Đường Thi Trích Dịch II - Anh Nguyên
TỐNG NHÂN PHÓ THÀNH ĐÔ PHỦ 送 人 赴 成 都 府 登 高 送 所 人 久 坐 惜 方 辰 遠 水 非 無 浪 他 山 自 有 春 野 花 隨 處 發 幺 柳 灼 頏 繽 遷 際 傷 愁 別 離 筵 何 汰 賓 杜 甫 Bằng cao tống sở thân, Cửu tọa tích phương thần. Viễn thủy phi vô lãng, Tha sơn tự hữu xuân. Dã hoa tùy xứ phát, Yêu liễu trước hàng tân. Thiên tế thương sầu biệt, Ly diên hà thái tần. Đỗ-Phủ Dịch: Tiễn người về phủ Thành-Đô Lên cao để tiễn người thân, Ngồi lâu tiếc khắc, giờ, dần qua mau. Sông xa nào thiếu sóng đâu, Chốn kia núi cũng đượm mầu sắc Xuân. Hoa đồng đua nở xa gần, Liễu mềm rủ xuống xanh rần như tơ. Nỗi buồn ly biệt không bờ, Chia tay, tiệc đãi bao giờ mới thôi!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:37:33 bởi Anh Nguyên >
QUY NHẠN 歸 雁
聞 道 今 春 雁
南 歸 自 廣 州
見 花 辭 漲 海
避 雪 到 羅 浮
是 物 關 兵 氣
何 時 免 客 愁
年 年 霜 露 隔
不 過 五 湖 秋
杜 甫
Đông lai vạn lý khách, Loạn định kỷ niên quy. Trường đoạn giang thành nhạn, Cao cao chính bắc phi. Đỗ-Phủ Dịch: Nhạn về Khách xa từ đông tới, Chừng nào yên về lại. Buồn thấy nhạn giang thành, Hướng bắc cao vời vợi. Phạm-Doanh Khách muôn dặm đến từ Đông, Năm nào hết loạn mới trông trở về. Thành sông, thấy nhạn, buồn ghê, Trên cao vời vợi, hướng về Bắc bay... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:38:51 bởi Anh Nguyên >
ĐẦU GIẢN HÀM HOA LƯỠNG HUYỆN CHƯ TỬ 投 簡 鹹 華 兩 縣 諸 子
赤 縣 官 曹 擁 才 傑, 軟 裘 快 馬 當 冰 雪。
長 安 苦 寒 誰 獨 悲? 杜 陵 野 老 骨 欲 折。
南 山 豆 苗 早 荒 穢, 青 門 瓜 地 新 凍 裂。
鄉 里 兒 童 項 領 成, 朝 廷 故 舊 禮 數 絕。
自 然 棄 擲 與 時 異, 況 乃 疏 頑 臨 事 拙。
饑 臥 動 即 向 一 旬。 敝 衣 何 啻 聯 百 結。
君 不 見 空 牆 日 色 晚, 此 老 無 聲 淚 垂 血! 杜 甫 Xích huyện quan tào ủng tài kiệt, Nhuyễn cừu khoái mã đương băng tuyết. Trường an khổ hàn thùy độc bi, Đỗ lăng dã lão cốt dục chiết. Nam sơn đậu miêu tảo hoang uế, Thanh môn qua địa tân tống liệt. Hương lý nhi đồng hạng lĩnh thành, Triều đình cố cựu lễ số tuyệt. Tự nhiên khí trịch dữ thì dị, Huống nãi sơ ngoan giám tự chuyết. Quân bất kiến không tường nhật sắc vãn, Thử lão vô thanh lệ thùy huyết. Đỗ-Phủ Dịch: Gửi lời các ông ở hai huyện Hàm, Hoa Kinh đô, quan chức đều tài, Áo lông, ngựa béo, đi ngoài tuyết băng. Trường-An, lạnh, khổ, ai bằng, Xương như muốn nứt, Đỗ-Lăng lão già. Nam-Sơn, đậu sớm úa ra, Thanh-Môn, dưa lạnh chắc là thành băng. Ở làng, ăn hại phải chăng, Trong triều bạn cũ họa hoằn gặp nhau. Khác thời, dứt bỏ, lạ đâu, Huống chi đối xử với nhau vụng về. Trên tường, nắng xuống nhanh ghê, Nín câm, nước mắt tràn trề, máu pha... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:50:49 bởi Anh Nguyên >
LỆ NHÂN HÀNH
麗 人 行
三 月 三 日 天 氣 新,
長 安 水 邊 多 麗 人。
態 濃 意 遠 淑 且 真,
肌 理 細 膩 骨 肉 勻。
繡 羅 衣 裳 照 暮 春,
蹙 金 孔 雀 銀 麒 麟。
頭 上 何 所 有?
翠 微 盍 葉 垂 鬢 唇。
背 後 何 所 見?
珠 壓 腰 衱 穩 稱 身。
就 中 雲 幕 椒 房 親,
賜 名 大 國 虢 與 秦。
紫 駝 之 峰 出 翠 釜,
水 精 之 盤 行 素 鱗。
犀 箸 饜 飫 久 未 下,
鸞 刀 縷 切 空 紛 綸。
黃 門 飛 鞚 不 動 塵,
御 廚 絡 繹 送 八 珍。
簫 鼓 哀 吟 感 鬼 神,
賓 從 雜 遝 實 要 津。
後 來 鞍 馬 何 逡 巡?
當 軒 下 馬 入 錦 茵。
楊 花 雪 落 覆 白 蘋,
青 鳥 飛 去 銜 紅 巾。
炙 手 可 熱 勢 絕 倫,
慎 莫 近 前 丞 相 嗔。
杜 甫
Tam nguyệt tam nhật thiên khí tân, Trường an thủy biên đa lệ nhân. Thái nùng ý viễn thục thả chân, Cơ lý tế nhị cốt nhục quân. Tú la y thường chiếu mộ xuân, Xúc kim khổng tước ngân kỳ lân. Đầu thượng hà sở hữu, Túy vi hạp diệp thùy mấn thần. Bối hậu hà sở kiến, Châu áp yêu kiếp ổn xứng thân. Tựu trung vân mạc tiêu phòng thân, Tứ danh đại quốc quắc dữ tần. Tử đà chi phong xuất thúy phủ, Thủy tinh chi bàn hành tố lân. Tê chử yêm ứ cửu vi hạ, Loan đao lũ thiết không phân luân. Hoàng môn phi đống bất động trần, Ngự trù lạc dịch tống bát trân. Tiêu cổ ai ngâm cảm quỷ thần, Tân tòng tạp đạp thực yếu tân. Hậu lai yên mã hà thuân tuần, Đương hiên hạ mã nhập cẩm nhân. Dương hoa tuyết lạc phú bạch tần, Thanh điểu phi khứ hàm hồng cân. Chích thủ khả nhiệt thế tuyệt luân, Thận mạc cận tiền thừa tướng sân. Đỗ-Phủ Dịch: Người đẹp Khí trời mát mẻ tháng ba, Trường-An, bờ nước toàn là giai nhân. Chân thành, sâu sắc, ân cần, Làn da tươi mịn và thân thon đều. Áo xiêm phản ánh nắng chiều, Lân thêu chỉ bạc, công thêu chỉ vàng. Đầu dùng gì để điểm trang? Tóc cài lông thúy rủ ngang môi hồng. Sau lưng có thấy gì không? Ngọc cài đai áo vô cùng xứng thân. Trướng mây, thân thuộc đến dần, Được ban danh hiệu Quắc, Tần, phu nhân. Lạc đà, nồi thúy đem dâng, Mâm bầy vẩy cá trắng ngần đem ra. Đũa sừng tê chẳng gắp qua, Dao loan cắt thái cũng là uổng công. Ngựa phi, Thái-Giám, bụi không, Bếp vua tám món, mâm đồng bưng ra. Trống, tiêu, động cả thần ma, Ồn ào mới đến đều là yếu nhân. Dùng dằng, một vị đến dần, Thảm nhung, xuống ngựa, bước chân tiến vào. Hoa dương trắng rụng ào ào, Chim xanh, khăn đỏ ngậm vào bay đi. Bàn tay quyền thế ai bì, Đừng gần Thừa-Tướng, lỡ khi nổi sùng... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:52:08 bởi Anh Nguyên >
TẶNG HOA KHANH 贈 花 卿
錦 城 絲 竹 日 紛 紛
半 入 江 風 半 入 雲
此 曲 衹 應 天 上 有
人 間 能 得 幾 回 聞
杜 甫 Cẩm thành ty quản nhật phân phân, Bán nhập giang phong bán nhập vân. Thử khúc chi ưng thiên thượng hữu, Nhân gian năng đắc kỷ hồi văn. Đỗ-Phủ Dịch: Tặng Hoa-Khanh Cẩm-Thành, đàn sáo vang vang, Tan vào mây bạc, hòa làn gió sông. Trên trời dạo khúc này không, Mấy khi nghe được ở trong cõi người!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:53:21 bởi Anh Nguyên >
CHU TRUNG DẠ TUYẾT 舟 中 夜 雪 朔 風 吹 桂 水 大 雪 夜 紛 紛 暗 度 南 樓 月 寒 深 北 渚 雲 燭 斜 初 近 見 舟 重 竟 無 聞 不 識 山 陰 道 聽 雞 更 憶 君 杜 甫 Sóc phong xuy quế thủy, Đại tuyết dạ phân phân. Ám độ nam lâu nguyệt, Hàn thâm bắc chử vân. Chúc tà sơ cận kiến, Chu trọng cánh vô văn. Bất thức sơn âm đạo, Thính kê cánh ức quân. Đỗ-Phủ Dịch: Trong thuyền đêm tuyết Trên sông Quế gió thổi dài, Suốt đêm tuyết lớn đổ hoài không thôi. Lầu nam, trăng đã qua rồi, Mây nơi cõi bắc cóng người không bay. Đuốc nghiêng, gặp buổi đầu đây, Con thuyền chở nặng nào hay biết gì. Biết đâu đường nhỏ núi kia, Khi nghe gà gáy, nghĩ về người anh... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:54:11 bởi Anh Nguyên >
HẬU XUẤT TÁI (Kỳ nhất) 後 出 塞 其 一 男 兒 生 世 間。 及 壯 當 封 侯。 戰 伐 有 功 業。 焉 能 守 舊 丘? 召 募 赴 薊 門, 軍 動 不 可 留。 千 金 買 馬 鞍, 百 金 裝 刀 頭。 閭 里 送 我 行, 親 戚 擁 道 周。 斑 白 居 上 列, 酒 酣 進 庶 羞。 少 年 彆 有 贈, 含 笑 看 吳 鉤。 杜 甫 Nam nhi sinh thế gian. Cập tráng đương phong hầu. Chiến phạt hữu công nghiệp. Yên năng thủ cựu khâu? Chiêu mộ phó Kế Môn, Quân động bất khả lưu. Thiên kim mãi mã yên, Bách kim trang đao đầu. Lư lý tống ngã hành, Thân thích ủng đạo chu. Ban bạch cư thượng liệt, Tửu hàm tiến thứ tu. Thiếu niên biệt hữu tặng, Hàm tiếu khán ngô câu. Đỗ-Phủ Dịch: Ra biên ải lần sau (Bài một) Làm trai sinh ở trên đời, Tuổi xuâtn vùng vẫy ở nơi phong hầu. Công lao chinh phạt đã lâu, Ở nhà giữ núi được đâu lúc này. Đầu quân, đi Kế Môn ngay, Quân đi, chẳng ở nơi này được lâu. Ngựa, yên, nghìn lượng, rẻ đâu, Cây đao cũng tốn đến hầu cả trăm. Tiễn ta đi chốn xa xăm, Bà con bên lộ lăng xăng tiễn chào. Tiệc, bô lão tóc trắng phau, Thức ăn ngon miệng, cùng nhau say mèm. Thiếu niên có tặng phẩm kèm, Mỉm cười nhìn dựa bên thềm Ngô Câu... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:54:48 bởi Anh Nguyên >
HẬU XUẤT TÁI (Kỳ nhị) 後 出 塞 其 二
朝 進 東 門 營, 暮 上 河 陽 橋。
落 日 照 大 旗, 馬 鳴 風 蕭 蕭。
平 沙 列 萬 幕, 部 伍 各 見 招。
中 天 懸 明 月, 令 嚴 夜 寂 寥。
悲 笳 數 聲 動, 壯 士 慘 不 驕。
借 問 大 將 誰, 恐 是 霍 嫖 姚。 杜 甫 Triêu tiến đông môn dinh, Mộ thướng hà dương kiều, Lạc nhật chiếu đại kỳ, Mã minh phong tiêu tiêu. Bình sa liệt vạn mạc, Bộ ngũ các kiến chiêu, Trung thiên huyền minh nguyệt, Lệnh nghiêm dạ tịch liêu. Bi già sổ thanh động, Tráng sĩ thảm bất kiêu, Tá vấn đại tướng thùy, Khủng thị hoắc phiếu diêu. Đỗ-Phủ Dịch: Ra biên ải lần sau (Bài hai) Sáng ngày, đến đóng cửa Đông, Buổi chiều lại đến cầu sông Dương-Hà, Đại kỳ rọi ánh nắng tà, Gió đưa tiếng ngựa từ xa hí đều. Bãi bằng san sát vạn lều, Lệnh truyền, đội ngũ thảy đều tuân theo, Giữa trời vằng vặc trăng treo, Lệnh nghiêm đêm vắng càng deo nỗi sầu, Tù và nghẹn tiếng đêm thâu, Khiến người tráng sĩ nuốt sầu bớt kiêu, Tướng nào chinh chiến hẳn nhiều, Chắc là Đại tướng Phiếu-Diêu đây rồi... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:55:42 bởi Anh Nguyên >
HẬU XUẤT TÁI (Kỳ tam) 後 出 塞 其 三 古 人 重 守 邊, 今 人 重 高 勳。 豈 知 英 雄 主, 出 師 亙 長 雲。 六 合 已 一 家, 四 夷 且 孤 軍。 遂 使 貔 虎 士, 奮 身 勇 所 聞。 拔 劍 擊 大 荒, 日 收 胡 馬 群。 誓 開 玄 冥 北, 持 以 奉 吾 君。 杜甫 Cổ nhân trọng thủ biên, Kim nhân trọng cao huân. Khởi tri anh hùng chủ, Xuất sư cắng trường vân. Lục hợp dĩ nhất gia, Tứ di thả cô quân. Toại sử tỳ hổ sĩ, Phấn thân dũng sở văn. Bạt kiếm kích đại hoang, Nhật thâu hồ mã quần. Thệ khai huyền minh bắc, Trì dĩ phụng ngô quân. Đỗ-Phủ Dịch: Ra biên ải lần sau (Bài ba) Người xưa trọng việc biên phòng, Người nay chọn việc lập công cho nhiều. Vua anh hùng biết bao nhiêu, Ra quân chưa dứt, mây chiều đã qua. Sáu phương hợp lại một nhà, Bốn dân thiểu số đương đà yếu suy. Bèn đem lính dữ ra đi, Hăng say, anh dũng, danh thì đã vang. Vung gươm khắp chốn đồng hoang, Mỗi ngày thâu ngựa Hồ tan từng bầy. Mở mang lên hướng bắc đây, Dâng vua để rõ công này của ta... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:56:34 bởi Anh Nguyên >
HẬU XUẤT TÁI (Kỳ tứ) 後 出 塞 其 四 獻 凱 日 繼 踵, 兩 蕃 靜 無 虞。 漁 陽 豪 俠 地, 擊 鼓 吹 笙 竽。 雲 帆 轉 遼 海, 粳 稻 來 東 吳。 越 羅 與 楚 練, 照 耀 輿 臺 軀。 主 將 位 益 崇, 气 驕 凌 上 都。 邊 人 不 敢 議, 議 者 死 路 衢。 杜 甫 Hiến khải nhật kế chủng, Lưỡng phiên tĩnh vô ngu. Ngư dương hào hiệp địa, Kích cổ xuy sinh vu. Vân phàm chuyển liêu hải, Cánh đạo lai đông ngô. Việt la dữ sở luyện, Chiếu diệu dư đài khu. Chủ tướng vị ích sùng, Khí kiêu lăng thượng đô. Biên nhân bất cảm nghị, Nghị giả tử lộ cù. Đỗ-Phủ Dịch: Ra biên ải lần sau (Bài bốn) Ngày ngày vui hiến tù binh, Hai Phiên đã dẹp, yên bình khỏi lo. Ngư-Dương hào hiệp nhiều trò, Trống vang, kèn sáo, líu lo suốt ngày. Buồm mây, Liêu-Hải đó đây, Đông-Ngô, lúa gạo chở đầy thuyền kia. Lụa the Việt, Sở, về chia, Tớ thầy quần áo sớm khuya mịn màng. Tướng thêm địa vị cao sang, Càng thêm ngạo mạn tiếng vang kinh kỳ. Ở biên chẳng dám bàn chi, Kẻ nào bàn tán tức thì chết ngay!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:57:37 bởi Anh Nguyên >
HẬU XUẤT TÁI (Kỳ ngũ) 後 出 塞 其 五 我 本 良 家 子, 出 師 亦 多 門。 將 驕 益 愁 思, 身 貴 不 足 論。 躍 馬 二 十 年, 恐 孤 明 主 恩。 坐 見 幽 州 騎, 長 驅 河 洛 昏。 中 夜 問 道 歸, 故 里 但 空 村。 惡 名 幸 脫 兔, 窮 老 無 兒 孫。 杜 甫 Ngã bản lương gia tử, Xuất sư diệc đa môn. Tướng kiêu ích sầu tứ, Thân quí bất túc lôn. Dược mã nhị thập niên, Khủng cô minh chủ ân. Tọa kiến u châu kỵ, Trường khu hà lạc hôn. Trung dạ gián đạo quy, Cố lý đãn không thôn. Ác danh hạnh thoát miễn, Cùng lão vô nhi tôn. Đỗ-Phủ Dịch: Ra biên ải lần sau (Bài năm) Ta nhà lương thiện xưa nay, Đầu quân, nhiều chốn thân này đã qua. Tướng kiêu, rầu rĩ thêm ra, Tấm thân là quš, bàn ta đau lòng. Trên yên hai chục năm ròng, Ơn vua, há phụ tấm lòng này đâu. Ngồi nhìn lính kỵ U-Châu, Đường xa Hà-Lạc đi đâu, tối rồi. Trong đêm, đường tắt về thôi, Làng thôn trống rỗng, trông thời buồn thay. Thoát mang tiếng xấu, thật may, Già, nghèo, về ở chốn này, không con... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 20:58:33 bởi Anh Nguyên >
NGUYỆT DẠ
月 夜
今 夜 鄜 州 月,
閨 中 只 獨 看。
遙 憐 小 兒 女,
未 解 憶 長 安。
香 霧 雲 鬟 濕,
清 輝 玉 臂 寒。
何 時 倚 虛 幌,
雙 照 淚 痕 乾。
杜 甫 Kim dạ phu châu nguyệt, Khuê trung chỉ độc khan. Dao liên tiểu nhi nữ, Vị giải ức trường an. Hương vụ vân hoàn thấp, Thanh huy ngọc tỷ hàn. Hà thì ỷ hư hoảng, Song chiếu lệ ngân can. Đỗ-Phủ Dịch: Đêm trăng Châu Phu này lúc trăng soi, Buồng the đêm vắng riêng coi một mình. Đoái thương thơ dại đầu xanh, Tràng-an chưa biết mang tình nhớ nhau. Sương sa thơm ướt mái đầu, Cánh tay ngọc trắng lạnh mầu sáng trong. Bao giờ tựa bức màn không, Gương soi chung bóng lệ dòng sương khô. Tản-Đà Đêm nay trăng sáng Phu-Châu, Trong phòng một bóng âu sầu ngắm thôi. Thương con gái nhỏ xa xôi, Trường-An chưa biết mẹ thời nhớ cha. Tóc mây thấm ướt sương sa, Ánh trăng trong vắt tay ngà lạnh tê. Bao giờ rèm cửa đứng kề, Chiếu đôi ta lệ tràn trề đã khô!... Đêm nay trăng chiếu Phu-Châu, Trong phòng đứng ngắm trăng thâu một mình. Gái xa bé bỏng, thương tình, Trường-An, chửa biết nhớ mình ở đây. Sương thơm thấm ướt tóc mây, Ánh trăng trong vắt, lạnh tay ngọc ngà. Bao giờ đứng tựa rèm nhà, Chiếu hai ta lệ chan hòa đã khô?!... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:02:23 bởi Anh Nguyên >
PHÓ PHỤNG TIÊN HUYỆN 赴 奉 先 縣 杜 陵 有 布 衣, 老 大 意 轉 拙。 許 身 一 何 愚? 竊 比 稷 與 契。 居 然 成 獲 落, 白 手 甘 契 闊。 蓋 棺 事 則 已, 此 誌 常 覬 豁。 窮 年 憂 黎 元, 嘆 息 腸 內 熱。 取 笑 同 學 翁, 浩 歌 彌 激 烈。 非 無 江 海 誌, 蕭 灑 送 日 月。 生 逢 堯 舜 君, 不 忍 便 永 訣。 當 今 廊 廟 具, 構 廈 豈 雲 缺? 葵 藿 傾 太 陽, 物 性 固 莫 奪。 顧 惟 螻 蟻 輩, 但 自 求 其 穴。 胡 為 慕 大 鯨, 輒 擬 偃 溟 渤? 以 茲 誤 生 理, 獨 恥 事 干 謁。 兀 兀 遂 至 今, 忍 為 塵 埃 沒。 終 愧 巢 與 由, 未 能 易 其 節。 沉 飲 聊 自 遣, 放 歌 破 愁 絕。 歲 暮 百 草 零, 疾 風 高 岡 裂。 天 衢 陰 崢 嶸, 客 子 中 夜 發。 霜 嚴 衣 帶 斷, 指 直 不 得 結。 凌 晨 過 驪 山, 御 榻 在 嵽 嵲。 蚩 尤 塞 寒 空, 蹴 蹋 崖 谷 滑。 瑤 池 氣 鬱 律, 羽 林 相 摩 戛。 君 臣 留 歡 娛, 樂 動 殷 膠 葛。 賜 浴 皆 長 纓, 與 宴 非 短 褐。 彤 庭 所 分 帛, 本 自 寒 女 出。 鞭 撻 其 夫 家, 聚 斂 貢 城 闕。 聖 人 筐 篚 恩, 實 欲 邦 國 活。 臣 如 忽 至 理。 君 豈 棄 此 物? 多 士 盈 朝 廷, 仁 者 宜 戰 栗。 況 聞 內 金 盤, 盡 在 衛 霍 室。 中 堂 有 神 仙, 煙 霧 蒙 玉 質。 暖 客 貂 鼠 裘, 悲 管 逐 清 瑟。 勸 客 駝 蹄 羹, 霜 橙 壓 香 橘。 朱 門 酒 肉 臭, 路 有 凍 死 骨。 榮 枯 咫 尺 異, 惆 悵 難 再 述。 北 轅 就 涇 渭, 官 渡 又 改 轍。 群 水 從 西 下, 極 目 高 崒 兀。 疑 是 崆 峒 來, 恐 觸 天 柱 折。 河 梁 幸 未 坼, 枝 撐 聲 窸 窣。 行 旅 相 攀 援, 川 廣 不 可 越。 老 妻 寄 異 縣, 十 口 隔 風 雪。 誰 能 久 不 顧? 庶 往 共 饑 渴。 入 門 聞 號 啕, 幼 子 餓 已 卒。 吾 寧 舍 一 哀? 裡 巷 亦 嗚 咽。 所 愧 為 人 父, 無 食 致 夭 折。 豈 知 秋 禾 登, 貧 窶 有 蒼 卒。 生 常 免 租 稅, 名 不 隸 徵 伐。 撫 跡 猶 酸 辛, 平 人 固 騷 屑。 默 思 失 業 徒, 因 念 遠 戍 卒。 憂 端 齊 終 南, 澒 洞 不 可 掇。 杜 甫 Đỗ lăng hữu bố y, Lão đại ý chuyển chuyết. Hứa thân nhất hà ngu, Thiết tỷ tắc dữ tiết. Cư nhiên thành huếch lạc, Bạch thủ cam khế khoát. Cái quan sự tắc dĩ, Thử chí thường khải hoát. Cùng niên ưu lê nguyên, Thán tức trường nội nhiệt. Thủ tiếu đồng học ông, Hạo ca di khích liệt. Phi vô giang hải chí, Tiêu sái tống nhật nguyệt. Sinh phùng nghiêu thuấn quân, Bất nhẫn tiện vĩnh quyết. Đương kim lăng miếu cụ, Cấu hạ khởi vân khuyết. Qùy hoắc khuynh thái dương, Vật tính cố nan đoạt. Cố duy lậu nghĩ bối, Đản tự cầu kỳ huyệt. Hồ vi mộ đại kình, Triếp nghĩ yển minh bột. Dĩ tư ngộ sinh lš, Độc sỉ sự can yết. Ngột ngột toại chí kim, Nhẫn vi trần ai một. Chung qúy sào dữ do, Vị năng dịch kỳ tiết. Trầm ẩm liêu tự thích, Phóng ca phá sầu tuyệt. Tuế mộ bách thảo linh, Tật phong cao cương liệt. Thiên cù âm tranh vanh, Khách tử trung dạ phát. Sương nghiêm y đái đoạn, Chỉ trục bất năng kết. Lăng thần quá ly sơn, Ngự tháp tại đái niết. Xi vưu tắc hàn không, Xúc đạp nhai cốc hoạt. Dao trì khí uất