Đường Thi Trích Dịch I - Anh Nguyên
VẤN HỮU 問 友
種 蘭 不 種 艾, 蘭 生 艾 亦 生。
根 荄 相 交 長, 莖 葉 相 附 榮。
香 莖 與 臭 葉, 日 夜 俱 長 大。
鋤 艾 恐 傷 蘭, 溉 蘭 恐 滋 艾。
蘭 亦 未 能 溉, 艾 亦 未 能 除。
沈 吟 意 不 決, 問 君 合 何 如? 白 居 易 Chủng lan bất chủng ngãi, Lan sinh ngãi diệc sinh. Căn cai tương giao trưởng, Hành diệp tương phụ vinh. Hương hành dữ xú diệp, Nhật dạ câu trưởng đại. Sừ ngãi khủng thương lan, Khái lan khủng tư ngãi. Lan diệc vị năng khái, Ngãi diệc vị năng trừ. Trầm ngâm ý bất quyết, Vấn quân hợp hà như. Bạch-Cư-Dị Dịch: Hỏi bạn Trồng lan, chứ ngải làm chi, Thế mà lan mọc, ngải thì mọc theo. Mầm lên, rễ cũng cuốn theo, Lá và dò dựa, sống theo tháng ngày. Dò thơm cùng lá hôi này, Ngày đêm nảy nở càng ngày càng cao. Ngải, trừ sợ tổn lan sao, Tưới lan, lại sợ ngải cao hơn giờ. Lan, chưa tưới, hãy còn chờ, Ngải, còn ngại diệt, làm ngơ chưa trừ. Nghĩ hoài nhưng vẫn chần chừ, Bác xem, giải quyết nên như thế nào?... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.04.2022 22:15:39 bởi Anh Nguyên >
THƯƠNG TRẠCH 傷 宅
誰 家 起 甲 第, 朱 門 大 道 邊.
豐 屋 中 楔 比, 高 牆 外 迴 環.
纍 纍 六 七 當, 簷 宇 相 連 延.
一 當 費 百 萬, 鬱 鬱 起 青 煙.
洞 房 溫 且 清, 寒 暑 不 能 忏.
高 亭 虛 且 迥, 坐 臥 見 南 山.
繞 廊 紫 藤 架, 夾 砌 紅 藥 闌.
攀 枝 摘 櫻 桃, 帶 花 移 牡 丹.
主 人 此 中 坐, 十 載 為 大 官.
廚 有 臭 敗 肉, 庫 有 貫 朽 錢.
誰 能 將 我 語, 問 爾 骨 肉 間.
豈 無 窮 賤 者? 忍 不 救 飢 寒?
如 何 奉 一 身, 直 欲 保 千 年.
不 見 馬 家 宅, 今 作 奉 誠 園! 白 居 易 Thùy gia khởi giáp đệ, Chu môn đại đạo biên. Phong ốc trung tiết tỷ, Cao tường ngoại hồi hoàn. Lũy lũy lục thất đáng, Thiềm vũ tương liên diên. Nhất đáng phí bách vạn, Uất uất khởi thanh yên. Động phòng ôn thả thanh, Hàn thử bất năng can. Cao đình hư thả quỷnh, Tọa ngọa kiến nam san. Nhiễu lang tử đằng giá, Giáp thế hồng dược lan. Phan chi trích anh đào. Đới hoa di mẫu đan, Chủ nhân thử trung tọa. Thập tải vi đại quan, Trù hữu xú bại nhục. Khố hữu quán hủ tiền, Thùy năng tương ngã ngữ. Vấn nhĩ cốt nhục gian, Khởi vô bần tiện giả. Nhẫn bất cứu cơ hàn, Như hà phụng nhất thân, Trực dục bảo thiên niên. Bất kiến mã gia trạch, Kim tác phụng thành viên. Bạch-Cư-Dị Dịch: Nhà đáng thương Nhà ai dinh thự dựng lên, Cửa son ở sát ngay bên cạnh đường. Bên trong, nhà đẹp lạ thường, Bên ngoài, khắp mặt có tường bao quanh. Nhà gồm đến sáu bảy căn, Có hiên đi lại, cách ngăn nối liền. Mỗi căn trăm vạn quan tiền, Khói xanh nghi ngút bay lên sớm chiều. Phòng sâu, ấm mát đều đều, Trời dù nóng lạnh chẳng điều xảy ra. Nhà cao, thoáng, lại trông xa, Núi Nam, luôn thấy dầu là nằm nghiêng. Dàn dây leo tím quanh hiên, Dãy cây thược dược bên thềm đỏ tươi. Vin cành hái cánh đào lơi, Đeo hoa, lại phải đổi dời mẫu đơn. Ngồi trong nhà ấy, chủ nhân, Mười năm quan lớn, giầu hơn mọi người. Thịt thừa nơi bếp, mùi hôi, Trong kho, tiền mục biết đời nào tiêu. Nhờ ai nhắn hộ mấy điều, Hỏi ông, ruột thịt có nhiều hay không. Há không có kẻ khốn cùng, Những ai đói rét, nỡ không xót tình? Làm sao chỉ biết thân mình, Muốn ôm giữ lấy đến nghìn năm sau. Mã-Lân, nhà có thấy đâu, Nay là vườn Phụng giãi giầu nắng mưa... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.04.2022 22:17:58 bởi Anh Nguyên >
KHINH PHÌ
輕 肥
意 氣 驕 滿 路,
鞍 馬 光 照 塵。
借 問 何 為 者,
人 稱 是 內 臣。
朱 紱 皆 大 夫,
紫 綬 悉 將 軍。
誇 赴 軍 中 宴,
走 馬 去 如 雲。
樽 罍 溢 九 醞,
水 陸 羅 八 珍。
果 擘 洞 庭 橘,
膾 切 天 池 鱗。
食 飽 心 自 若,
酒 酣 氣 益 振。
是 歲 江 南 旱,
衢 州 人 食 人。
白 居 易
Ý khí kiêu mãn lộ, Yên mã quang chiếu trần. Tá vấn hà vi giả, Nhân xưng thị nội thần. Chu phất giai đại phu, Tử thụ hoặc tướng quân. Khoa phó trung quân yến, Tẩu mã khứ như vân. Tôn lôi dật cửu uấn, Thủy lục la bát trân. Quả phách động đình quất, Khoái thiết thiên trì lân. Thực bão tâm tự nhược, Tửu hàm khí ích chân. Thị tuế giang nam hạn, Cồ châu nhân thực nhân. Bạch-Cư-Dị Dịch: Ngựa béo áo cừu nhẹ Đầy đường, khí thế dương dương, Ngựa yên lóng lánh, trên đường bụi bay. Hỏi: ‘‘Làm gì? các vị này’’, Người thưa‘‘Quan chức ngày nay trong triều’’ Đại phu, các vị dải điều, Còn mang dải tía, chắc đều tướng quân. Trong quân dự tiệc khoe thân, Ngựa phi nhanh chắc cũng gần như mây. Hồ, bầu, chín loại rượu đầy, Dưới sông, trên cạn, đã bầy món ngon. Động-Đình, trái quýt no tròn, Thiên-Trì, gỏi cá đã dòn, lại thơm. Ăn no, thoải mái tâm hồn, Rượu vào, ý khí hùng hồn hăng say. Giang-Nam hạn hán năm nay, Cồ-Châu, người lại ăn ngay thịt người!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.04.2022 22:20:01 bởi Anh Nguyên >
CA VŨ 歌 舞 秦 中 歲 雲 暮, 大 雪 滿 皇 州。 雪 中 退 朝 者, 朱 紫 盡 公 侯。 貴 有 風 雲 興, 富 無 饑 寒 憂。 所 營 唯 第 宅, 所 務 在 追 遊。 朱 輪 車 馬 客, 紅 燭 歌 舞 樓。 歡 酣 促 密 坐, 醉 暖 脫 重 裘。 秋 官 為 主 人, 廷 尉 居 上 頭。 日 中 為 樂 飲, 夜 半 不 能 休。 豈 知 閿 鄉 獄, 中 有 凍 死 囚。 白 居 易 Tần trung tuế vân mộ,
Đại tuyết mãn hoàng châu.
Tuyết trung thoái triều giả,
Chu tử tận công hầu.
Quý hữu phong tuyết hứng,
Phú vô cơ hàn ưu.
Sở doanh duy đệ trạch,
Sở vụ tại truy du.
Chu luân xa mã khách,
Hồng chúc ca vũ lâu.
Hoan hàm xúc mật tọa,
Túy noãn thoát trùng cừu.
Thu quan vi chủ nhân,
Đình úy cư thượng đầu.
Nhật trung vi lạc ẩm,
Dạ bán bất năng hưu.
Khởi tri văn hương ngục,
Trung hữu đống tử tù.
Bạch-Cư-Dị
Dịch:
Múa hát
Tần-Trung, tháng hết năm tàn,
Đầy trời, tuyết trắng đổ tràn Hoàng-Châu.
Đi trong tuyết lúc bãi chầu,
Dải hồng dải tía Công Hầu cả thôi.
Người sang, gió tuyết thì vui,
Người giầu, đói lạnh đâu thời phải lo.
Chỉ lo đất rộng nhà to,
Ăn chơi, đeo đuổi để cho sướng đời.
Khách, xe bánh đỏ mới mời,
Lầu cao múa hát, sáng ngời đuốc son.
Vui say, kề sát, cười dòn,
Hơi men nóng nực, áo còn cởi ra.
Quan Hình-Bộ, ngôi chủ nhà,
Các quan Hình khác ngồi ra ghế đầu.
Từ trưa, vui chửa thấm đâu,
Nửa đêm mà tiệc như hầu chưa tan.
Văn-Hương, nghe tiếng ngục than?
Nhiều người đói rét, sức tàn bỏ thân!...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.04.2022 22:57:08 bởi Anh Nguyên >
MÃI HOA 買 花
帝 城 春 欲 暮, 喧 喧 車 馬 度.
共 道 牡 丹 時, 相 隨 買 花 去.
貴 賤 無 常 價, 酬 直 看 花 數.
灼 灼 百 朵 紅, 戔 戔 五 束 素.
上 張 幄 幕 庇, 旁 織 巴 籬 護.
水 灑 復 泥 封, 移 來 色 如 故.
家 家 習 為 俗, 人 人 迷 不 悟.
有 一 田 舍 翁, 偶 來 買 花 處.
低 頭 獨 長 嘆, 此 嘆 無 人 諭.
一 叢 深 色 花, 十 戶 中 人 賦. 白 居 易 Đế thành xuân dục mộ,
Huyên huyên xa mã độ.
Cộng đạo mẫu đơn thì,
Tưong tùy mãi hoa khứ.
Quý tiện vô thường giá,
Thù trị khan hoa số.
Chước chước bách hoa hồng,
Tiên tiên ngũ thúc tố.
Thượng trương ác mạc tý,
Bàng chức ba ly hộ.
Thủy sái phục nê phong,
Di lai sắc như cố.
Gia gia tập vi tục,
Nhân nhân mê bất ngộ.
Hữu nhất điền xá ông,
Ngẫu lai mãi hoa xứ.
Đê đầu độc trường thán,
Thử thán vô nhân dụ.
Nhất tùng thâm sắc hoa,
Thập hộ trung nhân phú.
Bạch-Cư-Dị
Dịch:
Mua hoa
Kinh thành vào lúc cuối Xuân,
Ngựa xe đi lại rầm rầm không ngơi.
Mẫu đơn, hoa nở đương thời,
Theo nhau ra phố, mọi người mua hoa.
Sang hèn, giá bán khác xa,
Giá còn tùy ổ số hoa ít nhiều.
Trăm bông đỏ dáng mỹ miều,
Nõn nà năm bó hoa đều trắng tinh.
Trên che tấm vải lều xinh,
Chung quanh lại có phên mành đỡ che.
Hoa phun nước, gốc bùn be,
Đem đi tươi tốt, không hề đổi thay.
Nhà nhà quen với tục này,
Người người mê muội chẳng hay biết gì.
Có ông già ở chốn quê,
Tình cờ đi đến bên lề bán hoa.
Cúi đầu, than thở xót xa,
Lời than, nào có nhận ra một người:
‘‘Cụm hoa màu sắc thắm tươi,
Bằng mười hộ thuế những người bậc trung''.
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.05.2022 18:05:02 bởi Anh Nguyên >
TỪ Ô DẠ ĐỀ 慈 烏 夜 啼
慈 烏 失 其 母, 啞 啞 吐 哀 音,
晝 夜 不 飛 去, 經 年 守 故 林。
夜 夜 夜 半 啼, 聞 者 為 沾 襟;
聲 中 如 告 訴, 未 盡 反 哺 心。
百 鳥 豈 無 母, 爾 獨 哀 怨 深?
應 是 母 慈 重, 使 爾 悲 不 任。
昔 有 吳 起 者, 母 歿 喪 不 臨,
嗟 哉 斯 徒 輩, 其 心 不 如 禽!
慈 烏 復 慈 烏, 鳥 中 之 曾 參。 白 居 易 Từ ô thất kỳ mẫu, Á á thổ ai âm. Triêu dạ bất phi khứ, Kinh niên thủ cố lâm. Dạ dạ dạ bán đề, Văn giả vi triêm khâm. Thanh trung như cáo tố, Vị tận phản bộ tâm. Bách điểu khởi vô mẫu, Nhĩ độc ai oán thâm. Ưng thị mẫu từ trọng, Sử nhĩ bi bất nhâm. Tích hữu ngô khởi giả, Mẫu một tang bất lâm. Ta tai tư đồ bối, Kỳ tâm bất như cầm. Từ ô phục từ ô, Điểu trung chi tăng sâm. Bạch-Cư-Dị Dịch: Quạ hiền kêu đêm Quạ hiền vừa mất mẹ rồi, ‘‘Quà quà’’, kêu tiếng buồn ôi là buồn. Chẳng bay đi, ở đấy luôn, Quanh năm vẫn giữ cội nguồn rừng xưa. Nửa đêm kêu tiếng thảm chưa, Áo người thấm lệ khi vừa nghe kêu. Tiếng kêu như muốn tỏ điều: Chăm nuôi, đền đáp bấy nhiêu chưa vừa. Trăm loài không có mẹ ư? Riêng mày thương sót, thật chưa ai bằng. Niềm thương của mẹ nặng chăng, Khiến mày sầu khổ chẳng dằn được ư? Có ông Ngô-Khởi thuở xưa, Mẹ ông khi chết, không đưa đám bà, Than ôi cái lũ người ta, Dạ lòng của họ thua xa chim trời. Quạ hiền, hỡi quạ hiền ơi, Trong loài chim, chính mày thời Tăng-Sâm... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.05.2022 18:06:14 bởi Anh Nguyên >
NHÀN TỊCH 閒 夕
一 聲 早 蟬 歇,
數 點 青 螢 度。
蘭 缸 耿 無 煙,
筠 簟 清 有 露。
未 歸 房 後 寢,
且 下 前 軒 步。
斜 月 入 低 廊,
涼 風 滿 高 樹。
放 懷 常 自 適,
過 景 多 成 趣。
何 法 使 之 然,
心 中 無 細 故。
白 居 易 Nhất thanh tảo thiền yết, Sổ điểm thanh huỳnh độ. Lan cang cảnh vô yên, Quân điệm thanh hữu lộ. Vị quy phòng hậu tẩm, Thả hạ tiền hiên bộ. Tà nguyệt nhập đê lang, Lương phong mãn cao thụ. Phóng hoài thường tự thích, Ngộ cảnh đa thành thú. Hà pháp sử chi nhiên, Tâm trung vô tế cố. Bạch-Cư-Dị Dịch: Đêm an nhàn Đã im buổi sáng tiếng ve, Vài con đom đóm lập loè bay qua. Đèn lan không khói sáng lòa, Chiếu tre mát lạnh đã nhòa sương đêm. Chưa về phòng vắng êm đềm, Trước hiên, thả bước bên thềm dạo chơi. Chênh chênh, trăng chiếu sáng ngời, Cây cao gió mát giữa trời phởn phơ. Hồn theo trăng gió mộng mơ, Người mà hợp cảnh, bao giờ cũng vui. Pháp gì để được thảnh thơi? Lòng không vướng chút chuyện đời nhỏ nhen... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.05.2022 18:07:08 bởi Anh Nguyên >
TẶNG NỘI
贈 內
生 為 同 室 親
死 為 同 穴 塵。
他 人 尚 相 勉
而 況 我 与 君。
黔 婁 固 窮 士
妻 賢 忘 其 貧。
冀 缺 一 農 夫
妻 敬 儼 如 賓。
陶 潛 不 營 生
翟 氏 自 爨 薪。
梁 鴻 不 肯 仕
孟 光 甘 布 裙。
君 雖 不 讀 書
此 事 耳 亦 聞。
至 此 千 載 后
傳 是 何 如 人。
人 生 未 死 間
不 能 忘 其 身。
所 須 者 衣 食
不 過 飽 与 溫。
蔬 食 足 充 飢
何 必 膏 粱 珍。
繒 絮 足 御 寒
何 必 錦 繡 文。
君 家 有 貽 訓
清 白 遺 子 孫。
我 亦 貞 苦 士
与 君 新 結 婚。
庶 保 貧 与 素
偕 老 同 欣 欣。
白 居 易 Sinh vi đồng thất thân, Tử vi đồng huyệt trần. Tha nhân thượng tương miễn, Nhi huống ngã dữ quân. Kiềm lâu cố cùng sĩ, Thê hiền vong kỳ bần. Ký khuyết nhất nông phu, Thê kính nghiễm như tân. Đào tiềm bất doanh sinh, Địch thị tự soán tân. Lương hồng bất khẳng sĩ, Mạnh quang cam bố quân. Quân tuy bất độc thư, Thử sự nhĩ diệc văn. Chí thử thiên tải hậu, Truyền thị như hà nhân. Nhân sinh vị tử gian, Bất năng vong kỳ thân. Sở tu giả y thực, Bất quá bão dữ ôn. Sơ thực túc sung cơ, Hà tất cao lương trân. Tăng nhứ túc ngự hàn, Hà tất cẩm tú văn. Quân gia hữu di huấn, Thanh bạch di tử tôn. Ngã diệc trinh khổ sĩ, Dữ quân tân kết hôn. Thứ bảo bần dữ tố, Giai lão đồng hân hân. Bạch-Cư-Dị Dịch: Tặng vợ Sống cùng nhau dưới mái nhà, Chết cùng mộ huyệt, có xa chút nào. Người dưng còn biết khuyên nhau, Huống chi ta với nàng đâu xa gì. Kiềm-Lâu, lúc học, hàn vi, Vợ hiền tận tụy, quên đi nghèo cùng. Mưu sinh, Ký-Khuyết nghề nông, Vợ luôn kính trọng như cùng khách xa. Đào-Tiềm, sinh kế lơ là, Một tay bà Địch cửa nhà lo toan. Lương-Hồng chẳng chịu làm quan, Áo quần vải xấu, Mạnh-Quang cam đành. Nàng tuy sách vở chẳng rành, Nhưng nàng tai đã nghe danh các bà. Nghìn năm, tuy đã cách xa, Nay còn truyền tụng, vẫn là người trên. Đời người, lúc chửa quy tiên, Tấm thân, không thể bỏ quên được rồi. Áo cơm, là việc cần thôi, Miễn sao no ấm được rồi, cầu chi. Ăn rau hết đói, cần gì, Thức ăn, đâu phải cầu kỳ bảo trân. Vải thô, mặc cũng ấm thân, Cần đâu gấm vóc vẽ vằn thêu hoa. Nhà nàng truyền dạy trong nhà, Cháu, con, thanh bạch ráng mà noi theo. Ta đây vốn học trò nghèo, Cùng nàng chồng vợ, cũng theo gương này. Nghèo mà trong sạch mới hay, Cùng nhau vui sống từ nay đến già... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.05.2022 18:08:05 bởi Anh Nguyên >
THU SƠN
秋 山
久 病 曠 心 賞
今 朝 一 登 山
山 秋 雲 物 冷
稱 我 清 羸 顏
百 石 臥 可 枕
青 蘿 行 可 攀
意 中 如 有 得
盡 日 不 欲 還
人 生 無 幾 何
如 寄 天 地 間
心 有 千 載 憂
身 無 一 日 閑
何 時 解 塵 網
此 地 來 掩 關
白 居 易
Cửu bệnh khoáng tâm thưởng, Kim triêu nhất đăng sơn. Sơn thu vân vật lãnh, Xứng ngã thanh luy nhan. Bạch thạch ngọa khả chẩm, Thanh la hành khả phan. Ý trung như hữu đắc, Tận nhật bất dục hoàn. Nhân sinh vô kỷ hà, Như ký thiên địa gian. Tâm hữu thiên tải ưu, Thân vô nhất nhật nhàn. Hà thời giải trần võng, Thử địa lai yểm quan. Bạch-Cư-Dị Dịch: Núi Thu Ốm lâu bỏ ngắm núi non, Sớm nay mới lại lên hòn núi chơi. Thu: mây, cảnh vật lạnh rồi, Giống như bộ mặt chưa hồi của ta. Gối nằm, có đá trắng ngà, Dây xanh để vịn lúc ta leo trèo. Vừa lòng, như thấy vui theo, Hết ngày, sườn núi cheo leo chưa về. Cuộc đời sống chết gần kề, Gửi trong trời đất, ngày về biết đâu! Trong lòng nghìn mối lo âu, Một ngày cũng chẳng thấy đâu an nhàn. Khi nào thoát lưới trần gian, Nơi này đóng cửa, an nhàn gửi thân... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.05.2022 18:09:04 bởi Anh Nguyên >
TÂY HỒ VÃN QUY
西 湖 晚 歸
柳 湖 松 島 蓮 花 寺
晚 動 歸 橈 出 道 場
盧 橘 子 低 山 雨 重
栟 櫚 葉 戰 水 風 涼
煙 波 淡 蕩 搖 空 碧
樓 殿 參 差 倚 夕 陽
到 岸 請 君 回 首 望
蓬 萊 宮 在 海 中 央
白 居 易
Liễu hồ tùng đảo liên hoa tự, Vãn động quy nhiêu xuất đạo trường. Lư quất tử đê sơn vũ trọng, Tinh lư diệp chiến thủy phong lương. Yên ba đạm đãng dao không bích, Lâu điện sâm si ỷ tịch dương. Đáo ngạn thỉnh quân hồi thủ vọng, Bồng lai cung tại hải trung ương. Bạch-Cư-Dị Dịch: Chiều từ Tây-Hồ về Đảo thông, hồ liễu, chùa Sen, Đạo tràng chiều xuống, chèo quen về nhà. Núi mưa, quất chĩu la đà, Lá lư xào xạc, gió xa mát lành. Chập chờn, sóng động trời xanh, Điện lầu cao thấp, vây quanh nắng tà. Đến bờ, nhìn lại đằng xa: Bồng-Lai giữa biển bao la nước, trời... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.05.2022 18:09:42 bởi Anh Nguyên >
TỐNG VƯƠNG THẬP BÁT QUY SƠN, KÝ ĐỀ TIÊN DU TỰ
送 王 十 八 歸 山
寄 題 仙 遊 寺
曾 於 太 白 峰 前 住
數 到 仙 遊 寺 裡 來
黑 水 澄 時 潭 底 出
白 雲 破 處 洞 門 開
林 間 煖 酒 燒 紅 葉
石 上 題 詩 掃 綠 苔
惆 悵 舊 遊 無 復 到
菊 花 時 節 羨 君 回
白 居 易 Tằng ư thái bạch phong tiền trú, Sổ đáo tiên du tự lý lai. Hắc thủy trừng thì đàm để xuất, Bạch vân phá xứ động môn khai. Lâm gian noãn tửu thiêu hồng diệp, Thạch thượng đề thi tảo lục đài. Trù trướng cựu du vô phục đáo, Cúc hoa thì tiết tiện quân hồi. Bạch-Cư-Dị Dịch: Tiễn Vương-Thập-Bát về núi Đã non Thái-Bạch dừng chân, Chùa Tiên-Du, cũng mấy lần ghé thăm. Nước đen lắng, thấy đáy đầm, Vầng mây trắng cuốn, động nằm ngay bên. Rượu, rừng, lá đỏ hâm lên, Rêu xanh mặt đá, thơ liền đề ngay. Buồn không trở lại nơi này, Bác về, cúc nở đầy ngay bên đường... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.05.2022 18:10:17 bởi Anh Nguyên >
VĂN KHỐC GIẢ
聞 哭 者
昨 日 南 鄰 哭,
哭 聲 一 何 苦。
云 是 妻 哭 夫,
夫 年 二 十 五。
今 朝 北 里 哭,
哭 聲 又 何 切。
云 是 母 哭 儿,
儿 年 十 七 八。
四 鄰 尚 如 此,
天 下 多 夭 折。
乃 知 浮 世 人,
少 得 垂 白 發。
余 今 過 四 十,
念 彼 聊 自 悅。
從 此 明 鏡 中,
不 嫌 頭 似 雪。
白 居 易
Tạc nhật nam lân khốc, Khốc thanh nhất hà khổ. Vân thị thê khốc phu, Phu niên nhị thập ngũ. Kim triêu bắc lý khốc, Khốc thanh hựu hà thiết. Vân thị mẫu khốc nhi, Nhi niên thập thất bát. Tứ lân thượng như thử, Thiên hạ đa yểu chiết. Nãi tri phù thế nhân, Thiểu đắc thùy bạch phát. Dư kim quá tứ thập, Niệm bỉ liêu tự duyệt. Tòng thử minh kính trung, Bất hiềm đầu tự tuyết. Bạch-Cư-Dị Dịch: Nghe người khóc Hôm qua, nghe khóc xóm nam, Khóc, nghe đau xót đến tan nát lòng. Ấy là tiếng vợ khóc chồng, Mới hăm lăm tuổi, đi không trở về. Sớm nay, xóm bắc tỷ tê, Tiếng nghe thảm thiết ê chề héo hon. Ấy là tiếng mẹ khóc con, Năm nay mười tám, hãy còn trẻ trung. Bốn bên hoàn cảnh đều cùng, Chết non, thiên hạ kể không thiếu gì. Người đời tạm bợ bền chi, It ai được sống đến khi bạc đầu. Ta hơn bốn chục, trẻ đâu, Nghĩ thầm như thế, bắt đầu vui thay. Soi gương từ đấy đến nay, Không còn buồn bực đầu này tuyết pha... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.05.2022 18:10:59 bởi Anh Nguyên >
THÔN CƯ KHỔ HÀN 村 居 苦 寒
八 年 十 二 月, 五 日 雪 紛 紛。
竹 柏 皆 凍 死, 況 彼 無 衣 民!
回 觀 村 閭 間, 十 室 八 九 貧。
北 風 利 如 劍, 布 絮 不 蔽 身。
唯 燒 蒿 棘 火, 愁 坐 夜 待 晨。
乃 知 大 寒 歲, 農 者 尤 苦 辛。
顧 我 當 此 日, 草 堂 深 掩 門。
褐 裘 覆 絁 被, 坐 臥 有 餘 溫。
倖 免 饑 凍 苦, 又 無 壟 畝 勤。
念 彼 深 可 愧, 自 問 是 何 人? 白 居 易 Bát niên thập nhị nguyệt, Ngũ nhật tuyết phân phân. Trúc bách giai đống tử, Huống bỉ vô y dân. Hồi quan thôn lư gian, Thập thất bát cửu bần. Bắc phong lợi như kiếm, Bố nhứ bất tệ thân. Duy thiêu cao cức hỏa, Sầu tọa dạ đãi thần. Nãi tri đại hàn tuế, Nông giả đa khổ tân. Cố ngã đương thử nhật, Thảo đường thâm yểm môn. Cát cừu phú thi bị, Tọa ngọa hữu dư ôn. Hạnh miễn cơ đống khổ, Hựu vô lũng mẫu cần. Niệm bỉ thâm khả quý, Tự vấn thị hà nhân. Bạch-Cư-Dị Dịch: Rét gắt ở nhà quê Năm Thiên-Bảo thứ tám thời: Năm ngày tháng Chạp tuyết rơi mịt mờ. Bách, thông, chết cóng nào ngờ, Huống dân không áo bây giờ ra sao? Quay nhìn trong xóm thế nào? Mười nhà, chín tám nghèo sao là nghèo! Như gươm, gió bắc vèo vèo, Vải thô không đủ kiếp nghèo che thân. Đốt gai đốt cỏ sưởi dần, Buồn rầu bó gối đã gần qua đêm. Những năm rét gắt, biết thêm, Nông dân chịu biết bao niềm đắng cay. Ngẫm ta trong những ngày này, Ở trong nhà cỏ đóng ngay cửa vào. Chăn bông, áo kép, ấm sao! Ngồi, nằm, hơi ấm lúc nào cũng dư. Khổ vì đói rét, đã từ, Việc đồng vất vả, không như mọi người. Nghĩ điều ấy, hổ thẹn ơi! Tự mình lại hỏi là người gì đây?!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.05.2022 18:13:47 bởi Anh Nguyên >
TÂN CHẾ BỐ CỪU 新 製 布 裘
桂 布 白 似 雪, 吳 綿 軟 於 雲。
布 重 綿 且 厚, 為 裘 有 餘 溫。
朝 擁 坐 至 暮, 夜 覆 眠 達 晨。
誰 知 嚴 冬 月, 支 體 暖 如 春。
中 夕 忽 有 念, 撫 裘 起 逡 巡。
丈 夫 貴 兼 濟, 豈 獨 善 一 身。
安 得 萬 里 裘, 蓋 裹 周 四 垠。
穩 暖 皆 如 我, 天 下 無 寒 人。 白 居 易
Quế bố bạch tự tuyết, Ngô miên nhuyễn ư vân. Bố trọng miên thả hậu, Vi cừu hữu dư ôn. Triêu ủng tọa chí mộ, Dạ phú miên đạt thần. Thùy tri nghiêm đông nguyệt, Chi thể noãn như xuân. Trung dạ hốt hữu niệm, Phủ cừu khởi thuân tuần. Trượng phu quý kiêm tế, Khởi độc thiện nhất thân. An đắc vạn lý cừu, Cái khỏa chu tứ ngân. Ổn noãn giai như ngã, Thiên hạ vô hàn nhân. Bạch-Cư-Dị Dịch: Áo ấm mới may Trắng như tuyết, vải Quế đây, Bông Ngô mềm mại như mây trên trời. Bông dày, vải lại mềm ơi, Áo may thừa ấm, đồng thời lại êm. Sáng ra, khoác đến tận đêm, Tối nằm lại đắp thay mền ngủ ngay. Tháng Đông, giá buốt ai hay: Chân, tay, thân, ấm như ngày mùa Xuân! Trong đêm, chợt nghĩ xa gần, Đứng lên vỗ áo, băn khoăn nhủ lời: Trượng phu quý ở giúp đời, Chứ đâu chỉ biết sướng nơi thân mình. Sao cho áo rộng mông mênh, Che trùm bốn cõi, không tình gần xa. Ấm, yên, đều được như ta, Không người chịu rét, mọi nhà yên vui... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.05.2022 18:14:42 bởi Anh Nguyên >
VÂN CƯ TỰ CÔ ĐỒNG 雲 居 寺 孤 桐
一 株 青 玉 立, 千 葉 綠 雲 委。
亭 亭 五 丈 餘, 高 意 猶 未 已。
山 僧 年 九 十, 清 靜 老 不 死。
自 云 手 種 時, 一 棵 青 桐 子。
直 從 萌 芽 拔, 高 自 毫 末 始。
四 面 無 附 枝, 中 心 有 通 理。
寄 言 立 身 者, 孤 直 當 如 此。 白 居 易 Nhất châu thanh ngọc lập, Thiên diệp lục vân ủy. Đình đình ngũ trượng dư, Cao ý do vị dĩ. Sơn tăng niên cửu thập, Thanh tĩnh lão bất tử. Tự vân thủ chủng thì, Nhất khỏa thanh đồng tử. Trực tòng manh nha bạt, Cao tự hào mạt thủy. Tứ diện vô phụ chi, Không tâm hữu thông lý. Ký ngôn lập thân giả, Cô trực đương như thử. Bạch-Cư-Dị Dịch: Cây ngô đồng chùa Vân-Cư Một cây xanh đứng giữa trời, Mây xanh, ngàn lá đâm chồi nở hoa. Cao hơn năm trượng không ngoa, Nhưng còn như muốn vượt qua ngọn này. Vị tăng chín chục ở đây, Tuy già, thanh tịnh nên nay vẫn còn. Nói rằng trồng lấy cây con, Từ nơi hạt giống mầu còn xanh xanh. Cái mầm mọc thẳng lên nhanh, Cao, từ loại tánh mà sanh từ đầu. Bốn bên chẳng có cành đâu, Tâm không, thông suốt lý mầu từ lâu. Lập thân, xin nhắn một câu: ‘‘Một mình ngay thẳng làm đầu như cây’’... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.05.2022 18:15:21 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
Kiểu: