Đường Thi Trích Dịch II - Anh Nguyên
TIỀN XUẤT TÁI (Kỳ tam) 前 出 塞 其 三 磨 刀 鳴 咽 水, 水 赤 刃 傷 手。 欲 輕 腸 斷 聲, 心 緒 亂 已 久。 丈 夫 誓 許 國, 憤 惋 復 何 有! 功 名 圖 麒 麟, 戰 骨 當 速 朽。 杜 甫 Ma đao ô yết thủy, Thủy xích nhẫn thương thủ. Dục khinh trường đoạn thanh, Tâm tự loạn dĩ cửu. Trượng phu thệ hứa quốc, Phẫn uyển phục hà hữu. Công danh đồ kỳ lân, Chiến cốt đương tốc hủ. Đỗ-Phủ Dịch: Ra biên ải lần đầu (Bài ba) Mài dao, nước chẩy nghẹn ngào, Dao đâm tay đứt, máu đào tuôn trôi. Xem thường tiếng đứt ruột thôi, Nào hay tâm đã rối bời từ lâu. Trượng phu vì nước thề sâu, Giận hờn sao lại dễ hầu có sao? Kỳ-Lân, công đợi ghi vào, Xương người chiến sĩ mục nào có hay!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 19:57:55 bởi Anh Nguyên >
TIỀN XUẤT TÁI (Kỳ tứ) 前 出 塞 其 四 送 徒 既 有 長, 運 戍 亦 有 身。 生 死 向 前 去, 不 勞 吏 怒 噴。 路 逢 相 識 人, 附 書 與 六 親: 哀 哉 兩 決 絕, 不 復 同 苦 辛! 杜 甫 Tống đồ ký hữu trưởng, Viễn thú diệc hữu thân. Sinh tử hướng tiền khứ, Bất lao lại nộ sân. Lộ phùng tương thức nhân, Phụ thư dữ lục thân. Ai tai lưỡng quyết tuyệt, Bất phục đồng khổ tân. Đỗ-Phủ Dịch: Ra biên ải lần đầu (Bài bốn) Dẫn lao công, đội trưởng đi, Lính miền biên ải cũng thì có thân. Tiến lên, sống chết chẳng cần, Không làm thầy Lại nổi sân làm gì. Gặp người quen biết, mấy khi, Viết thư, vội gửi đem về người thân. Đôi đường, buồn tủi muôn phần, Đắng cay không hẹn có lần cùng nhau... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 19:58:29 bởi Anh Nguyên >
TIỀN XUẤT TÁI (Kỳ ngũ) 前 出 塞 其 五 迢 迢 萬 餘 里, 領 我 赴 三 軍。 軍 中 異 苦 樂, 主 張 寧 盡 聞? 隔 河 見 胡 騎, 倏 忽 數 百 群。 我 始 為 奴 僕, 幾 時 樹 功 勛! 杜 甫 Thiều thiều vạn dư lý, Lĩnh ngã phó tam quân. Quân trung dị khổ lạc, Chư tướng ninh tận văn. Cách hà kiến hồ kỵ, Thúc hốt sổ bách quần. Ngã thủy vi nô bộc, Kỷ thì thụ công huân. Đỗ-Phủ Dịch: Ra biên ải lần đầu (Bài năm) Xa xăm hơn vạn dặm đường, Đưa ta đến chốn sa trường ba quân. Trong quân sướng khổ chẳng thuần, Tướng nào nghe hết mọi phần đắng cay. Cách sông, lính rợ đó đây, Chỉ trong chốc lát đến đầy, vài trăm. Từ đầu, hầu hạ siêng năng, Bao giờ công trạng được bằng tướng công?... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 19:59:16 bởi Anh Nguyên >
TIỀN XUẤT TÁI (Kỳ lục)
前 出 塞
挽 弓 當 挽 強
用 箭 當 用 長
射 人 先 射 馬
摛 賊 先 摛 王
殺 人 亦 有 限
列 國 自 有 疆
苟 能 制 侵 陵
豈 在 多 殺 傷
杜 甫 Vãn cung đương vãn cường, Dụng tiễn đương dụng trường. Xạ nhân tiên xạ mã, Cầm tặc tiên cầm vương. Sát nhân diệc hữu hạn, Liệt quốc tự hữu cương. Cẩu năng chế xâm lăng, Khởi tại đa sát thương. Đỗ-Phủ Dịch: Ra biên ải lần đầu (Bài sáu) Giương cung, cung cứng mới hay, Dùng tên, cũng phải lựa ngay tên dài. Bắn người, hạ ngựa mới tài, Bắt quân giặc, trước bắt ngay chúa về. Giết người hạn chế mọi bề, Biên cương các nước chớ hề đổi thay. Xâm lăng, chế ngự việc này, Há nơi giết chóc thỏa tay làm đầu!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:00:29 bởi Anh Nguyên >
TIỀN XUẤT TÁI (Kỳ thất) 前 出 塞 其 七 驅 馬 天 雨 雪, 軍 行 入 高 山。 徑 危 抱 寒 石, 指 落 層 冰 間。 已 去 漢 月 遠, 何 時 築 城 還? 浮 雲 暮 南 征, 可 望 不 可 攀。 杜 甫 Khu mã thiên vũ tuyết, Quân hành nhập cao sơn, Kính nguy bão hàn thạch, Chỉ lạc tằng băng gian. Dĩ khứ hán nguyệt viễn, Hà thì trúc thành hoàn, Phù vân mộ nam chinh, Khả vọng bất khả phan. Đỗ-Phủ Dịch: Ra biên ải lần đầu (Bài bẩy) Trời mưa tuyết, thúc ngựa mau, Tiến quân vội vã đi vào núi cao. Đường mòn vách đá lạnh bao, Bước chân từng bước rơi vào tuyết băng. Đã xa đất Hán đầy trăng, Bao giờ thành đắp đã xong mới về. Mây chiều theo hướng nam đi, Trông theo thì được, theo thì khó theo... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:11:53 bởi Anh Nguyên >
TIỀN XUẤT TÁI (Kỳ bát) 前 出 塞 其 八 單 于 寇 我 壘, 百 里 風 塵 昏。 雄 劍 四 五 動, 彼 軍 為 我 奔。 擄 其 名 王 歸, 繫 頸 授 轅 門。 潛 身 備 行 列, 一 勝 何 足 論! 杜 甫 Thuyền vu khấu ngã lũy, Bách lý phong trần hôn. Hùng kiếm tứ ngũ động, Bỉ quân vị ngã bôn. Lỗ kỳ danh vương quy, Hệ cảnh thu viên môn. Tiềm thân bị hàng liệt, Nhất thắng hà túc luận. Đỗ-Phủ Dịch: Ra biên aỉ lần đầu (Bài tám) Thiền-Vu cướp lũy của ta, Mịt mù trăm dặm gió và bụi bay. Kiếm hùng năm lượt ra tay, Sợ ta, quân giặc chạy ngay đi rồi. Bắt vua của chúng về thôi, Tiền doanh, cột cổ giao nơi cổng tiền. Lánh mình chỉnh đốn ngoài biên, Thắng này đủ đánh giá liền được sao?... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:12:38 bởi Anh Nguyên >
TIỀN XUẤT TÁI (Kỳ cửu) 前 出 塞 其 九 從 軍 十 年 餘, 能 無 分 寸 功? 眾 人 貴 苟 得, 欲 語 羞 雷 同。 中 原 有 鬥 爭, 況 在 狄 與 戎。 丈 夫 四 方 志, 安 可 辭 固 窮! 杜 甫 Tòng quân thập niên dư, Năng vô phân thốn công. Chúng nhân quý cẩu đắc, Dục ngữ tu lôi đồng. Trung nguyên hữu đấu tranh, Huống tại địch dữ nhung. Trượng phu tứ phương chí, An khả từ cố cùng. Đỗ-Phủ Dịch: Ra biên ải lần đầu (Bài chín) Mười năm sống ở trong quân, Có khi chẳng có chút phần công lao. Thế mà họ vẫn nhận ào, Báo công, họ át làm sao trình bày. Trung Nguyên tranh đấu còn gay, Huống là Nhung, Địch xưa nay oán thù. Bốn phương ấy chí trượng phu, Khốn cùng, có thể chối từ được sao?... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:13:22 bởi Anh Nguyên >
TỐNG HÀN THẬP TỨ GIANG ĐÔNG CẬN TIỂN 送 韓 十 四 江 東 覲 省 兵 戈 不 見 老 萊 衣, 歎 息 人 間 萬 事 非。 我 已 無 家 尋 弟 妹, 君 今 何 處 訪 庭 闈。 黃 牛 峽 靜 灘 聲 轉, 白 馬 江 寒 樹 影 稀。 此 別 應 須 各 努 力, 故 鄉 猶 恐 未 同 歸。 杜 甫 Binh qua bất kiến lão lai y, Thán tức nhân gian vạn sự phi. Ngã dĩ vô gia tầm đệ muội, Quân kim hà xứ phỏng đình vi. Hoàng ngưu giáp tĩnh thán thanh chuyển, Bạch mã giang hàn thụ ảnh hy. Thử biệt ưng tu các nỗ lực, Cố hương do khủng vị đồng quy. Đỗ-Phủ Dịch: Tiễn họ Hàn về Giang-Đông thăm cha mẹ Loạn, nên chẳng thấy Lão-Lai, Than đời vạn sự đều sai, nên sầu. Tôi không nhà, kiếm em đâu? Ông về quê cũ thăm hầu mẹ cha. Hoàng-Ngưu im, tiếng thác xa, Dòng sông Bạch-Mã la đà vài cây. Chia tay gắng sức lần này, Quê xưa, e chửa có ngày về chung... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:14:19 bởi Anh Nguyên >
TÚY THÌ CA 醉 時 歌 諸 公 袞 袞 登 臺 省, 廣 文 先 生 官 獨 冷。 甲 第 紛 紛 厭 粱 肉, 廣 文 先 生 飯 不 足。 先 生 有 道 出 羲 皇, 先 生 有 才 過 屈 宋。 德 尊 一 代 常 坎 軻, 名 垂 萬 古 知 何 用? 杜 陵 野 客 人 更 嗤, 被 褐 短 窄 鬢 如 絲。 日 糴 太 倉 五 升米, 時 赴 鄭 老 同 襟 期。 得 錢 即 相 覓, 沽 酒 不 複 疑, 忘 形 到 爾 汝, 痛 飲 真 吾 師。 清 夜 沈 沈 動 春 酌, 燈 前 細 雨 檐 花 落。 但 覺 高 歌 有 鬼 神, 焉 知 餓 死 填 溝 壑? 相 如 逸 才 親 滌 器, 子 雲 識 字 終 投 閣。 先 生 早 賦 歸 去 來, 石 田 茅 屋 荒 蒼 苔。 儒 術 於 我 何 有 哉? 孔 丘 盜 跖 俱 塵 埃。 不 須 聞 此 意 慘 愴, 生 前 相 遇 且 銜 杯。 杜 甫 Chư công cổn cổn đăng đài tỉnh, Quảng văn tiên sinh quan độc lãnh. Giáp đệ phân phân yêm lương nhục, Quảng văn tiên sinh phạn bất túc. Tiên sinh hữu đạo xuất hy hoàng, Tiên sinh hữu tài quá khuất tống. Đức tôn nhất đại thường khảm kha, Danh thùy vạn cổ tri hà dụng. Đỗ lăng dã khách nhân cánh xi, Bị hạt đoản trách mấn như ty. Nhật địch thái thương ngũ thăng mễ, Thời phó trịnh lão đồng khâm kỳ. Đắc tiền tức tương mịch, Cô tửu bất phục nghi. Vong tình đáo nhĩ nhữ, Thống ẩm chân ngô sư. Thanh