Sau khi đã phân tích nội dung của bản đàn “Bạc Mệnh” do Thuý Kiều soạn ra, Nguyễn Du nói đến thiện nghệ gảy đàn của Thuý Kiều:
(
461) Trong như tiếng hạc bay qua, Đục như nước suối mới sa nửa vời,
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
Rồi tác giả tả ảnh hưởng của tiếng đàn Thuý Kiều gảy đến người nghe. Trước đây, tác giả đã nói phớt qua về tính chất buồn của bản “Bạc Mệnh”:
(33) Khúc nhà tay lựa nên xoang,
Một thiên “Bạc Mệnh” lại càng não nhân!
Bây giờ thì tác giả đi sâu vào chi tiết của cái buồn gây ra cho người nghe bởi tiếng đàn “Bạc Mệnh”
(
485) Ngọn đèn khi tỏ khi mờ, Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu.
Đến một vật vô tri vô giác như ngọn đèn mà tiếng đàn của Thuý kiều còn làm cho biến chuyển khi tỏ khi mờ nói gì Kim trọng là một Chung Tử Kỳ!
Khi tiếng đàn của Thuý kiều vẽ bằng thanh âm bức tranh vân câu thành một bãi sa trường khốc liệt, thì Kim Trọng bị Thạch tượng hoá trong dáng điệu tựa gối thẩm âm:
(487) Khi tựa gối…
Ý niệm “bạc mệnh” bắt đầu tác động .
Khi tiếng đàn của Thuý kiều trình bày nỗi lòng của mỗi người có như nỗi lòng của Tư Mã Tương Như khi chàng gảy khúc “Phụng cầu Kỳ Hoàng” với ẩn ý làm xiêu lòng tân quả phụ Trác Văn Quân, thì Kim Trọng tự thấy xấu hổ trong thâm tâm mà cúi đầu xuống..Sao vậy? Vì trước đây một lúc Kim Trọng đã yêu cầu Thuý Kiều dưới một hình thức tuy văn hoa mập mờ nhưng không thành nghi vấn được một điều rất khó yêu cầu mà cũng rất khó chấp thuận:
(455) Sinh rằng: “Gió mát trăng trong,
Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam”
Chày sương chưa nện cầu Lam,
Sợ lần khân quá ra sàm sở chăng?”
Thuý Kiều chỗ này đã khôn khéo vô cùng. Nàng làm như không hiểu Kim Trọng muốn gì, và ngăn rào trước lối đi độc nhất mà nàng không thể cứ nhắm mắt liều theo Kim Trọng cho chàng được toại nguyện:
(459) Nàng rằng: “Hồng diệp xích thằng,
Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri,
Đừng điều nguyệt nọ hoa kia,
Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai?”
Trước lòng chân thành đoan chính của Thuý Kiều, Kim Trọng mới nói thác là muốn nghe Thuý Kiều gảy đàn. Thật vậy nếu Kim Trọng chỉ muốn nghe Thuý Kiều gảy đàn thôi thì chàng cứ việc nói thẳng ra. Đối với Thuý Kiều thì sự kiện gảy đàn cho Kim Trọng nghe chỉ như nàng đã nói:
(465) Thưa rằng:” Tiện kỹ sá chi!
Đã lòng dạy đến, dạy thì phải vâng”.
Cũng như lúc Thuý Kiều mới vào nhà Kim Trọng trông thấy bức vẽ cây tùng, nàng khen người khéo vẽ:
(399) “ Phong sương đượm vẻ thiên nhiên,
Mặn mà nét bút, càng nhìn càng tươi!”
thì Kim Trọng ngỏ ngay ý xin nàng đề thơ:
(401) Sinh rằng phác hoạ vừa rồi,
Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa”.
Một đằng đánh đàn, một đằng đề thơ trên bức tranh của người ta mới vẽ xong đối với Thuý kiều hắn tác động thứ nhì buộc nàng phải thận trọng hơn là tác động thứ nhất, vì trên một công trình hội hoạ nàng vừa đề cao giá trị, nếu nàng phẩm đề mà văn không hay chữ không tốt thì có khác nào vá vải thô lên áo gấm!
Tác động yêu cầu đã tế nhị hơn, thời gian yêu cầu lại không thuận tiện bằng, vì là lần đầu tiên, phút đầu tiên được gần nhau thân mật sau cuộc trao xuyến đổi thoa. Thế mà Kim Trọng có cần rào đón gì đâu? Chàng nói thẳng ra ý muốn của chàng. Còn khi Kim Trọng yêu cầu Thuý Kiều gảy đàn thì đã là lần thứ hai Thuý Kiều sang nhà Kim Trọng hai người đã thề bồi với nhau hết lòng chung thuỷ, đã cùng nhau “tóc tơ căn vặn tấc lòng”, rồi bày tiệc rượu ra mà “ sánh giọng quỳnh tương”, biết trước là có cả một đêm để tự tình với nhau, thế thì thời gian không thể thuận tiện hơn được nữa. Việc gì Kim Trọng phaỉ rào đón quá lời như vậy? Vả lại yêu cầu người yêu đánh đàn cho nghe , là một điều người ta có thể thực hiện cả trước sự hiện diện của nhiều người khác bất luận thân hay sơ có gì mà phải e ngại vì “chày sương chưa nện cầu Lam”, có gì là “lần khân” sàm sở? Rõ ràng là Kim trọng không thực tâm muốn nghe Thuý Kiều gảy đàn. Chàng đã muốn điều mà, sau khi nghe Kiều gảy những khúc đàn chan chứa xuân tình chàng đã không nén nổi ở trong lòng, đã biểu lộ ra:
(499) Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi!
Thế cho nên khi nghe và hiểu ý Thú Kiều diễn tả trong phần thứ hai của bản đàn “Bạc Mệnh”, Kim trọng cúi đầu là dĩ nhiên:
(487)…khi cúi đầu,
Ý niệm bạc mệnh tác động như xoáy vào tận tâm khảm!
Đến phần thứ ba, khi Thuý Kiều trình bày bứ tranh hưng vong đầy oán hận với tài hoa phải mang tai hoạ, vì thế cuộc đổi thay, thì Kim trọng thấy não lòng như chín khúc ruột bị hai bàn tay vô hình vò đi vò lại:
(488) Khi vò chín khúc…
Ý niệm “Bạc Mệnh” tác động như vặn ruột thắt gan gây ra thảm trạng chín khúc đoạn trường!
Đến phần thưa tư, khi Thuý Kiều kết luận nhạc phẩm do nàng sáng tác bằng ý tưởng: những cuộc tình duyên đẹp đẽ nhất, dù có được hả hê một thời, thì rút cục vẫn đi đến chỗ tử biệt sinh ly đau đớn nhất, như trạng thái nát ruột tan hồn của Chiêu quân lúc quá quan:
Vạn lý Hán Thiên hoa hữu lệ,
Bách niên Hồ địa mã vô thanh:
Đến đây, ý niệm “bạc mệnh” vượt rất cao trên mức khả năng chịu đựng đau khổ của Kim trọng nên chàng phải chau mày thốt lên tiếng oán trách:
(488)…, khi chau đôi mày,
Rằng: :Hay thì thật là hay,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào,
Lựa chi những bậc tiêu tao!
Dột lòng mình, cũng nao nao lòng người!”
Nói tóm lại, mỗi lần có dịp hoặc bị ép đánh đàn, Thuý Kiều sử dụng cây đàn nguyệt mà nàng “ăn đứt” tất cả các nhạc công khác, để gảy bản đàn”Bạc Mệnh” là bản đàn chính nàng đã soạn ra. Bản đàn này có cái đặc tính là làm cho người nghe buồn đến nát ruột tan hồn.
Thuý Kiều có ngờ đâu chính cái tài tuyệt vời của nàng nó khiến nàng đã trước tác ra bản Bạc Mệnh “não nhân” nó làm cho nàng “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” mà đã “nổi tiếng Cầm Đài” lại cũng là cái điều nó cụ thể hoá số đoạn trường của nàng. Nếu cái “nổi tiếng Cầm Đài” của nàng đã khiến Kim Trọng mơ ước được gần nàng, được nghe nàng gảy đàn, thì lại cũng cái bản “Bạc Mệnh” của nàng nó làm đen tối cái đêm hạnh phúc nhất của đời nàng, là đêm nàng được trợ tình với người yêu nàng, và nàng yêu khiến người yêu nàng phải trách nàng rằng:
(491) “Lựa chi những bậc tiêu tao,
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người!”
Thuý Kiều có ngờ đâu cái tài tuyệt vời của nàng, cụ thể hoá bởi sáng tác “bạc mệnh”, lại bị đem ra thử thách để đánh giá nàng với “con buôn”. Mã Giám Sinh , nó mua nàng cho hành viện là nơi nhục nhã nhất của kiếp má hồng:
(639) Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt hoa.
(647) Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vâng, ngoài bốn trăm.
Thuý Kiều có ngờ đâu cái thiện nghệ của nàng, làm nẩy ra những tiếng, khi trong thì” trong như tiếng hạc bay qua”, khi đục thì “đục như tiếng suối mới sa nửa vời” khi khoan thì “khoan như tiếng gió thoảng ngoài”, khi mau thì “mau như sầm sập tiếng trời đổ mưa”, lại bị tình địch là Hoạn Thư lợi dụng để hành hạ nàng cùng người tri kỷ của nàng là Thúc Sinh:
1859) Tiểu thư lại thét lấy nàng:
“Cuộc vui gãy khúc đoạn tràng ấy chi?
Sao chẳng biết ý tứ gì?
Cho chàng buồn bã, tội thì tại ngươi!”
Thuý Kiều có ngờ đâu nàng phải thi thố cái tài “nổi tiếng” của nàng đem cái sáng tác trong ấy nàng đã gởi cả tâm tình những ngày còn ngây thơ, trong trắng để mua vui cho kẻ đã đánh lừa và giết chồng nàng, cho kẻ lợI dụng một tấm lòng thuỷ chung của nàng “trên vì nước dưới vì nhà” để thành công một cách bá đạo, và đẩy nàng đến bước đường cùng chỉ còn có chết mà thôi:
2631) Giết chồng mà lạI lấy chồng,
Mặt nào mà lại đứng trong cõi đời?
Thôi thì một thác cho rồi,
Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông!”
May thay! nàng đã không chết vì được bà sư Giác Duyên cứu sống.
Và cũng may thay! lần này nàng đã giác ngộ. Nàng đã hiểu rằng chính cái tài đàn tuyệt vời của nàng nó đã làm hại nàng từ trước đến giờ.Chính cái bản đàn “Bạc Mệnh” mà nàng đã tạo ra , nó đã tạo ra cái đời bạc mệnh của nàng.. Chính cái tiếng đoạn trường mà nàng đã gảy nên, nó đã gây nên cái nghiệp đoạn trường của nàng.Nói một cách khác, chính nàng đã “sáng tạo” ra cái kiếp bạc mệnh của nàng. Chính nàng đã “sáng tạo” ra cái số đoạn trường của nàng; không có số đoạn trường nào dành riêng cho nàng cả; không có nghìn thu bạc mệnh nào chờ đợi một đời tài hoa của nàng ca.
Vì giác ngộ được như thế nên khi nàng và Kim Trọng tái ngộ trong đêm động phòng “trăm năm danh tiết của nàng”,Kim Trọng:
3191) Tình xưa lai láng khôn hàn,
Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa”
Thì nàng đã trả lời:
3193) Nàng rằng vì mấy đừơng tơ,
Lầm người cho đến bây giờ mới thôi!
Ăn năn thì sự đã rồi,
Nể lòng người cũ vâng lời một phen”.
Nghĩa là nàng đã nhận thứcđược rằng chính bản đàn “Bạc Mệnh”, mà nàng đã tạo ra, đã làm cho nàng lầm lẫn, cứ nhằm lối đoạn trường mà đi, “từ năm hãy thơ ngây cho đến bây giờ mới thôi”. Bây giờ nàng tỉnh ngộ thì đã đứng trước sự đã rồi còn biết làm sao nữa!
Nhưng, đã tỉnh ngộ rồi, thì không dại gì mà còn gảy lại bản “Bạc Mệnh” ấy nữa. Nhưng vì chàng yêu cầu mà “vâng lời một phen” thôi, rồi xin chàng đừng bao giờ ám chỉ đến cái bài đàn “não nhân” mà sát kỷ ấy nữa!
Nhưng lạ thay! Bản đàn ngày xưa chàng nghe buồn não gan não ruột đến chịu không nổi phải:
487) Khi tựa gối khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày.
Mà thốt ra:
(489) Rằng:”hay thì thực là hay,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!”
Sao bây giờ lại:
(3199) Khúc đâu đầm ấm dương hoà!
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh?
Khúc đâu êm ái xuân tình!
Ấy hồn Thục Đế hay mình Đỗ Quyên?
Trong sao châu nhỏ duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc lam điền mới đông!
Lọt tai nghe suốt năm cung!
Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao!
Danh từ “não nùng” ngày xưa ngụ ý vui thấm thía trong lòng, chứ không ngụ ý buồn như ta hiểu ngày nay. Vì vậy cuối bản “Chinh Phụ Ngâm Khúc” mới có câu tả cái vui của Chinh Phu và Chinh phụ tái hợp:
(399) Vì chàng tay chuốc chén vàng,
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.
Ngày xưa, khi Thuý Kiều gảy bản “Bạc mệnh” của nàng quá buồn thảm Kim Trọng đã trách nàng:
(491)”lựa chi những bậc tiêu tao,
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người!”
Thì nàng đã trả lời:
493)Rằng quen mất nết đi rồi,
Tẻ vui âu cũng tính trời biết sao?
Bây giờ Thuý Kiều vẫn gảy bản “Bạc mệnh” của nàng nhưng lại vui vẻ khác thường. Kim Trọng nhận thấy lòng nàng đã đổi hoàn toàn từ trong tâm khảm, nên xưa mới bi thảm mà nay mới phấn khởi, bởi lẽ đó nay chàng có thể phủ nhận ý kiến của nàng ngày trước, cho rằng” tẻ vui âu cũng tính trời biết sao?”:
(3207) Chàng rằng:Phổ ấy, tay nào?
Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?
Tẻ vui bới tại lòng này”,
Và chàng trêu nàng mà hỏi
(3210)”hay là khổ tận đến ngày cam lai”
thì nàng nhắc lại cho chàng thấy rõ ràng là nàng đã tỉnh ngộ rồi:
(3211)Nàng rằng:” Vì chút nghề chơi,
Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu!”
Một phen tri kỷ cùng nhau,
Cuốn dây từ đấy, về sau cũng chừa!”
Bốn câu này diễn tả cùng một ý vớí bốn câu 3193-3196, ngụ ý Thuý kiều hiểu rằng vì nàng sáng tác ra bản đàn “Bạc Mệnh” ấy nên cái bạc mệnh nó cứ vận vào người nàng, nênnàng mới khổ; Vậy để chìu lòng tri kỷ nàng chỉ gảy một lần nữa thôi!; còn không bao giờ gảy lại bản “não nhân” ấy nữa! Nhưng lạ thay! Bản “Bạc Mệnh” ngày nay lại không não nhân như ngày xưa nữa! Quả như người yêu của nàng đã nói:
3209)”Tẻ vui bởi tạI lòng này”
Vậy chính cái thâm tâm của mình nó hướng cuộc đời của mình vào con đường phản ảnh trạng thái của nó.
Còn tiếp
Hết bài đầu xin chờ xem bài tiếp theo cũng với chủ đề này.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.04.2009 06:34:28 bởi Ct.Ly >