[url]TIỂU SỬ PHƯƠNG TRIỀU
Viet duong nhan 26.10.2008 06:44:15 (permalink)
TIỂU SỬ PHƯƠNG TRIỀU



Phương Triều
Sanh tại Sa-đéc. Dạy học (Trung học tư thục Cộng Hòa, đường Trương Minh Giảng, Sài-gòn).
Gia nhập làng báo Sài-gòn năm 1959. Khóa 23 Trường Bộ Binh Thủ Ðức.
Sĩ quan Báo chí Bộ Quốc Phòng Việt Nam Cộng Hòa (1967-1975).
Ðịnh cư tại Hoa Kỳ ngày 19 tháng 4-1994, theo diện HO 23.

Ðã xuất bản:


  • Còn Nhớ Còn Thương (Tập truyện, Sông Hậu xb, Sài-gòn 1966)
  • Tiếng Hát Hoàng Hôn (Tập truyện, Sông Hậu xb, Sài-gòn 1969)
  • Sầu Hương Phấn (Tập truyện, Sông Hậu xb, Sài-gòn 1972)
  • Thơ Phương Triều (Thơ, Tình Thương xb, California 1995)
  • Trăm Bài Thơ Xuân (Thơ, Lê Huỳnh xb, Minnesota 2000)
  • Xóm Mộ (Thơ, Lê Huỳnh xb, Minnesota 2001)
  • Giọt Sữa Ðất (Thơ, Lê Huỳnh xb, Minnesota 2002)


Sẽ xuất bản:
- 39 Tác Giả Viết Về Phương Triều
- Kỷ Niệm Văn Nghệ Sĩ, Ký Giả và Thân Hữu (Tập I)
- Chuyện Tào Lao


***
 


BẰNG HỮU VIẾT VỀ PHƯƠNG TRIỀU

· LÊ TAM CA

Phương Triều khởi đầu nghiệp cầm bút của ông năm 17 tuổi (1958) bằng những bài thơ. Nhưng ông sống với ngòi bút bằng những bài báo. Đã đi lính, đi tù “cải tạo”, Phương Triều tới Mỹ cách đây ít lâu, lại trở về với thơ. Thơ ông giản dị và trong sáng – pha chút dí dỏm của Tú Xương, Tú Mỡ. Mỗi bài thơ là một câu chuyện nhỏ, và thường là tự truyện. Tự truyện của Phương Triều xem ra cũng là truyện của một thế hệ: những người ở lứa tuổi trên 50 hôm nay, mấy ai không trải qua một tuổi thơ mơ mộng hão huyền

...Đam mê theo bè bạn

Tưởng tượng mình bơ vơ!

Tiếp đó là tuổi thanh niên, làm sao tránh khỏi cái vòng “kim cô” quân dịch, để phải tiêu hết khoảng thời gian sung mãn nhất của một đời người vào chiến tranh, và (theo số phận của những người chiến bại) trong tù ngục. Nhưng, thơ Phương Triều, ngay trong những bài mở đầu hoặc rải rác những câu mang vẻ khinh bạc, vẫn ẩn chứa một niềm lạc quan, một tin tưởng dù mong manh vào tình người, vào cuộc đời.

(Tạp chí THẾ KỶ 21, tháng 3.1995)

===============

NHẬT HỒNG

...Từng ấy nhịp đập của con tim trong nức nở nghẹn ngào, hòa với hơi thở của hồn Mẹ Việt Nam đứt đoạn trong thương đau, đã được Phương Triều như gợi lên, như hằn xuống trong hồn thơ của anh vốn là một nhà thơ, một người lính, một anh tù cải tạo, một chú H.O., được trở về từ trong cõi chết...
Bên cạnh đó, người đọc thơ anh cũng còn bắt gặp được những hình ảnh thân thương, đã đi vào tiềm thức không làm sao quên nổi, đó là hình ảnh của những cậu bé, cô bé ngày xưa trong tuổi học trò non dại thơ ngây, đầu hớt miểng vùa, răng sún, thường hay chơi trò nhà chòi lá chuối, đám cưới với hoa lồng đèn, hoa giấy, cờ lau, tán u, nhảy cò, nhảy dây... mà cái tuyệt khéo của anh là đưa được những tiếng mộc mạc này vào trong thơ một cách có duyên và cảm động.

(Tuần báo MAI, California, tháng 2.1995)

===============

NGUYỄN VĂN BA


Trước 1975, Phương Triều là khuôn mặt quen thuộc trong giới báo chí và văn nghệ ở thủ đô Sài Gòn. Anh làm thơ hai năm 1957 - 1958 khi còn học chung lớp với Lâm Tường Dũ, rồi gia nhập làng báo từ năm 1959 và trở thành ký giả chuyên nghiệp. Đầu tiên Phương Triều viết cho bán tuần san Bình Dân của nhà văn Phú Đức, sau đó lần lượt viết và cộng tác với các tuần và nhựt báo: Ngày Mới, Nghị Luận, Nước Nam, Tia Sáng, Trắng Đen, Tiếng Chuông, Dân Chúng, Tiếng Việt, Tiếng Dân, Dân Nguyện, Dân Chủ, Việt Nam & Thế Giới Thời Báo...

Anh còn là Sĩ quan Báo chí Bộ Quốc Phòng Việt Nam Cộng Hòa (từ 1967 đến 1975 –Thời gian này anh kiêm nhiệm Thư ký Tòa soạn Tuần báo Hoa Tình Thương của Hội Bảo Trợ Gia Đình Binh Sĩ). Kể từ khi gia nhập làng báo năm 1959, Phương Triều bỏ hẳn việc làm thơ, cho tới cuối năm 1994, khi tới định cư tại Minnesota theo diện HO 23, anh làm thơ trở lại do sự khuyến khích của bạn bè. Được biết sau 30-4-1975, Phương Triều bị bắt đi cải tạo nhiều năm ở miền Bắc. Đối với cá nhân tôi, anh Phương Triều là một đồng hương, chúng tôi có cùng quê quán Nha Mân thuộc tỉnh Sa-đéc. Ngoài điểm chung ấy, anh còn là một đàn anh trong chữ nghĩa và văn chương mà tôi ái mộ ngay từ khi đọc những dòng chữ đầu tiên của anh xuất hiện trên báo chí hải ngoại.
Anh không nhận mình là thi sĩ hay nhà thơ, chỉ nói là mình viết phóng sự bằng thơ, nhưng tôi thấy thơ anh rất mượt mà, mới hơn ba năm ở hải ngoại mà anh đã làm trên dưới một ngàn bài thơ. Nhà văn Viên Luông ở Cali gọi Phương Triều là “nhà thơ bị ma nhập”. Phương Triều cũng không nhận mình là văn nhân. Văn anh nắm bắt những vấn đề đơn giản và thật gần gũi với đời sống của người Việt Nam bình dân, bộc trực, giản dị, nhưng không vì thế mà kém phần sâu sắc về tâm lý. Loạt bài “Chuyện Tào Lao” của anh được độc giả hoan nghênh nhiệt liệt.

(tháng 1.1998)

=================

HỒ HUẤN CAO

... Có dễ, trên tất cả, là nỗ lực thể hiện ngôn ngữ nói, ngôn ngữ hàng ngày, rất dân dã của người miền Nam, trong khá nhiều bài thơ của ông. Sự kiện đáng kể này, nơi tiếng thơ Phương Triều, được coi là con đường nghịch chiều, nếu so sánh với những tác giả đi trước, đồng thời, hay đi sau, thường có thói quen biểu dương trí thức bằng những ngôn ngữ triết học, thần bí qua thơ văn của họ. Không bao giờ nhận mình là nhà thơ, nhưng đứng từ góc độ chân thật tới mủi lòng, thơ Phương Triều là điểm đứng chênh vênh giữa hai cực tự trào và xót xa thân phận luân lạc.

(Đài VOA – Xuân Tân Tỵ 2001)

 
____________
Nguồn : MGP
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.10.2008 06:55:30 bởi Viet duong nhan >
#1
    Viet duong nhan 26.10.2008 06:54:43 (permalink)
    PHƯƠNG TRIỀU với những bài thơ
    hệ lụy đè nặng trên vai


    HỒ TRƯỜNG AN


    Từ thuở 15, 16 tuổi, đọc thơ Trần Huyền Trân hay đọc thơ Thâm Tâm, tôi buồn dã dượi suốt cả ngày. Lời thơ của họ sao mà cảm khái, sao mà ngậm ngùi để tôi có thể mường tượng tới những kẻ sinh bất phùng thời đang nhan nhản xuất hiện chung quanh tôi. Đó là những kẻ thất bại về đường tiến thân gồm có danh vọng, cơm áo, lý tưởng. Đó là những người lớn lên từ khi Nhựt đảo chánh Pháp, rồi kinh qua lúc Việt Minh nắm chánh quyền, kinh qua suốt chín năm ly loạn trong cuộc chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh. Họ theo Việt Minh kháng chiến chống Pháp, nhưng lại nhận diện bộ mặt gian ác của Cộng sản, cho nên sau Hiệp Định Genève 1954, họ không tập kết ra Bắc mà ở lại miền Nam. Vì học hành lở dở, lại không có nghề chuyên môn trong tay nên họ phải còng lưng nhận lãnh lấy gánh mưu sinh đè nặng trên vai. Đó là những kẻ thất bại trong cuộc sống cũng như hai nhà thơ Trần Huyền Trân và Thâm Tâm giữa tuổi thanh xuân. Vì cảnh nghèo hèn sa sút nên hai nhà thơ nầy phải lao thân vào xã hội khe khắt để kiếm miếng cơm manh áo bằng ngòi bút của mình.

    Phương Triều trưởng thành sau Hiệp Định Genève 1954. Về vật chất, anh có đời sống dễ chịu, gia tư anh thuộc hạng trung lưu giữa thời thanh bình trên đất nước. Anh được ăn học chu đáo, tuy anh lao vào nghiệp làm báo quá sớm (19 tuổi). Rồi anh vào quân đội, với chức vụ Sĩ quan Báo chí Bộ Quốc Phòng Việt Nam Cộng Hòa (1967-1975). Đó đâu phải là một cuộc đời thất bại, dù không chói rạng vẻ vang tột cùng đi nữa. Lại nữa, anh còn là tác giả ba văn phẩm (tập truyện) rất được các nữ độc giả yêu thích.
    Phương Triều gặp bước sụp đổ kể từ ngày 30-4-75. Từ đó cuộc đời anh trải qua nhiều trại giam mọc suốt chiều dài trên đất nước. Cho nên vào ngày 19-4-94 theo diện HO, anh qua định cư trên đất nước Hợp Chủng Quốc với số tuổi đời tròm trèm 60. Dù cuộc sống vật chất của anh lần hồi được ổn định, nhưng quãng đời “học tập cải tạo” trong lao tù đã làm cho anh nhìn sâu hơn vào cái bi đát của cuộc đời, vào cái hệ lụy của kẻ chiến bại, vào những cơn ác mộng phủ trùm lên cuộc đời mê vọng của chúng ta. Văn chương của anh phải lột xác và nó không còn là thứ văn viết cho các phụ nữ nhạy cảm, thích phong vị trữ tình và thích điệu nhạc tình nữa. Anh viết cho anh, cho cuộc đời anh. Anh mô tả lại những chặng đường thảm khốc mà anh đã trải qua, những áp bức tinh thần đã đè nặng lên não cân anh, những cảm khái về trăm nghìn thứ đã nẩy nở trong nội giới anh khi anh bước trên những ngả rẽ và những khúc quanh của lịch sử. Nếu căn cứ vào cuộc đời lận đận lầm than của Phương Triều sau cuộc đổi đời thì chúng ta sẽ nhận thấy thơ anh phản ảnh tâm trạng u hoài, chán nản, mệt mỏi của anh. Nó còn phản ảnh luôn tâm trạng của kẻ thất bại trước cái oan trái cay nghiệt của định mệnh, trước cái nổi trôi của mệnh nước và cái tráo trở đổi trắng thay đen của tình đời.

    Nửa đêm chim thức chào năm mới
    Cây cỏ mừng sương đuổi quạnh hiu
    Người ôm gối tưởng ôm người mộng
    Kim Trọng nằm đau nhớ Thúy Kiều!

    Gác trọ nhiều khi thành gác gió
    Câu thơ hào khí lạnh bình sinh
    Mưa ơi, mưa trắng trên đường lụt
    Mưa trắng đời xơ xác tội tình!

    Bánh ít bánh chưng thành bánh ngóng
    Cải kho dưa giá sả kho gừng
    Chồng ngồi nhớ vợ cơm thành đá
    Vợ nhớ chồng, thịt cá dửng dưng!

    Lì xì lì xẹp tiền không có
    Thương con ngồi ngó, mắt đỏ mặt mâm
    Ước chừng ông địa tới thăm
    Con chim ngao ngán gọi năm mới về!

    (Mặt Mâm, trang 35)

    Thi tập gồm 117 bài, trong đó có 56 bài thơ viết về đủ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông không phù hợp với cái tựa đề “Trăm Bài Thơ Xuân”. Có lẽ những bài thơ nầy được sáng tác trong dịp Xuân về đúng hơn. Nhưng Xuân trong thi ca của Phương Triều buồn quá đỗi! Chúa Xuân không mang bóng dáng hạnh phúc về thế giới thi ca của anh. Không làm cho Nhạc đệm thơ anh lảnh lót, xôn xao, ngọt lịm như tiết điệu trong các khúc hoan ca. Không làm cho màu sắc thơ tươi sáng lộng lẫy.
    Chợt đứng nơi không còn chỗ ngụ
    Lạnh từng xây xát gió trên da
    Nghe hồn Xuân vỡ đau hồn lá
    Còn rụng liên hồi những cánh hoa!
    Tiếng sấm vang vang ngày bão lụt
    Chừng như về lại cõi quên xa
    Lang thang tìm ổ người như chuột!
    Máu mủ còn ai nuối ruột rà?
    Đất triệu năm già Xuân vẫn trẻ
    Sao Xuân chết vội tuổi chưa già?
    Thế gian từ buổi tang thương đó
    Mùa Xuân mờ mịt dấu phôi pha...
    Năm tháng xanh xao mùa biển động
    Núi rừng tím lạnh vết mây qua
    Bốn phương là gió vô cùng tận
    Bếp lửa nào nhen ấm nỗi nhà?
    Có tiếng gà con chiều gọi mẹ
    Cơ hàn vũng ngộp áo sương hoa
    Có ai réo lại hồn thiên cổ
    Sóng dội bờ hay sóng vọng xa?
    (Xây Xát, trang 86)

    Chỉ cần đọc hai bài thơ vừa nêu ra thôi, chúng ta đã thấy cái bản lãnh, cái tài hoa của Phương Triều ra sao khi anh dùng cái giọng điệu ngậm ngùi cảm khái, cùng nhân sinh quan độc đáo để dựng riêng cho cõi thơ anh. Bài “Xây Xát” gồm những ngôn từ bóng bẩy, trau chuốt, mịn màng, đôi khi hoa lệ nữa. Nhưng anh không áp dụng cái tiểu xảo của người thợ thêu, của người thợ chạm cho thơ. Anh viết thơ bằng một cảm hứng tràn đầy, lênh láng, hồn nhiên, không nắn nót, không cố tình gọt dũa thơ theo kiểu tỉ mẩn của các nhà tiểu công nghệ. Anh khác xa ông Đông Hồ, bà Mộng Tuyết ở chỗ đó.
    Qua bài thứ nhất “Mặt Mâm”, ở hai đoạn sau, thơ anh đã có những ngôn từ thô tháp, mộc mạc như ngôn ngữ ở giới bình dân ngoài đời. Và đặc biệt hơn, đây là ngôn ngữ miền Nam ở đồng quê, ở đầu đường xó chợ. Nhưng tuyệt vời thay, khi ngôn ngữ đó đi vào thơ anh nó vụt biến thành một ngôn ngữ quyến rũ lạ lùng, chứa chan nghệ thuật tính và làm nổi bật lên tâm trạng đau đớn của anh cùng thắp sáng cái ngọn trào lòng của anh rất kỳ diệu.

    Tay phẩy quạt rát mày rát mặt
    Miếng kẹo gừng đắng ngắt đêm Xuân
    Em ngồi mắt ngó rưng rưng
    Khói hương di ảnh có mừng sang năm?
    Cứ thậm thụt lui ngày tháng Chạp
    Thế kỷ buồn già háp mươi năm
    Mèn ơi, ai nói đẻ lầm
    Trẻ chưa kịp lớn đã lăm le già!
    Bếp thiếu lửa năm nầy năm nọ
    Miếng bọt bèo đã bỏ bụng luôn!
    Táo ông chắc đã quen buồn
    Hăm ba tháng Chạp tiễn suông ông về!
    Sáng Mùng Một không hề năm mới
    Nắng Xuân về chưa tới đã đi
    Miếng cơm chìm dưới khoai mì
    Miệng mo chưa đủ lấy gì đãi nhau?

    (Miệng Mo, trang 59)

    Đắng ngắt, thậm thụt, già háp, miệng mo...; đây đâu phải là những ngôn ngữ dành cho thơ. Vậy mà khi chúng bước vào cõi thơ anh làm cho cõi ấy đậm đà cảm tính hơn, làm cho hơi thơ mạnh hơn, làm cho giọng điệu thơ hào sảng và tha thiết hơn.
    Từ xưa nay, ngôn ngữ Nam Kỳ thường bị văn chương rẻ rúng. Phải đợi tới Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, nhất là Lê Xuyên, ngôn ngữ Nam Kỳ mới dám len lỏi vào văn chương, nhưng chỉ ở truyện dài, truyện ngắn mà thôi, chớ chưa dám vào cõi thơ. Nhưng Phương Triều trịnh trọng mời nó vào thi ca của anh để nó ngát men say đắm cho thơ anh. Anh không chú trọng cái Thể (tức là bản chất) của ngôn ngữ. Anh chỉ nhìn vào cái Dụng (tức là cái công dụng) của nó. Nhưng với trực giác thù thắng và kỳ diệu, từ cái Dụng của ngôn ngữ Nam Kỳ, anh khám phá ra thêm cái Thể nguyên vẹn và tuyệt vời của nó. Như vậy độc giả, qua thi ca của anh mới biết được rằng ngôn ngữ Nam Kỳ vẫn có những chất thơ nếu ai đó biết xử dụng nó. Đó cũng như những thứ lá vàng cỏ khô đáng đem vứt đi, nhưng có người giữ vườn biết công dụng của nó, gom nó lại thành một đống, đốt lên thành một đống lửa sáng rực để xua đi khí lạnh và sương ẩm của đêm đông. Và đó cũng như những miểng sành miểng sứ đáng lẽ nên vứt bỏ dưới gốc cây đa, nhưng lại được anh thợ khéo giát lên cổng Tam Quan của đình chùa, miếu mạo để cổng Tam Quan trở nên hào nhoáng, hoa lệ thập phần.

    Vinh danh ăn ở bầy hầy
    Sầu phơi nắng lửa thành mây não nùng!
    Ta làm tráng sĩ khật khùng
    Tuốt gươm chém giữa mịt mùng đỉa trâu!
    (Ống Điếu, trang 112)

    hoặc:

    Cuối cùng nước cạn từ trong giếng
    Người gánh mưa về đổ tháng Giêng
    Những mầm chưa kịp thành ra lá
    Mà đã trần thân nắng đảo điên!
    Tiếng mõ truyền rao từ động cóc
    Con rùa đường hẹp mỏi vai nghiêng
    Thì ra cũng lại là... cha nội!
    Chuyên bít đường theo ngõ biến thiên!
    Người lắc bầu cua thành cá cọp
    Bày xiêm vẽ áo tạc đời tiên
    Bà tiên son phấn đầy trong bóp
    Mở đóng tùy nghi nợ nhãn tiền!...
    Lần theo gốc gác dò thân thế
    Người đãi nhau bằng chút vẽ duyên
    Ô hô!... Trăng nước mùa sông cạn
    Bờ bến loay hoay đá vỗ thuyền!...

    (Vẽ Duyên, trang 123)

    Bầy hầy, khật khùng, cha nội, lắc bầu cua thành cá cọp...; đó cũng đâu phải là ngôn ngữ mà cổ nhân thích đưa vào thi ca. Cũng vậy, con đỉa trâu, con rùa vẫn là những động vật đâu có đủ màu sắc đẹp đẽ để làm tươi sáng cho thi ca. Nhưng ở trường hợp Phương Triều thì lại khác. Những thứ mà thi ca truyền thống hãy còn xa lạ, một khi bước vào thơ anh thì cũng như một nhúm bột ngọt làm ngọt thêm nồi canh chay, cũng như một chút bột vanille làm thơm bát ngát một tảng bánh tarte lớn. Nhưng thật ra, Phương Triều ít khi xử dụng những ngôn từ Nam Kỳ. Không phải anh dè sẻn, tiết kiệm chúng. Đó bởi tánh thận trọng, điềm đạm vốn sẵn có ở anh. Nếu lạm dụng quá mức những ngôn từ ngang tàng, thô lỗ của các tay anh chị Nam Kỳ thì chẳng những anh không tạo được cái phóng khoáng, hào sảng cho thơ, mà trái lại anh làm cho thơ trở nên cục mịch, ngang ngược. Và, nếu anh xài xả láng cái ngôn ngữ đỏng đảnh, xí xọn, chớt nhã của lớp phụ nữ bình dân Nam Kỳ thì chẳng những anh không tạo được vóc dáng quyến rũ cho thơ, không làm cho thơ hồn nhiên, duyên dáng, mà trái lại anh làm cho thơ có bộ mặt chị hề cái rẻ tiền trên sân khấu. Cho nên trong thơ anh, ngôn ngữ bình dân miền Nam chiếm 10% thôi, còn lại là thứ ngôn ngữ trau chuốt bóng bẩy và hoa lệ mà các nhà thơ Nam, Trung, Bắc có thể xài chung. Nhưng như tôi đã nói, anh trau chuốt ngôn ngữ thơ mà không quá dụng công tỉ mẩn; do đó ngôn ngữ thơ anh bóng bẩy mà không lòe loẹt để có cái đẹp tự nhiên và thiên chân.

    Buổi đó con người thất lạc nhau
    Mùa Đông kèn cựa với Xuân sau
    Trời cho nắng muộn hong ngày lạnh
    Sao chợt mưa về rát mặt đau?
    Con kiến khô râu thèm chút ngọt
    Chà-là đuông núp giữa đọt cao
    Những nhọt bình sanh sưng tấy mủ
    Mặt trời ràn rụa gió xanh xao...
    Chợt ngước đầu lên nhìn nắng vỡ
    Lá vàng kín cõi mắt chiêm bao
    Bao nhiêu tráng sĩ rời lưng ngựa
    Sương lạnh chiều phai vạt chiến bào!
    Qua sông ngút một đường dong ruổi
    Quán nhỏ đêm ngồi ngắm đại đao
    Oằn vai vác nặng hồn sông núi
    Buồn rót vào ly bọt sóng trào...
    Hảo thủ!... Cuộc chơi nào đích thực?
    Trọng tài bán độ hát nghêu ngao
    Ngờ đâu chiến mã qua nghìn bẫy
    Mà bẫy từ tay máu mủ nào?

    (Bẫy, trang 101)

    Phương Triều là một nhà thơ xứng đáng có một cương vị sáng nguy nga và cao chót vót ở thi đàn hải ngoại. Thơ của anh tuy có thể điệu và hình thức cũ, và anh tuy không phải là nhà thơ tư tưởng, nhưng anh biết nhìn sâu vào cuộc sống, anh còn tìm gặp những cái đặc thù tế vi cùng những cái bí nhiệm ngộ nghĩnh của nó.

    Vậy thế nào là thơ tư tưởng? Đó là thơ đi sâu vào lãnh vực tâm linh để người đọc nghĩ về cái sự thật tuyệt đối, sự thật cuối cùng của hiện hữu. Sự thật đó chúng ta không bao giờ nắm bắt hoặc chứng nghiệm được. Chúng ta chỉ có thể khái niệm được nó thôi. Và chúng ta chỉ gặp gỡ cái bóng dáng của nó trong kinh điển, nhưng nó vẫn giúp ta tìm về sự bình an tuyệt đối của nội tại, sự thức tỉnh vượt cả kiến thức và sở tri của con người phàm phu thế tục. Trong lịch sử thi ca nhân loại, chỉ có các thiền sư bên Phật giáo (Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên) hoặc nhà thơ Rabindranath Tagore (Ấn Độ), nhà thơ Rumi (Ba Tư) mới làm nổi những bài thơ như vậy. Nhưng trước 1975, nhà thơ Võ Chân Cửu qua hai thi tập “Đại Mộng”, “Thảng Lai Thi”, sau 1975 ở hải ngoại có Mai Thảo với thi tập “Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền”, có Thiền sư Nhất Hạnh với một số ít bài thơ được Sư cô Chân Không ghi vào quyển “Thử Tìm Những Dấu Chân Trên Cát”, có bốn nhà thơ nữ Thân Thị Ngọc Quế, Vi Khuê, Trương Anh Thụy, Đặng Thị Quế Phượng qua một số ít bài thơ là đi sâu vào tinh thần Bát Nhã của Phật giáo. Đặc biệt nhất là thi tập “Thơ Hiền” của Như Chi, bề ngoài có vẻ là thơ tình, nhưng bên trong lại là thơ dựa trên tinh thần Bát Nhã, then chốt của triết thuyết Phật giáo.
    Thơ của Luân Hoán, của Nguyên Sa, của Tô Thùy Yên, của Du Tử Lê và của Trần Mộng Tú đều là thơ hay. Nhưng họ chỉ hay về thơ chớ không độc đáo về tư tưởng. Về nghệ thuật dành riêng cho thơ, Tô Thùy Yên có thể vượt những nhà thơ mà tôi kể ở trên về tài hoa, nhưng thơ anh không va chạm vào tư tưởng cao siêu. Tuy nhiên, năm nhà thơ vừa kể có những nhân sinh quan thật độc đáo. Họ đào vào cõi thơ một chiều sâu đáng kể. Nhưng nhân sinh quan không phải là tư tưởng triết học. Một nhà văn, một nhà thơ, một nhà nghiên cứu về tâm lý học và xã hội học có thể viết lên những quan điểm hoàn toàn thuộc về đời sống, những cái thuộc về hiện tượng hiển lộ một khía cạnh nào đó của đời sống. Như vậy họ chỉ viết được những nhân sinh quan chớ không hướng dẫn độc giả tìm về bản chất tối hậu của sự thật nói về cái hiện hữu của cuộc sống, tức là họ chưa thể viết được tư tưởng tâm linh, tư tưởng triết học.

    Phương Triều ở vào thành phần của Luân Hoán, Nguyên Sa, Tô Thùy Yên, Du Tử Lê, Trần Mộng Tú. Như thế, anh không lọt vào quỹ đạo tâm linh, triết học. Anh là một nhà thơ rất đỗi thơ, nắm vững nghệ thuật lẫn kỹ thuật của thi ca và nhất là cũng đem lại cho thơ nhiều nhân sinh quan độc đáo, khác hẳn những nhân sinh quan của năm người kia. Nói cho cùng, những nhà thơ đề cập hoặc phơi bày những nhân sinh quan thường tạo cho thơ mình một dáng dấp quyến rũ, một tâm tình gần gũi tâm tình và cõi thưởng ngoạn của độc giả hơn, biến thơ mình có sức truyền cảm mãnh liệt. Xin cùng đọc:

    Khởi đi từ nếu, bắt đầu từ nhưng
    Nên vấp lại chân rêu đầu đá
    Những gai nhọn đâm đời tá hỏa
    Cuộc rượu diễn ra được cái tưng bừng!...
    Cá bống mập hát vui ngày mú
    Mảnh xương sườn nhú được sau lưng
    Dựng cờ một cõi sứ quân
    Có con có vợ chúc mừng oai danh!
    Đêm thở hắt chừng như tắt tị
    Mắt trợn trừng cố hỉ cố lai
    Chớ mà gánh được hai vai
    Đi kiếm hột lúa về nhai đỡ buồn!
    Miệng ống điếu bên người ống thụt
    Có quơ quào cũng chút chi thôi
    Cứ như giũ ống cạo nồi
    Táo quân tháng Chạp lại ngồi buồnhiu!
    Mưa lẩn quẩn ướt nhèm đáy tộ
    Nắng bâng quơ lãng nhách lãng òm
    Mọc dài cổ ngóng danh thơm
    Khiến bao con mắt lom lom hoảng hồn!...

    (Lom lom, trang 80)

    Độc giả chúng ta cùng tự hỏi, động cơ nào Phương Triều đã đưa nhân sinh quan vào thơ của mình? Anh đâu phải vì quá nhàn rỗi, vì quá chán chường lúc trà dư tửu hậu để làm thơ? Anh cũng đâu phải là kẻ thích ngâm hoa vịnh nguyệt như bao nhà thơ tháp ngà khác? Chắc chắn vì đã trải qua những chặng đời lầm than khổ ải trên dòng sinh mệnh của dân tộc, trên dòng cuồng lưu của lịch sử, Phương Triều cần phải ký thác tâm sự của mình. Nhưng ký thác vào đâu? Chỉ có văn chương là môi trường thích hợp với anh để anh gửi gấm những gì thuộc về thế giới tình cảm của anh. Và anh đã chọn thơ. Trong giai đoạn bị tù đày, anh đã nhận diện bộ mặt tàn ác của kẻ tước đoạt tự do của anh. Anh viết:

    Buổi sáng. Từng hàng xương cử động
    Nối đuôi rời khỏi trại giam buồn
    Thay trâu bò xới từng hoang phế
    Tìm miếng ăn vừa nuôi đủ xương!...
    Buổi tối. Mùa Đông. Bao tử trống.
    Nhai từng miếng bọt dính trong răng
    Bao năm thức ngủ vô chừng đỗi
    Tre nứa rừng thiêng cũng thiếu măng!
    Ngày Tết ngáp vào hơi buốt lạnh
    Đâu nhà êm ấm giữa thân nhân?
    Có ai còn nói Xuân đoàn tụ
    Bên những lìa tan, của cách phân?
    Người toan diệt hết mùa Xuân cũ
    Để dựng toàn Đông ngập giá băng
    Sanh linh một thuở thành ma đói
    Thì nhớ gì Xuân để nói năng?

    (Cử Động, trang 106)

    Khi được kẻ thù phóng thích, anh trở về với gia đình để trở nên kẻ xác xơ ốm đói. Anh ngỡ ngàng trước cái phi lý của cuộc đời kẻ bại binh trong lúc non sông đổi cờ:

    Buổi về bớt thịt thêm da
    Ta thân thuộc cũ sao nhà lại quên?
    Nắng ai rũ rượi bên thềm
    Nhà ta sao lại vô duyên nắng người?
    Áo nào vắt vẻo sân phơi
    Nhà ta sao lại áo người xênh xang?
    Mùa Xuân rụng bóng điêu tàn
    Con chim én cũ ngỡ ngàng bay đi!...

    (Vô Duyên, trang 19)

    Và anh vẽ nên cảnh nghèo cực ngay trong gia đình của anh, rõ rệt nhứt là trong buổi Tết. Hoàn cảnh bi thảm nhưng anh lại nở nụ cười dễ thương và cất tiếng cười phơi phới trong thơ. Xin hãy đọc:

    Chân lùi một bước phân vân
    Xòe tay nắm được cỏ gần tưởng chơi
    Đời cho được chút rượu mời
    Ta lâng lâng cứ khơi khơi hát hò
    Giao thừa còn khứa cá kho
    Ta mút xương cá giả đò ngon cơm
    Vợ chồng như hai cọng rơm
    Gió mưa bật gốc vẫn ôm nhau cười!...

    (Rượu Mời, trang 63)

    Dưới chế độ Cộng sản, nào phải riêng anh và gia đình anh hứng chịu nhục nhằn, gian khổ. Chung quanh anh còn xảy ra nhiều thảm kịch nữa. Xin đọc bài “Ông Già Hiệp Sĩ” (trang 17 và 18):

    Ông già hiệp sĩ chiều qua chợ
    Nhìn thấy người quen đứng bán hàng
    Phía trước ông thầy trường tiểu học
    Đàng sau chị bạn thợ thêu đan!
    Cô giáo dương cầm... bưng rổ ổi
    Ông nhà văn bán... đậu phọng rang!
    Ông già hiệp sĩ qua trường học
    Sân lớp đìu hiu. Hè chưa sang.
    Gặp ông hiệu trưởng buồn đơn lẻ
    Nhìn phương trời lạnh gió mênh mang...
    Ông già hiệp sĩ đi ra biển
    Cát nào hôn được gót lang thang
    Bãi vắng từ khi đời đổi khác
    Thuyền ơi, đủ rộng chở điêu tàn?
    Ông già hiệp sĩ mòn cung kiếm
    Nhìn xuống đôi tay cứ ngỡ ngàng
    Nhát kiếm bình sinh như tức tưởi
    Không còn chém nổi một dây oan!
    Ông già hiệp sĩ quay về núi
    Thầm gọi mùa Xuân đã dở dang
    Cây còn thay lá mùa trăm tuổi
    Người mấy mươi năm đã héo tàn!...
    Ông già hiệp sĩ buồn như ốc
    Mua lạc loài đổi chút bình an!
    Thẹn thân già nỗi đau mòn mỏi
    Đâu một đời trai thuở dọc ngang?

    Có chứng nghiệm đau thương, con người mới nhìn sâu vào cõi hiện tiền. Phương Triều cũng vậy. Nhưng anh còn nhìn trước nhìn sau cuộc đời và nhìn trong nhìn ngoài xã hội mà anh đang sống. Từ đó, trong đầu óc, hay nói rộng hơn, trong nội giới anh thịnh phóng biết bao bông hoa nhân sinh quan, cái nầy nối tiếp cái kia, cái kia sinh sôi cái nọ, và tất cả được anh phóng chiếu vào nguồn cảm hứng dành cho thơ của mình. Những tình đời ấm lạnh, những mâu thuẫn của trò đời, những éo le uyển chuyển của tâm trạng thế nhân cứ thế mà tuôn nườm nượp vào thơ anh.

    Khi về giở lại trang lưu niệm
    Chợt thấy vàng pha rỗ mặt người
    Gốc phượng trường xưa hoa nắng nhạt
    Tường đen cổng lạnh bóng mây trôi...
    Đâu cứ buồn xưa thành vạn cổ
    Bàn tay rêu nấm lại đâm chồi
    Hình như lâu lắm không hề gặp
    Một dấu yêu nào nguôi lẻ đôi!
    Chợt Hạ, tuồng như Xuân đứt đoạn
    Gió đâu Hè tím lạnh vành môi
    Em về tóc lẫn màu sương bạc
    Thiên địa chung thân gượng tái hồi?
    Còn bóng hình nhau ngày ấm lạnh?
    Bao đêm vàng võ một đơn côi
    Đời còn bao nghĩa vui đoàn tụ
    Trên những lìa tan tận rã rời?
    Có phải vòng quay về khởi điểm
    Trái tim già cốc lại luân hồi?
    Ta trẻ được sao thời đại đá
    Giọt tình nóng lại một cơn sôi?

    (Già Cốc, trang 87)

    Phương Triều đôi lúc trải nhân sinh quan của mình ra khỏi xã hội mà anh đang sống, đang gánh vác hệ lụy và căn phần oan nghiệt của mình để đi vào vấn đề cao hơn nhiều cung bậc. Đó là ý nghĩa về chuyện sống chết, về cái bi thảm của cõi phù sinh, về chuyện sống như say, chết như nằm mộng của con người (túy sinh tử mộng).

    Con sông no nước ngày mưa lũ
    Tràn lấn bùn đen lên mả mồ
    Xương tàn nứt lại đâm thêm cỏ
    Tên người bia nhạt nét hư vô!
    Đời được bao nhiêu lần quá cố?
    Sanh linh còn mất giữa xô bồ
    Nhiều khi còn sống mà không nhớ
    Mùa chớm vào Xuân đã Hạ khô!
    Ta dế mèn qua đêm ướt cánh
    Gọi mặt trời gáy điệu ngây ngô
    Nghe từ vô tận còn thao thức
    Những dấu hồn chen chúc đổ xô!...
    Người bưng nguyên gói mùa ân ái
    Mở lớp thời gian sóng nhấp nhô
    Cố nhân từ buổi nhăn răng đó
    Ai khóc rùm beng một ý đồ?
    Con sông no nước ngày mưa lũ
    Theo dấu mòn soi lạnh đáy mồ!...
    (Dấu Hồn, trang 84)

    Cái độc đáo nhứt của Phương Triều là kỹ thuật tinh vi khi diễn tả một ý tưởng hay một quan niệm. Anh không dùng những chữ Triết học khô khan, những chữ trừu tượng vô hồn. Luôn luôn anh tìm kiếm, chọn lựa hình ảnh để cụ thể hoá một ý tưởng hoặc quan niệm mà anh sắp đem vào thi ca của anh. Chẳng hạn để diễn tả một thế kỷ lầm than, ô nhục đầy những dối trá lọc lừa, anh viết:

    Mười năm kỳ rửa nào xong bụi
    Những ghẻ hờm lan tới mặt mày!
    Ai dội muôn vàn đau rát rạt
    Thâm tình sao nỡ bán công khai?
    Nhà cứ giăng thêm đèn yếu điện
    Chia dùm ánh sáng chỗ lung lay!
    Chùi tay vào khói hôn vào lửa
    Nhan sắc mèn ơi, chẳng giống ai!

    (Chẳng Giống Ai, trang 107)

    Và để diễn tả cái bất lực bi đát của kiếp người vốn nhỏ nhoi, bạc nhược trước sức mạnh và bạo lực của định mạng, anh phóng bút như sau:

    Những tiếng kêu rơi chìm đáy vực
    Mùa băng giá chở tiếp Đông sang
    Cỏ reo hò khóc trên mồ mả
    Từng đốm người như chấm dở dang
    (Đốm, trang 108)

    Và để diễn tả một chế độ mị dân, anh không dùng một chữ nào mà các nhà thơ tố Cộng thường dùng. Anh vận dụng thần trí sáng tạo để viết lên những câu bóng bẩy, những ngôn từ đùa cợt, ỡm ờ:

    Treo ngày nắng giữa mưa xanh
    Thấy mây đồng bọn tập tành lấn sân
    Hội tiên gốc gác cù lần
    Mỗi cây gậy phép một phần điểm trang!
    Tuổi con đầy tháng cơ hàn
    Đứa thôi nôi đã đàng hoàng cỏ rau!
    Nghe người rộng họng rêu rao:
    Theo ông dóc tổ chỗ nào cũng Xuân!
    Quơ thêm đũa gắp cực gần
    Vói tay lại được khổ ngần ấy xa!
    Cạn ngày tổn thất xương da
    Giựt mình ngó lại thấy ta đóng hờm!...

    (Gậy Phép, trang 117)

    Trần Huyền Trân, Thâm Tâm và Phương Triều có cái điểm chung trong thi ca: cảm khái thân phận và tình đời. Nhưng Trần Huyền Trân và Thâm Tâm xử dụng toàn là tiếng trau chuốt và trang nhã. Phương Triều khác hơn, anh xen vào ngôn ngữ thanh tao bóng bẩy những ngôn từ rất Nam Kỳ, rất quẫy lộn, rất dí dỏm. Vậy mà thơ anh chẳng những không giảm sút nồng độ bi thảm, mà trái lại nó càng xót xa da diết hơn.
    Đôi lúc Phương Triều sáng tác vài bài thơ tình để đưa vào thi tập “Trăm Bài Thơ Xuân”. Nhưng cuộc tình trong thơ anh không có màu hồng hạnh phúc, mà là cuộc tình gắn chặt vào thân phận truân chuyên của đôi lứa yêu nhau. Xin đọc:

    Xẻ một dòng sông vào tưởng tiếc
    Trôi về lưu vực nắng chưa phai
    Sông ơi, chở nốt chiều vơi mộng
    Cho kịp hoàng hôn ngã bóng dài...
    Tình nhớ còn thơm hương tóc cũ
    Mười năm chưa nhạt miếng hôn ai
    Khóe môi ngậm cứng hồn giông bão
    Em đã cười chưa, bến lạc loài?
    Đâu mộng như hồi men mới nhập
    Hát bài say tỉnh mắt liêu trai
    Em vung tay múa thành tơ lụa
    Chỉ một đường thêu kết vạn mai!...
    Xẻ một dòng sông vào tưởng tiếc
    Thuyền kịp về không bến vãng lai?
    Ta che dù đứng bên cầu nhỏ
    Sợ ướt dùm em, mái tóc dài!...
    Xẻ một dòng sông vào tưởng tiếc
    Ta sừng sững lạnh giữa sương bay...
    (Dòng Sông, trang 122)

    Toàn thi tập không có một bài thơ nói lên niềm tin, nói về viễn ảnh tươi sáng, nói về hy vọng. Thi ca của Phương Triều phản ảnh cả một thời đại nhiều mất mát ly tan, cả một thế hệ nghiệt ngã. Có vậy, anh mới bàng hoàng thảng thốt trước cái phù ảo, vô thường trong cuộc sống. Nhưng anh chỉ có thái độ tiêu cực đó, không tra vấn những vấn đề thuộc về tâm linh, không soi sáng vào cái hiện hữu để tìm kiếm một giải pháp, một con đường vượt thoát. Đó là công việc của các đạo sư, của những triết gia, không phải công việc của anh.

    Sợi cỏ mọc dài như sợi tóc
    Khều tay em ngón út thập thò
    Nhẫn vàng ngậm ngón chưa no
    Hôn nhau ngàn bận chưa dò được nhau!
    Thuở mưa nắng không thành hoa quả
    Thịt xương người hối hả tiêu hao
    Mả sau tưởng được chỗ nào
    Đâu dè mả trước mới đào dọn đi!
    Núi khô lạnh cỏ cây ngày nắng
    Sông cuộn phèn bẻ nhánh ngày mưa
    Đông già kéo tận dây dưa
    Mùa Xuân trẻ dại cũng vừa chết non!
    Nhân gian rốt cuộc hao mòn...

    (Cửa Gió, trang 114)

    Xứ Vạn Hồ bên Hợp Chủng quốc có những nhà thơ lớn như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng...

    Phương Triều ở xứ đó không cần vươn theo hào quang của họ để tự thắp sáng cho mình. Anh tạo cho mình một lối thơ riêng, một ngôn ngữ thơ riêng. Tiếc thay, thơ anh không đăng trong những tạp chí văn học nổi tiếng cho nên thơ anh không đi xa. Các thi tập của anh không được quảng cáo, tâng bốc rầm rộ, cho nên thơ anh chỉ được phổ biến trong giới bạn bè quen biết mà thôi.

    Hồi tiền chiến khi viết bộ “Thi Nhân Việt Nam”, Hoài Thanh và Hoài Chân bỏ rơi nhà thơ gốc Nam Kỳ là Khổng Dương để đem vào sách những nhà thơ tầm thường non nớt như Mộng Huyền, Lưu Kỳ Linh, Đỗ Huy Nhiệm vốn gốc Bắc. Cũng vậy, khi viết bộ “Văn Học Miền Nam”, Võ Phiến quên viết về Sa Giang Trần Tuấn Kiệt, kẻ đã từng chiếm giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc, cũng gốc Nam Kỳ. Ông Võ Phiến vì thiếu tài liệu hay vì trí nhớ bắt đầu kém cõi. Còn Hoài Thanh và Hoài Chân chẳng hiểu có vì thói kỳ thị Bắc Nam hay không? Ai biết được?

    Mai sau ai viết về thi ca hải ngoại mà thiếu sót Phương Triều là bức tử tài hoa của một nhà thơ đã từng chịu nhiều hệ lụy sau cuộc đổi đời.

    Trong số nhà thơ gốc Nam Kỳ, ngoài Tô Thùy Yên và Sa Giang Trần Tuấn Kiệt ra, còn có Hoàng Bảo Việt, Cao Đồng Khánh và Phương Triều mới có thể chen vai thích cánh với các nhà thơ gốc Bắc Kỳ và các nhà thơ gốc Trung Kỳ.

    Troyes, Pháp 20-5-2001
    (Trích trong THẬP THÚY TẦM PHƯƠNG –Tác giả: HỒ TRƯỜNG AN – Hoa Ô Môi xb 2002)
     
    __________
    Nguồn : MGP
    #2
      Viet duong nhan 26.10.2008 06:57:12 (permalink)
      Kỷ niệm Văn nghệ sĩ, Ký giả và Thân hữu


      VŨ THỤY HOÀNG: Nửa thế kỷ báo chí trên vai

      • PHƯƠNG TRIỀU


      Một đời tận tụy

      Nếu tính từ khi khởi nghiệp, đầu năm 1956 tại Sàigòn đến nay, đầu năm 2004 tại Hoa Kỳ, Vũ Thụy Hoàng đã có 48 năm tuổi nghề liên tục trong ngành Truyền thông Báo chí. Tròm trèm nửa thế kỷ miệt mài với nghề nghiệp qua các lãnh vực Truyền thanh và Báo chí, ngày nay Vũ Thụy Hoàng có thể hãnh diện nói rằng mình đã sống trọn đời với nghề cầm bút. Vị ký giả lão thành này hầu như không nói về mình trong suốt thời gian hành nghề. Nếu không có các quyển Rồng Vàng Vượt Biển (1982), Sàigòn Tuyết Trắng (2000), Quê Hương Thương Ghét (2001), sẽ rất ít người biết rõ thân thế và sự nghiệp của ông.

      Vũ Thụy Hoàng là một người bình dị, mực thước, không giao thiệp bừa bãi, nhưng ông là người có kiến văn rộng rãi, am hiểu tường tận lãnh vực nghề nghiệp. Đặc biệt sự hiểu biết của ông về hậu trường chính trị Miền Nam từ 1954 đến tháng 4-1975 rất phong phú mà theo tôi nghĩ còn cần phải có thêm vài ba quyển sách nữa mới nói hết được những điều ông còn nhớ. Vũ Thụy Hoàng là một ký giả chuyên nghiệp, nhưng trong một chừng mực nào đó, ông đã dính líu với chính trị, không sâu lắm nhưng cơ hội đủ để cho ông có cái nhìn chính xác về các khía cạnh của cuộc diện đất nước. Ông từng đứng trong Liên danh Bạch Tượng ứng cử vào Thượng Viện (Thụ ủy: Dược sư Trần Văn Lắm, cựu Ngoại trưởng Việt Nam Cộng Hòa).

      Vũ Thụy Hoàng có thời gian rất dài gắn bó với nhựt báo Chính Luận (Chủ nhiệm: Bác sĩ Đặng Văn Sung), với chức vụ Trưởng phòng quốc ngoại và sau cùng từ đầu năm 1973 đến giữa tháng 4-1975 là Tổng Thư ký Tòa soạn nhựt báo Dân Chủ (Chủ nhiệm: Bác sĩ Trần Minh Tùng), cơ quan của Đảng Dân Chủ. Ông từng là phụ tá báo chí công ty Standard Vacuum Oil Co. Ông có 33 năm làm việc cho tờ Washington Post. Nhiều bài viết của ông trên Washington Post đã được báo chí tại Hoa Kỳ và các nước đăng lại, trong số hơn 350 tờ thuộc hệ thống Washington Post – Los Angeles Times. Trong quyển Big Story của Peter Braestrup, Vũ Thụy Hoàng được mô tả là một phóng viên Việt Nam “thông thạo tin tức nhứt, chuyên nghiệp nhứt”. Trong cuộc điện đàm chiều ngày 11-1-2004, từ Springfield, Virginia, Vũ Thụy Hoàng cho tôi biết ông sẽ ra mắt tác phẩm thứ tư vào mùa xuân 2004. Vũ Thụy Hoàng là một tác giả thành công. Cả ba tác phẩm của ông đều bán hết trong một thời gian ngắn mà không qua một buổi ra mắt sách nào. Riêng quyển Sàigòn Tuyết Trắng trong vòng 3 tháng, từ tháng 4 đến tháng 6-2000 đã tái bản 2 lần.

      Một đời đa đoan

      Sàigòn là nơi tôi chọn lựa để sinh sống. Tôi bén rễ ở thành phố này đã được 19 năm, thân đã vươn cao, cành lá xum xuê, trổ hoa kết trái. Thành phố này là nơi tôi trưởng thành, học hành, xây dựng nghề nghiệp, tạo lập mái ấm gia đình, nuôi dưỡng con cái. Tôi đã sống gần nửa cuộc đời 40 tuổi ở đất Sàigòn, ở lâu hơn bất cứ một nơi nào trên phần đất Việt Nam. Hơn cả quê quán của tôi. Hơn cả những năm tản cư trong thời kỳ chiến tranh. Sàigòn là nơi tôi có nhiều bạn bè. Từ trung học, đại học, đến sở làm.

      (Sàigòn Tuyết Trắng, trang 21)

      Tôi gặp Vũ Thụy Hoàng lần đầu tiên năm 1964 khi tôi đang làm cho nhựt báo Ngày Mới (Chủ nhiệm: Hoàng Phố) và nhựt báo Nghị Luận (Chủ nhiệm: Việt Sơn Nguyễn Gia Luyến). Thời gian đó, mỗi buổi chiều thứ Hai hàng tuần, Phòng Báo Chí Bộ Quốc Phòng (Trưởng phòng: Thiếu tá Ngô Đức Khắc) đều tổ chức một buổi thuyết trình tin chiến sự cho báo chí trong và ngoài nước, với sự hiện diện của Đại tá Nguyễn Đức Thắng, Giám đốc Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Vũ Thụy Hoàng đeo lon Chuẩn úy, thường ngồi cạnh các ký giả ngoại quốc để thông dịch những điều do Đại tá Thắng và Thiếu tá Khắc phổ biến. Tôi gặp Vũ Thụy Hoàng trong những buổi thuyết trình này, nhưng sự quen biết chỉ trong phạm vi nghề nghiệp. Sau này khi Vũ Thụy Hoàng được gọi tái ngũ năm 1968 thì ông và tôi cùng là Sĩ quan Báo chí Bộ Quốc Phòng và về sau cùng làm cho nhựt báo Dân Chủ do Bác sĩ Trần Minh Tùng làm Chủ nhiệm. Tòa soạn Dân Chủ lúc đó gồm có: Vũ Thụy Hoàng, Tổng Thư ký Tòa soạn; Trần Đức Thắng (phu quân nữ ca sĩ Ngọc Minh), Trưởng ban Tin tức Quốc ngoại; Phan Thanh Tâm, Trưởng ban Tin tức Quốc nội; Trần Trọng Thức (phu quân nữ nghệ sĩ Kim Cương), Trưởng ban Phóng viên. Phóng viên chính của tờ báo là Trần Quang. Tôi phụ trách các trang trong của tờ Dân Chủ. Vũ Thụy Hoàng từ Bộ Quốc Phòng được thuyên chuyển về Phủ Tổng Thống. Tôi vẫn ở Bộ Quốc Phòng và làm cho tờ Dân Chủ do lời mời của Vũ Thụy Hoàng. Việc phụ trách các trang trong tờ báo không bắt buộc tôi phải có mặt thường trực tại Tòa soạn.

      Vũ Thụy Hoàng có dáng người nho nhã như một thư sinh, nhưng nghị lực và sức làm việc của ông thật phi thường. Trong thời gian 1968-71 ông làm việc ba nơi một lúc: vừa kiểm duyệt báo chí với tư cách đại diện Bô Quốc Phòng bên cạnh Bộ Thông Tin, vừa dịch tin quốc ngoại cho báo Chính Luận, vừa làm cho báo Washington Post. Năm 1974-75, lúc làm cho báo Dân Chủ, ông còn theo học Ban Cao Học Ngoại Giao của Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Một lần tôi hỏi Vũ Thụy Hoàng, “Vậy thì... mỗi ngày anh còn được mấy tiếng đồng hồ để ngủ?” Một số đồng nghiệp cho biết Vũ Thụy Hoàng làm việc từ 12 đến 18 tiếng một ngày. Vũ Thụy Hoàng cười bảo, “Thỉnh thoảng mới có một vài ngày thế thôi, chứ làm liền như vậy đâu chịu nổi.” Tôi nhớ hai cuộc di cư chính trong đời tôi. Lần thứ nhất tôi rời Hà Nội khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ năm 1946. Tôi lúc đó mới 11 tuổi, bơ vơ một mình đi trong đêm tối giữa những tiếng súng nổ liên hồi ở khu kế cận. Lần thứ hai tôi di cư từ Bắc vào Nam sau khi hiệp định Genève chia Việt Nam thành hai miền với hai chế độ đối địch nhau. Lúc đi Nam, tôi đã là một thanh niên, lên đường có phần nào háo hức trước một cuộc phiêu lưu mới. Cả hai lần, dù có những phập phồng, sợ hãi trong chốc lát, nhưng tôi không bị những lo âu dằn vặt. Tình trạng năm 1975 khác hẳn. Tôi không còn một thân một mình để có thể dễ dàng xoay sở khi đến một chân trời mới. Tôi đã có vợ và ba con.

      (Sàigòn Tuyết Trắng, trang 25)

      Tháng 4-1975, Vũ Thụy Hoàng không có một chọn lựa nào khác ngoài việc ra đi. Ông thổ lộ: Trong gia đình tôi hai người ngán Việt Cộng hơn cả là tôi và ông bố vợ. Quá khứ hoạt động của chúng tôi trong mấy chục năm qua, mối liên hệ với các chính quyền quốc gia và người Mỹ, cùng thái độ bác khước chủ nghĩa cộng sản cho thấy rõ chúng tôi không có chỗ đứng nào khi cộng quân vào Sàigòn. Chỉ riêng vụ tôi làm việc tại Phủ Tổng Thống, đảm trách bộ biên tập cho tờ báo của đảng cầm quyền là đủ để tôi bị bắt ngay khi cộng quân vào nắm quyền. Thêm vào đó, tôi còn là đại úy trong quân đội, từng kiểm duyệt báo chí về tin tức quân sự. Trước đấy tôi là biên tập viên đài phát thanh Sàigòn, và những năm gần đây còn làm việc cho cả báo chí Mỹ. Bố vợ tôi đã từng làm việc với Bộ Tổng Tư Lệnh Việt Minh, từng có dịp gặp gỡ Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, cùng quen biết nhiều tay chóp bu cộng sản trước khi đào ngũ “dinh tê” về Hà Nội. Ông về thành được ít lâu, có người ở chiến khu trốn về báo cho biết ông bị kết án tử hình khiếm diện. Di cư vào Nam, ông có gần hai chục năm làm việc cho Phái Bộ Viện Trợ Mỹ (USAID).

      (Sàigòn Tuyết Trắng, các trang 78, 79)

      Một đời mẫu mực

      Vũ Thụy Hoàng sanh năm 1935 tại Dương Quang, cách Hà Nội 14 km, trước thuộc phủ Thuận Thành, Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ông vào Nam một mình, tất cả thân nhân đều ở bên kia vĩ tuyến 17. Một mình ông xoay sở mọi chuyện, từ việc học tới việc làm. Ông tốt nghiệp trường Luật Sàigòn năm 1960, theo học Cao Học Ngoại Giao tại trường Quốc Gia Hành Chánh 1974-1975, tốt nghiệp College of Financial Planning tại Denver, Colorado năm 1990. Vũ Thụy Hoàng khởi nghiệp tại Sàigòn năm 1956 khi làm biên tập viên đài phát thanh Sàigòn. Và, kể từ đó ông đã hoạt động liên tục trong ngành truyền thông báo chí, kể cả thời gian ở trong quân đội. Vũ Thụy Hoàng là một người có chí. Ông không ngừng học hỏi để tự thăng tiến. Ông biết quý công danh sự nghiệp. Ông là một ký giả tài hoa và nếu có cơ hội, ông sẽ trở thành một chính trị gia uy tín. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, Vũ Thụy Hoàng là một người hiền lành, nghiêm túc, mẫu mực, lại vốn là người trọng nguyên tắc. Ông sẽ đàng hoàng thi thố tài năng của mình trong một xã hội có kiến trúc luân lý ổn định và đặt trên một nền tảng pháp trị vững chắc. Là nhà báo, ông hành sử nghề nghiệp với lương tâm và lòng yêu nghề vô hạn. Ông viết lại, tường thuật những điều do chính ông chứng kiến, chính ông tai nghe mắt thấy và cố chứng minh những điều ông viết là đúng sự thật. Nếu có tham khảo thêm điều gì để dẫn chứng cho sự kiện mà ông nêu ra thì ông phải tin chắc vào điều đó thì ông mới viết. Đọc suốt quyển Sàigòn Tuyết Trắng, chúng ta dễ dàng nhận ra đức tính này của tác giả. Thông thường, nhà báo khi đăng tải những tin tức chưa hoàn toàn kiểm chứng được, thường khởi đầu bằng câu “Theo nguồn tin thông thạo...” và cuối cùng bằng câu “Chúng tôi loan tin này với sự dè dặt thường lệ”. Phong cách làm việc cẩn trọng của Vũ Thụy Hoàng khiến tôi có cảm tưởng rằng đối với những điều ông còn dè dặt thì ông sẽ không viết. Tôi nghĩ, tên tác giả Vũ Thụy Hoàng đủ đảm bảo giá trị cho tác phẩm. Đối với tôi, Vũ Thụy Hoàng là một bậc đàn anh trong nghề nghiệp, suốt 40 năm biết tôi vẫn dành cho ông sự quý trọng, mặc dầu đôi khi tôi vẫn tiếc rằng đức tính nghiêm túc của ông nhiều khi đã giới hạn tài hoa của ông. Tôi đã không có dịp đọc những bài phóng bút của ông. Với tư cách nhà báo, ông là người đàng hoàng uy tín. Bước vào lãnh vực chính trị, ông muốn thăng tiến bằng khả năng và những đóng góp cụ thể hơn là những dựa hơi có tính cách phe phái. Vì vậy ông vẫn cặm cụi đi học Cao Học Ngoại Giao.

      Vũ Thụy Hoàng là bạn thân của ông Nguyễn Văn Ngân, Cố vấn của đương kim Tổng thống, vậy mà hầu như ông không hề có ý khai thác hay lạm dụng lợi thế của mình. Hành nghề ký giả, Vũ Thụy Hoàng làm tròn chức năng thông tin nghị luận một cách trung thực. Bài viết của ông nhiều lúc mạnh thêm qua thể văn chính luận và những luận giải đầy sức thuyết phục. Điều đáng ghi nhận là ông còn có những nhận định vừa dí dỏm vừa sâu sắc. Chẳng hạn khi ông so sánh hai đường lối báo chí tại Việt Nam và tại Hoa Kỳ: Báo chí Mỹ được coi là định chế thứ tư trong nền dân chủ Mỹ, sau hành pháp, lập pháp và tư pháp. Với quyền tự do báo chí và với ý niệm người dân được quyền biết những hoạt động của chính phủ, báo chí Mỹ ở địa vị thuận lợi hơn để thu thập tin tức, và theo dõi những diễn biến xảy ra của tình hình. Các viên chức Mỹ cũng ít dè dặt hơn khi tiếp xúc với nhà báo và ít khi dám cố ý đánh lạc hướng hoặc dối trá trắng trợn. Giới chức Mỹ thường cho biết nhiều tin tức để cung ứng nhu cầu của nhà báo, mà vẫn cố giữ kín những bí mật quốc gia và những gì mà họ thấy cần giữ kín. Đường lối này có thể ví như kiểu áo tắm bikini của phụ nữ. Loại áo ba mảnh này chỉ che kín ba điểm quan yếu, còn cho thấy vóc dáng và những phần khác trên thân hình phụ nữ. Ngược lại nhà cầm quyền Việt Nam lại khoác lên người con gái bộ quần áo kiểu nữ tu, che kín từ đầu tới chân, chỉ hở khuôn mặt. Người ngoài nhìn vào khó biết được người mặc áo đó mập hay ốm, thân hình bình thường hay khuyết tật, có ghẻ lở, mụn nhọt hay không.

      (Sàigòn Tuyết Trắng, các trang 111, 112)

      Vũ Thụy Hoàng qua 3 tác phẩm

      Tính đến nay, Vũ Thụy Hoàng đã có 3 tác phẩm được ấn hành tại hải ngoại và cả 3 tác phẩm đều thuộc loại “best seller”.

      1. Rồng Vàng Vượt Biển: xuất bản năm 1982 (hết), dày 240 trang. Quyển sách không dày lắm, nhưng lại là một công trình có tầm cỡ lớn, tiêu tốn hết 7 năm làm việc của một ký giả có kinh nghiệm già dặn. Mỗi bài viết trong quyển sách là kết quả của một quá trình làm việc công phu. Vũ Thụy Hoàng đã bỏ rất nhiều công sức để tìm kiếm tài liệu và các dữ kiện. Ông tỏ ra lão luyện trong kỹ thuật phân tích và tổng hợp. Độc giả có thể tìm thấy những phát giác, những chi tiết giá trị trong các bài viết đã được tác giả Vũ Thụy Hoàng trình bày một cách mạch lạc, rõ ràng. Nội dung quyển Rồng Vàng Vượt Biển nói về cuộc vượt thoát (bằng đường biển và đường bộ) tìm tự do của nhiều thành phần của xã hội miền Nam và cả một số người ở miền Bắc.

      Về tên sách Rồng Vàng Vượt Biển, Vũ Thụy Hoàng giải thích rằng:

      Lịch sử Việt Nam ghi dấu nhiều cuộc di cư. Theo sử truyền khi Lạc Long Quân và bà Âu Cơ phân ly, bà mang 50 con trai lên núi, còn Lạc Long Quân đưa 50 con trai xuống biển. Trong số các con theo cha, người con trưởng lập quốc ở vùng sau này là châu thổ sông Hồng và lấy hiệu là Hùng Vương. Về sau người Việt dần dần di dân xuống phía nam, xâm chiếm Chiêm Thành và Chân Lạp. Tới thế kỷ 20, có thêm 2 cuộc di cư lớn. 800.000 người từ Bắc vào Nam năm 1954 sau khi đất nước chia đôi. Từ năm 1975 khi cộng sản chiếm trọn miền Nam, một triệu con rồng cháu tiên đã bỏ nước ra đi. Lần này họ không phải chỉ xuống vùng biển kế cận mà đã vượt đại dương. Họ là Rồng Vàng Vượt Biển.

      (Rồng Vàng Vượt Biển, trang 222)

      Theo tác giả Vũ Thụy Hoàng, “Cuộc vượt biển của nửa triệu người Việt đánh dấu một biến cố chưa từng có trong lịch sử Việt Nam, gây chấn động dư luận thế giới, làm rung chuyển lương tâm nhân loại, tạo bất ổn ở Đông Nam Á, làm bẽ mặt chế độ cộng sản, làm cứng họng những phần tử ủng hộ Hà Nội, làm khô cạn tài nguyên đất nước, nêu cao ý chí bất khuất dân tộc và làm ngạc nhiên cả người Việt di cư năm 1975.” (Rồng Vàng Vượt Biển, trang 23). Trong Rồng Vàng Vượt Biển, Vũ Thụy Hoàng không chỉ nêu những con số, những chứng liệu mà còn có những nhận định sâu sắc và độc đáo. Ta thử đọc một nhận định độc đáo của tác giả: Trong thời chiến, biết bao người đã di chuyển từ làng mạc lên quận lỵ và các thành phố lớn. Có người đã di chuyển năm bảy lần trong cuộc đời của họ. Có người từ Bắc vào Nam. Có người từ Quảng Trị, Thừa Thiên vào Sàigòn. Riêng tại Nam Việt Nam có tới chín triệu người đã di chuyển như vậy trong cuộc chiến. Cuộc sống trong quân ngũ cũng làm nhiều người Việt Nam quen thuộc với nếp sống di chuyển khi đổi đơn vị. Người Việt nhờ vậy ít ngần ngại trước việc rời đi lập nghiệp ở nơi khác.

      (Rồng Vàng Vượt Biển, trang 71)

      2. Sàigòn Tuyết Trắng: xuất bản tháng 4-2000; tái bản kỳ 1, tháng 5-2000; tái bản kỳ 2, tháng 6-200; dày 360 trang. Tác giả Vũ Thụy Hoàng kể lại cuộc vượt thoát đầy gian lao nguy hiểm của chính tác giả cùng gia đình, của những người quen biết, và một số nhân vật tên tuổi. Bối cảnh là Sàigòn và thời điểm là cuối tháng 4-1975. Tuy nhiên đây không chỉ là một hồi ký, bút ký đơn giản mà là một công trình ghi thuật đáng kể và những nhận định khá chính xác về toàn bộ tình trạng của Miền Nam qua những diễn biến có tính cách thời sự và lịch sử. Chuck Neil, nhân viên đài phát thanh quân đội Mỹ ở đường Hồng Thập Tự “đã chọn bài Tôi Mơ Tới Giáng Sinh Tuyết Trắng, và liền sau bài hát là câu nói Nhiệt độ ở Sàigòn là 105 và đang tăng lên để làm tín hiệu di tản. Neil đã cho thâu băng sẵn bài hát và câu nói trên. Trước khi Neil và các bạn rời sở, Neil bỏ cuộn băng vào máy và làm sẵn chương trình để máy tự động cho chạy tín hiệu đó nhiều lần. Nghe bản hát này, người Mỹ ở Việt Nam và một số người Việt biết Sàigòn lâm cơn hấp hối sắp trút hơi thở cuối cùng, và cuộc di tản đã bắt đầu.”

      (Sàigòn Tuyết Trắng, trang 258)

      3. Quê Hương Thương Ghét: xuất bản tháng 4-2001, dày 430.

      Người Việt hải ngoại trong nhiều năm đã bị ray rứt giữa một bên là người thân và quê hương, một bên là chế độ mà mình không chấp nhận. Nhiều người không thoát khỏi những tranh chấp tình cảm thương ghét lẫn lộn trong lòng, và phân vân trước một Quê Hương Thương Ghét. Dù thương dù ghét, con đường liên lạc giữa người Việt trong và ngoài nước đã mở rồi, đã lưu thông tấp nập, không thể nào chặn bít lại được.

      Nhiều người ở hải ngoại qua lại con đường đó để về thăm nước, thăm thân nhân, nhưng không nhiều người về sinh sống, dù mai kia chế độ có thay đổi. Cuộc chiến Việt Nam đã nhổ rễ hàng triệu người Việt, đẩy dân từ vùng quê ra thành thị. Chiến tranh đã chấm dứt, đa số vì quen với hoàn cảnh và nếp sống vẫn ở lại thành phố, không trở về làng mạc trừ những cuộc thăm viếng ngắn ngủi. Nhiều người Việt đã bén rễ sâu ở nước ngoài cũng ở trong tình trạng tương tự.

      (Quê Hương Thương Ghét, các trang 407, 408)

      Quê Hương Thương Ghét với chủ đề “Nỗi Lòng Người Việt Hải Ngoại”, nhưng trình bày khá đầy đủ tình trạng người Việt trong và ngoài nước sau tháng Tư Đen 1975. Từ những cuộc vượt biên đến việc gởi quà và tiền tiếp tế cho thân nhân của người Việt ở Hoa Kỳ. Hà Nội hẳn mỉm cười thích thú khi nhìn dòng ngoại tệ và hàng hóa cuồn cuộn chảy về Việt Nam. Nhưng Hà Nội nhiều lúc đã giật mình, khi thấy luồng gió từ hải ngoại thổi vào đã lay động và làm rung chuyển cơ cấu xã hội, kinh tế và chính trị trong nước. Thế quân bình chính trị giữa hai miền nam bắc bị nghiêng lệch, bước tiến của xã hội chủ nghĩa bị chậm lại ở phía nam vĩ tuyến 17, thị trường kinh tế có lúc bị xáo động, nạn hối lộ, tham nhũng lan tràn, và những đòi hỏi cải cách được bộc lộ mạnh dạn hơn, là những điều làm giới lãnh đạo Hà Nội băn khoăn, suy nghĩ.

      (Quê Hương Thương Ghét, trang 50)

      Nội dung Quê Hương Thương Ghét cũng đề cập đến những sự việc, biến cố quan trọng: cuộc tù đày của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, cuộc họp báo ly kỳ tại Hà Nội của ông Võ Đại Tôn, các hành động của phi công Lý Tống, Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam của Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh và Trần Văn Bá, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam của cựu Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh v.v... Tôi đặc biệt thích thú chương “Ám Từ”. Từ sau tháng 4-75, đồng bào Miền Nam bỗng dưng đều trở thành những người giỏi viết lách! Viết và lách thế nào để tránh được sự kiểm soát gắt gao của những kẻ cầm quyền. Những từ ngữ bình thường lại rất đắc dụng khi trở thành những ám từ, mật ngữ để liên lạc với nhau giữa những người thân từ trong nước với trong nước, từ trong nhà tù với ngoài trại giam, từ trong nước với nước ngoài. Môt người em viết thư cho người chị ở Mỹ báo tin người anh “lúc này học hành chăm chỉ lắm, nhưng học tài thi phận. Học chăm mà thi mãi cũng không đậu.” Vì anh là sĩ quan cấp tá trước kia, bà chị hiểu ngay anh vẫn còn khổ cực trong trại cải tạo, chưa biết ngày nào mới được thả về. Một lá thư khác báo tin chú N. đã “đổi sang làm sở mới gần chỗ với anh Hà và anh Nam, nên ít có dịp gặp.” Tin này tưởng như thông báo vụ đổi chỗ làm thông thường, nhưng người trong gia đình suy nghĩ một chút là hiểu được ý người viết muốn thông báo. Người nhà đã dùng lối ghép chữ để báo tin đại tá N. đi học tập cải tạo đã bị chuyển trại ra Hà Nam ở miền Bắc, nên người nhà không có cơ hội đi thăm nuôi dễ dàng. Những loại thư này rất thông dụng vào thời gian mấy năm sau ngày “giải phóng”khi hàng trăm ngàn cựu quân nhân, công chức bị đưa đi cải tạo ở những nơi hẻo lánh. Một lá thư khác có lời lẽ thật ngọt ngào, tế nhị: “Từ ngày giải phóng, nhờ ơn bác và đảng, gia đình chúng em làm ăn khấm khá, cả nhà đều vui vẻ. Chúng em đã mua được một căn nhà mới, to và đẹp bằng nhà bác Cả.”Người nhận được thư mỉm cười giải thích: “Bác Cả là người trong họ có căn nhà lụp xụp ở khu Hàng Xanh bên Gia Định. Bán căn nhà to đang ở trong phố để mua căn nhà tồi tàn là mình biết bên nhà đang ra sao rồi.”

      (Quê Hương Thương Ghét, các trang 57, 58)

      Trong một phần trên tôi có viết rằng Vũ Thụy Hoàng là một người quá ư cẩn thận nên chẳng bao giờ phóng bút. Nhưng đây là một đức tính vô cùng cần thiết đối với người cầm bút. Nó gìn giữ được uy tín của tác giả và bảo đảm được sự chính xác những điều mà tác giả viết xuống.

      Ba tác phẩm Rồng Vàng Vượt Biển, Sàigòn Tuyết Trắng, Quê Hương Thương Ghét như đã nói là những công trình hao tốn nhiều tâm trí và sức lực. Do vậy cả ba quyển sách đều mang tầm vóc đồ sộ của tác phẩm sưu tầm và nghiên cứu giá trị. Đề cập đến một giai đoạn lịch sử nhiễu nhương sau tháng Tư Đen 1975, chúng ta có thể tham khảo được rất nhiều điều trong 3 tác phẩm nói trên của Vũ Thụy Hoàng.

      • Ký giả Vũ Thụy Hoàng nay đã về hưu sau những tháng năm làm việc miệt mài. Nhưng trên thực tế ông chưa hề nghỉ ngơi an hưởng tuổi già. Con tằm vẫn còn vương tơ. Ông vẫn còn tiếp tục viết, bởi vì trong ông còn quá nhiều chuyện mà ông am tường chưa được ông viết ra hết. Tôi không có điều gì để góp ý thêm với đàn anh. Chỉ xin chúc đàn anh dồi dào sức khoẻ để hoàn thành sự nghiệp của một người cầm bút chân chính và đầy lương tâm nghề nghiệp.

      Texas, tháng 1-2004
      PHƯƠNG TRIỀU
      ___________
      Nguồn : MGP
      #3
        Viet duong nhan 15.11.2008 17:03:05 (permalink)
         


        Vô Cùng Thương Tiếc
        Nhà Thơ PHƯƠNG TRIỀU
        THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
        Cùng Tang Quyến

        Lê Huỳnh Hoàng
        tức Nhà Văn Phương Triều
        đã từ trần lúc 5 giờ 50 phút ngày 14 tháng 11 năm 2008
        nhằm ngày 17 tháng 10 Âm lịch


        Hưởng thọ 66 tuổi

        MỜI NGHE BÀI GIỌT SỮA ĐẤT


        Nhà Thơ Phương Triều Đã Qua Đời

        Anh được một số anh em đặt cho danh hiệu chưởng môn phái “Không Động” vì không muốn động đậy làm gì cả. Ngay khi ở trong tù tại Miền Bắc, anh ở chung một đội với nhà văn Đỗ Hùng, tác giả quyển truyện sử Mộng Bá Vương. Hai anh bị cán bộ quản giáo của VC kết án là “chây lười lao động” đến độ ngày nào cũng bị đưa ra trước đội để chiếu TV (1). Anh Phương Triều là một nhà báo chuyên nghiệp từ trước 1975 tại Sàigòn. Phương Triều gia nhập làng báo năm...
        Xem tiếp
        #4
          Chuyển nhanh đến:

          Thống kê hiện tại

          Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
          Kiểu:
          2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9