dạ trầm trầm động xuân chước, Đăng tiền tế vũ diêm hoa lạc. Đản giác cao ca hữu qủy thần, Yên tri ngã tử điền câu hác. Tương như dật tài thân điều khí, Tử vân thức tự chung đầu các. Tiên sinh tảo phú quy khứ lai, Thạch điền mao ốc hoang thương đài. Nho thuật ư ngã hà hữu tai, Khổng khâu đạo chích câu trần ai. Bất tu văn thử ý thảm thảng, Sinh tiền tương ngộ thả hàm bôi. Đỗ-Phủ Dịch: Bài ca lúc say Họ đều đài tỉnh lên rồi, Quảng-Văn vẫn phải ở nơi quan thường. Họ đều dinh thự, đầy lương, Quảng-Văn cơm vẫn còn đương đói lòng. Vua Hy đạo đức chưa bằng, Khuất-Nguyên, Tống-Ngọc họa chăng sánh tài. Đức cao, vẫn lận đận hoài, Tên lưu muôn thuở giúp ai được gì. Đỗ-Lăng, quê kệch, người chê, Áo thô ngắn củn, tóc thì bạc phơ. Thái-Thương, mua gạo đứng chờ, Kể cùng lão Trịnh vẩn vơ nỗi lòng. Có tiền, tìm đến nhau cùng, Mua ngay rượu uống, vui chung, tính gì. Lễ nghi quên hết, ta, mi, Uống nhiều như thế, ấy thì thầy tôi. Đêm yên, chén rượu Xuân mời, Trước đèn, mưa bụi, hoa rơi bên thềm. Hát vang khiến quỷ thần lên, Biết đâu sẽ chết ở bên sông dài. Tương-Như rửa chén, dẫu tài, Tử-Vân hay chữ, thân trai gieo lầu. Ông mau ‘‘Quy khứ...’’ ngâm câu, Nhà tranh, ruộng đá, một mầu rêu xanh. Học Nho chỉ có hư danh, Khổng-Khâu, Đạo-Chích, đều thành bụi, tro. Chớ nên nghe thế sầu lo, Gặp nhau lúc sống, uống cho thỏa tình... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:16:03 bởi Anh Nguyên >
TỐNG KHỔNG SÀO PHỦ 送 孔 巢 父 巢 父 掉 頭 不 肯 住, 東 將 入 海 隨 煙 霧。 詩 卷 長 流 天 地 間, 釣 竿 欲 拂 珊 瑚 樹。 深 山 大 澤 龍 蛇 遠, 春 寒 野 陰 風 景 暮。 蓬 萊 織 女 回 雲 車, 指 點 虛 無 引 征 路。 自 是 君 身 有 仙 骨, 世 人 那 得 知 其 故? 惜 君 只 欲 苦 死 留, 富 貴 何 如 草 頭 露? 蔡 侯 靜 者 意 有 餘, 清 夜 置 酒 臨 前 除。 罷 琴 惆 悵 月 照 席, 幾 歲 寄 我 空 中 書? 南 尋 禹 穴 見 李 白, 道 甫 問 訊 今 何 如? 杜 甫 Sào phủ trạo đầu bất khẳng trú, Đông tương nhập hải tùy yên vụ. Thi quyển trường lưu thiên địa gian, Điếu canh dục phất san hô thụ. Thâm sơn đại trạch long xà viễn, Xuân hàn dã ám phong cảnh mộ. Bồng lai chức nữ hồi vân xa, Chỉ điểm hư vô thị chinh lộ. Tự thị quân thân hữu tiên cốt, Thế nhân na đắc tri kỳ cố. Tích quân chỉ dục khổ tử lưu, Phú quš hà như thảo đầu lộ. Thái hầu tĩnh giả š hữu dư, Thanh dạ trí tửu lâm tiền trừ. Bãi cầm trù trướng nguyệt chiếu tịch, Kỷ tuế ký ngã không trung thư. Nam