Đường Thi Trích Dịch I - Anh Nguyên
KHIỂN HOÀI
遣 懷
落 魄 江 湖 載 酒 行,
楚 腰 纖 細 掌 中 輕。
十 年 一 覺 揚 州 夢,
贏 得 青 樓 薄 倖 名。
杜 牧 Lạc phách giang hồ tái tửu hành, Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh. Thập niên nhất giác dương châu mộng, Doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh. Đỗ-Mục Dịch: Giải nỗi nhớ Vơ vẩn sông hồ nghiêng ngả say, Lưng thon, mình nhẹ cạnh kề ai. Dương châu chợt tỉnh mười năm mộng, Được tiếng lầu xanh phụ bạc hoài. Trần-Trọng-San Giang hồ mang rượu đi theo, Tay nâng gái Sở nơi eo nhẹ nhàng. Mười năm tỉnh giấc muộn màng, Dương-Châu, tiếng bạc với làng lầu xanh... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 23:01:46 bởi Anh Nguyên >
XÍCH BÍCH HOÀI CỔ 赤 壁 懷 古
折 戟 沈 沙 鐵 未 銷
自 將 磨 洗 認 前 朝
東 風 不 與 周 郞 便
銅 雀 春 深 鎖 二 喬
杜 牧
Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu, Tự tương ma tẩy nhận tiền triều. Đông phong bất dữ chu lang tiện, Đồng tước xuân thâm tỏa nhị kiều. Đỗ-Mục Dịch: Nhớ Xích-Bích xưa Giáo vùi, sắt vẫn còn trơ, Rửa xem, nhận biết triều xưa rõ ràng. Gió đông không giúp Chu lang, Khóa xuân Đồng-Tước đã giam hai Kiều. Trần-Trọng-San Cát vùi, giáo gẫy chưa tiêu, Mài đi, dấu vết tiền triều còn đây. Chu lang, gió chẳng giúp tay, Đài Xuân Đồng-Tước khoá ngay hai Kiều... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 23:02:31 bởi Anh Nguyên >
THÁN HOA 嘆 花
自 是 尋 芳 去 較 遲
不 須 惆 悵 怨 芳 時
狂 風 落 盡 深 紅 色
綠 葉 成 陰 子 滿 枝
杜 牧
Tự thị tầm phương khứ giảo trì, Bất tu trù trướng oán phương thì. Cuồng phong lạc tận thâm hồng sắc, Lục diệp thành âm tử mãn chi. Đỗ-Mục Dịch: Than tiếc hoa Từ độ tìm thơm lỡ muộn tình, Chẳng nên buồn bã oán mùa xanh. Gió cuồng rụng hết bông hồng thắm, Lá biếc xum xuê, trái chĩu cành. Trần-Trọng-San Hương thơm, tìm đã muộn rồi, Chẳng nên buồn bã oán thời hương qua. Gió lay, hồng rụng hết hoa, Chỉ còn lá biếc cùng là quả thôi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 23:03:03 bởi Anh Nguyên >
GIANG NAM XUÂN 江 南 春
十 里 鶯 啼 綠 映 紅
水 村 山 郭 酒 旗 風
南 朝 西 百 八 十 寺
多 少 樓 臺 煙 雨 中
杜 牧 Thiên lý oanh đề lục ánh hồng, Thủy thôn sơn quách tửu kỳ phong. Nam triều tứ bách bát thập tự, Đa thiểu lâu đài yên vũ trung. Đỗ-Mục Dịch: Xuân ở Giang-Nam Oanh kêu mười dặm biếc hồng, Bên thôn, quán rượu gió tung bay cờ. Bốn trăm chùa sáu triều xưa, Bao nhiêu lầu gác khói mưa mịt mùng! Trần-Trọng-San Biếc, hồng, ngàn dặm oanh ca, Cờ lay quán rượu xóm nhà bên sông. Bốn trăm tám chục cửa không, Bao nhiêu lầu gác lẫn trong mưa mù... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 23:03:41 bởi Anh Nguyên >
TẦN HOÀI DẠ BẠC 秦 淮 夜 泊
煙 籠 寒 水 月 籠 沙
夜 泊 秦 淮 近 酒 家
商 女 不 知 亡 國 恨
隔 江 猶 唱 後 庭 花
杜 牧 Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa, Dạ bạc tần hoài cận tửu gia. Thương nữ bất tri vong quốc hận, Cách giang do xướng hậu đình hoa. Đỗ-Mục Dịch: Đậu thuyền bến Tần-hoài Khói lồng nước, bóng trăng lồng cát, Bến Tần-Hoài, thuyền sát tửu gia. Gái ca đâu nghĩ nước nhà, Cách sông vẫn hát khúc hoa Hậu-đình. Trần-Trọng-Kim Khói lồng nước, cát tỏa trăng ngà, Thuyền đậu Tần-Hoài, cạnh tửu gia. Gái kia chẳng hận gì mất nước, Cách sông nghe hát Hậu-Đình-Hoa... Khói lồng nước lạnh trăng lồng cát, Thuyền đậu Tần-Hoài sát tửu gia. Gái không hận mất nước nhà, Bên sông còn ‘‘Hậu đình hoa’’ hát hoài... Khói lồng nước, cát trăng ngà, Tần-Hoài, bên cạnh tửu gia đậu thuyền. Hận vì mất nước, gái quên, Hậu-Đình-Hoa, vẫn trong đêm hát hoài... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 23:04:29 bởi Anh Nguyên >
TẶNG BIỆT (Kỳ nhất)
贈 別 之 一
娉 娉 嫋 嫋 十 三 餘,
豆 蔻 梢 頭 二 月 初。
春 風 十 里 揚 州 路,
卷 上 珠 簾 總 不 如。
杜 牧 Phinh phinh niễu niễu thập tam dư, Đậu khấu sao đầu nhị nguyệt sơ. Xuân phong thập lý dương châu lộ, Quyển thượng châu liêm tổng bất như. Đỗ-Mục Dịch: Tặng lúc ly biệt (Bài một) Xinh xinh vừa quá mười ba, Ngọn cây đậu khấu mới là tháng hai. Gió xuân mười dặm đường dài, Rèm châu cuốn hết, chẳng ai bằng nàng. Trần-Trọng-San Xinh xinh tuổi quá mười ba, Ngọn cây đậu khấu chắc là tháng hai. Dương-Châu, mười dặm đường dài, Rèm châu gió cuốn, chẳng ai bằng nàng... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 23:04:58 bởi Anh Nguyên >
TẶNG BIỆT (Kỳ nhị)
贈 別 之 二
多 情 卻 似 總 無 情,
唯 覺 樽 前 笑 不 成。
蠟 燭 有 心 還 惜 別,
替 人 垂 淚 到 天 明。
杜 牧 Đa tình khước tự tổng vô tình, Duy giác tôn tiền tiếu bất thành. Lạp chúc hữu tâm hoàn tích biệt, Thế nhân thùy lệ đáo thiên minh. Đỗ-Mục Dịch: Tặng lúc ly biệt (Bài hai) Đa tình mà tựa vô tình, Quạnh hiu chén rượu, vắng tanh tiếng cười. Nến kia còn tiếc chia phôi, Sụt sùi đến sáng, lệ rơi vì người. Trần-Trọng-San Đa tình đâu khác vô tình, Chỉ hay trước chén, lặng thinh chẳng cười. Nến còn quyến luyến chia phôi, Thay người, nhỏ lệ đến trời sáng trưng... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 23:05:40 bởi Anh Nguyên >
TAM NIÊN BIỆT 三 年 别
悠 悠 一 別 已 三 年,
相 望 相 思 明 月 天。
腸 斷 青 天 望 明 月,
别 來 三 十 六 回 圓。 杜 牧 Du du nhất biệt dĩ tam niên, Tương vọng tương tư, minh nguyệt thiên. Trường đoạn thanh thiên vọng minh nguyệt, Biệt lai tam thập lục hồi viên. Đỗ-Mục Dịch: Ba năm xa cách Xa nhau một chuyến ba năm, Ngóng nhau chung bóng trăng rằm nhớ nhau. Trời xanh, trăng sáng, lòng đau, Ba mươi sáu độ trước sau trăng tròn. Tản-Đà Biệt nhau nay đã ba năm, Đêm cùng ngắm ánh trăng rằm nhớ nhau. Trời xanh, trăng sáng, ruột đau, Xa nhau băm sáu trước sau trăng tròn!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 23:06:51 bởi Anh Nguyên >
THU TỊCH 秋 夕
銀 燭 秋 光 冷 畫 屏
輕 羅 小 扇 撲 流 螢
天 階 夜 色 涼 如 水
臥 看 牽 牛 織 女 杜 牧 Ngân chúc thu quang lãnh họa bình, Khinh la tiểu phiến phác lưu huỳnh. Thiên giai dạ sắc lương như thủy, Ngọa khán khiên ngưu chức nữ tinh. Đỗ-Mục Dịch: Đêm Thu Bình phong lạnh, ánh đuốc Thu, Đóm bay, quạt lụa, lấy xua ra ngoài. Thềm trời mát mẻ đêm dài, Ngưu-Lang Chức-Nữ cả hai, nằm nhìn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 23:07:21 bởi Anh Nguyên >
TRUNG THU 中 秋 暮 雲 輸 盡 溢 聲 寒 銀 漢 無 聲 轉 玉 盤 此 生 此 夜 不 長 好 明 年 明 年 何 處 看 杜 牧 Mộ vân thâu tận dật thanh hàn, Ngân hán vô thanh chuyển ngọc bàn. Thử sinh thử dạ bất trường hảo, Minh nguyệt minh niên hà xứ khan. Đỗ-Mục Dịch: Trung Thu Mây tan, trăng lạnh đầy trời, Im lìm doành Hán, chuyển dời mâm châu. Đời vui, êm đẹp mãi đâu! Sang năm, trăng sáng nơi nào ngắm trông? Trần-Trọng-San Mây chiều, trời lạnh, cuốn nhanh, Ngân-Hà lặng lẽ in vành gương nga. Đêm nay thường ít sảy ra, Sang năm sẽ ngắm trăng ngà nơi đâu?... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 23:07:59 bởi Anh Nguyên >
KIM CỐC VIÊN
金 谷 園
繁 華 事 散 逐 香 塵,
流 水 無 情 草 自 春。
日 暮 東 風 怨 啼 鳥,
落 花 猶 似 墜 樓 人。
杜 牧 Phồn hoa sự tán trục hương trần, Lưu thủy vô tình thảo tự xuân. Nhật mộ đông phong oán đề điểu, Lạc hoa do tự trụy lâu nhân. Đỗ-Mục Dịch: Vườn Kim-Cốc Phồn hoa tan, sạch hương trần, Vô tình nước chảy, cỏ xuân tươi màu. Gió đông oán tiếng chim sầu, Hoa rơi giống kẻ gieo lầu khi xưa. Trần-Trọng-San Phồn hoa hết, sạch hương đời, Thờ ơ nước chảy, cỏ tươi thắm màu. Gió đông hờn tiếng chim sầu, Hoa rơi tựa gái gieo lầu thuở xưa... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 23:08:43 bởi Anh Nguyên >
THANH MINH 青 明
青 明 時 節 雨 紛 紛
路 上 行 人 欲 斷 魂
借 問 酒 家 何 處 有
牧 童 搖 指 荇 花 村
杜 牧 Thanh minh thì tiết vũ phân phân, Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn. Tá vấn tửu gia hà xứ hữu, Mục đồng dao chỉ hạnh hoa thôn. Đỗ-Mục Dịch: Tiết Thanh-Minh Thanh-minh, mưa bụi phủ dầy, Trên đường, lòng khách tràn đầy buồn đau. Hỏi xem quán rượu nơi đâu, Mục đồng, Hoa-Hạnh, chỉ đầu thôn xa... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 23:09:16 bởi Anh Nguyên >
SƠN HÀNH 山 行
遠 上 寒 山 石 徑 斜
白 雲 生 處 有 人 家
停 車 坐 愛 楓 林 晚
霜 葉 紅 于 二 月 花
杜 牧
Viễn thướng hàn sơn thạch kính tà, Bạch vân sinh xứ hữu nhân gia. Đình xa tọa ái phong lâm vãn, Sương diệp hồng ư nhị nguyệt hoa. Đỗ-Mục Dịch: Đi đường núi Hàn-Sơn, đưởng đá dốc xa, Nơi mây trắng bốc, có nhà ở trong. Ngừng xe, mến cảnh rừng phong, Lá màu đỏ tựa hoa vòng tháng hai... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 23:09:39 bởi Anh Nguyên >
QUÁ HOA THANH CUNG 過 華 清 宮
長 安 回 望 繡 成 堆
山 頂 千 門 次 第 開
一 騎 紅 塵 妃 子 笑
無 人 知 是 荔 枝 來
杜 牧
Trường an hồi vọng tú thành đôi,
Sơn đính thiên môn thứ đệ khai.
Nhất kỵ hồng trần phi tử tiếu,
Vô nhân tri thị lệ chi lai.
Đỗ-Mục
Dịch:
Qua cung Thanh-Hoa
Trường-An đẹp tựa gấm thêu,
Đầu non, nghìn cửa đã đều mở ra.
Bụi hồng, trên ngựa, cười hoa,
Ai hay ‘‘Trái vải’’ người ta đã về...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 19:05:38 bởi Anh Nguyên >
ĐỀ Ô GIANG ĐÌNH 題 烏 江 享
勝 敗 兵 家 事 不 期
包 羞 忍 聇 是 男 兒
江 東 子 弟 多 才 俊
卷 土 重 來 未 可 知 杜 牧
Thắng bại binh gia sự bất kỳ, Bao tu nhẫn sỉ thị nam nhi. Giang đông tử đệ đa tài tuấn, Quyển thổ trùng lai vị khả tri. Đỗ-Mục Dịch: Đề đình Ô-Giang Việc quân, thua được, chẳng kỳ, Nén lòng thẹn, nhục, nam nhi mới là. Giang-Đông giới trẻ tài ba, Trở về, kết quả biết ra thế nào!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 23:10:24 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 7 bạn đọc.
Kiểu: