà hầu Lý Thường-Kiệt dẫn từ Thăng-long lên tiếp viện cho vua bà Bình-Dương. Quân ta vượt biên làm rung động giang sơn Ðại-Tống, khiến Tống phải nhượng bộ.

        Ông ngừng lại, chỉ lên bản đồ biên giới Hoa-Việt:

        – Theo tin tức của của ngài Ðại-tư-mã Bắc-biên Thân Thiệu-Cực, thì bọn biên thần Tống như Dư Tĩnh, Lý Sư-Trung, Tiêu Cố, Tiêu Chú vâng mật chỉ của triều đình Tống chuẩn bị xâm lấn ta. Kế hoạch của chúng rất độc. Trước hết làm sao chiếm dần 207 trang động Bắc-biên, tức hàng rào bảo vệ biên giới Hoa-Việt. Khi các trang động này thuộc Tống hết rồi, thì chúng như con hổ ngồi nhìn thẳng vào Thăng-long. Bấy giờ dù ta có binh hùng, tướng mạnh cũng không giữ nổi. Chúng không dấu diếm, nào mộ quân, luyện quân, đóng chiến thuyền, rèn vũ khí làm áp lực; nào mua chuộc các trang chủ, động chủ theo chúng. Ðã có nhiều trang động phải theo Tống. Vì vậy ta phải đánh tan âm mưu này.

        Hội trường im phăng phắc. Hầu tiếp:

        – Quốc-công Thân Thiệu-Cực bàn mưu: Ta phải làm cách nào nhử cho bọn biên quan Tống vượt biên đánh sang mình, mình phá tan đạo quân ấy trên đất Việt, rồi thừa thế đánh tràn sang chiếm lại các vùng đã mất. Như vậy mình mới có cớ nói với triều Tống. Long-thành ẩn-sĩ Tôn Ðản hiến kế rằng hiện quân Tống đóng ở vùng Ung-châu. Vậy ta không vượt biên đánh sang châu Ung. Ta nên dùng hư binh vượt biên đánh sang Khâm-châu. Tất nhiên Tống triều lệnh cho biên thần Quảng-Tây nghinh chiến. Bọn này nghĩ rằng đem quân từ Ung tiếp viện Khâm thì xa quá, chi bằng vượt biên ồ ạt đánh sang Lạng-châu, tất quân ta phải rút về giữ nhà. Vì vậy khi chúng vào đất Việt, ta dùng chính binh bao vây diệt chúng. Sau khi diệt chúng rồi, ta ồ ạt vượt biên đánh sang. Như thế ta mới có chính nghĩa.

        Mọi người vỗ tay hoan hô.

        – Sau khi nghị kế, thì quân ta chia làm hai cánh. Cánh thứ nhất đánh sang Tống là hư binh. Cánh thứ hai chờ quân Tống nhập địa rồi phản công mới là thực.

        Ông lại chỉ lên bản đồ:

        – Cánh thứ nhất do Long-thành ẩn sĩ Tôn Ðản, cùng phu nhân là công chúa Ngô Cẩm-Thi chỉ huy. Cánh này có Tả-kiêu vệ thượng tướng quân Lý Thường-Kiệt; trấn Bắc đại tướng quân Tôn Mạnh, Côi-sơn công chúa Trần Thanh-Nguyên; bình Nam đại tướng quân Tôn Trọng, công chúa Vạn-Hoa Ðào Phương-Hồng; Trấn-vũ thượng tướng quân Tôn Quý, Khâm-Minh quận chúa Phùng Kim-Thanh; Bình-tây thượng tướng quân Trần Anh, Quận chúa Tĩnh-Ninh. Cánh này đánh Khâm-châu. Bọn Nam thần Tống cố thủ không dám nghênh chiến. Quân ta vây phủ bên ngoài, đóng dài từ châu Vĩnh-an tới Khâm-châu; từ châu Tô-mậu tới châu Cổ-vạn (5). Chỉ hai ngày Cổ-vạn thất thủ, tướng trấn thủ là Lý Duy-Tân bị giết. Ba ngày sau châu Tư-lẫm lại bị chiếm. Quân ta vây Khâm-châu. Nhưng đêm đó, tất cả mười tám viên quan trấn thủ Nam biên Tống, chủ trương việc lấn chiếm lãnh thổ Ðại-Việt đều bị giết chết. Cả bố mẹ, vợ con, anh em, tôi tớ, cho đến lừa ngựa, chó mèo, gà vịt của chúng cũng bị giết. Quân Tống không người chỉ huy, mở cửa thành đầu hàng. Long-thành ẩn-sĩ ra nghiêm lệnh: tuyệt đối cấm đánh, cấm hành hạ thể xác tù binh, dân chúng. Bất cứ binh sĩ nào phạm vào tài sản của dân chúng, dù chỉ một con gà, một mớ rau thì cấp chỉ huy trực tiếp từ sư trưởng trở xuống đều bị cách chức, kẻ phạm tội sẽ bị chém đầu... Quả nhiên cánh quân này làm rung động triều Tống. Triều Tống ban chỉ cho An-vũ-sứ Quảng-Tây đem quân đánh sang Ðại-Việt để tra thù, như vậy bắt buộc đạo binh thứ nhất phải rút về.

        Ghi chú:

        Biến cố này xẩy ra năm 1059-1060, sử Việt không thấy chép, nên tôi thuật theo sử của Trung-quốc. Mà Lý Ðào, trong TTTTGTB, quyển 188, quyển 190 thuật sơ lược. Còn bộ QTNC và TTCTGCK lại thuật rất chi tiết. Tôi viết theo ba bộ này.

        Mọi người suýt xoa vỗ tay, rồi nhao nhao lên:

        – Xin quân hầu tiếp cho.

        – Ừ, thì tiếp. Cánh thứ nhì đích thân vua bà Bình-Dương với Phò-mã Thân Thiệu-Thái chỉ huy, đóng ở động Giáp; quân sư là Ðại-tư-mã Bắc-biên, Hữu kim-ngô thượng tướng quân, Lạng-châu quốc công Thân Thiệu-Cực. Chư tướng gồm: Thái-tử thiếu phó, Phong-châu tiết độ sứ, Long-nhượng đại tướng quân, Thuần-nghĩa quốc công Lê Thuận-Tông, công chúa Kim-Thành ẩn ở trong rừng, đợi gặc vào nước, thì đánh chặn phía sau, cắt đường tiếp tế lương thảo; Thái-tử thiếu sư, Thượng-oai tiết độ sứ, Hổ-uy đại tướng quân, Thuần-tín quốc công Hà Thiện-Lãm với Công chúa Trường-Ninh; đợi quân Tống vượt biên thì đánh tràn sang, phá hậu cứ chúng. Quả nhiên khi cánh thứ nhất của Long-thành ẩn-sĩ làm rung động triều Tống. Triều đình ban chỉ cho An-vũ-sứ Quảng-Tây đem quân nghinh chiến. Tướng Tống là Ðô-giám tuần kiểm Tống Sĩ-Nghiêu đem quân vượt biên đánh vào Lạng-châu. Khi chúng vào sâu rồi thì gặp cánh quân của vua Bà. Trận chiến diễn ra trong hai ngày. Sang ngày thứ ba thì có tin báo cho Tống Sĩ-Nghiêu biết đạo quân của Thượng-oai đã vượt biên chiếm huyện Như-ngao thuộc Ung-châu. Ðạo quân của Phong-châu chặn mất đường về, lương thảo bị cướp hết.

        Tiếng mọi người ào ào:

        – Cho bọn chó Ngô cướp nước chết.

        Siêu-loại hầu dơ tay vẫy vẫy ra hiệu im lặng:

        – Quân Tống náo loạn tan vỡ, Sĩ-Nghiêu bỏ ngựa theo đường rừng trốn về Ung-châu cùng vài tùy tòng thân tín. Bây giờ hai đạo quân Lạng-châu, Thượng-oai mới quay lại vượt biên đánh sang Tống. Tống đem đại binh nghênh nghiến, nhưng đương thế nào nổi quân ta? Các đại tướng Tống là Tả-thiên ngưu-vệ thượng tướng quân Lý Ðức-Dụng, Bát-tác-sứ Tả Minh, Hữu-lãnh-vệ đại tướng quân Hà Nhuận, Thiên-ưng đại tướng quân Trần Bật, Ðô-giám tuần kiểm Tống Sĩ-Nghiêu đều tử trận (TTTTGTB, q 194). Thuận thế ta đánh chiếm châu Tây-bình, chiếm trại Vinh-bình (TTTTGTB, q 192). An-vũ-sứ Quảng-Tây phải xin đem quân từ Bắc Kinh-hồ tiếp cứu. Nhưng viện quân chỉ nghinh chiến được một trận lại bị phá tan. Tướng chỉ huy là Dương Lữ-Tài bị bắt sống. Tổng trấn Nam-thùy Tống là Dư Tĩnh xin Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai tiếp cứu. Vương tâu về triều rằng mình không đủ quân đánh Ðại-Việt; xin ban chỉ cho Tĩnh phải nghị hòa với Ðại-Việt để xin lui quân.

        Ông ngừng lại uống nước, làm mọi người muốn ngừng thở. Ông tiếp:

        – Triều đình Ðại-Việt không hề muốn chiếm đất Tống, nên khi thấy Tống xin nghị hòa, vua Bà đưa ra ba điều kiện: một là phải cách chức hết bọn biên thần Tống gây hấn gồm tổng trấn thủ Quế-châu là Tiêu Cố, Ung-châu là Tiêu Chú. Hai là phải trả ta ba khê động mà động chủ bị Tiêu Cố ép theo Tống. Ba là tự hậu quân Tống không được đi tuần tiễu như đe dọa ta ở biên gới. Tống thuận điều một và ba, còn điều hai thì Dư Tĩnh không chịu, bởi Dư coi như việc bức khê động rời Việt theo Tống là đường lối của triều đình. Rõ ràng Tống sai Tiêu Chú chuẩn bị đánh Ðại-Việt, mà bây giờ triều đình đành ban chỉ kể tội hai viên quan này rằng "Ðã không có tài, lại còn tự chuyên gây hấn. Khi gây hấn rồi, không đủ tài chống đỡ" (TTTTGTB, q 192). Nhưng Phò mã Thân Thiệu-Thái viện lẽ "Tướng ngoài trận không nhất thiết nghe lệnh vua" chưa chịu rút lui. Vua Bà còn đem thêm quân Việt sang, để tỏ ý cương quyết (TTTTGTB, q 192). Ðứng trước việc này hai viên tổng trấn Nam-thùy là Dư Tĩnh, Lý Sư-Trung bàn nhau đánh lớn (TS, q 320).

        Hầu mỉm cười:

        – Binh lực, tướng sĩ Tống không đủ đánh với ta, Dư Tĩnh gửi sứ xui Chiêm-thành đánh phía sau ta (TS, q 488), nhưng Chiêm-thành không dám khởi binh. Cùng đường Dư Tĩnh đành chịu cả ba điều, và xin nghị hòa. Vì Tĩnh ra lệnh cho Tiêu Cố, Tiêu Chú, nên y không thể hài tội hai tên này. Y nhận lệnh trực tiếp từ Tống triều, nên y cũng không thể nói ra. Y đành để cho Lý Sư-Trung dâng biểu kể tội Tiêu Chú "Hà hiếp man dân, bắt dân tìm vàng, đến nỗi mất lòng dân" còn việc chuẩn bị binh lực đánh Ðại-Việt thì Dư Tĩnh tâu rằng "Các viên tướng Nam-biên ham lập công". Triều đình Ðại-Việt gửi quan Tham-tri bộ Lễ (ngày nay là thứ trưởng ngoại giao) tên Phí Gia-Hữu lên biên giới nghị hòa với Dư Tĩnh. Dư hối lộ Gia-Hữu rất nhiều vàng bạc để xin thả tướng Lữ-Tài. Gia-Hữu nhận vàng bạc, đem về dâng triều đình. Hoàng-thượng chuẩn cho hòa, thả Lữ-Tài (ÐVSKTT,Lý kỷ, Thánh-tông kỷ, VSL) nhưng đem năm tên người Việt dâng đất cho Tống lên biên giới chém đầu. Bấy giờ Hoàng-thượng mới ban chỉ cho quân Ðại-Việt rút về.

        Ghi chú:

        Tất cả các biến cố này ÐVSKTT chép rất sơ sài như chú giải 6 hồi 1. Nhưng sử Trung-quốc lại chép rất chi tiết. Trên đây, tôi thuật theo TS, TTTTGTB, QTNC, TTCTGCK.

        Ông tiên chỉ hỏi:

        – Thưa quân hầu, ban nãy hầu nói khi quân Ðại-Việt vừa vượt biên thì các tướng Tống cùng gia đình, chó mèo, gà vịt đều bị giết. Thế ai là người giết cả nhà những biên thần Tống đến khủng khiếp như vậy?

        Siêu-loại hầu ngồi nghiêm chỉnh lại:

        – Ðó là hai người, mà từ Gia-Hựu hoàng-đế nhà Tống (Nhân-Tông) cho đến Thông-Thụy (Lý Thánh-Tông) hoàng-đế bên Ðại-Việt nghe tên cũng phát lạnh gáy. Hai vị có cái tên chung là Ưng-sơn song hiệp.

        Ghi chú:

        Ưng-sơn song hiệp, tên hiệu của Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai và Vương-phi là công chúa Huệ-Nhu. Sự tích hai nhân vật huyền sử này xin xem Anh-linh thần võ tộc Việt, của Yên-tử cư-sĩ do Xuân-thu Hoa-kỳ ấn hành 1994.

        Cả đại sảnh đều bật lên tiếng « ồ », rồi im bặt. Ðại sảnh có đến hơn ba trăm người, mà không một tiếng động. Minh-Ðệ kinh ngạc tự hỏi:

        – Ưng-sơn song hiệp là ai mà vua Tầu, vua Việt đều sợ hãi như vậy?

        Nhưng nàng không phải chờ lâu, trương tuần Huy hỏi:

        – Thưa quân hầu lý lịch hai vị đó ra sao vậy?

        – Hai vị là vợ chồng. Ngài họ Trần, húy là Tự-Mai, là con trai út của đại hiệp Trần Tự-An phái Ðông-a. Ngài kết hôn với Công chúa Huệ-Nhu, con vua Chân-tông nhà Tống. Vì hai ngài có đại công với Tống trong việc trấn Tây thùy đánh nước Hạ, trấn Bắc thùy chống Liêu, nên ngài được phong là Thái-sư thượng trụ, Tả-kim-ngô đại tướng quân Kinh-Nam vương. Vương-phi được phong là Trưởng-đại công chúa. Nhưng từ lâu, hai ngài ít ở trong nước, ngao du Nam thùy Tống, trong vùng Lưỡng-Quảng, Ðại-lý, Ðại-Việt, để tru diệt bọn tham quan, bọn cường hào ác bá, nhất là biên quan Tống-Việt chủ trương gây sự ở biên giới.

        Cụ lý cung tay:

        – Thưa cụ, ban nãy cụ nói có hai việc mừng. Việc thứ nhất là binh biến ở Bắc thùy có lợi cho ta. Thế còn việc thứ nhì?

        – Việc thứ nhì là tháng ba năm ngoái (1059), Thông-thụy hoàng-đế cải nguyên là Chương-thánh Gia-khánh. Vậy kể từ tháng ba là Chương-thánh Gia-khánh thứ nhất. Sau chiến thắng vừa rồi ngài ban chỉ ân xá thuế cho toàn quốc một năm, và truyền đại xá thiên hạ, ngoài trừ tội thập ác.

        Hầu quay sang hỏi trưởng tràng Ðoàn Quang-Minh:

        – Có việc gì trọng đại mà họp cả trường, cùng mời các cụ chức sắc trong xã tới vậy?

        Quang-Minh tóm lược câu chuyện kể cho hầu nghe. Hầu vẫy tay gọi Trịnh Phúc lại bên cạnh:

        – Vị tiểu cô nương đây luận đúng. Ngày sinh nhật của ta không làm phúc thì thôi, còn giết trâu chi cho tổn âm đức? Vả lại nước ta đang thiếu trâu, giết trâu thì mất đi nguồn lực canh nông. Thôi thì ăn cá, ăn chim, ăn gà vịt cũng được. Còn con trâu, tiểu cô nương muốn mua lại, thì ta bán cho cô với giá rẻ một chút.

        Quang-Minh trình đến việc ba đệ tử bị Minh-Ðệ đánh bị thương. Hầu đưa mắt nhìn Minh-Ðệ rồi cau mày:

        – Vô lý. Một cô gái ẻo lả thế kia nếu có thắng Vũ Ðạt, Vũ Hiếu thì còn có lý, chứ thắng Trịnh Phúc thì sao tin được.

        Hầu hướng Minh-Ðệ:

        – Tiểu cô nương? Cô nương thuộc môn phái nào? Sư thừa là ai?

        – Thưa cụ, cháu chưa từng học võ, nên không có sư thừa, bởi vậy cũng không thuộc môn phái nào.

        – Cô muốn dấu thân phận hẳn? Ðược, ta sẽ tìm ra sư phụ cô là ai cho cô xem.

        Hầu vẫy Phúc, Ðức, Ðạt ra đứng trước mặt, rồi hỏi:

        – Ba người theo thứ tự thuật lại cuộc đấu cho ta coi nào?

        Trịnh Phúc chỉ Vũ Ðạt:

        – Sư đệ nắm tay trái y thị giật mạnh. Y thị co tay lại, trong khi chân xoạc thành trung-bình tấn. Thế là sư đệ bị bay tung lên cao, rồi ngã sấp xuống.

        Trịnh Phúc chỉ Vũ Ðạt:

        – Sư đệ nắm tay trái y thị giật mạnh. Y thị co tay lại, trong khi chân xoạc thành trung-bình tấn. Thế là sư đệ bị bay tung lên cao, rồi ngã sấp xuống.

        Hầu cười:

        – Ðây là chiêu Kình-ngư thăng thiên của phái Mê-linh, không có gì lạ cả.

        – Sư đệ tung cước theo thế Tản-viên quyền pháp thứ 9, đá vào hông thị. Thị trầm người, dùng tay đẩy chân sư đệ, chân trái quét chân trái sư đệ.

        - À, chiêu phản đòn chân của phái Tiêu-sơn. Có điều nội công cô cao nên cô thắng dễ dàng.

        Rồi Trịnh Phúc trình bầy những chiêu Minh-Ðệ đấu với Vũ Ðức. Hầu đáp:

        – Mấy chiêu này của phái Ðông-a chính tông đây. Muốn xử dụng những chiêu này, thì nội công phải cao thâm lắm.

        Ðến đây mặt hầu trở thành đăm chiêu, chứ không cười nữa.

        Trịnh Phúc diễn lại chiêu thức Minh-Ðệ đấu với y cùng đấu cả bọn khi loạn đả cho đến khi con trâu xông vào trận. Mặt hầu tái nhợt:

        - À, đây là võ công phái Hoa-sơn bên Trung-quốc.

        Cuối cùng y trình tiếp về hai viên tuần đinh đánh Minh-Ðệ bị văng côn lên cao. Mặt hầu càng nhợt nhạt:

        – Phải chăng tiểu cô nương là đệ tử của Ưng-sơn song hiệp?

        – Thưa cụ cháu đã nói, cháu chưa từng học võ, dĩ nhiên là chưa có sư phụ.

        Hầu tần ngần một lúc, rồi vẫy tay cho Minh-Can:

        – Minh-Can, con là gái, con ra lĩnh giáo mấy cao chiêu của Yến-Loan cô nương đi.

        Từ nãy đến giờ, Minh-Can đã nhận ra Yến-Loan là chị mình. Y thị ngồi xem mọi biến chuyển mà trong lòng lo sợ Minh-Ðệ tố giác việc thị dùng võ đánh nàng hồi trước. Bây giờ được sư phụ gọi ra đấu với Minh-Ðệ, thị nghĩ:

        Hồi xưa mình hơi ra tay là nó đau đớn khổ sở vô cùng. Năm gần đây, mình thấy người nó thon lại, da đẹp ra, rồi mình đánh, nó không biết đau. Sáu tháng trước, mình đánh nó, nó không đau, mà tay mình thấy ê ê, thì ra nó được cao nhân nào đó bí mật truyền thụ võ công. Bây giờ sư phụ sai mình đấu với nó, mình phải đánh cho nó tàn tật, để nó không luyện võ được nữa, hy vọng mới không bị nó báo thù.

        Nghĩ vậy thị bái tổ, rồi phát một quyền đánh vào thái dương Minh-Ðệ. Minh-Ðệ nghĩ thầm: dù sao nó cũng là em mình, mình chẳng nên hại nó làm gì. Nếu nó có thế nào ắt bố mẹ đánh mình chết. Vì vậy nàng dùng thế phản đòn tay, ngửa chưởng phải lên bắt lấy quyền Minh-Can, rồi vặn tréo.

        Minh-Can đau quá nghiêng người đi, nàng lên đầu gối trúng ngực y thị. Nhưng gối vừa chạm da thịt thị thì nàng ngừng lại. Minh-Can co chân phóng vào ngực Minh-Ðệ một hoành cước với tất cả sức lực. Minh-Ðệ không phản ứng kịp, binh một tiếng, người nàng chỉ hơi rung động, nhưng Minh-Can thì bị bay ngược trở lại ngã sóng xoài trên mặt đất. Thị uốn con người vọt lên như con cá chép, dùng hai tay đấm vào thái dương Minh-Ðệ theo thế Chung cổ tề minh. Minh-Ðệ chắp hai tay lại theo thức lên chùa lễ Phật, rồi gạt ngang, lập tức Minh-Can loạng choạng ngã ngửa người ra.

        Vừa đau vừa thẹn, y thị rút trong bọc ra một con dao trủy thủ ngắn, rồi giả làm quyền đánh vào giữa ngực Minh-Ðệ. Khi tay y thị sắp tới ngực nàng, Minh-Ðệ mới khám phá ra. Nàng kinh hãi vội vung tay trái gạt mạnh. Thanh thủy thủ rời khởi tay Minh-Can bay lên cắm vào kèo nhà đến chát một cái, còn người thị thì bị trúng quyền đến bùng một tiếng, y thị ngã úp sấp xuống đất, không bò dậy được nữa.

        Mặt Siêu-loại hầu tái mét. Ông nhảy đến vung tay tát vào mặt Minh-Can hai cái:

        – Ðồ vô luân, dùng thủ đoạn đê hèn ám toán người.

        Minh-Can ôm mặt đứng lui lại. Siêu-loại hầu nói với Minh-Ðệ:

        – Tôi đã tìm ra môn hộ của cô nương rồi. Cô nương học với hai hay ba sư phụ một lúc. Cô nương học khí công thượng thừa âm nhu của phái Mê-linh, rồi lại được truyền Vô-ngã tướng Thiền-công. Cô nương còn được đả thông Kỳ-kinh bát mạch, luyện vòng Ðại-chu-thiên, Tiểu-chu-thiên của phái Ðông-a. Còn những chiêu ngoại công thì cô nương được học của ba phái là Ðông-a, Tiêu-sơn và Hoa-sơn, có đúng không?

        Minh-Ðệ lắc đầu:

        – Thưa cụ cháu chưa từng học võ.

        Hầu gọi Trịnh Phúc, Vũ Ðức, Vũ Ðạt, đến trước mặt, rồi mắng:

        – Ba đứa bay đã biết tội chưa?

        – Thưa thầy chưa.

        – Bay học võ để diệt bạo, trừ tà, cùng hộ quốc, chứ có phải học để đi gây sự đâu? Bay tới chùa, dùng võ tấn công người ngay trước bảo điện là một tội. Ðánh thua người rồi, còn về cáo gian rằng người ta ăn trộm trâu là hai tội. Cậy thế đem theo người đến bắt kẻ đã thắng mình là ba tội. Nay ta phạt mỗi đứa 20 côn cho chừa thói xấu.

        Lập tức ba người bị nọc cổ ra đánh đủ mỗi người hai chục côn. Sau khi bị đòn, ba người ngồi dậy không được, đồng môn phải khiêng vào nhà trong rịt thuốc. Hầu vẫy tay gọi Minh-Can:

        – Ta sai mi đấu với cô nương, để tìm hiểu môn hộ của người. Cô nương đây đã nhường nhịn, không muốn làm ngươi đau khổ, thế mà mi lại ám toán cô nương.

        Ông vẫy tay cho đệ tử nọc Minh-Can xuống đánh hai mươi roi, rồi nói:

        – Trịnh Phúc, Vũ Ðức, Vũ Ðạt, Minh-Can, mỗi đứa phải quỳ gối lạy cô nương đây mười lạy tạ tội.

        Minh-Ðệ vẫy tay:

        – Thưa cụ cháu không dám đâu.

        – Nếu cô nương không để chúng lạy, thì cái thân già của lão phải lạy cô nương. Cô nương ơi, nếu cô nương không để cho trường Trung-nghĩa tạ tội, thì e rằng chỉ trong ba ngày Ưng-sơn song hiệp sẽ giết hết người trong trường này, cả đến con chó, con mèo cũng không sống sót.

        Minh-Ðệ đành đứng cho bốn đứa lạy.

        Năm trẻ đứng sau Minh-Ðệ, chúng khoái chí nhìn mấy đứa thì thụp lạy. Mỗi lần như vậy, chúng lại gật đầu, làm như chúng được lạy vậy.

        Siêu-loại hầu thở dài nói với Minh-Ðệ:

        – Cô nương đã muốn dấu thân phận thì thôi. Nhưng thưa cô nương, không biết cơ duyên nào mà cô nương lại được gặp Ưng-sơn song hiệp. Già này cũng không rõ cô nương đã làm gì cho hai vị đệ nhất danh nhân đương thời này vui lòng, rồi truyền thụ võ công cho cô nương, mà chính cô nương cũng không biết? Cô nương thử xét xem, nếu không phải Ưng-sơn song hiệp truyền thụ võ công cho cô nương, thì sao cô nương lại có bản lĩnh cao đến như thế? Kìa, xá đồ Trịnh Phúc luyện võ với lão đã trên mười năm, thế mà không chịu nổi hai chiêu của cô nương.

        Ông nhìn thẳng vào mặt Minh-Ðệ:

        – Cái vụ làng xử cô nương bị đánh côn, già này cũng bỏ qua, và kính cẩn mời cô nương trở về chùa Từ-quang. Nếu cô nương gặp lại sư phụ, xin nói dùm: già này có lời vấn an, và khấu đầu trăm lạy để tạ tội về vụ không quản chế học trò, thành ra chúng vô lễ với cô nương.

        Ông nói với Ðoàn Quang-Minh:

        – Người mau đem con trâu mộng ra biếu tiểu cô nương, để tạ tội cho các sư đệ.

        Minh-Ðệ lắc đầu:

        – Thưa cụ cháu không dám đâu. Cụ bán trâu thì cháu xin mua, chứ cụ cho thì cháu không dám nhận đâu.

        – Thôi được. Bay đâu, lấy tám lạng bạc trả lại cô nương, rồi nhận nén bạc.

        Minh-Ðệ cứu được con trâu thì mừng vô kể. Nàng cùng bà Ðinh rời đại sảnh, rồi cùng đám trẻ dắt trâu thư thả về chùa.

        Minh-Ðệ với bà Ðinh về tới chùa, thì thấy trong sân người tụ họp khá đông. Nguyên sau khi bà Ðinh với Minh-Ðệ bị bắt đi rồi, thì những người làm công quả trong chùa vội thông báo cho thiện nam tín nữ. Họ kéo nhau lên chùa, để hỏi cho ra lẽ nguyên ủy sự việc. Vừa lúc đó thì đại sư Viên-Chiếu cùng chư đệ tử trở về. Nghe mỗi người nói một đằng, đại sư không hiểu cái gì đã xẩy ra. Ông định truyền cho đệ tử lên bảo điện nhập thiền, rồi ông sẽ cùng mấy đệ tử đến dinh Trung-nghĩa để hỏi thăm tin tức. Mọi việc vừa xong thì Minh-Ðệ cùng bà Ðinh với năm trẻ dắt trâu về trong dáng an nhàn.

        Ðám Phật tử kinh ngạc hỏi:

        – Sao, cụ Trung-nghĩa xử sao?

        Bà Ðinh tường thuật chi tiết cho mọi người nghe. Ðám Phật tử chùa Từ-quang bàn tán không ít về Minh-Ðệ. Họ đều biết nàng tới chùa làm công quả lâu rồi, nhưng họ không biết rõ chân tướng nàng. Bây giờ nghe bà Ðinh kể, họ đều tin rằng nàng phải đi ở, và quê mãi trong Thanh-hóa.

        Sư ông Thiện-Căn vẫy Minh-Ðệ:

        – Sư phụ truyền cháu lên bảo điện gặp người.

        Minh-Ðệ bước lên bảo điện, liếc mắt qua, nàng thấy đầy đủ tăng chúng trong chùa, cùng đông đảo Phật tử, tất cả đang nhập thiền. Nàng đảnh lễ với đại sư Viên-Chiếu, rồi quỳ gối chờ đợi.

        Một lát sau Viên-Chiếu mở mắt ra, ông hỏi:

        – Con hãy tường thuật chi tiết về vụ hai quý nhân đến cư ngụ trong chùa hơn tháng cho thầy nghe.

        Minh-Ðệ thuật lại, không dấu diếm một điều gì, rồi nàng hỏi:

        – Bạch thầy, ông bà này xưng là sư đệ của thầy, vậy ông bà tên thực là gì?

        Viên-Chiếu lắc đầu:

        – Ta không hề quen biết hai người này. Họ cũng chưa từng đến chùa Từ-quang bao giờ, thế mới lạ chứ. Ta độ chừng họ biết ta đi vắng, nên đến đây với một chủ tâm khác hơn là lễ Phật. Hà, không biết họ là ai?

        Minh-Ðệ kinh hãi hỏi:

        – Trời ơi. Không lẽ ông bà ấy đói quá, nói dối vậy để kiếm ăn?

        Nói đến đây nàng biết không phải, vì ông bà cho nàng số vàng bạc, mà nếu dùng để ăn uống, thì nàng ăn cả đời cũng không hết.

        Viên-Chiếu hỏi:

        – Trong những ngày ở đây, ông bà ấy có lên bảo điện lục lọi gì không?

        – Bạch thầy, thường vào lúc chuông thu không, ông bà đều lên bảo điện ngồi thiền cho đến khuya, có khi tới sáng. Những lúc đó, ông bà bảo con với bà Ðinh cứ đi ngủ, không phải ứng hầu.

        Viên-Chiếu cau mặt lại, tỏ vẻ khó hiểu, lát sau nói:

        – Cái người đánh xe cho ông bà ấy, con cho anh ta ở đâu?

        – Bạch thầy sau khi đến chùa, thì anh ta đánh xe đi mất. Tới ngày ông bà lên đường, anh ta mới trở lại.

        Nàng đem số vàng, bạc ông bà quý nhân tặng, trình cho Viên-Chiếu:

        – Bạch thầy, lúc ra đi, ông bà có cho con ba nén vàng, mười nén bạc. Con đã mua con trâu mất hai lạng, còn lại con xin gửi trả chùa.

        Viên-Chiếu vẫy tay:

        – Ông bà ấy cho con, chứ không phải cúng dàng cho chùa. Con cầm lấy mà chi dùng.

        Minh-Ðệ cung tay:

        – Bạch thầy, duyên khởi của đám vàng bạc này là ở điểm ông bà ấy đến sống ở trong chùa hơn tháng. Con lại sống dưới hào quang Tam-bảo, vì vậy con xin cúng dàng Tam-bảo.

        – Không, thầy không nhận đâu.

        Nét mặt ông trở thành từ ái, nhìn Minh-Ðệ:

        – Thôi, việc xong rồi, con có thể lui.

        Minh-Ðệ hành lễ, rồi lui ra ngoài làm việc.

        Viên-Chiếu gọi năm trẻ lại. Ông cật vấn chúng về những gì xẩy ra khi ông vắng chùa. Chúng nhất nhất thuật lại không thiếu chi tiết nào.

        Minh-Ðệ hoang mang vô hạn. Nàng nghĩ thầm: rõ ràng hai ông bà ấy là người tử tế. Ông bà dạy nội công, dạy võ công cho nàng, rồi còn cho nàng vàng bạc quá nhiều, như vậy ông bà là người tốt, chứ đâu phải người xấu? Nhưng tại sao ông bà lại đánh lừa nàng?

        Suốt đêm đó nàng trằn trọc không ngủ được, tự nghĩ:

        – Vàng bạc trong người ta không phải do ta mà có. Vàng bạc này do ông bà ấy đến chùa, ở trong chùa, ăn uống của chùa rồi cho ta, tức là ông bà ấy cúng dường. Nhưng thầy không nhận, thôi thì ta đem bỏ vào trong phúc-sương, như vậy sau này các thầy mở thùng ra, thì cho là của thập phương.

        Nghĩ là làm, nàng rón rén lên bảo điện, móc vàng bỏ vào phúc-sương. Nhưng miệng phúc-sương nhỏ quá, bỏ vào không lọt. Nàng nghĩ:

        – Làm sao bây giờ? À hôm trước ta lau tượng ngài Quan-Thế-Âm, thấy tượng rỗng bên trong. Vậy ta gói tất cả lại, rồi bỏ vào bụng tượng, như vậy là êm đẹp.

        Nàng khẽ vận sức cho tượng Quan-Thế-Âm nghiêng đi, rồi bỏ vàng, bạc vào đấy. Xong việc, nàng về phòng, rồi thiu thiu ngủ. Không biết nàng ngủ trong bao nhiêu lâu, bỗng nàng giật mình thức giấc vì có nhiều tiếng động, tiếng người nói, tiếng kim khí chạm nhau. Hé cửa nhìn ra sân, bất giác nàng giật mình, vì trong sân đầy binh lính, đèn đuốc sáng chưng. Một người lính đập cửa phòng nàng, miệng hô lớn:

        – Mở cửa mau.

        Minh-Ðệ vội mở cửa, một người lính la lớn:

        – Trong phòng này có con gái.

        Một người mặc quân phục đội trưởng chạy lại hỏi nàng:

        – Cô ở trong phòng này à? Trong phòng còn ai nữa không?

        – Thưa không.

        Tất cả tăng chúng đều bị lùa vào một chỗ. Minh-Ðệ cũng bị lùa đến phía trước tăng chúng. Nàng đưa mắt nhìn: quanh chùa binh lính gươm đao sáng choang bao vây chùa cực kỳ nghiêm mật. Một viên quan nói với Viên-Chiếu:

        – Thưa đại sư, bản chức là Phạm Anh, lĩnh Kinh-lược an-phủ sứ lộ Kinh-Bắc này. Vì có người cáo giác rằng trong chùa Từ-quang tăng chúng không giữ giới luật, nào là chứa phụ nữ làm điều trên bộc trong dâu, nào là làm chuyện đạo thiết, nào là ăn mặn; cho nên bản chức phải đem quân đến khám xét, điều tra thực hư. Ở đây bản chức có năm thư lại, cùng năm tốt trưởng sẽ đi khám khắp chùa. Xin sư trưởng cho năm vị tăng đi theo năm toán, để hướng dẫn họ làm việc.

        Viên-Chiếu lên tiếng gọi:

        – Viên-Căn, Viên-Mộc, Viên-Chi, Viên-Diệp, Viên-Hoa, các con hướng dẫn quan quân làm việc.

        Ðó là năm tăng trẻ, khoảng 25-30 ra, theo năm toán.

        Phạm Anh ra lệnh:

        – Chúng ta có năm toán, mỗi toán phụ trách khám xét một khu, với sự chứng kiến của một vị tăng. Tuy nhiên nếu có gì phạm pháp trầm trọng, thì các người phải gọi ta để thỉnh hoà thượng trị sự trưởng cùng chứng kiến.

        Năm toán chia nhiệm vụ làm việc. Một toán lên bảo điện; một toán khám các tăng phòng; một toán khám nhà bếp, kho chứa lúa, chuồng trâu; một toán khám ngoài vườn; một toán khám sân chùa.

        Ðến đó, năm trẻ cắp sách vào chùa. Chúng lấm lét nhìn quan quân, nhưng không dám hỏi han.

        Sân chùa tuy rộng, nhưng ngoài tượng Quan-Thế-Âm đứng trên đài, với những chậu cảnh ra, không có gì khác lạ. Khi khám đến dưới gốc dàn thiên lý, thì quân sĩ tìm thấy một ít lông gà, cùng lông chó. Viên thư lại nói với sư ông Viên-Hoa:

        – Lông gà, lông chó này còn mới, như vậy chứng tỏ trong quý tự có người làm thịt chó, làm thịt gà. Xin đại sư cho biết ai đã làm chuyện đó?

        Nhà sư Viên-Hoa lắc đầu:

        – Lông gà, lông chó này dường như có người cố ý bỏ vào đây, chứ trong bản tự giới luật rất nghiêm, đời nào lại để cho người ta sát sinh trong khuôn viên này nhỉ?

        – Ðại sư nói thế, thì tôi biết vậy. Nhưng đại sư ơi, tôi không có quyền gì cả, đợi quan trên phân xử. Tang chứng này tôi xin giữ.

        Lý Ðoan chạy lại cầm đám lông gà, lông chó lên xem, rồi nó nói:

        – Nhất định là có ai bỏ vào đây. Bởi từ mấy hôm nay trời không mưa. Nếu như lông gà do người trong chùa vứt ra thì phải khô rồi chứ? Có đâu ướt nhèm thế này? Nhất định là ai bỏ vào rồi.

        Phạm Anh quát:

        – Ranh con im mồm, lý của mi không vững.

        Toán khám vườn đã tìm ra được bốn hố rác, trong đó chôn đầy lông gà, xương gà, lông xương chó, xương lợn, xương trâu. Họ đào lên, cho tất cả vào một cái túi. Viên thư lại chỉ huy toán này chế diễu sư Viên-Mộc:

        – Tất cả có 5 cái xương sọ chó, thế thì ít ra trong quý tự đã giết đến năm con chó. Tôi tìm được mười tám cái mỏ gà, thế thì ít nhất quý tự đã giết mười tám con gà. Tôi lại tìm được trước sau mấy chục cái xương gối lợn, năm cái xương gối trâu. Hà, cái này tội nặng quá. Nam-mô thịt chó, Nam-mô thịt gà, Nam-mô-thịt trâu, Nam-mô thịt lợn. Tu với hành. Như vậy chùa này là chùa của Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng rồi.

        An-phủ-sứ nghe đến tiếng Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng thì mặt tái xanh, y quát:

        – Im cái mõm đi. Việc mình mình lo, đừng có nói bậy nói bạ mà chết cả nhà bây giờ!

        Ðây là lần thứ nhì Minh-Ðệ nghe đến danh tự Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng. Không biết Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng là ai, mà từ Lý-trưởng cho đến An-vũ-sứ nghe đến tên mà đã kinh hoảng?

        Nhà sư Viên-Mộc là người thực thà, ông nói:

        – Chùa chúng tôi giữ giới rất nghiêm, nhất định có ai hại chúng tôi, đem những thứ dơ bẩn này chôn vào đây, rồi đi báo quan mà thôi. A-Di-Ðà Phật.

        Viên thư lại cười nhạt:

        – Chứng cớ rành rành ra thế này, mà đại sư còn biện luận ư?

        Hai biến cố động trời như vậy xẩy ra, mà đại sư Viên-Chiếu vẫn thản nhiên, không nói không rằng. Một lát viên thư lại khám nhà bếp chạy ra trình:

        – Trong bếp còn một nồi lớn rựa mận thịt chó, hai con gà luộc, ba cái đùi chó luộc.

        Tang vật được để tất cả trước mặt Phạm Anh với đại sư Viên-Chiếu. Ðến đó viên quan khám tăng phòng cùng nhà sư Viên-Chi ra sân. Viên quan trình cho Phạm Anh những phạm vật:

        – Bẩm An-phủ-sứ. Trong phòng của sư Viên-Căn có cái yếm dấu dưới gối. Phòng của sư Viên-Mộc có hai cái quần nái đen. Phòng của sư Viên-Chi có một cái áo cánh, một cái yếm, một cái quần lụa đen đàn bà. Phòng của Viên-Diệp có cái khăn vuông, cái áo tứ thân. Phòng của Viên-Hoa có hai chai rượu đã uống đở, với hai cái quần thâm. Ðặc biệt phía sau, có một phòng của con gái ở.

        Y chỉ vào Minh-Ðệ:

        – Có phải phòng kia của cô không?

        – Vâng.

        Minh-Ðệ nhìn đám quần áo tang vật, bất giác nàng rùng mình kinh hãi. Vì đó đều là quần áo của nàng hồi còn ở với bố mẹ. Khi nàng rời nhà ra đi, thì trên người chỉ mặc có cái áo cánh nâu, với cái quần nái đen. Tất cả quần áo đều còn để ở nhà nàng, mà sao bây giờ lại ở trong phòng mấy vị sư kia?

        Lát sau, sư Viên-Căn với viên quan khám bảo điện đi ra. Viên quan cung tay nói:

        – Trình với An-vũ-sứ, trên bảo điện thì không có gì, nhưng dưới đế tượng Quan-Thế-Âm thì có ba nén vàng, tổng cộng 30 lạng; chín nén bạc, mỗi nén 10 lạng, thêm tám lạng lẻ, như vậy cộng chung thành 97 lạng bạc. Bẩy lạng bạc lẻ là bạc Ðại-Việt, còn lại vàng, bạc đều là vàng bạc của Tống.

        Kinh-lược-sứ hất hàm ra lệnh:

        – Phong tỏa chùa, niêm phong tài sản, sau đó giao cho hàng xã trông coi. Còn vàng, bạc, tang vật đem về về dinh của ta để điều tra thêm. Tất cả tăng trong chùa đều đóng gông. Riêng đứa con gái này thì chỉ trói lại giải đi mà thôi.

        Các sư cùng Minh-Ðệ đều biện luận, nhưng đại sư Viên-Chiếu phất tay:

        – Khi nghiệp quả đã đến, thì phải thản nhiên đón nhận, đừng có cưỡng. Nếu cưỡng chống, thì nó sẽ đeo bên mình mà đòi nữa.

        Ông thản nhiên để cho lính đóng gông, cùng chư đệ tử ra khỏi chùa. Dân làng đứng chen nhau ngoài cổng, kẻ khóc kêu oan, người niệm Phật. Năm đứa trẻ khóc rống lên. Chúng chửi đổng:

        – Ðịt mẹ... đứa nào hại các thầy.

        Trong đám dân chúng, Minh-Ðệ thấy có cả bọn Phúc, Ðức, Ðạt, cùng Minh-Can, chúng cười cười, nói nói nét mặt hân hoan không thể tưởng tượng được. Ðoàn quân giải đại sư Viên-Chiếu cùng năm đệ tử, mười đồ tôn, với Minh-Ðệ đi hết buổi hôm đó mới đến dinh kinh-lược-sứ. Minh-Ðệ bị tống giam chung với ba người đàn bà khác. Nàng không bị đóng gông. Vì đi đường xa mệt mỏi, nàng nằm lăn ra ngủ, không để ý đến ba người đàn bà bị giam cùng. Trong giấc ngủ, tiềm thức làm việc, nàng vẫn luyện nội công.

        Chiều hôm đó Minh-Ðệ thức giấc, nàng để ý đến ba người đàn bà. Một người tuổi khoảng năm mươi, bà này ngồi thu hình trong góc không nói gì. Người thứ hai là một trung niên thiếu phụ, bà ta nằm ngửa mặt lên trời, mắt mở thao láo. Người thứ tư là một thiếu nữ tuổi khoảng mười hai, mười ba, khá xinh đẹp. Cô ngồi ôm gối không nói không rằng. Thấy Minh-Ðệ thức giấc, cô hỏi:

        – Này bà chị mới vào. Bà chị tên gì, tại sao bị tù vậy?

        – Tôi tên Yến-Loan, tôi không hiểu tại sao mà bị tù. Có lẽ kiếp trước tôi làm tội, nên kiếp ngày phải trả. Tên em là gì?

        – Em họ Chu, tên là Thúy-Phượng, năm nay mới mười ba tuổi. Nhà em nghèo, nên bố mẹ bán em cho nhà giầu làm con ở. Sau chủ bán em cho người khách phú thương làm lẽ. Em trốn đi. Chủ trình quan, quan bắt được, giam em ở đây, rồi sẽ trả về cho chủ.

        Thúy-Phượng chỉ vào người đàn bà ngồi thu hình:

        – Vì em trốn đi, nên mẹ em cũng bị bắt vào đây. Không biết rồi sẽ ra sao? Mẹ em tên Thúy-Hoàng.

        Nó chỉ vào thiếu phụ trung niên:

        – Bà kia tên là Phạm Thị-Nương, cũng nhà nghèo, có con gái bán cho người ta. Nhưng được hai năm, con gái trốn đi mất, chủ đem đơn kiện lên quan, nên quan bắt bà bồi thường. Bà không có tiền, nên bị bắt giam.

        Minh-Ðệ tường thuật qua biến cố của chùa Từ-quang cho mẹ con Thúy-Phượng với bà Nương nghe. Bà Thúy-Hoàng tỏ vẻ thương hại Minh-Ðệ:

        – Ta nói cho cháu biết. Trong trấn này thì Kinh-lược-sứ phu nhân là người nắm quyền chứ không phải chồng bà. Bà là cháu gọi Thượng-Dương hoàng hậu bằng cô ruột. Kinh-lược-sứ trước kia chỉ là một đô thống xuất thân. Từ sau khi hết hôn với bà, thì công danh lên như diều. Ông được thăng lên làm Vũ-kị đại tướng quân, chỉ huy hai đạo quân Thiên-tử binh. Năm sau chẳng công trạng gì, lại được cất nhắc lên làm Kinh-lược an-phủ-sứ. Còn quan coi về án ở đây gọi là đề điểm hình ngực có tên là Hoàng Khắc-Dụng, ông xuất thân từ quan văn, tính tình cương trực. Hai hình quan cũng là người ngay thẳng tên Tô Sơn-Lâm, Vương Ðình-Thụ. Nếu cháu có phạm tội, thì phải khai thực, để ông ấy xử nhẹ cho.

        – Cháu có nghe rằng mỗi án đều do vua xử kia mà?

        – Cháu chưa hiểu gì về tổ chức tư pháp cả. Trước tiên những việc nhỏ, tội nhẹ thì do hương lý xử. Nếu phạm nhân kháng án, thì đưa lên châu-quận xử. Còn những tội nặng thì do quan Ðề-điểm hình ngục cùng với hai hình-quan xử. Xử xong, tư lên quan Kinh-lược an-phủ-sứ duyệt xét. Quan Kinh-lược có quyền giảm án, hay tăng án. Nếu giữa quan Ðề-điểm hình ngục với quan Kinh-lược an-phủ-sứ bất đồng ý kiến thì sẽ đưa về bộ hình phúc thẩm. Tuy nhiên đương kim Hoàng-thượng là người nhân từ, nên ngài định rằng tất cả các án tử hình đều phải để chính ngài xử.

        Chuyện vừa hết, thì cai ngục gọi:

        – Yến-Loan đâu, lên hầu quan.

        Minh-Ðệ vội vàng đứng dậy theo cai ngục lên công đường. Tại công đường, một viên quan ngồi trên cái sập, sau cái án thư. Nàng biết đó là viên Ðề điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng. Hai bên viên Ðề điểm hình ngục là hai viên hình quan Tô Sơn-Lâm, Vương Ðình-Thụ chuyên hỏi cung và hơn mười người lính đứng hầu, mỗi người cầm một hình cụ, đó là hình-binh, chuyên việc tra khảo phạm nhân. Nàng từng nghe nói, những viên quan, binh này gan bằng sắt, tim bằng gỗ lim, tra khảo người không nương tay.

        Hình quan Tô Sơn-Lâm hô:

        – Yến-Loan quỳ xuống.

        Minh-Ðệ quỳ gối.

        Hình quan Vương Ðình-Thụ hỏi:

        – Con kia, họ tên là gì? Quê quán ở đâu? Bố mẹ là ai, năm nay bao nhiêu tuổi?

        Minh-Ðệ đã có chủ tâm, nàng khai láo như đã khai ở chùa:

        – Bẩm con mồ côi từ nhỏ, không biết bố, mẹ là ai. Con ở với dì. Dì con chết rồi, thì người ta bắt con bán cho nhà giầu. Nhân chủ nhân ác độc đánh đập tàn nhẫn, con trốn đi, được sư cụ chùa Từ-quang thương tình, cho con tá túc, làm công quả.

        – Thế mi đến chùa từ bao giờ?

        – Bẩm tháng hai vừa rồi, đến nay là 6 tháng.

        – Trong khi ở chùa, mi đã ăn nằm với bao nhiêu nhà sư?

        – Bẩm con còn là trinh nữ. Con ở chùa làm công quả. Các thầy thương con là trẻ mồ côi, coi con như đệ tử, có đâu làm chuyện trên bộc trong dâu.

        – Những quần áo trong phòng các nhà sư đều một khổ người với mi. Phải chăng đó là quần áo của mi?

        – Bẩm vâng. Quả là quần áo của con.

        Viên Ðề điểm hình ngục Hoàng-khắc-Dụng đập tay xuống sập:

        – Nói láo. Mi bảo mi không ăn nằm với sư. Thế sao quần áo của mi lại để rải rác ở phòng năm nhà sư?

        – Con cũng không biết tại sao nữa.

        – Khảo.

        Hai tên quân nọc cổ Minh-Ðệ nằm xuống nền nhà, rồi dùng roi mây quất túi bụi. Minh-Ðệ vội vận công chống đau. Vì vậy roi đánh xuống, mà nàng không cảm thấy đau đớn gì. Nàng nằm yên cho tên quân đánh. Sau khi tên quân đánh đủ 20 roi, mà nàng không dãy dụa, cũng chẳng kêu khóc.

        Hai tên quân nọc cổ Minh-Ðệ nằm xuống nền nhà, rồi dùng roi mây quất túi bụi. Minh-Ðệ vội vận công chống đau. Vì vậy roi đánh xuống, mà nàng không cảm thấy đau đớn gì. Nàng nằm yên cho tên quân đánh. Sau khi tên quân đánh đủ 20 roi, mà nàng không dãy dụa, cũng chẳng kêu khóc.

        Tô Sơn-Lâm lại hỏi:

        – Mi gan đấy. Hai mươi roi mà mi không kêu khóc, mi có chịu khai hay không?

        – Bẩm quan khai gì cơ ạ?

        – Khai đã ngủ với những nhà sư nào? Ngủ bao nhiêu lần? Ngoài mi ra, còn có đứa nào ngủ với các nhà sư nữa?

        – Bẩm quan lớn là đèn trời soi xét cho con. Con vẫn còn là con gái chưa vẩn bụi đời, thì sao có thể có việc làm chuyện kia được?

        Hoàng Khắc-Dụng bảo Tô Sơn-Lâm, Vương Ðình-Thụ:

        – Ðược rồi, việc này dễ. Ðể ta sai bà mụ khám xem nó còn đồng trinh không thì biết ngay chứ khó gì đâu. Hỏi sang vụ ăn mặn.

        Tô Sơn-Lâm hỏi:

        – Mi làm bếp trong chùa, mà trong chùa có thịt chó, thịt gà, rồi xương lợn, xương trâu, lại có cả mấy chai rượu nữa. Như vậy chính mi nấu thịt cho các nhà sư ăn hẳn?

        – Bẩm từ khi con đến chùa, con cũng ăn chay theo sư cụ với các sư ông, sư bác. Chùa rất thanh tịnh. Ðến người ta còn say rượu mà lên chùa, các thầy cũng không cho vào, huống hồ ăn thịt chó?

        Tô Sơn-Lâm lắc đầu:

        – Tang chứng rành rành ra thế kia, mà mi còn dẻo miệng chối ư? Mi không chịu khai ra, ta sẽ cho kẹp tay mi. Kẹp tay đau lắm chứ không như đánh roi đâu.

        – Bẩm quan dù quan có đánh chết con cũng chịu, chứ khai láo cho các thầy, sau này xuống âm phủ sẽ bị quỷ sứ rút lưỡi ra.

        Viên Ðề điểm hình ngục chỉ vào hai thanh tre trên tay một tên quân:

        – Dù cho mi gan đến mấy, nếu mi không khai thực, ta sẽ cho kẹp tay mi.

        – Bẩm quan, xương thịt ai mà chẳng đau, nhưng điều quan hỏi, thực không hề có, mà quan bắt con nhận, thì sao con nhận được?

        Viên Ðề điểm hình ngục Vương Ðình-Thụ vẫy tay:

        – Kẹp nó!

        Một tên quân nắm tay Minh-Ðệ đưa ra. Tên khác dùng hai thanh tre lớn kẹp năm đầu ngón tay nàng. Y nghiến răng bóp hai thanh tre. Minh-Ðệ vội hít hơi, vận khí ra mười đầu ngón tay. Rắc một tiếng, hai thanh tre bị gẫy.

        Vương Ðình-Thụ mắng tên quân:

        – Tại sao mi lại dùng hai thanh tre mục mà kẹp nó. Mau lấy hai thanh khác.

        Tên quân lấy hai thanh tre khác. Lần này y cầm từng thanh một bẻ thử, rồi gõ vào nhau, chứng tỏ còn tốt. Y lại kẹp tay Minh-Ðệ, nàng vội hít hơi vận khí chịu đòn. Tên quân nghiến răng kẹp, nhưng Minh-Ðệ chỉ cảm thấy hơi khó chịu, chứ không đau đớn gì. Hai thanh tre gặp ngón tay đầy chân khí của Minh-Ðệ cứng ngắt, nên cong lại. Thấy Minh-Ðệ im lặng dường như không đau đớn gì, mà tên quân mỏi tay quá, phải ngừng lại.

        Vương Ðình-Thụ cau mặt:

        – À, con này nó có nghề đây. Nó luyện thân thể thành mình đồng da sắt chắc. Thôi được, gọi nhà sư Viên-Căn lên.

        Một lát nhà sư Viên-Căn được giải lên. Viên đề điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng nói:

        – Sư ông có phải là đệ tử lớn nhất của chùa Từ-Quang không?

        – Bẩm quan vâng.

        – Tang chứng rành rành, rõ ràng tăng chúng trong chùa phạm giới sát; giết chó, giết gà ăn thịt. Trong tăng phòng có quần áo của đàn bà, như vậy thì chắc là phạm giới dâm rồi. Quân lại tìm thấy mấy chai rượu, trong đó có những chai uống dở, như vậy là phạm giới tửu. Dưới tượng Quan-Âm còn dấu vàng của công khố nhà Tống. Vàng đó ở đâu ra? Việc này không giản dị đâu, chắc là các người làm gian tế cho Tống phải không? Sự việc đã như vậy, thì cứ nhận tội đi, đức hoàng-đế là bậc chí nhân như vua Hùng, vua Trưng sẽ ân giảm tội cho, bằng không thì tất cả thầy trò đều phải tội lăng trì.

        Viên-Căn lắc đầu:

        – Bần tăng chắc ai đó thù oán nhà chùa, nên trong đêm tìm cách bỏ thịt, bỏ xương thú vật vào để vu vạ cho thiểm tự. Xin quan trên xét lại.

        Vương Ðình-Thụ quát:

        – Khảo.

        Hình quan vẫy tay, một tên lính cầm hai thanh tre kẹp bàn tay Viên-Căn. Nhà sư nghiến răng, uốn cong người lại chịu đòn. Chỉ lát sau không chịu nổi đau đớn, nhà sư ngã lăn ra, nhưng bàn tay vẫn bị kẹp cứng. Hai chân nhà sư đạp loạn xạ để chống với cái đau. Tô Sơn-Lâm vẫy tay cho quân dừng lại:

        – Này, thầy Viên-Căn. Tôi nghĩ mình làm tội thì mình chịu, bất quá thì bị xung quân, đồ làm lính là cùng. Cớ sao thầy không nhận tội, để đến nỗi phải chịu đau đớn thân xác như thế.

        Viên-Căn từ từ lắc đầu:

        – Bần tăng có làm thì có chịu, đây bần tăng không hề thấy, không hề biết thì sao mà khai được? Cái việc quần áo của Phật-tử Yến-Loan ở trong tăng phòng lại càng lạ lùng hơn nữa. Ðúng là tiền oan nghiệp chướng, hẳn vì thù oán chi đây, nên người ta hại thiểm tự. Thôi thì bần tăng đành mang cái xác này ra để giải nghiệp vậy.

        Viên-Căn từ từ lắc đầu:

        – Bần tăng có làm thì có chịu, đây bần tăng không hề thấy, không hề biết thì sao mà khai được? Cái việc quần áo của Phật-tử Yến-Loan ở trong tăng phòng lại càng lạ lùng hơn nữa. Ðúng là tiền oan nghiệp chướng, hẳn vì thù oán chi đây, nên người ta hại thiểm tự. Thôi thì bần tăng đành mang cái xác này ra để giải nghiệp vậy.

        Tiếp theo bốn nhà sư Viên-Mộc, Viên-Chi, Viên-Diệp, Viên-Hoa đều bị gọi lên khảo đả, nhưng không ai chịu nhận tội cả. Khi gọi đến sư cụ Viên-Chiếu, thì ông chỉ nhắm mắt nhập thiền. Hình quan định ra lệnh khảo đả Viên-Chiếu thì nhà sư Viên-Hoa nói:

        – Thưa thượng quan, với những tang vật, cùng chứng cớ rành rành ra như vậy, thì thượng quan không cần anh em bần tăng nhận tội, cũng có thể làm án được rồi. Thượng quan khỏi phải khảo đả nữa. Bần tăng xin thưa với thượng quan rằng, những quần áo đàn bà trong tăng phòng, cũng như xương chó, lông thú vật... nhất định có bàn tay nào đó hại tăng chúng thiểm tự. Bần tăng xin thượng quan cho bần tăng chịu hình phạt thay cho sư phụ cùng chư huynh đệ, chư đệ tử.

        Ðề điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng nói:

        – Cái tội phạm giới dâm, giới tửu, giới sát sinh thì chỉ đưa đến đánh đòn, đuổi về trần tục mà thôi. Nhưng còn vàng, bạc của Tống triều, thì ngoài thẩm quyền của bản chức. Bản chức phải giải các người về triều để quan Hình-bộ cùng đức Kim-thượng xử về tội làm gian tế cho Tống.

        Minh-Ðệ quỳ tâu:

        – Thưa đại nhân, về việc vàng bạc này hoàn toàn do con, tội ở con, chứ không do các thầy. Con xin chịu tội thay cho các thầy.

        Rồi nàng thuật lại chi tiết việc quý nhân tới chùa cư ngụ trong hơn tháng. Ðúng ra nàng phải kể rằng trước khi đi, ông bà cho nàng vàng bạc, thì nàng nói là ông bà cúng dàng tam bảo, rồi nàng nộp vàng cho sư cụ Viên-Chiếu, mà sư cụ không nhận. Vì vậy nàng mới đem cất vào tượng Quan-Âm. Việc ông bà dạy võ cho nàng cho nàng, nàng cũng bỏ qua luôn.

        Ðề điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng truyền lấy giấy bút cho thư lại để viết tờ cung.

        Thời bấy giờ chữ Khoa-đẩu của người Việt bị mai một đi, thành ra mọi công văn; từ chiếu, chế, biểu của triều đình cho tới văn tự trong dân gian đều dùng chữ Nho hay còn gọi là chữ Hán. Triều Lý khuyến khích, mở rộng học đường, nhưng dân chúng biết chữ rất ít, thường họ chỉ học để đọc thông văn tự mà thôi. Còn phụ nữ, tuy ảnh hưởng của Vua bà Bình-Dương, cùng các công chúa Kim-Thành, Trường-Ninh, Côi-Sơn, Ôn-Thuận còn vang dội, nhưng con gái được cho đi học không làm bao. Vì vậy viên Ðề điểm hình ngục mới bảo viên thư lại Quách Ðồng viết tờ cung khai.

        Quách Ðồng viết xong, y sao làm hai bản rồi truyền lệnh cho Minh-Ðệ:

        – Mi ký vào đây.

        Minh-Ðệ cầm tờ khai lên đọc. Nàng thấy rõ ràng lời khai hai tờ khác nhau. Ðọc xong nàng nói với viên thư lại Quách Ðồng:

        – Tại sao chú lại viết như thế này?

        Viên thư lại tái mặt:

        – Ta viết đúng như lời mi khai, chứ có gì khác đâu?

        Minh-Ðệ chỉ vào tờ khai thứ nhì:

        – Tờ thứ nhất, chú viết đúng. Tờ thứ nhì chú viết sai hoàn toàn. Chú viết rằng đại sư Viên-Chiếu không phải là chân tu, mà là gian tế của Tống đem vào tiềm ẩn ở Ðại-Việt, rằng chùa Từ-quang là chỗ cho gian tế Tống lưu ngụ, chúng thường ăn thịt chó, bắt lương gia phụ nữ hành dâm. Tôi là con gái giả đến chùa làm công quả, chứ thực ra là gian dâm với các nhà sư. Chính Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai với Vương phi là trưởng đại công chúa Huệ-Nhu điều động vụ này. Vương tới lưu ngụ ở chùa truyền võ công cho tôi. Vàng bạc mà vương cúng dàng đó để giao cho đại sư Viên-Chiếu hối lộ, mua chuộc tướng sĩ, võ lâm Ðại-Việt theo Tống, làm gian tế cho Tống, khi quân Tống sang đánh. Sao... sao... chú lại ác vậy?

        Viên Ðề điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng nghe Minh-Ðệ nói, vội cầm hai tờ khai lên đọc. Khi đọc xong tờ thứ nhì, ông ta vỗ bàn chỉ vào mặt tên Quách Ðồng quát:

        – Mi thực là tên gian xảo. Mi định làm hai tờ khai khác nhau, đưa cho tội nhân ký, rồi ta kiềm thự. Bản thứ nhất mi sẽ dấu đi. Còn bản thứ nhì trình lên ngài An-phủ-sứ. Như vậy là mi gắp lửa bỏ bàn tay người ta rồi. Bay đâu, gông cổ nó lại, đem biệt giam để chờ điều tra.

        Hình-quân lập tức đóng gông viên thư lại Quách Ðồng, đem đi.

        Viên Ðề điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng hỏi Minh-Ðệ:

        – Mi có thể tự viết tờ cung khai được không?

        – Bẩm quan được ạ.

        Minh-Ðệ mài mực, rồi cầm bút viết. Nàng viết liên tiếp một lúc mười trang giấy, cung khai từ đầu đến cuối vụ qúy nhân đến chùa, rồi nàng còn chép cả chuyện viên thư lại làm tờ cung khai hại nàng với chùa Từ-quang. Nàng đưa cho viên Ðề điểm hình ngục. Viên này thấy Minh-Ðệ cầm bút viết dễ dàng, y đã kinh ngạc không ít. Nay cầm tờ khai, nét chữ nàng như rồng bay phượng múa, khiến y kinh hãi vô cùng. Y càng kinh hãi hơn, vì tuy bị tra khảo, bị hành hạ, mà văn phong của Minh-Ðệ vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát, mỗi lời, mỗi ý đều sâu sắc. Y liếc nhìn nàng, mà trong lòng cảm phục. Ðọc xong y hỏi:

        – Mi nói quý nhân cúng dàng ba nén vàng, mười nén bạc, sao bây giờ chỉ có ba nén vàng, chín nén tám lạng bạc. Còn hai lạng nữa đâu?

        Minh-Ðệ lại khai chi tiết việc học trò trường Trung-nghĩa giết trâu mừng sinh nhật Siêu-loại hầu, rồi nàng bị bắt ra sao, cuối cùng nàng dùng bạc mua lại con trâu như thế nào.

        Viên Ðề điểm hình ngục nhăn mặt tỏ vẻ đăm chiêu, nhưng giọng nói đã có đôi phần khách khí, không coi Minh-Ðệ là thứ trốn chúa lộn chồng nữa:

        – Không ngờ vụ án chùa Từ-quang lại trở thành to lớn, liên quan đến trường Trung-nghĩa. Tại sao Quách Ðồng lại cố ý viết tờ khai cho giống với lời tố giác của đám đệ tử trường Trung-nghĩa, làm hại Kinh-Nam vương? Thôi thì đành để Kinh-lược-sứ định liệu, chứ thẩm quyền của bản chức, không thể hỏi cung tước hầu như Trung-nghĩa đại tướng quân. Có điều cặp vợ chồng quý nhân kia là ai mà lại cúng dàng số vàng quá lớn. Không lẽ ông bà là Kinh-Nam vương thực? Nhưng với giọng nói ngọng của bà vợ, thì rõ ràng bà là người Hán rồi. Chỉ có người Hán mới nói tiếng chết thành chiết, rồi thành dồi, được thành lược.

        Y nhìn năm nhà sư mình mẩy đầy thương tích, bàn tay tím bầm vì bị kìm kẹp, rồi tiếp:

        – Hiện có đến ba chục viên võ quan trong vùng Kinh-Bắc này xuất thân ở trường Trung-nghĩa. Mà cái việc cáo giác chùa Từ-quang lại do mấy võ quan gốc Trung-nghĩa trình lên ngài Kinh-lược-sứ. Vụ án này coi ra nhiêu khê đây.


        #4
          CDDLT 21.01.2005 18:10:34 (permalink)
          HỒI THỨ TƯ

          Cánh bèo trôi nổi





          Minh-Ðệ cùng với năm vị đệ tử của đại-sư Viên-Chiếu bị gọi lên từng người một thẩm cung liền mười lăm ngày. Mỗi ngày một người chấp cung khác nhau. Nhưng những lần thẩm cung sau, thì không ai bị tra tấn nữa. Hình quan chỉ đặt câu hỏi, bắt trả lời. Họ thay nhau, người này vặn đi, người kia vặn lại, rồi họ bắt viết tay lời cung vào tờ giấy. Sau lần thứ mười lăm, thì quan Ðề-điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng gọi Viên Chiếu, chư tăng, cùng Minh-Ðệ lên công dường, với sự hiện diện của các quan chấp cung, hai hình quan Tô Sơn-Lâm, Vương Ðình-Thụ, rồi tuyên án:

          – Ðúng ra với tội phạm giới tại chùa Từ-quang, thì bản chức sẽ xử. Tội nhẹ thì đánh đòn, đuổi về dân dã. Tội nặng thì xung quân. Bản án được chuyển qua quan Kinh-lược để ngài tăng hay giảm chút ít rồi cho thi hành. Nhưng vụ này lại kèm thêm tội làm gian tế cho Tống, quan Kinh-lược-sứ muốn bỏ qua vụ này. Bản chức không thể đồng ý, vì đây là một trong thập ác, nên nội vụ sẽ đưa về bộ Hình phúc thẩm. Các người chịu tạm giam để chờ án trong kinh ra.

          Hoàng Khắc-Dụng hỏi Vương Ðình-Thụ:

          – Viên đội trưởng bị giết hôm qua, đã tìm được manh mối gì chưa?

          – Thưa chưa. Cứ như việc trong miệng y có cái chân chó nhét vào, thì rõ ràng y bị Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng giết chết.

          – Từ xưa đến giờ Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng có giết oan bao giờ đâu? Thế viên đội trưởng phạm tội gì vậy?

          – Theo An-vũ-sứ, thì trong lúc khám chùa Từ-quang, y buột miệng nói : "Chư tăng ăn thịt chó, thịt trâu, như vậy chùa này là chùa của Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng rồi". Chắc vì thế nên Mộc-Tồn hà thượng mới giết y.

          – Chết như vậy là đáng. Ai bảo ngứa miệng?

          Ðây là lần thứ ba Minh-Ðệ được nghe nói đến Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa-thượng. Theo tiếng bình dân thì mộc là cây. Tồn là còn. Cây còn là con cầy. Tức con chó. Tại sao lại có một hòa thượng tên là thịt chó? Tại sao ai nghe đến tên ông cũng kinh hoàng? Tại sao tên đội trưởng chỉ vô lễ một chút mà bị ông giết chết?

          Vương Ðình-Thụ hỏi Khắc-Dụng:

          – Ðại nhân có biết tại sao khi Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng ra tay hạ sát ai lại nhét chân chó hoặc thịt chó vào miệng không?

          – Tôi cũng không rõ nữa. Khắp Ðại-Việt này có hai ông Hình-bộ thượng thư tư là Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai với Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng. Kinh-Nam vương thì xử tội những kẻ chủ gây chia rẽ Hoa-Việt, những bọn tham quan, những phường bán nước trong suốt 35 năm nay. Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng chỉ mới xuất hiện trong vòng mười năm trở lại đây, ông chuyên xử bọn cường hào ác bá, bọn trộm cướp, bọn gian xảo. Nghĩa là một người lo bảo vệ đất nước, một người lo bảo vệ phong hóa, luật pháp.

          Minh-Ðệ được đưa khỏi nhà tù, đem giam lỏng riêng vào một phòng cùng với con bé Thúy-Phượng trong dinh An-phủ-sứ. Phòng có dường chiếu, có chỗ tắm, phía sau có cầu tiêu sạch sẽ. Nàng được ra vào thư thả, cửa nhà giam không bị khóa. Hàng ngày nàng cùng con bé Phượng phải quét dọn công đường cùng tư thất của An-phủ-sứ. Khi làm việc, thấy trên giá của ông có nhiều sách, nàng lấy ra đọc. Một lần An-phủ-sứ thấy vậy thì nói:

          – Ta có coi cung từ của mi, thấy chữ mi viết rất tốt. Vậy ta cho phép mi, sau lúc làm việc được lấy những sách này đem về nhà giam mà đọc.

          Từ đấy Minh-Ðệ lại có sách đọc. Nhớ lời thầy đồ Thái hướng dẫn, nàng chú ý đọc sử nhiều hơn. Vì vậy những ngày ở tù, ban ngày thì Minh-Ðệ đọc sách. Ban đêm nàng luyện công. Nàng thấy tuy ở tù, nhưng nhàn nhã, sướng hơn những ngày ở với cha mẹ. Lắm lúc nghĩ đến thời gian ở với cha mẹ, nàng lại rùng mình. Nàng rùng mình không phải vì làm quần quật suốt ngày, mà vì không biết phải làm gì, nói gì để khỏi phải nghe chửi, khỏi phải ăn đòn. Nàng nghĩ thầm:

          – Nếu ta bị giam như thế một thời gian nữa, thì ta sẽ thuộc hết đám sách này, công lực ta cũng sẽ cao thâm hơn.

          Lắm lúc nàng lại tự hỏi:

          – Siêu-loại hầu bảo rằng vợ chồng quý nhân dạy võ công cho ta là Ưng-sơn song hiệp. Nếu quả như vậy thì cuộc đời ta sung sướng biết bao. Con Minh-Can dựa vào bố mẹ hành hạ ta đủ điều, thế mà thầy nó nghe đến Ưng-sơn song hiệp là phát run lên... Hỏi trên đời này ai dám đối xử tàn tệ với ta nữa? Nhưng không biết bây giờ ông bà ở đâu?

          Trong dinh An-phủ-sứ có năm con hầu tên là Huyền, Thanh, Hồng, Hoàng, Bạch. Năm con hầu này tuổi từ mười ba tới mười sáu, khá xinh đẹp. Chúng là những đứa hầu cạnh phu nhân và các tiểu thư, công tử con An-phủ-sứ. Chúng mặc quần áo bằng lụa mầu theo tên chúng mang. Vì nàng là tù nhân, quần áo xốc xếch, chuyên lau chùi cùng quét dọn, nên chúng coi nàng bằng nửa con mắt. Con đành hanh nhất là con Huyền, vì An-phủ-sứ hứa gả nó cho viên võ quan tên Ðặng Vinh. Tên Vinh xuất thân là đệ tử trường Trung-nghĩa. Y biết Minh-Ðệ đã từng dùng võ công thắng sư đệ của y là Trịnh Phúc, nên y không dám coi nàng như những tên tù khác. Thường ngày, nàng được gọi vào bếp để ăn cơm với bọn chăn ngựa, bọn khuân vác trong dinh.

          Một hôm con bé Thúy-Phượng nói nhỏ với nàng:

          – Mẹ em, cũng như mấy bà trong tù nhận thấy những ngày gần đây, da chị ngày càng trắng hồng ra, mắt sáng óng ánh, lưng thon thêm. Nhan sắc chị trở thành hiếm có. Thế nhưng... thế nhưng... chị lại ở tù, thì e khó giữ nổi tuyết sạch giá trong đấy.

          Minh-Ðệ biết nàng luyện nội công âm nhu, nên nhan sắc ngày càng xinh đẹp. Nàng lo sợ hỏi:

          – Vậy chị phải làm sao bây giờ?

          – Mẹ em bảo chị nên để đầu bù tóc rối, rồi bôi than, bôi đất đi cho thành lọ lem mới được.

          Từ đấy nàng để đầu bù tóc rối, mặt bôi lọ lem luốc. Nhưng nàng để ý thấy những quan của lộ Kinh-bắc thường nhìn nàng với con mắt gian tà, khiến nàng càng lo sợ. Nàng chỉ mong sao cho án sớm làm xong, để nàng có thể rời khỏi đây.

          Hôm ấy con Huyền, một con hầu của An-phủ-sứ, thấy nàng xuống bếp ăn cơm xong, thì vẫy tay:

          – Phu nhân khen chị chăm chỉ bón hoa, hoa nở tươi đẹp, nên ban thưởng cho chị bát sâm thang này. Vậy chị uống đi.

          Minh-Ðệ vọi bưng chén sâm thang uống, rồi nói:

          – Xin chị thưa với phu nhân rằng con tù Yến-Loan gửi lời đa tạ phu nhân.

          Sau bữa cơm chiều, nàng trở về phòng giam, thì thấy con bé Thúy-Phượng đang nằm ngủ trên dường của nàng. Nàng lay gọi, mà nó cứ mơ mơ tỉnh tỉnh. Còn nàng thì tự nhiên mắt dí lại buồn ngủ kỳ lạ, cái buồn ngủ mà trọn đời nàng chưa hề thấy qua. Nàng muốn nằm xuống ngủ một giấc, nhưng đêm nay là đêm rằm, trăng sáng, nàng phải luyện một thức nội công dưới trăng để hấp âm-khí, vì vậy nàng không thể ngủ được. Nàng vội vàng ngồi chỉnh đốn vận công để chống với giấc ngủ, nhưng hơi của bát sâm thang mà phu nhân An-phủ-sứ tặng nàng vẫn bốc lên. Kinh hãi, nàng vội móc họng mửa ra, mửa hết, nàng tỉnh táo dần. Trong đầu óc nàng loé lên một tia sáng:

          – Hay ta bị đánh thuốc độc giống như ngài Thái-bảo Lý Thường-Kiệt khi xưa?

          Hôm cùng chị em vét lạch, nàng đã được nghe cụ phó lý kể chuyện cũ về quan Thái-bảo Lý Thường-Kiệt hồi còn niên thiếu bị đánh thuốc cho mê đi, rồi bị tĩnh thân. Nàng rùng mình:

          – Ðúng rồi, mình bị đánh thuốc mê rồi.

          Ghi chú:

          (1) Ðọc sử thời Lý, người sau thường có hai thái độ đối với Lý Thường-Kiệt. Một là thái độ khinh khiến của Nho-gia, tuy có công nhận công nghiệp của ông, nhưng vẫn khinh rẻ ông, vì ông là một hoạn quan. Nguyên do, trong lịch sử Hoa-Việt có không biết bao nhiêu bọn hèn hạ bất tài, chỉ vì muốn có chút công danh, cam tâm chịu tĩnh thân làm thái-giám hầu hạ vua cùng những bà phi, bà hậu, rồi nhờ gian xảo mà lên nắm quyền, làm hại dân hại nước. Thái độ thứ nhì thì chỉ căn cứ vào huân công của ông đối với xã tắc, kính trọng ông như những anh hùng khác. Nhưng sự thực ông bị ám hại mà thành thái giám. Xin đọc Anh-linh thần võ tộc Việt của Yên-tử cư-sĩ.

          Nàng vội ngồi xuống vận khí theo vòng Tiểu-chu-thiên bốn năm lần liền, thì thấy người tỉnh táo lạ thường. Nàng kinh hãi:

          – Họ đánh thuốc mê ta để làm gì đây?

          Trời sang canh hai, nàng bỏ phòng giam, ra ngoài luyện công. Nhưng vì ám ảnh bởi nguy cơ bị đánh thuốc mê, nàng không luyện công được. Thấy mùi dạ-hương thơm ngát từ phía Bắc đưa lại, nàng rảo bước đến đó để hái mấy cành đem về phòng. Khi nàng qua bụi mẫu-đơn, thì có một bóng đen núp ở ngay chân tường. Nàng vội vàng ẩn thân xem ai định làm gì. Bóng đen huýt sáo một tiếng, lập tức bên ngoài có khúc củi bay vào trong. Khúc củi có sợi thừng lớn buộc. Bóng đen cầm khúc củi với sợi dây đột vào gốc cam, rồi huýt sáo nữa. Bên ngoài có một, rồi hai, người bám dây leo vào trong. Ðó là hai người đàn ông. Một người Minh-Ðệ nhận ra y là Trịnh Phúc, một người nữa nàng cũng nhận ra y là Vũ Ðức. Bóng đen đứng dậy, Minh-Ðệ nhận ra y là viên võ quan hiện làm lữ-trưởng chỉ huy một lữ thuộc đạo binh Kinh-bắc tên là Ðặng Vinh, chồng chưa cưới của con Huyền. Ðặng Vinh có một tốt canh phòng dinh An-phủ-sứ, vì vậy y ra vào dinh dễ dàng.

          Tên Trịnh Phúc lên tiếng hỏi:

          – Thế nào?

          – Kết quả tốt.

          – Cho biết chi tiết được không?

          – Huyền đã đem thuốc cho hai con ấy uống. Chúng không nghi ngờ uống luôn. Hiện cả hai ngủ say như chết. Bây giờ chỉ cần hành động thôi.

          Nghe chúng nói, Minh-Ðệ phát rùng mình:

          – Thì ra tên Ðặng Vinh này định đánh thuốc mê mình với con Thúy-Phượng để làm điều gì ám muội đây. May mà mình thoát được. Không biết vụ này chúng làm với nhau, hay do phu nhân An-phủ-sứ chủ trương? Nếu do chúng tư tình làm, mình tri hô lên thì chúng sẽ mất đầu. Còn như vụ này do phu nhân chủ trương, mà mình tri hô lên, thì chính mình sẽ lĩnh tai vạ không nhỏ.

          Cả ba tên đi về phía phòng giam nàng. Minh-Ðệ theo bén gót.

          Dường như chúng đã quen hành động với nhau. Nên tên Vinh gác phía ngoài, còn tên Phúc, Ðức chuồn vào trong. Bỗng có một bóng đen di chuyển nhanh không thể tưởng tượng được, bước chân nhẹ như chiếc lá. Bóng này phóng tới điểm một ngón tay vào cổ tên Vinh, lập tức y ngã lăn xuong đất. Bóng đen bóp miệng hú lên hai tiếng nho nhỏ. Hai tên Phúc, Ðức từ trong chạy ra hỏi:

          – Cái gì vậy?

          Bóng đen điểm tay hai cái, đến lượt hai tên này lại mê man. Nhanh nhẹn bóng đen trói ba tên lại thành một chùm, rồi cầm sợi dây, leo lên cây, y truyền ra đầu một cành cây, rồi kéo mạnh. Lập tức ba tên bị rút lủng lẳng lên cao. Sau khi treo ba tên, bóng đen cầm một mảnh vải trắng cuốn vào cổ một tên rồi thả từ trên cao xuống. Mảnh vải trắng bay phất phới trước gió.

          Làm xong công việc, bóng đen buông mình từ trên cây xuống như chiếc lá, rồi di chuyển đến cạnh Minh-Ðệ. Kinh hãi nàng vung tay phát quyền tấn công bóng đen. Bóng đen điểm ngón tay một cái vào huyệt Ðại-trùy của nàng, lập tức toàn thân nàng bị tê liệt. Bóng đen ghé miệng vào tai nàng nói nhỏ:

          – Ðừng la lớn, ta đến cứu mi chứ không phải đến hại mi đâu. Mi có tin ta không?

          Minh-Ðệ gật đầu. Bóng đen nói:

          – Mi hãy theo ta.

          Bóng đen vuốt nhẹ lên đầu nàng một cái, huyệt đạo được giải. Bóng đen đi trước, vẫy tay cho nàng theo sau. Tới bức tường, bóng đen khẽ nắm lấy tay nàng nâng nhẹ, người nàng cùng bóng đen đã vượt qua bức tường ra ngoài. Bóng đen để nàng xuống rồi vẫy tay cho nàng chạy theo. Khi đến bên bờ sông, bóng đen nhảy xuống chiếc thuyền lớn. Minh-Ðệ cũng nhảy theo. Bóng đen vào trong khoang thuyền, trong khoang có đèn thắp sáng. Bóng đen lên tiếng:

          – Vào đây!

          Minh-Ðệ bước vào. Bấy giờ nàng mới nhìn rõ, đó là một ông già râu, tóc bạc như cước, da mặt dăn deo coi mà phát khiếp. Nàng vội vàng cung tay hành lễ:

          – Cháu cung kính ra mắt tiên sinh, đa tạ tiên sinh đã cứu mệnh cho cháu. Xin tiên sinh cho cháu được biết cao danh quý tính?

          Lão trượng không trả lời Minh-Ðệ, ông lẩm bẩm, nói một mình:

          – Vừa rồi cháu ra chiêu Ðông-hải lưu-phong trong Ðông-a quyền pháp khá vững. Nhưng nội lực của cháu dường như là Mê-linh. Lạ thực.

          Ông hỏi Minh-Ðệ:

          – Ba tên đại đạo định hại cháu là ai vậy?

          – Thưa tiên sinh không những cháu biết tên chúng, mà còn rõ cả sư môn của chúng nữa.

          Rồi nàng thuật chi tiết về ba tên Trịnh Phúc, Ðặng Minh, Vũ Ðức cho lão nghe. Lão hỏi:

          – Cháu có biết ba tên này định làm hại cuộc đời cháu không?

          – Thưa tiên sinh, cháu hoàn toàn không biết.

          – Vụ án chùa Từ-quang hiện còn trong bóng tối, chưa ra manh mối. An-phủ sứ tấu về triều. Quan Hình-bộ cũng phân vân không quyết định. Cái mấu chốt của vụ án là cháu có còn trinh hay không? Nếu cháu mất trinh rồi, thì các sư chùa Từ-quang sẽ bị kết tội phạm giới, làm gian tế cho Tống. Ví bằng cháu còn trinh, thì mọi nghi vấn được giải toả, các sư sẽ được tha ra. Mấy hôm nữa người ta sẽ giải cháu về kinh để quan Hình-bộ xử tội. Hình bộ cho người khám nghiệm xem cháu có còn đồng trinh không? Vì vậy bọn này định đánh thuốc mê cho cháu ngủ, rồi chúng lẻn vào hiếp dâm cháu. Trong cơn mê cháu đâu biết gì? Khi bị giải về kinh, bà mụ khám thấy cháu mất trinh, thì Hình-bộ sẽ kết tội nặng chư tăng chùa Từ-quang.

          – Thưa tiên-sinh, như vậy vụ án này do trường Trung-nghĩa vu cáo để hại chư tăng chừa Từ-quang hay sao?

          – Dĩ nhiên!

          Minh-Ðệ nghe xong, nàng phát rùng mình.

          Lão bảo Minh-Ðệ:

          – Trước đây đã có ba người dạy võ công cho cháu. Một người là đàn bà, dạy cháu chút ít tâm pháp của phái Mê-linh, mà cháu tưởng bà ta là Phật bà Quan-Âm phải không? Với thứ tâm pháp này, cháu luyện thì thân thể khỏe mạnh, da dẻ tươi mịn, hồng hào, người thon lại. Hơn nữa có thể chịu đòn mà không biết đau đớn. Sau cháu lại gặp hai người nữa dạy cho cháu ít thức quyền pháp, nội công tâm pháp. Vì vậy cháu thắng mấy cái bị thịt, mà người ta gọi là thái bảo trường Trung-nghĩa. Nhưng cháu chưa có sư phụ chính thức. Có phải thế không?

          – Thưa tiên sinh đúng vậy.

          – Cháu có biết cặp vợ chồng dạy võ, cho cháu vàng bạc là ai không?

          – Cháu không biết, vì ông bà không chịu xưng tên. Nhưng Siêu-loại hầu bảo ông bà là Ưng-sơn song hiệp.

          – Ðúng vậy. Chỉ hai đứa đó mới có hành vi như thế.

          – Tiên sinh cũng biết ông bà Ưng-sơn ư?

          – Không những biết, mà còn rất thân nữa. Thân vô cùng.

          – Thưa tiên sinh, thân đến trình độ nào?

          – Thằng lỏi đó là con trai út của ta.

          Minh-Ðệ kinh hoàng đến ngẩn người ra, vì nàng đẽ nghe nói: Ưng-sơn nam hiệp có tên là Trần Tự-Mai, con trai út của Thiên-trường đại hiệp Trần Tự-An, chưởng môn phái Ðông-a. Ông là người có võ công cao siêu không biết đâu mà kể. Nhưng từ sau khi Nùng Trí-Cao khởi binh, xưng là Nhân-Huệ hoàng-đế, bị Ðịch Thanh đem đánh bại, ông yêu cầu triều đình Ðại-Việt đem quân tiếp viện. Nhưng vua Lý Thái-tông trì nghi, vì vậy Trí-Cao thất bại. Từ đấy ông bỏ đi ngao du thắng cảnh biệt tăm. Không ngờ hôm nay nàng lại gặp ông ở đây.

          Minh-Ðệ vội quỳ gối rập đầu binh binh:

          – Cháu xin kính cẩn ra mắt tiên sinh. Ða tạ tiên sinh đã cứu cháu.

          – Bây giờ ta thu cháu làm đệ tử, rồi đêm đêm ta sẽ tìm đến dạy cháu, vậy cháu nghĩ sao?

          Minh-Ðệ mừng quá, vội quỳ gối rập đầu tám lạy, miệng hô:

          – Sư phụ!

          Nàng mừng quá, nước mắt chảy xuống gò má, chân tay run run.

          – Con biết rằng đệ tử lớn của ta năm nay cũng đi vào tuổi sáu mươi rồi, nghĩa là đáng tuổi ông nội, ông ngoại con. Ta thu con làm đệ tử là một trường hợp ngoại lệ. Vì vậy tuyệt đối con không được nói với ai. Tuy nhiên từ nay, mỗi khi con xử dụng võ công, nhất định có đứa nhận ra con là đệ tử của ta, tất chúng hành lễ với con thì con không được chối, mà cứ thản nhiên cho chúng lạy.

          – Con nhớ lời sư phụ.

          Ông quay mặt vào trong khoang thuyền gọi:

          – Sư mẫu đâu, ra đây cho đệ tử nó hành lễ.

          Một thiếu phụ dung nhan xinh đẹp tuyệt trần, tuổi còn rất trẻ mở màn bước ra. Minh-Ðệ vội hành đại lễ:

          – Ðệ tử tham kiến sư mẫu.

          Bà nắm tay nàng nâng dậy, để nàng ngồi cạnh, rồi nói:

          – Tiên sinh tuổi gần tám mươi mà còn nhận đệ tử trẻ thế này đây. Lỡ sau đây nó gặp đám đồ tôn của ông, thì đám đồ tôn sẽ xưng hô sao kia chứ?

          – Sao với chả sao, cứ lấy lễ mà đối xử.

          – Này, ông có cho tôi dạy nó không?

          – Bà muốn dạy âm nhạc cho nó hả? Ðược chứ. Ðược chứ. Chúng ta cứ dốc túi truyền hết cho nó, biết đâu sau này ta không gả nó cho một thằng vua nào đó, nó nghiễm nhiên thành Hoàng-hậu. Làm Hoàng-hậu thì phải biết ca hát chứ?

          Trước đây Minh-Ðệ từng nghe huyền thoại nói về vợ của Trần Tự-An tên là Ðào Hà-Thanh, nổi tiếng hoa khôi đất đế-đô, trước nàng đã ước hẹn với một võ lâm cao thủ phải Mê-linh tên Ðinh Kiếm-Thương. Nhưng rồi trong lần chơi sông Hồng-hà, nàng bị bang Hồng-hà toan bắt cóc, thì được đại hiệp Trần Tự-An cứu thoát. Cảm vì tài, trọng vì ơn, nàng nguyện dâng cuộc đời cho đại hiệp. Sau đó, nàng được tuyển cung, trở thành Khai-Quốc vương phi. Giữa lúc tuyệt vọng, thì Khai-Quốc vương khám phá ra mối ẩn tình của nàng. Vương cho nàng vàng bạc, rồi trả nàng về với Tự-An. Ðó chính là một trong những nguyên ủy đưa đến phái Ðông-a trợ giúp triều đình. Cũng chính vì vậy mà phá tan âm mưu Nam chinh của Tống. Còn cao thủ phái Mê-linh, ông ta thất tình, hóa điên, hóa khùng, bỏ theo bang Nhật-Hồ, trở thành một đại ma đầu. Hiện ông ta là một trong ba đại ma đầu của Hồng-thiết giáo còn sống sót, và vẫn đi tác quái trong một giải Chiêm-thành, Ðại-Việt.

          Bất giác nàng đưa mắt nhìn người đàn bà nổi danh nghiêng nước này: tuổi tuy trên năm mươi, mà nét thu vẫn còn tuyệt thế.

          Ðến đó ông vẫy Minh-Ðệ theo ông lên bờ. Bà cũng đi theo. Ông mói:

          – Võ học bản môn hiện đứng đầu thiên hạ. Trước hết ta dạy con những võ công căn bản đã. Ðầu tiên là bộ Ðông-a chưởng pháp.

          Thế rồi ông dạy nàng cách vận khí, cùng phát chiêu. Vốn thông minh tuyệt đỉnh, nên ông dạy đến đâu nàng thu nhận đến đó. Lúc trời gần sáng, ông bảo nàng:

          – Bây giờ con hãy về dinh Kinh-lược, thản nhiên vào nhà tù nằm ngủ. Lúc nãy con vượt tường, thì cần phải có thầy giúp. Bây giờ con cứ hít hơi, vận khí vào hai chân như thầy dạy con ban nãy, là con có thể vượt tường vào trong. Thôi con về. Mọi sự đã có thầy xếp đặt.

          Minh-Ðệ quỳ gối rập đầu:

          – Con xin bái biệt sư phụ, sư mẫu.

          Minh-Ðệ vận khí xuống hai chân, rồi chạy về hướng dinh An-phủ-sứ. Lạ lùng thay, nàng chạy mau vô cùng. Tới chân tường, nàng vận khí xuống chân, rồi tung mình lên cao, thân thể nàng tà tà đáp vào trong vườn. Nàng chạy về nhà tù. Vừa mở cửa bước vào, Minh-Ðệ thấy có luồng gió chụp lên đầu, rõ ràng nàng bị đánh trộm, nàng vội vung tay đỡ. Binh một tiếng, cánh tay nàng ê ẩm, trong khi ngươi kia kêu lên một tiếng ủa đầy vẻ kinh ngạc, rồi mở cửa phóng ra ngoài. Nhớ lời thuật của sư phụ, nàng kinh hoàng:

          – Không chừng kẻ nào đó đột nhập vào đây làm hại Thúy-Phượng cũng nên.

          Nàng vội dùng đá đánh lửa, đốt nến lên, thì thấy quần áo Thúy-Phượng vẫn còn tươm tất, chứng tỏ nó chưa bị hại.

          Trống điểm sang canh tư, buồn ngủ quá, Minh-Ðệ nằm xuống là ngủ say ngay.

          Nàng đang say giấc thì có ai lay gọi, rồi tiếng con Hồng nói:

          – Dậy ngay đi Yến-Loan. Dậy.

          Minh-Ðệ vội ngồi dậy. Nàng dụi mắt hỏi:

          – Cái gì vậy? Tại sao tôi lại ngủ trưa thế này.

          Con Hồng chỉ ra sân:

          – Ra mà coi.

          Minh-Ðệ theo con Hồng ra sân. Ngoài sân gần như đủ cả các quan của trấn Kinh-bắc. Mọi người đều ngước mắt nhìn lên cành cây, nơi treo ba tên Phúc, Vinh, Ðức. Mảnh vải trắng dài bay trước gió có mấy chữ:

          Ông Siêu-loại hầu,
          Mở trường Trung-nghĩa,
          Tiếng tăm biết bao,
          Thế mà đệ tử,
          Bẻ hoa đêm thâu.
          Hỡi ôi, trung, nghĩa
          Ðạo đức để đâu?

          Ðêm nay ta vi hành qua đây, tạm treo chúng lên cành cây. Nếu như sư phụ không xử chúng, thì nên trả cái ấn Trung-nghĩa đại tướng quân cho triều đình.

          Các quan bàn cách đem ba người xuống. Vì ba người bị treo lên một cành cây hơi nhỏ, nếu nay cho một người leo lên, tháo dây hạ xuống, thì với sức nặng bốn người, e cành cây sẽ gẫy, mạng bốn người khó toàn. Cành cây lại quá cao, không có chiếc thang nào tới cả.

          Viên An-phủ-sứ nói:

          – Người treo ba nạn nhân này, e võ công có một không hai trên đời. Ông ta bắt sống ba người êm thắm đến nỗi trong dinh này đông người thế mà không ai biết. Rồi ông ta túm ba người nặng thế kia, nhảy lên tới cành cây để treo, thì khinh công đến trình độ có thể bay lên được ư?

          Một văn quan đề nghị đem rơm ra trải xuống dưới chân ba người. Sau đó sai lính lên cưa cành cây. Ba người sẽ rơi xuống đống rơm.

          Lính đang đi lấy rơm, thì Siêu-loại hầu đã tới. Trên từ An-phủ-sứ, xuống tới các quan đều cung tay hành lễ. Hầu đọc thấy mấy chữ viết trên tấm vải trắng, thì mặt tái đi. Ông rút trong bọc ra một thanh trủy thủ, rồi phóng lên cành cây. Dây treo ba người bị cắt đứt. Ba người rơi xuống như trái mít rụng. Ðợi ba người còn cách mặt đất hơn tượng, ông tiến tới tà tà phóng ra một chưởng, chưởng phong đẩy ba người bật ngang đến bốn trượng rồi rơi xuống, thành ra ba người không đau đớn gì cả. Ông vung tay móc một cái, dây trói đứt hết, ba người lồm cồm bò dậy, mặt hiện ra nét e thẹn.

          Siêu-loại hầu nói với An-phủ-sứ:

          – Ðây là dinh Kinh-lược an-phủ-sứ, mà ba người bị treo, thì phải do An-phủ-sứ phát lạc.

          An-phủ-sứ vẫy tay cho mọi người giải tán, rồi mời Siêu-loại hầu, Ðề điểm hình ngục, cùng ba nạn nhân vào công đường. Minh-Ðệ, Thúy-Phượng cũng bị gọi làm nhân chứng, vì căn cứ vào những lời ghi trên tấm vải, thì có thể ba người này định nhập nhà tù hái hoa.

          Mọi người an tọa xong, Kinh-lược-sứ hỏi Ðặng Vinh:

          – Ðặng tướng quân, tướng quân là đệ tử thứ chín của trường Trung-nghĩa, chính tôi đã thấy võ công của tướng quân không tầm thường. Thế mà sao tướng quân lại bị bắt sống, bị treo lên cây. Nhân có tôn sư ở đây, xin tướng quân thuật lại để tôn sư thẩm định trình độ võ công của thủ phạm.

          Ðặng Vinh định thuật lại, thì Siêu-loại hầu vẫy tay ra lệnh im lặng. Hầu nói với ba đệ tử:

          – Cái người treo bọn mi ấy, ta e võ công cao tới trình độ không thể tưởng tượng nổi. Chắc bọn mi có làm điều gì bất chính, nhưng vì thân phận của người này quá cao nên chỉ để ít chữ lại mắng vốn ta. Vậy ta phải xử cho đúng. Vụ này thực không nhỏ. Cần điều tra cho minh bạch.

          Ông nói với các quan:

          – Trước hết tôi xin quan đề điểm hình ngục thẩm cung Vũ Ðức. Hình-quan Tô thẩm cung Trịnh Phúc. Hình quan Vương thẩm cung Ðặng Vinh.

          Ông chỉ mặt ba đệ tử:

          – Ta nói để các người biết, nếu như ba người cung khai khác nhau, thì ta sẽ cho tra tấn các người, cho đến khi các người cung khai giống nhau thì thôi. Trường Trung-nghĩa nổi danh không phải ta giỏi, ta tài, mà vì có nhiều đệ tử trong quân đã tạo được huân công với xã tắc. Ta quyết không thể để cho ba đứa mi làm cho bại hoại trong một sớm, một tối.

          Kinh-lược-sứ hỏi Minh-Ðệ:

          – Yến-Loan. Trong đêm qua, ba người bị treo ngay trước nhà giam mi, vậy mi có thấy gì khác lạ không?

          Minh-Ðệ định khai rằng mình ngủ say không biết gì. Song nàng nghĩ khai như vậy thì vô lý quá. Vì thế nàng nói:

          – Kính trình thượng quan, đêm qua lúc giờ tí, con đang ngồi đọc kinh Phật, thì thấy ba người tiến tới cửa phòng giam. Hai người núp ngoài cửa, một người đột nhập vào phòng. Con định la lên, thì một bóng đen xẹt tới, bóng đen điểm huyệt ba người, rồi cột dây treo lên. Xong việc, bóng đen đểm huyệt con với Thúy-Phượng, vì vậy cả hai ngủ như chết, đến nỗi chị Hồng đánh thức mới tỉnh.

          – Cái lúc bóng đen trói ba người đem treo, tại sao mi không hô hoán lên?

          – Bẩm con kinh hãi quá nên ngồi chết lặng, mở miệng không ra lời.

          – Thôi, mi ra tưới hoa đi.

          Minh-Ðệ cúi đầu ra vườn. Nàng vừa gánh nước tưới hoa, vừa suy nghĩ:

          – Vụ án chùa Từ-quang bị vu vạ nhất định do bàn tay của trường Trung-nghĩa gây ra để báo thù cái vụ ta đánh bại chúng đây. Nhà ta có dính vào vụ này rồi. Người dính vào vụ này là Minh-Can, nó đem quần áo của ta cho bọn sư huynh, sư đệ, để bọn chúng lén đột nhập tăng phòng bỏ vào đó hầu vu cáo cho chư tăng. Cái vụ lông chó, xương chó, thịt chó, thịt gà trong chùa chắc cũng do chúng ám toán đây. Cái tên thư lại Quách Ðồng viết lời cung khai hại chùa, ắt cũng có liên quan. Ta e trong dinh Kinh-lược còn nhiều người dính vào, bởi công văn nói sẽ giải ta về kinh cho khám nghiệm, ít người biết, thế mà tên Ðặng Vinh lại hay được, y mới tổ chức cho tên Trịnh Phúc, Vũ Ðức định ra tay trước, hại ta. Ta cứ im lặng xem sao. Bề gì cũng có sư phụ.

          Ðêm đó, Minh-Ðệ dùng khinh công vượt tường ra bờ sông, tới con thuyền để gặp sư phụ. Ông lại dạy võ cho nàng. Còn bà thì dạy nàng về âm nhạc. Khác với mọi lần, hôm nay bà nấu một nồi thang dược, bốc hơi nghi ngút. Ông chỉ vào nồi nói với Minh-Ðệ:

          – Bây giờ con vận tâm pháp mà ta dạy con. Sau đó con nhúng tay vào nồi thuốc này, hút hết thuốc vào bàn tay. Như vậy, tay con sẽ thấm thuốc, rồi chuyển khắp người. Sau đây, mỗi khi con giao đấu với ai, mà bị chúng dùng độc dược hại con, thì con không sợ bị nguy hiểm nữa.

          Minh-Ðệ ngồi xếp chân vận công, khi nàng vận xong, thì nồi thang dược đã nguội. Nàng nhúng hai tay vào, rồi dẫn khí từ sáu tĩnh huyệt ở tay, theo lục kinh, đưa khắp cơ thể. Lúc thuốc mới nhập tới vai, người nàng cảm thấy cực kỳ khó chịu. Nhưng sau đó, nàng vận khí theo vòng Tiểu-chu-thiên mấy lượt, lập tức cảm giác khó chịu hết. Cứ như vậy, nàng luyện công với thuốc liền một tháng, thì sư phụ bảo nàng:

          – Thế là dược chất trong người con đủ rồi. Từ nay không độc chất nào có thể hại con được nữa.

          Cứ như vậy, thời gian lặng lẽ trôi qua. Võ công, âm nhạc của Minh-Ðệ ngày càng tiến thêm.

          Hôm ấy, trời vừa đứng bóng, thì một tên hình-binh tới gọi nàng lên công đường nghe tuyên án, vì án từ trong kinh đã chuyển ra. Minh-Ðệ đến công đường, đã thấy đại sư Viên-Chiếu cùng chư tăng đầy đủ. Kinh-lược-sứ với các quan tại lộ Kinh-Bắc mũ cao, áo rộng đứng làm hai hàng văn võ hai bên kinh-lược-sứ. Viên Ðề điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng bước ra nói:

          – Lộ Kinh-Bắc đã nhận được bản án chùa Từ-quang do quan Hình-bộ xét xử gửi về. Hôm nay ta tuyên đọc.

          Một hình quan hô:

          – Các tội nhân chùa Từ-quang quỳ xuống nghe án.

          Từ sư trưởng Viên-Chiếu cho tới Minh-Ðệ đều quỳ gối. Ðề điểm hình ngục cầm tờ giấy đọc lớn:

          "... Hình-bộ thượng thư, tại triều Chương-thánh Gia-khánh, chiểu chi đơn tố giác của các võ quan là Ðặng Vinh lữ trưởng; Lê– Kim-Cương lữ phó; Phạm Trung thiên tướng; tất cả đều tùng sự tại lộ Kinh-Bắc. Ba võ quan đệ văn thư lên kinh-lược-sứ rằng chư tăng chùa Từ-quang phạm giới sát, giới tửu, và giới dâm. Chiểu chi bản phúc thẩm của đề điểm hình ngục lộ Kinh-Bắc rằng sau khi khám xét chùa Từ-quang, quả có nhiều lông xương chó, gà, trâu; lại có cả ba con là luộc, một nồi rựa mận thịt chó với mấy chai rượu. Quan quân đã tìm thấy trong phòng của chư tăng có quần áo, yếm đàn bà. Quan quân cũng tìm thấy mấy chai rượu. Khi khám bảo điện, còn thấy có ba nén vàng, chín nén tám lượng bạc. Trong chùa quả có chứa con gái mười sáu tuổi không rõ họ, tên là Yến-Loan.

          Sau khi đã thẩm cung, chịu tra khảo đầy đủ, nhưng chư tăng cũng như Yến-Loan không chịu nhận tội hành dâm. Do tang vật, chứng cớ, không thể chối cãi, nay tuyên án:

          – Bởi nguyên cớ trì nghi, nên tha cho tội phạm giới dâm. Nhưng phạt về tội chứa gái trong chùa.

          – Phạt tội phạm giới sát, giới tửu.

          – Phạt thực nặng tội nhận vàng của ngoại bang để làm gian tế.

          Tuyên phạt:

          – Thu tất cả tăng-điệp của chư tăng chùa Từ-quang, đuổi về dân dã, không được tu hành nữa. Vàng bạc bị xung công.

          – Sư trưởng Viên-Chiếu đáng tội lăng trì, nay ân giảm vì tuổi tác cao, cũng đáng thương, chỉ phạt phải xung quân nghìn dặm trong năm năm.

          – Năm đệ tử là Viên-Căn, Viên-Mộc, Viên-Chi, Viên-Diệp, Viên-Hoa bị đánh hai mươi côn lớn, xung quân mười năm.

          – Mười lăm tiểu sa-di, tuổi còn nhỏ, không chủ trương được, ân giảm hai bậc, chỉ bị đánh hai mươi roi mây, xung quân một năm.

          – Còn thị Yến-Loan vì lý lịch chưa rõ, đợi Tuyên-vũ-sứ trấn Thanh-hóa điều tra xem là tôi tớ nhà nào, sẽ tuyên án sau. Tạm giao cho huyện Thọ-xương để làm lao dịch.

          Nay truyền cho kinh-lược-sứ lộ Kinh-bắc chiếu chi thi hành.

          Pháp-thiên, Ứng-vận, Sùng-nhân, Chí-đức, Anh-văn, Duệ-võ, Khánh-cảm, Long-tường, Hiếu-đạo hoàng đế, niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh thứ nhì, tháng năm, ngày Giáp-Tý.

          Thái-tử thiếu-sư, đồng tri Khu-mật-viện, đồng trung thư môn hạ bình chương sự, lĩnh Hình-bộ thượng thư, tước Cổ-am hầu, Nguyễn Quý-Thuyết.

          Khán, kiểm thự:

          Kiểm hiệu thái phó, Long-thành tiết độ sứ, Ðồng bình chương sự, Khu-mật-viện sứ, lĩnh Chiêu-văn quan đại học sĩ, giám tu quốc sử, tước Gia-viễn quốc-công, Dương Ðạo-Gia.

          Quan đề điểm hình ngục hỏi:

          – Các tội phạm có nghe rõ không?

          – Nghe rõ.

          Hình quân nọc các tội phạm xuống đánh đòn tại chỗ, rồi cho đóng gông giải di. Minh-Ðệ quỳ gối đỉnh lễ chư tăng:

          – Bạch các thầy, chỉ vì các thầy thương xót con bị đau đớn, bị đưa vào đường cùng, phát tâm Bồ-đề cứu vớt con, mà ra nông nỗi. Con xin đức Phật hộ trì cho các thấy.

          Ðại sư Viên-Chiếu phóng cặp mắt từ bi nhìn Minh-Ðệ:

          – Con không nên khóc lóc làm gì. Con ơi, dù con không đến trú ngụ tại chùa Từ-quang, dù thầy có ở chùa khác, thì cái nghiệp nó cũng theo đuổi đến cùng. Thầy biết, vụ án này sau sẽ được bạch hóa, bấy giờ không biết thầy có còn tại thế không? Thầy chỉ dặn con một điều rằng đừng vì chuyện hôm nay mà xuống tay quá nặng với kẻ đã gây ra vụ này.

          Nói xong, ông thản nhiên để quân sĩ giải đi, mặc Minh-Ðệ khóc nức nở nhìn theo.

          Ngay chiều hôm đó, Minh-Ðệ được Ðề điểm hình ngục gọi lên. Nhân không có ai bên cạnh, ông nói nhỏ với Minh-Ðệ:

          – Ta điều tra vụ án này, biết rất rõ các thầy với con bị hàm oan, bị vu cáo. Ta đã đề nghị tha bổng. Nhưng quan Kinh-lược sứ muốn phạt nặng, kết tội chư tăng phạm giới dâm. Vì vậy ta phải tấu về triều, để bộ Hình phúc thẩm. Không ngờ bộ Hình lại không dám quyết đoán, chuyển sang Tể-tướng. Tể tướng đã xử oan ức như vậy. Ta biết làm sao bây giờ. Cái tên thư lại viết tờ cung khai vu cáo đó tên là Quách Ðồng, bị ta tra khảo, nó khai rằng nó tuân lệnh của quan Kinh-lược-sứ Phạm Anh bảo làm. Ta sai giải nó về kinh, đáng lẽ nó phải tội chém đầu, thì Tể tướng Dương Ðạo-Gia lại tha cho nó, cất nhắc nó lên ba bậc, cho làm quan ngay ở huyện Thọ-xương. Còn ba viên võ quan toan cưỡng dâm con, rõ ràng bị biệt giam để điều tra, thì con hầu của phu nhân Kinh-lược an phủ-sứ tên Thanh đem cơm cho chúng, rồi chỉ cho chúng khai giống nhau rằng: hai tên Trịnh Phúc, Vũ Ðức vốn là sư đệ của tên Ðặng Vinh. Nhân đêm trăng sáng, Vinh mời hai đứa đến trại của y uống rượu. Không hiểu ai đó đã bỏ thuốc vào rượu khiến cho ba đứa mê man, rồi đem treo chúng lên cành cây. Siêu-loại hầu với Kinh-lược sứ thấy ba đứa biệt giam ba nơi, mà đồng khai giống nhau, bèn khiến ta làm án rằng chúng vì công vụ mà bị hại. Chúng được tha ra. Chức phận của ta quá nhỏ, ta không làm gì hơn được.

          Ông nói nhỏ:

          – Kinh-lược-sứ là con rể của Tể tướng Dương Ðạo-Gia. Dương tể tướng là anh trai của Thượng-Dương hoàng-hậu.

          Minh-Ðệ hỏi:

          – Bẩm quan có phải Thượng-Dương hoàng hậu có nhũ danh là Hồng-Hạc không?

          – Kiến thức mi cũng khá đấy nhỉ. Mi biết gì về gốc tích họ Dương không?

          – Dạ con đọc trong bộ Khâm-định Ðại-Việt hội điển cương-yếu (2). Chuyện này xẩy ra từ thời Thuận-thiên kia. Bấy giờ vua Thái-tông còn là Khai-thiên vương. Vương có ba vương phi là Triệu phi (3), Mai phi, Ðinh phi. Triệu phi sinh ra hoàng thượng cùng vua bà Binh-Dương, các công chúa Kim-Thành, Trường-Ninh. Sau Triệu phi, Ðinh phi tuẫn quốc trong thời chư vương làm lọan. Hồi vua Thái-tông lên ngôi (1028) phong cho Mai phi làm Hoàng-hậu. Ðến năm Ất-Hợi (1035) lại phong cho Dương phi làm Thiên-Cảm hoàng hậu.

          Ghi chú:

          (2) Bộ sách này rất lớn, rất dài, ghi chép tất cả những văn kiện, thủ tục, luật lệ của triều Lý, viết bằng Hán-văn. Tiếc rằng thất truyền. Triều Nguyễn cũng có bộ sách tương tự tên là Khâm-định Ðại-Nam hội điển sự lệ.

          (3) Sử chép bà họ Vương. Sự thực bà họ Triệu, nhưng Khai-Thiên vương phong bà làm chính phi, nên chép là vương phi để chỉ chức tước. Người sau lầm rằng bà họ Vương.

          – Ðúng đấy. Thế sao người ta nói hoàng thượng xuất ra tự Mai phi chứ không phải Triệu phi?

          – Dạ sách chép, Mai phi nuôi hoàng-thượng từ thời thơ ấu. Nên khi hoàng thượng lên ngôi, mới phong bà làm Linh-Cảm hoàng thái hậu. Chính vì Dương phi được phong là Thiên-Cảm hoàng hậu, nên phụ thân của Hoàng-hậu là Dương Ðức-Thành được đưa lên làm Tể tướng. Chức tước như sau: Kiểm hiệu thái-phó, tả bộc xạ, Ðồng trung thư môn hạ bình chương sự, chiêu-văn quan đại học sĩ, Giám-tu quốc sử. Như vậy là quan cao cực phẩm, chỉ thua có Quốc-phụ Khai-Quốc vương và Thái-sư Dương Bình mà thôi.

          – Ta nghe nói, sau vì họ Dương được trọng dụng, tác oai tác quái, nên anh hoàng hậu là Dương Ðức-Uy với con trai là Dương Ðức-Thao bị võ lâm giết chết thì phải.

          – Vâng đúng thế đấy ạ. Bấy giờ hai anh trai của Thiên-Cảm hoàng hậu đều được trọng dụng. Anh cả là Dương Ðức-Minh đang lĩnh chức Tiết-độ-sứ vùng Kinh-bắc. Anh thứ là Dương Ðức-Uy lĩnh Lại bộ thị lang. Sau đó con trai của Dương Ðức-Uy là Dương Ðức-Thao với con gái là Dương Hồng-Hạc vì bang bạnh sao đó với Thái-tử Nhật-Tông cùng Thế tử Thường-Kiệt, nên Ðức-Uy với Ðức-Thao bị Ưng-sơn song hiệp giết chết. Nhờ thế lực của cô là Thiên-Cảm hoàng-hậu nên sau đó Hồng-Hạc thành vương phi của Thái tử. Rồi khi Thái tử lên ngôi được phong làm Thượng-Dương hoàng hậu. Như vậy họ Dương hai đời làm Hoàng-hậu liên tiếp.

          – Trí nhớ mi tốt đấy. Thái-tử Nhật-Tông lên ngôi (1054), tức đương kim thiên tử. Người là học trò của tiên cô Bảo-Hòa cùng quan Thái-phó Dương Bình, nên người chuyên dùng các quan văn võ kiêm toàn như Quách Thịnh, Lý Nhân-Nghĩa, Lê Phụng-Hiểu. Khai-Quốc vương khuyên Hoàng-thượng phải trọng văn. Người mới dùng thêm thầy dạy văn là Lý Ðạo-Thành, Bùi Hựu; còn Dương Ðức-Thành ngài cho về hưu. Thượng-Dương hoàng-hậu khẩn khoản tiến cử anh là Dương Ðức-Minh. Hoàng-thượng truyền đổi tên Ðức-Minh là Ðạo-Gia, cho làm tham-tri chính sự, tức Phó tể-tướng; dần dà nay leo tới Chiêu-văn-quan đại-học-sĩ tức Tể-tướng.

          Ông ngừng lại suy nghĩ rồi hỏi:

          – Theo như mi đoán, thì vụ án chùa Từ-quang do ai khởi xướng?

          – Chắc là đám đệ tử trường Trung-nghĩa.

          – Mi lầm rồi. Bọn đệ tử Trung-nghĩa chỉ là thiên lôi mà thôi. Mi có biết Trung-nghĩa đại tướng quân Siêu-loại hầu xuất thân ra sao không? Tên thực ông là gì?

          – Con thực không rõ.

          – Ông ta tên thực là Trịnh Quang-Thạch, em vợ của Tể tướng Dương Ðức-Thành. Khi Thiên-Cảm hoàng-hậu được tuyển cung, ông ta tự thiến để làm thái giám, rất được vua Thái-tông trọng dụng. Bấy giờ ông ta leo lên tới Nội-điện chỉ huy sứ, Bắc-ban chỉ hậu. Ông ta cũng biết võ, nhưng không thuộc đại môn phái nào của Ðại-Việt. Lúc về hưu, ông được tặng hàm Trung-nghĩa đại tướng quân, Siêu-loại hầu. Tuy là hoạn quan xuất thân, nhưng ông ta có chí lớn, về hưu rồi, mở trường tuyển thầy dạy võ, dạy văn, nên trong quân cũng như chính trường có rất nhiều người xuất từ cửa ông ta. Có điều, văn cũng như võ của ông không đủ đào tạo những nhân vật siêu việt, nên đệ tử của ông ta về võ cao nhất là sư trưởng, về văn thì chỉ làm những chức lại cấp huyện mà thôi.

          Hoàng Khắc-Dụng thở dài:

          – Ta nói cho mi biết, vụ này rất lớn, nếu vỡ lở ra những việc làm trái luật của Tể-tướng, của Kinh-lược-sứ, thì ta phải đem cả nhà lên Lạng-châu sống nhờ vua bà Bình-Dương, hay lên Phong-châu, Thượng-oai sống nhờ công chúa Kim-Thành, Trường-Ninh mới khỏi mang vạ sát thân. Ta chỉ tiết lộ cho mi biết một chút ít chi tiết: Linh-Cảm thái hậu họ Mai mới băng hà năm trước. Sư cụ Viên-Chiếu là cháu gọi hậu bằng cô ruột. Trong triều, thế lực họ Mai với họ Dương đều thịnh cả, nên hai họ đang tranh quyền nhau quyết liệt đến một mất, một còn.

          – Như vậy vụ án này là do ngoại thích tranh quyền. Ðúng là trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết. Cái mệnh nhỏ xíu của cháu e khó thoát khỏi tai kiếp.

          Hoàng Khắc-Dụng xua tay:

          – Thôi mi lui, chiều nay họ sẽ giải mi về Thăng-long đấy. Phải liệu mà giữ thân. Mi đã không cha, không mẹ, thì gặp lúc thuận tiện nên trốn đi. Ba nơi có thể cho mi an thân, một là trang Thiên-trường của phái Ðông-a, trại Long-thành của ông bà Long-thành ẩn-sĩ, và núi Tản-viên của tiên cô Bảo-Hòa.

          Nghe ông ta nói, Minh-Ðệ mừng thầm trong lòng:

          – Thì ra trang Thiên-trường của sư phụ mình là nơi mà ngay thế lực của triều đình cũng phải dừng lại. Vậy mình còn sợ gì bọn Trung-nghĩa nữa?

          Hoàng Khắc-Dụng móc túi đưa cho nàng một nén bạc:

          – Ta làm quan thanh liêm, nên trong nhà thiếu thốn. Phu nhân của ta chỉ dành dụm được một nén bạc. Ta cho mi, để mi có tiền làm lộ phí mà trốn đi. Thôi mi lui.

          Minh-Ðệ lau nước mắt, lạy ông ba lạy, rồi cầm bạc, ra vườn tưới cây.

          Nhưng đến chiều vẫn không thấy binh lính tới giải nàng đi. Ðêm, Minh-Ðệ lại vượt tường ra bờ sông gặp sư phụ. Nàng thuật chi tiết bản án cho ông nghe. Ông nổi cáu:

          – Trong vụ này, thì tên Trung-nghĩa vô tội. Y bị vợ chồng gã Kinh-lược an-phủ-sứ qua mặt. Ðược, nếu bị giải về Thọ-xương, con cứ ẩn nhẫn thụ hình. Chỉ nội hai ngày sư phụ sẽ đến tìm con, đưa con ra chỗ sư phụ ở để dạy võ cho con.

          Thế rồi ông lại luyện võ cho nàng, trời gần sáng nàng vượt tường về nhà giam. Vừa bước vào, nàng thấy một người tung mình chạy ra. Võ công Minh-Ðệ đã tới trình độ cao, nàng vung tay xuất một chiêu cầm nã chụp người kia. Người kia trầm người xuống tránh. Minh-Ðệ phóng theo một chưởng. Người kia kêu lên tiếng kinh ngạc, rồi trả lại một chưởng. Hai chưởng chạm nhau đến bùng một tiếng. Người kia lảo đảo ngã ngồi xuống. Minh-Ðệ nhận ra đối phương là người đã đột nhập nhà tù lần trước, và nàng đã đối chưởng với y.

          Tiếng chưởng chạm nhau làm Thúy-Phượng thức giấc, nó la lớn:

          – Cướp, có ăn cướp. Ối quan quân ôi!

          Người kia kinh hãi đánh liền ba chưởng để thoát thân, Minh-Ðệ trả lại bằng ba chiêu. Cứ mỗi chiêu nàng đánh ra, người kia lại phải lui liền mấy bước.

          Quan quân đã tới, đèn đuốc sáng lòa. Người kia tung mình chạy ra ngoài, lập tức bị Ðặng Vinh vung đao chặn lại. Người kia rút kiếm ở bên hông ra đỡ đao của Ðặng Vinh. Ðao kiếm chạm nhau kêu loảng xoảng. Bây giờ Minh-Ðệ mới nhận ra, đó là một người đàn ông, đầu trùm kín bằng vải đen, chỉ để hở hai con mắt.

          Các quan của lộ Kinh-Bắc đã có mặt đầy đủ.

          Ðấu được trên năm mươi hiệp, thì Ðặng Vinh bắt đầu luống cuống. Y cứ phải lùi dần. Xung quanh quân sĩ tay cầm tên nạp vào cung dương lên, chỉ chờ lệnh là hàng trăm mũi tên sẽ hướng vào thích khách.

          Thình lình, thích khách nhảy lùi liền ba bước đến bên Kinh-lược-sứ, chỉ một chiêu, y chụp Phạm Anh, kẹp vào nách, tay để lên đỉnh đầu y:

          – Tất cả ngừng tay, bằng không ta chỉ sẽ vỗ một cái thì đầu y vỡ làm hai mảnh liền.

          Kinh-lược-sứ la lớn:

          – Hãy mở vòng vây, và không được vọng động!

          Quân tướng vội lùi cả lại, mở vòng vây cho thích khách. Thích khách cặp Phạm Anh, mắt lườm lườm nhìn mọi người, rồi hướng về phía góc Tây-Bắc dinh. Vô tình y đi qua chỗ Minh-Ðệ. Nàng cúi xuống nhặt hai viên sỏi, rồi vận khí vào tay búng ra véo, véo hai tiếng. Hai viên sỏi trúng huyệt Khúc-trì thích khách. Cánh tay y bị tê chồn, Kinh-lược-sứ vuột khỏi tay y rơi xuống. Minh-Ðệ phát liền hai chiêu chưởng, chiêu nọ chồng lên chiêu kia. Thích khách kinh hoảng vội nhảy lùi liền ba bước để tránh thể chưởng. Minh-Ðệ tiến lên ra chiêu cầm long công, vòng tay một cái, Phạm Anh đang rơi xuống đất lại bay bổng lên. Nàng chụp lấy ông, rồi liệng cho Ðặng Vinh.

          Tay thích khách còn tê chồn chưa cử động được, thì Minh-Ðệ đã phát một chưởng hướng người y. Kinh hoàng y lăn tròn dưới đất để tránh. Chiêu chưởng trúng xuống sân đến bùng một tiếng, bụi bay mờ mịt. Minh-Ðệ phát chiêu thứ nhì, tay thích khách đã cử động được, y vội đẩy ra một chiêu đỡ.

          Ðúng ra khi thích khách mất căn bản, Minh-Ðệ đánh liền hai chiêu, thì đối phương đã mất mạng. Nhưng một là lần đầu tiên giao chiến, Minh-Ðệ chưa có kinh nghiệm, hơn nữa lòng dạ nàng vốn nhân từ, không muốn sát hại thích khách, nên nàng chỉ vận có năm thành công lực.

          Các võ quan, cùng vệ sĩ trong dinh kinh-lược-sứ đã nghe nói đại khái rằng Minh-Ðệ biết võ nghệ, nay chúng thấy người có võ công cao nhất trong các đạo quân Kinh-Bắc là Ðặng Vinh bị bại dưới tay thích khách, mà Minh-Ðệ lại thắng y, thì hẳn võ công nàng cao thâm hơn Ðặng Vinh rất nhiều.

          Sau ít hiệp, Minh-Ðệ nhận thấy một điều lạ là, rõ ràng lúc đầu công lực thích khách cao hơn nàng. Nhưng càng về sau, công lực y càng giảm thực mau lẹ.

          Thình lình Minh-Ðệ đánh liền ba chiêu, thích khách đỡ được hai chiêu, đến chiêu thứ ba thì y loạng choạng muốn ngã. Minh-Ðệ tiến lên đánh một chỉ vào ngực y. Lập tức y ngã ngồi xuống.

          Mấy viên vệ sĩ nhảy tới trói y lại. Ðặng Vinh giật chiếc khăn che mặt của y ra, mọi người đều bật lên tiếng kêu kinh hãi. Vì y chính là Ðoàn Quang-Minh, đại đệ tử của trường Trung-nghĩa.

          Năm trước đây, lộ Kinh-Bắc tổ chức cuộc thi để tuyển võ quan, Ðoàn Quang-Minh đỗ đầu, nhưng y nhất quyết không ra làm quan. Y nói: chí của y là tiêu dao mây nước, xin ở hương đảng để giúp sư phụ huấn luyện đàn em. Vì trong lộ Kinh-bắc có đến mấy chục võ quan xuất từ trường Trung-nghĩa, nên y thường ra vào trong quân, mà không ai nghi ngờ gì cả.

          Phạm Anh vẫy tay cho quân sĩ giải tán. Ông bảo Ðặng Vinh:

          – Tướng quân đưa đại sư huynh vào công đường để lấy cung.

          Trong công đường chỉ có vợ chồng Phạm Anh cùng Ðoàn Quang-Minh, Ðặng Vinh và Minh-Ðệ. Ðoàn Quang-Minh tỏ ra không sợ hãi. Y nói với Phạm Anh:

          – Xin Kinh-lược-sứ cho mọi người ra ngoài, chỉ để mình Yến-Loan cô nương ở lại mà thôi.

          Phạm Vinh cùng phu nhân kinh-lược sứ với đám vệ sĩ ra ngoài. Ðoàn Quang-Minh bảo Minh-Ðệ:

          – Cô nương. Ta tuy bại dưới tay cô nương, nhưng ta không phục. Cô nương thử bình tâm mà xét xem có đúng thế không? Rõ ràng lúc mới đấu, công lực ta cao hơn cô nương, nhưng về sau, dường như ta bị trúng độc, nên chân khí bị hao tổn, mới bị cô nương bắt.

          Y nhìn Minh-Ðệ mỉm cười:

          – Cô nương, xin cô nương hãy móc trong túi áo ta, lấy tấm thẻ bài của ta đưa cho Kinh-lược-sứ coi.

          Minh-Ðệ lần túi Ðoàn Quang-Minh, nàng lôi ra cái thẻ bài bằng bạc, rồi trình cho Phạm Anh. Phạm Anh cầm lên đọc:

          "Tả-thiên ngưu vệ thượng tướng quân, tước Hoài-đức hầu Ðoàn Quang-Minh thuộc Khu-mật-viện Ðại-Việt".

          Ðính kèm một tờ giấy có in con rồng uốn khúc và con chim âu, quốc huy của Ðại-Việt. Bên dưới có hàng chữ:

          "Nay đặc sai tả-thiên ngưu vệ thượng tướng quân, Hoài-đức hầu Ðoàn-quang-Minh đi kinh lý một giải từ Kinh-Bắc tới Thanh-hóa. Bách quan văn võ từ cấp Kinh-lược sứ phải tuân lệnh điều động".

          Dưới có đóng ấn của Khu-mật-viện.

          Thời bấy giờ vào lúc cực thịnh của triều Lý. Vua Thái-tổ, Thái-tông đã xây xựng nền móng cai trị bằng từ bi bác ái của đức Thế-tôn, bằng nhân-nghĩa của Khổng-Mạnh. Chương-thánh Gia-khánh hoàng đế (tức Lý Thánh-tông) vì mồ côi mẹ từ nhỏ, được mẹ kế là Mai hậu nuôi dưỡng, được chú là Khai-Quốc vương phụ chính; thầy dạy văn là Dương Bình, Lý Ðạo-Thành, thay nhau huấn luyện. Ngài lại ảnh hưởng của chị gái là vua bà Bình-Dương, chị họ là tiên cô Bảo-Hòa... Nghĩa là bao nhiêu nhân vật đạo đức nhất, tài hoa nhất đương thời hết sức dạy dỗ, hết sức yêu thương. Nên từ khi tiếp ngôi trời (3-11-1054) đã lấy niên hiệu là Long-thụy Thái-bình. Sau khi đăng cực, chiếu chỉ đầu tiên mà ngài ký là đại xá cho tất cả tù nhân dù thành án hay chưa, bỏ các hình chặt chân, chặt tay; bỏ luôn hình phạt dìm tội nhân xuống sông hay đốt chết. Những hình phạt này còn sót lại từ thời Ðinh. Ðối với việc tra khảo, ngài cấm dùng cực hình nung sắt đỏ, nung đá đỏ rồi dí vào tội nhân.

          Theo lễ giáo của Nho-gia, thì khi vua Thái-tông băng hà, một đại thần được cử để lo việc tang chế, xây lăng. Các bà vợ từ Hoàng-hậu, thứ phi cho đến các cung nữ phải cư tang cho đến hết đời trong cung cấm. Một số các bà phi, cũng như cung nữ phải ra ở trong những gian nhà tại lăng vua để ngày đêm tế lễ. Thế nhưng chiếu chỉ thứ nhì của ngài là đem toàn thể cung nữ ở cung Thúy-hoa gả cho các văn quan, võ tướng chưa vợ, hoặc góa vợ. Ðiều này làm nhiều Nho-gia phê phán rằng không đúng đạo lý của Khổng-Mạnh.

          Ngài lại trọng dụng các quan võ giỏi văn học. Dương Bình, được phong là Thái-phó kiêm Thị-trung, Thượng-thư tả bộc xạ, Môn-hạ thị lang (Tả tể tướng). Lý Nhân-Nghĩa làm Tư-không, Thượng-thư hữu bộc xạ, Trung-thư thị lang (Hữu tể tướng), Khu-mật viện sứ. Quách Kim-Nhật được phong Thái-úy, Tham-tri chính sự (phó Tể-tướng)... với ý muốn xây dựng Ðại-Việt thành một nước phú cường, với đội quân thực mạnh. Nhưng sau nghe lời chú là Khai-Quốc vương, ngài trọng dụng thêm các văn quan như Bùi Hựu làm Trung-thư thị lang, Ðồng-trung thư môn hạ bình chương sự, Văn-minh điện đại học sĩ. Dương Ðạo-Gia làm Khu-mật-viện phó sứ, Tham tri chính sự. Tất cả các đại thần đều là những người văn mô, vũ lược.

          Ngài là một nhân quân bậc nhất trong lịch sử Việt-Nam. Năm sau, Ất-Mùi (1055), tháng mười, gặp rét dữ dội, ngài ban chỉ: ”Trẫm ở trong cung, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rõ ngay gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho hữu-ty phát chăn chiếu, và cấp cơm ăn ngày hai bữa”.(4)

          Ghi chú:

          (4) ÐVSKTT, Lý kỷ, Thánh-tông hoàng đế kỷ.

          Vì biên thần Tống muốn gây sự, đem quân xâm phạm lãnh thổ, lập tức ngài dồn quân đánh Khâm-châu, biểu dương lực lượng rồi rút về. Quả nhiên từ đấy các biên thần Tống kinh sợ, việc này đã thuật ở ba hồi trên. Cũng năm đó ngài cho tổ chức lại quân đội. Trước kia đã có mười hiệu Thiên-tử binh. Nay tổ chức thêm các hiệu Ngự-long, Vũ-thắng, Long-dực, Thần-điện, Bổng-thánh, Bảo-thắng, Hùng-lược, Vạn-tiệp. Mỗi hiệu chia làm tả đạo, hữu đạo.

          Ðể thống nhất chỉ huy, tạo bộ máy quốc phòng hữu hiệu trấn Bắc, bình Nam, ngài cho lập lại Khu-mật-viện, gồm tả hữu tể-tướng (tức đồng-bình chương sự), tả hữu phó tể-tướng (tức tham-tri chính sự), Binh-bộ thượng thư, Lại-bộ thượng thư, Ðô-đốc thủy binh, các tướng chỉ huy các đạo Thiên-tử binh, Kị-binh, Khu-mật-viện sứ. Những Khu-mật-viện sứ không thường trực. Khi có sự thì bất cứ vị quan nào cũng có thể được cử đi bằng một mật lệnh. Khu-mật-viện sứ quyền hành rất lớn.

          Hôm nay, Phạm Anh tuy là rể của tể thần, nhưng thấy Khu-mật-viện sứ thì líu ríu tuân lệnh. Y hoảng hốt vội cởi trói cho Ðoàn Quang-Minh, rồi hỏi:

          – Quân hầu đi kinh lý, sao lại đột nhập vào thiểm dinh, để đến nỗi bị ngộ nhận như thế này, thực mất uy phong đi.

          – Tôi thi hành chỉ dụ mật, thì sao lại có thể công khai đi ban ngày được. Mục đích của tôi là điều tra vụ án chùa Từ-quang cho minh bạch. Bây giờ sự thể đã thế này, xin Kinh-lược sứ để cho tôi hỏi cung Yến-Loan cô nương mấy câu.

          Luật lệ thời bấy giờ, khi viên quan cao cấp Khu-mật-viện hỏi cung ai, thì dù là Tể-tướng cũng không được dự thính, nên Phạm Anh vội lùi ra ngoài. Y nói vọng vào:

          – Xin tướng quân cứ tự tiện.

          Ðoàn Quang-Minh hỏi Minh-Ðệ:

          – Tôi theo dõi cô nương từ lâu. Thường đêm cô nương ra bãi sông luyện võ, học âm nhạc. Nhưng cô nương có biết hai vị sư phụ của cô nương là ai không?

          – Tôi không biết.

          – Tôi biết rất rõ. Chính lão già là người trói Ðặng Vinh, Trịnh Phúc với Vũ Ðức treo lên cây, rồi sau đó y dạy võ công cho cô nương. Võ công mà cô nương đấu với tôi là võ công phái Ðông-a, nhưng bị sai lạc quá nhiều. Tôi nói thế để cô nương hiểu rằng tôi biết rất rõ những gì cô nương đã làm.

          Y chỉ bút mực:

          – Kia, bút mực kia. Cô nương hãy cung khai hết về việc cô học võ từ một người đàn bà mà cô tưởng là Quan-Âm cho tới cặp vợ chồng quý nhân. Cuối cùng là lão già ở bờ sông.

          Minh-Ðệ biết sự việc không dấu diếm được nữa, nàng đành ngồi khai hết sự thực. Khai xong nàng đưa cho Quang-Minh. Quang-Minh đọc lướt qua một lượt, rồi lên tiếng gọi Phạm Anh. Y nói với Phạm:

          – Bây giờ tôi có việc phải đi. Xin Kinh-lược-sứ giải cô này về trao cho Khu-mật-viện càng sớm càng tốt.

          Chiều hôm đó, Minh-Ðệ bị gông cổ, rồi đưa lên một chiếc xe có thùng đóng kín. Chiếc xe do một đội quân trăm người, chính Ðặng Vinh thân áp giải về Thăng-long. Ðường từ Kinh-Bắc đi Thăng-long mất khoảng hơn hai giờ. Xe đi vào cửa Bắc, rồi quẹo sang cung Uy-viễn, nơi đặt Khu-mật-viện. Quân canh cửa đánh ba tiếng chiêng, thì có người đội trưởng từ trong ra. Y thấy Ðặng Vinh mang quân hiệu lữ trưởng, vội hành lễ quân cách, rồi hỏi:

          – Không biết tướng quân giải trọng phạm nào về vậy?

          – Trọng phạm là một phụ nữ, võ công rất cao siêu, làm gian tế cho Tống.

          Ðội trưởng ký nhận tù, cùng một bao thư lớn đựng hồ sơ của Minh-Ðệ, rồi cung tay:

          – Việc xong, tướng quân có thể về được rồi.

          Một thanh niên tuổi khoảng trên hai mươi, dáng người thanh nhã, trang phục theo lối quý phái đi tới. Anh ta hỏi viên đội trưởng:

          – Tù nào vậy?

          – Trình Thế tử, một nữ gian tế của Tống, do lộ Kinh-bắc gửi về.

          Thiếu niên nhìn Minh-Ðệ rồi lắc đầu:

          – Trông cô này hiền lành, mặt mũi xinh đẹp thế kia thì sao có thể là gian tế. Ðem vào trong này để thẩm cung xem sao.

          Thiếu niên trao bao thư cho một viên quan:

          – Tướng quân thử xét xem cô ấy phạm tội gì.

          Viên quan cầm bao thư đi rồi, thiếu niên lên tiếng gọi:

          – Biểu muội, em ra mà xem này.

          Từ trong, một thiếu nữ nhan sắc tuyệt trần xuất hiện. Thoạt trông, Minh-Ðệ thấy dáng người nàng rất thân ái, rất quen thuộc, nhưng không nhớ rằng đã gặp nàng ở đâu. Chợt trí nhớ nàng lóe sáng: thiếu nữ giống Quan-thế-Âm như hai giọt nước. Chỉ khác một điều, nàng thì còn trẻ, trong khi Quan-âm thì đã trọng tuổi. Viên đội trưởng thấy thiếu nữ thì cung tay hành lễ:

          – Tiểu nhân xin tham kiến Công chúa điện hạ.

          Thiếu nữ xua tay:

          – Miễn lễ.

          Minh-Ðệ nghĩ thầm:

          – Thì ra công chúa Thiên-Thành đây. Ta nghe nói đương kim thiên tử chưa có con trai, mà có đến ba công chúa. Công chúa lớn nhất là Thiên-Thành, nhũ danh An-Hải, đệ tử đắc ý của vua bà Bình-Dương, đã gả cho thế tử Thân Cảnh-Long là con trai vua bà Bình-Dương với phò mã Thân Thiệu-Thái. Có lẽ là cặp này chăng? Còn Công chúa thứ nhì là Ðộng-Thiên, nhũ danh An-Dân, đệ tử của Quốc-mẫu Thanh-Mai tức Vương phi Khai-Quốc vương, đã gả cho Hoàng Kiện, đệ tử của Long-thành ẩn-sĩ. Hoàng Kiện hiện là Ðô-đốc thủy-quân Ðại-Việt. Công-chúa thứ ba là Ðộng-Thiên, nhũ danh An-Quốc, đệ tử đắc ý của công chúa Bảo-Hòa, dường như chưa gả cho ai, bởi công chúa muốn đi tu để cầu phúc cho tộc Việt.

          Công chúa bảo đội trưởng:

          – Người mở gông cho cô gái này đi. Ðối với một thiếu nữ yếu đuối mà gông như gông trâu, gông bò coi sao được, như vậy là mất cái đức nhân của phụ hoàng ta.

          Ðội trưởng vội sai mở gông cho Minh-Ðệ. Công chúa nhìn qua Minh-Ðệ, rồi chỉ ghế:

          – Người ngồi đó đi!

          Nàng gọi thiếu niên:

          Nàng gọi thiếu niên:

          – Anh Cảnh-Long, cô này đẹp đấy nhỉ?

          – Ừ, cô xinh đẹp thực, đâu kém gì biểu muội.

          Minh-Ðệ nhủ thầm:

          – Thì ra Thế tử Thân Cảnh-Long với Công chúa Thiên-Thành thực. Mình đoán không sai.

          Một viên đô thống cầm bao thư đọc xong, ông ta cung tay nói với Công chúa Thiên-Thành:

          – Khải tấu công chúa. Có một sự kiện rất lạ, là Kinh-lược-sứ lộ Kinh-Bắc gửi thư nói rằng tuân lệnh của Khu-mật-viện sứ lĩnh Tả-thiên ngưu-vệ thượng tướng quân Cổ-am hầu tên Ðoàn Quang-Minh, truyền giải tội nhân về cho Khu-mật-viện. Nhưng trong Khu-mật-viện đâu có vị tướng nào tên Ðoàn Quang-Minh?


          #5
            CDDLT 21.01.2005 18:11:28 (permalink)
            HỒI THỨ NĂM

            Tây-hồ thất kiệt





            Minh-Ðệ được trao cho một nữ quan của Khu-mật-viện thẩm cung. Nàng thường nghe nói rằng Khu-mật-viện là cơ quan an-ninh tối cao của Ðại-Việt. Rằng những người làm việc tại đó đều là những người văn mô, vũ lược được tuyển chọn cực kỳ khó khăn. Rằng chính cơ quan này, đã làm cho Chiêm-thành kinh hãi, làm cho Tống bó tay không dám nhòm ngó xuống phương Nam. Rằng những quan chức làm tại đây quyền hành bao la, có thể bác bỏ những quyết định của bộ Binh, Hình, Lại, có quyền xử tử tội nhân mà không cần tâu lên Hoàng-đế. Vì vậy khi được giải về đây, nàng tự biết sẽ bị tra tấn, bị hành hạ ghê gớm hơn ở lộ Kinh-Bắc; những quan tại đây tất nhiên bang bạnh, dữ dằn lắm.

            Nữ quan thẩm cung đem nàng về chỗ làm việc của bà. Bà mỉm cười chỉ xuống chiếc ghế đối diện với bà:

            – Em ngồi đây. Chị tự giới thiệu, chị tên là Trần Cẩm-Dung. Năm nay chị hai mươi tám tuổi. Lớn hơn em ít ra mười tuổi. Nào, trước khi làm việc em uống chung trà nghe. Trà sen mới ướp ngon lắm cơ!

            Minh-Ðệ vâng dạ, nhưng trong lòng lo lắng:

            – Không chừng bà cho mình uống trà có chất độc đứt ruột ra cũng nên. Nhưng sao bà ta ngọt ngào quá! Ừ, thì thà người ta cứ ngọt ngào với mình, rồi giết chết mình cũng được, còn hơn là chửi bới, tục tằn. Thôi thì mình cũng liều nhắm mắt đưa chân, để mặc cho nghiệp quả định liệu.

            Một nữ binh pha trà bưng ra.

            Bà Cẩm-Dung bưng một chung trà đưa cho nàng:

            – Em uống đi!

            Rồi bà cũng bưng chung trà uống. Minh-Ðệ hớp một hớp, hương trà, tỏa ra mau lẹ, xông lên mũi. Vị trà thực đậm đà, dễ chịu. Nàng nghĩ thầm:

            – Ừ, thuốc độc ngon thực.

            Cẩm-Dung vui vẻ:

            – Chị đã đọc tất cả những gì của quan Ðề điểm hình ngục Kinh-Bắc tuyên xử về vụ chùa Từ-quang. Chị cũng đọc kỹ những đề nghị của Kinh-lược an-phủ-sứ, nhất là bản án của bộ Hình, của Tể tướng. Cuối cùng là tờ phúc bẩm của Kinh-lược an-phủ-sứ nói về Ðoàn Quang-Minh hạ lệnh giải em về đây.

            Minh-Ðệ thấy mình uống thuốc độc đã lâu, mà chưa bị phản ứng thì hơi ngạc nhiên. Trong khi giọng nói của Cẩm-Dung dịu dàng lạ lùng. Cẩm-Dung tiếp:

            – Theo luật lệ, khi một người được Khu-mật-viện thụ lý, thì những án đã tuyên rồi, dầu do đức Kim-thượng xử, cũng được hủy bỏ. Tất cả được làm lại từ đầu. Vậy kể từ lúc này em là người chưa có tội. Em ngồi đây với tính cách là nhân chứng, chứ không phải là tội nhân. Em hiểu chứ?

            – Em hiểu.

            – Bây giờ chị đưa em đến chỗ ở. Chị nhắc lại là chỗ ở chứ không phải là nhà giam. Em sẽ ở gần những nữ quan, nữ binh. Về cách xưng hô, em cứ theo tuổi mà gọi. Nào, em đi theo chị.

            Cẩm-Dung dẫn Minh-Ðệ lên chiếc xe song mã. Xe đi vòng vo một lúc thì trước mặt hiện ra một cái hồ, rồi dừng lại cạnh dẫy nhà ngói, cột đỏ, rất thanh lịch, xung quanh trồng hoa. Trước nhà có tấm bảng đề Thính-hương khách xá.

            Cẩm-Dung chỉ một căn phòng:

            – Ðây, em ở tạm đây. Khi có tiếng chiêng đánh bốn lần thì em ra phòng phía trước kia ăn cơm. Nếu em thích đọc sách thì sang thư phòng. Lần đầu tiên đến Thăng-long, em nên đi chơi ngắm cảnh cho biết kinh đô Ðại-Việt. Hôm nay trên khắp cả nước đang ăn mừng. Thăng-long đại hội lớn hơn hết, em nên đi chơi cho biết.

            Minh-Ðệ định hỏi xem lễ mừng gì, nàng chưa kịp nói, thì Cẩm-Dung móc trong bọc ra một nén bạc đưa cho Minh-Ðệ:

            – Nén bạc này của em, khi giải em lên đây, người ta khám trong người em, thấy bạc thì đặt câu hỏi rằng em ở tù, mà sao lại có bạc phải không? Người ta đề nghị tịch thu. Nay chị trả cho em. Ði chơi trong kinh đô phải có bạc mà tiêu chứ? Ngày mai sẽ có xe đưa em vào điện Uy-viễn để lấy khẩu cung.

            Minh-Ðệ đứng lơ đãng nhìn nước hồ lăn tăn sóng, nàng nghĩ thầm:

            – Tại sao nhà tù lại đẹp đẽ như thế này? Ừ, thì mình cứ ở đây một thời gian cho biết Thăng-long.

            Sau khi Cẩm-Dung đi rồi, Minh-Ðệ thuê xe dạo chơi một vòng kinh đô. Khắp Thăng-long đều treo đèn kết hoa, đốt pháo. Nam thanh nữ tú, ngựa xe dập dìu. Nàng hỏi người phu xe:

            – Này anh ơi, dường như có lễ gì to lớn lắm sao mà đốt pháo, treo đèn kết hoa như vậy?

            Người phu xe giảng giải:

            – Cô không biết ư? Hôm nay là ngày lễ Càn-nguyên, tức sinh nhật của đức vua, nên triều đình ban lệnh tha thuế nửa năm, cùng phóng thích tất cả những tù nhân, ngoài trừ những kẻ phạm tội thập ác. Cô muốn biết tin tức Ðại-Việt thì kiếm quán trà mà nghe thầy đồ kể chuyện.

            Minh-Ðệ đã nghe nói nhiều về việc tại các đô thị lớn, có quán trà, trong quán có thầy đồ kể chuyện. Nàng hỏi:

            – Gần đây có quán nào không?

            – Cô muốn nghe ư? Kìa, cô lên quán trà Nam-phong kia mà nghe. Thầy đồ này kể chuyện hay nhất Thăng-long đấy.

            Minh-Ðệ thắc mắc:

            – Sao thầy đồ lại biết mọi chuyện mà kể? Dù những việc mới đây, sách đã chép đâu?

            – Ðể tôi nói cho cô nghe. Nguyên từ thời Thuận-thiên, Khai-Quốc vương muốn cho dân chúng biết những tin tức, luật lệ của quốc gia, người xin xuống chỉ rằng mỗi khi có chuyện ban hành luật mới, tin chiến sự, cùng nghi lễ quan trọng, thì tất cả các thầy đồ đều được tập trung về các lộ, trại, huyện. Tại đây các thầy sẽ được cho biết hết mọi chi tiết về những việc đó, rồi các thầy về địa phương của mình, tối tối lên quán trà, hoặc nơi hội họp của làng xã, giảng giải cho dân chúng. Quán trà Nam-phong là một nơi có thầy đồ kể chuyện. Cô nên đến nghe một lần cho biết.

            Minh-Ðệ cảm ơn người phu xe, trả tiền, rồi lên quán trà. Trong quán đông nghẹt người. Họ chia làm hai khu khác nhau. Khu bên trái dành cho đàn bà con gái, khu bên phải dành cho đàn ông, con trai. Khi nàng bước vào, thì thấy thầy đồ đang nói, mọi người lắng tai nghe:

            ... Niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh nguyên niên, biên thần Tống gây hấn, triều đình đã cho ngài Thái-bảo Ly Thường-Kiệt đem mười đạo Thiên-tử binh lên tiếp viện cho vua Bà. Vua Bà cùng phò mã Thân Thiệu-Thái xua quân đánh qua...(1)

            Ghi chú,

            (1) Chuyện này đã kể ở hồi thứ 3, do Siêu-loai hầu thuật cho đệ tử và chức sắc ở Thổ-lội nghe.

            Thế rồi thầy kể những biến cố ở Bắc-biên giống hệt như Siêu-loại hầu kể. Nhưng ông đi vào chi tiết hơn. Gặp những biến cố dồn dập, ông ngừng lại, làm cho thính giả hồi hộp thúc dục, ông mới kể tiếp.

            Minh-Ðệ cười thầm:

            – Năm trước mình đã nghe Siêu-loại hầu kể chuyện này rồi. Nhưng thầy đồ này kể hay hơn hầu nhiều.

            Minh-Ðệ vừa ra khỏi quán trà Nam-phong, thì có tiếng trẻ con ăn mày đồng ca:

            Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại,
            Làm ơn cho xin tý cơm thừa.
            Con cá nó sống vì nước,
            Con người sống vì đồng tiền bát cơm.

            Minh-Ðệ nhìn lại, thì ra năm đứa trẻ Dật, Quang, Nghi, Ðoan, Ninh ở chùa Từ-quang. Nàng hỏi:

            – Năm em làm sao mà phải đi ăn mày?

            Năm đứa trẻ đã nhận ra Minh-Ðệ, chúng reo lên:

            – Chị Minh-Ðệ.

            – Khổ quá, các em đang ở chùa sao ra thân tàn, ma dại thế này?

            Thằng Quang đầm đìa nước mắt, nó kể:

            – Sau khi sư cụ, các sư ông với chị bị bắt, thì chùa không có sư. Làng cử mấy người trông coi chùa. Chúng em không còn thầy dạy học. Hơn nửa tháng sau, quan An-vũ sứ cho lính về bắt năm đứa chúng em. Họ hạch hỏi chúng em về việc các sư ngủ với chị, cùng ăn thịt, uống rượu. Chúng em đều chối không biết. Họ đe dọa chúng em đủ điều, bắt phải khai rằng các thầy quả có giết chó, giết gà ăn thịt. Chúng em nhất nhất chối. Họ giam chúng em lại. Giam mươi ngày rồi họ thả chúng em về. Nhưng cứ mấy ngày, lính lại tới lôi chúng em lên huyện bắt phải khai như ý họ. Chúng em thấy bố mẹ khổ sở vì chúng em quá, năm đứa bàn nhau trốn về Thăng-long ăn mày sống qua ngày. Có khi đói quá phải đi ăn cắp gà, cắp chó. Lắm lúc phải móc túi nữa!

            Thằng Nghi hỏi:

            – Còn chị ra sao? Em gái chị nó nói chị bị voi dầy chết rồi, làm các chị Thanh-Thảo, Ngọc-Nam, Ngọc-Huệ, Trinh-Dung khóc quá chừng.

            Thằng Dật hỏi:

            – Sao chị lại ở đây?

            Minh-Ðệ thuật qua hoàn cảnh của mình cho đám trẻ nghe, rồi hỏi:

            – Các em có đói không?

            Thằng Ðoan đáp:

            – Ðói lè lưỡi ra rồi đây.

            – Ðể chị dẫn em tới đầu đường ăn bún riêu nghe.

            Ðám trẻ reo lên, đi theo Minh-Ðệ.

            Tội nghiệp, đám trẻ đang tuổi lớn, cái tuổi mà ăn không bao giờ biết no, ăn bất cứ thức gì cũng thấy ngon, mà phải lang thang ăn mày, đói khát. Mỗi đứa ăn đến bẩy bát mới no. Minh-Ðệ trả tiến, rồi nói với chúng nó:

            – Ðể chị dẫn các em về chỗ chị ở. Chị sẽ xin cho các em làm vườn, quét nhà kiếm miếng ăn, rồi chị dạy chữ cho.

            Minh-Ðệ đi với mấy đứa trẻ, nàng tìm mua cho mình mấy bộ quần áo, khăn quàng cổ, giây lưng, rồi mua cho bọn nhỏ mỗi đứa hai bộ quần áo. Chúng tỏ ra thành thạo đường lối; chúng dẫn nàng theo lớp sóng người dạo chơi tiếp. Sáu người đang đi giữa biển người, thì có tiếng la lớn:

            – Tránh, tránh ra mau, kẻo xe đụng chết.

            Mọi người đều nhảy dạt vào lề đường, để tránh chiếc xe song mã đang phi như bay. Minh-Ðệ nhìn lên: trên xe có một đôi nam nữ trang phục cực kỳ xa hoa. Cả hai tuổi khoảng hơn hai mươi. Trước xe, một người lực lưỡng ngồi dong cương. Khi chiếc xe đến trước quán Nam-phong, tuy ai nấy đã tránh hết, nhưng vẫn còn một người lững thững đi cùng chiều với chiếc xe. Người dong xe quát:

            – Tránh, tránh mau!

            Người kia dường như điếc, không nghe thấy tiếng quát, y vẫn lững thững đi. Người đánh xe vội giật mạnh cương cho ngựa dừng lại. Hai con ngựa dựng đứng vó trước lên cao, cất tiếng hí inh ỏi. Chiếc xe chờ tới. Mọi người thét lên kinh hoàng, vì người kia khó tránh khỏi bị ngựa đạp chết. Không ngờ, người kia dùng một thân pháp rất kỳ ảo, y xê dịch tránh sang bên cạnh, vừa đủ khít khao, khiến ngựa không đạp phải người.

            Minh-Ðệ nhìn kỹ: đó là một nhà sư, quần áo rách rưới, tay chống thiền trượng, lưng đeo túi vải. Mặc dù vừa thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, nhưng nhà sư vẫn không nhìn chiếc xe, chân bước khoan thai.

            Người con gái ngồi trên xe cất tiếng chửi:

            – Lại thằng trọc thối tha. Ðoàn, mi đập vào xác nó cho ta.

            Tên đánh xe vung roi quất vào đầu nhà sư đến véo một tiếng. Nhà sư đưa tay phải lên, chiếc roi quấn vào cổ tay ông. Tên phu xe giật mạnh chiếc roi trở về. Nhưng chiếc roi như dính chặt vào tay nhà sư. Tên Ðoàn đành buông roi ra. Người con gái ngồi trên xe cong cớn:

            – Thằng trọc thối tha kia. Lần này là lần thứ mấy mi trêu chọc bọn ta? Hôm nay thì ta không để mi yên đâu.

            Nhà sư thủng thỉnh trả lời:

            – Có ai vô lý như cô nương không? Bần tăng đi trên đường của vua, chính xe cô nương đâm vào bần tăng, cô nương sai phu xe đánh bần tăng. Như vậy cũng chưa đủ, cô nương còn chửi mắng bần tăng trêu chọc cô nương. Hỡi ơi! Ðạo lý ở đâu vậy?

            Người con trai ngồi trên xe tung mình nhảy xuống đất, y vung tay tát nhà sư, kình lực mạnh vô cùng. Nhà sư dường như không biết võ, thản nhiên chịu đòn. Bạch một tiếng, cái tát trúng má phải nhà sư. Nhà sư than:

            – Ối trời đất ôi! Cứu tôi với.

            Trong khi người con trai nhăn nhó, ôm tay tỏ vẻ đau đớn cùng cực.

            Người con trai tung một cước vào mông nhà sư. Binh một tiếng, nhà sư ngã lăn xuống đất, rồi nằm bất động. Người con trai lại ôm chân nhăn mặt.

            Lạ một điều, dân chúng xem đông như vậy, mà không ai dám can thiệp cứu nhà sư. Người con trai dường như chưa hết giận, y còn đạp lên mình nhà sư mấy cái. Nhà sư lăn lộn chịu đòn. Tên Ðoàn rút sợi dây để sau xe, trói nhà sư lại. Thanh niên cầm roi đánh nhà sư túi bụi.

            Năm đứa trẻ cùng nhảy tới, miệng chúng la lớn:

            – Ối làng nước ơi! Ăn hiếp người ta.

            – Ðánh sư ông hả?

            Năm đứa trẻ đứng xung quanh như che chở cho nhà sư. Thanh niên cau mặt nhìn năm đứa trẻ:

            – Lại năm thằng ôn con. Ông cho tụi bay nát thây.

            Rồi y dùng roi quất thằng Nghi, thằng Ðoan. Nhà sư chụp lấy gót chân hai đứa trẻ. Roi trúng người chúng nó chát, chát hai tiếng, mà chúng vẫn thản nhiên sư không đau đớn gì. Thanh niên lại đánh thằng Quang, thằng Dật. Minh-Ðệ định nhảy vào can thiệp, thì hai thanh niên, một quần áo nâu, một quần áo xanh ngồi trên một chiếc xe song mã đậu bên đường; quan sát từ nãy đến giờ. Người áo nâu lạng mình xẹt tới chụp mấy cứa trẻ. Mỗi cái vung tay của y là một trẻ bị tung lên cao. Chúng rơi xuống chiếc xe của anh ta đậu cạnh đường, giống như đặt chúng ngồi lên vậy.

            Ném xong năm đứa trẻ, thanh niên áo nâu quắc mắt nhìn gã thanh niên công tử. Gã thanh niên công tử rùng mình một cái, tay y run run, khiến cái roi rơi mất lúc nào không hay. Thanh niên áo xanh ngồi trên xe nói vọng xuống:

            – Ði thôi anh ơi! Gây với hủi làm gì vậy.

            Thanh niên áo nâu tung mình lên xe. Chiếc xe song mã phóng đi như bay, thoáng một cái, đã biến vào cuối phố.

            Thanh niên công tử giận cá chém thớt, y quay lại đánh nhà sư.

            Minh-Ðệ hỏi một thanh niên đứng cạnh:

            – Ðôi trai gái kia là ai vậy?

            – Ôi! Ðó là tam công tử, tên Dương Ðức-Nhàn con của quan phủ Thăng-long Dương Ðức-Túy, cháu gọi Tể-tướng Dương Ðạo-Gia bằng ông nội đấy. Cậu ta thuộc cành vàng lá ngọc. Bà cô là Thiên-Cảm thái hậu, cô là Thượng-Dương hoàng-hậu, vì vậy khắp kinh thành này, cậu ta muốn đánh, muốn chửi ai cũng được. Ai thấy xe cậu ta mà không tránh mau, để xe đụng phải không những không được đền mà còn bị bắt về đánh đòn nữa.

            Người đó thở dài:

            – Còn nhà sư kia, không biết thuộc am nào, chùa nào, tại sao không ở chỗ yên tĩnh mà tu, lại cứ lang thang đi khất thực khắp Thăng-long, nên dân chúng gọi ông là Khất hoà-thượng.

            – Thế còn hai thanh niên áo nâu, áo xanh là ai, mà gã Dương Ðức-Nhàn có vẻ sợ hãi vậy?

            - À, đó là hai hoàng tử!

            Minh-Ðệ nghĩ thầm:

            – Ðức vua hiện chưa có hoàng nam nối ngôi, thì hai hoàng tử này ắt là em vua đây? Mình từng nghe nói vua Thái-tông chỉ có mình nhà vua mà thôi. Vậy hai ông này là con vua nào?

            Nàng hỏi tiếp:

            – Hai hoàng tử đó là giòng dõi vua nào vậy?

            – Hai ông không phải con vua, mà là con của Thái-sư Quốc-phụ Khai-quốc vương. Ông mặc áo nâu tên Hoằng-Chân, ông mặc áo xanh tên Chiêu-văn.

            - À, thì ra thế!

            Minh-Ðệ nghĩ thầm: năm trẻ nhà mình được một hoàng tử, hơn nữa hoàng tử con của Quốc-phụ, Quốc-mẫu, nức tiếng thiên hạ về lòng nhân đạo, nghĩa hiệp... chiếu cố thì hẳn tương lai chúng phải tươi đẹp.

            Sau khi để nhà sư nằm dài trên xe, tên Ðoàn ra roi cho ngựa chạy. Ngựa vừa cất vó, thì bánh xe bên trái bị gẫy. Xe lộn nhào. Ðôi trai gái tung mình lên cao rơi xuống bên cạnh. Minh-Ðệ kinh hãi, vì nếu cái xe lật úp, thì nhà sư ắt chết, không thì cũng gẫy xương. Nàng xẹt tới chụp nhà sư, rồi nhảy sang bên cạnh, vừa kịp chiếc xe đổ kềnh xuống đường.

            Minh-Ðệ cúi xuống lúi húi cởi trói cho nhà sư. Chợt nàng thấy trên tay nhà sư cầm mấy viên sỏi. Nhà sư khẽ búng hai cái. Bốn viên sỏi bay rất êm, trúng dây cột ngựa với xe. Dây đứt, mà không ai thấy. Nhà sư lại búng sẽ hai cái nữa. Hai viên sỏi trúng mông hai con ngựa. Sỏi đi rất êm, thế mà hai con ngựa hí lên inh ỏi rồi cất vó phi nước đại.

            Bấy giờ Minh-Ðệ mởi vỡ lẽ:

            – Võ công nhà sư cao thâm không biết đấu mà kể. Hèn chi ban nãy ông nắm gót chân hai trẻ, rồi truyền khí-công vào người chúng, khiến roi đánh trên lưng trên người, mà chúng không hề gì.

            Ðôi nam nữ với tên phu xe vội chạy theo bắt ngựa lại. Ðến đây Minh-Ðệ cởi trói xong cho nhà sư. Nàng chắp tay:

            – A-di-đà Phật. Ðệ tử Lê Thị Yến-Loan xin ra mắt sư phụ.

            Nhà sư cười hì hì:

            – Ừ, con bé con nhà Phật này, lòng dạ tốt gớm. Ta hết tiền, hết lương thực rồi. Người có tiền cho ta mấy đồng?

            Minh-Ðệ móc hết số bạc trong bọc, hai tay đưa ngang trán:

            – Ðệ tử xin kính cẩn cúng dàng sư phụ.

            Nhà sư cầm lấy số bạc, rồi nói rất nhỏ:

            – Phúc đức! Ôi sao lại có người phúc đức thế này.

            Ông đưa tay phải lên vòng ba vòng:

            – Tai ương ơi! Ma quỷ ơi! Hãy đi chỗ khác đừng có ám người thiện tâm này nữa.

            Lạ thay, mỗi cái vòng tay của ông, Minh-Ðệ thấy cái túi đựng quần áo của mình nặng thêm một chút.

            Ông nói với nàng:

            – Số bạc cô nương bố thí cho bần tăng một, thì Phật-tổ sẽ ban cho cô gấp mười.

            Nói dứt lời, ông đeo túi khoan thai chống gậy mà đi. Minh-Ðệ hướng theo ông vái ba vái.

            Qua biến cố vừa rồi, Minh-Ðệ nghĩ thầm:

            – Thì ra Khất hòa thượng là nhân vật võ công cao không biết đâu mà kể. Ông cố ý trêu chọc đôi nam nữ hách dịch kia mà thôi.

            Minh-Ðệ trở về Thính-hương khách xá, thì trời đã về khuya. Nàng thay quần áo, chợt nàng thấy trong túi áo có ba nén bạc. Cầm bạc lên, nàng suy nghĩ:

            – Ai bỏ bạc vào túi mình thế này?

            Chợt mùi trầm hương từ nén bạc xông ra, Minh-Ðệ hiểu liền:

            – Ban nãy mỗi khi Khất hoà thượng vung tay, ta thấy cái túi vải trên lưng nặng thêm một chút. Thì ra Khất-hoà thượng ban bạc cho ta mà ta không biết. Hèn gì người nói "cô nương cho ta một, Phật sẽ ban cho cô gầp mười". Bây giờ ta mới hiểu.

            Minh-Ðệ tắm rửa rồi sang thư phòng. Trong thư phòng, có tới hơn ba mươi cái kệ đựng sách. Nàng liếc qua: nào sách của Trung-quốc, nào sách của Ðại-Việt không thiếu bộ nào. Từ những bộ cổ như Tứ-thư, Ngũ-kinh, tới những bộ mới trước tác gần đây của Trương-tri-Bạch, Yến-Thù, Tư-mã-Quang. Sách Việt cổ nhất là bộ Văn-lang khảo dị, Ðộng-đình hồ cảo lục, Cổ-loa di sự, Lĩnh-Nam di hận. Những bộ mới nhất như Thái-tổ thực lục, Thái-tông thực lục, Thái-tông Nam-chinh, Nhân-Huệ hoàng đế kỷ sự vv... làm nàng thích thú. Nàng mang mấy bộ về phòng đọc.

            Ðêm đó, nàng vừa chợp mắt ngủ đi, thì có tiếng gõ cửa ba lần nhẹ, hai lần nặng. Biết rằng đó là ký hiệu của Trần Tự-An, nàng vội choàng dậy mở cửa. Tự-An vẫy tay gọi nàng, rồi hướng bờ hồ mà chạy. Minh-Ðệ vội chạy theo. Tới bờ hồ, Tự-An bảo nàng:

            – Chúng ta đã về Thăng-long. Từ nay, cứ cách một đêm, ta lại tới đây dạy võ công cho con. Sao, con bị điều tra thế nào? Có bị đánh đập không?

            – Không, họ mới hỏi lý lịch thôi.

            Thế rồi thầy thì dạy, trò thì tập, quá nửa đêm Minh-Ðệ mới trở về phòng ngủ.

            Hôm sau Minh-Ðệ dậy sớm, ra bờ hồ xem người ta kéo lưới đánh cá. Sau mẻ lưới, nhà chài lại vất những con cá, con tôm, con cua nhỏ xuống bãi, là y như có mấy đứa trẻ đi theo mót, bỏ vào cái giỏ con. Nàng để ý, thấy tất cả có bẩy đứa, tuổi sàn sàn nhau, quần áo rách rưới, mặt mũi lem luốc, nhưng rắn rỏi, khỏe mạnh.

            Nhà chài là một cặp vợ chồng trung niên. Hai giỏ cá của họ đã khá đầy, người vợ nói:

            – Mình ơi, đủ rồi đấy. Mình kéo hết mẻ này nữa thì thôi nhé!

            – Ừ.

            Hai người lại chăng lưới. Ðám trẻ hau háu đừng nhìn vợ chồng nhà chài. Thấy Minh-Ðệ đứng xem, một đứa hỏi:

            – Chị là tù mới hả?

            – Ừ. Sao em biết?

            – Bọn em ở đây từ lâu rồi, nên có người tù nào mới tới ở Thính-hương khách xá thì em biết liền. Này chị!

            – Em muốn gì?

            – Tý nữa bọn em có làm gì quái lạ, chị đừng có lên tiếng nhá.

            – Ừ!

            Vợ chồng nhà chài đã kéo xong mẻ lưới. Dường như cái dỏ trên lưng hơi nặng. Cả hai tháo xuống để lên bãi, rồi mới gỡ cá mắc lưới ném vào. Bẩy đứa trẻ, chia làm hai toán, một toán vây quanh người chồng, một toán vây quanh người vợ xem nhặt tôm cá. Còn một đứa đầu hói đứng phía sau.

            Hai vợ chồng nhà chài lúi húi lượm cá ném vào dỏ. Nhè lúc hai vợ chồng cùng không nhìn lại, đứa trẻ đầu hói lượm ngay một con cá lớn ném vào bụi cỏ gần đó. Ðộng tác của nó nhanh không thể tưởng tượng. Cứ như vậy, khi vợ chồng nhà chài lượm hết tôm cá trong lưới, thì nó đã ném trước sau bẩy con cá lớn vào khu cỏ may. Minh-Ðệ nghĩ thầm:

            – Thì ra bẩy đứa này có tổ chức chu đáo từ lâu. Ba đứa đứng bao vây người chồng. Ba đứa đứng bao vây người vợ. Còn một đứa thì ăn trộm cá. Chúng thực là thông minh, mưu trí. Không biết chúng là con nhà ai? Nếu sinh vào gia đình khá giả, thì giờ này chúng đang ngồi trong các trường học văn, luyện võ, chứ đâu phải ăn trộm. Bọn này mà cho đi học, thì cái thông minh của chúng sẽ được phát triển, dùng vào việc hữu ích. Chợt một đứa nói:

            – Ðủ rồi đấy, hôm nay may quá, đám tép riu, cua con, cá nẹp này đủ ăn một ngày rồi. Chúng ta về lâu đài thôi.

            Nghe đứa trẻ nói, vợ chồng người chài đều bật cười. Người đàn ông nói:

            – Này bẩy hoàng-tử, lâu đài của các hoàng tử ở đây vậy?

            Một đứa chỉ vào đám rừng phía trước:

            – Kia chứ đâu.

            Vợ chồng người chài đeo giỏ lên lưng, cuộn lưới ra về. Bấy giờ bọn trẻ mới vào bụi cây nhặt cá. Ðứa mắt lác hái một cành tre nhỏ, xuyên vào mang cá thành một xâu. Ðứa cao lêu nghêu nhìn Minh-Ðệ có vẻ thẹn thùng:

            – Chị thấy không? Ðói thì đầu gối phải bò. Ðói ăn vụng, túng làm liều mà. Hì...hì.

            Nói rồi bẩy đứa cùng ra đi. Một đứa nhìn Minh-Ðệ, rồi hỏi:

            – Này bà chị tù mới, chị đi chơi với bọn em không? Bọn em là hoàng-tử đấy.

            – Các em là hoàng-tử mà sao lại đi mót cua, mót cá, trộm cá thế này?

            Cả bẩy đứa đều cười khúc khích:

            – Hoàng-tử gì đâu. Bọn em đều là ăn mày, bị người ta khinh khiến, nên nói ngông chơi mà thôi.

            Nó chỉ vào khu rừng:

            – Chị đến lâu đài của bọn em chơi đi.

            Minh-Ðệ thấy đám trẻ dễ thương, nàng đi theo chúng. Tới một khu rừng thì hiện ra một căn lều. Tường bằng đá chồng lên, mái thì lợp bằng cỏ. Căn lều chỉ lớn hơn cái chuồng gà một chút. Một đứa chỉ các bạn giới thiệu:

            – Thằng cao nghệu kia là tên là Trần Di. Nó lớn tuổi nhất trong bọn em. Vì nó cao mà gầy, bọn em gọi nó là Di sậy.

            Một đứa trẻ khác chỉ vào đứa trẻ đang giới thiệu:

            – Còn... còn... thằng... thằng ... này... này tên Triệu Thu, vì nó đen nên có quý danh là Thu nhọ-nồi.

            Di sậy chỉ vào đứa trẻ nói lắp:

            – Ðiếc hay hóng, ngọn hay nói. Thằng này tên là Dương Minh, vì nó nói lắp nên có tên Minh ngọng.

            Nó chỉ vào đứa trẻ có cái thẹo lớn ở tay phải:

            – Thằng này tên là Mai Cầm.

            Minh-Ðệ phì cười:

            – Chắc em có tên là Cầm thẹo phải không?

            Cầm thẹo cười lớn:

            – Ðúng vậy!

            Nó chỉ vào đứa trẻ hói đầu:

            – Thằng hói này tên là Quách-Y hay còn gọi là Y hói.

            Cầm thẹo giới thiệu hai đứa còn lại:

            – Thằng này tên là Ngô Ức, vì nó méo miệng, nên bọn em gọi nó là Ức méo. Còn thằng này có tên Tạ Duy, vì nó lùn tịt nên có đại danh Duy lùn.

            Ðám trẻ lấy ra con dao đánh vảy, mổ ruột cá, đem ra bờ hồ rửa sạch, rồi cho vào cái nồi đất. Nó moi trong hốc đá ra bình muối, lọ kẹo đắng; rồi trộn muối, kẹo đắng với cá, bắc lên bếp kho. Một đứa khác lấy ra cái niêu, bỏ đám cua, tép, cá mót được vào, bắc lên cái bếp, mà ba ông đầu rau là ba viên đá. Chúng lấy bùi nhùi châm lửa, rồi đốt cỏ nấu canh.

            Minh-Ðệ hỏi:

            – Thế gia đình các em đâu, mà lại ở rừng thế này?

            Di sậy buồn rầu:

            – Bố mẹ chúng em đều chết cả rồi. Hồi đầu chúng em đi ăn mày ở Thăng-long. Sau bẩy đứa kết hợp lại về đây ở với nhau. Ban ngày ra kéo lưới mướn, người ta trả công bằng gạo. Còn thức ăn thì ăn cắp hay mót cá nẹp, cua con với tép mà ăn.

            Di sậy buồn rầu:

            – Bố mẹ chúng em đều chết cả rồi. Hồi đầu chúng em đi ăn mày ở Thăng-long. Sau bẩy đứa kết hợp lại về đây ở với nhau. Ban ngày ra kéo lưới mướn, người ta trả công bằng gạo. Còn thức ăn thì ăn cắp hay mót cá nẹp, cua con với tép mà ăn.

            Duy lùn tiếp lời bạn:

            – Nồi niêu, bát đĩa này là công trình chúng em ăn trộm của người ta đấy. Chúng em đi rửa bát thuê cho mấy nhà hàng, rồi ăn ắp bát đũa bỏ vào bụng mang về đây làm gia bảo đấy.

            – Thế lỡ ngày nào người ta không đánh cá, thì các em lấy đâu ra thức ăn?

            Ức méo chỉ xuống hồ:

            – Bọn em sống ở quanh hồ này mấy năm nay, lặn lội mãi riết rồi thành bản lĩnh. Chúng em có thể lặn dưới nước bắt cá dễ dàng, và bơi nhanh như rái cá. Cho nên ngày nào không ăn cắp được cá, thì bọn em lặn xuống hồ bắt mà ăn.

            – Chị không tin.

            – Vậy chị với bọn em đánh cuộc nào!

            – Cuộc gì?

            – Nếu như bọn em lặn xuống bắt được cá, thì chị phải cho bọn em ít tiền mua cái lưới đánh cá. Còn như trong hai khắc (30 phút ngày nay) mà bọn em không bắt được cá, thì phải kêu chị bằng u (tiếng Bắc để chỉ bà mẹ).

            Minh-Ðệ phì cười:

            – Ðược chị bằng lòng đánh cuộc.

            Thế là bẩy đứa cùng Minh-Ðệ ra bờ hồ. Chúng cởi quần áo, chỉ mặc có cái quần dùi. Rồi bẩy đứa hô lên một tiếng, cùng nhảy xuống hồ, lặn biệt tăm. Minh-Ðệ đứng trên bờ quan sát, nàng cũng vận khí qui tức nín hơi. Khoảng gần một khắc, chịu không được, nàng phải thở ra, mà chưa thấy đứa trẻ nào trồi lên. Kinh ngạc, nàng lại qui tức lần thứ nhì, khi vừa choáng vàng nàng phải thở ra, thì thấy thằng Di sậy trồi lên đầu tiên, tay nó cầm một con rùa lớn bằng cái đĩa. Tiếp theo thằng Úc méo trồi lên, tay cầm con cá diếc lớn. Rồi thằng Duy lùn, Y hói... lát sau cả bẩy đứa cùng trồi lên, đứa nào cũng bắt được cá cả. Minh-Ðệ nghĩ thầm:

            – Bọn này mà được luyện nội công thì có lẽ chúng sẽ lặn dưới nước lâu gấp ba gấp bốn lần.

            Nàng vẫy tay gọi chúng lại gần:

            – Chị phục các em rồi. Bây giờ không những chị mua lưới cho các em, mà còn mua sắm nhiều thứ cho các em nữa.

            Di sậy chỉ vào hai nồi cá:

            – Em mời chị dự đại yến với các em nghe.

            Thấy chúng thực tâm, Minh-Ðệ gật đầu:

            – Ừ chị dự yến với các em.

            Minh-Ðệ vừa ăn, vừa nói chuyện với bọn trẻ. Trên đời, chưa bao giờ nàng lại được ăn một bữa cơm ngon như vậy. Ăn xong nàng nói với chúng:

            – Bây giờ chị dẫn các em vào phố, chị mua cho các em mấy bộ quần áo, với đồ dùng. Các em có bằng lòng không?

            Thằng Ức méo nhảy lên:

            – Trời ơi! Sao chị tử tế quá vậy? Thôi, chị nhận chúng em là con chị đi. Chúng em gọi chị là u nhe?

            – Không được đâu. Chị lớn hơn các em có mấy tuổi thì làm sao mà làm mẹ các em được?

            Triệu Thu nói bằng giọng nhỏ nhẹ:

            – Ừ, thì bọn em gọi chị bằng chị, nhưng trong lòng cứ nghĩ chị là mẹ bọn em. Có bà mẹ như chị kể cũng sướng cái đời.

            Minh-Ðệ bùi ngùi cảm động, nước mắt nàng rơm rớm dưới mi.

            Thế là Minh-Ðệ dẫn bẩy đứa vào phố, mua cho mỗi đứa hai bộ quần áo. Nàng lại mua cho chúng mấy cái nồi đất, bát, đũa, mấy cái lọ đựng mắm muối, cái hũ đựng gạo, vài cái rổ, cái rá, cái thớt, con dao, mấy cái muỗm. Chúng xin nàng mua cho chúng mấy cân bột tẻ, mấy cân khoai lang và một cân tôm. Nàng chiều theo ý chúng.

            Về tới căn lều, dường như chúng quen thuộc rồi, đứa thì gọt khoai lang, rồi cắt ra thành từng miếng lớn gấp hai, gấp ba cái tăm; đem ngâm vào nước. Chúng trộn bột với khoai.

            Tò mò Minh Ðệ hỏi :

            – Các em làm gì vậy ?

            Di sậy giảng giải :

            – Bánh tôm Tây-hồ !

            – Bánh tôm Tây-hồ ? Chị chưa từng nghe qua. Cách làm ra sao ?

            Di sậy trình bầy :

            – Bánh này do bọn em chế ra, rồi đặt tên, thì làm sao chị biết. Này nhé, cứ ăn cơm độn khoai mãi chán chết. Vì vậy bọn em giã gạo thành bột, thái khoai, rồi trộn với nhau. Sau đó làm thành cái bánh tròn như chiếc đĩa nhỏ, bỏ vào xanh rán, trên bánh đặt thêm hai, ba con tôm.

            Minh Ðệ ngồi xem bọn trẻ làm bánh tôm. Chúng rán cho đến khi bánh hơi vàng, mới vớt ra. Triệu Thu cầm cái kéo cắt bánh. Bánh dòn, cắt rất dễ. Nó lấy mấy lá rau riếp (gần giống salade) trao cho Minh Ðệ :

            – U xơi đi ! U lấy rau riếp cuốn bánh, rồi chấm nước mắn mà xơi ! Ngon lắm.

            Cảm động, Minh Ðệ bưng đìa lên ăn. Bánh dòn, mùi khoai lang rán, lẫn mùi tôm, mùi bột dòn, tạo thành hương vị ngạt ngào. Bọn trẻ cũng vừa rán vừa ăn.

            Ghi chú,

            Nơi mà 7 thiếu niên làm cái lều sống cạnh hồ Tây, có lẽ ngày nay nằm trên vùng gần đê Yên-phụ nối với Cổ-ngư. Từ hơn nghìn năm qua, người Việt ăn bánh tôm hồ Tây, nhưng ít ai biết nguồn gốc từ đâu ? Ai là người đã sáng chế ra, và sáng chế trong trường hợp nào ? Chỉ độc giả Nam-quốc sơn hà mới biết mà thôi.

            Chiều hôm đó nàng nấu nướng những mốn ăn đồng quê cho bẩy đứa trẻ ăn.

            Di sậy lại nói với nàng:

            – Chị ơi! Chúng em đã bàn với nhau rồi: Tuy ban nãy bọn em thắng cuộc, nhưng bọn em cũng cứ làm con chị. Vậy chị cứù bằng lòng đi!

            Minh-Ðệ xua tay:

            – Ðừng! Ðừng như thế. Chị đang là thân tù tội, thì làm mẹ các em thế nào được nhỉ? Chị chỉ làm chị các em mà thôi. Dù là chị, hay là mẹ, thì chị vẫn thương yêu các em như nhau.

            Trần Di nắm lấy tay nàng:

            – Thế khi chị hết tù thì chị sẽ làm mẹ bọn em nghe!

            – Ừ!

            Ghi chú,

            Lời hứa của Yến-Loan trong lúc bất đắc dĩ ấy, tạo ra tình yêu thương của chúng với nàng như đối với một bà từ mẫu. Chính cái tình mẹ con nảy nở tự nhiên lúc cô đơn, sau này bẩy đứa trẻ trở thành đại tướng quân, tuân lệnh nàng, làm nghiêng ngửa giang sơn Tống, Chiêm, đó là chuyện sau.

            Hôm sau Minh-Ðệ dậy sớm, thay quần áo định đến rừng chơi với bọn trẻ thì khoảng giờ Thìn có xe ngựa đón nàng vào điện Uy-viễn nơi đặt Khu-mật-viện. Tới nơi, Cẩm-Dung đón nàng ở cửa, miệng bà cười rất tươi:

            – Ái chà, hôm trước em để đầu bù, tóc rối, mặt lọ lem, nhìn đã đẹp rồi. Hôm nay em tắm rửa thay đổi y phục, đẹp như một cô công chúa. Giá chị là con trai, chị quyết đi thi đỗ trạng rồi cưới em làm vợ. Có cô vợ đẹp như em kể cũng sướng cái đời. Nào, em vào đây.

            Minh-Ðệ được đặt ngồi trước một cái bàn nhỏ, có bút, mực mài sẵn. Ðối diện với nàng là bốn vị quan đại diện bộ Hình, bộ Binh, bộ Lại và Khu-mật-viện. Cả bốn người đều còn trẻ, tuổi khoảng trên dưới ba mươi. Cẩm-Dung ngồi cạnh nàng để ghi chép.

            Ông đại diện Khu-mật-viện lên tiếng trước:

            – Yến-Loan nghe này. Yến-Loan đang đối diện với những người thừa lệnh chỉ của đức vua. Ðức vua là người nhân từ, Yến-Loan đừng sợ hãi, có gì cứ nói thực. Câu đầu tiên ta hỏi Yến-Loan nhé: Yến-Loan khai với sư Viên-Chiếu rằng Yến-Loan là con nhà nghèo ở Thanh-hóa, bị bán cho nhà giầu, nhân chủ đánh đòn tàn nhẫn, Yến-Loan trốn đi. Lời khai này chỉ qua mặt được các sư, qua mặt được các quan của lộ Kinh-Bắc, chứ đối với ta thì không được đâu. Tại sao? Thứ nhất Yến-Loan bảo quê ở Thanh-hóa, thế sao Yến-Loan không nói giọng Thanh-Nghệ mà lại nói giọng Kinh-Bắc? Thứ nhì đường đi từ Thanh-hóa đến Kinh-Bắc ít ra là bốn ngày. Yến-Loan bị đánh trọng thương như vậy sao có đủ sức đi bộ? Mà có đủ sức đi, thì sau bốn ngày, viết thương phải đóng vảy chứ có đâu máu còn tươi? Thôi, Yến-Loan khai thực đi, bằng không ta phải cho người đưa Yến-Loan về Thanh-hóa, bắt Yến-Loan chỉ ra nhà cửa, tên tuổi của chủ Yến-Loan.

            Minh-Ðệ kinh hãi, nàng nghĩ thầm:

            – Ðã đến đường cùng, mình cứ khai thực. Nếu có gì nguy hiểm thì mình sẽ trốn đi như viên đề-điểm hình ngục xui. Vả người ta đã tử tế hỏi mình, mà mình còn dấu diếm vô lý thì coi sao được.

            Vì vậy nàng cầm bút khai gốc tích, hoàn cảnh gia đình: bị mẹ ghét bỏ, bị em đành hanh ác độc, nhất nhất không để sót chi tiết nào. Viết xong nàng đưa cho Cẩm-Dung. Cẩm-Dung vừa cầm lên, bà đã bật ra tiếng suýt xoa:

            – Chà! Chữ như rồng múa phương bay thế này, e rằng trong Ðại-Việt ta khó có hai người.

            Bà truyền tờ khai cho bốn vị quan xem. Bốn vị đều gật đầu khen ngợi. Cẩm-Dung cầm tờ khai đọc cho cả hội đồng nghe. Vị đại diện bộ Binh gật đầu:

            – Phải như thế chứ. Thế từ hồi đó đến giờ, Yến-Loan có gặp lại Quan-Thế-Âm bồ tát nữa không? Thức nội công tâm pháp Quan-âm dạy đó ra sao?

            Yến-Loan lại cầm bút viết, rồi trao cho Cẩm-Dung. Cẩm-Dung đọc xong, trịnh trọng nói:

            -– Thưa các quan, đây rõ ràng là nội công âm nhu thượng thừa của phái Mê-linh, không sai chút nào. Tổng số có 99 câu, thì Yến-Loan được truyền cả 99. Trong 99 câu này, khắp nước Ðại-Việt không thiếu người biết, nhưng chỉ người được giảng thuật ngữ mới có để luyện thành. Những người này phải ở vào vai vế cao nhất. Trong phái Mê-linh, người được biết tâm pháp này chỉ có tám. Vậy có thể Quan-Âm là một tám cao nhân thôi.

            Viên đại diện bộ Lại đứng lên, đi vào một lúc rồi mang ra tám bức chân dung để trước mặt Minh-Ðệ:

            – Yến-Loan thử nhìn xem, vị nào trong tám vị này là Quan-âm đã dạy Yến-Loan?

            Minh-Ðệ liếc qua, nàng đã nhận ra bức hình thứ ba là hình Quan-Âm dạy nàng. Nàng chỉ vào hình:

            – Thưa là bà này.

            Dù Minh-Ðệ đã được nhiều người nói cho biết rằng vị dạy khí-công cho nàng không phải là Phật bà, nhưng trong lòng nàng cứ tâm niệm rằng đó là Quan-Thế-Âm bồ tát thị hiện cứu khổ, cứu nạn cho nàng. Nên bây giờ trong lúc bị điều tra, căng thẳng, nàng lại niệm:

            – Nam-mô cứu khổ cứu nạn, đại từ đại bi Quan-Thế-âm bồ tát. Xin ngài cứu khổ cứu nạn cho con.

            Bốn vị quan, cùng Cẩm-Dung đều bật lên tiếng úi chà. Năm người nhìn nhau như muốn nói một điều gì. Cẩm-Dung vuốt tóc Yến-Loan:

            – Phúc trạch em khôn lường. Em đã được người này dạy em, thì dù em có phạm tội gì chăng nữa, cũng không sao. Thôi, bây giờ em tiếp tục khai thực hết mọi chuyện đi. Thứ nhất, em khai về vợ chồng quý nhân dạy võ, và cho em vàng bạc, về việc em bị bắt đến dinh Trung-nghĩa. Nhớ đừng bỏ sót một chi tiết nào.

            Minh-Ðệ thấy thái độ của người chấp cung thực dễ chịu, vì vậy nàng thuật theo thứ tự từng chi tiết một. Năm người càng nghe, gương mặt càng trở nên đăm chiêu, trán nhăn lại như lo nghĩ điều gì. Vị đại diện bộ Binh hỏi:

            – Tôi xin Yến-Loan xác quyết một lần nữa: có đúng Siêu-loai hầu nói rằng cặp quý nhân tặng vàng, dạy võ cho Yến-loan là Ưng-sơn song hiệp không?

            – Thưa hoàn toàn đúng. Ông nhắc đi, nhắc lại nhiều lần trước tất cả các cụ trong làng, cùng học trò hiện diện hôm ấy.

            Ðến đó một vị y phục đại thần bước vào. Cả năm vị quan đồng đứng dậy hành lễ. Yến-Loan liếc mắt nhìn: vị quan này dáng người cao lớn, gương mặt thực uy dũng, nhưng sao da lại trắng trẻo, không có chút râu nào. Vị đại quan bảo Yến-Loan:

            – Này muội muội.

            Tiếng ông trong trẻo như tiếng đàn bà, làm Yến-Loan kinh ngạc. Nhưng nàng hiểu ngay: ông này là hoạn quan, được cử cầm quân, nên mặc quần áo võ quan đây. Nàng cảm thấy hoảng sợ, khi ông gọi nàng bằng muội muội, tức coi nàng như cô em. Nàng vội vàng cung tay:

            – Xin đại nhân đừng quá hạ thể như thế, cháu không dám đâu.

            Viên quan đó cười:

            – Muội muội đừng sợ. Ta nói cho muội muội biết, ta cũng là đệ tử của vị Quan-Âm dạy muội muội. Vì ta lớn tuổi hơn nên là anh, còn muội muội nhỏ hơn thì là em.

            Minh-Ðệ an tâm, trong lòng bớt sợ sệt.

            Vị đại quan nói:

            – Muội muội này, đám thái bảo trường Trung-nghĩa võ công thực không tầm thường. Thế mà ông bà quý nhân chỉ dạy muội muội có hơn tháng, đã khiến muội muội hạ Trịnh Phúc trong hai chiêu. Rồi cái lão tiên sinh dạy muội muội hơn tháng nữa, muội muội lại hạ ngay đại đệ tử trường Trung-nghĩa. Vì thế ta muốn tìm hiểu hiểu lý lịch những người dạy võ cho muội muội. Vậy muội muội hãy cùng ta chiết chiêu nghe.

            Không cho Minh-Ðệ phát biểu ý kiến, ông vẫy nàng ra sân, rồi nói:

            – Muội muội phát chiêu đi!

            Minh-Ðệ hít hơi, bái tổ, rồi phát chiêu Phong-thủy lãng lãng. Chiêu này nằm trong Ðông-a chưởng pháp, hai tay chắp lại như hành lễ. Viên võ quan mỉm cười:

            – Muội muội đừng đa lễ.

            Nói rồi ông tung một chưởng vào người nàng. Chưởng tuy chưa ra hết, mà Minh-Ðệ đã ngộp thở. Nàng vội bước sang phải, rồi trả lại bằng chiêu Phong-đáo sơn đầu. Hai chưởng chạm nhau đến binh một tiếng, cánh tay Minh-Ðệ cảm thấy tê rần, tai nàng phát ra những tiếng vo vo không ngừng. Nàng biết vị võ quan mới phát có ba thành công lực. Nàng vội hít một hơi, vận đủ mười thành công lực, đánh trả. Thế là Minh-Ðệ với viên võ quan tiếp tục giao đấu. Ðược hơn trăm hiệp, viên võ quan đẩy nhẹ một chiêu vào lưng nàng, người nàng bay bổng lên trời. Nàng vội lộn đi hai vòng rồi tà tà đáp xuống.

            Viên võ quan vẫy tay:

            – Ðủ rồi. Muội muội ngừng lại đi thôi.

            Viên võ quan cùng năm viên quan Khu-mật-viện, mặt nhìn mặt, đầy vẻ bối rối, đầy vẻ lo sợ, đầy vẻ kinh hoàng.

            Cẩm-Dung chỉ vào vị đại thần, nói với Minh-Ðệ:

            – Chị giới thiệu với em, vì này ngài Thái-tử thiếu-bảo, Tả-kiêu-vệ đại tướng quân, Khu-mật viện sứ, tước Thái-hà hầu, tứ quốc tính Lý, tự Thường-Kiệt.

            Minh-Ðệ rúng động toàn thân. Vì từ nhỏ, nàng đã nghe nói nhiều về nhân vật lịch sử này. Rồi mới đây nàng đọc trong Thái-tổ thực lục, Thái-tông thực lục, Thái-tông Nam chinh, nhất là bộ Nhân-Huệ hoàng đế kỷ sự, đã thuật về cuộc đời của Lý Thường-Kiệt đầy những hào quang, huân công với tộc Việt. Kinh hãi, nàng vội quỳ gối:

            – Tiểu nữ Lê Minh-Ðệ xin tham kiến quân hầu.

            Thường-Kiệt phất tay một cái, kình lực nhu hòa đỡ nàng dậy:

            – Muội muội sao lại hành đại lễ như thế này. Miễn miễn.

            Ông nói rất nhỏ nhẹ:

            – Từ khi rời nhà ra đi, đối với ai muội muội cùng dùng tên giả Yến-Loan, sao bây giờ muội muội lại dùng tên thực với ta?

            – Tiểu nữ thấy rằng, đứng trước một người đầy công nghiệp với tộc Việt, với xã tắc, với triều đình như quân hầu, thì dù có chết, tiểu nữ cũng không dám dối trá. Còn tên Yến-Loan thì không phải là tên giả trá đâu, mà do Quan-âm ban cho tiểu nữ.

            Vì là hoạn quan, nên Thường-Kiệt không câu nệ nam nữ, ông nắm tay Minh-Ðệ dắt vào công đường. Ông để nàng ngồi cạnh, nói với nàng như cha nói với con:

            – Ta nhắc lại, ta gọi cô là muội muội, thì cô cứ gọi ta là sư huynh, hay đại ca cũng được. Cô chớ gọi ta là quân hầu, đại nhân, mà sau này khó khăn cho ta. Sư phụ sẽ mắng ta là không biết yêu thương sư muội. Nhớ nhé.

            Nhớ lại lời Quan-âm dạy trước đây: sau này con xử dụng tâm pháp ta dạy con, thì đồ tử, đồ tôn của ta biết con là đệ tử của ta, họ sẽ nhận con, và yêu qúy con. Minh-Ðệ đáp nhỏ nhẹ:

            – Dạ, tiểu muội nhớ rồi.

            – Ừ, có thế chứ, dễ dạy lắm.

            - À, ban nãy muội muội nói ta "có công nghiệp với tộc Việt, với xã tắc, với triều đình"... Muội muội đặt tộc Việt lên trên đã tắc. Xã tắc lên trên triều đình là buột miệng nói ra, hay có chủ ý?

            – Dạ, thưa tiểu mội chủ ý đấy ạ.

            – Vì lý do nào muội muội lại đặt triều đình dưới xã tắc, xã tắc dưới tộc Việt.

            – Thưa tiểu muội đọc trong bộ Lĩnh-nam di-hận, thấy vua Trưng lý luận với Ðại-tư-mã Ðào Kỳ rằng: "Triều đình chỉ là nhất thời; triều đình lập ra để bảo vệ xã tắc. Ta phải làm sao cho xã tắc phú cường, để làm cho tộc Việt mình ấm no, hạnh phúc". Như vậy thì rõ ràng tộc Việt mình trên xã tắc, và xã tắc trên triều đình. Lại nữa ngay những danh nhân Trung-quốc chẵng từng lý luận giống như vậy đó sao? Kìa Mạnh-Tử nói : "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh", cũng cùng ý nghĩa.

            Từ trước đến nay, Minh-Ðệ đọc nhiều, nhớ dai, kiến thức rộng, nhưng vốn ít nói, vả cũng chưa có dịp, chưa gặp người để nói. Hồi ở nhà, hễ mở miệng ra nói vài câu, là mẹ nàng quát tháo, bắt câm cái mõm đi. Hồi ở chùa Từ-quang, tuy gặp chư tăng lòng dạ như biển, thương xót nàng, nhưng đó là chùa Thiền-tông, dường như cả ngày không vị nào mở miệng nói một câu. Rồi thời gian ở nhà giam lộ Kinh-Bắc, thì người ta coi nàng như một thứ hèn hạ, ai cho nói? Ðây là lần đầu tiên nàng được bầy tỏ kiến thức của mình.

            Thường-Kiệt vuốt tóc Minh-Ðệ:

            – Có phải trước kia người muội muội cục mịch, da đen, tiếng nói ồ ồ. Từ khi được Quan-Âm dạy nội công thượng thừa, thì người muội muội cứ ngày một thon lại, da trắng mịn, tươi hồng, tiếng nói thanh tao không?

            – Dạ, đúng vậy. Sư huynh kiến văn rộng hơn tiểu muội, xin sư huynh giải thích cho tiểu muội biết tại sao lại có hiện tượng đó.

            – Muội muội được Quan-Âm dạy cho Thiền-công, thuộc loại khô thiền, vì vậy càng tập, người càng thon lại, mảnh mai. Muội muội lại được dạy nội công âm nhu, nên tiếng nói trở thành trong trẻo, người yểu điệu, da trắng mịn... Nhưng chúng ta có rất nhiều nghi vấn xung quanh muội muội. Ta nói cho muội muội biết, vụ án chùa Từ-quang không chỉ giản dị trong việc phạm giới đâu, mà nó còn có tính cách rộng lớn đến cả triều đình Tống lẫn triều đình Việt. Vậy ta có lời dặn muội muội.

            – Tiểu muội xin kính cẩn nghe sư huynh dạy dỗ.

            – Thứ nhất, nhân danh Khu-mật viện sứ, ta tuyên án: cho đến lúc này, ta chưa đủ yếu tố buộc tội muội muội. Muội muội chưa phạm bất cứ một tội gì đối với Ðại-Việt, cũng không phạm giới của một Phật-tử. Số vàng, bạc của muội muội bị tịch thu ở chùa Từ-quang sẽ trả về cho muội muội. Từ nay muội muội cứ thản nhiên sống ở Thăng-long.

            – Ða tạ sư huynh.

            – Thứ nhì, đối với vợ chồng quý nhân, hay với vợ chồng lão tiên sinh, lúc họ dạy muội muội điều gì, thì muội muội phải cho ta biết trước khi tập luyện. Vì nếu muội muội luyện phải những chiêu trái ngược nhau, e bị tẩu hỏa nhập ma mà thành tàn tật. Thứ ba, muội muội cứ ở trong căn nhà Thính-hương bên hồ, ngày ngày đọc sách, đêm đêm luyện võ. Nếu có ai hỏi, muội muội bảo rằng Khu-mật viện chưa điều tra xong.

            – Muội muội xin nhớ lời giáo huấn của sư huynh.

            – Muội muội có cần ta giúp điều gì không?

            – Tiểu muội có ba điều ước vọng. Một là xin sư huynh cứu khổ cứu nạn cho các thầy ở chùa Từ-quang. Sư huynh đã bảo rằng muội chưa phạm tội, thì các thầy ở chùa Từ-quang cũng không phạm giới. Thứ nhì là muội xa nhà đã gần hai năm, nay muội muốn được về thăm nhà. Thứ ba là hơn năm qua, tiểu muội ở trong tù với mẹ con Thúy-Hoàng, Thúy-Phượng. Nghĩ hoàn cảnh hai người thực tội. Vây tiểu muội bạo gan xin sư huynh dùng số vàng bạc của tiểu muội trả cho chủ của Thúy-Phượng hầu chuộc nó ra, như vậy mẹ con nó sẽ được phóng thích.

            Thường-Kiệt lại vuốt tóc Minh-Ðệ:

            – Muội muội thực là một người nhân từ hiếm có. Cả ba điều huynh hứa giải quyết trong một tháng.

            Minh-Ðệ thấy ở Thường-Kiệt ngoài cái dáng đẹp hùng vĩ ra, ông còn là người mẫn tiệp, khoan hòa. Nàng nhìn ông mà trong lòng nổi lên cơn giông tố:

            – Hỡi ơi! Ông là người văn võ kiêm toàn, lại là một mỹ nam tử. Thế nhưng năm xưa ông bị gian nhân đánh thuốc mê rồi tĩnh thân thành thái giám. Sự đời thực lắm oan nghiệp. Hôm trước mình nghe sư phụ Tự-An nói: ông thề rằng nếu tìm ra kẻ hại ông, ông sẽ giết ba họ nhà nó. Còn chính nó, ông sẽ xẻo từng miếng thịt một. Ông làm Khu-mật viện sứ, mà hai chục năm qua, ông vẫn chưa tìm ra thủ phạm.

            Khu-mật viện trả vàng bạc cho Minh-Ðệ, nhưng nàng chỉ nhận có một nén vàng, còn lại nàng gửi Khu-mật viện giữ cho.

            Trở về bờ hồ, nàng nói với bẩy đứa trẻ:

            – Bây giờ chị có tiền rồi. Chị em mình vào Thăng-long, chị mua một căn nhà cho các em ở, rồi kiếm trường cho các em đi học.

            Bẩy đứa trẻ há hốc miệng ra kinh ngạc về lòng tốt của Minh-Ðệ. Phải mất ba ngày, Minh-Ðệ mới mua được một căn nhà ở Yên-phụ, gần trường học. Căn nhà khá rộng, đủ cho bẩy đứa trẻ ở. Nàng cắt đặt cho mỗi đứa một nhiệm vụ. Ðứa gánh nước, đứa đi chợ, đứa nấu ăn, đứa rửa bát. Nàng mua bút mực, sách vở, rồi dẫn chúng đến thầy đồ Yên-phụ xin cho chúng học. Thầy đồ là người sống ở ven hồ lâu ngày, thầy đã biết mặt cả bẩy đứa. Bây giờ thầy thấy Minh-Ðệ xin cho chúng nó học, thầy kinh ngạc, hỏi nguyên do. Minh-Ðệ cứ thực thà trình bầy.

            Cứ như vậy, bọn trẻ ngày ngày đến trường học chữ. Tối về, Minh-Ðệ dạy thêm cho chúng học. Thời gian trôi qua gần một năm.


            #6
              Chuyển nhanh đến:

              Thống kê hiện tại

              Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
              Kiểu:
              2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9