tầm vũ huyệt kiến Lý Bạch, Đạo phủ vấn tấn kim hà như. Đỗ-Phủ Dịch: Tiễn Khổng-Sào-Phủ Lắc đầu, Sào-Phủ quyết đi, Sang đông, vào biển trời thì mù mây. Đất trời, để tập thơ này, Cần câu muốn phất biển đầy san hô. Rắn rồng ở núi ở hồ, Cảnh chiều Xuân lạnh, đồng mờ mịt thêm. Bồng-Lai, Chức-Nữ xe lên, Hư vô là chốn đêm đêm đi về. Cốt tiên, bác thực giống ghê, Người đời sao biết được về cớ duyên. Thương nên giữ bác lại thêm, Giàu sang như hạt sương trên cỏ này. Thái-Hầu nhiều ý thật hay, Đêm bày tiệc rượu ở ngay bên thềm. Đàn xong, trăng chiếu buồn thêm, Bao giờ thư gửi từ trên-không về. Xuôi nam tìm Lý nơi quê*, Chuyển lời Phủ hỏi mọi bề ra sao?... Anh-Nguyên * Vũ-Huyệt
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:17:10 bởi Anh Nguyên >
BINH XA HÀNH 兵 車 行
車 轔 轔
馬 蕭 蕭
行 人 弓 箭 各 在 腰
耶 孃 妻 子 走 相 送
塵 埃 不 見 咸 陽 橋
牽 衣 頓 足 攔 道 哭
哭 聲 直 上 干 雲 霄
道 旁 過 者 問 行 人
行 人 但 云 點 行 頻
或 從 十 五 北 防 河
便 至 四 十 西 營 田
去 時 里 正 與 裹 頭
歸 來 頭 白 還 戍 邊
邊 亭 流 血 成 海 水
武 皇 開 邊 意 未 已
君 不 聞
漢 家 山 東 二 百 州
千 村 萬 落 生 荊 杞
縱 有 健 婦 把 鋤 犁
禾 生 隴 畝 無 東 西
況 復 秦 兵 耐 苦 戰
被 驅 不 異 犬 與 雞
長 者 雖 有 問
役 夫 敢 申 恨
且 如 今 年 冬
未 休 關 西 卒
縣 官 急 索 租
租 稅 從 何 出
信 知 生 男 惡
反 是 生 女 好
生 女 猶 得 嫁 比 鄰
生 男 埋 沒 隨 百 草
君 不 見
青 海 頭
古 來 白 骨 無 人 收
新 鬼 煩 冤 舊 鬼 哭
天 陰 雨 濕 聲 啾 啾
杜 甫 Xa lân lân, mã tiêu tiêu, Hành nhân cung tiễn các tại yêu. Gia nương thê tử tẩu tương tống, Trần ai bất kiến hàm dương kiều. Khiên y đốn túc lan đạo khốc, Khốc thanh trực thướng can vân tiêu. Đạo bàng quá giả vấn hành nhân, Hành nhân đãn vân điểm hàng tần. Hoặc tòng thập ngũ bắc phòng hà, Tiện chí tứ thập tây dinh điền. Khứ thời lý chính dữ khỏa đầu, Quy lai đầu bạch hoàn thú biên. Biên đình lưu huyết thành hải thuỷ, Vũ hoàng khai biên ý vị dĩ. Quân bất văn: Hán gia sơn đông nhị bách châu, Thiên thôn vạn lạc sinh kinh kỷ. Túng hữu kiện phụ bả sừ lê, Hòa sinh lũng mẫu vô đông tây. Huống phục tần binh nại khổ chiến, Bị khu bất dị khuyển dữ kê. Trượng giả tuy hữu vấn, Dịch phu cảm thân hận. Thả như kim niên đông, Vị hưu quan tây tốt. Huyện quan cấp sách tô, Tô thuế tùng hà xuất. Tín chi sinh nam ác, Phản thị sinh nữ hảo. Sinh nữ do đắc giá tị lân, Sinh nam mai một tùy bách thảo. Quân bất kiến thanh hải đầu, Cổ lai bạch cốt vô nhân thâu. Tân quỷ phiền oan cựu quỷ khốc, Thiên âm vũ thấp thanh thu thu. Đỗ-Phủ Dịch: Xe binh sĩ Xe ầm ầm, ngựa hý vang, Người đi, cung nỏ đã mang lưng rồi. Vợ con, cha mẹ, chẳng rời, Cầu Hàm chẳng thấy, bụi thôi mịt mùng. Níu chân, kéo áo, chẳng ngừng, Khóc than vang đến mấy từng mây cao. Bên đường khách hỏi xôn xao, Người đi chỉ đáp vị nào kiểm tra. Mười năm, phòng bắc Hoàng-hà, Đến khi bốn chục, cất nhà khẩn hoang. Lúc đi được cấp khăn quàng, Khi về, đầu bạc, vội vàng ra biên. Biên thùy máu đổ triền miên, Vũ-Hoàng mở mãi vùng biên chẳng ngừng. Anh nghe chăng: Sơn-Đông, trăm huyện ước chừng, Ngàn thôn, vạn ấp, mọc rừng cây gai. Cầy bừa, phụ nữ thay trai, Đông tây, lúa mọc chẳng ngay ngắn gì. Quân Tần nhẫn nại đuổi đi, Khiến cho bỏ chạy khác gì gà đâu. Bậc trên nếu hỏi đuôi đầu, Kẻ này dám nói một câu hận lòng? Mùa đông vừa mới đây xong, Quan-Tây, việc lính chưa mong trở về. Thuế, quan hối thúc vợ quê, Lấy đâu mà đóng thuế về cho quan. Bởi xui nên mới sinh nam, Hên, sinh được nữ lo làm lo ăn. Nữ còn gả lối xóm gần, Nam, trăm cây cỏ, vùi thân chốn nào! Miền Thanh-Hải, chẳng thấy sao, Xưa nay, xương trắng ai nào thâu đâu. Cũ và quỷ mới khóc sầu, Trời mưa mờ mịt, gió đâu ù ù!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:20:48 bởi Anh Nguyên >
THU VŨ THÁN (Kỳ nhất) 秋 雨 歎 其 一
雨 中 百 草 秋 爛 死
階 下 蕨 明 顏 色 鮮
著 葉 滿 枝 翠 羽 蓋
開 花 無 數 黃 金 錢
涼 風 蕭 蕭 吹 汝 急
恐 汝 後 時 難 獨 立
堂 上 書 生 空 白 頭
臨 風 三 嗅 馨 香 泣
杜 甫
Vũ trung bách thảo thu lạn tử, Giai hạ quyết minh nhan sắc tiên. Trước diệp mãn chi thúy vũ cái, Khai hoa vô số hoàng kim tiền. Lương phong tiêu tiêu xuy nhữ cấp, Khủng nhữ hậu thì nan độc lập. Đường thượng thư sinh không bạch đầu, Lâm phong tam khứu hinh hương khấp. Đỗ-Phủ Dịch: Than mùa Thu (Bài một) Mưa Thu cây cỏ điêu tàn, Dưới thềm đẹp đẽ tươi vàng quyết minh. Lá xanh, như lọng thật xinh, Hoa không đếm nổi, như hình đồng xu. Gió đâu thổi đến vù vù, Sợ mày đứng trước gió Thu khó bền. Khóa ta, tóc bạc như tiên, Hương, ba lần ngửi mắt liền ướt mi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:21:57 bởi Anh Nguyên >
THU VŨ THÁN (Kỳ nhị)
秋 雨 嘆 其 二
闌 風 伏 雨 秋 紛 紛
四 海 八 荒 同 一 雲
去 馬 來 牛 不 復 辨
濁 涇 清 渭 何 當 分
禾 頭 生 耳 黍 穗 黑
農 夫 田 婦 無 消 息
城 中 斗 米 換 衾 裯
相 許 寧 論 兩 相 宜
杜 甫
Lan phong phục vũ thu phân phân, Tứ hải bát hoang đồng nhất vân. Khứ mã lai ngưu bất phục biện, Trọc kinh thanh vị hà đương phân. Hòa đầu sinh nhĩ thử tuệ hắc, Nông phu điền phụ vô tiêu tức. Thành trung đẩu mễ hoán khâm trù, Tương hứa ninh luân lưỡng tương trực. Đỗ-Phủ Dịch: Than mùa Thu (Bài hai) Gió mưa Thu đổ liên miên, Tám đồng bốn biển, mây trên một mầu. Dưới mưa, trâu ngựa khác đâu, Vị trong, Kinh đục, giờ mầu khó phân. Đòng đòng lúa nếp đen dần, Vụ này, nam nữ nông dân mong gì! Chiếu chăn, đấu gạo, đổi đi, Chẳng bàn, liền thuận giá thì như nhau... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:22:47 bởi Anh Nguyên >
THU VŨ THÁN (Kỳ tam) 秋 雨 嘆 其 三
長 安 布 衣 誰 比 數
反 鎖 衡 門 守 環 堵
老 夫 不 出 長 蓬 蒿
稚 子 無 憂 走 風 雨
雨 聲 颼 颼 摧 早 寒
胡 雁 翅 濕 高 飛 難
秋 來 未 曾 見 白 日
泥 污 后 土 何 時 乾
杜 甫
Trường an bố y thùy tỷ sổ, Phản tỏa hành môn thủ hoàn đổ. Lão phu bất xuất trưởng bồng hao, Trĩ tử vô ưu tẩu phong vũ. Vũ thanh sưu sưu thôi tảo hàn, Hồ nhạn xí thấp cao phi nan. Thu lai vị tằng kiến bạch nhật, Nê ô hậu thổ hà thời can. Đỗ-Phủ Dịch: Than mưa Thu (Bài ba) Trường-An, áo vải ra gì, Trở về cài cửa, dẫu chi cũng nhà. Cỏ bồng mọc khắp, chẳng ra, Dưới mưa trẻ chạy kêu la nô đùa. Tiếng mưa giục lạnh đầu mùa, Nhạn Hồ ướt cánh bay bừa chẳng cao. Mặt trời Thu sáng được sao, Đất bùn lầy lội khi nào mới khô?!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:23:34 bởi Anh Nguyên >
THÁN ĐÌNH TIỀN CAM CÚC HOA 嘆 庭 前 甘 菊 花 庭 前 甘 菊 移 時 晚, 青 蕊 重 陽 不 堪 摘。 明 日 蕭 條 盡 醉 醒, 殘 花 爛 漫 開 何 益? 篱 邊 野 外 多 眾 芳, 採 擷 細 瑣 昇 中 堂。 念 茲 空 長 大 枝 葉, 結 根 失 所 纏 風 霜。 杜 甫 Đình tiền cam cúc di thì vãn, Thanh nhụy trùng dương bất kham trích. Minh nhật tiêu điều tuý tận tinh, Tàn hoa lạn mạn khai hà ích. Ly biên dã ngoại đa chúng phương, Thái hiệt tế tỏa thăng trung đường. Niệm tư không trượng đại chi diệp, Kết căn thất sở triền phong sương. Đỗ-Phủ Dịch: Than hoa cam cúc trước sân Trước sân, cam cúc muộn màng, Trùng-Dương, chẳng bẻ, còn đang xanh mầu Hôm sau tỉnh rượu, buồn rầu, Hoa đang nở rộ, có đâu ích gì! Ngoài đồng, bên dậu thiếu chi, Hái về, gian giữa, một ly đem bày. Xum xuê cành lá, uổng thay, Rễ đâm đất xấu, đêm ngày gió sương... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:36:31 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
Kiểu: