Đường Thi Trích Dịch I - Anh Nguyên
TỲ BÀ HÀNH
琵 琶 行
潯 言 江 頭 夜 送 客, 楓 葉 荻 花 秋 瑟 瑟。
主 人 下 馬 客 在 船, 舉 酒 欲 飲 無 管 絃。
醉 不 成 歡 慘 將 別, 別 時 茫 茫 江 浸 月。
忽 聞 水 上 琵 琶 聲, 主 人 忘 歸 客 不 發。
尋 聲 暗 問 彈 者 誰? 琵 琶 聲 停 欲 語 遲。
移 船 相 近 邀 相 見, 添 酒 回 燈 重 開 宴。
千 呼 萬 喚 始 出 來, 猶 抱 琵 琶 半 遮 面。
轉 軸 撥 絃 三 兩 聲, 未 成 曲 調 先 有 情。
絃 絃 掩 抑 聲 聲 思, 似 訴 平 生 不 得 志。
低 眉 信 手 續 續 彈, 說 盡 心 中 無 限 事。
輕 攏 慢 撚 抹 復 挑, 初 為 霓 裳 後 六 么。
大 絃 嘈 嘈 如 急 雨, 小 絃 切 切 如 私 語。
嘈 嘈 切 切 錯 雜 彈, 大 珠 小 珠 落 玉 盤。
間 官 鶯 語 花 底 滑, 幽 咽 泉 流 水 下 灘。
水 泉 冷 澀 絃 凝 絕, 凝 絕 不 通 聲 漸 歇。
別 有 幽 愁 暗 恨 生, 此 時 無 聲 勝 有 聲。
銀 瓶 乍 破 水 漿 迸, 鐵 騎 突 出 刀 鎗 鳴。
曲 終 收 撥 當 心 畫, 四 絃 一 聲 如 裂 帛。
東 船 西 舫 悄 無 言, 唯 見 江 心 秋 月 白。
沈 吟 放 撥 插 絃 中, 整 頓 衣 裳 起 斂 容。
自 言 本 是 京 城 女, 家 在 蝦 蟆 陵 下 住。
十 三 學 得 琵 琶 成, 名 屬 教 坊 第 一 部。
曲 罷 曾 教 善 才 服, 妝 成 每 被 秋 娘 妒,
五 陵 年 少 爭 纏 頭, 一 曲 紅 綃 不 知 數。
鈿 頭 銀 篦 擊 節 碎, 血 色 羅 裙 翻 酒 汙。
今 年 歡 笑 復 明 年, 秋 月 春 風 等 閑 度。
弟 走 從 軍 阿 姨 死, 暮 去 朝 來 顏 色 故。
門 前 冷 落 車 馬 稀, 老 大 嫁 作 商 人 婦。
商 人 重 利 輕 別 離, 前 月 浮 梁 買 茶 去。
去 來 江 口 守 空 船, 繞 船 月 明 江 水 寒。
夜 深 忽 夢 少 年 事, 夢 啼 妝 淚 紅 闌 干,
我 聞 琵 琶 已 嘆 息, 又 聞 此 語 重 唧 唧。
同 是 天 涯 淪 落 人, 相 逢 何 必 曾 相 識。
我 從 去 年 辭 帝 京, 謫 居 臥 病 潯 陽 城。
潯 陽 地 僻 無 音 樂, 終 歲 不 聞 絲 竹 聲。
住 近 湓 江 地 低 濕, 黃 蘆 苦 竹 繞 宅 生。
其 間 旦 暮 聞 何 物, 杜 鵑 啼 血 猿 哀 鳴。
春 江 花 朝 秋 月 夜, 往 往 取 酒 還 獨 傾。
豈 無 山 歌 與 村 笛? 嘔 啞 嘲 哳 難 為 聽。
今 夜 聞 君 琵 琶 語, 如 聽 仙 樂 耳 暫 明。
莫 辭 更 坐 彈 一 曲, 為 君 翻 作 琵 琶 行。
感 我 此 言 良 久 立, 卻 坐 促 絃 絃 轉 急。
淒 淒 不 似 向 前 聲, 滿 座 重 聞 皆 掩 泣。
座 中 泣 下 誰 最 多, 江 州 司 馬 青 衫 濕。
白 居 易
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách, Phong diệp lịch hoa thu sắt sắt. Chủ nhân hạ mã khách tại thuyền, Cử tửu dục ẩm vô quản huyền. Túy bất thành hoan thảm tương biệt, Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt. Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh, Chủ nhân vong quy khách bất phát. Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy, Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì. Di thuyền tương cận yêu tương kiến, Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến. Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai, Do bảo tỳ bà bán già diện. Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh, Vị thành khúc điệu tiên hữu tình. Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ, Tự tố bình sinh bất đắc chí. Đê mi tín thủ tục tục đàn, Thuyết tận tâm trung vô hạn sự. Khinh lũng mạn nhiên mạt phục khiêu, Sơ vi nghê thường hậu lục yêu. Đại huyền tào tào như cấp vũ, Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ. Tào tào thiết thiết thác tạp đàn, Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn. Nhàn quan oanh ngữ hoa để hoạt, U yết tuyền lưu thủy hạ than. Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt, Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết. Biệt hữu u tình ám hận sinh, Thử thời vô thanh thắng hữu thanh. Ngân bình xạ phá thủy tương bính, Thiết kỵ đột xuất đao thương minh. Khúc chung thâu bát đương tâm hoạch, Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch. Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn, Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch. Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung, Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung. Tự ngôn bản thị kinh thành nữ, Gia tại hà mô lăng hạ trú. Thập tam học đắc tỳ bà thành, Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ. Khúc bãi tằng giao thiện tài phục, Trang thành mỗi bị thu nương đố. Ngũ lăng niên thiếu tranh triền đầu, Nhất khúc hồng tiêu bất tri số. Điền đầu ngân bì kích tiết toái, Huyết sắc la quần phiên tửu ố. Kim niên hoan tiếu phục minh niên, Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ. Đệ tẩu tòng quân a di tử, Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố. Môn tiền lãnh lạc xa mã hy, Lão đại giá tác thương nhân phụ. Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly, Tiền nguyệt phù lương mãi trà khứ. Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền, Nhiễu thuyền minh nguyệt giang thủy hàn. Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự, Mộng đề trang lệ hồng lan can. Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức, Hựu văn thử ngữ trùng tức tức. Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân, Tương phùng hà tất tằng tương thức. Ngã tòng khứ niên từ đế kinh, Trích cư ngọa bệnh tầm dương thành. Tầm dương địa tịch vô âm nhạc, Chung tuế bất văn ty trúc thanh. Trú cận bồn giang địa đê thấp, Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh. Kỳ gian nhật mộ văn hà vật, Đỗ quyên đề huyết viên ai minh. Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ, Vãng vãng thủ tủu hoàn độc khuynh. Khởi vô sơn ca dữ thôn địch, Ẩu á trào triết nan vi thinh. Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ, Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh. Mạc từ cánh tọa đàn nhất khúc, Vi quân phiên tác tỳ bà hành. Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập, Khước tọa xúc huyền huyền chuyển cấp. Thê thê bất tự hướng tiền thanh, Mãn tọa trùng văn giai yểm khấp. Tọa trung khấp hạy thùy tối đa, Giang châu tư mã thanh sam thấp. Bạch-Cư-Dị Phan-Huy-Vịnh dịch: Tỳ-bà hành Bến Tầm-Dương canh khuya đưa khách, Quạnh hơi Thu, lau lách đìu hiu. Người xuống ngựa, khách dừng chèo, Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty. Say những luống ngại khi chia rẽ, Nước mênh mông đượm vẻ trăng trong. Tiếng tỳ nghe vẳng trên sông, Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi. Lần tiếng sẽ hỏi ai đàn tá? Dừng dây tơ, nấn ná làm thinh, Dời thuyền ghé lại thăm tình, Chong đèn, thêm rượu còn dành tiệc vui. Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ, Tay ôm đàn che nửa mặt hoa. Vặn đàn mấy tiếng dạo qua, Khúc tuy chưa trọn, tình đà thoảng hay. Nghe não nuột mấy dây buồn bực, Dường than niềm tấm tức bấy lâu. Mày chau, tay gẩy khúc sầu, Giãi bày hết nỗi trước sau muôn vàn. Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt, Trước ‘‘Nghê Thường’’ sau thoắt ‘‘Lục Yêu’’ Dây to nhường đổ trận rào, Nỉ non dây nhỏ như trò truyện riêng. Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy, Mâm ngọc đâu bỗng nẩy hạt châu. Trong hoa oanh ríu rít nhau, Suối tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh. Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt, Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ. Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ, Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay. Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước, Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao. Cung đàn lựa khúc tiêu tao, Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây. Thuyền mấy lá đông tây lạnh ngắt, Một vầng trăng trong vắt lòng sông. Ngậm ngùi đàn bát xắp xong, Áo xiêm khép nép hầu mong giãi lời. Rằng: ‘‘Xưa vốn là người kẻ chợ, Cồn Hà-Mô trú ở lân la. Học đàn từ thuở mười ba, Giáo phường Đệ nhất, sổ đà chép tên. Gã thiện-tài sợ phen dừng khúc,
Thu-Nương ghen lúc điểm tô.
Ngũ-Lăng chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn.
Vành lược bạc gẫy tan dịp gõ,
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.
Năm năm lần lữa vui cười,
Mải trăng hoa, chẩng đoái hoài xuân thu.
Buồn em trẩy, lại lo dì thác,
Sầu hôm mai đổi khác hình dung.
Cửa ngoài xe ngựa vắng không,
Thân già mới kết duyên cùng khách thương.
Khách trọng lợi, khinh đường ly cách,
Mải buôn chè, sớm tếch nguồn khơi.
Thuyền không đậu bến mặc ai,
Quanh thuyền trăng giãi, nước trôi lạnh lùng.
Đêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ,
Lệ trong mơ hoen vẻ phấn son...’’
Nghe đàn ta đã chạnh buồn,
Lại rầu vì nỗi nỉ non mấy lời.
‘‘Cùng một lứa bên trời lận đận,
Gặp gỡ nhau, lọ sẵn quen nhau.
Từ xa kinh khuyết bấy lâu,
Tầm-Dương đất khách gối đầu hôm mai.
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm.
Sông Bồn gần chốn cát lầm,
Lau vàng, trúc võ âm thầm quanh hiên.
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối?
Cuốc kêu sầu, vượn nói véo von.
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn,
Lần lần tay chuốc chén son riêng ngừng.
Há chẳng có ca rừng, địch nội,
Giọng líu lo, buồn nỗi khó nghe.
Tỳ-bà nghe dạo canh khuya,
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.
Hãy ngồi lại, gẩy chơi khúc nữa,
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca.’’
Đứng lâu dường cảm lời ta,
Lại ngồi lựa phím, đàn đà kíp dây.
Nghe não nuột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi.
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang-Châu Tư-Mã đượm mùi áo xanh.
Phan-Huy-Vịnh
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 18:42:25 bởi Anh Nguyên >
Anh-Nguyên dịch: Khúc Tỳ-bà Tiễn đưa khách bến Tầm-Dương, Lau Thu hiu hắt đêm trường gió lay. Chủ rời ngựa, khách thuyền này, Chén quỳnh muốn cạn, buồn thay thiếu đàn. Vui say gì lúc ly tan, Sông như tẩm ánh trăng vàng mênh mông. Tỳ-bà chợt vẳng trên sông, Chû ngồi nán lại, khách không muốn rời. Hỏi ai đàn mới dạo chơi, Tiếng đàn ngưng bặt, tiếng người cũng im. Dời thuyền, ghé lại đi tìm, Khơi đèn, châm rượu, tiệc thêm một lần. Phải mời mãi, mới đến gần, Ôm đàn che khuất một phần mặt hoa. So dây, vặn trục, dạo qua, Tuy chưa thành khúc, nghe ra tình đầy. Tiếng lòng uẩn ức mỗi dây, Đời như chứa chất dẫy đầy oán than. Khép mi, tay lướt trên đàn, Nỗi lòng sâu thẳm muốn tràn tuôn ra. Nhẹ nhàng, nắn vuốt thiết tha, ‘‘Nghê-thường’’ đàn trước, sau là ‘‘Lục-yêu’’ Dây to, như đổ mưa chiều, Dây nhỏ tha thiết như điều riêng tư. Thấp cao hòa lẫn tiếng tơ, Nghe như, mâm ngọc, hững hờ gieo châu. Như hoa, oanh ríu rít nhau, Lại nghe như suối đổ mau xuống ghềnh. Rồi như ngưng chảy, buồn tênh, Dần dần im bặt, lặng thinh tiếng đàn. U buồn, oán hận đầy tràn, Tiếng đàn im bặt lại càng hay hơn. Như bình bạc bể, nước tuôn, Như xe ngựa đến, đao thương ồn ào. Cuối cùng, búng tiếng thật cao, Nghe như xé lụa phổ vào bốn dây. Thuyền nằm vắng lặng đông tây, Trăng Thu chiếu sáng tràn đầy lòng sông. Ngậm ngùi, đàn, móng, xếp xong, Áo xiêm, sửa lại, những mong ngỏ lời. Rằng: ‘‘Xưa, thành thị, ra đời, Cồn Hà-Mô chính là nơi trưởng thành. Mười ba, đàn đã học rành, Giáo phường Đệ-Nhất ghi danh rõ ràng. Thiện Tài, đàn dứt, nể nang,
Thu-Nương thấy mặt lại càng ghét ghen.
Ngũ-Lăng, trai trẻ đua chen,
Bao nhiêu lụa thắm giành khen khúc đàn.
Trâm vàng gõ nhịp, gẫy tan,
Quần hồng hoen ố, rượu tràn bờ ly.
Vui cười, năm lại, năm đi,
Trăng Thu nhàn hạ, khác gì gió Xuân.
Dì qua đời, đệ tòng quân,
Chiều qua, sáng lại, sắc dần nhạt phai.
Cửa ngoài, xe ngựa nào ai,
Khách thương, duyên kết kẻo mai tuổi già.
Ham lời, khách mải đi xa,
Phù-Lương, tháng trước mua trà lại đi.
Giữ con thuyền trống, thương gì,
Quanh thuyền trăng nước trôi đi lạnh lùng.
Đêm khuya, tuổi trẻ mơ mòng,
Má hồng trang điểm, lệ hồng tràn tuôn.’’
‘‘Nghe đàn, ta đã thấy buồn,
Lại rầu nghe kể ngọn nguồn đắng cay.
Cùng là lưu lạc chốn này,
Gặp nhau, chẳng cứ quen ngày xa xưa.
Từ kinh, ta đến tạm cư,
Năm qua đất trích bệnh từ Tầm-Dương.
Tầm-Dương, chẳng có cung thương,
Không nghe tiếng trúc, tiếng đường dây tơ.
Sông Bồn, ở tạm bên bờ,
Lau vàng trúc uá bơ thờ bên hiên.
Tiếng gì sớm tối kêu liền,
Bi ai vượn hót, buồn phiền cuốc kêu.
Sông xuân, hoa sớm, trăng chiều,
Một mình nâng chén càng khêu mối sầu.
Tiếng ca, địch, chẳng không đâu,
Líu lo, nghe chẳng ra đầu đuôi chi.
Đêm nay nghe khúc đàn Tỳ,
Như nghe Tiên nhạc gần kề bên tai.
Hãy ngồi đàn tiếp một bài,
Khúc Tỳ-Bà, sẽ vì ai soạn thành.’’
Cảm lời, đứng mãi chẳng đành,
Lại ngồi lựa phím, đàn nhanh nhanh dần.
Thê lương khác trước bội phần,
Khắp trong tiệc rượu âm thầm lệ tuôn.
Lệ ai đổ xuống nhiều hơn?
Áo xanh Tư-Mã, lệ tuôn ướt đầm!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2023 19:14:28 bởi Anh Nguyên >
MẠI THÁN ÔNG 賣 炭 翁 賣 炭 翁, 伐 薪 燒 炭 南 山 中。 滿 面 塵 灰 煙 火 色, 兩 鬢 蒼 蒼 十 指 黑。 賣 炭 得 錢 何 所 營, 身 上 衣 裳 口 中 食。 可 憐 身 上 衣 正 單, 心 憂 炭 賤 願 天 寒。 夜 來 城 上 一 尺 雪, 曉 駕 炭 車 輾 冰 轍。 牛 困 人 飢 日 已 高, 市 南 門 外 泥 中 歇。 翩 翩 兩 騎 來 是 誰, 黃 衣 使 者 白 衫 兒。 手 把 文 書 口 稱 敕, 迴 車 叱 牛 牽 向 北。 一 車 炭 重 千 餘 斤, 官 使 驅 將 惜 不 得。 半 匹 紅 紗 一 丈 綾, 繫 向 牛 頭 充 炭 直。 白 居 易 Mại thán ông! Phạt tân, thiên thán Nam Sơn trung, Mãn diện trần hôi yên hoả sắc, Lưỡng mấn thương thương, thập chỉ hắc, Mại thán đắc tiền hà sở doanh? Thân thượng y thường, khẩu trung thực, Khả liên thân thượng y chính đan. Tâm ưu thán tiện nguyện thiên hàn. Dạ lai thành ngoại nhất xích tuyết, Hiểu giá thán xa triển băng triệt. Ngưu khốn, nhân cơ, nhật dĩ cao, Thị nam môn ngoại nê trung yết. Lưỡng kị phiên phiên lai thị thuỳ? Hoàng y sứ giả bạch sam nhi. Thủ bả văn thư, khẩu xưng: “sắc”! Hồi xa sất ngưu khiên hướng Bắc. Nhất xa thán trọng thiên dư cân, Cung sứ khu tương tích bất đắc. Bán thất hồng sa, nhất trượng lăng Hệ hướng ngưu đầu sung thán trị. Bạch-Cư-Dị Dịch: Ông bán than! Núi Nam đốt củi bán than qua ngày. Mặt ông tro bụi bám đầy, Tóc như đã bạc, móng tay đen xì. Bán than tiền để làm gì? - Trên thân manh áo, miệng thì miếng cơm. Thương thay, thân tấm áo đơn, Lo than giá rẻ, lạnh hơn vẫn cầu. Ngoài thành, đêm tuyết tan đâu, Xe than, sớm đã bắt đầu bánh lăn. Trâu đừ, người đói, đường băng, Cửa nam chợ, nghỉ dẫu rằng bùn nhơ. Ngựa đâu chạy đến bất ngờ, Áo vàng áo trắng, bây giờ mới hay: Sứ ngừng hô lớn: ‘‘Sắc đây’’, Xe đành quay lại hướng ngay bắc thành. Ngàn cân than phải nạp nhanh, Sứ vua đã quyết, chối đành được sao. The hồng nửa tấm sứ trao, Cột đầu trâu để thay vào tiền mua!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2023 19:18:29 bởi Anh Nguyên >
HẠO CA HÀNH
浩 歌 行
天 長 地 久 無 終 畢,
昨 夜 今 朝 又 明 日。
鬢 髮 蒼 浪 牙 齒 疏,
不 覺 身 年 四 十 七。
前 去 五 十 有 幾 年,
把 鏡 照 面 心 茫 然。
既 無 長 繩 系 白 日,
又 無 大 藥 駐 朱 顏。
朱 顏 日 漸 不 如 故,
青 史 功 名 在 何 處。
欲 留 年 少 待 富 貴,
富 貴 不 來 年 少 去。
去 複 去 兮 如 長 河,
東 流 赴 海 無 回 波。
賢 愚 貴 賤 同 歸 盡,
北 邙 塚 墓 高 嵯 峨。
古 來 如 此 非 獨 我,
未 死 有 酒 且 高 歌。
顏 回 短 命 伯 夷 餓,
我 今 所 得 亦 已 多。
功 名 富 貴 須 待 命,
命 若 不 來 知 奈 何。
白 居 易
Thiên trường địa cửu vô chung tất, Tạc dạ kim triêu hựu minh nhật. Mấn phát thương lương nha xỉ sơ, Bất giác thân niên tứ thập thất. Tiền khứ ngũ thập hữu kỷ niên, Bả kính chiếu diện tâm mang nhiên. Ký vô trường thằng hệ bạch nhật, Hựu vô đại dược trú chu nhan. Chu nhan nhật tiệm bất như cố, Thanh sử công danh tại hà xứ. Dục lưu niên thiếu đãi phú quý, Phú quý bất lai niên thiếu khứ. Khứ phục khứ hề như trường hà, Bôn lưu phó hải bất hồi ba. Hiền ngu quý tiện đồng quy tận, Bắc mang trủng mộ cao tha nga. Cổ lai như thử phi độc ngã, Vị tử hữu tửu thả cao ca. Nhan hồi đoản mệnh bá di ngạ, Ngã kim sở đắc diệc dĩ đa. Công danh phú quý tu đãi mệnh, Mệnh nhược bất lai tranh nại hà. Bạch-Cư-Dị Dịch: Hát vang Đất dài, trời rộng, không cùng, Đêm qua, sớm lại, ngày hồng qua mau. Răng thưa tóc đã bạc mầu, Không ngờ bốn bẩy tuổi đầu đã qua. Năm mươi cũng chẳng còn xa, Lấy gương soi mặt, lòng ta bồi hồi. Không dây cột được ngày rồi, Lại không thuốc giữ mặt thời còn son. Hồng hào nét mặt chẳng còn, Công danh, sử sách mỏi mòn kiếm đâu. Tuổi xanh muốn giữ đợi giầu, Giàu sang chẳng lại, mái đầu bạc đi. Nước trôi, tuổi trẻ khác gì, Chảy ra tới biển, mấy khi trở về. Giàu nghèo, Hiền, Thánh một bề, Bắc-Mang cao ngất, mộ kề sát nhau. Xưa nay chẳng một ta đâu, Rượu còn, chưa chết, nghiêng bầu, hát vang. Thấy Nhan-Hồi, Bá-Di chăng, Ta nay được thế, còn mong thêm gì. Công danh phú quý, đợi thì, Mệnh không có đến, tranh gì được sao?!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 21:50:29 bởi Anh Nguyên >
- PHỌC NHUNG NHÂN
- 縛 戎 人
- 縛 戎 人, 縛 戎 人
- 耳 穿 面 破 驅 入 秦
- 天 子 矜 憐 不 忍 殺
- 詔 徙 東 南 吳 與 越
- 黃 衣 小 使 錄 姓 名
- 領 出 長 安 乘 遞 行
- 身 被 金 創 面 多 瘠
- 扶 病 徒 行 日 一 驛
- 朝 餐 飢 渴 費 杯 盤
- 夜 臥 腥 臊 污 床 席
- 忽 逢 江 水 憶 交 河
- 垂 手 齊 聲 嗚 咽 歌
- 其 中 一 虜 語 諸 虜
- 爾 苦 非 多 我 苦 多
- 同 伴 行 人 因 借 問
- 欲 說 喉 中 氣 憤 憤
- 自 云 鄉 管 本 涼 原
- 大 曆 年 中 沒 落 蕃
- 一 落 蕃 中 四 十 載
- 遣 著 皮 裘 繫 毛 帶
- 唯 許 正 朝 服 漢 儀
- 斂 衣 整 巾 潛 淚 垂
- 誓 心 密 定 歸 鄉 計
- 不 使 蕃 中 妻 子 知
- 暗 思 幸 有 殘 筋 骨
- 更 恐 年 衰 歸 不 得
- 蕃 候 嚴 兵 鳥 不 飛
- 脫 身 冒 死 奔 逃 歸
- 晝 伏 宵 行 經 大 漠
- 雲 陰 月 黑 風 沙 惡
- 驚 藏 青 冢 寒 草 疏
- 偷 渡 黃 河 夜 冰 薄
- 忽 聞 漢 軍 鼙 鼓 聲
- 路 傍 走 出 再 拜 迎
- 遊 騎 不 聽 能 漢 語
- 將 軍 遂 縛 作 蕃 生
- 配 向 東 南 卑 濕 地
- 定 無 存 卹 空 防 備
- 念 此 吞 聲 仰 訴 天
- 若 為 辛 苦 度 殘 年
- 涼 原 鄉 井 不 得 見
- 胡 地 妻 兒 虛 棄 捐
- 沒 蕃 被 囚 思 漢 土
- 歸 漢 被 劫 為 蕃 虜
- 早 知 如 此 悔 歸 來
- 兩 地 寧 如 一 處 苦
- 縛 戎 人, 縛 戎 人
- 戎 人 之 中 我 苦 辛
- 自 古 此 冤 應 未 有
- 漢 心 漢 語 吐 蕃 身
- 白 居 易
Phọc nhung nhân! Phọc nhung nhân! Nhĩ xuyên, diện phá, khu nhập Tần, Thiên tử căng liên bất nhẫn sát Chiếu tỉ đông nam Ngô dữ Việt. Hoàng y tiểu sứ lục tính danh, Lĩnh xuất Trường An thừa đệ hành. Thân bị kim sang, diện đa tích, Phù bệnh đồ hành nhật nhất dịch. Triêu xan cơ khát phí bôi bàn, Dạ ngoạ tinh táo ô sàng tịch. Hốt phùng Giang thuỷ ức Giao Hà, Thuỳ thủ tề thanh ô yết ca. Kì trung nhất lỗ ngữ chư lỗ: Nhĩ khổ phi đa, ngã khổ đa. Đồng bạn hành nhân nhân tá vấn, Dục thuyết hầu trung khí phẫn phẫn, Tự vân hương quản bản Lương Nguyên, Đại Lịch niên trung một lạc Phồn. Nhất lạc Phồn trung tứ thập hải, Thân trước bì cừu hệ mao đới. Duy hứa chinh triêu phục Hán nghi, Liễm y chỉnh cân tiềm lệ thuỳ, Thệ tâm mật định qui hương kế, Bất tử Phồn trung thê tử tri. Ám tư hạnh hữu tàn cân cốt, Cánh khủng niên suy qui bất đắc. Phồn hậu nghiêm binh điểu bất phi, Thoát thân mạo tử bôn đào qui. Trú phục tiêu hành kinh đại mạc. Vân âm nguyệt hắc, phong sa ác, Kinh tàng thanh trủng hàn thảo sơ, Thâu độ Hoàng Hà dạ băng bạc. Hốt văn Hán quân bề cổ thanh, Lộ bàng tẩu xuất tái bái nghênh, Du kị bất thính năng Hán ngữ, Tướng quân toại phọc tác Phồn sinh. Phối hướng Giang Nam ti thấp địa, Định vô tồn tuất không phòng bị, Niệm thử thôn thanh ngưỡng tố thiên, Nhược vi tân khổ độ tàn niên. Lương Nguyên hương tỉnh bất đắc kiến, Hồ địa thê nhi hư khí quyên. Một Phồn bị tù tư Hán thổ, Qui Hán bị hiếp vi Phồn lỗ. Tảo tri như thử hối quy lai, Lưỡng địa ninh như nhất xứ khổ. Phọc nhung nhân! Nhung nhân chi trung ngã khổ tân. Tự cổ thử oan ứng vị hữu, Hán tâm Hán ngữ Thổ Phồn thân! Dịch:
Tên rợ tù, Tên rợ tù, Vào Tần rách nát mặt mày khổ chưa. Vua thương không giết còn chừa, Đônng nam Ngô Việt, chiếu vua cho vào. Họ tên, sứ giả chép, sao, Trường An lãnh khỏi, kéo nhau đi liền. Mình thương tích, mặt buồn phiền, Bệnh đi một trạm liên miên mỗi ngày, Ăn không no, chén chẳng bày, Đêm nằm, giường chiếu hôi ngay cả vào. Gặp Trường Giang, nhớ sông Giao, Cùng nhau cất tiếng nghẹn ngào hát ca. Một tên rợ bỗng thốt ra, "Các anh đỡ khổ hơn là tôi đây". Bạn tù muốn hỏi chuyện này, Dù anh muốn nói, họng nay uất trào! Lương Nguyên quê quán thuở nào, Khoảng năm Đại Lịch lạc vào đất Phiên. Đến nay, bốn chục năm liền, Thắt lưng lông thú, khoác liề áo da, Đầu năm, đồ Hán mặc qua, Chít khăn, mặc áo, lệ sa đôi dòng. Về quê, tính kế trong lòng, Vợ con Phiên chẳng có hòng biết đâu. May còn chút sức, phải mau, Sợ khi già yếu sức đâu mà về. Lính Phiên canh gác chặt ghê, Thoát thân liều chết, chẳng nề đêm thâu. Đêm đi, ngày nấp, quản đâu, Mây, trăng u ám, bãi sâu gió ào. Mộ xanh thưa cỏ, núp vào, Sông Hoàng, đêm vượt, băng nào ngại chi. Chợt nghe trống Hán, quân đi, Bên đường, ra vội, lạy, quỳ đón thôi, Tướng sai trói lại, tưởng người dân Phiên. Giang Nam, tù giải theo liền, Chẳng ai giúp đỡ, không tiền bạc chi. Kêu trời, nghẹn nói được gì, Đắng cay đành chịu đến khi mãn đời. Lương Nguyên, không thấy quê rồi, Vợ con lại bỏ ở nơi đất người. Phiên tù, nhớ Hán không nguội, Hán về, bị bắt, tưởng người dân Phiên. Về chi, thêm hận thêm phiền, Hai nơi đều khổ, thà yên không về. Rợ tù à! Rợ tù à, Bọn ta, tôi quả thật là đắng cay. Nỗi oan chưa có xưa nay, Tiếng Hoa, lòng Hán, thân này Thổ Phiên!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.04.2022 22:39:46 bởi Anh Nguyên >
TÂN PHONG CHIẾT TÝ ÔNG 新 豐 折 臂 翁 新 豐 老 翁 八 十 八 頭 鬢 眉 須 皆 似 雪 玄 孫 扶 向 店 前 行 左 臂 憑 肩 右 臂 折 問 翁 折 臂 來 幾 年 兼 問 致 折 何 因 緣 翁 雲 貫 屬 新 豐 縣 生 逢 聖 代 無 征 戰 慣 聽 梨 園 歌 管 聲 不 識 旗 槍 與 弓 箭 無 何 天 寶 大 徵 兵 戶 有 三 丁 點 一 丁 點 得 驅 將 何 處 去 五 月 萬 里 雲 南 行 聞 道 雲 南 有 瀘 水 椒 花 落 時 瘴 煙 起 大 軍 徒 涉 水 如 湯 未 過 十 人 二 三 死 村 南 村 北 哭 聲 哀 兒 別 爺 娘 夫 別 妻 皆 雲 前 後 徵 蠻 者 千 萬 人 行 無 一 回 是 時 翁 年 二 十 四 兵 部 牒 中 有 名 字 夜 深 不 敢 使 人 知 偷 將 大 石 槌 折 臂 張 弓 簸 旗 俱 不 堪 從 茲 始 免 征 雲 南 骨 碎 筋 傷 非 不 苦 且 圖 揀 退 歸 鄉 土 此 臂 折 來 六 十 年 一 肢 雖 廢 一 身 全 至 今 風 雨 陰 寒 夜 直 到 天 明 痛 不 眠 痛 不 眠 ,終 不 悔 且 喜 老 身 今 獨 在 不 然 當 時 瀘 水 頭 身 死 魂 飛 骨 不 收 應 作 雲 南 望 鄉 鬼 萬 人 冢 上 哭 呦 呦 老 人 言,君 聽 取 君 不 聞: 開 元 宰 相 宋 開 府 不 賞 邊 功 防 黷 武 又 不 聞: 天 寶 宰 相 楊 國 忠 欲 求 恩 倖 立 邊 功 邊 功 未 立 生 人 怨 請 問 新 豐 折 臂 翁 白 居 易 Tân phong lão ông bát thập bát, Đầu mấn tu mi giai tự tuyết. Huyền tôn phù hướng điếm tiền hành, Tả tý bằng kiên hữu tý chiết, Vấn ông tý chiết lai kỷ niên. Kiêm vấn tý chiết hà nhân duyên. Ông vân quán thuộc tân phong huyện, Sinh phùng thánh đại vô chinh chiến, Quán thính lê viên ca quản thanh, Bất thức kỳ thương dữ cung tiễn. Vô hà thiên bảo đại trưng binh, Hộ hữu tam đinh điểm nhất đinh. Điểm đắc khu tương hà xứ khứ, Ngũ nguyệt vạn lý vân nam hành. Văn đạo vân nam hữu lô thủy, Tiêu hoa lạc thì chướng yêu khởi. Đại quân đồ thiệp thủy như thang, Vị quá thập nhân nhị tam tứ. Thôn nam thôn bắc khốc thanh ai, Nhà biệt gia nương phu biệt thê. Giai vân tiền hậu chinh man giả, Thiên vạn nhân hành vôn nhất hồi. Thị thì ông niên nhị thập tứ, Binh bộ diệp trung hữu danh tự. Dạ thâm bất cảm sử nhân tri, Thâu tương đại thạch chùy chiết ty. Trương cung bả kỳ câu bất kham, Tòng tư sử miễn chinh vân nam. Cốt toái cân thương phi bất khổ, Thả đồ giản thoái quy hương thổ. Thử tý chiết lai lục thập niên, Nhất chi tuy phế nhất thân tuyền. Chí kim phong vũ âm hàn dạ, Trực đáo thiên minh thống bất miên. Thống bất miên chung bất hối, Thả hỉ lão thân kim độc tại. Bất nhiên đương thì lô thủy đầu, Thân tử hồn cô cốt bất thâu. Ưng tác vân nam vọng hương quỷ, Vạn nhân trủng thượng khốc ao ao. Lão nhân ngôn quân thính thủ, Quân bất văn : Khai nguyên tể tướng tống khai phủ, Bất thưởng biên công phòng độc vũ. Hựu bất văn: Thiên bảo tể tướng dương quốc trng, Dục cầu ân hạnh lập biên công. Biên công vị lập sinh nhân oán, Thỉnh vấn tân phong chiết tý ông. Bạch-Cư-Dị Dịch: Ông già què tay ở Tân-Phong Tám mươi tám, lão Tân-Phong, Lông mày, râu, tóc, bạc không còn gì. Quán hàng, chút chít dẫn đi, Cánh tay phải gẫy, trái thì vịn vai. Hỏi: ‘‘Tay gẫy mấy năm nay?’’, Lại thêm: ‘‘Sao gẫy tay này thế ông?’’. Đáp rằng: ‘‘Quê huyện Tân-Phong’’, Sinh thời thịnh trị, sống trong yên lành. Lê-Viên đàn sáo nghe rành, Cung, tên, cờ trận, gươm, đành không hay. Đời Thiên-Bảo, bắt lính gay, Nhà ba trai tráng, bắt ngay một người. Đưa đi, chẳng rõ được nơi, Tháng năm, vạn dặm, đến trời Vân-Nam. Vân-Nam, nghe có Lô-Giang, Mùa Thu tiêu rụng, độc càng tỏa ra. Nước sông nóng bỏng, lội qua, Mười người chưa đến, chết ba, hai, rồi. Bắc, nam xóm khóc ỷ ôi, Chồng xa lìa vợ, con thời lìa cha. Người rằng: ‘‘Đi đánh rợ xa, Người đi nghìn vạn, về nhà thì không’’. Lão hai mươi bốn, trẻ trung, Bộ Binh, tên đã ghi trong giấy rồi. Đêm khuya, lén lúc vắng người, Lấy hòn đá lớn, đập nơi tay này. Giương cung, cờ phất: bó tay, Vân-Nam đi đánh, miễn ngay ở nhà. Xương, gân, dập nát khổ a! Chỉ vì mong được loại ra để về. Sáu mươi năm, thấy mau ghê, Một tay tuy hỏng, thân kia vẹn toàn. Nay, đêm mưa gió lạnh tràn, Đớn đau, thức đến đêm tàn ngủ đâu. Đau không ngủ, chẳng hận sầu, Mừng thân già vẫn từ lâu ở nhà. Nếu không, bên bến Lô xa, Thân vùi, hồn lạc, ai mà thu xương. Ma Vân-Nam nhớ quê hương, Vạn người, trên mộ khóc thương ào ào. Lời già, anh khắc ghi vào... Anh nghe chăng chuyện: Tống-Khai-Phủ: tướng Khai-Nguyên, Thưởng công đánh chiếm ngoài biên bao giờ? Lại nghe chăng: Triều Thiên-Bảo, tướng Quốc-Trung, Muốn cầu ân sủng, lập công đánh ngoài. Công chưa lập, oán dài dài! Tân-Phong, hỏi lão gẫy tay biết liền... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 21:54:40 bởi Anh Nguyên >
KHUYẾN TỬU 勸 酒
勸 君 一 杯 君 莫 辭.
勸 君 兩 杯 君 莫 疑, 勸 君 三 杯 君 始 知:
面 上 今 日 老 昨 日, 心 中 醉 時 勝 醒 時.
天 地 迢 迢 自 長 久, 白 兔 赤 烏 相 趁 走.
身 後 堆 金 拄 北 斗, 不 如 生 前 一 樽 酒.
君 不 見:
春 明 門 外 天 欲 明, 喧 喧 歌 哭 半 死 生.
遊 人 駐 馬 出 不 得, 白 輿 紫 車 爭 路 行.
歸 去 來 頭 已 白, 典 錢 將 用 買 酒 喫. 白 居 易 Khuyến tửu Khuyến quân nhất bôi quân mạc từ,
Khuyến quân lưỡng bôi quân mạc nghi. Khuyến quân tam bôi quân thủy tri, Diện thượng kim nhật lão tạc nhật. Tâm trung túy thì thắng tỉnh thì, Thiên địa thiều thiều tự trường cửu. Bạch thố xích ô tương sấn tẩu, Thân hậu đồi kim trụ bắc đẩu. Bất như sinh tiền nhất tôn tửu, Quân bất kiến: Xuân minh môn ngoại thiên dục minh, Huyên huyên ca khốc bán tử sinh. Du nhân trú mã xuất bất đắc, Bạch dữ tử xa tranh lộ hành. Quy khứ lai đầu dĩ bạch, Điển tiền tương dụng mãi tủu khiết. Bạch-Cư-Dị Dịch: Mời rượu Mời anh một chén, chớ từ, Mời anh hai chén, ngần ngừ...ngại chi? Mời anh ba chén, anh thì: Hôm qua, nay đã già đi chút rồi. Lúc say tâm lại sáng ngời, Đất trời thăm thẳm đổi dờidài lâu. Quạ vàng, thỏ trắng đuổi nhau, Chết rồi, Bắc-Đẩu vàng dầu chất cao. Không bằng một chén rượu đào!... Anh thấy chăng: Cửa Xuân-Minh sắp sáng sao? Vừa ca, vừa khóc, ồn ào tử sinh. Ngựa qua chẳng được, phải đình, Xe hồng xe trắng, tranh mình lối đi. Lại,...đi,...đầu bạc còn gì, Cầm đồ mua rượu, uống đi kẻo hoài... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 21:56:13 bởi Anh Nguyên >
THÁI HÀNG LỘ 太 行 路 太 行 之 路 能 摧 車, 若 比 君 心 是 坦 途。 巫 峽 之 水 能 覆 舟, 若 比 君 心 是 安 流。 人 心 好 惡 苦 不 常, 好 生 毛 羽 惡 生 瘡。 與 君 結 髮 未 五 載, 豈 期 牛 女 為 參 商。 古 稱 色 衰 相 棄 背, 當 時 美 人 猶 怨 悔。 何 況 如 今 鸞 鏡 中, 妾 顏 未 改 君 心 改。 為 君 熏 衣 裳, 君 聞 蘭 麝 不 馨 香。 為 君 盛 容 飾, 君 看 金 翠 無 顏 色。 行 路 難,難 重 陳。 人 生 莫 作 婦 人 身, 百 年 苦 樂 由 他 人。 行 路 難, 難 于 山,險 于 水。 不 獨 君 間 夫 與 妻, 近 代 君 臣 亦 如 此。 君 不 見: 左 納 言,右 納 史。 朝 承 恩,暮 賜 死。 行 路 難,不 在 水,不 在 山, 只 在 人 情 反 覆 間! 白 居 易 Thái Hàng chi lộ năng tồi xa Nhược tỉ quân tâm thị thản đồ Vu Giáp chi thuỷ năng phúc chu Nhược tỉ quân tâm thị an lưu. Quân tâm hiếu ố khổ bất thường Hiếu sinh mao vũ, ố sinh sang Dữ quân kết phát vị ngũ tải Khởi kỳ Ngưu Nữ vi Sâm Thương! Cổ xưng sắc suy tương khí bội, Đương thì mĩ nhân do oán hối Hà huống như kim loan kính trung Thiếp nhan vị cải, quân tâm cải! Vị quân huân y thường, Quân văn lan xạ bất hinh hương. Vị quân thịnh dung sức, Quân khan châu thuý vô nhan sắc. Hành lộ nan! Nan trùng trần. Nhân sinh mạc tác phụ nhân thân Bách niên khổ lạc do tha nhân. Hành lộ nan! Nan vu sơn, Hiểm vu thuỷ. Bất độc nhân gia phu dữ thê, Cận đại quân thần diệc như thử! Quân bất kiến: Tả nạp ngôn, Hữu nạp sử, Triêu thừa ân, mộ tứ tử. Hành lộ nan! Bất tại thuỷ, Bất tại sơn, Chỉ tại nhân tình phản phúc gian! Bạch Cư Dị Dịch: Đường Thái Hàng Thái Hàng, đường dễ đổ xe, Lòng chàng đem sánh, vẫn nghe phẳng lì. Nước Vu Giáp lật thuyền đi, Lòng chàng đem sánh, rù rì dòng sông. Ghét, yêu, chàng vẫn bốc đồng, Yêu thì êm ấm, ghét không muốn nhìn. Năm năm kết tóc xe duyên, Mà nay Ngưu, Nữ hai miền Sâm,Thương. Sắc tàn, xưa bỏ là thường, Khiến cho người đẹp sầu thương oán hờn. Gương loan, nay thấy rõ hơn, Lòng chàng đã đổi, thiếp buồn chưa thay. Vì chàng, xông áo xiêm này, Chàng nghe lan xạ, chẳng hay mùi gì Vì chàng, trang điểm dung nghi, Chàng trông châu biếc, thấy gì đẹp đâu. Đường đi khó, dễ tỏ đâu? Trong đời, xin chớ ai cầu nữ thân. Khổ, vui, người khác định phần... Đường đi khó! Khó hơn núi, nước bội phần. Chẳng riêng gì vợ chồng dân, Vua tôi cũng thế, mới gần đây thôi. Anh thấy chăng! Tả tâu lời, hữu chép thôi, Sáng ban ơn huệ, chiều lôi chém đầu. Đường đi khó! Chẳng tại nước, Chẳng tại núi, Chẳng phải tình người tráo trở sao!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 21:57:21 bởi Anh Nguyên >
SƠN GIÁ CÔ 山 鷓 鴣, 朝 朝 暮 暮 啼 復 啼, 啼 時 露 白 風 凄 凄。 黃 茅 岡 頭 秋 日 晚, 苦 竹 岭 下 寒 月 低。 畬 田 有 粟 何 不 啄, 石 楠 有 枝 何 不 栖。 迢 迢 不 緩 復 不 急, 樓 上 舟 中 聲 暗 入。 夢 鄉 遷 客 展 轉 臥, 抱 兒 寡 婦 彷 徨 立。 山 鷓 鴣, 爾 本 此 鄉 鳥, 生 不 辭 巢 不 別 群, 何 苦 聲 聲 啼 到 曉。 啼 到 曉, 唯 能 愁 北 人, 南 人 慣 聞 如 不 聞。 白 居 易 Triêu triêu mộ mộ đề phục đề, Đề thì lộ bạch phong thê thê. Hoàng mao cương đầu thu nhật vãn, Khổ trúc lĩnh hạ hàn nguyệt đê. Dư điền hữu túc hà bất trác, Thạch nam hữu chi hà bất thê? Thiều thiều bất hoãn phục bất cấp, Lâu thượng chu trung thanh ảm nhập. Mộng hương thiên khách triển chuyển ngọa, Bão nhi quả phụ bàng hoàng lập. Sơn giá cô! Nhĩ bản thử hương điểu, Sinh bất từ sào bất biệt quần, Hà khổ thanh thanh đề đáo hiểu? Đề đáo hiểu! Duy năng sầu bắc nhân, Nam nhân quán văn như bất văn! Bạch-Cư-Dị Dịch: Chim đa-đa núi Đa-đa núi, Chiều chiều sáng sáng lại kêu, Khi kêu, sương trắng, gió chiều lê thê. Đồi tranh vàng úa, Thu về, Trúc gầy dưới núi, ủ ê trăng tà. Ruộng kia có lúa, không ra? Cành chò không đậu, kêu ca sao đành? Xa xa, không chậm, không nhanh, Trong thuyền, lầu gác, âm thanh lọt vào. Khách đày, làng xóm, nhớ sao! Ôm con, goá phụ nghẹn ngào đắng cay. Chim đa-đa núi! Mày, quê vốn ở chốn này, Chưa từng rời tổ, chưa bay lìa đàn. Khổ gì kêu đến đêm tan? Kêu cho đến sáng, đêm tàn còn kêu. Chỉ làm người Bắc sầu nhiều, Người Nam quen tiếng, nghe đều không nghe... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 21:58:16 bởi Anh Nguyên >
THƯỢNG DƯƠNG NHÂN 上 陽 人
上 陽 人 上 陽 人, 紅 顏 暗 老 白 發 新。
綠 衣 監 使 守 宮 門,一 閉 上 陽 多 少 春。
玄 宗 末 歲 初 選 入,入 時 十 六 今 六 十。
同 時 采 擇 百 余 人,零 落 年 深 殘 此 身。
憶 昔 吞 悲 別 親 族,扶 入 車 中 不 教 哭。
皆 云 入 內 便 承 恩,臉 似 芙 蓉 胸 似 玉。
未 容 君 王 得 見 面,已 被 楊 妃 遙 側 目。
妒 令 潛 配 上 陽 宮,一 生 遂 向 空 房 宿。
宿 空 房 秋 夜 長, 夜 長 無 寐 天 不 明。
耿 耿 殘 燈 背 壁 影,蕭 蕭 暗 雨 打 窗 聲。
春 日 遲, 日 遲 獨 坐 天 難 暮。
宮 鶯 百 囀 愁 厭 聞,梁 燕 雙 棲 老 休 妒。
鶯 歸 燕 去 長 悄 然,春 往 秋 來 不 記 年。
唯 向 深 宮 望 明 月,東 西 四 五 百 回 圓。
今 日 宮 中 年 最 老,大 家 遙 賜 尚 書 號。
小 頭 鞋 履 窄 衣 裳,青 黛 點 眉 眉 細 長。
外 人 不 見 見 應 笑, 天 寶 末 年 時 世 妝。
上 陽 人, 苦 最 多。
少 亦 苦, 老 亦 苦。
少 苦 老 苦 兩 如 何?
君 不 見 昔 時 呂 向 美 人 賦,
又 不 見 今 日 上 陽 宮 人 白 發 歌! 白 居 易
Thượng dương nhân, thượng dương nhân, Hồng nhan ám lão bạch phát tân. Lục y giám sử thủ cung môn, Nhất bế thượng dương đa thiểu xuân. Huyền tông mạt tuế sơ tuyển nhập, Nhập thời thập lục kim lục thập. Đồng thì thái trạch bách dư nhân, Linh lạc niên thâm tàn thử thân. Ức tích thôn bi biệt thân tộc, Phù nhập xa trung bất giao khốc. Giai vân nhập nội tiện thừa ân, Kiểm tự phù dung hung tự ngọc. Vị dung quân vương đắc kiến diện, Dĩ bị dương phi dao trắc mục. Đố linh tiềm phối thượng dương cung, Nhất sinh toại hướng không phòng túc. Túc không phòng thu dạ trường, Dạ trường vô mỵ thiên bất minh. Cảnh cảnh tàn đăng bối bích ảnh, Tiêu tiêu ám vũ đả song thanh. Xuân nhật trì, Nhật trì độc tọa thiên nan mộ, Cung oanh bách chuyển sầu yếm văn. Lương yên song thê lão hưu đố, Oanh quy yến khứ trường tiễu nhiên. Xuân vãng thu lai bất ký niên, Duy hướng thâm cung vọng minh nguyệt. Đông tây tứ ngũ bách hồi viên, Kim nhật cung trung niên tối lão. Đại gia dao tứ thượng thư hiệu, Tiểu đầu hài lý trách y thường. Thanh đại điểm mi mi tế trường, Ngoại nhân bất kiến kiến ưng tiếu. Thiên bảo mạt niên thời thế trang, Thượng dương nhân khổ tối đa. Thiếu diệc khổ lão diệc khổ, Thiếu khổ lão khổ lưỡng như hà. Quân bất kiến, Tích thời lã thượng mỹ nhân phú. Quân bất kiến, Kim nhật thượng dương cung nhân bạch phát ca. Bạch-Cư-Dị Dịch: Người cung Thượng-Dương Thượng-Dương! Hỡi người Thượng-Dương! Má hồng phai nhạt, tóc sương pha mầu. Cửa cung cấm, giữ đã lâu, Thượng-Dương giam giữ mái đầu bao xuân. Huyền-Tông tuyển gái trong dân, Lúc vào mười sáu, nay gần sáu mươi. Chọn vào có cả trăm người, Lâu năm rơi rụng, sống thời riêng tôi. Nhớ xưa từ biệt mọi người, Lên xe cấm khóc, ngậm ngùi chia ly. Bảo vào cung được yêu vì... Phù dung như má, ngực thì ngọc, châu. Quân-vương đã gặp mặt đâu, Dương phi quắc mắt, mặc dầu ở xa. Thượng-Dương ngầm nhốt thân ngà, Một đời phòng trống vào ra một mình. Đêm Thu thanh vắng dài kinh, Suốt đêm chẳng ngủ, riêng mình sầu thương. Đèn tàn soi bóng trên tường, Mưa rơi rả rích đêm trường ngoài song. Ngày Xuân đi Chậm... Một mình ngồi ngóng chiều về, Trong cung oanh hót, chẳng hề muốn nghe. Hình đôi chim én không che, Én đi, oanh lại bên hè vẫn yên. Xuân qua, Thu lại, buồn thêm, Thâm cung chỉ biết ngắm nhìn ánh trăng. Bốn trăm lần ngắm trăng rằm, Tuổi già cung cấm, phải chăng đứng đầu. Thượng thư, tên gọi diễu nhau, Áo quần bó hẹp, giầy đầu nhỏ đi. Mày dài, kẻ nhỏ, đen xì, Người ngoài chẳng thấy, thấy thì lại chê. Thời Thiên-Bảo đấy, đẹp ghê! Thượng-Dương người khổ trăm bề ai hay. Già thì khổ, trẻ đắng cay, Trẻ già đều khổ, việc này tính sao? Anh thấy không, Xưa Lã-Thượng làm thơ ‘‘Người đẹp’’. Anh thấy không, Nay người cung Thượng-Dương làm khúc hát ‘‘Bạc đầu!...’’ Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 21:59:27 bởi Anh Nguyên >
ĐỖ LĂNG TẨU 杜 陵 叟
杜 陵 叟 杜 陵 居,
歲 種 薄 田 一 頃 餘。
三 月 無 雨 早 風 起,
麥 苗 不 秀 多 黃 死。
九 月 降 霜 秋 早 寒,
禾 穗 未 熟 皆 青 乾。
長 吏 明 知 不 申 破,
急 歛 暴 徵 求 考 課。
典 桑 賣 地 納 官 租,
明 年 衣 食 將 何 如?
剝 我 身 上 帛,
奪 我 口 中 粟;
虐人害 物 即 豺 狼,
何 必 鉤 爪 鋸 牙 食 人 肉!
不 知 何 人 奏 皇 帝,
帝 心 惻 隱 知 人 弊.
白 麻 紙 上 書 德 音:
京 畿 盡 放 今 年 稅.
昨 日 里 胥 方 到 門,
手 持 敕 牒 牓 鄉 村.
十 家 租 稅 八 九 畢,
虛 受 吾 皇 蠲 免 恩. 白 居 易 Đỗ lăng tẩu đỗ lăng cư, Tuế chủng bạc điền nhất khoảnh dư. Tam nguyệt vô vũ hạn phong khởi, Mạch miêu bất tú đa hoàng tử. Cửu nguyệt giáng sương thu tảo hàn, Hòa tuệ vị thục giai thanh can. Trưởng lại minh tri bất thân phá, Cấp liễm bạo trưng cầu khảo khóa. Điển tang mại địa nạp quan tô, Minh niên y thực tương hà như. Bác ngã thân thượng bạch, Đoạt ngã khẩu trung túc. Ngược nhân hại vật tức sài lang, Hà tất câu trảo cứ nha thực nhân nhục. Bất tri hà nhân tấu hoàng đế, Đế tâm trắc ẩn tri nhân tệ. Bạch ma chỉ thượng thư đức âm: Kinh kỳ tận phóng kim niên thuế. Tạc nhật lš tư phương đáo môn, Thủ trì sắc điệp bảng hương thôn. Thập gia tô thuế bát cửu tất, Hư thụ ngô hoàng quyên miễn ân. Bạch-Cư-Dị Dịch: Bác Đỗ-Lăng Đỗ-Lăng, bác ở Đỗ-Lăng, Quanh năm cầy cấy được chăng vài sào. Không mưa, gió nóng thổi vào, Mạ vàng úa chết, phần nào còn thôi. Sương Thu, rét đến sớm rồi, Lúa xanh, bông lép, khắp nơi mất mùa. Quan hay, nhưng chẳng trình vua, Vội vàng thu vét cho vừa vụ thôi. Cầm dâu bán đất nộp rồi, Sang năm, ăn mặc biết thời tính sao? Lột áo trên mình ta, Cướp cơm trong miệng ta. Tổn người hại vật, đều là sói lang! Cứ gì nanh vuốt rõ ràng, Giết người ăn thịt, sói lang mới là? Ai tâu, Hoàng-Đế hiểu ra, Động lòng trắc ẩn, xót xa hạn này. Chiếu ban ân đức sâu dầy: Từ Kinh tha thuế năm này cho dân. Trước nhà, lý dịch đến gần, Tay cầm chiếu dán cho dân rõ lời. Mười nhà, chín đã nạp rồi, Ơn vua tha thuế, hoá lời nói suông!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 22:00:27 bởi Anh Nguyên >
SINH LY BIỆT 生 離 別 食 蘗 不 易 食 梅 難, 蘗 能 苦 兮 梅 能 酸。
未 如 生 別 之 為 難, 苦 在 心 兮 酸 在 肝。
晨 雞 再 鳴 殘 月 沒, 徵 馬 連 嘶 行 人 出。
回 看 骨 肉 哭 一 聲, 梅 酸 蘗 苦 甘 如 蜜。
黃 河 水 白 黃 雲 秋, 行 人 河 邊 相 對 愁。
天 寒 野 曠 何 處 宿, 棠 梨 葉 戰 風 颼 颼。
生 離 別,生 離 別, 憂 從 中 來 無 斷 絕。
憂 極 心 勞 血 氣 衰, 未 年 三 十 生 白 發。 白 居 易 Thực bá bất dị thực mai nan, Bá năng khổ hề mai năng toan. Vị như sinh biệt chi vi nan, Khổ tại tâm hề toan tại can. Thần kê tái minh tàn nguyệt một, Chinh mã liên tê hành nhân xuất. Hồi khan cốt nhục khốc nhất thanh, Mai toan bá khổ cam như mật. Hoàng hà thủy bạch hoàng vân thu, Hành nhân hà biên tương đối sầu. Thiên hàn dã khoáng hà xứ túc, Đường lê diệp chiến phong sưu sưu. Sinh ly biệt, sinh ly biệt, Ưu tòng trung lai vô đoạn tuyệt. Ưu cực tâm lao khí huyết suy, Vị niên tam thập sinh bạch phát. Bạch-Cư-Dị Dịch: Sống phải xa nhau Sung, mơ, chẳng phải dễ sơi, Sung thời chát miệng, mơ thời chua sao! Chưa bằng sống phải xa nhau, Trong gan chua sót, lòng đau muôn vàn. Gà hai lần gáy, trăng tàn, Người đi, chiến mã hý vang từng hồi. Quay nhìn người tiễn lệ rơi, Mai chua, sung chát, đây thời mật ong. Thu, mây vàng, nước sông trong, Người đi, kẻ ở bên sông âu sầu. Đồng không, trời lạnh, nghỉ đâu? Lá lê gió thổi, chạm nhau rì rào. Sống xa nhau! Sống xa nhau! Trong lòng lo lắng biết sao dứt trừ. Khí hao vì bởi suy tư, Chưa ba mươi tuổi, tóc như bạc rồi!... Anh Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 22:01:21 bởi Anh Nguyên >
BAO-HÀ
ĐỒNG DIÊM BÁ QUÂN
TÚC ĐẠO QUÁN
同 閻 伯 均 宿 道 觀
南 國 佳 人 去 不 回
雒 陽 才 子 更 須 媒
綺 琴 白 雪 無 情 棄
羅 幌 清 風 到 曉 開
冉 冉 修 篁 依 戶 牖
迢 迢 列 宿 映 樓 台
縱 令 奔 月 成 仙 去
且 作 行 雲 入 夢 來
包 何
Nam quốc giai nhân khứ bất hồi, Lạc dương tài tử cánh tu môi. Ý cầm bạch tuyết vô tình khí, La hoảng thanh phong đáo hiểu khai. Nhiễm nhiễm tu hoàng y bộ dũ, Điều điều liệt tú ánh lâu đài. Túng linh bôn nguyệt thành tiên khứ, Thả tác hành vân nhập mộng lai. Bao-Hà Dịch: Cùng Diêm-Bá-Quân ở Đạo-Quán Miền Nam, người đẹp đi rồi, Lạc-Dương, trai trẻ cần người mối mai. Cây đàn, bỏ đó mặc ai, Gió lùa, màn lụa sớm mai bay hoài. Trúc xanh bên cửa đã dài, Các vì sao chiếu lâu đài từ xa. Lên trăng, dầu hóa tiên nga, Theo mây vào mộng cho ta gặp nàng... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 22:02:19 bởi Anh Nguyên >
BÙI DỊCH TỐNG THÔI CỬU 送 崔 九
歸 山 深 淺 去
須 盡 邱 壑 美
莫 學 武 陵 人
暫 遊 桃 花 裏
裴 迪 Quy sơn thâm thiển khứ, Tu tận khâu hác mỹ. Mạc học vũ lăng nhân, Tạm du đào hoa lý. Bùi-Dịch Dịch: Tiễn đưa Thôi-Cửu Về núi xa mờ tỏ, Đồi khe xinh đẹp đó! Đừng theo khách vũ lăng, Chơi tạm đào nguyên nọ!... Lê-Nguyễn-Lưu Bác về núi dẫu gần xa, Gò, hang, hẳn cũng thấy là đẹp thôi. Vũ-Lăng, đừng giống người đời, Dạo chơi vào lúc đào thời nở hoa... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 22:02:57 bởi Anh Nguyên >
BÙI ĐỘ KHÊ CƯ 溪 居 門 徑 俯 清 溪 茅 檐 古 木 齊 紅 塵 飄 不 到 時 有 水 禽 啼 裴 度 Môn kính phủ thanh khê, Mao thiềm cổ mộc tề. Hồng trần phi bất đáo, Thời hữu thủy cầm đề. Bùi-Độ Dịch: Nhà ở bên suối Cửa vào trông xuống khe trong, Thềm tranh vắt vẻo ngang cùng cây cao. Bụi hồng bay chẳng đến nào, Đôi khi nghe có tiếng kêu thủy cầm. Trần-Trọng-Kim Cổng vào nhìn xuống khe trong, Thềm tranh, cổ thụ, cũng cùng ngang nhau. Bụi hồng bay chẳng tới đâu, Lâu lâu, tiếng ngỗng khe sâu vọng về!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.05.2022 22:03:47 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: