Anh Nguyên
-
Số bài
:
1747
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 21.10.2008
|
RE: PHÓ PHỤNG TIÊN HUYỆN
-
03.11.2008 21:33:20
PHÓ PHỤNG TIÊN HUYỆN 赴 奉 先 縣 杜 陵 有 布 衣, 老 大 意 轉 拙。 許 身 一 何 愚? 竊 比 稷 與 契。 居 然 成 獲 落, 白 手 甘 契 闊。 蓋 棺 事 則 已, 此 誌 常 覬 豁。 窮 年 憂 黎 元, 嘆 息 腸 內 熱。 取 笑 同 學 翁, 浩 歌 彌 激 烈。 非 無 江 海 誌, 蕭 灑 送 日 月。 生 逢 堯 舜 君, 不 忍 便 永 訣。 當 今 廊 廟 具, 構 廈 豈 雲 缺? 葵 藿 傾 太 陽, 物 性 固 莫 奪。 顧 惟 螻 蟻 輩, 但 自 求 其 穴。 胡 為 慕 大 鯨, 輒 擬 偃 溟 渤? 以 茲 誤 生 理, 獨 恥 事 干 謁。 兀 兀 遂 至 今, 忍 為 塵 埃 沒。 終 愧 巢 與 由, 未 能 易 其 節。 沉 飲 聊 自 遣, 放 歌 破 愁 絕。 歲 暮 百 草 零, 疾 風 高 岡 裂。 天 衢 陰 崢 嶸, 客 子 中 夜 發。 霜 嚴 衣 帶 斷, 指 直 不 得 結。 凌 晨 過 驪 山, 御 榻 在 嵽 嵲。 蚩 尤 塞 寒 空, 蹴 蹋 崖 谷 滑。 瑤 池 氣 鬱 律, 羽 林 相 摩 戛。 君 臣 留 歡 娛, 樂 動 殷 膠 葛。 賜 浴 皆 長 纓, 與 宴 非 短 褐。 彤 庭 所 分 帛, 本 自 寒 女 出。 鞭 撻 其 夫 家, 聚 斂 貢 城 闕。 聖 人 筐 篚 恩, 實 欲 邦 國 活。 臣 如 忽 至 理。 君 豈 棄 此 物? 多 士 盈 朝 廷, 仁 者 宜 戰 栗。 況 聞 內 金 盤, 盡 在 衛 霍 室。 中 堂 有 神 仙, 煙 霧 蒙 玉 質。 暖 客 貂 鼠 裘, 悲 管 逐 清 瑟。 勸 客 駝 蹄 羹, 霜 橙 壓 香 橘。 朱 門 酒 肉 臭, 路 有 凍 死 骨。 榮 枯 咫 尺 異, 惆 悵 難 再 述。 北 轅 就 涇 渭, 官 渡 又 改 轍。 群 水 從 西 下, 極 目 高 崒 兀。 疑 是 崆 峒 來, 恐 觸 天 柱 折。 河 梁 幸 未 坼, 枝 撐 聲 窸 窣。 行 旅 相 攀 援, 川 廣 不 可 越。 老 妻 寄 異 縣, 十 口 隔 風 雪。 誰 能 久 不 顧? 庶 往 共 饑 渴。 入 門 聞 號 啕, 幼 子 餓 已 卒。 吾 寧 舍 一 哀? 裡 巷 亦 嗚 咽。 所 愧 為 人 父, 無 食 致 夭 折。 豈 知 秋 禾 登, 貧 窶 有 蒼 卒。 生 常 免 租 稅, 名 不 隸 徵 伐。 撫 跡 猶 酸 辛, 平 人 固 騷 屑。 默 思 失 業 徒, 因 念 遠 戍 卒。 憂 端 齊 終 南, 澒 洞 不 可 掇。 杜 甫 Đỗ lăng hữu bố y, Lão đại ý chuyển chuyết. Hứa thân nhất hà ngu, Thiết tỷ tắc dữ tiết. Cư nhiên thành huếch lạc, Bạch thủ cam khế khoát. Cái quan sự tắc dĩ, Thử chí thường khải hoát. Cùng niên ưu lê nguyên, Thán tức trường nội nhiệt. Thủ tiếu đồng học ông, Hạo ca di khích liệt. Phi vô giang hải chí, Tiêu sái tống nhật nguyệt. Sinh phùng nghiêu thuấn quân, Bất nhẫn tiện vĩnh quyết. Đương kim lăng miếu cụ, Cấu hạ khởi vân khuyết. Qùy hoắc khuynh thái dương, Vật tính cố nan đoạt. Cố duy lậu nghĩ bối, Đản tự cầu kỳ huyệt. Hồ vi mộ đại kình, Triếp nghĩ yển minh bột. Dĩ tư ngộ sinh lš, Độc sỉ sự can yết. Ngột ngột toại chí kim, Nhẫn vi trần ai một. Chung qúy sào dữ do, Vị năng dịch kỳ tiết. Trầm ẩm liêu tự thích, Phóng ca phá sầu tuyệt. Tuế mộ bách thảo linh, Tật phong cao cương liệt. Thiên cù âm tranh vanh, Khách tử trung dạ phát. Sương nghiêm y đái đoạn, Chỉ trục bất năng kết. Lăng thần quá ly sơn, Ngự tháp tại đái niết. Xi vưu tắc hàn không, Xúc đạp nhai cốc hoạt. Dao trì khí uất luật, Vũ lâm tương ma kiết. Quân thần lưu hoan ngu, Nhạc động ẩn giao cát. Tứ dục giai trường anh, Dự yến phi đoản hạt. Đồng đình sở phân bạch, Bản tự hàn nữ xuất. Tiên thát kỳ phu gia, Tụ liễm cống thành khuyết. Thánh nhân khuông phỉ ân, Thục dục bang quốc hoạt. Thần như hốt chí lš, Quân khởi khí thử vật. Đa sĩ doanh triều đình, Nhân giả nghi chiến lật. Huống văn nội kim bàn, Tận tại vệ hoắc thất. Trung đường hữu thần tiên, Yên vụ mông ngọc chất. Noãn khách điêu thử cầu, Bi quản trục thanh sắt. Khuyến khách đà đề canh, Sương chanh áp hương quất. Châu môn tửu nhục xú, Lộ hữu đống tử cốt. Vinh khô chỉ xích dị, Trù trướng nan tái thuật. Bắc viên tựu kinh vị, Quan độ hựu cải triệt. Quần thủy tòng tây há, Cực mục cao thốt ngột. Nghi thị không đồng lai, Khủng xúc thiên trụ chiết. Hà lương hạnh vị sách, Chi xanh thanh tất xuất. Hành lữ tương phan viên, Xuyên quảng bất khả việt. Lão thê ký dị huyện, Thập khẩu cách phong tuyết. Thùy năng cửu bất cố, Thứ vãng cộng cơ khát. Nhập môn văn hào đào, Ấu tử cơ dĩ tốt. Ngô ninh xả nhất ai, Lš hạng diệc ô yết. Sở qúy vi nhân phụ, Vô thực trí yểu chiết. Khỉ tri thu hoà đăng, Bàn lũ hữu thảng thốt. Sinh thường miễn tô thuế, Danh bất lệ chinh phạt. Phủ tích do toan tân, Bình nhân cố tao tiết. Mặc tu thất nghiệp đồ, Nhân niệm viễn thú tốt. Ưu đoan tề chung nam, Hoắng độn bất khả xuyết. Đỗ-Phủ Dịch: Đi huyện Phụng-Tiên Có người áo vải Đỗ-Lăng, Già rồi, nghĩ quẩn, nói năng nực cười. Hiến thân, uổng cả một đời, Dám đem sánh Tiết, Tắc thời được sao! Hư danh, chẳng thực chút nào... Bạc đầu, vất vả lao đao vì đời. Nắp quan đậy lại mới thôi, Chí kia đã quyết mong rồi cũng xong. Vì dân lo lắng trong lòng, Nóng ran trong ruột, than cùng ai đây! Bạn bè cười, chẳng đổi thay, Càng ca vang mãi, hăng say giúp đời. Sông hồ, vốn biết rong chơi, Ung dung nhàn hạ tiễn thời gian trôi. Gặp thời Nghiêu, Thuấn trong đời, Nỡ nào lại quyết bỏ người mà đi. Triều đình người giỏi thiếu gì, Dựng xây nền móng thiếu chi người tài. Hoắc, Qùy theo ánh mặt trời, Tính muôn vật sẵn, khó rời đổi thay. Ngẫm xem lũ kiến thì hay, Chỉ mong yên ổn suốt ngày hang sâu. Cá voi, nào có biết đâu, Làm sao mơ tưởng biển sâu làm nhà! Do đây, lẽ sống hiểu ra, Việc làm, xấu hổ khi ta cúi lòn. Khó khăn cực khổ vẫn còn, Há làm cát bụi để mòn trí trai. Sào, Do, thẹn với hai ngài, Chưa thay khí tiết như hai vị này. Tạm theo hoàn cảnh, tỉnh, say, Mối sầu tạm dứt, tối ngày hát ca. Cuối năm tàn lụi cỏ hoa, Núi cao, gió mạnh nứt ra bao giờ. Phố trời đen tối mịt mờ, Trong đêm vội chẳng chịu chờ, ra đi. Áo bung, sương đặc, thấy gì, Cóng tay, cài lại, cực kỳ khó khăn. Sớm mai, qua núi Ly-San, Đỉnh non, đã dựng ngự đàn vút cao. Sương mù, khí lạnh vây bao, Hang sâu, sườn dốc, bước vào trượt trơn. Dao-Trì nghi ngút khói tuôn, Ngự-Lâm phòng vệ luôn luôn chẳng rời. Vua quan ở lại vui chơi, Nhạc như tiếng sấm, vang nơi núi đồi. Tắm dành dải mũ dài thôi, Áo sồi cắt ngắn, tiệc ngồi vào đâu. Sân rồng, lụa phát cho nhau, Gái nghèo rét mướt cúi đầu dệt ra. Cưỡng, chồng bị đánh tét da, Dệt mau, góp lại để mà cống vua. Vua ban từng giỏ...ơn chưa! Muốn người ra sức để đưa nước giầu. Bề tôi biết được ý sâu, Nhà vua có vứt bỏ đâu mà buồn... Triều đình sĩ tử sẵn luôn, Người nào có dạ, sớm hôm nghĩ nhiều. Mâm vàng cung điện mất tiêu, Mà nhà Vệ, Hoắc, có nhiều là sao! Thần tiên múa hát ồn ào, Sương mù khói tỏa, ngọc nào sinh ra. Áo chồn sưởi ấm khách xa, Sáo buồn réo rắt, tỳ bà chậm nhanh. Lạc đà móng đãi khách canh, Nước chanh tươi mát, qušt giành mùi thơm. Cửa ra, rượu thịt bỏ tuôn, Ngoài đường, chết rét bộ xương kẻ nào. Tươi, khô, gang tấc khác nhau, Trong lòng buồn bã, thuật đâu còn lời. Bắc, xe Kinh Vị đến nơi, Qua đò nhà nước, lại rời hướng đi. Hướng tây nhiều nước đổ về, Hết tầm mắt, cũng một bề núi cao. Không-Đồng, nghi nước đổ vào, Cột trời, ai húc đổ nhào nơi đâu. Trên sông, may vẫn còn cầu, Ván, đà, kẽo kẹt, chắc lâu đời rồi. Bộ hành bám víu đi thôi, Nếu không, sông rộng ai người vượt qua. Huyện kia, đã gửi vợ già, Gió sương mười miệng, cách xa năm trường. Ai không ngó lại sót thương, Mong rằng đói khát trên đường có nhau. Cửa vào, nghe khóc gào đau, Thằng con đói khát từ lâu, chết rồi. Buồn này biết mấy cho nguôi, Làng quê, ngõ hẻm nơi nơi nghẹn ngào. Làm cha đáng hổ thẹn sao! Đói ăn con chết, biết bao hận lòng... Vụ Thu, lúa đã trổ đòng, Mà sao đói kém đến trong vội vàng. Thuế tô ta miễn của làng, Không tên danh sách trong hàng chiến chinh. Thế mà cay đắng điêu linh, Dân thường, chắc chẳng yên lành được sao! Và dân thất nghiệp thế nào, Biên phòng, lính chiến ra sao, ai màng! Mối lo ngang núi Chung-Nam, Mênh mang, gom lại thấy càng khó khăn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:04:57 bởi Anh Nguyên >
|