Đường Thi Trích Dịch II - Anh Nguyên
Thay đổi trang: << < 101112 > | Trang 11 của 12 trang, bài viết từ 151 đến 165 trên tổng số 178 bài trong đề mục
Anh Nguyên 06.11.2008 23:08:11 (permalink)
 
HỌA ƯNG
 
畫 鷹
 
素 練 風 霜 起
蒼 鷹 畫 作 殊
摐 身 思 狡 兔
側 目 似 愁 猢
倏 鏇 光 堪 摘
軒 楹 勢 可 呼
何 當 擊 凡 鳥
毛 血 洒 平 蕪
杜 甫
 
Tố luyện phong sương khởi,
Thương ưng họa tác thù.
Quặc thân tư giảo thố,
Trắc mục tự sầu hồ.
Điều tuyền quang kham trích,
Hiên doanh thế khả hô.
Hà đương kích phàm điểu,
Mao huyết sái bình vu.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Chim ưng vẽ
 
Nền lụa như nổi gió sương,
Ưng xanh, lại vẽ những đường tuyệt thay.
Nghiêng mình rình thỏ đâu đây,
Mắt nhìn như thể hồ đầy buồn đau.
Cột chân mảnh sắt bóng sao,
Trước doanh đợi lệnh bay nhào ngay ra.
Đánh cho cú vọ kêu la,
Máu, lông, vung vãi rải ra khắp đồng...
Anh-Nguyên            
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 10:31:37 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 23:22:36 (permalink)
 
BỆNH Mà     
 
病 馬
 
乘 爾 亦 已 久,
天 寒 關 塞 深。
塵 中 老 盡 力,
歲 晚 病 傷 心。
毛 骨 豈 殊 眾,
馴 良 猶 至 今。
物 微 意 不 淺,
感 動 一 沉 吟。    
杜 甫
 
Thừa nhĩ diệc dĩ cửu,
Thiên hàn quan tái thâm,
Trần trung lão tận lực,
Tuế vãn bệnh thương tâm.
Mao cốt khởi thù chúng,
Thuần lương do chí kim.
Vật vi ý bất thiển,
Xúc động nhất trầm ngâm.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Ngựa bệnh
 
Cưỡi mày cũng đã lâu rồi,
Tiết trời lạnh lẽo, xa xôi ải đầu.
Già, trong cát bụi quản đâu,
Cuối đời lại bệnh, ta đau xót lòng.
Cùng loài, đâu khác xương, lông,
Mà mày ngoan ngoãn một lòng đến nay.
Vật mà ý chẳng nông này,
Cảm thương, ngẫm nghĩ về mày khôn nguôi...
Anh-Nguyên
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 10:32:43 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 06.11.2008 23:37:20 (permalink)
 
THIÊN DỤC PHIÊU ĐỒ CA
 
天 育 驃 騎 歌
 
吾 聞:
天 子 之 馬 走 千 里,
今 之 畫 圖 無 乃 是。
是 何 意 態 雄 且 傑,
駿 尾 蕭 梢 朔 風 起。
毛 為 綠 縹 兩 耳 黃,
眼 有 紫 焰 雙 瞳 方。
矯 矯 龍 性 合 變 化,
卓 立 天 骨 森 開 張。
伊 昔 太 僕 張 景 順,
監 牧 攻 駒 閱 清 峻。
遂 令 大 奴 守 天 育,
別 養 驥 子 憐 神 俊。
當 時 四 十 萬 匹 馬,
張 公 歎 其 材 盡 下。
故 獨 寫 真 傳 世 人,
見 之 座 右 久 更 新。
年 多 物 化 空 形 影,
嗚 呼 健 步 無 由 騁。
如 今 豈 無 騕 褭 與 驊 騮,
時 無 王 良 伯 樂 死 即 休。    
杜 甫 
 
Ngô văn:
Thiên tử chi mã tẩu thiên lý,
Kim chi họa đồ vô nãi thị.
Thị hà y thái hùng thả kiệt,
Tông vĩ tiêu sao sóc phong khởi.
Mao vi lục phiêu lưỡng nhĩ hoàng,
Nhãn hữu tử diễm song đồng phương.
Kiểu kiểu long tính hàm biến hóa,
Trác lập thiên cốt sâm khai trương.
Ý tích thái bộc trương cảnh thuận,
Giám mục công câu duyệt thanh tuấn.
Toại linh đại nô tự thiên dục,
Biệt dưỡng ký tử liên thần tuấn.
Đương thì tứ thập vạn thất mã,
Trương công thán kỳ tài lẫn hạ.
Cố độc tả chân truyền thế nhân,
Kiến chi tọa hữu cửu cánh tân.
Niên đa vật hóa không hình ảnh,
Ô hô kiện bộ vô do sính.
Như kim khởi vô yêu niểu dữ hoa lưu,
Thì vô vương lương bá nhạc tử tiện hưu.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Bức tranh ngựa nòi
 
Tôi nghe :
Ngựa vua nghìn dặm chạy nhanh,
Phải chăng là ngựa trong tranh vẽ này.
Dáng trông lanh lẹ mạnh thay,
Mỗi cơn gió bấc tung bay đuôi bờm.
Tai vàng, lông ánh xanh rờn,
Mắt gân máu đỏ, chập chờn ngươi vuông.
Tính rồng biến hóa khôn lường,
Đứng đây cốt cách khác thường bầy ra.
Quan Trương-Cảnh-Thuận thời xa,
Coi nuôi chọn ngựa khoẻ và lại non.
Sai người, Thiên-Dục, trông nom,
Riêng con thần tuấn Ký, còn phải chăm.
Bốn mươi vạn ngựa chẳng nhằm,
Ông Trương chê hết chẳng thăm làm gì.
Con này vẽ để nhớ ghi,
Để bên, nhìn mãi, lâu gì vẫn tươi.
Tranh còn, vật mất lâu rồi,
Than ôi! vó ngựa hết thời tự do.
Hoa-Lưu, Yêu-Niểu, nằm co,
Vương-Lương, Bá-Nhạc thiếu cho đời này...
Anh-Nguyên
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 16:22:23 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 07.11.2008 00:06:29 (permalink)
 
THIẾU NIÊN HÀNH
 
少 年 行
 
馬 上 誰 家 薄 媚 郎,
臨 階 下 馬 坐 人 床。
不 通 姓 字 粗 豪 甚,
指 點 銀 瓶 索 酒 嘗。
杜 甫
 
Mã thượng thùy gia bạch diện lang,
Lâm giai há mã tọa nhân sàng.
Bất thông tính thị thô hào thậm,
Chỉ điểm ngân bình sách tửu thường.
Đô-Phủ
 
Dịch:
 
Chàng tuổi trẻ
 
Trên yên, mặt trắng, con ai,
Tới thềm, xuống ngựa, ngồi ngay vào bàn.
Họ tên, chẳng biết, ngang tàng,
Chỉ vào bình bạc bắt mang rượu liền...
Anh-Nguyên              
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.05.2022 10:59:17 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 07.11.2008 00:18:56 (permalink)
 
ĐƯỜNG THÀNH
 
堂 成
 
背 郭 堂 成 蔭 白 茅
緣 江 路 熟 俯 青 郊
榿 林 礙 日 吟 風 葉
籠 竹 和 煙 滴 露 梢
暫 止 飛 烏 將 數 子
頻 來 語 燕 定 新 巢
傍 人 錯 比 楊 雄 宅
懶 惰 無 心 作 解 嘲    
杜 甫
 
Bối quách đường thành ấn bạch mao,
Duyên giang lộ thục phủ thanh giao.
Ca lâm ngại nhật ngâm phong diệp,
Lung trúc hòa yên trích lộ sao.
Tạm chỉ phi ô tương số tử,
Tần lai ngữ yến định tân sào.
Bàng nhân thác tỷ dương hùng trạch,
Lãn nọa vô tâm tác giải trào.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Nhà mới làm
 
Dựa thành, nhà cỏ bạch mao,
Theo sông, đường đất lẫn vào đồng xanh.
Gió rừng khua lá trên cành,
Khí dâng, lá trúc, đọng thành hạt sương.
Quạ đưa con đến tạm nương,
Định làm tổ mới, yến thường lại đây.
Dương-Hùng, người ví nhà này,
‘‘Giải trào’’, ta biếng, nên nay không làm...
Anh-Nguyên            
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.05.2022 11:00:56 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 07.11.2008 00:32:53 (permalink)
 
HỮU HOÀI TRỊNH THẬP BÁT
 
有 懷 臺 州 鄭 十 八
 
天 台 隔 三 江,
風 浪 無 晨 暮。
鄭 公 縱 得 歸,
老 病 不 識 路。
昔 如 水 上 鷗,
今 如 罝 中 兔。
性 命 由 他 人,
悲 辛 但 狂 顧。
山 鬼 獨 一 腳,
蝮 蛇 長 如 樹。
呼 號 傍 孤 城,
歲 月 誰 與 度?
從 來 御 魑 魅。
多 為 才 名 誤。
夫 子 嵇 阮 流,
更 被 時 俗 惡。
海 隅 微 小 吏,
眼 暗 發 垂 素。
黃 帽 映 青 袍,
非 供 折 腰 具。
平 生 一 杯 酒,
見 我 故 人 遇。
相 望 無 所 成,
乾 坤 莽 回 互。
杜 甫
 
Thiên thai cách tam giang,
Phong lãng vô thần mộ.
Trịnh công túng đắc quy,
Lão bệnh bất thức lộ.
Tích như thủy thượng âu,
Kim vi thư trung thố.
Tính mệnh do tha nhân,
Bi tân đàn cuồng cố.
Sơn quỷ độc nhất cước,
Phục xà trường như thụ.
Hô hào bạng cô thành,
Tuế nguyệt thùy dữ độ.
Tòng lai ngự ly mỵ,
Đa vị tài danh ngộ.
Phu tử kê nguyễn lưu,
Cánh bị thì tục ố.
Hải ngung vi tiểu lại,
Nhãn ám phát thùy tố.
Cư trượng cận thanh bào,
Phi cung chiết yêu cụ.
Bình sinh nhất bôi tửu,
Kiến ngã cố nhân ngộ.
Tương vọng vô sở thành,
Càn khôn mãng hồi hồi hỗ.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Nhớ ông Mười Tám họ Trịnh
 
Núi Thiên-Thai, cách ba sông,
Gió to sóng lớn mênh mông suốt ngày.
Nếu ông Trịnh được về ngay,
Già và bệnh hoạn, đường nay biết gì.
Xưa, như trên nước âu đi,
Thỏ đang trong lưới, khác chi lúc này.
Người ta, tính mạng trong tay,
Điên cuồng, nhìn lại đắng cay tăng dần.
Quỷ nơi núi có một chân.
Rắn nằm giống tựa như thân cây dài,
Bên thành vắng vẻ kêu hoài,
Tháng năm nào có cùng ai chia cùng.
Từ đây, ly mỵ phục tùng,
Phần nhiều nhầm hiểu, lỡ cùng tài danh.
Kê-Khang, Nguyễn-Tịch rành rành,
Bị người thế tục ghét ganh rất nhiều.
Quan quèn góc biển tiêu điều,
Mắt lòa tóc đã bạc nhiều như tơ.
Gậy cưu và áo xanh chờ,
Gẫy lưng, liệu có bao giờ làm xong.
Bình thường, chén rượu sưởi lòng,
Cứ xem gặp bạn nơi phòng như xưa.
Ngóng nhau, ý chẳng được vừa,
Mịt mù trời đất, bây giờ nhớ nhau...
Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 18:41:44 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 07.11.2008 00:42:59 (permalink)
 
TỐNG VI PHÚNG
 
送 韋 諷
 
國 步 猶 艱 難,
兵 革 未 衰 息。
萬 方 哀 嗷 嗷,
十 載 供 軍 食。
庶 官 務 割 剝,
不 暇 憂 反 側。
誅 求 何 多 門,
賢 者 貴 為 德。
韋 生 富 春 秋,
洞 徹 有 清 識。
操 持 紀 綱 地,
喜 見 朱 絲 直。
當 令 豪 奪 吏,
自 此 無 顏 色。
必 若 救 瘡 痍,
先 應 去 蟊 賊。
揮 淚 臨 大 江,
高 天 意 淒 惻。
行 行 樹 佳 政,
慰 我 深 相 憶。      
杜 甫
 
Quốc độ do gian nan,
Binh cách vị suy tức.
Vạn phương ai ngao ngao,
Thập tải cung quân thực.
Thứ quan vụ cát bác,
Bất hạ ưu phản trắc.
Tru cầu hà đa môn,
Hiền giả quý vi đức.
Vi sinh phú xuân thu,
Đông triệt hữu thanh thức.
Thao trì kỷ cương địa,
Hỷ kiến chu ty trực.
Đương kim hào đoạt lại,
Tự thử vô nhan sắc.
Tất nhược cửu sang di,
Tiên ưng khứ mậu tặc.
Huy lệ lâm đại giang,
Thiên cao ý thê trắc.
Hành hành thụ giai chính.
Úy ngã thâm tương ức.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Tiễn Vi-Phúng
 
Nước nhà còn gặp khó khăn,
Chiến tranh chưa thể giảm dần được đâu.
Muôn nơi thảm thiết kêu sầu,
Mười năm đóng góp để hầu nuôi quân.
Quan lo vơ vét vào thân,
Rảnh đâu dẹp loạn cho dân được nhờ.
Đòi bao nhiêu thứ chưa vừa,
Người hiền, nhân đức từ xưa chăm làm.
Anh Vi tuổi trẻ đầy tràn,
Lại thêm kiến thức giỏi dang hơn người.
Giữ gìn diềng mối cho đời,
Tôi vui thấy sợi tơ rồi thẳng băng.
Lũ quan lại vốn cướp xằng,
Không còn lên mặt lăng nhăng nữa rồi.
Ắt như muốn chữa nhọt thôi,
Diệt loài sâu bọ tức thời ngại chi.
Sông to, gạt lệ ra đi,
Trời cao thương xót, hề gì, bước chân.
Đi, đi, phép tắc gieo dần,
Ủi an, tôi chỉ trong tâm nhớ nhiều...
Anh-Nguyên   

<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 18:48:03 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 07.11.2008 01:03:47 (permalink)
 
CUỒNG PHU
 
狂 夫
 
萬 里 橋 西 一 草 堂,
百 花 潭 水 即 淪 浪。
風 含 翠 條 娟 娟 净,
雨 裹 紅 蕖 冉 冉 香。
厚 祿 故 人 書 斷 絕,
恒 饑 稚 子 色 凄 涼。
欲 填 沟 壑 唯 疏 放,
自 笑 狂 夫 老 更 狂。   
杜 甫
 
Vạn lý kiều tây nhất thảo đường,
Bách hoa đàm thủy chính thương lương.
Phong hàm thủy tiểu quyên quyên tĩnh,
Vũ ấp hồng cừ nhiễm nhiễm hương.
Hậu lộc cố nhân thư đoạn tuyệt,
Hằng cơ trĩ tử sắc thê lương.
Dục điền câu hác duy sơ phóng,
Tự tiếu cuồng phu lão cánh cuồng.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Gã khùng
 
Tây cầu Vạn-Lý, mái tranh,
Bách-Hoa đầm nước trong xanh yên lành.
Gió ôm trúc biếc xanh xanh,
Mưa, hoa sen tỏa quanh quanh hương nồng,
Lương cao, bạn cũ thư không,
Con thơ thường đói, sắc trông buồn rầu!
Gieo mình đầm nước chết đâu,
Tự cười khùng sống càng lâu càng khùng!...
Anh-Nguyên                        
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 18:50:41 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 07.11.2008 02:40:35 (permalink)
 
GIANG THÔN
 
江 村
 
清 江 一 曲 抱 村 流
長 夏 江 村 事 事 幽
自 去 自 來 堂 上 燕
相 親 相 近 水 中 鷗
老 妻 畫 紙 為 棋 局
稚 子 敲 針 作 釣 鉤
多 病 所 須 唯 藥 物
微 軀 此 外 更 何 求   
杜 甫
 
Thanh giang nhất khúc bão thôn lưu,
Trường hạ giang thôn sự sự u.
Tự khứ tự lai đường thượng yến,
Tương thân tương cận thủy trung âu.
Lão thê họa chỉ vi kỳ cục,
Trĩ tử khao châm tác điếu câu.
Đa bệnh sở tu duy dược vật,
Vi khu thử ngoại cánh hà cầu.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Xóm bên sông
 
Sông trong một khúc quanh thôn,
Hạ dài, thôn xóm sớm hôm êm đềm.
Đi, về, nhà én liệng trên,
Chim âu dưới nước, kề bên thân tình.
Bàn cờ, vợ vẽ xinh xinh,
Con thơ, kim uốn thành hình lưỡi câu.
Bệnh nhiều, nghĩ thuốc làm đầu,
Ngoài ra, còn có mong cầu gì thêm...
Anh-Nguyên             
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 18:53:03 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 07.11.2008 02:51:10 (permalink)
 
KHÁCH CHÍ
 
客 至
 
舍 南 舍 北 皆 春 水,
但 見 群 鷗 日 日 來。
花 徑 不 曾 緣 客 掃,
蓬 門 今 始 為 君 開。
盤 飧 市 遠 無 兼 味,
樽 酒 家 貧 只 舊 醅。
肯 與 鄰 翁 相 對 飲,
隔 籬 呼 取 盡 餘 杯。
杜 甫
 
Xá nam xá bắc giai xuân thủy,
Đản kiến quần âu nhật nhật lai.
Hoa kính bất tằng duyên khách tảo,
Bồng môn kim thủy vị quân khai.
Bàn xan thị viễn vô kiêm vị,
Tôn tửu gia bần chỉ cựu phôi.
Khẳng dữ lân ông tương đối ẩm,
Cách ly hô tửu tận dư bôi.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Khách tới
 
Bắc nam nhà ắp nước Xuân,
Ngày ngày âu đến quây quần bên nhau.
Lối hoa, chưa quét từ lâu,
Cửa rào nay mở để hầu đón anh.
Chợ xa, mâm độc cơm canh,
Nhà nghèo, nên chỉ bình sành rượu thô.
Láng giềng, mời uống chuyện trò,
Cách rào, rượu cặn trong vò gọi thêm...
Anh-Nguyên             
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 18:55:39 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 07.11.2008 03:24:28 (permalink)
 
HỮU KHÁCH
 
有 客
 
患 氣 經 時 久,
臨 江 卜 宅 新。
喧 卑 方 避 俗,
疏 快 頗 宜 人。
有 客 過 茅 宇,
呼 兒 正 葛 巾。
自 鋤 稀 菜 甲,
小 摘 為 情 親。    
杜 甫
 
Hoạn khí kinh thì cửu,
Lâm giang bốc trạch tân.
Huyên ty phương tịch tục,
Sơ khoái phá nghi nhân.
Hữu khách quá mao vũ,
Hô nhi chỉnh cát cân.
Tự xử hy thái giáp,
Tiểu trích vị tình thân.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Có khách
 
Bệnh hen xuyễn, mắc lâu rồi,
Bên sông tìm đến, chọn nơi làm nhà.
Nói rằng thế tục lánh xa,
Mới đầu thấy hợp, rất là mừng vui.
Khách thăm, nhà lá, tới nơi,
Gọi con, khăn áo mặc rồi, mới ra.
Trồng rau hiếm, tự thân ta,
Hái đem đãi khách, vì là tình thân...
Anh-Nguyên      

<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 18:59:20 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 07.11.2008 03:31:39 (permalink)
 
HỰU TUYẾT
 
又 雪  
 
南 雪 不 到 地,
青 崖 沾 未 消。
微 微 向 日 薄,
脈 脈 去 人 遙。
冬 熱 鴛 鴦 病,
峽 深 豺 虎 驕。
愁 邊 有 江 水,
焉 得 北 之 朝。
杜 甫

 
Nam tuyết bất đáo địa,
Thanh nhai triêm vị tiêu.
Vi vi hướng nhật bác,
Mạch mạch khứ nhân diêu.
Đông nhiệt uyên ương bệnh,
Hạp thâm sài hổ kiêu.
Sầu biên hữu giang thuỷ,
Yên đắc bắc chi triều.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Lại tuyết
 
Tuyết tan, chưa tới đất Nam,
Núi xanh, còn bám chưa tan chút nào.
Chút chút, che mặt nhật sao,
Người đi trông mãi, lúc nào hết đây.
Uyên ương, nóng dễ bệnh thay,
Kẽm sâu, hổ báo ra ngay hoành hành.
Sầu biên, sông nước chẩy quanh,
Làm sao, đất Bắc, được nhanh trở vế... 
Anh-Nguyên
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 19:05:11 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 07.11.2008 03:40:28 (permalink)
 
HÝ TÁC HOA KHANH CA
 
戲 作 花 卿 歌
 
成 都 猛 將 有 花 卿,
學 語 小 兒 知 姓 名。
用 如 快 鶻 風 火 生,
見 賊 惟 多 身 始 輕。
綿 州 副 使 著 柘 黃,
我 卿 掃 除 即 日 平。
子 章 髑 髏 血 模 糊,
手 提 擲 還 崔 大 夫。
李 侯 重 有 此 節 度,
人 道 我 卿 絕 世 無。
既 稱 絕 世 無,
天 子 何 不 喚 取 守 京 都。   
杜 甫
 
Thành đô mãnh tướng hữu hoa khanh,
Học ngữ tiểu nhi tri tính danh.
Dụng như quyết cốt phong hỏa sinh,
Kiến tặc duy đa thân thủy khinh.
Cẩm châu phó sứ trứ giá hoàng,
Ngã khanh sái trừ tức nhật bình.
Tử chương độc lâu huyết mô hồ,
Thủ đề trịch hoàn thôi đại phu.
Lý hầu trùng hữu thử tiết độ,
Nhân đạo ngã khanh tuyệt thế vô.
Kỷ xưng tuyệt thế vô Thiên tử,
Hà bất hoán thủ thủ kinh đô.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Đùa làm bài ca về chàng Hoa
 
Họ Hoa, tướng giỏi Thành-Đô,
Tên chàng, con trẻ bi bô đọc rành.
Dùng binh như gió, lửa sanh,
Tấm thân coi nhẹ, tung hoành khắp nơi.
Cẩm-Châu, phó sứ tiếm ngôi,
Chàng ta đi dẹp xong xuôi một ngày.
Tử-Chương, đầu giặc máu rơi,
Công lao của tướng, họ Thôi lãnh rồi.
Lý thay làm Tiết-Độ thôi,
Người đều nói tướng trên đời mấy ai.
Bảo đời hiếm có người tài,
Giữ kinh, vua chẳng vời ngay chàng về?!...
Anh-Nguyên    
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 19:07:58 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 07.11.2008 03:56:11 (permalink)
 
BỐC CƯ
 
卜 居
 
浣 花 流 水 水 西 頭,
主 人 為 蔔 林 塘 幽。
已 知 出 郭 少 塵 事,
更 有 澄 江 銷 客 愁。
無 數 蜻 蜓 齊 上 下,
一 雙 鸂 鶒 對 沈 浮。
東 行 萬 裏 堪 乘 興,
須 向 山 陰 上 小 舟。   
杜 甫
 
Hoãn hoa khê thủy thủy tây đầu,
Chủ nhân vi bốc lâm tuyền u.
Dĩ tri xuất quách thiểu trần sự,
Cánh hựu trừng giang tỏa khách sầu.
Vô số thanh đình tề thượng hạ,
Nhất song khê sắc đối trầm phù.
Đông hành vạn lý kham thăng dữ,
Tu hướng sơn âm nhập tiểu chu.
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Chọn chỗ ở
 
Phía tây, đầu suối Hoãn-hoa,
Rừng sâu, núi thẳm, chọn nhà nơi đây.
Xa thành, thế sự chẳng dây,
Dòng sông trong vắt giải khuây mối sầu.
Thấp, cao, chuồn liệng kể đâu,
Chim le một cặp, hai đầu lặn nhô.
Đông, xe vạn dặm đi vô,
Nên theo nam núi, nhấp nhô con thuyền...
Anh-Nguyên             
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 19:10:41 bởi Anh Nguyên >
Anh Nguyên 07.11.2008 04:06:13 (permalink)
 
HẬN BIỆT
 
恨 別
 
洛 城 一 別 四 千 里,
胡 騎 長 驅 五 六 年。
草 木 變 衰 行 劍 外,
兵 戈 阻 絕 老 江 邊。
思 家 步 月 清 宵 立,
憶 弟 看 雲 白 日 眠。
聞 道 河 陽 近 乘 勝,
司 徒 急 為 破 幽 燕。    
杜 甫

Lạc thành nhất biệt tứ thiên lý,
Hồ kỵ trường khu ngũ lục niên.
Thảo mộc biến suy hành kiếm ngoại,
Binh qua trở tuyệt lão giang biên.
Tư gia bộ nguyệt thanh tiêu lập,
Ức đệ khan vân bạch nhật miên.
Văn đạo hà dương cận thắng thế,
Tư đồ cấp vị phá u yên.  
Đỗ-Phủ
 
Dịch:
 
Hận ly biệt
 
Bốn ngàn dặm, biệt Lạc-Thành,
Sáu năm rong ruổi qua nhanh, ngựa Hồ.
Cỏ cây Kiếm-Ngoại xác xơ,
Gươm đao ngăn trở ở bờ sông đây.
Nhớ nhà dưới ánh trăng đầy,
Nhớ em, mãi ngắm vừng mây, ngủ ngày.
Hà-Dương, sắp thắng nơi này,
U, Yên, hãy dẹp đi ngay, Tư-Đồ...
Anh-Nguyên                         
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 19:16:55 bởi Anh Nguyên >
Thay đổi trang: << < 101112 > | Trang 11 của 12 trang, bài viết từ 151 đến 165 trên tổng số 178 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9