Một trăm câu hỏi đáp về lịch sử Sài Gòn trước 1802
lyenson 05.10.2008 11:01:28 (permalink)
Một trăm câu hỏi đáp về lịch sử Sài Gòn trước 1802
Cao Tự Thanh, Nxb. Văn hóa Sài Gòn, 2007


Sài Gòn Gia Định thời Đàng Trong

Hoàn cảnh lịch sử mà Sài Gòn xuất hiện trên bản đồ Việt Nam

Dưới thời các chúa Nguyễn Đàng Trong, công cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam được đẩy mạnh. Năm 1611, lập dinh Phú Yên. Năm 1693, lập dinh Bình Thuận. Đến 1698, chúa Nguyễn Phước Châu sai Chưởng cơ Trấn thủ dinh Bình Khang Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống suất đem quân vào kinh lược Chân Lạp, lấy đất Đông Phố đặt phủ Gia Định, chia vạch ranh giới, lấy Đồng Nai làm huyện Phước Long, lập dinh Trấn Biên, lấy Sài Gòn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn. Mở đất được ngàn dặm, dân hơn bốn vạn hộ, chiêu mộ lưu dân từ Bố Chính trở vào Nam tới ở, thiết lập xã thôn phường ấp, khẩn đất hoang, định tô thuế, lập sổ đinh. Sài Gòn chính thức xuất hiện trên bản đồ Việt Nam từ đó, trong một bối cảnh lịch sử có những nét đặc biệt góp phần quy định nhiều đặc điểm của tiến trình văn hóa Việt Nam ở địa phương về sau.
Từ 1744, quân Thanh vượt Sơn Hải quan vào chiếm Yên Kinh (Bắc Kinh), bắt đầu cai trị Trung Quốc, ra sức đàn áp các di thần nhà Minh. Các lực lượng chống Thanh lùi dần về Hoa Nam. Năm 1678, Ngô Tam Quế chết. Năm 1681, Trịnh Kinh, con Trịnh Thành Công chết. Năm 1683 nhà Thanh đánh bại Trịnh Khắc Sảng, con Trịnh Kinh, bình định xong Đài Loan là chiến lũy kháng Thanh cuối cùng. Năm 1689, vua Khang Hy nhà Thanh Nam tuần, làm tiêu tan ý chí của những người kháng Thanh ở Hoa Nam. Nhiều di thần nhà Minh ở vùng này đem hết bộ thuộc, gia đình, tài sản lần lượt di cư về phía Nam, làm thành nhiều đợt sóng di cư tỵ nạn chính trị xuống dãy đất ven biển Nam Hải: Việt Nam, Chân Lạp, Xiêm La, Indonésia, Malaysia... Năm 1679, Tổng binh Cao Châu, Lôi Châu, Liêm Châu Trần Thượng Xuyên và Tổng binh Long Môn Dương Ngạn Địch đem 50 chiến thuyền và 3.000 người vào Quảng Nam xin quy phục chúa Nguyễn. Chính quyền Đàng Trong tiếp nhận, cho Thượng Xuyên tới Biên Hòa, Ngạn Địch tới Mỹ Tho. Với kinh nghiệm hải hành và truyền thống buôn bán lâu đời, những người Hoa tỵ nạn chính trị này đã “vỡ đất hoang, lập phố xá”, thu hút thương nhân các nơi tới buôn bán, góp phần quan trọng trong việc xây dựng cơ sở vật chất ban đầu cho quá trình khai thác Nam Bộ của cộng đồng Việt Nam ở Đàng Trong. Trên phương diện giao lưu văn hóa, các đợt nhập cư với quy mô lớn của người Hoa như thế còn dẫn tới việc du nhập nhiều yếu tố văn hóa Hoa Nam vào Đàng Trong thế kỷ XVII – XVIII. Cùng với sự tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa của các tộc người khác như Chăm, Khmer, sự giao tiếp với các thương nhân Nhật Bản, phương Tây..., tình hình nói trên làm hình thành trong xã hội Việt Nam ở Sài Gòn một màu sắc đa dân tộc có kết cấu mở kiểu Đông Nam Á với phương thức phát triển hội tụ, liên tục đổi mới, năng động và trẻ trung.
Đặc biệt, cần nhấn mạnh rằng người Việt tiến vào đồng bằng Nam Bộ lúc hoạt động ngoại thương ở khu vực Đông Nam Á đang khởi sắc. Ngoài thương cảng Hội An nổi tiếng từ thế kỷ XVI, các trung tâm thương nghiệp như Hà Tiên, Vũng Tàu cũng khá phát triển, nên sau khi chính thức xuất hiện trên bản đồ Việt Nam, Sài Gòn cũng mau chóng trở thành một thương cảng lớn. Theo thời gian, thương cảng này cũng phát triển thành một trung tâm thương nghiệp trong khu vực, xuất khẩu không chỉ nông sản hàng hóa của đồng bằng Nam Bộ mà còn là đầu mối xuất khẩu nhiều lâm thổ sản của Campuchia. Tình hình nói trên cùng với mạng lưới sông rạch dày đặc ở Nam Bộ đã khiến Sài Gòn cũng đồng thời trở thành một trung tâm văn hóa và hành chính quan trọng, một đô thị lớn sánh ngang với Thăng Long và Phú Xuân. Song khác với Thăng Long và Phú Xuân vốn là trung tâm chính trị mở rộng thành trung tâm kinh tế, Sài Gòn – Gia Định là trung tâm kinh tế (thương nghiệp, thủ công nghiệp) trước rồi mới trở thành trung tâm chính trị – văn hóa: thành phố này đã hình thành theo quy luật của các đô thị tiền tư bản, tức yếu tố “thị” có trước rồi phát triển thành yếu tố “thành” chứ không phải như các đô thị phong kiến ở đó yếu tố “thành” có trước rồi mở rộng thêm yếu tố “thị”.

Khái niệm Đàng Trong

“Đàng Trong” là một thuật ngữ địa – chính trị, chỉ khu vực phía nam sông Gianh dưới quyền cai trị độc lập của các chúa Nguyễn trên đường hướng cát cứ, đối lập với chính quyền Lê Trịnh ở Đàng Ngoài. Quá trình dẫn tới việc cát cứ Đàng Trong của các chúa Nguyễn là một diễn tiến phức tạp, nên trước nay nhiều người vẫn lầm trong việc phân kỳ lịch sử, coi việc Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558 là cái mốc đầu tiên của lịch sử Đàng Trong. Thật ra không phải như vậy.
Năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Một số bề tôi của nhà Lê do Nguyễn Kim đứng đầu rút vào Nghệ An, năm 1533 lập Lê Trung tông là con cháu nhà Lê lên ngôi vua, đóng đô ở Lam Kinh còn gọi là Tây Đô, đánh nhau với nhà Mạc ở Thăng Long tức Đông Đô, sử gọi là chiến tranh Nam Bắc triều. Năm 1545, Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc là Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất hạ độc giết chết, các con của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng đều còn nhỏ nên vua Lê giao binh quyền cho Trịnh Kiểm, con rể Nguyễn Kim. Về sau Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng lớn lên, đều có tài năng, Trịnh Kiểm ghen ghét nên ám hại Nguyễn Uông. Nguyễn Hoàng sợ, nhờ chị là Ngọc Tú xin với Trịnh Kiểm cho mình vào trấn thủ Thuận Hóa. Năm 1558, Kiểm tâu với vua Lê cho Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, cũng có ý đồ bớt đi một cái gai trong triều đình Tây Đô đồng thời mượn tay quân Mạc giết Hoàng. Nhưng Hoàng giỏi cầm quân, được lòng dân nên giữ vững được Thuận Hóa. Năm 1670, lúc Trịnh Kiểm ốm nặng, Nguyễn Hoàng ra Tây Đô yết kiến vua Lê, cũng có ý “lấy lại” quyền hành từ tay Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm nhượng bộ, tâu với vua Lê cho Nguyễn Hoàng trấn thủ cả Thuận Hóa và Quảng Nam, Nguyễn Hoàng bèn đem quân về trấn.
Đến 1593, Trịnh Tùng con Trịnh Kiểm đánh chiếm được Thăng Long, Nguyễn Hoàng đem quân ra giúp, cùng đánh dẹp quân Mạc. Nhưng Trịnh Tùng sợ Nguyễn Hoàng chiếm mất địa vị của mình, nên cũng có ý lấn át. Thấy không thể tranh giành quyền bính với họ Trịnh ở cung đình, năm 1600 Nguyễn Hoàng lặng lẽ đem binh thuyền về Thuận Hóa. Trịnh Tùng hoảng sợ đưa vua Lê về giữ Thanh Hoa, để mặc quân Mạc trở lại Thăng Long, mấy tháng sau mới dám tiến chiếm lại Đông Đô. Lợi dụng tình thế Lê Trịnh phải tập trung đối phó với quân Mạc, Nguyễn Hoàng ráo riết xây dựng lực lượng trên đường hướng ly khai chính quyền trung ương. Năm 1613 Nguyễn Hoàng chết, trước khi chết trăn trối lại với con là Nguyễn Phước Nguyên rằng phải cố gắng giữ gìn đất đai Thuận Quảng để chống cự với họ Trịnh mà xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Phước Nguyên nối chí cha, ngầm nuôi ý cát cứ, không nộp thuế ra Bắc nữa. Năm 1627, Trịnh Tráng đã nhân danh vua Lê gởi một sắc dụ răn đe họ Nguyễn lỗi đạo thần tử “Mệnh lệnh triều đình, đạo làm tôi phải nên tuân thủ, Thuế má phủ huyện, tướng ngoài cõi không được tự chuyên”, còn trả lời một lá thư đe dọa của Trịnh Tráng trước đó, năm 1625 Nguyễn Phước Nguyên cũng từng gởi một lá thư lên án họ Trịnh lấn át vua Lê “Sương nghiêm dinh Liễu, tai từng nghe mệnh lệnh Tướng quân, Mây thẳm đền Phong, mắt nào thấy chiếu thư Thiên tử”. Một bên khuynh loát triều đình, một bên ly khai trung ương, nhưng đều chống đối nhau bằng cùng một khẩu hiệu chính trị tôn Lê. Năm 1627 Trịnh Tráng đưa vua Lê đem quân đánh Nguyễn, Phước Nguyên dàn quân trên sông Nhật Lệ chống lại, quân Trịnh không thắng được phải rút lui. Phước Nguyên lại theo kế của Đào Duy Từ đắp lũy Trường Dục làm phòng tuyến ngăn chặn quân Trịnh, từ đó cục diện Đàng Trong – Đàng Ngoài chính thức định hình.
Sau trận đánh năm 1627, đôi bên Trịnh Nguyễn còn liên tiếp mở sáu chiến dịch lớn tấn công đối phương vào các năm 1630, 1635, 1648, 1655, 1661, 1672, nhưng những nỗ lực quân sự để thống nhất đất nước ấy đều không thành công. Cho nên sau trận đánh năm 1672, đôi bên nghỉ binh, lấy sông Gianh làm ranh giới. Cục diện Đàng Trong – Đàng Ngoài kéo dài đến thế kỷ XVIII. Năm 1771 Tây Sơn khởi nghĩa, năm 1774 tướng Trịnh Hoàng Ngũ Phúc nhân cơ hội vượt sông Gianh, hạ Lũy Thầy, chúa Nguyễn Phước Thuần chạy vào Quảng Nam rồi Gia Định, đến 1777 bị Tây Sơn bắt giết. Nhưng Nguyễn Ánh may mắn thoát được, qua năm sau chiêu mộ quân sĩ chiếm lại Sài Gòn, mở ra cục diện chiến tranh Tây Sơn – Nguyễn Ánh kéo dài đến 1802.
Tóm lại, mặc dù năm 1627 Nguyễn Phước Nguyên mới chính thức ra mặt chống lại Lê Trịnh, cát cứ Đàng Trong, nhưng xu thế cát cứ phương Nam của họ Nguyễn đã hình thành sau khi Nguyễn Hoàng trở về Thuận Quảng năm 1600. Cho nên có thể coi lịch sử Đàng Trong bắt đầu từ 1600 và kết thúc năm 1777.

Các chúa Nguyễn Đàng Trong

Từ 1600 trở đi, chính quyền Đàng Trong có tất cả chín đời chúa, sau đây nêu tóm tắt về tên họ, miếu hiệu, thụy hiệu, đạo hiệu và năm sinh, năm lên ngôi, năm mất... của từng người:

Nguyễn Hoàng (1525 - 1613), vào Nam làm Trấn thủ Thuận Hóa năm 1558, được thăng làm Trấn thủ Thuận Quảng năm 1570, năm 1593 ra Bắc tham gia đánh Mạc, năm 1600 về Nam, tước Đoan quốc công, hiệu là chúa Tiên, năm 1744 được truy tôn là Gia Dụ Thái vương, năm 1806 được triều Nguyễn truy tôn là Gia Dụ hoàng đế, miếu hiệu là Thái tổ. Dưới đời Nguyễn Hoàng, địa bàn Đàng Trong mở rộng tới Phú Yên.

Nguyễn Phước Nguyên (1563 - 1635), lên ngôi chúa năm 1613, tước Thụy quận công, hiệu là chúa Sãi, năm 1744 được truy tôn là Hiếu Văn vương, năm 1806 được triều Nguyễn truy tôn là Hiếu Văn hoàng đế, miếu hiệu là Hy tông. Năm 1629 Lưu thủ Phú Yên Văn Phong làm phản, Phước Nguyên sai Mạc Cảnh Vinh đem quân đánh dẹp, mở đất tới phía nam Phú Yên, phía bắc Khánh Hòa, đầu tiên gọi là phủ Thái Khang, đến 1690 đổi gọi là Bình Khang.

Nguyễn Phước Lan (1601 - 1648), lên ngôi chúa năm 1635, tước Nhân quận công, hiệu là chúa Thượng, năm 1744 được truy tôn là Hiếu Chiêu vương, năm 1806 được triều Nguyễn truy tôn là Hiếu Chiêu hoàng đế, miếu hiệu là Thần tông.

Nguyễn Phước Tần (1620 - 1687), lên ngôi chúa năm 1648, tước Dũng quận công, hiệu là chúa Hiền, năm 1744 được truy tôn là Hiếu Triết vương, năm 1806 được triều Nguyễn truy tôn là Hiếu Triết hoàng đế, miếu hiệu là Thái tông. Phước Tần là người tiếp nhận nhóm Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch vào khai phá Biên Hòa và Mỹ Tho năm 1679, đặt nền móng cho việc mở mang lãnh thổ tới Nam Bộ thời Đàng Trong.

Nguyễn Phước Thái (1649 - 1691), lên ngôi chúa năm 1687, tước Hoằng quốc công, hiệu là chúa Nghĩa, năm 1744 được truy tôn là Hiếu Nghĩa vương, năm 1806 được triều Nguyễn truy tôn là Hiếu Nghĩa hoàng đế, miếu hiệu là Anh tông.

Nguyễn Phước Châu (1675 - 1725), lên ngôi chúa năm 1691, tước Tộ quốc công, hiệu là Quốc chúa, năm 1744 được truy tôn là Hiếu Minh vương, năm 1806 được triều Nguyễn truy tôn là Hiếu Minh hoàng đế, đạo hiệu là Thiên Túng đạo nhân, miếu hiệu là Hiển tông. Ngoài việc lập dinh Bình Thuận năm 1693, Phước Châu là người cử Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược Đông Phố, lập phủ Gia Định, mở dinh Phiên Trấn tức khu vực Sài Gòn năm 1698 và cũng là người tiếp nhận nhóm Mạc Cửu đem trấn Hà Tiên quy phụ năm 1708.

Nguyễn Phước Thụ (1696 - 1738), lên ngôi chúa năm 1725, tước Đỉnh quốc công, năm 1744 được truy tôn là Hiếu Ninh vương, năm 1806 được triều Nguyễn truy tôn là Hiếu Ninh hoàng đế, đạo hiệu là Vân Tuyền đạo nhân, miếu hiệu là Túc tông. Dưới đời Phước Thụ, địa bàn Đàng Trong mở rộng thêm dinh Long Hồ tức Vĩnh Long (1732).

Nguyễn Phước Hoạt (1714 - 1765), lên ngôi chúa năm 1738, tước Hiểu quốc công, năm 1744 tự xưng là Vũ vương, năm 1765 được truy tôn là Hiếu Vũ vương, năm 1806 được triều Nguyễn truy tôn là Hiếu Vũ hoàng đế, đạo hiệu là Từ Tế đạo nhân, miếu hiệu là Thế tông. Phước Hoạt là người cử Nguyễn Cư Trinh vào làm Tham mưu Ngũ dinh Gia Định để phối hợp với Đô đốc Hà Tiên Mạc Thiên Tích mở mang vùng An Giang nối liền với trấn Hà Tiên (1757), xác lập bản đồ Việt Nam ở phía nam.

Nguyễn Phước Thuần (1754 - 1777), lên ngôi chúa năm 1765, năm 1778 được truy tôn là Hiếu Định vương, năm 1806 được triều Nguyễn truy tôn là Hiếu Định hoàng đế, đạo hiệu là Khánh Phủ đạo nhân, miếu hiệu là Duệ tông. Phước Thuần lên ngôi lúc còn nhỏ tuổi, bị quyền thần là Quốc phó Trương Phước Loan lấn át, chỉ biết vui chơi, không hiểu gì về chính sự. Năm 1771 Tây Sơn khởi nghĩa, năm 1774 tướng Trịnh Hoàng Ngũ Phúc vượt sông Gianh, hạ Lũy Thầy, qua 1775 Phước Thuần chạy vào Quảng Nam rồi Gia Định, bị Lý Tài đạo Hòa Nghĩa ép phải nhường ngôi cho Đông cung Phước Dương tức Tân chính vương, lấy danh hiệu là Thái thượng vương. Năm 1777 Tây Sơn đánh vào Gia Định, truy kích Phước Thuần tới Long Xuyên thì bắt được, đem về Gia Định hành quyết ở chùa Kim Chương.
Ngoài ra, cần kể thêm một nhân vật khác là Nguyễn Phước Dương. Thế tông Phước Hoạt có 18 con trai, con thứ chín là Hạo được lập làm thế tử nhưng chết sớm, có con là Dương lúc ấy còn nhỏ, được gọi là Hoàng tôn. Năm 1775 khi Duệ tông Phước Thuần chạy vào Quảng Nam, các bề tôi đi theo xin Duệ tông lập Dương làm thế tử, gọi là Đông cung. Kế Phước Dương bị Tập Đình đạo Trung Nghĩa và Lý Tài đạo Hòa Nghĩa người Hoa trong quân Tây Sơn bắt đưa về Hội An, Nguyễn Nhạc cũng muốn mượn Dương làm chiêu bài chính trị để chống quân Trịnh và gây chia rẽ trong nội bộ chính quyền Đàng Trong nên không giết. Sau Phước Dương trốn được vào Gia Định, lúc bấy giờ Lý Tài đã theo hàng quân Nguyễn nhưng lại làm phản đem quân Hòa Nghĩa chiếm giữ núi Châu Thới chống lại quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn, Phước Dương bèn xin Duệ tông cho tới chiêu dụ. Lý Tài nhân đó làm việc phế lập, ép Duệ tông phải nhường ngôi cho Phước Dương. Đến 1777 Tây Sơn vào Gia Định, truy kích tới Vĩnh Long, bắt được Phước Dương mang về Sài Gòn hành quyết. Năm 1809 triều Nguyễn truy tặng Phước Dương là Mục vương.
Sau khi chiếm lại được Gia Định lần cuối năm 1788, Nguyễn Ánh cho xây miếu thờ các chúa Nguyễn và lăng Duệ tông. Sau khi đánh thắng Tây Sơn năm 1802, năm 1804 Nguyễn Ánh cho dời miếu các chúa Nguyễn ở Gia Định ra Huế, đến 1806 cử hành lễ truy tặng tôn hiệu rất trọng thể theo những miếu hiệu đã kể ở trên.

Các tên gọi Sài Gòn, Sài Côn, Phiên Trấn, Tân Bình, Gia Định, Phiên An...

Khi đề cập tới Sài Gòn, các thư tịch cổ có khi gọi là Sài Gòn – Sài Côn, có khi gọi là Phiên Trấn, Tân Bình, Gia Định, Phiên An... Đây là một tình hình phức tạp, nên phải căn cứ vào tính chất để phân loại các địa danh nói trên.
Sài Gòn là tên gọi một khu vực địa lý, việc tên gọi này không có ý nghĩa trong tiếng Việt cho thấy nó có nguồn gốc bản địa nhưng được Việt hóa. Sài Côn là một tên phái sinh của địa danh Sài Gòn, chỉ xuất hiện trong thư tịch chữ Hán, nhưng đó chỉ là một địa danh ảo vì Côn ở đây là một mã chữ Nôm chứ không phải mã chữ Hán, không thể đọc là Côn mà phải đọc là Gòn. Hiện tượng phụ âm đầu K/ C trong âm Việt Hán chuyển thành G/ Gh trong âm thuần Việt là một quy luật phổ biến, nên trong những trường hợp loại này, các mã chữ Hán loại Kê, Ký, Cận, Côn... đã trở thành mã chữ Nôm để ghi âm các từ Gà, Ghi, Gần, Gòn. Địa danh Sài Gòn xuất hiện từ cuối thế kỷ XVII, đại thể chỉ chung vùng đất nằm giữa cửa Cần Giờ và cửa Ba Rai lên tới biên giới Việt Nam – Campuchia hiện nay. Ngoài ra từ đầu thế kỷ XIX trong bộ phận người Hoa ở địa phương còn lưu truyền một cách ghi âm từ Sài Gòn theo âm Hoa Hán giọng Quảng Đông là Thầy Ngòn, với hai mã chữ Hán đọc theo âm Việt Hán là Đề Ngạn. Có thể coi đây là một hiện tượng tiêu biểu cho hệ thống “chữ Nôm của người Hoa” dùng ghi âm các địa danh thuần Việt, giống như “Thủ Long Mộc” để ghi âm Thủ Dầu Một, “Ná Điều” để ghi âm Lái Thiêu... Tương tự, từ Đồng Nai vốn chỉ khu vực phía nam Bình Thuận, phía bắc cửa biển Cần Giờ lên tới biên giới Việt Nam – Campuchia, có một tên phái sinh Việt Hán hóa là Lộc Dã (Dã = Đồng, Lộc = Nai) và một tên đọc theo âm Hoa Hán là Nông Nại. Năm 1799 có lần quân Tây Sơn ở Bình Định đang đêm kéo tới định đánh úp quân Nguyễn, có một con nai trong rừng chạy ra, toán đi đầu kêu lên “Nai”, toán đi kế giật mình gọi chuyền về phía sau là “Quân Đồng Nai”, những người phía sau tưởng bị quân Nguyễn phục kích hoảng sợ chạy tán loạn, không bị đánh mà tự tan vỡ, câu chuyện trên cho thấy từ Đồng Nai cũng có khi được dùng để chỉ chung cả vùng Nam Bộ.
Phiên Trấn là tên gọi một đơn vị quân sự, từ 1698 là tên một dinh (doanh) ở Nam Bộ. Từ 1744 Đàng Trong được chia làm 12 dinh và 1 trấn là Dinh Cũ (Cựu dinh) ở Ái Tử, dinh Quảng Bình ở An Trạch, dinh Lưu Đồn ở Võ Xá, dinh Bố Chính ở Thổ Ngõa, Dinh Chính (Chính dinh) ở Phú Xuân, dinh Quảng Nam ở Quảng Nam, dinh Phú Yên ở Phú Yên, dinh Bình Khang ở Diên Khánh Bình Khang, dinh Bình Thuận ở Bình Thuận, dinh Trấn Biên ở Phước Long, dinh Phiên Trấn ở Tân Bình, dinh Long Hồ ở Định Viễn và 1 trấn tức Hà Tiên. Theo định nghĩa duy danh, dinh là một phần của trấn, theo quy chế nhà Thanh ở Trung Quốc đều là đơn vị quân đội, dinh có quân số tương đương trung đoàn, trấn có quân số tương đương sư đoàn hiện nay. Nhưng như đã nói ở trên, từ thời Lê trung hưng đến đầu thời Nguyễn, các chính quyền phong kiến Việt Nam đều tổ chức theo kiểu quân chính. Cho nên có thể hiểu dinh Trấn Biên, dinh Phiên Trấn... thời Đàng Trong là các đơn vị hành chính – quân sự, các tiểu quân khu mà viên võ tướng đứng đầu cũng đồng thời là người nắm quyền tối cao về hành chính ở các địa phương.
Tân Bình, Gia Định là hai địa danh hành chính, từ 1698 Tân Bình là một huyện thuộc phủ Gia Định. Cuối thời Đàng Trong vùng Thuận Quảng được gọi là hai xứ tức hai đạo Thừa tuyên theo thể chế nhà Lê, trong đó xứ Thuận Hóa gồm hai phủ Triệu Phong, Quảng Bình, xứ Quảng Nam gồm hai phủ Điện Bàn, Thăng Hoa kiêm quản hai phủ Quảng Ngãi và Quy Nhơn, trở vào Nam còn có bốn phủ Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận, Gia Định và trấn Hà Tiên. Đối chiếu thì thấy rõ bốn phủ Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận, Gia Định có sáu dinh, trong đó riêng phủ Gia Định có ba dinh, tức tuy chỉ có hai huyện (Phước Long, Tân Bình) và một châu (Định Viễn) nhưng được tổ chức thành ba tiểu quân khu Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ.
Đến nội chiến Tây Sơn – Nguyễn Ánh từ 1778 trở đi, phủ Gia Định đặt thêm dinh Trấn Định, dinh Long Hồ đổi tên thành dinh Vĩnh Trấn. Đến 1800, phủ Gia Định được đổi làm trấn, gọi là Gia Định trấn, lãnh bốn dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Trấn Định, Long Hồ thì huyện Tân Bình cũng được thăng làm phủ Tân Bình. Đến 1808 trấn Gia Định được đổi làm thành, gọi là Gia Định thành tổng trấn, các dinh được thăng làm trấn và đổi tên, dinh Trấn Biên đổi là Biên Hòa ở phủ Phước Long, dinh Phiên Trấn đổi là Phiên An ở phủ Tân Bình, dinh Trấn Định đổi là Định Tường ở phủ Kiến An, dinh Vĩnh Trấn đổi là Vĩnh Thanh ở phủ Định Viễn, tất cả có năm trấn kể cả trấn Hà Tiên đến lúc ấy đã không còn được hưởng quy chế tự trị và thế tập như dưới thời Đàng Trong nữa. Cụm từ “Gia Định thành” trong Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chính được dùng với ý nghĩa này. Trong thực tế cho đến 1833 Gia Định thành là đại quân khu Nam Bộ của triều Nguyễn, trong đó viên Tổng trấn – Tư lệnh nổi tiếng nhất là Chưởng Tả quân Lê Văn Duyệt.
Sau khi Lê Văn Duyệt chết năm 1832, năm 1833 Minh Mạng tiến hành cải cách hành chính, chia Nam Bộ làm sáu tỉnh Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Long (tức Vĩnh Thanh đổi tên), Hà Tiên và đặt thêm tỉnh An Giang, xóa bỏ đơn vị thành để tập trung quyền lực vào tay chính quyền trung ương, bãi bỏ chế độ quân chính mà đưa văn quan vào vị trí đứng đầu bộ máy hành chính từ trung ương tới địa phương, nhưng lại có những hành động đe dọa một số tướng sĩ thân tín của Lê Văn Duyệt nên đã trực tiếp gây ra vụ binh biến của Lê Văn Khôi. Năm 1835, quân triều đình đàn áp được quân Lê Văn Khôi, phá thành Phiên An, xây thành Gia Định nhỏ hơn trước, lại đổi tên tỉnh Phiên An thành tỉnh Gia Định. Từ đó trở đi, Gia Định từ chỗ là tên gọi chung của toàn vùng Nam Bộ trở thành tên gọi hành chính chính thức của một trong Lục tỉnh Nam Kỳ, tình hình này kéo dài đến cuối thế kỷ XIX. Qua thế kỷ XX, chính quyền thuộc địa Pháp thành lập tỉnh (province) Gia Định và thành phố Chợ Lớn bên cạnh thành phố Sài Gòn, làm hình thành cụm Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định trên bản đồ hành chính Nam Kỳ thuộc địa cho đến Cách mạng Tháng Tám 1945.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.10.2008 08:05:21 bởi lyenson >
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9