Lập đông -Trùng Dương HẾT
CTT 17.10.2008 01:12:07 (permalink)
Tập truyện
Lập đông
Tác giả: Trùng Dương
Xuất bản năm 1972.
Nguồn: talawas
 

"… Ngày này khoả lấp ngày khác, mỗi ngày qua đi với công việc chưa hoàn tất, những cái phải làm, những nơi phải đến, những người phải thăm, những lời phải nói, mỗi cá nhân tự nó là cái gì chưa hoàn tất, không thể hoàn tất, không thể hoàn tất ngay khi nó vừa được sinh ra..."

William Saroyan (One Day In the Afternoon Of the World)


Đôi dòng tiểu sử

Trùng Dương tên thật là Nguyễn Thị Thái, sinh ngày 15-4-1944 tại Sơn Tây. Sống ở Hải Phòng từ 1947, đến 1954 theo gia đình di cư vào Nam. Khởi sự vào đại học từ 1962 qua các phân khoa Luật, Kiến trúc. Nhập tịch làng văn từ 1965. Đã cộng tác với các báo Bách khoa, Văn, Dân chủ, Đời, Thần phong, Sóng thần, các đài VTVN, THVH, v.v. Hiện sống tại Sài Gòn.

Tác phẩm văn xuôi: Vừa đi vừa ngước nhìn (Khai Trí, 1966); Mưa không ướt đất (Văn, 1967); Cơn hồng thuỷ và bông hoa quỳ (Trình Bày, 1968); Chung cư (Tân Văn, 1971); Một cuộc tình (Tân văn, 1972); Thành trì cuối cùng (Đại Ngà, 1972); v.v.

Tác phẩm dịch: Ngàn cánh hạc (dịch Kawabata Yasunari, Trình Bày, 1969); Người đàn bà trong cồn cát (dịch Kobo Abé, An Tiêm, 1971); v.v.


*

Lập đông

1.

Cuộc tranh luận ngưng lại nửa chừng khi một người trong bọn chợt ngoảnh nhìn ra ngoài trời kêu lên:

"Trời sắp mưa! May quá..."

Không ai hiểu tại sao chữ "may quá" lại được thốt ra. Cũng chẳng ai buồn tìm hiểu. Họ cùng im lặng và ngước nhìn trời. Từng cụm mây đen vần vũ, như một đàn quân hung bạo lùa gió đập vào những tia nắng quái buổi chiều. Một vài người trong bọn đứng dậy cáo từ nói chạy đi có việc. Những người còn lại ngồi đợi cơn mưa tới, có lẽ vì họ cũng chẳng biết đi đâu, làm gì.

Những buổi chiều như nhau. Ngần ấy khuôn mặt vây quanh một chiếc bàn nhắc lại những tin tức xảy ra trong ngày mà ai cũng đã đọc qua hay nghe thấy, biết được. Ngần ấy vấn đề đưa ra không lối thoát. Thời tiết đôi khi cũng thay đổi phần nào câu chuyện bằng vào những hồi tưởng, những mơ ước về một đôi chuyến đi xa vẫn hoài mộng chưa thực hiện được (với ý nghĩ: miễn là ra khỏi thành phố này). Như buổi chiều hôm nay với cơn mưa gọi mùa đông trở về trong trí tưởng.

"Thèm làm một chuyến đi xa ghê. Hôm nào phải tổ chức đi một tuần cả bọn chứ?"

"Một tuần ít quá. Nửa tháng mới đủ".

"Thì cứ đi, nửa chừng, người nào muốn về cứ việc lẳng lặng về, người nào muốn ở lại thì ở lại".

"Đi vài ngày thì cũng phải thu xếp công việc cả tuần trước…"

"Đi thì phải đi có đôi, chứ đi một mình hay mấy thằng với nhau, chán bỏ mẹ!"

"Mỗi kỳ lập đông mình đều có một kỷ niệm, không biết kỳ này có gì đây?"

"Lập đông! Miền Nam làm quái gì có tiết lập đông mà đòi!"

"Thì cứ tạm cho là như vậy đi. Chết ai chưa? Sao khó vậy?"

"Người ta thường ở một chỗ và nghĩ và thèm về một chỗ khác…"

"Lập đông! Nhớ những ngày lập đông ở ngoài kia chi lạ…"

Nàng cảm thấy ngột ngạt. Ngột ngạt bởi nhiều cái một lúc. Bởi không khí đầy khói thuốc và tiếng người trong quán được vây phủ bằng những khung cửa kính. Bởi những điều đã được nhắc đi lặp lại nhiều lần. Bởi những khuôn mặt thân yêu mà quá quen thuộc. Bởi một thứ tình yêu câm nín đến mơ hồ. Bởi cuộc sống nặng nề đôi khi, ngờm ngợp đôi khi, huyền bí đôi khi… Bởi những linh hồn uất nghẹn hờn tủi theo gió vật mình vào cây cối bên ngoài khung cửa kính nhìn bọn người sống như những hình nhân đã chết song đầy đủ yên ấm bên trong, dù cùng chung những uất nghẹn hờn tủi mang mang. Bởi sự tù hẹp nơi đây. Bởi những chân trời, những bờ bến lạ bên ngoài những đường biên giới. Bởi những chốn đã biết. Bởi những nơi đã cảm thấy mà chưa được đặt chân, chưa được khám phá. Bởi sự giới hạn của kiếp người và sự không cùng của cuộc sống.

Nàng vừa cảm thấy trống rỗng, vừa cảm thấy ứ đầy.

Nàng dời bàn đứng dậy như người sống trong cơn mộng du, như kẻ vừa nhấp ly rượu mạnh; dù sự tỉnh táo đến trong suốt.

Trời sắp mưa, đi đâu bây giờ?

Nàng cười lắc đầu, cáo từ, không giải thích.

Gió thổi tung mái tóc quện vào mặt, vào cổ nàng. Gió thổi tung những tà áo quện người vào ống chân nàng. Nàng không tỏ ra một cố gắng chống trả giữ gìn mà buông dài thả lỏng thân thể tâm hồn trong không gian. Nàng thầm nghĩ nếu mình cứ tiếp tục như thế này liệu mình có được bay bổng như mây, hay ít ra được như cành lá khô bay lả tả vì bị cuốn hút trong hơi gió? Dường như mình đã cười, mà không thấy phải cố gắng vận dụng đến những bắp thịt ở trên mặt. Dường như mình đã bước mà không phải cố gắng vận dụng đến lớp thần kinh trên óc sai khiến cho bắp thịt dưới chân làm việc.

Một chiếc lá khô lìa cành…
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.11.2008 00:17:30 bởi CTT >
#1
    CTT 17.10.2008 01:15:24 (permalink)
    2.

    Người mẹ mở cửa thấy nàng, kêu lên:

    "Đi đâu mà ướt nhẹp thế này? Sao không trú ở đâu đợi ngớt mưa rồi hãy về? Lại cảm cho mà xem".

    Nàng lấy khăn tắm rồi vào phòng tắm, sau khi nở một nụ cười cho mẹ an lòng.

    Tôi muốn bé lại năm, mười tuổi, hay hơn thế nữa, dù tôi vẫn không ngớt yêu hiện tại đau thương, với những bạn bè, người yêu, bế tắc, mâu thuẫn, say sưa, tỉnh táo, khát vọng, sự tù túng, ngột ngạt và ý nghĩ về những bờ bến lạ. Để sự săn sóc của mẹ trọn vẹn. Để tôi không cảm thấy sự săn sóc hiện tại của mẹ là vô ích, bởi cái đối tượng săn sóc là tôi chẳng đáng gì, chẳng đáng gì với những điên rồ, vô lý, mâu thuẫn, mơ hồ. Như cành lá khô mà, tôi đã giả đóng vai trong cơn mưa buổi chiều vừa qua.

    Con đã dầm mình trong mưa và nghe tiếng cười tưởng tượng như muốn phá vỡ thân thể mình, mẹ ạ. Phải thấy rằng mình muốn vỡ tung đến nơi, mới thấy được sức chịu đựng đồng nhất của những chất đã cấu tạo nên thân thể mình – Ôi cái thân thể tội nghiệp mà lì lợm của tôi ơi, ôi mẹ ơi, người đã ban cho con một thân thể, người đã cho thức ăn cho cái thân thể đó phát triển nảy nở đến cái mức tối đa của nó. Con đã quên cái ơn đó trong bao lâu rồi nhỉ?

    Mãi đến buổi chiều hôm nay, đứng giữa trời mưa, con chợt nhận ra điều đó. Do đâu, con đã tự hỏi.

    Dường như con đã nhìn thấy một cánh lá khô rời cành, đảo lộn nhiều vòng trong gió bị mưa quất rạp nhiều phen, và cuối cùng thì cánh lá đặt mình nằm yên dưới gốc cây, kẹt trong một đám rễ khiến những dòng nước không cuốn trôi nó đi được nữa, và gió cũng không có cách nào nhấc bổng nó lên được nữa. Con bắt gặp mình suy nghĩ… Rễ cây đã đem nhựa sống cho lá, lá phát triển đến khi khô héo rụng xuống cội. Và con thấy rằng phải trở về, phải trở về. Dường như con đã nhớ một lần mẹ đã nói với con với một giọng hết sức bình thản, đầy vẻ chờ đợi: Mẹ sống giỏi lắm là năm bảy năm nữa mà thôi… Con mơ hồ, lúc đó, thấy một cái gì cựa mình thức giấc trong con. Cho đến khi dầm mình trong cơn mưa chiều nay, con hiểu cái đó là cái gì rồi. Đó là sự chết chờ đợi ở ngưỡng cửa cuộc đời mà lâu nay tuổi trẻ đã làm con quên đi mất, mà những băn khoăn tìm kiếm đã làm con xao lãng đi mất; cũng như những lúc con đã tự hủy hoại thân thể mình bằng yêu đương, suy nghĩ, nổi loạn, bằng thuốc lá, rượu, cà-phê, thức đêm, bằng những dự tính trời biển để rồi đối mặt với thực tế ngạo mạn, bằng sự hờ hững đối với thân xác đã nhiều lần được mẹ chăm lo, bú mớm, chải chuốt, vuốt ve.

    Người mẹ ngạc nhiên thấy người con gái, trong bộ đồ ngủ, đến ngồi bên chân mình, dúi tóc vào đầu gối mình, tựa như ngày nó còn bé tí teo, và cất tiếng hỏi mình những câu mà ngày xưa mình vẫn thường hỏi nó.

    Mẹ cần gì, mẹ? Mẹ muốn gì, mẹ? Mẹ có ao ước gì không mẹ?

    Không, mẹ chẳng cần gì nữa. Không, mẹ chẳng muốn gì nữa. Và mẹ chẳng còn ao ước gì nữa. Chỉ có cơn bệnh tê thấp làm mẹ khổ sở. Chẳng người già nào tránh khỏi. Mẹ chấp nhận như thế…

    Chỉ có vậy thôi sao, mẹ?

    … Còn con, con đã tự tạo lấy cuộc sống của con, con đứng vậy, nhưng làm sao mẹ biết được con có được sung sướng trong cái thế đứng mà con thường nói là ích kỷ, là không ràng buộc, là mơ hồ với những lúc con bỗng trở nên xa vắng buồn bã…

    Mẹ đã thấy hết mọi sự rồi đó. Con muốn khóc…

    Tại sao?

    Con không biết được. Có thể vì những điều mẹ vừa nói. Có thể vì nỗi xúc động khi con ngồi bên chân mẹ đây mà tưởng như hai mươi mấy năm đã qua, mọi sự không thay đổi là bao – có lẽ vì đã thay đổi quá nhiều… Con bỗng thấy mình như nhỏ lại, như trở nên mỏng manh tựa một đứa hài nhi.

    Chính đó cũng là điều mà mẹ mơ ước: tất cả các con nhỏ lại, trở thành những đứa hài nhi, dù cho mẹ có vất vả chăm lo cho tất cả trở lại, cũng được, mà mẹ còn vui sướng là đằng khác. Vì ít ra, ít ra, khi các con còn nhỏ, mẹ còn biết được các con mẹ muốn gì, cần gì, sữa và tình thương, lúc nào mẹ cũng sẵn… Bây giờ có nhiều cái các con cần mà mẹ không sẵn, không có, không biết tìm đâu ra… Con đã khóc rồi đó…

    Vâng lúc nãy, khi con dầm mình dưới mưa, con đã muốn khóc vùi. Nhưng con đã không khóc được… Bây giờ, con khóc được, và con cũng chẳng thấy cần phải ngăn giọt lệ của mình lại nữa.

    Lại đây, con gái mẹ, lại đây. Ít ra lúc này, mẹ thấy mình cần thiết đối với con. Lòng mẹ đây, con hãy gục vào và khóc cho hết nước mắt, cho vơi phiền muộn…


    3.

    Cuộc tranh luận ngừng lại nửa chừng. Họ chờ một cơn mưa. Nhưng cơn mưa chiều hôm trước không trở lại. Và tiết lập đông trở về trong trí tưởng của họ, của nàng, với cơn nắng làm se môi của ngày.



    *

    Mặt trời tháng Tư

    Trời lúc này nóng quá, mỡ anh có chảy ra không?

    Tiếng cười bật ra từ chiếc miệng hầu như bị mất hút giữa khuôn mặt nhiều thịt. Cả thân thể người đàn ông rung lên tưởng như phát ra tiếng chuông kêu leng keng – tiếng chuông cà-rem của những người đi bán dạo giữa trời nắng.

    Vậy mình vào trong phòng tôi nói chuyện. Có máy lạnh.

    Ồ, tôi ghét máy lạnh. Thật ra trước hết vì tôi ghét sự bít bùng của nó. Tôi không than phiền trời nóng. Tôi chỉ nhận xét. Tôi thích nó là đàng khác. Tôi muốn nói thật ra chưa có năm nào tôi ý thức là trời nóng bằng năm nay…

    Người con gái muốn nói khác: Thực ra chưa có năm nào tôi ý thức là tôi thèm muốn bằng mùa nóng năm nay – thèm muốn một thân thể đàn ông trẻ, rắn chắc, đầy sinh lực và bền bỉ, nhất là bền bỉ.

    Nàng kìm giữ lại kịp câu nói. Chẳng ích gì khi nói với người đàn ông ngồi trước mặt về điều đó. Chỉ khơi dậy cuộc tranh luận mà nàng không thú vị gì khi cặp mắt gã nhìn nàng say đắm. Nàng không ưa cái thân thể mập mạp của gã. Nàng sẽ chết mất, nàng thầm nhủ. Nhưng mỗi lần thấy muốn tâm sự, nàng thường đến gặp gã. Nàng thường gọi đùa gã là nhà phân tâm học và tự nhận mình là một bệnh nhân mắc bệnh tâm trí. Dầu sao gã cũng hơn nàng trên mười tuổi. Dầu sao gã cũng là đàn ông, gã bảo thế. Tôi mê tất cả mọi cái ở cô. Nhưng nàng, nàng chỉ muốn gã đóng trọn vẹn vai trò nhà phân tâm học. Điều đó có vẻ tàn nhẫn. Nhưng không phải chính gã yêu cầu được gặp nàng, nói chuyện với nàng đấy ư? Không phải chính gã bảo mỗi lần gặp nàng gã cảm thấy tươi mát thoải mái hẳn lên đấy ư?

    Cô biết nhiệt độ hôm nay bao nhiêu không?

    Ồ, lại những con số. Người xứ các anh lúc nào cũng chỉ nói đến con số. Tôi không ngạc nhiên khi mỗi buổi sáng đều có mục tin tức khí tượng trên đài phát thanh và truyền hình ở xứ anh. Tôi cũng không ngạc nhiên ở mỗi toà nhà cao, mỗi góc phố ở xứ anh đều có một cái đồng hồ ghi nhiệt độ trong ngày và giờ giấc. Các anh bị con số tỏa vây. Các anh có biết rằng các anh đã tri thức sự nóng lạnh hơn là cảm thấy bằng xúc giác không? Tôi có cảm tưởng đôi khi các anh lạnh không vì cảm giác các anh bảo thế mà vì những con số bảo các anh như thế, và như vậy nữa với sức nóng. Tôi cóc cần đến con số. Và đôi khi, tôi thích cảm thấy lạnh hoặc nóng hơn cả những con số của các anh bảo tôi.

    Nhưng cô bạn nhỏ của tôi ơi, cô cũng phải thông cảm cho xứ tôi, ở đó, thời tiết thay đổi bất thường, cô đã sống hẳn biết, mới ấm áp đấy mà đã trở lạnh rồi tuyết rơi lúc nào… và ngược lại. Còn ở đây thời tiết giống nhau quanh năm…

    Tôi không nghĩ như vậy. Thời tiết ở đây cũng có thay đổi đấy chứ, sao không? Có một sự thay đổi thời tiết từ mười bốn, mười lăm năm nay… Nói theo tâm tình người xứ tôi thì có sự thay đổi thời tiết vì sự hiện diện của những người di cư, của chiến tranh, của bom đạn, của biến cố… Sao không nhỉ?

    Tuy nhiên nàng vẫn nghe một cái gì ngậm ngùi tiếc nuối thế nào về một miền quê hương xa xôi có mùa xuân mưa phơi phới, có mùa hè đi tắm hồ sen và lăn mình trong đám cánh sen mẹ tước bỏ lấy nhụy ướp trà, có mùa thu gió hiu hắt và có tiết lập đông lục tìm áo năm trước mặc để thấy mình lớn hơn một chút với tấm áo ngắn cũn cỡn. Hơn mười năm sống trong thành phố nhiệt đới này, sức nóng của nắng lửa vờn phủ lấy da thịt con gái dậy thì rồi đàn bà, cái sức nóng ấy như tiếp thêm sinh lực cho những khát vọng sôi sục bên trong. Những ngày cũ lùi xa, thật xa, cùng với cô bé tóc thắt bím suốt ngày chỉ nhảy lò cò, chơi nhảy dây và đọc những chuyện thần thoại cổ tích. Cả những ảnh chụp ngày xưa cũng chẳng được lưu giữ để đôi khi giúp cho trí nhớ trôi về thuở ấu thời trong cái quê hương bốn mùa. Như những câu chuyện thần thoại thường được nghĩ đến, mơ về, hơn là có thể kể ra.

    Dầu vậy cái nhìn của gã vẫn làm nàng hơi khó chịu. Nhưng nàng vẫn đến đây. Dường như trong sâu xa của tiềm thức, mỗi lần đến gặp gã, nàng tưởng như xa lánh được phần nào những người bạn đồng hương, đồng mối lo âu, đồng sự mệt mỏi. Nàng thường nói thẳng những gì nàng nghĩ với gã, những điều làm nàng đau đớn ray rứt và cả những tuyệt vọng tin tưởng – những điều đôi khi làm các bạn nàng nghĩ là nàng đang cố gắng một cách vô ích. Họ dường như yêu mến sự buông xuôi, thích thú với sự chán nản. Nàng thì nàng mơ hồ thấy còn có một cái gì khác kia.

    "Tại sao cô ngồi thừ ra thế?"

    "Tôi suy nghĩ".

    "Cô suy nghĩ gì vậy?"

    Nàng chợt bật cười: "Về câu chuyện thời tiết vừa rồi giữa anh và tôi. Làm như anh và tôi vừa quen nhau không bằng".

    Họ cùng bật cười. Nàng lại có cảm tưởng có người bán cà-rem dạo đâu đó quanh đây. Leng keng. Leng keng. Những buổi trưa nồng nực với giấc ngủ đứt quãng, tiếng leng keng nghe dường như một tiếng gọi có phần nào tức tưởi. Nàng thường thức giấc và nằm nghe trong im lặng với một thèm khát thoát ra từ một giấc mơ nào đó, người ướt đẫm mồ hôi và hơi nóng hoả lò đổ xuống từ mái nhà, từ chiếc quạt điện, từ dưới tấm nệm cao-su nàng nằm tỏa vây lấy nàng như người xứ gã bị tỏa vây bởi những con số tiện nghi, những máy móc, những xa lộ mà một khi bước vào bắt buộc phải đi đến cuối đường không thể bỏ cuộc…

    Gã con trai chỉ hơn nàng một tuổi. Nàng không ngạc nhiên về điều đó. Nhưng nàng ngạc nhiên vì cái cảm tưởng mình còn quá trẻ cách đây bốn, năm năm bây giờ vẫn còn ám ảnh nàng. Chợt thấy mình đã sống qua một phần tư thế kỷ – nghe cũng nhiều đấy chứ. Nhưng nàng tự cảm thấy một niềm kiêu hãnh ngầm về tuổi trẻ của mình. Nàng yêu nó. Lạ kỳ là đôi khi nàng thấy rõ ràng đó là một báu vật. Như biển cả. Như trời cao. Như gió lộng. Như mặt trời. Như trăng sao. Như cây cỏ.

    Nàng nhớ đã gặp gã trong một phòng trà vào một ngày cuối năm. Giữa sự bít bùng vì hơi người, vì tiếng nhạc, vì khói thuốc, vì dĩ vãng của nàng, của người đàn ông nàng đi chung tối hôm ấy. Gã là bạn của người đàn ông ấy. Những trao đổi không có gì đặc sắc. Gã có vẻ thoải mái làm một kẻ cô độc. Nhiều lúc nàng cũng thích như vậy.

    Rồi đột ngột vào một buổi sáng tháng Tư - tại sao lại là tháng Tư nhỉ? - gã đến tìm nàng. Gã bảo tôi đọc bài người ta phỏng vấn bà – gã gọi bà, một cách xưng hô thông thường giữa những người bạn trẻ, thay vì gọi tên, gọi em, gọi chị, gọi cô thôi ấy mà – trên báo. À, cái cuộc phỏng vấn mắc dịch ấy, nhưng cũng thú vị lắm đấy chứ. Người ta phỏng vấn tôi như người ta có thể phỏng vấn bất cứ ai, việc đó người ta đã làm, về quan niệm đối với cái liên hệ giữa những đàn ông và người đàn bà.

    Tôi đọc bài đó do một sự tình cờ, bà biết không. Tôi ghét đọc sách báo lắm. Thật đấy. Nhưng điều đó không ngăn cản việc tôi đến tìm bà, thay vì có thể viết thư. Vì viết thư tôi cũng ghét lắm.

    Vậy ông yêu cái gì? – Nàng cũng xưng hô như gã, một cách giản dị, thay vì gọi anh, gọi tên (thực ra nàng quên khuấy tên gã), vậy thôi mà – Nghề đi thả bom thiên hạ của anh, chắc?

    Nói thế cũng được. Mỗi người phải có một việc làm. Điều cần là yêu cái việc làm đó. Đam mê nó – như bà vẫn thích dùng chữ đó. Đam mê. Và hồn nhiên – dường như đó cũng là một chữ nữa mà bà hay dùng.

    Chính nàng đưa ra đề nghị đi chơi buổi tối. Gã đến trước giờ hẹn năm phút. Bên trong cửa kính văn phòng nàng thấy gã đi xe qua rồi vòng trở lại và đậu xe đợi nàng. Nàng thu xếp vật dụng rồi ra gặp gã. Nàng nghĩ trong đầu trông gã có vẻ một sinh viên hơn là một phi công. Và nàng chợt thấy kỳ cục vì cái việc gã đến tìm nàng chỉ vì cái quan niệm sinh lý mà nàng trả lời trên báo trong một cuộc phỏng vấn tập thể. Liệu có người đàn ông nào khác tìm đến những người đã trả lời khác nàng (những câu trả lời chẳng hạn như: "Câu hỏi gì mà kỳ cục?!"; "Tôi chẳng bao giờ nghĩ về chuyện đó hết!"; "Cần phải có hôn nhân như một cái bỏ bao bọc chuyện đó, nếu không nó chỉ là một cái tội lỗi, ghê tởm!"; "Giêsu Ma lạy Chúa tôi! Tại sao ông có thể đặt một câu hỏi như vậy với một người tu hành như tôi?!"; "Nam mô A di đà Phật. Tôi chỉ nghĩ đến việc diệt dục!"; v.v.)?

    Anh đến sớm năm phút.

    Tôi thường đến sớm hơn giờ hẹn vì bị ảnh hưởng ông già tôi. Mỗi lần mời khách đến nhà, ông bắt chúng tôi phải xong xuôi mọi thứ từ nửa giờ trước. Riết rồi quen.

    Tôi không bị ảnh hưởng gia đình, nhưng thường khi cũng đúng giờ. Nàng nói. Tôi ghét bị thúc hối, ghét sự vội vã.

    Họ đi ra một quán ăn ngoài xa lộ. Trời cao. Gió lộng. Sao lấp lánh. Và trời vẫn cao, gió vẫn lộng, sao vẫn lấp lánh, khi gã và nàng nằm dài trên bãi cỏ trước cửa nhà của cha mẹ gã. Nhưng dường như trời cao hơn, gió lộng hơn, sao lấp lánh hơn khi nàng vừa từ khung trời hẹp, gió nóng, sao mờ vì khói xe của thành phố, thoát ra đây. Cũng vẫn nụ hôn nàng trao đổi với những người con trai khác. Cũng vẫn niềm rạo rực cơ thể ấy bên dưới những vuốt ve. Nàng ngạc nhiên về chính vẻ không ngạc nhiên gì của mình, về cái liên hệ thật xa lạ và thật thân thiết đó. Nàng cũng ngạc nhiên về cái cảm giác bao giờ cũng sẵn sàng sống dậy và được gọi tên, được lặp lại nhiều lần. Và nàng ngạc nhiên về sự giống nhau của thân thể những người đàn ông đã đến với nàng. Nàng chỉ không chịu được sự hung bạo quá đáng, và ngược lại, sự vụng về, sự thiếu tế nhị quá đáng. Thế thôi.

    Nửa đêm nàng thức giấc. Căn phòng bít bùng, tối đặc. Nàng chợt hiểu nàng không đang nằm trong căn phòng quen thuộc mọi hôm. Nàng hiểu nàng đang nằm bên cạnh gã phi công trẻ. Tiếng thở đều đặn của gã hòa với tiếng u u của chiếc máy lạnh gắn ngay phía trên chỗ nàng nằm. Vậy mà mồ hôi vẫn ra ướt hết tóc nàng. Da thịt nàng sâm sấp nóng. Nàng thấy nhớ căn phòng ở nhà, với những đêm chợt thức giấc nhận thấy căn phòng được chiếu sáng lờ mờ bởi ngọn đèn đường rọi qua song cửa sổ mở rộng để đón khí mát ban đêm, hoặc một đôi khi để lọt ánh trăng màu ngà quái dị gợi một cuộc viễn mơ…

    Buổi sáng gã phi công đưa nàng về thật sớm. Đường phố ngập những người vội vã tất tả vẻ mặt còn ngái ngủ. Nàng bật cười thầm với ý nghĩ mình đang đóng vai người vợ được chồng đưa đi làm trước khi về đi bay. Nàng nghĩ đến những buổi sáng nhàn tản bên bờ một bãi biển hay dưới một ngọn đồi thông nào đó. Rồi nàng lại thấy mình chìm đi giữa những tiếng động cơ nóng nảy. Phía trước gã phi công chợt văng tục vì một ông già luýnh quýnh giữa đường không biết tránh xe bên nào. Gã có vẻ mệt. Tối hôm qua gã kể cho nàng nghe câu chuyện một gã phi công bạn gã đã bỏ mình trong một chuyến bay vì đêm trước làm ái tình hơi nhiều. Nàng bảo tôi cũng đã nghe chuyện đó. Tôi nghĩ cái thành phố chúng ta đang sống khá nhỏ để một người có thể nghe kể nhiều lần về một đề tài. Đôi khi sự quen thuộc đó thật dễ thương. Đôi khi đó là một ám ảnh. Dù sao mình đã sống ở đây. Nàng bỏ lửng câu nói. Thực ra gã hôn nàng để nàng đừng nói nữa. Khi gã ngưng hôn nàng, nàng cười nhỏ trong ngực gã khi xô nhẹ gã ra. Tôi đâu muốn anh chết trong chuyến bay ngày mai. Gã phì lên cười coi như chuyện đó không thể xảy ra với mình. Buổi sáng gã kêu mệt dù họ đã hạn chế đến mức tối đa. Gã bảo đêm qua lúc bà thức tôi biết chớ nhưng tôi không chiều bà được, tôi xin lỗi. Nàng cười nhẹ, thực ra đêm qua khi thức giấc tôi hơi ngạc nhiên vì thấy mình nằm bên cạnh bạn. Tôi muốn xác định cái thực tại đó, vậy thôi.

    Con hẻm nhỏ ngập nắng bụi và người. Những người đàn ông đàn bà trẻ con lao xao đứng thành vòng tròn xung quanh ngôi nhà lầu hai tầng. Một vài nhân viên cảnh sát đứng phía trước giữ trật tự. Một trong những nhân viên cảnh sát tay cầm một khúc gỗ sơn loang lổ bị mọt ăn một đầu có lẽ vừa rút ra từ một hàng rào cũ nào đó sẵn sàng phang mạnh kẻ nào tò mò muốn đến sát trước cửa căn nhà đang bị vây kín. Những khuôn mặt vừa tới vòng ngoài ngơ ngác không biết chuyện gì đã xảy ra. Nét hãi hùng lẫn tò mò hằn trên nét mặt những người vòng trong.

    Căn nhà hai tầng ở sát bên căn nhà đối diện với nhà nàng. Không thể đưa xe vào nhà, nàng đem xe đến gửi trước cửa căn nhà trong ngõ có gã con trai mỗi lúc nàng đi qua trước nhà đều ngó nàng chằm chặp. Gã có vẻ một sinh viên với cặp kính trắng dày cộm và thường mặc pi-da-ma đứng ở cửa. Lần đầu tiên, từ ngày nàng đến ngụ tại xóm này nàng hỏi gã chuyện gì đã xảy ra. Gã đáp trong miệng như chính gã cũng không hiểu rõ chuyện gì đã xảy ra. Dường như có người vừa bị giết chết. Nàng hỏi ai giết ai. Gã lắc đầu. Người đàn bà có lẽ là mẹ gã cũng không hiểu gì hơn. Nàng nghe tiếng lao xao của mấy đứa nhỏ mình trần sạm đen vì nắng chạy tới chạy lui miệng kêu máu đó máu đó. Nàng rẽ đám đông chạy về nhà, băng qua khoảng trống trước căn nhà hai tầng bị gác trước cửa vương vãi vài miếng vải bị rách màu đỏ. Những tiếng bàn tán không rõ rệt. Mặc cho trời nắng nẩy đom đóm mắt, bọn người hiếu kỳ tới bu quanh mỗi lúc một đông. Bụi mù quấn lấy những thân thể nhễ nhại mồ hôi và hơi người. Chiếc xe Honda của người chị buổi trưa đi làm ghé nhà ăn cơm được đem vào bên trong hàng rào. Đẩy được cánh cửa hàng rào sắp bải ra vì bị sử dụng nhiều, nàng vào nhà đụng mặt với những khuôn mặt thân nhân bàng hoàng. Chị người làm kêu lớn đóng cửa lại mau, đóng cửa lại mau. Như thể kẻ sát nhân còn lẩn quất đâu đây có thể lọt vào nhà không bằng.

    Bữa cơm trưa nguội ngắt tẻ nhạt với tiếng ồn ào bàn tán phía trước. Nàng uể oải ăn. Chị người làm đi ra phía trước nghe ngóng rồi trở vào nhà ngồi bệt xuống bên cơi trầu.

    Thằng đó hay thiệt. Nó vào nhà vặn bích-cớp thiệt lớn rồi giết hai người. Cái nhà bà Tàu mập mạp trước bán bánh cuốn ngoài chợ đó. Chết rồi. Thấy mà ghê. Sợ thiệt.

    Chị ta nhét miếng trầu vào miệng nhai rắc rắc, con mắt còn lại nhướng lên ngóng ra ngoài, con mắt chột dường như cũng cố mở lớn hơn dù đã bị díp chặt lại, do một cơn bệnh đậu mùa từ hồi chị ta còn nhỏ.

    "Nhưng mà ai giết mới được chớ?"

    "Thằng bận đồ lính".

    "Bắt được không?"

    "Đâu bắt được".

    "Sao bảo hai người bị giết?"

    "Thì hai người. Với con cháu gái nữa".

    "Bao lớn?"

    "Mười hai, mười ba tuổi gì đó. Hai dì cháu vẫn ngồi chơi trước nhà mỗi buổi chiều đó".

    "Đâu nhớ mặt. Bị giết bằng gì?"

    "Súng".

    "Bộ không ai nghe có tiếng nổ sao?"

    "Ai mà để ý. Nó để bích-cớp lớn quá xá cỡ. Bà ấy còn rót nước cho nó uống nữa cơ mà. Chắc quen. Cái cốc giấy còn liệng ngoài kia".

    "Mà sao giết mới được chớ?"

    "Ai biết được".

    "Giết hồi nào?"

    "Hồi mười hai giờ hay gì đó".

    Những câu trao đổi đứt quãng không gợi nổi hình ảnh người đàn bà Tàu và đứa cháu gái vẫn ngồi hóng mát trước cửa nhà mỗi buổi chiều.

    "Chị vặn giùm cái quạt cái. Sao tắt đi vậy?"

    "Tắt hồi nào đâu hay. Chắc mất điện".

    "Tủ lạnh còn chạy mà. Nóng quá. Họ còn tụ họp trước nhà làm chi vậy?"

    Chị người làm cắm quạt xong lại bỏ ra cửa ngóng.

    Ăn cơm xong, nàng ra trước cửa đứng nhìn đám đông bên ngoài hàng rào. Nàng nghĩ đến chiếc xe gửi trước nhà gã sinh viên. Nàng thấy cần phải đem gửi nhà một người quen gần đó hơn là bỏ trước cửa nhà đó. Nàng vào nhà lấy chìa khóa, mở cửa hàng rào băng qua đám đông lóng ngóng trước nhà người đàn bà Tàu. Nàng vẫn không hiểu bọn người tụ họp trước cửa nhà người đàn bà Tàu để làm gì. Dường như xác của hai người đã được đem vào nhà thương theo lời chị người làm rồi mà.

    Nàng lên lầu nằm. Căn gác nóng hầm hập. Chiếc quạt của cô em gái nhờ mua trong P.X. để lại cũng không đủ xua hết hơi nóng. Chị người làm bỏ bát đĩa chưa rửa lên ban-công đứng nhìn xuống cho rõ. Nàng nằm mắt rảo hoảnh. Bỗng dưng hình ảnh người đàn bà một buổi trưa cách đây mấy hôm đứng nhìn cột khói đen lùi lũi từ phía sau ngôi nhà đối diện nhà họ bốc lên, miệng van cho gió đừng thổi cột khói đó về phía nhà họ, hình ảnh đó hiện ra trong đầu nàng. Chị người làm trở vào nhà nói ghê thiệt, nó lại biết cả vặn bích-cớp thiệt lớn để đừng ai nghe tiếng súng. Kinh khủng quá.

    Trời nóng người ta dễ nổi khùng. Nàng nói. Chuyện đó thật giản dị. Vụ án mạng thứ ba trong cái tháng này. Nàng nói câu sau này như thể nhẩm tính một mình.

    Nàng chợt ngạc nhiên khi bắt gặp mình suy nghĩ về sức nóng. Nàng biết trời cũng sắp mưa rồi mà.

    Có tiếng xe lùi vào hẻm và tiếng ồn ào dữ dội bên dưới.

    Nàng rời giường nằm ra ban-công nhìn xuống. Bọn người bị đẩy dạt về một phía, cửa phía sau xe cứu thương được mở ra để lộ một chiếc hòm sắt đen rỉ sét. Cánh cửa chiếc hòm bằng sắt cuối cùng được mở ra và một chiếc băng-ca bằng sắt được hạ xuống có hai người khiêng vào trong nhà người đàn bà Tàu. Trên ban-công nhà người đàn bà Tàu, một bên cánh mành mành bị gió hất lên để lộ một khoảng ban-công có mền gối bừa bãi và một chiếc đèn lồng bị gió đung đưa. Một lát, chiếc băng-ca bằng sắt được khiêng ra, trên đặt xác cô bé mặc áo hoa quần đen, đầu tóc bết rối, trên bụng đắp một miếng vải đen ướt, máu chảy dài dường như đã khô trên cánh tay, trên má, trên chân. Cánh cửa xe cứu thương được khép lại. Người tài xế vội vã chạy lên phía trước mở cửa xe. Chiếc mành mành trên ban-công nhà người đàn bà Tàu một bên cánh vẫn bị mắc vào sợi dây và gió vẫn đung đưa chiếc đèn lồng treo lủng lẳng giữa khoảng ban-công hẹp.

    Nàng trở vào nhà ngồi vào bàn viết. Vài tờ giấy bị vo tròn vất trên sàn gác. Chị người làm khép cửa lại, hai tay khoanh tròn vai co lại như người bị lạnh, mồ hôi lấm tấm hai bên thái dương.

    Gã phi công đến tìm nàng khi tiếng kèn đám nổi lên từng chặp ở căn nhà người đàn bà Tàu. Lúc ấy nàng vừa bỏ dở cuộc đi chơi nhạt nhẽo với mấy người cùng sở mà nàng tưởng có thể tìm được một cuộc vui cho một buổi tối quá nóng nực ở nhà.

    "Bà sắp đi đâu hả?"

    "Không, vừa đi về".

    Họ đứng nói chuyện ngoài cửa nhà nàng. Nàng kể về vụ án mạng mà chính nàng cũng chẳng hiểu nguyên do ra sao. Gã ghé mắt nhìn sang ngôi nhà có đám tang. Gã không hỏi gì cả. Dường như gã cũng chẳng mấy ngạc nhiên. Nàng đề nghị đi uống cái gì.

    Buổi tối hôm nay chắc là khó ngủ. Tiếng kèn đám. Rồi có thể nửa đêm, khi người viếng vãn, họ sẽ mở kèn hát cho người chết nghe lần cuối cùng.

    Khi gã chở nàng qua những phố, nàng bảo tưởng không gặp lại ông nữa và tôi muốn đinh ninh là không gặp nữa.

    "Bà sợ cái gì?"

    "Một sự đi sâu vào. Những ray rứt nhớ mong do thói quen. Đại khái thế".

    Quán nước nằm tại một bến xe mà cách đây năm năm, nếu nàng không nhầm, đột nhiên có những lần nàng thấy cấp bách phải rời khỏi thành phố tù ngạt này, để đi đến một cái tỉnh có đồi cao và thông reo, để rồi trở về với một tâm hồn thơ thới và bình tĩnh hơn và nàng đã ra đây, mua vé, leo lên xe, buông xuôi mình cho một cuộc hành trình không mục đích.

    Bây giờ đôi khi tôi thấy sự cấp bách muốn rời thành phố trong ít hôm thường thường lại bị những níu kéo này khác, phải thu xếp cái này, phải sắp đặt cái kia, xong xuôi, cái ý muốn đi nguội mất. Mình đã qua cái tuổi muốn-gì-phải-làm-ngay-không-cần-suy-nghĩ-đắn-đo-về-những-hậu-quả.

    Họ ngồi trong quán một lát. Gã phi công gọi người tính tiền và nói phải rời khỏi đây, tôi bắt đầu thấy ngột. Nàng đi theo gã không băn khoăn. Vẫn khu bến xe ngưng hoạt động. Nàng trỏ tay ra phía sau lưng dãy nhà lầu bên kia đường bảo hôm nọ ở đây có xảy ra hoả hoạn. Gã đáp thế à rồi đạp xe cho máy nổ.

    Hôm xảy ra án mạng gần nhà thoạt về tôi tưởng có hoả hoạn. Nàng hớt hải thật tình, lúc đó.

    Gã im lặng lái xe. Nàng vòng tay ôm lấy người gã, khép hai cánh tay lại, ngả đầu trên lưng gã nghe gió lùa qua mái tóc bắt đầu mọc dài. Mình nhất định nuôi tóc dài dù trời có nóng, nhất định không nghe lời dụ dỗ của mấy cô thợ uốn tóc ngại gội những mái tóc dài để cắt tóc nữa. Nàng vẫn thích có mái tóc dài. Nàng cũng muốn thử xem sức chịu đựng sự nóng nực của nàng tới đâu. Bàn tay trái của gã vỗ vỗ trên phần cánh tay đặt ngang bụng gã của nàng.

    Vẫn căn nhà đó, nhưng lần này gã đưa nàng lên căn phòng trên lầu của ông anh. Cánh cửa sổ mở ra không đủ thu hút gió vào.

    Sau đó họ nằm dài theo dõi vở tuồng cải lương trên ti-vi. Gã kép hát vừa nói vừa ca cải lương lẫn tân nhạc. Cô đào đóng chung với gã thỉnh thoảng cúi mặt xuống cười vụng. Ánh sáng của màn ảnh truyền hình dọi trên khuôn mặt còn trẻ thơ của gã. Một lát, gã quay về phía nàng. Họ dường như không có gì nhiều để nói với nhau, nhưng họ không cảm thấy gượng gạo. Cuối cùng, nàng chợt cười nhỏ. Gã bảo:

    "Thực tình tôi muốn giữ bà lại đêm nay".

    Rồi gã bỗng thở ra:

    "Nhiều lúc mình mong có một căn nhà nhỏ của mình mà không được. Tôi muốn nằm với bà và sáng dậy mình đưa nhau đi ăn sáng".

    "Nhưng cứ sáng nào ông rảnh thì tôi lại bận. Vả lại mình không có một không gian riêng cho mình".

    Nàng ngưng nói, chợt cười nhẹ, và tiếp:

    "Ngày xưa khi mình còn đi học, không có tiền thì lại đầy dẫy nhà cửa cho thuê với một giá vừa phải. Bây giờ mình đi làm, có tiền, lại không kiếm ra được căn phòng hay căn nhà nào cả".

    Khi họ rời khỏi căn phòng của ông anh gã, nàng đứng ngoài hành lang đợi gã khóa cửa. Gió mơn man má nàng khi nàng thò đầu ra khỏi khung cửa sổ nhìn những ngọn đèn viền con đường bên dưới. Gã chợt hỏi bà có giận tôi không? Nàng thoáng ngạc nhiên.

    Lúc đưa nàng về, gã giải thích:

    "Thay vì tôi hỏi bà có thấy sung sướng hoặc thay vì tôi xin lỗi bà nếu tôi vụng về làm bà mất thú, thì tôi hỏi bà có giận không. Vậy thôi".

    Nàng chợt hiểu… Nàng cười trên lưng gã. Gió thổi làm khô những sợi tóc bết mồ hôi của nàng. Nàng thầm nhủ mai phải đi gội đầu. Mỗi sáng thức dậy nàng đều phải hong tóc mình trước quạt và nhất là sau giấc ngủ buổi trưa. Dầu sao nàng cũng thấy thoải mái. Tuy nhiên nếu đừng có cái ý tưởng ngại ông anh của gã về nhà bất ngờ, và nếu họ có thể ở bên nhau để sáng mai dậy đưa nhau đi ăn sáng, có lẽ thú vị hơn.

    Khi nàng về đến nhà, những người đến viếng đám tang người đàn bà Tàu và cô cháu gái thưa dần. Người đàn ông mất vợ ngồi ủ rũ bên nhóm nhạc công im lặng. Nàng không biết là lúc đêm về người ta có vặn kèn hát cho người chết nghe lần cuối hay không. Nàng ngủ thiếp đi vì mệt. Và hơi nóng tháng Tư phủ lấy thân thể bừng bừng sức sống của nàng, như tiếp thêm sinh lực. Những đêm những ngày như thế này, nàng chỉ muốn không phải mặc quần áo gì cả – nếu nàng có một không gian riêng cho mình.

    Đám tang người đàn bà Tàu và cô cháu gái được cử hành ngay ngày hôm sau. Miếng vải nhựa được căng lên che nắng hôm trước được gỡ xuống. Căn nhà người đàn bà Tàu thường xuyên đóng cửa như che giấu niềm đau đớn của những người còn lại. Nàng cũng chẳng buồn hỏi xem ở nhà có cử người sang viếng quan tài người chết và chia buồn với thân nhân người chết không. Câu chuyện án mạng cũng nhạt dần trên miệng chị người làm. Và đêm đến, chị ta lại ngủ ngon lành lại. Nàng vẫn chưa hình dung ra khuôn mặt người đàn bà Tàu vẫn chiều chiều bắc ghế ngồi chơi ngoài cửa. Dường như sức nóng đã làm tan nhòa hình ảnh bà ta trong trí nhớ nàng. Nàng không cố gắng nhưng một cách không tự kềm chế, nàng hình dung thấy bà ta ở mỗi người đàn bà Tàu mập mạp có giọng nói tiếng Việt lơ lớ mà nàng tình cờ gặp trên phố trong tiệm ăn chẳng hạn.

    Nàng cảm thấy uể oải. Mặc dù nóng nàng vẫn thường ngủ li bì, nhất là về sáng. Gã đã đến quá tự nhiên khiến nàng nghĩ nếu gã không đến nữa cũng vậy thôi. Nàng không ân hận vì đã thành thật trong những lời những cử chỉ trao đổi với gã. Có lẽ nàng sẽ tìm thêm việc để làm. Có lẽ nàng sẽ vẫn tiếp tục nhận lời đi với những người bạn trai cũ để vui, để trút đi sức sống chảy cuồng nhiệt trong cơ thể, để đợi cho qua tháng Tư này, để đợi mùa mưa đến dù chẳng biết để làm gì cả. Đôi khi nàng thầm hỏi nếu mùa mưa đến thì sao? Mọi người có vẻ mong mưa. Chị người làm, mẹ nàng, bà chị, cô em gái. Một buổi trưa thức giấc, sờ không còn một giọt nước trong tủ lạnh, không còn một giọt nước uống trong bất cứ món đồ đựng nước nào, nàng gắt gỏng cau có. Cơn khát như xé cổ họng, nàng hỏi mẹ có còn giọt nước mưa nào. Bà cụ cười khan đáp làm quái gì còn giọt nào. Và bà lẩm bẩm phải sắp sẵn phi chứa nước mưa. Bà ngóng trời. Bà chỉ thích uống nước mưa thôi. Còn chị người làm mong mưa vì khỏi phải canh lấy nước mỗi ngày từ nhà bên cạnh. Bà chị, cô em hy vọng mưa sẽ bớt nực nội hơn. Còn nàng, nàng cảm thấy mình đợi mà không mong. Dường như nàng thích thú một cách hơi cuồng bạo cái sức nóng đang tỏa vây lấy nàng, đang tiếp thêm sinh lực cho nàng. Nàng đồng tình với nó. Nàng kêu trời nóng như khi khát uống nước vậy thôi. Nhưng nàng không thù ghét tên đồng lõa đó được.

    Vậy mà nàng lại mong mưa khi nằm với gã trong căn lều bỏ hoang ở cuối ngôi vườn xơ xác cỏ cháy trong căn biệt thự của bố mẹ gã. Nàng bảo thế và gã cười lớn:

    "Tôi biết bà sẽ nói vậy".

    "Vì mưa sẽ phong tỏa chúng mình với xung quanh, với những người trong gia đình anh có thể tình cờ xuống đây".

    Thực tình trước đó nàng không cảm thấy muốn làm gì cả. Nhưng nàng muốn ngồi gần gã nói chuyện với gã. Vả lại, nàng cảm thấy mỗi lần gần gã xong, trở về nhà tắm rửa rồi nàng chỉ muốn đi ngủ. Công việc chất đống. Những cuốn sách chưa kịp rọc ra đọc. Gã đề nghị đưa nàng về khi hai người ở quán nước. Nàng chợt giận gã. Có lẽ nàng buồn nhiều hơn, gã gặng hỏi. Nàng thẳng thắn đáp tôi có cảm tưởng cuộc sống dường như nghèo nàn vì ngoài chuyện đó ra người ta không biết làm gì với nhau nữa. Thực tình nàng có cảm tưởng như vậy. Và nàng khăng khăng đòi về. Gã dừng xe lại và bảo nếu bà thực tình muốn về tôi đưa bà về, phần tôi tôi muốn đưa bà đến một nơi có gió có cây và nói chuyện với bà. Nàng không đáp. Nàng không thể nói nàng muốn về trong khi thực sự nàng không muốn về. Và họ đến nhà bố mẹ gã, căn nhà gã đã lớn lên và hiện cũng đang sống ở đó mỗi khi được về thành phố.

    Nàng thấy mình ngồi thật lâu nơi hàng hiên nhìn ra chiếc hồ cạn nước rêu bám đầy và vườn cây nghiêng ngã khô cỏ cháy. Gã từ phòng khách bước ra sau một cuộc đối thoại qua máy điện thoại với một người nào đó ở đầu dây bên kia, và đến ngồi xuống chiếc ghế mây bên nàng. Gã hỏi nàng có nghe cuộc đối thoại vừa rồi. Nàng đáp:

    "Anh nói gần như thét lên, sao không nghe. Về một cuộc xem mắt vợ tương lai phải không?"

    Gã cười vô tình. Nàng hỏi bao giờ thì cưới. Gã bảo nhưng thằng đó nó có bằng lòng đâu mà cưới. Chả là bà cụ tôi muốn làm mai cho nó. Bây giờ mẹ nó gọi lại để bảo bà cụ thôi vì nó không muốn lấy vợ nữa.

    "Hắn bao nhiêu tuổi?"

    "Ba mươi hay trên ba mươi gì đó. Hắn mới ở ngoại quốc về để đi lính".

    Nàng cũng chẳng buồn kể cho gã nghe là nàng đã hiểu lầm vì tưởng gã đi hỏi vợ. Nàng nghĩ những chuyện mai mối dường như xa lạ với nàng. Ở mỗi người con gái đều ôm cái ước vọng có được một đám cưới linh đình. Nàng bận tâm với chính nàng hơn là một thứ đám cưới cho-người-ta-nhìn-vào như vậy. Và nàng nghĩ đến vấn đề chính là hạnh phúc, là sự cảm mến, sự thông cảm và kính phục do cá nhân hai người trong cuộc, hơn là do những hình thức đồ sộ mà xã hội đòi hỏi bắt buộc phải có. Nàng nghĩ như thế trong khi nhận ra gã đã gài lộn một chiếc khuy làm hai vạt áo lệch hẳn đi mười phân. Nàng bảo gã anh cài lệch một cái khuy. Gã nhìn xuống áo mình và thong thả cởi khuy ra cài lại. Có lẽ gã đã mặc như vậy khi đến tìm nàng và không để ý khi vào tiệm nước. Sao bây giờ nàng mới nhận ra? Có lẽ lúc nãy áo gã nhét trong quần. Gã cài khuy lại và chợt nhận ra chiếc khuy dưới cũng bị sút mất từ hồi nào. Có lẽ gã bắt đầu cài khuy từ dưới lên trên nên không để ý là thừa một cái khuyết trên cùng. Nàng muốn bảo gã đi kiếm kim chỉ và khuy để nàng khâu lại cho gã. Nhưng gã đã kéo tay nàng đứng lên rủ đi thăm đàn gà của gã.

    "Anh mà cũng nuôi gà? Buồn cười nhỉ".

    "Không, tôi bỏ vốn và người ta nuôi hộ".

    "Gà Mỹ hay Việt?"

    "Mỹ".

    Nàng định nói từ hôm gà Mỹ được nuôi nhiều đến nay tôi mất thú ăn thịt gà và đớp trứng ốp-la mỗi sáng. Nhưng nàng thấy mình im lặng theo gã đi ra xem gà. Nàng không thấy thú chuyện gà, như nàng vẫn lơ đãng mỗi khi nghe các bạn tranh luận về xì phé, mạt chược hay cá ngựa. Nàng rời tay gã đi về phía hồ nước cạn giữa vườn. Nàng bảo cỏ cháy cả, phí quá.

    Ngày xưa khi bọn Mỹ chưa sang đây thì cỏ còn xanh tươi, cây còn um tùm ngay cả trong mùa nắng.

    "Họ dùng thuốc khai quang ngay cả ở đây sao?"

    "Không phải vậy. Tại công nhân bỏ đi cả, không có ai coi sóc nữa".

    Gã trỏ túp lều lợp tôn ở cuối vườn bảo: Tháp ngà của tôi đó.

    Nàng đợi gã nói tiếp. Nhưng gã im lặng đi về phía đó. Túp lều thấp, vách ván tơi tả, ngăn làm hai, một bên chứa đồ phế thải gồm giường ghế tủ, một bên có vách và cửa che phía trước, tất cả đã tơi tả. Bên trong có một chiếc đi-văng khá sạch và những thùng giấy, rương cũ chồng chất trên một chiếc xe trẻ con han rỉ cũ kỹ đầy bụi. Gã lục lọi trong một chiếc thùng giấy lôi ra một bộ đồ bay trong có lót thêm một lần vải dày, giơ lên ngắm rồi lại bỏ vào thùng. Nàng ngồi xuống đi-văng lật xem cuốn Thế giới tự do vất trên đó. Gã đến ngồi xuống đối diện nàng đầu cúi xuống để trán mình đụng vào vầng trán lòa xòa tóc của nàng. Nàng không ngẩng lên, hỏi trên trang giấy đầy hình ảnh:

    "Tại sao anh lại làm hòa?"

    "Tại không muốn để mất một cách vô lý như vậy".

    Nàng đẩy cuốn Thế giới tự do sang một bên, ôm lấy đầu gối gã và gục vào đó. "Tôi nhớ hôm mới gặp lại anh lần thứ hai nhưng kể như là lần thứ nhất, anh bảo: Mình thường sợ mất nên thường cả khi chưa có đã lo mất. Tôi cũng vậy".

    Gã đáp nhỏ như nàng nói:

    "Nhưng lần này tôi không muốn mất, dù chưa biết đã có hay chưa có thật sự. Tôi không muốn để mất vì biết sẽ khó kiếm lại một vật tương tự như vậy".

    Một lát nàng hỏi:

    "Bao giờ anh đi?"

    "Mai. Chưa biết sáng hay chiều. Phải chi bà có xe hơi để thỉnh thoảng lên thăm tôi. Cách đây có ba mươi cây số thôi mà".

    Nàng cười nhẹ:

    "Vài năm nữa hoạ may. Bây giờ một cái phòng riêng cũng không có được nữa là xe hơi. Dầu sao…"

    Nàng bỏ lửng câu nói. Một lát nàng hỏi trong khi gã ôm nàng vào lòng, đầu nàng đặt trên vai gã và mắt nàng chợt nhìn chiếc xe đẩy của trẻ con dưới đống thùng giấy và rương cũ:

    "Ngày xưa anh ngồi trên cái xe này đấy à?"

    Gã bật cười khi quay lại nhìn thấy cái xe.

    "Ồ, không đâu".

    "Tôi đùa". Nàng nói vội.

    Và nàng nói sang chuyện khác sau vài phút im lặng:

    "Mình vẫn chưa đi ăn sáng với nhau được. Đêm nọ ở bên nhau thì sáng sớm hôm sau anh lại phải đi sớm".

    Bỗng dưng nàng có cảm tưởng gã sắp đi xa, không phải chỉ đến một cái nơi cách chỗ nàng ở có ba mươi cây số mà là một nơi xa lắm. Xa lắm, nàng thì thầm.

    Sau khi gần gã, nàng nằm im nhìn ánh nắng buổi chiều sơn vàng trên những chiếc lá vú sữa ở sát bờ giậu xuyên qua song gỗ sát mái lều. Gã biết nàng không được đầy đủ như mấy lần trước. Gã nói xin lỗi. Nàng mỉm cười. Và nàng khép đôi mắt lại. Trong khoảnh khắc ấy nàng thấy mình mong mỏi thật sự một cơn mưa sẽ ập xuống, không phải để trời bớt nóng - điều này nàng không thấy là cần thiết chút nào - cũng không phải để có nước mưa uống, mà để cho họ, gã và nàng, được phong tỏa trong túp lều thô sơ hoang phế này, như trong câu chuyện về một thuở hồng hoang nào đó xa xưa, thật xa xưa.
    #2
      CTT 17.10.2008 01:17:44 (permalink)
      Giáng sinh bên kia sông

      1.

      Buổi tối, như mọi hôm, sau bữa cơm tối tại một tiệm ăn quen có thể ký bông mỗi tháng tính tiền luôn thể, hắn đến nhà thủy tạ bên này sông gọi một ly cà-phê. Trong khi ngồi trầm ngâm bên chiếc phin cà-phê đang nhỏ những giọt màu đen sánh như một thứ máu khô đặc quánh xuống lòng chiếc ly bằng thủy tinh, với khuôn mặt nặng nề và đôi mắt nhìn như ẩn giấu cả một trời u uất, hắn hướng về trại lính Mỹ chiếm cứ như một chốn bất khả xâm phạm tuyệt đối bên kia sông mà nghe một đau nhức không nguôi từ một vết thương sâu kín. Hắn muốn vươn mình đến một sự nhức nhối có tính cách trọng đại hơn: như coi cái mảnh đất bên kia sông là một trong những vết lở lói của thân thể đất Mẹ. Hắn tự lừa dối mình mà không xong. Hình ảnh người đàn bà mà hắn đã ấp ủ vẫn cứ lởn vởn đâu đây. Cái gì trong cái vết lở lói bên kia sông đã lôi cuốn nàng rời xa hắn? Hắn không muốn nghĩ đến nữa. Hắn muốn phóng đại niềm đau nhức của mình thành một nỗi thao thức lớn lao mà chẳng riêng gì hắn phải mang, mà cha hắn đã mang, mà rồi em, con hắn sẽ mang và không chừng sẽ đến lượt cháu của hắn nữa (làm sao biết được khi chính tai hắn đã nghe cha, ông hắn, hồi hắn còn nhỏ, đã thốt lên: "Biết đâu thế hệ nó sẽ khá hơn thế hệ mình?" Ý họ ám chỉ thế hệ hắn. Và bây giờ đến lượt hắn, hắn nhìn bầy con, hay lũ nhỏ đồng tuổi với chúng, tuy chưa nói lên một câu tương tự, nhưng đã ngầm nhủ thầm như vậy).

      Có tiếng đàn bà cười. Hắn hơi quay đầu để thấy một cặp vừa bước vào quán qua chiếc cầu hẹp, dài độ năm thước. Hắn không cần nhìn rõ mặt họ, nhưng tiếng cười của họ, nhất là của người đàn bà, làm hắn rớt từ niềm thao thức bao la vĩ đại vô vị lợi xuống một nỗi đau thương tầm thường, một cách lố bịch. Hắn nhận rõ nỗi đơn độc của mình. Một con đàn bà bỏ đi, điều đó có nghĩa gì? Nhưng hắn bắt buộc phải nhìn vào thực tại và thấy là điều đó không hẳn là không có nghĩa gì. Quả nó có nghĩa gì thật. Hắn tự thấy mình phải dứt khoát: không nên hoán vị sự việc và mặc cho nó những mũ mão ngoài tầm vóc của nó. Thử không hoán vị, thì đã sao? Và hắn nghiền ngẫm nỗi cô đơn của mình, như nghiền ngẫm vị đắng của chất cà-phê không bỏ đường.

      Quán vắng. Ngoài hắn và hai người khác vừa bước vào, kỳ dư chỉ có mấy người bồi đứng ở khung cửa sổ sát mé sông đang tán gẫu với nhau. Trời mưa và mùa đông lạnh, không mấy ai muốn ra khỏi nhà, nhất là từ ngày thành phố tràn ngập những người lính Mỹ và Đại Hàn, và càng tràn ngập hơn nữa món đồ do bọn người này bán ra đủ cho dân chúng lập nên một khu chợ trời ngay trung tâm thành phố, tạo nên một khung cảnh buôn bán sầm uất và ấn tượng về một sự phồn thịnh giả tạo.

      "Trời mưa hoài, liệu tụi nó có dám dựng cây giáng sinh không, há?"

      Một người bồi vừa ngáp, vừa nói. Người kia đáp lơ đãng:

      "Có gì mà không dám".

      "Nghe đâu ngày mai tụi nó sẽ trồng cây giáng sinh đó. Nghe nói dường như lớn lắm. Có lẽ cũng bằng cây thông thiệt chứ chẳng chơi".

      "Cao bằng cây thông thiệt, hay cao hơn, điều đó có nghĩa gì khi mà tụi nó dám đổ cả triệu đô-la bom vào những chỗ chỉ đáng nghi ngờ là có địch quân đồn cứ thôi!"

      Người lên tiếng trước tiên có vẻ bực dọc:

      "Cái thằng cha này! Người ta đương nói chuyện đàng goàng, khi không lôi chuyện khác vô chi dzậy? Đụng mở miệng là lên giọng bi goan không hà! Đách thèm nói chuyện với nữa!"

      "Không nói đến thì thôi. Đách cần!"

      Và họ im lặng sau đó. Hắn mừng là họ không thèm nói chuyện với nhau nữa.

      Hắn lần trong túi áo vét lá thư của người bạn từ Sài Gòn vừa gửi ra. Những nét chữ hơi buông lơi, nhỏ nhắn và gọn gàng, nhưng cũng không thiếu phần chịu đựng lì lợm của một thứ tâm tình dịu dàng mà quyết liệt của người bạn mà hắn yêu hơn bất cứ người nào khác hẳn đã từng quen biết, đến độ, hắn, với ba mươi mấy tuổi đầu, đã gần như hờn lẫy khi nghe tin bạn sắp cưới vợ. Nhưng hắn kín đáo che giấu niềm tuyệt vọng – tại sao niềm tuyệt vọng ấy? – một cách khéo léo. Hắn không quen để lộ tâm tình cùng phản ứng, nhất là đối với bạn trai, mặc dù dễ dàng mềm yếu khi gục trên ngực một người đàn bà (song đó là chuyện khác). "Tại sao, tôi hỏi thật, anh lấy vợ?". Dạo đó, bạn hắn chưa làm lễ cưới. Hắn trọng bạn, gần như tôn kính, ở tuổi tác, sự hiểu biết, tính chịu đựng, sự từng trải, mặc dù họ chỉ xê xích nhau một hai tuổi. "Tôi tưởng anh không bao giờ nghĩ đến chuyện lấy vợ, hay nói chuyện, tưởng thường nhìn cuộc đời như không có bọn đàn bà. Dù điểm đó anh khác tôi, thú thật, song chính vì vậy mà tôi trọng anh hơn bất cứ thằng cha nào khác mà tôi quen biết từ trước đến nay". Người bạn chỉ cười, cái nụ cười vừa bộc tuệch vừa bí ẩn. Hắn nghĩ: nếu không phải là người hắn trọng và thương, hắn đã nhảy vào đè ngửa thẳng cho cái cười nửa hiền lành, nửa ngạo mạn, với cái vẻ khoan dung và ôn hòa của một ẩn sĩ đã đạt đến… đạo, nhưng có thể bất chợt, khép lại đầy vẻ đanh thép, cương quyết và sẵn sàng đương đầu. Rồi người đàn bà được giới thiệu với hắn. Một người đàn bà trẻ với nhiều trẻ thơ tính và cũng nhiều tình yêu cho bạn hắn, song dường như (làm sao có thể được ở nàng?) chẳng hiểu bạn hắn chút gì ngoài cái nhãn hiệu mà bạn hắn được một số người trong thiên hạ mặc cho: nhà văn. Dường như nàng hãnh diện về điều đó. Chưa kể cái lý tưởng chính trị – lý tưởng gì? – mà bạn hắn ôm ấp. Một hôm, hắn không ngăn được sự ngu xuẩn khi thốt lên: "Chị không hiểu được anh ấy đâu. Tốt hơn, chị đừng lấy anh ấy. Chị sẽ chỉ làm ngăn trở anh ấy mà thôi". Lẽ cố nhiên, đó là một điều không nên nói thẳng như vậy với một người đàn bà đang yêu và muốn lấy người mình yêu. Người đàn bà đã giận hắn đến thâm tím cả ruột gan. Người bạn biết chuyện, chỉ cười, như bao giờ. Dù sao, việc người bạn lấy vợ lại cũng là một dịp làm hắn phục bạn hơn, dù hận. Hắn tự nghĩ: có lẽ mình ích kỷ. Mình bị ruồng rẫy bởi một con đàn bà. Trong khi bạn mình được một người đàn bà yêu thương và mến phục mà hắn dành cho người bạn… Có thể nói, hắn gần như tôn sùng người bạn, tựa như một tín đồ sùng đạo đến độ không bao giờ có thể thấy rằng Thượng Đế của mình vô lý khi làm một điều trái quấy hết. Hẳn là phải có lý do. Cái lý do khiến cho bạn hắn lấy vợ, hắn có thể thông cảm được, dầu sao đi nữa. Ít ra, hắn khoái chí nghĩ, bạn mình còn là người.

      Dường như hắn đã cười thành tiếng trong bụng. Hắn cúi xuống trang giấy tựa như có hơi hướm của người bạn thân yêu và đọc lướt qua:

      "Siêu thân,

      Lâu lắm không viết thư cho mày (bạn hắn mặc nhiên xưng hô "mày, tao" với hắn như thể từ chối vai trò "làm anh" mà hắn phong tặng cho, để chỉ coi hắn như một người bạn) vì lười. Mày biết đấy, như đã bao lần tao nói với mày, công việc ở đây nó lặt vặt, nó tạp nhạp, nó ù lì, khiến mình ù lì theo – chỉ tiếc sự ù lì không đủ để cho mình trở thành một thứ cây cỏ vô tri thức thôi, điều mà tao thành thật muốn trở thành! Vì vậy, tao không thể kể với mày một cái gì nữa cả. Khi mình ở lưng chừng thì có cái quái gì đâu để mà kể. Có lẽ tao mòn mỏi thật rồi. Thậm chí cũng chẳng đủ thời giờ, dù vẫn dư thời giờ, tìm hiểu tại sao sự mòn mỏi ấy.

      "Nhận được thư tao, chắc mày ngạc nhiên lắm? Có việc nhờ mày: lo giùm cho người cầm giấy này một chỗ ở. Chỉ có vậy. Ráng lo cho tốt đẹp, rồi về Sài Gòn ăn Tết, đánh bạc, nghe không! Mong mày.

      Thân,

      Thiên"

      Trưa hôm qua, khi hắn vừa đi ăn cơm về, có thư ký trao lại hắn lá thư và nói là do một người con gái mặc áo dài nâu, người nhỏ nhắn, mang lại. Và cô thư ký nói thêm, sau một phút im lặng: "Cô ta đẹp lắm. Trông hay lắm, thưa ông". Tự nhiên, hắn nghe xôn xao trong lòng. Những hàng chữ gửi gấm của người bạn có vẻ gì khác thường: chưa bao giờ người bạn tỏ vẻ ân cần và săn sóc như vậy về một người nào, nhất là người đó lại là một người đàn bà. Hắn khoái trá khi ý nghĩ chợt dẫn hắn đi xa hơn. Trong một lúc, hắn sực nhớ ra điều gì. Hắn hỏi cô thư ký bao giờ cô ta trở lại. Cô thư ký nói cô ta chỉ nói là mai hay mốt, chẳng dặn giờ nào. "Người cầm giấy này", hẳn là cô gái đó chứ còn ai khác nữa! Cô thư ký nói thêm: "Dường như cô ta bảo cô ta đi Hội An". Hắn lẩm nhẩm: "Hội An à?".

      "Phải, Hội An nè. Mình đã tới Hội An rồi, các bạn".

      Một người trong bọn trả lời. Chiếc xe rẽ vào một con phố hẹp, hai bên là những ngôi nhà nhỏ, mái lợp ngói âm dương, hay ngói hình vòng cung, với một dáng dấp cổ điển, dường như bị quên lãng. Hè đường hẹp không đầy một thước. Mặt đường còn lát gạch, nửa xanh vì rêu, nửa đỏ vì bị chà xát đi lại nhiều. Có nhiều hòn gạch lõm hẳn xuống như mặt một cái đĩa, nước mưa còn đọng trong đó. Một người nào đó trong bọn nói:

      "Đây là phố chính của Hội An".

      Nàng nhìn lên một cái bảng hiệu của một cửa tiệm và thấy hàng chữ "Đường Cường Để".

      "Nghe nói ở đây có chùa Cầu nổi tiếng? Nằm ở đâu vậy?"

      "Trên con đường này".

      Nàng nghĩ: Lát nữa phải đến đó xem. Đến hội An mà bỏ lỡ không đi xem chùa Cầu là một cái… tội. Nàng đã thấy chán ở một chỗ. Nàng muốn đi đây đó. Nàng bày tỏ ý định đó với một đôi người bạn thân, lúc rối loạn như thế này, không nên đi làm gì, nhất là lại đi chỉ vì thích, và theo họ, không ở đâu bằng ở thủ đô. Nàng đáp: Chính vì thế mà nàng muốn đi. Có nhiều cái nàng muốn thấy, muốn xem, muốn cảm. Để làm gì, chính nàng cũng không biết. Chỉ biết rằng, nếu phải chôn chân mãi một chỗ thì nàng sẽ cuồng điên lên mất. Mỗi ngày với bấy nhiêu hình ảnh phố xá; với bấy nhiêu những con đường giờ ấy là giờ kẹt xe, bụi bay mờ mắt cả tâm trí làm con người cáu bẳn hay nhẫn nhịn đến vô hồn; với bấy nhiêu khuôn mặt bạn hữu tâm tình quen thuộc (mặc dù biết vậy mà vẫn chẳng thể đóng cửa nằm im trong nhà vùi đầu vào sách vở đôi-khi-bỗng-mất-hết-mọi-vẻ-hào-quang-mầu-nhiệm-của-chúng – sao không có lúc như vậy chứ; dù sách vở vẫn là người bạn thân yêu nhất của nàng? Và dù đó là một người tình duyên dáng đáng yêu, sao không khỏi có lúc thấy chán mứa và mơ tưởng đến những chân trời khác?). Nàng thấy mình phải đi. Có người khuyên ra biển hay lên cao nguyên. Đà Lạt chẳng hạn. Nàng cười: Tiền đâu ra để đi đến những chỗ đó. Vả lại, tôi muốn thấy, muốn nhìn chứ đâu muốn nghỉ ngơi. Nàng nhận một công việc mà bình thường, nếu không vì nhu cầu đi, chắc nàng đã chẳng nhận. Từ đó, nàng quen thêm được bốn người đồng hành: hai thiếu nữ, hai thanh niên. Ngay từ khi biết sẽ đi chung với họ, nàng đã thấy họ không thuộc loại người có thể thông cảm với mình. Ngân thì phóng túng nhưng hời hợt. Hạnh thì khó khăn, khép kín. Kiệm cộc cằn, nhỏ nhen, quá trung thành với cấp trên và là trưởng nhóm. Thuần giản dị, hiểu biết và có thứ tinh thần dễ hòa hợp, thích nghi của một hướng đạo sinh. Biết là khó thích nghi với những người đồng hành này, nhưng nàng cũng muốn thử xem sức chịu đựng của mình đến đâu đối với họ. Dầu sao, nàng cũng chỉ sống với họ trong một khoảng thời gian nào đó. Nàng ghét phải giữ miếng trong vấn đề giao thiệp, nhưng nàng tự nhủ là sẽ cố gắng đến mức tối đa để tránh nói ra những điều không cần thiết.

      Cuối cùng, nhóm năm người đi đến quyết định thuê hai phòng của khách sạn. Ba người con gái sẽ ở một phòng. Phòng bên kia dành cho hai người con trai.

      Khách sạn gồm một tiệm ăn dưới nhà và nhiều phòng cho thuê trên lầu. Chủ nhân là người có lối phát âm miền Bắc. Và lối phục sức của người vợ thì không lẫn vào đâu được với chiếc quần đen, áo cánh trắng ngắn cũn cỡn xẻ bên sườn để lộ một khoảng da thịt trắng ngần và đặc biệt là vành khăn quấn trên đầu để thò chiếc đuôi gà ngoe nguẩy. Nàng tự hỏi hai vợ chồng này từ Bắc vào đây lập nghiệp từ hồi nào. Nàng thường hay thắc mắc về những điều không cần thiết như vậy, trong khi các bạn mải miết dùng cơm trưa, dường như ngay cả những người mặc quần áo đen máu bê bết vất bên vệ đường cho dân chúng xem và chính họ cũng đã dừng lại để nhìn với cái nhìn gớm ghiếc tởm lợm, cũng đã bị xoá nhòa trong đầu óc họ. Hạnh ăn uống dè dặt, nhỏ nhẹ và dường như thiếu thoải mái khi ngồi chung bàn với bọn đàn ông con trai giữa một khung cảnh xô bồ của lữ quán. Ngân tỏ ra bình thản hơn. Kiệm ngồm ngoàm vội vã và nhai nuốt. Thuần thong thả, tự tin. Nàng tự hỏi, còn mình ra sao? Dường như nàng bắt đầu mong cho công tác sớm chấm dứt. Nàng thấy nhớ cái thành phố đã bỏ đi và những người bạn nơi đó. Và nữa, đã gần hết thời gian công tác, nàng chưa gặp được một cái gì gọi là phiêu lưu cả, ngoài những hình ảnh bắt gặp bên lề một lộ trình đã được hoạch định từ trước. Siêu là một người ra sao? Bỗng nhiên nàng nghĩ về gã đàn ông chưa biết mặt này. Nhưng nàng đã tin tưởng rằng có thể ngồi nói chuyện với Siêu về những điều không cần thiết, hay tâm sự vụn cũng thế, có lẽ là vì, theo lời giới thiệu của Thiên thì Siêu là một trong những người bạn thân của anh. Có lẽ nàng tin tưởng ở tư cách bạn thân của Siêu đối với Thiên. Từ hai tuần lễ nay, không được nói về những điều không-cần-thiết với một người nào, nàng cũng cảm thấy nhơ nhớ và thiêu thiếu. Những điều không-cần-thiết, nàng thì thầm. Quả chúng vẫn có cái gì quyến rũ hơn là những lộ trình đã được hoạch định kỹ lưỡng, những chỉ thị đã được nhu cầu, những phản ứng đã được dự đoán, v.v.

      Ăn cơm trưa xong, Thuần bảo:

      "Bây giờ mình nghỉ trưa. Buổi chiều hôm nay tạm ngưng công tác, để hoạch định chương trình làm việc tại đây. Sáng mai mình sẽ làm hết nội trong buổi sáng để sau bữa cơm trưa kịp đáp xe trở về Đà Nẵng. Cậu nghĩ sao Kiệm?"

      Thuần mặc dù không đóng vai trưởng nhóm, nhưng luôn luôn đưa ra đề nghị. Kiệm gần như chỉ kiểm duyệt qua những đề nghị của Thuần, góp ý kiến sơ sơ và chịu trách nhiệm với Sài Gòn. Bọn con gái thường tin tưởng ở Thuần nhiều hơn và dè dặt đối với Kiệm. Hắn có thể báo cáo về Sài Gòn bất cứ cái gì để tỏ ra một người đắc lực, có tinh thần trách nhiệm. Nàng đã bắt đầu thấy chán nhìn khuôn mặt quắt queo sẵn sàng quạu quọ nhăn nhúm về bất cứ chuyện gì, và quạu quọ nhăm nhúm ngay cả lúc bình thường không có chuyện gì của hắn. Cũng một phần vì hắn quyết định sẽ báo cáo về thái độ chểnh mảng và cẩu thả của nàng. Nàng cười thầm và cảm thấy bất cần. Ngay từ bây giờ, nàng nghĩ, nếu không vì số tiền công tác phí Sài Gòn ứng trước mà nàng khó có thể đền bù lại cho đủ, nàng đã tung hê tất cả để về Đà Nẵng tìm gặp Siêu và nói những chuyện không-cần-thiết với không một sự hoạch định, dự tính hay đoán trước. J’en ai marre, vraiment, j’en ai marre. Nàng nghĩ thầm trong đầu.

      Trời mưa xối xả khi nàng đứng nép dưới mái hiên để vẽ phác ngôi chùa Cầu.

      Nàng bật cười thầm khi thấy chùa Cầu chỉ nhỏ bằng cái am, với bốn góc là bốn bàn thờ của con khỉ, và ở giữa là lối đi lát gỗ ngang hình vòng cung cho người ta đi lại ngang qua một con lạch nhỏ. Dù vậy, đứng xa nhìn cái mái lợp ngói âm dương với phần trang trí cổ xưa (rồng, mặt trời), trong cái kiến trúc nhỏ bé đó tựa như một cổng thành thu nhỏ lại, nàng thấy thanh thản gần như hạnh phúc. Nàng nhớ mình đã đứng trước chùa Cầu và hỏi thăm một người qua đường xem chùa Cầu nằm ở đâu.

      Những trẻ em và người lớn hiếu kỳ bu quanh chỗ nàng đứng xem nàng đưa những nét vẽ phác và bình phẩm một cách hồn nhiên, ngây thơ hoặc im lặng. Nàng tiếc là mình không có một cái giá vẽ, một khung vải hay giấy lớn, với những tuýp màu để có thể cung hiến cho những người hiếu kỳ kia một bức tranh đầy đủ hơn. Nàng mỉm cười xin lỗi họ trước khi đóng cuốn tập lại, sau khi đã phác họa xong cái kiến trúc khiêm tốn kia. Một em bé hỏi nàng:

      "Chừng nào cô vẽ nữa?"

      Nàng cười, đáp:

      "Tôi chỉ ghi qua hình ảnh của chùa Cầu. Tôi hy vọng có dịp trở lại đây với giá vẽ và màu".

      Một đứa khác hỏi:

      "Bao giờ, cô?"

      "Tôi không thể nói trước được".

      Nàng cười thay lời chào và tất tả đi về phía chùa Cầu. Vẽ vời quả là một việc không cần thiết, nhưng nàng thấy thích nó hơn là làm những việc đã được chỉ định, tính toán kỹ lưỡng. Nàng nghĩ: Hẳn là những kẻ thấy nàng vẽ lại chùa Cầu sẽ hãnh diện vì nơi họ ở có một cái gì đáng vẽ, và họ hãnh diện vì cái kiến trúc khiêm tốn mà có lẽ vì quen, họ đã không để ý đến. Nàng cảm thấy mình đã có ích được chút đỉnh. Bức vẽ phác, có thể sẽ chẳng để làm gì, nhưng nó làm nàng sung sướng, dù trong khoảnh khắc, về cái ảo tưởng là đã nắm được trong tay một hình ảnh mà nàng đã xúc động khi thấy nó.

      Bà cụ già bán hương ngồi trong chùa Cầu, trên một phiến gỗ, nhích lại gần chỗ nàng đang đứng ngó quanh trong khoảng không gian hẹp xây trên lạch nước, nói, âm thanh khó nghe vì hai hàm răng đã rụng cả:

      "Con cho già xem cái hình chút được hông?"

      Nàng dần hiểu ra và vui vẻ mở tập vở ra đưa cho bà cụ xem. Bà cụ chăm chú nhìn bức vẽ phác một lát với hai mắt kèm nhèm, nhận xét:

      "Ngộ quá héng! Con vẽ mần chi rứa?"

      Nàng cười ôn tồn:

      "Con thấy đẹp thì vẽ vậy thôi, bác".

      Bà cụ trao tả tập vở, nói:

      "Già bán hương ở chùa Cầu này đã lâu, chẳng bao giờ nhìn thấy nó ra sao hết. Bây giờ thấy nó nhỏ lại, coi cũng ngộ chứ".

      Khi nàng trở về phòng, vừa vặn đến giờ đi ăn cơm tối. Trời đã ngớt mưa, Hạnh và Ngân nhìn hai ống quần ướt sũng của nàng, cùng hỏi:

      "Bà đi đâu vậy? Làm tụi này tưởng bà đi lạc rồi chớ?"

      Nàng quăng cuốn vở lên bàn, đi lại chiếc va-li nhỏ lục tìm một bộ đồ khô, đáp:

      "Tôi đi lăng quăng thăm phố quận và vẽ phác vài cảnh".

      Ngân hỏi:

      "Để làm chi vậy?"

      Ba người xuống phòng ăn. Bọn con trai đã đợi sẵn ngoài cửa, báo cho biết tiệm không còn thức ăn gì, vì họ xuống ăn trễ quá. Thuần vẫn có vẻ thong thả. Kiệm thì vẫn cau có như bao giờ. Nàng thích thú vì cái nếp sống ở đây: nhỏ bé và thân thiết như một cái gia đình, sau bảy giờ tối, kể như đi tìm một bữa cơm tiệm thật khó. Người ta nấu nướng cầm chừng vì số thực khách hiếm hoi. Họ phải vào một tiệm mì thưởng thức món mì Quảng thay cơm. Sau đó, họ trở về khách sạn: quận lỵ buổi tối khép mình đi ngủ thật sớm. Bọn người đồng hành với nàng không biết làm gì hơn, rủ nhau đánh xì trong phòng bọn con gái. Nàng mượn chìa khóa phòng bọn con trai mang theo một cuốn sách. Khi nằm một mình trong phòng, nàng bắt gặp mình suy nghĩ về thành phố nơi đó nàng đã sống tuổi nhỏ và rồi dậy thì, về những người bạn của mỗi một giai đoạn sống, về mối băn khoăn một dạo đi tìm cho mình một cá tính – hay đúng hơn, tìm xem thực sự chỗ đứng của mình ở đâu, ra sao, để không còn vấp phải những lúc hụt hơi chạy theo biết bao nhiêu cái quyến rũ của cuộc sống mang mang. Bây giờ, nằm đây, nàng biết được gì về mình? Nàng tưởng rằng nhiều lắm. Nhưng đó vẫn chỉ là một chậu nước đục: phải đợi cho nó lắng xuống để có thể nhìn thấu suốt tất cả. Có một điều rõ rệt nhất, mà nàng có thể thấy được: nàng chán ngắt cái lộ trình được vạch sẵn này; nàng muốn trở về cái thế giới của một kẻ đi dạo không mục đích, nói và nghĩ những điều không-cần-thiết, có thể về một buổi mai chan hòa nắng ấm, có thể về một thảm cỏ hiền hòa, có thể về một đóa hoa sắp nở, về một khu rừng, một thửa ruộng, một tiếng chim kêu, một bãi biển, một đoạn văn hay ho đã đọc được, một bức tranh và nhiều nữa, hay gần hơn, về một đêm Giáng sinh thuở nhỏ đi lễ với người nhà và bị lạc… Đó, tất cả những điều không cần thiết bởi nó chẳng giúp ích gì cho ai và cũng chẳng làm hại ai, ngoài việc nó đem lại cho nàng đôi phút giây khoái lạc mơ hồ, nhẹ nhàng, tựa như chiếc lông chim vu vơ bay trong không gian và nhẹ nhàng rơi xuống thảm cỏ tâm hồn nàng.


      #3
        CTT 17.10.2008 01:21:04 (permalink)
        2.

        Người đàn ông đón nàng bằng cái cười gần như trẻ thơ ẩn giữa hàm râu quai nón gọn gàng chứng tỏ một chăm sóc cẩn thận khiến nàng tò mò nhìn ngắm. Dường như tia nhìn của nàng làm những sợi râu của hắn nhột nhạt và hắn đưa tay xoa xoa chúng như một thói quen nghịch ngợm:

        "Để râu trông già quá, hỉ?"

        Hắn nói xong cười sực sực làm cả thân hình rung lên, rồi hắn nghiêm ngay nét mặt lại, vẫn xoa xoa bàn tay trên những sợi râu, nói:

        "Mấy hôm nay, tôi trông bà quá. Hôm qua có việc đi về Quảng Nam, tôi có tạt qua Hội An đi vơ vẩn hy vọng gặp bà với cái áo dài màu nâu".

        "Nếu gặp, làm sao anh nhận ra tôi được?"

        Nàng nghịch ngợm hỏi.

        "Tự nhiên, tôi nghĩ là tôi sẽ nhận ra được. Chỉ tại không gặp đó thôi".

        Hắn nói xong rồi lại bật cười sực sực. Nàng thu hai tay vào áo lên nói một câu không cần thiết:

        "Trời lạnh quá. Mưa, lạnh và khung cảnh ở đây làm tôi nhớ đến miền Bắc. Lâu lắm rồi mới lại sống lại một Giáng sinh có tiết trời lạnh như thế này. Thực tình thì tôi nhớ rất ít về nơi tôi đã sinh ra".

        Nàng cảm thấy dường như hai người đã quen biết nhau từ lâu.

        "Chưa bao giờ anh Thiên gửi cho tôi một lá thư với lời gửi gấm cẩn thận như hôm nay, khiến tôi trông đợi một cách khá hiếu kỳ".

        "Anh với Thiên quen thân lắm?"

        "Tôi coi anh ấy như anh ruột. Nếu không, việc anh ấy lấy vợ đã không làm tôi thất vọng".

        "Thất vọng?"

        "Chứ sao!"

        Hắn nói xong, lại cười sực sực, đôi mắt chớp nhiều lần. Nàng chợt nhận ra người đàn ông đối diện có cặp mắt buồn và hơi long lanh. Cặp mắt ấy với miệng cười trẻ thơ dường như trái ngược với hàm râu quai nón. Có lẽ vì vậy mà hắn để râu? Cũng có thể để râu như hắn là một cái mốt, hoặc để râu để có dịp có một cái để chăm sóc, như người đàn bà có đôi má, có làn da để chăm sóc vậy thôi. Bỗng dưng nàng nghĩ: hắn chính là một bí ẩn trong những cái bí ẩn mà nàng chưa biết hết được của Thiên. Dầu sao nàng cảm thấy thoải mái khi ngồi với hắn, bỏ lại phía sau những người bạn đồng hành tẻ nhạt, đầy thận trọng và giữ gìn.

        "Đêm Giáng sinh vừa qua bà làm gì?"

        "Nằm đọc sách trong một phòng khách sạn ở Hội An và nghĩ về thành phố với bạn bè bỏ lại phía sau. Còn anh?"

        "Nghe nhạc Giáng sinh và tự hỏi cái người cầm giấy của mình ra sao và liệu có trở lại. Tôi đã lo sẵn cho bà một cái phòng".

        Nàng cười mơ hồ. Trông nàng có cái vẻ của một con mèo: lơ mơ và bí ẩn. Nàng không muốn cho hắn biết rằng thực ra nàng đã trở lại Đà Nẵng từ hai hôm trước, bằng một chuyến máy bay dân sự Mỹ do một gã thanh niên làm quen được tại Hội An điều đình xin giùm. Trúc, dường như đó là tên gã, có cái vẻ của một tên ăn chơi lọc lõi và có cái kiêu căng kiểu cách hợm mình của một gã làm sở Mỹ. Dù vậy, gã tỏ ra phóng túng làm nàng thấy dễ thở. Nàng cảm thấy không có gì trở ngại khi nhận lời gã mời đi ăn với một nhóm bạn bè nữa của gã. Nhưng đến lúc mọi người đề nghị đi nhảy thì nàng yêu cầu gã đưa ra bãi biển. Gã nhìn nàng, dường như cái đề nghị của nàng có vẻ kỳ cục. Trời mưa. Đường tối và đầy những ổ gà sũng nước. Có cái gì quyến rũ ở một bãi biển ngập nước và tối mù ấy mà em đòi ra? Gã gọi nàng là "em" ngọt sớt. Nàng không thích như vậy, nhưng nàng không phản đối. Chẳng có gì cả. Tôi muốn nghe tiếng sóng trong đêm. Nàng đáp. Ở đây có hai bãi biển: một, nay đã thuộc về bọn Mỹ; còn một thì không mấy an ninh về buổi tối. Dầu sao, em đã muốn thì tôi đưa đi, dù tôi nói trước là chẳng có gì để nhìn cả với màn đêm và trời mưa như thế này.

        Quả là chẳng có gì để nhìn cả. Chỉ có tiếng mưa rơi và tiếng sóng mơ hồ. Và ở ngoài xa khơi có những ngọn đèn điện viền quanh những khung các con tàu đậu im lìm. Em có biết một trong những con tàu kia là tàu chở xác người chết, hắn vừa nói vừa chỉ tay về phía những ngọn điện ngoài khơi, tất cả các người Mỹ chết trận đều được đưa về đó, một bọn người chuyên môn làm cái việc mổ bụng tử thi moi hết ruột gan vất xuống biển và sau đó, tử thi được ướp bằng những chất hóa học, đóng hòm gửi về cho thân nhân ở bên Mỹ. Nàng cảm thấy tội nghiệp cho những thân nhân của người đã chết: đã nhận một cái xác không hồn lại không cả ruột gan. Nếu tôi chết, tôi ưng được vất toàn thân xuống biển…

        Gã thanh niên bắt đầu chán sự vắng vẻ và cô tịch nơi bãi biển và câu chuyện về các tử thi do chính gã gợi ra. Gã muốn trở lại thành phố uống rượu và nhảy nhót với các bạn. Gã cảm thấy đứa con gái này bỗng nhiên ngẫm về các tử thi dù với vẻ đùa cợt bình thản hơi cay đắng. Dù sao, gã cũng chợt nhận thấy một con chim đơn độc tìm mồi trên bãi biển dưới trời mưa. Gã chỉ cho nàng xem, để rồi ân hận vì đã chỉ cho nàng xem con vật nhỏ. Bởi sau đó, gã lại thấy nàng bận rộn thương vay cho con chim nhỏ đơn độc giữa đêm mưa. Gã nói thôi đi về. Nàng không phản đối, để mặc gã đưa mình trở lại thành phố gói mình trong cái lạnh của đêm Giáng sinh. Gã bắt đầu chán người đồng hành thường bị lôi cuốn bởi những cái chẳng đáng gì xung quanh, trong lúc ngồi bên cạnh gã. Nàng hiểu điều đó nên buổi sáng hôm sau, khi gã còn đang ngủ, nàng bỏ đi thật sớm, với ý nghĩ về những người chết không-còn-hồn-không-còn-cả-ruột-gan và về con chim nhỏ lóng ngóng trên bãi biển trong đêm mưa tìm mồi – nó tìm gì? Một khúc ruột gan nào đó chăng? Tự nhiên nàng nghĩ con chim là một thứ oan hồn hiện hình, đi tìm lại khúc ruột, miếng gan đã mất tự kiếp nào… Bây giờ nàng ngồi đây, trước mặt hắn, chợt bắt gặp mình chú ý về đôi mắt buồn và nụ cười trẻ thơ ẩn giữa chòm râu quai nón, về âm thanh giọng cười sực sực của hắn, về vẻ bí ẩn của người bạn của hắn. Và nàng bắt gặp một thích thú mơ hồ.

        "Anh có tin là có một loài chim vốn là hiện thân của một oan hồn, chuyên luẩn quẩn ở những chỗ có người chết với hy vọng tìm lại một khúc ruột, một miếng gan đã mất tự kiếp nào…"

        Hắn bật cười sực sực.

        "Không, thật mà. Tôi đã trông thấy nó đêm qua, trên bãi biển trong cơn mưa, giữa trời đêm".

        Hắn nhìn người đối diện, đột nhiên thôi cười, tia mắt như có lửa. Nàng chợt cười ngất:

        "Nó biết rằng tìm kiếm vô ích, nhưng nó đã được sinh ra với số phận như vậy: bị kết án chung thân tìm kiếm. Giống tôi, giống Thiên, và có thể, giống cả anh nữa…"

        Hắn cười, nhưng không còn phát âm sực sực nữa. Hắn cười bằng nụ cười của một tấm ảnh chụp. Và nàng chợt im lặng, miệng méo xệch bất động, vẻ bất động của một tấm ảnh chụp. Nàng thầm nghĩ: cũng như Chúa mỗi năm ra đời một lần, chẳng phải cũng ẩn chứa trong cái sự ra đời đó một thái độ tìm kiếm đó sao? Nếu không, Người đã không ra đời, mỗi năm một lần như vậy. Đứa trẻ sơ sinh ấy chỉ sống một tuổi, rồi vội vàng đầu thai lại, để được sinh ra thêm một lần nữa, để thấy rằng mỗi kiếp của mình, cái điều tìm kiếm dường như xa vời hơn, và rồi xa vời hơn…

        Tiếng cười của nàng làm hai người hầu bàn chợt ngưng câu chuyện, quay lại nhìn hai người khách, rồi lại tiếp tục ngóng sang bên kia sông, nói tiếp câu chuyện đứt rời:

        "Trông nó như một cột ánh sáng muôn màu khổng lồ thật. Trông cũng đẹp mắt thật. Tiệm mình không có cây giáng sinh, nhìn nhờ cây giáng sinh bên kia sông, cũng đỡ lắm chớ. Này, nghe đâu tụi nó đưa cả một cái si-núc lên Đà Lạt chặt cây thông lớn nhất trên đó chở về đây lận đó".

        "Úi dào, tụi nó có chặt tất cả những cây thông ở Đà Lạt chở về đây cũng còn được, nữa là…"

        "Dám!"

        "Sao không ạ?! Tụi nó dám bỏ cả tỉ đô-la…"

        "Thôi thôi, tôi xin ông đừng lỡ dại cái điệp khúc ấy nữa. Chán quá rồi".

        "Đách muốn nghe thì đừng gợi chuyện với người ta, có được không?"

        Hắn vẫn nhìn người đối diện với cái nhìn bất động của một bức ảnh chụp, ngỡ ngàng, như cái vẻ ngỡ ngàng của nàng khi chợt thấy cây giáng sinh bên kia sông.
        #4
          CTT 17.10.2008 01:23:14 (permalink)
          Qua cơn nắng lửa

          Người đàn bà trạc độ ba ngoài ba mươi, đầu tóc rũ rượi, bẩn thỉu, quần áo xốc xếch nhưng là một thứ xốc xếch của loại áo quần hợp thời trang cách đây khoảng mười năm. Khuôn mặt nàng khá đẹp, thanh tú song lầm lì xa xôi. Đôi khi cơn điên dại nổi lên, nàng đi lang thang không biết mệt và hay hát những bài ca tiền chiến đứt quãng. Nhưng cũng đôi khi cơn điên dại đó được thể hiện qua việc nàng ngồi bất động như tượng đá trên cát, không nhìn ai, không nhìn cái gì cả. Tôi tưởng tượng nếu có ai bứng nàng đi một chỗ khác cũng không phản ứng. Và khuôn mặt sầu thảm như khuôn mặt Đức Bà trong tác phẩm La Pietà của điêu khắc gia Michelangelo.

          Tôi hỏi người đàn ông chài lưới đang ngồi vá lưới dưới tàn cây bàng:

          "Có bao giờ bà ta nghĩ đến chuyện tự tử không? Những vách đá kia và biển cả đó… dễ mà…"

          Người đàn ông không ngừng tay, nhìn tôi như thể câu hỏi của tôi có vẻ kỳ quái, đáp lời tôi:

          "Điên thì còn nghĩ đến gì nữa? Bả cứ vậy thôi, chẳng làm hại đến ai bao giờ. Hoặc là hát, hoặc là im lặng như đá. Người trong vùng quen với bà. Trẻ con đôi khi đến chọc ghẹo, nhưng bị người lớn la nên cũng bớt".

          "Buổi tối bà ta ngủ ở đâu?"

          "Gia đình bà ta rất khá giả. Sau khi đã chạy chữa đủ cách không thấy khỏi, đành tậu cho bà một căn nhà ở đây và cho người trông nom săn sóc cho bà. Bà ta thường thích ngủ trên cát hơn, kêu là giường nệm làm bà ta đau mình, cát êm hơn".

          "Ngủ ở cát ngay ngoài bãi này?"

          Người đàn ông gật đầu, vẫn chăm chỉ đan lưới:

          "Trước kia kìa. Chứ còn bây giờ, nhất là sau vụ bà ta bị thằng Mỹ đen say rượu làm bậy đến nay, bà ta bị ép đưa về nhà mỗi tối. Riết rồi như gà qué mình nuôi đêm xuống tìm được về chuồng ấy mà…"

          Đến đây, có tiếng đứa con gái của người đàn ông gọi từ dưới bãi. Ông ta buông lưới và chạy vội xuống giúp vợ con một tay kéo mẻ lưới vào. Tôi nhận ra bóng dáng người vợ mặc quần áo đen đang gắng sức cùng với đứa con kéo lưới vào. Mỗi mẻ lưới chẳng được bao nhiêu cá, toàn cá nhỏ. Người đàn ông bảo tôi cũng chỉ đủ thức ăn cho gia đình ấy mà cô. Đôi khi vợ tôi và con bé lớn chạy đi kiếm ít đồ họp tụi Mỹ dư dùng đem bán và bán lại cho bà con kiếm ít tiền đong gạo, cuộc sống kéo dài như vậy từ ngày thằng con lớn bỏ mình ngoài biển mang theo chiếc thuyền sản nghiệp của cả gia đình.

          Tôi nhìn người đàn bà điên dại ngồi bất động như tượng đá trên bãi cát.

          "Miền biển, ngày 29-3

          Anh,

          Đây là lá thư thứ mấy, không biết nữa, em viết cho anh mà không gửi. Nhưng em cảm thấy không thể không viết cho anh. Đôi khi em thu hết can đảm để bỏ một lá thư vào phong bì, đề tên anh, dán tem và quyết định mang đến bưu điện cùng với những lá thư khác. Nhưng kết quả là em lại trở về với lá thư định gửi cho anh còn lại trong xắc tay. Em lại xé lá thư ra, đọc lại và xếp vào một chỗ. Rút cục, em làm sưu tập chính những lá thư em viết cho anh. Đôi khi em nghĩ một cách khôi hài là biết đâu em sẽ trở thành điên như người đàn bà em gặp trên bãi mỗi ngày và người ta sẽ lục được xấp thư có vết gấp mà không gửi kia, người ta sẽ đọc, người ta sẽ xuất bản và cuối cùng, chúng đến tay anh không do quyết định của em để anh chua xót chơi, để anh ân hận chơi. Nhưng, cố nhiên, như em đã nói, đó chỉ là một ý nghĩ khôi hài thôi. Mình điên được, đâu phải dễ, nhất là lại điên vì tình. Vậy mà mình vẫn khổ, vẫn đau, vẫn bị dằn vặt, ray rứt cho được, mới lạ chứ! Và trong khi đó, mình vẫn có cả chục lý do để biện minh cho sự căm lặng của tình mình. Buồn cười thật, phải không anh? Và cũng khó hiểu và khó chịu thật, phải không anh?

          Em ra đây, tính ra đã được hơn một tuần. Tạm thời xa lánh cuộc sống bận rộn, u mê nơi thành phố khói bụi, chật hẹp; xa lánh bạn bè, những chỗ ngồi quen thuộc, những khuôn mặt quen thuộc, những băn khoăn không lối thoát cũng quen thuộc. Để làm gì? Em chỉ biết rằng em phải đi, nếu không, em sẽ điên loạn mất, điên loạn với những gì quá quen thuộc đến bế tắc kia, điên loạn với một tình yêu chôn kín, điên loạn với việc đối chất với chính bản thân mình bỗng trở nên tầm thường kỳ lạ.

          Hôm thoạt tiên ra đây, em buồn đến thê thảm – nhưng kỳ cục là trong nỗi buồn đó mình bắt gặp một niềm hạnh phúc cô đơn đến tuyệt vời. Em thuê phòng khách sạn, cái khách sạn đối diện với mặt biển, với mỗi lần hoàng hôn của ngày, mà em dự định sẽ thuê chung với anh nếu chúng mình cùng ra đây. Em muốn ở một mình, em muốn nghiền ngẫm nỗi đơn độc trong ý nghĩ về anh, về mối tình chưa được tỏ giữa chúng mình. Em dự định ở vài hôm rồi trở lại thành phố và bắt lại nhịp sống cũ nhưng với một tâm hồn tươi mát hơn nhờ được thở thiên nhiên. Nhưng được ba ngày thì em bắt đầu chịu không nổi. Em chưa bao giờ đi chơi xa một mình cả. Bao giờ cũng với một người, có thể chỉ là một người bạn, có thể là một người tình. Em nói ra vì biết anh không lạ đối với chuyện đó về em. Em lấy làm lạ vì trong chuyện xuất ngoại suốt mấy tháng trời, em vẫn thường ở khách sạn một mình một phòng. Dường như cái việc người con gái đến thuê phòng một mình ở khách sạn tại nước ngoài không gợi cho ai một chút ngạc nhiên hay tò mò cả. Và em thản nhiên ra vào khách sạn, hẹn hò với những người bạn ngoại quốc đi ăn đi chơi. Và đôi khi em mời họ vào phòng em nói chuyện. Với những buổi tối lần về đến khách sạn một mình lăn quay ra ngủ, không bận tâm gì ngoài nỗi nhớ nhà và mong mỏi chóng đến ngày về. Đôi khi em cũng cảm thấy đơn chiếc, lạc lõng, song cũng dễ dàng chấp nhận và chờ đợi ngày dứt công tác để về nước.

          Nhưng ở đây khác hẳn. Có lẽ vì chính mình tự nguyện nên bất cứ lúc nào mình cũng có thể và hoàn toàn tự do quyết định lại? Và có lẽ phải chăng đó cũng chính là nguyên nhân khiến cuộc sống của em trở thành một thứ ôm đồm để rồi rút cục cái gì cũng thành ra dở dang cả? Đôi khi em nghĩ nếu sinh ra trong một gia đình ở đó mọi sự đi lại, giao dịch bạn bè, học hành nhất nhất đều cần có sự đồng ý của một thứ cha mẹ trí thức, thương con và săn sóc đến độ gây ra những ràng buộc, như đa số bọn bạn gái của em, thì bây giờ em đã không là em hiện tại: thích làm gì thì làm, thích học gì thì học và bất cứ lúc nào cũng có thể bỏ tất cả những cái đang theo đuổi để khởi sự đi lại từ số không ở một phạm vi khác, để rút cục cái gì cũng là nửa chừng. Song, không phải tất cả những điều đó đã nhiều khi, khơi dậy trong em một thích thú tàn bạo đấy sao? Thành thực, em chẳng có gì để ân hận về cuộc sống của mình cả!

          Em đang sắp sửa lần về thành phố, bỏ ngang dự định "sống ẩn dật" trong một thời gian, thì một hôm đang đi lang thang ngoài chợ quận, em gặp bà dì. Chẳng nói chẳng rằng, bà quạt cho em một mách, rằng là tại sao ra đây mà chẳng ghé đằng bà ở, mà lại đi thuê khách sạn, rằng con gái con đứa ở một mình ở khách sạn không nên, chỉ có bọn con gái chơi bậy bạ mới làm như vậy, rồi bà thắc mắc hay là em đi với thằng nào nên mới phải thuê khách sạn. Tự nhiên em trả lời là em đi với anh. Bà bảo bộ mày lấy chồng rồi sao. Em bảo chưa. Bà trợn tròn mắt. Em chỉ cười. Bà tiếp chúng mày đi chơi chung, ra cô cậu văn minh nhỉ, lại thuê phòng chung và ngủ chung nữa, gớm thật. Bố mẹ chúng mày hục hặc nhau bỏ mặc chúng mày muốn làm gì thì làm. Hỏng, hỏng quá. Dột từ trên dột xuống. Em chỉ cười. Bà bắt em phải dẫn đến khách sạn tìm anh. Bà bảo bà phải gặp mặt anh, cho anh một mách, rằng thì là anh có thể coi thường bố mẹ em vì đã để em tự do quá trớn, nhưng anh phải biết là em còn có bà là dì em, dù đã từ lâu, bà giận bố mẹ vì bà xui mẹ em bỏ bố em vì những bê bối lục đục trong gia đình, nhưng mẹ em không chịu, rồi bố em biết chuyện đuổi bà đi và thề chết cũng không nhìn mặt bà nữa. Em chỉ cười và rưng rưng nước mắt một niềm vui sướng mơ hồ. Em tưởng tượng nếu những ngày này ở đây được sống với anh, chắc chẳng còn gì hạnh phúc hơn và đó phải là tuyệt đỉnh hạnh phúc của một trong những cuộc tình em đã trải qua – cuộc tình của anh và em, cuộc tình đã chẳng được nói nên lời, đã được thời gian và lòng cảm mến, kính trọng đúc kết nên, và em tin đó phải là một cuộc tình vĩnh cửu. Nhưng bởi cái ý nghĩ về một thứ hạnh phúc kia đã thức dậy trong em một niềm lo âu. Bởi vì sau cái tột đỉnh đó là gì? Em đứng dừng lại. Cùng một lúc em muốn được hưởng với anh những ngày cuối cùng còn lại trước khi anh lên đường nhập ngũ, sống với một số dự tính anh lập ra và đối với em là lý tưởng, để cho em có với anh một kỷ niệm tuyệt vời trước khi đi thật xa, cũng như cho anh có một kỷ niệm của chúng mình để nghĩ đến ở một nơi đèo heo hút gió nào đó sau những ngày ở quân trường; đồng thời, cùng với ý nghĩ trên, em lại cũng muốn sống với anh để giải tỏa phần nào những ẩn ức trong em trước một mối tình chưa một lời được ngỏ. Hai người yêu nhau dù chưa nói và dù những câu chuyện thuộc đủ loại đề tài đã được đề cập đến, sống trong một căn phòng nhỏ, phía trước là cửa sổ ngó ra mặt biển và buổi chiều, và một chút rượu, một chút can đảm… Dù vậy, mình đã không thực hiện. Em sợ. Không thể hiểu vì sao. Dường như hình ảnh của anh quá đẹp đối với em. Dường như nếp sống của một y sĩ điều độ trầm tĩnh và nặng suy tư của anh quá lý tưởng đối với em. Đến độ em nghĩ chắc gì anh có những đòi hỏi bình thường của một con đực trước một con cái, hay có chăng chỉ là một việc làm có tính cách vệ sinh, để giữ thăng bằng cho cuộc sống sinh lý. Và điều đó em lại không chấp nhận được, nhất là với anh, người em yêu.

          Và em đã ra đây một mình, vẫn với ý tưởng – hết sức tinh thần – là em ra đây với anh, là em đang nằm dài trên cát với anh, đang cùng giỡn sóng với anh, đang cùng tắm nước ngọt với anh, đang cùng băng qua khoảng sân khách sạn có những tàn cây bàng vĩ đại với anh, đang đợi anh lấy chìa khóa phòng ở bàn quản lý, đang cùng bước lên cầu thang với anh, đang cùng vào phòng với anh – căn phòng tuần trăng mật của hai đứa mình – đang cùng với anh ngắm cảnh hoàng hôn trên bãi bể, đang cùng nói chuyện với anh và cuối cùng yêu anh và được anh yêu để rồi ngủ trong vòng tay anh…

          Ba ngày như vậy, đủ cho em. Em xếp đồ đạc theo bà dì về ở chung với bà trong một nếp nhà cổ có vườn cây chung quanh… Với hình ảnh anh vương vất trên tóc, trên mắt, trên má, trên vai, trên thân thể con-gái-đàn-bà vào trong tâm trí em. Anh đã chiếm ngự em hoàn toàn rồi đó. Tình yêu anh đã chiếm ngự em trọn vẹn rồi đó. Dù là một thứ tình thầm lặng, tình không nụ hôn, tình không chăn gối. Nhưng bền chặt. Và em tin như vậy…"

          Căn nhà của người dì là một ngôi nhà cổ, mái ngói đỏ. Xung quanh nhà là một vườn cây ăn trái, nhưng tôi không hiểu vì lý do gì (có lẽ là thiếu nhân công), vườn đó không được chăm sóc nên cũng không gây được huê lợi nào đáng kể. Dì tôi sống một mình. Có người con gái duy nhất, chị tôi, đã đi lấy chồng và làm ăn ở thành phố. Nghe đâu cũng khá giả nên thường cung cấp cho bà mỗi tháng. Nhưng dì tôi không thích sống trong sự cung cấp đó, nên dì cho du khách mướn bớt những phòng trống trong nhà. Chỉ những người thích yên tịnh và có ý định nghỉ lâu tại đây mới tìm đến đây mướn phòng ở. Khách mướn phòng thường là do người nọ mách người kia kéo đến.

          Tôi ít gặp mặt dì tôi. Tôi nhớ lần cuối cùng bà ghé thăm chúng tôi với một giỏ đầy ắp trái cây, lúc đó tôi mới mười sáu, mười bảy tuổi. Cũng đến gần mười năm rồi. Kể từ hôm đó, bặt luôn. Cha tôi không mấy thích dì tôi vì bà bướng bỉnh, ưa chống đối ông và chê ông là thứ đàn ông vô trí thức. Ông cấm vợ con nhắc đến tên bà, nhất là bọn chị em gái tôi, vì ông bảo bà có một dĩ vãng không đẹp. Ở thời đại bà, nhờ chút ít học thức, theo lời mẹ tôi kể lại, bà bị các cụ liệt vào hạng con gái tân thời. Rồi bà yêu một người con trai không do gia đình chọn, bà vẫn cứ lấy dù bị gia đình từ. Khi bà sinh được chị tôi, người chồng đi theo kháng chiến và mất tích luôn. Bà đem chị tôi vào Nam sinh sống, lấy một người Tàu lai. Kết quả ông này cũng chết nốt và để lại cho bà một căn nhà, căn nhà bà đang ở hiện nay.

          Hôm đầu lôi tôi về nhà, bà bảo tôi:

          "Tao cũng có nhà cho thuê, sao mày không đến ở mà lại đi thuê ở ngoài khách sạn làm gì? Ở thời tao, tao cũng tân thời lắm, nhưng đâu dám như tụi bay bây giờ. Ngay như vào tiệm phở một mình, cũng chẳng dám, phải rủ bạn bè cùng đi".

          Tôi đáp:

          "Tại cháu không nhớ nhà dì. Dạo mẹ cháu cho ra đây nghỉ mát còn nhỏ quá, làm sao nhớ được. Dì nhận ra cháu, kể cũng hay thật".

          "Mày giống y như con mẹ mày dạo trẻ, sao tao lại không nhận ra. Tao già, chứ trí óc còn sáng lắm. Không ngờ thằng bố mày "tẩy não" chúng mày hay thật! Nhưng sao mày ra đây có một mình?"

          Tôi cười:

          "Thì dì vừa chẳng kêu ầm lên là sao cháu dám ra đây thuê phòng ở với một người đàn ông chưa phải là chồng cháu và dì cho như vậy là liều, sao bây giờ dì còn hỏi cháu câu đó?"

          "Tại tao tưởng mày nói thật. Mà sao mày phải nói dối tao?"

          Tôi không đáp. Tôi nghĩ đến Kha. Tôi không muốn giải thích với ai cả về chuyện đó, về những ý nghĩ tôi có trong đầu, về những tưởng tượng tôi nuôi dưỡng, ôm ấp, về niềm cô đơn đến gần như một khoái lạc tôi đang hưởng thụ. Dù cho đến cả Kha nữa, anh cũng chẳng bao giờ biết được đến những điều đó đâu.

          Tôi chiếm một căn phòng có cửa sổ ngó ra ngọn núi trên đó có một ngôi chùa mái đỏ tường trắng dường như cũng mới được cất gần đây. Căn phòng nhỏ, tất cả bằng ván – vách ván, sàn ván, trần ván - nhưng là một thứ ván đã lâu đời. Tôi nhớ hôm đầu tiên đến đây, tôi suýt ngã khi bước lên cầu thang vì gót giày đạp nhằm một chỗ ván mọt. Dì tôi theo sau chép miệng:

          "Ấy, con chị mày cứ bảo để vợ chồng nó về xây lại nhà cho tao, tao cứ lần khân mãi. Tao bảo còn ở được thì xây làm gì cho tốn kém. Để khi nào tao chết, căn nhà này thuộc về chúng, chúng nó muốn dỡ đi hay làm gì thì làm. Tao quen với không khí ở nhà này. Bây giờ xây lại, lại cần một thời gian nữa để làm quen, tao không đợi được".

          Trên lầu gồm bốn phòng, bọc xung quanh một phòng khách. Chỉ có hai phòng ở phía trước và phòng khách có cửa thông ra ban-công. Không có phòng tắm trên lầu vì nhà dựng từ lâu, tôi không rõ từ hồi nào, và có lẽ thời đó, người ta chưa nghĩ nhiều đến tiện nghi như bây giờ. Dưới nhà cũng tương tự như vậy, duy có thêm một cửa phía sau thông ra một mái hiên chạy dài xuống dãy nhà bếp, nhà tắm, cầu tiêu, v.v. Tóm lại, lối vẽ đồ họa của toà nhà không có gì là đặc sắc, thú vị cả, nhưng nhà sạch sẽ, ngăn nắp và yên tĩnh.

          Khi tôi đến, có hai người đàn ông thuê phòng trên lầu. Một người có lẽ là văn sĩ vì đêm đêm tôi nghe có tiếng máy chữ gõ lóc cóc. Hắn còn trẻ, trạc độ ngoài ba mươi, đôi mắt sáng quắc, nét mặt khắc khổ, lầm lì, ít nói. Hắn ở căn phòng đối diện với phòng tôi và cũng có một cửa thông ra ngoài ban-công. Hoặc là hắn ở trong phòng, hoặc là hắn đi ra ngoài. Tôi ít gặp hắn đứng ngoài ban-công. Một người đàn ông khác thuê phòng ở phía trong có dáng dấp một dân chạy áp-phe, nhưng cặp kính cận thị của hắn lại làm cho hắn có vẻ một nhà trí thức mô phạm. Hắn trạc độ bốn mươi. Dưới nhà có một gia đình thuê hai phòng một lúc gồm hai vợ chồng và năm đứa con tuổi từ hai đến chín, với một chị người làm. Bọn nhỏ có nước da sạm đi vì nắng và gió biển. Bà dì tôi ở một căn phòng dưới nhà. Bà bảo tôi:

          "Bọn nhỏ, có chúng cũng vui, nhưng nhiều khi chúng làm ồn quá, nhất là mấy đứa con trai. Chẳng các cậu ra đây sung sức mà!"

          Một căn phòng trên lầu và căn phòng dưới nhà bỏ trống.

          Mỗi sáng tôi thức dậy khi nghe tiếng gõ mõ tụng kinh của bà dì; và khi tiếng chim bắt đầu ríu rít trên những ngọn ổi, cành mãng cầu ngoài vườn, tiếng gõ mõ tụng kinh dứt và trời vừa sáng bên ngoài. Những tia nắng đầu tiên trong ngày chiếu xiên xiên trên vạn vật, xuyên qua những kẽ cây, chùm lá. Tôi nhận thấy tia nắng sớm ở thành phố thường đối với tôi đã trong lành, đã có mãnh lực kích thích nhiệt tâm của một tâm hồn đam mê nhưng cũng nhiều mệt mỏi như tôi; nhưng ở đây, nắng sớm còn trong lành hơn nữa, song ngược lại tôi cảm thấy tâm hồn êm ả, thoải mái. Tôi thấy thèm đi xuống bãi, thèm đi tung tăng, thèm nghe tiếng sóng và nhìn những khuôn mặt người ta xuống bãi buổi sớm, như khi ở thành phố, mỗi buổi sáng, tôi thích đi ra đường, nhìn sinh hoạt phố phường chưa nhuốm mỏi mệt của một ngày vất vả, oi nồng, và tôi thích ngồi ở một quán cà-phê đối diện với một con đường lớn với những cửa tiệm trang hoàng theo lối mới nằm dưới một dãy nhà còn nguyên những chiếc cửa sổ những bức tường cổ, và đối diện với một con đường nhỏ với những cửa hàng bán đồ tiểu công nghệ còn khép kín cửa. Những lúc tôi rời tiệm cà-phê đi làm việc cũng là lúc mà những cửa tiệm đối diện bên kia bắt đầu sinh hoạt như một cô gái đài các sống bằng thứ lợi tức sẵn có của gia đình. Tôi yêu những buổi sáng vì vậy.

          Tôi thường trở dậy khi bà dì dứt tiếng mõ cầu kinh ở dưới nhà. Đôi khi tôi nằm lại trên giường nhìn lớp sương mù còn vương vất trong cảm giác thấm lạnh ở ngọn núi bên kia khung cửa sổ. Tôi nghĩ đến Kha. Lúc này chàng đang làm gì và ở đâu. Tôi tẩn mẩn tự hỏi làm cách nào để mình biết được Kha cũng đang nghĩ đến tôi. Có lẽ Kha đã lên đường. Tôi nhớ Kha và bằng lòng với nỗi nhớ ấy. Tôi thầm nói với Kha: Anh không phải là người đầu tiên nhưng hẳn anh phải là người cuối cùng với tất cả những gì còn nguyên vẹn. Bởi vì tình chúng ta, trước khi lên đến tột đỉnh, đã kịp hóa thành mây giăng giăng trong không gian đời em…

          Tôi khép mắt lại, tưởng như có một nụ hôn nào đó đang đậu xuống môi, xuống mắt, xuống thân thể, xuống tâm hồn mình.

          Dì tôi vừa khuấy bột với trứng gà vừa hỏi, không nhìn tôi:

          "Năm nay mày bao nhiêu rồi?"

          "Hai mươi sáu".

          "Vậy mà chưa lấy chồng còn đợi gì? Bây giờ con gái có công ăn việc làm như chúng mày, thường lấy chồng trễ. Có phải vì chúng mày thấy là có thể tự nuôi sống lấy thân nên không cần nhờ người đàn ông không?"

          Rồi không đợi tôi trả lời, bà tiếp ngay:

          "Mà nói cho cùng, bọn con trai bị gọi đi lính, cố lấy vào, chờ đợi cũng tội lắm. Chồng đi đánh trận về, nguyên lành là phúc bảy mươi đời; chết, thì cũng còn tàm tạm, sau một thời gian nguôi ngoai, còn tái giá được; chứ mà nó dẫn xác về thiếu cái chân hay cái tay hay đui chột, mới là khổ. Bỏ thì thương, vương thì tội. Ấy là chưa kể cảnh thằng chồng nằm đó, hay kiếm tiền không bằng vợ con, rồi sinh cảnh chàng tự ái, mới là thảm".

          Tôi ngồi chống tay xem bà làm bánh, nghe bà nói, không khỏi bật cười và nghe chua xót thế nào. Dì tôi nói tiếp:

          "Mà làm đàn bà không lấy chồng cũng không xong! Khổ vậy".

          Tôi nghếch mắt lên nhìn bà dì, hỏi, giọng nghịch ngợm:

          "Thế dì cho là làm đàn bà thì buộc phải lấy chồng sao?"

          "Chứ sao nữa! Chứ mày muốn cái gì? Sống để làm bà cô à? Bây giờ cô còn trẻ, còn nhan sắc, cô thấy chưa cần. Nhưng rồi đến một tuổi nào đó rồi cô sẽ thấy không chịu được, cho mà xem. Cứ thử đi, rồi sẽ thấy! Khi người chồng trước của dì mất tích, dì tưởng có thể sống chờ chồng được. Dạo ấy dì mới hai mươi lăm tuổi. Bằng mày bây giờ. Một năm, hai năm, rồi năm năm… Mày không thể tưởng tượng được sự chờ đợi nó ghê sợ như thế nào, nó dài dặc, nó khắc khoải như thế nào... Rồi xảy ra vụ di cư. Mãi áp ngày tiếp thu Hải Phòng, dì mới lên đường vào Nam, nhưng cũng cố nhắn những bạn bè bà con ở lại, là nếu gặp lại chú mày thì nhắn lại giùm dì vẫn đợi, vẫn mong và dì hy vọng năm 1956 sẽ có tổng tuyển cử, cũng như dì vẫn hy vọng chú mày còn sống. Rồi 1956 qua. Dì tuyệt vọng hoàn toàn…

          Dì tôi bỏ lửng câu chuyện, đi vào bếp xem xét lại lò than. Một lúc sau bà trở ra chỗ tôi ngồi.

          Tôi nói, mắt nhìn xuống những vỏ trứng vỡ bỏ rải rác trên bàn:

          "Đôi khi cháu tiếc không được làm con của dì".

          "Gia đình mày bây giờ ra sao? Mày ra đây rồi bố mẹ mày nói sao?"

          "Vầy vậy. Thực ra, bây giờ, cháu muốn nói từ hai năm trở lại đây, cháu ít bị chi phối bởi những chuyện xảy ra trong nhà. Cháu đi làm, đem tiền về giúp mẹ cháu chút đỉnh, nhất là để bà thỉnh thoảng có tiền gửi riêng cho các em cháu đi lính ở xa vốn bị bố cháu ghét bỏ. Cháu đi thế này, cháu chỉ bảo với mẹ cháu là cháu đi công tác ít bữa. Bố cháu cũng chẳng nói được gì bây giờ. Gia đình cháu thế nào, thì dì biết đấy. Bố mẹ cháu vẫn không ăn ý, từ hồi nào đến giờ, nhưng vẫn gắng sống với nhau. Đôi lúc cháu muốn đi thuê một căn phòng sống một mình cho đỡ mệt đầu, nhưng vì nghĩ đến mẹ cháu bây giờ đã già lại bệnh tật… Suy nghĩ về cuộc hôn nhân của bố mẹ cháu, nên cháu vẫn do dự trong việc lấy chồng vì vậy. Cháu có cảm tưởng ngày trước và ngay cả bây giờ, người ta vẫn quan niệm hôn nhân như một cái gì tự nhiên, có tính cách bản năng nhiều. Nhưng cháu, cháu cho là cần phải có một sự giáo dục về hôn nhân, để cho những đứa con về sau này không cảm thấy chúng nó là kẻ lạ trong chính gia đình mình. Đâu phải cứ yêu nhau là phải lấy nhau, phải sống với nhau… Tại sao thường những người yêu nhau lại muốn lấy nhau? Chỉ vì họ muốn giữ nhau làm của riêng – đó là một thứ ảo tưởng về quyền tư hữu".

          "Mày phức tạp quá! Nghĩ lắm chỉ tổ khổ. Rồi đến khi "người ta lấy hết chổng mông mà gào" đấy, con ạ".

          Tôi phá lên cười. Và tôi thầm nhủ tôi có đang tự biện minh về trường hợp Kha và tôi không?

          Dì tôi đột nhiên hỏi:

          "Mày yêu ai chưa? Nói thử tao nghe cái coi".

          Tôi đáp lửng lờ:

          "Thì cũng yêu đương lăng nhăng vậy thôi, chẳng có gì đáng kể cả…"

          Tôi bỏ lửng câu nói, nhưng tôi chợt ngồi thừ ra, hơi mỉm cười. Dì tôi nhìn tôi, giọng hóm hỉnh:

          "Mày đang yêu ai phải không?"

          "Sao dì tinh quá vậy? Nhưng chẳng đi đến đâu cả".

          "Tại sao? Thằng đó ra sao? Nó làm gì? Năm nay bao nhiêu tuổi".

          "Dì hỏi lý lịch người ta làm gì mà kỹ vậy? Cháu đã bảo là chẳng đi đến đâu cả, dì biết làm gì".

          "Nhưng ít ra mày cũng phải cho tao biết tại sao chúng mày không định lấy nhau? Chẳng lẽ yêu nhau để chơi vậy thôi sao?"

          "Thực ra chưa có gì gọi là rõ ràng giữa chúng cháu cả, cháu yêu người ta, người ta yêu cháu, nhưng chưa đứa nào nói với đứa nào về điều đó cả. Hắn sắp nhập ngũ, hắn muốn sống thật nhiều trước khi bó mình vào khuôn khổ gia đình. Còn cháu, cháu cũng còn nhiều ham hố, thích đi đây đó và sống với tuổi trẻ của mình một cách đầy đủ, trọn vẹn. Tóm lại, cháu cảm thấy mình chưa muốn hy sinh cuộc sống tự do hiện tại. Cháu vẫn nghĩ, vẫn phân biệt giữa tình yêu và hôn nhân. Tình yêu phải là cái gì do con tim mình cảm được. Còn hôn nhân đòi hỏi sự suy nghĩ cân nhắc. Nếu căn bản hôn nhân đặt trên tình yêu, cháu e tình yêu sẽ có ngày bị mòn mỏi vì những bất đồng, những tật xấu mà khi yêu người ta không nhìn thấy được. Cháu ít chịu đựng được trước những điều đó – chẳng thà mình nhìn thấy trước tất cả, mình dự liệu tất cả… Khốn nỗi khi yêu, cháu chỉ nhìn thấy cái hay cái đẹp cái lý tưởng, do đó cháu sợ…"

          Bà dì tôi thở dài rất nhẹ, nói:

          "Tụi trẻ chúng mày bây giờ phức tạp quá, bày đặt quá. Yêu nhau, nhằm có thể lấy nhau được thì cứ lấy. Mày biết là ngày xưa vì yêu và nhất định lấy chú mày, mà tao bị ông bà ngoại từ đấy. Ai cân nhắc kỹ bằng ông bà ngày xưa khi gả mẹ mày cho bố mày. Bây giờ mày thấy cái hậu quả ra sao rồi chứ?"

          "Dì hiểu nhầm chữ "cân nhắc" của cháu. Ngày xưa, mẹ cháu lấy bố cháu là do quyết định của ông bà, không cần biết bố mẹ cháu có hợp với nhau không, có thông cảm được với nhau không, có giúp đỡ được gì cho nhau không, v.v. và nhất là có sự cảm phục quý trọng dành cho nhau không? Nhưng bây giờ chúng cháu có quyền chọn lựa và hoàn toàn chịu trách nhiệm về hạnh phúc của mình. Cháu vẫn yêu, nhưng không muốn bị tình yêu làm mất sự sáng suốt… Đành rằng khi yêu ai không muốn được sống chung với người yêu. Nhưng cứ nghĩ đến lúc tình yêu bị mòn mỏi với tháng năm sống chung, cháu sờ sợ thế nào. Ấy là chưa kể trong tình yêu còn có thể có sự hủy diệt lẫn nhau, bằng cách này hay cách khác…"

          "Mày nói cái gì tao không hiểu. Mày nói có vẻ kinh nghiệm, từng trải lắm, làm như mày chưa yêu lần nào và chỉ đọc trong sách không à!"

          Tôi bật cười. Tôi muốn nói một câu gì ngược lại với câu nói của bà dì, nhưng tôi kìm hãm lại được. Tại sao tôi cứ cố giải thích? Thật kỳ cục. Sự bình tĩnh quá đáng thường che đậy một sự xáo trộn khủng khiếp của nội tâm. Tôi quá nhiều kiêu hãnh để dám nói thẳng điều đó với bất cứ ai.

          "Miền biển, ngày 10-4

          Anh,

          Thế là em chịu thua với chính em rồi đó. Hơn một lần đối diện với anh, em muốn hỏi anh câu: "Liệu em có thể đem lại hạnh phúc cho anh?", nhưng em không đủ can đảm, vì lẽ mệnh đề trước chưa được anh nói ra, em đâu có quyền gì nói tới mệnh đề sau? Chúng mình vẫn cứ bàn quanh những chuyện thời cuộc, sinh hoạt xung quanh, về những người bạn của chung cả hai đứa, như hai người bạn - hẳn nhiên là em cũng thích như vậy và em vẫn tin là chỉ có tình bạn là vững bền - nhưng làm sao tránh được niềm chua xót sau khi giã từ anh ra về. Em còn nhớ lần cuối cùng gặp anh tại nhà anh, em đã hỏi anh nghĩ gì về hôn nhân. Anh bảo chưa nghĩ gì cả, đợi sống một thời gian trong quân đội đã rồi về tính. Như một người chỉ huy một đoàn quân cố gắng đánh chiếm một cái đồn địch, áp dụng chiến thuật này rồi chiến thuật kia, nhưng đến khi vào đến trong đồn mới hay là đồn bỏ hoang. Viên chỉ huy này quả là tồi, thế mà cứ tưởng mình ghê gớm lắm! Tự nhiên, em liên tưởng tới hai nhân vật trong phim "Été et Fumée" và câu ví von của nàng Alma về hai kẻ cùng đến thăm nhau một lúc và không ai gặp ai ở nhà. Kết cục của cuốn phim làm em xót xa cho chúng mình. Tại sao vậy anh? Ba năm quen biết với anh, cảm phục anh, quý mến rồi yêu anh, cái tình yêu đứt quãng và ray rứt. Đôi khi thấy mình thật vô lý, thật ngớ ngẩn. Và em lý luận, phân tích để có dịp dứt khoát với lòng mình… Em biết anh yêu em. Nhưng vì nhiều lý do, anh không muốn bộc lộ. Còn em, với bản chất đam mê và chỉ nghĩ đến chiếm đoạt, dù trong một khoảng thời gian nào đó, cái ngôi vị của một kẻ được sủng ái. Em đã từng hành động như vậy; nhưng lần này với anh, em sợ. Em quá trọng anh, do đó bắt buộc phải tự trọng. Và có lẽ em bắt đầu thấy mình sắp sửa không còn có thể yêu một cách thơ mộng như thời gian trước đây nữa chăng, nên em sợ, sợ sẽ làm đổ vỡ một mối tình mà em vẫn cho là đẹp là thơ mộng như mối tình đầu của em cách đây bảy, tám năm, với một gã con trai mang những đặc tính khá giống anh bây giờ…"

          Hắn có lối nói chuyện hay bỏ lửng câu, như người vẽ những hình trên cát, trước khi hoàn tất, đã vội xoá bỏ. Nhiều lần hắn tiếp tục nói trong cổ họng, tôi không nghe rõ gì hết. Hắn có vẻ mặt nặng nề của pho tượng Triết nhân của điêu khắc gia Rodin.

          "Nghe đâu bà ta điên vì đã làm cho một người điên vì bà ấy…"

          Tôi đang rũ rũ mớ tóc ướt và bết vì muối biển, chợt ngừng tay lại:

          "Thế nghĩa là làm sao?"

          "Theo lời những người biết chuyện kể lại thì bà ta hối hận nên hóa điên. Tôi thì tôi nghĩ khác…"

          Hắn rút trong túi ra bao thuốc lá gần xẹp lép, cong queo, moi ra một điếu thuốc vuốt nhẹ giữa những ngón tay dài, rồi quẹt lửa châm hút. Tôi chờ cho hắn tiếp tục câu chuyện, nhưng hắn im lặng hút thuốc.

          "Thế theo ông thì tại sao bà ta điên?"

          "Tại bà ta yêu người con trai đã điên vì bà ta. Anh ta vốn là một thầy tu xuất".

          Lối nói chuyện của hắn như vậy, từng câu từng câu đứt khúc. Có lẽ người đối thoại mà thôi không hỏi nữa, hắn cũng sẽ im luôn.

          "Tại sao lại tu xuất?"

          "Chắc tại một lý do nào đó, nhưng dường như hắn mang cái bệnh ghê tởm đàn bà. Do một cái ấn tượng nào đó từ độ mới lớn. Hắn xin đi tu, rồi xuất. Hắn dường như chỉ đọc sách suốt ngày. Khi đến đây nghỉ mát, bà ta là một thiếu nữ có học, đã sống và biết đời nhiều. Hai người gặp nhau, nói chuyện xem ra hợp lắm. Dường như họ yêu nhau bằng tình yêu nặng tinh thần. Nhưng người con gái thích có một mối tình trọn vẹn hơn, gồm cả thể xác lẫn tinh thần, hay cũng có thể nàng muốn chấm dứt cái lối yêu đương theo kiểu tinh thần lắm ray rứt này, nên nàng đòi hỏi. Nàng hy vọng nàng sẽ chấm dứt được nỗi ray rứt sau khi gần gã con trai. Sau khi trao đổi cái hôn đầu với nàng, gã con trai bỗng kinh hoàng. Hắn bỏ đi biệt. Cái ấn tượng khủng khiếp thuở mới bước vào tuổi dậy thì trở lại với hắn. Hắn hóa điên. Còn nàng, nàng hối hận, rồi lẫn trong niềm hối hận đó, nàng thấy nàng yêu gã con trai thật. Bị dằn vặt, nàng hóa điên luôn".

          Hắn nói như đang kể câu chuyện của chính mình. Hắn có vẻ say sưa. Hắn ngừng nói, búng điếu thuốc ra xa. Đột nhiên, giữa sự im lặng, hắn cười lớn rồi hỏi tôi:

          "Có tin như vậy không?"

          Rồi không đợi trả lời, hắn tiếp:

          "Tôi bịa ra đấy".

          Tôi không đáp. Tôi hơi bực mình vì lối nói chuyện ngắt quãng và cái vẻ khinh thường ở hắn. Hắn tưởng hắn là văn sĩ rồi cứ việc tự cho phép mình làm ra vẻ khinh bạc chắc. Dường như đọc được ý nghĩ của tôi, hắn nói giọng nhỏ nhẹ gần như tâm sự:

          "Tôi không phải là văn sĩ đâu. Tiếng máy chữ mà cô nghe lóc cóc ban đêm là tiếng máy chữ thu băng đó mà. Hẳn là cô phải phân biệt được tiếng máy chữ thật với tiếng máy chữ thu băng chứ? Nó chỉ có ý nghĩa như tiếng gõ mõ của bà cụ chủ nhà mỗi sáng sớm thôi, ấy mà. Tôi dùng tiếng máy chữ để tự ru ngủ đấy. Ngày xưa, khi tôi còn nhỏ, mẹ tôi làm thư ký đánh máy cho một hãng buôn. Tiền lương không đủ nuôi tôi nên mẹ tôi lãnh đồ người ta đặt đánh máy về đánh ban đêm ở nhà. Lúc đó tôi mới bốn, năm tuổi, chỉ muốn mẹ lên giường nằm cùng với mình và kể chuyện cho nghe. Mẹ tôi dỗ tôi bằng câu chuyện thế này: "Ngày xửa ngày xưa có một cô bé chỉ ham nhảy múa, chẳng chịu học hành. Một hôm, một bà tiên hiện ra cho cô bé một đôi guốc gỗ thật đẹp, thật xinh. Cô bé đi guốc vào rồi tự nhiên guốc dính chặt vào chân và đôi guốc nhảy lung tung bắt buộc cô bé phải nhảy theo. Con có biết cô bé nhảy thế nào không? Cô bé nhảy như thế này này…". Và mẹ tôi ngồi vào bàn đánh máy sau khi bảo tôi nhắm mắt lại. Từ đó, quen lệ, tôi thường ngủ thiếp giữa tiếng máy chữ gõ lóc cóc lóc cóc. Đến khi bảy, tám tuổi, thỉnh thoảng tôi còn bắt mẹ tôi kể lại chuyện đó cho nghe. Đến một lúc nào đó tôi không biết và có biết chắc cũng chẳng nhớ, tôi cần tiếng máy chữ để ru mình ngủ và cũng để tưởng nhớ đến mẹ tôi nữa. Nhà nghèo, mẹ phải làm việc khuya không có thời giờ hát ru con ngủ… Tôi sinh ra không có cha".

          Hắn im lặng. Mắt nhìn ra mặt biển. Tôi thấy hắn có vẻ bất thường. Chợt ngạo mạn. Chợt thành thật. Chợt say sưa. Chợt phẫn nộ.

          Tôi nhớ chính mình đã làm quen với hắn vào một buổi tối, trời có trăng, tôi đang nằm trên bãi dưới gốc dương, và hắn từ dưới biển đi lên. Hắn không nhận ra tôi. Nhưng tôi, tôi nhận ra hắn liền.

          Thấy tôi, hắn định bỏ đi chỗ khác. Tự nhiên tôi muốn có một người để trò chuyện. Bởi trăng đẹp quá. Và sóng nhấp nhô như có nạm bạc. Tôi lên tiếng:

          "Ông cũng thích trăng ở biển sao?"

          Hắn dừng lại, ngỡ ngàng nhìn tôi. Hắn có vẻ đơn độc và lại tỏ vẻ khó chịu khi có người quấy phá sự đơn độc của mình. Cũng có thể hắn không nhận ra tôi. Tôi tiếp:

          "Trăng đẹp quá. Tôi không thể nằm trong phòng. Tôi sợ bỏ phí một đêm trăng. Chắc đêm nay ông sẽ cảm thấy thêm hứng thú để làm việc?"

          Chúng tôi đi dạo với nhau và trao đổi những mẩu đối thoại rời rạc, nhưng cả hắn lẫn tôi cùng không cảm thấy sự dè dặt.

          "Thì ra cô ở căn phòng sát bên phòng tôi? Chắc cô cũng ra đây nghỉ?"

          "Như vậy, ông cũng ra đây nghỉ vậy thôi?"

          "Tôi không biết phải nói sao. Cứ tạm cho là như vậy đi".

          Hắn nói, giọng ngần ngừ. Dường như hắn không muốn nói khác điều hắn cảm nghĩ, nhưng hắn lại không muốn giải thích dài dòng về những điều riêng tư mà chỉ mình hắn cảm được. Tôi để ý trong lối nói chuyện của hắn, hắn hay dùng câu: "Cứ tạm cho là như vậy đi". Tôi thấy câu đó ngồ ngộ. Một cách chấp nhận những xét đoán của người khác, mà thực sự không chấp nhận gì cả: Muốn sao cũng được, nhưng tôi vẫn giữ lập trường của tôi.

          "Tôi thấy ông ít khi ở trong phòng…"

          "Tôi đi câu, hoặc xuống xóm chài quan sát sinh hoạt của người dân ở đó. Có nhiều cái thú vị. Và tội nghiệp nữa…"

          "Chẳng bao giờ tôi thấy ông đem cá câu được về?"

          "Tôi câu chơi vậy thôi. Được toàn cá nhỏ. Ai xin thì cho. Trăng sáng thế này cô phải tắm mới cạnh tranh được trọn vẹn cái thú ở biển vào một đêm trăng. Phải thấy được những mảng trăng trôi bồng bềnh xung quanh mình…"

          Những mảng trăng trôi bồng bềnh xung quanh mình. Hắn có một giọng nói ấm cúng như người kể chuyện thần thoại. Dường như ở hắn cũng có một cái gì thần thoại nữa… Những mảng trăng trôi bồng bềnh xung quanh mình…

          "Thành phố giữa mùa mưa, ngày 23-7

          Anh,

          Thế cũng xong. Em viết lá thư cuối cùng này cho anh, để rồi không bao giờ viết nữa.

          Bây giờ em cảm thấy mình đủ, dù với một chút xót xa.

          Ngày mai, em sẽ lên đường với chồng ra miền biển nơi em đã đến sống với hình ảnh anh, ngủ với hình ảnh anh và cũng là nơi em đã gặp Tuân. Sau những chuyện đổi trao, em nhận thấy Tuân là người cô độc và chân thật. Câu chuyện cố nhiên không phải giản dị có vậy. Em thấy không cần thiết phải kể với anh nhiều vì chỉ làm bận anh thêm. Khi Tuân ngỏ ý hỏi em làm vợ, em đã xin anh ấy một thời gian để suy nghĩ và cân nhắc. Tuân thông cảm em hầu như trên mọi lĩnh vực. Và nhất là dù hơn em đến gần mười tuổi, nhưng Tuân cần em, đôi khi nhu cầu đó bộc lộ một cách thái quá khiến em có cảm tưởng như mình là một người mẹ. Người đàn bà thường lẩm cẩm như vậy, nhất là người đàn bà ở em. Em sung sướng vì cảm thấy mình là một cần thiết đối với một người. Ít ra là như vậy. Trong khi đó em và Tuân vẫn có thể cùng nhau bàn về những loại vấn đề mà em vẫn bàn với anh. Và Tuân cũng đã từng giúp em những lúc tinh thần em căng thẳng, xuống dốc. Em mang ơn Tuân.

          Bây giờ thì em hiểu. Anh và em quá độc lập, đối với nhau. Tinh thần anh vững vàng quá, hay cũng có thể đó là dưới cái nhìn của em. Em bất thường song lại tự ái trước sự vững vàng của anh, nên cũng đóng bộ mặt độc lập với anh. Biết đâu, ngược lại, anh cũng cảm thấy thế? Và chúng ta cứ mãi cách biệt nhau. Em biết anh yêu em chứ. Bạn bè nói lại với em như vậy. Và linh tính đàn bà bảo với em như vậy.

          Nhưng thà như vậy còn hơn. Bởi vì em sợ một cuộc sống chung trong đó hai người cùng giữ miếng với nhau, không phải vì cố tình như vậy, mà vì hoàn cảnh, vì mặc cảm, vì không đủ can đảm nói lên, nói thật.

          Không, hôn nhân không thể như vậy được. Nó sẽ trở thành một thứ địa ngục. Nó sẽ chôn sống tình yêu. Nó sẽ làm chúng ta hủy diệt lẫn nhau. Nó sẽ chứa trong nó sự thất bại mà bố mẹ đã lãnh và để bọn anh chị em em chịu mọi hậu quả.

          Sống với Tuân, yêu quý và cảm phục Tuân, giúp đỡ và đem lại cho Tuân những gì mà em có thể đem lại được; nhưng em vẫn nghĩ về anh như người tình cuối cùng. Tình đó sẽ chẳng thể nhạt phai, mà chỉ có thể lắng xuống. Và em không cảm thấy em đã phản bội một ai, trong hai người, anh và Tuân.

          Hôn anh nụ hôn đầu tiên và cuối cùng,

          Em."
          #5
            CTT 17.10.2008 01:26:30 (permalink)
            Hai người bạn

            Nửa đêm, có lẽ vào khoảng một hay hai giờ sáng, Kim cũng chẳng nhớ rõ, chiếc điện thoại đặt trên bàn ngủ ngăn giữa hai chiếc giường một người nằm chợt reo vang. Hai người cùng choàng tỉnh dậy. Trước khi Kim kịp xoay người về phía bàn ngủ, Supinda đã chụp lấy ống điện thoại trong bóng tối. Kim vẫn nằm im trong chăn mặt xoay vào tường, đôi mắt còn tiếp tục ngủ nhưng tâm trí lơ mơ tỉnh thức. Khi Supinda kêu lên mừng rỡ và gọi tên người ở đầu dây bên kia, Kim hiểu rằng nàng nên để cho người bạn Thái nghĩ là nàng vẫn đang ngủ. Mà quả tình Kim cố dỗ cho mình ngủ lại để khỏi nghĩ ngợi lung tung thêm phiền muộn. Nhưng đâu dễ gì. Vì Supinda đang nói chuyện với người ở đầu dây bên kia bằng thứ tiếng mà Kim nghe, dù vô tình, cũng vẫn hiểu được.

            "Ô, Krishnan! Em nhớ anh quá đi mất thôi. Em gọi anh từ lúc tám giờ tối, sao mãi giờ này anh mới trả lời?"

            "…"

            "Em đã ngủ được một giấc, và em mơ thấy em đang đi dạo trên đường phố Bangkok bên cạnh anh".

            "…"

            "Ồ, chẳng có gì thú vị cả! Toàn là gặp mấy mụ già không à! Anh phải thấy được cách họ "hành hạ" em như thế nào! Em không được ngủ trễ, không được ngủ trưa. Trễ giờ hẹn một chút xíu là họ bất bình ra mặt. Lúc nào cũng giờ giấc. Mà anh cũng biết đấy: Supinda của anh có bao giờ chịu đeo đồng hồ đâu. Cái gì mình thích thì họ cũng không chịu cho mình làm, trong khi đó lúc nào họ cũng cho mình là khách của họ! Khách gì mà như là tù giam ấy thôi! Chán quá. Em chịu hết nổi rồi. Em nhớ anh quá, Krishnan!"

            "…"

            "Nhưng mà họ giữ vé máy bay của em ngay khi vừa đặt chân đến đây rồi, còn đâu! Em tưởng họ giữ để xác định lại ngày về với hãng hàng không. Về sau Kim mới cho em biết là có một số người đến đây, nhớ nhà nên bỏ dở chuyến đi và tự ý về nước, nên về sau này họ quyết định giữ vé máy bay của tất cả những người được mời, chỉ trả lại khi nào đến sát ngày về".

            "…"

            "À, Kim là cô bạn Việt Nam cùng được mời đến đây như em. Nó dễ thương lắm. Cũng may có hai đứa cùng người Á châu với nhau…"

            "..."

            "Được em sẽ chuyển lời cho anh. Nó đang ngủ. Lúc nhớ anh em thường kể với nó về chuyện tụi mình".

            "…"

            "Em đếm từng ngày để trở về nhà. Krishnan, em nhớ anh chết được!"

            "…"

            "Trời ạ! Anh phải thấy cách mấy mụ ấy lúc nào cũng coi em như là con cháu trong nhà ấy thôi! Thậm chí cả những lúc họ đã trả em về khách sạn rồi mà chốc chốc lại gọi dây nói hỏi thăm như sợ mình biến mất không chừng!"

            "…"

            "Vâng, anh Krishnan yêu quý. Em hy vọng gặp anh ở Âu châu. Còn một tháng mấy nữa thôi, nhưng sao em thấy thời gian dài lê thê. Bây giờ ở bên nhà là mấy giờ hả anh?"

            "…"

            "Vâng, em chỉ mong có thế. Hôn anh. Em sẽ gọi anh ở mỗi chỗ em đến. Mốt em đi New York rồi… Vâng, hẳn là ở đó em sẽ cảm thấy dễ chịu hơn vì có gia đình anh họ em. Em sẽ gọi lại anh, anh Krishnan yêu quý. Em sẽ gọi lại anh. Anh đã nhận được cái bảng ghi những số điện thoại của những nơi em sẽ đến rồi à? Gọi cho em bất cứ khi nào có thể được, nghe anh… Anh đừng quên đấy, nghe anh… Vâng, xong rồi đây cô… Krishnan, em hôn anh…"

            Âm thanh những câu cuối vội vã, đầy níu kéo vô vọng. Có tiếng gác ống điện thoại. Tiếng khăn trải giường lào xào khi người con gái chuồi thân thể nàng trở lại trong chăn ấm. Sự im lặng trở về căn phòng nhỏ. Chợt Supinda khẽ gọi:

            "Kim? Kim? Mày ngủ hay thức?"

            Kim nằm im, không đáp. Nghĩ là bạn đang say ngủ, nên Supinda thôi không gọi nữa.

            Kim không ngủ. Nàng nghĩ bên nhà bây giờ có lẽ là rạng đông. Rạng đông. Ánh nắng mặt trời. Ôi, thứ ánh sáng có hiệu lực xua đuổi đoàn âm binh của đêm tối mênh mông… Một nỗi tủi cực đến ngự trị trong tâm hồn Kim – nỗi tủi cực đã vượt không gian đến với Kim và cùng chui vào bên trong tấm chăn phủ ấm thân thể, nhưng chẳng phủ ấm được tâm hồn. Kim thầm nhủ với mình: Ngủ đi em, mộng bình thường… Đêm tối xoá nhòa mọi hình thể, mọi kích thước. Nhưng chính sự kiện xoá nhòa đó đã ban cho mọi hình thể mọi kích thước một hình thể vĩ đại hơn, chắc chắn hơn, và một kích thước lớn rộng, dài đặc hơn. Kim nghe tiếng mình vỗ về mình. Ngủ đi em. Ngủ đi em. Chứ chẳng phải khi mày đứng đợi đến giờ lên máy bay rời quê hương – nơi mày đã sinh ra, đã lớn lên, đã hiểu, đã cảm, đã sung sướng, đã đau đớn – mày đã có cái thích thú tàn bạo vì vai trò kẻ lữ hành cô độc mà mày đang sắm, đấy sao? Chứ chẳng phải mày đã lấy làm khoái chí khi rời Guam, ngắm cái cảnh thiên hạ hôn nhau và khóc như mưa, bằng cái nhìn của một kẻ tự cho là mình vượt qua mọi thứ tình cảm luyến nhớ bình thường, đấy sao? Chứ chẳng phải những lúc đổi máy bay tại một vài phi trường, mày đã từng bước những bước thênh thang, với cái đầu ngẩng cao, với cái nhìn chứa đầy biển, hồ và với nụ cười mãn nguyện của kẻ phiêu lưu, giang hồ, chẳng một ràng buộc nào, đấy sao? Và mày vẫn thường cười nhạo những kẻ nhớ nhà là ủy mị, là mềm yếu, đấy sao? Kẻ ưa phiêu lưu và thích đi tìm những cảm giác lạ trong mày đi đâu rồi? Thì ra, hắn đã bỏ mày để đi xuống phố và la cà trong các quán rượu, bên bờ sông, trong công viên, bên sân ga, trong các xóm lao động, bên những di tích lịch sử, rồi ư? Thảo nào… Ôi cô bé tội nghiệp và yếu xịu (!) của ta ơi. Ngủ đi em. Và ngày mai mặt trời lại thức giấc để ban phát niềm yêu đời, sau khi đã đánh tan đoàn âm binh của đêm tối. Ngủ đi em, mộng bình thường. Ngày mai còn những New York, San Francisco, Los Angeles, và Paris đấy, và Rome đấy, và Tokyo nữa chi…? Hay cô bé còn muốn gì khác hơn? Một người tình ư? Ta biết cô bé quá mà. Cô bé chỉ thực sự thèm muốn có một người tình khi cô bé nhìn thấy những người khác yêu nhau thôi. Cô bé vẫn thường nói sau mỗi cuộc tình, rằng mình có cảm tưởng như bắt gặp lại chính mình đấy ư? Vậy nên, cũng đừng tủi cực, khi thấy mình đơn độc, làm gì! Cô bé ơi, cô bé xứng đáng để làm kẻ lữ hành cô độc lắm, bởi vì cô bé quá ích kỷ, đôi khi còn thích thú một cách tàn bạo về tính chất ích kỷ đó ở cô nữa. Than nỗi gì? Cô bé chưa hiểu được thế nào là sự hy sinh. Cô bé quá bận rộn với chính mình. Coi kìa, hãy chấp nhận đi chứ. Và hãy trở lại ngủ đi. Rồi hắn sẽ trở về với cô bé mà. Hắn không bỏ đi lâu đâu. Ta biết lắm chứ. Hà hà… Ta biết hắn như chính ta biết về cô bé vậy. Ngủ đi em. Ngủ đi em… Tay anh, em hãy tựa đầu. Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi.

            Quả nhiên, hắn trở về thật. Kim thức giấc vào lúc ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào trong phòng, qua khung cửa sổ lắp kính mở rộng, tạo thành một vệt sáng dài đến tận giường ngủ của nàng. Kim nghe như có tiếng ai chào mình. Và Kim thấy khoẻ khoắn trở lại. Cuộc vật lộn với đoàn âm binh không phân thắng bại. Đã bao nhiêu lần Kim tự hỏi tại sao có những lúc, tâm hồn mình trở nên thê thiết như vậy? Kim nằm im trên giường như vậy thật lâu. Người bạn Thái vẫn ngủ vùi.

            Có tiếng chuông điện thoại. Kim giật bắn người. Đã hơn một lần, nàng cảm thấy thù ghét tiếng chuông điện thoại. Người ta vẫn không thể không cần những tiện nghi vật chất, đồng thời cảm thấy thù ghét sợ hãi chính những tiện nghi đó. Kim bỏ mặc cho chuông điện thoại reo. Nàng dư biết ai gọi rồi. Từ giường bên kia, Supinda nói:

            "Mày trả lời đi chứ!"

            Kim uể oải nhấc ống nghe lên:

            "Dạ… dạ… Chúng tôi sẽ sửa soạn ngay bây giờ…"

            "…"

            "Được. Chúng tôi sẽ xuống phòng đợi…"

            "…"

            "Vâng. Chúng tôi sẽ nhớ. Xin chào".

            Kim mắc ống nghe vào máy. Supinda đã tỉnh hẳn. Nàng vươn vai ngáp dài. Kim bảo bạn trước khi vào phòng tắm:

            "Họ đợi mình dưới nhà. Nửa giờ sau phải có mặt. Ta cũng chẳng buồn hỏi hôm nay họ sẽ đưa mình đi những đâu".

            Kim đã bước hẳn vào phòng tắm, rồi lại chạy ra đến bên giường bạn:

            "Này, Supinda. Tao đề nghị cái này. Lát nữa, sau bữa cơm trưa, tao nói dối là gặp mấy người bạn đồng hương, họ rủ tao đi chơi và ăn tối, rồi tao làm bộ rủ mày cùng đi. Mày nghĩ sao?"

            Mắt Supinda sáng lên:

            "Đồng ý".

            Khi Kim đang đánh răng rửa mặt trong phòng, lại có tiếng chuông điện thoại. Tiếng Supinda trả lời bên ngoài, Kim nghe không rõ. Một lát, khi Kim trở ra, người bạn nói:

            "Có một phóng viên muốn gặp tụi mình để phỏng vấn. Tao bảo là mình đã gọi điểm tâm, lát nữa bồi mới mang lên. Cô phóng viên xin lên gặp thẳng mình ở trên phòng".

            Kim đáp:

            "Tao chán ngất mấy cái trò này quá rồi. Không biết những người thường bị mình phỏng vấn trước kia, họ có tâm trạng của mình bây giờ không? Bao cho chấm dứt tình trạng này, không biết?! Chưa bao giờ tao thấy "bị xỏ mũi" như bây giờ! Mày thỉnh thoảng còn nhận được cú điện thoại của thằng bồ, cũng đỡ khổ…"

            Supinda cười, nụ cười có nhuộm nắng hồng ban mai – hay nắng hồng của tình yêu?

            "Đêm qua mày cũng có nghe à? Sao tao gọi mà mày không đáp?"

            Kim nói, chống chế:

            "Tao đoán ngay khi nghe tiếng mày nói như khóc, lúc đầu. Rồi tao ngủ thiếp đi mất, chẳng nghe biết mày đã nói gì sau đó. Mày có gọi tao à?"

            "Ừ. Tao vui quá nên định gọi mày dậy để tâm sự, vậy thôi. Krishnan thật dễ thương. Hắn là người Mã Lai thường đến Bangkok chơi luôn. Hắn biết tao đã ly dị chồng, người chồng bố mẹ tao chọn căn cứ vào sự môn đăng hộ đối. Khi đứa con đầu của tao chết vì đẻ non, tao xin ly dị vì nó còn trẻ, con nhà giàu, không chịu làm gì lại chỉ ham cờ bạc bỏ bê tao, tao kể với mày rồi đó. Tao không có hạnh phúc. Rồi tao gặp Krishnan…"

            Kim nhớ lại hôm đầu tiên gặp Supinda ở Washington D.C. Nàng đến trước Supinda một ngày. Sau khi đã làm một vòng thăm cái thành phố nhiều công chức và dân da đen này, trở về khách sạn, Kim được biết Supinda vừa đến cùng với cô em gái qua du học về ngành kiến trúc. Tiếng Supinda trả lời điện thoại nghe thật trẻ thơ. Sự thông cảm lúc đầu không mấy khó khăn. Với dáng cao và gầy, và với phục sức hợp thời trang, tuy vậy, Supinda giản dị, cởi mở, hồn nhiên nhờ từ bé đã được hấp thụ một nền giáo dục Tây phương. Cha nàng là một công chức cao cấp trong hoàng gia Thái Lan, dạy trẻ du học bên Hoa Kỳ, gặp và cưới mẹ nàng. Khi họ cùng đáp tàu thủy về nước, dọc đường, Supinda được sinh ra. Nàng là chị cả của bốn đứa em gái, từ năm chín tuổi đã được trở qua Thụy Sĩ học, xong ban Trung học, trở về nước làm việc. "Nếu có dịp, mày qua Bangkok chơi. Tao sẽ giới thiệu mày với gia đình, bạn bè tao. Gia đình tao vui lắm, toàn là đàn bà, gia nhân cũng toàn là đàn bà. Mỗi lần ông già tao đi công tác xa về, ông bị đàn bà vây quanh hỏi quà. Ổng đem về mấy va-li quà toàn đồ phụ nữ không. Tức cười lắm. Ổng kể có lần ổng đi công tác ở một nước Âu châu, một bà bán hàng đã hỏi ổng có mấy vợ mà sao mua nhiều đồ phụ nữ quá vậy?" Kim nghĩ: "Ở xứ mình thường trong mọi gia đình cũng chỉ toàn là đàn bà, con gái… Nhưng không khí không vui như vậy. Bởi mỗi người đàn bà hoặc có chồng, có con, có người yêu, có hôn phu, có anh, có em trai… ở ngoài trận mạc. Họ không chờ một món quà từ ngoại quốc, mà chờ một cái tin mà chẳng bao giờ họ mong là nó đến…" Bỗng dưng, Kim cảm thấy ghen với cô bạn Thái Lan hồn nhiên này. Sự ghen tuông bao hàm một lời cầu chúc tàn nhẫn. Kim lắc đầu xua đuổi ý nghĩ đó. Supinda vô tình nói tiếp: "Hôm qua đây, tao cũng có ghé phi trường Tân Sơn Nhất… phải phi trường Tân Sơn Nhất không nhỉ?... Ừ, tao ghé đó hai giờ, có thưởng thức món mì của xứ mày… Ngon tuyệt!" Kim cười, mơ màng: "Ăn mì ở Tân Sơn Nhất thì chỉ có là mì Tàu, hay là hủ tiếu. Mày phải ăn thứ "mì" chính cống Việt Nam, gọi là phở kia, thì mới ngon được! Nếu mày có dịp qua xứ tao – chắc là còn lâu – tao sẽ đưa mày đi… Bây giờ chiến tranh, chắc mày chẳng nên đến đó vội…". Supinda nói: "Tao có nghe nói về vụ Cộng sản tấn công trong dịp Tết vừa qua. Ghê quá. Tao hiểu rằng nếu nước mày rơi vào tay Cộng sản, thì Thái Lan cũng không yên…". Kim thấy có thiện cảm với cô bạn gái ngoại quốc mới quen này. Nàng tự trách mình đã ghen tuông một cách vô lối.

            Sau khi tiễn cô em ra phi trường để đáp máy bay đi New York đến ở nhà một người bà con, Supinda sang phòng Kim ở. Những nhận xét thẳng thắn của Supinda về người Mỹ và cuộc sống ở Mỹ, làm Kim thấy gần với bạn hơn, không phải vì sự tương đồng trong nhận xét, nhưng vì sự thẳng thắn cởi mở của Supinda. Một lần, Supinda trách Kim: "Mày mới sống ở Mỹ có mấy ngày mà đã chịu ảnh hưởng của nếp sống Mỹ rồi, ít ra về phương diện giờ giấc". Kim cười nhạt: "Mày nhầm. Tao không muốn bị thúc hối bên cạnh. Do đó, tao muốn đúng giờ e được thảnh thơi. Chỉ có vậy. Mày vẫn có quyền trễ hẹn, tùy mày". Mà thường bao giờ Supinda cũng đến trễ hẹn từ nửa tiếng đến một tiếng đồng hồ.

            Sau bữa cơm trưa tại nhà hàng trong một trung tâm thương mại nổi tiếng của thành phố Philadelphia có kèm thêm một buổi trình diễn y phục thời trang với những cô người mẫu mà từ dáng đi đến nụ cười đều như dập từ một khuôn đúc ra, Supinda và Kim được đưa đi thăm các tầng lầu với các hàng hóa có thể làm chóa mắt những người dễ dãi. Khách hàng phần lớn là phụ nữ. Supinda ghé tai Kim nói:

            "Tao nghĩ làm một ông chồng Mỹ quả không có gì là thú vị cả! Ngày thì đi làm, lấy tiền cung phụng cho vợ con tha hồ mua sắm, tối về, ăn cơm xong lại xoay ra rửa bát cho bà vợ ngồi khểnh ở phòng khách xem ti-vi, hay đi họp đi hành trong các hội này, tổ chức nọ".

            Dù vậy, Supinda vẫn là người bị lôi cuốn đứng lại ở các cửa hàng sáng lòa hơn ai hết.

            "Ở Việt Nam của mày… có vậy không?"

            Kim mỉm cười:

            "Bao giờ thì họ thả mình ra, mày có biết không?"

            "Không biết. Nhưng lát nữa, họ sẽ cho mình trở về khách sạn nghỉ trưa vài tiếng. Lúc đó, mày khởi sự nói dối là vừa đó. Tao sẽ phụ họa với mày".

            Một cô người mẫu đứng chờ sẵn Supinda và Kim ở khu bán mũ nón phụ nữ, do lời mời, để chụp hình kỷ niệm. Supinda tíu tít chọn mũ, thử hết cái này đến cái kia. Kim lơ đãng nhìn quanh. Ngay ở chỗ để mua sắm hoặc ngắm nghía thế này, cũng có một vẻ gì vội vàng. Cô Kim từ đâu đến? Cái tên nghe như tên Đại Hàn. Không, tôi từ Việt Nam, Nam Việt Nam, ở đó cũng có sự chia cắt đất nước như Đại Hàn, như Đông và Tây Bá Linh. À, tôi nhớ ra rồi. Tôi có thằng con mười sáu tuổi, thích theo dõi tin tức chiến sự ở bên ấy. Nó cứ nằng nặc đòi bỏ học đi lính sợ ít nữa lớn hết chiến tranh! Chiến tranh làm sao mà hết được, không ở Việt Nam thì ở nơi khác lo gì. Cậu nhỏ tính lạ, phải không? Thiếu niên xứ tôi không sợ hết chiến tranh nhưng họ chán học vì biết rằng học hay không, trước sau gì cũng đến phiên họ. Cô thấy đời sống ở đây ra sao? Cứ thành thật cho biết cảm nghĩ của cô. Đời sống ở đây ấy à? Rất phong phú về phương diện vật chất, lẽ cố nhiên, nhìn chung. (Tại sao không đưa tôi đến những Harlem? Hay ít ra đến những Greenwich - ít ra, những Greenwich…? - Tại sao những trung tâm thương mại, những nhà hàng sang trọng với những kiến trúc tân kỳ, những chốn tiếp tân này kia với những phụ nữ béo tròn lúc nào cũng chỉ nói đến chuyện giữ eo, v.v.?) Cô không tính mua gì cả sao? Tôi có quá nhiều hành lý để có thể mua sắm thêm một cái gì khác. Cô đi nhiều, biết nhiều về nước tôi hơn cả. Câu nói đó tôi đã nói với một số người nước ông bà khi họ đến nước tôi. Vâng, tôi biết nhiều, quá nhiều về nước này hơn chính tôi có thể biết về nước tôi. (Mai này mốt nọ khi hòa bình về với quê hương mình… Hòa bình ơi! Ít ra, nơi đây ta sẽ thấy được mi để biết rằng mi xa lạ với ta biết chừng nào!...)

            Supinda gọi Kim từ sau những khung gỗ sơn trắng đan theo hình mắt cáo có treo những chiếc mũ đủ kiểu.

            Thế hai người cùng phải dùng tiếng Anh để nói với nhau à? Tôi tưởng… Vâng, vì tôi không biết nói tiếng Thái, và ngược lại, Supinda không biết nói tiếng Việt, mặc dù nước chúng tôi chỉ cách nhau có vài giờ bay phản lực. Ở đó, tôi muốn nói Á châu, những quốc gia nhỏ ở gần nhau nhưng ruộng đồng được ngăn cách bởi những con đê, mỗi khoảng ruộng đồng thuộc quyền sở hữu của một số người thuộc cùng một dòng giống, truyền thống, tập tục, văn hóa, lịch sử khác biệt nhau, với ngôn ngữ khác nhau và những trạng huống tinh thần khác nhau.

            Một người mang một cái mũ đến chụp lên đầu Kim và ra hiệu cho nhiếp ảnh viên chụp hình. Tự nhiên, Kim thấy giận. Nàng gỡ chiếc mũ ra, cười gượng gạo, trả lại chỗ cũ.

            Khi về khách sạn, Supinda biện minh cho mấy cái mũ vừa mua:

            "Không mua, họ giận. Mày phải hiểu như thế. Để tỏ ra mình cũng thích thú về chuyến viếng thăm trung tâm thương mại nổi tiếng nhất của thành phố".

            Mặc dù có thể đợi chuyến thang khác, không lâu lắc gì khi mà khách sạn được trang bị bằng những chiếc thang máy kiểu tối tân nhất, và cũng không vội vã gì khi Kim đã chính thức rủ Supinda đi ăn cơm tối với mấy "người bạn đồng hương" của nàng, nhưng cả Kim và Supinda cùng vội vã chạy băng qua phòng đợi rộng thênh thang với nền đá hoa trơn láng, để kịp nhảy vào trong chiếc thang máy vừa vặn tự động đóng cửa lại khi họ đặt chân đến vào bên trong. Kim nhấn ngón tay vào chiếc nút mang số 18. Supinda thở ra, đầu ngả vào thành thang máy:

            "Cám ơn mày đã nói dối. Mình sẽ làm gì với nửa ngày tự do này?"

            Kim ngáp dài:

            "Đi ngủ cái đã. Từ hôm qua bên này, tao chưa được ngủ trưa trọn giấc bao giờ! Rồi sau đó, đi xi-nê, đi ăn và tìm một chỗ nghe nhạc… Và nếu trời đừng lạnh quá, mình sẽ đi dạo một lát…"

            Supinda cười khúc khích, như chợt nghĩ ra một điều gì thú vị lắm:

            "Tao mừng là họ không hỏi han lôi thôi về mấy người "bạn đồng hương" của mày. Tao tự hỏi nếu họ hỏi những người đó là ai, tên gì, làm việc ở đâu, nhà cửa ở đâu, mày sẽ ăn nói ra sao?"

            "Tao biết họ chẳng hơi nào hỏi kỹ như vậy. Có khi họ mừng vì đã có người săn sóc giùm họ chương trình tối nay của tụi mình. Họ coi mình là bọn con nít trong khi mình coi họ là những mụ già".

            Hai người chui ra khỏi thang máy. Supinda nhún nhảy với chiếc hộp đựng mũ trên tay, đi trước, với dáng người dài như chiếc hành lang trước mặt:

            "Tao ưng đi thăm viếng những đài truyền hình hơn".

            "Chứ không phải mày đang vui vì chọn được mấy cái mũ ưng ý à?"

            "Đó là chuyện khác. Tao tưởng sẽ được làm việc tại các đài truyền hình, hay ít ra được đến các nơi đó quan sát lề lối làm việc của họ để học hỏi… Đêm qua lúc nói chuyện với Krishnan, tao thèm về nhà ghê gớm, mày biết không?"

            "Tao cũng đoán thế. Tao tưởng mày khóc đến nơi rồi ấy chứ. Còn bây giờ thì sao?"

            Supinda dừng lại, đợi Kim:

            "Mày vừa nói gì?"

            Kim lắc đầu:

            "Không. Không có gì quan trọng cả".

            Về đến phòng, Kim vào ngay phòng tắm vặn nước cho đầy bồn rồi bỏ quần áo chui vào nằm dài trong nước nóng. Có một lúc nàng tưởng mình ngủ được với sự thoải mái đang dần đến ngự trị trên thân thể nàng. Có tiếng huýt sáo của Supinda ở phòng ngoài. Một lát, Supinda ló đầu vào phòng tắm với chiếc mũ mới mua đội lệch qua một bên, hỏi Kim:

            "Mày thấy tao đội mũ này hợp không?"

            Kim ừ hử:

            "Hợp. Mày vừa huýt sáo bản gì đó?"

            Supinda bật cười:

            "Un homme et une femme. Mày chưa xem phim đó à? Hay tuyệt".

            Nói xong, Supinda lại tiếp tục huýt sáo. Kim có cảm tưởng tâm hồn bạn mình thật thanh thản, trong sáng. Mai mốt đến New York, nó sẽ không ở chung với mình nữa mà đến nhà anh họ nó. Nó rủ mình đến ở chung. Thà là ở khách sạn, còn hơn ở đó để thấy thêm một lần lạc lõng… Chịu sao thấu!…

            Tao không chịu được Washington D.C. đầy không khí công chức. Tao cũng không chịu được Philadelphia sặc mùi cổ kính với những di tích lịch sử. Tao không chịu được cô Shirley không chồng, khó khăn như một bà giáo, tao trễ năm mười phút cũng đủ làm cho cô ta đã sẵn những nếp nhăn trên mặt càng nhăn hơn. Tao không chịu được mụ Fran, tuy vui tính hơn Shirley, nhưng đỏm dáng và tức cười như một con khỉ, luôn luôn bảo mình không nên hút thuốc nhiều quá sẽ bị chứng ung thư. Mấy bà ở Philadelphia cũng không khá hơn, duy có bà bác sĩ Margaret là dễ chịu, vui tính… Chắc ở New York sẽ dễ chịu hơn.

            Supinda vừa hút thuốc phì phèo khi hai người đáp xe lửa đi New York. Kim nói:

            "Mày không ưa Shirley, có lẽ tại mày không hiểu cô ta".

            "Cũng có thể. Cô ta khô khan quá, lại có vẻ lạnh lùng nữa. Sao cô ta không lấy chồng?"

            "Shirley thuộc lớp phụ nữ lớn trong kỳ đệ nhị thế chiến. Cô ta đính hôn một lần. Tao không rõ tại sao cô ta không lấy chồng. Chỉ biết sau lần đính hôn đổ vỡ, cô ta sống độc thân luôn. Có một sự can đảm nào đó trong cái quyết định sống độc thân của Shirley mà ở tuổi tụi mình chưa hiểu được. Mày xem như bà Fran, quá bốn mươi tuổi còn phải lấy chồng để như người ta, nhất là về phương diện tinh thần. Cuộc sống cần có nhiều kiên nhẫn để tìm hiểu. Dù vậy, vẫn có nhiều điều bí ẩn vượt khỏi tầm nhận xét của mình".

            Supinda liếc nhìn bạn:

            "Tao tự hỏi mày suy nghĩ về những điều đó để làm gì? Mày thường có vẻ tư lự. Ích gì sự tư lự đó?"

            Kim khẽ nhún vai, mắt nhìn ra rừng cây bắt đầu đâm chồi non đang kéo nhau về phía sau đoàn tàu:

            "Mỗi người có một số thói quen được cấu tạo do bản chất và hoàn cảnh từ đó nó được sinh ra và lớn lên… Tao cũng chẳng biết mình suy nghĩ như thế để làm gì. Chỉ biết rằng khi tao suy nghĩ về một người nào, và khi tao hiểu người đó hơn, thường tao bớt có ác cảm với người đó hơn. Chẳng hạn như đối với Shirley. Cũng có thể, mày thẳng thắn và bộc trực hơn tao".

            Supinda nhìn bạn, toan nói gì, nhưng lại thôi.

            Phải hai tiếng đồng hồ, chuyến tàu hai người đáp từ Philadelphia mới đến New York. Trước khi tàu vào ga New York, một người da đen phục sức theo kiểu các nhân viên làm việc cho hãng hoả xa cầm một chiếc khăn đến lau giày cho từng hành khách, mỗi lần lau giày cho một hành khách, gã lại không quên nói những lời chúc tụng. Thoạt đầu cả Supinda lẫn Kim đều bỡ ngỡ đến rụt rè. Sau hiểu ra, hai người để cho người da đen lau giày cho mình, với một vẽ bẽn lẽn, nhưng đều vờ thản nhiên.

            Nhà ga nằm ở tầng hầm. Kho đoàn tàu chui vào vùng ánh sáng của những ngọn đèn điện, Supinda và Kim cùng bỡ ngỡ đứng dậy. Mọi hành khách đều có vẻ thản nhiên và bận rộn không ai buồn để ý đến hai cô gái ngơ ngác nhìn xung quanh. Có tiếng ai gõ vào cửa kính. Vài khuôn mặt phụ nữ nhìn Supinda và Kim, cười. Kim hích khuỷu tay vào người Supinda:

            "Chắc mấy bà này ra đón mình?"

            Họ chẳng phải vất vả với đống hành lý lỉnh kỉnh, bề bộn. Mọi việc đã được lo chu toàn. Nhưng cái cảm giác bận rộn vẫn lởn vởn với Kim. Nàng mong về đến khách sạn. Nhưng nàng chẳng được toại ý ngay. Bữa cơm trưa kéo dài trong nhà hàng bên dưới khách sạn. Họ vừa ăn vừa đề cập đến chương trình của sáu ngày lưu lại New York của Supinda và Kim. Sự bận rộn của thành phố New York phủ vây lấy Kim, một vòng vây quá chặt đến độ nàng không trông, không nhìn, không cảm được gì nữa ở xung quanh. Mỗi lần trở về khách sạn Kim như không mở nổi cửa nữa. Chiếc chìa khóa bị kẹt hoài. Tại sao? Kim hoàn toàn cảm thấy cô đơn. Đến ngày thứ tư sống trong thành phố, nàng tưởng mình điên loạn đến nơi. Mấy lần gọi dây nói cho Supinda, đều không gặp. Bỗng dưng Kim nghe một cơn giận dâng lên. Kim tự trách mình dễ dãi trong việc trao gửi tình cảm nơi Supinda. Nàng thề khi nào gặp lại Supinda sẽ làm mặt lạnh. Nàng nhủ thầm, có lẽ như Supinda lại hay: nhẹ nhõm, dễ sinh lòng yêu và bộc trực, cũng dễ sinh lòng ghét. Hoàn toàn để không vấn vương. Tại sao vẫn có một số người bạn ở bên nhà cho là nàng lạnh nhạt? Có lẽ vì sự lạnh nhạt nơi nàng chỉ là một cái vỏ để che đậy một yếu mềm, dễ dãi bên trong? Những ngày ở New York, Kim bỗng như đối diện với một tấm gương phản chiếu trung thực con người thật của nàng, khiến nàng cay đắng, và vô tình, nàng đâm thù cái thành phố đông đúc, xô bồ và vô tình này. Và cũng như Kim, cái bề ngoài vô tình đến tàn nhẫn đó của thành phố New York thực ra chỉ là một cái vỏ. New York, nơi mà Kim đã náo nức tới và nóng ruột khi đi khỏi, mà khi đã đi khỏi rồi, Kim bắt gặp một nỗi nhớ mơ hồ dành cho thành phố đó, pha lẫn một nuối tiếc vì đã chưa được nhìn rõ, nhìn hết nó.

            Kim không hận được New York lâu, cũng như Kim không hận được Supinda lâu.

            Sau non một tháng mỗi người đi theo một ngả theo chương trình đã được ấn định, hai người lại gặp nhau ở San Francisco. Kim đến phi trường San Francisco sớm hơn Supinda một giờ. Nàng ngồi bên đống hành lý để đợi bạn cùng lên xe ca về khách sạn đã được chỉ định (quả không hề có một sự tình cờ nào có thể xảy ra cả; mà cho là có sự tình cờ nào xảy ra đi chăng nữa, cả Supinda và Kim cũng không còn thời giờ đâu mà nghiền ngẫm về nó. Mà tất cả những bận rộn này có đáng gì đâu!?)

            Một cặp vợ chồng Mỹ – Phi đến ngồi cạnh Kim trên chiếc ghế dài. Người vợ ngồi lại với mấy đứa con trong khi người chồng đi lấy hành lý. Kim mỉm cười với đứa con gái nhỏ. Những câu hỏi không đi ra ngoài những thông lệ. Bà từ đâu đến? Cô từ đâu đến? Em bé thật kháu khỉnh. Cám ơn cô.

            Kim ngồi im, ngóng về phía cầu thang nơi hành khách từ các nơi sẽ xuống. Đây là lần thứ hai Kim đặt chân đến phi trường này. Trái với lần đầu ngơ ngác, lo âu, lần này Kim thấy bình tĩnh và có thể thong thả nhìn ngắm xung quanh. Bây giờ, cái không gian vật chất không còn đe dọa Kim được nữa. Nhưng cũng do đó Kim nhìn thấy rõ hơn nỗi trống vắng của tâm hồn mình. Những cánh thư từ bên nhà gửi sang Kim thường đọc đi đọc lại đến độ thuộc lòng cả nội dung, thuộc lòng cả từng chi tiết. Kim quen thuộc quá với những di chuyển, với những hành lang khách sạn, với những buổi tối nằm chèo queo trong phòng một mình, nghe như tâm hồn mình lên men hóa thành một chất rượu – rượu cô đơn – làm choáng váng tâm hồn đến tê tái. Kim phát giác ra thêm một chân lý: càng những kẻ ưa giang hồ phiêu dạt, bất cần đến những ràng buộc bao nhiêu lại là những kẻ cần một ngọn lửa gia đình, thèm có một liên hệ, dù nhỏ, cũng đủ làm ấm lòng bấy nhiêu! Dường như sự đầy đủ và chu toàn ở đây càng tinh vi bao nhiêu, cũng như những bữa ăn càng nhiều cao lương mỹ vị bao nhiêu, khiến cho Kim càng nhớ càng thương quê hương vốn lầm than, thiếu sót và những bữa ăn đạm bạc bấy nhiêu. Trong một lá thư gửi về cho gia đình, Kim đã viết: "Con đã bỏ đự định sau Hoa Kỳ, sẽ ghé lại New York vài ngày và sau đó qua thăm Âu châu một vòng. Con nôn nóng về nhà. Con sẽ về vào cuối tháng Năm, trễ lắm là đầu tháng Sáu. Mẹ nhớ muối sẵn lu cà với tỏi; có thêm được mấy quả cà bát dầm tương càng hay. Con thèm hương vị của quê hương lắm rồi. Ở nhà có ai tình nguyện ăn phở trừ cơm với con một tuần lễ không, thì sửa soạn sẵn đi…". Băng nhạc của một người bạn nhạc sĩ trẻ mang theo, Kim đã nghe đi nghe lại đến độ, không dám nghe thêm nữa… chắc Kim đã không nhớ, không thương đến thê thiết như vậy. Những đau thương thường đem con người lại gần nhau. Kim chẳng thấy gần được ai ở chốn này – hay vì thực ra, Kim chưa thể gần được những người đáng-lẽ-có-thể-gần được vì Kim chưa thực đi hết, nhìn thấy hết, cảm thấy hết.

            Supinda từ trên cầu thang đi xuống, vừa đi vừa trò chuyện với một thanh niên Mỹ mà Supinda giới thiệu với Kim là quen được trên máy bay. Phải nhận là với lối phục sức hợp thời trang và sự khéo léo trang điểm, cộng thêm với dáng cao gầy như một cô gái làm người mẫu, Supinda dễ lôi cuốn sự chú ý của những người xung quanh. Đã có hơn một lần, Kim cảm thấy rõ ràng mình thua sút người bạn Thái Lan ở phương diện bề ngoài.

            Sau những câu thăm hỏi chuyến đi lẫn nhau, hai người bạn lên xe ca về thành phố. Khác với mọi chỗ, ở đây không có ai ra đón Supinda và Kim cả. Kim nói:

            "Càng hay. Điều đó chứng tỏ là chương trình thăm viếng ở nơi đây lỏng lẻo. Chúng mình sẽ được tự do. Vả lại, có lẽ cũng tại hôm nay là thứ Sáu, mà mình lại sẽ rời nơi đây vào thứ Hai. Ai cũng bận lo mục vui cuối tuần của họ chăng?"

            Supinda nhận xét:

            "Mày nói như một người Mỹ vậy!"

            Kim có vẻ không bằng lòng:

            "Mày không nên nói như vậy. Mày biết rõ là điều đó không đúng chứ?"

            Supinda đấu dịu:

            "Tao đùa có một tí mà mày đã sửng cồ!"

            Kim cười nhẹ:

            "Mày phải biết rằng nếu tao chịu ảnh hưởng được của người Mỹ, thì tao đã sung sướng vì không phải oán hận mày những ngày mày bỏ tao nằm một mình ở New York, và nhất là tao đã không phải hoài công tự hỏi lúc này con Supinda nó đang làm gì, ở nơi đó nơi nọ, liệu nó có khổ như dạo ở Philadelphia không? Tao không kể công. Nhưng không nói với mày điều đó, tao biết nói với ai bây giờ?"

            "Coi kìa, Kim! Mày giận tao thật à? Tao đã bảo là tao đùa mà".

            "Ừ, tao gận vì mày… vô tình".

            "Mày tưởng tao không nhớ mày đấy chắc? Mày tưởng tao đã không tự hỏi như mày đấy chắc?"

            Kim cười nhạt:

            "Dù sao mày cũng là đứa sung sướng nhất trong hai đứa!"

            Nói xong, Kim bước lên xe ca. Hai người ngồi chung một băng. Supinda lại hỏi:

            "Tại sao khi không mày có vẻ cay đắng quá vậy?"

            Kim lắc đầu:

            "Có nhiều cái mày không hiểu được, dù tao có cố gắng giải thích cho mày nghe. Thôi, bỏ qua đi… Hãy nghĩ đến những ngày tự do cuối cùng ở cái thành phố San Francisco này. Supi, if you’re going to San Francisco…"

            "Sài Gòn, ngày…

            Supi thân,

            Thấm thoát mình rời Hoa Kỳ sau chuyến đi chung ấy cũng đã một năm rồi. Tao nhớ hôm cuối cùng, sau khi đã thu xếp hành lý (không biết là lần thứ bao nhiêu từ ngày đặt chân lên đất Mỹ, đến cái độ tao tưởng có thất nghiệp xin đi làm cái nghề… xếp hành lý cũng được đó!), thanh toán tiền phòng xong, tao với mày ngồi dưới phòng khách của cái khách sạn đã đón mình đầu tiên khi đến đất Mỹ và tiễn mình khi mình rời đó, ở Washington D.C. tao nhớ đã hỏi mày có bao giờ mày giận tao. Mày đã ngẫm nghĩ một lát và nói: "Có một lần. Hôm ấy mày liệng đôi giày màu vàng kim nhũ của tao". Tao cười ngất vì cái lý do giận hờn tao của mày. Thực ra, hôm ấy, trong khi xếp hành lý cho một lần nữa lên đường, tao thấy trong gậm giường còn đôi giày của mày. Sợ mày quên nên tao đã cầm lên liệng cho mày. Vậy mà mày giận tao. Con nhỏ lạ! Sau đó, mày đã cho tao địa chỉ của mày ở Bangkok và tao cũng ghi cho mày địa chỉ của tao ở Sài Gòn. Rồi rút cục, cũng chẳng đứa nào buồn viết thư cho đứa nào. Tao nghĩ có lẽ mày đã đi lấy chồng. Còn mày thế nào chẳng có lúc mày nghĩ là chắc tao đã vùi thân trong một trong những trận "mưa pháo kích" tơi bời một dạo ở đây.

            Thế mà mày đã lấy chồng thật. Hôm ấy có một người bạn Mỹ từ Sài Gòn qua Bangkok nghỉ hè, tao nghĩ đến mày nên có cho ông ta địa chỉ với lời hỏi thăm của tao kèm theo. Khi trở về, ông ta trao cho tao một gói đồ kèm theo lá thư của mày. Thì ra ông ta không được gặp mày, ngoài gói đồ mày gửi lại khách sạn nhờ ông ta trao cho tao. Đọc thư của mày, biết mày có chồng và đang hy vọng có thể có con, tao thấy mừng cho mày. Mày vẫn có lối viết ngắn, và bộc trực, như tuồng chữ của mày vậy.

            Những ngày ở Mỹ, có lẽ kỷ niệm mà tao nhớ nhất là hôm chúng mình đáp tàu hoả từ Los Angeles đến Grand Canyons. Sau một đêm mất ngủ trong lòng con tàu xuyên qua không biết bao nhiêu cánh rừng, bao nhiêu đường hầm, bao nhiêu trang trại, bao nhiêu những ga xép, sáng sớm hôm sau, sau ly cà-phê Mỹ chua lè mà tao đã chỉ nhấp có một chút đỉnh vì thiếu đường, mày với tao, hai hành khách duy nhất, xuống tàu giữa một sân ga còn đẫm hơi sương với rặng thông thẳng tắp bao quanh, để từ đó đáp xe ca đi Grand Canyons. Gió trên sân ga như cắt da thịt còn nồng ấm vì giấc ngủ chập chờn trong con tàu lắc lư đêm trước. Sân ga vắng ngắt. Chỉ có người phu khuân vác lom khom đẩy chiếc xe ra đem hành lý của bọn mình chất sẵn lên xe ca. Phòng đợi của nhà ga dù không có máy sưởi, nhưng nhờ những khung cửa lắp kính, nên cũng che chở mình phần nào khỏi cái lạnh như cắt da thịt bên ngoài. Mày không biết được tao đã nhớ quê hương của tao đến độ nào khi nhìn những rừng thông bao bọc quanh sân ga. Có lẽ, từ ngày đặt chân lên đất Mỹ, đây là lần đầu tiên tao không cảm thấy vội vàng, mặc dù mình đã bị dựng dậy từ sáu giờ sáng để rời con tàu vào ngồi co ro đợi trong nhà ga. Có lẽ vì Gran Canyons không có ai đợi chờ mình, nghĩa là không có chương trình nào đang đợi mình để bắt mình lúc nào cũng phải theo sát nó. Có lẽ cũng vì khung cảnh ở nơi đây, vì sự có mặt của những cây thông tinh khiết và tràn đầy vẻ trầm tĩnh kia. Mọi người, mọi vật đều có một cái vẻ an nhàn, thanh thản. Cả cái giọng bác tài xe ca khi gọi nhóm hành khách ít ỏi ra xe khởi hành đi Grand Canyons cũng có một vẻ gì nhàn tản nữa, mặc dù xe khởi hành đi Grand Canyons rất đúng giờ, không mau không trễ, dù chỉ một phút.

            Xe chạy qua rừng thông trước khi đến một miền đồng cỏ mênh mông. Tao nhớ mày đã kể về chuyến đi thăm rừng thông với Krishnan ở Phi Luật Tân, trong khi tao tưởng nhớ đến đồi thông bên xứ tao… Sau hơn một giờ xe chạy với hai đứa mình ngủ bù cho đêm thiếu ngủ hôm trước, (dù thực tình tao không muốn ngủ, vì sợ mỗi một phút ngủ, là một phút để cho cảnh vật xung quanh trôi tuột đi mất), xe vào đến Grand Canyons.

            Làng Grand Canyons nhỏ, nhưng khung cảnh thật vĩ đại. Lèo tèo một vài khách sạn bằng gỗ, một vài tiệm ăn. Dân cư ít ỏi, phần lớn sống nhờ lợi tức do nhóm du khách mang lại. Nhà phần lớn làm bằng gỗ. Gió vừa khô vừa lộng.

            Từ sân khách sạn chỗ chúng mình thuê phòng, có thể nhìn thấy thung lũng đá phía dưới với những thành núi đá bị dòng sông Colorado xói mòn tạo thành những bức tường thành trông xa như cả một vương quốc cổ xưa nay điêu tàn hoang phế.

            Cũng chính tại đây, tao đã được đọc bài tường thuật lại trận tấn công của hai đợt Việt Cộng nhắm vào các thành phố, nhất là Sài Gòn, trên một tờ báo bán trong tiệm tạp hóa và đồ kỷ niệm của khách sạn. Nỗi sốt ruột lo âu pha với sự thay đổi khí hậu đột ngột, khiến tao không chịu nổi nữa. Rồi tao bị bệnh.

            Suốt một buổi trưa tao nằm trong phòng đắp chăn vì cơn sốt hoành hành. Khi mày đánh thức tao dậy và ép tao uống thuốc, dùng bữa tối mà mày đã lặn lội, cùng với gã sinh viên người Đức đến nghỉ hè tại đó, đem về từ một nhà hàng cách khách sạn mình ở nửa cây số, tao thấy trời bên ngoài đã tối. Ra tao đã ngủ hết nửa ngày rồi kia à?

            Supi ạ, sự săn sóc của mày trong thời gian ở Grand Canyons đã làm tao xúc động. Tao nhớ kỷ niệm của hai ngày ở Grand Canyons, một phần cũng vì cái tình bạn ấm cúng mà tao bắt gặp ở mày - mày, cái con bé mà tao thường cho là dễ mến nhưng hời hợt, vô tình đó - dường như đã có lúc, tao cảm thấy như mình sờ mó được sự ấm cúng của tình bạn đó, như một thứ hơi ấm đủ sưởi tâm hồn giá lạnh vì nhiều lý do của mình… Tao nhớ một lần mày đã bảo tao: "Kim à, mày trí thức hơn tao. Tao nhận thấy như vậy". Tao đã cười tự ngạo, như mỗi lần nghe ai nói thế về mình, và đáp: "…Và thua mày ở sự tháo vát, lanh lợi, bặt thiệp, Supi. Cứ tạm nghĩ là mày cần cái mà tao có mà mày thiếu, và ngược lại". Nhưng Supi, tao thương yêu mày, dù cái thời gian mình ở gần nhau không bao nhiêu.

            Thực ra, chuyến đi để lại trong tao nhiều ấn tượng mãnh liệt. Nếu có những điều làm mình hận, mình thù; thì cũng có những điều mỗi lần nghĩ lại, mình cảm thấy có một cái gì êm đềm, ấm áp, dịu dàng. Chẳng biết có bao giờ mày có dịp ngồi nghĩ về những điều đó? Không, tao biết và tao cũng thương mày ở cái vẻ hồn nhiên vô tư lự đến trong sáng của mày.

            Mày lấy chồng, chấm dứt một sự lựa chọn sau một lần tan vỡ. Tao tin mày không chọn lựa lầm. Cuộc đời của mày như thế là yên một bề. Còn tao… ừ, Supi, tao vẫn như độ nào… nghĩa là… tao vẫn là con Kim, một cách đơn giản lẫn phức tạp theo cách thế của nó, như dạo mày quen nó lần đầu và từ biệt nó lần cuối cùng ở Washington D.C… Muốn hiểu tất cả các mối chua chát đó, phải suy nghĩ và nhất là phải làm người Việt Nam mới cảm, mới hiểu được. Tao sẽ không nói tất cả với mày những điều tao nghĩ. Không thể nói được thì đúng hơn. Chỉ nên biết rằng đã có lần, tao tự hỏi sao tao không sinh ra làm dân nước mày, hay một nước nào khác. Lẽ cố nhiên tự hỏi chỉ để mà tự hỏi. Bởi vì, dù muốn dù không, mỗi một người ở xứ này đều bắt buộc phải tự tìm cho mình câu trả lời mà tao thường gọi là một sự giải thoát bản thân. Và mày hiểu vì sao tao dễ "sửng cồ" khi mày nhạo tao chịu ảnh hưởng của một nước nào khác, như nước Mỹ chẳng hạn.

            Thôi, vài hàng thăm mày, thăm Krishnan của mày, và gia đình mày. Tao mong sẽ có dịp mình sẽ lại gặp nhau để gợi lại những kỷ niệm về một chuyến đi mà từ đó, một tình bạn đã nảy sinh giữa chúng mình.

            Bạn của mày,

            Kim"
            #6
              Chuyển nhanh đến:

              Thống kê hiện tại

              Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
              Kiểu:
              2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9