HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI

Tác giả Bài
lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 27.10.2008 18:41:56
HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI

LỮ HUY NGUYÊN (Tuyển, soạn, giới thiệu)
Nhà xuất bản VĂN HỌC
2004
 
Thiên tài, kỳ nữ, hay nói giản dị hơn: Danh tài độc đáo Hồ Xuân Hương, tên tuổi kỳ diệu ấy vượt qua mọi cuộc tranh luận xưa nay, tự mình sừng sững chiếm vị trí đặc biệt trong làng thơ Việt Nam với một di sản tinh thần tuy còn được lưu truyền không nhiều: bên cạnh tập Lưu hương ký mà từ khi được phát hiện, chưa mấy ai phủ định, nhưng mọi người hầu như vẫn dè dặt khi sử dụng tập thơ này (1), là dăm chục bài thơ tám câu bảy chữ hoặc bốn câu bảy chữ có một phong cách không trộn lẫn với ai, tuy còn một số bài vẫn ở dạng “tồn nghi”.

Với Dương Quảng Hàm, thì đó là nữ sĩ có thiên tài và giàu tình cảm, nhưng “vì số phận hẩm hiu, thân thế long đong, nên trong thơ bà hoặc có ý lẳng lơ, hoặc có giọng mỉa mai, nhưng bài nào cũng chứa chan tình tự”. Ông khẳng định Hồ Xuân Hương là một nhà viết thơ Nôm thuần túy, thoát hẳn ảnh hưởng của thơ văn chữ Hán, với cách tả tình, tả cảnh, dùng ngữ hiệp vần rất khéo. Thời ấy, người ta còn chưa phát hiện ra Lưu hương ký.

Còn Xuân Diệu thì gọi thẳng bà là Nhà thơ dòng Việt, là Bà chúa thơ Nôm, kể về độc đáo thì đứng vào bậc nhất trong văn học Việt Nam, mà lại hai lần độc đáo, vì đó là một phụ nữ đã dám “Ví đây đổi phận làm trai được”, và Xuân Diệu cho rằng thực sự nàng đã làm trai rồi, ngay trong chế độ cũ. Thơ của người dám làm trai ấy lại hết sức phụ nữ, người đàn bà ấy đã cất tiếng lên thì đố ai đã nghe một lần lại có thể quên được, quên nổi: “Thứ thơ ấy không chịu ở trong khuôn khổ thông thường, một thứ thơ muốn lặn sâu vào sự vật, vào những đáy rất kín thẳm của tâm tư, những đáy kín thẳm ấy không phải lạc lõng, cô đơn, cá nhân chủ nghĩa, mà trái lại, đã được hàng vạn, hàng vạn người đồng tình thông cảm”.

Bản thân là người có bản lĩnh tự tin mạnh mẽ, Hồ Xuân Hương chế diễu, đả kích cả một xã hội phong kiến với giọng đường hoàng, dõng dạc, chủ động và rất “đàn chị”. Thơ ấy, người ấy đập thẳng vào mặt bọn vua quan, nho lại, sư mô, trượng phu, quân tử dỏm, coi thường bọn mày râu không có khí chất đàn ông, không có phẩm cách nam nhi, kéo cái mặt nạ giả dối đủ kiểu, lôi tuột nó để làm trơ cái mặt thớt ấy ra trước thanh thiên bạch nhật, trước dư luận người đời. Thơ ấy, người ấy cất tiếng nói phản kháng quyết liệt của bản năng bị dồn ép vì những luân lý, lễ giáo, những thói thường ích kỷ. Sự phản ứng quyết liệt ấy nhiều khi cường điệu, thâm xưng, ám ti… một cách nghệ thuật, nên thường cũng hay bị người gán ghép cho những chuyện sinh lý có lúc quá trớn, quá đà. Đạt sự bình quyền, bình đẳng giữa nam và nữ, thơ ấy, người ấy không một chút ngại ngùng tố cáo triệt để sự bất công của xã hội trên nhiều lĩnh vực trong đó có hôn nhân và gia đình, đào sâu vào thân phận của người phụ nữ đa đoan nhưng cũng đa tình.

Người phụ nữ trở thành nhân vật trung tâm trong thơ Hồ Xuân Hương, có khi xuất đầu lộ diện, có khi giấu mặt. Nếu như Vichto Huygô có lý khi cho rằng: “Người ta có một tôn giáo thứ hai là tình yêu, và Chúa của đạo ấy chính là người phụ nữ”, thì phải chăng Hồ Xuân Hương không có lý với những bài thơ đề cao người đàn bà, tất cả những “cái gì thuộc về con người đối với tôi đều quý” như câu tục ngữ cổ mà Các Mác rất thích đó, cả chuyện trong buồng kín, phòng the, cả chuyện cơ thể của đàn bà – biểu tượng của cái đẹp?.

Cái đẹp thân thể và sự dâm đãng, nghệ thuật hướng về cái đẹp và nghệ thuật khiêu dâm. Đấy là những khoảng cách, những cực của hai quan điểm thẩm mỹ đối nghịch.

Đẹp hay dâm tục câu thơ của Hồ Xuân Hương:
Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông.

Nhưng quả là trong thực tế, khi thẩm định thơ Hồ Xuân Hương, dễ có khuynh hướng gán ghép chuyện sinh lý có khi quá trớn; cũng không phải không ít người còn “táy máy” nghĩ đến cái nghĩa thứ hai trần tục, nó cứ đập vào giác quan người ta gây nên sự khó chịu vì tính chất hai mặt của biểu tượng. Cả trong trường hợp ấy nữa, thơ Hồ Xuân Hương đích thực cũng không thể bị coi là loại sáng tác khiêu dâm hay tục tĩu, nếu như người đọc hiểu rõ dụng ý của “vũ khí” mà nhà thơ đang sử dụng vào mục đích gì, nếu như người đọc gạt bỏ ra ngoài sự liên tưởng gán ghép cố tình, hoặc lẫn lộn thơ Hồ Xuân Hương đích thực với thơ được sáng tác theo phong cách Hồ Xuân Hương. Sự lẫn lộn ấy cũng không mấy dễ tìm ra cho rạch ròi, thuyết phục.

Nguyễn Lộc đã có lần đề cập tới cái khao khát của nhà thơ Hồ Xuân Hương về mặt tình yêu vật chất, tình yêu thể xác. Và ông xác đáng khi cho rằng, đừng vội nghĩ nói đến tình yêu thể xác, nói đến chuyện trong buồng kín của vợ chồng là dâm đãng. Nghệ thuật quyết định chủ yếu không phải ở đề tài. Ông viết: “Nhu cầu về cuộc sống bản năng cũng là một nhu cầu chân chính của con người, xã hội phong kiến phủ nhận, nên con người mới phản ứng chống lại. Ở Hồ Xuân Hương có cái gì quá đà, nhưng đặt trong bối cảnh của xã hội phong kiến phương Đông chịu ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo, thì chính đó lại là một sự chống trả quyết liệt. Hồ Xuân Hương nói nhiều đến dục vọng thể xác, nhưng bà thể hiện những dục vọng ấy một cách lành mạnh và khỏe khoắn. Đọc thơ Hồ Xuân Hương, người ta thấy nhà thơ bao giờ cũng tỉnh táo, bà đứng cao hơn hiện tượng mình miêu tả; và với một tâm hồn nghệ sĩ thực sự, nhà thơ bao giờ cũng phát hiện được những khía cạnh thẩm mỹ trong đối tượng miêu tả của mình”. Về phương diện này, chúng tôi đồng tình với ông Nguyễn Lộc.

Hướng tuyển chọn thơ Hồ Xuân Hương trong tập sách này, phối hợp nhiều cách chọn để tìm một phương án khả dĩ chấp nhận được. Phần lớn các bài trong Lưu hương ký đều được tuyển chọn dựa vào sách của Đào Thái Tôn, có tham khảo các sách khác.

Giới thiệu thơ Hồ Xuân Hương với bạn đọc rộng rãi lần này, chúng tôi muốn một lần nữa khẳng định Hồ Xuân Hương “một nhà thơ kiệt xuất, một tài năng văn học độc đáo” (Lịch sử Việt Nam, tập I, UBKHXHVN, 1970), độc đáo có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Bà không chỉ được đánh giá cao ở trong nước. Chính sự đánh giá cao của nhiều người nước ngoài càng làm chúng ta thêm tự tin. R. Tago trước kia, và gần đây, nhà thơ Pháp có tên tuổi ở Châu Âu – Jăng Rixtal – trong bài Tựa bản dịch thơ Hồ Xuân Hương sang tiếng Pháp, đã coi Hồ Xuân Hương là “một trong những tên tuổi lớn của văn học Việt Nam và không chút nghi ngờ, là một trong những nữ sĩ hàng đầu của Châu Á”.

Tác phẩm của Bà quả là có sức lay động mạnh mẽ.

Mọi cuộc tranh luận về Đời Hồ Xuân Hương và Thơ Hồ Xuân Hương sẽ còn tiếp tục. Những phát hiện. tìm tòi mới về tiểu sử thân thế, thời đại, tác phẩm của bà cùng với bao nhiêu vấn đề tranh luận khác xung quanh hiện tượng xã hội văn học dân tộc độc đáo này sẽ còn tiếp tục, mãi còn tiếp tục.

Nhưng... Giờ đây quyển sách đã tới tay bạn đọc, quyền bình giá thuộc về những người say mê, mến mộ bà. Mong rằng những ý kiến đa dạng, phong phú khác nhau về tác giả và tác phẩm Hồ Xuân Hương, về Thơ và Đời của bà, được chọn lựa giới thiệu trong tập này sẽ không cản trở người đọc trong cuộc thâm nhập thế giới thơ của Bà mà quyển sách này chỉ là một cách trình bày không khỏi còn khiếm khuyết. Trong khi biên soạn, người tuyển chọn đã tham khảo nhiều công trình đi trước của các tác giả Hoàng Xuân Hãn, Trần Thanh Mại, Nguyễn Lộc, Đào Thái Tôn, Nguyễn Bỉnh Khôi; các tác giả tập thơ Hồ Xuân Hương của đồng nghiệp Vĩnh Phú và của Nhà xuất bản Văn học mới ấn hành gần đây, cùng nhiều người khác.

Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc và cảm ơn các tác giả !.

LỮ HUY NGUYÊN

----------
(1) Trong Thơ Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục (Nxb Giáo dục, H. 1993), Đào Thái Tôn đã xem Lưu hương ký như một hệ qui chiếu để chọn lọc những bài thơ Nôm truyền tụng là của Hồ Xuân Hương và đã đặt những bài thơ này trong phần đầu của phần thơ tuyển.

Nguồn: http://www.thuvien-ebook.com

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 27.10.2008 18:51:16
THƠ NÔM TRUYỀN TỤNG

TRANH TỐ NỮ
Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng.
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
Xiếu mai chi dám tình trăng gió, (1)
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh, (2)
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,
Trách người thợ vẽ khéo vô tình.
----------

(1), (2). "Xiếu mai"; (Quả mai rụng). Trong Kinh thi nói "quả mai rụng mười phần còn bảy... mười phần còn ba", ví người con gái đã muộn thì, cần có một người chồng. Câu này dùng chữ "Xiếu mai" để nói người con gái sợ lỡ thì nên chuyên tâm vào việc kén chồng, không dám nghĩ đến chuyện trăng hoa nữa. Nhưng người đẹp trong tranh thì tính sao được việc chồng con? Nên cứ đành mãi mãi giữ thân phận mỏng manh, son sẻ. (Chú thích phần thơ nôm do Nguyễn Bỉnh Khôi).
__________________
GIẾNG THƠI (1)
Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông,
Giếng tốt thanh thơi,(2) giếng lạ lùng
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông.
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá diếc le te lách giữa dòng.
Giếng ấy thanh tân ai cũng biết(3)
Đố ai dám thả nạ dòng dòng.(4)

 
(1) Giếng thơi: Giếng sâu.
(2) Thanh thơi: Trong và sâu.
(3), (4). Thả nạ dòng dòng: Tục ngữ có câu: "Dòng dòng theo nạ", nạ nghĩa là mẹ. Cái giếng trong và sâu kia, ai dám thả vào đấy một đàn "dòng dòng theo nạ"? Ví như người con gái thanh tân tươi tốt, ai cũng biết cả đấy, song ai dám cầu xin cô làm vợ để cô sẽ trở thành người mẹ quấn quít với những đứa con, vì cô cao giá quá!
__________________
BÁNH TRÔI
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.(1)
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son(2)
 
(1) Bánh trôi khi luộc trải qua chìm nổi mấy lần trong nước mới chín.
(2) Tấm lòng son: Bánh trôi khi luộc chín thì nhân đường bánh trôi ở giữa đỏ thắm như son: ví với người con gái dù có long đong ba chìm bảy nổi, vẫn giữ tấm lòng thành thực trong tình yêu.
__________________
QUẢ MÍT
Thân em như quả mít trên cây,
Vỏ nó sù sì, múi nó dày.
Quân tử có yêu thì đóng cọc,(1)
Xin đừng mân mó nhựa ra tay.
 
(1) Đóng cọc: Cọc đóng sâu vào nõ quả mít đem phơi nắng cho chóng chín.
__________________ ỐC NHỒI
Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,
Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi,
Quân tử có thương thì bóc yếm, (1)
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.

(1) Bóc yếm : Chỉ cái vẩy ốc với dụng ý lỡm.
__________________ 

ĐỒNG TIỀN HOẺN (1)
Cũng lò cũng bễ cũng be than,
Mở mặt vuông tròn với thế gian.
Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn,
Đủ đồng ắt cũng đáng nên quan. (2)

 
(1) Đồng tiền hoẻn : Đồng tiền bé, tức tiền kẽm, đơn vị nhỏ nhất trong tiền tệ của ta thời xưa.
(2) Quan : Quan tiền là đơn vị tiền lớn, thông dụng, gồm nhiều xâu tiền kẽm. Đồng kẽm nếu tính đủ số, cũng thành một quan tiền hẳn hoi.
__________________ (còn tiếp)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.10.2008 19:01:45 bởi lyenson >

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 27.10.2008 21:18:17
CÁI QUẠT (I)

Mười bảy hay là mười tám đây(1)
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay.
Mỏng dầy chừng ấy, chành ba góc
Rộng hẹp đường nào, cắm một cay.(2)
Càng nóng bao nhiêu thời càng mát,
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày.
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy.(3)
Chúa dấu vua yêu một cái này.

 
----------

(1) Mười bảy, mười tám: Số nan quạt giấy, cũng nói tuổi của thiếu nữ.
(2) Cay: Cái suốt của quạt giấy, hải đầu có mảnh kim loại (nhài quạt) hình tròn để chốt các nan lại ở hai nan cái.
(3) Cậy: Giống cây hồng, quả bé và chát, nhựa dùng để phất quạt. "Má hồng không thuốc mà say" (Cung oán ngâm khúc).
__________________
 
CÁI QUẠT (II)

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,(1)
Duyên em dính dán tự bao giờ,(2)
Chành ra ba góc da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.
Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?

----------

(1) Lỗ xâu: Các nan quạt đều có một cái lỗ để xâu bằng cái suốt.
(2) Dính dán: Cái nhài quạt chốt các nan quạt lại cho khỏi xổ, để có thể mở ra, khép vào. Dính dán ở đây có nghĩa là kết dính hoặc kết tạo, chứ không phải "dính dáng" với nghĩa liên can.
__________________
 TRỐNG THỦNG

Của em bưng bít vẫn bùi ngùi,
Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi.
Ngày vắng đập tung dăm bảy chiếc,
Đêm thanh tỏm cắc một đôi hồi.
Khi giang thẳng cánh bù khi cúi,
Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi.
Nhắn nhủ ai về thương lấy với, (1)
Thịt da ai cũng thế mà thôi. (2)
 
----------


(1), (2) Yêu và thương gắn bó với nhau. Trên cơ sở đó, Hồ Xuân Hương không ưa lối thô bạo.
__________________ 
MIẾNG TRẦU (1)

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi (2)
Này của Xuân Hương mới quệt (3) rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại (4)
Đừng xanh như lá bạc như vôi!
----------

(1) Miếng trầu: Một khẩu trầu gồm ba thành phần chính hợp lại là trầu không, cau và vôi.Vỏ (rễ) và thuốc lào là thành phần phụ gia.

(2) Trầu hôi: Lá trầu không loại xấu, nhỏ lá và có mùi hôi.

(3) Quệt: Quệt vôi vào lá trầu rồi mới têm.

(4) Cau đậu (cau kén), trầu lá to và mỡ, vôi vừa phải, khi ăn thì ăn không đỏ và miếng trầu không ngon. Nhà thơ nói, về cái hẩm hiu của duyên phận.
__________________ TÁT NƯỚC

Đang cơn nắng cực chửa mưa tè,
Rủ chị em ra tát nước khe.
Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm, (1)
Lênh đênh một ruộng bốn bờ be. (2)
Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa, (3)
Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve. (4)
Ham việc làm ăn quên cả mệt,
Dạng hang một lúc đã đầy phè.
 ----------

(1) Ba góc chụm : Nhìn nghiêng thì cái gầu dây có thể quy vào hình tam giác, khác với gầu sòng có hình thang.
(2) Bốn bờ be : Tát nước thì phải be bờ.
(3), (4). Hai câu này miêu tả rõ động tác tát nước gầu dây (giai).
__________________
 
DỆT CỬI

Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau,
Con cò (1) mấp máy suốt đêm thâu.
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
Một suốt (2) đâm ngang thích thích mau.
Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả,
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau.
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ (3)
Chờ đến ba thu mới dãi màu. (4)

----------

(1) Con cò: Con cò đặt ở trên và chính giữa khung dệt để thắng sợi, làm chuẩn mực cho cái go khỏi lệch theo.
(2) Suốt: ống suốt cuốn chỉ, nằm trong ruột con thoi để nhả sợi.
(3) Ngâm cho kỹ: Sợi vải hồ bằng nước cơm đem ngâm lâu cho bền và óng màu hồ.
(4) Chờ đến nắng hanh của ba tháng thu, nhấn nâu đem dãi nhiều lượt thì vải nhuộm mới lên màu và sẫm dần lại.
__________________


THIẾU NỮ NGỦ NGÀY

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông.
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc lỏng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long. (1)
Đôi gò Bồng Đảo (2) hương còn ngậm.
Một lạch Đào Nguyên (3) suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt.
Đi thì cũng dở ở không xong.

 
----------

(1) Nương long : Ngực. Tục ngữ có câu : “Nương long mỗi ngày mỗi cao; Má đào mỗi ngày mỗi đỏ”, nói sự phát triển của tuổi dậy thì.
(2), (3). Bồng Đảo tức Đảo Bồng Lai; Đào Nguyên: Nguồn đào, các tên riêng trong văn học và là hình ảnh vẻ đẹp thần tiên. Thành ngữ có câu : “Đẹp như tiên Non Bồng”. Hồ Xuân Hương dùng ca ngợi vẻ đẹp thanh tân của cơ thể thiếu nữ.
__________________
ĐÁNH ĐU

Bốn cột khen ai khéo khéo trồng, (1)
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông,
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân có biết xuân chăng tá. (2)
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không! (3)

----------

(1) Bốn cột: Bốn cây tre trồng làm cây đu.
(2) Chơi xuân: Cuộc vui chơi đón xuân. Biết xuân: Biết tình xuân.
(3) Cuối vụ chơi xuân, các cột đu lại nhổ đi hết, chỉ còn trơ lại các lỗ cọc và rồi người ta sẽ lấp đi. Hồ Xuân Hương chua chát nói về thói vô tâm rất đáng trách về phía nam giới.
__________________ LŨ NGẨN NGƠ (1)

Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ,
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.
 ----------

(1) Bọn học trò mới lớn, ngốc nghếch, rủ nhau kéo đàn kéo lũ đi ghẹo gái, lại tập tọng đua đòi vần vè ví von, nên Hồ Xuân Hương lấy làm khó chịu mà viết bài thơ này.
__________________


PHƯỜNG LÒI TÓI (1)

Dắt díu nhau lên đến cửa chiền,
Cũng đòi học nói nói không nên.
Ai về nhắn bảo phường lòi tói.
Muốn sống đem vôi quét trả đền !

 
----------

(1) Lòi tói : Dây sắt gồm nhiều vòng móc vào nhau. Trong cách chấm thơ văn xưa thường là khuyên và sổ, song cũng có lúc đùa mà khuyên móc xích nhiều vòng gọi là khuyên lòi tói khi gặp những đoạn văn viết bạt mạng, ẩu xị. Bọn học trò mới lớn kéo nhau đi vãn cảnh chùa. Hồ Xuân Hương không chịu nổi việc đó nên nặng lời quở trách.
__________________ (còn tiếp)

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 28.10.2008 07:36:54
XƯỚNG HỌA VỚI CHIÊU HỔ (1)
 
XƯỚNG (I)

Anh đồ tỉnh, anh đồ say.
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày ?
Này này chị bảo cho mà biết.
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay.
 
CHIÊU HỔ HỌA LẠI

Này ông tỉnh ! Này ông say !
Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày !
Hang hùm ví bẵng (2) không ai mó,
Sao có hùm con bỗng (3) tróc tay ?
 
----------

(1) Cuộc xướng họa giữa Hồ Xuân Hương và Chiêu Hổ thực là không tiền khoáng hậu trong lịch sử văn chương của ta. Sức trẻ và tình yêu sự sống, văn tài và cá tính, lối nói toạc móng heo, không úp mở bóng gió nhiều, không dùng biểu tượng hai mặt, ít tử vận (vần chết không họa được) mà chỉ có lộng ngữ (bỡn chữ). Chỉ có ba bài thơ mà đã đi thẳng vào dân chúng và từ lâu đã nảy sinh nhiều giai thoại. Cả đôi bạn đều cân xứng về tài nghệ thơ Nôm, và cũng thật tri âm, tri kỷ, không có một chút gì ngăn cách giữa đôi bạn thanh niên nam nữ.

(2) Ví bẵng tức ví bằng, đọc theo âm trắc của thơ.

(3) Bỗng tức là bồng, đọc theo âm trắc của thơ, mới đúng âm luật.
__________________
 
XƯỚNG (II)

Sao nói rằng năm lại có ba ?
Trách người quân tử hẹn sai ra.
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt,
Nhớ hái cho xin nắm lá đa. (1)

CHIÊU HỔ HỌA LẠI

Rằng gián thì năm, quí có ba (2)
Bởi người thục nữ tính không ra.
Ừ rồi, thong thả lên chơi nguyệt
Cho cả cành đa lẫn củ đa.
 
----------

(1) Huyền thoại nói : Trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc. Cuội còn là một nhân vật trong truyện cổ dân gian có đặc tính đã trở thành thành ngữ “Nói dối như Cuội”. Ở đây nhắc chuyện lên chơi cung trăng và Chiêu Hổ sẽ cho Xuân Hương nắm lá đa, có ý nói Chiêu Hổ cũng chẳng khác gì Cuội “nói Cuội”.

(2) Tiền gián ăn 36 đồng kẽm. Tiền quý ăn 60. Như vậy 5 đồng gián hay 3 đồng quý đều bằng 180 đồng kẽm. Có thể cách hỏi vay của Hồ Xuân Hương với Chiêu Hổ không giao hẹn rõ ràng, cũng có thể cách trả lời chỉ là chữa khéo của Chiêu Hổ.
__________________
 
XƯỚNG (III)

Những bấy lâu nay luống nhắn nhe.
Nhắn nhe toan những sự gùn ghè (1)
Gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám
Chưa dám cho nên phải rụt rè.


CHIÊU HỔ HỌA LẠI


Hỡi hỡi cô bay tố hão nhe (2),
Hão nhe không được, gậy ông ghè.
Ông ghè không được, ông ghè mãi,
Ghè mãi rồi lâu cũng phải rè.
 
----------

(1) Gùn ghè : gạ gẫm.

(2) Tố hão : Cáo tố hão huyền. Chúng tôi ghi theo Hồ Xuân Hương, giai thoại thơ, của Sở Văn hóa Vĩnh Phú – 1989.

Hai chữ này gắn với cách đá đáp của hai bài họa, khác với nhiều bản vẫn chép là “tới bảo”.
__________________


lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 28.10.2008 12:38:09
THƠ NÔM TRUYỀN TỤNG (tt)
 
KHÔNG CHỒNG MÀ CHỬA

Cả nể cho nên hoá dở dang,
Nỗi niềm nàng có biết chăng chàng.
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc, (1)
Phận liễu sao đà nảy nét ngang. (2)
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa? (3)
Mảnh tình một khối thiếp xin mang. (4)
Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
Không có, nhưng mà có, mới ngoan! (5)
----------

(1), (2) ở đây, dùng lối chơi chữ Hán. Chữ Thiên là trời nhô đầu lên thì thành chữ Phu là chồng; chữ Liễu là rõ hoặc hết, đồng âm với cây liễu chỉ người con gái, nếu thêm một nét ngang thì thành chữ Tử là con. Hai câu này ý nói: Gái chưa chồng mà sao đã có con trong bụng?

(3), (4) Tình và nghĩa gắn liền đặc tính truyền thống của ta. Hồ Xuân Hương nhấn mạng cái nghĩa, cái trách nhiệm mà người đàn ông nào đó thường vô tâm trước hậu quả để lại cho người phụ nữ.

(5) Tác giả đứng về phía người con gái mà dùng ý một câu ca dao:


"Không chồng mà chửa mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian sự thường!"

__________________
DỖ NGƯỜI ĐÀN BÀ KHÓC CHỒNG
 


Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng
Nín đi kẻo thẹn với non sông.
Ai về nhắn nhủ đàn em bé,
Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung (1)

----------

(1) Tục ngữ có câu: "Xấu máu đừng thèm ăn của độc" Khem: ăn kiêng khi mới ở cữ nên thường nói kiêng khem hoặc kiêng cữ. Miếng đỉnh chung: của ngon vật lạ thường có ở những nơi quyền quí cao sang. ý cả câu: Nếu đã xấu máu mà gặp phải của ngon vật lạ có thèm quá không nhịn được thì dùng ít thôi! Dỗ dành khuyên nhủ và nói bỡn.
__________________
 
BỠN BÀ LANG KHÓC CHỒNG

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì
Thương chồng nên khóc tỉ tì ti.
Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo (1)
Cay đắng chàng ơi vị quế chi. (2)
Thạch nhũ, trần bì sao để lại, (3)
Quy thân, liên nhục tẩm mang đi. (4)
Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ? (5)
Sinh ký chàng ơi! Tử tắc quy. (6)
----------

(1) Cam thảo: Cỏ ngọt, tên vị thuốc ta.
(2) Quế chi: Cành quế vị cay, tên thuốc ta.
(3), (4) Thạch nhũ nghĩa đen là vú đá; Trần bì: vỏ quít khô, đều dùng làm thuốc. Quy thân: Vị đương quy có ba phần: đầu, thân và đuôi, có tính dược khác nhau; quy thân là phần củ của đương quy. Liên nhục: Hạt sen, cũng dùng làm thuốc; Vì ông chồng là lang thuốc nên tác giả dùng những tên vị thuốc. ý hai câu: Giờ thì kẻ mất người còn, "của anh anh mang, của nàng nàng xách". Bỡn cợt bà lang là ở hai câu này.
(5), (6) Dao cầu: Dao dùng riêng trong nghề thuốc, tác dụng thái thuốc mạnh và nhanh hơn dao thường. Sinh ký tử quy: Sống gửi thác về.

Ở đây tác giả vận dụng linh hoạt thành ngữ này. Người phụ nữ goá trẻ này nếu không ở vậy được mà phải qua hai lần đò "thì kỷ vật này sẽ trao lại cho ai? Chàng ơi! Trong cuộc sống tạm bợ này, chỉ có lúc chết đi thì mới có thể về nơi ở mãi mãi cùng chàng được".
__________________
CÁI NỢ CHỒNG CON

Hỡi chị em ơi có biết không?
Một bên con khóc một bên chồng.
Bố cu lổm ngổm bò trên bụng,
Thằng bé hu hơ khóc dưới hông.
Tất cả những là thu với vén, (1)
Vội vàng nào những bống cùng bông (2)
Chồng con cái nợ là như thế,
Hỡi chị em ơi có biết không?
----------

(1), (2) Duyên đi đôi với nợ, phần gánh chịu thường rơi vào người phụ nữ. Có hạnh phúc thì có hy sinh mà các thiếu nữ cần biết rõ sự thể.

Ở đây Hồ Xuân Hương muốn nói đến tài đảm đang của người vợ một con. Tất cả đều tất bật vội vàng : vừa chăm lo cho con mọn vừa chăm lo thu vén việc nhà. Ca dao :

“Có chồng chẳng được đi đâu
Có con chẳng được đứng lâu nửa giờ.”
__________________
LÀM LẼ

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
Năm thì mười hoạ chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không.
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm, (1)
Cầm bằng làm mướn, mướn không công. (2)
Thân này ví biết dường này nhỉ (3)
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
----------

(1), (2) Vận dụng các thành ngữ "Cố đấm ăn xôi", "Làm mướn không công".
(3) Dường này: nông nổi cụ thể ra đến thế này.
__________________ 

KHÓC TỔNG CÓC

Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi.
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé, (1)
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi! (2)

----------

(1), (2) "Đứt đuôi nòng nọc", thành ngữ chỉ sự cắt đứt hẳn; "Cóc bôi vôi lại về": Bôi vôi để đánh dấu vào cóc, thì cóc đi đâu rồi cũng lại trở về. Nhưng nay duyên vợ chồng đã đứt hẳn. Cóc đi đã đem theo cả dấu vôi, dẫu có nghìn vàng cũng không chuộc lại được vì mất Cóc là mất luôn cả dấu.

Theo cụ Dương Văn Thâm sưu tầm tài liệu về giai thoại thơ Hồ Xuân Hương (tài liệu đã dẫn) thì Hồ Xuân Hương làm bài Khóc tổng Cóc trong thời gian đã lấy ông phủ Vĩnh Tường. Do sự rẽ duyên của người vợ cả và gia đình họ hàng nhà Cóc, nên Hồ Xuân Hương mới đưa cả họ hàng nhà Cóc vào bài thơ để giễu: nhái bén, chẫu chàng, nòng nọc, chẫu chuộc, tất nhiên là giễu một Tổng Cóc còn sống, chứ không phải là khóc khi Tổng Cóc chết, như bấy nay có người hiểu, e rằng bất nhẫn.
__________________ KHÓC ÔNG PHỦ VĨNH TƯỜNG

Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi! (1)
Cái nợ ba sinh đã trả rồi (2)
Chôn chặt văn chương ba thước đất (3)
Tung hê hồ thỉ bốn phương trời. (4)
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất? (5)
Miệng túi tàn khôn khép lại rồi. (6)
Hăm bảy tháng trời đà mấy chốc. (7)
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi!
----------

(1) Vĩnh Tường: Phủ Vĩnh Tường, thuộc tỉnh Vĩnh Yên. Nhiều giai thoại đều thống nhất về việc Hồ Xuân Hương có lấy lẽ ông phủ Vĩnh Tường.

(2) Nợ ba sinh: Nhân duyên vợ chồng trải qua ba kiếp; sống là một sự trả nợ lẫn nhau (theo Phật giáo). Nợ ba sinh đã trả tức là chỉ người chồng đã chết.

(3), (4) Ông phủ Vĩnh Tường là một người có học vấn (văn chương) nay mất đi, Hồ Xuân Hương mất một người chồng và cũng mất luôn cả một người bạn văn chương. Hồ thỉ: cung và tên, tượng trưng cho chí nam nhi hoặc chí làm trai vốn ở bốn phương trời, không chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình vợ con.

(5), (6) Ông trời là người cầm cân nảy mực đã ở chẳng công bằng, cán cân của ông đã đánh rơi. Càn khôn tức trời đất ví như một cái túi lớn đã khép hẳn lại. Ông Phủ đã đi sang một thế giới khác.

(7) Hồ Xuân Hương sống với chồng trong một thời gian quá ngắn: 27 tháng.
__________________
 



 
 

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 28.10.2008 18:23:28

TỰ TÌNH (I)

Chiếc bách (1) buồn về phận nổi nênh,
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng, (2)
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh. (3)
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến, (4)
Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh. (5)
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy, (6)
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh! (7)

----------

(1) Chiếc bách : Chiếc thuyền gỗ bách trong văn học gợi hình ảnh tâm trạng một người hóa trẻ với bài thơ Bách chu trong Cổ thi.

(2), (3) Tình và nghĩa vẫn đương còn chan hòa dào dạt. Sóng gió vẫn cứ đe dọa liên tiếp vỗ vào bên ngoài mạn thuyền. Tâm trạng chung của bốn câu đếu là buồn rầu ngao ngán cho thân phận.

(4), (5) Dự định của ai lăm le cầm lái để đưa thuyền đậu vào bến, cũng như kẻ rắp tâm dong lèo để cho cánh buồm vượt qua ghềnh thác mà trôi xuôi cũng thây mặc, vì nhà thơ không quan thiết.

(6), (7) Còn ai nữa là người sẽ tìm đến với mình (thăm ván)? Nếu việc ấy xảy ra thì cũng cam lòng. Mặc dầu cũng chẳng hay gì với chuyện tập tễnh ôm đàn sang thuyền người khác, song tình thế cũng không thể khác được.

Cổ thi có câu : “Khẳng bà tỳ bà quá biệt thuyền”, nghĩa là không chịu ôm đàn tỳ bà sang thuyền người khác, để nói chuyện không chịu lấy chồng khác. Tục ngữ “Thăm ván bán thuyền” ở đây vận dụng chỉ có nghĩa là “người mới”, không giữ ý “có mới nới cũ”.
__________________
TỰ TÌNH (II)

Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom (1)
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không khua mà cũng cốc. (2)
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om (3)?
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom! (4)
----------

(1) Bom: Mỏm đất.

(2), (3) Mõ và chuông dùng trong nhà chùa có tác dụng làm nguôi dịu lòng người. ở đây nhà thơ vận dụng khác. Mõ thảm, chuông sầu: Tiếng lòng sầu thảm trong đêm khuya vắng lặng không khua không đánh mà vẫn vang lên dữ dội những âm thanh khô khốc, ầm ĩ, cốc như mõ và om như chuông.

(4) Già tom: Như già đanh. Tục ngữ: "Trẻ dôi ra, già co lại".
__________________ 

TỰ TÌNH (III)

Canh khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn!
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con! (1)

----------

(1) Bài “Tự tình” thứ ba này như thu lòng mình lại : Xinh, nhẹ, dịu, êm. Các chữ hương, xuân như nhắc đến tên mình một cách thân thương, trìu mến, như trễ nải, như chếch mác, buông lơi. Hồn thơ, chất thơ Hồ Xuân Hương lan tỏa khắp toàn bài.
__________________

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 29.10.2008 07:08:21

QUAN THỊ

Mười hai Bà Mụ (1) ghét chi nhau
Đem cái xuân tình vứt ở đâu ? (2)
Rúc rích thây cha con chuột nhắt, (3)
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu. (4)
Đố ai biết đó vông hay trốc (5)
Còn kẻ nào hay cuống với đầu (6)
Đã thế thì thôi, thôi mặc thế.
Trăm năm càng khỏi tiếng nương dâu. (7)

----------

(1), (2) Mười hai Bà Mụ : Thần thoại: Nữ thần đã nặn ra hình đứa bé sơ sinh và trông nom săn sóc nó cho đến năm 12 tuổi. tục lệ cũ ở ta đứa trẻ đầy tuổi tôi thì cúng Mụ. Câu này nói có sự bất hoà giữa mười hai Bà Mụ, nên đứa bé bẩm sinh đã không có sinh thực khí. Từ đây đưa đến đầu bài thơ là Quan thị: bọn hoạn quan, đám quan hầu hạ nhà Chúa thời bấy giờ.

(3), (4) Các câu ca dao tiếu lâm đã được nhà thơ vận dụng: “Con gái mười bảy mười ba; Đêm nằm với mẹ chuột tha mất đồ”. – “Bà cốt đánh trống long tong; Nhảy lên nhảy xuống con ong đốt đồ”.

(5), (6) Các câu tục ngữ được nhắc đến: “Ngồi lá vông, chổng mông lá trốc”. – “Đầu trở xuống, cuống trở lên”.

(7) Nương dâu: do thành ngữ “Trên bộc trong dâu” chỉ thói dâm ô. “Ra tuồng trên bộc trong dâu; Thì con người ấy ai cầu làm chi” (Truyện Kiều). Đã là quan thị rồi thì khỏi mang tiếng ấy.
__________________
 
SƯ BỊ ONG CHÂM

Nào nón tu lờ, nào mũ thâm,
Đi đâu chẳng đội để ong châm?
Đầu sư há phải gì... bà cốt, (1)
Bá ngọ con ong bé cái nhầm. (2)
----------

(1), (2) Vận dụng câu ca dao tiếu lâm đã nhắc đến trong câu thứ 4 bài Quan thị.
__________________ CÁI KIẾP TU HÀNH (1)

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Vị gì một chút tẻo tèo teo.
Buồm từ cũng muốn về Tây Trúc, (2)
Trái gió cho nên phải lộn lèo.
----------

(1) Bài này nói về một nhà sư phá giới.

(2) Xưa người ta gọi nước Ấn Độ là Tây Trúc, quê hương của Phật giáo.
__________________ SƯ HỔ MANG

Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta,
Đầu thì trọc lốc, áo không tà.
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm,
Vãi núp sau lưng sáu bảy bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ,
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
Tu lâu có lẽ lên Sư cụ, (1)
Ngất nghểu toà sen nọ đó mà.
----------

(1) Sư cụ: Chủ nhân một ngôi chùa, người có uy tín và cao tuổi hơn cả chỉ có mặt trong các buổi lễ trọng của nhà chùa.
__________________ ĐÁ ÔNG CHỒNG BÀ CHỒNG (1)

Khéo khéo bày trò tạo hoá công,
Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng.
Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc,
Thớt dưới sương pha đượm má hồng.
Gan nghĩa dãi ra cùng nhật nguyệt,
Khối tình cọ mãi với non sông.
Đá kia còn biết xuân già giặn, (2)
Chả trách người ta lúc trẻ trung.
----------

(1) Hiện vẫn chưa rõ xuất xứ của đá, chỉ mới nghe truyền ngôn.

(2) Xuân già giặn, có nghĩa là già giặn tình xuân. Hồ Xuân Hương tỏ ra rất rộng lượng với tuổi trẻ.
__________________ ĐÀI KHÁN XUÂN

Êm ái chiều xuân (1) tới khán đài, (2)
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai!
Ba hồi triêu mộ chuông gầm sóng, (3)
Một vũng tang thương nước lộn trời. (4)
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn,
Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi.
Nào nào cực lạc là đâu tá, (5)
Cực lạc là đây chín rõ mười. (6)
----------

(1) Chiếu xuân: Vẻ xuân.

(2) Khán đài: Trong trại Bách Thảo có một ngôi điện gọi là điện Khán Xuân. Khoảng năm 1916 còn quả núi Khán Sơn hai chỏm. Từ Khán Sơn đến Xuân Sơn hẳn là xóm Khán Xuân đầy thi vị của mạn Hồ Tây, Hà Nội. (Theo Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội của Hoàng Đạo Thuý – Hội Văn nghệ Hà Nội – 1971).

(3), (4) Triêu mộ: Sớm chiều. Tang thương: Dâu bể. Theo nhà thơ Xuân Diệu thì “Hồ Xuân Hương là trong thơ có người, trong thơ có tiên, và trong thơ có quỷ. Tiên là những lúc…” như bốn câu đầu của bài thơ này.

(5), (6) Ca ngợi cực lạc không chỉ ở cõi Nát Bàn, mà ở ngay trong cuộc sống trần gian là một đặc điểm của chủ nghĩa nhân đạo thế kỷ 18 và nửa đầu 19 của văn học truyền thống.
__________________ CHÙA QUÁN SỨ

Quán Sứ (1) sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày kình (2), tiểu để suông không đấm,
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo.
Sáng banh không kẻ khua tang mít (3),
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu.
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo!
----------

(1) Chùa Quán Sứ: Thời cuối Lê -Trịnh thuộc huyện Thọ Xương. Bây giờ ở phố Quán Sứ, Hà Nội.

(2) Chày kình: Chày tạc hình con cá kình bằng gỗ, thay cho vồ đánh chuông.

(3) Tang mít: Tang trống làm bằng gỗ mít.
__________________ ĐỀN SẦM NGHI ĐỐNG (1)

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đến thái thú(2) đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!
----------

(1) Đền Sầm Nghi Đống trước ở ngõ Sầm Công nay là phố Đào Duy Từ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Sầm Nghi Đống là tướng theo Tôn Sĩ Nghị sang ta chiếm đóng thủ đô Đông Kinh (Thăng Long). Nghị bị vua Quang Trung đánh đuổi về Tàu năm 1789. Sầm Nghi Đống chạy không kịp, thắt cổ tự tử ở nơi mà sau khi quan hệ bang giao đã trở lại bình thường vua Quang Trung cho phép Hoa kiều ở Hà Nội lập đền thờ.

(2)Thái thú: Đống làm tri huyện, khi sang Đông Đô được Tôn Sĩ Nghị cho làm chức thái thú.
__________________ ĐỘNG HƯƠNG TÍCH (1)

Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm (2)
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hòm.
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót, (3)
Con thuyền vô trạo cúi lom khom. (4)
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại, (5)
Rõ khéo trời già đến dở dom.
----------

(1) Động Hương Tích: Động chính của chùa Hương trước thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông, nay là huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây.

(2) Khéo phòm: Như khéo phạm, thật là khéo!

(3) Giọt nước... rơi: Các thạch nhũ trên cửa động luôn từng giọt rỏ xuống.

(4) Vòm động có những chạm vẽ của thiên nhiên được hình dung ra cảnh trí như mặt trăng, con thuyền v.v... Vô trạo: Không có bơi chèo.

(5) Nơi rừng suối (lâm tuyền) mà cuốn hút lại đây cả một cảnh phồn hoa đô hội.
__________________ 

CHỢ TRỜI CHÙA THẦY (1)

Hoá công xây đá đắp bao đời,
Nọ cảnh Sài Sơn (2) có chợ Trời.
Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng,
Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.
Bày hàng hoa quả tư mùa sẵn,
Mở phố giang sơn bốn mặt ngồi.
Bán lợi mua danh nào những kẻ
Chẳng lên mặc cả một đôi lời?

----------

(1) Chợ Trời chùa Thầy, hay còn gọi là chợ Trời Sài Sơn cũng như chợ Trời Hương Tích, đều do các phiến đá sắp đặt của thiên nhiên trên một chóp núi được hình dung như một cái chợ của người ta. Với con mắt nhà thơ thì cảnh quan thiên nhiên của chợ Trời chùa Thày rất là kỳ thú.

(2) Sài Sơn: Núi Sài Sơn có chùa Thầy, ở huyện Sài Sơn, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc tỉnh Hà Tây.
__________________

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 29.10.2008 18:45:08
HANG THÁNH HOÁ (1)

Khen thay con tạo khéo khôn phàm, (2)
Một đố giương ra biết mấy ngoàm. (3)
Lườn đá cỏ leo sở rậm rạp,
Lách khe nước rỉ mó lam nham.
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ,
Hai tiểu lưng tròn đứng giữa am.
Đến mới biết là hang Thánh Hoá,
Chồn chân mỏi gối vẫn còn ham!

----------

(1) Tên cái hang trong chùa Thầy. Truyền rằng Từ Đạo Hạnh đã hoá ở đây nên gọi là Thánh Hoá.

(2) Khôn phàm: Như khôn phạm.

(3) Đố ngoàm: Thành ngữ "ngoàm nào đố ấy" nói về cách kiến trúc nhà ở xưa : Một mảnh đố tre thì ngoạm tre; đố gỗ thì ngoàm gỗ. Một đố nhiều ngoàm ở đây nói về cấu tạo hang động tự nhiên. Nếu coi cả vách động là một đố, thì vòm động với các hõm to, nhỏ là những ngoàm.
__________________
 
HANG CẮC CỚ (1)

Trời đất sinh ra đá một chòm,
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom.
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,
Con đường vô ngạn (2) tối om om.
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc (3)
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm!
----------

(1) Tên một cái hang ở trong chùa Thầy. Ca dao có câu: "Hội chùa Thầy có hang Cắc Cớ; Trai chưa vợ thì đến hội này".

(2) Vô ngạn: Không có thành bờ tay vịn.

(3) Xuyên tạc: Xoi và đục thông qua đá.
__________________ KẼM TRỐNG (1)

Hai bên thì núi giữa thì sông.
Có phải đây là Kẽm Trống Không?
Gió giật sườn non khua lắc cắc,
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.
Ở trong hang núi còn hơi hẹp,
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng.
Qua cửa mình ơi! Nên ngắm lại, (2)
Nào ai có biết nỗi bưng bồng. (3)
----------

(1) Kẽm Trống ở huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, nay thuộc Nam Hà. Kẽm: Hẻm giữa hai sường núi dốc, giữa có lối đi.

(2), (3) Bồng: Tên một thứ trống. Trong lễ hội xưa có điệu múa trống gọi là múa con đĩ (gái) đánh bồng.
__________________ QUÁN KHÁNH (1)

Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo, (2)
Đường đi thiên thẹo quán cheo leo.
Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác,
Xo kẽ kèo tre đốt khẳng kheo. (3)
Ba chạc cây xanh hình uốn éo,
Một dòng nước biếc cành leo teo.
Thú vui quên cả niềm lo cũ,
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
----------

(1) Quán Khánh: Các công trình nghiên cứu và các văn bản có chú thích đều thống nhất ghi là ở tỉnh Thanh Hoá, song chưa rõ huyện nào.

(2) Hắt heo: Âm chính xác là hắt hiu.

(3) Khẳng kheo: Âm chính xác là khẳng khiu.
__________________ ĐÈO BA DỘI (1)

Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa con đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.
----------

(1) Đèo Ba Dội hay Ba đèo tên chữ là đèo Tam Điệp, thuộc huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Không phải Đèo Ngang như có sách đã nhầm.
__________________ CẢNH CHÙA BAN ĐÊM

Tình cảnh ấy, nước non này,
Dẫu không Bồng Đảo cũng Tiên đây,
Hành Sơn (1) mực điểm đôi hàng nhạn, (2)
Thức Lĩnh (3) đen trùm một thức mây.
Lấp ló đầu non vừng nguyệt chếch,
Phất phơ sườn núi lá thu bay,
Hỡi người quân tử đi đâu đó,
Thấy cảnh sao mà đứng lượm tay. (4)
----------

(1) Hành Sơn : Tên một ngôi chùa lớn của tỉnh Hàng Châu (Trung Quốc).

(2) Đôi hàng nhạn : Nhạn, quạ, hoa sen v.v… được coi như các biểu trưng của nhà Phật. Chim nhạn chắp cánh thành hai hàng để trang trí trên mái chùa, tương tự như lưỡng long triều nguyệt ở các mái đình, đến v.v…

(3) Thứu Lĩnh : Còn gọi là núi Linh Thứu ở Ấn Độ nơi thường ở của Phật Tổ lúc sinh thời.

(4) Lượm tay : Lòng bàn tay phải áp vào nắm tay trái đặt trước ngực, một nghi thức cung kính (khác với chắp tay là hai lòng bàn tay ấp vào nhau đặt trước ngực). Trước cảnh đẹp thiên thần như vậy, mà người quân tử đầu óc cứ rỗng tuếch.
__________________ CẢNH THU

Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ, (1)
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn say chấp rượu, (2)
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ (3)
Ô hay! Cảnh cũng ưa người nhỉ,
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.
----------

Có sách gán cho Bà huyện Thanh Quan. Ở văn bản Landes 1893, bài thơ này không có đầu đề. Câu thứ hai là 'Đố ai vẽ được cảnh tiếu sơ' và có lời dẫn: "Ngày xưa Xuân Hương đi chơi gặp mưa, vào chơi thăm làng Văn Giáp, thấy có một chùa xưa, Xuân Hương và chùa lậy Phật, rồi đi xem ngoài chùa. Thấy bên chùa có cây đa. Ngửng lên xem thì cao ngút không biết tới đâu, cho nên làm bài thơ này (cây đa này đến này còn)". Ở bản Đông châu 1917, có lời dẫn: "Một ngày kia đang mùa quý thu, giời lún phún dăm ba hạt mưa, hơi ngăm ngăm rét, quan phủ nhân vô sự, mới sai bày cuộc rượu, cho gọi cô hai ra cùng ngồi uống rượu để vịnh thơ. Xuân Hương vâng lời ra ngồi hầu rượu để vịnh thơ. Xuân Hương vâng lời ra ngồi hầu rượu.Đương khi chén quỳnh đầu vơi, chiều thu hiu hắt, quan phủ liền bảo Xuân Hương vịnh bài tức cảnh. Thơ rằng..."

(1) Tiêu sơ : Cảnh sắc sơ sài mà thanh nhã.

(2), (3) Chất men say của bầu non sông dốc cạn vào tâm hồn nữ sĩ còn say hơn rượu nhiều, không cần phải mượn rượu để tăng cảm xúc nữa. Non sông là bầu rượu lớn của nhà thơ.

Túi thơ : Túi bằng lục đựng những mảnh giấy ghi lại những tứ thơ hoặc bài thơ của tác giả. Túi thơ tuy nhẹ và tư liệu đựng cũng không đầy, song tình thơ chất chứa trong đó ghi lại cảnh vật gió trăng của thiên nhiên thì nặng : Nhà thơ nặng tình với cảnh đẹp thiên nhiên cần phải ghi lại bằng nhu74nh tứ thơ, câu thơ, bài thơ tuyệt tác.
__________________
TRĂNG THU

Một trái trăng thu chín mõm mòm,
Nảy vừng quế đỏ (1) đỏ lòm lom!
Giữa in chiếc bích (2) khuôn còn méo,
Ngoài khép đôi cung (3) cánh vẫn khòm.
Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,
Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom. (4)
Hỡi người bẻ quế (5) rằng ai đó,
Đó có Hằng Nga (6) ghé mắt dòm.
----------

(1) Quế đỏ: Huyền thoại nói trong mặt trăng có cây quế đỏ.

(2) Chiếc bích: Chiếc ngọc bích hình tròn dẹt, giữa có lỗ, người ta gọi mặt trăng là bích nguyệt.

(3) Người ta thường ví đường cong của mặt trăng như người tráng sĩ giương cánh cung.

(4) Ca dao: "Thằng Cuội ngồi gốc cây đa; Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời..." ở đây vì tức tối nên thằng Cuội không ngồi mà đứng.

(5) Bẻ cành quế đỏ (đan quế) trên cung trăng, chỉ người thi đỗ tiến sĩ.

(6) Hằng Nga: Huyền thoại nói Hằng Nga vợ Hậu Nghệ ăn trộm thuốc tiên của chồng do bà Tây Vương mẫu cho, rồi một mình trốn lên ở cung trăng.
__________________ HỎI TRĂNG

Mấy vạn năm nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?
Hỏi con Ngọc Thỏ đà bao tuổi? (1)
Chứ chị Hằng Nga đã mấy con?
Đêm vắng cớ chi phô tuyết trắng?
Ngày xanh sao lại thẹn vừng son? (2)
Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
Hay có tình riêng với nước non?

----------

(1) Ngọc Thỏ: Huyền thoại nói trên mặt trăng có con Thỏ Ngọc ngồi giã thuốc trường sinh.

(2) Vừng son: Chỉ mặt trời.
__________________

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 30.10.2008 06:22:48
CÂU ĐỐI LƯU TRUYỀN (1)
 
* Tối ba mươi khép cánh kiền khôn, ních chặt lại kẻo ma vương bồng qủy tới.

Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ đón xuân vào.


* Khéo khen ai, đẽo đá chênh vênh, tra hom ngược để đơm người đế bá.

Gớm con tạo, lừa cơ tem hẻm, rút nút xuôi cho lọt khách cổ kim.


* Mặc áo giáp, dải cài chư đinh; mậu, kỷ, canh, khoe mình rằng quý.

Làm đĩ càn, tai đeo hạt khảm; tốn, ly, đoài khéo nói rằng khôn.


*Thị vào chầu, thị đứng thị xem, thị thấy thèm thị không có ấy. (Thị: quan thị).

Vũ cậy mạnh, vũ ra vũ múa, vũ mắc mưu vũ ướt cả lông. (Vũ: quan võ).

----------

(1) Chúng tôi chọn mấy câu đối này, nhưng không rõ vế nào của Hồ Xuân Hương, vế nào của người khác, vì giai thoại truyền lại có khác nhau.
__________________

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 31.10.2008 17:05:13
LƯU HƯƠNG KÝ
 
Lưu hương ký mới được phát hiện từ năn 1964, bao gồm thơ chữ Hán và chữ Nôm, đầu đề ghi là của Xuân Hương, người Nghệ An, sáng tác ở Cổ Nguyệt đường. Tập thơ ghi lại tâm sự và tình cảm của tác giả với các bạn trai của mình, như Tốn Phong Thị, Hiệp trấn Sơn Nam Thượng họ Trần; Mai Sơn Phủ; Chí Hiên; đặc biệt còn có cố nhân của nữ sĩ họ Hồ là Cần chánh học sĩ Nguyễng hâu, tức đại thi hào Nguyễn Du. Tình cảm thắm thiết, táo bạo, nghệ thuật già dặn. Phong cách thơ trong Lưu hương ký có gì không thật ăn khớp với phong cách những bài thơ Nôm vốn đã được truyền tụng lâu nay của bà.

Ý kiến của các nhà nghiên cứu có phần bị phân rẽ về việc xác định tác giả đích thực của Lưu hương ký. Tuy vậy, ngày càng có nhiều người khẳng định tác giả Lưu hương ký không thể ai khác ngoài Hồ Xuân Hương. (1)

Các bài dịch từ văn bản chữ Hán trong phần này là của các ông Hoàng Xuân Hãn, Trần Thanh Mại, Đào Thái Tôn, Nguyễn Lộc… Bài Tựa tập thơ Lưu hương ký của Tốn Phong Thị, chúng tôi xin giới thiệu ở một phần dưới cho bố cục tập sách được thống nhất.

----------

(1) Xem Đào Thái Tôn: Thơ Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục (Nxb Giáo dục. H. 1993).
__________________


NGỤ Ý TỐN PHONG (1),
KÝ NHỊ THỦ (*)

I

Chồn bước may đâu khéo hẹn hò
Duyên chi hay bởi nợ chi ru?
Sương xoa áo lục nhồi hơi xạ,
Gió lọt cành lê lướt mặt hồ.
Muốn chắp chỉ đào theu trướng gấm,
Mà đem là thắm thả dòng Tô.
Trong trần mấy kẻ tinh con mắt
Biết ngọc mà trao mới kể cho.

----------

(*) Hai bài ngụ ý gửi Tốn Phong Thị.

(1) Chưa rõ Tốn Phong Thị là ai? Theo bài tựa, ông họ Phan. Còn tên, có lẽ là Huân, nghĩa là “Nam Phong” (gió Nam), cũng gọi là Tốn Phong. Nham Giác là tên hiệu. Nham Giác phu là “anh chàng ẩn ở núi nhưng hiểu sự đời”.
__________________
 




II





Đường hoa dìu dặt bước đông phong
Nghĩ kẻ tìm thơm cũng có công.
Lạ mặt dán quen cùng gió nước,
Nặng lòng nên nhẹ đến non sông.
Da trời nắng nhuôm tười màu biếc,
Phòng gấm trăng in dãi thức hồng.
Ai nhớ lấy cho lòng ấy nhỉ,
Trước trăm năm hẳn nợ chi không?

<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.10.2008 17:08:22 bởi lyenson >

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 01.11.2008 09:34:50
TỐN PHONG ĐẮC MỘNG CHI
DỮ NGÃ KHAN NHÂN
THUẬT NGÂM TỊNH KÝ
(*)

Nhớ ai mà biết nói cùng ai
Rằng chữ đồng ta quyết một hai.
Hoa liễu vui đâu mình dễ khéo,
Non sông đành giả nợ còn dài.
Chén tình dầu nhẫn lâu mà nhạt
Giải ước nguyền âu thắm chẳng phai.
Đày đoạ duyên trần thôi đã định.
Xương giang duềnh để ngắm tương lai.

----------

(*) Tốn Phong Thị nằm mộng ghi lại mang cho xem, nhân đó ghi, thuật lại bằng thơ.

Xin lưu ý bạn đọc, trong Lưu hương ký, các bài thơ Nôm lại có đầu đề bằng chữ Hán.
__________________
 HỌA TỐN PHONG NGUYÊN VẬN (1)



Kiếp này chẳng gặp nữa thì liều,
Những chắc trăm năm há bấy nhiêu.
Nghĩ lại huống đau cho phận bạc,
Nói ra thêm nhẹ với thân bèo.
Chén thề thủa nọ tay còn dính,
Món tóc thời xưa cánh vẫn đeo.
Được lứa tài tình cho xứng đáng,
Nghìn non muôn nước cũng tìm theo.

----------

(1) Hoạ nguyên vần thơ ông Tốn Phong.
__________________

<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.11.2008 09:56:07 bởi lyenson >

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 02.11.2008 08:34:23
TẶNG TỐN PHONG TỬ (*)
(Họa vận tại hậu)
Bướm ong mừng đã mấy phen nay,
Hồng nhạn xin đưa ba chữ lại;
Dám đâu mưa gió giở bàn tay,
Những sự ba đào xeo tấc lưỡi,
Nam Bắc xa xa mấy dặm đây,
Hải sơn ước để ngàn năm mãi,
Bức tranh khôn vẽ tấm lòng ngay.
Tơ nguyệt rày xe ba mối lại,
Hỏi khách đa tình nhỏ có hay.
Năm canh hồn bướm thêm bơ bải

----------

(*) Tặng chàng Tốn Phong. Dưới đầu đề có ghi rõ "Hoạ vận tai hậu" (hoạ vần ở phía sau), nhưng không thấy bài thơ hoạ. Bài thơ còn như dang dở. Thể thơ ít gặp. Có thể là một điệu ca từ nào đó ? Hai chữ bơ bải là phiên âm tạm.
__________________
 
BẠCH ĐẰNG GIANG TẶNG BIỆT (*)Khấp khểnh đường mây bước lại dừng,
Là duyên là nợ phải hay chăng.
Vịn hoa khéo kẻo lay cành gấm,
Vục nước xem mà động bóng giăng.
Lòng nọ chớ rằng mây nhạt nhạt
Lời kia này đã núi giăng giăng.
Với nhau tình nghĩa sao là trọn,
Chớ thói lưng voi cỡ nước Đằng. (1)

----------

(*) Tặng bạn khi chia biệt ở sông Bạch Đằng.

(1) Lưng vơi cỡ nước Đằng: Nước Đằng là nước nhỏ ở thời Xuân Thu Chiến Quốc, bị ép giữa hai nước lớn là Tề, Sở nên luôn phải giữ gìn. Đây chỉ sự lúng túng của người đa thê.
__________________ LƯU BIỆT THỜI TẠI AN QUẢNG, AN HƯNG NGỤ THỨ (*)

Người về người ở khéo buồn sao,
Tức tối mình thay biết lẽ nào.
Tơ tóc lời kia còn nữa hết,
Đá vàng lòng nọ xiết là bao.
Nổi cơn riêng giận ngày giời ngắn,
Mỏi mắt chờ xem bóng nguyệt cao.
Sớm biết lẽ giời lí có hợp,
Thì mười năm trước bận chi nao.

----------

(*) Ghi lại lúc chia tay tại An Quảng, An Hưng.
__________________



 
 

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 04.11.2008 14:25:39
CẢM CỰU KIÊM TRÌNH CẦN
CHÁNH HỌC SĨ NGUYỄN HẦU
(*)
(Hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân)
 
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
Phấn son càng tủi phận long đong.
Biết còn mảy chút sương siu mấy, (1)
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.
----------

(*) Nhớ người cũ viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu.

Sau đầu đề trên, tác giả có chú: "Hầu, Nghi Xuân, Tiên Điền nhân" (Hầu người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân). Như vậy, ở đây Nguyễn Hầu đúng là Nguyễn Du tiên sinh (1765 - 1820), tác giả Truyện Kiều. Tước Hầu vào hàng á khanh, dưới tước Công - Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền ghi rõ mùa hè năm Kỉ Tỵ (1809), Nguyễn Du được bổ làm cai bạ Quảng Bình. Tháng 2 năm Quý Dậu (1813) ông được phong Cần chánh điện học sĩ, rồi được cử làm chánh sứ đi Trung Quốc tuế cống.

(1) Sương siu: bịn rịn, quấn quít. Cách đọc chữ Nôm xưa, một chữ có thể đọc nhiều âm: Mái, mấy; An, yên; Buồng, phòng… Từ mấy ở đây nếu hiểu theo ngữ nghĩa thì có nghĩa là với. Cả câu này có thể hiểu: “Nguyễn Du có còn mảy may vương vít chút nào với mình nữa chăng?“ Trong khi đó, Hồ Xuân Hương – như ý câu sau – vẫn nhớ người cũ, một mình một bóng, chong đèn ngồi suốt năm canh.
__________________
 
THU NGUYỆT HỮU ỨC
MAI SƠN PHỦ KÝ
(*) Lá ngọc chiều thu giận hẳn du
Tuần trăng sẽ nhớ bữa đêm thu.
Bên am Nhất Trụ trông còn đấy,
Ngọn nước Tam Kì chảy lại đâu. (1)
Son phấn trộm mừng duyên để lại,
Bèo mây thêm tủi phận về sau.
Trăm năm biết có duyên thừa nữa,
Cũng đỏ tay tơ cũng trắng đầu.
----------

(*) Đêm thu, nhớ Mai Sơn Phủ, gởi bài này.

(1) Nguyên chú: “Đã giải kết đưa tình”. Giải kết theo Đào Duy Anh là “Gửi mối tình kết buộc với nhau (dénouer) “Còn giải kết đưa tình là gì? Chưa rõ lắm.
__________________

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 04.11.2008 15:47:57
HỌA SƠN PHỦ CHI TÁC (*)
 
Này đoạn chung tình biết mấy nhau,
Tiễn đưa ba bước cũng nên câu.
Trên tay khép mở tanh chiều nhạn,
Trước mặt đi về gấp bóng câu.
Nước mắt trên hoa là lỗi cũ.
Mùi hương trong nệm cả đêm thâu.
Vắng nhau mới biết tình nhau lắm,
Này đoạn chung tình biết mấy nhau.

----------

(*) Hoạ lại thơ Mai Sơn Phủ. Chưa rõ Mai Sơn Phủ là ai?.
__________________
 
NGUYỆT DẠ CA (I) Lộ như châu hề nguyệt như sai,
Thúc vãng lai hề chiếu dư hoài.
Uyển cố nhân hề thiên nhai,
Ái bất kiến hề tâm bồi hồi.
Đài hoang Thần nữ miếu,
Vân tán Sở vương đài.
Minh nguyệt quang như hử,
Ngã tư nhân chi hề, yên tại tai.

Dịch nghĩa : BÀI CA ĐÊM TRĂNG (I) Sương như hạt châu chừ, trăng như ngọc
Vụt qua lại chừ, soi chiếu lòng ta
Người xưa dịu dàng chử phương trời
Yêu nhưng không gặp chừ lòng bồi hồi
Rêu hoang miếu Thần Nữ (1)
Mây tan đài Sở Vương
Ánh trăng sáng như vậy
Người mà ta nhớ chù, ở nơi đâu?
----------

(1) Thần Nữ miếu ở phía đông Vu Sơn, tỉnh Tây Xuyên. Con gái của Xích đế là Giao Cơ chết, chôn ở Bắc vu Sơn, Sở Hoài Vương đi chơi ở Vu Sơn, tới Dương Đài nằm mơ giao hoan cùng nữ thần, bèn lập miếu thờ.
__________________ NGUYỆT DẠ CA (II) Hoa kỳ tự hề ba kỳ thi,
Hà vi thường hề vân vi y,
Diệc ký cấu hề ngã tâm tắc di,
Ngữ hạt ký hề thê trì,
Sầu lưu Tương thuỷ thính,
Muộn áp Thục sơn đê,
Nhật nguyệt hề vô căn hề,
Tình chi sở chung,
Bất tri kỳ kỳ.

Dịch nghĩa : BÀI CA ĐÊM TRĂNG (II)

Hoa là chữ chừ nhuỵ là thơ
Dáng làm xiêm chừ mây làm áo
Cũng là gặp nhau chừ, lòng ta thảnh thơi
Lời sao đà chừ chậm trễ
Nghe sầu trôi trên sông Tương
Nén nỗi buồn tới núi Thục (1)
Tháng ngày không gốc rễ chừ
Nơi tình hội tụ
Biết hẹn khi nào.
----------

(1) Sông Tương (Tương thủy): còn gọi là Tương Giang, bắt nguồn từ núi Duyên huyện Hưng Yên, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Núi Thục (Thục Sơn) ở phía đông nam huyện Tuyên Hưng, tỉnh Giang Tô (Trung Quốc), là những danh lam thắng cảnh nổi tiếng.
__________________ THỆ VIẾT HỮU CẢM (*)
Mười mấy năm trời một chữ tình
Duyên tơ này đã sẵn đâu đành
Mái mây cắt nửa nguyền phu phát
Giọt máu đầy hai chén tử sinh
Một kiếp đã thề cùng dạ thắm
Trăm năm đừng phụ với đầu xanh
Mai sau lòng chẳng như lời nữa
Dao búa nguyền xin luỵ đến mình.
----------

(*) Có cảm xúc khi viết lời thề.
__________________

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 05.11.2008 08:18:56
DỮ SƠN NAM THƯỢNG HIỆP TRẤN
QUAN TRẤN HẦU XƯỚNG HỌA
(*)
 
I. Xuân Hương xướng :

Bình thuỷ tương phùng (1) nguyệt hạ tôn
Cương trường phiến phiến thuộc nan ngôn
Khiêu cầm hữu ý minh hoàng xướng
Nhiễu thụ vô đoan ngữ thước huyên.
Thuỳ tục già thanh quy Han khuyết
Tự tu liên bộ xuất Hồ môn
Bán diên biệt hậu tình đa thiếu
Mạch mạch không li Sảnh Nữ hồn. (3)
 
(*) Xướng họa cùng ông Trần hầu – quan Hiệp trấn Sơn Nam thượng.

(1) Bình thuỷ tương phùng : Bèo nước gặp nhau: chỉ việc ngẫu nhiên gặp gỡ. Vương Bội có câu: "Bình thuỷ tương phùng, tận thị tha hương chỉ khách" (bèo nước gặp nhau thảy đều là khách tha hương). Trong văn chương, bèo nước, ngọn bèo, phận bèo... còn để chỉ người phụ nữ: "Phận bèo bao quản nước sa - Lênh đênh đâu cũng là lênh đênh" "Ngọn bèo chân sóng lạc loài - Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu li" (Kiều).

(2) Sảnh nữ hồn: Sảnh Nương là con gái Trương Dật, muốn lấy Vương Trụ. Cha mẹ không bằng lòng. Nàng ốm liệt gường. Vương Trụ buồn bỏ đi, thấy Sảnh Nương theo. Hai người lấy nhau, trốn đi xa làm ăn, năm năm sau về nhà xin lỗi bố mẹ. Bố mẹ Sảnh Nương sửng sốt vì năm năm qua Sảnh Nương vẫn nằm liệt gường. Khi vợ chồng vào đến sân, Sảnh Nương chạy ra đón. Hai Sảnh Nương ôm nhau nhập làm một. Thì ra suốt năm năm qua, hồn Sảnh Nương đã lìa khỏi xác theo Vương Trụ.

Dịch thơ :

Gặp gỡ dưới trăng chuốc chén mời,
Lòng son đòi đoạn chẳng nên lời.
Khúc đàn ai gảy đà đưa ý,
Ngoài ngõ khách kêu chẳng thấy người.
Ai chuộc tiếng kèn về Hán đó ?
Tủi lê gót ngọc đất Hồ rồi!
Biệt li dở tiệc tình lưu luyến,
Hồn Sảnh sầu đau mạch mạch khơi.
(TRẦN THANH MẠI dịch)
 
II. Xuân Hương xướng :

E lệ đàn tao dám cất cờ.
Phong tình chước ấy đã hay chưa.
Đem lời vàng ngọc gieo nên tiếng,
Sẻ nợ tang bồng giả với thơ,
Gặp gỡ cũng là trong bốn bể,
Phao tung kẻo thẹn trước nghìn xưa.
Sau này dầu có bao nhiêu nữa.
Dầu có bao nhiêu mặc bấy giờ.
 
III. Xuân Hương họa :

Quỹ vô tài điệu sử nhân kinh,
Thập tải phong trần quán nhi linh.
Di thị lâm bình tri địch thủ,
Mạc tu sao nguyệt (1) khổ đàn tinh.
Vị luân vị đạn tuỳ tao ngộ,
Thuỳ phượng thuỳ oanh nhậm phú sinh.
Tạo vật ư nhân hà câu tích,
Minh châu hưu hướng ám trung trình.
 
Dịch nghĩa :
 
Tôi thẹn vì không đủ tài điệu để người khiếp sợ,
Mười năm gió bụi đã quen rồi,
Đã là ngồi trước bàn cờ thì biết địch thủ,
Làm chi phải chọn ý chọn tứ khổ sở vỉ thơ. (2)
Là bánh xe hay viên đạn là do hoàn cảnh,
Là phượng hay loan vốn bẩm sinh.
Tạo vật đối với con người không phú bẩm cẩu thả.
Nên đã là hạt trai sáng thì chớ đem ra bóng tối.
----------

(1) Xao nguyệt: Giả Đảo làm được câu thơ “Điền túc tri trung thụ - Tăng thôi nguyệt hạ môn”. Đắn đo mãi xem nên dùng chữ “Thôi nguyệt” hay “Xao nguyệt”. Từ đó, Thôi xao, xao nguyệt, chỉ việc lựa chọn chữ dùng trong văn thơ.

(2) Dịch chữ khổ đàn. “Khổ đàn” có lẽ lấy ý “Khổ trung tác nhạc” – sáng tác âm nhạc trong cảnh khốn khổ. Ý nói quá căng thẳng trong hoạt động sáng tác văn chương.
__________________
 
IV. Xuân Hương họa :
Hàn danh cửu ngưỡng hỉ tương phùng,
Cận tiếp quang nghi nhật chính đông.
Hậu ý thuỷ giao tri thuỷ đạm,
Tình hoài sơ ẩm giác thuần nùng.
Ngô châu thanh khí hoàn tương thượng,
Ngã bối tài tình chính sở chung.
Ác thủ đàm tâm quân mạc quái,
Lục giang nhất khứ thuỷ thiên trùng. Dịch nghĩa :
Bấy lâu ngưỡng mộ tiếng văn chương nay mừng được gặp mặt
Lại được tiếp cận với dung nghi vào buổi hừng đông.
Vốn sẵn nhã ý nên chưa biết nhau đã biết tính tình thanh đạm.
Chén tình vừa nhấp đã nồng nàn, đôn hậu
Thanh khí của châu ta còn được ưa chuộng
Tài tình của chúng ta chính là chung đúc nơi đây
Cầm tay thổ lộ nỗi lòng, xin chàng chớ ngại.
Vì sau khi chàng tới Lục Đầu giang, lại xa nhau non nước muôn trùng. V. Xuân hương họa : Thắc mắc sầu riêng khó giở ra,
Đêm tàn khêu mãi thấy thêm hoa.
Muốn về nhưng có về sao đến,
Biếng nói song le nói được mà.
Sông Bắc trông chừng chênh bóng thỏ,
Lầu Nam nghe đã trống canh gà.
Trăm năm gặp gỡ là bao nả,
Thắc mắc sầu riêng khó giở ra. VI. Xuân Hương xướng :
Ma diệt thông minh giảm kiến linh,
Tái mao tâm khiếu thăng như đình.
Chỉ duyên tuỳ phận cấp bôn tẩu,
Vị đắc phóng hoài tề nhục vinh.
Đầu thượng tuyết sương thần diệc quyện,
Vẫn dư tao phách vị phi hinh.
Liên hương tình chủng si ư ngã,
Tiễn tận hàn đăng bất yên canh.
Dịch nghĩa : Cuộc sống mài diệt sự thông minh, làm giảm hết những điều mắt thấy tai nghe.
Giác quan mờ tối chỉ còn thân như lá cỏ.
Chỉ vì tùy phận nên phải long đong bôn tẩu
Chưa có cái nhìn thoáng đạt để coi vinh nhục ngang nhau
Trên đầu đã điểm sương tinh thần cũng mỏi mệt.
Có ai bảo mùi vị cám bã dư thừa là thơm !
Thương giống tình quê say đắm hơn ta,
Khêu cạn ngọn đèn tàn trong đêm lạnh còn thích ngâm vịnh.

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 05.11.2008 20:23:17
KÝ SƠN NAM THƯỢNG
TRẤN HIỆP TRẤN HẦU
(*)
 
I

Vác cắm đàn tao một ngọn cờ,
Ấy người thân đấy phải hay chưa,
Lắc đầy phong nguyệt lưng hồ rượu,
Dắt lỏng giang hồ nửa túi thơ
Đình Nguyệt góp người chung đỉnh lại,
Trời Hoan mở mặt nước non xưa.
Bấy nay tài tử bao nhiêu tá,
Thèo đảnh khen ai kẻ đặt cho.
 
----------

(*) Gửi ông Trần Hầu, – Hiệp trấn Sơn Nam thượng.
Dưới đề này, Lưu hương ký chép hai bài. Ngờ rằng bài thứ hai là bài họa của Trần hầu.
II
Trận bút xông pha quyết giật cờ,
Tài tình ai đã biết cho chưa.
Giấc Vu man mác năm canh nguyệt,
Duyềnh Ngự lênh đênh một lá thơ.
Tơ liễu đã khoe tài lạ trước,
Nguồn đào học hỏi lối quen xưa,
Giai nhân tài tử dường nào đấy
Hay nợ bình sinh chửa giả cho.

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 07.11.2008 19:08:55
KÝ SƠN NAM THƯỢNG
TRẤN HIỆP TRẤN HẦU
(*)
 
I
Vác cắm đàn tao một ngọn cờ,
Ấy người thân đấy phải hay chưa,
Lắc đầy phong nguyệt lưng hồ rượu,
Dắt lỏng giang hồ nửa túi thơ
Đình Nguyệt góp người chung đỉnh lại,
Trời Hoan mở mặt nước non xưa.
Bấy nay tài tử bao nhiêu tá,
Thèo đảnh khen ai kẻ đặt cho.
----------

(*) Gửi ông Trần Hầu, – Hiệp trấn Sơn Nam thượng.
Dưới đề này, Lưu hương ký chép hai bài. Ngờ rằng bài thứ hai là bài họa của Trần hầu.
 
II

Trận bút xông pha quyết giật cờ,
Tài tình ai đã biết cho chưa.
Giấc Vu man mác năm canh nguyệt,
Duyềnh Ngự lênh đênh một lá thơ.
Tơ liễu đã khoe tài lạ trước,
Nguồn đào học hỏi lối quen xưa,
Giai nhân tài tử dường nào đấy
Hay nợ bình sinh chửa giả cho.
 
 
XUÂN HƯƠNG TẶNG HIỆP QUẬN
 
Hẹn thu hẹn nguyệt luống ăn năn,
Cái kiếp phù sinh những nợ nần.
Cửa viện xuân về hoa mát mẻ,
Đài trang mây náu nguyệt băn khoăn.
Duyềnh xanh nước chảy tin lai láng,
Lá thắm thơ gieo bút ngại ngần.
Son phấn dám đâu so ngọn bút,
Mượn tay thị tướng nhắc đồng cân. (1)
----------

(1) Bài này không có trong Lưu hương ký, nhưng tình điệu thuộc loại trong tập này. Được phát hiện tại Thanh Hoá (Tạp chí Văn học số 3-1974).

Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã hiệu đính 3 chữ "mát mẻ" và "náu" ở câu 3-4 từ các chữ "mủm mỉm", "tỏ" ở văn bản cũ.
__________________
 
CẢM CỰU TỐNG TÂN XUÂN CHI TÁC (*)
 IXuân này nào phải cái xuân xưa,
Có sớm ư? thời lại có trưa.
Cửa đông hoa còn thưa thớt bóng,
Buồng thoa oanh khéo dập dìu tơ
Phong lưu trước mắt bình hương nguội,
Quang cảnh trong đời chiếc gối mơ.
Cân vàng nửa khắc xuân lơ lửng,
Phố liễu trăm đường khách ngẩn ngơ.----------

(*) Đề bài thơ hơi lạ. Người ta thường nói "Tống cựu nghênh tân" (tiễn năm cũ, đón mừng năm mới), ở đây lại “Tống tân xuân”. Vì thế ông Nguyễn Lộc đã dịch: Bài thơ làm cảm năm cũ, tiễn đưa năm mới. (Nxb Văn học, Hà Nội, 1982, tr 78). IIMới biết vị đời chua lẫn ngọt
Mà xem phép tạo nắng thì mưa.
Tri âm đắp nửa chăn còn ngắn,
Bức vách nghe xa tiếng đã thừa.
Nếm mía vụ này ngon những ngọn,
Trông gương ngày nọ bẵng như tờ.
Xưa nay còn có đâu hơn nữa,
Hay những từ đây, phải thế chưa ?

----------

(1) Mía chính vụ vào dịp heo may trước tết. Tục ngữ có câu “Mía tháng ba ngọt ra đầu ngọn”. Tháng ba mía còn non không ngọt. “Nếm mía vụ bày ngon những ngọn” là nếm mía trái vụ chỉ thấy nhạt nhẽo. Tác giả dùng hình ảnh này để tả nỗi quá lứa lỡ thời của người con gái.
__________________  

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 11.11.2008 08:19:28
THUẬT Ý KIÊM TRÌNH
HỮU NHÂN MAI SƠN PHỦ

 

Hoa phiêu phiêu,
Mộc tiêu tiêu,
Ngã mộng hương tình các tịch liêu,
Khả cảm thị xuân tiêu.

Lộc ao ao,
Nhạn ngao ngao,
Hoan thảo tương kì tài nhất triêu,
Bất tận ngã tâm miêu.

Giang bát bát,
Thuỷ hoạt hoạt,
Ngã tư quân hoài tương khế khoát,
Lệ ngân chiêm hạ cát.

Thi tiêu tiêu,
Tâm thiết thiết,
Nồng dạm thốn tình tư lưỡng đạt,
Dạ ưng quân bút pháp.

Phong ngang ngang,
Nguyệt mang mang,
Phong nguyệt không linh khách đoạn tràng,
Hà xứ thị Đằng Vương.

Vân thương thương,
Thuỷ ương ương,
Vân thuỷ na kham vọng nhất trường,
Nhất trường dao vọng xúc hoài mang.

Nhật kì kì,
Dạ trì trì,
Nhật dạ thiên hoài lữ tứ bi,
Tứ bi ưng mạc ngộ giai kì.

Phong phi phi,
Vũ phi phi,
Phong vũ tần thôi thái bút huy,
Bút huy đô thì phó tình nhi.

Quân hữu tâm,
Ngã hữu tâm,
Mộng hồn tương luyến liễu hoa âm.

Thi đồng ngâm,
Nguyệt đồng châm.
Nhất tự sầu phân ly,
Hà nhân noãn bán khâm.

Mạc đàm li khúc oán tri âm,
Trực tư khí trí thử dao cầm,
Cao sơn lưu thuỷ vãn tương tầm,
Ưng bất hận ngâm thán cổ câm.

Quân hà kì,
Ngã hà kì,
Lữ đình lai đắc lưỡng thê trì,
Dánh tần phi,
Bút tần huy,
Nhất trường đô thị bút thiệt,
Hà xứ thị tình nhi,
Hảo tư tâm thượng các tương tri,
Dã ưng giao thác thử duyên đề,
Phương tâm thệ bất phụ giai kì.
 
Dịch văn xuôi :
 
NÓI RÕ Ý MÌNH, GỬI BẠN MAI SƠN PHỦ
 
Hoa bay phất phơ,
Cây rung xào xạc,
Giấc mộng tình quê của ta sao mà vắng vẻ,
Cảm động biết bao đêm xuân này !

Con hươu kêu ngơ ngác,
Con nhạn kêu ngẩn ngơ,
Cược gặp gỡ vui vầy trong một sáng
Làm sao nói hết nỗi lòng ta ?

Dòng dông chảy băng băng,
Mặt sông trôi dập dềnh
Ý ta lòng chàng sao mà hòa hợp !
Ngăn lệ đầm đìa trên áo vải.

Thơ ta đắm say,
Lòng ta say đắm, Một tấc lòng nồng đượm chàng đã rõ,
Mượn bút chàng hãy ngỏ giùm ta !

Gió thổi vi vu,
Trăng sáng mênh mông,
Gió trăng luống làm cho lòng người đứt ruột
Đâu nơi nào là gác Đằng Vương !

Dải mây xanh xanh,
Dòng nước long lanh,
Sao cứ nhìn vào một vùng mây nước ấy,
Vọng nhìn hoài một chỗ, lòng trống trải.

Ngày dài đằng đẵng
Đêm dài lê thê
Suốt ngày đêm buồn cho người xa vắng.
Lòng buồn nhưng chớ nhớ kỳ hò hẹn.

Gió hiu hiu,
Mưa lất phất,
Mưa gió càng thôi thúc ngòi bút viết,
Nhưng viết rồi lại cũng viết về chàng.

Chàng có lòng
Ta cũng có lòng
Trong hồn mộng quyến luyến nhau dưới bóng liễu.
Thơ ta cùng ngâm,
Trăng ta cùng thưởng,
Từ lúc buồn chia tay chàng,
Ai là người chỉ ấm nửa chăn ?

Chớ gảy điệu đàn ly biệt mà oán bạn tri âm,
Hãy cất chiếc đàn đi,
Và hiểu thầm nhau trong khúc cao sơn lưu thủy.
Đừng buồn hận và than cho nỗi xưa nay.

Chàng có hẹn gì đâu ?
Ta có hẹn gì đâu ?
Mà lữ đình hai ta cùng nân ná.
Trà đã từng pha,
Bút đã từng viết,
Chỗ nào cũng bút mực ngâm nga.
Nhưng người tình ở nơi nào ?
Tốt nhất là hiểu nhau bằng tấm lòng,
Và trao cho nhau mối duyên này
Tấm lòng thơm thề chẳng phụ với kỳ hò hẹn.

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 11.11.2008 08:23:26
XUÂN ĐÌNH LAN ĐIỆU

Nguyệt ta nhân tĩnh thú lâu trung,
Ngọa thính đồng long,
Khởi thính đồng long,
Dạ bán Ai Giang hưởng bán không.
Thanh dã tương đồng,
Khí đạ tương đồng,
Tương tư vô tận ngũ canh cùng,
Tâm tại Vu Phong
Hồn tại Vu Phong,
Ân ái thừ tao phùng.
Nhàn ỷ đông phong,
Quyện ỷ đông phong,
Nhất viên hồng hạnh bích thanh song.
Phồn hoa tích dĩ không,
Kim triêu hựu kiến sổ chi hồng.
Oanh nhi mạc đái yêu vô lực tiếu đông phong.
Phong thanh nguyệt bạch,
Bả kỳ hương nhập khách ngâm trung.

 
Dịch văn xuôi :
ĐIỆU XUÂN ĐÌNH LAN

Trăng đã xế, người đã ngủ yên trong gác canh,
Nằm nghe tiếng đồng hồ nhỏ giọt.
Dậy cũng nghe tiếng đồng hồ nhỏ giọt.
Kìa giữa đêm khuya giọng ai hát điệu Buồn Giang Nam vẳng lên nửa lưng chừng trời.
Tiếng đã quen nhau
Hơi cũng quen nhau.
Nỗi nhớ nhau thật vô tận mà năm canh sắp hết rồi.
Tâm ở non Vu,
Hồn ở non Vu.
Cuộc gặp gỡ biết bao là ân ái !
Lúc rỗi tựa mình trước gió đông,
Lúc mỏi mệt tựa mình trước gió đông,
Cả một vườn hồng hạnh chỉ một màu xanh biếc,
Tiếc cho cảnh phồn hoa đã qua mất,
Thì sáng nay lại thấy vài cành lập lòe sắc đỏ.
Hỡi chim oanh kia đừng mang gió đông đi,
Chỉ sợ đóa đào no không đủ sức cười với gió đông.
Gió trong trăng sáng,
Đem mùi hương lạ đến với thơ ai ?



lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 11.11.2008 09:22:48
NĂM BÀI THƠ ĐỀ VỊNH HẠ LONG
 
ĐỘ HOA PHONG

Phiến phàm vô cấp độ Hoa Phong,
Tiễu bích đan nhai xuất thuỷ trung.
Thuỷ thế mỗi tuỳ sơn diện chuyển,
Sơn hình tà kháo thuỷ môn thông.
Ngư long tạp xử thu yên bạc,
Âu lộ tề phi nhật chiếu hồng.
Ngọc động vân phòng tam bách lục
Bất tri thuỳ thị Thuỷ Tinh cung.

 
Dịch thơ :
QUA VŨNG HOA PHONG

Lá buồm thủng thỉnh vượt Hoa Phong.
Đá dựng bờ son mọc giữa dòng.
Dòng nước lần theo chân núi chuyển,
Mình lèn nghiêng để lối duyềnh thông.
Cá rồng lẩn nấp hơi thu nhạt,
Âu lộ cùng bay bóng xế hồng.
Băm sáu phòng mây cùng động ngọc,
Đâu nào là cái Thuỷ Tinh cung?

(HOÀNG XUÂN HÃN dịch) (1)
----------

(1) Phần này dựa theo sách của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn.
__________________
 
TRẠO CA THANH

Linh lung tứ bích liệt vân bình
Ngọc duẩn sâm si thuỷ diện bình
Tiệm giác Đào Nguyên sơn tác hộ
Chỉ tùng Ngư Phố thạch đồn binh
Tận giao Tạ khách du nan biến
Già mạc Vân Lâm hoạ bất thành
Dao vọng thuỷ cùng sơn tận xứ
Hốt nhiên xung xuất trạo ca thanh.
 Dịch thơ :


TRỘI TIẾNG CA CHÈO

Long lanh bốn phía rủ màn mây,
Nước phẳng lô nhô măng mọc dày.
Mới biết Nguồn Đào ngăn cửa đá,
Nào ngờ Bến cá có đồn xây
Mặc cho họ Tạ xem đâu hết,
Dẫu có chàng Lâm vẽ chẳng tầy.
Xa ngóng chân trời non lẫn nước,
Bỗng nghe chèo hát trỗi đâu đây.
(HOÀNG XUÂN HÃN dịch)
----------

Chú: Tạ Linh Liên hiếu du sơn thủy.
Ngọc Vân Lâm hiếu họa sơn thủy
Nghĩa là: Tạ Linh Liên thích đi chơi xem non nước.
Ngọc Văn Lâm thích vẽ cảnh non nước.
 

NHÃN PHÓNG THANH

Vi mang loa đại tháp thương minh
Đáo thử tu giao nhãn phóng thanh
Bạch thuỷ ma thành thiên nhẫn kiếm
Hàn đàm phi lạc nhất thiên tinh
Quái hình vị dĩ tiêu tam giáp
Thần lực hề dung tạc Ngũ Đinh
Phảng phất vân đồi đầu ám điểm
Cao tăng ưng hữu toạ đàm kinh.

 
Dịch thơ :
MẮT TỎA MÀU XANH

Bể xanh lấp loáng tận trời xa,
Đây ngỡ màu xanh mắt tỏa ra.
Nước bạc mài nên nghìn mũi kiếm,
Đầm im rơi xuống một sao sa.
Quái hình chưa dễ đề khoa bảng,
Thần lực đâu đà tạc tượng ma.
Phảng phất mây rà đầu xẩm tối,
Cao tăng đang tụng chốn chiền già.

 
THỦY VÂN HƯƠNG

Vân căn thạch đậu tự phong phòng
Mãn mục sơn quang tiếp thuỷ quang
Thiệp hải tạc hà si Lí Bột
Phụ chu tàng hác bái Nguyên Chương
Loa ngân tịch tễ lân tuần xuất
Vụ ảnh triêu mê thứ đệ tàng
Mạn thuyết ngư nhân chu nhất diệp
Sổ trùng môn hộ Thuỷ Vân hương.

Dịch thơ :
VỀ CHỐN NƯỚC MÂY

Chân mây lỗ đá từa phòng ong
Chốn chốn lèn chong ánh nước lồng.
Vượt bể đục non cười Lý Bột,
Đội thuyền giấu động phục Nguyên Ông.
Chiều êm sóng gợn lăn tăn nổi,
Sáng toả mù tan lớp lớp trong.
Vui chuyện kìa ai thuyền một lá,
Cửa lèn len lỏi kiếm non bồng.

 
----------

Chú: Xuất Trang Tử Nam hoa kinh.
Nghĩa là: Xuất xứ ở sách Nam hoa kinh của Trang Tử.
 
HẢI ỐC TRÙ

Lan nhiêu tuỳ ý dạng trung lưu
Cảnh tỉ sơn dương cánh giác u
Sinh diện độc khai vân lộ cốt
Đoạn ngao tranh kị khách hồi đầu
Bằng Di diệp tác kình thiên trụ
Long Nữ thiêm vi hải ốc trù
Đại để Thuỷ Hoàng tiên vị cập
Cố lưu Nam điện củng kim âu.
Dịch thơ :
Giữ duềnh thủng thẳng phẩy chèo lan,
Sát núi càng hay cảnh lặng nhàn.
Mây cuốn bày ra lèn cứng cỏi,
Núi cao những ngóng đỉnh Toan Ngoan
Bằng Di chống cột e trời đổ,
Long Nữ thêm nêu sợ bể tràn.
Dấu ngựa Thuỷ Hoàng chưa đến đó,
Trời dành để giữ đất người Nam.
(HOÀNG XUÂN HÃN dịch)
 




 

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 18.11.2008 18:59:54
CHÙM BÀI VIẾT VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG
 
Đã có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu công phu về ThơĐời của Hồ Xuân Hương, kể cả các tác phẩm hư cấu gồm nhiều thể loại : kịch, thơ, truyện ngắn, truyện ký danh nhân, hội hoạ, chân dung và giai thoại… của nhiều tác giả. Ở đây, chúng tôi chỉ có thể giới thiệu cùng bạn đọc một số bài có tính chất đại diện thuộc các thể loại văn học, bao gồm : tiểu luận, truyện ngắn, thơ, phóng sự điền dã, giai thoại… ngoài bài tựa sách Lưu hương ký của Tốn Phong Thị. Có thể có những chi tiết mâu thuẫn nhau, trùng lặp nhau… mà chúng tôi chủ trương giữ nguyên, để bạn đọc rộng đường tham khảo. Vả lại, chuyện Thơ, chuyện Đời của Hồ Xuân Hương còn nhiều ngóc ngách, bí ẩn… khó có thể xác định trong một sớm một chiều. Lai lịch xuất thân, quê hương bản quán, những cuộc tình duyên hư thực thế nào… Còn đang là những “thách đố” đối với lịch sử văn học, không chỉ là quá khứ, hiện tại, mà sẽ còn đó những ẩn số cả trong tương lai. Âu cũng là những “nghi án” văn chương khó tìm kiếm một lời “phán xử” cuối cùng. Chỉ một việc có thể làm cho những điều đó ngày càng sáng tỏ, đủ làm chúng ta vui lòng.

Chúng tôi rất mong bạn đọc, nhất là các nhà nghiên cứu văn học sẽ bổ sung cho những tài liệu, văn bản, kể cả những chi tiết, những chi tiết có sức dọi sáng nhiều vấn đề mà tập sách khiêm tốn này chưa kham nổi.
 
LỮ HUY NGUYÊN
------------------------------------------------
 

Tốn Phong Thị

BÀI TỰA TẬP THƠ LƯU HƯƠNG KÝ
(Chép trong cuốn Du Hương Tích động ký)

“Làm thơ có phải dễ đâu! Vì trong lúc ngâm vịnh, có thể xuất phát từ mối tình (cảm hứng), nhưng phải biết dừng lại trong phạm vi lễ nghĩa. Cho nên thơ có thể làm cho đất trời chuyển động, quỷ thần cảm xúc, giáo hoá tốt lành, nhân luân đầy đủ. Vì vậy mà Khổng Tử khen thơ Quan thư, đã có câu “Vui mà không đến nỗi buông tuồng, buồn mà không đến nỗi đau thương”, chính là như thế. Sau thơ Quan thư không nghe có thơ nào được như thế nữa. Đời xưa Ban Thái Cơ tiếp tục công việc của anh là Ban Cố, đã chép Hán sử, Tô Tiểu Muội cùng với cha và anh đã trở thành đại gia; hai nàng đáng gọi là nữ sử vậy.

Nước Việt Nam ta có tiếng là đất văn hiến, nhưng phụ nữ nhiều người không được học. Khoảng giũa đời nhà Lê, có bà Hồng Hà nữ tử chép sách Truyền kỳ (1) nhưng lời văn đều thiên về giọng trào phúng đùa bỡn, duy chỉ có bà Phan Mi Anh, người trong họ tôi có tiếng giỏi văn thơ, các bậc tiền bối đều khen ngợi. Mi Anh không thích ghi chép lại thơ văn của mình. Tội thường được các tài tử văn nhân đọc lại cho nghe thơ của bà, thì thấy đều là xuất phát từ mối tình mà đều dừng lại trong lễ nghĩa. Tuy vậy tôi không thấy được toàn tập thơ văn của bà, thường rất lấy làm ân hận!

Mùa xuân năm Đinh Mã (2) tôi đến thành Thăng Long nhân cùng bạn là Cư Đình nói chuyện về các tài tử xưa nay, bạn ấy nói cho tôi biết cùng tỉnh với tôi có người phụ nữ là Cổ Nguyệt đường Xuân Hương (3): học rộng mà thuần thục, dùng chữ ít mà đầy đủ, từ mới lạ mà đẹp đẽ, thơ đúng phép mà văn hoa, thực là một bậc tài nữ.

Tôi liền tìm tới nơi hỏi thăm, khi hỏi đến tên học, mới biết cô ta là em gái ông lớn Hồ, đậu Hoàng Giáp, người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu. Chúng tôi mới tình cờ gặp nhau lần đầu mà đã thành ra đôi bạn thân thiết. Trong những khi uống rượu ngâm thơ, kẻ xướng người hoạ, tứ thơ dồi dào, nhưng vẫn tỏ ra “vui mà không buông tuồng, buồn mà không đau thương, khốn mà không lo phiền, cùng mà không bức bách”, thực là do tính tình nghiêm chỉnh mà ra, cho nên khi hát lên, ngâm lên những thơ ấy thì tay cứ muốn múa, chân cứ muốn giậm mà không tự biết.

Từ đó có những lúc tôi phải bôn ba vào Nam ra Bắc, không thể cùng nhau sớm hôm xướng hoạ. Còn Xuân Hương cũng vì mẹ già nhà túng mà ăn ở không được yên ổn.

Sang mùa xuân năm Giáp Tuất (4), tôi tìm đến chỗ ở cũ của cô, hai bên vừa mừng vừa tủi, Xuân Hương liền cầm tập Lưu hương ký đưa cho tôi xem mà bảo tôi rằng : “Đây là tất cả thơ văn trong đời tôi từ trước đến nay, nhờ anh làm cho bài tựa”. Tôi mở tập ấy ra xem thì thấy những bài thơ năm chữ, bảy chữ, những điệu ca, phú và từ chép đầy một quyển. Thoạt đầu tôi hết sức kinh ngạc lạ lùng, rồi dần dần càng đọc càng thấy lòng thư thái mà trở nên vui thích khoái chá.

Tôi thường nghe người đất Nghệ An thuần tú mà ham học. Đúng như thế thật. Đàn ông tuấn kiệt thì có các bậc khoa bảng đời trước, đàn bà tinh anh thì có những người như Phan Mi Anh và Hồ Xuân Hương. Người ta nói núi cao sông sâu sinh ra nhân tài tuấn kiệt quả không sai vậy.

Bởi vậy tập Lưu hương ký tuy đầy vẻ gió mây trăng nước nhưng đều là từ đáy lòng mà phát ra, hiển hiện thành lời nói lại cũng đều đúng với cái ý đã nói trên kia là “xuất phát từ mối tình mà biết dừng lại trên lễ nghĩa”.

Bởi thế tôi xin nêu rõ ra đây để ngày sau có dịp chọn lựa thơ ấy làm thơ dân phong chăng? Nay đề tựa.

Rồng bay năm Giáp Tuất, tháng Trọng xuân. (5)

Người cùng tỉnh là Nham Giác phu Tốn Phong thị, viết ở nơi ngồi dạy học.

(TRẦN THANH MẠI dịch)

----------

(1) Tức Đoàn Thị Điểm, tác giả Truyền kỳ tân phả.

(2) Tức năm 1807.

(3) Hai chữ Cổ…Nguyệt… ghép lại thành chữ Hồ… Cổ Nguyệt đường là tên hiệu của Hồ Xuân Hương đồng thời là tên đặt cho nhà bà ở.

(4) Tức năm 1814.

(5) Tức tháng 2 năm Giáp Tuất, dương lịch là tháng 3 – 1814.
__________________

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 18.11.2008 19:04:53
HỒ THẤT LIỄU

Cách đây vào khoảng hai thế kỷ, đấy là một ngôi trường tư thục của cụ Xứ (1) họ Hồ, từ Nghệ An ra đây, dạy học chữ Hán. Cụ Xứ nổi tiếng văn hay chữ tốt, được nhân dân cả vùng kính phục. Số người nhập môn lúc nào cũng đông vui, năm, sáu chục người. Có cả những người trên 30 tuổi. Có nhiều người từ xa đến trọ học.

Cụ Xứ không đem theo gia đình. Chỉ có một cô gái mà cụ rất quý mến, gọi tên là Xuân Hương, thỉnh thoảng đến đây, vừa để học thêm, vừa giúp cụ dạy bảo những học trò kém.

Một chi tiết nữa mà người làng Mương (2) chưa quên là : Phía trước nhà trường có một thửa ao, 7 bờ, phía bờ nào cũng râm mát những cây Và, cây Vạy. Xuân Hương rất ưu thích. Những buổi thừa lương, đãi nguyệt, nàng thường có mặt ở đây. Nàng đã đặt tên cho hồ cái tên nghe thú vị: Hồ Thất Liễu. Đấy là theo giai thoại sưu tầm ở Vĩnh Phú do ông Dương Văn Thâm cung cấp.

Đã có chuyện “Hồ Thất Liễu”, lại có chuyện “Cổ Nguyệt đình” ở đất Thăng Long. Chuyện Nhà Cổ Nguyệt phổ biến hơn, như chúng ta sẽ theo dõi sau đây…

----------

(1) Đỗ đầu xứ khoa thi Hương.

(2) Nay là xã Sơn Dương, huyện Phong Châu, Vĩnh Phú.

Về “Hồ Thất Liễu”, xin bạn đọc xem bài của Nguyễn Hữu Nhàn cũng trong sách này, để hiểu đầy đủ và tỉ mỉ hơn (BT).
__________________
 

NHÀ CỔ NGUYỆT
 
Giờ đây thì không còn dấu tích nữa, nhưng nhà Cổ Nguyệt đã đi vào lịch sử, vào văn chương. Nguyên chữ Hán là Cổ Nguyệt đình (1). Chuyện lưu truyền – và có khả năng là chính xác, rằng Cổ Nguyệt là do Hồ Xuân Hương dựng lên ờ phường Khán Xuân. Chỉ là một cái nhà tranh, ngoảnh mặt ra Hồ Tây, giản dị nhưng rất thơ mộng. Xuân Hương xem sách, làm thơ và dạy học trò ở đó. Những bạn làng văn, những chàng tài tử biết tiếng giai nhân cũng tìm đến đó trò chuyện văn chương.

Hai chữ Cổ Nguyệt chỉ là một tiểu xảo của nữ thi sĩ mà thôi. Ghép hai chữ Hán CổNguyệt lại thì thành ra chữ Hồ, Cổ Nguyệt đình cũng là Hồ đình, nghĩa là cái nhà của cô gái họ Hồ.

Nhưng cũng vì hai chữ Cổ Nguyệt ấy mà có người tìm cách để trêu Xuân Hương. Có nhà nho sĩ đã gửi đến hai câu khích bác :





Người cổ lại còn đeo thói nguyệt
Buồng xuân chi để lạnh mùi hương.
Câu thơ có ý nói: người giai nhân vốn thuộc gia đình lối cổ (nề nếp thi lễ), nhưng sao lại thích thú nguyệt hoa (họ dựa vào phong cách tài tử phóng túng của Xuân Hương mà chế giễu nàng). Câu dưới là có ý bảo Xuân Hương cứ kén chọn mãi, không chịu lấy chồng, cam chịu phòng không lạnh lẽo.

Lại có bài thơ khác cũng hàm ý riễu cợt:





Trăng xưa đã khuyết mấy lần?
Phẩn tiên trong giá, trắng ngần còn chăng?
Xa xôi ta nhắn chị Hằng
Hồ Tây nước bậc xin dừng bóng soi!
Hồ Xuân Hương đã trả lời những câu đả kích này ra sao thì hiện nay chưa tìm được tài liệu cho đầy đủ.

Không tìm lại được những bài đáp lại những lời trêu chọc ấy, nhưng dân gian vẫn truyền tụng nhiều câu chuyện chứng tỏ cái tài, cái chí của Hồ Xuân Hương. Và khá nhiều là những sự việc đã diễn ra quanh đình Cổ Nguyệt.

Sát với Cổ Nguyệt đình là đền Trấn Võ, có gác chuông cao, treo quả chuông lớn. Nhiều chàng nho sĩ đến thăm đền. Các vị khoe tài chữ nghĩa, giở dói văn chương, làm cô gái bực mình. Cô bảo mấy cậu:

– Được gặp các thày thật là vinh hạnh. Các thày trò chuyện thực rõ ra vẻ tài hoa, uyên bác vô cùng. Dám xin các thày cho một bài thơ.

Tưởng là cá sắp cắn câu, và đúng là được dịp để khoe khoang hãnh diện, các thày hớn hở:

– Cái gì chứ thơ thì được lắm. Xin cô cứ ra đề cho.

Xuân Hương chỉ ngay vào quả chuông:

– Dạ, xin vịnh quả chuông, lấy vần uông cho tiện.

Chao ôi! Thế này thì gay quá. Vần gì lại có vần uông. Vò đầu, bứt tai, các thày nghĩ nát ruột mà không ghép được chữ “uông” vào với cái gì. Các thày đành trơ tráo:

– Cái vần “uông” của cô không ổn, cô ạ.

– Sao lại không? Em thử làm vài câu cho các thày nghe xem nhé:





Một đàn thằng ngọng rủ xem chuông
Chúng bảo nhau rằng: ấy ái uông!
Cả bọn ngượng chín người, xa xẩn cười trừ rồi tìm cách chuồn! Xuân Hương nhìn lên trên vách gác chuông, thấy có nhiều bài của các thày “sáng tác”. Câu kẹo, ý tứ thật chán mớ đời. Thế mà cũng vác bút, vạch hàng để khoe ngu với khách vãng lai! Cô chẳng nói chẳng rằng, lấy bút đề luôn vào một khoảng trống bên cạnh:





Dắt díu nhau lên trước cửa đền
Cũng đòi học nói, nói không nên
Ai về nhắn nhủ phường lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền!
Đến chơi Cổ Nguyệt đình, không phải chỉ có mấy anh dốt khoác áo nhà văn, còn có vài ba ông quan võ nữa. Văn hay võ thì cũng được thôi, có điều người phải cho ra người, và cũng nên võ vẽ lấy dăm chữ để mở mang trí thức. Nhất là nên tỏ ra có văn hoá, biết tự trọng. Đằng này mấy ông lại tỏ ra quá lấc cấc. Nói năng thì bừa bãi, không chút ngượng mồm. Xuân Hương nhân lúc họ đang tán nhau chung quanh một hình ảnh tục tằn, liền bảo:

– Các quan không biết ư? Thế mà cũng có thơ đấy!

– Thơ à? Lạ nhỉ. Cô đọc xem! Hay không?

– Vâng, em cũng xin đọc để các quan nghe:





Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
Tối tuy không mắt sáng hơn đèn
Đầu đội nón de, loe chóp đỏ
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen…
Cô đang định đọc tiếp, thì một ông áng chừng có vẻ thông minh hơn, nói nhỏ vào tai ông bạn:

– Thôi thôi, rủ nhau mà rút. Nó làm tranh truyền thần bọn quan võ nhà ta đó chứ có phải… gì đâu. Nó xem mình như thế thì mặt mũi nào mà ngồi đây nữa!

----------

(1) Cổ Nguyệt đình hay Cổ Nguyệt đường, nhiều sách chép khác nhau, nhưng ý kiến không khác?
__________________
 

TRẤN UY BA GÓC
 
Gia Long đã dựa vào thế lực ngoại bang mà diệt được Tây Sơn, tiến ra Bắc hà, cho đặt quan chức mới để củng cố ngai vàng triều Nguyễn. Một viên quan khâm sai nào đó được lệnh đi công cán ở các tỉnh. Thành Thăng Long lúc bấy giờ cũng phải tố chức việc đón tiếp, treo đèn, kết hoa. Các quan chức dựng cổng chào, đến gặp Hồ Xuân Hương xin nhà nữ sĩ tài hoa đôi câu đối. Xuân Hương viết ngay:





Thiên tử tinh kỳ đương bán diện
Tướng quân thanh thế áp tam thùy
Theo nghĩa đen, câu đối có nghĩa là cờ xí của nhà vua dăng đầy khắp chốn, che nửa mặt người. Uy danh của vị tướng khâm sai trùm ra ba cõi. Câu đối như vậy là hết lời ca tụng.

Nhưng sau khi câu đối được treo lên, mỗi người giảng ra một cách. Có người liên hệ với phong cách nghịch ngợm trong thơ Xuân Hương đã bàn tán rộng ra. Này mấy chữ “áp tam thuỳ" của nữ sĩ là tai ác lắm đấy! Nó xui ta nhớ đến những hình ảnh “chành ra ba góc da còn thiếu” mà Xuân Hương đã dùng trong các bài thơ phổ biến. Còn chữ “bán diện”! Sao lại có một nửa mặt? Có cái mặt gì mà chia ra hai nửa? Vân vân và vân vân. Thế rồi, người ta cứ hiểu rằng đôi câu đối có nghĩa là:

Cờ vua Gia Long là loại cờ che nửa mảnh… và cái tài vị tướng chỉ là cái tài ép vào ba góc mà thôi.

Bởi thế câu đối trên, có người dịch:





Che nửa mảnh, rực cờ thiên tử
Trấn ba góc, rõ tài tướng quân!

__________________

 
ĐỀN THÁI THÚ

Đối diện với chùa Bộc hiện nay là khu vực của trường Đại học Thủy lợi, trường Công đoàn. Nhưng cách đây vài chục năm, nơi đó còn là một cái gò, trên xây cái miếu. Miếu do những người Hoa kiều xây để thờ Sầm Nghi Đống, viên tướng đã phải thắt cổ tự tử khi quân Tây Sơn tiến vào giải phóng Thăng Long ghi chiến công Đống Đa oanh liệt. Tại sao lại làm đền trên cái gò ấy? Là vì chính ở gò này, Sầm Nghi Đống đã đặt đại bản doanh để chỉ huy quân đội xâm lược, cướp bóc, do Tôn Sĩ Nghị giao cho hắn phụ trách. Người ta sợ hồn ma của hắn vì ngậm tủi nuốt hờn mà sinh ra các trò quấy nhiễu.

Nhà thơ Hồ Xuân Hương có lần đi qua đó, đã tả thái độ của mình bằng một bài thơ :





Nghé mắt, trông qua thấy bảng treo
Kìa đến Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!
Bài thơ được truyền tụng, trở nên phổ biến cả đến khi gò và đền đã bị triệt hạ rồi. Dân gian thú vị cả về ý tứ lẫn thái độ của nhà thơ. Xã hội cũ trọng nam khinh nữ đấy thôi, chứ gái như ta, cũng không thèm chấp cái "sự nghiệp" của bọn mày râu hèn kém ấy. Mà, vì không chấp nên đi qua đây chỉ "nghé mắt" qua, chứ chẳng phải nhìn thẳng làm gì.


MỜI CHÚ KHÁCH... VỀ!
 
Có một chú khách mộ tài Xuân Hương, cũng mò đến để tìm cách gạ gẫm. Xh đọc một câu đối, bảo nếu đối được sẽ cho giao thiệp :

- Chân đi hài hán, tay bán bánh đường, mệng hát líu lường, ngây ngô ngấy ngố.

Chú nghe câu đối và nhận ra được ba chữ Hán, Đường, Ngô là tên ba triều đại bên nước mình, nhưng chẳng biết làm cách gì để nghị ra câu đối lại, đành... rút lui không bao giờ dám đến nữa.
(Trích theo VŨ NGỌC KHÁNH,
Kho tàng giai thoại Viết Nam,
Nxb Văn hóa Thông tin, 1994)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2008 19:12:57 bởi lyenson >

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 19.11.2008 20:33:43
ĐỌC THƠ CHỮA THẸN


 Trong các nhà thơ phụ nữ của ta, Hồ Xuân Hương và thơ ca của bà là một hiện tượng khá đặc biệt được rất nhiều người đàm luận từ xưa đến nay.

Hồ Xuân Hương người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Chưa rõ năm sinh và năm mất, chỉ biết bà sống vào khoảng cuối Lê đầu Nguyễn (1).

Tục truyền: hồi Xuân Hương còn đi học; một hôm gặp phải trời mưa, đến sân trường, đất trơn, cô nữ sinh trượt chân ngã oạch một cái, các bạn học thấy đều cười ầm lên.

Nhưng Xuân Hương đã đứng ngay dậy, ung dung đọc hai câu thơ rằng:

 
Giơ tay với thử trời cao thấp,
Xoặc cẳng đo xem đất vắn dài.

 
Rồi cằp nón bình thản đi vào. Còn mấy chàng học trò, thấy nàng ứng khẩu tài như thế thì cũng phục không dám chòng ghẹo gì thêm nữa.

----------

(1) Tiểu sử Hồ Xuân Hương hiện nay vẫn còn là vấn đề phải tiếp tục tìm hiểu, xác minh.

MẢNH TÌNH
 

Hồ Xuân Hương vốn nổi tiếng tài hoa, lại hay bày ra các cuộc xướng hoạ văn thơ ở trong nhà để làm vui, nên khách khứa thường lui tới nhà bà rất đông. Trong số đó, những khách yêu chuộng văn chương mà đến thìa cũng có; song hạng khách “phất phơ” vì tò mò mà đến, hoặc vì sĩ diện mà đến cũng không phải là hiếm…

Bấy giờ có một công tử con quan ăn mặc rất bảnh bao nhưng học hành quá kém, đã năm lần bảy lượt đần định làm quen với Xuân Hương. Biết anh ta chỉ là một người tầm thường, nhiều lần Xuân Hương thoái thác không chịu tiếp. Một hôm lại thấy anh ta dẫn xác đến, Xuân Hương bực quá chạy vào trong, rồi cho cô gái ở ra mời trầu; cơi trầu có quả cau bổ đôi kèm theo mảnh giấy đề hai câu thơ như sau:

 
Mảnh tình ví xẻ làm đôi được,
Mảnh để trong nhà, mảnh đệ ra !

 
Ý Xuân Hương vừa muốn nói bà đã có người yêu, không thể nào tiếp anh công tử được nữa, nhưng đồng thời cũng thách thức anh ta trả lời thơ mình ra sao?

Anh công tử xem thơ xong, chừng liệu sức mình không đối chọi nổi, bỏ cả trầu không dám ăn, về luôn.

ĐÁNH TRỐNG QUA CỬA NHÀ SẤM
 

Một hôm Hồ Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc vè, nàng đang lững thững trên bở Hồ Tây, bỗng có mấy thầy khoá bước rảo lên theo sát ở đằng sau. Rồi các thày giở giọng chớt nhả ra trêu ghẹo nàng. Có thày lại hứng trí tung cả văn chương chữ nghĩa ra nữa.

Xuân Hương thấy họ trêu ghẹo thì vẫn lặng thinh không nói gì. Nhưng đến khi nghe cái thứ “thơ thẩn” nửa mùa ấy thì không nhịn được nữa, nàng mới quay lại, đọc dồn cho các thày một bài thơ rằng:

 
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ.
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa!

 
Bấy giờ, các thày khoá nghe giọng thơ thì biết ngay là Hồ Xuân Hương. Riêng thày đọc thơ lúc nãy thì thẹn chín người, vì đã trót đánh trống qua cửa nhà sấm. Rồi sau đó, các thày bấm nhau lui lại để cho Xuân Hương đi trước.

(Trích theo HOÀNG NGỌC PHÁCH
– KIỀU THU HOẠCH: Giai thoại văn học
Việt Nam
, Nxb Văn học, 1988)
__________________


<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.11.2008 12:53:17 bởi lyenson >

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 19.11.2008 20:39:45
KHÓC TỔNG CÓC

Nghe nói Hồ Xuân Hương có lần lấy lẽ một viên đại tổng tên là Cóc, nhưng cuộc hôn nhân không bền. Tổng Cóc mất sớm. Hồ Xuân Hương làm bài thơ viếng trước khi rời bỏ gia đình này:
Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi,
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Ngàn năm khôn chuộc dấu bôi vôi. (1)


----------

(1) Gần đây, có tài liệu sưu tầm ở Vĩnh Phú (1989) cho biết Tổng Cóc tên là Nguyên Công Hoà, ở làng Tứ Xã (Nay thuộc huyện Phong Châu – Vĩnh Phú), còn gọi là Tổng Kình.

Làng Gáp (tên Nôm của Tứ Xã) truyền tụng nhiều giai thoại về Hồ Xuân Hương. Theo tài liệu ấy, xuất xứ bài thơ này khác hẳn, như các bạn sẽ thấy ở đề bài “Lời từ biệt Tổng Cóc” trong sách này.


CẢNH CÁO ANH ĐỒ


Có một anh đồ, tên là Hổ, vẫn đến nhà làm thân với Xuân Hương, có lúc giả vờ say rượu, dụng ý lần khân, sàm sỡ. Xuân Hương đọc thơ cảnh cáo:
 
Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay!


Mình là Hổ, mà cô ta lại bảo chốn ấy là hang hùm thì đau quá!
__________________


BĂM SÁU CÁI NÕN NƯỜNG XUÂN HƯƠNG
(*)
Này, anh này, trong cái nghề chúng ta, hay bắt được quả tang có những vị đã có sách in rồi hẳn hoi mà từ vị (Vocabulaire) rất yếu nghèo, thậm chí còn nhầm chữ nọ ra nghĩa kia nữa. Đúng thế anh ạ, ví dụ: sóingâu làm gì hoa nó có cánh mà khi nó chín, người ta lại viết nó nở. Ví dụ từ kép "nõn nường" thì lại hiểu nhầm thành từ kép "nõn nà", thật tình mà nói, khi đôi lứa trẻ tráng thương yêu nhau, thì có lúc cũng thấy cái nõn nường thành ra một sự nõn nà. Nhưng mà nó thật là khác nhau. Nõn nà chỉ cái tươi đẹp chung chung, còn nõn nường đi vào những con rất chi là cụ thể. "Muốn băm sáu cái nõn nường ấy ạ! - Khéo nõn nường chưa!".

Xin phép được chép ra đây một đoạn của Từ điển tiếng Việt của nhóm Văn Tân về "nõn nường": "Từ chỉ vật làm bằng gỗ, tượng trưng dương vật (nõn) và âm hộ (nường) do nhân dân ở miền Dị Nậu và Khúc Lạc (Phú Thọ) xưa làm ra để rước thần. Khi rước, những người khiêng kiệu vừa đi vừa hát "Ba mươi sáu cái nõn nường, cái để đầu gường, cái để đầu tay". Khi kiệu đến chỗ thờ thần, người ta tung nõn và nường cho mọi người cướp, con trai cướp được nường, con gái cướp được nõn là điềm tốt. Ba mươi sáu cái nõn nường, thành ngữ dùng để nói mỉa những người đòi hỏi những điều quá đáng".

Trong kháng chiến chống Pháp, tôi có thồ xe đạp qua mấy vùng Hiền Quan ả đào, và vùng Dị Nậu có trò nõn nường đó. Gần đây, chiều chiều có dịp nâng cốc rượu mạnh xinh xinh, đồng chí Tây và Đầm bạn bè lại hỏi tôi về những chuyện ấy. Thật là vui mà cũng khá vất vả. Ngoại ngữ của mình chỉ có chừng đó thôi, mà này lại phải nói ra về ba mươi sáu cái thứ đó (Lại xin phép mở cái dấu ngoặc mấy chữ băm sáu ta vẫn thường dùng - như băm sáu phố phường - Pháp cũng hay nói ba mươi sáu, vậy thì ai dùng trước ai, xin các bậc cao minh chỉ giùm cho). Giảng cho người nước ngoài hiểu sao cái của nữ lại gọi là cửa mình và cái của nam lại gọi là gậy thằng ăn mày, ố là là, khó thay cho kẻ giảng về "sự đời như cái lá đa...".

Lại nhớ hồi nhỏ được nghe lỏm các cụ quá chén cao hứng nói về những cái đó và đã hiện thực cái đó theo kiểu đố thanh giảng tục - trái với lối thông thường đố tục giảng thanh: "Múi bưởi, hạt hồng, rễ củ ấu - trông thì thèm, cho ăn thì giận", ấy là chưa kể những câu toàn nói lái!

Về thành ngữ: "Muốn gì muốn băm sáu cái nõn nường ấy à!" tôi cố hỏi kỹ một anh ở Tổng cục đường sắt quê ở làng Trúc Phê gần sát vùng sinh ra cái nõn nường đó. Thì được biết nõn nường là cái hèm của thành hoàng làng đó, dịp cúng bái là phải cúng rồi tung nó lên cho mọi người tranh cướp cho bằng được. Đàn ông cướp được cái nường, đàn bà con gái vớ được cái nõn thì coi là hạnh phúc sẽ tới với họ năm đó. Thời cũ của người An Nam xưa là lập gia đình rồi mà mãi chưa có con thì coi như là vô phước vô phúc. Cho nên giữa ngày hội làng, phải nắm được nõn nường. Nường là một cái mo cau đâm thủng một lỗ, nõn là khúc ngắn gỗ xoan (làm nhà). Đèn nến cúng tế tới một lúc thì tắt phụt cho gái trai chung **ng nhau, rồi lúc trở lại có ánh sáng, chủ tế mới tung cao đôi nõn nường ra trong tiếng vui nhộn mọi người, kể cả những anh ả tay không.

Thế giới quan, nhân sinh quan của Xuân Hương (Cổ Nguyệt) là một nhỡn quan nõn nường. Bất cứ cái gì, bất kể lúc nào và ở đâu, vẫn ngân vang lên chỉ nõn và nường. Câu nào, chữ vần nào cũng chỉ có mỗi cái sự như thế của cái ấy và cái nọ. Thơ Xuân Hương là một thứ hiện thực sâu sắc. Gọi nó ra như chụp ảnh, như chĩa máy quay phim vào. Đừng có tay nào nói nhảm gọi đó là lối hiện thực của chúng ta bây giờ - mặc dù đã có một ông Văn Tân (theo lời vạch ra của Xuân Diệu) kêu Hồ Xuân Hương chả có gì tiến bộ, chỉ có cái dâm tục (cụ thể là bài thơ Ông chồng Bà chồng vịnh hòn đá phong cảnh nọ đè lên hòn đá cảnh kia).

Chao ôi, Xuân Hương, người đàn bà độc đáo, nhà thơ vô song hiện thực trữ tình! Cái hiện thực của sự sống, đa âm đa dương. Có anh bạn uyên bác liền cười cười hỏi luôn "vậy chớ ông, khi nói về bà đó, có định nói thêm về những libiđô của Phơrôi (Freud)? và ông có nghĩ Bà Đẹp hay không Đẹp?".

Có, đã có nghĩ tới những khía cạnh này ở Hồ Xuân Hương. Nhưng thôi, hãy tạm chấm dứt ở đây.

(Theo NGUYỄN TUÂN)

----------


DÂM HAY TỤC ?
 
Đối với Hồ Xuân Hương một vấn đề xưa nay được bàn cãi nhiều, và có nhiều ý kiến đối lập gay gắt là thơ của bà có dâm có tục hay không? Người nào chủ trương thơ Hồ Xuân Hương không có gì là dâm tục, thì thường hết lời ca ngợi, coi những sáng tác của bà như những khám phá kỳ diệu. Còn trái lại, người nào coi thơ bà là dâm là tục thì thường dè dặt, thậm chí phê phán, mặc dầu về tài năng của bà, nói chung ai cũng thừa nhận.

Để giải quyết vấn đề này, điều căn bản trước hết, phải xác định cho đúng những sáng tác nào đích thực của Hồ Xuân Hương. Không có sự phân biệt cần thiết, cứ xô bồ, coi tất cả những bài như Đánh cờ người, Vịnh ông quan võ… là của Hồ Xuân Hương, rồi kết tội nhà thơ, thì lời kết tội có thể đúng, nhưng nó không đúng đối với Hồ Xuân Hương. Nhưng sau khi đã chọn lựa, xác định thơ Hồ Xuân Hương rồi thì ta thấy gì về vấn đề này?

Rõ ràng một điều không ai chối cãi được là trong sáng tác của Hồ Xuân Hương có một cái gì không bình thường. Trong những bài như Đá Ông chồng Bà chồng, Dệt cửi, Đánh đu, Đèo Ba Dội, hay một số bài khác như Cái quạt, Quả mít… nhà thơ muốn nói đến cái này, đồng thời lại muốn nói đến cái khác, nói đến chuyện riêng của phụ nữ và chuyện riêng trong buồng kín của vợ chồng. Tính chất hai mặt là một dụng ý của nhà thơ chứ không phải tình cờ. Không nên vì bênh vực nhà thơ mà phủ nhận cái “nghĩa ngầm” không mấy che đậy ở những bài thơ ấy.

Ai cũng biết Hồ Xuân Hương là một nhà thơ sắc sảo tài hoa, giàu sức sống, mà luôn luôn bị cuộc đời chèn ép về mọi phương diện, về tinh thần, về tình cảm, về cuộc sống bản năng… điều đó làm cho nhà thơ vừa phẫn nộ lại vừa khao khát một cái gì. Chắc chắn những phụ nữ khác ở vào cảnh ngộ của Hồ Xuân Hương cũng sẽ có những khao khát như bà. Nhưng lễ giáo phong kiến và tập tục hàng nghìn đời trói buộc, dần dần họ quen với sự nhẫn nhục chịu đựng, không dám ý thức về những khao khát của mình. Phải có cái dũng cảm, táo bạo như người lao động trong văn học dân gian mới dám nói lên cái khao khát cháy bỏng ấy bằng lời. Hồ Xuân Hương gắn với bản lĩnh của người lao động, thêm vào đó với tính cách sắc sảo của mình, bà sẽ không hiền lành ao ước hay chờ đợi: “bao giờ lão móm chầu trời, thì em lại lấy một người trai tơ”, mà bà viết thẳng những cảnh ấy:

Trai du gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Đôi hàng chân ngọc duỗi song song…


Hay là:
 
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
Một suốt đâm ngang thích thích mau…


Đọc những câu thơ này ai cũng thấy cái khao khát của nhà thơ về một tình yêu vật chất, tình yêu thể xác. Nhưng đừng vội nghĩ nói đến tình yêu thể xác, nói đến chuyện trong buồng kín của vợ chồng là dâm đãng.

Nghệ thuật quyết định chủ yếu không phải ở đề tài.

Trong thời cổ đại và thời Phục hưng ở Châu Âu đâu có hiếm những tác phẩm điêu khắc cùng đề tài với Hồ Xuân Hương mà nhân loại coi là những kiệt tác. Trong tác phẩm Mười ngày của Bôccaixiô cũng không ít những trang mô tả những cảnh trong buồng kín của vợ chồng còn trực tiếp hơn Hồ Xuân Hương, nhưng có ai coi Bôccaixiô là dâm đãng? Nhu cầu về cuộc sống bản năng cũng là một nhu cầu chân chính của con người, xã hội phong kiến phủ nhận nó, nên con người mới phản ứng chống lại. Ở Hồ Xuân Hương có cái gì quá đà, nhưng đặt trong bối cảnh của xã hội phong kiến phương Đông chịu ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo, thì chính đó lại là một sự chống trả quyết liệt. Hồ Xuân Hương nói nhiều đến dục vọng thể xác, nhưng bà thể hiện những dục vọng ấy trong sáng tác một cách “lành mạnh và khoẻ khoắn” (1).

Đọc thơ Hồ Xuân Hương, người ta thấy nhà thơ bao giờ cũng tỉnh táo, bà đứng cao hơn hiện tượng mình miêu tả để miêu tả; và với một tâm hồn nghệ sĩ thực sự, nhà thơ bao giờ cũng phát hiện được những khía cạnh thẩm mỹ trong đối tượng miêu tả của mình. Sáng tác của Hồ Xuân Hương là nghệ thuật chân chính, là “sáng tạo theo qui luật của cái đẹp”, nên nó không có gì giống, không thể so sánh với loại “sáng tác” khiêu dâm.

(Trích Lời giới thiệu Thơ Hồ Xuân Hương) (2)

NGUYỄN LỘC


----------

(1) Chữ dùng của Ăngghen khi nhận xét về thơ của nhà thơ Đức Ghêoóc Véc. Ăngghen viết: “Cái làm cho Ghêoóc Véc trở thành một bậc thầy, cái mà khiến cho ông vượt qua Hainơ, cái mà trong văn học Đức ông chỉ thua Gớt, đó là sự biểu hiện của một dục vọng thể xác lành mạnh và khoẻ khoắn…” Xem bài Chant du compagnon de Georges Weerth (1846) trong cuốn Sur la litterature et l’art của Marx và Engels.

(2) Nhà xuất bản Văn học, 1982.
__________________


KHỐI TÌNH CỌ MÃI VỚI NON SÔNG


Có ai đó đem gán câu đối này cho Xuân Hương :
 
Giang tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài


Nhưng thơ Xuân Hương vốn xa lạ với lối đại ngôn kiểu đó, mà bình dị, tự nhiên – không phải khẩu khí mà là huyết khí, với khi chất riêng của mình.

Không ít người muốn rằng câu đầu trong bài Đề miếu Sầm Nghi Đống nên đọc là : Liếc mắt trông ngang thấy bảng treo.

Nhưng miếu này ở trên gò cao làm sao trông ngang mà thấy được. Mà trông ngang thì có gì đáng nói? Thiết tưởng không cần phải làm cái việc “hiệu đính” như trên, mà cứ nên đọc như vốn dĩ :

Ghé mắt trông lên thấy bảng treo


Ghé mắt nói lên được sự ngẫu nhiên, không chủ tâm, còn liếc mắt thì chẳng đường hoàng chút nào, mà Xuân Hương bao giờ cũng sòng phẳng, không quanh co :
 
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.


Thì ra vấn đề không chỉ liên quan đến viên bại tướng Tàu mà còn là để tỏ thái độ đối với chế độ nam tôn nữ tỳ là chủ đề còn trở đi trở lại trong nhiều bài thơ khác.

Cũng có sự tồn nghi về bài Chùa Trấn Quốc, có người cho là của bà huyện Thanh Quan, nhưng thơ bà huyện vốn nề nếp – Xuân Diệu nói thơ viết ra như có lọng che – chứ không gầm, không lộn kiểu Xuân Hương :
 
Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng
Một dải tang thương nước lộn trời


Đến đây tôi cũng muốn liên hệ với bài Thanh minh cho Tổng Cóc (Kiến thức ngày nay, số 63) cho rằng Tổng Cóc là người tử tế, lẽ nào Xuân Hương lại khóc chồng tai quái như thế. Nhưng chính như thế mới là Xuân Hương. Thơ ấy nằm trong phong cách chung của Xuân Hương, khó lẫn lộn vào đâu và với ai khác. Còn Tổng Cóc không phải là chồng sao lại có câu : “Thiếp bén duyên chàng có thế thôi” ? Ông phủ Vĩnh Tường chắc là khá hơn Tổng Cóc, nhưng Xuân Hương khóc ông cũng khác thường lắm.

Khóc thì khóc nhưng vẫn nghĩ đến chuyện tái giá :
 
Hai bảy tháng trời đà mấy chốc

Ngoài hai bài Khóc Tổng Cóc Khóc ông Phủ Vĩnh Tường, còn hai bài thơ khóc chồng nữa, và điều này không ngẫu nhiên chút nào. Chết chồng, goá bụa ở thời đại nào cũng là lệ rơi và đau thương, nhưng với Xuân Hương đó là dịp để “bỡn” (Bỡn bà lang khóc chồng) và hạ lời khuyên :
 
Nín đi kẻo thẹn với non sông !


Đáng thẹn không phải ở chỗ thương khóc chồng mà đằng sau tiếng khóc “tì ti” là tâm lý tự ty, ỷ lại, hoang mang mà Xuân Hương cho là không xứng đáng ở người làm vợ nói riêng, ở nữ giới nói chung. Xuân Hương đâu phải gỗ đá. Ngược lại, ít ai có khao khát quan hệ và tình nghĩa lứa đôi chân thành và thiết tha như Xuân Hương. Đâu phải đơn thuần là chuyện mời trầu :
 
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi


(Mời trầu)Mà còn là mời tình, mời nghĩa, cảnh giác với thói bạc tình, bạc nghĩa :

Chuyến đò nên nghĩa sao không nhớ
Sóng nữa hay là một chuyến thôi

(Qua sông phụ sóng)
Chê trách cũng không ngoài chuyện tình, chuyện nghĩa :
 
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa
Mảnh tình một khối thiếp xin mang


(Không chồng mà chửa)Thời Xuân Hương, người phụ nữ là nạn nhân của chế độ gia trưởng nam tôn nữ ty, không được hoạt động xã hội, không được ở trong bộ máy nhà nước, không được học hành thi cử, chịu thiệt thòi đủ đường cả ngoài xã hội cũng như gia đình : tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Số phận hẩm hiu, bi đát của giới phụ nữ là chủ đề của những sáng tác lớn nhất đương thời :
 
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên


(Chinh phụ ngâm)

Oan chi những khách tiêu phòng
Mà xui phận bạc nằm trong má đào


(Cung oán ngâm)

Đau đớn thay phận đàn bà

(Truyện Kiều, Văn chiêu hồn)
“Vì ai gây dựng cho nên nỗi này, Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu”. Vì ai. Tại đâu ? Không ai biết được, đành đổ lỗi cho số kiếp, biến vấn đề xã hội, vấn đề chế độ thành vấn đề siêu hình : hồng nhan bạc mệnh, tạo vật đố toàn… Nhưng đâu phải chỉ có hồng nhan, chỉ có tài sắc mới chịu sự đánh ghen của tạo hoá? Chẳng qua vì “Nổi danh tài sắc một thì” nên tên tuổi, số phận của họ mới được biết đến, như Dương Quí Phi, Tây Thi, Tiểu Thanh, như người thiếu phụ trên bến Tầm Dương… nhờ có văn nhân thi sĩ mà để lại mối “trường hận” cho muôn đời. Trong tiếng kêu than, oán trách, hay niềm thương cảm xót xa, “Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa”, ít nhiều đã có mầm phản kháng, bắt đầu từ ca dao và đạt tới đỉnh cao là với Xuân Hương.

Các bài thơ khóc chồng kể trên là nằm trong cảm hứng chế diễu, thách thức chung của thơ Xuân Hương trong hoàn cảnh xã hội phong kiến. Có thể coi Xuân Hương là ngòi bút đấu tranh cho “nữ quyền” lợi hại nhất, theo nghĩa là đã ngang nhiên hạ bệ toàn bộ giới đàn ông gia trưởng, từ “chú lái kia ơi biết chú rồi”, cho đến hiền nhân, quân tử, anh hùng, cho đến cả vua chúa, kéo họ ngang hàng, thậm chí dưới hàng phụ nữ, vạch cho thấy học phụ thuộc vào phụ nữ, phụ nữ là không thể thiếu được cho họ có được niềm hạnh phúc và lạc thú ở đời :
 
Mát mặt anh hùng khi đứng gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa


(Vịnh cái quạt)
Đã có một thời, người ta cho thơ Xuân Hương là dâm, là tục, đem quy vấn đề xã hội, vấn đề nhân văn trong thơ Xuân Hương thành một vấn đề sinh lý đơn thuần. Yếu tố dâm, tục (?), nếu có, thì cũng chỉ là phương tiện, mà cứu cánh lá một vấn đề nghiêm túc qua cái vỏ cười cợt bên ngoài. Mặt khác, đã là tình yêu, là khát vọng lứa đôi, đã là thiết tha tình nghĩa với nhau thì đặt vấn đề dâm hay không dâm, nếu không giả tạo thì cũng mấp mé chủ nghĩa khổ hạnh. Thời thanh niên sôi nổi thì cái chuyện “yêu đêm… yêu ngày”, chiến đứng… chiến ngồi” trong giai đoạn trăng mật ban đầu kể ra khó tránh. Mà có cần phải tránh không? Đành rằng sự thật đời sống là một việc, còn viết ra là một việc khác, nhưng né tránh không phải là việc của Xuân Hương, Xuân Hương muốn sòng phẳng, chống đối đặc quyền ăn nói cũng như thói đạo đức giả của bọn đàn ông đương thời. Hơn nữa làm sao lại không thấy chất sống, chất thơ linh lung khêu gợi trong các hình tượng hai mặt nó mà làm nên ma lực không cưỡng lại nổi của “bà chúa thơ Nôm”.

Thơ không là khái niệm, cũng không đơn thuần là tiếng nói của tình cảm, mà còn là ấn tượng, là rung động, là giác quan được thức tỉnh, khấy lên sự sống ở dạng trần tục cũng như ở dạng thăng hoa bay bổng nhất. Ăngghen vốn rất coi trọng giá trị hiện thực, giá trị tư tưởng của sáng tác, chính Ăngghen đã viết : Điều mà Véttơ (Georges Weerth) đã vượt hẳn Hainơ (bởi vì Vettơ lành mạnh và thực hơn), điều mà trong nền văn học Đức, Véttơ đã biểu hiện một tính nhục cảm và những thèm muốn nhục cảm thật là lành mạnh và cường tráng (tôi gạch dưới – L.Đ.K)… khi người đọc chúng ta đọc những bài thơ của Phrayligrat, thật tình người ta có thể tưởng là con người không có bộ phận sinh dục… quả thật đã đến lúc những người công nhân Đức ít ra cũng quen nói đến những việc tự nhiên, cần thiết và vô cùng thú vị mà chính họ, họ cũng làm ban ngày hoặc ban đêm, một cách tự do không kém gì dân tộc Latinh, Hôme và Platông…” (K. Mác, Ăngghen Về văn học nghệ thuật – Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 372-373). Chính Xuân Hương đã có được cái “lành mạnh” và “cường tráng” mà Ăngghen rất tán thưởng ở nhà thơ vô sản Véttơ.

Tình yêu là sự hoà nhập vào nhau của hai tâm hồn và thể xác, nếu khác đi, nếu :
 
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất
Miệng túi càn khôn khép lại rồi.


(Khóc ông Phủ Vĩnh Tường)
Thì chỉ còn là mông lung sương khói mà thực tế sớm muộn sẽ chóng xua tan. Nhưng nếu từ đó mà rơi vào cực khác, gạt mọi ước mơ khát vọng cao đẹp hướng tới cái hay, cái đẹp, cái hoàn thiện thì sẽ không tránh khỏi rơi vào chủ nghĩa tự nhiên, không còn sáng tạo theo quy luật của cái đẹp, không còn tình yêu đích thực, xứng đáng với danh nghĩa làm người nữa.


(Theo LÊ ĐÌNH KỴ)
__________________

<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.11.2008 13:00:53 bởi lyenson >

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 26.11.2008 13:05:59
KHÁCH VĂN CHƯƠNG Ở
PHƯỜNG KHÁN XUÂN

(Truyện ngắn)
Lầu quán ở Khán Xuân, giáp Tây Hồ mọc lên rất nhiều. Đây là nơi du ngoạn của những người có tiền, những kẻ hào hoa phóng túng, hoặc đang có những u uất chưa cởi được. Những nỗi đau đời cần gặp một người tri kỷ đôi hồi. Những văn nhân có tiếng cũng thường hay đến đây. Có cả những người có tiếng tăm như Chiêu Hổ, Nguyễn Án, người nổi tiếng đặt bút thành văn, hoặc những lão đồ gàn chữ ít nói nhiều, ồn ào quá mức.

Quán Cổ Nguyệt mới dựng lên, mà tao nhân mặc khách đã đông lắm. Nữ chủ nhân tung tích ở đâu, chẳng rõ, tuy không đẹp mê hồn như những kỳ nữ, hoặc có những tài hoa riêng nhở giọng hát mà cách sống buông thả phóng túng như cô Cầm (1). Nàng Xuân Hương nhìn bề ngoài không cuốn hút lắm, nhưng càng nhìn càng ưa, bởi những nét rắn rỏi khác thường trên gương mặt đàn bà, nét dạn dĩ của người từng trải. Nghe đâu Xuân Hương rất hay chữ. Chẳng thế mà ông tri phủ Vĩnh Tường đã chết mê chết mệt về nàng, cưới nàng về bằng được, chấp cả lời dị nghị.

Ông yêu nàng rất mực, thứ gì cũng chiều. Ông đưa nàng du ngoạn ở khắp những danh lam thắng cảnh, nơi ông trị nhậm. Vùng đất của ông sát kề núi Tam Đảo, phía bên kia là thành Tam Đái, một dải đê – đất náu ẩn của cánh đầu trộm, đuôi cướp trên sông, phía bên phải là đám lục lâm, tản mát thì thành một đám cướp nhỏ, tụ hội thì thành Quận Hẻo, Quận He, triều đình đánh dẹp cũng còn khướt.

Từ khi quân Tây Sơn đổ ra Bắc, lối ăn chơi khá hào hoa, họ thường sà vào những nơi đô hội ở băm sáu phố phường, thì cái xóm ăn chơi ở phương Khán Xuân tĩnh lặng hơn. Từ ngày ông phủ Vĩnh Tường mất, miền Tam Đái không được yên ổn, nàng Xuân Hương bị gia đình vợ cả quan phủ ruồng rẫy. Tức khí, nàng bỏ hết, tay nải gió đưa, xuống thuyền về ngay kinh thành, mua một miếng đất, dựng ngay một quán hàng, cũng xênh phách, cũng rượu ngon, nhắm tốt. Cô dốc tiền rủ về được mấy cô đào hát cũng hay hay. Tính nết mau mắn, hay bông đùa, cho nên quán mới khai trương mà đã có nhiều người tò mò lui tới. Người nọ truyền người kia, chẳng mấy chốc mà hoá ra có tiếng.

Rửng mỡ có mấy ông quan thị, gặp buổi nhà Tây Sơn vào thành, vua Lê ốm đau, các cung tần, mỹ nữ hầu hạ quanh vua, loại cao không tới, thấp không xong, rỗi hơi rủ nhau tìm đến Khán Xuân, lúc thuê thuyền chơi trên hồ, lúc vào quán trà dư, tửu hậu, giọng nói eo éo, thơ thẩn phun ra rông rổng toàn thơ con cóc, mà cứ vỗ ngực khen hay. Xuân Hương không thể nhịn cười được khi thấy họ ra đầu đề thi nhau vịnh Quán Trấn Vũ. Một ông đọc :
Xem này Trấn Vũ Quán đông vui
Tấp nập vào ra đến lắm người
Tướng lớn đen xì ông hộ pháp
Hoá vàng đỏ loét lửa ma trơi.

Một ông khác nối vần :


Cây xanh mấy gốc trơ thân cụ
Voi đắp hai con vểnh mấy vòi
Dăm tiếng mõ chiều kêu lốc cốc
Ao chài cá mổ thật tanh hôi.


Mấy ông quan thị ngâm nga, anh nọ khen anh kia tài ngang Lý Bạch, Đỗ Phủ, liên tiếp gọi rượu, gọi bà chủ đến đọc thơ cho mà nghe, tay lại còn định bá vai, chộp ngực, Xuân Hương cũng phải chiều, nhưng trong lòng bấm bụng cười thầm. Vốn tài mẫn tiệp, nàng nhẩm ngay được một bài thơ về lũ nửa người nửa ngợm.

Bọn quan thị vừa ra, bỗng có một người dáng thanh tú, đầu vấn khăn nhiễu tam giang chít chữ nhân, mặc áo thụng xanh, thắt đai đỏ, trông rất phong độ… Xuân Hương hơi giật mình. Nàng chưa thấy ai có đôi mắt đen và sáng, vầng trán cao mà nhuần nhị đến như thế. Nàng chủ động cúi mặt chào :

– Đại quan nhân quá bộ vào trong nhà. Tiện thiếp rất vinh hạnh được ngài chiếu cố đến…

Chàng khoảng ngoài ba mươi tuổi, da trắng hồng đầy dáng vẻ hào hoa của một người đã lịch lãm ở đô thành.

Chàng nói :

– Có phải nàng là chủ quán. Nàng chính là Xuân Hương ?

– Thưa ngài vâng ạ.

– Đừng gọi tôi thế, khách sáo quá. Tôi nghe nàng là phu nhân của quan phủ Vĩnh Tường, một vị quan phụ mẫu vào loại vịn vai đời mà sống. và nàng cũng là một bậc nữ lưu tài danh…

– Quan nhân cứ quá khen. Tiện thiếp vốn chỉ được theo đòi dăm ba chữ. Người đời yêu mà đồn đại thêm mà thôi.

– Tôi là Đình Hổ, họ Phạm, bạn bè quen gọi là Chiêu Hổ.

– Ôi chao ! Xuân Hương này hạnh phúc biết nhường nào. Gia thanh của quan nhân đất Hà Thành này ai chẳng biết. Tiện thiếp đã được trộm đọc những áng văn của ngài viết về cách thưởng trà, thưởng lan thật là sành, khiến đọc qua văn biết người, nay mới được thấy mặt.

Nàng đích thân đem rượu đến, rót mời Chiêu Hổ. Cách tiếng xúc của nàng khiến Chiêu Hổ thầm ưng ý. Bọn đàn bà ở trong phủ này, phủ nọ thường làm ra vẻ quyền quý, mà dốt nát hợm mình. Những tiểu thư ở băm sáu phố phường, người thì rụt rè, cổ lỗ, kẻ lại đài các, kiêu sa… Chiêu Hổ lặng ngắm nàng, càng nhìn càng ưa… Chuyện trò ngày một mặn mà. Hai người có vẻ tâm đầu, hợp ý, buổi sơ kiến đã nói gần hết cho nhau, những điều đáng lý phải quen lâu mới nói. Vui chuyện Xuân Hương lại kể đám quan thị vào chơi và đưa cả bài thơ viết dán lên vách cho Chiêu Hổ xem.

Chiêu xem xong, cười ầm lên, cười rất thích thú và nói :

– Bọn này cũng quấy quả nàng lắm nhỉ ?

Xuân Hương nói :

– Mở quán thì phải chiều khách, biết làm sao được, thưa ngài. Xin ngài đừng cho là hỗn. Tiện thiếp cũng đã phải nhịn hết sức mới khỏi bật cười. Cái đám thơ thẩn dở hơi, thân thế dở hám, lũ quan thị ấy, đã khiến thiếp nảy ra một bài thơ.

– Nàng đọc tôi nghe xem nào !

Nghe xong câu nói đã có chiều thân mật, Xuân Hương mỉm cười đọc :
 
QUAN THỊ

Mười hai bà mụ ghét chi nhau
Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu,
Rúc rích thây cha con chuột nhắt
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu.
Đố ai biết được vông hay trốc
Còn kẻ nào hay cuống với đầu
Thôi thế thì thôi, thôi cũng được
Ngàn năm càng khỏi tiếng nương dâu…

 
Vừa nghe xong, Chiêu Hổ, vốn sành thơ bất ngờ kêu thốt lên :

– Trời ơi, hay quá ! Hay quá ! Xin nàng cho nghe thêm một lần nữa.

Xuân Hương rất mừng được Chiếu Hổ khen, nàng đọc lại. Bấy giờ xem ra nàng có vẻ bẽn lẽn. Nghe rồi, Chiêu Hổ thừ ra ngắm nàng. Ông lại hỏi :

– Chắc là nàng còn có nhiều bài thơ khác nữa ?

– Cũng có, nhưng không nhiều lắm.

– Cho tôi xem được không ?

– Nếu được bậc danh gia chỉ giáo thì Xuân Hương tôi vinh hạnh biết chừng nào.

Nàng vào trong nhà lấy tập thơ chép tay ra, đưa cho Chiêu Hổ. Chiêu Hổ định xem ngay, nhưng nàng ngăn lại, nói :

– Xin quan nhân đem về nhà hãy xem, mấy khi thiếp có được cuộc gặp gỡ như thế này.

Chiêu Hổ nhìn nàng, âu yếm nói :

– Nếu có một nữ sĩ tài sắc làm bầu bạn trong thời buổi nhiễu nhường này, chắc là tôi còn đến…

Xuân Hương rót rượu mời Chiêu Hổ, nàng cũng nhắp đôi chút để tiếp ông, rồi hỏi :

– Vừa rồi, Hải Thượng Lãn Ông từ Nghệ An ra làm khuấy động kinh thành về tài thuốc lẫn tài văn. Thiếp có đọc Thượng Kinh Ký sự, rất chú ý đến những bài thơ. Ý tiên sinh như thế nào ?

– Đó là một ông già đáng trọng, nghề thuốc là đại danh y. Thượng Kinh Ký sự ghi chép, nhận xét thế là giỏi. Nhưng thơ thì chán lắm.

– Theo quan nhân, thì tài ở trong nước này như thế nào ?

– Tôi ít đọc thơ và thú thật ít giao du với các thi nhân. Ông Nguyễn Du em ông Nguyễn Khản ư ? Ông Phan Huy Ích, ông Ngô Thì Nhậm ư ! Tài của họ ghê gớm đấy chứ, nhưng họ còn mải vào đường chính trị. Tôi có đọc Sơ kính tân trang của Phạm Thái, mối tình thật đẹp nghĩ mà thèm, thơ thế mới hay, còn như Chiến tụng Tây Hồ phú, chẳng qua họ Phạm thích nhà Lê ghét nhà Tây Sơn mà cãi chầy cãi cối thôi…

Xuân Hương nhìn Phạm Đình Hổ đắm đuối, lòng nàng đang xao xuyến.

Chiêu Hổ về đọc thơ Xuân Hương. Ông trăn trở suốt đêm không ngủ. Nữ sĩ có tài ở nước Nam này đếm trên đầu ngón tay. Thơ của nàng chẳng giống một ai trước nàng, cùng thời với nàng và sau nàng cũng thế ! Ông suy nghĩ lâu lắm. Mà con người thì có vẻ đanh đá, bất cần đời, lật ngược tôn ti trật tự giữa đàn bà với đàn ông, giữa sang và hen, giữa thực và ảo, càng đọc càng hay, càng phục.

Mờ sáng hôm sau, ông đã cầm tập thơ của Xuân Hương, gọi cáng đến phường Khán Xuân, Xuân Hương đêm qua trằn trọc ngủ không yên. Cái dáng người phong nhã, uyên bác đã làm cho nàng xiêu lòng, mặc dù tang ông phủ Vĩnh Tường vẫn chưa hết. Nàng là người ghét lễ giáo nhất. Sao tất cả cứ ràng buộc người ta vào nghi thức. Con trở cha phải đúng ba năm, sau ba năm nối tang thì lại cũng không được phép lấy chồng, lúc đó người con gái đẹp cũng hoá ra kẻ lỡ thì… Như Xuân Hương cũng thế, được ông Phủ yêu quý là thế, nàng rất biết ơn, song cái cảnh ban ngày thì ông phủ là của công đường, ban đêm thì của bà cả, phận lẽ mọn hẩm hiu. Đường đường một vị quan lớn, ông Phủ vẫn luôn giữ nền nếp gia phong, tôn ti trật tự. Ông vẫn ngồi ăn cơm với bà cả, còn mình nhận làm lẽ vẫn cứ phải đôn đốc coi sóc quân hầu, đầy tớ. Mấy năm chung **ng, ông Phủ đến với nàng cứ lấm lét như người vụng trộm. Có buổi biết ông đang say mê thơ phú với nàng, bà cả lại bịa ra một việc gì đó, cho người triệu ông về để định liệu công việc, thế là ông lại đứng dậy ra về…

Chiêu Hổ, xem ra là một người vừa nghiêm trang vừa phóng túng. Cái nhìn đắm đuối bữa qua, nhất là ông cứ đau đáu ngắm nàng, khiến Xuân Hương chợt có ý vừa nghiêm túc vừa phá phách. Nàng chua chát nghĩ rằng, chắc vị quan nhân cũng rất mến mộ văn chương và cũng có bề háu gái... nhưng ta nào đã bao giờ có tình yêu ! Nàng nghĩ thế. Nếu như một cuộc tình ngắn ngủi với một người đáng dâng hiến thì cũng hay lắm chứ !... Còn cái tang ông Phủ ư ! Đã yêu thì làm sao mà ngăn được...

Thấy Chiêu Hổ đến, Xuân Hương bối rối, rộn ràng hẳn lên. Nàng biết mình đã yêu. Buổi sáng quán không có khách. Xuân Hương cho gọi trà cùng uống ở đầu hồi, rồi lại bắt con hầu đem rượu ngon ra uống. Chiêu Hổ lấy tập thơ của Xuân Hương ra, nhìn trước nhìn sau, không thấy ai, ông nắm lấy tay nàng mà nói :

– Không ngờ Chiêu Hổ này lại được là người đầu tiên đọc tập thơ này. Đọc rồi cứ ngẫm nghĩ rằng, nàng sống chắc là khổ lắm ?

Xuân Hương cảm động, không rụt tay về. Nàng nói :

– Làm sao quan nhân biết ?

– Thơ chính là tiếng nói tự đáy lòng mà thốt ra, giấu nổi ai đâu. Bây giờ tôi mới hiểu những lời mà trong đám tao nhân, mặc khách đàm tiếu về nàng.

Xuân Hương cảm thấy dễ chịu. Nàng thấy Hổ cũng là người thành thực, nàng hỏi :

– Người đất Long Thành nói gì về thiếp ?

– Họ truyền tụng thơ nàng, nhiều người chép tay. Người thí phát khùng lên, không chịu nổi, cho là thơ dâm ô, trác táng… không những họ ghét nàng, ghét thơ nàng, mà ghét cả ai ca tụng và chép thơ nàng nữa.

– Còn quan nhân thì sao ?

– Sao nàng còn phải hỏi ? Làm được một bài thơ hay đã khó, huống chi tự mình lại đặt được một lối thơ riêng không giống bất cứ người nào !

Xuân Hương cảm động lắm. Chiêu Hổ đã đoán nhận ra những nét giao cảm. Ông ngắm nhìn nàng, cái nhìn đắm đuối của người tài gặp người đẹp. Bất chợt ông nói :

– Chúng ta là những người đi khác luồng những người đang sống. Người thì hám quan chức, kẻ thì hám tiền tài. Chúng ta sống bằng chữ nghĩa, vương giả với chữ nghĩa; hợm mình, kiêu bạc bằng chữ nghĩa, cho nên người đời nhìn ta bằng những con mắt nửa trọng, nửa ghét, nửa muốn chơi, nửa muốn hại… Ngay cả đám văn chương rởm, tưởng là ở phía chúng ta, mà kỳ thực lại là lũ ong tay áo, nàng thấy thế nào ?

Xuân Hương sững sờ, nhìn Chiêu Hổ đắm đắm. Nàng biết không cưỡng nổi mình nữa. Nàng rót rượu cho Chiêu Hổ, nhưng ông đã cầm tay nàng kéo về lòng mình mà nói :

– Tôi chắc nàng cũng đơn thương độc mã như tôi… và ông ôm ghì lấy nàng.

Xuân Hương nhìn ra, khẽ đẩy tay ông, mặc dù nàng thấy ấm áp, nàng khẽ nói, giọng rất dịu dàng :

– Đừng, quan nhân, em ngại lắm ! Em đang có tang chồng !

Nhưng Chiêu Hổ đời nào lại buông nàng ra…

Cuộc đi lại giữa hai người ngày càng dầy. Xuân Hương thầm khấn trời xui khiến mình trở lại đất Long Thành để có những giờ phút trước đây mình chưa bao giờ có. Trong số đông bài bác, chửi rủa thơ nàng, thì có một số người khác hết sức mến mộ… Nàng thấy ngay ở quán rượu của nàng, đã có lần những cuộc cãi lộn và cái thói hiếu thắng của đám sĩ phu, đã có lần xuýt nữa gây ra ẩu đả… Nhiều người đến quán rượu chỉ để xem mặt nàng, mong xướng hoạ với nàng… Quán của nàng đông hơn các quán xung quanh. Trò đời, hơn ai một chút là dễ bị kẻ mất phần ganh ghét, huống hồ nàng lại giành của họ cả tài lẫn danh. Nàng bất chấp. Có Chiêu Hổ là nàng có tất cả… Tuy nhiên, nàng cũng biết người, biết của, khéo chiều. Những ai mến mộ đến với nàng bao giờ nàng cũng tiếp đãi rất ân cần chu đáo. Đối với khách văn chương, có thú chơi tao nhã, nàng lấy tiền rượu, tiền nhắm với chút ít lời lãi… Bởi thế, quán của nàng lúc nào cũng đầy khách, từ sáng sớm đến tận khuya.

Dạo này quan Tổng trấn Bắc Thành đang ra sức thay mặt triều đình vỗ về dân chúng, chiêu mộ sĩ phu Bắc Hà… Lòng người vẫn còn tiếc nhà Lê, song với cái đám sĩ tử vẫn không thích nhà Tây Sơn thì có dịp ra làm quan, để kiếm lấy một thế đứng trong giới thượng lưu. Nghe nói Chiêu Hổ cũng là một trong những người được quan Tổng trấn trọng tài và lưu ý. Cuộc đi lại ngắn ngủi khiến cho Xuân Hương như một người hụt hẫng, nhất là từ khi Vũ trung tuỳ bút được văn nhân Bắc Hà coi như một áng danh văn, Chiêu Hổ ít khi lui tới đến nàng. Ông hay giao du với những đám nhà giàu sang, quyền quý. Nghe đâu, ông Tổng trấn đã dâng sớ lên nhà vua, tuyển ông vào quốc sử quán… ông càng ra sức giữ tiếng. Hồ Xuân Hương nghĩ chua chát, nhưng chẳng nói ra… Quán của nàng, sau một thời lui tới của kẻ sĩ, giờ đây vắng dần… Đám tao nhân mặc khách ít đi, thì cái đám phàm phu, tục tử lại sa đà. Nàng phó mặc cho đám quản gia, người giúp việc lo liệu tất… Nàng đã hết tang ông Phủ, về quê lo giỗ chạp, cát tang chu tất rồi mới trở lại với phường Khán Xuân. Nàng buồn lắm. Thơ của nàng hình như cũng trĩu nặng một nỗi buồn riêng :
 
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non;
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Ngán nỗi Xuân đi Xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tý con con.


Cái đám quan thị bữa nọ bị nàng chọv cho vẫn còn thù. Sau biến đổi liên miên, có đứa có điền trang lớn ở ngay khu Mười ba trại. hắn cho gia nhân đến đốt quán. Xuân Hương một đêm trắng tay… Cái mà nàng giữ lại chỉ còn có một chút bạc trắng… Dạo này đang đeo đuổi nàng lại có Tổng Cóc. Nhà gã giàu, cũng là một kẻ biết ăn chơi. Tổng Cóc người đất lúa, lấy lúa mà lo quan chức, khao cử mua danh vọng, mua ruộng; nay thả chim, mai mở hội chải, đỡ đầu cho một đêm hát ả đào trên sông… Vì thế bè bạn gọi đùa là Tổng Cóc. Gã lại đen đúa khó coi, người lại ngắn, nên có người ác miệng gọi là Tổng Cóc, và thế là thành tên, Tổng Cóc xấu người tốt bụng lại chết mệt Hồ Xuân Hương. Cóc hay lân la ở quán của nàng, nhiều lần bị đám văn nhân sĩ tử trêu chọc. Nhưng Tổng Cóc đem tiến, đem tre gỗ của mình dựng lại quán cho nàng, lại xui gia nhân đem đến năm mươi lạng bạc để nàng làm vốn, nàng rất cảm kích… Gần đây Tổng Cóc lại cầu hôn… Hàng quán ế ẩm. Văn chương dạo này cũng ít người ham hố bàn luận như lúc trước. Thương nhân mọc lên như nấm. đám quan lại theo triều Nguyễn từ miền trong ra, thường bận bịu về việc quan lại tiết kiệm, ít ném tiến qua cửa sổ như các quan chức thời Tây Sơn. Quán Văn Chương của Hồ Xuân Hương kém hẳn các quán rượu có hầu gái non do mấy mụ Tú Bà từ đâu mới đến mở quán là ô nhiễm cả phường Khán Xuân, vốn xưa nổi tiếng là xóm phong lưu hơn là xóm nguyệt hoa… Xuân Hương buồn lắm. Tổng Cóc vẫn đeo đẳng da diết. Thân phận lỡ thì biết làm sao. Tứ cố vô thân, làm ăn hụt hẫng thua lỗ, bạn cũ tình xưa đều chểnh mảng, biết làm thế nào. Xuân Hương những hôm vắng khách chỉ ngồi ở chiếc bàn buổi đầu tiên Chiêu Hổ gặp nàng mà uống rượu một mình. Nàng sợ hãi đến không cả giở đến những bài thơ của mình, đặc biệt là những bài thơ xướng hoạ với Chiêu Hổ, mà nàng coi như báu vật thiêng liêng nhất của đời nàng.

Nàng nhượng lại quán, định đi một cuộc ngao du sơn thuỷ, rồi sau này ra sao thì ra. Quán nàng đóng im ỉm. Quen lệ, Tổng Cóc nhớ Xuân Hương, đem gia nhân đến chơi, thấy quán cũ phá đi, người không còn đâu nữa… Chủ mới là một mụ béo phị đang hối hả dựng quán mới. cái lầu cổ nguyệt đơn sơ nhìn ra Hồ Tây, phía trước có vườn có cây cảnh, có chỗ ngồi thưởng nguyệt ngâm thơ đã bị phá đi cả…

Tổng Cóc dẫm chân than thở :

– Ta chỉ chậm chân một chút mà lỡ hết việc… Nhưng ta nhất quyết phải tìm, tìm cho được nàng…

Và lập tức con người hào hoa, tâm thần ấy làm một cuộc truy lùng, theo dấu vết của một bóng người ông hằng mến mộ… Cuộc truy đuổi lúc xuống thuyền, lúc lên bộ cũng long đong, trớ trêu như duyên phận của hai người.

NGÔ VĂN PHÚ
1994.
__________________

<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.11.2008 13:10:03 bởi lyenson >

lyenson
  • Số bài : 2686
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.06.2006
RE: HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI - 26.11.2008 13:20:33
ĐỜI TỨC LÀ VĂN, VĂN TỨC LÀ ĐỜI
XUÂN DIỆU

Hồ Xuân Hương sinh trước chúng ta vào khoảng hai trăm năm, và mất không biết vào lúc bao nhiêu tuổi. Nhưng trong văn học Việt Nam, cái tên Xuân Hương cứ gợi lên trong trí óc ta một người còn trẻ, ta cảm thấy gọi “bà” là không ổn, khác hẳn với bà Đoàn Thị Điểm, bà huyện Thanh quan; trong ý niệm của ta, Xuân Hương không bao giờ già; ta thích gọi bằng “nàng” bằng “cô”; đẹp hơn hết, ta muốn gọi bằng hai tiếng Xuân Hương, tên của nàng thơ.

Trong văn học Việt Nam trước Cách mạng, ít có tác giả nào đời mình gắn liền với tác phẩm mình khăng khít như Xuân Hương. Đời Xuân Hương với thơ Xuân Hương không chia tách nhau, mỗi đoạn đời là có thơ, đến trước mỗi cảnh vật lại mỗi có thơ; cho đến nỗi, cũng nhờ mối liên quan đó, mà chúng ta bây giờ, trước hiện trạng thiếu tài liệu về tiểu sử Xuân Hương, thì lần theo thơ mà dựng lại những chặng đời của tác giả. Nguyễn Hữu Tiến, trong quyển Giai nhân di mặc (1) có lẽ đã bằng theo các bài thơ làm mốc chính, thêm vào với những chuyện truyền khẩu, mà viết lại cái đời của Xuân Hương.

Chúng ta nay rất tức tối và đau đớn, đứng trước tình cảnh không biết ngày sinh tháng đẻ, năm mất của một thi hào như Xuân Hương, biết không đích xác về đời của Xuân Hương, nghi vấn cả về một số bài thơ không biết có phải là của Xuân Hương không. Có phải vì Xuân Hương không viết một quyển sách nào bằng chữ Hán, (2) cho nên trước kia không được liệt vào hàng tác giả ? Xuân Hương không viết tác phẩm bằng cái tiếng chính thống của chính quyền phong kiến xưa, không dùng cái ngôn ngữ Hán sang trọng kia, mà chỉ làm thơ “nôm na mách qué” thôi. Thơ Xuân Hương còn sống đến nay là nhờ ở sự bảo vệ của quần chúng nhân dân, họ không cất ở viện tàng thư, mà chủ yếu là cất ở trong trí nhớ của họ.

Xuân Hương là người đồng thời với Phạm Đình Hổ (Chiêu Hổ, 1768 – 1839), tức là sống cuối đời Lê, qua Tây Sơn, sang đầu Nguyễn. Xuân Hương ra đời sau bà Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748) và Lê Thước và Trương Chính (Văn nghệ số 428, ngày 24-12-1972), thì Xuân Hương có tặng thơ Nguyễn Du (sinh năm 1765).

Xuân Hương là con gái ông Hồ Phi Diễn, ở làng Quỳnh Đôi (Nghệ An), tức Xuân Hương là nguồn gốc xứ Nghệ. Mẹ Xuân Hương họ Hà, lấy lẽ Hồ Phi Diễn, thì quê ở Hải Dương. Xuân Hương là một người “lai”, là kết quả của sự hoà máu của miền Trung và miền Bắc. Xuân Hương sinh trưởng ở đất Bắc. Cha mẹ nhà ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận, Hà Nội. Nguyễn Hữu Tiến viết : “Nhà trông xuống Hồ Tây” – lại chú thêm : “Sau, Xuân Hương có thiên ra ở thôn Tiên Thị tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương, bây giờ là phố Nhà Thờ, gần đền Lý Quốc Sư”. Thế thì Xuân Hương là người Hà Nội. Đọc thơ Xuân Hương, có lẽ ta cũng thoáng thấy cái “tính cách Hà Nội” trong đó.

Vì ta không có tài liệu chính xác, nên không thể xếp cho chính xác trước sau các đoạn đời của Xuân Hương, nhưng các đoạn chính trong đời Xuân Hương thì đã soi đường, kết đọng trong những bài thơ, có thể dựa theo những đoạn chính ấy là :

1. THỜI CON GÁI ĐI HỌC CHỮ NHO – Các sách kể lại rằng khi cha nàng mất, nàng được mẹ nuôi cho ăn học. Đi học, hay có những chuyện tinh nghịch không thể tránh được giữa học trò, giữa hai thứ học trò con trai, con gái. Thời này, người ta truyền lại rằng một hôm Xuân Hương trượt chân ngã giữa sân, bọn học trò con trai cười rộ chế giễu, Xuân Hương ứng khẩu đọc ngay chữa thẹn :
 
Giơ tay với thử trời cao thấp,
Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài.


(Những lối thơ khẩu khí nói theo lối “to tát” này, ta không thường thấy ở thơ Xuân Hương; đây có thể chỉ là một giả thiết thôi).

Bài thơ Vịnh giếng, ta có thể tin là làm ở thời này : Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông,
Giếng tốt thanh thơi, giếng lạ lùng.
Cầu trăng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông.
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá diếc le te lách giữa dòng.
Giếng ấy thanh tân ai cũng biết,
Đố ai dám thả nạ dòng dòng ?


Trong bài, tài thơ đã rất cao, không non tay chút nào hết; nhưng tình thơ, tứ thơ còn ôm ấp một cái gì non tơ, mới mẻ; từ chiếc cầu trắng đến dòng nước trong đều “thanh thơi”, cỏ gà không phải là mọc cao, cá giếc không phải là quẫy mạnh; cái giếng rất thanh và tân. Tuy không có gì làm bằng chứng cả, nhưng ta sẵn sàng tin những người bảo rằng bài này làm lúc Xuân Hương còn đi học; đây là “thơ con gái” như “lúa con gái”.

2. THỜI TỔNG CÓC – Có thuyết bảo rằng Xuân Hương lần đầu tiên lấy chồng, lại bị ép uổng lấy một người cai tổng goá vợ, tục gọi Tổng Cóc (3) (lại có thuyết bảo lần đầu Xuân Hương lấy ông phủ Vĩnh Tường). Thời Tổng Cóc không có gì là vui; vì khi Tổng Cóc chết đi, Xuân Hương có một cái thở dài thoát nợ, như ngực vừa cất được một cái gì đè nén : Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi!
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé,
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi!


Xuân Hương đã khổ lắm với người này, thì mới lấy cái tên “Cóc” ra mà đay nghiến. Nòng nọc đứt đuôi, Xuân Hương bảo Tổng Cóc chết hẳn đi, chết không phản hồi; Xuân Hương muốn chôn ông Tổng Cóc hai lần, và bôi vôi vào, đánh dấu vào, thật là đào sâu chôn chặt!.

3. THỜI ÔNG PHỦ VĨNH TƯỜNG – Một người chồng nữa của Xuân Hương là một ông thủ khoa làm quan đến tri phủ Vĩnh Tường (thuộc tỉnh Vĩnh Yên), lấy nàng làm vợ lẽ. Trong cảnh lẽ mọn đó, Xuân Hương nào có được như cái hạnh phúc tuy ngắn ngủi nhưng cũng dạt dào của bà Đoàn Thị Điểm, ngoài ba mươi tuổi lấy vợ kế nhà danh sĩ Nguyễn Kiều, hai vợ chồng rất tương đắc, rất quý nhau (4). Xuân Hương, mặc dầu có một ông chồng hay chữ, rất khổ : Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!


Đến nỗi phải hạ một câu : Thà trước thôi đành ở vậy xong!

Thì cuộc tình duyên với ông thủ khoa thật cũng chẳng có gì vui sướng, và cũng chỉ được ít lâu thì chồng mất. Lần này Xuân Hương không khóc cộc lốc như đối với Tổng Cóc là một kẻ cường hào dốt chữ, mà nàng khóc, với bao suy nghĩ, một tiếng khóc nấc lại hai lần : “Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi!”. Nhưng bài thơ chững chạc, đĩnh đạc quá : Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi,
Cái nợ ba sinh đã trả rồi.
Chôn chặt văn chương ba thước đất,
Tung hê hồ thỉ bốn phương trời.
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất,
Miệng túi tàn khôn thắt lại rồi.
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc,
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi!


Những là “cán cân tạo hoá”, “miệng túi càn khôn”, thơ Xuân Hương thường không hay dùng chữ nhiều như vậy; cái tính cách “ông phủ” của người mất rõ quá; người thật yêu thương của mình chết, mình chẳng còn gan ruột đâu mà nói đến “cái nợ ba sinh đã trả rồi”. Bài thơ có tiếc thương, nhưng không rõ là yêu mến; trái lại, bài thơ nói về lấy lẽ rõ thực là tức tối, đớn đau. Hai đời chông của Hồ Xuân Hương, một lần một nông nỗi như vậy.


(1) Nghĩa là Nét mực lưu lại của giai nhân.

(2) Sau hồi Xuân Diệu viết bài này, người ta mới phát hiện ra Lưu hương ký có nhiều căn cứ đồ rằng là tác phẩm chữ Hán của thi sĩ họ Hồ.

(3) Hiện nay ở Vĩnh Yên (huyện Vĩnh Tường) còn có nhà thờ họ của ông cai tổng này.

(4) Bà Đoàn Thị Điểm 37 tuổi mới lấy chồng, 44 tuổi thì mất.
__________________
4. THỜI CHIÊU HỔ – Các sách có chép lại những giai thoại giữa Xuân Hương và Chiêu Hổ, nhưng vẫn không rõ : hai người làm “bạn thân” xướng hoạ với nhau, vào đoạn đời nào của Xuân Hương? Lúc Xuân Hương đã goá hai lần rồi? Hay là giữ hai lần goá? Chiêu Hổ thọ 71 tuổi, sống từ thời Lê Cảnh Hưng đến triều Nguyễn Minh mạng. Tác giả Vũ trung tuỳ bút, là một danh sỹ rất tài giỏi. Theo ông Văn Tân tính (1) thì Chiêu Hổ kém Xuân Hương “chừng trên dưới mười tuổi gì đó” nhưng trên thực tế của những bài xướng hoạ với nhau, thì hai người cùng là rất trẻ, rất bằng vai; nếu chẳng bằng vai thì khó mà xướng hoạ như vậy. Đây là một đoạn rất lý thú của đời Xuân Hương; Chiêu Hổ và Xuân Hương bình đẳng lạ lùng; Xuân Hương không cho mình là “phận đàn bà” đào thơ liễu yếu, chịu thua sút đàn ông như tư tưởng thông thường ấy. Xuân Hương đối chọi nhau từng chữ với Chiêu Hổ, đua ganh nhau từng vần thơ đã đành, mà ở cái giọng đùa giễu trong các bài thơ, ta thấy Xuân Hương là một gái bản lĩnh nhìn thẳng mặt đàn ông.

Người ta kể lại rằng : có lần Xuân Hương hỏi vay Chiêu Hổ năm quan tiền. Chiêu Hổ đã hẹn cho vay rồi, nhưng sau đưa có ba quan. Xuân Hương ngang nhiên gọi Chiêu Hổ là Cuội (nói dối như Cuội ngồi gốc cây đa) : … Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt,
Nhớ hái cho xin nắm lá đa!


Chiêu Hổ cũng chẳng phải tay vừa, hoạ lại nguyên vần, và đe Xuân Hương : … Ừ rồi, thong thả lên chơi nguyệt,
Cho cả cành đa lẫn củ đa.


Nếu Chiêu Hổ còn ngại ngần, thì Xuân Hương mỉa mai cho : Những bấy lâu nay luống nhắn nhe,
Nhắn nhe toan những sự gùn ghè.
Gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám,
Chưa dám cho nên phải rụt rè.


Nhưng nếu Chiêu Hổ mà dám, thì Xuân Hương lại tự xưng bằng “chị” và lấy ngay cái tên “Hổ” ra mà liên tưởng đến cái “hang hùm” : Anh đồ tỉnh? anh đồ say?
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày?
Này này chị bảo cho mà biết:
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay!


Xuân Hương bản lĩnh như vậy, Chiêu Hổ có một tâm tính xã hội xứng với tâm tính Xuân Hương. Chiêu Hổ cũng rất “nôm”, rất thực. Chiêu Hổ thật là anh học trò Việt Nam thời xưa, được xếp sau nhất quỷ nhì ma, hơn thế nữa kia, ma cũng sợ, quỷ cũng kinh. Thơ hoạ của Chiêu Hổ phản công lại rất hăng, rất liều. Hăm doạ, cương quyết : Hỡi hỡi cô bay tố hão nhe,
Hão nhe không được gậy ông ghè!
Ông ghè không được, ông ghè mãi,
Ghè mãi rồi lâu cũng phải rè!


Nhanh trí khôn, hợp pháp hoá cái liều lĩnh của mình, và còn dấn lên hùng hổ : Này ông tỉnh! Này ông say!
Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày!
Hang hùm ví bẵng không ai mó,
Sao có hùm con bỗng trốc tay?


Chúng ta không chê Chiêu Hổ ăn nói lối “dùi đục”, mà lại lý thú thấy đôi bạn thơ, đôi bạn lứa Xuân Hương – Chiêu Hổ như đôi câu đối hợp nhau; chắc ai cũng thấy rằng hễ có Xuân Hương thì có Chiêu Hổ; nhớ đến Chiêu Hổ, là nhớ đến Xuân Hương. Ta nghĩ giá hai người thành đôi lứa! Nhưng “tuy vậy, nàng cũng không lấy được Chiêu Hổ” (2).

Ta còn lấy làm lạ hơn nữa, là theo tục truyền, thì Xuân Hương ra cho Chiêu Hổ một câu đối, khi ông này thi đậu được bổ đi làm quan :

Mặc áo GIÁP, dài cài chữ ĐINH, MẬU KỶ CANH khoe mình rằng QUÝ. (3)

Đó là một câu mừng cho Chiêu Hổ, chỉ pha chút đùa khích nhẹ nhàng. Thế mà Chiêu Hổ đối ngay lại bằng một lời mắng nặng nề :

Làm đĩ CÀN, tai đeo hạt KHẢM, TỐN LY ĐOÀI khéo nói rằng KHÔN. (4)

Đây không phải chỉ là việc lấy chữ trong bát quái chọi nhau với chữ trong thập can; quan Phạm Đình Hổ sao lại lên mặt với bạn thơ của mình như vậy? Sao vô lễ đến mức ấy? Phạm Đình Hổ nhận được thơ hỏi thăm của Xuân Hương, lại đã làm thơ đáp lại, trong đó có câu : Nay đã mần cha thằng xích tử (5)
Rày thì đù mẹ cái hồng nhan! (6) Những chuyện tục truyền như thế này, rất có thể không phải là sự có thật (7); nếu mà có thật như vậy, thì đáng buồn biết chừng nào, Chiêu Hổ thì có vợ có con, yên nhà yên cửa, tốt thân tốt thế, quan lớn, sống lâu! Còn Xuân Hương thì lận đận long đong, chưa bề nào! Hạ những lời đùa như thế, giữa hai người tài tử, ai đáng hơn ai?

5. THỜI ĐI DẠO – Các sách nói rằng sau thời chồng con, Xuân Hương hay đi đây đi đó, từng trải nhiều danh lam thắng cảnh ở Bắc, ở Trung và tiếp xúc nhiều khách văn chương. Không duyên, không kiếp, cũng không chồng, (8) Đây là thời kỳ thênh thênh của Xuân Hương; nếu mà chồng yên con đủ, thì trong chế độ cũ, giang sơn của người đàn bà thông thường là gia đình… Nhưng Xuân Hương không được như lòng, nên phải lấy núi song làm bạn. Đi cho khuây khoả, đi để giải phóng, thiên nhiên giúp mình vượt những nỗi đau buồn : trong chế độ cũ, Xuân Hương cũng chỉ tìm được lối thoát trong sự đặt mình ngoài vòng nhân sự, là một kẻ không bận việc đời ti tiểu, làm một người ở trên cái đời “nghêu ngao vui thú yên hà”, như câu thơ Nguyễn Du. Nhưng hơn sự ngao du của nhiều văn nhân đàn ông, Xuân Hương đặt chân mình đến nới danh thắng nào, là có thơ hay; bước chân của Xuân Hương in dấu thơ vào đất nước.

Cuộc đời của Xuân Hương, tạm phân ra năm đoạn ấy, gắn chặt với tác phẩm Xuân Hương. Thơ Xuân Hương là đời của Xuân Hương, là người của Xuân Hương trong đó. Thơ Xuân Hương là hồn, là xác, là mắt nhìn, tay sờ, chân đi, là nụ cười, nước mắt của Xuân Hương, là cá tính, là số phận của Xuân Hương. Người xưa nói : không đổ máu huyết của mình vào trong văn, thì văn không hay. Đúng thế! Xuân Hương đã làm như thế!.


----------


(1) Trong quyển Hồ Xuân Hương của văn Tân.

(2) Theo nam thi hợp tuyển của Nguyễn Văn Ngọc.

(3) Lấy những chữ trong thập can (giáp, ất, bính, đinh, kỷ, canh, tân, nhâm, quý). Ý muốn chế giễu Chiêu hổ vừa đỗ, mặc áo đẹp của ông tân khoa, ra vẻ "ta đây".

(4) Lấy những chữ trong bát quái (càn, khảm, cấn, chấn, tôn, ly, khôn, đoài). Ý mắng Xuân Hương là "con đĩ" càn dỡ, lại còn tự phụ, khoe khéo, khoe khôn.

Những chữ mậu, kỷ, canh ở câu trên và tốn, ly, đoài, ở câu này là thêm vào để lấy âm thanh cho dễ đọc.

(5) Xích tử : con đỏ, chỉ dân chúng.

(6) Theo Lê Thước, thì hai câu này là của Nguyễn Công Trứ - Bản thân hai câu này là vô nghĩa lý; tại sao được mần cha thằng xích tử, thì lại đù mẹ cái hồng nhan! Không thèm "đù" nữa hay lại "đù" hơn bao giờ hế? Chẳng qua đây là đối chọi chữ chan chát cho thích.

(7) Có ý kiến cho Chiêu Hổ chỉ là nhân vật trong giai thoại, không phải là Phạm Đình Hổ.

(8) Câu đầu một bài thơ vịnh Bà Triệu.__________________