Đường Thi Trích Dịch I - Anh Nguyên
TÒNG QUÂN HÀNH
从 军 行
烽 火 照 西 京,
心 中 自 不 平。
牙 璋 辞 凤 阙,
铁 骑 绕 龙 城。
雪 暗 凋 旗 画,
风 多 杂 鼓 声。
宁 为 百 夫 长,
胜 作 一 书 生。
杨 炯
Phong hỏa chiếu tây kinh, Tâm trung tự bất bình. Nha chương từ phượng khuyết, Thiết kỵ nhiễu long thành. Tuyết ám điêu kỳ sắc, Phong đa tạp cổ thanh. Ninh vi bách phu trưởng, Thắng tác nhất thư sinh. Dương-Quýnh Dịch: Tòng quân Hỏa đài, sáng tới Tây-Kinh, Bỗng nhiên cảm thấy bất bình trong tâm. Ấn ngà, cổng Phượng tay cầm, Thành Rồng, thiết kỵ xiết dần vòng vây. Cờ hoen ố, tuyết bám đầy, Gió đưa tiếng trống đó đây vang rền. Thà coi lính một trăm tên, Còn hơn mang tiếng yếu mềm thư sinh... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 22:48:40 bởi Anh Nguyên >
DƯƠNG SĨ NGẠC ĐĂNG LÂU 登 樓
槐 柳 蕭 疏 繞 郡 城
夜 添 山 雨 作 江 聲
秋 風 南 陌 無 車 馬
獨 上 高 樓 故 國 情 羊 士 諤 Hòe liễu tiêu sơ nhiễu quận thành, Dạ thiêm sơn vũ tác giang thanh. Thu phong nam mạch vô xa mã, Độc thướng cao lâu cố quốc tình. Dương-Sĩ-Ngạc Dịch: Lên lầu Liễu, hòe, xơ xác quanh thành, Đêm thêm mưa núi, như ghềnh thác reo. Gió Thu, đường xá vắng teo, Lầu cao, quê cũ ôm theo mối tình... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 22:49:19 bởi Anh Nguyên >
QUẬN TRUNG NGÔN HOÀI 郡 中 言 懷
功 名 無 力 愧 勤 王
以 近 終 南 得 草 堂
身 外 盡 歸 天 竺 偈
腰 間 未 解 會 嵇 章
何 時 臘 酒 逢 山 客
可 惜 梅 枝 亞 石 床
歲 晚 我 知 無 別 事
擬 心 久 在 白 雲 鄉
羊 士 諤 Công danh vô lực quš cần vương, Dĩ cận chung nam đắc thảo đường. Thân ngoại tận quy thiên trúc kệ, Yêu gian vị giải cối kê chương. Hà thì lạp tửu phùng sơn khách, Khả tích mai chi á thạch sàng. Tuế vãn ngã tri vô biệt sự, Nghĩ tâm cửu tại bạch vân hương. Dương-Sĩ-Ngạc Dịch: Nỗi lòng nơi quận Không tài, thẹn với công danh, Gần Chung-Nam có nhà tranh ở rồi. Mọi điều, theo kệ Phật thôi, Cối-Kê, ấn trả cho rồi, nhẹ đai. Rượu ngon, khách núi chờ ai, Tiếc bên giường đá cành mai nở rồi. Năm tàn mọi việc đã trôi, Hồn theo mây trắng là nơi quê nhà... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 22:49:58 bởi Anh Nguyên >
DƯƠNG TUÂN BÁ KỸ NHÂN XUẤT GIA 妓 人 出 家
盡 出 花 鈿 與 四 鄰
雲 鬟 剪 落 厭 殘 春
暫 驚 風 燭 難 留 世
便 是 蓮 花 不 染 身
貝 葉 欲 翻 迷 錦 字
梵 聲 初 學 誤 梁 塵
從 今 艷 色 歸 空 後
湘 浦 應 無 解 佩 人
楊 郇 伯 Tận xuất hoa điền dữ tứ lân, Vân hoàn tiễn lạc yếm tàn xuân. Tạm kinh phong chúc nan lưu thế, Tiện thị liên hoa bất nhiễm thân. Bối diệp dục phiên mê cẩm tự, Phạn thanh sơ học ngộ lương trần. Tòng kim diễm sắc quy không hậu, Tương phố ưng vô giải bội nhân. Dương-Tuân-Bá Dịch: Kỹ nữ đi tu Láng giềng, cho hết trâm hoa, Tóc mây cắt bỏ, xuân qua, chán chường. Đời như ngọn đuốc không thường, Tợ sen, thân chẳng để vương bụi trần. Dịch kinh, chữ gấm mê thầm, Vừa nghe. tiếng Phạn, trên trần đã vương. Quy ‘‘không’’, sắc đẹp coi thường, Không người gỡ ngọc bến Tương nữa rồi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 22:50:41 bởi Anh Nguyên >
ĐÁI THÚC LUÂN MỘ XUÂN HOÀI CẢM 暮 春 懷感
杜 宇 聲 聲 喚 客 愁,
故 園 何 處 此 登 樓。
落 花 飛 絮 成 春 夢,
剩 水 殘 山 異 昔 遊。
歌 扇 多 情 明 月 在,
舞 衣 無 意 綵 雲 收。
東 皇 去 後 韶 華 盡,
老 圃 寒 香 別 有 秋。 戴 叔 倫 Đỗ vũ thanh thanh hoán khách sầu, Cố viên hà xứ thử đăng lâu. Lạc hoa phi nhứ thành xuân mộng, Thặng thủy tàn sơn dị tích du. Ca phiến đa tình minh nguyệt tại, Vũ y vô ý thái vân thâu. Đông hoàng khứ hậu thiều hoa tận, Lão phố hàn hương biệt hữu thu. Đái-Thúc-Luân Dịch: Nỗi nhớ chiều Xuân Quyên kêu từng tiếng, khách sầu, Nơi nào quê cũ, lên lầu thử trông. Tơ bay, hoa rụng: mộng Xuân, Núi tàn, sông ngập, giờ trông khác nhiều. Múa ca, trăng giãi tiêu điều, Xiêm y hờ hững, mây chiều cuốn đi. Xuân đi, nắng đẹp còn gì, Vườn xưa hương lạnh, Thu đi lại về... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 22:51:23 bởi Anh Nguyên >
TAM LƯ MIẾU 三 閭 廟
沅 湘 流 不 盡
屈 子 怨 何 深
日 暮 秋 風 起
蕭 蕭 楓 樹 林
戴 叔 倫 Nguyên tương lưu bất tận, Khuất tử oán hà thâm. Nhật mộ thu phong khởi, Tiêu tiêu phong thụ lâm. Đái-Thúc-Luân Dịch: Miếu Tam-Lư Nguyên Tương trôi chẳng hết, Khuất-Tử hận không cùng. Chiều tối gió thu thổi, Hiu hắt rừng cây phong. Trần-Trọng-San Nguyên, Tương chảy mãi chẳng ngừng, Khuất-Nguyên, nỗi oán biết chừng nào sâu. Gió Thu chiều đã bắt đầu, Rừng phong hiu hắt thêm sầu lòng ai!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 22:51:56 bởi Anh Nguyên >
XUÂN KHUÊ 春 閨
裊 裊 城 邊 柳
青 青 陌 上 桑
提 籠 忘 採 葉
昨 夜 夢 渙 陽 戴 叔 倫 Niễu niễu thành biên liễu, Thanh thanh mạch thượng tang. Đề lung vong thái diệp, Tạc dạ mộng ngư dương. Đái-Thúc-Luân Dịch: Phòng Xuân Bên thành mơn mởn liễu xanh, Trên đường xanh ngắt những cành lá dâu. Giỏ mang, có hái lá đâu! Đêm qua nằm mộng ở lầu Ngư-Dương... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 22:52:42 bởi Anh Nguyên >
GIANG HƯƠNG CỐ NHÂN NGẪU TẬP KHÁCH XÁ
江 鄉 故 人 偶 集 客 舍
天 秋 月 又 滿, 城 闕 夜 千 重。
還 作 江 南 會, 翻 疑 夢 裡 逢。
風 枝 驚 暗 鵲, 露 草 覆 寒 蟲。
羈 旅 長 堪 醉, 相 留 畏 曉 鐘。 戴 叔 倫 Thiên thu nguyệt hựu mãn, Thành khuyết dạ thiên trùng. Hoàn tác giang nam hội, Phiên nghi mộng lš phùng. Phong chi kinh ám thước, Lộ thảo phú hàn trùng. Cơ lữ trường kham túy, Tương lưu úy hiểu chung. Đái-Thúc-Luân Dịch: Gặp bạn quê cũ trong quán khách Trời Thu, trăng lại tròn đầy, Cổng thành, đêm đã phủ dầy từ lâu. Giang-Nam nay lại họp nhau, Trong khi gặp gỡ, tưởng đâu mộng lành. Gió lay cành, thước giật mình, Cỏ sương ướt lạnh, mặc tình dế kêu. Nay đây mai đó, say nhiều, Sợ chuông chùa sớm thảy đều chia tay... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 22:53:19 bởi Anh Nguyên >
TRỪ TỊCH DẠTÚC THẠCH ĐẦU DỊCH 除 夕 夜 宿 石 頭 驛
旅 館 誰 相 問?
寒 燈 獨 可 親。
一 年 將 盡 夜,
萬 里 未 歸 人。
寥 落 悲 前 事,
支 離 笑 此 身。
愁 顏 與 衰 鬢,
明 日 又 逢 春。 戴 叔 倫 Lữ quán thùy tương vấn Hàn đăng độc khả thân. Nhất niên tương tận dạ, Vạn lý vị quy nhân. Lưu lạc bi tiền sự, Chi ly tiếu thử thân. Sầu nhan dữ suy mấn, Minh nhật hựu phùng xuân. Đái-Thúc-Luân Dịch: Đêm giao-thừa ở trạm Thạch-Đầu Nào ai quán trọ hỏi han, Ngọn đèn lạnh lẽo kết làm bạn thân. Cuối năm, đêm sắp qua dần, Đi xa muôn dặm một thân, chưa về. Nổi trôi, chuyện cũ ê chề, Nay đây mai đó, chán chê thân này. Mặt sầu, tóc bạc đêm nay, Ngày mai lại đã là ngày Xuân sang... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 19:00:58 bởi Anh Nguyên >
ĐẬU THÚC HƯỚNG BIỂU HUYNH THOẠI CỰU 表 兄 話 舊
夜 合 花 開 香 滿 庭,
夜 深 微 雨 醉 初 醒.
遠 書 珍 重 何 由 答,
舊 事 淒 涼 不 可 聽.
去 日 兒 童 皆 長 大,
昔 年 親 友 半 凋 零.
明 朝 又 是 孤 舟 別,
愁 見 河 橋 酒 幔 青. 竇 叔 向 Dạ hợp hoa khai hương mãn đình, Dạ thâm vi vũ túy sơ tinh. Viễn thư trân trọng hà do đáp, Cựu sự thê lương bất khả thinh. Khứ nhật nhi đồng giai trưởng đại, Tích niên thân hữu bán điêu linh. Minh triêu hựu thị cô chu biệt, Sầu kiến hà kiều tửu mạn thanh. Đậu-Thúc-Hướng Dịch: Chuyện cũ Đầy sân dạ-hợp ngát hương, Đêm khuya mưa nhẹ, say đương tỉnh dần. Thư xa, sao biết hồi âm, Buồn rầu, chuyện cũ, chẳng cần nghe chi. Trẻ con, khôn lớn tới thì, Bạn bè năm cũ, mất đi nửa rồi. Thuyền con chiếc bóng đi thôi, Hà-Kiều, quán rượu buồn ơi bóng cờ!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 22:55:33 bởi Anh Nguyên >
ĐINH TIẾN CHI
ĐỘ DƯƠNG TỬ GIANG 渡 揚 子 江
桂 楫 中 流 望,
空 波 兩 岸 明.
林 開 揚 子 驛,
山 出 潤 州 城.
海 盡 邊 陰 靜,
江 寒 朔 吹 生.
更 聞 楓 葉 下,
滴 瀝 度 秋 聲. 丁 仙 芝 Quế tiếp trung lưu vọng, Không ba lưỡng ngạn minh. Lâm khai dương tử dịch, Sơn xuất nhuận châu thành. Hải tận biên âm tĩnh, Giang hàn sóc xúy sinh. Cánh văn phong diệp há, Tích lịch độ thu thanh. Đinh-Tiến-Chi Dịch: Qua sông Dương-Tử Giữa dòng, chèo quế, ngắm quanh, Rõ ràng sóng vỗ long lanh đôi bờ. Rừng Dương-Tử, trạm lờ mờ, Nhuận-Châu, thành đứng bơ thờ núi đêm. Biển cùng, biên giới lặng êm, Dòng sông lạnh lẽo gây nên gió này. Lá phong nghe rụng đâu đây, Gió Thu hiu hắt rung cây, lá, cành... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 22:56:30 bởi Anh Nguyên >
ĐOÀN THÀNH THỨC CHIẾT DƯƠNG LIỄU CHI TỪ 折 楊 柳 枝 詞
枝 枝 交 影 鎖 長 門
嫩 色 曾 沾 雨 露 恩
鳳 輦 不 來 春 欲 盡
空 留 鶯 語 到 黃 昏
段 成 式 Chi chi giao ảnh tỏa trường môn, Nộn sắc tằng triêm vũ lộ ân. Phụng liễn bất lai xuân dục tận, Không lưu oanh ngữ đáo hoàng hôn. Đoàn-Thành-Thức Dịch: Cành dương liễu gẫy Trường-Môn, cành liễu phũ dầy, Thơ ngây từng thấm nhuần đầy móc mưa. Xuân tàn, xe phượng, vẫn chờ, Chim oanh còn hót đến vừa hoàng hôn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 22:57:01 bởi Anh Nguyên >
ĐỖ MỤC QUY GIA 歸 家
稚 子 牽 衣 問
歸 來 何 太 遲
共 誰 爭 歲 月
贏 得 鬢 邊 絲 杜 牧 Trĩ tử khiên y vấn, Quy gia hà thái trì. Cộng thùy tranh tuế nguyệt, Doanh đắc mấn như ty. Đỗ-Mục Dịch: Về nhà Trẻ con nắm áo hỏi han, Đi đâu vắng mãi lan man bấy chầy. Cùng ai tranh tháng tranh ngày, Chỉ lưa mái tóc như mây trắng ngần. Trần-Trọng-Kim Trẻ thơ níu áo hỏi ta, Vì sao lại trễ về nhà thế cha. Cùng ai năm tháng tranh à, Thắng thời mái tóc hóa ra tơ rồi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 22:57:55 bởi Anh Nguyên >
TƯƠNG PHÓ NGÔ HƯNG ĐĂNG LẠC DU NGUYÊN 將 赴 吳 興 登 樂 遊 原 清 時 有 味 是 無 能, 閒 愛 孤 雲 靜 愛 僧。 欲 把 一 麾 江 海 去, 樂 遊 原 上 望 昭 陵。 杜 牧 Thanh thì hữu vị thị vô năng, Nhàn ái cô vân tĩnh ái tăng. Dục bả nhất huy giang hải khứ, Lạc du nguyên thượng vọng chiêu lăng. Đỗ-Mục Dịch: Sắp đi Ngô-Hưng Không tài hưởng thú thanh bình, Nhàn: nhìn mây lẻ, yên: mình thăm sư. Dong cờ, sông biển đi ư? Lạc-Du, hãy đến cáo từ Chiêu-Lăng... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 22:59:11 bởi Anh Nguyên >
KÝ DƯƠNG CHÂU HÀN XƯỚC PHÁN QUAN 寄 扬 州 韩 绰 判 官
青 山 隐 隐 水 迢 迢,
秋 尽 江 南 草 未 凋。
二 十 四 桥 明 月 夜,
玉 人 何 处 教 吹 箫。
杜 牧 Thanh sơn ẩn ẩn thủy thiều thiều, Thu tận giang nam thảo mộc điêu. Nhị thập tứ kiều minh nguyệt dạ, Ngọc nhân hà xứ giáo xuy tiêu. Đỗ-Mục Dịch: Gửi Hàn-Xước Núi mờ, nước chảy xa xôi, Giang-Nam cây cỏ tiêu điều vẻ thu. Đêm nay trăng sáng cầu xưa, Mà người dạy sáo bây giờ là đâu? Trần-Trọng-San Núi non sông nước mờ xa, Giang-Nam, Thu hết, cỏ hoa úa tàn. Cầu nằm giãi ánh trăng vàng, Dạy tiêu, người ngọc giờ đang chốn nào?... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 23:00:38 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 6 bạn đọc.
Kiểu: