HỒ XUÂN HƯƠNG, THƠ VÀ ĐỜI
Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 26 trên tổng số 26 bài trong đề mục
lyenson 05.11.2008 20:23:17 (permalink)
KÝ SƠN NAM THƯỢNG
TRẤN HIỆP TRẤN HẦU
(*)
 
I

Vác cắm đàn tao một ngọn cờ,
Ấy người thân đấy phải hay chưa,
Lắc đầy phong nguyệt lưng hồ rượu,
Dắt lỏng giang hồ nửa túi thơ
Đình Nguyệt góp người chung đỉnh lại,
Trời Hoan mở mặt nước non xưa.
Bấy nay tài tử bao nhiêu tá,
Thèo đảnh khen ai kẻ đặt cho.
 
----------

(*) Gửi ông Trần Hầu, – Hiệp trấn Sơn Nam thượng.
Dưới đề này, Lưu hương ký chép hai bài. Ngờ rằng bài thứ hai là bài họa của Trần hầu.
II
Trận bút xông pha quyết giật cờ,
Tài tình ai đã biết cho chưa.
Giấc Vu man mác năm canh nguyệt,
Duyềnh Ngự lênh đênh một lá thơ.
Tơ liễu đã khoe tài lạ trước,
Nguồn đào học hỏi lối quen xưa,
Giai nhân tài tử dường nào đấy
Hay nợ bình sinh chửa giả cho.
#16
    lyenson 07.11.2008 19:08:55 (permalink)
    KÝ SƠN NAM THƯỢNG
    TRẤN HIỆP TRẤN HẦU
    (*)
     
    I
    Vác cắm đàn tao một ngọn cờ,
    Ấy người thân đấy phải hay chưa,
    Lắc đầy phong nguyệt lưng hồ rượu,
    Dắt lỏng giang hồ nửa túi thơ
    Đình Nguyệt góp người chung đỉnh lại,
    Trời Hoan mở mặt nước non xưa.
    Bấy nay tài tử bao nhiêu tá,
    Thèo đảnh khen ai kẻ đặt cho.
    ----------

    (*) Gửi ông Trần Hầu, – Hiệp trấn Sơn Nam thượng.
    Dưới đề này, Lưu hương ký chép hai bài. Ngờ rằng bài thứ hai là bài họa của Trần hầu.
     
    II

    Trận bút xông pha quyết giật cờ,
    Tài tình ai đã biết cho chưa.
    Giấc Vu man mác năm canh nguyệt,
    Duyềnh Ngự lênh đênh một lá thơ.
    Tơ liễu đã khoe tài lạ trước,
    Nguồn đào học hỏi lối quen xưa,
    Giai nhân tài tử dường nào đấy
    Hay nợ bình sinh chửa giả cho.
     
     
    XUÂN HƯƠNG TẶNG HIỆP QUẬN
     
    Hẹn thu hẹn nguyệt luống ăn năn,
    Cái kiếp phù sinh những nợ nần.
    Cửa viện xuân về hoa mát mẻ,
    Đài trang mây náu nguyệt băn khoăn.
    Duyềnh xanh nước chảy tin lai láng,
    Lá thắm thơ gieo bút ngại ngần.
    Son phấn dám đâu so ngọn bút,
    Mượn tay thị tướng nhắc đồng cân. (1)
    ----------

    (1) Bài này không có trong Lưu hương ký, nhưng tình điệu thuộc loại trong tập này. Được phát hiện tại Thanh Hoá (Tạp chí Văn học số 3-1974).

    Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã hiệu đính 3 chữ "mát mẻ" và "náu" ở câu 3-4 từ các chữ "mủm mỉm", "tỏ" ở văn bản cũ.
    __________________
     
    CẢM CỰU TỐNG TÂN XUÂN CHI TÁC (*)
     
    I
    Xuân này nào phải cái xuân xưa,
    Có sớm ư? thời lại có trưa.
    Cửa đông hoa còn thưa thớt bóng,
    Buồng thoa oanh khéo dập dìu tơ
    Phong lưu trước mắt bình hương nguội,
    Quang cảnh trong đời chiếc gối mơ.
    Cân vàng nửa khắc xuân lơ lửng,
    Phố liễu trăm đường khách ngẩn ngơ.
    ----------

    (*) Đề bài thơ hơi lạ. Người ta thường nói "Tống cựu nghênh tân" (tiễn năm cũ, đón mừng năm mới), ở đây lại “Tống tân xuân”. Vì thế ông Nguyễn Lộc đã dịch: Bài thơ làm cảm năm cũ, tiễn đưa năm mới. (Nxb Văn học, Hà Nội, 1982, tr 78).
     
    II
    Mới biết vị đời chua lẫn ngọt
    Mà xem phép tạo nắng thì mưa.
    Tri âm đắp nửa chăn còn ngắn,
    Bức vách nghe xa tiếng đã thừa.
    Nếm mía vụ này ngon những ngọn,
    Trông gương ngày nọ bẵng như tờ.
    Xưa nay còn có đâu hơn nữa,
    Hay những từ đây, phải thế chưa ?

    ----------

    (1) Mía chính vụ vào dịp heo may trước tết. Tục ngữ có câu “Mía tháng ba ngọt ra đầu ngọn”. Tháng ba mía còn non không ngọt. “Nếm mía vụ bày ngon những ngọn” là nếm mía trái vụ chỉ thấy nhạt nhẽo. Tác giả dùng hình ảnh này để tả nỗi quá lứa lỡ thời của người con gái.
    __________________  
    #17
      lyenson 11.11.2008 08:19:28 (permalink)
      THUẬT Ý KIÊM TRÌNH
      HỮU NHÂN MAI SƠN PHỦ

       

      Hoa phiêu phiêu,
      Mộc tiêu tiêu,
      Ngã mộng hương tình các tịch liêu,
      Khả cảm thị xuân tiêu.

      Lộc ao ao,
      Nhạn ngao ngao,
      Hoan thảo tương kì tài nhất triêu,
      Bất tận ngã tâm miêu.

      Giang bát bát,
      Thuỷ hoạt hoạt,
      Ngã tư quân hoài tương khế khoát,
      Lệ ngân chiêm hạ cát.

      Thi tiêu tiêu,
      Tâm thiết thiết,
      Nồng dạm thốn tình tư lưỡng đạt,
      Dạ ưng quân bút pháp.

      Phong ngang ngang,
      Nguyệt mang mang,
      Phong nguyệt không linh khách đoạn tràng,
      Hà xứ thị Đằng Vương.

      Vân thương thương,
      Thuỷ ương ương,
      Vân thuỷ na kham vọng nhất trường,
      Nhất trường dao vọng xúc hoài mang.

      Nhật kì kì,
      Dạ trì trì,
      Nhật dạ thiên hoài lữ tứ bi,
      Tứ bi ưng mạc ngộ giai kì.

      Phong phi phi,
      Vũ phi phi,
      Phong vũ tần thôi thái bút huy,
      Bút huy đô thì phó tình nhi.

      Quân hữu tâm,
      Ngã hữu tâm,
      Mộng hồn tương luyến liễu hoa âm.

      Thi đồng ngâm,
      Nguyệt đồng châm.
      Nhất tự sầu phân ly,
      Hà nhân noãn bán khâm.

      Mạc đàm li khúc oán tri âm,
      Trực tư khí trí thử dao cầm,
      Cao sơn lưu thuỷ vãn tương tầm,
      Ưng bất hận ngâm thán cổ câm.

      Quân hà kì,
      Ngã hà kì,
      Lữ đình lai đắc lưỡng thê trì,
      Dánh tần phi,
      Bút tần huy,
      Nhất trường đô thị bút thiệt,
      Hà xứ thị tình nhi,
      Hảo tư tâm thượng các tương tri,
      Dã ưng giao thác thử duyên đề,
      Phương tâm thệ bất phụ giai kì.
       
      Dịch văn xuôi :
       
      NÓI RÕ Ý MÌNH, GỬI BẠN MAI SƠN PHỦ
       
      Hoa bay phất phơ,
      Cây rung xào xạc,
      Giấc mộng tình quê của ta sao mà vắng vẻ,
      Cảm động biết bao đêm xuân này !

      Con hươu kêu ngơ ngác,
      Con nhạn kêu ngẩn ngơ,
      Cược gặp gỡ vui vầy trong một sáng
      Làm sao nói hết nỗi lòng ta ?

      Dòng dông chảy băng băng,
      Mặt sông trôi dập dềnh
      Ý ta lòng chàng sao mà hòa hợp !
      Ngăn lệ đầm đìa trên áo vải.

      Thơ ta đắm say,
      Lòng ta say đắm, Một tấc lòng nồng đượm chàng đã rõ,
      Mượn bút chàng hãy ngỏ giùm ta !

      Gió thổi vi vu,
      Trăng sáng mênh mông,
      Gió trăng luống làm cho lòng người đứt ruột
      Đâu nơi nào là gác Đằng Vương !

      Dải mây xanh xanh,
      Dòng nước long lanh,
      Sao cứ nhìn vào một vùng mây nước ấy,
      Vọng nhìn hoài một chỗ, lòng trống trải.

      Ngày dài đằng đẵng
      Đêm dài lê thê
      Suốt ngày đêm buồn cho người xa vắng.
      Lòng buồn nhưng chớ nhớ kỳ hò hẹn.

      Gió hiu hiu,
      Mưa lất phất,
      Mưa gió càng thôi thúc ngòi bút viết,
      Nhưng viết rồi lại cũng viết về chàng.

      Chàng có lòng
      Ta cũng có lòng
      Trong hồn mộng quyến luyến nhau dưới bóng liễu.
      Thơ ta cùng ngâm,
      Trăng ta cùng thưởng,
      Từ lúc buồn chia tay chàng,
      Ai là người chỉ ấm nửa chăn ?

      Chớ gảy điệu đàn ly biệt mà oán bạn tri âm,
      Hãy cất chiếc đàn đi,
      Và hiểu thầm nhau trong khúc cao sơn lưu thủy.
      Đừng buồn hận và than cho nỗi xưa nay.

      Chàng có hẹn gì đâu ?
      Ta có hẹn gì đâu ?
      Mà lữ đình hai ta cùng nân ná.
      Trà đã từng pha,
      Bút đã từng viết,
      Chỗ nào cũng bút mực ngâm nga.
      Nhưng người tình ở nơi nào ?
      Tốt nhất là hiểu nhau bằng tấm lòng,
      Và trao cho nhau mối duyên này
      Tấm lòng thơm thề chẳng phụ với kỳ hò hẹn.
      #18
        lyenson 11.11.2008 08:23:26 (permalink)
        XUÂN ĐÌNH LAN ĐIỆU

        Nguyệt ta nhân tĩnh thú lâu trung,
        Ngọa thính đồng long,
        Khởi thính đồng long,
        Dạ bán Ai Giang hưởng bán không.
        Thanh dã tương đồng,
        Khí đạ tương đồng,
        Tương tư vô tận ngũ canh cùng,
        Tâm tại Vu Phong
        Hồn tại Vu Phong,
        Ân ái thừ tao phùng.
        Nhàn ỷ đông phong,
        Quyện ỷ đông phong,
        Nhất viên hồng hạnh bích thanh song.
        Phồn hoa tích dĩ không,
        Kim triêu hựu kiến sổ chi hồng.
        Oanh nhi mạc đái yêu vô lực tiếu đông phong.
        Phong thanh nguyệt bạch,
        Bả kỳ hương nhập khách ngâm trung.

         
        Dịch văn xuôi :
        ĐIỆU XUÂN ĐÌNH LAN

        Trăng đã xế, người đã ngủ yên trong gác canh,
        Nằm nghe tiếng đồng hồ nhỏ giọt.
        Dậy cũng nghe tiếng đồng hồ nhỏ giọt.
        Kìa giữa đêm khuya giọng ai hát điệu Buồn Giang Nam vẳng lên nửa lưng chừng trời.
        Tiếng đã quen nhau
        Hơi cũng quen nhau.
        Nỗi nhớ nhau thật vô tận mà năm canh sắp hết rồi.
        Tâm ở non Vu,
        Hồn ở non Vu.
        Cuộc gặp gỡ biết bao là ân ái !
        Lúc rỗi tựa mình trước gió đông,
        Lúc mỏi mệt tựa mình trước gió đông,
        Cả một vườn hồng hạnh chỉ một màu xanh biếc,
        Tiếc cho cảnh phồn hoa đã qua mất,
        Thì sáng nay lại thấy vài cành lập lòe sắc đỏ.
        Hỡi chim oanh kia đừng mang gió đông đi,
        Chỉ sợ đóa đào no không đủ sức cười với gió đông.
        Gió trong trăng sáng,
        Đem mùi hương lạ đến với thơ ai ?


        #19
          lyenson 11.11.2008 09:22:48 (permalink)
          NĂM BÀI THƠ ĐỀ VỊNH HẠ LONG
           
          ĐỘ HOA PHONG

          Phiến phàm vô cấp độ Hoa Phong,
          Tiễu bích đan nhai xuất thuỷ trung.
          Thuỷ thế mỗi tuỳ sơn diện chuyển,
          Sơn hình tà kháo thuỷ môn thông.
          Ngư long tạp xử thu yên bạc,
          Âu lộ tề phi nhật chiếu hồng.
          Ngọc động vân phòng tam bách lục
          Bất tri thuỳ thị Thuỷ Tinh cung.

           
          Dịch thơ :
          QUA VŨNG HOA PHONG

          Lá buồm thủng thỉnh vượt Hoa Phong.
          Đá dựng bờ son mọc giữa dòng.
          Dòng nước lần theo chân núi chuyển,
          Mình lèn nghiêng để lối duyềnh thông.
          Cá rồng lẩn nấp hơi thu nhạt,
          Âu lộ cùng bay bóng xế hồng.
          Băm sáu phòng mây cùng động ngọc,
          Đâu nào là cái Thuỷ Tinh cung?

          (HOÀNG XUÂN HÃN dịch) (1)
          ----------

          (1) Phần này dựa theo sách của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn.
          __________________
           
          TRẠO CA THANH

          Linh lung tứ bích liệt vân bình
          Ngọc duẩn sâm si thuỷ diện bình
          Tiệm giác Đào Nguyên sơn tác hộ
          Chỉ tùng Ngư Phố thạch đồn binh
          Tận giao Tạ khách du nan biến
          Già mạc Vân Lâm hoạ bất thành
          Dao vọng thuỷ cùng sơn tận xứ
          Hốt nhiên xung xuất trạo ca thanh.
           Dịch thơ :


          TRỘI TIẾNG CA CHÈO

          Long lanh bốn phía rủ màn mây,
          Nước phẳng lô nhô măng mọc dày.
          Mới biết Nguồn Đào ngăn cửa đá,
          Nào ngờ Bến cá có đồn xây
          Mặc cho họ Tạ xem đâu hết,
          Dẫu có chàng Lâm vẽ chẳng tầy.
          Xa ngóng chân trời non lẫn nước,
          Bỗng nghe chèo hát trỗi đâu đây.
          (HOÀNG XUÂN HÃN dịch)
          ----------

          Chú: Tạ Linh Liên hiếu du sơn thủy.
          Ngọc Vân Lâm hiếu họa sơn thủy
          Nghĩa là: Tạ Linh Liên thích đi chơi xem non nước.
          Ngọc Văn Lâm thích vẽ cảnh non nước.
           

          NHÃN PHÓNG THANH

          Vi mang loa đại tháp thương minh
          Đáo thử tu giao nhãn phóng thanh
          Bạch thuỷ ma thành thiên nhẫn kiếm
          Hàn đàm phi lạc nhất thiên tinh
          Quái hình vị dĩ tiêu tam giáp
          Thần lực hề dung tạc Ngũ Đinh
          Phảng phất vân đồi đầu ám điểm
          Cao tăng ưng hữu toạ đàm kinh.

           
          Dịch thơ :
          MẮT TỎA MÀU XANH

          Bể xanh lấp loáng tận trời xa,
          Đây ngỡ màu xanh mắt tỏa ra.
          Nước bạc mài nên nghìn mũi kiếm,
          Đầm im rơi xuống một sao sa.
          Quái hình chưa dễ đề khoa bảng,
          Thần lực đâu đà tạc tượng ma.
          Phảng phất mây rà đầu xẩm tối,
          Cao tăng đang tụng chốn chiền già.

           
          THỦY VÂN HƯƠNG

          Vân căn thạch đậu tự phong phòng
          Mãn mục sơn quang tiếp thuỷ quang
          Thiệp hải tạc hà si Lí Bột
          Phụ chu tàng hác bái Nguyên Chương
          Loa ngân tịch tễ lân tuần xuất
          Vụ ảnh triêu mê thứ đệ tàng
          Mạn thuyết ngư nhân chu nhất diệp
          Sổ trùng môn hộ Thuỷ Vân hương.

          Dịch thơ :
          VỀ CHỐN NƯỚC MÂY

          Chân mây lỗ đá từa phòng ong
          Chốn chốn lèn chong ánh nước lồng.
          Vượt bể đục non cười Lý Bột,
          Đội thuyền giấu động phục Nguyên Ông.
          Chiều êm sóng gợn lăn tăn nổi,
          Sáng toả mù tan lớp lớp trong.
          Vui chuyện kìa ai thuyền một lá,
          Cửa lèn len lỏi kiếm non bồng.

           
          ----------

          Chú: Xuất Trang Tử Nam hoa kinh.
          Nghĩa là: Xuất xứ ở sách Nam hoa kinh của Trang Tử.
           
          HẢI ỐC TRÙ

          Lan nhiêu tuỳ ý dạng trung lưu
          Cảnh tỉ sơn dương cánh giác u
          Sinh diện độc khai vân lộ cốt
          Đoạn ngao tranh kị khách hồi đầu
          Bằng Di diệp tác kình thiên trụ
          Long Nữ thiêm vi hải ốc trù
          Đại để Thuỷ Hoàng tiên vị cập
          Cố lưu Nam điện củng kim âu.
          Dịch thơ :
          Giữ duềnh thủng thẳng phẩy chèo lan,
          Sát núi càng hay cảnh lặng nhàn.
          Mây cuốn bày ra lèn cứng cỏi,
          Núi cao những ngóng đỉnh Toan Ngoan
          Bằng Di chống cột e trời đổ,
          Long Nữ thêm nêu sợ bể tràn.
          Dấu ngựa Thuỷ Hoàng chưa đến đó,
          Trời dành để giữ đất người Nam.
          (HOÀNG XUÂN HÃN dịch)
           




           
          #20
            lyenson 18.11.2008 18:59:54 (permalink)
            CHÙM BÀI VIẾT VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG
             
            Đã có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu công phu về ThơĐời của Hồ Xuân Hương, kể cả các tác phẩm hư cấu gồm nhiều thể loại : kịch, thơ, truyện ngắn, truyện ký danh nhân, hội hoạ, chân dung và giai thoại… của nhiều tác giả. Ở đây, chúng tôi chỉ có thể giới thiệu cùng bạn đọc một số bài có tính chất đại diện thuộc các thể loại văn học, bao gồm : tiểu luận, truyện ngắn, thơ, phóng sự điền dã, giai thoại… ngoài bài tựa sách Lưu hương ký của Tốn Phong Thị. Có thể có những chi tiết mâu thuẫn nhau, trùng lặp nhau… mà chúng tôi chủ trương giữ nguyên, để bạn đọc rộng đường tham khảo. Vả lại, chuyện Thơ, chuyện Đời của Hồ Xuân Hương còn nhiều ngóc ngách, bí ẩn… khó có thể xác định trong một sớm một chiều. Lai lịch xuất thân, quê hương bản quán, những cuộc tình duyên hư thực thế nào… Còn đang là những “thách đố” đối với lịch sử văn học, không chỉ là quá khứ, hiện tại, mà sẽ còn đó những ẩn số cả trong tương lai. Âu cũng là những “nghi án” văn chương khó tìm kiếm một lời “phán xử” cuối cùng. Chỉ một việc có thể làm cho những điều đó ngày càng sáng tỏ, đủ làm chúng ta vui lòng.

            Chúng tôi rất mong bạn đọc, nhất là các nhà nghiên cứu văn học sẽ bổ sung cho những tài liệu, văn bản, kể cả những chi tiết, những chi tiết có sức dọi sáng nhiều vấn đề mà tập sách khiêm tốn này chưa kham nổi.
             
            LỮ HUY NGUYÊN
            ------------------------------------------------
             

            Tốn Phong Thị

            BÀI TỰA TẬP THƠ LƯU HƯƠNG KÝ
            (Chép trong cuốn Du Hương Tích động ký)

            “Làm thơ có phải dễ đâu! Vì trong lúc ngâm vịnh, có thể xuất phát từ mối tình (cảm hứng), nhưng phải biết dừng lại trong phạm vi lễ nghĩa. Cho nên thơ có thể làm cho đất trời chuyển động, quỷ thần cảm xúc, giáo hoá tốt lành, nhân luân đầy đủ. Vì vậy mà Khổng Tử khen thơ Quan thư, đã có câu “Vui mà không đến nỗi buông tuồng, buồn mà không đến nỗi đau thương”, chính là như thế. Sau thơ Quan thư không nghe có thơ nào được như thế nữa. Đời xưa Ban Thái Cơ tiếp tục công việc của anh là Ban Cố, đã chép Hán sử, Tô Tiểu Muội cùng với cha và anh đã trở thành đại gia; hai nàng đáng gọi là nữ sử vậy.

            Nước Việt Nam ta có tiếng là đất văn hiến, nhưng phụ nữ nhiều người không được học. Khoảng giũa đời nhà Lê, có bà Hồng Hà nữ tử chép sách Truyền kỳ (1) nhưng lời văn đều thiên về giọng trào phúng đùa bỡn, duy chỉ có bà Phan Mi Anh, người trong họ tôi có tiếng giỏi văn thơ, các bậc tiền bối đều khen ngợi. Mi Anh không thích ghi chép lại thơ văn của mình. Tội thường được các tài tử văn nhân đọc lại cho nghe thơ của bà, thì thấy đều là xuất phát từ mối tình mà đều dừng lại trong lễ nghĩa. Tuy vậy tôi không thấy được toàn tập thơ văn của bà, thường rất lấy làm ân hận!

            Mùa xuân năm Đinh Mã (2) tôi đến thành Thăng Long nhân cùng bạn là Cư Đình nói chuyện về các tài tử xưa nay, bạn ấy nói cho tôi biết cùng tỉnh với tôi có người phụ nữ là Cổ Nguyệt đường Xuân Hương (3): học rộng mà thuần thục, dùng chữ ít mà đầy đủ, từ mới lạ mà đẹp đẽ, thơ đúng phép mà văn hoa, thực là một bậc tài nữ.

            Tôi liền tìm tới nơi hỏi thăm, khi hỏi đến tên học, mới biết cô ta là em gái ông lớn Hồ, đậu Hoàng Giáp, người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu. Chúng tôi mới tình cờ gặp nhau lần đầu mà đã thành ra đôi bạn thân thiết. Trong những khi uống rượu ngâm thơ, kẻ xướng người hoạ, tứ thơ dồi dào, nhưng vẫn tỏ ra “vui mà không buông tuồng, buồn mà không đau thương, khốn mà không lo phiền, cùng mà không bức bách”, thực là do tính tình nghiêm chỉnh mà ra, cho nên khi hát lên, ngâm lên những thơ ấy thì tay cứ muốn múa, chân cứ muốn giậm mà không tự biết.

            Từ đó có những lúc tôi phải bôn ba vào Nam ra Bắc, không thể cùng nhau sớm hôm xướng hoạ. Còn Xuân Hương cũng vì mẹ già nhà túng mà ăn ở không được yên ổn.

            Sang mùa xuân năm Giáp Tuất (4), tôi tìm đến chỗ ở cũ của cô, hai bên vừa mừng vừa tủi, Xuân Hương liền cầm tập Lưu hương ký đưa cho tôi xem mà bảo tôi rằng : “Đây là tất cả thơ văn trong đời tôi từ trước đến nay, nhờ anh làm cho bài tựa”. Tôi mở tập ấy ra xem thì thấy những bài thơ năm chữ, bảy chữ, những điệu ca, phú và từ chép đầy một quyển. Thoạt đầu tôi hết sức kinh ngạc lạ lùng, rồi dần dần càng đọc càng thấy lòng thư thái mà trở nên vui thích khoái chá.

            Tôi thường nghe người đất Nghệ An thuần tú mà ham học. Đúng như thế thật. Đàn ông tuấn kiệt thì có các bậc khoa bảng đời trước, đàn bà tinh anh thì có những người như Phan Mi Anh và Hồ Xuân Hương. Người ta nói núi cao sông sâu sinh ra nhân tài tuấn kiệt quả không sai vậy.

            Bởi vậy tập Lưu hương ký tuy đầy vẻ gió mây trăng nước nhưng đều là từ đáy lòng mà phát ra, hiển hiện thành lời nói lại cũng đều đúng với cái ý đã nói trên kia là “xuất phát từ mối tình mà biết dừng lại trên lễ nghĩa”.

            Bởi thế tôi xin nêu rõ ra đây để ngày sau có dịp chọn lựa thơ ấy làm thơ dân phong chăng? Nay đề tựa.

            Rồng bay năm Giáp Tuất, tháng Trọng xuân. (5)

            Người cùng tỉnh là Nham Giác phu Tốn Phong thị, viết ở nơi ngồi dạy học.

            (TRẦN THANH MẠI dịch)

            ----------

            (1) Tức Đoàn Thị Điểm, tác giả Truyền kỳ tân phả.

            (2) Tức năm 1807.

            (3) Hai chữ Cổ…Nguyệt… ghép lại thành chữ Hồ… Cổ Nguyệt đường là tên hiệu của Hồ Xuân Hương đồng thời là tên đặt cho nhà bà ở.

            (4) Tức năm 1814.

            (5) Tức tháng 2 năm Giáp Tuất, dương lịch là tháng 3 – 1814.
            __________________
            #21
              lyenson 18.11.2008 19:04:53 (permalink)
              HỒ THẤT LIỄU

              Cách đây vào khoảng hai thế kỷ, đấy là một ngôi trường tư thục của cụ Xứ (1) họ Hồ, từ Nghệ An ra đây, dạy học chữ Hán. Cụ Xứ nổi tiếng văn hay chữ tốt, được nhân dân cả vùng kính phục. Số người nhập môn lúc nào cũng đông vui, năm, sáu chục người. Có cả những người trên 30 tuổi. Có nhiều người từ xa đến trọ học.

              Cụ Xứ không đem theo gia đình. Chỉ có một cô gái mà cụ rất quý mến, gọi tên là Xuân Hương, thỉnh thoảng đến đây, vừa để học thêm, vừa giúp cụ dạy bảo những học trò kém.

              Một chi tiết nữa mà người làng Mương (2) chưa quên là : Phía trước nhà trường có một thửa ao, 7 bờ, phía bờ nào cũng râm mát những cây Và, cây Vạy. Xuân Hương rất ưu thích. Những buổi thừa lương, đãi nguyệt, nàng thường có mặt ở đây. Nàng đã đặt tên cho hồ cái tên nghe thú vị: Hồ Thất Liễu. Đấy là theo giai thoại sưu tầm ở Vĩnh Phú do ông Dương Văn Thâm cung cấp.

              Đã có chuyện “Hồ Thất Liễu”, lại có chuyện “Cổ Nguyệt đình” ở đất Thăng Long. Chuyện Nhà Cổ Nguyệt phổ biến hơn, như chúng ta sẽ theo dõi sau đây…

              ----------

              (1) Đỗ đầu xứ khoa thi Hương.

              (2) Nay là xã Sơn Dương, huyện Phong Châu, Vĩnh Phú.

              Về “Hồ Thất Liễu”, xin bạn đọc xem bài của Nguyễn Hữu Nhàn cũng trong sách này, để hiểu đầy đủ và tỉ mỉ hơn (BT).
              __________________
               

              NHÀ CỔ NGUYỆT
               
              Giờ đây thì không còn dấu tích nữa, nhưng nhà Cổ Nguyệt đã đi vào lịch sử, vào văn chương. Nguyên chữ Hán là Cổ Nguyệt đình (1). Chuyện lưu truyền – và có khả năng là chính xác, rằng Cổ Nguyệt là do Hồ Xuân Hương dựng lên ờ phường Khán Xuân. Chỉ là một cái nhà tranh, ngoảnh mặt ra Hồ Tây, giản dị nhưng rất thơ mộng. Xuân Hương xem sách, làm thơ và dạy học trò ở đó. Những bạn làng văn, những chàng tài tử biết tiếng giai nhân cũng tìm đến đó trò chuyện văn chương.

              Hai chữ Cổ Nguyệt chỉ là một tiểu xảo của nữ thi sĩ mà thôi. Ghép hai chữ Hán CổNguyệt lại thì thành ra chữ Hồ, Cổ Nguyệt đình cũng là Hồ đình, nghĩa là cái nhà của cô gái họ Hồ.

              Nhưng cũng vì hai chữ Cổ Nguyệt ấy mà có người tìm cách để trêu Xuân Hương. Có nhà nho sĩ đã gửi đến hai câu khích bác :





              Người cổ lại còn đeo thói nguyệt
              Buồng xuân chi để lạnh mùi hương.
              Câu thơ có ý nói: người giai nhân vốn thuộc gia đình lối cổ (nề nếp thi lễ), nhưng sao lại thích thú nguyệt hoa (họ dựa vào phong cách tài tử phóng túng của Xuân Hương mà chế giễu nàng). Câu dưới là có ý bảo Xuân Hương cứ kén chọn mãi, không chịu lấy chồng, cam chịu phòng không lạnh lẽo.

              Lại có bài thơ khác cũng hàm ý riễu cợt:





              Trăng xưa đã khuyết mấy lần?
              Phẩn tiên trong giá, trắng ngần còn chăng?
              Xa xôi ta nhắn chị Hằng
              Hồ Tây nước bậc xin dừng bóng soi!
              Hồ Xuân Hương đã trả lời những câu đả kích này ra sao thì hiện nay chưa tìm được tài liệu cho đầy đủ.

              Không tìm lại được những bài đáp lại những lời trêu chọc ấy, nhưng dân gian vẫn truyền tụng nhiều câu chuyện chứng tỏ cái tài, cái chí của Hồ Xuân Hương. Và khá nhiều là những sự việc đã diễn ra quanh đình Cổ Nguyệt.

              Sát với Cổ Nguyệt đình là đền Trấn Võ, có gác chuông cao, treo quả chuông lớn. Nhiều chàng nho sĩ đến thăm đền. Các vị khoe tài chữ nghĩa, giở dói văn chương, làm cô gái bực mình. Cô bảo mấy cậu:

              – Được gặp các thày thật là vinh hạnh. Các thày trò chuyện thực rõ ra vẻ tài hoa, uyên bác vô cùng. Dám xin các thày cho một bài thơ.

              Tưởng là cá sắp cắn câu, và đúng là được dịp để khoe khoang hãnh diện, các thày hớn hở:

              – Cái gì chứ thơ thì được lắm. Xin cô cứ ra đề cho.

              Xuân Hương chỉ ngay vào quả chuông:

              – Dạ, xin vịnh quả chuông, lấy vần uông cho tiện.

              Chao ôi! Thế này thì gay quá. Vần gì lại có vần uông. Vò đầu, bứt tai, các thày nghĩ nát ruột mà không ghép được chữ “uông” vào với cái gì. Các thày đành trơ tráo:

              – Cái vần “uông” của cô không ổn, cô ạ.

              – Sao lại không? Em thử làm vài câu cho các thày nghe xem nhé:





              Một đàn thằng ngọng rủ xem chuông
              Chúng bảo nhau rằng: ấy ái uông!
              Cả bọn ngượng chín người, xa xẩn cười trừ rồi tìm cách chuồn! Xuân Hương nhìn lên trên vách gác chuông, thấy có nhiều bài của các thày “sáng tác”. Câu kẹo, ý tứ thật chán mớ đời. Thế mà cũng vác bút, vạch hàng để khoe ngu với khách vãng lai! Cô chẳng nói chẳng rằng, lấy bút đề luôn vào một khoảng trống bên cạnh:





              Dắt díu nhau lên trước cửa đền
              Cũng đòi học nói, nói không nên
              Ai về nhắn nhủ phường lòi tói
              Muốn sống đem vôi quét trả đền!
              Đến chơi Cổ Nguyệt đình, không phải chỉ có mấy anh dốt khoác áo nhà văn, còn có vài ba ông quan võ nữa. Văn hay võ thì cũng được thôi, có điều người phải cho ra người, và cũng nên võ vẽ lấy dăm chữ để mở mang trí thức. Nhất là nên tỏ ra có văn hoá, biết tự trọng. Đằng này mấy ông lại tỏ ra quá lấc cấc. Nói năng thì bừa bãi, không chút ngượng mồm. Xuân Hương nhân lúc họ đang tán nhau chung quanh một hình ảnh tục tằn, liền bảo:

              – Các quan không biết ư? Thế mà cũng có thơ đấy!

              – Thơ à? Lạ nhỉ. Cô đọc xem! Hay không?

              – Vâng, em cũng xin đọc để các quan nghe:





              Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
              Tối tuy không mắt sáng hơn đèn
              Đầu đội nón de, loe chóp đỏ
              Lưng đeo bị đạn rủ thao đen…
              Cô đang định đọc tiếp, thì một ông áng chừng có vẻ thông minh hơn, nói nhỏ vào tai ông bạn:

              – Thôi thôi, rủ nhau mà rút. Nó làm tranh truyền thần bọn quan võ nhà ta đó chứ có phải… gì đâu. Nó xem mình như thế thì mặt mũi nào mà ngồi đây nữa!

              ----------

              (1) Cổ Nguyệt đình hay Cổ Nguyệt đường, nhiều sách chép khác nhau, nhưng ý kiến không khác?
              __________________
               

              TRẤN UY BA GÓC
               
              Gia Long đã dựa vào thế lực ngoại bang mà diệt được Tây Sơn, tiến ra Bắc hà, cho đặt quan chức mới để củng cố ngai vàng triều Nguyễn. Một viên quan khâm sai nào đó được lệnh đi công cán ở các tỉnh. Thành Thăng Long lúc bấy giờ cũng phải tố chức việc đón tiếp, treo đèn, kết hoa. Các quan chức dựng cổng chào, đến gặp Hồ Xuân Hương xin nhà nữ sĩ tài hoa đôi câu đối. Xuân Hương viết ngay:





              Thiên tử tinh kỳ đương bán diện
              Tướng quân thanh thế áp tam thùy
              Theo nghĩa đen, câu đối có nghĩa là cờ xí của nhà vua dăng đầy khắp chốn, che nửa mặt người. Uy danh của vị tướng khâm sai trùm ra ba cõi. Câu đối như vậy là hết lời ca tụng.

              Nhưng sau khi câu đối được treo lên, mỗi người giảng ra một cách. Có người liên hệ với phong cách nghịch ngợm trong thơ Xuân Hương đã bàn tán rộng ra. Này mấy chữ “áp tam thuỳ" của nữ sĩ là tai ác lắm đấy! Nó xui ta nhớ đến những hình ảnh “chành ra ba góc da còn thiếu” mà Xuân Hương đã dùng trong các bài thơ phổ biến. Còn chữ “bán diện”! Sao lại có một nửa mặt? Có cái mặt gì mà chia ra hai nửa? Vân vân và vân vân. Thế rồi, người ta cứ hiểu rằng đôi câu đối có nghĩa là:

              Cờ vua Gia Long là loại cờ che nửa mảnh… và cái tài vị tướng chỉ là cái tài ép vào ba góc mà thôi.

              Bởi thế câu đối trên, có người dịch:





              Che nửa mảnh, rực cờ thiên tử
              Trấn ba góc, rõ tài tướng quân!

              __________________

               
              ĐỀN THÁI THÚ

              Đối diện với chùa Bộc hiện nay là khu vực của trường Đại học Thủy lợi, trường Công đoàn. Nhưng cách đây vài chục năm, nơi đó còn là một cái gò, trên xây cái miếu. Miếu do những người Hoa kiều xây để thờ Sầm Nghi Đống, viên tướng đã phải thắt cổ tự tử khi quân Tây Sơn tiến vào giải phóng Thăng Long ghi chiến công Đống Đa oanh liệt. Tại sao lại làm đền trên cái gò ấy? Là vì chính ở gò này, Sầm Nghi Đống đã đặt đại bản doanh để chỉ huy quân đội xâm lược, cướp bóc, do Tôn Sĩ Nghị giao cho hắn phụ trách. Người ta sợ hồn ma của hắn vì ngậm tủi nuốt hờn mà sinh ra các trò quấy nhiễu.

              Nhà thơ Hồ Xuân Hương có lần đi qua đó, đã tả thái độ của mình bằng một bài thơ :





              Nghé mắt, trông qua thấy bảng treo
              Kìa đến Thái thú đứng cheo leo
              Ví đây đổi phận làm trai được
              Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!
              Bài thơ được truyền tụng, trở nên phổ biến cả đến khi gò và đền đã bị triệt hạ rồi. Dân gian thú vị cả về ý tứ lẫn thái độ của nhà thơ. Xã hội cũ trọng nam khinh nữ đấy thôi, chứ gái như ta, cũng không thèm chấp cái "sự nghiệp" của bọn mày râu hèn kém ấy. Mà, vì không chấp nên đi qua đây chỉ "nghé mắt" qua, chứ chẳng phải nhìn thẳng làm gì.


              MỜI CHÚ KHÁCH... VỀ!
               
              Có một chú khách mộ tài Xuân Hương, cũng mò đến để tìm cách gạ gẫm. Xh đọc một câu đối, bảo nếu đối được sẽ cho giao thiệp :

              - Chân đi hài hán, tay bán bánh đường, mệng hát líu lường, ngây ngô ngấy ngố.

              Chú nghe câu đối và nhận ra được ba chữ Hán, Đường, Ngô là tên ba triều đại bên nước mình, nhưng chẳng biết làm cách gì để nghị ra câu đối lại, đành... rút lui không bao giờ dám đến nữa.
              (Trích theo VŨ NGỌC KHÁNH,
              Kho tàng giai thoại Viết Nam,
              Nxb Văn hóa Thông tin, 1994)
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2008 19:12:57 bởi lyenson >
              #22
                lyenson 19.11.2008 20:33:43 (permalink)
                ĐỌC THƠ CHỮA THẸN


                 Trong các nhà thơ phụ nữ của ta, Hồ Xuân Hương và thơ ca của bà là một hiện tượng khá đặc biệt được rất nhiều người đàm luận từ xưa đến nay.

                Hồ Xuân Hương người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Chưa rõ năm sinh và năm mất, chỉ biết bà sống vào khoảng cuối Lê đầu Nguyễn (1).

                Tục truyền: hồi Xuân Hương còn đi học; một hôm gặp phải trời mưa, đến sân trường, đất trơn, cô nữ sinh trượt chân ngã oạch một cái, các bạn học thấy đều cười ầm lên.

                Nhưng Xuân Hương đã đứng ngay dậy, ung dung đọc hai câu thơ rằng:

                 
                Giơ tay với thử trời cao thấp,
                Xoặc cẳng đo xem đất vắn dài.

                 
                Rồi cằp nón bình thản đi vào. Còn mấy chàng học trò, thấy nàng ứng khẩu tài như thế thì cũng phục không dám chòng ghẹo gì thêm nữa.

                ----------

                (1) Tiểu sử Hồ Xuân Hương hiện nay vẫn còn là vấn đề phải tiếp tục tìm hiểu, xác minh.

                MẢNH TÌNH
                 

                Hồ Xuân Hương vốn nổi tiếng tài hoa, lại hay bày ra các cuộc xướng hoạ văn thơ ở trong nhà để làm vui, nên khách khứa thường lui tới nhà bà rất đông. Trong số đó, những khách yêu chuộng văn chương mà đến thìa cũng có; song hạng khách “phất phơ” vì tò mò mà đến, hoặc vì sĩ diện mà đến cũng không phải là hiếm…

                Bấy giờ có một công tử con quan ăn mặc rất bảnh bao nhưng học hành quá kém, đã năm lần bảy lượt đần định làm quen với Xuân Hương. Biết anh ta chỉ là một người tầm thường, nhiều lần Xuân Hương thoái thác không chịu tiếp. Một hôm lại thấy anh ta dẫn xác đến, Xuân Hương bực quá chạy vào trong, rồi cho cô gái ở ra mời trầu; cơi trầu có quả cau bổ đôi kèm theo mảnh giấy đề hai câu thơ như sau:

                 
                Mảnh tình ví xẻ làm đôi được,
                Mảnh để trong nhà, mảnh đệ ra !

                 
                Ý Xuân Hương vừa muốn nói bà đã có người yêu, không thể nào tiếp anh công tử được nữa, nhưng đồng thời cũng thách thức anh ta trả lời thơ mình ra sao?

                Anh công tử xem thơ xong, chừng liệu sức mình không đối chọi nổi, bỏ cả trầu không dám ăn, về luôn.

                ĐÁNH TRỐNG QUA CỬA NHÀ SẤM
                 

                Một hôm Hồ Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc vè, nàng đang lững thững trên bở Hồ Tây, bỗng có mấy thầy khoá bước rảo lên theo sát ở đằng sau. Rồi các thày giở giọng chớt nhả ra trêu ghẹo nàng. Có thày lại hứng trí tung cả văn chương chữ nghĩa ra nữa.

                Xuân Hương thấy họ trêu ghẹo thì vẫn lặng thinh không nói gì. Nhưng đến khi nghe cái thứ “thơ thẩn” nửa mùa ấy thì không nhịn được nữa, nàng mới quay lại, đọc dồn cho các thày một bài thơ rằng:

                 
                Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
                Lại đây cho chị dạy làm thơ.
                Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,
                Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa!

                 
                Bấy giờ, các thày khoá nghe giọng thơ thì biết ngay là Hồ Xuân Hương. Riêng thày đọc thơ lúc nãy thì thẹn chín người, vì đã trót đánh trống qua cửa nhà sấm. Rồi sau đó, các thày bấm nhau lui lại để cho Xuân Hương đi trước.

                (Trích theo HOÀNG NGỌC PHÁCH
                – KIỀU THU HOẠCH: Giai thoại văn học
                Việt Nam
                , Nxb Văn học, 1988)
                __________________


                <bài viết được chỉnh sửa lúc 26.11.2008 12:53:17 bởi lyenson >
                #23
                  lyenson 19.11.2008 20:39:45 (permalink)
                  KHÓC TỔNG CÓC

                  Nghe nói Hồ Xuân Hương có lần lấy lẽ một viên đại tổng tên là Cóc, nhưng cuộc hôn nhân không bền. Tổng Cóc mất sớm. Hồ Xuân Hương làm bài thơ viếng trước khi rời bỏ gia đình này:
                  Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
                  Thiếp bén duyên chàng có thế thôi,
                  Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
                  Ngàn năm khôn chuộc dấu bôi vôi. (1)


                  ----------

                  (1) Gần đây, có tài liệu sưu tầm ở Vĩnh Phú (1989) cho biết Tổng Cóc tên là Nguyên Công Hoà, ở làng Tứ Xã (Nay thuộc huyện Phong Châu – Vĩnh Phú), còn gọi là Tổng Kình.

                  Làng Gáp (tên Nôm của Tứ Xã) truyền tụng nhiều giai thoại về Hồ Xuân Hương. Theo tài liệu ấy, xuất xứ bài thơ này khác hẳn, như các bạn sẽ thấy ở đề bài “Lời từ biệt Tổng Cóc” trong sách này.


                  CẢNH CÁO ANH ĐỒ


                  Có một anh đồ, tên là Hổ, vẫn đến nhà làm thân với Xuân Hương, có lúc giả vờ say rượu, dụng ý lần khân, sàm sỡ. Xuân Hương đọc thơ cảnh cáo:
                   
                  Anh đồ tỉnh, anh đồ say
                  Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
                  Này này chị bảo cho mà biết
                  Chốn ấy hang hùm chớ mó tay!


                  Mình là Hổ, mà cô ta lại bảo chốn ấy là hang hùm thì đau quá!
                  __________________


                  BĂM SÁU CÁI NÕN NƯỜNG XUÂN HƯƠNG
                  (*)
                  Này, anh này, trong cái nghề chúng ta, hay bắt được quả tang có những vị đã có sách in rồi hẳn hoi mà từ vị (Vocabulaire) rất yếu nghèo, thậm chí còn nhầm chữ nọ ra nghĩa kia nữa. Đúng thế anh ạ, ví dụ: sóingâu làm gì hoa nó có cánh mà khi nó chín, người ta lại viết nó nở. Ví dụ từ kép "nõn nường" thì lại hiểu nhầm thành từ kép "nõn nà", thật tình mà nói, khi đôi lứa trẻ tráng thương yêu nhau, thì có lúc cũng thấy cái nõn nường thành ra một sự nõn nà. Nhưng mà nó thật là khác nhau. Nõn nà chỉ cái tươi đẹp chung chung, còn nõn nường đi vào những con rất chi là cụ thể. "Muốn băm sáu cái nõn nường ấy ạ! - Khéo nõn nường chưa!".

                  Xin phép được chép ra đây một đoạn của Từ điển tiếng Việt của nhóm Văn Tân về "nõn nường": "Từ chỉ vật làm bằng gỗ, tượng trưng dương vật (nõn) và âm hộ (nường) do nhân dân ở miền Dị Nậu và Khúc Lạc (Phú Thọ) xưa làm ra để rước thần. Khi rước, những người khiêng kiệu vừa đi vừa hát "Ba mươi sáu cái nõn nường, cái để đầu gường, cái để đầu tay". Khi kiệu đến chỗ thờ thần, người ta tung nõn và nường cho mọi người cướp, con trai cướp được nường, con gái cướp được nõn là điềm tốt. Ba mươi sáu cái nõn nường, thành ngữ dùng để nói mỉa những người đòi hỏi những điều quá đáng".

                  Trong kháng chiến chống Pháp, tôi có thồ xe đạp qua mấy vùng Hiền Quan ả đào, và vùng Dị Nậu có trò nõn nường đó. Gần đây, chiều chiều có dịp nâng cốc rượu mạnh xinh xinh, đồng chí Tây và Đầm bạn bè lại hỏi tôi về những chuyện ấy. Thật là vui mà cũng khá vất vả. Ngoại ngữ của mình chỉ có chừng đó thôi, mà này lại phải nói ra về ba mươi sáu cái thứ đó (Lại xin phép mở cái dấu ngoặc mấy chữ băm sáu ta vẫn thường dùng - như băm sáu phố phường - Pháp cũng hay nói ba mươi sáu, vậy thì ai dùng trước ai, xin các bậc cao minh chỉ giùm cho). Giảng cho người nước ngoài hiểu sao cái của nữ lại gọi là cửa mình và cái của nam lại gọi là gậy thằng ăn mày, ố là là, khó thay cho kẻ giảng về "sự đời như cái lá đa...".

                  Lại nhớ hồi nhỏ được nghe lỏm các cụ quá chén cao hứng nói về những cái đó và đã hiện thực cái đó theo kiểu đố thanh giảng tục - trái với lối thông thường đố tục giảng thanh: "Múi bưởi, hạt hồng, rễ củ ấu - trông thì thèm, cho ăn thì giận", ấy là chưa kể những câu toàn nói lái!

                  Về thành ngữ: "Muốn gì muốn băm sáu cái nõn nường ấy à!" tôi cố hỏi kỹ một anh ở Tổng cục đường sắt quê ở làng Trúc Phê gần sát vùng sinh ra cái nõn nường đó. Thì được biết nõn nường là cái hèm của thành hoàng làng đó, dịp cúng bái là phải cúng rồi tung nó lên cho mọi người tranh cướp cho bằng được. Đàn ông cướp được cái nường, đàn bà con gái vớ được cái nõn thì coi là hạnh phúc sẽ tới với họ năm đó. Thời cũ của người An Nam xưa là lập gia đình rồi mà mãi chưa có con thì coi như là vô phước vô phúc. Cho nên giữa ngày hội làng, phải nắm được nõn nường. Nường là một cái mo cau đâm thủng một lỗ, nõn là khúc ngắn gỗ xoan (làm nhà). Đèn nến cúng tế tới một lúc thì tắt phụt cho gái trai chung **ng nhau, rồi lúc trở lại có ánh sáng, chủ tế mới tung cao đôi nõn nường ra trong tiếng vui nhộn mọi người, kể cả những anh ả tay không.

                  Thế giới quan, nhân sinh quan của Xuân Hương (Cổ Nguyệt) là một nhỡn quan nõn nường. Bất cứ cái gì, bất kể lúc nào và ở đâu, vẫn ngân vang lên chỉ nõn và nường. Câu nào, chữ vần nào cũng chỉ có mỗi cái sự như thế của cái ấy và cái nọ. Thơ Xuân Hương là một thứ hiện thực sâu sắc. Gọi nó ra như chụp ảnh, như chĩa máy quay phim vào. Đừng có tay nào nói nhảm gọi đó là lối hiện thực của chúng ta bây giờ - mặc dù đã có một ông Văn Tân (theo lời vạch ra của Xuân Diệu) kêu Hồ Xuân Hương chả có gì tiến bộ, chỉ có cái dâm tục (cụ thể là bài thơ Ông chồng Bà chồng vịnh hòn đá phong cảnh nọ đè lên hòn đá cảnh kia).

                  Chao ôi, Xuân Hương, người đàn bà độc đáo, nhà thơ vô song hiện thực trữ tình! Cái hiện thực của sự sống, đa âm đa dương. Có anh bạn uyên bác liền cười cười hỏi luôn "vậy chớ ông, khi nói về bà đó, có định nói thêm về những libiđô của Phơrôi (Freud)? và ông có nghĩ Bà Đẹp hay không Đẹp?".

                  Có, đã có nghĩ tới những khía cạnh này ở Hồ Xuân Hương. Nhưng thôi, hãy tạm chấm dứt ở đây.

                  (Theo NGUYỄN TUÂN)

                  ----------


                  DÂM HAY TỤC ?
                   
                  Đối với Hồ Xuân Hương một vấn đề xưa nay được bàn cãi nhiều, và có nhiều ý kiến đối lập gay gắt là thơ của bà có dâm có tục hay không? Người nào chủ trương thơ Hồ Xuân Hương không có gì là dâm tục, thì thường hết lời ca ngợi, coi những sáng tác của bà như những khám phá kỳ diệu. Còn trái lại, người nào coi thơ bà là dâm là tục thì thường dè dặt, thậm chí phê phán, mặc dầu về tài năng của bà, nói chung ai cũng thừa nhận.

                  Để giải quyết vấn đề này, điều căn bản trước hết, phải xác định cho đúng những sáng tác nào đích thực của Hồ Xuân Hương. Không có sự phân biệt cần thiết, cứ xô bồ, coi tất cả những bài như Đánh cờ người, Vịnh ông quan võ… là của Hồ Xuân Hương, rồi kết tội nhà thơ, thì lời kết tội có thể đúng, nhưng nó không đúng đối với Hồ Xuân Hương. Nhưng sau khi đã chọn lựa, xác định thơ Hồ Xuân Hương rồi thì ta thấy gì về vấn đề này?

                  Rõ ràng một điều không ai chối cãi được là trong sáng tác của Hồ Xuân Hương có một cái gì không bình thường. Trong những bài như Đá Ông chồng Bà chồng, Dệt cửi, Đánh đu, Đèo Ba Dội, hay một số bài khác như Cái quạt, Quả mít… nhà thơ muốn nói đến cái này, đồng thời lại muốn nói đến cái khác, nói đến chuyện riêng của phụ nữ và chuyện riêng trong buồng kín của vợ chồng. Tính chất hai mặt là một dụng ý của nhà thơ chứ không phải tình cờ. Không nên vì bênh vực nhà thơ mà phủ nhận cái “nghĩa ngầm” không mấy che đậy ở những bài thơ ấy.

                  Ai cũng biết Hồ Xuân Hương là một nhà thơ sắc sảo tài hoa, giàu sức sống, mà luôn luôn bị cuộc đời chèn ép về mọi phương diện, về tinh thần, về tình cảm, về cuộc sống bản năng… điều đó làm cho nhà thơ vừa phẫn nộ lại vừa khao khát một cái gì. Chắc chắn những phụ nữ khác ở vào cảnh ngộ của Hồ Xuân Hương cũng sẽ có những khao khát như bà. Nhưng lễ giáo phong kiến và tập tục hàng nghìn đời trói buộc, dần dần họ quen với sự nhẫn nhục chịu đựng, không dám ý thức về những khao khát của mình. Phải có cái dũng cảm, táo bạo như người lao động trong văn học dân gian mới dám nói lên cái khao khát cháy bỏng ấy bằng lời. Hồ Xuân Hương gắn với bản lĩnh của người lao động, thêm vào đó với tính cách sắc sảo của mình, bà sẽ không hiền lành ao ước hay chờ đợi: “bao giờ lão móm chầu trời, thì em lại lấy một người trai tơ”, mà bà viết thẳng những cảnh ấy:

                  Trai du gối hạc khom khom cật,
                  Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
                  Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
                  Đôi hàng chân ngọc duỗi song song…


                  Hay là:
                   
                  Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
                  Một suốt đâm ngang thích thích mau…


                  Đọc những câu thơ này ai cũng thấy cái khao khát của nhà thơ về một tình yêu vật chất, tình yêu thể xác. Nhưng đừng vội nghĩ nói đến tình yêu thể xác, nói đến chuyện trong buồng kín của vợ chồng là dâm đãng.

                  Nghệ thuật quyết định chủ yếu không phải ở đề tài.

                  Trong thời cổ đại và thời Phục hưng ở Châu Âu đâu có hiếm những tác phẩm điêu khắc cùng đề tài với Hồ Xuân Hương mà nhân loại coi là những kiệt tác. Trong tác phẩm Mười ngày của Bôccaixiô cũng không ít những trang mô tả những cảnh trong buồng kín của vợ chồng còn trực tiếp hơn Hồ Xuân Hương, nhưng có ai coi Bôccaixiô là dâm đãng? Nhu cầu về cuộc sống bản năng cũng là một nhu cầu chân chính của con người, xã hội phong kiến phủ nhận nó, nên con người mới phản ứng chống lại. Ở Hồ Xuân Hương có cái gì quá đà, nhưng đặt trong bối cảnh của xã hội phong kiến phương Đông chịu ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo, thì chính đó lại là một sự chống trả quyết liệt. Hồ Xuân Hương nói nhiều đến dục vọng thể xác, nhưng bà thể hiện những dục vọng ấy trong sáng tác một cách “lành mạnh và khoẻ khoắn” (1).

                  Đọc thơ Hồ Xuân Hương, người ta thấy nhà thơ bao giờ cũng tỉnh táo, bà đứng cao hơn hiện tượng mình miêu tả để miêu tả; và với một tâm hồn nghệ sĩ thực sự, nhà thơ bao giờ cũng phát hiện được những khía cạnh thẩm mỹ trong đối tượng miêu tả của mình. Sáng tác của Hồ Xuân Hương là nghệ thuật chân chính, là “sáng tạo theo qui luật của cái đẹp”, nên nó không có gì giống, không thể so sánh với loại “sáng tác” khiêu dâm.

                  (Trích Lời giới thiệu Thơ Hồ Xuân Hương) (2)

                  NGUYỄN LỘC


                  ----------

                  (1) Chữ dùng của Ăngghen khi nhận xét về thơ của nhà thơ Đức Ghêoóc Véc. Ăngghen viết: “Cái làm cho Ghêoóc Véc trở thành một bậc thầy, cái mà khiến cho ông vượt qua Hainơ, cái mà trong văn học Đức ông chỉ thua Gớt, đó là sự biểu hiện của một dục vọng thể xác lành mạnh và khoẻ khoắn…” Xem bài Chant du compagnon de Georges Weerth (1846) trong cuốn Sur la litterature et l’art của Marx và Engels.

                  (2) Nhà xuất bản Văn học, 1982.
                  __________________


                  KHỐI TÌNH CỌ MÃI VỚI NON SÔNG


                  Có ai đó đem gán câu đối này cho Xuân Hương :
                   
                  Giang tay với thử trời cao thấp
                  Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài


                  Nhưng thơ Xuân Hương vốn xa lạ với lối đại ngôn kiểu đó, mà bình dị, tự nhiên – không phải khẩu khí mà là huyết khí, với khi chất riêng của mình.

                  Không ít người muốn rằng câu đầu trong bài Đề miếu Sầm Nghi Đống nên đọc là : Liếc mắt trông ngang thấy bảng treo.

                  Nhưng miếu này ở trên gò cao làm sao trông ngang mà thấy được. Mà trông ngang thì có gì đáng nói? Thiết tưởng không cần phải làm cái việc “hiệu đính” như trên, mà cứ nên đọc như vốn dĩ :

                  Ghé mắt trông lên thấy bảng treo


                  Ghé mắt nói lên được sự ngẫu nhiên, không chủ tâm, còn liếc mắt thì chẳng đường hoàng chút nào, mà Xuân Hương bao giờ cũng sòng phẳng, không quanh co :
                   
                  Kìa đền thái thú đứng cheo leo
                  Ví đây đổi phận làm trai được
                  Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.


                  Thì ra vấn đề không chỉ liên quan đến viên bại tướng Tàu mà còn là để tỏ thái độ đối với chế độ nam tôn nữ tỳ là chủ đề còn trở đi trở lại trong nhiều bài thơ khác.

                  Cũng có sự tồn nghi về bài Chùa Trấn Quốc, có người cho là của bà huyện Thanh Quan, nhưng thơ bà huyện vốn nề nếp – Xuân Diệu nói thơ viết ra như có lọng che – chứ không gầm, không lộn kiểu Xuân Hương :
                   
                  Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng
                  Một dải tang thương nước lộn trời


                  Đến đây tôi cũng muốn liên hệ với bài Thanh minh cho Tổng Cóc (Kiến thức ngày nay, số 63) cho rằng Tổng Cóc là người tử tế, lẽ nào Xuân Hương lại khóc chồng tai quái như thế. Nhưng chính như thế mới là Xuân Hương. Thơ ấy nằm trong phong cách chung của Xuân Hương, khó lẫn lộn vào đâu và với ai khác. Còn Tổng Cóc không phải là chồng sao lại có câu : “Thiếp bén duyên chàng có thế thôi” ? Ông phủ Vĩnh Tường chắc là khá hơn Tổng Cóc, nhưng Xuân Hương khóc ông cũng khác thường lắm.

                  Khóc thì khóc nhưng vẫn nghĩ đến chuyện tái giá :
                   
                  Hai bảy tháng trời đà mấy chốc

                  Ngoài hai bài Khóc Tổng Cóc Khóc ông Phủ Vĩnh Tường, còn hai bài thơ khóc chồng nữa, và điều này không ngẫu nhiên chút nào. Chết chồng, goá bụa ở thời đại nào cũng là lệ rơi và đau thương, nhưng với Xuân Hương đó là dịp để “bỡn” (Bỡn bà lang khóc chồng) và hạ lời khuyên :
                   
                  Nín đi kẻo thẹn với non sông !


                  Đáng thẹn không phải ở chỗ thương khóc chồng mà đằng sau tiếng khóc “tì ti” là tâm lý tự ty, ỷ lại, hoang mang mà Xuân Hương cho là không xứng đáng ở người làm vợ nói riêng, ở nữ giới nói chung. Xuân Hương đâu phải gỗ đá. Ngược lại, ít ai có khao khát quan hệ và tình nghĩa lứa đôi chân thành và thiết tha như Xuân Hương. Đâu phải đơn thuần là chuyện mời trầu :
                   
                  Có phải duyên nhau thì thắm lại
                  Đừng xanh như lá bạc như vôi


                  (Mời trầu)Mà còn là mời tình, mời nghĩa, cảnh giác với thói bạc tình, bạc nghĩa :

                  Chuyến đò nên nghĩa sao không nhớ
                  Sóng nữa hay là một chuyến thôi

                  (Qua sông phụ sóng)
                  Chê trách cũng không ngoài chuyện tình, chuyện nghĩa :
                   
                  Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa
                  Mảnh tình một khối thiếp xin mang


                  (Không chồng mà chửa)Thời Xuân Hương, người phụ nữ là nạn nhân của chế độ gia trưởng nam tôn nữ ty, không được hoạt động xã hội, không được ở trong bộ máy nhà nước, không được học hành thi cử, chịu thiệt thòi đủ đường cả ngoài xã hội cũng như gia đình : tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Số phận hẩm hiu, bi đát của giới phụ nữ là chủ đề của những sáng tác lớn nhất đương thời :
                   
                  Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
                  Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên


                  (Chinh phụ ngâm)

                  Oan chi những khách tiêu phòng
                  Mà xui phận bạc nằm trong má đào


                  (Cung oán ngâm)

                  Đau đớn thay phận đàn bà

                  (Truyện Kiều, Văn chiêu hồn)
                  “Vì ai gây dựng cho nên nỗi này, Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu”. Vì ai. Tại đâu ? Không ai biết được, đành đổ lỗi cho số kiếp, biến vấn đề xã hội, vấn đề chế độ thành vấn đề siêu hình : hồng nhan bạc mệnh, tạo vật đố toàn… Nhưng đâu phải chỉ có hồng nhan, chỉ có tài sắc mới chịu sự đánh ghen của tạo hoá? Chẳng qua vì “Nổi danh tài sắc một thì” nên tên tuổi, số phận của họ mới được biết đến, như Dương Quí Phi, Tây Thi, Tiểu Thanh, như người thiếu phụ trên bến Tầm Dương… nhờ có văn nhân thi sĩ mà để lại mối “trường hận” cho muôn đời. Trong tiếng kêu than, oán trách, hay niềm thương cảm xót xa, “Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa”, ít nhiều đã có mầm phản kháng, bắt đầu từ ca dao và đạt tới đỉnh cao là với Xuân Hương.

                  Các bài thơ khóc chồng kể trên là nằm trong cảm hứng chế diễu, thách thức chung của thơ Xuân Hương trong hoàn cảnh xã hội phong kiến. Có thể coi Xuân Hương là ngòi bút đấu tranh cho “nữ quyền” lợi hại nhất, theo nghĩa là đã ngang nhiên hạ bệ toàn bộ giới đàn ông gia trưởng, từ “chú lái kia ơi biết chú rồi”, cho đến hiền nhân, quân tử, anh hùng, cho đến cả vua chúa, kéo họ ngang hàng, thậm chí dưới hàng phụ nữ, vạch cho thấy học phụ thuộc vào phụ nữ, phụ nữ là không thể thiếu được cho họ có được niềm hạnh phúc và lạc thú ở đời :
                   
                  Mát mặt anh hùng khi đứng gió
                  Che đầu quân tử lúc sa mưa


                  (Vịnh cái quạt)
                  Đã có một thời, người ta cho thơ Xuân Hương là dâm, là tục, đem quy vấn đề xã hội, vấn đề nhân văn trong thơ Xuân Hương thành một vấn đề sinh lý đơn thuần. Yếu tố dâm, tục (?), nếu có, thì cũng chỉ là phương tiện, mà cứu cánh lá một vấn đề nghiêm túc qua cái vỏ cười cợt bên ngoài. Mặt khác, đã là tình yêu, là khát vọng lứa đôi, đã là thiết tha tình nghĩa với nhau thì đặt vấn đề dâm hay không dâm, nếu không giả tạo thì cũng mấp mé chủ nghĩa khổ hạnh. Thời thanh niên sôi nổi thì cái chuyện “yêu đêm… yêu ngày”, chiến đứng… chiến ngồi” trong giai đoạn trăng mật ban đầu kể ra khó tránh. Mà có cần phải tránh không? Đành rằng sự thật đời sống là một việc, còn viết ra là một việc khác, nhưng né tránh không phải là việc của Xuân Hương, Xuân Hương muốn sòng phẳng, chống đối đặc quyền ăn nói cũng như thói đạo đức giả của bọn đàn ông đương thời. Hơn nữa làm sao lại không thấy chất sống, chất thơ linh lung khêu gợi trong các hình tượng hai mặt nó mà làm nên ma lực không cưỡng lại nổi của “bà chúa thơ Nôm”.

                  Thơ không là khái niệm, cũng không đơn thuần là tiếng nói của tình cảm, mà còn là ấn tượng, là rung động, là giác quan được thức tỉnh, khấy lên sự sống ở dạng trần tục cũng như ở dạng thăng hoa bay bổng nhất. Ăngghen vốn rất coi trọng giá trị hiện thực, giá trị tư tưởng của sáng tác, chính Ăngghen đã viết : Điều mà Véttơ (Georges Weerth) đã vượt hẳn Hainơ (bởi vì Vettơ lành mạnh và thực hơn), điều mà trong nền văn học Đức, Véttơ đã biểu hiện một tính nhục cảm và những thèm muốn nhục cảm thật là lành mạnh và cường tráng (tôi gạch dưới – L.Đ.K)… khi người đọc chúng ta đọc những bài thơ của Phrayligrat, thật tình người ta có thể tưởng là con người không có bộ phận sinh dục… quả thật đã đến lúc những người công nhân Đức ít ra cũng quen nói đến những việc tự nhiên, cần thiết và vô cùng thú vị mà chính họ, họ cũng làm ban ngày hoặc ban đêm, một cách tự do không kém gì dân tộc Latinh, Hôme và Platông…” (K. Mác, Ăngghen Về văn học nghệ thuật – Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 372-373). Chính Xuân Hương đã có được cái “lành mạnh” và “cường tráng” mà Ăngghen rất tán thưởng ở nhà thơ vô sản Véttơ.

                  Tình yêu là sự hoà nhập vào nhau của hai tâm hồn và thể xác, nếu khác đi, nếu :
                   
                  Cán cân tạo hoá rơi đâu mất
                  Miệng túi càn khôn khép lại rồi.


                  (Khóc ông Phủ Vĩnh Tường)
                  Thì chỉ còn là mông lung sương khói mà thực tế sớm muộn sẽ chóng xua tan. Nhưng nếu từ đó mà rơi vào cực khác, gạt mọi ước mơ khát vọng cao đẹp hướng tới cái hay, cái đẹp, cái hoàn thiện thì sẽ không tránh khỏi rơi vào chủ nghĩa tự nhiên, không còn sáng tạo theo quy luật của cái đẹp, không còn tình yêu đích thực, xứng đáng với danh nghĩa làm người nữa.


                  (Theo LÊ ĐÌNH KỴ)
                  __________________

                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 26.11.2008 13:00:53 bởi lyenson >
                  #24
                    lyenson 26.11.2008 13:05:59 (permalink)
                    KHÁCH VĂN CHƯƠNG Ở
                    PHƯỜNG KHÁN XUÂN

                    (Truyện ngắn)
                    Lầu quán ở Khán Xuân, giáp Tây Hồ mọc lên rất nhiều. Đây là nơi du ngoạn của những người có tiền, những kẻ hào hoa phóng túng, hoặc đang có những u uất chưa cởi được. Những nỗi đau đời cần gặp một người tri kỷ đôi hồi. Những văn nhân có tiếng cũng thường hay đến đây. Có cả những người có tiếng tăm như Chiêu Hổ, Nguyễn Án, người nổi tiếng đặt bút thành văn, hoặc những lão đồ gàn chữ ít nói nhiều, ồn ào quá mức.

                    Quán Cổ Nguyệt mới dựng lên, mà tao nhân mặc khách đã đông lắm. Nữ chủ nhân tung tích ở đâu, chẳng rõ, tuy không đẹp mê hồn như những kỳ nữ, hoặc có những tài hoa riêng nhở giọng hát mà cách sống buông thả phóng túng như cô Cầm (1). Nàng Xuân Hương nhìn bề ngoài không cuốn hút lắm, nhưng càng nhìn càng ưa, bởi những nét rắn rỏi khác thường trên gương mặt đàn bà, nét dạn dĩ của người từng trải. Nghe đâu Xuân Hương rất hay chữ. Chẳng thế mà ông tri phủ Vĩnh Tường đã chết mê chết mệt về nàng, cưới nàng về bằng được, chấp cả lời dị nghị.

                    Ông yêu nàng rất mực, thứ gì cũng chiều. Ông đưa nàng du ngoạn ở khắp những danh lam thắng cảnh, nơi ông trị nhậm. Vùng đất của ông sát kề núi Tam Đảo, phía bên kia là thành Tam Đái, một dải đê – đất náu ẩn của cánh đầu trộm, đuôi cướp trên sông, phía bên phải là đám lục lâm, tản mát thì thành một đám cướp nhỏ, tụ hội thì thành Quận Hẻo, Quận He, triều đình đánh dẹp cũng còn khướt.

                    Từ khi quân Tây Sơn đổ ra Bắc, lối ăn chơi khá hào hoa, họ thường sà vào những nơi đô hội ở băm sáu phố phường, thì cái xóm ăn chơi ở phương Khán Xuân tĩnh lặng hơn. Từ ngày ông phủ Vĩnh Tường mất, miền Tam Đái không được yên ổn, nàng Xuân Hương bị gia đình vợ cả quan phủ ruồng rẫy. Tức khí, nàng bỏ hết, tay nải gió đưa, xuống thuyền về ngay kinh thành, mua một miếng đất, dựng ngay một quán hàng, cũng xênh phách, cũng rượu ngon, nhắm tốt. Cô dốc tiền rủ về được mấy cô đào hát cũng hay hay. Tính nết mau mắn, hay bông đùa, cho nên quán mới khai trương mà đã có nhiều người tò mò lui tới. Người nọ truyền người kia, chẳng mấy chốc mà hoá ra có tiếng.

                    Rửng mỡ có mấy ông quan thị, gặp buổi nhà Tây Sơn vào thành, vua Lê ốm đau, các cung tần, mỹ nữ hầu hạ quanh vua, loại cao không tới, thấp không xong, rỗi hơi rủ nhau tìm đến Khán Xuân, lúc thuê thuyền chơi trên hồ, lúc vào quán trà dư, tửu hậu, giọng nói eo éo, thơ thẩn phun ra rông rổng toàn thơ con cóc, mà cứ vỗ ngực khen hay. Xuân Hương không thể nhịn cười được khi thấy họ ra đầu đề thi nhau vịnh Quán Trấn Vũ. Một ông đọc :
                    Xem này Trấn Vũ Quán đông vui
                    Tấp nập vào ra đến lắm người
                    Tướng lớn đen xì ông hộ pháp
                    Hoá vàng đỏ loét lửa ma trơi.

                    Một ông khác nối vần :


                    Cây xanh mấy gốc trơ thân cụ
                    Voi đắp hai con vểnh mấy vòi
                    Dăm tiếng mõ chiều kêu lốc cốc
                    Ao chài cá mổ thật tanh hôi.


                    Mấy ông quan thị ngâm nga, anh nọ khen anh kia tài ngang Lý Bạch, Đỗ Phủ, liên tiếp gọi rượu, gọi bà chủ đến đọc thơ cho mà nghe, tay lại còn định bá vai, chộp ngực, Xuân Hương cũng phải chiều, nhưng trong lòng bấm bụng cười thầm. Vốn tài mẫn tiệp, nàng nhẩm ngay được một bài thơ về lũ nửa người nửa ngợm.

                    Bọn quan thị vừa ra, bỗng có một người dáng thanh tú, đầu vấn khăn nhiễu tam giang chít chữ nhân, mặc áo thụng xanh, thắt đai đỏ, trông rất phong độ… Xuân Hương hơi giật mình. Nàng chưa thấy ai có đôi mắt đen và sáng, vầng trán cao mà nhuần nhị đến như thế. Nàng chủ động cúi mặt chào :

                    – Đại quan nhân quá bộ vào trong nhà. Tiện thiếp rất vinh hạnh được ngài chiếu cố đến…

                    Chàng khoảng ngoài ba mươi tuổi, da trắng hồng đầy dáng vẻ hào hoa của một người đã lịch lãm ở đô thành.

                    Chàng nói :

                    – Có phải nàng là chủ quán. Nàng chính là Xuân Hương ?

                    – Thưa ngài vâng ạ.

                    – Đừng gọi tôi thế, khách sáo quá. Tôi nghe nàng là phu nhân của quan phủ Vĩnh Tường, một vị quan phụ mẫu vào loại vịn vai đời mà sống. và nàng cũng là một bậc nữ lưu tài danh…

                    – Quan nhân cứ quá khen. Tiện thiếp vốn chỉ được theo đòi dăm ba chữ. Người đời yêu mà đồn đại thêm mà thôi.

                    – Tôi là Đình Hổ, họ Phạm, bạn bè quen gọi là Chiêu Hổ.

                    – Ôi chao ! Xuân Hương này hạnh phúc biết nhường nào. Gia thanh của quan nhân đất Hà Thành này ai chẳng biết. Tiện thiếp đã được trộm đọc những áng văn của ngài viết về cách thưởng trà, thưởng lan thật là sành, khiến đọc qua văn biết người, nay mới được thấy mặt.

                    Nàng đích thân đem rượu đến, rót mời Chiêu Hổ. Cách tiếng xúc của nàng khiến Chiêu Hổ thầm ưng ý. Bọn đàn bà ở trong phủ này, phủ nọ thường làm ra vẻ quyền quý, mà dốt nát hợm mình. Những tiểu thư ở băm sáu phố phường, người thì rụt rè, cổ lỗ, kẻ lại đài các, kiêu sa… Chiêu Hổ lặng ngắm nàng, càng nhìn càng ưa… Chuyện trò ngày một mặn mà. Hai người có vẻ tâm đầu, hợp ý, buổi sơ kiến đã nói gần hết cho nhau, những điều đáng lý phải quen lâu mới nói. Vui chuyện Xuân Hương lại kể đám quan thị vào chơi và đưa cả bài thơ viết dán lên vách cho Chiêu Hổ xem.

                    Chiêu xem xong, cười ầm lên, cười rất thích thú và nói :

                    – Bọn này cũng quấy quả nàng lắm nhỉ ?

                    Xuân Hương nói :

                    – Mở quán thì phải chiều khách, biết làm sao được, thưa ngài. Xin ngài đừng cho là hỗn. Tiện thiếp cũng đã phải nhịn hết sức mới khỏi bật cười. Cái đám thơ thẩn dở hơi, thân thế dở hám, lũ quan thị ấy, đã khiến thiếp nảy ra một bài thơ.

                    – Nàng đọc tôi nghe xem nào !

                    Nghe xong câu nói đã có chiều thân mật, Xuân Hương mỉm cười đọc :
                     
                    QUAN THỊ

                    Mười hai bà mụ ghét chi nhau
                    Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu,
                    Rúc rích thây cha con chuột nhắt
                    Vo ve mặc mẹ cái ong bầu.
                    Đố ai biết được vông hay trốc
                    Còn kẻ nào hay cuống với đầu
                    Thôi thế thì thôi, thôi cũng được
                    Ngàn năm càng khỏi tiếng nương dâu…

                     
                    Vừa nghe xong, Chiêu Hổ, vốn sành thơ bất ngờ kêu thốt lên :

                    – Trời ơi, hay quá ! Hay quá ! Xin nàng cho nghe thêm một lần nữa.

                    Xuân Hương rất mừng được Chiếu Hổ khen, nàng đọc lại. Bấy giờ xem ra nàng có vẻ bẽn lẽn. Nghe rồi, Chiêu Hổ thừ ra ngắm nàng. Ông lại hỏi :

                    – Chắc là nàng còn có nhiều bài thơ khác nữa ?

                    – Cũng có, nhưng không nhiều lắm.

                    – Cho tôi xem được không ?

                    – Nếu được bậc danh gia chỉ giáo thì Xuân Hương tôi vinh hạnh biết chừng nào.

                    Nàng vào trong nhà lấy tập thơ chép tay ra, đưa cho Chiêu Hổ. Chiêu Hổ định xem ngay, nhưng nàng ngăn lại, nói :

                    – Xin quan nhân đem về nhà hãy xem, mấy khi thiếp có được cuộc gặp gỡ như thế này.

                    Chiêu Hổ nhìn nàng, âu yếm nói :

                    – Nếu có một nữ sĩ tài sắc làm bầu bạn trong thời buổi nhiễu nhường này, chắc là tôi còn đến…

                    Xuân Hương rót rượu mời Chiêu Hổ, nàng cũng nhắp đôi chút để tiếp ông, rồi hỏi :

                    – Vừa rồi, Hải Thượng Lãn Ông từ Nghệ An ra làm khuấy động kinh thành về tài thuốc lẫn tài văn. Thiếp có đọc Thượng Kinh Ký sự, rất chú ý đến những bài thơ. Ý tiên sinh như thế nào ?

                    – Đó là một ông già đáng trọng, nghề thuốc là đại danh y. Thượng Kinh Ký sự ghi chép, nhận xét thế là giỏi. Nhưng thơ thì chán lắm.

                    – Theo quan nhân, thì tài ở trong nước này như thế nào ?

                    – Tôi ít đọc thơ và thú thật ít giao du với các thi nhân. Ông Nguyễn Du em ông Nguyễn Khản ư ? Ông Phan Huy Ích, ông Ngô Thì Nhậm ư ! Tài của họ ghê gớm đấy chứ, nhưng họ còn mải vào đường chính trị. Tôi có đọc Sơ kính tân trang của Phạm Thái, mối tình thật đẹp nghĩ mà thèm, thơ thế mới hay, còn như Chiến tụng Tây Hồ phú, chẳng qua họ Phạm thích nhà Lê ghét nhà Tây Sơn mà cãi chầy cãi cối thôi…

                    Xuân Hương nhìn Phạm Đình Hổ đắm đuối, lòng nàng đang xao xuyến.

                    Chiêu Hổ về đọc thơ Xuân Hương. Ông trăn trở suốt đêm không ngủ. Nữ sĩ có tài ở nước Nam này đếm trên đầu ngón tay. Thơ của nàng chẳng giống một ai trước nàng, cùng thời với nàng và sau nàng cũng thế ! Ông suy nghĩ lâu lắm. Mà con người thì có vẻ đanh đá, bất cần đời, lật ngược tôn ti trật tự giữa đàn bà với đàn ông, giữa sang và hen, giữa thực và ảo, càng đọc càng hay, càng phục.

                    Mờ sáng hôm sau, ông đã cầm tập thơ của Xuân Hương, gọi cáng đến phường Khán Xuân, Xuân Hương đêm qua trằn trọc ngủ không yên. Cái dáng người phong nhã, uyên bác đã làm cho nàng xiêu lòng, mặc dù tang ông phủ Vĩnh Tường vẫn chưa hết. Nàng là người ghét lễ giáo nhất. Sao tất cả cứ ràng buộc người ta vào nghi thức. Con trở cha phải đúng ba năm, sau ba năm nối tang thì lại cũng không được phép lấy chồng, lúc đó người con gái đẹp cũng hoá ra kẻ lỡ thì… Như Xuân Hương cũng thế, được ông Phủ yêu quý là thế, nàng rất biết ơn, song cái cảnh ban ngày thì ông phủ là của công đường, ban đêm thì của bà cả, phận lẽ mọn hẩm hiu. Đường đường một vị quan lớn, ông Phủ vẫn luôn giữ nền nếp gia phong, tôn ti trật tự. Ông vẫn ngồi ăn cơm với bà cả, còn mình nhận làm lẽ vẫn cứ phải đôn đốc coi sóc quân hầu, đầy tớ. Mấy năm chung **ng, ông Phủ đến với nàng cứ lấm lét như người vụng trộm. Có buổi biết ông đang say mê thơ phú với nàng, bà cả lại bịa ra một việc gì đó, cho người triệu ông về để định liệu công việc, thế là ông lại đứng dậy ra về…

                    Chiêu Hổ, xem ra là một người vừa nghiêm trang vừa phóng túng. Cái nhìn đắm đuối bữa qua, nhất là ông cứ đau đáu ngắm nàng, khiến Xuân Hương chợt có ý vừa nghiêm túc vừa phá phách. Nàng chua chát nghĩ rằng, chắc vị quan nhân cũng rất mến mộ văn chương và cũng có bề háu gái... nhưng ta nào đã bao giờ có tình yêu ! Nàng nghĩ thế. Nếu như một cuộc tình ngắn ngủi với một người đáng dâng hiến thì cũng hay lắm chứ !... Còn cái tang ông Phủ ư ! Đã yêu thì làm sao mà ngăn được...

                    Thấy Chiêu Hổ đến, Xuân Hương bối rối, rộn ràng hẳn lên. Nàng biết mình đã yêu. Buổi sáng quán không có khách. Xuân Hương cho gọi trà cùng uống ở đầu hồi, rồi lại bắt con hầu đem rượu ngon ra uống. Chiêu Hổ lấy tập thơ của Xuân Hương ra, nhìn trước nhìn sau, không thấy ai, ông nắm lấy tay nàng mà nói :

                    – Không ngờ Chiêu Hổ này lại được là người đầu tiên đọc tập thơ này. Đọc rồi cứ ngẫm nghĩ rằng, nàng sống chắc là khổ lắm ?

                    Xuân Hương cảm động, không rụt tay về. Nàng nói :

                    – Làm sao quan nhân biết ?

                    – Thơ chính là tiếng nói tự đáy lòng mà thốt ra, giấu nổi ai đâu. Bây giờ tôi mới hiểu những lời mà trong đám tao nhân, mặc khách đàm tiếu về nàng.

                    Xuân Hương cảm thấy dễ chịu. Nàng thấy Hổ cũng là người thành thực, nàng hỏi :

                    – Người đất Long Thành nói gì về thiếp ?

                    – Họ truyền tụng thơ nàng, nhiều người chép tay. Người thí phát khùng lên, không chịu nổi, cho là thơ dâm ô, trác táng… không những họ ghét nàng, ghét thơ nàng, mà ghét cả ai ca tụng và chép thơ nàng nữa.

                    – Còn quan nhân thì sao ?

                    – Sao nàng còn phải hỏi ? Làm được một bài thơ hay đã khó, huống chi tự mình lại đặt được một lối thơ riêng không giống bất cứ người nào !

                    Xuân Hương cảm động lắm. Chiêu Hổ đã đoán nhận ra những nét giao cảm. Ông ngắm nhìn nàng, cái nhìn đắm đuối của người tài gặp người đẹp. Bất chợt ông nói :

                    – Chúng ta là những người đi khác luồng những người đang sống. Người thì hám quan chức, kẻ thì hám tiền tài. Chúng ta sống bằng chữ nghĩa, vương giả với chữ nghĩa; hợm mình, kiêu bạc bằng chữ nghĩa, cho nên người đời nhìn ta bằng những con mắt nửa trọng, nửa ghét, nửa muốn chơi, nửa muốn hại… Ngay cả đám văn chương rởm, tưởng là ở phía chúng ta, mà kỳ thực lại là lũ ong tay áo, nàng thấy thế nào ?

                    Xuân Hương sững sờ, nhìn Chiêu Hổ đắm đắm. Nàng biết không cưỡng nổi mình nữa. Nàng rót rượu cho Chiêu Hổ, nhưng ông đã cầm tay nàng kéo về lòng mình mà nói :

                    – Tôi chắc nàng cũng đơn thương độc mã như tôi… và ông ôm ghì lấy nàng.

                    Xuân Hương nhìn ra, khẽ đẩy tay ông, mặc dù nàng thấy ấm áp, nàng khẽ nói, giọng rất dịu dàng :

                    – Đừng, quan nhân, em ngại lắm ! Em đang có tang chồng !

                    Nhưng Chiêu Hổ đời nào lại buông nàng ra…

                    Cuộc đi lại giữa hai người ngày càng dầy. Xuân Hương thầm khấn trời xui khiến mình trở lại đất Long Thành để có những giờ phút trước đây mình chưa bao giờ có. Trong số đông bài bác, chửi rủa thơ nàng, thì có một số người khác hết sức mến mộ… Nàng thấy ngay ở quán rượu của nàng, đã có lần những cuộc cãi lộn và cái thói hiếu thắng của đám sĩ phu, đã có lần xuýt nữa gây ra ẩu đả… Nhiều người đến quán rượu chỉ để xem mặt nàng, mong xướng hoạ với nàng… Quán của nàng đông hơn các quán xung quanh. Trò đời, hơn ai một chút là dễ bị kẻ mất phần ganh ghét, huống hồ nàng lại giành của họ cả tài lẫn danh. Nàng bất chấp. Có Chiêu Hổ là nàng có tất cả… Tuy nhiên, nàng cũng biết người, biết của, khéo chiều. Những ai mến mộ đến với nàng bao giờ nàng cũng tiếp đãi rất ân cần chu đáo. Đối với khách văn chương, có thú chơi tao nhã, nàng lấy tiền rượu, tiền nhắm với chút ít lời lãi… Bởi thế, quán của nàng lúc nào cũng đầy khách, từ sáng sớm đến tận khuya.

                    Dạo này quan Tổng trấn Bắc Thành đang ra sức thay mặt triều đình vỗ về dân chúng, chiêu mộ sĩ phu Bắc Hà… Lòng người vẫn còn tiếc nhà Lê, song với cái đám sĩ tử vẫn không thích nhà Tây Sơn thì có dịp ra làm quan, để kiếm lấy một thế đứng trong giới thượng lưu. Nghe nói Chiêu Hổ cũng là một trong những người được quan Tổng trấn trọng tài và lưu ý. Cuộc đi lại ngắn ngủi khiến cho Xuân Hương như một người hụt hẫng, nhất là từ khi Vũ trung tuỳ bút được văn nhân Bắc Hà coi như một áng danh văn, Chiêu Hổ ít khi lui tới đến nàng. Ông hay giao du với những đám nhà giàu sang, quyền quý. Nghe đâu, ông Tổng trấn đã dâng sớ lên nhà vua, tuyển ông vào quốc sử quán… ông càng ra sức giữ tiếng. Hồ Xuân Hương nghĩ chua chát, nhưng chẳng nói ra… Quán của nàng, sau một thời lui tới của kẻ sĩ, giờ đây vắng dần… Đám tao nhân mặc khách ít đi, thì cái đám phàm phu, tục tử lại sa đà. Nàng phó mặc cho đám quản gia, người giúp việc lo liệu tất… Nàng đã hết tang ông Phủ, về quê lo giỗ chạp, cát tang chu tất rồi mới trở lại với phường Khán Xuân. Nàng buồn lắm. Thơ của nàng hình như cũng trĩu nặng một nỗi buồn riêng :
                     
                    Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
                    Trơ cái hồng nhan với nước non;
                    Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
                    Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
                    Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
                    Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
                    Ngán nỗi Xuân đi Xuân lại lại
                    Mảnh tình san sẻ tý con con.


                    Cái đám quan thị bữa nọ bị nàng chọv cho vẫn còn thù. Sau biến đổi liên miên, có đứa có điền trang lớn ở ngay khu Mười ba trại. hắn cho gia nhân đến đốt quán. Xuân Hương một đêm trắng tay… Cái mà nàng giữ lại chỉ còn có một chút bạc trắng… Dạo này đang đeo đuổi nàng lại có Tổng Cóc. Nhà gã giàu, cũng là một kẻ biết ăn chơi. Tổng Cóc người đất lúa, lấy lúa mà lo quan chức, khao cử mua danh vọng, mua ruộng; nay thả chim, mai mở hội chải, đỡ đầu cho một đêm hát ả đào trên sông… Vì thế bè bạn gọi đùa là Tổng Cóc. Gã lại đen đúa khó coi, người lại ngắn, nên có người ác miệng gọi là Tổng Cóc, và thế là thành tên, Tổng Cóc xấu người tốt bụng lại chết mệt Hồ Xuân Hương. Cóc hay lân la ở quán của nàng, nhiều lần bị đám văn nhân sĩ tử trêu chọc. Nhưng Tổng Cóc đem tiến, đem tre gỗ của mình dựng lại quán cho nàng, lại xui gia nhân đem đến năm mươi lạng bạc để nàng làm vốn, nàng rất cảm kích… Gần đây Tổng Cóc lại cầu hôn… Hàng quán ế ẩm. Văn chương dạo này cũng ít người ham hố bàn luận như lúc trước. Thương nhân mọc lên như nấm. đám quan lại theo triều Nguyễn từ miền trong ra, thường bận bịu về việc quan lại tiết kiệm, ít ném tiến qua cửa sổ như các quan chức thời Tây Sơn. Quán Văn Chương của Hồ Xuân Hương kém hẳn các quán rượu có hầu gái non do mấy mụ Tú Bà từ đâu mới đến mở quán là ô nhiễm cả phường Khán Xuân, vốn xưa nổi tiếng là xóm phong lưu hơn là xóm nguyệt hoa… Xuân Hương buồn lắm. Tổng Cóc vẫn đeo đẳng da diết. Thân phận lỡ thì biết làm sao. Tứ cố vô thân, làm ăn hụt hẫng thua lỗ, bạn cũ tình xưa đều chểnh mảng, biết làm thế nào. Xuân Hương những hôm vắng khách chỉ ngồi ở chiếc bàn buổi đầu tiên Chiêu Hổ gặp nàng mà uống rượu một mình. Nàng sợ hãi đến không cả giở đến những bài thơ của mình, đặc biệt là những bài thơ xướng hoạ với Chiêu Hổ, mà nàng coi như báu vật thiêng liêng nhất của đời nàng.

                    Nàng nhượng lại quán, định đi một cuộc ngao du sơn thuỷ, rồi sau này ra sao thì ra. Quán nàng đóng im ỉm. Quen lệ, Tổng Cóc nhớ Xuân Hương, đem gia nhân đến chơi, thấy quán cũ phá đi, người không còn đâu nữa… Chủ mới là một mụ béo phị đang hối hả dựng quán mới. cái lầu cổ nguyệt đơn sơ nhìn ra Hồ Tây, phía trước có vườn có cây cảnh, có chỗ ngồi thưởng nguyệt ngâm thơ đã bị phá đi cả…

                    Tổng Cóc dẫm chân than thở :

                    – Ta chỉ chậm chân một chút mà lỡ hết việc… Nhưng ta nhất quyết phải tìm, tìm cho được nàng…

                    Và lập tức con người hào hoa, tâm thần ấy làm một cuộc truy lùng, theo dấu vết của một bóng người ông hằng mến mộ… Cuộc truy đuổi lúc xuống thuyền, lúc lên bộ cũng long đong, trớ trêu như duyên phận của hai người.

                    NGÔ VĂN PHÚ
                    1994.
                    __________________

                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 26.11.2008 13:10:03 bởi lyenson >
                    #25
                      lyenson 26.11.2008 13:20:33 (permalink)
                      ĐỜI TỨC LÀ VĂN, VĂN TỨC LÀ ĐỜI
                      XUÂN DIỆU

                      Hồ Xuân Hương sinh trước chúng ta vào khoảng hai trăm năm, và mất không biết vào lúc bao nhiêu tuổi. Nhưng trong văn học Việt Nam, cái tên Xuân Hương cứ gợi lên trong trí óc ta một người còn trẻ, ta cảm thấy gọi “bà” là không ổn, khác hẳn với bà Đoàn Thị Điểm, bà huyện Thanh quan; trong ý niệm của ta, Xuân Hương không bao giờ già; ta thích gọi bằng “nàng” bằng “cô”; đẹp hơn hết, ta muốn gọi bằng hai tiếng Xuân Hương, tên của nàng thơ.

                      Trong văn học Việt Nam trước Cách mạng, ít có tác giả nào đời mình gắn liền với tác phẩm mình khăng khít như Xuân Hương. Đời Xuân Hương với thơ Xuân Hương không chia tách nhau, mỗi đoạn đời là có thơ, đến trước mỗi cảnh vật lại mỗi có thơ; cho đến nỗi, cũng nhờ mối liên quan đó, mà chúng ta bây giờ, trước hiện trạng thiếu tài liệu về tiểu sử Xuân Hương, thì lần theo thơ mà dựng lại những chặng đời của tác giả. Nguyễn Hữu Tiến, trong quyển Giai nhân di mặc (1) có lẽ đã bằng theo các bài thơ làm mốc chính, thêm vào với những chuyện truyền khẩu, mà viết lại cái đời của Xuân Hương.

                      Chúng ta nay rất tức tối và đau đớn, đứng trước tình cảnh không biết ngày sinh tháng đẻ, năm mất của một thi hào như Xuân Hương, biết không đích xác về đời của Xuân Hương, nghi vấn cả về một số bài thơ không biết có phải là của Xuân Hương không. Có phải vì Xuân Hương không viết một quyển sách nào bằng chữ Hán, (2) cho nên trước kia không được liệt vào hàng tác giả ? Xuân Hương không viết tác phẩm bằng cái tiếng chính thống của chính quyền phong kiến xưa, không dùng cái ngôn ngữ Hán sang trọng kia, mà chỉ làm thơ “nôm na mách qué” thôi. Thơ Xuân Hương còn sống đến nay là nhờ ở sự bảo vệ của quần chúng nhân dân, họ không cất ở viện tàng thư, mà chủ yếu là cất ở trong trí nhớ của họ.

                      Xuân Hương là người đồng thời với Phạm Đình Hổ (Chiêu Hổ, 1768 – 1839), tức là sống cuối đời Lê, qua Tây Sơn, sang đầu Nguyễn. Xuân Hương ra đời sau bà Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748) và Lê Thước và Trương Chính (Văn nghệ số 428, ngày 24-12-1972), thì Xuân Hương có tặng thơ Nguyễn Du (sinh năm 1765).

                      Xuân Hương là con gái ông Hồ Phi Diễn, ở làng Quỳnh Đôi (Nghệ An), tức Xuân Hương là nguồn gốc xứ Nghệ. Mẹ Xuân Hương họ Hà, lấy lẽ Hồ Phi Diễn, thì quê ở Hải Dương. Xuân Hương là một người “lai”, là kết quả của sự hoà máu của miền Trung và miền Bắc. Xuân Hương sinh trưởng ở đất Bắc. Cha mẹ nhà ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận, Hà Nội. Nguyễn Hữu Tiến viết : “Nhà trông xuống Hồ Tây” – lại chú thêm : “Sau, Xuân Hương có thiên ra ở thôn Tiên Thị tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương, bây giờ là phố Nhà Thờ, gần đền Lý Quốc Sư”. Thế thì Xuân Hương là người Hà Nội. Đọc thơ Xuân Hương, có lẽ ta cũng thoáng thấy cái “tính cách Hà Nội” trong đó.

                      Vì ta không có tài liệu chính xác, nên không thể xếp cho chính xác trước sau các đoạn đời của Xuân Hương, nhưng các đoạn chính trong đời Xuân Hương thì đã soi đường, kết đọng trong những bài thơ, có thể dựa theo những đoạn chính ấy là :

                      1. THỜI CON GÁI ĐI HỌC CHỮ NHO – Các sách kể lại rằng khi cha nàng mất, nàng được mẹ nuôi cho ăn học. Đi học, hay có những chuyện tinh nghịch không thể tránh được giữa học trò, giữa hai thứ học trò con trai, con gái. Thời này, người ta truyền lại rằng một hôm Xuân Hương trượt chân ngã giữa sân, bọn học trò con trai cười rộ chế giễu, Xuân Hương ứng khẩu đọc ngay chữa thẹn :
                       
                      Giơ tay với thử trời cao thấp,
                      Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài.


                      (Những lối thơ khẩu khí nói theo lối “to tát” này, ta không thường thấy ở thơ Xuân Hương; đây có thể chỉ là một giả thiết thôi).

                      Bài thơ Vịnh giếng, ta có thể tin là làm ở thời này :
                       Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông,
                      Giếng tốt thanh thơi, giếng lạ lùng.
                      Cầu trăng phau phau đôi ván ghép,
                      Nước trong leo lẻo một dòng thông.
                      Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
                      Cá diếc le te lách giữa dòng.
                      Giếng ấy thanh tân ai cũng biết,
                      Đố ai dám thả nạ dòng dòng ?


                      Trong bài, tài thơ đã rất cao, không non tay chút nào hết; nhưng tình thơ, tứ thơ còn ôm ấp một cái gì non tơ, mới mẻ; từ chiếc cầu trắng đến dòng nước trong đều “thanh thơi”, cỏ gà không phải là mọc cao, cá giếc không phải là quẫy mạnh; cái giếng rất thanh và tân. Tuy không có gì làm bằng chứng cả, nhưng ta sẵn sàng tin những người bảo rằng bài này làm lúc Xuân Hương còn đi học; đây là “thơ con gái” như “lúa con gái”.

                      2. THỜI TỔNG CÓC – Có thuyết bảo rằng Xuân Hương lần đầu tiên lấy chồng, lại bị ép uổng lấy một người cai tổng goá vợ, tục gọi Tổng Cóc (3) (lại có thuyết bảo lần đầu Xuân Hương lấy ông phủ Vĩnh Tường). Thời Tổng Cóc không có gì là vui; vì khi Tổng Cóc chết đi, Xuân Hương có một cái thở dài thoát nợ, như ngực vừa cất được một cái gì đè nén : Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
                      Thiếp bén duyên chàng có thế thôi!
                      Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé,
                      Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi!


                      Xuân Hương đã khổ lắm với người này, thì mới lấy cái tên “Cóc” ra mà đay nghiến. Nòng nọc đứt đuôi, Xuân Hương bảo Tổng Cóc chết hẳn đi, chết không phản hồi; Xuân Hương muốn chôn ông Tổng Cóc hai lần, và bôi vôi vào, đánh dấu vào, thật là đào sâu chôn chặt!.

                      3. THỜI ÔNG PHỦ VĨNH TƯỜNG – Một người chồng nữa của Xuân Hương là một ông thủ khoa làm quan đến tri phủ Vĩnh Tường (thuộc tỉnh Vĩnh Yên), lấy nàng làm vợ lẽ. Trong cảnh lẽ mọn đó, Xuân Hương nào có được như cái hạnh phúc tuy ngắn ngủi nhưng cũng dạt dào của bà Đoàn Thị Điểm, ngoài ba mươi tuổi lấy vợ kế nhà danh sĩ Nguyễn Kiều, hai vợ chồng rất tương đắc, rất quý nhau (4). Xuân Hương, mặc dầu có một ông chồng hay chữ, rất khổ : Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
                      Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!


                      Đến nỗi phải hạ một câu : Thà trước thôi đành ở vậy xong!

                      Thì cuộc tình duyên với ông thủ khoa thật cũng chẳng có gì vui sướng, và cũng chỉ được ít lâu thì chồng mất. Lần này Xuân Hương không khóc cộc lốc như đối với Tổng Cóc là một kẻ cường hào dốt chữ, mà nàng khóc, với bao suy nghĩ, một tiếng khóc nấc lại hai lần : “Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi!”. Nhưng bài thơ chững chạc, đĩnh đạc quá : Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi,
                      Cái nợ ba sinh đã trả rồi.
                      Chôn chặt văn chương ba thước đất,
                      Tung hê hồ thỉ bốn phương trời.
                      Cán cân tạo hoá rơi đâu mất,
                      Miệng túi tàn khôn thắt lại rồi.
                      Hăm bảy tháng trời là mấy chốc,
                      Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi!


                      Những là “cán cân tạo hoá”, “miệng túi càn khôn”, thơ Xuân Hương thường không hay dùng chữ nhiều như vậy; cái tính cách “ông phủ” của người mất rõ quá; người thật yêu thương của mình chết, mình chẳng còn gan ruột đâu mà nói đến “cái nợ ba sinh đã trả rồi”. Bài thơ có tiếc thương, nhưng không rõ là yêu mến; trái lại, bài thơ nói về lấy lẽ rõ thực là tức tối, đớn đau. Hai đời chông của Hồ Xuân Hương, một lần một nông nỗi như vậy.


                      (1) Nghĩa là Nét mực lưu lại của giai nhân.

                      (2) Sau hồi Xuân Diệu viết bài này, người ta mới phát hiện ra Lưu hương ký có nhiều căn cứ đồ rằng là tác phẩm chữ Hán của thi sĩ họ Hồ.

                      (3) Hiện nay ở Vĩnh Yên (huyện Vĩnh Tường) còn có nhà thờ họ của ông cai tổng này.

                      (4) Bà Đoàn Thị Điểm 37 tuổi mới lấy chồng, 44 tuổi thì mất.
                      __________________
                      4. THỜI CHIÊU HỔ – Các sách có chép lại những giai thoại giữa Xuân Hương và Chiêu Hổ, nhưng vẫn không rõ : hai người làm “bạn thân” xướng hoạ với nhau, vào đoạn đời nào của Xuân Hương? Lúc Xuân Hương đã goá hai lần rồi? Hay là giữ hai lần goá? Chiêu Hổ thọ 71 tuổi, sống từ thời Lê Cảnh Hưng đến triều Nguyễn Minh mạng. Tác giả Vũ trung tuỳ bút, là một danh sỹ rất tài giỏi. Theo ông Văn Tân tính (1) thì Chiêu Hổ kém Xuân Hương “chừng trên dưới mười tuổi gì đó” nhưng trên thực tế của những bài xướng hoạ với nhau, thì hai người cùng là rất trẻ, rất bằng vai; nếu chẳng bằng vai thì khó mà xướng hoạ như vậy. Đây là một đoạn rất lý thú của đời Xuân Hương; Chiêu Hổ và Xuân Hương bình đẳng lạ lùng; Xuân Hương không cho mình là “phận đàn bà” đào thơ liễu yếu, chịu thua sút đàn ông như tư tưởng thông thường ấy. Xuân Hương đối chọi nhau từng chữ với Chiêu Hổ, đua ganh nhau từng vần thơ đã đành, mà ở cái giọng đùa giễu trong các bài thơ, ta thấy Xuân Hương là một gái bản lĩnh nhìn thẳng mặt đàn ông.

                      Người ta kể lại rằng : có lần Xuân Hương hỏi vay Chiêu Hổ năm quan tiền. Chiêu Hổ đã hẹn cho vay rồi, nhưng sau đưa có ba quan. Xuân Hương ngang nhiên gọi Chiêu Hổ là Cuội (nói dối như Cuội ngồi gốc cây đa) : … Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt,
                      Nhớ hái cho xin nắm lá đa!


                      Chiêu Hổ cũng chẳng phải tay vừa, hoạ lại nguyên vần, và đe Xuân Hương : … Ừ rồi, thong thả lên chơi nguyệt,
                      Cho cả cành đa lẫn củ đa.


                      Nếu Chiêu Hổ còn ngại ngần, thì Xuân Hương mỉa mai cho : Những bấy lâu nay luống nhắn nhe,
                      Nhắn nhe toan những sự gùn ghè.
                      Gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám,
                      Chưa dám cho nên phải rụt rè.


                      Nhưng nếu Chiêu Hổ mà dám, thì Xuân Hương lại tự xưng bằng “chị” và lấy ngay cái tên “Hổ” ra mà liên tưởng đến cái “hang hùm” : Anh đồ tỉnh? anh đồ say?
                      Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày?
                      Này này chị bảo cho mà biết:
                      Chốn ấy hang hùm chớ mó tay!


                      Xuân Hương bản lĩnh như vậy, Chiêu Hổ có một tâm tính xã hội xứng với tâm tính Xuân Hương. Chiêu Hổ cũng rất “nôm”, rất thực. Chiêu Hổ thật là anh học trò Việt Nam thời xưa, được xếp sau nhất quỷ nhì ma, hơn thế nữa kia, ma cũng sợ, quỷ cũng kinh. Thơ hoạ của Chiêu Hổ phản công lại rất hăng, rất liều. Hăm doạ, cương quyết : Hỡi hỡi cô bay tố hão nhe,
                      Hão nhe không được gậy ông ghè!
                      Ông ghè không được, ông ghè mãi,
                      Ghè mãi rồi lâu cũng phải rè!


                      Nhanh trí khôn, hợp pháp hoá cái liều lĩnh của mình, và còn dấn lên hùng hổ : Này ông tỉnh! Này ông say!
                      Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày!
                      Hang hùm ví bẵng không ai mó,
                      Sao có hùm con bỗng trốc tay?


                      Chúng ta không chê Chiêu Hổ ăn nói lối “dùi đục”, mà lại lý thú thấy đôi bạn thơ, đôi bạn lứa Xuân Hương – Chiêu Hổ như đôi câu đối hợp nhau; chắc ai cũng thấy rằng hễ có Xuân Hương thì có Chiêu Hổ; nhớ đến Chiêu Hổ, là nhớ đến Xuân Hương. Ta nghĩ giá hai người thành đôi lứa! Nhưng “tuy vậy, nàng cũng không lấy được Chiêu Hổ” (2).

                      Ta còn lấy làm lạ hơn nữa, là theo tục truyền, thì Xuân Hương ra cho Chiêu Hổ một câu đối, khi ông này thi đậu được bổ đi làm quan :

                      Mặc áo GIÁP, dài cài chữ ĐINH, MẬU KỶ CANH khoe mình rằng QUÝ. (3)

                      Đó là một câu mừng cho Chiêu Hổ, chỉ pha chút đùa khích nhẹ nhàng. Thế mà Chiêu Hổ đối ngay lại bằng một lời mắng nặng nề :

                      Làm đĩ CÀN, tai đeo hạt KHẢM, TỐN LY ĐOÀI khéo nói rằng KHÔN. (4)

                      Đây không phải chỉ là việc lấy chữ trong bát quái chọi nhau với chữ trong thập can; quan Phạm Đình Hổ sao lại lên mặt với bạn thơ của mình như vậy? Sao vô lễ đến mức ấy? Phạm Đình Hổ nhận được thơ hỏi thăm của Xuân Hương, lại đã làm thơ đáp lại, trong đó có câu : Nay đã mần cha thằng xích tử (5)
                      Rày thì đù mẹ cái hồng nhan! (6) Những chuyện tục truyền như thế này, rất có thể không phải là sự có thật (7); nếu mà có thật như vậy, thì đáng buồn biết chừng nào, Chiêu Hổ thì có vợ có con, yên nhà yên cửa, tốt thân tốt thế, quan lớn, sống lâu! Còn Xuân Hương thì lận đận long đong, chưa bề nào! Hạ những lời đùa như thế, giữa hai người tài tử, ai đáng hơn ai?

                      5. THỜI ĐI DẠO – Các sách nói rằng sau thời chồng con, Xuân Hương hay đi đây đi đó, từng trải nhiều danh lam thắng cảnh ở Bắc, ở Trung và tiếp xúc nhiều khách văn chương. Không duyên, không kiếp, cũng không chồng, (8) Đây là thời kỳ thênh thênh của Xuân Hương; nếu mà chồng yên con đủ, thì trong chế độ cũ, giang sơn của người đàn bà thông thường là gia đình… Nhưng Xuân Hương không được như lòng, nên phải lấy núi song làm bạn. Đi cho khuây khoả, đi để giải phóng, thiên nhiên giúp mình vượt những nỗi đau buồn : trong chế độ cũ, Xuân Hương cũng chỉ tìm được lối thoát trong sự đặt mình ngoài vòng nhân sự, là một kẻ không bận việc đời ti tiểu, làm một người ở trên cái đời “nghêu ngao vui thú yên hà”, như câu thơ Nguyễn Du. Nhưng hơn sự ngao du của nhiều văn nhân đàn ông, Xuân Hương đặt chân mình đến nới danh thắng nào, là có thơ hay; bước chân của Xuân Hương in dấu thơ vào đất nước.

                      Cuộc đời của Xuân Hương, tạm phân ra năm đoạn ấy, gắn chặt với tác phẩm Xuân Hương. Thơ Xuân Hương là đời của Xuân Hương, là người của Xuân Hương trong đó. Thơ Xuân Hương là hồn, là xác, là mắt nhìn, tay sờ, chân đi, là nụ cười, nước mắt của Xuân Hương, là cá tính, là số phận của Xuân Hương. Người xưa nói : không đổ máu huyết của mình vào trong văn, thì văn không hay. Đúng thế! Xuân Hương đã làm như thế!.


                      ----------


                      (1) Trong quyển Hồ Xuân Hương của văn Tân.

                      (2) Theo nam thi hợp tuyển của Nguyễn Văn Ngọc.

                      (3) Lấy những chữ trong thập can (giáp, ất, bính, đinh, kỷ, canh, tân, nhâm, quý). Ý muốn chế giễu Chiêu hổ vừa đỗ, mặc áo đẹp của ông tân khoa, ra vẻ "ta đây".

                      (4) Lấy những chữ trong bát quái (càn, khảm, cấn, chấn, tôn, ly, khôn, đoài). Ý mắng Xuân Hương là "con đĩ" càn dỡ, lại còn tự phụ, khoe khéo, khoe khôn.

                      Những chữ mậu, kỷ, canh ở câu trên và tốn, ly, đoài, ở câu này là thêm vào để lấy âm thanh cho dễ đọc.

                      (5) Xích tử : con đỏ, chỉ dân chúng.

                      (6) Theo Lê Thước, thì hai câu này là của Nguyễn Công Trứ - Bản thân hai câu này là vô nghĩa lý; tại sao được mần cha thằng xích tử, thì lại đù mẹ cái hồng nhan! Không thèm "đù" nữa hay lại "đù" hơn bao giờ hế? Chẳng qua đây là đối chọi chữ chan chát cho thích.

                      (7) Có ý kiến cho Chiêu Hổ chỉ là nhân vật trong giai thoại, không phải là Phạm Đình Hổ.

                      (8) Câu đầu một bài thơ vịnh Bà Triệu.__________________
                      #26
                        Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 26 trên tổng số 26 bài trong đề mục
                        Chuyển nhanh đến:

                        Thống kê hiện tại

                        Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                        Kiểu:
                        2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9