Nam Quốc sơn hà (từ hồi 6)
CDDLT 21.01.2005 18:14:48 (permalink)
HỒI THỨ SÁU

Người đâu gặp gỡ làm chi ?
(Ðoạn Trường Tân Thanh)





Ðêm hôm ấy Minh-Ðệ ra bờ hồ tìm sư phụ để luyện võ. Hôm nay sư phụ không dạy, mà bắt nàng dùng những chiêu số đã học đấu với ông. Ông cứ đánh cầm chừng, để Minh-Ðệ trả đòn. Sau khi quần thảo một lúc, ông đẩy thẳng vào người Minh-Ðệ một chưởng rất hùng hậu. Minh-Ðệ vung tay đỡ. Bình một tiếng, nàng thấy trong chưởng của sư phụ bao hàm một thức nội công sát thủ kỳ lạ, phảng phất có mùi hôi tanh. Nàng vội lui liền ba bước để thở. Sư phụ cũng thu chưởng, đứng nhìn nàng miệng mỉm cười.

Minh-Ðệ phân vân không hiểu những gì đã xẩy ra, bỗng nàng cảm thấy bàn tay như bị người ta ngoặm một miếng, cùng với cái lạnh truyền khắp cơ thể, đau đớn vô cùng. Rồi hai miếng, ba miếng. Bất giác nàng đưa tay lên nhìn, bàn tay nàng chỗ ba kinh dương thì xanh như mầu nước biển, chỗ ba kinh âm thì lại đỏ tươi như máu. Rồi cái đau, cái lạnh lan ra vai, ngực, chân, đầu. Chịu không nổi nàng cất tiếng kêu lớn:

– Ái chà.

Ðau quá làm người nàng cúi gập người xuống, rên la, lăn lộn. Nàng gọi Tự-An trong hơi thở:

– Sư phụ. Sư phụ cứu đệ tử với.

Tự-An đứng khoanh tay mỉm cười, có vẻ khoái trá. Ðau quá Minh-Ðệ lăn lộn dẫy đành đạch. Tự-An túm cổ áo nàng nhắc bổng lên đem xuống con thuyền đậu gần đó. Thuyền phu nhổ sào, đẩy thuyền ra giữa hồ. Nằm trong thuyền, Minh-Ðệ rên la, lăn lộn, nhưng cái đau, cái lạnh vẫn hành hạ. Tự-An nói:

– Ta dạy mi phương pháp vận công chống đau. Nào, mi làm theo ta dạy.

Nói rồi ông giảng giải. Minh-Ðệ nghiến răng vận công theo ông chỉ, quả nhiên cơn đau giảm lần lần. Nhưng khi nàng hơi ngừng lại là cơn đau lại phát ra dữ hơn trước nhiều.

Khoảng hơn giờ, cơn đau từ từ giảm rồi biến mất.

Sau cơn đau, người Minh-Ðệ cảm thấy mệt mỏi rã rời. Nàng lồm cồm bò dậy hành lễ:

– Sư phụ, không biết đệ tử phạm tội gì, mà sư phụ trừng phạt như thế?

Tự-An cười nhạt:

– Người không phạm tội gì cả, nhưng ta vừa dạy cho người một loại thần công kỳ diệu nhất thế gian, gọi là Chu-sa huyền âm chưởng.

– Thưa sư phụ, đệ tử ngu tối, chưa từng nghe nói qua về chưởng pháp này. Xin sư phụ đừng tiếc công chỉ dạy.

Tự-An ngơ ngẩn nhìn trời, rồi tiếp:

– Chu-sa huyền-âm chưởng, là hai loại chưởng pháp Chu-sa độc chưởng và Huyền-âm ngũ độc chưởng phối hợp lại. Nguyên vào thời vua An-Dương, một vị thánh tổ võ thuật Lĩnh-Nam, họ Lý tên Thân, tước phong Vạn-tín-hầu, chắc người có nghe nói.

– Dạ, đệ tử đọc trong bộ Cổ-loa di-sự. Trong bộ sách này chép rằng ngài là khai quốc công thần giúp vua An-Dương đánh vua Hùng, lập lên nước Âu-lạc. Bấy giờ vua Tần Thủy-Hoàng thống nhất Trung-nguyên rồi, có ý muốn đánh Âu-lạc. Nhưng y gờm võ công Âu-lạc kỳ diệu, chưa dám xuất binh. Thừa tướng Triệu Cao hiến kế rằng Tần nên sai sứ sang Âu-lạc, bắt cống một đội võ sĩ trăm người. Khi đội võ sĩ đó sang, Tần sẽ cho họ đấu với võ sĩ Trung-nguyên để biết tình hình võ thuật Âu-lạc; nhiên hậu quyết định nên đánh hay không.

– Ðúng đấy, rồi sau ra sao?

– Khi sứ Tần tới Âu-lạc, vua An-Dương cùng triều đình biết ngay thâm ý của họ. Triều đình quyết định cử quan Thái-úy Lý Thân đem một trăm đệ tử đi sứ Tần.

– Người có biết bấy giờ võ công của ngài ra sao không?

– Trong sách có nói, ngài chuyên về âm nhu. Khi ngài giúp vua An-Dương đánh vua Hùng, thì phải đối đầu với phò-mã Sơn-Tinh. Hai bên đánh nhau hơn hai ngày bên bờ Hắc-long-giang bất phân thắng bại. Nhưng quân Hùng thua vì binh lính không có tinh thần. Tuy đánh bại Sơn-Tinh, nhưng ngài vẫn khâm phục bộ Phục-ngưu thần chưởng của đối thủ. Nhân đó, ngài chế ra 36 chiêu Phục-ngưu âm nhu, khắc chế với 36 chiêu dương cương. Khi ngài cùng chư đệ tử đến Hàm-dương, mỗi khi đấu với một võ sĩ Trung-nguyên, thì cứ giả bộ kéo dài ra để biết hết sở trường của họ, chứ không vội thắng ngay. Sau hơn tháng giao đấu, ngài thu hết tinh hoa võ thuật của Trung-nguyên, rồi tìm ra cách khắc chế. Về kiếm thuật ngài chế ra pho Long-biên kiếm pháp. Về quyền chưởng ngài chế ra pho Cửu-chân chưởng. Lại thu hết tinh hoa nội công của họ, chế ra pho nội công âm nhu cũng chuyên khắc chế nội công Trung-thổ. Sách chỉ chép đến đây rồi không thấy ghi gì thêm. Vì vậy sau này, người Việt đấu với người Hán, nếu xử dụng kiếm, quyền, chưởng, nội công của ngài, thì chỉ một hay hai chiêu là thắng ngay.

– Câu chuyện về sau như thế này.

Tự-An giảng giải: khi thắng hết võ sĩ Tần, tổ được Thủy-Hoàng phong làm tướng đánh Hung-nô. Lúc Hung-nô quy phục rồi, Thủy-Hoàng phong cho ngài tước Vạn-tín hầu, và cho thầy trò trở về quê, và bỏ ý định đánh Âu-lạc. Ngài từ trần rồi, các đệ tử của người lập ra phái võ Cửu-chân và Long-biên, nức tiếng thời Lĩnh-Nam. Nay cả hai phái đó hợp lại thành phái Mê-linh. Trong các đệ tử của ngài, thì người thứ nhì tên là Trần Mạnh-Chi bị Thủy-Hoàng lưu lại làm quan. Mạnh-Chi lấy vợ người Hán, sinh con, lập ra phái Trường-bạch. Cho nên từ nội công đến chiêu thức của phái võ này đều giống nội công, chiêu thức của phái Mê-linh. Trải trên 30 đời, đến đời thứ 31, thì một đệ tử phái Trường-bạch trong khi tiễu trừ đối phương, bị đối phương cho ngũ độc cắn. Người có biết ngũ độc là những con nào không?

– Dạ là bò cạp, rắn, nhện, rết, tằm độc.

– Ðúng đó. Bị ngũ độc cắn, người đệ tử này đau đớn đến chết đi, sống lại. Trong khi vận công chống độc, độc tố hợp với chân khí, thành một thứ võ công mới cực kỳ lợi hại, gọi là nội công Huyền-âm. Nội công Huyền-âm rất kỳ diệu. Khi giao đấu, nếu bị người ta nhả một ít chân khí Huyền-âm vào cơ thể, thì sẽ cảm thấy người lạnh buốt, rét run lên, công lực mất hết. Ðấy là tất cả nguồn gốc Huyền-âm chưởng. Còn Chu-sa độc chưởng hẳn người cũng có nghe nói chứ?

Minh-Ðệ rùng mình:

– Dạ, đệ tử thấy chép trong Thái-tổ thực lục rằng chưởng này do một ác nhân tên Nhật-Hồ lão nhân mang từ Tây-vực về.

Tự-An vung tay tát Minh-Ðệ một cái nảy đom đóm mắt:

– Mi liệu lời mà nói, mi đọc bộ ngụy thư kia, rồi nói theo giọng điệu của chúng thì có ngày mất mạng. Phải gọi ngài bằng tổ hoặc lão tiên sinh.

Minh-Ðệ thấy Tự-An đổi cách xưng hô, đánh mình chỉ vì một câu nói thì kinh hãi nghĩ thầm:

– Rõ ràng sách Thái-tông thực lục chép rằng: phái Ðông-a do sư phụ Tự-An làm chưởng môn, đã đứng ra hô hào, thống nhất võ lâm để chống Hồng-thiết giáo của Nhật-Hồ lão nhân. Chính sư phụ với chư đệ tử của người như Phụ-Quốc, Bảo-Dân, Trung-Ðạo, các con người như Thông-Mai, Thanh-Mai, Tự-Mai đã giết nhiều trưởng lão bang Nhật-Hồ, chính Thông-Mai giết chết lão ở trận Trường-yên, mà nay sao sư phụ lại tỏ ý kính trọng lão như vậy?

Tự-An gằn từng tiếng:

– Chu-sa độc chưởng do hai vị thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh thu góp tinh hoa độc tố, chế thành Hồng-thiết công cùng Chu-sa hồng thiết chưởng. Nhật-Hồ lão nhân học được chưởng này, đem về Ðại-Việt lập ra Hồng-thiết giáo, vang danh một thời. Nhưng cuối thời Thuận-thiên thì Hồng-thiết giáo bị bọn theo Phật như Huệ-Sinh, Tịnh-Huyền, Lý Long-Bồ phá tan. Tuy nhiên nhiều đệ tử còn tiềm ẩn vào dân chúng. Trong những người tiềm ẩn, thì có ba vị thuộc loại đỉnh cao trí tuệ loài người đã vô tình tìm lại được bản phổ của Huyền-âm chưởng, nên hợp Huyền-âm với Chu-sa hồng thiết thành Chu-sa huyền âm chưởng. Ba vị đó là Vũ Chương-Hào, Lê Phúc-Huynh, Ðinh Kiếm-Thương.

– Ðệ tử nghe nói, Huyền-âm luyện với nội công âm nhu. Còn Chu-sa luyện với nội công dương cương. Như vậy sao có thể phối hợp cương nhu một lúc được?

– Ðược chứ, bởi vậy ta mới nói người hợp được là một đỉnh cao trí tuệ loài người mà. Như mi, mi được người ta dạy cho luyện nội công âm nhu của phái Mê-linh pha Thiền-công. Còn tên lỏi Tự-Mai với vợ nó, rồi ta, đều dạy nội công dương cương cho người. Chính vì cương nhu hợp nhất, công lực mạnh vô biên, nên cha con ta chỉ dạy người mấy buổi mà người thắng đệ thập bát thái-bảo trường Trung-nghĩa, sau cùng người thắng đệ nhất Thái-bảo Ðoàn Quang-Minh. Nhưng đó mới chỉ là cương nhu phối triển thôi, chứ chua luyện độc tố. Mãi mấy hôm rồi mi mới được luyện Chu-sa huyền-âm chưởng. Mi đã được luyện chưởng này mà không biết.

– Thưa sư phụ, sư phụ dạy đệ tử từ bao giờ? Ðệ tử không thấy sư phụ nói qua, nên không biết.

– Hôm trước sư mẫu đã cho mi nhúng tay hấp mấy nồi thuốc. Thuốc đó là độc tố Chu-sa hồng thiết. Hôm nay, ta đổ vào người bằng chưởng pháp độc tố Huyền-âm. Kể từ nay, trong cơ thể người, vừa có nội lực âm dương hợp nhất vừa có độc tố Chu-sa huyền-âm. Người trở thành một võ lâm cao thủ. Khi người đấu với ai, chỉ cần đụng tay vào người chúng, là lát sau chúng đau đớn đến kêu cha gọi mẹ lên. Bấy giờ người bảo nó làm trâu, làm chó gì nó cũng phải chịu. Người bảo nó ăn cứt, ăn đái gì nó cũng phải ăn.

Minh-Ðệ kinh hãi nói:

– Thưa sư phụ, đệ tử không muốn đánh người ta đau đớn như vậy. Ðệ tử học võ chỉ với mục đích phòng thân mà thôi.

– Nhưng mi đã học rồi.

Bây giờ Minh-Ðệ mới nhớ lời Thường-Kiệt dặn rằng sau này vợ chồng quý nhân với sư phụ có dạy võ công gì, thì phải hỏi ông trước khi luyện, bằng không sẽ bị tẩu hỏa nhập ma mà chết. Thì ra trong lúc đấu với nàng, sư huynh đã biết trong người nàng có chất độc, nhưng người không nói ra, với chủ ý để tìm hiểu sự thực đấy thôi. Nàng lại nhớ tới chuyện đấu với Ðoàn Quang-Minh. Rõ ràng từ công lực đến chiêu số Ðoàn đều bỏ xa nàng, thế mà chỉ đấu mốt lúc, người Ðoàn cảm thấy mệt mỏi, rồi bị thua, chắc là Ðoàn bị trúng độc. Nàng hỏi sư phụ:

– Từ hôm sư phụ cho đệ tử hấp độc tố. Ðệ tử đã đấu với mấy người, nhưng sao họ chẳng hề gì cả? Hay là công lực của đệ tử chưa đủ?

Tự-An lạnh lùng:

– Mi vẫn chưa hiểu rõ. Chu-sa huyền âm chưởng gồm có Chu-sa chưởng và Huyền âm chưởng. Hôm trước ta mới cho mi hấp Chu-sa độc tố, nên mi đấu với tên Ðoàn, từ công lực đến chiêu số y đều hơn mi. Nhưng chỉ ít chiêu sau, độc tố Chu-sa ngấm vào người y, nên chân tay y bải hoải như người ốm mới dậy, rồi y bị thua mi. Còn mới đây mi đấu với tên yêm hoạn Lý Thường-Kiệt, vì công lực y quá cao so với mi, nên y không việc gì. Nếu như mi biết phát lực, thì chỉ cần tay mi chạm vào tay hai tên Ðoàn, Lý thì chỉ lát sau hai tên ấy sẽ khốn khổ chứ có đâu lại yên lành được?

Ông cười nhạt:

– Còn Huyền-âm chưởng thì luyện khó hơn. Ðầu tiên phải luyện thành nội công âm-nhu của Vạn-tín hầu Lý Thân, rồi sau đó có hai lối hấp thụ Ngũ-độc. Một là bắt đủ năm thứ độc, mỗi thứ một trăm con, cho nó cắn mình, rồi vận công hút độc. Dĩ nhiên khi độc tố vào người thì đau đớn vô hạn. Phương pháp thứ nhì là được sư phụ, hay người trưởng bối đã luyện Huyền-âm Ngũ-độc chưởng lâu ngày trực tiếp truyền độc tố cho. Ta đã truyền cho mi ban nãy rồi đó.

Ðáng lẽ nghe sư phụ truyền thần công cho, thì Minh-Ðệ phải xụp lạy ta ơn. Nhưng trong lòng nàng chán ngán:

– Nếu như lỡ ra sau này, đệ tử đánh ai, mà người đó đau đớn, thì phải làm thế nào cho người ta khỏi đau?

– Tại sao phải cứu nó? Khi biết nó là kẻ thù, thì ta phải thẳng tay. Ðã thẳng tay, thì mặc cho nó đau đớn, rồi chết đi. Tuy nhiên những kẻ trúng phải Chu-sa huyền-âm chưởng thì công lực bị hóa giải đi mất, sau đó đau đớn cùng cực, cứ mỗi ngày lên cơn một lần, đủ 49 ngày thì chết. Nếu nó muốn có thuốc giải, thì phải quy phục mi, thành chân tay mi để mi sai khiến. Nhưng thuốc đó chỉ hiệu nghiệm có một năm. Sau một năm, mà y không trung thành, khi y lên cơn đau, mi cắt thuốc giải, thì y chỉ có chết.

Tự-An cười nhạt:

– Ban nãy mi được ta truyền Ngũ-độc cho, chứ không phải đánh mi. Bây giờ đại công của mi đã cáo thành, trong người mi có đủ Chu-sa huyền âm độc tố, lại biết vận công nữa. Khi đấu với ai, mi vận công ra tay là xong. Ngày mai, cũng giờ này, mi sẽ lên cơn đau như vậy. Mi phải vận công chống độc. Trong 49 ngày thì hoàn tất. Từ đấy, mỗi tháng vào ngày mồng một, mười rằm, mi lại lên cơn đau, sau 49 lần tức 24 tháng rưỡi, mi phải vận công chống trả. Hết thời hạn ấy, thì đại công cáo thành, công lực mi mạnh bất khả đương. Bấy giờ ta sẽ cho mi uống ba viên thuốc, rồi sau mỗi năm mi lại phải tìm ta mà xin thuốc. Mi có hiểu không?

Minh-Ðệ quá kinh hoàng, nàng quỳ gối:

– Sư phụ, đệ tử lúc nào cũng trung thành với sư phụ. Xin sư phụ ban thuốc giải cho đệ tử.

– Trung thành, đều đó chưa chắc. Bây giờ ta thử lại lòng trung thành của mi. Ngày mai, mi tìm tên Thường-Kiệt, rồi mi hỏi dò nó về Cổ-loa tâm pháp, mà nó được thái sư phụ truyền cho. Sau đó mi năn nỉ xin nó dạy, rồi mi ra đây thuật lại với ta. Nếu ngày mai mi không làm được điều đó, thì đêm mai mi sẽ đau đớn. Nếu sau 49 ngày mà mi chưa dò được, thì thay vì mi thành võ lâm cao thủ, mi sẽ chết. Mi có hiểu không?

Minh-Ðệ bàng hoàng cả người. Tự-An lại luyện cho nàng phép vận công âm dương hỗn hợp. Ðến gần sáng ông mới đưa nàng vào bờ, để về Thính-hương khách xá.

Nằm trên dường, Minh-Ðệ kinh hãi tự nghĩ:

– Sư phụ mình rõ ràng là một lão đại hiệp danh vang thiên hạ, mà sao lại dạy mình luyện thứ võ công tà môn này? Hay là lão nhân gia đã đổi thái độ? Nhưng việc trước mắt, mình phải dò la thần công Cổ-loa tâm pháp cho lão nhân gia, bằng không, đêm mai mình sẽ đau đớn đến chết đi sống lại. Hà, làm sao bây giờ? Mình phải xuống vùng Thái-hà thăm trang ấp của sư huynh Thường-Kiệt, rồi lần mò hỏi xem. Nhưng sư huynh Thường-Kiệt đối với mình thực tử tế, mình không thể đâm sau lưng người được. Thôi thì mình đành chết, chứ không thể phụ lòng sư huynh.

Một tia sáng lóe lên trong đầu nàng:

– Thân phụ của sư huynh Thường-Kiệt trước đây là Ngô An-Ngữ, đệ tử của sư phụ, tức sư huynh của ta. Người bị Nhật-Hồ lão nhân sát hại trong trận Trường-yên. Mối thù này lớn lắm, mà nay sao sư phụ lại tôn vinh lão? Thực là lạ. Nhưng ít ra ta cũng hỏi xem Cổ-loa tâm pháp là loại tâm pháp nào, mà sư phụ muốn có? Ðịa vị, cùng võ công sư phụ cao hơn sư huynh nhiều, mà sao người lại phải dò để biết làm gì?

Sáng hôm sau, Minh-Ðệ vừa thức giấc, thì có chiếc xe ngựa đậu trước nhà. Người đánh xe là một thiếu nữ ngang tuổi với nàng. Người thiếu nữ xuống xe nói với Minh-Ðệ:

– Ngài Thái bảo sai tôi tới mời cô nương đến trang ấp của người chơi ít ngày. Vậy xin cô nương sửa soạn, rồi lên đường cho.

Minh-Ðệ vào nhà xếp mấy bộ quần áo, rồi lên xe đi. Xe qua điện Càn-nguyên, Cao-minh, Tập-hiền, Giảng-võ rồi xuất ra cửa Quảng-phúc. Ngồi trên xe, ngắm kinh thành nhôn nhịp xe, ngựa, trai thanh gái lịch, mà lòng Minh-Ðệ vẫn lo âu rằng: nếu như nàng không lấy được Cổ-loa tâm pháp, liệu sư phụ có cho nàng thuốc giải không?

Khoảng hơn giờ sau, thì tới một trang ấp, ngoài có chữ đề Thái-hà trang. Xe vượt qua cổng có hoàng nam gác. Trong trang, nhà cửa bằng gạch, lợp ngói san sát, đường lát đá xanh. Nàng nhủ thầm:

– Trang này giầu, đẹp gấp mấy lần trang Thổ-lội phong cho Siêu-loại hầu nhiều.

Xe đi một lát, tới dinh thự nguy nga. Trước dinh, một cái hồ lớn, nước trong veo. Trên mặt hồ, mấy chục con thiên nga đang bơi lội. Quanh hồ, có rất nhiều kỳ hoa dị thảo. Xe tới cổng dinh thự, thì người canh cổng đánh một tiếng chiêng, rồi mở cổng cho xe vào. Trong sân dinh, có nhiều nam nữ thiếu niên đang luyện võ với nhau.

Thường-Kiệt đã ra trước sân đón nàng. Vì Thường-Kiệt đã tĩnh thân, nên ông không tỵ hiềm nam nữ. Ông nắm tay, đỡ nàng xuống xe, rồi song song vào nhà khách. Ông bảo một thiếu nữ, trang phục theo lối môn sinh:

– Phương-Lý, con dẫn cô vào phòng nghỉ, rồi đem cháo ra đây để cô cùng điểm tâm.

Thường-Kiệt không tiếp Minh-Ðệ tại gia với phong cách là sư-muội, mà với thân tình anh em. Phương-Lý dẫn Minh-Ðệ vào một căn phòng rất xinh đẹp, trong có giường sơn son thiếp vàng, có án thư làm việc, có cả đỉnh hương để đốt trầm đọc sách. Phòng có cửa sổ trông ra vườn hoa, ao sen. Nàng nghĩ thầm:

– Từ cha sinh mẹ đẻ, đây là lần đầu tiên mình được ở trong một căn phòng trang nhã thế này. Trước đây mình thấy phòng ngủ của các tiểu thư con Kinh-lược-sứ, đã tưởng là sang trọng, nhưng coi bộ không bằng một phần trăm căn phòng này.

Lý dẫn nàng ra phòng khác, múc nước ấm có hương sen cho nàng rửa mặt, rồi đưa nàng trở lại phòng khách. Trong phòng có chín thiếu niên, tám thiếu nữ cũng đã ngồi vào chỗ. Họ thấy Minh-Ðệ, vội đứng dậy cung tay hành lễ:

– Tham kiến sư thúc.

Minh-Ðệ vội đáp lễ rồi ngồi xuống trước mặt Thường-Kiệt. Thường-Kiệt chỉ chín thiếu niên, tám thiếu nữ với Phương-Lý:

– Theo kế hoạch quốc phòng của Thái-sư Khai-Quốc vương, thì tất cả các võ quan, dù tại chức, dù về hưu, đều mở trường dạy học. Sư huynh không vợ, không con, nên thu nhận chín nam đệ tử, chín nữ đệ tử, gọi là nội đồ. Còn lại, ai gửi con đến cũng dạy, gọi là ngoại đồ. Ngoại đồ của sư huynh đã nghỉ học có hơn nghìn, đang học có ba trăm sáu chục.

Ðám đệ tử bưng cháo lên, Phương-Lý cung tay nói:

– Thưa sư phụ, thưa sư thúc, thưa sư huynh, sư tỷ, sư đệ, sư muội. Hôm nay tới lượt Lý làm món điểm tâm cháo hải sản bát trân. Xin mời chư vị thưởng thức rồi ... chê cho.

Tất cả đám đệ tử đều cười ồ lên. Một nam đệ tử hỏi:

– Chị Lý, hải sản bát trân là những gì vậy.

– À, một là hào, hai là cua, ba là mực, bốn là tôm, năm là sò, sáu là don, bẩy là nghêu, tám là cá thu. Vì tất cả đều có nhiều âm tính, nên gia vị phải thêm thì là, rau răm với hồ tiêu.

Minh-Ðệ cầm muỗm múc cháo ăn. Mùi thơm tám thứ hải sản, hợp với gia vị tỏa ra môi, lưỡi, cổ, nàng cảm thấy khoan khoái cực kỳ. Nàng vừa ăn vừa hỏi:

– Ban nãy sư huynh nói các quan tại chức, hồi hưu đều mở trường dạy học. Trong khi các gia, các phái cũng thu nhận đệ tử, rồi triều đình cũng cho mở trường dạy tại các xã, các huyện. Kinh đô có Quốc-tử-giám. Như vậy trong nước có tới ba học chế khác nhau sao?

– Sư muội hỏi vậy thực phải. Tuy có ba loại trường mở, nhưng chỉ có một học trình thôi. Học trình đó, do bộ Lễ soạn thảo, được triều đình duyệt, rồi ban hành. Tất cả các trường đều phải dạy những phần trong học trình. Còn ngoài ra, muốn dạy thêm gì thì tùy ý. Như từ sáu tuổi tới mười tuổi thì học chữ, học võ cho cơ thể khoẻ mạnh. Sau mười tuổi thì thi vào trường huyện, hoặc trường của các quan, trường dạy nghề. Như Minh-Ðệ, thì cha mẹ chỉ cho học trường làng, sau đó thì bắt ở nhà làm việc. Nếu như Minh-Ðệ được cha mẹ cho học nữa, thì ra huyện học tiếp về trường văn, trường canh nông, trường thủ công như dệt, may. Con trai thì học thợ rèn, thợ nề, thợ mộc v.v. Thảng hoặc được vào trường các quan thì học toàn văn, toàn võ, hoặc cả văn lẫn võ.

– Muội hiểu rồi, như tại quê muội thì trường Trung-nghĩa tuy có dạy văn, nhưng ít thôi, ông chuyên dạy đệ tử về võ.

– Ðúng đấy. Trường của huynh tuy không lớn như trường của Long-thành ẩn-sĩ, nhưng cũng khá. Huynh cùng em ruột là Thường-Hiến dạy về võ, còn người em sữa là Dư Phi lo giảng về văn và nhạc.

Minh-Ðệ giật mình:

– Có phải Dư... gàn sĩ trước đây đi sứ Trung-quốc chọc giận bọn biên quan ở Quảng-Tây, trong thời Nhân-Huệ hoàng đế khởi binh không?

– Ðúng đấy. Hắn ta sắp tới bây giờ đấy.

Ăn xong, Thường-Kiệt dẫn Minh-Ðệ tới một phòng luyện võ nhỏ, ông nói:

– Ðây, chỗ này dành cho sư muội luyện võ. Ðêm nay sư muội có thể yên tĩnh mà luyện công. Còn phòng bên cạnh là chỗ sư huynh luyện.

Thường-Kiệt dẫn Minh-Ðệ sang thư phòng, rồi chỉ ghế cho Minh-Ðệ ngồi:

– Thư phòng của huynh có đủ mọi loại sách Hoa-Việt, tha hồ cho muội muội đọc.

Minh-Ðệ liếc qua đám sách võ, có tới mấy chục cuốn phổ. Trong đó có cuốn ghi rõ Tộc Việt anh linh tâm pháp cạnh còn ghi chữ nhỏ Cổ-loa tâm pháp. Nàng nghĩ thầm:

– Vật mà sư phụ bắt mình lấy trộm đã có đây rồi. Vậy mình có nên lấy hay không?

Từ hôm Thường-Kiệt bảo nàng với ông cùng được Quan-Âm thu làm đệ tử, nhưng nàng không biết Quan-Âm là ai. Hôm nay nàng mới đánh bạo hỏi:

– Sư huynh, em nghe nói sư huynh học võ với nhiều sư phụ lắm phải không? Nhưng ai là sư phụ chính của sư huynh?

Thường-Kiệt không nghi ngờ trả lời:

– Sư phụ đầu tiên của sư huynh là mẫu thân. Người là đệ tử của tổ sư Tịnh-Tuệ, một trong Ðại-Việt ngũ-long, chưởng môn phái Mê-linh. Sau lớn lên sư huynh được phụ thân dạy võ công Ðông-a. Sư thúc Tự-Mai, Thanh-Mai, cùng tổ sư Tự-An cũng dạy võ công Ðông-a cho sư huynh. Nhưng sư phụ chính của sư huynh là tiên-cô Bảo-Hòa. Còn Quan-Âm cũng dạy nội công âm nhu cho sư huynh.

– Muội đọc bộ Nhân-Huệ hoàng đế kỷ sự chép rằng trong trận đánh với Tống, sư huynh đã xử dụng một loại thần công, khi đánh trúng đối thủ, thì các mạch máu vỡ tan ra rồi chết. Vua bà Bắc-biên trông thấy mà cũng kinh hoàng, thần công đó gọi là Cổ-loa tâm pháp. Thế ai dạy sư huynh thần công đó?

Thường-Kiệt cười:

– Tâm pháp đó là tâm não suốt đời của thái sư phụ Tự-An nhà huynh. Người Hoa du trong hơn mười năm, nghiên cứu hết nội, ngoại công các phái võ Trung-quốc, rồi chế ra tâm pháp đó, người đặt tên là Tộc Việt anh linh tâm pháp. Nhưng người truyền cho huynh ở Cổ-loa, nên huynh đặt tên là Cổ-loa tâm pháp. (1)

Ghi chú,

(1) Xem Anh-linh thần võ tộc Việt, cùng tác giả, do Xuân-thu Hoa-Kỳ ấn hành.

– Như vậy tâm pháp này chỉ người với sư huynh biết thôi à?

– Không, người còn truyền cho hầu hết đệ tử của người. À, ta mời muội đến làm khách ở đây một thời gian, còn hơn bị giam lỏng ở Thính-hương khách xá bên hồ.

Yến-Loan nghĩ thầm:

– Thì ra thay vì giam mình ở bờ hồ, sư huynh tế nhị mời mình về đây ở. Kể ra ở tù kiểu này kể cũng sướng cái đời. Nhưng còn đám trẻ bẩy đứa thì sao? Ai chu cấp tiền nong, nuôi nấng bọn chúng?

Thấy Yến-Loan có vẻ bồn chồn trong dạ, Thường-Kiệt hỏi:

– Có phải muội lo lắng rằng muội ở đây thì ai lo cho bẩy đứa trẻ phải không?

Yến-Loan giật mình:

– Dạ đúng thế.

– Ðược, sư huynh sẽ nhờ một nữ quan của Khu-mật viện, hàng tháng trích trong số vàng bạc của muội phát cho chúng. Muội đừng lo.

Thường-Kiệt chỉ vào một tủ đầy chững chai lọ nói:

– Ðây là tủ đựng thuốc. Nếu sư muội thấy khó chịu thì nói cho huynh biết, huynh sẽ đưa thuốc cho mà uống.

Nói rồi ông chỉ từng lọ một mà giảng. Ðến một hộp bằng gỗ sơn son thiếp vàng, Thường-Kiệt nói:

– Thuốc này Hoàng Giang cư-sĩ chưởng môn phái Sài-sơn mới chế ra, định đem vào cho Khu-mật viện dùng, nhưng nay thì chưa cần đến.

– Thuốc gì vậy?

– Thuốc để trị Chu-sa huyền âm độc chưởng.

Minh-Ðệ muốn ngộp thở:

– Có phải dùng để trị tuyệt loại chưởng quái ác này không? Em chỉ nghe nói sơ lược về chưởng này mà thôi.

Thường-Kiệt giảng chi tiết về nguốn gốc Chu-sa huyền-âm chưởng. Minh-Ðệ thấy những điều ông giảng giống hệt sư phụ Tự-An đã giảng. Ông kết luận:

– Hiện chưởng này khá thịnh hành bên Tống. Ðại-Việt ta cũng có nhiều người luyện. Ai trúng chưởng của họ, thì đau đớn đến chết đi sống lại. Bấy giờ họ bắt phải làm gì cũng làm. Rồi cả đời phải trung thành với họ, mỗi năm phải tìm họ xin ba viên thuốc, uống vào dịp tiết Ðông-chí, bằng không sẽ lên cơn trong 49 ngày rồi chết. Vì chúng dùng độc chưởng khống chế những nhân vật quan trọng để làm gian tế cho chúng, nên Khu-mật viện dùng tế tác dò tìm ra phép chế thuốc giải, rồi chế thuốc, để phát cho những gian tế của chúng, để biến họ thành người của mình.

– Ðại-Việt có nhiều người biết chế thuốc này không?

– Chỉ có hai người. Một là thái-sư Dương Bình thầy dạy của Hoàng-thượng. Hai là Hoàng Giang cư-sĩ.

Minh-Ðệ mừng thầm:

– Như vậy ta không cần tìm sư phụ xin thuốc giải nữa, sẵn thuốc của sư huynh đây, ta lấy mà uống.

Nhưng khi Thường-Kiệt bỏ ra ngoài, ông lại cầm bình thuốc đó theo. Minh-Ðệ thất vọng, nàng ngồi một mình đọc sách. Qua cuộc đối thoại với Thường-Kiệt, Minh-Ðệ cảm thấy kinh hoàng hơn:

– Rõ ràng tâm pháp Cổ-loa do sư phụ sáng chế ra, rồi dạy cho sư huynh cùng chư đệ tử, nay sao sư phụ lại bảo mình ăn cắp cho người? Nếu người quên thì có thể bảo bất cứ đệ tử nào, hoặc sư huynh Thường-Kiệt trao cho, sao người lại phải bắt ta lấy cho người? Bây giờ ta ở đây, đêm nay không có tâm pháp cho sư phụ, thì ta lại bị lên cơn đau kinh khiếp như hôm qua nữa thì chịu sao nổi? Thôi cũng đành liều.

Nàng nghĩ tới cơn đau sẽ hành hạ đêm nay, rồi nhìn hộp thuốc:

– Theo sư phụ, ta phải vận công chống độc trong 49 ngày, rồi uống ba viên thuốc. Như vậy một năm sau ta phải ăn cắp Cổ-loa tâm pháp trao cho sư phụ, bấy giờ sư phụ mới cho thuốc giải. Nếu ta không chịu phản sư huynh Thường-Kiệt, thì sư phụ không cho ta thuốc. Nhưng không sao, bấy giờ ta sẽ thú thực với sư huynh rồi xin thuốc sư huynh cũng được.

Suốt ngày hôm đó Minh-Ðệ ngồi đọc sách. Những sách cận đại, nàng thuộc gần hết từ ngày ở căn nhà trong Khu-mật-viện. Bây giờ nàng đọc sang những sách Trung-quốc, nhất là những sách liên quan tới Nho-giáo. Nàng nghĩ:

– Hiện tộc Việt mình có chủ đạo riêng. Nhưng triều Lý lại dùng đạo đức của Phật-giáo cai trị nước. Ðúng như triết lý nhà Phật thì không đủ uy trị dân, thiếu dũng để bảo quốc. Cho nên ngài Vạn-Hạnh, Minh-Không, Huệ-Sinh đã biến đổi hành động của Phật-tử hướng về dân tộc. Vì vậy Phật-giáo hiện giờ không còn là Phật-giáo đến từ Trung-quốc, Tây-trúc, mà thành Phật-giáo Ðại-Việt rồi. Chả vậy mà trong việc phá các chư vương khởi loạn, Quốc-sư Huệ-Sinh đã đổi hẳn hành động, nên mới có việc chém các trưởng lão bang Nhật-Hồ, rồi Ưng-sơn giết Ðinh phi, tiên cô Bảo-Hòa giết Hồng-Phúc, rồi Thông-Mai giết mấy người họ Dương ở Bắc ngạn. Ta nghĩ, phải dùng một phần triết lý của Nho, hợp với Phật, hợp với chủ đạo sẵn có, thành một chủ đạo mới của tộc Việt. Có như vậy mới mong giữ được nước. (2)

Ghi chú,

(2) ÐVSKTT, Lý kỷ, Thánh-tông kỷ, chép: Niên hiệu Thần-vũ năm thứ hai(1070) Canh Tuất, mùa Thu tháng tám, vua cho dựng Văn-Miếu, đắp tượng Khổng-tử, Chu-Công, Tứ-phối (Nhan-Uyên, Tăng-Sâm, Tử-Tư, Mạnh-Tử), vẽ tượng Thất-thập nhị hiền (72 cao đồ của Khổng-Tử). Người sau ai cũng kinh ngạc, vì từ vua Thái-tổ, Thái-tông cho đến Thánh-tông đều phong cao tăng Phật-giáo làm Quốc-sư. Chính vua Thánh-Tông cũng là một Phật-tử thuần thành. Nho-giáo thường bài xích Phật-giáo thế mà bỗng chốc nhà vua trọng Nho. Không ai hiểu tại sao cả. Duy độc giả Nam-Quốc sơn hà biết rõ chính là Yến-Loan. Vì sau này Yến-Loan thành Ỷ-Lan thần phi, đã khuyên vua trọng Nho, để hợp Nho với Thích thành một chủ đạo dân tộc, một vũ khí giữ nước, một triết lý văn hóa hiếm hoi trên thế giới.

Nàng ngồi đem những sách của Nho thần đời Hán, đời Ðường, cùng các danh Nho Tống mới đây ra đọc. Nàng đọc những sách về Giả-Nghị (3). Ðổng Trọng-Thư, Lưu Hướng, Vương Sung.

Nàng ngồi đem những sách của Nho thần đời Hán, đời Ðường, cùng các danh Nho Tống mới đây ra đọc. Nàng đọc những sách về Giả-Nghị (3). Ðổng Trọng-Thư, Lưu Hướng, Vương Sung.

Ghi chú,

(3) Giả-Nghị, người đất Lạc-dương đời Hán. Sinh năm 200 trước Tây-lịch, mất năm 168 trước Tây-lịch. Ông là tư tưởng gia, làm chức Bác-sĩ, cố vấn cho vua Hán Văn-Ðế. Bộ mà Yến-Loan đọc là bộ sách chú thích, giảng giải về hai tác phẩm của Giả-Nghị "Tần chính sự" và "Quá Tần luận".

Ghi chú,

(3) Giả-Nghị, người đất Lạc-dương đời Hán. Sinh năm 200 trước Tây-lịch, mất năm 168 trước Tây-lịch. Ông là tư tưởng gia, làm chức Bác-sĩ, cố vấn cho vua Hán Văn-Ðế. Bộ mà Yến-Loan đọc là bộ sách chú thích, giảng giải về hai tác phẩm của Giả-Nghị "Tần chính sự" và "Quá Tần luận".

Ðổng trọng-Thư, (190-105 trước Tây-lịch), đại tư tưởng gia đời Hán; làm chức Bác-sĩ đời vua Cảnh-Ðế nhà Hán. Bộ Yến-Loan đọc là bộ "Xuân-Thu phồn lộ" và "Văn tập".

Lưu-Hướng (77-6 trước Tây-lịch), tôn thất nhà Hán. Ông là đại tư tưởng gia, đại văn hào, ông cùng với nhóm thuộc hạ đã trứ tác, biên khảo đến hơn haimươi tác phẩm.

Vương-Sung (27-107 sau Tây-lịch), đại tư tưởng gia đời Hán. Tác phẩm có bộ Luận-hành 85 thiên, Luận-tính 16 thiên.

Hôm sau, Thường-Kiệt hỏi về những võ công mà Minh-Ðệ đã học được, nàng cứ sự thực khai hết. Sau khi khai, nàng xin Thường-Kiệt dạy nàng về khoa điểm huyệt. Thường-Kiệt chấp nhận liền. Minh-Ðệ vốn đã có căn bản về kinh lạc, huyệt vị. Nên Thường-Kiệt chỉ dạy có ba tối, nàng đã thông thạo.

Vào một buổi chiều, khi trời vừa tối, thì có thái giám ra tuyên triệu Thường-Kiệt triều có chuyện khẩn. Thường-Kiệt dặn nàng:

– Muội muội cứ ở nhà, trong chín nữ đệ tử của huynh, có tên là Phương-Lý, Phương-Cúc, Phương-Huệ, Phương-Liễu, Phương-Ðơn, Phương-Tiên, Phương-Dược, Phương-Quế, Phương-Quỳnh; chín nam đệ tử có tên là Anh, Hùng, Hào, Kiệt, Nhân, Nghiã, Lễ, Trí, Tín, muội muội muốn sai bảo gì, cứ gọi chúng. Chiều nay muội muội ăn cơm với 18 đệ tử của huynh.

Nói rồi ông lấy ngựa lên đường.

Khi mặt trời ngả bóng về Tây, thì một hồi trống đánh lên, ngoại đồ lục tục ra về. Cổng dinh đóng lại. Trong dinh chỉ còn mười tám nội đồ. Minh-Ðệ nhận thấy Thường-Kiệt không dùng nhiều tôi tớ như những đại thần khác, nhất là không dùng lính gác. Trong dinh chỉ có năm người làm vườn, năm mã phu, cùng với đám nhà bếp hơn mười người nữa. Quản dinh là Dư bà, người nuôi sữa Thường-Kiệt hồi nhỏ, nay Thường-Kiệt đem về phụng dưỡng tuổi già.

Cơm chiều xong, Minh-Ðệ dạo chơi quanh cái hồ trước dinh, cùng vườn hoa. Nàng muốn tìm một chỗ nào yên tĩnh, để ngồi chịu cơn đau đớn, mà không ai biết. Dạo hết một vòng dinh, nàng đã tìm ra chỗ dàn hoa lý với mấy bụi móng rồng là khuất khúc nhất. Chỗ này có cái ghế dài. Nàng định khi cơn đau tái phát, nàng sẽ núp vào đây mà chịu trận. Nàng tự hứa:

– Ðúng ra ta phải hiếu với sư phụ. Sư phụ bảo ta trộm tâm pháp cho người, mà ta trộm thì thành ra ta lâm vào tình trạng bất hiếu như ngài Tăng-tử xưa kia sao? Nhất định ta chịu chết chứ không thể trộm tâm pháp, mà thành bất hiếu với sư phụ, bất nghĩa với sư huynh.

Bỗng nàng nghĩ tới Quan-Âm:

– Hay ta tụng Quân-Âm cứu khổ, cứu nạn cho ta vậy. Ai cũng bảo Quan-Âm là người sống, chứ không phải Phật bà. Sư huynh đối với ta tử tế thế này là biết ta cùng học ở Quan-Âm với người. Nhưng Quan-âm là ai? Không lẽ Quan-Âm là tiên cô Bảo-Hòa? Mình nghe nói Tiên-cô mặc áo xanh, quần trắng, hoặc áo nhung đỏ quần trắng chứ đâu người có mặc áo trắng? Vả Tiên-cô là chưởng môn phái Tản-viên, sao người lại dạy tâm pháp Mê-linh cho ta? Thực khó hiểu?

Bất giác nàng cất cao giọng tụng kinh Quan-Thế-Âm.

Tụng xong, nàng ngồi xuống cái ghế cạnh bụi hoa dạ hương, rồi ngẩn người suy nghĩ về Quan-Âm, về vợ chồng quý nhân, về Tự-An. Một lát nàng ngửng mặt lên, thì thấy một người đàn ông mặc quần áo Nho sinh, đứng tần ngần cách nàng mấy trượng, đang nhìn nàng. Minh-Ðệ ước lượng người ấy tuổi khoảng trên dưới ba mươi. Tưởng y là người trong dinh, nàng hỏi:

– Tiên sinh là ai? Ðối với quan Thái-bảo là chỗ thế nào?

Người đó không trả lời, mỉm cười:

– Cô nương là ai, đối với Thường-Kiệt là chỗ thế nào?

Minh-Ðệ thấy người đó già cũng chưa phải già, trẻ cũng không phải trẻ. Nhưng dáng điệu bệ vệ, ôn nhu văn nhã, hơn nữa dám gọi tên của sư huynh nàng ra, thì hẳn có địa vị lớn lắm. Nghĩ vậy nàng vuốt tóc lễ phép:

– Tôi là tội nhân bị Khu-mật viện bắt để điều tra, rồi Thái-bảo đem tôi về đây chơi.

– Cô nương nói lạ.

Người đó lắc đầu cười rất tươi: Cô nương là tội nhân, thì bị giam trong tù. Còn như cô nương là nhân chứng thì được ở Thính-hương vãng lai xá bên hồ, chứ có đâu được đưa về đây để thưởng hoa? Cô nương nói dối rồi. Cô nương theo đạo Phật mà nói dối, thì sau chết xuống Âm-phủ sẽ bị quỷ sứ cắt lưỡi cho mà coi.

Minh-Ðệ biện luận:

– Tôi không nói dối tiên sinh đâu. Không tin tiên sinh hỏi Thái-bảo thì biết. Sở dĩ tôi được Thái-bảo mời đến đây chơi ít ngày là vì Thái-bảo biết tôi với Thái-bảo học cùng một sư phụ.

– À thì ra thế. Cô là sư muội của y hẳn? Thế sư phụ của cô là ai nào?

Minh-Ðệ thấy Nho-sinh đổi ngôn từ, đang gọi nàng là cô nương, bây giờ gọi là cô rất thân mật, nàng cũng nói bằng giọng ôn nhu ngọt ngào:

– Sư phụ của tôi là Quan-Thế-Âm bồ tát.

– Tôi không tin.

– Tiên sinh không tin thì tôi xin chịu, chứ biết làm sao bây giờ.

– Ðược rồi, tôi tin. Bây giờ tôi hỏi thực, cô đẹp như thế này, thì hẳn phải là tiểu thư con quan đại thần nào đó. Tại sao cô lại phạm tội? Tội gì?

– Tôi là con nhà dân dã, bố mẹ tôi cũng có ít của. Nhưng mẹ tôi cùng em tôi đánh tôi đến chết đi rồi vứt xác xuống chuồng hôi, may tôi sống lại. Tôi tìm sư cụ cứu chữa cho. Sư cụ cho tôi tá túc ở chùa. Rồi người ta vu cho tôi gian dâm với sư.

– Cô lại nói hoang đường rồi. Tại sao mẹ cô với em cô lại đánh cô đến chết? Luật nước rất nghiêm, có đâu mẹ được đánh chết con? Em đánh chết chị? Hai người đàn bà đanh ác đó phạm điều 305 bộ Quốc-triều hình thư. Tôi phải bảo quan Hình-bộ thượng thư xử giảo họ mới được.

Minh-Ðệ dơ tay đánh gió nho-sinh:

– Tiên sinh nói ngông vừa thôi, nói lớn lối như hoàng đế vậy mà không sợ bị chặt đầu ư? Tiên sinh là « kí gì » mà đòi ra lệnh cho quan Hình-bộ thượng thư?

Nho-sinh cung tay:

– Thì cô biết đấy, kẻ sĩ thường hay nói ngông mà. Xin lỗi cô nghe. Thế chuyện của cô ra sao?

Minh-Ðệ thuật sơ qua vụ nàng bị đánh như thế nào. Người ấy cười:

– Thôi được. Chuyện này tôi tin cô. Nhưng cô ơi, tôi nhìn qua cũng biết cô còn con gái, một loại Phật tử thuần thành, đến nghĩ bậy cũng không có, thì sao người ta lại vu cho cô ăn nằm với sư. Bọn quan lại ăn nợ như thế mà trị dân thì sao cho dân hạnh phúc đây? Phải cách chức hết bọn đó đi. Ừ, mà dù cô có ăn nằm với sư, thì cũng chỉ bị đưa ra đình làng đánh roi, rồi thả thuyền trôi sông. Chứ có đâu bị đưa về Khu-mật viện?

Nghe Nho-sinh lớn lối chửi quan lại, Minh-Ðệ phì cười, nghĩ thầm:

– Mấy ông Nho-sinh ưa nói thánh, nói tướng đã quen, mình chẳng nên bắt lỗi.

Minh-Ðệ thuật qua vụ quý nhân tặng vàng, đưa đến nàng cùng chư tăng mang tội làm gian tế cho Tống. Nho-sinh hiểu ra:

– À thì ra thế. Bây giờ tôi cho cô biết tôi là ai. Tôi là sứ giả của Quan-Âm. Ban nãy cô niệm kinh, cầu ngài cứu khổ cứu nạn. Ngài sai tôi đến xem cô xin gì thì giúp cô. Hôm nay tôi chỉ giúp cô một việc thôi.

Minh-Ðệ kinh hãi, chửi thầm:

– Mình ngu quá, người này nói lớn lối như vậy, thì nhất định là sứ giả của Quan-Âm rồi. Nguy thực.

Minh-Ðệ vội gối lạy liền ba lạy:

– Thì ra ngài là Thiện-Tài đồng tử đấy. Ðệ tử có một bệnh không ai chữa cho được. Bệnh này cứ mỗi nửa đêm lại bị lên cơn đau đớn đến chết đi sống lại. Xin ngài ban ơn cứu đệ tử.

Thiện-Tài mỉm cười:

– Tưởng gì chứ việc đó đâu khó. Cô cứ ngồi đây chờ, lát nữa ta sẽ trao thuốc cho cô. Cô uống rồi ngủ li bì, thì làm sao mà đau đớn được?

Minh-Ðệ thụp xuống tạ ơn. Khi nàng ngửng đầu lên thì không thấy Thiện-Tài đâu nữa. Nàng đành ngồi chờ. Khoảng hơn hai khắc, thì Thiện-Tài lại xuất hiện, rồi trao cho nàng chín viên thuốc:

– Cô bỏ vào miệng mà nuốt đi.

Minh-Ðệ thấy viên thuốc giống hệt thuốc chữa Chu-sa Huyền-âm chưởng của Lý Thường-Kiệt thì không nghĩ ngợi, nàng cầm thuốc nuốt liền. Khi nàng ngửng đầu lên, thì Thiện-Tài đã biến mất. Nàng bắt đầu cảm thấy buồn ngủ, vội hướng phòng mình chạy về, đóng cửa rồi leo lên dường nhập vào giấc ngủ.

Tiếng chim kêu, tiếng chiêng làm Minh-Ðệ tỉnh giấc. Mặt trời đã hiện lên ở phương Ðông. Minh-Ðệ vội ngồi dậy, súc miệng, rồi ra sân xem đám môn sinh luyện võ. Bất cứ đám môn sinh nào thấy nàng, cũng cúi đầu hành lễ. Tuy bị ám ảnh bởi cái nguy cơ Chu-sa huyền âm độc tố, nhưng Minh-Ðệ vẫn cảm thấy thoải mái, vì đây là lần đầu tiên nàng được kính trọng, được sống trong an nhàn, thanh thản như vậy.

Cả ngày hôm đó, Thường-Kiệt không về, vì bận chính sự. Minh-Ðệ nảy ra ý định vào thư phòng Thường-Kiệt để sao chép tâm pháp Cổ-loa. Nhưng rồi nàng lại nghĩ:

– Nhất định ta không làm điều này. Thôi ta đành chờ Thiện-Tài xuất hiện cứu ta. Nếu ngài không cứu được, thì ta đành chịu chết vậy.

Minh-Ðệ rảo bước đến nhà thờ tổ của trang. Thời bấy giờ, mỗi trường dạy văn, dạy võ đều có nhà thờ tổ, để làm lễ nhập môn, hạ sơn cho chư đệ tử. Nhà thờ tổ của Thái-hà khá lớn. Nàng đẩy cửa bước vào, rồi đánh lửa châm lên mấy ngọn đèn. Trong ánh sáng lờ mờ, nàng thấy có ba bàn thờ khác nhau. Bàn chính giữa, hàng cao nhất là các vua Phục-Hy, Thần-Nông, Kinh-Dương. vua An-Dương. Hàng thứ nhì là vua Trưng. Hàng thứ ba là vua Lý Nam-Ðế, Bố-Cái, Ngô, Ðinh, Lê. Hàng thứ tư là vua Lý Thái-tổ, Lý Thái-tông.

Nàng nghĩ thầm:

– Bàn thờ này cũng giống bàn thờ ở Kinh-Bắc, không khác.

Nàng nhìn sang bàn phía tả, có mười hàng. Cao nhất là Phù-Ðổng thiên vương, Vạn-tín hầu Lý Thân, thánh Tản-viên Sơn-Tinh, Cao-cảnh hầu Cao Nỗ, Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung. Hàng thứ nhì là Trưng Nhị, Hoàng Thiều-Hoa, Phương-Dung, Thánh-Thiên, Phùng Vĩnh-Hoa. Hàng thứ ba đến Ðào Kỳ, Thi-Sách, Nguyễn Thành-Công, Nguyễn Tam-Trinh... cuối cùng là các đại công thần triều Lý mới tuẫn quốc. (4)

Ghi chú,

(4) Hành trạng các nhân vật trên, xin xem Anh-hùng Lĩnh-Nam, của Yên-tử cư-sĩ do Nam-á Paris xuất bản.

Cảm khái dâng lên trong lòng:

– Ðây là bàn thờ các tổ võ. Xưa kia bà Hoàng Thiều-Hoa chỉ là cô gái chăn trâu, bị đời hắt hủi còn hơn ta nhiều, nhưng nhờ có chí lớn, đã làm lên chuyện kinh thiên động địa. Tại sao ta không thể làm như bà?

Nhìn sang ban thờ phía hữu, thì thấy thờ An-Tiêm, Chử đạo-tổ, Tiên-Dung, cùng chư thần. Chợt nàng để ý đến một bàn thờ đặt giữa nhà, có chữ sinh từ, không tạc tượng, mà lại thờ bằng hình vẽ. Nàng nhủ thầm:

– Ta thử xem, sư huynh thờ sống những ai mà người thọ ơn đây.

Nàng chú ý thấy nét chữ Thường-Kiệt đề ở hình thứ nhất:

"Sư phụ, tiên cô, chưởng môn phái Tản-viên, hoàng triều trưởng đại công chúa chi linh vị".

Minh-Ðệ thở phào:

– Sư huynh thờ sống tiên cô đây. Hôm trước mình cứ nghĩ Quan-Âm là tiên cô Bảo-Hòa, nhưng hình này không phải Quan-Âm mà mình được gặp.

Hình thứ nhì vẽ một người mặt rất uy vũ, dưới có hàng chữ:

"Thái-sư phụ chưởng môn phái Ðông-a, tính Trần húy Tự-An chi linh vị".

Mặt Minh-Ðệ tái đi, tai ù không còn nghe thấy gì nữa, vì hình này hoàn toàn khác hẳn với sư phụ Tự-An đã dạy võ nàng. Quá kinh hoàng, nàng ra khỏi nhà tổ, rồi thẫn thờ đi trong sân:

– Tại sao hình mà sư huynh vẽ để thờ sống lại khác hẳn người ta gặp. Mặt trong hình bầu, mắt lớn, trán cao, có hai lằn râu rồng bên mép. Còn sư phụ bên ngoài thì mặt hơi dài gẫy như cái lưỡi cầy? Hay là hình vẽ hồi sư phụ còn trẻ, bây giờ người già rồi, khuôn mặt đổi đi chăng? Ðợi sư huynh về ta phải hỏi cho ra lẽ mới được.

Khi trời tối, Minh-Ðệ lại ra chỗ dàn hoa dạ hương, rồi ngồi đọc kinh Quan-Thế-Âm. Lát sau Thiện-Tài lại hiện ra. Minh-Ðệ thụp lạy, thì Thiện-Tài nắm tay nàng nâng dậy. Ông ta cười, hai đuôi con mắt khép lại rất dài, trông rất tình:

– Tôi thực không phải với cô nương. Tôi là người dưới thế gian, tôi là Nho-sinh học ở Thăng-long, chứ không phải Thiện-Tài. Hôm qua tôi tặng thuốc cho cô nương, để cô nương ngủ say, mà không bị cơn đau hành hạ. Thế nhưng chính tôi lại bị bệnh mới khổ chứ!

Minh-Ðệ đã nghe nói rằng, những Nho-sinh học ở trường huyện phải giỏi lắm mới được tuyển lên học ở trường lộ. Rồi mỗi lộ lại tuyển những người giỏi nhất đưa về kinh học. Rằng những học sinh này, khi đức vua mở khoa thi, trúng tuyển, một bước lên quan. Rằng những Nho-sinh này rất đa tình, nhà nào có con gái cũng muốn gả cho họ. Vì vậy khi bị Nho-sinh đùa, mà nàng không giận. Nàng dơ tay đánh sẽ vào vai Nho-sinh:

– Cái anh này thực là tai quái. Anh dám xưng là sứ giả của Quan-Âm, mà không sợ người phạt ư?

Nho-sinh thấy nàng không gọi mình là tiên sinh, mà gọi bằng anh, thì cười:

– Cô dữ thực, đánh người ta đấy à? Quan-Âm thành Phật rồi, thì ngài đâu có chấp bọn nhất quỉ nhì ma này làm gì? Chỉ có cô đánh người ta mà thôi. Vả cô ơi, tôi theo Nho, không tin Thích đâu.

Minh-Ðệ hừ một tiềng:

– Anh nói lạ. Khổng-tử chẳng từng nói rằng: "Ðức quỷ thần thịnh lắm thay. Kính nhi viễn chi". Nay anh đem Phật ra đùa thì thánh Khổng sẽ đánh đòn cho mà coi.

Nho-sinh không ngờ Minh-Ðệ lại thông Tứ-thư như vậy. Anh ta chắp tay:

– Tôi nói càn, mong cô nương đại xá. Vì tôi đang bị bệnh.

Minh-Ðệ ngay thật hỏi:

– Anh nói anh bị bệnh, thế bệnh gì?

– Bệnh này mang tên "Mộc mục điền tâm", ngoài cô ra không ai chữa được.

Nói rồi Nho-sinh thở dài:

– Không biết đài gương có soi đến dấu bèo hay không?

Ðúng ra với câu nói này, thì bất cứ cô gái nào cũng biết rằng Nho-sinh tỏ tình, phản ứng tự nhiên sẽ ù té bỏ chạy. Hoặc gan hơn, thì cũng cúi đầu e thẹn. Nhưng một là Minh-Ðệ chưa từng tiếp xúc với con trai cùng lứa tuổi, lại cũng không được mẹ dạy dỗ, cũng chẳng được chơi với bạn gái để biết chút ít về những lời nói hoa bướm, tỏ tình của nam nữ. Vì vậy nàng mỉm cười ánh mắt sáng long lanh:

– Tôi quan tâm đến bệnh của anh lắm. Anh vì đi xin thuốc cho tôi mà bị bệnh. Hỡi ơi. Nếu như tôi có thể chịu đau cho anh, thì tôi cũng cam lòng.

Nho-sinh mừng rỡ ra mặt:

– Thế thì được rồi, cô nhớ nhé.

Minh-Ðệ thấy dường như Nho-sinh không hề bị bệnh tật gì cả. Nàng hỏi:

– Anh thực hay đùa. Hôm qua anh đã xưng làm Thiện-Tài đồng tử, làm người ta tưởng thực, rồi người ta lạy chí chết. Thế anh là ai?

Nho-sinh buột miệng nói:

– Người tưởng rằng được đối diện lạy ta dễ lắm sao? Trong thế gian này có vạn vạn người ước mong đứng trước mặt lạy ta mà không được.

Minh-Ðệ cầm lấy tai Nho-sinh kéo dài ra:

– Bất quá anh là học trò ở kinh, bạch diện thư sinh chứ báu gì mà khẩu khí như là hoàng đế không bằng. Tôi...tôi bắt đền anh đấy.

– Thế tôi lạy lại cô nương để trả lễ nhé?

– Không, tôi theo đạo Phật, không thù không oán ai hết, huống hồ anh đã xin thuốc chữa bệnh cho tôi. Thế anh là ai? Làm gì ở Thăng-long? Tại sao lại có thần dược trị bệnh cho tôi?

– Tôi là Nho sinh, tôi tuy không trị được cho cô nương, nhưng người thân tôi thì trị được. Nhà tôi cũng ở gần đây thôi. Nếu cô nương tin tôi, thì theo về nhà tôi, tôi sẽ nhờ người ta trị tuyệt bệnh cho cô nương.

– Ðêm hôm thế này, tôi đâu dám đi với người đàn ông lạ. Thế danh tính của anh? Bao nhiêu tuổi?

– Tôi tên là Dương Tông. Tuổi thì cô nương đoán lấy. Nếu cô nương không chịu đến nhà tôi, thì sao bạn tôi trị bệnh cho cô nương được. Thôi, đây là chín viên thuốc để cô nương qua đêm khỏi đau đớn.

Minh-Ðệ ngửa tay cầm thuốc, rồi bỏ vào miệng nuốt. Thấp thoáng một cái, Dương Tông đã biến mất.


#1
    CDDLT 21.01.2005 18:16:35 (permalink)
    HỒI THỨ BẢY

    Chữ nhân của Nho





    Hôm ấy là ngày mười tư, suốt ngày Yến-Loan cứ nghĩ đến Dương Tông, nghĩ đến những lời nói của anh ta. Lát, lát nàng lại nhìn bóng mặt trời, rồi mong cho chóng tối để gặp y. Sau cơm chiều, nàng mặc chiếc quần lụa đen, chiếc áo nhuộm mầu hoa cà, dây lưng mầu thiên lý, rồi xức tý nước hoa hương nhài, thủng thỉnh tới chỗ gặp gỡ hôm trước. Tự nhiên nàng nảy ra ý núp vào bụi cây, để rình xem anh chàng Dương Tông đến như thế nào. Nghĩ là làm. Nàng tung mình lên cây ổi gần đó, rồi ẩn thân vào mấy cành rậm rạp, hướng mắt về phía góc vườn bên Ðông.

    Khoảng hơn khắc sau, có hai con ngựa từ phía Bắc đi tới, rồi ngừng lại ở ngoài cổng làng. Hai kị mã xuống ngựa, đến trước cổng. Hoàng nam gác cổng như quen thuộc, vội mở cổng, dắt cương ngựa cho hai người. Hai người phi thân rất nhanh, tới dinh Thái-hà, thì một người đứng ngoài, một người tung mình vượt qua tường vào trong. Yến-Loan nhìn rõ, người ấy là Dương Tông. Dương Tông tới chỗ dàn hoa thiên lý không thấy Minh-Ðệ. Y đưa mắt tìm tòi. Tìm không thấy nàng, y thở dài, rồi ngồi xuống ghế chờ đợi. Yến-Loan nghĩ thầm:

    – Người này tung mình nhảy qua tường bằng thức khinh thân của phái Tản-viên, rồi phi thân tới đây. Nội lực y hơi giống nội lực Mê-linh của mình. Thì ra y là một đại cao thủ mà mình không hay. Mình phải cẩn thận mới được.

    Nghĩ vậy, nàng tiếp tục ẩn thân. Còn Dương Tông thì chờ hơn khắc, rồi không giữ được bình tĩnh, y băng mình về phía dinh Thái-hà. Minh-Ðệ vội buông mình xuống đất theo sát phía sau. Dương Tông tỏ ra thông thạo đường lối, y đẩy cửa vào phòng khách, ghé tai vào cửa phòng nàng nghe ngóng. Dường như y biết trong phòng không khóa, nên đẩy cửa bước vào. Ngọn đèn lờ mờ trong phòng nàng do Phương-Lý thắp hồi chiều vẫn còn sáng. Dương Tông đưa mắt nhìn khắp phòng. Y tần ngần nhìn đám quần áo của nàng để ở đầu dường một lúc, rồi không hiểu nghĩ sao, y cầm lấy cái khăn choàng cổ đưa lên miệng hít lấy hít để, sau đó y bỏ vào túi.

    Dương Tông lại tần ngần, ngắm nhìn quần áo của nàng treo trên bướm. Y cầm lấy cái áo cánh, đưa ra trước đèn ngắm nhìn, hồn vía như bay lạc phương nào. Ngắm một lúc, Dương Tông ngồi xuống lấy bút mài mực, rồi viết vào cái áo mầu hoàng yến của nàng ba bài thơ. Viết xong, y treo áo trở lại chỗ cũ.

    Dương Tông trở ra phòng khách, rồi lần mò lại dàn thiên lý. Yến-Loan làm như không biết gì về hành tung của y. Nàng thư thả đi tới. Dương Tông thấy nàng thì hiện ra nét vui mừng:

    – Yến-Loan. Trời ơi, tôi tưởng Yến-Loan không tới được chứ. Tôi lo lắng quá.

    Yến-Loan thấy Dương Tông gọi mình bằng tên, rồi luống cuống, thì cảm động vô cùng. Nàng cũng đứng ngây người ra nhìn y. Lát sau mới nói:

    – Anh... anh nói dối người ta.

    Dương Tông hoảng hốt:

    – Ngu huynh nói dối muội hồi nào dâu?

    Yến-Loan thấy y lại xưng là huynh mà không xưng tôi, nàng ngồi xuống ghế cạnh y:

    – Võ công anh cao như thế, mà anh bảo rằng anh là Nho-sinh. Thực thà thế đấy!

    – Sao, sao muội biết võ công huynh cao?

    – Anh... anh khinh người ta là đứa con gái nhà quê, nên mới nói dối như thế. Thử hỏi, nếu võ công anh thấp, thì sao anh có thể tung mình qua bức tường cao hơn trượng mà vào đây? Võ công anh không cao, thì sao anh vượt qua mấy chỗ đất lún, mà giầy không lấm đất?

    Dương Tông cười xòa:

    – Anh quả là Nho-sinh, nhưng biết chút ít võ nghệ mà thôi. Anh nghĩ mình biết tý võ mà đem ra khoe thì chẳng ích lợi gì, nên không nói, chứ có phải dối trá đâu. Hôm nay anh mang tới tặng em mấy món quà mọn, mong rằng em không chê.

    Một lần nữa Dương Tông lại đổi cách xưng hô. Y không huynh, muội, mà dùng tiếng bình dân anh, em, khiến Minh-Ðệ bàng hoàng cả người. Thế rồi y đưa ra một hộp bằng vàng, trên có khắc hình hai con rồng tranh châu, trong bọc lớp gấm, hai tay trịnh trọng trao cho Minh-Ðệ:

    – Chút quà mọn gọi là lễ diện kiến, mong Yến-Loan nhận cho.

    Nếu Minh-Ðệ thông thế tục, thì biết rằng đây là lối tỏ tình của Dương Tông. Nhưng nàng không biết gì cả, nên hai tay đỡ lấy rồi cầm lên xem. Trong hộp nào son Hàng-châu, phấn Tô-châu, nước hoa Trường-sa, lại có cả hai chiếc vòng ngọc bích, với con phượng bằng vàng nạm chín hạt kim cương. Từ bé, Minh-Ðệ chưa từng thấy ngọc, cũng như kim cương bao giờ. Nàng cầm ngọc mà tưởng là đá xanh, cầm kim cương mà tưởng là mảnh chai. Nàng cảm động nới với y:

    – Anh đã cho thuốc Yến-Loan, lại còn cho quà nhiều thế này sao? Yến-Loan chẳng có gì tặng anh cả.

    Chợt nhớ ra việc Dương Tông cầm khăn quàng cổ mình mà hít lấy, hít để. Yến-Loan cởi chiếc khăn lụa trên cổ trao cho y:

    – Yến-Loan tặng anh đấy.

    Mắt Dương Tông sáng lên, y cầm lấy chiếc khăn gấp làm tám, ấp vào ngực một lát rồi bỏ túi. Hai người nói chuyện trời, chuyện đất đến gần nửa đêm thì Dương Tông từ biệt ra về.

    Yến-Loan trở về phòng, lấy cái áo mầu hoàng yến ra xem, bất giác tay nàng run run, trống ngực đập liên hồi. Vì trên đó Dương Tông đã đề bài Thanh-bình điệu của Lý Bạch lên:

    Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung,
    Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng.
    Nhược phi Quần-ngọc (1) sơn đầu kiến,
    Hội hướng Dao-đài (2) nguyệt hạ phùng.(3)
    Nhất chi hồng diễm lộ ngưng hương,
    Vân-vũ Vu-sơn (4) uổng đoạn trường.
    Tá vấn Hán cung thùy đắc tự?
    Khả lân Phi-yến (5) ỷ tân trang.
    Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan,
    Trường đắc quân vương đới tiếu khan.
    Giải thích xuân phong vô hạn hận,
    Trầm-hương đình bắc ỷ lan can.

    Ghi chú,

    (1) Quần-ngọc, theo thần thoại Trung-quốc, đây là nơi Tây-vương mẫu ở.

    (2) Dao-đài, cũng theo thần thoại Trung-quốc, là nơi chư tiên ở.

    (3) Trần-trọng-San dịch:
    Mặt tưởng là hoa, áo tưởng mây,
    Hiên sương phơ phất gió xuân bay.
    Nếu không gặp gỡ trên Quần-ngọc,
    Dưới nguyệt Dao-đài sẽ gặp ai?
    Một nhánh hồng tươi móc đọng sương,
    Mây mưa Vu giáp uổng sầu thương.
    Hỏi trong cung Hán, ai người giống,
    Phi-Yến còn nhờ mới điểm trang.
    Hoa trời sắc nước cả hai vui,
    Luôn được quân vương ngắm nghía cười.
    Mối hận gió xuân bay thoảng hết,
    Bên đình nàng đứng tựa hiên chơi.

    (Trích trong tập Lý-Bạch, Ðỗ-Phủ, Bạch-cư-Dịcủa Trần-trọng-San, Bắc-Ðẩu Canada xuất bản).

    (4) Vu-sơn, tên núi ở phía Ðông tỉnh Tứ-xuyên. Tương truyền Sở Tương-vương đi chơi đến đất Cao-Dương nằm mơ thấy một thiếu phụ nói : "Thiếp là thần nữ ở núi Vu-sơn, sớm làm mây, tối làm mưa ở Dương-đài". Vì vậy chữ Vu-sơn sau để chỉ tình dục (Sexology). Khi tôi viết bộ Sexologie médicale Chinoise, rồi chuyển trở lại tiếng Việt là "Trung-quốc Vu-sơn học".

    (5) Phi-Yến, tức Triệu Phi-Yến, hoàng hậu của vua Thành-đế nhà Hán. Thành-đế băng, con là Ai-đế lên nối ngôi, bà được phong làm hoàng-thái hậu. Ðời HánBình-đế, Vương Mãng chuyên quyền, bà bị biếm làm thường dân rồi tự sát.

    Yến-Loan đã đọc thiên kinh vạn quyển, trong ba đại thi hào đời Ðường là Lý Bạch, Ðỗ Phủ, Bạch Cư-Dị; nàng không thích thơ Lý, vì Lý xuất thế. Trong khi nàng là người mơ tưởng làm chuyện kinh thiên động địa như vua Trưng, như Thánh-Thiên, như Lệ-hải bà vương Triệu Thị Trinh. Vì vậy tuy nàng hiểu ý tứ ba bài thơ trên, ngụ ý Dương Tông ca tụng sắc đẹp của nàng, mà không hiểu về xuất xứ của nó ra sao.

    Nguyên vào niên hiệu Khai-nguyên, đời Ðường Minh-Hoàng. Nhân lúc hoa thược dược nở rực rỡ muôn mầu. Nhà vua cùng Dương quý-phi họp một số đệ tử của Lê-viên thưởng hoa. Khi Lý Quy-Niên định hát, vua phán: "Thưởng danh hoa, trước Phi-tử, thì dùng chi đến lời nhạc này?" Rồi sai Quy-Niên đi triệu Hàn-lâm học-sĩ Lý Bạch. Lý Bạch tới, cầm bút viết một hơi ba bài này để ca tụng sắc đẹp Dương quý-phi.

    Yến-Loan lại uống thuốc ngủ qua đêm.

    Yến-Loan qua một đêm với giấc ngủ yên tĩnh. Hôm sau Thường-Kiệt trở về vào lúc trời chập choạng tối, ông hỏi vú Dư:

    – Má má ơi, ở nhà có chuyện gì lạ không?

    – Thưa thái-bảo vẫn bình thường.

    Ông hỏi Yến-Loan:

    – Sư huynh đi vắng, muội muội ở nhà chắc buồn lắm nhỉ?

    – Cũng không buồn lắm đâu, vì sư huynh có nhiều sách quá, đọc hoài, đọc mãi mà không hết. Giá sư huynh mượn tiểu muội làm con bé lau chùi, dọn dẹp thư phòng cho sư huynh thì tiểu muội hạnh phúc biết bao?

    – Vậy thì huynh mời sư muội làm đại tiểu thư ở trang này, để sư muội đọc hết đám sách của huynh. Sau đó sư muội giả trai ứng thí, không thành trạng-nguyên, cũng thành thám-hoa, rồi vào tòa Bình-cương làm Chiêu-văn quan đại học sĩ, giám tu quốc sử. Tiếc quá!

    – Huynh tiếc gì vậy?

    – Huynh tiếc vì nước mình chưa mở khoa thi, thành ra người dân không có dịp tiến thân. Trường hợp sư muội mà ở vào thời loạn như thời Lĩnh-Nam, cam đoan sư muội sẽ là một Thánh-Thiên.

    Mấy tháng qua Yến-Loan đã đọc đi đọc lại đến thuộc lầu hầu hết sách-sử Hoa-Việt liên quan đến hai nước. Nay nghe Thường-Kiệt nói, nàng lắc đầu:

    – Ðất nước mình có bao giờ mà không loạn lạc đâu? Nguyên do cái loạn này là ở những gã văn gia cổ thời, tạo cho mọi người Hán đều nghĩ vua mình, tướng mình là người nhà trời. Các dân xung quanh là di, man, địch, nhung cả, cho nên họ luôn luôn nhìn sang các lân bang, hễ có sự là bàn đem quân sang xâm chiếm. Thời Thuận-Thiên, Ðại-Việt mình mạnh đến như vậy, mà họ còn kiếm đủ cách gây chiến. Rồi đến thời vua Thái-tông, Khai-Quốc vương phải khích cho tộc Nùng nổi dậy, chiếm lưỡng Quảng, làm cho Tống yếu đi, họ mới để mình yên. Mới đây, họ lại gây hấn, chính sư huynh phải mang quân lên trợ vua Bà đánh sang để thị uy, đập cho họ kinh hãi, nay tuy có yên, nhưng chỉ là tạm thời. Sư huynh nghĩ xem, em có thể lên Bắc-cương theo vua Bà đánh giặc không?

    – Ðược chứ. Sư muội mà lên đó, chỉ cần gặp một trong Ngũ-long công chúa tổng trấn Bắc-cương là được trọng dụng làm đại tướng ngay.

    – Ủa, mình có đến năm công chúa trấn Bắc sao?

    – Ðúng thế. Lúc đầu thì Ngũ-long công chúa là Bảo-Hòa, Bình-Dương, Kim-Thành, Trường-Ninh, Thanh-Nguyên. Sau thì Ngũ-long đổi thành Kim-Thành, Trường-Ninh, Thanh-Nguyên, Thanh-Trúc, Phương-Hồng.

    – Sao lại có vụ gạt công chúa Bảo-Hòa với Bình-Dương ra ngoài vậy?

    – Ðâu có gạt. Nguyên do, khởi thủy, dân chúng tôn năm vị ấy là Ngũ-long; kể về vai vế thì sư phụ của anh là công chúa Bảo-Hòa đứng đầu. Ðệ nhị công chúa là vua bà Bình-Dương. Nhưng sư phụ của anh thành tiên, thành thánh, còn công chúa Bình-Dương thành vua, địa vị cực cao không ai có thể sánh, nên dân chúng đem hai vị ấy ra khỏi Ngũ-long công chúa. Vì hai vị ra ngoài Ngũ-long, nên dân chúng mới thêm hai công chúa Thanh-Trúc, Phương-Hồng vào thay thế.

    – Sư huynh nói rõ về nguồn gốc Ngũ-long cho muội nghe đi.

    – Ðệ nhất là công chúa Kim-Thành tức phu nhân của Thái-tử thiếu phó, Phong-châu tiết độ sứ, Long-nhương đại tướng quân, Trung-nghĩa quốc công Lê Thuận-Tông.

    – Ái chà, muội đọc trong Nhân-Huệ hoàng đế kỷ sự có kể việc Công chúa với Quốc công tiến quân đánh Quảng-châu những trận long trời lở đất. Thế đệ nhị công chúa?

    – Là Công-chúa Trường-Ninh, phu nhân của ngài Thái-tử thiếu-sư, Thượng-oai tiết độ sứ, Hổ-uy đại tướng quân, Thuần-tín quốc công Hà Thiện-Lãm.

    – Em cũng đọc sự tích Công-chúa với Quốc-công trong sách rồi. Thế Công-chúa thứ ba?

    – Thứ ba là Công-chúa Côi-sơn Trần Thanh-Nguyên, phu nhân của ngài Trấn-bắc đại tướng quân, Tiên-yên tiết độ sứ, Tản-viên hầu Tôn Mạnh.

    – Công chúa là con của đại thần nào vậy?

    – Công chúa tuy không phải cành vàng lá ngọc, nhưng lại có thế lực cực kỳ lớn, người là con út của Thái-sư phụ Trần Tự-An, nức tiếng thiên hạ.

    – Úi chà.

    – Yến-Loan cười thầm:

    – Tưởng ai, hóa ra sư tỷ con út của sư phụ mình, tức em gái của đại hiệp Trần Thông-Mai, vương phi Khai-Quốc vương Thanh-Mai, và Kinh-Nam vương Tự-Mai.

    Nàng hỏi tiếp:

    – Thế còn công chúa thứ tư, thứ năm??

    – Vị đệ tứ tên thực là Lâm Thanh-Trúc, tước phong công chúa Ôn-thuận, phu nhân của Ðại-tư-mã Bắc-biên, Hữu-kim ngô thượng tướng quân, Lạng-châu quốc-công Thân Thiệu-Cực. Thứ năm là công chúa Vạn-hoa, nhũ danh Ðào Phương-Hồng, nguyên người là Quận-chúa, ái nữ của công chúa An-Quốc với phò mã Ðào Cam-Mộc, sau vì có công nên được phong công chúa. Người là phu nhân của Bình-nam đại tướng quân, Khai-sơn hầu Tôn Trọng.

    Yến-Loan nghĩ thầm:

    – Những vị nữ lưu kia vì có tài, có công với đất nước, mà danh vang thiên hạ. Còn ta... văn học ta không thua ai, võ công ta không hèn. Dù nay ta đang bị tù đầy vì oan khuất, nhưng một mai ta cũng phải làm lên những việc như vua Trưng, như Lệ-Hải bà vương. Nhất định ta không chịu nát thân với cỏ cây; không chịu làm con ở trong nhà, để cho người chà đạp, muốn đánh là đánh, muốn giết là giết, muốn chửi là chửi.

    Thế là chỉ trong một vài câu của Thường-Kiệt, đã làm cho Yến-Loan đang từ cô gái an phận, quê mùa, nảy ra hùng tâm tráng trí, khiến cho giang sơn Ðại-Tống nghiêng ngửa, với gần nửa triệu sinh linh Tống chết, tạo chiến tích huy hoàng nhất lịch sử tộc Việt. Ðó là chuyện sau.

    Chợt nhớ lại những gì chép trong Thái-tông thực lục, nàng hỏi Thường-Kiệt:

    – Sư huynh ơi, từ hôm gặp sư huynh đến giờ, muội muốn hỏi sư huynh một việc, song e đụng đến mối thương tâm của sư huynh, nên muội còn lưỡng lự. Bây giờ muội cả gan hỏi, nếu sư huynh có giận thì cứ coi muội là đứa con nít, mà bỏ qua cho.

    Thường-Kiệt đã bị tĩnh thân, nên ông không úy kị nam nữ, ông ôm lấy đầu Yến-Loan:

    – Cuộc đời huynh có gì bí mật đâu mà dấu diếm? Muội muốn hỏi gì huynh cũng trả lời hết. Huynh hiện quản Khu-mật viện, giữ hết cơ mật xã tắc, thế mà huynh đưa muội về đây ở, thì huynh phải tin muội lắm mới dám làm thế. Nào muội hỏi đi.

    – Thế này.

    Yến-Loan thỏ thẻ: Muội đọc trong sử thấy nói hồi trước huynh đã đính hôn với một thiếu nữ tên Tạ Thuần-Khanh, con gái Cổ-loa quốc-công Tạ Sơn. Giữa lúc chuẩn bị cưới xin, thì huynh bị gian nhân đánh thuốc mê, rồi đem tĩnh thân. Thế ai là thủ phạm hại sư huynh?

    Thường-Kiệt đang vui vẻ, mặt ông sa sầm lại, hai hàm răng ông nghiến ken kẹt:

    – Ðây là mối hận nhất đời của huynh. Sau khi huynh bị tĩnh thân, thì Ưng-sơn song hiệp, sư phụ Bảo-Hòa làm dữ lắm, đòi triều đình phải đem chính phạm tòng phạm ra xử ngay, bằng không người sẽ xử. Vua Thái-tông kinh hãi, nhờ Khai-Quốc vương điều tra. Sau khi tìm ra thủ phạm, Vương bàn với Ưng-sơn, với sư phụ anh không công bố tên thủ phạm. Cứ để tội y đấy như một án treo, bất cứ mình bảo gì, nói gì y cũng phải theo. Vì vậy cho đến nay chỉ Quốc-phụ, Quốc-mẫu, sư phụ, với Ưng-sơn song hiệp biết rõ thủ phạm là ai mà thôi. Huynh đã hỏi, nhưng các ngài không nói, vì sợ huynh giết ba họ nhà y, e người chết nhiều quá, mà huynh cũng có tội với triều đình.

    Yến-Loan thề:

    – Trọn đời muội, muội sẽ dùng hết khả năng để truy lùng thủ phạm hại sư huynh, và giết chết y thực thảm khốc.

    – Ða tạ sư muội.

    Yến-Loan chuyển câu chuyện qua vụ Dương Tông:

    – À... sư huynh có người bạn, hay học trò nào tên là Dương Tông không?

    – Dương Tông à? Sư muội gặp y ở đâu?

    – Ðêm hôm trước, muội dạo quanh vườn xem hoa nở, thì thấy anh ta đứng tần ngần nhìn muội.

    – Anh ta nói gì với muội?

    Yến-Loan thuật chi tiết cuộc gặp gỡ, nhưng nàng dấu việc bị trúng Chu-sa huyền âm chưởng được Dương-Tông cho thuốc giải; mà chỉ nói bị đau đớn mà thôi. Mặt Thường-Kiệt cau lại, ông lắc đầu:

    – Huynh không quen người nào có tên như thế cả. Y không phải là người trong trang, mà vượt tường vào đây được, thì võ công phải cao thâm lắm. Liệu đêm nay y có trở lại không? Huynh phải bắt y, đét vào đít mấy cái, vì tội dám vào hoa viên toan ăn trộm cô sư muội đem đi. Gan y lớn gớm. Sư muội của huynh xinh đẹp thế này thì nhất định huynh không để y trộm đi.

    Yến-Loan xua tay:

    – Ðừng, sư huynh đừng phạt y, vì y không dữ dằn, mà lại tốt với muội nữa. Chính y đem thuốc cho muội mà bị bệnh. Y còn cho muội nào son, nào phấn, nào nước hoa. Y lại chép ba bài thơ Thanh bình điệu của Lý Bạch tặng muội nữa.

    Rồi nàng thuật chi tiết những lời Dương Tông nói với nàng. Nàng không kể việc y cho nàng ngọc, vì nàng nghĩ y cho mình đá xanh, mảnh sành chai thì xấu hổ chết. Thường-Kiệt cười thầm trong lòng:

    – Tội nghiệp cô tiểu sư muội này. Cô thực là thông minh, đọc nhiều, nhớ dai, nhưng chỉ vì cha mẹ bỏ rơi, nên không hiểu một chút gì việc đời. Ai lại giữa đêm khuya dám gặp đàn ông lạ trong vườn này đến mấy lần. Người ta ngỏ lời yêu thương, tỏ ý cầu hôn mà cũng không hiểu.

    Ông nhỏ nhẹ giảng giải:

    – Sư muội ngây thơ quá đi. Khi y chép thơ Thanh bình điệu tặng muội, là ngụ ý khen muội đẹp như Dương quý-phi đời Ðường. Y nói "đài gương soi đến dấu bèo" là y muốn cầu hôn với sư muội đó. Y bảo mắc bệnh mà chỉ sư muội mới trị được là y yêu thương sư muội. Y lại tặng son, phấn, nước hoa cho sư muội nữa là y chính thức tỏ tình rồi. Y muốn cầu sư muội làm vợ, mà sư muội im lặng, nên y tưởng rằng sư muội thuận tình.

    Yến-Loan là người thông minh tuyệt đỉnh. Nàng nghe Thường-Kiệt giảng giải, rồi ôn lại cử chỉ của Dương Tông, thì y quả giống như những chàng si tình trong các chuyện cổ mà nàng đã đọc. Bất giác mặt nàng nóng bừng lên, người như quay cuồng muốn ngã.

    Thường-Kiệt vuốt tóc Yến-Loan:

    – Cô em xinh đẹp ơi, cô có biết bệnh "Mộc mục điền tâm" là bệnh gì không?

    – Muội chưa từng học thuốc, nên nào có biết.

    Thường-Kiệt dắt tay Yến-Loan ra vườn hoa, rồi giảng:

    – Bây giờ ta hỏi muội nhé. Chữ mộc với chữ mục là chữ gì?

    – À, thì là chữ tương.

    – Chữ điền với chữ tâm là chữ gì vậy?

    – Là chữ tư. À thì ra y bị bệnh tương tư. Trời...

    Ðến đó nàng xấu hổ quá, mặt đỏ lên, muốn giật tay khỏi Thường-Kiệt mà chạy đi chỗ khác. Nhưng nàng không dám.

    – Việc này không thể đùa được.

    Thường-Kiệt nghiêm mặt lại: Y dám đột nhập dinh của ta, thì gan y phải lớn bằng trời, bản lĩnh y phải cao thâm lắm. Tại sao? Khi y đột nhập, ắt y biết dinh ta là trường dạy võ, học trò có mấy trăm, chỉ lỡ ra một trong các học trò ta biết thì y ốm đòn. Có phải vậy không?

    – Vâng, đúng thế.

    – Bây giờ thế này, lát nữa đây, sư muội cứ coi như không có ta, chuyện trò với y. Ta núp trong bụi hoa mà nghe. Bấy giờ tùy cơ, ta sẽ dùng Lăng-không truyền ngữ chỉ cho sư muội cách đối phó với y.

    Sau khi cơm chiều, mặt trời lặn một lúc, thì Thường-Kiệt nhảy vào giữa bụi mẫu đơn mà núp. Còn Yến-Loan thì hồi hộp ngồi chờ. Trăng vừa lên thì Dương Tông tới. Minh-Ðệ lo sợ hỏi:

    – Sao hôm nay anh tới sớm vậy?

    – Em đọc Kinh-thi, em không nhớ có câu "Nhất nhật bất kiến như tam thu hề" à? (Một ngày không gặp, dài bằng ba thu). (6)

    Ghi chú,

    (6) Câu này lấy ý trong Kinh-thi: Nhất nhật bất kiến như tam thu hề. Nguyễn-Du mượn ý tả Kim-Trọng nhớ Thúy-Kiều là: Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.

    Yến-Loan đã được Thường-Kiệt giảng giải, nàng hiểu anh chàng Dương Tông này yêu thương mình đây. Bất giác nàng nghĩ thầm:

    – Nếu như mình được làm vợ anh chàng, thực cũng không uổng tấm hồng nhan. Chỉ tiếc rằng anh ta lớn tuổi đôi chút mà thôi. Bây giờ sư huynh ngồi trong bụi hoa kia quan sát, lỡ ra anh chàng thất thố một câu thì duyên tình mình khó thành. Chi bằng ta chặn trước thì hơn.

    Nghĩ vậy nàng đổi cách xưng hô:

    – Này, em báo tin cho anh biết, sư huynh Thường-Kiệt của em đã về. Sư huynh nghe em thuật chuyện anh, sư huynh muốn bắt anh đánh mấy roi về tội dám đột nhập vào dinh đấy.

    Dương Tông nhăn mặt:

    – Tại sao em lại kể chuyện chúng mình cho Thường-Kiệt nghe?

    – Anh nói! Hiện trên thế gian này chỉ có mình Lý sư huynh là người yêu thương, lo lắng, chiếu cố đến em, cho nên chuyện gì em cũng phải nói với người.

    Dương Tông vui vẻ:

    – Em thực là người trung hậu, hiền thục. Nhưng em quên mất rằng ngoài Thường-Kiệt ra, còn có người yêu thương em hơn nữa. Tình yêu này cao hơn núi Hoàng-liên-sơn, dài hơn sông Hồng-hà và rộng hơn biển Nam-hải. Em có biết người ấy là ai không?

    Yến-Loan cảm động muốn run người lên, nàng nói trong hơi thở:

    – Dĩ nhiên em biết chứ. Em cũng... cũng đối lại với người ấy như vậy. Nhưng anh phải cẩn thận, bằng không e sư huynh em đánh đòn đấy.

    Dương Tông cười:

    – Ðiều đó thì em đừng sợ. Thái-tử thiếu bảo Lý Thường-Kiệt không bao giờ làm thế với anh đâu. Ông ta thấy anh là trốn biệt.

    Yến-Loan cực kỳ kính trọng Thường-Kiệt, nàng giận dỗi:

    – Anh không được nói xấu sư huynh của em. Từ nay trở đi anh chỉ nói xấu sư huynh Thường-Kiệt một câu, là vĩnh viễn em không nhìn mặt anh nữa.

    – Nhưng anh nói thực đó. Nội ngày hôm nay nhất định Thường-Kiệt không dám gặp anh.

    – Anh nói!

    – Vậy ta đánh cuộc nào?

    – Ðánh cuộc gì?

    – Nếu như nội ngày nay Thường-Kiệt xuất hiện gặp anh, thì anh phải làm cho em ba điều mà em muốn. Còn như y không xuất hiện, thì em phải làm cho anh một điều mà anh muốn.

    Yến-Loan chắc thắng một trăm phần rồi. Nàng gật đầu:

    – Ðược, em chịu.

    Dương Tông đánh bạo:

    – Bây giờ anh muốn mời em dạo chơi Thăng-long xem trăng, em có dám đi không?

    Yến-Loan nhảy dựng người lên:

    – Không, không, em không đi đâu. Ai lại...

    Nàng định nói tiếp " ...đi chơi với con trai trong đêm bao giờ". Nhưng nàng đang nói dở, thì tiếng Thường-Kiệt dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai nàng:

    – Yến-Loan nghe sư huynh nói đây. Yến-Loan nhận lời, và đi theo người này. Người này nói gì, bảo gì phải tuyệt đối nghe theo. Trong ngôn từ đối thoại, Yến-Loan không nên nói lời khinh bạc. Sư huynh theo sau bảo vệ Yến-Loan. Nếu Yến-Loan làm đúng như lời sư huynh, thì sư huynh sẽ gả Yến-Loan cho người này. Bao nhiêu tai vạ của Yến-Loan sẽ được giải hết. Nghe sư huynh đi. Ðừng sợ gì.

    Yến-Loan rộn lên niềm vui, chân tay nàng phát run. Nàng e lệ trả lời Dương Tông:

    – Muội đã có lần thuê xe dạo một vòng Thăng-long, nhưng là ban ngày. Hôm nay trăng rằm thế này mà đi chơi thì thực hữu tình quá. Bây giờ chúng ta phải đi qua cổng chính, chứ em không chịu nhảy qua tường đâu.

    – Ừ, chúng ta đi.

    Yến-Loan sánh vai cùng Dương Tông ra cổng. Một đệ tử gác cổng cúi rạp người xuống mở cửa cho nàng với Dương Tông ra. Y hỏi:

    – Thưa cô nương. Cô nương đi bao giờ sẽ trở về?

    – Người cứ đóng cổng, khi ta về, ta sẽ gọi.

    Tới cổng làng, đã có chiếc xe song mã chờ sẵn. Trên xe, một người to lớn lực lưỡng ngồi chờ. Người này cung cung, kính kính nhảy xuống xe. Y định nói gì, thì Dương Tông lên tiếng:

    – Ðỗ Oanh này. Mi nên nhớ ta là nho-sinh, con nhà giầu đang học ở Thăng-long. Ta mời tiểu cô nương đây dạo một vòng đế đô. Mi phải đánh ngựa cho khéo, đừng để xe xóc. Tục ngữ có câu: "Có miệng thì nắp. Sợ cắp thì đậy". Tuyệt đối không nên nói nhiều. Nhớ không?

    Tên phu xe khum người lại:

    – Dạ, tiểu nhân ghi nhớ lời ... công... tử dạy. Hôm nay tự nhiên trong miệng tiểu nhân mọc mấy cái mụn, nên không thể nói nhiều.

    Yến-Loan tung mình nhảy lên xe, lưng nàng uốn cong trông thực đẹp. Dương Tông với Ðỗ Oanh đều bật lên tiếng ủa kinh ngạc. Hai người cùng nhìn nhau, như thông cảm một cái gì. Dương Tông lên xe ngồi cạnh Yến-Loan. Viên phu xe ngồi trước ra roi cho ngựa chạy.

    Yến-Loan nói với Ðỗ Oanh:

    – Phiền anh cho xe chạy ra Cổ-ngư dùm tôi. Tôi thăm bẩy đứa em của tôi một chút. Nghĩ tôi thực là đoảng, ai lại mình là chị, mà đến dinh Thái-hà gần năm không về thăm các em.

    – Nhà Yến-Loan ở Cổ-ngư sao?

    – Không. Nhà em ở Kinh-Bắc kia.

    Rồi nàng tường thuật chi tiết về cuộc gặp gỡ bẩy đứa trẻ ăn mày trên bờ hồ cho Dương Tông nghe. Dương Tông nghĩ thầm:

    – Cô gái này thực là người giầu lòng nhân ái. Thân đi tù tội, mà còn lo cho đám trẻ mồ côi ăn xin.

    Xe tới Cổ-ngư. Yến-Loan chỉ cho anh ta đánh xe lại căn nhà của bẩy đứa trẻ. Không biết trong mấy tháng qua, nàng đi vắng, bọn nhỏ có học hành đàng hoàng không? Nàng chỉ căn nhà cho Ðỗ Oanh dừng xe lại. Yến-Loan kinh ngạc, đứng ngây người ra: căn nhà nàng mua cho đám trẻ ở, tường bằng gạch, mái lợp cỏ, xung quanh là khoảnh vườn nhỏ, hàng rào trúc con con. Bây giờ trước mặt nàng là một căn nhà lớn, mái lợp ngói đỏ. Phía sau có dãy nhà dọc nối với bếp. Góc vườn có chuồng ngựa, nhà để xe. Trong vườn cây cảnh trồng thành bốn khu nhỏ. Trước nhà hàng chục chậu cảnh với những kỳ hoa dị thảo. Phía trước, cái cổng hai cánh sơn mầu đỏ chói. Yến-Loan ngần ngừ một lát rồi cầm lấy dây giật chuông. Chuông đổ, tiếng Thu nhọ nồi hỏi:

    – Ai đấy?

    – Chị đây.

    Bẩy đứa trẻ reo lên, rồi ra mở cổng. Chúng thấy ngoài Yến-Loan còn có hai người đàn ông. Thằng Y hói nói lớn:

    – Chúng mày thấy không? Tao đã bảo mà. Khi không chị ý vắng mặt chắc là chị ý đi lấy chồng.

    Nó chỉ Dương Tông hỏi Yến-Loan:

    – Chồng chị đấy hả?

    Yến-Loan ngượng quá lắc đầu:

    – Ðừng nói bậy. Anh ấy chỉ là anh của chị thôi.

    Y hói không chịu:

    – Hôm trước chị nói chị là con cả. Sao bây giờ lại nói rằng ông này là anh? Anh em mà sao khuôn mặt không giống nhau? Hì... hì... nói dối rồi.

    Nó hỏi Dương Tông:

    – Có phải anh là chồng chị Yến-Loan không?

    – Phải mà không phải.

    Duy lùn nhảy choi choi lên:

    – À, phải tức là anh muốn làm chồng chị ấy; còn không phải là chị ấy chưa bằng lòng, có đúng thế không?

    Yến-Loan ngượng quá, mà bọn trẻ cứ phá. Thằng Ức méo hỏi Dương Tông:

    – Anh chị dạo chơi Thăng-long hả? Mùi quá ta!

    Yến-Loan đánh trống lảng hỏi Di sậy:

    – Tại sao nhà lại thay đổi thế này?

    Bọn trẻ đi trước dẫn đường. Ỷ-Lan, Dương Tông, Ðỗ Oanh theo chúng vào phòng khách. Phòng khách khá lớn, với bàn ghế bằng gỗ trắc, khảm xà cừ. Trên tường treo mấy bức họa.

    Bọn trẻ đi trước dẫn đường. Ỷ-Lan, Dương Tông, Ðỗ Oanh theo chúng vào phòng khách. Phòng khách khá lớn, với bàn ghế bằng gỗ trắc, khảm xà cừ. Trên tường treo mấy bức họa.

    Tuy bỡ ngỡ, nhưng Yến-Loan vẫn làm chủ được, nàng mời Dương Tông, Ðỗ Oanh ngồi. Dương Tông không ngần ngại ngồi xuống. Còn Ðỗ Oanh khoanh tay đứng hầu sau lưng chủ.

    Yến-Loan hỏi Di sậy:

    – Mới chưa đầy một năm mà sao nhà thay đổi thế này?

    Thằng Di sậy ngập ngừng một lúc rồi nói:

    – Trong khi chị đi vắng, ở nhà có con lợn sứ thăm viếng.

    Yến-Loan hỏi:

    – Lợn sứ là cái gì? Nói cho đàng hoàng đi.

    Di sậy kể :

    – Lợn sứ là sự lớn. Khất hòa thượng tới đây chơi, rồi ngủ lại mấy đêm. Ông dạy chúng em thở, hít cho khoẻ. Chị có biết ông không?

    – Biết chứ. Ðất Thăng-long này ai mà không biết ông. Các em có làm cơm cúng dàng thầy đàng hoàng không?

    – Có chứ.

    Thu đáp: Ông í là thầy bọn em mà. Một chiều ông đang ngồi giảng Thiền cho bọn em, thì có người đi xe song mã chạy qua. Trên xe có bốn con chó sói. Người đánh xe thấy thầy thì dừng lại hỏi "Thầy có phải là Khất hòa thượng không?". Ông trả lời "Phải mà không phải". Người đánh xe buồn rầu : "Tại sao phải mà không phải?". Hòa thượng đáp : "Phải vì bần tăng chính là gã thầy chùa ăn mày. Còn không phải vì tên bần tăng đâu có phải là Khất hòa thượng". Ông đó cung tay xá : "Bạch sư phụ, đệ tử có bốn con chó bị người ta bỏ bả sắp chết. Xin sư phụ mở từ tâm cứu cho. Ðệ tử muôn vàn cảm tạ". Hòa thượng nói : "Nhớ nhé". Rồi hoà thượng móc trong túi ra hộp kim. Người cắm kim lên khắp mình bốn con chó. Lát sau bốn con chó đều mửa thốc, mửa tháo ra. Hòa thượng trao cho người đó hộp thuốc, rồi dặn "Bao nhiêu bả độc, chó đã mửa ra hết. Bây giờ cần phải uống thuốc. Ðây, thí chủ cho chó uống, mỗi ngày ba viên. Mười ngày sau thì khỏe như thường". Người đánh xe cung tay : "Ða tạ đại sư, không biết đệ tử phải tạ đại sư như thế nào?". Hòa thượng chỉ bọn em : "Hồi nãy bần tăng hứa cứu bốn mạng cho thí chủ. Thí chủ hứa muôn vàn cảm tạ. Nay bần tăng không cần muôn, chẳng cần vạn, mà chỉ cần gấp đôi thôi. Bần tăng xin thí chủ nuôi, dạy bẩy đứa này cho thành người, dạy dỗ nó như dạy dỗ con cái vậy". Người ấy chắp tay "Ðệ tử tuân pháp chỉ của đại sư. Tuổi đệ tử còn nhỏ, không dám coi mấy trẻ này là con, mà chỉ nhận nuôi chúng như em mà thôi".

    Yến-Loan hỏi:

    – Rồi sao?

    – Hôm sau bọn em đi học về thì không thấy hòa thượng đâu. Còn ông đánh xe, thì ông xưng là Lý Chiêu-Văn. Ông trở lại với thợ nề, thợ mộc, phá căn nhà cũ, xây thành nhà mới khang trang như thế này. Ông mang đến hai thị nữ để nấu cơm, giặt quần áo cho bọn em. Ông lại cấp cho bọn em một chiếc xe song mã với mã phu. Tối tối ông dạy võ cho bọn em, ông mượn riêng một thầy đồ dạy bọn em học nữa.

    Dương Tông chau mày hỏi:

    – Cái ông Chiêu-Văn đó, độ bao nhiêu tuổi?

    – Khoảng hai chục. Ông í đẹp trai hơn anh nhiều.

    Dương Tông càng đăm chiêu:

    – Bọn em đã học võ với ông đến đâu rồi?

    – Nhiều lắm.

    Dương Tông đưa mắt cho Ðỗ Oanh. Ðỗ Oanh hỏi:

    – Bây giờ tôi thử vài chiêu với một em, xem võ các em có hiệu nghiệm hay không nghe!

    Nói rồi y vung tay tát Ức méo một cái. Ức méo vội trầm người xuống tránh, chân đứng theo trung-bình tấn, rồi tay phải gạt tay phải Ðỗ Oanh, tay trái đấm thẳng vào sườn phải chàng. Ðỗ Oanh tung người lên cao, rồi đấm thẳng vào mặt Ức méo. Ức méo lại trầm người xuống, rồi dùng vai húc vào bụng Ðỗ Oanh. Ðỗ Oanh nhảy lui lại.

    Cứ thế, Ðỗ Oanh đánh hết tám đòn chân, tám đòn tay, Ức méo đều đỡ được. Yến-Loan nhận ra võ công bọn nhỏ học được là võ công phái Ðông-a mà nàng đã học với vợ chồng quý nhân và sư phụ Tự-An.

    Dương Tông tươi cười nói với Yến-Loan:

    – Mừng cho em. Người nuôi dạy bẩy đứa trẻ này là một đại công tử có tư cách khác phàm. Em có thể yên tâm.

    – Anh biết công tử đó ư?

    – Biết, biết rất kỹ. Ta đi thôi.

    Yến-Loan dặn bọn trẻ:

    – Chị sẽ trở về với các em.

    Yến-Loan cùng Dương Tông ra xe. Ðỗ Oanh đánh xe chạy vào trong thành.

    Ðây là lần đầu tiên Yến-Loan đi chơi đêm, hơn nữa đi chơi đêm với một thanh niên phong lưu tiêu sái. Dương Tông luôn chỉ chỗ này, chỗ kia giảng giải cho nàng. Khi xe qua điện Cao-minh, Yến-Loan thấy cái chuông đồng treo trên một đài cao khoảng bốn thước (1m ngày nay). Cạnh đài có lính gác. Nàng hỏi:

    – Chuông để làm gì vậy?

    Dương Tông giảng giải:

    – Chuông này mang tên Hồng-chung, được đúc vào niên hiệu Sùng-hưng Ðại-bảo năm thứ tư (1052). Ðức vua Thái-tông đã ban chỉ làm chuông để cho những ai bị oan ức, thì cứ đến đánh lên, người sẽ đích thân cứu xét cho.

    – Thế từ hồi ấy đến giờ có ai đánh chuông kêu oan không?

    – Nhiều lắm. Nhưng mấy năm gần đây dường như không còn vụ nào oan uổng nữa, nên đâu có ai đánh chuông khiếu nại? Muội bảo đức vua có đáng bậc nhân quân không?

    – Không. Ông là hôn quân, ác quân. Thực chẳng xứng đáng làm chúa cõi trời Nam.

    Dương Tông quát lên:

    – Người không được nói lời phạm thượng, như vậy là phạm tội đại bất kính, phải chặt đầu.

    Yến-Loan kinh hãi vô cùng, vì Dương Tông đang nhu nhã như vậy, mà thình lình nổi nóng chỉ vì một câu nói tầm thường của nàng. Nàng ngây người ra nhìn y. Dương Tông đã bình tĩnh trở lại:

    – Xin lỗi em, anh sợ bị chặt đầu, nên nói hơi lớn.

    – Chặt đầu thì chặt, nhưng sự thực là thế.

    Dương Tông giật mình:

    – Tại sao? Em đừng nói bậy.

    – Không bậy một tẹo nào cả.

    Yến-Loan kể nể: Những oan ức bất công đầy dẫy ra đấy. Nhưng nào ai dám đánh chuông kêu oan? Chẳng nói đâu xa, chính em đây đang bị hàm oan chồng chất, mà vua thì bị Tể-tướng bưng bít không biết gì, rồi ông ta xử oan xử ức. Vậy Chương-thánh Gia-khánh hoàng-đế nhân ở chỗ nào? Ðấy là nói về phạm luật hay không phạm luật. Còn như luật lệ đương thời là thứ luật bất nhân. Em hỏi anh câu này nhé: hiện vẫn còn biết bao nhiêu cô gái con nhà nghèo phải bán mình cho nhà giầu làm tôi tớ. Trong khi đó lại có biết bao trai trẻ không vợ? Hiện có biết bao nhiêu chủ điền bóc lột tá điền. Tại nông thôn bọn cường hào ác bá thi nhau áp chế dân. Như vậy là đức nhân ư?

    Mặt Dương Tông tái nhợt:

    – Thế em có biết thế nào là đức nhân không đã?

    – Anh hỏi đức nhân của nhà Phật hay của nhà Nho?

    – Nhà Nho mới nói nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, chứ đạo Phật chỉ nói từ bi, hỉ xả thôi.

    Yến-Loan cười khúc khích:

    – Thôi bỏ chuyện nhân đi, em hỏi chuyện khác. Hồi còn nhỏ, em có nghe kể chuyện Phật-bà chùa Hương-tích hay chuyện đức chúa Ba. Chuyện này hay lắm. Nghe đâu chép bằng chữ Khoa-đẩu, ngày nay không ai đọc được nữa. Tiếc quá. Anh là người đọc sách, anh có thuộc chuyện này không?

    Dương Tông thấy đang nói về chữ nhân, mà Yến-Loan lại hỏi sang chuyện khác, chàng bật cười, nhưng cũng trả lời:

    – Chuyện này khá hay, anh đọc hoài nên cũng nhớ được ít câu.

    – Anh đọc cho em nghe thử xem nào!

    Dương Tông đọc:

    Chân như đạo Phật rất mầu,
    Tâm trung chữ hiếu, niệm đầu chữ nhân.
    Hiếu là độ được đấng thân,
    Nhân là thoát khỏi trầm luân mọi loài.(7)

    Ghi chú,

    (7) Trích chuyện Phật bà chùa Hương, không rõ tác gỉa, không rõ thời gian viết. Nhưng tôi thấy cốt chuyện hơi giống việc công chúa Hồng-Châu em vua Lý Thái-tổ đi tu, sau là Tịnh-Huyền. Xin xem Anh hùng Tiêu-sơn của Yên-tử cư-sĩ.

    Yến-Loan ngắt lời:

    – Ủa, sao anh bảo đạo Phật không nói về chữ nhân mà?

    Câu nói của Yến-Loan làm Dương Tông kinh ngạc, nghĩ thầm:

    – Chết thực, mình tự cao, tự đại, coi thường cô bé nhà quê, bị cô ấy đưa vào bẫy rồi. Mình phải cẩn thận với cô mới được. Tiện đây mình thử hỏi ít câu, xem kiến thức của cô ấy ra sao đã.

    Nghĩ vậy, chàng hỏi:

    – Kiến thức của em thực không tầm thường. Anh không mấy chú ý đến chữ nhân trong Nho. Vậy theo Nho, chữ nhân nghĩa là gì? Chữ nhân có từ thời nào?

    Yến-Loan suy nghĩ một lát rồi nói:

    – Anh thử em đấy à? Này anh ơi, trước Khổng-tử ít thấy nói đến chữ nhân. Trong Kinh-thi, phần Nhã, Tụng, rồi sách Thượng-thư đều không thấy nói đến chữ nhân. Song tới Luận-ngữ thì chương nào cũng nói đến nhân, coi như cái đạo lớn của loài người "nhân sinh chi đạo". Nếu em nhớ không lầm thì những chương nói về chữ nhân nhiều nhất là Nhan Uyên, Tử-Lộ, Dương Hóa, Hiến-vấn, Ung Dã. Còn nhân là gì, thì thiên Ung-Dã, Khổng-tử đã nói rồi:

    " .. Tử-Cống hỏi Khổng-tử, tỉ như có người thi ân, bố đức cho khắp nhân gian, mà có thể giúp cho dân chúng, thì người ấy ra sao? Gọi là người nhân được không?

    Khổng-tử đáp: sao lại chỉ gọi là người nhân thôi? Phải gọi là bậc thánh mới đúng. Ðến như vua Nghiêu, vua Thuấn, còn làm không nổi nữa là. Người nhân là người tự lập, mà cũng giúp cho người tự lập. Mình muốn thông đạt, mà cũng giúp cho người thông đạt; lấy cách đối đãi với mình mà đối đãi với người, làm người nhân chỉ có thế thôi". (8) Như vậy chữ nhân ở đây có nghĩa là lấy cái thành của mình mà giúp cho kẻ khác; thấp hơn một chút là điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác.

    Ghi chú,

    (8) Nguyên văn:

    ...Tử-Cống viết: Như hữu bác thí ư dân, nhi năng tế chúng, như hà? Khả vị nhân hồ?

    Tử viết: "Hà sự ư nhân? Tất dã thánh hồ! Nghiêu, Thuấn kỳ do bệnh chư! Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân. Năng cận thủ thí, khả vị nhân chi phương dã dĩ". (Luận-ngữ, Ung-dã )

    Ðỗ Oanh xen vào:

    – Thưa cô nương, thế thì nhân của Khổng với Phật cũng giống nhau sao? Phật dạy ta tu hành, rồi độ cho người "nguyện độ chúng nhân giai thành Phật đạo".

    – Ðâu có! Phật dạy ta phải nhân, phải thương xót cả kẻ có tội, thương mọi người như nhau. Khổng-tử bắt ta phải kính người nhân, xa lánh kẻ ác. Khác nhau xa lắm. Như thiên Lý-nhân người nói:

    " ...Chỉ có bậc nhân mới biết yêu người, ghét người..." (9)

    Ghi chú,

    (9) Nguyên văn :

    ...Duy nhân giả năng hiếu nhân, năng ố nhân. (Luận-ngữ, Lý nhân)

    Yến Loan lại tiếp :

    – Ông lại khuyên môn đệ : " ... trong nhà thì hiếu, ra ngoài thì đễ, cẩn thận cung kính mà chân tình thật ý, yêu mọi người mà thân với bậc nhân..." (10) Khi Tử-cống hỏi ông : "Người quân tử có ghét ai không?. Ông đáp: Có ghét, ghét kẻ bêu chuyện xấu của người; ghét kẻ dưới mà nói gièm người trên; ghét kẻ có sức mạnh mà không biết lễ phép; ghét kẻ ương ương làm liều để đi đến hỏng việc..." (11)

    Ghi chú,

    (10) Nguyên văn:

    ... nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân. (Luận-ngữ, Lý nhân)

    (11) Nguyên văn:

    ... Tử-Cống viết: Quân tử diệc hữu ố hồ? Tử viết: Hữu ố. Ố xưng nhân chi ác giả; ố cư hạ lưu nhi sán thượng giả; ố dũng nhi vô lễ giả; ố quả cảm nhi bất trất giả. (Luận-ngữ, Dương-Hóa)

    Dương Tông im lặng nghe Yến-Loan nói về nhân, gương mặt tỏ ra đăm chiêu, suy nghĩ. Yến-Loan kết luận:

    – Thu gọn lại chữ nhân của Nho có thể tóm lược trong thiên Dương-Hóa như sau : " ..Tử-Trương hỏi Khổng-tử về nhân. Khổng-tử đáp: Làm được năm điều trong thiên hạ thì là nhân. Tử-Trương hỏi: xin thầy cho biết đó là những điều gì? Ðáp: Năm điều ấy là cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Nếu mình cung kính nghiêm trang thì chẳng ai dám khinh mình. Nếu mình khoan hồng thì phục được lòng người. Nếu mình có đức tín thì người ta tin cậy mình. Nếu mình cần mẫn thì làm được việc. Nếu mình thi ân bố đức thì đủ sai khiến được người..." (12)

    Ghi chú,

    (12) Nguyên văn:

    ... Tử-trương vấn nhân ư Khổng-tử. Khổng-tử viết : "Năng hành ngũ giả ư thiên hạ, vi nhân hỹ". "Thỉnh vấn chi". Viết "Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung tắc bất vũ. Khoan tắc đắc chúng. Tín tắc nhân niệm yên. Mãn tắc hữu công. Huệ tắc túc dĩ sử nhân". (Luận-ngữ, Dương-Hóa)

    Nàng nói bâng quơ:

    – Này, anh nghĩ ngày mai em có nên đánh Hồng-chung kêu oan không?

    – Nên lắm. Anh chắc trăm phần trăm đức vua sẽ xử cho em thắng. Anh đề nghị em nên viết một bài biểu trần tình, thuật hết nọi chuyện. Khi em đánh chuông thì lính canh sẽ cầm biểu, rồi dẫn em vào yết kiến đức vua, đức vua sẽ xử cho em.

    – Chưa chắc đức vua đã là một nhân quân. Em sợ chỉ uổng công mà thôi.

    Dương Tông thở dài:

    – Em luận đúng. Quả Chương-thánh Gia-khánh chưa thể gọi là ông vua nhân. Nếu như em làm vua, thì em sẽ làm gì cho dân sung sướng, để tỏ ra có đức nhân?

    – Chúng ta hiện đang ở vào thời kỳ cách xa Khổng-tử hơn nghìn năm. Ðương thời đạo của Khổng cũng không được vua chúa dùng đến, huống hồ chúng ta? Nếu chúng ta cứ bắt chước Tống, ngồi tầm chương trích cú, tìm cái xương trong quả trứng gà, thì rồi Chiêm, Lào sẽ đem quân vào quấy rối ở phương Nam, Tống đem quân từ phương Bắc xuống chiếm đất nước. Ta chỉ nên thu thập lấy những tinh hoa của Khổng, của Lão, của Mặc, của Phật... cái nào hợp với chủ đạo tộc Việt thì giữ. Còn bao nhiêu thì quẳng xuống sông Hồng-hà cho rồi. Tại sao lại cứ phải cột chết mình vào chữ nhân? Việc trước mắt là hãy bàn cách làm sao cho dân giầu, nước mạnh đã. Em mà làm vua, thì em ban chỉ đánh thuế thực nặng những người giầu, rồi lấy tiền đó chuộc những con gái người nghèo phải bán thân cho người ta, đem chúng gả cho đàn ông góa, cho thanh niên nghèo không tiền cưới vợ. Tự hậu cấm nạn bán mình.

    – Ý kiến của em hay đấy. Rồi sao nữa?

    – Hiện nay trên khắp nước đang thiếu trâu cầy. Có khi bốn năm nhà cùng cầy chung một trâu. Thế mà bọn giầu cứ giết trâu chè chén. Muốn cho dân giầu, thì phải khuyến nông. Muốn khuyến nông thì trước hết cấm giết trâu.

    – Giỏi. Rồi sao nữa?

    – Giới hạn số ruộng của người giầu. Triều đình mua ruộng quá số ấy bán cho người nghèo. Như vậy chỉ ít lâu sau, mọi người đều có ruộng, không đến nỗi kẻ giầu thì giầu quá, người nghèo thì chết đói.

    – Ba điều hay. Thế điều thứ tư là gì?

    – Thứ tư là hiện có nạn chủ điền thu tô quá cao, đến nỗi tá-điền đành khoanh tay ngồi chịu đói, chứ thuê ruộng cầy cấy mà số hoạch không đủ nộp cho chủ-điền thì cầy làm gì? Còn chủ điền thì thà để ruộng hoang còn hơn là giảm tô. Thành ra số ruộng để hoang quá nhiều, trong khi tá điền ngồi chơi. Dĩ nhiên với tình trạng hiện thời thì không thể có nạn chết đói. Nhưng ví thử tất cả ruộng đất đều cầy, thì có phải quốc-sản dư thừa không?

    Dương-Tông gật đầu:

    – Em thực là một nữ tể tướng. Thế còn vấn đề thứ năm?

    Yến-Loan chưa kịp trả lời, thì từ phía trước một chiếc xe ngựa phóng như bay, nhắm đâm thẳng vào xe của Dương Tông. Ðỗ Oanh hét lên:

    – Coi chừng!

    Nhưng đã trễ, chiếc xe kia đâm bổ vào xe Dương Tông. Ðỗ Oanh đứng dậy giật cương cho ngựa tránh sang bên cạnh. Nhưng ngựa bị giật cương quá gấp, nên nhảy dựng đứng hai chân trước, hí inh ỏi. Dương Tông, Yến-Loan cùng vọt mình lên cao, rồi đá gió một cái, người tà tà rơi xuống bên đường.

    Ðỗ Oanh nhảy xuống xe, tìm chủ xe để tính tội, thì chỉ thấy chiếc xe không. Trong xe có hai chiếc thùng đựng phẩn. Phẩn bắn tung tóe ra ngoài, hôi thối không chịu được.

    Quãng đường này không rộng cho lắm, hai chiếc xe đụng nhau chặn mất lối đi đường, làm xe, ngựa phía sau ùn lại, nhiều tiếng la ó, chửi bới. Dương Tông nói với Ðỗ Oanh:

    – Tại sao lại có sự kiện lạ lùng thế này?

    – Thưa công tử, có lẽ xe chở phẩn đậu bên đường, chủ nhân đang bận làm gì đó, rồi ngựa bị ai đánh nó, nên nó chạy quàng.

    Ðỗ Oanh định nói nữa, nhưng y vội ngậm miệng lại, vì rằng đây không phải là xe chở phẩn, mà là một chiếc xe nệm, cương đều rất đẹp, như vậy lẽ chủ nó phải là người giầu có lắm. Hai chiếc thùng bằng gỗ đựng phẩn không có nắp đậy như những thùng chở phẩn khác, mà nó là hai chiếc thùng dùng để gánh nước. Nhìn kỹ trên xe có một xác người chết nằm cong queo. Miệng xác chết bị tọng một cái đùi chó.

    Dương Tông, Yến-Loan, Ðỗ Oanh đồng kêu lên:

    – Mộc-tồn Vọng-thê hòa thượng.

    Ðỗ Oanh nhăn mặt:

    – Thưa chủ nhân, cứ như tiểu nhân đoán, thì chủ nhân chiếc xe này làm bậy, bị Mộc-tồn hòa thượng xử tử, rồi ông bỏ lên xe một chiếc thùng phân, sao đó đánh cho ngựa chạy loạn lên.

    Dương Tông có vẻ bực mình, nói với Ðỗ Oanh:

    – Mi ở đây lo mọi chuyện. Ta với tiểu cô nương vào tửu lầu kia nghe. Xong việc, người ngồi chờ ta.

    Dương Tông dẫn Yến-Loan vào một tửu lầu lớn, nàng liếc mắt, thấy có tấm bảng đề "Long-biên anh hùng quán". Chủ nhân chạy ra cung tay:

    – Kính mời quý khách vào. Không biết quý khách có bao nhiêu người?

    Dương Tông đáp:

    – Ta có hai người mà thôi. Người cho ta một bàn biệt lập, sang bậc nhất.

    Một tửu bảo cung kính mời hai người lên lầu hai, dẫn vào một phòng nhỏ. Trong phòng chỉ có một bàn, trên cắm hoa tươi, trải khăn lụa mầu vàng, thêu cảnh sơn thủy. Yến-Loan liếc mắt, thấy trên tường treo một bức trướng lụa, trên viết bài thơ của Lý Bạch ca tụng rượu, một bức tranh sơn mài vẽ hình Bát-tiên quá hải. Cạnh đó có cái kệ, trên đặt tượng của Phật Di-Lặc, phía sau kệ là chiếc bàn nhỏ để tượng Tam-đa.

    Tửu bảo khom lưng chờ đợi. Dương Tông hỏi Yến-Loan:

    – Yến-Loan thích món gì nào?

    – Hôm nay mười sáu, em ăn chay.

    – Yến-Loan ăn trường chay hay sao?

    – Hồi ở chùa, em ăn chay trường như các thầy. Sau này ngồi tù, em phải ăn mặn. Từ ngày về Thăng-long, em ăn chay ngày ba mươi, mồng một, mồng hai, mười tư, mười rằm và mười sáu.

    – Như vậy là em tự ý ăn chay, chứ không phải em phát nguyện mà?

    – Vâng.

    – Vậy thì hôm nay ta ăn mặn nhé?

    – Xin chiều lòng quân tử.

    Dương Tông gọi tửu bảo:

    – Bây giờ là tháng một đang mùa rươi, người cho ta đĩa chả rươi, hai con chim bồ câu quay, hai bát canh vi yến.

    Tửu bảo vừa ra khỏi phòng thì có tiếng người quát tháo, tiếng người biện luận vọng vào. Tiếng quát tháo dường như của người còn trẻ:

    – Ta bảo ta thích cái phòng này, thì dù có Diêm-la lão tử, Ngọc-hoàng đại đế cũng phải nhường cho ta. Tại sao mi cứ lải nhải mãi vậy?

    Ðến đây thì sáu người xuất hiện. Họ gồm ba trai, ba gái và lão chủ. Lão chỉ vào trong phòng có Dương Tông, Minh-Ðệ:

    – Tiểu nhân đâu dám nói dối công tử. Xin công tử thử nhìn xem, trong phòng đã có khách ngồi rồi.

    Một thiếu niên trẻ, đi giữa hai thiếu niên và ba thiếu nữ khác quát:

    – Thì mi đuổi hai đứa này đi, rồi lau chùi bàn ghế sạch sẽ cho chúng ta ăn uống. Bằng chậm trễ thì đừng có trách ta.

    Lão chủ quán quay lại nói với Dương Tông, Minh-Ðệ:

    – Xin hai vị di đại giá sang phòng bên cạnh. Dương đại công tử đã ưa phòng này, thì chúng tôi đành phải chiều người.

    Nghe đến Dương đại công tử, Yến-Loan lại nhớ đến Dương tam công tử cùng vợ phóng xe như bay, đụng phải Khất hòa thượng hôm nàng dạo chơi Thăng-long. Yến-Loan nghĩ thầm:

    – Anh em nhà họ Dương thực giống nhau, dựa thế ông cha, không coi ai ra gì nữa.

    Yến-Loan nhìn lại, Dương Tông nghe Dương công tử đe dọa, mà vẫn bình tĩnh, lắc đầu:

    – Xin lỗi, tôi đến trước rồi, ông đem khách tới sau sang phòng bên kia có được không?

    Một trong ba thiếu nữ trẻ ra vẻ thành thạo, chỉ vào thiếu niên nói:

    – Tên hủ nho kia, người có biết công tử gia đây là ai không?

    Dương Tông vẫn ôn tồn:

    – Nước có luật, làng có lệ, nhà có quy. Như chủ nhân vừa nói, Anh-hùng tửu lâu này đã định rằng ai có tiền thì được vào ăn. Ai tới trước thì được chọn phòng trước. Công tử nhà cô nương dù là con quan, con dân, cũng phải tuân theo quy tắc đó. Chúng tôi tới trước, chọn bàn trước, đã gọi món ăn rồi; hà cớ công tử của nhà cô nương lại đòi đuổi chúng tôi đi?

    Thiếu nữ trẻ chỉ vào Dương nhị công tử, cùng hai thiếu niên::

    – Vị này là đệ nhị công tử của Chiêu-văn-quan đại học sĩ, Gia-viễn quốc công.

    Lại chỉ vào thanh niên lực lưỡng:

    – Vị này họ Trịnh, danh Quang-Liệt, đệ nhị thái bảo của trường Trung-nghĩa Kinh-Bắc, hiện đang lĩnh chức Vũ-vệ hiệu úy cung Long-thụy.

    Lại chỉ vào một thanh niên mặt mũi coi bạc nhược:

    – Vị này là một vị công công tổng lĩnh thái giám cung Long-thụy, tên Nguyễn Quý-Toàn.

    Yến-Loan nghĩ thầm:

    – Hôm ta bị bắt đến dinh Trung-nghĩa thì không thấy thằng này, có lẽ nó làm quan xa, nên vắng mặt, bằng không nó đã nhận ra ta. Còn tên Nguyễn Quý-Toàn kia là hoạn quan. Chúng là thị-vệ, thái-giám, hèn chi hách dịch quá.

    Dương Tông nghe giới thiệu gia thế, địa vị của bọn mới đến mà vẫn rửng rưng coi như không có chúng vậy. Chàng vẫy tay:

    – Dù công-tử, dù thị-vệ, dù thái-giám thì xin chờ chúng tôi ăn xong, mới có thể vào đây.

    Gã họ Dương đưa mắt cho tên Quang-Liệt. Quang-Liệt tiến tới vung tay chụp cổ áo Dương Tông định nhắc bổng chàng lên. Bỗng Ðỗ Oanh xuất hiện. Y nhìn bọn họ Dương, miệng cười khành khạch, rồi quát:

    – Buông tay. Không được vô lễ!

    Rồi y ra chiêu ưng trảo chụp vào vai Quang-Liệt, y ra chiêu sau, mà lại tới trước. Lập tức cánh tay Quang-Liệt mất kình lực. Y vội nhảy lùi lại phía sau, đưa mắt gườm gườm nhìn Ðỗ Oanh. Tên họ Dương chỉ mặt Ðỗ Oanh:

    – Mi là ai, ban nãy ta chưa cho bắt mi về tội ăn cắp ngựa, cùng vô lễ, bây giờ mi lại can thiệp vào chuyện chúng ta, thì mi tới số rồi.

    Ðỗ Oanh chỉ vào Dương Tông:

    – Ta là tùy tùng của chủ nhân đây.

    Ðến đó tửu bảo bưng một cái mâm với bát đĩa, thức ăn, cùng rượu lên. Gã Quý-Toàn vung chân đá vào chiếc mâm, miệng quát:

    – Tụi bay vô phép thì không được ăn.

    Chiếc mâm bay tung lên cao. Ðỗ Oanh phất nhẹ một chiêu, bao nhiêu bát, đũa, thức ăn văng vào mặt tên Quý-Toàn, mặt mũi, y phục của y tẩm nước canh, nước mắm, rượu, trông thực thảm thiết.

    Lập tức gã họ Dương, gã Quang-Liệt, Quý-Toàn cùng nhảy vào tấn công Ðỗ Oanh. Ðỗ Oanh như đùa bỡn với cả ba người. Y xuyên bên Ðông, lượn bên Tây vung tay tát tên Quý-Toàn một cái, rồi dùng ưng-trảo xé áo gã họ Dương, sau đó lượn một vòng, quét chân một cái làm gã Quang-Liệt ngã chổng vó lên trời. Khoảng nhai dập miếng trầu, thì quần áo cả ba người rách bươm, trông thực thảm thiết.

    Nhìn qua thân thủ Ðỗ Oanh, Yến-Loan kinh ngạc, nghĩ thầm:

    – Ta tưởng y chỉ là tên đánh xe, không ngờ võ công y cao thâm thực. Những chiêu số y dùng, thì đúng là của phái Tản-viên. Cái tên Hồng-Liệt kia, võ công đâu có thua sư huynh y. Còn tên họ Dương, thì chiêu số rất kỳ lạ, ta chưa hề thấy qua!

    Ba thiếu nữ đi cùng gã họ Dương chạy xuống nhà một lát sau, cả ba ả xuất hiện với một đội võ sĩ khoảng hơn mười người. Viên chỉ huy đội võ sĩ dáng người to lớn kềnh càng. Ði theo y còn có một lão già gầy gò, nhưng tuổi đã cao. Tên đội trưởng ra hiệu cho đội võ sĩ vây lấy bọn Dương Tông. Còn lão già thì chắp tay sau lưng đứng nhìn trận đấu. Giữa lúc đó Ðỗ Oanh tát gã công tử họ Dương một cái, gã đội trưởng vội xỉa ngón tay vào giữa Ðỗ Oanh với gã họ Dương. Nếu Ðỗ Oanh đánh tới thì huyệt Lao-cung trên bàn tay y bị thương. Ðỗ Oanh vội biến cái tát thành quyền, gã đội trưởng lại biến thành cầm nã, bắt tay y. Hai tay đụng nhau đến bộp một tiếng. Ðỗ Oanh bật lui liền hai bước, còn gã đội trưởng thì tỏ vẻ đau đớn, ôm tay đứng tần ngần nhìn Ðỗ.

    Ba tên Quang-Liệt, Quý-Toàn và gã họ Dương cùng nhảy lui lại.

    Gã họ Dương nói lớn với lão già như ra lệnh:

    – Lão sư, xin lão sư bắt hai thằng ôn con này đem về phủ cho tôi.

    Lão già ra chiêu hổ trảo chụp Ðỗ Oanh. Ðỗ Oanh trầm người tránh, nhưng tay lão cũng trầm theo, rồi túm được cổ áo Ðỗ Oanh nhắc bổng lên, lão ném y xuống đất cho bộ hạ trói lại.

    Dương Tông quát lên một tiếng, tay phải chàng phẩy nhẹ một cái, tên võ sĩ đang trói Ðỗ Oanh bật tung lại sau, ngã lộn đi hai vòng. Lão già phát một chưởng hướng Dương Tông, chiêu số chưa ra hết, mà mọi người đã cảm thấy nghẹt thở. Dương Tông lùi lại ba bước, tay phải quay hai vòng, rồi đẩy về trước một chưởng. Hai chưởng chạm nhau đến bùng một tiếng. Cả hai đều bật lui lại.

    Mặc cho lão già kinh hãi đến đờ người ra, Dương Tông trở lại bàn ngồi với Yến-Loan. Lão già biết có đấu, chưa chắc đã thắng Dương Tông. Y tảng lờ quay lại hỏi tên họ Dương:

    – Thưa công tử, cái gì đã xẩy ra?

    Gã họ Dương chỉ vào Dương Tông, với Ðỗ Oanh:

    – Hai tên này đồng bọn đã ăn cắp xe của tôi. Y còn giết chết con trai của kinh-lược An-vũ sứ Kinh-Bắc, rồi nhét đùi chó vào miệng nạn nhân.

    Dương Tông khoan thai đứng dậy, nói với gã họ Dương:

    – Dường như ban nãy tiểu cô nương đây giới thiệu công tử là cháu đích tông của Tả bộc-xạ, Chiêu-văn quan đại học sĩ, giám tu quốc sử, Dương Ðạo-Gia. Như vậy công tử là con trai của Trường-yên tiết độ sứ, Kinh-Nam hầu chăng?

    – Mi nói không sai.

    – À, tôi biết công tử rồi. Công tử có tên là Dương Ðức-Huy phải không? Nhà họ Dương phú quý trải đã ba đời. Xưa kia ông cố nội của công tử đã làm Tể-tướng dưới thời vua Thái-tông, rồi thái cô của công tử được phong là Thiên-Cảm hoàng hậu. Bây giờ ông nội công tử làm tể-tướng, phụ thân làm tiết-độ-sứ tước phong hầu; cô của công tử cũng được phong là Thượng-Dương hoàng-hậu. Có đúng thế không?

    Dương Ðức-Huy nghe Dương-Tông nói, y hơi chột dạ:

    – Người biết cũng khá nhiều đấy.

    Dương Tông hừ một tiếng:

    – Hiện Dương tể-tướng đang vận động với Thiên-Cảm hoàng-hậu, để công tử được giữ chức Ðô-thống chỉ huy một đạo Thiên-tử binh, nhưng triều đình dị nghị về đức hạnh của công tử, nên việc còn dang dở. Thế mà hôm nay công tử lại đến đây lấn át lương dân. Về đạo lý, coi đã không thuận, huống chi về luật pháp? Tôi xin rửa tai nghe lời công tử dạy dỗ, bằng không tôi phải đánh chuông khiếu oan lên Thiên-tử.

    Dương Ðức-Huy chỉ vào Ðỗ Oanh:

    – Tên gia đinh nhà ngươi ăn cắp xe ngựa của ta, cùng giết biểu đệ của ta. Ta phải bắt hết bọn mi đem về cho phủ thừa Thăng-long trị tội mới được.

    Dương Tông thầy Ðức-Huy lờ vụ đòi chiếm phòng ăn của mình mà nói lảng sang chuyện khác, chàng hỏi Ðỗ Oanh:

    – Sự việc ra sao?

    – Thưa chủ nhân, ban nãy chiếc xe lạ chở phẩn đụng phải xe mình. Chủ nhân bảo thuộc hạ ở lại giải quyết. Thuộc hạ lôi con ngựa kéo xe chở phẩn sang bên cạnh, thì mấy người này xuất hiện chửi bới thuộc hạ ăn cắp ngựa, giết người. Thuộc hạ phân trần rằng rõ ràng đó là thủ đoạn của Mộc-tồn hòa thượng, thế nhưng họ không nghe, cứ đòi bắt cho được thuộc hạ. Có ai vô lý như vậy không? Rõ ràng xe họ đụng xe mình, mình không nói gì thì thôi, đây ngược lại họ trịch thượng kết tội mình ăn cắp xe.

    Dương Tông gật đầu:

    – Ðược rồi, chúng ta cùng đến quan tổng trấn Thăng-long để người xử.

    Dương Ðức-Huy chỉ Dương Tông, Ðỗ Oanh bảo đám võ sĩ:

    Dương Ðức-Huy chỉ Dương Tông, Ðỗ Oanh bảo đám võ sĩ:

    – Bọn người hãy trói hai tên này lại đã.

    Ðám võ sĩ đã thấy võ công của Dương Tông, chúng đang tỏ ý ngần ngừ, thì Ðỗ Oanh cười nhạt:

    – Này anh em võ sĩ của Dương gia. Anh em còn nhớ vụ người nhà họ Dương bang bạnh ở bến Bắc-ngạn thời vua Thái-tông không? Kết quả hai mạng họ Dương chết thảm, mà hai vị Ðô-thống chỉ vì nghe lời họ Dương, rồi đi đến bị băm xương ở Tây-nhai. Các vị hãy nhìn gương cũ, để khỏi chết oan. Các vị nên nhớ Mộc-tồn hòa thượng đang ở rất gần các vị đấy.(13)

    Ghi chú,

    (13) Biến cố Bắc-ngạn xẩy ra như sau: Khai-Hoàng vương (nay là Chương-thánh Gia-khánh hoàng đế) cùng với Lý Thường-Kiệt qua Bắc-ngạn Thăng-long thì gặp Dương-hồng-Hạc (Nay là Thượng-Dương hoàng hậu) cùng anh trai. Hai người hách dịch, bang bạnh ra lệnh cho hai đô thống Ðinh, Phùng bắt trói vương với Thường-Kiệt, việc vày đưa đến cha và anh của Hồng-Hạc là Dương Ðức-Uy, Dương Ðức-Thao bị Ưng-sơn song hiệp giết chết. Xin đọc Anh linh thần võ tộc Việt cùng tác giả.

    Nghe Ðỗ Oanh nói, viên lĩnh đội võ sĩ nói với Ðức-Huy:

    – Thưa công tử, tiểu nhân đề nghị công tử đưa những người này về phủ thừa Thăng-long, để quan phủ Thăng-long phát lạc. Khi họ chưa có tội rõ ràng, thì ta chẳng nên trói họ.

    Dương Tông quay lại nói với Yến-Loan:

    – Muội muội ngồi đây chờ ta một lát nghe.

    Rồi chàng cùng Ðỗ Oanh khoan thai đi với bọn võ sĩ xuống dưới nhà.

    Nghe Dương Tông dặn, Yến-Loan ngồi yên trong phòng chờ tin tức. Ðể giết thời giờ, Yến-Loan lấy bộ Luận-ngữ cùng bộ Kinh-thi trong túi ra đọc. Thời gian không biết bao nhiêu lâu, Yến-Loan đã đọc hết bộ Luận-ngữ, mà vẫn chưa thấy hai người về. Chợt tửu bảo chạy lên nói với nàng:

    – Này chị, xin chị ra đường đứng chờ mấy vị đi cùng. Tôi phải dọn phòng này cho quý khách.

    Yến-Loan đứng lên xuống dưới nhà. Sốt ruột nàng nghĩ thầm:

    – Âu là ta đến phủ thừa Thăng-long dò la tin tức xem sao.

    Nàng móc túi cho tửu bảo mấy đồng tiền rồi hỏi nó:

    – Chú em, chú có biết phủ thừa Thăng-long với dinh Tể-tướng ở đâu không?

    – Biết chứ, kìa chị cứ đi theo con đường trước tửu lầu khoảng nửa dặm, rồi quẹo sang trái, chị sẽ thấy một dinh thự đồ sộ, đó là phủ đệ của Dương tể tướng, gần đấy, chỗ có cây đề là phủ thừa Thăng-long.

    Từ Anh-hùng tửu lâu đến dinh Tể tướng không xa cho lắm. Khoảng hơn khắc sau nàng đã tìm thấy phủ đệ Gia-viễn quốc-công. Gần đó là phủ thừa Thăng-long. Yến-Loan đi đi, lại lại ở phía ngoài hàng rào. Gần một giờ sau vẫn không có tin tức Dương Tông. Thấy một tên võ sĩ trong bọn ban nãy đi ra, nàng hỏi y:

    – Này anh, việc ấy ra sao rồi?

    Tên võ sĩ cười nhạt:

    – Cô có phải là vợ của một trong hai tên ấy, thì về sắm quan quách đi là vừa. Tể-tướng truyền giam cả hai tên lại, rồi ngày mai đem chém về tội giết người cùng làm loạn kinh đô.

    – Thực vậy sao?

    – Chứ không thực ư? Tôi nói dối cô làm gì? Tể tướng đã lên án trảm quyết y. Mai sớm thì thi hành. Thôi cô về sắm sửa quan quách đi cho kịp. Tôi nói cho cô biết, đó là hai tên gian tế của Tống để làm nội ứng khi Tống đánh sang mình. Cô hiểu luật Ðại-Việt rồi đó, bất cứ kẻ nào làm gian tế cho Tống, thì quan võ từ cấp thiên-tướng, quan văn từ chức tri phủ đều có quyền trảm đầu, sau mới tâu về triều.

    Nói xong y bỏ đi.

    Yến-Loan kinh hoàng, choáng váng mặt mày, nàng ôm đầu bỏ chạy biến vào đêm tối. Thình lình nàng đâm sầm vào một người. Cả nàng và người ấy đều bật lui hai bước. Nàng kinh hãi, nhìn lại xem kẻ bị mình đụng phải là ai? Nàng giật mình, vì đó chính là Khất hoà thượng. Nàng vội cung tay:

    – A-di-Ðà Phật. Xin Phật giá sư phụ tha cho đệ tử. Vì hoang mang, vì hoảng sợ, đệ tử đụng phải đại giá sư phụ.

    Khất hoà-thượng cười rất tươi:

    – Chính ta phải tạ lỗi với thí chủ mới phải, vì chính ta đụng phải thí chủ mà. Ta có lỗi. Lỗi tại ta.

    Ông chỉ vào tảng đá gần đó, rồi nói như ra lệnh:

    – Thí chủ ngồi đó đi!

    Không đừng được, Yến-Loan ngồi lên tảng đá. Khất hoà-thượng nhìn nàng từ đầu đến chân, rồi nói:

    – Thí chủ ơi! Ta thấy mắt thí chủ lờ đờ, trán dăn lại, tâm hồn hốt hoảng... Thì ra thí chủ đang có điều lo sợ phải không?

    – Bạch thầy vâng. Con có người bạn bị bắt giam, sáng mai đem ra chém. Vì vậy con kinh sợ.

    – Kinh sợ. Thí chủ kinh sợ thì ích gì? Này thí chủ ơi, con người ta sinh ra vốn trần truồng. Nếu nay người thân của thí chủ có chết cũng còn manh áo trên người, thì vẫn là lời chán mà. Thôi, đây bần tăng tặng cho thí chủ mấy viên thuốc. Thí chủ uống vào, nhất định tâm thần bớt hoảng hốt ngay.

    Yến-Loan cung tay lĩnh tám viên thuốc bỏ vào miệng nuốt đi. Nàng hỏi:

    – Bạch thầy thuốc này tên là gì vậy?

    – Thuốc do bần tăng chế ra, nó gọi là "Ðịnh tâm hoàn", dùng để trấn tĩnh nỗi lo lắng, phiền não. Nó cũng dùng để trị chứng mất trí nhớ. Như người già hay quên, học trò học thi. Bần tăng có thể tóm lược bằng câu này: "Kiên thần, trấn tĩnh, an miên, ích trí". Nghĩa là giúp người ta vững lòng khi bị đe dọa, khi bị hành hạ tâm thần, ngủ ngon và ích trí nhớ. (14).

    Ghi chú,

    (14) Ðịnh tâm hoàn

    Phương thuốc rất cổ, lưu truyền tới ngày nay. Chúng tôi thường dùng với tên "Kiên não định thần hoàn", rất hữu hiệu.

    Dưới đây tôi ghi thành phần, cạnh ghi thêm tiếng La-tinh, để quý đồng nghiệp dễ tra cứu:

    Ðương-quy (Angelica sinenis) 10%
    Táo-nhân (Semen zizyphi) 16%
    Thung-dung (Caulis cistanchis) 8%
    Bách-tử-nhân (Semen biotae) 6%
    Thiên-ma (Rhizoma gastrodiae 4%
    Viễn-chí nhục (Polygala) 4%
    Hồ-đào nhân (Walnut Kernels) 8%
    Ðởm Nam-tinh (Bile rhizoma arisaematis) 4%
    Xương-bồ (Rhizoma calami) 4%
    Cam kỷ-tử (Fructus lychii) 8%
    Hổ-phách (Succinum) 4%
    Long-xỉ (Fossilia dentis mastodi) 4%
    Ngũ-vị tử (Fructus schizandae) 20%.

    Cộng 13 vị, chế thành tễ, hoặc viên nhỏ.

    Hiệu-năng, chủ trị:

    - Kiên não (Ðầu óc hoang mang, lo nghĩ vẩn vơ, sở hãi vô lý hoặc có lý)
    – Trấn-tĩnh (Kinh hãi, bị đe dọa, bị khủng bố tinh thần, lo nghĩ trước khi thi, hoặc sắp phải đối diện với những khó khăn).
    – An miên (Giúp cho ngủ ngon. Nhưng đây không phải là thuốc ngủ).
    – Ích-trí (Bồi bổ trí nhớ. Người già hay quên. Sau khi bệnh mất trí nhớ. Giúp sinh viên, học sinh học bài mau thuộc, nhớ lâu).

    Dụng pháp, dụng lượng:

    Dùng thêm mật ong chế thành viên nhỏ, hoặc tễ.

    – Người già hoặc người bệnh mất trí nhớ, sinh viên học thi: ngày ba lần, mỗi lần 3g.
    – Thần kinh suy nhược: sáng 4,5g. Trưa 4,5g. Chiều 6g.
    – Trấn-tĩnh: ngày 3 lần, mỗi lần 6g.

    Cấm-kị,

    Không. Dùng lâu không hại.

    Dường như thuốc đã ngấm, Yến-Loan cảm thấy trong người khoan khoái kỳ lạ. Nàng chắp tay vái nhà sư:

    – Ða tạ thầy bố thí. Nhưng con vẫn lo.

    – Thôi được, để bần tăng coi cho thí chủ một quẻ bói xem hung cát thế nào nghe!

    Yến-Loan mừng quá chắp tay:

    – Dạ, dạ. Xin thầy xem cho con ngay.

    – Thế thí chủ sinh giờ, ngày, tháng năm nào?

    – Bạch thầy con sinh ngày 30 tháng năm, năm Ất-Dậu, giờ Thìn.

    Nhà sư bấm tay tính toán một lúc rồi nói:

    – Bần tăng coi Tử-vi cho thí chủ. Vậy thí chủ trả tiền đi chứ?

    Yến-Loan móc trong túi không còn đồng nào, nàng luống cuống chưa biết trả lời sao, thì nhà sư đã nói:

    – Thôi. Khỏi cần trả bây giờ. Sau này trả cũng chưa muộn.

    Nhà sư lại tính toán một lúc rồi nói:

    – Chà, số của thí chủ tốt quá. Mệnh thí chủ lập tại Dần; Thiên-đồng, Thiên-lương thủ mệnh. Thiên-đồng là phúc tinh, Thiên-lương là ấm-tinh, nên thí chủ sinh ra tâm tính lương thuần, thích đem của mình cho người, lòng luôn hòa hoãn. Ðã vậy còn được Hoá-quyền phụ trợ, nên học một biết mười, bút mặc văn chương hiếm có, võ công lại cao thâm khôn lường. Vì sinh tháng năm, giờ Thìn, hội đủ Tả, Hữu, Xương, Khúc chiếu cho nên sau này sự nghiệp của thí chủ vĩ đại vô cùng.

    – Thưa thầy liệu con có được như công chúa Kim-Thành, Trường-Ninh không?

    – Hơn nhiều.

    – Bằng vua bà Bình-Dương, tiên-cô Bảo-Hòa chăng?

    – Hơn nữa.

    – Bằng công chúa Thánh-Thiên, Phùng Vĩnh-Hoa không?

    – Cao hơn bậc nữa.

    – Thưa thầy còn ai đâu?

    – Sự nghiệp của thí chủ chỉ nhường vua Trưng mà thôi.

    – Thầy có dậy quá không?

    – Ðược! Thí chủ nhớ nhé, sau này nếu sự nghiệp thí chủ quả như bần tăng đoán, thì thí chủ phải làm bẩy mươi hai ngôi chùa để trả nợ đấy nhé.

    – Bạch thầy con không quên đâu.

    Quả nhiên sau này Yến-Loan lên làm Linh-Nhân hoàng thái hậu, cầm quyền cai trị Ðại-Việt; bà nhớ lại lời nguyện xưa, bỏ tiền riêng xây 72 ngôi chùa. Lại có thuyết nói rằng: bà xây 72 ngôi chùa để xám hối việc bức tử Thượng-Dương thái hậu cùng 72 cung nữ. Cũng có thể việc xây chùa này gốc ở cả hai thuyết trên.

    – Cung huynh đệ của thí chủ có Thiên-hình. Thiên-hình là hung tinh, hóa hình là thanh kiếm, chủ chém giết. Thời thơ ấu thí chủ bị em đánh đập khổ sở, có lần giết thí chủ, mà thí chủ vẫn thoát chết.

    – Dạ đúng ạ.

    – Cung phụ mẫu có Vũ-khúc, Thất-sát, vốn xấu, lại còn thêm Ðịa-kiếp nữa, thì thí chủ bị mẹ coi như kẻ thù, luôn tìm cách hại thí chủ. Dù thí chủ vô tội, nếu như có ai đâm chém thí chủ thì bà sướng lắm.

    – Dạ đúng ạ.

    – Ðại hạn thứ nhất ở cung Mão, ngộ Vũ, Sát, Kiếp, thì ôi thôi, suốt thời gian từ lúc sinh ra (1045) đến năm mười lăm tuổi (1045-1059), thí chủ sống như tôi đòi, như trâu, như chó. Dù thí chủ muốn sống đã không nổi, mà muốn chết cũng không xong.

    – Dạ, đúng ạ.

    – Từ năm mười lăm tuổi, đại hạn sang cung Thìn ngộ Thái-dương miếu địa, cuộc đời thí chủ bắt đầu thay đổi. Thí chủ được gặp đại quý nhân thu làm đệ tử. Cái khổ dần bớt đi. Nhưng năm mười sáu tuổi, năm Canh-Tý (1060) tiểu hạn ngộ Vũ, Sát, Kiếp. Lưu Thái-tuế ngộ Cự-môn, lưu Tang-môn nhập mệnh. Cự-môn chủ miệng lưỡi, Tang-môn chủ tàn phá; nên bị vu hãm, bị tù đầy. Năm nay, tiểu hạn nhập cung Sửu, ngộ Thiên-tướng, Ðịa-kiếp, thì xấu tốt lẫn lộn. Ðầu năm bị vu hãm, nhưng không sao. Bởi đại hạn có Thái-dương, tiểu hạn có Thiên-tướng, Long-trì, Phượng-các đều bất kị Thiên-hình, Ðịa-kiếp. Như vậy thí chủ thanh vân đắc lộ, sẽ gặp ý trung nhân, rồi được đại quý nhân chí tôn phối ngự. Từ nay, thênh thang đại mệnh phụ, cao sang tột đỉnh.

    – Thưa thầy...

    Nhà sư chỉ phía trước:

    – Kìa thí chủ nhìn kìa.

    Yến-Loan nhìn theo tay nhà sư, nhưng không thấy có sự gì lạ. Nàng hỏi:

    – Thưa thầy...

    Nhưng nhà sư đã biến đâu mất, chỉ còn bóng đêm che phủ mà thôi.
    #2
      CDDLT 21.01.2005 18:17:33 (permalink)
      HỒI THỨ TÁM

      Cỏ nội hoa hèn



      Minh-Ðệ định kiếm xe trở về dinh Thái-hà cầu cứu với Thường-Kiệt, nhưng trời đã về khuya, không còn xe chở thuê nữa. Kinh hoàng, nàng nghĩ thầm:

      – Nếu mình không về kịp đêm nay, thì sáng mai Dương đại ca với Ðỗ Oanh sẽ bị chém đầu. Làm sao bây giờ?

      Thấy chỗ đang đứng không cách xa Thính-hương khách xá làm bao, một tia sáng lóe lên trong đầu nàng:

      – Vậy ta trở về khách xá, viết một bài biểu, sáng sớm mai ta đến điện Cao-minh đánh chuông kêu oan. Phải rồi, theo như Dương đại ca nói, thì Chương-thánh Gia-khánh hoàng-đế là một hoàng-đế nhân từ, chí công. Ta khiếu oan, nhất định sẽ cứu được Dương đại ca.

      Nàng hít một hơi, rồi vận khí, dùng khinh công trở về khách xá. Người trong khách xá vẫn còn thức. Không ai để ý đến nàng. Nàng đẩy cửa vào phòng. Giấy bút mua hôm trước hãy còn nguyên. Nàng mài mực, rồi cầm bút viết. Minh-Ðệ đã từng đọc hàng trăm bài biểu trong các bộ sử, nên việc viết một bài biểu với nàng không mấy khó khăn. Bài biểu bắt đầu kể từ biến cố chùa Từ-quang, cho đến những gì xẩy ra ở lộ Kinh-Bắc, ở Khu-mật viện, ở Thái-hà trang. Cuối cùng là việc xẩy ra ở Anh-hùng tửu quán. Viết xong, Minh-Ðệ đọc lại, sửa chữa mấy chỗ rồi chép vào mấy tờ giấy.

      Nàng nhủ thầm:

      – Kể ra từ hôm đến chùa Từ-quang tới giờ mình gặp không biết bao nhiêu nghi vấn chưa được sáng tỏ. Trước hết Quan-Âm là ai, mà Thường-Kiệt là một đại thần, lại hạ thể gọi mình là sư muội, chiều đãi mình như con gái, chỉ vì mình xử dụng thần công của ngài? Mình đã hỏi sư huynh rằng Quan-Âm có phải là tiên cô Bảo-Hòa không, thì người bảo không phải. Vả hôm mình xem hình vẽ tiên cô trong nhà tổ trang Thái-hà thì thấy hoàn toàn khác Quan-Âm. Tại sao sư huynh đã nhận mình làm sư muội, mà không chịu nói tên sư phụ ra cho mình? Rồi vụ án chùa Từ-quang, ai đã đứng trong bóng tối hại chư tăng? Làm thế nào mà họ đem quần áo của mình từ nhà đến bỏ vào phòng chư tăng để vu vạ? Vợ chồng quý nhân là ai, mà Siêu-loại hầu nhất định là Ưng-sơn song hiệp? Lại còn một vị lão nhân xưng là đại hiệp Trần-tự-An dạy Chu-sa huyền âm chưởng cho mình, phóng độc vào mình? Bọn Ðặng Vinh, Trịnh Phúc, Vũ Ðức đang đêm đột nhập nhà tù định làm gì mình? Tại sao tên Ðoàn Quang-Minh có thẻ bài là Hoài-đức hầu, ra lệnh cho An-vũ sứ Kinh-Bắc giải mình về Khu-mật viện, mà sư huynh Thường-Kiệt bảo rằng trong Khu-mật viện không có y. Cuối cùng Dương Tông là ai mà võ công thực không tầm thường. Hơn nữa tên gia đinh đánh xe, võ công cũng vào hàng thượng thừa? Ngày mai mình đánh chuông kêu oan, mình phải khai hết sự thực, mới mong cứu được Dương đại ca.

      Nhưng nàng chợt thấy không ổn, vì có lần Thường-Kiệt cho nàng biết rằng, tất cả các cuộc xử tử trên đất Ðại-Việt đều phải thi hành trước giờ Dần. Trong khi giờ Mão thì hoàng đế mới lâm triều, bấy giờ nàng có kêu oan, người có xử thì Dương Tông đã chết rồi.

      Trong khi mải suy nghĩ, chân nàng vẫn rảo bước, chợt nàng nhận ra mình đã tới bờ hồ. Nhìn ra bãi hồ, nàng thấy con thuyền của sư phụ nằm im lìm trong bóng đêm. Minh-Ðệ tự hỏi:

      – Không biết thời gian qua ta vắng mặt, sư phụ có mong ta không? Người không thấy ta về, ắt là giận ta lắm. Hay ta cầu cứu với sư phụ, để người cứu Dương đại ca?

      Nàng tiến tới chỗ con thuyền đậu, rồi lên tiếng gọi:

      – Sư phụ! Sư phụ, đệ tử là Yến-Loan đây.

      Không có tiếng trả lời. Nàng tung mình lên cao, tà tà đáp xuống mũi thuyền. Nàng gõ tay vào cánh cửa thuyền, cũng không có tiếng đáp lại. Nàng đẩy mạnh, mở tung cửa ra, một mùi hôi tanh kinh khủng bốc lên. Nàng dùng đá đánh lửa, rồi châm vào cái bổi. Dưới ánh sáng, cảnh tượng làm Minh-Ðệ kinh hoảng: sư mẫu của nàng nằm chết cong queo, máu ứa ra mũi, mắt, tai. Miệng dường như đang ăn cái gì. Vốn can đảm, nàng cố trấn tĩnh tinh thần kéo vật trong miệng sư mẫu, vật đó như bị vướng, nàng phải giật mạnh mới ra. Nàng nhìn kỹ thì đó là cái đùi chó thui luộc chín đã lóc hết thịt. Nàng xem xét khắp người bà, thì thấy lồng ngực bị đánh bằng chưởng âm nhu, nên xương nát hết.

      Nàng nghĩ thầm:

      – Cứ như tình trạng này, thì sư mẫu bị ai đó dùng chưởng âm nhu đánh trúng ngực, xương cùng tạng phủ nát hết. Rồi người đó nhét ngược cái đùi chó đã lóc hết thịt vào miệng. Hung thủ dùng sức khiến cái chân chó chọc thủng họng bà.

      Nàng quan sát ở cuối thuyền, thì hai thuyền phu cũng bị đánh chết bằng chưởng lực âm nhu. Trong miệng mỗi người đều bị tọng một miếng thịt chó lớn.

      Yến-Loan tìm tòi một lúc, không thấy gì khác lạ, nàng trở lên bờ, trong lòng suy nghĩ:

      – Chắc chắn khi hung thủ tới hành thích thì sư phụ ta đi vắng, nên y sát hại sư mẫu với hai thuyền phu. Võ công hung thủ phải cao thâm lắm, nên y hạ sát sư mẫu với thuyền phu chỉ bằng một chiêu mà thôi. Chứ nếu có cuộc giao chiến, thì đồ đạc phải đổ vỡ ngổn ngang, chứ có đâu còn nguyên? Cứ tình trạng này, thì sư mẫu chết ít nhất hai ngày rồi, mà sao chưa thấy sư phụ về?

      Chợt một tia sáng lỏe lên trong đầu nàng:

      – Phải chăng hung thủ là Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng? Ðúng rồi, hồi còn ở nhà, một hôm nàng cùng các bạn đang đào đất vét sông, bạn khuyên nàng cầu cứu với Mộc-Tồn hòa thượng. Lý-trưởng chỉ nghe đến danh hiệu, mà mặt đã tái xanh, cấm không cho nói đến tên. Rồi khi An-vũ-sứ khám chùa Từ-quang, một đội trưởng chỉ mỉa mai sư trong chùa là Mộc-Tồn hòa thượng thôi, mà An-vũ-sứ đã kinh sợ phải quát tháo bắt im lặng. Thế nhưng chỉ mấy hôm sau viên đội trưởng đó bị giết.

      Những lời của viên Ðề-điểm hình ngục Khắc-Dụng vẫn còn vang trong lòng nàng:

      – Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng chỉ giết bọn ác nhân, bọn lừa thầy phản bạn, bọn trốn chúa lộn chồng. Ông chưa bao giờ giết người vô cớ... Như vậy thì trung gian, sư phụ, sư mẫu ta là gian nhân ư?

      Nàng trở về khách xá, leo lên dường nằm:

      – Làm sao đây? Chỉ còn mấy giờ nữa thì Dương đại ca bị chém đầu. Ta phải làm bất cứ việc gì để cứu người. Nhưng làm gì??? Còn vụ sư mẫu bị giết, ta có nên đi báo quan không?

      Bỗng nàng cảm thấy hai vai hơi nhức nhối, rồi cổ, đầu, rồi khắp người đau đớn không thể tưởng tượng nổi. Biết cơn đau hành hạ như sư phụ nói trước, nàng nghiến răng ngồi vận công chống đau. Cứ như vậy, cơn đau kéo dài gần một giờ mới hết, mồ hôi toát ra mùi cực kỳ khó chịu. Chợt nhớ sư phụ nói rằng nếu nàng vận công phát chiêu như người dạy, thì kẻ đối đấu sẽ bị trúng độc đau đớn như nàng. Một ý nghĩ thoáng qua:

      – Hay ta bí mật đột nhập dinh tể tướng cứu Dương đại ca ra. Dù không cứu được, ta có chết cũng an lòng. Nhưng dù gì ta cũng nhất quyết không dùng Chu-sa huyền âm chưởng hại người.

      Nghĩ đến đây thêm can đảm, nàng ngồi phắt dậy đi tắm. Tắm xong, nàng hướng dinh tể tướng đi tới. Dinh tể tướng ẩn hiện trong bóng đêm với ánh đèn từ trong chiếu ra. Ngoài cổng chỉ có một người lính đứng gác. Nàng đi một vòng quanh dinh, thấy hàng rào phía Bắc khá xa với những gian nhà, nàng tung mình lên cao, rồi đá gió một cái, người bắn vào trong. Nàng hướng phía căn nhà có ánh đèn đi tới. Nhưng nàng vừa bước đi mấy bước, thì có tiếng hú, rồi một đàn chó từ đâu nhảy xổ lại vây quanh nàng mà cắn. Bình tĩnh, nàng vận công phóng hai chưởng, hai con chó bắn tung vào tường. Chúng chỉ dẫy dụa được mấy cái rồi nằm im. Thấy hai đồng bạn bị giết, đám chó chỉ đứng xa xa mà xủa. Minh-Ðệ vội tung mình lên bờ tường, nhảy ra ngoài chạy trốn. Người nàng vừa rơi xuống đất, thì đã có năm võ sĩ cầm đao bao vây nàng vào giữa. Một người chĩa đao vào cổ nàng quát:

      – Ðứng im chịu trói, bằng không chúng ta chặt đầu.

      Minh-Ðệ trầm người xuống, rồi dùng một chiêu hổ trảo đoạt đao từ trên tay người kia, chân phóng cước đá vào mông y. Người ấy bắn tung lại phía sau. Lập tức bốn người còn lại vung đao chém nàng. Minh-Ðệ tung người lên cao tránh bốn thanh đao. Ở trên cao, nàng chĩa đao xuống dưới chân khoa một vòng. Bốn thanh đao chạm vào thanh đao của nàng kêu lên bốn tiếng loảng xoảng, rồi vượt khỏi tay bốn võ sĩ, văng ra xa.

      Minh-Ðệ co chân bỏ chạy, nàng vừa cất bước, thì cảm thấy ngộp thở, một kình lực từ trên cao ụp xuống đầu nàng. Kinh hãi nàng vung tay phát chưởng đỡ. Bình một tiếng, nàng cảm thấy cánh tay tê rần, vội nhảy về trước bốn bước, rồi quay lại nhìn xem kẻ đánh mình là ai, thì có tiếng nói trầm trầm:

      – Võ công Ðông-a! Người học ở đâu được bản lĩnh dường này mà lại đi ăn trộm ư? Người đừng chạy, hãy đứng lại cho ta xem mặt.

      Ðuốc đã đốt lên sáng rực. Minh-Ðệ nhận ra người đối chưởng với mình là một thanh niên tuổi khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu. Thanh niên cũng đã nhìn thấy nàng:

      – Thì ra người là con gái. Con gái mà công lực bằng người, e khắp Ðại-Việt chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trông phong thái người thực khác phàm, dung nhan thuộc loại sắc nước hương trời mà lại đi ăn trộm ư?

      Minh-Ðệ đáp:

      – Tôi không phải kẻ trộm.

      Thanh niên đổi cách xưng hô:

      – À, thì cô nương là gian tế chăng?

      – Tôi cũng không phải gian tế.

      Thanh niên cau mày lại tỏ vẻ suy nghĩ:

      – Thức khinh thân tung người lên tường của cô nương là của phái Ðông-a, còn mấy thức vung đao là do Ðông-a kiếm pháp biến ra. Rồi cô nương lại dùng một chiêu Ðông-hải lưu phong đỡ chưởng của tại hạ... Không biết cô nương là đệ tử của cao nhân nào trong phái Ðông-a?

      Minh-Ðệ lắc đầu:

      – Tôi không thể nói ra được

      Thanh niên đưa cổ tay ra trước mặt Minh-Ðệ:

      – Tôi có một điều thắc mắc là phái Ðông-a từ khi thành lập đến giờ vẫn đi theo chính đạo, đời đời lấy chủ đạo giúp dân cứu nước. Xưa kia Nhật-Hồ lão nhân mang Chu-sa độc chưởng vào Ðại-Việt, gây ra những trận phong ba trong võ lâm. Sau đại hiệp Trần Tự-An chế ra phản Chu-sa chưởng pháp, từ đó Chu-sa chưởng gần như tuyệt diệt, võ lâm đều hướng mặt về phái Ðông-a mà khâm phục. Tại sao cô nương lại luyện Chu-sa huyền âm công? Ban nãy cô nương tấn công tại hạ bằng Ðông-a chưởng, nhưng xử dụng nội lực âm nhu pha Chu-sa huyền âm công. Cô nương có hiểu tại sao tại hạ lại vô sự không?

      – Tôi cũng không rõ.

      Thanh niên cung tay:

      – Dễ thôi, vì tại hạ xử dụng phản Chu-sa chưởng của quí phái đấy. Nhưng cô nương đã muốn dấu thân phận thì tại hạ cũng không dám cật vấn. Tại hạ họ Lê tên Văn-Thịnh hiện lĩnh chức trưởng sử trong phủ Gia-viễn quốc công. Việc đã như thế này, tại hạ xin kính mời cô nương dời gót ngọc vào yết kiến Quốc-công để người phát lạc.

      Không đừng được, Minh-Ðệ phải theo Lê vào dinh. Trong dinh đèn đuốc đốt sáng như ban ngày, người đứng lố nhố trong sân đều hướng mắt nhìn nàng. Qua một dẫy nhà dài thì tới dinh thự cao hai tầng, cột sơn son thiếp vàng, vẽ phượng rất đẹp. Lê Văn-Thịnh chỉ vào một nữ tỳ:

      – Cô nương, trước khi đưa cô nương vào yết kiến Tể-tướng, xin cô nương cho nữ tỳ khám xét trong người cô nương đã.

      Không chờ Minh-Ðệ trả lời, người nữ tỳ khám nàng. Thị chỉ thấy trong túi có bộ Luận-ngữ, bộ Kinh-thi, ngoài ra không có gì khác. Lê Văn-Thịnh tiếp hai bộ sách mở ra xem, y thấy có tờ biểu Minh-Ðệ viết để khiếu oan, thì lấy ra đọc. Ðọc xong, y gật đầu:

      – Thì ra cô nương họ Lê, khuê danh Yến-Loan. Ðúng, cô nương không phải là gian tế, cũng không phải kẻ trộm. Tờ biểu này hẳn do cô nương soạn?

      Minh-Ðệ gật đầu. Lê tỏ vẻ kính trọng:

      – Võ công cô nương vốn đã hiếm có, nhưng văn tài này thì e cả Ðại-Việt chỉ vua bà Bắc-biên là hơn được mà thôi. Xin mời cô nương theo tại hạ.

      Hai người qua một dẫy hành lang nữa, tới một cánh cửa lớn, Lê Văn-Thịnh hô to:

      – Trưởng sử Lê Văn-Thịnh đem người đột nhập vào dinh, xin yết kiến Quốc-công.

      Có tiếng vọng ra:

      – Cứ vào.

      Cánh cửa mở, Minh-Ðệ nhìn vào trong: một người tuổi đã khá cao, tóc bạc, râu dài tới ngực, ngồi chễm trệ trên chiếc ghế chạm hổ. Hai bên, mỗi bên năm người cung tay đứng hầu. Phía sau lão có cái màn. Sau màn dường như ai đó ngồi. Lê Văn-Thịnh hô:

      – Vị ngồi trên ghế kia là Tể-tướng quốc-công đại nhân. Xin cô nương hành lễ.

      Minh-Ðệ quỳ gối lễ ba lễ.

      Lê Văn-Thịnh chỉ Minh-Ðệ nói:

      – Trình quốc-công, người đột nhập dinh tên là Lê Thị Yến-Loan, mười tám tuổi. Tiểu nhân đã xét kỹ, với dáng người thanh lịch, võ công cao cường, Lê cô nương không thể là phường trộm cắp. Lê cô nương cũng không chịu nhận là gian tế. Xin quốc-công phát lạc.

      Lão già hỏi:

      – Trên người thị có mang theo vũ khí không?

      – Trình quốc-công chỉ có bộ Luận-ngữ, bộ Kinh-thi với bài biểu khiếu oan mà thôi.

      Nói rồi y trao sách với tờ biểu cho lão già. Lão già cầm tờ biểu đọc đi, đọc lại đến ba lần. Ðọc xong y nói với Minh-Ðệ:

      – Thì ra mi. Ta đã đọc tất cả biểu chương của lộ Kinh-Bắc cùng bản án do đề-điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng tâu về mi. Bản án này ta đã tuyên xử xong. Hà cớ gì chúng lại đưa mi về Khu-mật viện? Tại sao tên hoạn quan Lý Thường-Kiệt lại lạm dụng quyền mà thả lỏng mi? Còn nhận mi là sư muội, đem về dinh? Rồi bây giờ mi dám dâng biểu vu oan cho con cháu ta?

      Minh-Ðệ đâm liều, nàng nói:

      – Thưa tể tướng, tất cả những gì viết trong biểu là sự thực, không hề dối trá. Xin Tể-tướng xét lại.

      Lão gìa cười nhạt:

      – Láo, láo hết. Ðây là chỗ nào, hẳn mi biết rõ rồi mà đang đêm mi dám dột nhập vào? Chỉ nguyên tội danh này, bất biết mi đột nhập với mục đích gì, ta cũng có quyền đem mi ra chặt đầu, mà không cần xét xử.

      Tiếng người đàn bà nói sau bức màn:

      – Ðưa tờ biểu vào đây.

      Gia-viễn Quốc-công dường như kính trọng người đàn bà này, vội trao tờ biểu cho thị nữ. Thị nữ cầm tờ biểu ra sau màn.

      Tiếng phụ nữ nói sau màn:

      – Mi muốn dâng biểu khiếu oan thì mi được như ý. Mai ta sẽ dâng lên Thiên tử cho mi vừa lòng. Nhưng ta cho mi biết, việc mi vu oan cho con cháu ta với mục đích hãm hại đại thần thì mi sẽ bị tùng xẻo.

      Tiếng người đàn bà tiếp:

      – Lê Văn-Thịnh. Sáng mai, người khẩn sang Khu-mật viện đem hết hồ sơ lấy khẩu cung thị, cùng giấy giải giao của lộ Kinh-Bắc về cho ta, để tâu lên hoàng thượng một thể.

      Tiếng người đàn bà tiếp:

      – Nhị-Tiệp! Từ khi thị bị giải về Thăng-long, người có biết thị đã làm những gì không?

      Viên võ quan đứng phía ngoài cung tay:

      – Tâu hoàng-hậu! Ngoài việc thị được Lý Thường-Kiệt đem về dinh nuôi nấng, thị có làm hai việc cực mật, nhưng tiểu nhân cũng theo dõi được. Một là đêm đêm thị ra bờ hồ học võ công với một lão già. Lão dạy thị Chu-sa huyền-âm chưởng, rồi phóng độc chưởng vào người thị, bắt thị phải lấy trộm tâm pháp nội công Cổ-loa của Thường-Kiệt. Nhưng thị thà chịu đau chứ không chịu làm việc đó.

      Minh-Ðệ kinh hoàng nghĩ thầm:

      – Thì ra bà này là Thượng-Dương hoàng hậu, nhũ danh Dương Hồng-Hạc đây. Bà là con của Lại-bộ thị-lang Dương Ðức-Uy và em của Dương Ðức-Thao, bị Ưng-sơn giết trên bến đò Bắc-ngạn xưa. Tể tướng Dương Ðạo-Gia hiện là bác ruột bà. Bọn công tử Dương Ðức-Huy, Dương-Ðức-Nhàn đều là cháu gọi bà bằng cô.

      Lão già hỏi Minh-Ðệ:

      – Sư phụ mi là ai vậy?

      Minh-Ðệ thản nhiên trả lời:

      – Người bảo người là cha đẻ của Khai-Quốc vương phi Thanh-Mai và Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai.

      Lão già cười:

      – Thì ra lão là Trần Tự-An. Không ngờ Tự-An nay lại đi theo đường tà. Hôm trước con trai lão là Tự-Mai cùng vợ là công chúa Huệ-Nhu đã cho vàng bạc, cùng dạy võ cho con nhỏ này, để nó làm gian tế cho Tống. Bây giờ đến lão xúi nó tiềm ẩn vào Khu-mật viện. Hà, chuyện này thực không nhỏ. Thế còn việc thứ nhì cực mật mà thị làm là chuyện gì?

      Nhị-Tiệp tiếp:

      – Hằng đêm có một người tên Dương Tông đột nhập dinh Thường-Kiệt tình tự với thị. Ban nãy thị đi cùng Dương Tông, đầy tớ của Dương Tông ăn cắp xe ngựa của nhị công tử, rồi giết chết đại công tử con của An-vũ kinh lược sứ Kinh-Bắc, sau đó chúng tới Anh-hùng tửu lầu. Tên Dương với tùy tùng đã bị bắt giải giao về phủ thừa Thăng-long. Còn y thị thì đột nhập vào đây, không rõ mục đích gì?

      Tiếng người Thượng-Dương hoàng hậu quát lớn lên như vẻ hoảng hốt:

      – Dương Tông tình tự với thị ư? Người có nghe rõ chúng nói những gì không? Dương Tông có nói rõ gia thế y ra không?

      – Tâu lệnh bà, Dương nói rằng y là Nho-sinh theo học ở Thăng-long thế thôi. Dương có tặng quà cho thị nữa.

      – Y tặng những gì?

      Viên võ qua chạy ra ngoài một lúc rồi đem vào cái bao lụa. Y mở ra. Minh-Ðệ nhìn qua mà phát run, bởi đó là cái hộp Dương tặng nàng. Tên Nhị-Tiệp đã nhập dinh Thường-Kiệt ăn cắp mang ra. Cái hộp được đưa ra sau màn. Hoàng-hậu dường như nhìn thấy cái hộp thì nổi cơn tam bành:

      – Ái chà chà, ghê thực. Con này thực không vừa.

      Rồi bà nguyền rủa những tiếng thô tục. Bà hỏi:

      – Cái tên Dương Tông kia có hứa hẹn cưới mi làm vợ không?

      Minh-Ðệ nổi máu gan lì, nàng im lặng không trả lời. Hoàng-hậu càng nổi cáu hơn:

      – Mi có biết cái hộp vàng chạm hai con rồng là của Thượng-Dương hoàng hậu không? Những vòng ngọc, kim cương này cũng đều là của trân bảo trong hoàng cung không? Như vậy gã họ Dương đã ăn cắp từ trong cung mang ra tặng mi. Tuy mi không ăn trộm nhưng cũng mắc tội gian nhân hiệp đảng.

      Lão già nói:

      – Tội trộm vật ở hoàng cung thì không nặng. Nhưng tội nặng nhất là kết cấu với Kinh-Nam vương với phái Ðông-a làm gian tế cho Tống. Hừ!

      Lão già chắp tay hướng lên trời vái ba vái:

      – Tạ ơn trời phật hộ trì cho Ðại-Việt, cho người ngay, nên chúng ta đã khám phá ra manh mối vụ gian tế Tống định cho người làm nội ứng, để rồi đem quân qua xâm chiếm. Mà việc này lại chính là Kinh-Nam vương Tự-Mai với phái Ðông-a chủ xướng. Việc đầu tiên là chúng thấy nhà ta ba đời trung với triều đình, lại hết tâm cần lao chính sự, nên chúng ra tay vu oan giá họa, hại gia đình ta trước. Mai ta phải tâu lên Hoàng-thượng ngay để người kịp đề phòng.

      Hoàng-hậu bảo Minh-Ðệ:

      – Tên Tự-An mấy lần xui mi trốn đi phải không? Ta nói cho mi biết, Hoàng-thượng là đấng nhân từ, nếu người xử vụ này, thì chỉ mình mi bị tội mà thôi. Còn như mi muốn trốn đi thì cứ trốn, nhưng ta sẽ cho người về bắt bố mẹ mi, em mi, họ hàng nhà mi đem về đây tùng xẻo. Mi hiểu không?

      Minh-Ðệ vẫn gan lì không nói, không rằng.

      Hoàng-hậu nói vọng ra:

      – Mi muốn được ta tha tội cũng không khó, chỉ cần mi thuật chi tiết vụ gặp Dương Tông ra sao nói cho ta biết mà thôi. Nếu như mi nói dối một câu, thì lập tức ta ra lệnh dùng dao rạch lên mặt mi mấy cái, thì mi sẽ biến thành con quỷ dạ xoa xấu xa kinh khiếp. Sau đó ta dong đi khắp kinh thành cho thiên hạ coi. Người ta sẽ trầm trồ chỉ chỏ: trời, bộ mặt quỷ kìa. Mi có chịu khai không?

      Minh-Ðệ không trả lời.

      Hoàng-hậu nổi giận quát:

      – Bay đâu, đem Yến-Loan ra, rạch lên mặt mười vết, rồi lấy vôi bôi vào cho ta, xem nó có gan được không?

      Võ sĩ dạ ran. Minh-Ðệ quả đã bị uy hiếp, nàng nghĩ:

      – Ðằng nào thì ta cũng chết. Dù ta có chết, cũng đừng để khuôn mặt kinh tởm.

      Nghĩ vậy, nàng nói:

      – Tôi xin thuật.

      Minh-Ðệ khoan thai thuật hết mọi chi tiết từ khi Dương Tông xuất hiện cho đến lúc lên Anh-hùng tửu lâu, không dấu một chút nào.

      Hoàng-hậu thở phào một tiếng rồi nói:

      – Mi đã thành khẩn khai thực, vậy ta cũng ban hồng ân mà tìm cách ân xá cho mi. Bây giờ ta cho mi chọn một trong hai điều.

      – Xin lệnh bà cứ nói.

      – Thứ nhất, sáng mai ta giải mi với Dương Tông về quê mi, bắt bố mi, các em mi cùng trói ở giữa chợ, rồi kể tội mi cùng kẻ gian vào cung ăn cắp. Sau đó đem mi với Dương Tông xẻo từng miếng thịt một cho đến chết. Còn bố mẹ, các em mi sẽ bị bán cho nhà giầu trong làng làm đầy tớ.

      Minh-Ðệ run run:

      – Còn điều thứ nhì?

      – Ngay sáng mai, ta đem Dương Tông xung quân ở châu Quảng-nguyên. Còn mi, thì mi phải viết tờ cung khai rằng: mi trốn nhà đến chùa Từ-quang ở. Ðêm đêm mi bị ép lần lượt đến từng phòng cho các sư hành dâm. Chính mi âm thầm đi mua chó, mua gà, mua thịt về nấu nướng cho các sư ăn. Mi cũng phải khai thêm: vợ chồng Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai thường âm thầm đến chùa bàn việc với sư Viên-Chiếu. Kinh-Nam vương trao cho Viên-Chiếu rất nhiều vàng bạc, để mua chuộc kết nạp các quan trong triều ngoài biên. Họ định rằng, khi quân Tống sang, thì sư Viên-Chiếu cùng chư đệ tử với các quan nhận vàng sẽ làm nội ứng. Vì vậy Kinh-Nam vương mới dạy võ công cho mi. Ðến khi việc bại lộ, tất cả bị bắt, thì Trần Tự-An lại xuất hiện dạy Chu-sa huyền âm độc chưởng cùng thu mi làm đệ tử. Chính y sai mi ăn cắp những cơ mật về võ công của Lý Thường-Kiệt trao cho y. Sau khi mi khai như vậy, thì ta kết án rằng mi là trẻ con, bị người ta dụ dỗ, ân xá cho mi. Ta sẽ gọi bố mẹ mi lên đây, trao mi cho bố mẹ mang về quê dạy bảo.

      Bà ta im lặng một lát rồi nói:

      – Bây giờ ta tạm giam mi lại. Trong phòng giam, ta cho mi đèn, cùng giấy bút. Mi suy nghĩ, rồi quyết định. Nếu mi chọn đường thứ nhì thì giấy bút đấy, mi viết tờ khai. Sáng mai, giờ Dần mà tờ khai không xong, thì ta sẽ cho giải mi với Dương Tông đi ngay.

      Võ sĩ đem Minh-Ðệ đến một phòng đặc biệt khá sạch sẽ, nàng bị khóa hai chân bằng sợi xích sắt. Trong phòng có đèn đốt sáng, có án thư, với bút mực. Cạnh đó có chiếc giường.

      Minh-Ðệ than thầm:

      – Thôi thế là xong. Nhất định ta không chịu vu oan giá họa cho các thầy. Sáng mai Dương đại ca cùng ta sẽ bị giải về làng. Bố mẹ, các em ta đều bị nhục.

      Nàng ôn lại chuyện cũ:

      – Sao đời ta thực lắm gian truân. Ta có chết cũng chẳng ân hận gì. Bố ta thì coi ta như người dưng; mẹ ta, em ta coi ta như kẻ thù. Ta có sống cũng chẳng sung sướng gì, thì chi bằng chết đi cho rảnh.

      Bỗng có tiếng mở khóa. Minh-Ðệ giật mình, Lê Văn-Thịnh xuất hiện. Thịnh cầm ngọn nến để lên đầu án thư. Minh-Ðệ đưa con mắt lạnh lùng nhìn y. Y nhìn trước, nhìn sau không có ai, sẽ hỏi nàng:

      – Lê cô nương. Hồi chiều tôi có đôi điều thắc mắc muốn hỏi cô mà Tể-tướng không cho phép. Vậy cô nương có thể trả lời cho tôi một đôi câu không?

      – Tôi sắp bị hành hình, thì sống cũng như chết. Anh muốn hỏi điều chi?

      – Tôi đã đối chiêu với cô nương, thấy võ công cô nương tuy là của phái Ðông-a, nhưng đó là võ công Ðông-a thời Thuận-thiên. Từ sau đại hội Lộc-hà năm Thuận-thiên thứ mười bẩy (1017) thì Thiên-trường ngũ kiệt, cùng với những tôn sư như Côi-sơn tam anh, Thông-Mai, Thanh-Mai, Tự-Mai cùng họp nhau thay đổi rất nhiều về chiêu số, về nội công. Cớ sao chiêu số của cô nương lại giống chiêu số xa xưa? Lại nữa hiện Khai-Quốc vương đang dẫn một đoàn cao thủ Việt đi hồ Ðộng-đình dự đại hội giỗ Quốc-tổ. Phái đoàn có vương phi Thanh-Mai, đại hiệp Tự-An. Ưng sơn song kiệp Kinh-Nam vương Tự-Mai chắc cũng túc trực chờ đón phái đoàn. Vậy, tôi nghĩ rằng người xưng là đại hiệp Tự-An dạy võ công cho cô nương chưa chắc đã là người. Vợ chồng quý nhân dạy võ, cho vàng cô nương càng không thể là Ưng-sơn song hiệp.

      Trước đây Minh-Ðệ đã hơi có ý nghi ngờ về sư phụ Tự-An: nào là dạy độc chưởng, phóng độc chưởng vào người nàng, nào là hình không giống hình ở tổ đường Thái-hà, nào là chính người sáng chế ra Cổ-loa tâm pháp, sao lại bắt nằng ăn cắp? Bây giờ nghe Lê Văn-Thịnh lý luận, nàng càng thấy cái nghi ngờ tăng lên. Nàng đáp:

      – Tôi là đứa con gái quê, gặp người giúp đỡ, thì người xưng sao, tôi biết vậy mà thôi.

      Lê Văn-Thịnh lại hỏi:

      – Hai người đi với cô nương là Dương Tông, Ðỗ Oanh bị bắt đưa về phủ thừa Thăng-long, chứ đâu có đưa về đây? Tại sao cô nương lại đột nhập vào đây mong cứu họ?

      Minh-Ðệ thuật lại lời người lính từ trong dinh tể tướng đi ra ngoài, nàng gặp y, hỏi tin tức, y nói rõ Dương Tông bị tể tướng xử trảm, sáng nay thì hành hình. Văn-Thịnh kinh ngạc:

      – Như thế thì tên lính đó hại cô nương rồi. Cô nương ơi, chỉ lát nữa cô nương sẽ bị xử chém ngang lưng. Tôi biết cô nương bị hàm oan. Vậy tôi nghĩ cô nương nên tùng quyền mà khai theo lời quốc-công, để tạm hoãn cái chết đã, rồi tính sau. Chứ cô nương ương ương, thì mình có chết không sao, nhưng làm Dương Tông chết oan, bố mẹ bị nhục thì thực dại quá.

      Bỗng có tiếng nói:

      – Ai? Ðứng lại.

      Lê Văn-Thịnh vội tung mình chạy, từ xa xa vọng lại tiếng người hô hoán, tiếng vũ khí chạm nhau, sau đó có tiếng nói:

      – Ðã bắt được Lê Văn-Thịnh rồi. Xin giải quốc-công phát lạc. Y dám lẻn vào thăm nữ tù nhân.

      Minh-Ðệ thở dài:

      – Thôi thì ta đành tùng quyền, cứu mạng sống Dương đại ca, cứu bố mẹ, các em, rồi sau đó sẽ liệu. Cái việc đánh chuông kêu oan thì e vô ích mất rồi, vì ta với Dương đại ca bị khép vào tội vu hãm công thần, do gian nhân Tống xúi dục thì có khiếu oan cũng vô ích mà thôi. Còn các thầy, đằng nào cũng bị xung quân từ lâu. Ta có khai oan, hay không khai cũng thế thôi.

      Nghĩ vậy nàng cầm bút viết đúng như lời người đàn bà trong màn nói. Viết xong, nước mắt dàn dụa ra, nàng gục đầu xuống án thư. Rồi mệt quá, nàng ngủ thiếp đi lúc nào không hay.

      Minh-Ðệ giật mình thức giấc vì có tiếng đập cửa. Mặt trời đã lên cao. Nàng được giải đi tắm rửa, chải đầu rồi đưa lên công đường. Tại công đường, Gia-viễn quốc công cùng với mấy viên quan văn võ hôm qua đều có mặt. Minh-Ðệ phải quỳ gối hành lễ. Lễ tất, Quốc-công trao cho nàng tờ giấy:

      – Ðây, tờ cung khai của Dương Tông đây.

      Minh-Ðệ cầm lên đọc. Trong đó Dương Tông khai: chàng là phường du thủ, du thực ở Thăng-long, được phái Ðông-a kết nạp theo Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai. Những võ công của chàng đều do Kinh-Nam vương dạy. Chàng có bổn phận đột nhập cấm cung để dò la tin tức, vu hãm cho tể tướng Dương Ðạo-Gia. Rồi khi quân Tống do Kinh-Nam vương đánh sang, thì chàng cùng bọn đầu trộm đuôi cướp nổi lên làm nội ứng. Trong dịp dò thám dinh Thái-hà chàng gặp Minh-Ðệ. Những vàng bạc chàng tặng cho Minh-Ðệ là đồ ăn cắp trong hoàng cung.

      Minh-Ðệ đọc xong mà bàng hoàng cả người. Nàng run run nghĩ thầm:

      Minh-Ðệ đọc xong mà bàng hoàng cả người. Nàng run run nghĩ thầm:

      – Thì ra thế. Dương Tông dò la dinh Thái-hà nhiều lần, cho nên ta thấy y quen thuộc đường lối trong trang. Y biết cả phòng ta chỗ nào, lần mò thẳng đến. Hõi ơi! Nhưng y không ngờ bị tế tác theo dõi mà không biết. Ðúng rồi, vì trên đời này, làm gì có người dám chạm trổ hình hai con rồng lên hộp bằng vàng, ngoài nhà vua? Thì ra y ăn trộm. Suýt nữa ta trao thân cho tên trộm.

      Gia-viễn quốc công cười nhạt:

      – Ta thấy con là người đọc sách, võ công cao, ta thương tài mà lên án nhẹ, trả con về với cha mẹ.

      Minh-Ðệ xụp lạy, nàng rập đầu binh binh:

      – Ða tạ quốc-công thương tình.

      Quốc-công đem cái túi của Minh-Ðệ để ở Thái-hà trang mở ra: bên trong có hộp vàng Dương Tông tặng nàng với hộp thuốc trị Chu-sa huyền âm chưởng của Thường-Kiệt, mà nàng bỏ vào bọc để phòng thân. Ông nói:

      – Những vàng bạc của Kinh-Nam vương cho con, ta ra lệnh xung vào công khố. Vàng ngọc mà tên Dương Tông ăn trộm trong hoàng cung, ta trả về hoàng cung. Tuy vậy còn ít bạc vụn không rõ ở đâu con có, ta trả lại con. Hộp thuốc này ta cũng trả cho con.

      Minh-Ðệ chợt nhớ ra: đó là nén bạc mà viên Ðề-điểm hình ngục cho nàng. Hôm dạo chơi Thăng-long, nàng đã mua quần áo mất một lạng, còn lại chín lạng. Nàng tiếp lấy rồi bỏ vào túi.

      Gia-viễn quốc-công hướng ra ngoài gọi:

      – Cho vợ chồng Lê Văn-Thiết vào.

      Minh-Ðệ nhìn ra, thấy bố, mẹ từ ngoài vào, mặt tái xanh, chân tay run run quỳ gối lạy Gia-viễn quốc công ba lạy. Quốc-công chỉ Minh-Ðệ hỏi:

      – Vợ chồng mi thử nhìn kỹ xem, đứa con gái này là ai?

      Bà Minh-Giang run run:

      – Bẩm cụ lớn, nó là con gái của con, hư thân mất nết, bỏ nhà ra đi đã hai năm. Vợ chồng chúng con không nhận nó là con nữa. Nếu nó phạm tội gì, thì xin cụ lớn đem cho voi dày, ngựa xé, cho quạ mổ, diều tha cũng được ạ.

      – Im cái mồm. Ðây là dinh tể tướng, không phải chợ hàng tôm hàng cá, mà mụ phun ra những lời đầu đường xó chợ như thế. Ta chưa tính cái tội mi với con gái tên Minh-Can giết chết con bé này. Mi biết đấy, cha mẹ giết con, thì bị tội chém đầu. Em giết chị thì bị tội chém ngang lưng. Nếu như từ nay mi với con Minh-Can còn ác độc với con bé này thì đừng trách ta. Nay ta có lời dạy dỗ mụ.

      – Dạ, dạ con xin nghe lời cụ lớn.

      – Mi đem con gái về, quản chế trong nhà, rồi kiếm người tử tế mà gả chồng. Nội trong một năm, mà mi chưa gả chồng cho nó, thì ta sẽ bỏ tù mi. Mi hiểu chưa?

      – Dạ, dạ, con hiểu.

      – Thôi vợ chồng mi đem con đi.

      Vợ chồng ông Thiết với Minh-Ðệ lạy ba lạy rồi lui khỏi dinh Gia-viễn quốc công.

      Ðã gần tháng nay rồi, Minh-Ðệ lại trở về với công việc hàng ngày của mấy năm trước: dã bèo, nấu cám lợn, giặt quần áo. Lý trưởng Thổ-lội đem con trâu mộng mà nàng mua năm trước của trường Trung-nghĩa trả nàng. Con trâu gặp lại ân nhân, nó vẫy đuôi, gầm lên mấy tiếng tỏ vẻ mừng rỡ. Từ đấy, sáng sáng nàng cỡi trâu đi quanh làng, rồi cắt cỏ cho nó ăn. Còn bà Thiết vì sợ oai Dương tể tướng, mà không dám hành hạ nàng nữa. Tuy nhiên bà bắt nàng ngủ dưới chuồng lợn, chứ không cho ngủ trên nhà. Mụ Sửu với Minh-Can thấy Minh-Ðệ xinh đẹp tuyệt trần, thì lòng thù hận càng tăng lên. Hơi tý là diếc móc, nói cạnh, nói khóe. Nhưng cả hai đều biết rằng võ công của nàng rất cao thâm, nên sợ nàng như sợ cọp, không dám đánh nàng nữa.

      Bà Thiết vốn ghét Minh-Ðệ, nên từ hôm nàng trở về nhà, bà không nhìn mặt, không nói với nàng một câu. Vì Gia-viễn quốc công chỉ kết tội bà với Minh-Can giết Minh-Ðệ, mà tuyệt không nói cho ông bà Thiết biết những việc xẩy ra từ khi Minh-Ðệ rời nhà, thành ra bà Thiết chỉ hiểu lờ mờ rằng sau khi Minh-Ðệ bị vứt xuống chuống hôi, thì nàng chạy đến chùa Từ-quang, rồi được sư cụ cưu mang. Nhưng vì sư cụ cùng chư tăng bị tội phạm giới, nên quan tể tướng cho nàng về với cha mẹ.

      Những lúc ngồi suy nghĩ lại chuyện mấy năm xa nhà, mà nàng rùng mình kinh hồn. Càng nghĩ, nàng càng thâm cảm ơn Gia-viễn quốc công Dương Ðạo-Gia đã cứu nàng thoát chết, thoát khỏi tay tên đại đạo Dương Tông.

      Minh-Ðệ là người ôn nhu văn nhã, nên hầu hết các thiếu nữ ngang tuổi trong làng đều chơi thân với nàng. Việc Minh-Ðệ bị ném xuống cầu tiêu, rồi đến chùa Từ-quang, ngoài Minh-Can với bà Thiết, trong làng không ai hay. Bạn bè tìm đến nhà hỏi tin nàng, thì Minh-Can ngoạc mồm ra nói: nàng hư đốn bị mẹ đuổi đi rồi. Ðôi khi ả còn ác miệng: thị ngủ với sáu nhà sư ở chùa Từ-quang, bị kết án voi dầy rồi.

      Bây giờ đột nhiên họ thấy nàng trở về, nhan sắc mặn mà hơn xưa, kiến thức quảng bác, họ kéo nhau tới chơi với nàng. Vì bà Thiết khó tính, không muốn cho bạn Minh-Ðệ tới chơi, nên nàng thường hẹn với họ ở miếu thổ thần, hoặc ngoài đồng, rồi nàng mượn cớ chăn trâu ra chơi với họ. Bốn người bạn thân nhất của nàng là Thanh-Thảo, Ngọc-Nam, Trinh-Dung, Ngọc-Huệ. Ðối với bốn người này, nàng không dấu diếm một chi tiết nào. Nàng kể cho họ nghe về cuộc viễn du kỳ lạ trong hai năm qua.

      Trinh-Dung góp ý kiến rằng trong vụ án Dương Tông dường như ẩn tàng một điều gì bí mật cực kỳ. Nàng nêu lý do:

      – Một là cái bà ngồi sau màn ở dinh tể-tướng là ai? Chưa chắc bà đã là Hoàng-hậu. Có khi ông Tể-tướng cho ai đó giả đóng kịch? Nếu Dương Tông là trộm cướp, thì dễ gì Thái-bảo Thường-Kiệt lại xui Minh-Ðệ đi chơi với chàng! Nếu chàng là trộm cướp sao lại có tên đánh xe ngựa kiến thức rộng mênh mông cùng võ công cao như thế?

      Ngọc-Huệ góp ý kiến:

      – Mình nghĩ chị nên tìm cách liên lạc với quan Thái-bảo Lý Thường-Kiệt, rồi kể hết mọi chuyện cho ngài nghe. Ngài là anh hùng đời nay, thì ngài có thể giải đoán ra tất cả những bí mật trong vụ này.

      Ngọc-Nam kể về những điều phách lối của Minh-Can đối với con gái trong tổng, trong hai năm Minh-Ðệ vắng mặt cho nàng nghe rồi kết luận:

      – Bây giờ, mình nghĩ chị nên chờ dịp bố mẹ đi vắng, nện cho nó một trận nhừ tử càng ra rồi cấm không được mách bố mẹ, bằng không sẽ đập chết. Như vậy từ nay chị muốn sai gì nó cũng phải nghe. Còn cái con mụ Sửu, nếu nó nói kháy, nói xa nói gần gì đến chị, chị đập cho nó một trận trước mặt bố mẹ, để bố mẹ cũng biết rằng chị không phải là con chó ghẻ.

      Ngọc-Huệ đề nghị:

      – Cái đám học trò trường Trung-nghĩa thường hợm hĩnh rằng võ công cao, văn học giỏi, lên mặt thầy ta là trung là nghĩa. Trong khi bề trong thì tên Trịnh Quang-Thạch là một thứ thái giám, tôi đòi của hậu cung, làm những chuyện phi pháp. Mình nghĩ chị nên âm thầm dạy võ cho bọn này. Ðợi một dịp nào đó, thình lình bọn này đập cho chúng nó bò lê, bò càng ra như Minh-Ðệ đập bọn Trịnh Phúc, Vũ Ðức, Vũ Ðạt, Minh-Can để chúng hết làm phách.

      Ý kiến đó, Minh-Ðệ nhận lời ngay. Từ đấy, mỗi đêm nàng âm thầm dạy võ cho Thanh-Thảo, Ngọc-Nam, Ngọc-Huệ, Trinh-Dung. Trinh-Dung đề nghị đặt cho năm người cái tên gì hay hay. Cuối cùng tất cả đều đồng ý với tên Hồng-hà ngũ-long.

      Từ hôm về nhà, mỗi tháng Minh-Ðệ vẫn lên cơn đau đớn cùng cực trong hai ngày: mồng một và ngày rằm. Nàng phải áp dụng phương pháp vận công của Tự-An để chống đau. Sau khi chịu đủ 49 lần vận công chống đau vào nửa đêm, Minh-Ðệ lấy ba viên thuốc của Thường-Kiệt uống. Nàng nghĩ thầm:

      – Lão trượng dạy võ cho mình là ai? Tại sao với bản lĩnh cao như vậy mà người phải giả danh đại hiệp Trần Tự-An. Người nói rằng, mỗi đêm ta lên cơn, phải vận công chống đau, đó chính là phép luyện công. Sau 49 ngày thì coi như tiểu thành, tiếp theo mỗi tháng mồng một, mười rằm lại lên cơn, trải 49 ngày thì trung thành. Ðến đây nếu không có thuốc uống thì chết. Bằng như có thuốc uống thì một năm sau cũng phải tìm người mà xin thuốc, nếu không sẽ đau trong 49 ngày rồi chết. Khi ta trốn biệt, người tưởng ta không có thuốc, ắt chết rồi. Ðâu ngờ ta vẫn sống nhăn. Nhưng ta phải làm sao giải vĩnh viễn cái ách này, chứ không thì ma chướng sẽ nhập vào ta, ta sẽ hành xử theo đường tà.

      Hôm ấy, vào ngày rằm, giữa đêm nàng đang ngủ, thì giật mình thức giấc vì có tiếng người lạ rón rén từ vườn đi lại phía nhà nàng. Nội công Minh-Ðệ hiện đã đến mức cao thâm. Nàng nhổm dậy nhìn ra: một bóng đen tiến đến cửa chính nhà nàng sẽ gõ hai tiếng. Có tiếng mở cửa, nàng nhìn rõ Minh-Can khép cửa, rồi cùng bóng đen dùng khinh công chạy ra sau nhà. Nàng kinh hãi vô cùng khi hai con chó Tâm-Ðức và Ðức-Tâm không xủa, mà lại vẫy đuôi mừng bóng đen. Nàng nghĩ thầm:

      – Thì ra tên này đến đây nhiều lần ban ngày, khiến hai con chó tưởng y là người nhà, nên không xủa nữa.

      Minh-Ðệ theo hai người bén gót. Tới gốc cây khế, bóng đen hỏi:

      – Thế nào? Việc đó ra sao?

      Minh-Ðệ nhận ra tiếng của đệ nhất thái-bảo trường Trung-nghĩa Ðoàn Quang-Minh. Tiếng Minh-Can trả lời:

      – Túi thuốc mà sư huynh đưa, muội đã bỏ vào bát canh của nó. Nó ăn hồi chiều rồi. Sáng mai nó có chết hay không mới biết được.

      Minh-Ðệ kinh hãi:

      – Không biết con này nó đánh thuốc độc ai đây?

      Tiếng Quang-Minh:

      – Phải cẩn thận lắm mới được. Không biết nó học võ với ai, mà năm trước sư huynh bại về tay nó ở dinh kinh-lược sứ Kinh-Bắc. Muội thử dò xem.

      – Việc gì phải dò. Sáng mai nó chết rồi. Chết là hết chuyện.

      Minh-Ðệ hoảng sợ:

      – Thì ra chúng đánh thuốc độc mình. Nhưng may mắn mình luyện Chu-sa huyền âm chưởng, nên bách độc không hại được mình.

      Quang-Minh nói:

      – Nếu quả đúng như sư muội nói, thì giờ này nó chết rồi. Vậy sư muội thử về dò xem.

      – Sư huynh chờ đó.

      Minh-Can chạy về phía chuồng lợn, thị vừa bước vào trong thì Minh-Ðệ phóng tay điểm vào huyệt Ðại-trùy của thị. Lập tức thị ngã lăn ra. Nàng khẽ đỡ thị đặt nằm xuống, hồi hướng ra ngoài hú một tiếng. Quang-Minh nghe tiếng hú, y chạy vào. Tới cửa chuồng lợn y hỏi:

      – Gì vậy?

      Minh-Ðệ lại phóng tay điểm một chỉ. Quang-Minh ngã lăn ra.

      Minh-Ðệ túm hai đứa băng mình về miếu thổ thần. Tới nơi, nàng lấy đá đánh lửa lên đốt vào ngọn đèn. Nàng điểm hai huyệt Khúc-trì, Dương-lăng-tuyền cho chân tay chúng tê liệt rồi giải huyệt Ðại-trùy cho chúng. Nàng nhìn hai đứa, miệng cười nhạt:

      – Ta không thù, không oán với bọn bay, hà cớ bay đánh thuốc độc định giết ta?

      Minh-Can vẫn ngang ngạnh:

      – Con đĩ ngựa, mi... mi điểm huyệt tao hả? Tao mách mẹ, mẹ sẽ trói mày lại cho tao đánh mày đến chết.

      Thị vừa nói đến đây thì phát rùng mình, rồi kêu lên tiếng ái, chân tay run rẩy, nhưng không cử động được. Tên Ðoàn cũng phát rùng mình rồi kêu lên tiếng ái. Cả hai cùng tỏ vẻ quật cường, nghiến răng để chịu đựng. Nhưng người vẫn run rẩy. Minh-Ðệ thấy tình trạng hai đứa giống hệt tình trạng của nàng hôm trước thì kinh hãi tự hỏi:

      – Tại sao hai đứa lại bị trúng Chu-sa huyền âm độc chưởng? Ai đã đánh chúng? Từ nãy đến giờ, chỉ có mình ta ở bên chúng, chứ có ai đâu?

      Nhưng nàng chợt hiểu rằng nàng đã điểm huyệt, độc tố theo chân khí của nàng nhập cơ thể chúng. Bản tính Minh-Ðệ hiền hậu, lại thâm nhiễm Phật-giáo, nên dù giết con sâu cái kiến nàng cũng không nỡ, huống hồ làm người ta đau đớn.

      Mạnh-tử nói: Nhân chi sơ, tính bản thiện (Con người ta sinh ra tính vốn thiện), như nước chảy chỗ trũng, nhưng sau nhiễm tính của người đời mà thành ác. Câu này đúng với trường hợp Minh-Ðệ. Từ những ngày thơ ấu bị hành hạ, làm nhục đến cùng cực, nhưng nàng vẫn chịu đựng được. Cuộc hành hạ chấm dứt khi nàng bị chết, bị vứt xuống chuồng hôi. Rồi những ngày bị hiếp đáp ở Kinh-Bắc, ở Thăng-long, đã thay đổi tính tình của nàng. Bây giờ hai kẻ thù định đánh thuốc độc cho nàng chết, bị nàng kiềm chế mà còn muốn đe dọa nàng, hỏi sao nàng có thể mủi lòng?

      Minh-Ðệ thản nhiên ngồi nhìn hai kẻ thù đau đớn quằn quại, rên siết. Ðến lúc đau quá không chịu được, tên Ðoàn Quang-Minh năn nỉ:

      – Em... em... em.. lạy... chị, em cắn cỏ lạy chị, xin chị tha cho em.

      Minh-Can quát lên:

      – Ðại sư huynh, tại sao đại sư huynh lại phải xuống nước với con ngẫn ngờ, con khốn kiếp này... Ối...ối... con khốn nạn kia, mày có thôi đi không?

      Minh-Ðệ thấy Minh-Can đau đến chết đi sống lại, mà còn hách dịch, nàng nghĩ thầm:

      – Bây giờ võ công ta không hèn, văn học ta không dở, kiến thức ta lại rộng, ta không thể là đứa con "ngu hiếu" như Tăng-tử xưa kia nữa. Ta phải làm cho vụ này đến nơi đến chốn mới được.

      Nghĩ vậy nàng ngồi im nhìn hai ác nhân rên rỉ. Một lát Ðoàn Quang-Minh lại năn nỉ:

      – Ðại cô nương, xin đại cô nương tha cho tiểu nhân.

      Vốn thông minh tuyệt đỉnh, khi một sự việc gì xẩy ra, chỉ liếc mắt là Minh-Ðệ đã nắm được những lẽ chính yếu, rồi biến đổi đi, thành hành động của mình. Nàng ở tù hơn năm, bị tra khảo hàng chục lần, thẩm vẩn hằng trăm lần, rồi lại bị đưa về Khu-mật viện thẩm cung, cuối cùng bị bắt bị điều tra ở phủ Gia-viễn quốc công. Bây bây giờ gặp hai ác nhân định giết mình, nàng quyết định phải hỏi cung hai đứa cho ra ba sự việc: môt là tại sao quần áo mình lại bị đem đến chùa Từ-quang hại chư tăng? Tại sao tên Minh lại có thẻ bài của Khu-mật viện? Tại sao chúng lại đánh thuốc độc giết mình?

      Mặc hai đứa rên rỉ, nàng nói chậm rãi:

      – Tha thì tha, nhưng mi phải khai hết sự thực. Bây giờ ta hỏi câu nào, mi phải nói cho đúng. Bằng không ta cứ để hai đứa bay nằm đây cho đau đớn đến chết. Mi hiểu không?

      Minh-Can run lật bật:

      – Con khốn nạn kia, mày... mày. Ái đau chết đi... Lạy chị, em cắn cỏ em lạy chị, chị tha cho cái mạng kiến ruồi của em. Từ nay đến chết, không bao giờ em dám hỗn với chị nữa.

      Ðoàn Quang-Minh rên:

      – Dạ... xin cô nương cứ hỏi... Ái đau.

      – Chị Ðệ, em ...em đau chết đi được. Chị... chị... tha cho em đi.

      Minh-Ðệ phóng tay điểm vào huyệt Á-môn Minh-Can, ả bị cấm khẩu liền, nhưng vẫn run rẩy đau đớn. Nàng hỏi Quang-Minh:

      – Ai xui mi cùng với Minh-Can đem quần áo của ta dấu vào chùa Từ-quang để hại chư tăng?

      – Tiểu nhân không có chủ trương gì hết. Ái, đau chết đi thôi... việc này do sư phụ sai bảo.

      – Trong vụ này còn những ai tham dự vào nữa?

      – Sư phụ giao cho tiểu nhân điều động thập bát đệ Trịnh Phúc, với bọn Vũ Ðức, Vũ Ðạt, và Minh-Can.

      Minh-Ðệ điểm vào huyệt Nội-quan, tên Quang-Minh hết rên rỉ liền.

      – Trong mười tám thái-bảo, những đứa nào đã ra làm quan, đứa nào hiện ở tại trường?

      – Thưa cô nương, trong mười tám huynh đệ, thì sư phụ chia ra Tam anh, Thất hùng, Bát tuấn. Tất cả đều xuất chính, chỉ mình tiểu nhân ở tại trường với sư phụ mà thôi.

      – Tam anh à? Tam anh là những tên nào?

      – Dạ, thưa là tiểu nhân với sư đệ Ðặng Vinh, Trịnh Quang-Liệt.

      Minh-Ðệ nghĩ thầm: cả ba tên này mình đều biết cả rồi, nàng hỏi:

      – Cái gã thị vệ Trịnh Quang-Liệt, cũng là đệ tử của Trung-nghĩa ư? Còn tên Nguyễn Quý-Toàn?

      – Y cũng là sư đệ bản môn. Nhưng y chưa từng tĩnh thân.

      – Mi nói lạ. Y chưa tĩnh thân thì sao có thể làm tổng lĩnh thái giám?

      – Thưa cô nương đó là sự thực. Nguyên sư đệ tên là Trịnh Quang-Thư, con trai của sư phụ. Trong cuộc tĩnh thân cách nay ba năm, có một người tên Nguyễn Quý-Toàn bị chết. Thượng-Dương hoàng hậu cho y đội tên Toàn làm thái giám, để có người sai phái.

      Minh-Ðệ nói rất nhỏ nhẹ:

      – Cách đây hơn năm, khi ta đả bại mi ở phủ Kinh-lược sứ, mi đưa ra tấm thẻ bài chứng minh rằng mi là Tả-thiên ngưu vệ thượng tướng quân, Hoài-đức hầu, rồi mi yêu cầu Kinh-lược sứ giải ta về kinh. Sau này Khu-mật-viện cho ta biết trong Khu-mật-viện không có ai tên là Ðoàn Quang-Minh cả. Sự thực vụ này ra sao?

      Ðoàn Quang-Minh im lặng, Minh-Ðệ biết đây là điều cực kỳ bí mật, chắc y không chịu nói thực, nàng đập vào vai, giải khai huyệt đạo cho y. Lập tức cơn đau trở lại, Quang-Minh hét lên như con dê bị chọc tiết, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập. Y năn nỉ:

      – Xin... côô... nương thaaa... cho... tiểu nhân xin nói..ói...ói.

      Minh-Ðệ cười nhạt:

      – Mi hãy khai đi, rồi ta tha cho mi.

      – Tất cả mọi việc đều do sư phụ với Thượng-Dương hoàng hậu chủ xướng, tiểu nhân không biết gì hết. Ái...

      Minh-Ðệ lại điểm huyệt cho y khỏi đau. Y tiếp:

      – Nguyên trong triều, hiện giờ có hai phe ngoại thích tranh quyền nhau đến một mất một còn. Một phe thuộc họ Mai, anh em của Thiên-Kim thái hậu. Một phe của họ Dương, anh em của Thiên-Cảm thái hậu và Thượng-Dương hoàng hậu. Sư phụ thuộc phe họ Dương.

      Ký ức của Minh-Ðệ trở về với vụ Ðề-điểm hình ngục Kinh-Bắc là Hoàng Khắc-Dụng đã thuật với nàng về vụ này. Nàng nghĩ thầm:

      – Mình phải tỏ ra hiểu biết, để y phải nói thực cho khỏi mất thì giờ.

      Nghĩ vậy nàng hừ một tiếng, rồi tiếp:

      – Ta biết rồi. Nguyên sinh mẫu của hoàng thượng với công chúa Bình-Dương, Kim-Thành, Trường-Ninh họ Triệu, khuê danh Liên-Hương. Bà tuẫn quốc trong vụ chư vương khởi loạn cuối thời Thuận-Thiên. Bấy giờ hoàng thượng còn thơ ấu, được Mai phi nuôi dưỡng. Khi vua Thái-tông lên ngôi thì phong đến bẩy hoàng hậu, phong tước hầu cho cha, anh các hậu, để làm hậu thuẫn. Thân phụ Mai hậu là Mai-Hựu được phong Long-thành tiết độ-sứ, hữu-kim ngô thượng tướng quân, Nam-phong quốc công. Nhưng nhà vua rất sủng ái Dương hoàng hậu, phong làm Thiên-Cảm hoàng hậu. Chính vì vậy mà phụ thân hậu là Dương Ðức-Thành được làm Tể-tướng. Anh em hậu người thì được phong thượng thư, kẻ được phong tham tri. Hoàng-hậu đem cháu mình là Dương Hồng-Hạc gả cho Hoàng-thượng. Vô tình trong triều đình thành hai phe họ Mai, họ Dương tranh quyền nhau quyết liệt. Phe họ Mai nắm các quan võ, phe họ Dương nắm các quan văn.

      Thấy nét mặt Quang-Minh tỏ ra kính phục, Minh-Ðệ hỏi:

      – Ta nói có đúng không?

      – Dạ, cô nương nói không sai.

      – Vì Hoàng thượng được Mai hậu nuôi dưỡng, nên khi ngài lên ngôi vua, thì phong bà làm Linh-Cảm thái hậu, nhưng cũng phải phong đích mẫu là Thiên-Cảm hoàng hậu làm Thiên-Cảm hoàng thái hậu. Người lại phong Hồng-Hạc làm Thượng-Dương hoàng hậu. Hiện phe họ Mai nắm hầu hết binh quyền ở vùng Trường-yên, Thanh-hóa, Thăng-long cùng mười đạo Thiên-tử binh. Còn phe họ Dương nắm hầu hết các chức quan văn. Cái tên sư phụ mi là Trịnh Quang-Thạch vốn là gia thuộc họ Dương, nên đương nhiên theo phe họ Dương có đúng không?

      – Dạ thưa đúng. Nhưng năm trước đây, Mai thái hậu băng hà, phe họ Mai bắt đầu yếu thế. Họ Mai mới đi tìm hậu thuẫn. Hậu thuẫn lớn nhất ở trong triều là Thuận-thiên thập hùng, lớn nhất ở dân gian là các đại môn phái. Trong các đại môn phái, thì họ Dương căm thù, sợ hãi nhất là phái Ðông-a.

      – Ta biết rồi, vì trước đây họ Dương lộng quyền quá, nên Dương Ðức-Uy, Dương Ðức-Thao bị Ưng-sơn song hiệp giết, cho nên từ đấy họ Dương kinh sợ, thù hận phái Ðông-a. Ta thử đoán xem có đúng không nghe: nay Mai thái hậu băng hà, thế của họ Mai suy. Vì họ Mai tìm được hậu thuẫn ở phái Ðông-a, nên phe họ Dương tìm cách hại phái này để tỉa vây cánh đối thủ phải không? Nhưng sao sư phụ mi lại hại đại sư Viên-Chiếu?

      – Cô nương không biết ư?

      – Ta hỏi mi mà!

      – Vì Viên-Chiếu là cháu của Mai Hựu, cháu gọi Mai thái hậu bằng cô ruột. Chính nhờ đại sư Viên-Chiếu, mà hầu hết chư tăng ở Ðại-Việt đều có cảm tình với phe Mai.

      Minh-Ðệ như người mù được mở mắt ra. Nàng ớn da gà: chính vì muốn hại họ Mai, nên việc đầu tiên họ Dương sai tên Trịnh Quang-Thạch ra tay vu hãm chư tăng chùa Từ-quang. Nhân việc ta cứu con trâu, mà chúng biết ta là chị Minh-Can, chúng sai Minh-Can lấy quần áo của ta, rồi âm thầm dấu vào phòng chư tăng; lại cũng bọn chúng đem xương, lông chó, gà, trâu, thịt chó dấu vào chùa, rồi cũng chính phe họ Dương là kinh-lược sứ Phạm Anh, con rể Dương tể tướng đem quân vây chùa Từ-quang. Hèn gì vụ án phạm giới nhỏ như vậy, đúng lý chỉ do lý trưởng đem các sư ra đình đánh đòn, rồi đuổi về dân dã, mà chúng cố ý vu hãm ra chuyện nhận vàng của Tống để đưa về triều cho nhà vua xử. Dù không có chứng cớ rõ ràng, nhưng ít ra triều đình cũng nghi ngờ đám võ quan thân phe Mai. Chà! Ðộc thực.

      Minh-Ðệ hỏi:

      – Thế còn chuyện hai quý nhân tới chùa dạy võ, cho vàng ta, họ là ai?

      – Việc này tiểu nhân không rõ.

      Minh-Ðệ độ chừng việc này quá lớn, chắc họ Dương với Siêu-loại hầu làm mà không cho tên Quang-Minh biết. Nàng nghĩ thầm:

      – Chắc họ Dương bố trí hai người nào đó, chờ sư phụ vắng nhà, rồi đến chùa xưng là bạn của người, thi ân bố đức cho ta. Ta nào biết địa ngục nhân gian, vô tình đi vào, rồi chắc vụ đuổi trâu chạy vào chùa cũng do chúng bố trí... rồi trước mấy trăm môn sinh trường Trung-nghĩa, lý dịch trong làng, Siêu-loại hầu cố tình đề cao Ưng-sơn song hiệp, cố ghép Ưng-sơn song hiệp là hai quý nhân đến chùa dạy võ, tặng vàng cho ta. Khi vụ án xẩy ra, thì có mấy trăm môn đệ trường Trung-nghĩa với bọn lý dịch đồn đại ra ngoài vụ này rằng Siêu-loại hầu biết ta học võ với Ưng-sơn song hiệp, mà phải rét run, rồi kính trọng ta.

      Bất giác nàng rùng mình:

      – Phải rồi, lúc ta đang ở chùa Từ-quang là lúc vua Bà cùng phò mã Thân Thiệu-Thái đem quân vượt biên, Kinh-Nam vương Tự-Mai đang có mặt ở Trường-sa, sao có thời giờ ngao du Ðại-Việt mà dạy võ, cho vàng ta. Họ mượn ta làm nhân chứng về việc đại sư Viên-Chiếu nhận vàng của Kinh-Nam vương Tự-Mai để làm gian tế cho Tống. Nhưng thực lạ lùng! Trong vụ tranh chấp biên giới vừa rồi, Kinh-Nam vương đứng về phía Ðại-Việt, sao chúng lại vu cho Vương mua chuộc võ lâm Ðại-Việt làm gian tế cho Tống?

      Nàng hỏi:

      – Còn vụ tên Ðặng Vinh, Trịnh Phúc, Vũ Ðức đột nhập vào phòng ta ở dinh kinh-lược để làm gì?

      Quang-Minh ấp úng một lúc rồi nói:

      – Kinh-lược sứ cho sư phụ biết vụ vu hãm chư tăng thông dâm với cô nương không ổn, vì cô nương còn đồng trinh. Nên sư phụ sai ba đứa đột nhập vào dinh kinh-lược, thổi thuốc mê cô nương, rồi... rồi... hại đời con gái. Như vậy khi giải cô nương về kinh, triều đình cho cô mụ khám cô nương, thì quả cô nương không còn là xử nữ nữa.

      Minh-Ðệ rùng mình hỏi:

      – Còn việc lão già xưng là Trần Tự-An bí mật dạy võ cho ta, cũng do sư phụ mi bố trí phải không?

      – Ðiều này chắc không. Bởi sư phụ sai người theo dõi cô nương, nên biết việc hằng đêm cô nương ra thuyền bên sông luyện võ với một sư phụ lớn tuổi, nên người sai tiểu nhân đột nhập dinh An-vũ-sứ hầu tìm rõ nguồn gốc võ công cô nương. Không ngờ cô nương biết xử dụng độc chưởng, nên tiểu nhân bị bại.

      – Thế thẻ bài chứng nhận mi là Tả-thiên ngưu-vệ thượng tướng quân, Hoài-đức hầu ở đâu mà mi lại có trong mình đến độ kinh-lược sứ cũng tin?

      – Thưa cô nương đó là thẻ bài thực mà giả.

      – Tại sao thực mà lại giả?

      – Dạ, thực vì chính Tể-tướng Dương Ðạo-Gia ký. Còn giả vì tiểu nhân không hề làm tướng, làm hầu. Kinh-lược sứ cũng biết thế, nhưng người giả vờ tin là thực, để có cớ giải cô nương về triều cho Khu-mật viện điều tra, mà Ðề-điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng không thể cản trở.

      Minh-Ðệ chợt hiểu ra:

      – Thì ra thế, chúng muốn tách vụ chư tăng phạm giới với vụ làm gian tế cho Tống ra làm hai. Vụ chư tăng coi như xong. Còn vụ gian tế cho Tống, chúng nghĩ rằng với chứng cớ chúng tạo ra như vậy, thì khi Khu-mật-viện điều tra ra, sẽ tâu lên triều đình, khiến triều đình nghi ngờ phái Ðông-a. Phái này mất uy tín, thì phe họ Mai cũng bị liên lụy, mất chỗ dựa. Ðộc! Ðộc thực.

      Minh-Ðệ tra khảo tên Quang-Minh để tìm hiểu về sư phụ Tự-An, cùng Dương Tông, nhưng y không biết gì hơn. Nàng nhủ thầm:

      – Ta còn bằng này bí mật: có thực Quan-âm dạy nội công thượng thừa âm nhu cho ta là do lòng tốt không? Bà là ai? Cụ già dạy võ cho ta có thực là Trần Tự-An không? Nếu không thì do ai bố trí với mục đích gì? Dương Tông là ai? Có phải do Dương gia bố trí hại sư huynh Thường-Kiệt không?

      Nàng hỏi:

      – Việc mi với Minh-Can đánh thuốc độc hại ta là do ai sai khiến?

      – Dạ, mọi việc do sư phụ chủ trương cả.

      Minh-Ðệ nghĩ thầm:

      – Mình phải làm cho vụ án này sáng tỏ để giải oan cho sư phụ với chư tăng chùa Từ-quang, cũng để giải oan vụ ta bị vu hãm phạm giới dâm với chư tăng. Trước hết ta bắt chúng khai để có chứng cớ đã.

      Ðộ chừng cơn đau hơn hai giờ của Quang-Minh với Minh-Can đã qua, Minh-Ðệ giải khai huyệt đạo cho chúng, rồi nàng nói:

      – Hai đứa mi có biết tại sao lại bị đau đớn như thế này không?


      #3
        CDDLT 21.01.2005 18:18:38 (permalink)
        HỒI THỨ CHÍN

        Hoa trong giấc mộng


        Cái tin Chương-thánh Gia-khánh hoàng-đế của Ðại-Việt sẽ đến chùa Pháp-vân để làm lễ cầu siêu cho oan hồn tướng-sĩ cùng dân chúng bỏ mình trong cuộc Nam xâm của Tống năm Kỷ-hợi (1059) và cuộc đánh sang vùng Ung-châu, Khâm-châu, Liêm-châu, Tây-bình châu năm Canh-Tý (1060) của Ðại-Việt để tự vệ... lan ra khắp vùng Kinh-Bắc rất mau. Tại các đình làng, tiên-chỉ, thứ-chỉ, chánh phó lý trưởng, thủ-bạ, trương-tuần họp hành liên miên để cắt cử người sửa đường, làm cỏ, cắt cây, tu bổ cầu cống, sao cho thực chu đáo, để đón một vị vua nhân từ, anh hùng của giòng giống Tiên-Rồng đi qua. Mỗi làng sẽ làm một cái cổng chào, kết hoa. Khi đức vua tới đầu làng nào, thì chức sắc trong làng sẽ dâng lên ngài một vài thổ sản quý nhất của làng. Ðám hoàng nam sẽ thao diễn võ thuật, bắn cung, xung phong hãm trận cho ngài cùng các quan xem, để ngài biết rằng nhờ đức nhân của ngài, làng luôn dạy dỗ con em học văn, luyện võ; bất cứ lúc nào xã-tắc hữu sự là có thể dùng đến. Khi ngài qua đình làng, thì sẽ đốt pháo mừng, rồi một đội hoàng nam múa sư tử, đội thanh nữ múa một vũ điệu, chào mừng.

        Ðiều quan trọng nhất là sao cho dân chúng hiểu về tình hình đất nước. Cho nên tối tối, tại trường học, đình làng các thầy đồ họp học trò, dân chúng để kể chuyện về việc binh biến năm Kỷ-hợi, Canh-Tý giữa ta với Tống.

        ...Dân chúng say mê nghe chuyện Tống triều sai bọn biên thần Nam-phương là Tiêu Chú, Tiêu Cố, Lý Sư-Trung, Tống Hàm chuẩn bị mộ quân, luyện quân, tích trữ lương thảo gây thanh thế lớn, rồi dẫn quân tuần sát các trang động Bắc-biên để đe dọa khiến nhiều trang-động phải bỏ theo Tống. Triều đình Ðại-Việt sai ngài Thái-tử thiếu bảo, Tả-kiêu-vệ đại tướng quân, Thái-hà hầu Lý Thường-Kiệt mang mười đạo Thiên-tử binh lên tiếp viện cho vua Bà.

        ... Nào việc vua Bà chia quân làm hai cánh, cánh hư do Long-thành ẩn-sĩ Tôn Ðản cùng phu nhân chỉ huy đánh sang Khâm-châu, Liêm-châu.

        ... Nào Tống mắc mưu, tràn qua vùng Lạng-châu theo kế hoạch Vây Nguy, cứu Triệu, đến nỗi tướng Tống là Ðô-giám tuần kiểm Tống Sĩ-Nghiêu bị bại, quân tướng bị bắt bị giết hết, y chạy theo đường rừng về, đến nỗi chỉ còn cái quần lót.

        ... Nào sau đó vua Bà cùng phò mã Thân Thiệu-Thái vượt biên đánh sang Tống. Tống đem quân chống cự, bị bại. Các tướng Tống Sĩ-Nghiêu, Lý Ðức-Dụng, Tả Minh, Hà Nhuận, Trần Bật tử trận. Nào Tống thấy nguy, sai Dương Lữ-Tài đem đại quân ngăn bước tiến của Ðại-Việt. Quân tan, Lữ-Tài bị bắt.

        ... Nào Tống phải sai Lại-bộ thị-lang Dư Tĩnh sang ta xin nghị hòa, để xin ngừng tiến quân.

        ... Nào đức vua "ta" đồng ý thả Lữ-Tài, nhưng vua Bà không chịu, đòi Tống phải tuân ba điều kiện...

        Có thể nói, dân chúng trong các làng, từ già đến trẻ đều biết đầy đủ tin tức Bắc-biên của ta. Hôm nay các làng đều nhận được một mật lệnh từ Thăng-long gửi về.

        Khác với mọi lần, tin tức, mật lệnh thường được huyện gửi về cho chức dịch, hoặc thầy đồ. Hôm nay một kị mã từ Thăng-long về làng, kị mã không phải những kị mã chạy trạm thông thường, mà là một thị vệ của đức vua. Thị vệ trao tận tay cho thầy đồ Thái một phong thư, cùng một gói bạc. Trên phong thư đóng ấn của quan tổng-lĩnh thị-vệ, kiêm tổng-quản thái-giám Lý Thường-Kiệt. Ngoài phong thư có chữ son đỏ: "Chỉ thầy đồ Thái mới được mở ra. Sau khi đọc xong, thầy phải đốt mật lệnh trước mặt viên thị vệ". Biết tầm quan trọng của mật lệnh, nên trong làng, ngoài xóm không ai dám tò mò hỏi thầy đó là lệnh gì? Vì sao vua ban hành cho.

        Chiều hôm ấy, thầy đồ Thái gọi anh mõ tới nhà thầy. Thầy trao cho anh một xâu trăm đồng tiền, rồi nói:

        – Tôi thưởng cho anh đấy, anh mua rượu mà uống, rồi anh đi khắp làng rao bốn lần: sáng, trưa, chiều, mời tất cả dân làng tới nghe tôi kể chuyện.

        – Bẩm thầy chuyện gì mà phải rao tới bốn lần ạ?

        – Chuyện rất quan trọng, nên tôi thưởng cho anh trước đấy. Anh rao nguyên văn rằng:

        " ... Theo thần nhân báo mộng, có một tiên nữ giáng trần ở Thổ-lội, khi đức vua trẩy chùa Pháp-vân sẽ đón vị tiên đó về làm Thần-phi. Yêu-cầu quan viên, dân chúng trong làng, ngày mai phải tới đình nghe tôi kể chuyện này. Buổi sáng dành cho chức dịch, nhân sĩ. Buổi trưa dành cho đàn bà, buổi chiều dành cho thanh nữ, buổi tối dành cho đàn ông".

        Thôi anh đi đi.

        Anh mõ mới rao một lần quanh làng, mà cả tổng đã rúng động. Ba trường học làng Thổ-lội đều đóng cửa, vì học sinh bàn tán, không thể học được. Ngoài chợ, đầu làng, cuối xóm đều tụ năm túm ba xôn xao không ít. Như thường lệ, mỗi khi thầy đồ kể chuyện bao giờ cũng bắt đầu từ giờ Mão, thế mà hôm nay, mới giờ Dần, mà các nhân sĩ, lý dịch, đã tề tựu đầy đủ. Khi lá cờ mầu tím do ông thủ-bạ từ từ kéo lên trước sân đình, thì anh mõ sẽ đánh ba hồi trống (1).

        Ghi chú,

        (1) Theo sử chép rằng, khoa Thiên-văn lịch-số Ðại-Việt có từ thời vua Hùng. Vua sai chép phép làm lịch vào lưng một con rùa đem cống vua Nghiêu. Vua Nghiêu sai chép lại, rồi học theo đó mà làm lịch Trung-quốc, đó là nguồn gốc Quy-lịch. Không rõ bấy giờ báo giờ như thế nào. Nhưng tới triều Lĩnh-Nam, quan Ðại-tư-đồ là công chúa Nguyệt-đức Phùng Vĩnh-Hoa đã nghiên cứu lịch Hồng-bàng, rồi làm ra lịch mới, thể lệ báo giờ như sau: mỗi đầu giờ ban ngày đánh ba tiếng trống, rồi kéo cờ biểu hiệu lên. Giờ Dần cờ xanh, giờ Mão cờ tím, giờ Thìn cờ vàng, giờ Tỵ cờ hồng, giờ Ngọ cờ Ðỏ, giờ Mùi cờ vàng nhạt, giờ Thân cờ trắng. Ban đêm thì không kéo cờ, mà đánh chiêng, trống. Giờ Dậu thì ba tiếng chiêng, giờ Tuất thì hai tiếng chiêng. Giờ Tý thì một tiếng trống. Giờ Sửu thì hai tiếng trống. Xin đọc Cẩm-khê di hận, của Yên-tử cư-sĩ do Nam-á Paris xuất bản. Ðến đời Lý vẫn áp dụng nguyên tắc đó.

        Thầy đồ Thái quần áo chỉnh tề, đứng đối diện với cử tọa. Thầy cung tay làm lễ chào mọi người, rồi trịnh trọng nói:

        – Thưa các vị, hôm nay tôi được hầu chuyện với các vị về Anh linh thần vũ của Chương-thánh Gia-khánh hoàng đế bản triều.

        Nghe đến hoàng-đế đương triều, mọi người đều im lặng, tỏ vẻ kính cẩn.

        Thầy đồ tiếp :

        " ...Cho đến nay, Chương-Thánh Gia-Khánh hoàng đế tuổi đã bốn mươi, mà vẫn chưa có hoàng tử để nối dõi ngôi trời. Mặc dù trong cung có Thượng-Dương hoàng hậu, cùng năm vị phi là tuyên-phi, quý-phi, giai-phi, dung-phi, nghi-phi... nhưng các vị phi chỉ sinh ra công chúa. Có công chúa đã đi vào tuổi hai mươi, có công chúa mới một hai tuổi. Thái-hậu lo lắng không ít, ngài khuyên đức vua nên lập con chư vương làm thái tử để nối tiếp ngôi chính thống. Nhưng hoàng thượng vẫn bảo để chờ Thanh-y đồng tử giáng sinh..."

        " ... Hồi hoàng thượng còn nhỏ, bấy giờ vua Thái-tông còn là Khai-thiên vương. Một đêm hoàng thượng mộng thấy mình lên thiên cung chầu Ngọc-Hoàng thượng đế. Ngọc-Hoàng thượng đế truyền chỉ cho ngài rằng:

        – Người là con vua Viêm-đế giáng sinh, sau này sẽ làm chúa phương Nam, vậy khi lên ngôi vua, thì phải lấy đức nhân mà trị dân, cho đúng với ý ta. Bằng không ta sẽ sai Thiên-lôi đánh chết, nghe không?

        Giữa lúc ấy có một trong Thập-điện Diêm-vương tâu rằng:

        – Hồi Lý Ðức-Chính (vua Lý Thái-Tông) cầm quân đánh Chiêm-thành, để tướng sĩ giết oan binh lính người Chiêm nhiều quá, trong đó một phi tần, và bẩy mươi hai cung nữ, bị giết oan. Ngọc-Hoàng đã truyền chỉ cho phi tần đầu thai, nay đã làm con dâu Ðức-Chính, tức vợ Nhật-tông. Nhưng còn bẩy mươi hai cung nữ vẫn chưa đầu thai, oan hồn chúng phiêu phiêu phưởng phưởng không nơi nương tựa, ngày đêm gào khóc, một hai đòi lên trần thế đòi nợ triều Lý. Xin Ngọc-Hoàng thượng đế định liệu.

        Ngọc-Hoàng phán:

        – Cho 72 oan hồn cung nhân đầu thai làm cung tần triều Lý, tướng sĩ Chiêm đầu thai làm bọn gian thần triều Lý để chúng hợp với con dâu Ðức-Chính phá phách giang sơn Ðại-Việt.

        Thái-Bạch kim tinh tâu rằng:

        – Trước đây Ngọc-Hoàng đã truyền chư tiên, chư thần thay nhau đầu thai xuống Nam-phương để kiến tạo lại Ðại-Việt, vì vậy nên con vua Thanh-Ðế đầu thai làm Thái-tổ Lý Công-Uẩn lập ra triều Lý dài trên hai trăm năm; lại cho Vũ-khúc tinh quân đầu thai làm Khai-quốc vương Lý Long-Bồ. Nay cho oan hồn người Chiêm đầu thai xuống thế, e họ phá hỏng giang sơn Ðại-Việt.

        Ngọc-Hoàng thượng đế phán:

        – Vậy hãy cho Thanh-y đồng tử giáng sinh, làm con của Nhật-Tông. Lại cho Hằng-Nga tiên nữ giáng trần làm vợ Nhật-tông, làm mẹ của Thanh-y đồng tử. Hằng-Nga với Thanh-y sẽ tùy nghi, khi thấy bọn oan hồn Chiêm quấy phá Ðại-Việt quá thì trừ đi..."

        " ... Từ khi hoàng-thượng lên ngôi, tuy có hoàng hậu, phi tần, nhưng chưa sinh hoàng nam, ngài vẫn kiên nhẫn chờ Hằng-Nga tiên nữ, cùng Thanh-y đống tử. Năm gần đây, quan Tư-thiên-giám xem thiên tượng, thấy hào quang, mây hồng chiếu về vùng Kinh-bắc, ứng vào với Hằng-Nga, tâu lên thiên-tử. Vì thế nên đức vua ta quyết đi hành hương chùa Pháp-vân, để tìm xem thanh nữ nào là Hằng-Nga tiên nữ giáng trần, sẽ đem về cung phong làm Thần-phi..."

        " ...Theo tôi nghĩ, không chừng Hằng-Nga tiên nữ gáng trần ngay trong làng mình cũng nên. Vậy xin các cụ, các ông cho tất cả con cháu gái, có nhan sắc, có đức hạnh tuổi từ mười ba trở lên, mặc quần áo thực đẹp cùng ra đình làng đón đức vua. Nếu như cô nào là Hằng-Nga tiên nữ đức vua chỉ nhìn sơ là nhận ra ngay. Hỡi ơi! Bấy giờ thực là vạn vạn hạnh cho làng ta. Trai tráng làng ta sẽ khỏi phải chịu binh dịch, lao dịch. Dân làng không phải đóng thuế. Toàn làng được thụ tam ân...(2)".

        Ghi chú,

        (2) Tam-ân là ba thứ ân huệ nhà vua dành cho làng xã sinh ra thái hậu, hoàng hậu, cung nga ở bậc "phi" trở lên. Tùy theo triều đình Ðại-Việt ấn định tam ân khác nhau. Ðời vua Lý Thánh-tông thì tam ân là:

        – Tam đại thọ phong, tức ông bà nội ngoại, bố mẹ, anh chị em được phong những chức tước nhỏ.

        – Hương lý thọ đức, tức dân làng được nhờ ân đức. Trai được bổ nhiệm làm quan theo chế độ ưu đãi, gái được tuyển làm vợ các quan, tướng cùng con vua, con quan.

        – Hình-pháp thọ nghị, tức người trong làng khi phạm tội, sẽ được xử ân giảm từ một đến ba bậc.

        Thế rồi sau ba buổi thuật chuyện của thầy đồ Thái, khắp làng tổng Dương-quang như muốn nổ tung ra vì những lời bàn tán, kẻ thì bảo cô này là Hằng-Nga giáng trần, người thì bảo cô kia mới đúng. Bàn cho thực phải, khắp tổng Dương-quang có đến hơn nghìn cô gái đang ở tuổi mười ba đến hai mươi. Các tiên chỉ, lý trưởng, hương dịch họp hành liên miên hầu chọn những cô đức hạnh tốt, tề gia nội trợ giỏi, lại có nhan sắc, để đem ra đình làng đón đức vua. Trong thâm ý họ nghĩ rằng, nếu các cô chẳng phải là Hằng-Nga giáng trần, nhưng biết đâu, hợp nhãn đức vua, được ngài tuyển làm cung nữ cũng đã lấy làm hãnh diện cho hương đảng rồi.

        Ông bà Lê Văn-Thiết nhận được lệnh làng phải đem Minh-Ðệ, Minh-Can ra cho làng tuyển chọn. Chiều hôm ấy, ông bà vừa đi làm về, thì thầy đồ Thái trưởng giáp Nhất tới. Ông bà ân cần sai Minh-Can pha nước mời thầy. Thầy nói:

        – Chuyện đức vua đi tìm Hằng-Nga giáng thế ở vùng ta, ông bà đã biết rồi đó. Theo lệnh của làng, thì nhà này có Minh-Ðệ, Minh-Can phải ra cho làng chọn. Vậy ông bà nên may quần áo, giầy dép thực đẹp cho hai cháu, để mấy hôm nữa làng sẽ tuyển. Nếu hai đứa trúng cách, sẽ được làng xếp vào đoàn thanh nữ đứng đón đức vua. Biết đâu hai đứa nhà này chẳng được đội hoàng ân?

        Bà Thiết trả lời không suy nghĩ:

        – Nhà này có ba đứa con gái, thì con Minh-Nhàn nhỏ tuổi quá, chưa được dự tuyển. Chỉ còn hai con Minh-Ðệ, Minh-Can mà thôi. Biết con ai bằng cha mẹ. Con Minh-Can nhà tôi vừa nết na, văn hay, chữ tốt, võ giỏi, đức hạnh khó kiếm, nhan sắc của nó thì Tây-thi, Dương-phi còn thua xa, tôi e chính nó là Hằng-Nga giáng trần đấy thầy ạ. Còn con Minh-Ðệ, ăn không nên đọi, nói không nên lời, vụng về, cục mịch, năm trước đây bỏ nhà trốn sang ở chùa Từ-quang, ăn nằm với mấy nhà sư một lúc. Án này rung động cả Kinh-Bắc. Cũng may quan tể-tướng thương tình đem nó trao trả cho chúng tôi quản chế... vì vậy đâu có thể đem nó ra cho làng nghị sự mà xấu hổ à?

        Thầy đồ Thái thấy bà Thiết yêu con này, ghét con kia quá đáng, thì hơi bực mình. Thầy nói:

        – Tôi chỉ chuyển lệnh mà thôi, còn chấp hành hay không là việc của ông bà. Lệnh trên đưa xuống rằng: tất cả thanh nữ trong tuổi 13-18 đều phải đem ra cho làng tuyển. Ban nãy bà nói: biết con không ai bằng cha mẹ, thì tôi cũng xin thưa rằng hiểu tài năng học trò không ai bằng thầy. Tôi có thể tóm lược cho bà biết rằng về văn tài của Minh-Ðệ thì toàn cõi Ðại-Việt e không quá mười, về võ công thì e đếm trên bàn tay. Thôi tôi xin lui.

        Thầy đồ Thái về rồi, thì bà Thiết gọi Minh-Ðệ, Minh-Can lên nhà, bà nói với chồng:

        – Hôm trước thầy đồ Thái có kể chuyện đức vua đến vùng này tìm Hằng-Nga, hai đứa đều đã được nghe. Nay làng lệnh cho hai đứa, ngày mai ra đình cho làng tuyển chọn. Tôi nghĩ chắc Minh-Can là Hằng-Nga quá, thôi thì chỉ cho nó ra thôi. Còn con nợ đời kia, ông nghĩ nên dấu nó đi đâu cho khỏi chướng mắt!

        Ông Thiết biết vợ thiên vị, vì hồi này người Minh-Ðệ thon lại, trở thành sắc nước hương trời. Nhưng chẳng qua là số kiếp, nên bị mẹ hắt hủi mà thôi. Ông nói:

        – Tôi thì tôi nghĩ mình cứ theo đúng lệnh của làng. Nếu con Minh-Can có là Hằng-Nga thì khi đức vua thấy, ngài sẽ nhận ra, chứ nay không cho Minh-Ðệ dự tuyển, thì e rằng làng bắt lỗi.

        Lập tức bà Thiết rống lên, bà xỉa xói vào mặt ông chồng:

        – Ông nói! Ðem cái bị thịt này ra cho làng, để mà làng chửi cho à? Ông có biết nó ngủ với một lúc năm sáu thằng sư ở chùa Từ-quang không?

        Minh-Ðệ thấy bố mẹ cãi nhau vì mình, thì nàng nói:

        – Thưa bố, con không muốn ra cho làng tuyển đâu. Dù làng có tuyển, con cũng không nhận kia mà. Làng mình, lớn nhất là Trung-nghiã đại tướng quân, Siêu-loai hầu, mà chính y cũng không đủ trung, đủ nghĩa thì những cái ngữ như ông lý, ông xã đâu có tư cách mà tuyển con? Hiện nay hậu cung thì chia làm hai phe, phe ủng Dương, phe ủng Mai bôi mặt đá nhau. Các quan thì phân bè đảng hiềm khích nhau, như vậy cái ông Chương-thánh Gia-khánh không phải là minh quân. Con không đi đón ông ta đâu.

        Từ lâu rồi, ông bà Thiết chưa từng nói chuyện với Minh-Ðệ, nên ông bà không biết rõ kiến thức của con đến đâu. Nay thình lình ông thấy nàng trình bầy ra vấn đề ngoài sự hiểu biết của mình, thì kinh ngạc không ít.

        Bà quát lên:

        – Mày láo vừa thôi, mày dám nói xấu ông Trung-nghĩa thì học trò ông ấy nó sẽ gang miệng mày ra đấy.

        – Xin mẹ cứ yên tâm, con nghĩ ông ấy không có tư cách, e học trò ông ấy không thể làm gì ai. Còn như ông ấy có tài, thì cứ đến đây mà lý luận với con. Con đủ khả năng đương đầu với ông ấy.

        Nói rồi nàng từ tạ bố mẹ, xuống nhà dưới cho lợn ăn.

        Từ hôm tên Ðoàn Quang-Minh, với Minh-Ðệ bị trúng Chu-sa huyền-âm độc đến giờ, thì hằng đêm chúng phải ra miếu thổ thần loan báo tất cả những gì nàng sai chúng dò thám trường Trung-nghĩa cho nàng. Ðến đúng giờ Tý, khi chúng lên cơn, nàng lại điểm huyệt cho chúng mê đi. Tính đến hôm nay, chúng đã chịu tới ba mươi ngày đau đớn, và nàng đã tra khảo hết sức, nên dù đứng gần cái ngày thứ 49 sẽ bị chết, mà chúng cũng không biết gì hơn. Quang-Minh với Minh-Can đã chờ ở đó từ bao giờ. Chúng làm xong tờ khai, trao cho nàng. Dưới ánh sáng ngọn đèn dầu, Minh-Ðệ cầm tờ khai lên đọc:

        " ...Dương hậu ban chỉ cho sư phụ là Trịnh Quang-Thạch phải phái người dò thám chùa Từ-quang. Sư-phụ mua chuộc được sư Viên-Hoa, đệ tử của sư Viên-Chiếu, nên nhất cử, nhất động của chùa Từ-quang sư phụ đều biết hết. Ngay ngày đầu cô nương tới chùa thì sư phụ đã được báo cho biết. Vì vậy sư phụ sai tiểu nhân bảo Minh-Can lấy tất cả quần áo của cô nương giao cho Viên-Hoa. Một mặt sư phụ trao cho Viên-Hoa nào xương chó, xương gà, lông gà, lông chó, bí mật chôn ở trong vườn hoa của chùa. Sau đó sư phụ sai các sư đệ Ðặng Vinh, Ðặng Minh, Lê Kim-Cương, Phạm Trung làm quan võ trong lộ Kinh-Bắc đứng đơn tố cáo lên an-phủ kinh-lược sứ Phạm Anh. Phạm Anh hẹn ngày đem quân đến chùa khám xét. Ðúng đêm đó, Viên-Hoa bí mật dấu quần áo cô nương vào các tăng phòng, đem mấy nồi thịt chó dấu trong bếp. Còn việc quý nhân với vợ đến chùa, cùng vụ Trần Tự-An dạy võ cho cô nương, thì tiểu nhân không hề biết. Có khi vụ này do quan tể-tướng làm, chỉ ngài với sư phụ biết. Cũng có thể sư phụ sai người khác làm. Còn sư Viên-Hoa tuy có bị kết án, nhưng Dương tể tướng đã tìm cách cải án cho ông ta, và cấp độ diệp cho ông ta làm trị sự trưởng chùa Từ-quang...»

        Cầm tờ khai, Minh-Ðệ kinh hoàng nghĩ:

        – Hôm ở phủ An-vũ kinh-lược sứ, sư Viên-Hoa tỏ ra hiếu thảo, sẵn sàng thụ hình cho sư phụ, cho sư huynh sư đệ, rồi sau đó hình quan không khảo nữa. Thì ra y thi hành khổ nhục kế để che mắt mọi người. Hôm ấy từ hình quan, cho tới chư tăng đều kính phục y là người chí hiếu. Không ngờ!!! Bây giờ y làm trị sự trưởng chùa Từ-quang, vậy ta phải thám thính chùa này xem. Ừ, nhưng ta là con gái, mà đi đêm thế này, bất cứ ai trông thấy cũng phiền phức. Chi bằng ta giả trai. Ðược, ta lấy quần áo của bố mặc vào, rồi quấn khăn lên đầu thì có trời mà nhận ra.

        Nghĩ vậy, nàng điểm huyệt cho Quang-Minh, Minh-Can mê đi, rồi về nhà tìm quần áo của phụ thân. Nhưng tất cả quần áo của ông Thiết đều quá rộng so với cơ thể nàng. Chợt thấy một cái túi vải nâu, Minh-Ðệ mở ra xem, thì ra bộ quần áo cùng mũ nhà sư, mà hồi hai mươi thân phụ nàng đi tu một năm để cầu siêu độ cho tiền nhân, ông vẫn giữ làm kỷ niệm. Minh-Ðệ lấy ra mặc thử, thì vừa khít. Nàng đội mũ tu lờ che hết tóc, rồi ra đi. Chợt nhớ ra một điều, nàng hái mấy lá ổi, nhai và nuốt đi, sau đó nói thử mấy tiếng, tiếng nàng trở thành khàn khàn như đàn ông.

        Minh-Ðệ tìm cách chui ra khỏi lũy tre làng, đến chùa Từ-quang. Nhìn ngôi chùa nằm im lìm trong đêm, ngoài cổng có hai con ngựa cột vào gốc cây. Minh-Ðệ nghĩ thầm:

        – Tại sao lại có ngựa ở đây? Khách nào đã đến chùa?

        Nhớ lại thời gian sống trong chùa Từ-quang với sư Viên-Chiếu, ông đã cho nàng biết bao nhiêu tình cảm, bao nhiêu thương xót, nhưng không biết nay ông ở đâu? Thương cảm dâng lên trong lòng Minh-Ðệ:

        " ... Thời gian qua mau thực, thoáng một cái đã bốn năm qua rồi. Hồi mình đến chùa là năm Kỷ-Hợi (1059), vụ án xẩy ra cuối năm Canh-Tý (1060). Mình ở tù tại lộ Kinh-Bắc hơn năm, về Thăng-long gần năm, rồi về đây cũng sáu tháng rồi (1063)".

        Nàng tung mình vượt qua cổng, đáp xuống sân. Liếc nhìn thấy trong phòng của sư phụ Viên-Chiếu có ánh đèn chiếu ra. Nàng ren rén lần tới, áp tai vào cửa sổ nghe ngóng. Có tiếng nói từ trong vọng ra. Tò mò, nàng dùng ngón tay chỏ thấm nước bọt bôi lên giấy cửa sổ, lập tức giấy thủng một lỗ, nàng ghé mắt nhìn vào. Bất giác nàng rùng mình: trong phòng có ba người đang ngồi trước một bàn tiệc ê hề rượu thịt. Ba người đó là sư Viên-Hoa, Trịnh Quang-Thạch và quý nhân dạy võ cho nàng, mà người ta bảo là Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai.

        Trịnh Quang-Thạch nói với quý nhân:

        – Khải vương gia, hồi ấy, chúng ta ước hẹn rằng ngài chỉ dạy cho nó mấy thế võ của phái Ðông-a, Hoa-sơn, để khi nó ra chiêu, ai cũng nhận ra, rồi lão phu nhân đó giả run sợ vì nó là đệ tử của Ưng-sơn song hiệp... như vậy đủ rồi. Không ngờ vương gia dạy cho nó một bản lĩnh quá cao, nên y thị mới thắng hầu hết đệ tử của lão phu.

        Minh-Ðệ nhủ thầm:

        – Thì ra quý nhân kia là Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai thực, mình nghe nói Vương là cái thế anh hùng của Tống, của Việt, mà sao người lại chẳng tử tế gì với mình? Tại sao người lại về phe Dương, rồi người cho mình vàng, bạc, cùng dạy võ mình để hại chư tăng? Vô lý thực?

        Kinh-Nam vương cau mày, lắc đầu:

        – Thì cô gia chỉ dạy cho nó tất cả các thế phản đòn chân, phản đòn tay của phái Ðông-a, cùng một số đòn căn bản của phái Hoa-sơn. Nhưng không ngờ nó học đâu được nội công âm nhu chính tông của phái Mê-linh, nên mới xử dụng các thức ngoại công huyền điệu như vậy.

        Viên-Hoa hỏi:

        – Khi vương gia dạy nó, thì vương gia có biết nó đã luyện nội công âm nhu chưa?

        – Có, nhưng cô gia thấy công lực nó thấp quá, tưởng rằng nó chỉ biết có vậy thôi. Chứ nếu như nó học nhiều thì sao đến nỗi bị con Minh-Can đánh cho chết lên chết xuống? Nào ngờ nó được học thực đầy đủ, nhưng chỉ mới luyện được một hai thành. Sau khi cô gia dạy ngoại công cho nó, nó mới luyện tiếp, nên công lực tiến đến chỗ không thể ngờ được. Cô gia có hỏi ai dạy nội công này cho nó, thì nó bảo là Quan-Âm! Chẳng biết Quan-Âm là ai!

        Vương thở dài: nội công âm nhu cùng Long-biên kiếm pháp của phái Mê-linh hiện là hai kho tàng vô giá, mà võ lâm dù phe chính, phe tà, dù Hoa, dù Việt khi nghe nói đến đều thèm dỏ dãi ra. Không hiểu con lỏi này đã được ai dạy cho nó?

        Viên-Hoa đưa mắt hỏi Quang-Thạch. Thạch lắc đầu:

        – Thần hoàn toàn không biết. Xét cho kỹ trong phái Mê-linh hiện chỉ có tám người luyện thành công tâm pháp này mà thôi. Khi nó nói là Quan-Âm thì hẳn người dạy phải là đàn bà. Trong tám cao nhân phái Mê-linh, thì hết sáu là đàn bà. Không biết Quan-Âm là bà nào trong sáu bà?

        Từ hôm Minh-Ðệ khám phá ra lão trượng dạy võ cho nàng không phải là Trần Tự-An. Nàng nghi ngờ luôn cả Quan-Âm đã dạy nội công cho nàng hẳn có ý không tốt. Bây giờ nghe ba người nói chuyện, ứng hợp với những vị quan ở Khu-mật-viện bàn luận, cùng vụ Lý Thường-Kiệt nhận nàng là sư muội, nàng mới thực sự tin rằng Quan-Âm là một cao nhân của phái Mê-linh; người dạy nàng chỉ vì thương xót.

        Viên-Hoa hỏi Kinh-Nam vương:

        – Thưa vương gia, thế cái lão già dạy võ công cho nó hằng đêm ở Kinh-Bắc rồi Thăng-long xưng là Trần Tự-An có phải do vương gia sai không?

        – Không! Dường như y là Trần Tự-An thực cũng nên, bởi võ công y cao thâm đến không thể tưởng tượng được.

        Quang-Thạch lắc đầu:

        – Tiểu nhân không tin, vì nếu y là Trần Tự-An thì sao y lại phải sai thị ăn cắp tâm pháp Cổ-loa của Thường-Kiệt, mà chính y chế ra?

        Nghe đến đây tai Minh-Ðệ như ù đi, vì người ngồi kia không phải là Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai. Bởi nếu người là Trần Tự-Mai thì đời nào Viên-Hoa, Quang-Thạch dám gọi tên phụ thân người một cách sách mé như vậy?

        Kinh-Nam vương giả quay lại nói với Quang-Thạch:

        – Giữa cô gia với Dương tể tướng có lời ước hẹn. Phía cô gia giúp Dương gia hạ hết phe họ Mai. Ngược lại phía Dương gia phải giúp cô gia hạ phái Ðông-a cùng Trần Tự-Mai, mục đích gây cho Nam triều không còn tin tưởng vào phái này với Tự-Mai nữa. Thế nhưng đến nay các vị chưa làm được việc gì cả. Chỉ mình cô gia giả làm Kinh-Nam vương...

        Minh-Ðệ nói thầm:

        – Thì ra y là một vị vương nào đó, giả làm Kinh-Nam vương thực!

        Quang-Thạch tỏ vẻ chua chát:

        – Trời ơi! Vương gia phải biết công cho bọn thần chứ? Vương gia quên mất rằng việc vương gia giả Trần Tự-Mai dạy võ cho con Minh-Ðệ, đâu có ai biết? Phải chính thần đóng kịch lễ phép với nó, rồi nói ra, nên hương dịch, cùng đệ tử Trung-nghĩa mới đồn đại ra ngoài, rồi chính y thị với chư tăng bị bắt khai ở lộ Kinh-Bắc, vụ này mới ồn lên. Cũng chính Dương tể tướng lệnh cho Kinh-lược an-phủ sứ Kinh-Bắc tư án này về triều. Sau khi bản án chùa Từ-quang công bố, khắp vùng Kinh-Bắc này ai cũng biết rằng vợ chồng Ưng-sơn song hiệp đến chùa Từ-quang hội với sư Viên-Chiếu, đem vàng bạc trả công cho Viên-Chiếu để mua chuộc võ lâm, tăng chúng làm nội công khi Kinh-Nam vương đem quân Tống đánh qua. Rồi mấy trăm đệ tử của thần đều chúng khẩu đồng từ rằng sư phụ của chúng về võ công, uy tín biết mấy, thế mà khi thấy một cô gái hèn hạ cũng phải khom lưng, vì cô là đệ tử của Ưng-sơn song hiệp. Tất cả những tin này, triều đình đều biết hết rồi. Công lao như vậy đâu có nhỏ?

        Kinh-Nam vương giả nhăn mặt tỏ vẻ không bằng lòng:

        – Như vậy cũng chưa đủ, phải làm sao cho hoàng đế Ðại-Việt cùng võ lâm tin tưởng thực sự rằng Kinh-Nam vương trung thành với triều Tống, sẽ đem quân đánh chiếm Ðại-Việt, bấy giờ bên trong, phái Ðông-a làm nội ứng.

        Quang-Thạch cười :

        – Việc đó đâu khó. Hiện trong cung hoàng hậu đã thay hầu hết cung nữ, tuyển cung nữ mới. Các cung nữ này đều là người của ta; chúng đều biết võ, lại thông văn tự. Vì vậy mỗi khi định phao tin gì, thì chỉ việc báo cho con trai thần là Trịnh Quang-Liệt hiện là một trong tổng quản thái giám. Y sẽ rỉ tai cho cung nữ, tất cả cung nữ đều chúng khẩu đồng từ, thì nhất định Hoàng-thượng sẽ tin.

        Viên-Hoa suýt xoa:

        – Kế này hay thực. Vậy xin vương gia ban thưởng đi thôi.

        Kinh-Nam vương giả lấy một cái túi vải, mở nút đổ ra bàn. Nào vàng, nào bạc, nào ngọc ngà sáng rực. Y đếm rồi trao cho Viên-Hoa mười nén vàng. Viên-Hoa cúi đầu tạ ơn rối rít, rồi mở cái tráp trên đầu giường khóa lại. Kinh-Nam vương giả lại trao cho Quang-Thạch ba mươi nén vàng cùng bốn viên hồng bảo thạch, bốn cặp vòng ngọc bích:

        – Trong số vàng này, thì thiên-tử ban cho quân hầu mười nén. Còn hai mươi nén xin trao cho quan Tể tướng. Bốn viên ngọc, bốn đôi vòng ngọc này xin quân hầu dâng lên Hoàng-hậu. Thiên-tử hứa rằng, khi quân Tống chỉ ngọn cờ xuống Nam, sẽ phong cho Tể tướng làm Nam-bình vương thay Lý Nhật-Tông, còn quân hầu sẽ được phong làm Long-thành quốc-công, Thái-sư phụ-quốc thái-úy. Dĩ nhiên đại sư Viên-Hoa sẽ được phong làm tăng thống.

        Minh-Ðệ nghe nói mà kinh hoàng, chân tay run lẩy bẩy:

        – Hỡi ơi, trước đây nghe viên đề-điểm hình-ngục Hoàng Khắc-Dụng luận bàn, mình chỉ biết rằng vụ án chùa Từ-quang là do hai phe ngoại thích họ Mai, họ Dương tranh quyền nhau mà thôi. Bấy giờ mình cứ thắc mắc về việc hai họ tranh quyền nhau, thì tại sao phe Dương lại vu cáo cho Kinh-Nam vương Tự-Mai với phái Ðông-a? Bây giờ mình mới hiểu rằng cuộc tranh quyền không chỉ do họ Dương hại họ Mai, không chỉ giới hạn trong khuôn khổ nội cung, mà nó do triều Tống đứng sau chủ động. Cứ như lời gã Kinh-Nam vương giả kia nói, thì dường như y là một vương tước của Tống triều âm thầm sang Ðại-Việt mua chuộc quan lại, tăng lữ, võ lâm làm việc cho Tống với hai mục đích. Một là gây ly gián; ly gián giữa phái Ðông-a, Kinh-Nam vương với triều đình; ly gián giữa các quan trong triều; ly gián giữa cung với hậu cung; ly gián giữa nội thích với ngoại thích. Hai là làm nội ứng khi Tống đánh sang để phản Lý.

        Nàng cảm thấy chán nản:

        – Họ Dương hưởng phú quý đã ba đời. Hai đời làm hoàng hậu, hai đời làm Tể tướng, thế cũng chưa cho là đủ, lại còn manh tâm dâng nước cho Tống để được phong tước Nam-bình vương. Lão già họ Dương bất trung, bất hiếu như vậy mà hôm trước trong phủ Gia-viễn quốc công, lão giả đạo đức thương xót tha cho mình về. Như vậy trong cái thương xót e có điều đối trá cũng nên, mình phải cẩn thận mới được.

        Lát sau tiệc tàn, Trịnh Quang-Thạch cùng Kinh-Nam vương giả từ tạ sư Viên-Hoa, rồi ra cổng chùa, lên ngựa phi về hướng phủ Trung-nghĩa.

        Lợi dụng lúc Viên-Hoa ra tiễn khách, Minh-Ðệ vọt vào phòng y bưng cái tráp đựng vàng dấu ra bụi hoa ngoài sân, rồi trở lại, ngồi theo thức Kiết-già trên chiếc ghế đẩu ở trong góc. Viên-Hoa tiễn khách xong, y trở vào phòng định mở tráp vàng ra coi, thì tráp đã biến mất. Y dáo dác tìm quanh, chợt khám phá ra có người ngồi im lìm trên chiếc ghế đẩu. Y giật mình lên tiếng:

        – Người... người là ai?

        Minh-Ðệ không trả lời. Viên-Hoa tưởng là ma, y lại hỏi:

        – Người là một chú tiểu ở chùa nào đến đây?

        Minh-Ðệ vẫn không trả lời. Viên-Hoa run lật bật:

        – Nếu mi là ma, thì hãy đi chỗ khác, mai ta làm cho một tuần chay.

        Minh-Ðệ vẫn không trả lời. Viên-Hoa múa hai tay bắt quyết trừ tà rồi quát:

        – Biến đi ngay! Biến!

        Minh-Ðệ bật cười, nàng lên tiếng:

        – Nhà ngươi bắt quyết xong chưa?

        Bấy giờ Viên-Hoa mới biết kẻ ở trong phòng mình là người. Y hỏi lại:

        – Người là người hay là ma?

        – Là ma.

        – Là ma sao ta bắt quyết mà không sợ?

        – Ta là Ðồng-ma tổ-sư nên không sợ quyết.

        Viên-Hoa run lật bật, miệng y lắp bắp:

        – Thế người hiện hồn về đây có việc gì?

        – Chả có việc gì cả. Nhưng ta muốn biết một vài việc.

        Nàng vận âm kình phát một chưởng vào cái gối gỗ. Cái gối vỡ làm năm sáu mảnh. Bấy giờ Viên-Hoa mới biết mình đang đối diện với người. Y bớt sợ, tung chân đá Minh-Ðệ. Minh-Ðệ búng tay một cái trúng đầu gồi y. Y đau điếng người. Kinh hoảng, y bỏ chạy ra khỏi phòng. Nhưng y vừa xuống sân, thì thấy một nhà sư chặn trước mặt, nhìn kỹ lại thì là Minh-Ðệ. Y rủn cả hai đầu gối lại. Minh-Ðệ phóng tay điểm vào huyệt Á-môn cho y không nói được, rồi túm cổ áo y đem vào phòng ném xuống đất. Nàng ngồi trên ghế, cười nhạt một tiếng. Tuy Viên-Hoa không nói được, nhưng chân tay chưa bị tê, y run lẩy bẩy.

        Minh-Ðệ gằn từng tiếng:

        – Ta hứa sẽ tha cho người, sẽ giải huyệt cho người, nhưng người không được lên tiếng, bằng không ta giết người ngay. Người có nghe không?

        Viên-Hoa gật đầu. Minh-Ðệ giải huyệt cho y, rồi hỏi:

        – Cái gã vương gia ban nãy ăn tiệc với người là ai?

        – Là Thái-tử Tống, lĩnh Tề-châu tiết độ sứ, tả-kim ngô đại tướng quân, kiểm-hiệu thái sư, tước phong Tần-vương.

        – Nói láo. Y là người Tống, mà sao lại nói tiếng Việt như người Việt vậy?

        – Tiểu sư phụ không biết đấy thôi. Từ sau khi Nùng Trí-Cao đánh chiếm Lưỡng-Quảng, thì triều Tống hết sức chú ý đến Nam-phương, vì vậy trên từ vương, công, đại thần đến các văn võ bách quan đều thi nhau học tiếng Việt, nghiên cứu lịch-sử, phong-tục, địa-lý Ðại-Việt. Tần-vương nhất tâm nhất trí theo chí hướng Bộc-vương, nên ra sức học tiếng Việt. Người bắt chước Yên-vương Triệu Nguyên-Nghiễm đích thân mạo hiểm Nam du, trước khi thiết kế đánh Ðại-Việt.

        – Bộc-vương là ai? Gia-Hựu (Nhân-tông) hoàng đế không có con trai, thì lấy ai mà phong Thái-tử?

        – Dạ, Gia-Hựu hoàng đế không có con, nên nhận con trai của người em con chú con bác làm con nuôi, rồi phong làm thái tử.

        Minh-Ðệ chợt nhớ lại hồi ở Thăng-long có nghe thầy đồ kể chuyện rằng vua Tống không có con trai, mới nhận con thứ mười ba của Bộc-vương Doãn-Nhượng, cháu của Ung-vương Nguyên-Bân là Thự làm con nuôi, rồi phong làm Thái-tử. Gã vương gia ban nãy chắc là gã Thái-tử này đây.(3)

        Ghi chú,

        (3) TS quyển 13, Anh-Tông kỷ, trang 283. Ung-vương Nguyên-Bân là con vua Thái-tông, tức ngang vai với Chân-tông. Bộc-vương Doãn-Nhượng ngang vai với vua Nhân-tông. Như vậy Triệu Thự gọi vua Nhân-tông (Gia-hựu) bằng bác.

        Nàng hỏi tiếp:

        – Tại sao Gia-hựu hoàng-đế vốn chủ hòa với Ðại-Việt, mà gã Thái-tử lại sang bên này đâm bị thóc, chọc bị gạo, mưu đem quân sang đánh chiếm Ðại-Việt?

        – Nguyên phụ thân của thái-tử là Doãn-Tuyên vốn thân với bọn hiếu chiến Dư Tĩnh, Tiêu Chú, Lý Sư-Trung, Tống Hàm, Lý Hiến, Quách Qùy, Triệu Tiết, Tiêu Cố, nên thường tỏ ý phản đối Tống triều quá nhu nhược trong vấn đề Nam biên. Triều thần thấy ông là cha đẻ của Thái-tử, tương lai sẽ là Thái-thượng hoàng, nên thường xu phụ ông, theo ông, cùng bàn tính việc đánh chiếm phương Nam. Niên hiệu Gia-Hựu thứ ba (1060), Bộc-vương bị thích khách nhập cung giết chết cùng với một số nho thần chủ Nam xâm. Sát nhân để lại phạm trường một mũi tên bằng vàng, trên có khắc con chim ưng bay qua núi. Ðó là biểu hiệu của Ưng-sơn song hiệp tức Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai. Ai cũng bảo Vương bị Kinh-Nam vương giết chết. Vì vậy Thái-tử xin Gia-hựu hoàng-đế cho mật du Nam phương để điều tra. Nhân vậy Thái-tử đem theo một số cao thủ, nho sĩ, kinh lý Nam phương. Không rõ cuộc điều tra ra sao, nhưng Thái-tử cùng tùy tùng thiết kế chuẩn bị đem quân sang đánh Ðại-Việt.

        Minh-Ðệ chợt hiểu:

        – Trước đây mình cứ tự hỏi rằng: Hoàng-đế Tống chủ trương hòa hoãn ở phương Nam, mà tại sao bọn biên thần lại gây hấn, để rồi xẩy ra cuộc phản công của Ðại-Việt cùng vua bà Bình-Dương (1060), làm Tống hao binh, tổn tướng. Thì ra cái tên Thái tử Thự kia chủ xướng.

        Nàng hỏi tiếp:

        – Mi có biết rõ kế hoạch của Thái-tử Tống không?

        – Thái-tử được hiến kế rằng: Ðại-Việt sở dĩ mạnh là nhờ người người một lòng. Muốn đánh Ðại-Việt thì trước hết phải dùng mưu Ngũ-phân, Tam-điều.

        – Ngũ-phân, Tam-điều là gì vậy?

        – Ngũ-phân là năm kế chia rẽ. Thứ nhất, chia rẽ triều đình với khê động Bắc-cương. Thứ nhì, chia rẽ các phe phái trong triều. Thứ ba, chia rẽ các môn phái võ lâm. Thứ tư, chia rẽ trong nội cung. Thứ năm, chia rẽ Kinh-Nam vương với Ðại-Việt. Tam điều gồm có: Một là hứa không chiếm Ðại-Việt. Hai là chỉ muốn diệt triều Lý, thường xâm Tống, sẽ phong cho Dương tể tướng làm vua Ðại-Việt. Ba là hứa rằng tất cả bách quan văn võ Ðại-Việt nếu theo Dương, thì sẽ được thăng lên một đẳng. Còn ai chống lại, sẽ bị tru di tam tộc.

        Minh-Ðệ nghĩ thầm:

        – Mưu kế bọn này thâm sâu thực. Ðích thân tên Triệu Thự giả làm Kinh-Nam vương thì còn ai khám phá ra nữa? Chúng rình lúc chư tăng chùa Từ-quang vắng nhà, xưng là bạn của đại-sư Viên-Chiếu, rồi dạy võ, cho vàng mình, sau đó chính bọn chúng lại tố cáo chư tăng nhận vàng của Kinh-Nam vương hầu làm gian tế cho Tống thì còn chối vào đâu? Mưu này vừa dùng để diệt phe họ Mai trong triều, làm vừa lòng phe họ Dương; lại gây nghi ngờ của Ðại-Việt với Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai. Trong vụ này, bọn Tống, họ Dương chủ động, chúng như con dao chém xuống cái thớt lớn là Ðại-Việt, là triều Lý, còn Kinh-Nam vương, chư tăng với ta vô tình là cái vật nằm giữa con dao với cái thớt. Hiểm thực.

        Minh-Ðệ hỏi:

        – Tại sao với một trừ quân như Triệu Thự, mà khi đến đây họp, y lại chỉ đi có một mình với Trịnh Quang-Thạch?

        Có tiếng nói trầm trầm vọng vào:

        – Ðâu có, chúng ta đâu có đi một mình?

        Minh-Ðệ giật mình quát:

        – Ai?

        Nàng tung mình ra sân. Dưới ánh trăng, nàng thấy Triệu Thự đứng cạnh một người đàn bà, mà hồi thị đến chùa đã dạy võ, dạy nội công cho nàng. Phía sau còn ba người nữa, một tăng, một nho sĩ, một người không râu. Gần đó Trịnh Quang-Thạch tay để vào đốc kiếm.

        Người đàn bà hất hàm hỏi Trịnh Quang-Thạch:

        – Quân hầu nói rằng trong vùng này, ngoài đệ tử của quân hầu ra, không còn ai biết võ, sao nay lại có gã tiểu hòa thượng này?

        Quang-Thạch khúm núm:

        – Khải vương phi, dường như nó từ vùng khác mới tới, có thể nó thuộc phái Tiêu-sơn.

        Y hỏi Minh-Ðệ:

        – Mi là sư ở chùa nào? Tại sao dám to gan lớn mật đột nhập vào cấm địa của trường Trung-nghĩa?

        Minh-Ðệ thấy Quang-Thạch sợ hãi, nàng nói lơ mơ:

        – Ta từ chùa Lôi-âm bên Tây-phương cực-lạc, được Phật Thích-Ca sai đến đây để bắt gian.

        Quang-Thạch nổi giận, y ra chiêu Ưng-trảo chụp cổ nàng. Minh-Ðệ trầm người tránh khỏi, rồi trả lại một chưởng. Quang-Thạch bật lên tiếng kinh ngạc, y biến trảo thành chưởng đỡ. Bình một tiếng, cả hai đều bật lui lại hai bước đứng gườm gườm nhìn nhau. Bây giờ tới lượt nho sĩ đứng sau Triệu Thự kêu lên tiếng "ái chà", y nói:

        – Vương-gia coi, tên trọc con này xử dụng chưởng pháp Ðông-a bằng nội lực Mê-linh, nhưng dường như y có pha nội lực Huyền-âm của phái Trường-bạch bên Trung-nguyên mới lạ.

        Quang-Thạch cười nhạt:

        – Thì ra mi là đệ tử phái Mê-linh. Nhưng sao mi lại xử dụng quyền pháp Ðông-a? Mi hãy lĩnh của ta chưởng nữa.

        Nói rồi y vận công phát chiêu. Minh-Ðệ thấy y tưởng mình là đệ tử Mê-linh thì nghĩ thầm:

        – Ðã vậy ta xử dụng chưởng pháp Cửu-chân xưa cho y lầm một thể.

        Nàng phát chiêu trong Thiết-kình phi chưởng. Vì nội công của nàng là nội công âm nhu nên không có chưởng phong. Trong khi đó chưởng của Quang-Thạch gió lộng ào ào. Ðấu được hơn năm mươi chiêu, thì tăng nhân đứng sau Triệu Thự nói với y:

        – Vương gia xem kìa, tiểu-hòa thượng này tuổi còn quá trẻ, dường như chưa tới hai mươi mà sao công lực đã luyện tới mức thượng thừa. Trong khi ngoại công chỉ biết có pho quyền thô sơ. Còn Siêu-loại hầu thì nội công bình thường, mà chiêu số thực tinh vi. Nếu như hai chưởng gặp nhau, thì e hầu nguy đấy.

        Quang-Thạch đấu với Minh-Ðệ trong mười chiêu, y đã nhận ra nội lực mình thua đối phương xa, nhưng nhờ chiêu số tinh vi, nên mới ngang nhau. Y biết rằng nếu để hai chưởng gặp nhau, thì y bị bại, vì vậy y dùng chiêu số ảo diệu tấn công liên tiếp. Bây giờ nghe nhà sư đứng theo Triệu Thự lên tiếng dường như chỉ rõ yếu điểm của y cho đối phương, thì bực mình. Y hừ lên một tiếng, rồi tấn công tới tấp.

        Về phần Minh-Ðệ, nàng đã phát huy hết nội lực âm nhu, nên chưởng pháp trở lên cực kỳ trầm trọng. Nghe nhà sư nhắc, nàng hiểu ngay rằng ông ta không ưa Quang-Thạch. Nàng muốn lợi dụng dịp này chia rẽ giữa ông với đối thủ. Nàng lên tiếng:

        – A-Di-Dà Phật, đa tạ đại sư phụ chỉ giáo cho tiểu tăng.

        Nói rồi thình lình nàng phát ra chiêu Ðông-a chưởng. Quang-Thạch không đề phòng, nên hai chưởng chạm nhau đến bạch một tiếng. Quang-Thạch bị bật tung lại sau đến hơn trượng. Minh-Ðệ chưa kinh nghiệm chiến đấu, bằng không nàng tấn công tiếp hai chiêu nữa thì y đã bỏ mạng. Nhờ Minh-Ðệ tần ngần một chút Quang-Thạch đã lấy lại được thăng bằng, y lại tấn công nàng, nhưng y vừa phát chiêu thì cảm thấy như có con dao đâm vào ngực, đầu, vai. Ðau quá, y bật lên tiếng á rồi y nhảy lên choi choi.

        Người đàn bà đi cùng Triệu Thự trước đây đóng vai công chúa Huệ-Nhu, vương phi Kinh-Nam vương... đã dạy võ cho nàng bước ra hỏi:

        – Tiểu sư phụ, phải chăng tiểu sư phụ là đệ tử của phái Trường-bạch bên Trung-quốc?

        Minh-Ðệ chắp tay:

        – A-Di-Ðà Phật, bần tăng chưa từng sang quý quốc, cũng chưa từng biết phái Trường-bạch là gì.

        Quang-Thạch vẫn ôm ngực rên rỉ. Gã nho-sinh chợt kêu lên:

        – Phải rồi, thì ra tiểu sư phụ đã xử dụng Chu-sa huyền-âm công bằng nội lực âm nhu của phái Mê-linh, rồi phát chiêu trong Thiết-kình phi chưởng. Chẳng hay tiểu sư phụ đã thụ giáo với cao nhân nào?

        – Tôi không thể nói được.

        Người đàn bà vẫn ôn tồn:

        – Tiểu sư phụ với chúng tôi không thù, không oán, hà cớ tiểu sư phụ tò mò vào chuyện của chúng tôi? Nào rình mò, nào tra khảo đại sư Viên-Hoa?

        Minh-Ðệ đã đọc rất nhiều sách tại Thính-hương khách xá, tại nhà Thường-Kiệt, nên nàng hiểu rất rõ về chủ đạo tộc Việt. Nàng cung tay nói:

        – Vương phi ơi, Vương phi là người Hoa nên Vương phi mới dạy thế. Vương phi nên hiểu cho bần tăng. Bần tăng tuy đã vào chốn không môn, nhưng cũng vẫn là con dân Ðại-Việt. Chủ đạo của tộc Việt định rằng: việc phòng gian, bảo quốc là nhiệm vụ của mọi con dân. Nay Vương gia, Vương phi cùng một số các vị đây đột nhập Ðại-Việt, bàn mưu cùng gian tế đưa ra Ngũ-phân, Tam-điều để chiếm nước của bần tăng, cho nên bần tăng phải điều tra để còn loan báo cho các bậc trưởng thượng hầu cứu nước chứ?

        Người đàn bà quay lại bảo nho sinh:

        – Tiêu Chú, tiểu sư phụ đã nói vậy, thì chúng ta chẳng còn cách nào nữa. Ai vì nước người đó. Người đã ở Nam-biên lâu ngày, hẳn người biết hết võ công Lĩnh-Nam. Người hãy ra lĩnh giáo mấy cao chiêu của tiểu sư phụ đi, để đưa tiểu sư phụ về với Trưng Trắc, Ðào Kỳ.

        Nghe người đàn bà nói, Minh-Ðệ nghĩ thầm:

        Thì ra tên nho sinh này là Tiêu Chú đây. Hiện giờ y là người tổng chỉ huy quân Tống tiếp giáp với biên thùy Tống-Việt đây. Mình từng nghe sư huynh Thường-Kiệt nói, Tiêu Chú đã đỗ tiến sĩ, lại xuất thân từ phái Võ-đang. Y dùng binh rất giỏi. Hồi trước y đã từng cầm quân chống lại cuộc Bắc-chinh của công chúa Bảo-Hòa với Nùng Trí-Cao. Sau khi Trí-Cao bị bại, y còn lần mò vào các khê động bắt được mẹ với con Trí-Cao. Ta phải cẩn thận mới được.

        Tiêu Chú cung tay:

        – Xin mời tiểu sư phụ.

        Minh-Ðệ biết rằng với thân phận của Tiêu Chú, chắc y không phát chiêu trước đâu. Nàng cung tay:

        – A-di-đà Phật, tiểu tăng xin vô lễ.

        Rồi nàng phát chiêu Ðông-hải lưu-phong trong Ðông-a chưởng pháp. Tiêu Chú cười nhạt, y không đỡ chưởng của nàng mà đánh thẳng vào người nàng một chiêu quyền rất nhẹ nhàng. Minh-Ðệ kinh hãi, vội chuyển sang chiêu Phong đáo sơn đầu đỡ. Bộp một tiếng, nàng cảm thấy như trời long đất lở, tai phát ra những tiếng vo vo không ngớt. Minh-Ðệ còn như tê liệt, thì Tiêu Chú đã phát chiêu thứ nhì. Kinh hãi, nàng nghiến răng phát chiêu Phong hoa suy lạc đỡ. Hai chưởng chạm nhau, Minh-Ðệ bật tung người lên cao, rơi xuống phía sau đến hơn trượng.

        Người đàn bà lên tiếng:

        – Tiểu sư phụ chịu thua đi thôi. Ta chỉ giam tiểu sư phụ lại ít năm, chờ khi đánh xong Ðại-Việt ta sẽ thả tiểu sư phụ ra.

        Minh-Ðệ nghĩ thầm:

        – Ta thà chết, chứ không chiụ đầu hàng.

        Nhưng nàng kiệt sức không ngồi dậy được nữa. Bỗng có tiếng ai dùng Lăng không truyền ngữ rót vào tai:

        – Ðừng sợ, tung người dậy tấn công nó đi.

        Rồi nàng cảm thấy như có đám bụi bay trên người, đám phấn bụi thơm ngát, khiến sức lực ở đâu sinh ra, nàng tung người dậy phát chiêu tấn công Tiêu Chú. Biến chuyển này làm tất cả mọi người đều kinh ngạc. Tiêu Chú lại phát chiêu đánh vào người Minh-Ðệ, nhưng chợt y cảm thấy có mùi thơm thơm như hương sen thoáng qua, rồi chân tay y bải hoải, kình lực chỉ phát ra được có ba thành. Hai chưởng chạm nhau bịch một tiếng, Tiêu Chú bật tung về phía sau, rồi ngã lộn đi hai vòng.

        Tất cả mọi người đều bật lên tiếng kinh ngạc.

        Tiếng Lăng-không truyền ngữ vẫn lọt vào tai Minh-Ðệ:

        – Tấn công nó mau!

        Minh-Ðệ đã có kinh nghiệm, nàng đánh liền hai chiêu chưởng Ðông-a. Tiêu Chú kinh hoàng vội lăn người đi mấy vòng để tránh. Hai chưởng đánh xuống đất bụi bay mịt mờ.

        Triệu Thự bực mình:

        – Tiêu Chú thực vô dụng. Lý Hiến, người hãy thu thập nhà sư kia cho ta.

        Gã không râu tiến ra cung tay:

        – Lý Hiến lĩnh Bắc-ban chỉ hậu Tống triều xin tham kiến tiểu sư phụ. Vừa rồi, rõ ràng từ công lực cho tới chiêu số tiểu sư phụ đều thua Tiêu tướng quân, thế mà sao bỗng nhiên tiểu sư phụ chuyển bại thành thắng mau đến không ngờ được? Nào xin tiểu sư phụ tứ giáo.

        Nghe Lý Hiến nói, Minh-Ðệ chợt nhớ đến cố sự chép trong Nhân-Huệ hoàng đế kỷ sự: Lý Hiến dự tuyển phò mã, nhưng hạ bộ của y ái nam ái nữ nên bị loại. Tuy nhiên võ công y cao, nên được tuyển làm thái giám. Hèn chi y không có râu.

        Minh-Ðệ lại phát chiêu tấn công Lý Hiến. Y trầm người tránh khỏi, rồi trả đòn. Võ công Hiến cao hơn Chú một bậc. Nhưng vừa rồi y thấy Chú bại một cách lạ lùng nên y đánh cầm chừng. Sau mười chiêu, y thấy từ chiêu số đến nội lực, đối phương thua mình xa, y mới phát một chiêu bằng tất cả bình sinh công lực. Chưởng của y chưa ra hết, mà Minh-Ðệ đã cảm thấy ngộp thở. Nhưng thình lình một miếng thịt quay rất chậm, kình lực nhu hòa bay qua đầu Minh-Ðệ trúng vào huyệt Khúc-trì Lý Hiến, khiến tay y tê liệt. Trong khi Minh-Ðệ phát một chiêu đánh vào mặt y. Y không đỡ được, chiêu trúng mặt y đến bạch một tiếng, đau đến chảy nước mắt ra. Y nhảy lùi lại ba bước, miệng hô:

        – Kẻ nào ẩn ẩn hiện hiện hại ta? Nếu là anh hùng thì hãy xuất...

        Tiếng hiện chưa ra khỏi miệng, thì một miếng thịt nữa trúng huyệt Hạ-quan của y, khiến y không khép miệng lại được; rồi vù một tiếng, vật gì đó bay tới, chui tọt vào miệng y. Giữa lúc đó Minh-Ðệ đánh tới một chưởng lại trúng ngực y. Binh một tiếng, người y bay bổng về sau. Nhưng nhờ nội lực thâm hậu, nên y vô sự.

        Bấy giờ Lý Hiến mới moi vật ở trong miệng ra, mọi người nhìn rõ, đó là một cái đùi thịt chó luộc, thịt đã cắt hết, chỉ còn xương với cái chân. Người ném đùi chó đã tính toán sao cho cái chân chui tọt vào miệng Lý Hiến.

        Dư Tĩnh phóng mình lại chỗ bụi cây, nơi đùi chó bay tới để tìm thủ phạm hại mình, nhưng y lục lọi một lúc vẫn không thấy gì. Y chửi đổng:

        – Ðồ hèn hạ!

        Chợt y cảm thấy có gì vướng vướng ở sau lưng. Mọi người cùng mở to mắt nhìn y. Y kinh hoàng đưa tay ra sau sờ, thì ra một vật khá lớn đeo trên cổ y. Y giật mạnh một cái, sợi dây đeo cổ đứt. Y nhìn rõ: đó là cái đầu chó luộc chín, đã cắt hết thịt.

        Tất cả mọi người đều kinh hãi, vì bản lĩnh Dư Tĩnh đâu có tầm thường? Mà người nào đó lợi dụng lúc y vướng vít trong bụi cây, đã đem cái đầu chó xỏ vào sợi dây, rồi choàng vào cổ y, mà y không biết. Kẻ đó bản lĩnh phải cao thâm đến cùng cực. Cả bọn Triệu-Thự cùng chạy quanh tìm kiếm đối thủ.

        Trịnh-quang-Thạch run run nói:

        – Vương gia! Thôi đi. Tìm cũng vô ích. Mộc-Tồn Vọng-Thê hoà thượng đi rồi.

        Yến-Loan nghĩ thầm:

        – Quả là Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng đã ra tay.

        Dư Tĩnh kinh ngạc:

        – Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng? Tại sao lại có cái tên hoà thượng thịt chó? Bộ có hoà thượng chuyên ăn thịt chó sao?

        Triệu Thự cũng hỏi:

        – Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng là ai vậy?

        – Thần cũng không biết nữa. Từ hơn hai mươi năm nay, trong nước Ðại-Việt xuất hiện hai tăng-nhân võ công cực kỳ cao thâm. Không rõ hai ông thuộc môn phái nào, chùa nào, tuổi tác bao nhiêu? Khi đấu với ai, hai ông chỉ đánh ba chiêu, sau đó dù đối thủ chết hay sống hai ông cùng thôi. Nhưng ít ai chịu được ba chiêu của hai ông.

        Dư Tĩnh vốn thông minh, y hỏi:

        – Vừa rồi ông ta ném thịt chó, quẳng đùi chó, choàng đầu chó. Như vậy là đủ ba chiêu, rồi bỏ đi chăng?

        – Vâng.

        – Người nói đó là hai nhà sư. Vậy một ông tên Mộc-Tồn, một ông tên Vọng-Thê hay sao?

        – Không! Hai ông không hề xưng tên. Cho đến nay, võ lâm vẫn chưa biết hai ông tên thực là gì. Nguyên hai ông là sư huynh, sư đệ đồng môn. Sư huynh đi đâu cũng mang trong người mấy đùi chó. Khi gặp người nào nói năng không vừa ý là ông nhét chân chó vào miệng, hoặc treo đầu chó vào cổ. Lúc tụng kinh, thì dùng đùi chó làm dùi gõ mõ. Còn sư đệ thì lúc nào trên áo cũng vẽ bông sen, ăn chay. Sư huynh thì hơi tý là đánh người, giết người. Còn sư đệ là một thầy thuốc cực kỳ cao minh, ông chỉ biết cứu người. Ông luôn ngăn cản sư huynh. Hai người ẩn ẩn hiện hiện không chừng. Vì vậy người ta gọi sư huynh là Mộc-Tồn Vọng-Thê hoà thượng và gọi sư đệ là Liên-Hoa Ðại-Từ hòa thượng.

        Triệu Thự lại hỏi:

        – Cái tên Mộc-Tồn người đã giải thích rồi. Thế còn cái tên Vọng-Thê? Ông ta cũng có vợ hay sao?

        – Vâng. Nghe đâu hồi còn trẻ ông ta có một mối tình tuyệt vời. Nhưng không rõ sau vì lý do gì hai vợ chồng cách biệt nhau. Cho nên cứ mỗi ngày, ông ta lại hái hoa, ra chỗ vắng nói chuyện với vợ như vợ ngồi trước mặt. Vì vậy mới có tên Mộc-Tồn Vọng-Thê là thế. Ông ta như một hình quan tư, bất kỳ ai bị quan lại hà khắc, bị cường hào ác bá áp chế, chỉ cần viết một đơn kiện gửi cho ông, rồi dán ở nơi công cộng, lập tức ông cho đệ tử điều tra, rồi xử ngay.

        Dư Tĩnh rùng mình:

        – Như vậy ông cũng hành sự giống như Ưng-sơn song hiệp hay sao?

        – Gần như thế. Khi xử người Hoa thì Ưng-sơn căn cứ vào bộ luật Tống. Khi xử người Việt thì căn cứ vào bộ Ðại-Việt Hình-thư. Lúc kết tội ai, Ưng-sơn gửi bản án cho triều đình Tống, Việt; hoặc hình quan Tống-Việt, rồi hạn trong thời gian nào đó, mà Tống, Việt chưa xử thì Ưng-sơn mới ra tay. Duy các tội sau đây, thì Ưng-sơn xử thẳng: chia rẽ tình Hoa-Việt, làm gian tế cho ngoại bang và khi-quân.

        Ðến đây y rùng mình, rồi tiếp:

        -– Còn Mộc-Tồn hòa thượng thì khác. Khi thì ông xử theo bộ Hình-thư, khi thì ông xử theo luật võ-lâm, khi thì ông xử theo luật của ông. Ông là người hỉ nộ bất thường. Trên bản án tử hình của ông thường gi chữ: Án sẽ thi hành trong một trăm ngày. Nếu trong hạn ấy, mà tiên-nương Bảo-Hòa, Thiếu-Mai truyền ân xá, thì tội nhân được tha.

        Mọi người cùng bật lên tiếng a. Dư Tĩnh kể lý lịch tiên-nương Bảo-Hòa, Thiếu-Mai cho Triệu Thự nghe. Thự đoán:

        – Như vậy có thể tiên-nương Bảo-Hòa là sư phụ của Mộc-Tồn chăng?

        – Thần không rõ.

        Triệu Thự nhăn mặt:

        – Quân hầu thử kể cho cô gia nghe một vài vụ án Mộc-Tồn hòa thượng đã xử để cô gia đánh giá ông ta.

        – Năm trước đây, lý-trưởng làng Nghi-tàm tằng tịu với thị Hải là vợ của nho-sinh Triệu Bình. Khi có lệnh vua bắt cung ứng hoàng-nam chuyển lương lên Bắc-biên, đúng ra Bình có ba con, nhà lại nghèo thì được miễn. Nhưng lý-trưởng cứ bắt đi. Ức lòng Bình lên cáo với quan huyện. Quan huyện nghe lời lý-trưởng trình rằng Bình là người cứng đầu, rồi hối lộ quan huyện xin bỏ tù Bình. Quan huyện truyền giam Bình lại. Thế là ở nhà lý-trưởng tha hồ tằng tịu với thị Hải. Ức lòng, đêm Bình vượt ngục về nhà lấy ít tiền để trốn đi. Không ngờ gặp đúng lúc lý-trưởng đang ngủ với vợ y. Y vác gậy đánh gian-phu, dâm-phụ. Lý-trưởng hô tuần đinh trói Bình lại giải lên huyện về tội vượt ngục, mưu sát. Quan huyện kết tội Bình bị xử trảm. Ức lòng, Bình la hét kêu gọi Mộc-Tồn hòa thượng. Ðêm đó Mộc-Tồn hòa thượng cùng mười đệ tử xuất hiện, bắt quan huyện, lý-trưởng, thị Hải cùng Bình giải về Nghi-tàm, sai đánh trống, đốt đuốc xem ông xử kiện.

        Dư Tĩnh cau mày:

        – Thế lý dịch, trương tuần trong làng đâu? Hoàng nam đâu, mà để cho ông ta hoành hành như vậy?

        – Thưa, người của ông ta đã bắt tiên chỉ, thứ chỉ, phó lý, trương tuần ra đình điểm huyệt, rồi bắt những người đó đánh trống hội dân làng tới xem ông xử kiện.

        Ông ta xử như thế nào?

        – Sau khi hỏi cung, ông ta tuyên án: quan phủ ăn hối lộ, như vậy phải cắt lưỡi. Y bênh kẻ gian, hại người ngay, tức bất minh, phải khoét mắt. Lên án oan cho ngoan dân, phải tội cắt một chân một tay. Lý-trưởng gian dâm với vợ người, phải tội thiến. Vì muốn gian dâm, mà hại người thì phải tội cắt lưỡi, chặt hai chân. Còn thị Hải vì có ba con nên chỉ bị rạch trên mặt mười vết, rồi cắt lưỡi. Sau khi lên án, ông cho thi hành liền.

        Triệu Thự kinh hãi:

        – Mấy người đó có chết không?

        – Thưa, sau khi Mộc-Tồn hòa thượng hành hình, thì Liên-Hoa Ðại-từ hòa thượng lại dùng thuốc băng bó cho tội phạm, thành ra họ vẫn sống. Một vụ khác trấn động vùng Cổ-loa. Nguyên trong vùng có một viên quan, nhà giầu. Viên quan này nổi tiếng keo kiệt. Y cho tá điền thuê ruộng với tô cực cao. Năm đó mất mùa, hầu hết tá điền không đủ lúa nộp cho chủ. Viên quan cho nặc nô tới nhà tá điền siết gia súc trừ nợ. Nếu như chưa đủ, y bắt vợ con tá điền làm nô bộc. Có người đàn bà mang thai, bị bắt làm nô bộc, lao lực quá độ đến nỗi trụy thai mà chết. Thị chết rồi, mà chủ điền cũng không cho cỗ quan tài để chôn. Người chồng ôm xác vợ xin chủ điền cho mượn cái móng để đào lỗ chôn vợ. Chủ điền cũng không cho. Anh ta ôm xác vợ ra đồng ngồi khóc. Anh ta gọi lớn: "Ối Mộc-Tồn hòa-thượng ôi. Sao con khổ thế này". Rồi anh ôm vợ ngồi khóc đến khuya. Ðêm Mộc-Tồn hòa thượng xuất hiện. Cũng như mọi lần, đệ tử của ông bắt tiên, thứ chỉ; chánh, phó lý; trương tuần điểm huyệt, rồi kéo đến nhà viên quan. Ông truyền đánh trống mời cả làng đến nghe ông xử kiện. Sau khi hỏi cung, ông tuyên án: "Ruộng đất là của trời. Mày làm quan may mắn được thụ hưởng nhiều, thì phải biết thương kẻ khó chứ? Mày bắt vợ nó làm việc đến trụy thai là quá ác. Ðã vậy mày còn không cho lấy tấm ván đem chôn, không cho mượn lấy cả cái móng thì còn trời đất nào không? Bây giờ tao tuyên hai án, cho mày chọn. Án thứ nhất: mày phải đem hết vàng, bạc, lúa gạo, gia súc, chia đều cho dân trong làng. Từ nay về sau, mỗi vụ mày chỉ được lấy tô mười thùng thóc một mẫu mà thôi".

        Lý Hiến hỏi:

        – Thông thường điền chủ thu tô bao nhiêu một mẫu mỗi vụ?

        – Thưa một trăm thùng nếu là nhất đẳng điền. Còn nhị đẳng điền là bẩy mươi thùng.

        Triệu Thự gật đầu:

        – Rồi, quân hầu thuật tiếp.

        – Thả tất cả nô bộc bị siết nợ về với gia đình. Trả tất cả những gia súc bị nặc nô thu về cho tá điền. Riêng người tá điền có vợ chết, thì tịch thu cỗ hậu-sự của viên quan, khâm liệm cho vợ anh ta. Truyền lấy tiền bạc của viên quan xây cho bà ta một cái mộ thực đẹp.

        Dư Tĩnh lắc đầu, rồi hỏi:

        – Còn án thứ hai?

        – Viên quan cùng vợ, con, mỗi người bị chặt một chân, một tay, khoét một mắt.

        Dư Tĩnh than:

        – Dĩ nhiên viên quan phải chấp nhận bản án thứ nhất. Nhưng sau khi Mộc-Tồn hòa thượng đi khỏi, viên quan có dám đòi lại của không?

        – Không. Bởi khi Mộc-Tồn hòa thượng đã xử rồi, mà bất cứ ai chống, hoặc quan trên xử lại, là ông giết viên quan trên cũng như người chống ngay.

        Bọn Triệu Thự mặt nhìn mặt mà rùng mình. Tuy Triệu Thự sợ, nhưng y vẫn tỏ ra cứng cỏi. Y bảo Lý Hiến:

        – Dù có sự can thiệp của Mộc-Tồn hòa thượng, nhưng Lý Hiến cũng thua rồi. Người không thể xuất chiêu được nữa.

        Y nói với nhà sư:

        – Sư phụ, xin sư phụ thu thập nhà sư nhỏ bé kia dùm.

        Nhà sư đứng cạnh Triệu Thự phát một chiêu chưởng đánh gió rồi cung tay nói:

        – Tiểu sư phụ, bần tăng pháp danh Pháp-Nhẫn, thuộc phái Thiếu-lâm. Bần tăng tuân chỉ của Tần-vương, xin lĩnh mấy cao chiêu của tiểu sư phụ. (5)

        Ghi chú,

        (5) A-di-đà Phật, xin thượng tọa Pháp-Nhẫn trị sự trưởng chùa Liên-hoa, Dallas, bang Texas, Hoa-kỳ cùng chư vị Phật-tử, từ bi hỷ xả đại xá cho, về sự trùng pháp danh này. Ðại-sư Pháp-Nhẫn chùa Thiếu-lâm (1005-1088) xuất thân tiến sĩ, nhưng ngài giác ngộ, bỏ chốn bụi trần xuất gia. Ngài là một Bồ-tát, vì thương xót sinh linh Hoa-Việt, nên đã hết sức cản cuộc xâm lăng của Tống vào thời vua Anh-Tông. Xin đọc những hồi sau để biết hành trạng của ngài.

        Từ lúc bọn Tống xuất hiện đến giờ, lúc nào Minh-Ðệ cũng thấy nhà sư nói năng ôn tồn, gương mặt từ ái. Vừa rồi ông ra một chiêu đẩy nàng lui lại, rõ ràng ông chỉ vận có ba thành công lực, mà nàng đã cảm thấy rung động toàn thân. Biết có đấu cũng vô ích, nàng cung tay:

        – A-di-đà Phật, thì ra đại sư là thủ tọa La-Hán đường phái Thiếu-lâm đấy. Tiểu tăng không dám đấu với đại sư, vì không thể địch nổi đại sư.

        Pháp-Nhẫn nói với Triệu Thự:

        – Tiểu sư phụ đây chịu thua, vây xin Vương gia phát lạc.

        Triệu Thự nói:

        – Cũng dễ thôi, vì tiểu sư phụ biết hết bí mật của cô gia, thì không thể để tiểu sư phụ đi được. Vậy tiểu sư phụ phải theo cô gia về Trung-nguyên, đến khi nào cô gia tiến quân về phương Nam, bấy giờ cô gia sẽ để tiểu sư phụ trở về.

        Bỗng có tiếng cười khúc khích:

        – Ðâu phải mình tiểu sư phụ biết, mà bọn ta cũng biết nữa mà!

        Triệu Thự quát lên:

        – Ai?

        Hai bóng người từ trên nóc chùa đáp xuống nhẹ như chiếc lá. Minh-Ðệ nhìn kỹ thì ra Công-chúa Thiên-Thành với Thế-tử Thân Cảnh-Long mà nàng đã gặp ở Khu-mật-viện năm trước. Nàng nhớ rõ hôm đó hai người đã quát quân lính không được gông nàng. Nàng đồ chừng hai người này đã tung thuốc cứu nàng và làm Tiêu Chú tê liệt. Nàng vội vội cung tay:

        – Tiểu tăng xin tham kiến Công chúa điện hạ cùng Thế tử. Ða tạ Công-chúa với Thế-tử đã cứu mạng.

        Tiêu Chú chỉ mặt công chúa Thiên-Thành với thế tử Thân Cảnh-Long quát lớn:

        – Thì ra hai đứa mi đã dùng thịt chó ám toán ta.

        Tiêu Chú bị thua nhục nhã quá, run lên lật bật, tay chỉ thế tử Thân Cảnh-Long:

        – Mi ẩn thân hại ta! Hãy lĩnh một chưởng.

        Nói rồi y phát một chiêu bằng tất cả bình sinh công lực đánh vào người thế tử. Cảnh-Long cười nhạt tung chưởng trả đòn. Bình một tiếng, cả hai người đều lảo đảo lui lại, gật gù nhìn nhau:

        – Bái phục.

        Tiêu Chú biết khó thắng Cảnh-Long, y đánh trống lảng nói với Triệu Thự:

        – Khải vương gia, thần nghe nghe Nam-bình vương Lý Nhật-Tông gả con gái là quận chúa Thiên-Thành cho con trai vua bà Bình-Dương với Thân Thiệu-Thái là Thân Cảnh-Long. Có lẽ đôi trai gái này là Thiên-Thành, Cảnh-Long.

        Công chúa Thiên-Thành dường như không coi vợ chồng Triệu Thự cùng Tiêu-Chú vào đâu. Nàng cung tay hành lễ với đại sư Pháp-Nhẫn:

        – A-di-đà Phật, đệ tử tham kiến đại sư. Không ngờ Phật giá quang lâm Ðại-Việt, đệ tử không biết để nghinh đón, thực có tội.

        Pháp-Nhẫn đáp lễ:

        – Không dám. Bần tăng theo phò Tần-vương, nhập cảnh Ðại-Việt không chính thức, thì thực vô lễ, công chúa không trách phạt là may rồi. Ban nãy bần tăng thấy công chúa ném thịt chó, tung thuốc cứu tiểu sư phụ, rồi đánh Tiêu cư sĩ, thì đã biết rằng có cao nhân ẩn nấp quanh đây. Không ngờ cao nhân đó là Công-chúa và Thế-tử.

        Thế-tử Thân Cảnh-Long đáp:

        – Ðại sư lầm rồi, người ném thịt chó là Mộc-Tồn hòa thượng. Hoà thượng đã đi rồi. Còn người tung thuốc cứu tiểu-sư phụ là cao nhân khác, không phải anh em đệ tử.

        Công chúa chỉ tay vào mặt Tiêu Chú :

        – Tên mặt dơi tai chuột kia, chính mi đã xúi dục đồng liêu, cùng tâu về Tống triều chủ xâm Ðại-Việt ta. Năm trước mi bị Nùng Trí-Cao đánh cho chạy dài, thế mà mấy năm nay mi hết luyện quân, lại xui dục, ép buộc các khê động thuộc Ðại-Việt về với Tống. Năm rồi cô mẫu ta tiến quân sang trừng phạt, như thế mi cũng cho là chưa đủ sao mà còn dẫn xác sang đây?

        Nàng cung tay nói với Triệu Thự :

        – Thái-tử, thân thế Thái-tử cao sang biết mấy, mà sao lại lặn lội sang đây làm chi? Thái-tử ơi, tôi biết Thái-tử nhập cảnh vi luật, nhưng không dám phiền trách Thái-tử, vì biết rằng Thái-tử sắp qui tiên. Người chết là hết, tội trạng cũng đi theo, nên tôi không thể nặng lời với Thái-tử.

        Triệu Thự kinh hãi hỏi:

        – Công-chúa nói sao? Cô gia sắp hoăng ư? Cô gia vẫn khỏe mạnh, có bệnh tật gì đâu?

        Công chúa Thiên-Thành cau mặt lại, rồi lắc đầu:

        – Hỡi ôi! Thái-tử nổi tiếng là minh mẫn, tiếng đồn sang đến Ðại-Việt, mà Thái-tử lại không biết mình sắp chết sao?

        – Làm gì có chuyện đó!

        – Thôi được, tôi vì Thái-tử mà nói ra căn bệnh của Thái-tử.

        Nàng hắng một tiếng rồi nói

        – Thái tử chỉ là một người cháu của Gia-Hựu hoàng đế, được nuôi làm con, địa vị không lấy gì làm chắc cho lắm. Kể ra, ngang vai với Thái-tử có hàng mấy trăm người đang ngấp nghé, bới lông tìm vết để hạ Thái-tử xuống rồi lên thay. Không lẽ Thái-tử lại không nhận ra điều đó?

        Tiêu Chú cười nhạt:

        – Kẻ ngu phu, ngu phụ ai mà chẳng nhận ra lẽ đó, nhưng chúa công tôi vị đã chính, thì còn ai ngấp nghé nữa? Quận chúa luận bề ngoài thì sao mà đúng được?

        Minh-Ðệ nghe Tiêu Chú nói, nàng nổi giận nghĩ thầm:

        – Tên chủ Nam xâm này ghê thực. Trong khi Thái-tử của chúng còn phải một lời Công-chúa, hai lời Công-chúa, mà y lại gọi công chúa Thiên-Thành bằng quận chúa, tức y coi hoàng-đế Ðại-Việt chỉ là thần tử nhà Tống với tước Nam-bình vương mà thôi.

        Công chúa Thiên-Thành mắng Tiêu Chú:

        – Tên mặt dơi tai chuột kia! Ta đang nói chuyện với chúa người, người có tư cách gì mà xen cái mõm thối tha vào?

        Nói dứt lời, nàng rút kiếm, rồi xẹt tới như tia chớp, mọi người nhìn rõ nàng đưa kiếm vào cổ Tiêu Chú. Kinh hoàng y lộn đi ba vòng tránh đòn. Nhưng kiếm theo y như bóng với hình. Sợ quá y thét lên, lăn mình xuống đất, rồi tung mình đứng dậy. Khi chân y vừa chạm đất, thì y cảm thấy cổ đau nhói. Thì ra mũi kiếm thủy chung vẫn chỉ vào cổ y. Y tung mình lên cao, tay rút kiếm ra đỡ, nhưng chỉ thấy thấp thoáng một cái, rồi hai tiếng loảng xoảng phát ra, Tiêu Chú nhảy lùi lại, tay trái ôm cườm tay phải, máu ra lệnh láng, trong khi kiếm của y rơi xuống đất.

        Công chúa Thiên-Thành lại mắng y:

        – Lần đầu ta tha chết cho mi, lần sau ta lấy mạng mi, mi liệu hồn.

        Tiêu Chú run lẩy bẩy, trong khi đại sư Pháp-Nhẫn băng bó vết thương ở tay cho y. Y nghĩ thầm:

        – Long-biên kiếm pháp quả danh bất hư truyền. Con nhỏ này học được Long-biên kiếm pháp của vua bà Bình-Dương, cũng may y thị không nặng tay, bằng không thì mình đã bỏ mạng rồi. Thôi thì mình đành nín nhịn cho qua việc hôm nay, bằng không chỉ uổng mạng vô ích.

        Nghĩ vậy y đứng im. Công chúa Thiên-Thành tiếp:

        – Ðấy, chắc chỉ vì Thái-tử nghe lời của bọn này, nên mới đi vào tử lộ mà không biết.

        Triệu Thự nói cứng:

        – Tiêu tướng quân luận đúng chứ đâu có sai?

        – Trời ơi! Thái-tử chỉ nhìn về quá khứ mà xem? Có phải khi Chiêu-Huệ thái hậu sắp băng hà, đã gọi Thái-tổ tới bên dường trối trăn rằng: nhà Chu mất ngôi về Tống, vì họ truyền ngôi cho ấu quân đó sao? Nếu Chu thái tông Sài Vinh truyền ngôi cho em trai, là người đã trưởng thành, thì liệu Thái-tổ có lấy được ngôi vua không? Vì vậy Thái-hậu dặn Thái-tổ phải truyền ngôi cho em là vua Thái-tông (6). Khi Thái-tổ băng hà để di chiếu lập em là vua Thái-tông lên thay, dặn rằng sau này vua Thái-tông phải nhường ngôi cho Ngụy-vương Ðình-Mỹ là em thứ ba đó ư? Ngụy-vương Ðình-Mỹ văn võ kiêm toàn, vào sinh ra tử có thừa, có đại công lập lên triều Tống. Ông lại được di chiếu của Ðỗ thái hậu, Thái-tổ, thế mà chỉ vì bọn hủ nho luận bàn phân vân, rồi bị vua Thái-tông truất phế để lập con trưởng là Hán-vương lên thay đó sao? (7) Hán-vương tài năng quán chúng, được vua Thái-tông yêu thương cùng cực, rồi cũng chỉ vì miệng thế dèm pha, mà bị truất, bị đầy, do vậy em ngài là Chiêu-Thành thái tử được lập lên.(8) Thế rồi Chiêu-Thành thái-tử lại bị giết, (9) vua Chân-tông mới được kế vị. Bây giờ Thái-tử thử nói thực xem: tài, đức, đại công, Thái-tử có bằng Ngụy-vương Ðình-Mỹ, Hán-vương Nguyên-Tá, Chiêu-Thành thái-tử Nguyên-Hy không? Lòng yêu thương của Gia-Hựu hoàng đế đối với Thái-tử có bằng vua Thái-tông đối với ba vị bị truất kia không?

        Ghi chú,

        (6) TS 242, trang 8605, Thái-tổ mẫu Chiêu-huệ thái hậu Ðỗ thị truyện.

        (7) TS quyển 244, trang 8666, Ngụy-vương Ðình-Mỹ truyện.

        (8) TS 245, trang 8693, Hán-vương Nguyên-Tá truyện.

        (9) TS quyển 285, 8697, Chiêu-thành thái tử Nguyên-Hy truyện.

        – Cô gia thực không bằng.

        – À, Thái-tử công nhận điều đó, vậy Thái-tử cũng nên biết rằng: xa mặt khuất lòng, miệng lưỡi khó tránh. Ðến ba vị kia tài đức công lao là thế mà còn bị truất; huống hồ Thái-tử đang ngồi trên cái ghế hai chân, chông chênh như trứng chồng. Thế mà Thái-tử không lo ở Biện-kinh, ngày đêm chầu chực Gia-Hựu hoàng-đế cùng Hoàng-hậu, để giữ địa vị, giữ thân, mà lại bỏ đi ra ngoài thế này; có phải là vô mưu, bất trí không?

        Thấy Triệu Thự im lặng, Công-chúa tiếp:

        – Kể đâu xa, ngay trong nhà, Thái-tử có đến hai mươi mốt anh em trai. Trên Thái-tử có mười hai anh trai cũng đang rình rập cái ngôi của Thái-tử. Có thể nói, Thái-tử bị hàng trăm mũi dùi chĩa vào người, mà Thái-tử không biết nguy cơ còn bỏ đi xa. Nếu việc bỏ đi xa, mưu đồ thành tựu thì Thái-tử cũng không thêm chút uy tín nào. Còn như lỡ ra dọc đường, nào võ lâm người Hoa, người Việt, cùng bọn vô lại ; ai cũng có thể hại Thái-tử được. Ðó là một điều chết uổng; hoặc giả khi Thái-tử vắng nhà, miệng thế dèm pha, thì ai là người biện minh cho Thái-tử? Ðó là hai điều chết uổng. Thái tử ơi! Tục ngữ Trung-nguyên có câu: bước vào bếp, là thấy bẩy thứ là mắm, muối, tiêu, hành, tỏi, ớt, dấm. Chuyện Thái-tử Nam du, đã không chính đáng, người ta đang vu cáo rằng Thái-tử sang Ðại-Việt để cầu giúp đỡ, hầu chống kẻ thù. Rồi người ta thêm thắt mắm, muối, tiêu, hành, tỏi ớt... vào mới khổ. Cho nên tôi mới nói rằng Thái-tử sắp quy tiên là thế.


        #4
          CDDLT 21.01.2005 18:20:44 (permalink)
          HỒI THỨ MƯỜI

          Quan-Âm thị hiện



          Tiếng Trịnh Quang-Thạch đau đớn rên la khủng khiếp làm mọi người ngừng tranh luận.

          Nhà sư Pháp-Nhẫn nói với Minh-Ðệ:

          – Tiểu sư phụ, dường như ban nãy tiểu sư phụ dùng Chu-sa huyền âm chưởng đánh Siêu-loại hầu. Hiện hầu đang bị đau đớn cùng cực, xin tiểu sư phụ ban thuốc giải.

          Minh-Ðệ xòe hai tay ra:

          – Tiểu tăng không có thuốc giải, thì làm sao mà cho y được?

          Bỗng véo, véo, véo ba tiếng, rồi ba vật bay tới trước mặt Pháp-Nhẫn. Nhà sư bắt lấy xem, thì ra ba viên thuốc. Ông lên tiếng:

          – Ða tạ cao nhân ban thuốc.

          Ông trao thuốc cho Quang-Thạch. Quang-Thạch bỏ thuốc vào miệng nhai rồi nuốt đi. Cơn đau của y từ từ biến mất.

          Thế-tử Thân Cảnh-Long cung tay nói:

          – Sự việc đã như thế này, thì hôm nay chúng tôi xin thỉnh đại giá thái-tử cùng đại sư về Thăng-long yết kiến phụ hoàng để người định liệu, chứ anh em chúng tôi không thể để các vị ra về.

          Triệu Thự biết rằng đây là lời nói khéo, chứ thực sự Cảnh-Long muốn bắt y. Y nổi giận:

          – Ta đường đường là Thái-tử trừ quân, khắp thiên hạ không đâu không là giang sơn Ðại-Tống. Mi bất quá là công tử của một khê động Nam-biên mà dám bắt giữ ta ư? À, thì ra mi tưởng rằng võ công mi cao, rồi mi phạm thượng ư? Khó lắm.

          Ðại-sư Pháp-Nhẫn cung tay:

          – Duyên may gặp gỡ như vậy cũng đủ rồi, bần tăng xin phò đại giá Thái-tử rời Ðại-Việt. Non xanh còn đó, sông dài còn kia. Bần tăng xin kiếu Công-chúa cùng Thế-tử.

          Nói rồi ông vung tay phát chưởng. Chưởng phong chưa ra hết, mà Thiên-Thành, Cảnh-Long, Minh-Ðệ đều cảm thấy nghẹt thở. Cả ba người đều phải phát chưởng hóa giải, rồi nhảy lui lại.

          Cảnh-Long biết muôn ngàn lần mình không phải là đối thủ của nhà sư, chàng quyết định rất mau:

          – Mục đích mình chỉ muốn cứu vị tiểu hoà thượng này mà thôi. Còn bọn Tống, mình không đủ sức bắt chúng, mà dù có bắt được chúng, khi về Thăng-long e phụ hoàng cũng tha cho chúng về nước thì bẽ quá.

          Nghĩ vậy chàng nói:

          – Ðã thế thì xin đại sư phụ phò Thái-tử hồi loan, còn anh em đệ tử xin lĩnh tiểu sư phụ này đi. Ðại sư nghĩ sao?

          – Bần tăng xin tuân lệnh Thế-tử.

          Cảnh-Long nói với công chúa Thiên-Thành và Minh-Ðệ:

          – Ta đi thôi.

          Ba người tung mình biến vào đêm tối. Nhưng chợt có tiếng nói lạnh lùng:

          – Khoan!

          Mọi người cùng nhìn về phía phát ra tiếng nói, tất cả đều giật mình, vì một đôi trung niên nam nữ đứng đó từ bao giờ. Nam thì uy nghi, phong lưu tiêu sái như cây ngọc trước gió. Nữ thì đẹp huyền ảo, phơi phới như hoa đào, hoa mận. Minh-Ðệ biết rằng cao nhân này đã bắn thuốc đánh Tiêu Chú cùng cứu mình. Nàng tiến tới hành đại lễ:

          – Ða tạ tiền bối cứu mạng.

          Hai người thản nhiên để cho Minh-Ðệ hành lễ. Người nam cất tiếng ôn tồn nói với Lý Hiến:

          – Thế nào Lý công công? Người vẫn khỏe chứ? Hồi này người thăng quan tiến chức mau thực, đã lên tới chức Bắc-ban chỉ hậu rồi phải không?

          Ông lại nói với Tiêu Chú:

          – Tiêu tướng quân văn võ kiêm toàn, lại hết lòng trung với vua. Nhưng chỉ tiếc rằng mưu đồ đánh Ðại-Việt của tướng quân hóa ra một trường ảo mộng mà thôi. Tiếc, tiếc quá.

          Lý Hiến trông thấy đôi nam nữ thì run run hỏi:

          – Phải chăng... phải chăng người là U-bon vương, phò mã Xiêm-quốc, năm xưa đã đi sứ Thiên-triều.

          – Chính là tiểu vương.

          Tiêu Chú nói với Triệu Thự:

          – Khải vương gia, vị này tên thực là Lê Văn, con trai út của một trong Ðại-Việt ngũ-long Hồng-sơn đại phu. Vào thời Thiên-thánh người có theo sứ đoàn Ðại-Việt của Khai-quốc vương đến Biện-kinh. Người rất giỏi y lý, âm điệu, mà võ công thực kinh nhân. Sau người kết hôn với công chúa Xiêm tên An-Nan Tam-gia la-sun Nong-Nụt. Khi Nùng Trí-Cao nổi loạn, vương có đem quân trợ giúp y. Chính Vương đã hạ sát Minh-Ðức đại sư, chưởng môn phái Thiếu-lâm.

          Triệu Thự đã nghe biết bao lần người ta kể huyền thoại về hai kỳ tài Ðại-Việt là Lê Văn, Trần Tự-Mai. Cả hai cùng có xuất thân giống nhau, cha là một trong Ðại-Việt ngũ long, mẹ bị chết sớm trong nhục nhã. Chị của Lê Văn sau là vương phi Yên-vương Ðại-Tống; chị của Tự-Mai là vương phi Khai-quốc vương Ðại-Việt. Cả hai người cùng là phò mã. Tự-Mai là phò mã Tống; Lê Văn là phò mã Xiêm. Cả hai cùng có tài cầm quân. Tự-Mai cầm đại quân Tống, lên tới Thái-sư tước Kinh-Nam vương. Lê Văn cũng lên tới thái-sư Xiêm, tước U-bon vương. Nhưng cả hai khác nhau ở điểm: Lê Văn thì nói năng ôn tồn nho nhã. Còn Tự-Mai thì cương quyết gay gắt. Lê Văn chỉ biết trị bệnh cứu người. Còn Tự-Mai thì đa sát. Trong trận đánh ở núi Thiên-đài, Lê Văn đã hạ sát chưởng môn phái Thiếu-lâm là Minh-Ðức đại sư.

          Minh-Ðức đại sư là sư phụ của đại sư Pháp-Nhẫn cùng tể-tướng Phạm Trọng-Yêm, nên khi nghe người ta nhắc chuyện này, ông bật lên tiếng than:

          – A-di-đà Phật.

          Ðúng ra Triệu Thự là Thái-tử, tước phong tới Tần-vương, còn cao hơn tước Nam-phương quận vương của hoàng-đế Xiêm quốc nhiều. Ðối với tước U-bon vương của Lê Văn do vua Xiêm phong cho, y chỉ coi bằng viên huyện lệnh. Nhưng nghe Tiêu Chú nói y cảm thấy ớn da gà, nên cung tay hành lễ trước:

          – Thái-tử Ðại-Tống, tước phong Tần-vương xin tham kiến U-bon vương Xiêm quốc. Giám hỏi: từ nhiều năm nay, Xiêm quốc vẫn tiến cống xưng thần với bản triều. Phụ hoàng vẫn thường sai sứ sang phủ dụ. Hà cớ Vương gia lại theo dõi làm khó dễ tiểu vương? Rồi còn tung thịt chó giả làm Mộc-Tồn hòa thượng?

          U-bon vương cung tay:

          – Tung thuốc cứu người là tiểu vương. Còn ném thịt chó đánh người là Mộc-Tồn hòa thượng. Này Vương gia! Tiểu vương biết ông bà, bố mẹ, vợ con, anh em, nô bộc, chó mèo, lừa ngựa, trâu bò, gà vịt của Thái-tử cùng Tiêu, Lý tướng quân sắp chết hết, nên vội vàng từ Xiêm-quốc ngày đêm tìm đến để cứu, có đâu làm khó dễ?

          Triệu Thự nghe Lê Văn nói, thì run run hỏi:

          – Rõ ràng vừa rồi Vương bắn sỏi, bắn thuốc đánh Tiêu, Lý làm hai người tê liệt, để tiểu sư phụ thắng họ; rồi người lại bắn thuốc cứu tiểu sư phụ, mà bảo là không làm khó dễ tiểu vương ư?

          Công chúa Nong-Nụt lắc đầu:

          – Có thực Thái-tử không biết rằng toàn gia Thái-tử với Tiêu, Lý sắp chết không?

          – ???

          – Thái-tử là con nuôi của Gia-hựu hoàng đế, thì gọi công chúa Huệ-Nhu, vương phi Kinh-Nam vương bằng cô, mà không biết tính tình, cùng luật lệ của Ưng-sơn ư???

          – ???

          – Ưng-sơn song hiệp cực kỳ ghét những kẻ chủ trương chia rẽ giữa dân chúng hai tộc Hoa, Việt. Vương cũng cực kỳ thù ghét kẻ nào chịu ơn Vương mà lại phản Vương. Nay Thái-tử cùng hai vị Tiêu, Lý đây đều phạm vào hai điều đó. Trong việc lập Thái-tử mấy năm trước, chính công chúa Huệ-Nhu với Vương đã đề nghị lập Thái-tử vào ngôi trừ quân. Hai vị Tiêu, Lý từng ở dưới trướng Vương, chịu ơn mưa móc của Vương. Thế mà Thái-tử cùng hai vị lại thân xuống Nam thùy dùng thế lực tiền bạc gây thù hận, chia rẽ trong nước Ðại-Việt để chuẩn bị đem quân sang đánh, lại gắp lửa bỏ bàn tay ám hại gây chia rẽ Vương với Ðại-Việt. Theo luật Ưng-sơn, đó là một tội đáng giết cả nhà.

          – ???

          – Như thế cũng chưa đủ, Thái-tử với Vương phi còn giả làm Vương với Công chúa Huệ-Nhu để làm những chuyện xấu xa. Ðó là hai tội đáng giết. Nay những chuyện đó đều bại lộ, chắc chắn Vương sẽ xử tử toàn gia Thái-tử cùng hai vị Lý, Tiêu cho đến con chó, con gà cũng không tha. Chúng tôi ở xa nghe chuyện, vội về đây cứu nhân mạng mấy nghìn người trong phủ Tần-vương cùng Tiêu, Lý nhị vị tướng quân. Nhân thấy các vị định giết vị tiểu sư phụ này, nên vội ra tay cứu... Ðấy, chúng tôi đâu có làm khó dễ Vương?

          Lời của công chúa Nong-Nụt tuy nhỏ nhẹ, ngọt ngào, nhưng từ Triệu Thự cho tới Tiêu Chú, Lý Hiến chân tay đều phát run, cơ hồ muốn đứng không vững. U-bon vương vẫy Trịnh Quang-Thạch:

          – Trịnh hầu! Người đã lên tới tột đỉnh công danh, lại thờ đến ba đời vua, mà còn phản triều đình Ðại-Việt. Tội ấy, nếu triều đình xử thì chỉ bị lăng trì mà thôi. Nhưng người lại chủ mưu gắp lửa bỏ bàn tay, mưu hại phái Ðông-a với Kinh-Nam vương, thì tội không thể tưởng tượng nổi? Chả biết vương sẽ xử hầu như thế nào cho vừa? Thôi, hôm nay người bị trúng Chu-sa huyền âm chưởng ở đây, ta xin trị cho người.

          Quang-Thạch vội đến trước mặt Vương rập đầu cộp cộp:

          – Xin vương gia mở tâm Bồ-tát cứu mạng cho tiểu nhân. Từ nay trở đi, tiểu nhân xin giữ lòng ngay để chuộc tội.

          Lê Văn vung tay phóng một chưởng vào đầu Quang-Thạch, binh một tiếng, người y bay bổng ra xa đến hơn trượng, máu mũi y chảy ra ướt đầy áo. Trong khoảnh khắc, bao nhiêu cái đau đớn do Chu-sa huyền âm chưởng biến mất. Y rập đầu thêm ba lần:

          – Xin đa tạ Vương gia cùng Công chúa điện hạ.

          Tiêu Chú, Lý Hiến đến trước Lê Văn quỳ gối rập đầu:

          – Xin vương gia mở từ tâm cứu mạng.

          Lê Văn cười:

          – Ta sẵn sàng cứu hai người, nhưng hai người phải phát thệ rằng: từ nay về sau, không bao giờ dám có ý, hoặc khuyến khích bất cứ ai... đem quân Tống Nam xâm. Bằng trái lời thề, sẽ bị giết toàn gia.

          Hai người thề như lời Lê Văn. Vương vỗ tay lên đầu mỗi người một cái, rồi nói:

          – Các người ra kia ngồi vận công cho chất độc thoát ra mau.

          Bấy giờ Thiên-Thành, Cảnh-Long mới quỳ gối hướng U-bon vương với vương phi hành lễ:

          – Cảnh-Long, Thiên-Thành xin tham kiến sư thúc cùng sư thẩm.

          Lê Văn đỡ Cảnh-Long, Nong-Nụt đỡ Thiên-Thành dậy. Vương hỏi:

          – Bà chị của ta với ông ỉn vẫn mạnh khỏe chứ?

          Cảnh-Long lễ phép:

          – Ða tạ sư thúc, song thân cháu vẫn mạnh. Người nhắc đến sư thúc luôn. Song thân cháu cũng ở gần đây. Cháu xin mời sư thúc, sư thẩm tới tương kiến với người.

          – Ừ, ta về đây mà không thăm bà chị xinh đẹp với ông lợn thì thực vô lý.

          Nghe cuộc đối đáp giữa thế-tử Thân Cảnh-Long với U-bon vương, Minh-Ðệ nghĩ thầm:

          – Ừ, phải rồi. Cứ sử chép, Thuận-thiên thập hùng thì Lê Văn đứng hàng thứ mười, nên vương phải gọi vua bà Bình-Dương bằng chị. Sách chép hồi xưa Thập-hùng thương yêu nhau vô cùng. Mười người cùng đặt cho Thân Thiệu-Thái cái tên lợn, nhưng Lê Văn lại gọi trẹo đi thành ông ỉn. Không ngờ bây giờ các ngài thành đại danh rồi mà còn thân thiết với nhau như vậy.

          Cảnh-Long móc trong bọc ra cái pháo thăng thiên, châm lửa tung lên trời. Pháo nổ đánh đùng một tiếng, rồi hóa ra hình con sư tử mầu vàng trên không.

          Triệu Thự biết Cảnh-Long tung pháo thăng thiên báo cho vua bà Bình-Dương với phò mã Thân Thiệu-Thái tới. Y vội cung tay nói với Lê Văn:

          – Non xanh còn đó, nước biếc còn kia. Tiểu vương xin kiếu từ các vị.

          Lê Văn nói:

          – Thái-tử hãy mau mau về Biện-kinh khẩn khoản xin Gia-hựu hoàng đế năn nỉ với Công chúa Huệ-Nhu, may ra cứu mạng được mấy nghìn người trong quý phủ cùng gia quyến Tiêu, Lý.

          Bọn Triệu Thự biến mình vào trong đêm.

          Bấy giờ Lê Văn mới vẫy Minh-Ðệ:

          – Tiểu cô nương. Chẳng hay ai đã dạy võ công tà môn cho cô nương?

          – Dạ... dạ người dạy cháu tự xưng là Trần Tự-An.

          Công chúa Nong-Nụt lắc đầu:

          – Hoặc là cô nương nói dối, hai là người dạy nói dối. Ðại hiệp Tự-An không bao giờ luyện võ công tà môn này thì sao có thể dạy cô nương?

          – Khải công chúa điện hạ, cháu... cháu không nói dối. Dù cháu có gian xảo đến đâu, nhưng khi đứng trước một người đầy ân đức cứu nhân độ thế, đã lập không biết bao nhiêu công lao với đất nước thì... cháu đâu có thể vô lại đến độ nói dối Vương gia với điện hạ?

          U-bon vương nói:

          – Cô nương có biết rằng bất cứ người nào trong chính phái khi thấy cô nương xử dụng Chu-sa hay Huyền-âm chưởng là thẳng tay tru diệt không? Ðúng ra khi thấy cô nương phát Chu-sa huyền-âm chưởng đánh tên Trịnh Quang-Thạch, ta đã đập cô nương chết ngay tại chỗ rồi. Nhưng ta theo dõi hành tung của cô nương từ chiều đến giờ, thấy rằng cô nương là một thôn nữ nghèo khổ mà lại có tấc lòng son với đất nước; võ công không lấy gì làm cao, mà dám ra tay ngăn cản bọn Tống, bọn phản dân hại nước, nên ta có đôi chút nhân nhượng. Bây giờ ta cho cô một ân huệ. Cô phải khai cho thực sư phụ cô là ai? Ai sai cô ngăn cản bọn Tống? Ngăn cản để làm gì?

          Minh-Ðệ kinh hoảng vô cùng. Nàng giả làm sư, ngay bọn Triệu Thự tuyệt cũng không biết, thế mà vị vương này lét một cái đã nhận ra. Trước đây Minh-Ðệ đọc trong Thái-tông thực lục, Nhân-Huệ hoàng đế kỷ sự, sách đó thuật về hành trạng của U-bon vương Lê Văn, Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai, nàng khâm phục hai người đó như hai bậc thánh của đại Việt. Nay chính Vương cùng Vương phi ở ngay trước mặt, đã khiến nàng cực kỳ cảm động; huống hồ Vương đã ra tay cứu nàng, rồi lại nói năng ôn tồn với nàng. Nàng vội quỳ gối rập đầu:

          – Cháu là đứa con gái hèn hạ của làng Thổ-lội, xin ra mắt Vương gia cùng Công chúa điện hạ. Cháu xin thề là cháu không hề biết rõ sư phụ dạy cháu có phải tên là Trần Tự-An thực hay giả.

          Công chúa Nong-Nụt đỡ nàng dậy:

          – Thôi được, cháu hãy kể hết tiền nguyên, hậu quả vụ này cho ta nghe.

          Minh-Ðệ tường thuật chi tiết tỉ mỉ về cuộc đời mình từ nhỏ cho đến khi gặp Quan-Âm, rồi tới vụ án chùa Từ-Quang, khi thì ở tù tại Kinh-Bắc, lúc bị giam lỏng ở Khu-mật-viện, rồi gặp Dương Tông, cuối cùng về lại nhà, cùng vụ điều tra Minh-Can, Trịnh Quang-Thạch, và thám thính chùa Từ-quang. Nhất nhất nàng thuật lại không bỏ sót một chi tiết nào.

          Lê Văn hỏi công chúa Thiên-Thành:

          – Cháu gái, cháu thử giải đoán xem ai đã giả ra đại hiệp Trần Tự-An, giả để làm gì?

          Thiên-Thành mỉm cười:

          – Sư thúc thử cháu hẳn? Sư thúc ơi! Chỉ thoáng qua, cháu đã biết ngay là bọn Tống. Có thể do Khu-mật viện Tống làm mà Triệu Thự không biết. Cũng có thể cái tên Triệu Thự kia đã giả làm Kinh-Nam vương, thì cũng chính y sai thuộc hạ giả làm đại hiệp Tự-An chỉ với mục đích chia rẽ phái Ðông-a, Kinh-Nam vương với Ðại-Việt. Duy có một điều cháu không biết rõ là tại sao Triệu Thự với cái tên giả đại hiệp Tự-An lại biết võ công Ðông-a mà thôi.

          Lê Văn hỏi công chúa Nong-Nụt:

          – Công chúa thử đoán xem tại sao lại có người của bọn ấy biết võ công Ðông-a mà dạy cho cô nương đây?

          Nong-Nụt nói:

          – Có thể như thế này. Hồi trước ba vị Phụ-Quốc, Bảo-Dân, Trung-Ðạo thu nhận nhiều đệ tử ở Trung-nguyên, do đó võ công Ðông-a truyền sang, rồi Triệu-Thự học được.

          Chợt Lê Văn reo lên:

          – Tìm ra rồi.

          – Anh tìm ra như thế nào?

          – Võ công Ðông-a cho đến thời vua Thái-tông bên Ðại-Việt vẫn giữ nguyên như cổ. Sau trong đại hội môn phái, Thiên-trường ngũ kiệt đã đổi đi rất nhiều, khác xa với thời trước. Yến Thù được học võ công từ đại ca Phụ-Quốc trước khi đại hội. Sau y làm Thái-phó, dạy văn cho Thự, rồi nhân đó dạy võ công cho y. Chính vì vậy mà y dạy võ công Ðông-a cho tiểu cô nương đây là thứ võ công cũ. Chứ nếu người của phái Ðông-a dạy, thì đã dạy võ công canh tân rồi.

          Ðâu đó có tiếng cọp gầm, ngựa hí, rồi một nam cỡi cọp, nữ cỡi ngựa từ xa phi tới. Vừa tới nơi, hai người tung mình đáp xuống đất. Cảnh-Long chỉ U-bon vương cùng vương phi:

          – Mạ mạ ơi! Bố ơi! Có sư thúc, sư thẩm quang lâm.

          U-bon vương reo lên:

          – Chà bà chị xin đẹp, lúc nào cũng xinh đẹp. Còn ông ỉn hồi này coi được qúa, chả còn lợn tẹo nào cả. Chúng em về thăm Ðại-Việt, định lên Bắc-cương gặp anh chị cho thỏa lòng mong nhớ, không ngờ gặp anh chị với hai cháu đây.

          Minh-Ðệ thấy người nữ rõ ràng là Quan-Âm đã dạy nội công âm nhu cho nàng. Nàng vội đến trước ngài quỳ gối rập đầu:

          – Nam-mô cứu khổ cứu nạn Quan-thế-âm Bồ-tát, đệ tử xin tham kiến Bồ-tát.

          Quan-Âm đỡ Minh-Ðệ dậy:

          – Hồi dạy nội công cho con, ta đã bảo ta không phải là Quan-Âm. Vậy từ nay con đừng gọi ta là Quan-Âm nữa nhé.

          Thân Cảnh-Long thấy Minh-Ðệ hành lễ, chàng kinh ngạc hỏi nữ nhân:

          – Mạ mạ. Mạ mạ nhận thêm cô bé này làm đệ tử từ hồi nào vậy? Con chưa từng nghe mạ mạ nói đến bao giờ?

          Nghe Cảnh-Long nói, Minh-Ðệ giật mình nghĩ thầm:

          – Thì ra Quan-Âm là vua bà Bình-Dương. Hèn gì khi thấy mình xử dụng nội công Âm-Nhu rồi nhận ra hình người trong tám vị cao thủ của phái Mê-linh, sư huynh Thường-Kiệt gọi ngay mình làm sư muội, hết sức yêu thương mình. Người còn bảo cái gì nào là phúc trạch mình khôn lường, nào dù mình phạm tội gì cũng được ân xá. Thì ra thế.

          Vua Bà lại nói với Minh-Ðệ:

          – Tất cả oan khuất của con ta đã biết hết. Trước kia ta chỉ dạy nội công cho con, mà không thu con làm đệ tử. Nhưng bấy lâu nay, con như bông sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Hôm nay trượng phu của ta với ta cùng thu con làm đệ tử.

          Minh-Ðệ mừng quá, quỳ gối rập đầu bốn lần trước vua Bà cùng phò mã Thân Thiệu-Thái:

          – Sư phụ, sư mẫu.

          Nàng hành lễ với U-bon vương và công chúa Nong-Nụt:

          – Ðệ tử tham kiến sư thúc.

          Nàng lại hành lễ với Thân Cảnh-Long, Thiên-Thành:

          – Sư huynh, sư tỷ.

          Công chúa Nong-Nụt tháo chiếc vòng ngọc tím trên tay đeo vào cổ tay Minh-Ðệ:

          – Cho con chiếc vòng này gọi là lễ diện kiến.

          Công chúa Thiên-Thành cũng tháo chuỗi ngọc trai trên cổ đeo vào cho Minh-Ðệ:

          – Sư tỷ vừa là cháu của vua Bà, vừa là con dâu, lại vừa là đệ tử của người. Hôm nay là lần thứ nhì gặp sư muội, ta tặng sư muội gọi là lưu niệm.

          Vua Bà bảo Cảnh-Long:

          – Con hãy đấu với sư muội ít hiệp, để mạ mạ xem trình độ võ công sư muội đến đâu rồi.

          Bà lại bảo Minh-Ðệ:

          – Con đừng khiêm tốn gì cả, cứ dùng hết công lực, chiêu số của con để đấu với sư huynh. Có như vậy sư phụ mới biết rõ con đã học được những gì?

          Cảnh-Long, Minh-Ðệ cùng hướng vua Bà với phò mã Thân Thiệu-Thái hành lễ, rồi đứng thủ thế. Vua Bà hô:

          – Xuất chiêu!

          Minh-Ðệ phát chiêu Ðông-hải lưu phong đánh thẳng về phía trước. Vì nội công của nàng là âm kình, nên chưởng không có gió. Cảnh-Long thấy chiêu số hung ác, vội ra chiêu Kiến-tích dã ngưu trong Mục-ngưu thiền chưởng đỡ. Xùy một tiếng, Minh-Ðệ cảm thấy như trời long đất lở, mắt hoa đầu váng. Nàng vội hít một hơi, rồi phát chiêu Phong-đáo sơn đầu. Cảnh-Long lại xuất chiêu Nhân-ngưu câu vong đỡ. Cứ thế hai bên đấu được đến trên trăm chiêu, thì phò mã Thân Thiệu-Thái hô:

          – Ngừng tay!

          Minh-Ðệ nhảy lui lại cung tay:

          – Ða tạ sư huynh dạy dỗ.

          U-bon vương cười nói với phò mã Thiệu-Thái:

          – Thế nào ông ỉn! Ông ỉn phải trả tiền thực nhiều, thì mỗ mới trị bệnh cho cô học trò bảo bối của ông ỉn.

          Nghe U-bon vương nói, Minh-Ðệ kinh hoàng, nàng cung tay hỏi:

          – Sư thúc, không biết đệ tử bị chứng bệnh gì? Mong sư thúc từ bi hỷ xả cứu đệ tử.

          Lê Văn cầm tay Minh-Ðệ bắt mạch, rồi thở dài:

          – Ta tưởng hai mươi năm trước Ðinh Kiếm-Thương tuyệt tích rồi chết luôn. Không ngờ y vẫn còn sống trên thế gian này. Thực kỳ lạ, hôm ở Bắc-ngạn rõ ràng anh Thông-Mai biết y là dư đảng của Hồng-thiết giáo, mà sao ổng không đập chết nó đi cho rồi. Nhưng không biết cơ duyên nào y học được nội Huyền-âm của phái Trường-bạch, rồi tổng hợp lại. Nhưng chúng không biết y lý, nên khi tổng hợp, hai loại độc một âm, một dương không hoà được với nhau, nên chi độc tố làm thương tổn cả ngũ tạng.

          Vương vuốt tóc nàng:

          – Có phải sau bốn mươi chín ngày, tuy cơn đau đã hết, nhưng thỉnh thoảng cháu thấy tim đập mạnh một vài lần, trong người cực kỳ khó chịu, rồi mãi tới khi ợ hơi mấy cái, cái khó chịu mới hết. Ðúng không?

          – Vâng đúng thế.

          – Ðó là tâm mạch của cháu bị hai thứ Chu-sa, Huyền-âm xung đột nhau mà sinh ra. Rồi mỗi khi cháu ngửi bất cứ mùi nước hoa nào, là bị ho mấy tiếng, rồi lồng ngực ngâm ngẩm đau. Ðó là phế bị tổn thương. Thận chủ não, chủ tủy, quan của thận là tai, mỗi khi nháu đọc sách nhiều, hoặc suy nghĩ nhiều, thì tai bị ù, đó là thận bị thương. Có đúng không?

          Minh-Ðệ run run đáp:

          – Quả như sư thúc dạy.

          – Ðã hết đâu. Can chủ cân. Thỉnh thoảng cháu cứ thấy chân tay co giật một lúc rồi thôi. Ðó là can bị thương tổn. Tỳ chủ tiêu hóa, vận khí. Thỉnh thoảng cháu vận khí thấy bị bế tắc một cách vô lý, đó là tỳ bị tổn thương. Tóm lại ngũ tạng của cháu bị hai thứ độc xung kích nhau mà thành.

          Vương nói với Minh-Ðệ bằng giọng thương xót:

          – Cái người xưng là đại hiệp Tự-An dạy võ cho cháu đó tên thực là Ðinh Kiếm-Thương. Hai mươi năm trước, y là một đại ma đầu của Ðại-Việt ta. Không biết chủ ý của y ra sao, mà lại đem võ công tà môn này mà dạy cho cháu?

          Vương hỏi Minh-Ðệ:

          – Khi sư phụ dạy Chu-sa huyền âm chưởng cho cháu, y có nói rõ gốc tích chưởng này ra sao không?

          – Thưa sư thúc có ạ.

          Rồi nàng tường thuật chi tiết những gì đối thoại với Ðinh Kiếm-Thương trên con thuyền ở hồ Tây lại một lượt. Vua Bà nghe đến tên Vũ Chương-Hào, Lê Phúc-Huynh, Ðinh Kiếm-Thương thì không ngạc nhiên. Bà giải thích:

          – Văn đệ xa cố quốc lâu ngày nên không biết đấy thôi. Nguyên Vũ, Lê, Ðinh là đệ tử của Nhật-Hồ lão nhân. Sau khi Khiếu Tam Bản bị chúng ta giết ở Biện-kinh, thì Nhật-Hồ lão nhân sai Lê, Vũ, Ðinh sang nắm giáo chúng ở xứ Chân-lạp. Cho nên hồi chư vương khởi loạn, chúng lọt lưới. Biết rằng Chu-sa ngũ độc chưởng đã bị đại hiệp Tự-An tìm ra cách khắc chế, chúng muốn tái lập giáo chúng cũng khó khăn vô cùng. Vì vậy chúng sang Trung-nguyên, tìm dư đảng bọn Trường-bạch, rồi hai bên trao đổi võ công với nhau. Chính ba tên này đã hợp võ công Huyền-âm với Chu-sa làm một. Còn tại sao Ðinh lại giả làm sư bá Tự-An thì nguyên do rất dài.

          Bà ngước mắt nhìn trăng rồi kể...

          "Bấy giờ vào thời Thuận-thiên (1010-1028), đức Thái-tổ nhà ta mới tiếp ngôi từ nhà Lê, nhiều sĩ dân không phục. Nhưng họ chỉ tỏ ra bất hợp tác, chứ không làm loạn. Các nguồn chống đối quan trọng nhất là phái Ðông-a, Sài-sơn, bang Nhật-hồ. Bang Nhật-hồ khó mà thu phục, bởi họ chủ trương diệt chủ đạo tộc Việt, diệt mọi môn phái, để lên làm vua. Còn phái Sài-sơn lại do thân phụ của đệ là Nam-quốc vương, tức Hồng-sơn đại phu, con thứ vua Lê Ðại-Hành làm chưởng môn, muốn đòi lại ngôi vua. Phái Ðông-a vì liên hệ ba đời với phái Sài-sơn; hơn nữa chưởng môn pháiÐông-a là sư bá Trần Tự-An và Thiên-trường ngũ kiệt là bạn với Hồng-sơn đại phu. Nhà vua muốn dùng đức cảm hóa, thu phục các nguồn chống đối, nhưng hơn mười năm mà không thành.

          Khi Khai-Quốc vương về triều lĩnh phụ-quốc thái-úy, vương đưa ra quyết định: bang Nhật-Hồ không thể thu phục, nhược bằng có thu phục được, thì cũng không thể dùng chúng. Người lại thấy võ đạo phái Ðông-a cực kỳ khinh ghét bọn ma đầu Hồng-thiết, vì vậy người mới chủ tâm thu phục pháinày.

          Hay đâu, vợ của chưởng môn phái Ðông-a là Cao Huyền-Nga bị Hồng-thiết giáo hại, Khai-Quốc vương nghĩ ngay đến tìm một đệ nhất giai nhân gả cho ông. Bấy giờ tại Thăng-long, có bốn giai nhân tài sắc nức tiếng đế đô. Trong bốn giai nhân đó, thì Ðào Hà-Thanh nổi bật hơn cả, lại là người đặt ra thể loại văn chương, ca hát mới, tên gọi Ca-trù. Rồi thể loại này nổi tiếng, mang tên hát Ả Ðào.

          Vương tìm gặp song thân nàng, đem nghìn vàng tặng ông bà, nhờ Hà-Thanh đóng một vở kịch, hầu thành vợ Tự-An. Không ngờ ông bà, cùng Hà-Thanh khẳng khái không chịu nhận vàng, vì cho rằng Hà-Thanh được làm vợ Trần Tự-An, thì là điều nàng ước mong mà không được. Rồi Hà-Thanh thành vợ Tự-An, rồi nhờ phái Ðông-a cùng võ lâm diệt bang Nhật-Hồ. (1)

          Ghi chú,

          (1) Những bí ẩn này, xin đọc Anh-hùng Tiêu-sơn, cùng tác giả,

          Hồi Hà-Thanh chưa thành vợ Tự-An, thì một hào kiệt tên Ðinh Kiếm-Thương vốn thuộc phái Mê-linh đã say mê Hà-Thanh từ lâu. Hai người đã có ước hẹn trăm năm. Nay Hà-Thanh thành vợ Tự-An, khiến Kiếm-Thương thất tình, như điên như khùng. Kiếm-Thương phẫn hận, bỏ theo bang Nhật-Hồ, vì bang này hứa rằng sẽ giúp y đoạt lại Hà-Thanh. Rồi bang Nhật-Hồ bị diệt, Kiếm-Thương bị truy lùng rất gấp. Y bí mật tìm Hà-Thanh, kể nể tình xưa nghĩa cũ, xin nàng che chở cho. Hà-Thanh bắt y cải tên họ, rồi nàng nhận y vào làm gia thuộc ở trang Thiên-trường. Y chỉ ước ao được làm những việc như quét nhà, giặt y phục cho Hà-Thanh cũng thỏa nguyện rồi. Trong khi tiềm ẩn ở phái Ðông-a, y học được võ công phái này, tới trình độ khá cao.

          Khi vua Thái-tông lên ngôi, truyền đại xá thiên hạ, Kiếm-Thương rời phái Ðông-a ra đi, mưu tìm phương cách đoạt lại người yêu. Giữa lúc đó Dương tể tướng muốn gây thế lực cướp ngôi vua, ông âm thầm tuyển võ sĩ. Với võ công Mê-linh, Ðông-a, y được Dương tể tướng thu nhận làm đệ nhất gia sư dạy võ cho các con cùng gia nhân.

          Sau khi vụ án Bắc-ngạn xẩy ra, con trai và cháu bị Ưng-sơn giết chết, Dương tể tướng suýt bị giết cả nhà, may nhờ vua Thái-tông dùng luật Bát-nghị ân xá. Kiếm Thương cũng được ân xá (2).

          Ghi chú,

          (2) Xin xem Anh-linh thần võ tộc Việt, cùng tác giả,

          Từ đấy Ðinh Kiếm-Thương tuyệt vọng. Y hóa điên hóa khùng, đi đâu cũng xưng là Tự-An. Y vào các kỹ viện tìm gái. Cô gái nào y cũng gọi là Ðào Hà-Thanh hết. Y sang Trung-quốc, cũng xưng là Tự-An, trao đổi võ công với phái Trường-bạch. Những ngày ở Trung-quốc, y gặp sứ giả Chiêm-thành sang cống. Sứ Chiêm tưởng y là Tự-An, tỏ ra khúm núm, mời y sang Chiêm chơi. Tới Chiêm, với võ công của y, không một cao thủ nào địch lại. Vua Chiêm tôn y là sư phụ. Y đem những cải cách về nông nghiệp, binh bị của triều Lý ra giúp vua Chiêm làm cho nước giầu dân mạnh. Vua Chiêm lại tưởng lầm rằng đó là sáng kiến của y, phong y làm « Thái sư quốc phụ, Cửu-chân vương”. Giữa lúc đó, con của Nhật-hồ lão nhân là Ðông-Thiên với Quỳnh-Hoa cùng Lê Phúc-Huynh, Vũ Chương-Hào, đã tái lập Hồng-thiết giáo ở Chiêm, thanh thế nổi lên rất lớn. Kiếm-Thương được phong là tả hộ pháp.

          Công thành, danh toại, y trở về Ðại-Việt tìm dư đảng bang Nhật-hồ, mưu tái lập bang này, rồi khích cho Tống đánh xuống Nam. Dĩ nhiên Tống sẽ thua, Ðại-Việt sẽ nghiêng ngửa. Bấy giờ y mượn quân Chiêm tiến về. Trong, dư đảng Nhật-hồ nổi dây. Y sẽ lên làm vua, tàn sát phái Ðông-a, cho hả giận.

          Cho rằng với bản lĩnh hợp võ công Mê-linh, Ðông-a, Hồng-thiết, Liêu-Ðông, y dư sức thắng Trần Tự-An, đoạt lại Hà-Thanh. Y trở về Thiên-trường xin gặp đại hiệp Tự-An, công khai trình bầy tất cả tâm sự quá khứ, rồi thách ông đấu võ. Nếu y thắng, thì ông phải trả Hà-Thanh cho y. Còn như y bại, thìy xin tự tử ngay.

          Sau khi đấu với nhau hơn trăm hiệp, Kiếm-Thương thấy bản lĩnh mình thua xa đối phương. Y xin thua, xin tự tử ngay trước mặt Hà-Thanh, chỉ ước một điều là Hà-Thanh cho y một giọt nước mắt lên đầu y mà thôi.

          Hà-Thanh cảm động, nước mắt rưng rưng quỳ gối trước chồng, kể lể hết mối tình cũ với Kiếm-Thương. Nàng nói rõ: lúc đầu nàng phụ tình Kiếm-Thương lấy ông chỉ vì quốc sự. Nhưng sau khi thành vợ ông, nàng mới cảm thấy yêu ông. Nàng nói thực: đối với Kiếm-Thương, nàng vừa yêu vừa thương hại. Còn đối với ông, nàng vừa yêu, vừa kính trọng. Nay nàng xin phép ông, nhỏ cho người cũ một giọt nước mắt.

          Ðại hiệp Tự-An là người đại lượng. Ông thẳng thắn chắp tay lạy Kiếm-Thương ba lạy tạ tội, vì vô tình làm y đau khổ bấy lâu nay. Bây giờ sự đã ra thế này, ông trả Hà-Thanh về cho y. Hà-Thanh cương quyết không chịu, nhưng ông không đổi ý. Giữa lúc hai bên biện luận, Kiếm-Thương quỳ gối xuống, ôm lấy chân Hà-Thanh khóc nức nở. Rồi thình lình, y ôm nàng chạy như bay vào đêm tối.

          Từ đấy, y cùng Hà-Thanh ngao du mây nước, sống trên thuyền. Hà-Thanh còn tưởng nhớ đến Tự-An, nên nàng bắt Kiếm-Thương phải giả làm ông. Cho nên đi đâu, y cũng xưng là Trần Tự-An. Có người đem chuyện này thuật với phái Ðông-a. Chưởng môn là Trần Phụ-Quốc định sai người giết y, thì đại hiệp Tự-An ra lệnh: bất cứ đệ tử Ðông-a nào cũng phải bảo vệ Kiếm-Thương, để chuộc lỗi cũ cho ông. Vì vậy Kiếm-Thương tự tác khắp Hoa-Việt mà vẫn vô sự.

          Hồi Kiếm-Thương làm gia sư trong Dương phủ, thì Trịnh Quang-Thạch chỉ là một tên hầu bình thường. Bây giờ, y được phong hầu, được thái hậu tín nhiệm. Vì vậy Kiếm-Thương ganh tỵ, mới giúp Yến-Loan thắng bọn học trò trường Trung-nghĩa để ra oai ».

          .......

          Phò-mã Thiệu-Thái hỏi:

          – Văn đệ này, bây giờ chúng ta phải trị cho Yến-Loan như thế nào?

          – Không khó. Ông ỉn cứ giải Chu-sa ngũ độc cho Minh-Ðệ trước, rồi phần còn lại đệ sẽ trị cho cháu.

          Phò-mã Thiệu-Thái chỉ cái ghế đá bảo Minh-Ðệ:

          – Con ngồi im, đừng vận công chống lại. Nếu con buồn nôn, thì cứ nôn ra, không có chi đáng sợ cả.

          Minh-Ðệ ngồi lên chiếc ghế đá, rồi nhắm mắt chờ đợi. Phò mã vỗ nhẹ lên đầu nàng một chưởng. Minh-Ðệ cảm thấy toàn thân rung động, rồi nàng buồn nôn. Oẹ một tiếng nàng nôn ra một bãi đờm nhớt bầy nhầy. Cứ thế một khắc sau, thì nàng hết nôn, trong người cảm thấy sảng khoái vô cùng. Biết đã thoát ra khỏi cái ách Chu-sa ngũ độc, nàng đứng dậy chắp tay:

          – Ða tạ sư phụ giải ách.

          U-bon vương móc trong túi ra ba hộp thuốc khác nhau, ông trao cho Minh-Ðệ:

          – Trong ba hộp thuốc này, mỗi hộp có bốn mươi chín viên. Sáng cháu uống viên xanh, trưa uống viên đỏ, chiều uống viên trắng. Uống hết thì bệnh cũng tiêu trừ. Nhớ trong khi uống không được ăn đậu xanh, giá sống.

          Vua Bà nắm tay Minh-Ðệ trao cho nàng tấm thẻ bài, rồi dặn:

          – Cái vụ bọn Tống, cũng như tên Trịnh Quang-Thạch, sư Viên-Hoa, sư phụ đã có biện pháp rồi. Mọi việc hôm nay nhất thiết con giữ kín. Sư phụ trao cho con tấm thẻ bài này, từ nay bất cứ quan nha nào, kể cả Hoàng-đế, Tể-tướng ai muốn bắt giam, hay làm tội con, con đưa ra là họ phải thôi ngay. Bằng họ không thôi, thì tức là bọn gian thần, bọn mạo quyền, ta cho con dùng võ công chống lại. Tối mai, giờ Dậu, con ra miếu thổ thần, ta sẽ dạy võ cho con.

          Bà nói với mọi người:

          – Ta đi thôi.

          Sáu người hú lên một tiếng, rồi biến vào trong đêm.

          Minh-Ðệ tần ngần trở vào trong chùa, thì thấy sư Viên-hoa bị chém mất đầu, chỉ còn cái thân trên vũng máu. Kinh hãi nàng nghĩ thầm:

          – Từ chiều đến giờ, ở đây có sư phụ, sư mẫu, sư thúc và sư huynh sư tỷ với mình. Vậy ai đã giết sư Viên-Hoa?

          Nàng nhìn quanh, thì thấy một tờ giấy hoa tiên rất dầy, trên in hình cặp chim ưng bay qua núi, với giòng chữ viết rất đẹp:

          Vi tăng phạm giới,
          Tử đệ phản sư,
          Vi dân phản quốc,
          Kiến nhi trừ chi.

          (Là tăng mà phạm giới,
          Là học trò phản sư,
          Là dân lại phản quốc,
          Thấy thì tiễu trừ)

          Minh-Ðệ ớn da gà:

          – Cứ như lời lẽ này, thì rõ ràng Ưng-sơn song hiệp đã ra tay. Nhưng không biết Ưng-sơn này có thực là Kinh-Nam vương với công chúa Huệ-Nhu không? Hay là người khác đội tên? Có lẽ là đội tên. Ðúng rồi, mình đọc trong sách thấy thuật rằng vương với U-bon vương thân nhau như bóng với hình. Nếu như Vương ở đây hẳn Vương đã ra tương kiến với U-bon vương rồi. Vậy ai đã đội tên Vương? Mình nhớ trước đây đã có hồi đại hiệp Tự-An, Thông-Mai, vương phi Khai-Quốc vương Thanh-Mai, Long-thành ẩn-sĩ Tôn Ðản cũng đã xưng là Ưng-sơn song hiệp. Vậy không biết vị nào đã giết Viên-Hoa? Yến-Loan ra bụi hoa, tìm cái tráp của Viên-Hoa, thì cái tráp đã biến mất. Nàng nghĩ thầm:

          – Chắc Ưng-sơn đã mang đi mất rồi. Thôi ta về nhà, chẳng nên liên hệ vào vụ này làm gì nữa.

          Liên tiếp trong suốt gần tháng, đêm nào vua Bà cũng đến miếu thổ thần luyện võ cho Yến-Loan. Vì nàng đã có nội công cao, nên bất cứ quyền pháp, chưởng pháp nào, nàng chỉ luyện một lần là thành. Chợt nhớ đến vụ Viên-Hoa bị giết, Yến-Loan hỏi vua Bà:

          – Sư phụ, cái đêm mà con hội kiến với sư phụ. Khi sư phụ đi rồi, con trở vào chùa thì sư Viên-Hoa bị giết. Không biết...

          Vua Bà giật mình:

          – Con hãy thuật chi tiết vụ này cho sư phụ nghe.

          Nàng thuật lại chi tiết vụ thám thính chùa Từ-quang một lượt, nhất là cái tráp đựng vàng của Tống mà nàng dấu ở bụi hoa cũng biến mất. Nàng đưa tờ giấy mà Ưng-sơn gắn trên xác Viên-Hoa cho sư phụ. Vua Bà cầm lấy tờ giấy, xem qua, rồi gật đầu:

          – Ðúng như con đoán, quả là người của Ưng-sơn đã ra tay chứ không phải Ưng-sơn. Sau đây con nên đến chùa Từ-quang thám thính xem có gì lạ không? Bây giờ võ công con cao, trí lự lại không tầm thường, gặp sự gì khó khăn, con có thể tự giải quyết được.

          Sau khi dạy Yến-Loan cho đến đêm thứ ba mươi, bà bảo Minh-Ðệ:

          – Ta là chị của Chương-thánh Gia-khánh hoàng đế. Trong mấy ngày nữa Hoàng-đế sẽ du hành qua đây. Nếu con có thấy ta đi cùng, thì cũng đừng hành đại lễ. Con nhớ nhé, từ nay con không nên dùng tên Minh-Ðệ nữa, mà dùng tên Yến-Loan do ta đặt cho con. Thôi ta đi, sau này thầy trò sẽ gặp lại nhau.

          Nói rồi vua Bà tung mình vào bóng đêm.

          Sáng nay, mặt trời dậy sớm, ánh nắng chứa chan trên đồng cỏ, bốc hương thơm ngạt ngào. Yến-Loan dậy từ lúc rạng Ðông. Nàng dã bèo, cho lợn ăn, rồi quay vào chuẩn bị bữa sáng cho bố mẹ, thắng ngựa vào xe để ông bà lên đường. Công việc vừa hoàn tất thì có nhiều tiếng xôn xao ngoài cổng, rồi có tiếng gọi ơi ới. Mụ Sửu le te chạy ra ngõ. Hai cánh cổng vừa mở ra, thì đã có hai mươi đệ tử trường Trung-nghĩa tràn vào. Nhanh chóng, chúng bao vây quanh ngôi nhà ông bà Lê Văn-Thiết. Trịnh Phúc cùng hai tên Vũ Ðức, Vũ Ðạt từ ngõ khệnh khạng tiến vào sân.

          Ông Thiết đứng dậy hỏi:

          – Các anh đi đâu thế này?

          Trịnh Phúc xuất trong bọc ra một trục giấy, y nói:

          – Xin ông bà gọi tất cả mọi người trong nhà ra nghe lệnh của Siêu-loại hầu.

          Dân chúng trong làng hiếu kỳ, kéo đến chật hết cả sân lẫn ngõ nhà ông Thiết. Người tới sau, không còn chỗ phải leo lên cây, hoặc dẫm lên vườn để xem cái gì sẽ xẩy ra. Yến-Loan thấy trong đám đông có cả bốn người bạn là Thanh-Thảo, Ngọc-Nam, Trinh-Dung, Ngọc-Huệ. Họ nhìn nàng với vẻ ái ngại.

          Ông Thiết chưa lên tiếng gọi, thì từ mụ Sửu, cho tới Yến-loan, Minh-Can, Minh-Nhàn, ba người con trai đều đứng sau ông bà. Trịnh Phúc đọc:

          " ... Trung-nghĩa đại tướng quân, Siêu-loại hầu có lệnh truyền bắt giam Lê-thị Yến-Loan tức Minh-Ðệ về dinh vì phạm trọng tội...”

          Nghe xong bà Thiết nhảy choi choi lên rồi gầm thét như con hổ đói lâu ngày mới thấy mồi:

          – Trời hở trời! Quân hầu muốn giết, muốn băm vằm con khốn nạn ra làm muôn mảnh, nghìn mảnh, tôi cũng xin vui lòng, việc gì phải sai người đến vây nhà tôi kia? Khổ quá, của nợ hết việc làm rồi hay sao mà đi chọc vào nhà quan.

          Bà xỉa xói vào mặt Yến-Loan:

          – Con khốn nạn kia, con diều tha qụa mổ kia, mày đã làm tội gì đến nỗi quân hầu cho người đến tróc nã. Mày có đem xác mày ra nộp ngay không?

          Trẻ con thấy bà như vậy chúng reo hò nhại tiếng nói của bà.

          Yến-Loan thủng thỉnh bước ra. Nàng cầm tờ lệnh xem qua, rồi ôn tồn nói:

          – Các anh về hỏi quân hầu rằng Yến-Loan này đã phạm tội gì mà cho người tróc nã? Bắt người thì phải có nguyên do, kết tội người thì phải có chứng cớ chứ? Con bé Yến-Loan không dễ gì để cho người ta hiếp đáp đâu. Xin mời các anh rời khỏi đây ngay.

          Dân chúng thấy Yến-Loan dám chống lệnh quân hầu thì đều bật lên tiếng ồ kinh ngạc.

          Trịnh Phúc mở to mắt ra hỏi:

          – Người... người dám chống lại lệnh của quân hầu ư?

          Ngọc-Nam nhảy ra cầm tờ lệnh đọc, rồi nói:

          – Dù tể-tướng, dù quân-hầu cũng phải có lý chứ đâu lại vào quyền hành rồi muốn bắt ai thì bắt đâu?

          Ngọc-Huệ cũng nói:

          – Minh-Ðệ, nhất định không để cho họ trói mình.

          Vũ Ðức nhăn mặt, gã dùng tay túm cổ áo Ngọc-Huệ kéo ra ngoài. Nhanh như chớp, Ngọc-Huệ trầm người xuống tránh, thành ra y túm hụt. Chân trái Ngọc-Huệ quét sang phải. Tay phải nàng gạt vào vai trái y. Lập tức Vũ Ðức ngã lộn đi. Y uốn cong lưng, rồi tung người dậy. Trong khi dân làng vỗ tay hoan hô.

          Vũ Ðức nổi cáu:

          – Con nặc nô Ngọc-Huệ. Mi... mi muốn chết hử? Hử? Hử?

          Nói rồi y phóng quyền đánh vào mặt nàng. Ngọc-Huệ tung người lên cao, chân phải đá vào huyệt Ðản-trung, chân trái đá vào huyệt Hạ-quan của Vũ Ðức. Nàng ra tay cực kỳ thần tốc. Vũ Ðức ngã lăn đi hai vòng, rồi nằm đứ đừ, không bò dậy được nữa.

          Dân chúng reo hò cổ võ:

          – Ông võ sinh này dùng thân làm thước đo vườn đấy hẳn!

          – Không, ông ta nằm dài ra tượng hình chữ nhất đấy chứ!

          Bốn thiếu nữ Ngọc-Huệ, Trinh-Dung, Ngọc-Nam, Thanh-Thảo đều đứng thành hàng ngang với Yến-Loan. Trịnh Phúc hô:

          – Chúng ta tuân lệnh quân hầu bắt Lê-thị Minh-Ðệ. Còn những ai vô can, thì hãy tọa thủ bàng quan.

          Yến-Loan nói với bốn người bạn:

          – Cảm ơn các chị. Xin các chị cứ để mình em đối phó với bọn này cũng thừa sức rồi.

          Trịnh Phúc lại hô:

          – Anh em xông vào trói thị lại!

          Yến-Loan mỉm cười:

          – Ai có bản lĩnh gì thì cứ xông vào.

          Dân chúng đứng im phăng phắc xem màn kịch bi hùng.

          Ðám đệ tử Trung-nghĩa đã từng thấy Yến-Loan hạ các sư huynh nội đồ của trường mấy năm về trước, nên chỉ đứng ngoài gườm gườm mà không dám rục rịch. Trịnh Phúc lại hô:

          – Xông lên một lượt.

          Chỉ có một tên tiến tới, Yến-Loan phóng hoành cước trúng mông y, người y bay bổng ra xa hơn trượng, rồi nằm đứ đừ không bò dậy được.

          Dân chung reo hò vang dội.

          Yến-Loan nghĩ thầm:

          – Ðánh rắn phải đánh dập đầu, ta cứ đánh ngã tên Trịnh Phúc, ắt chúng sợ hãi bỏ chạy.

          Nghĩ là làm. Nàng phát một chưởng hướng Trịnh Phúc. Trịnh Phúc lùi một bước, rồi vung chưởng đỡ. Binh một tiếng người y bay bổng lên cao. Yến-Loan đuổi theo túm lấy y, tay điểm huyệt Ðại-trùy, ném y xuống đất. Y nằm như con chó tiền rưỡi. Nàng dẵm chân lên ngực y, rồi vận sức hỏi:

          – Phục chưa?

          Trịnh-Phúc đau quá, y rên rỉ:

          – Trăm lạy cô nương, nghìn lạy cô nương. Xin cô nương dung tình.

          Yến-Loan xẹt tới như tia chớp, xuyên bên Ðông, lách bên Tây, phút chốc tất cả đám hai mươi ba tên đều bị điểm huyệt ngã lổng chổng ở sân.

          Diễn biến làm ông bà Thiết kinh ngạc đến ngơ ngẩn cả người ra. Dù nằm mơ, ông bà cũng không ngờ tới con mình đã học võ đến trình độ cao như vậy. Lần đầu tiên dân chúng được coi một màn đấu võ. Họ vỗ tay hoan hô Yến-Loan.

          Ông Thiết hỏi Yến-Loan:

          – Con đánh họ thế này, lát nữa họ kéo bầy, kéo lũ đến đây thì sao?

          – Bố cứ để mặc con. Cái ông Trung-nghĩa đại tướng quân thực ra là người bất trung bất nghĩa, nếu ông đến đây con sẽ có cách làm cho ông ấy kinh sợ đến mất hồn mất vía.

          Lát sau lý-trưởng, phó-lý, trương-tuần đi cùng thầy đồ Thái, dẫn một toán hoàng nam tới. Họ thấy đám đệ tử trường Trung-nghĩa nằm ngổn ngang rên xiết thì kinh ngạc vô cùng, đứng trố mắt ra nhìn. Bà Thiết uốn cong người lại, há mồm thực to, rồi gào lên:

          – Tao nói có sai đâu. Mày làm loạn, để chức dịch tới đây bắt tao đi làm tội, thì mày mới thỏa dạ hả? Ối trời cao đất dầy ơi?

          Cụ lý hỏi:

          – Anh Trịnh Phúc, cái gì đã xẩy ra?

          Trịnh Phúc thở hào hển:

          – Sư phụ sai chúng tôi tróc nã Yến cô nương. Cô nương đã không tuân lệnh, còn đánh anh em chúng tôi ra nông nỗi này. Lại bốn cô Ngọc-Huệ, Trinh-Dung, Thanh-Thảo, Ngọc-Nam cũng trợ giúp Minh-Ðệ nữa.

          Cụ lý nghe Trịnh Phúc nói, ông có vẻ ớn Yến-Loan, mắt lấm lét nhìn nàng, rồi lên tiếng:

          – Yến cô nương, chúng tôi được lệnh quan trên về hỏi song thân cô một chuyện. Vụ này không liên quan đến trường Trung-nghĩa, vì vậy cô nương chẳng nên dùng võ với chúng tôi.

          Yến-Loan bật cười cung tay:

          – Thưa cụ, cụ là người đạo đức, lại làm đại diện cho làng ta, thì dù cháu có là Ngọc-hoàng đại đế, Diêm-la lão tử chăng nữa cũng phải kính trọng cụ, chứ đâu dám vô lễ. Tục ngữ có câu: Phật ngồi trên toàn, gà nào dám mổ mắt. Cụ là Phật, cháu là gà mà.

          Thầy đồ Thái gật đầu tỏ vẻ đồng ý với Minh-Ðệ.

          Cụ lý yên tâm. Cụ hướng ông bà Thiết:

          – Cách đây mấy tháng, Gia-viễn quốc công có ban lệnh rằng ông bà phải kiếm người tử tế mà gả Minh-Ðệ. Thế sao đến nay ông bà chưa thi hành?

          Bà Thiết chắp tay xá dài:

          – Xin cụ hiểu cho, cái con này, ăn không lên đọi, nói không lên lời, lười chây xác ra, người lại.. yếu đuối thì ai mà chịu cưới nó về làm vợ? Ðấy, nó đấy, cụ xem có ai muốn, thì tôi cho không, chứ tôi giữ nó trong nhà mà làm mắm cho chó ăn à?

          Cụ lý dương to cặp mắt lên nhìn bà Thiết, rồi nói bằng giọng mỉa mai:

          – Bà nói sao nghe lạ tai quá. Cháu Minh-Ðệ đây nhan sắc thực hiếm có trên đời. Tôi lại nghe nói, mọi việc trong nhà do cháu đảm đang hết mà bà bảo cô ấy lười ư? Còn bà bảo cháu yếu đuối, mà mình cháu ra tay, khiến hai mươi ba người nằm thẳng thẳng thế này. Nếu như cháu nó khoẻ mạnh, thì chắc nó búng tay một cái, trâu cũng ngã kềnh ra. Thôi được, có cụ phó, anh trương-tuần, thầy Thái làm chứng. Tôi xin ghi lời của bà để trình lên quan trên. Nghĩa là bất cứ ai đến hỏi, bà cũng cho không. Bà nhớ lấy nhé.

          Ðám con trai nàng reo lên:

          – Người đẹp thế kia, ai mà chẳng ham!

          – Trời, tôi về nói với thầy u hỏi nàng làm vợ mới được!

          Yến-Loan quét con mắt lạnh như dao cau qua đám thanh niên đồng tuổi trong làng, khiến chúng lạnh người, vội đứng im.

          Cụ Lý nói với Yến-Loan:

          – Này cháu, dù cháu tài giỏi đến đâu thì cũng phải tuân phép nước chứ? Ðức vua phong cho Trịnh công công làm Trung-nghĩa đại tướng quân, Siêu-loại hầu, thì chỗ chúng ta đứng đây là thực ấp của người. Vì vậy cháu phải tuân lệnh người, có đâu đánh đương sai của người?

          Yến-Loan nói bằng giọng nhỏ nhẹ:

          – Thưa cụ, có thầy cháu tại đây làm chứng cho những lời này của cháu. Cháu là người đọc sách, cháu biết rõ về vua chúa lắm. Vua là gì? Vua là người được ý trời trao cho chăn dắt trăm họ. Mà ý trời là gì? Thưa là ý dân. Vua cũng như con thuyền, dân cũng như nước. Nước nâng thuyền, nhưng nước cũng đánh chìm được thuyền. Khi người dân không tội, ngay chính Hoàng-đế cũng không thể xâm phạm thân thể họ. Thế mà nay cháu không tội gì, ông Trịnh Quang-Thạch sai người đến bắt, thì có hai vấn đề đặt ra. Một là ông ta vi luật, hiếp đáp dân lành. Hai là những kẻ này giả lệnh ông ta. Vì thế cháu mới chống lại.

          Từ cụ lý cho đến ông bà Thiết, cùng đám đệ tử trường Trung-nghĩa, tuyệt không ngờ Yến-Loan lại có kiến thức cao xa như thế. Nàng lý luận thực đanh thép, ngoài những hiểu biết của mọi người. Thầy đồ Thái gật gù:

          – Minh-Ðệ luận đúng. Vì trong trát bắt cháu, hầu không nêu rõ tội trạng, vì vậy cháu nó chống là phải.

          Thầy nói với Yến-loan:

          – Minh-Ðệ, con hãy buông tha cho những người này, rồi đi theo chức dịch trong làng với thầy đến dinh Trung-nghĩa để hỏi cho ra lẽ. Con nghĩ sao?

          Minh-Ðệ cung tay:

          – Con xin nghe lời thầy dạy.

          Nàng nói với ông Thiết:

          – Bố cứ ở nhà. Bất cứ đứa nào đến đây đụng vào sợi tóc của bố, con quyết đập chết chúng.

          Nàng xuyên bên này, nghiêng bên kia, thấp thoáng mấy cái đã giải huyệt cho bọn Trịnh Phúc. Bọn chúng định ra về, nàng quát:

          – Khoan!

          Cả bọn kinh hãi đứng lại nhìn nàng. Nàng xếp bẩy viên gạch thành một chồng, rồi bảo Trịnh-Phúc:

          – Anh hãy dùng sức đấm một đấm vào bẩy viên gạch này cho ta coi.

          Trịnh Phúc không biết Yến-Loan bắt y làm vậy với mục đích gì, nhưng y cũng vận công rồi đấm lên chồng gạch. Bộp một tiếng tay y đau nhói lên, mà chồng gạch chỉ có ba viên gẫy làm đôi mà thôi.

          Yến-Loan nhặt ba viên gạch bể để sang một bên, rồi lấy sáu viên khác chồng lên, thành một cột mười viên. Nàng hít một hơi, vận âm kình, rồi vỗ xuống. Vèo, một tiếng êm nhẹ, mười viên gạch vỡ nhỏ ra thành từng miếng bằng quả cau một. Nàng cầm một viên khác lên, dùng tay bóp nhỏ ra như tấm, rồi vãi xuống sân trước con mắt kinh khủng của bọn đệ tử trường Trung-nghĩa. Yến-Loan lại chuyển động thân mình, đã túm được gã Trịnh Phúc, nàng khoằm khoằm năm ngón tay như vuốt hổ, ướm thử vào đầu y, rồi hỏi:

          – Trịnh huynh này. Nếu như tôi bóp mạnh một cái, thì những gì sẽ xẩy ra nhỉ?

          Gã Trịnh Phúc bở vía:

          – Trăm lạy cô nương, nghìn lạy cô nương, nếu cố nương bóp mạnh, thì đầu tiểu nhân sẽ vỡ ra mà chết. Xin cô nương tha cho tiểu nhân.

          Yến-Loan thấy trong ánh mắt y chưa có vẻ sợ cho lắm, nàng thử vận kình lực, xiết chặt ngón tay một cái, khiến y rú lên.

          Dân chúng im phăng phắc. Trinh-Dung reo:

          – Cái anh này thực khéo giả vờ, để chị Minh-Ðệ thử bóp thủng năm lỗ trên đầu anh, rồi cắm vào đó năm dò huệ, coi đẹp gớm. Cam đoan khi anh ra đường, người ta sẽ chỉ chỏ, trầm trồ khen ngợi: kìa vị thái bảo trường Trung-nghĩa họ Trịnh kìa, đầu ông ta nở hoa kìa.

          Trẻ con vỗ tay:

          – Ðúng đấy, đúng đấy!

          Ngọc-Nam cũng nói:

          – Chị Minh-Ðệ cứ bóp thủng đầu y ra. Bọn em sẽ thả vào trọng sọ y năm con rắn. Khi y ra đường, năm con rắn sẽ thò đầu ra ngoài, đầu lắc lư coi càng đẹp.

          Trịnh Phúc kinh hoàng:

          – Chớ, chớ! Cô nương chớ có thử. Cô nương mà bóp một cái thì đầu tiểu nhân sẽ vỡ ra mà chết liền.

          Nói đến đây, y sợ quá, té đái, vãi phân thối um lên. Yến-Loan buông tay ra. Y vội cùng đám sư đệ bỏ đi. Trinh-Dung gọi lại:

          – Khoan nào! Các anh đã học võ công, mà chưa biết luật lệ võ lâm ư? Ðể tôi chỉ cho. Phàm khi hai người đấu với nhau, người thắng toàn quyền xử lý kẻ thua. Kẻ thua phải chịu để người thắng muốn mổ, muốn xẻ, muốn băm vằm thế nào cũng phải chịu. Nay các anh đánh với chị tôi bị thua, chị tôi tha cho về, thì các anh phải biết điều chứ?

          Trịnh Phúc run run:

          – Cô nương muốn bọn tại hạ phải làm gì để được ân xá?

          Ngọc-Huệ thấy y sợ quá, thì cười:

          – Dễ thôi, mỗi người phải để lại một cánh tay phải, một con ngươi trái, và một bàn chân trái.

          Mặt Trịnh Phúc nhăn nhó:

          – Xin cô nương nới cho một chút.

          Yến-Loan phì cười:

          – Vậy thì thế này: tất cả các anh phải đến trước thân phụ tôi rập đầu tám lần, miệng hô: xin cụ tha cho cái mạng chó má này.

          Bọn Trịnh Phúc thấy nàng ra điều kiện nhẹ quá, thì mừng chi siết kể. Chúng đồng thụp xuống trước ông Thiết rập đầu binh binh. Mỗi lần rập đầu, miệng lại hô lớn :

          "Xin cụ tha cho cái mạng chó má này”.

          Mỗi lần bọn chúng rập đầu, dân chúng lại reo hò. Sau khi lạy xong, chúng lồm cồm bò dậy, định ra về. Trinh-Dung quát:

          – Khoan!

          Mặt bọn chúng tái xanh. Nàng hứ một tiếng rồi truyền lệnh:

          – Các anh tự nhận là chó má, thì phải bò như chó ra cổng, chứ đâu có thể đi như vậy?

          Bọn Trịnh Phúc thấy nếu chậm trễ không chừng Yến-Loan còn làm nhục hơn nữa; chúng vội bò ra cổng rồi hô nhau chạy như một đàn vịt.

          Trẻ con reo hò cười ha hả.

          Hiểu trò không ai bằng thầy. Thầy đồ Thái biết tính tình bốn cô học trò vốn ôn nhu văn nhã, rất mực hiền hậu. Bất cứ việc gì chúng cũng giải quyết bằng tình cảm. Riêng Minh-Ðệ bị mẹ, em, người ở hành hạ chết lên chết xuống, rồi bọn học trò trường Trung-nghĩa đem nàng ra làm cái bị để đấm đá mấy năm liền. Bây giờ, nhân dịp này nàng ra oai cho chúng biết tay mà thôi, chứ tuyệt không có ác ý. Ông vẫy nàng:

          – Thôi, con đi với thầy.

          Dân làng vẫn không giải tán.

          Vừa đến đó, thì có tiếng chiêng, tiếng trống, rồi một đoàn đệ tử trường Trung-nghĩa kéo đến. Chúng bao vây căn nhà ông Thiết đến ba vòng, gươm giáo chĩa ra tua tủa. Cuối cùng Trịnh Quang-Thạch cùng bẩy gã nội đồ thủng thỉnh đi vào. Trong đám đó có cả thầy đồ Trần Trọng-San (3), người phụ trách dạy Nho tại trường Trung-nghĩa. Gã Quang-Minh đưa mắt nhìn Yến-Loan, với vẻ căm hờn:

          – Chúng tôi đến đây để bắt con quỷ cái. Những ai vô can, xin đứng im.

          Ghi chú,

          (3) Hồi 1960-1975, tại miền Nam Việt-Nam, có một giáo sư văn-chương tên là Trần Trọng-San, dáng người cũng nhỏ bé, nói năng ôn tồn. Tôi đã viết báo Sóng-thần (1971), gọi đùa ông là Lý Kế-Nguyên tái thế. Khi tôi viết những giòng này (1985), thì dường như ông vẫn ở Sài-gòn. Ông có dịch tập thơ Ðường, xuất bản trước 1975, hiện ở hải ngoại đã tái bản. Ðây là một sự trùng tên rất thông thường, chứ không phải tác giả cố ý đề cao hay bôi xấu ông.

          Sau khi nhập cung, Yến Loan hết sức tiến cử thầy đồ San. Ông được vua Thánh-Tông phong làm Lễ-bộ tham tri (thứ trưởng giáo dục). Niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh tứ sáu (1064) thầy được cử làm chánh sứ sang mừng vua Tống Anh-Tông lên ngôi và điếu tang Tống Nhân-Tông. Thầy có làm bài văn tế vua Nhân-tông. Bộ QTNC chép: khi thầy đọc xong bài văn tế lời lẽ bi ai thống thiết, thì "khắp triều đình, hậu cung Tống đều cất tiếng khóc”. Tể-tướng Hàn Kỳ, phó Tể-tướng Văn Ngạn-Bác khen hay, gọi ông là ”Khuất-Nguyên tái sinh”. TTCTGCK tả dáng người ông thấp, nhỏ, nói năng ôn tồn cẩn trọng, nhưng lý luận cực kỳ đanh thép. Khi trở về, ông được vua ban cho quốc tính, và cải tên là Lý Kế-Nguyên (Nghiã là tài ông đáng kế tiếp Khuất-Nguyên). Sau đó ông được thăng lên làm Binh-bộ thượng-thư, lĩnh Uy-viễn điện đại-học sĩ. Trong trận đánh sang Tống, cũng như chống cuộc xâm lăng của Tống, ông lĩnh nhiệm vụ Ðại đô đốc thủy quân. Sau khi giặc yên, ông được phong Phụ-quốc Thái-úy, Ðồng-trung thư môn hạ bình chương sự, Khu-mật-viện sứ, Càn-nguyên điện đại học sĩ, Nhân-dũng Kinh-Nam quốc-công. Ông được đặc cử chuyên tiếp các sứ thần Tống, Chiêm, Xiêm, Lào.

          Còn thầy đồ thứ nhì, trong làng gọi là Thái. Nhưng tên thực là Quách Sĩ-An. Ngay khi Yến-Loan đắc thế, nàng hết sức tiến cử ông. Vua Thánh-tông phong ông làm Lại-bộ tham tri (Thứ trưởng nội vụ), sau cải làm Lễ-bộ thượng thư. Ông có đi sứ Tống niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh thứ sáu (1064) và Thần-vũ nguyên niên (1069). Khi trở về ông được phong làm Thái-tử thái phó, lĩnh Lại-bộ thượng thư, Khu-mật-viên sứ, được cử làm thầy dạy thái-tử Càn-Ðức tức vua Nhân-Tông. Khi thái tử Càn-Ðức lên ngôi vua, ông được phong chức tước cực lớn (dĩ nhiên), Kiểm-hiệu thái-phó, đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, Long-thành tiết độ sứ, Khu-mật-viện sứ, Kinh-Bắc Quốc-công. Khi Ỷ-Lan lên làm Linh-nhân hoàng thái hậu rồi, mà mỗi khi tiếp ông, đều cung tay gọi bằng thầy, xưng con. Ðó là chuyện sau, sẽ thuật ở quyển bốn.

          Y nói với Yến-Loan:

          – Con quốc phạm kia. Mi có chịu trói hay không?

          Yến-Loan kinh ngạc nghĩ thầm:

          – Hôm nay mới là ngày thứ bốn mươi lăm. Còn bốn ngày nữa, mà ta không cho thuốc thì tên này mất mạng. Nhưng sao dường như y không sợ gì vậy?

          Tuy thế, nàng vẫn lễ độ:

          – Ðoàn huynh! Phải chăng Ðoàn huynh là đệ nhất Thái-bảo trường Trung-nghĩa? Trường Trung-nghĩa dạy cả văn lẫn võ, như vậy Ðoàn huynh phải biết chữ lễ chữ khiêm chữ cung chứ? Ðoàn huynh biết mà lại nói năng như phường vô học bất thuật vậy sao? Không lẽ lễ, khiêm, cung của trường Trung-nghĩa như thế sao? Con bé quê mùa thất học này thực không hiểu nổi.

          Ðoàn bị Yến-Loan hạch, y cứng lưỡi, nhưng y nghĩ rằng bất quá Yến-Loan học sơ tâm với thầy đồ Thái thì chưa chắc đã đọc thông văn tự. Cho nên y không chịu nhún:

          – Lễ, khiêm, cung của ta chỉ có thể áp dụng với những người quân tử, chứ không thể dùng với mi. Mi biết gì về lễ mà cũng hạch hỏi?


          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9