luật, Vũ lâm tương ma kiết. Quân thần lưu hoan ngu, Nhạc động ẩn giao cát. Tứ dục giai trường anh, Dự yến phi đoản hạt. Đồng đình sở phân bạch, Bản tự hàn nữ xuất. Tiên thát kỳ phu gia, Tụ liễm cống thành khuyết. Thánh nhân khuông phỉ ân, Thục dục bang quốc hoạt. Thần như hốt chí lš, Quân khởi khí thử vật. Đa sĩ doanh triều đình, Nhân giả nghi chiến lật. Huống văn nội kim bàn, Tận tại vệ hoắc thất. Trung đường hữu thần tiên, Yên vụ mông ngọc chất. Noãn khách điêu thử cầu, Bi quản trục thanh sắt. Khuyến khách đà đề canh, Sương chanh áp hương quất. Châu môn tửu nhục xú, Lộ hữu đống tử cốt. Vinh khô chỉ xích dị, Trù trướng nan tái thuật. Bắc viên tựu kinh vị, Quan độ hựu cải triệt. Quần thủy tòng tây há, Cực mục cao thốt ngột. Nghi thị không đồng lai, Khủng xúc thiên trụ chiết. Hà lương hạnh vị sách, Chi xanh thanh tất xuất. Hành lữ tương phan viên, Xuyên quảng bất khả việt. Lão thê ký dị huyện, Thập khẩu cách phong tuyết. Thùy năng cửu bất cố, Thứ vãng cộng cơ khát. Nhập môn văn hào đào, Ấu tử cơ dĩ tốt. Ngô ninh xả nhất ai, Lš hạng diệc ô yết. Sở qúy vi nhân phụ, Vô thực trí yểu chiết. Khỉ tri thu hoà đăng, Bàn lũ hữu thảng thốt. Sinh thường miễn tô thuế, Danh bất lệ chinh phạt. Phủ tích do toan tân, Bình nhân cố tao tiết. Mặc tu thất nghiệp đồ, Nhân niệm viễn thú tốt. Ưu đoan tề chung nam, Hoắng độn bất khả xuyết. Đỗ-Phủ Dịch: Đi huyện Phụng-Tiên Có người áo vải Đỗ-Lăng, Già rồi, nghĩ quẩn, nói năng nực cười. Hiến thân, uổng cả một đời, Dám đem sánh Tiết, Tắc thời được sao! Hư danh, chẳng thực chút nào... Bạc đầu, vất vả lao đao vì đời. Nắp quan đậy lại mới thôi, Chí kia đã quyết mong rồi cũng xong. Vì dân lo lắng trong lòng, Nóng ran trong ruột, than cùng ai đây! Bạn bè cười, chẳng đổi thay, Càng ca vang mãi, hăng say giúp đời. Sông hồ, vốn biết rong chơi, Ung dung nhàn hạ tiễn thời gian trôi. Gặp thời Nghiêu, Thuấn trong đời, Nỡ nào lại quyết bỏ người mà đi. Triều đình người giỏi thiếu gì, Dựng xây nền móng thiếu chi người tài. Hoắc, Qùy theo ánh mặt trời, Tính muôn vật sẵn, khó rời đổi thay. Ngẫm xem lũ kiến thì hay, Chỉ mong yên ổn suốt ngày hang sâu. Cá voi, nào có biết đâu, Làm sao mơ tưởng biển sâu làm nhà! Do đây, lẽ sống hiểu ra, Việc làm, xấu hổ khi ta cúi lòn. Khó khăn cực khổ vẫn còn, Há làm cát bụi để mòn trí trai. Sào, Do, thẹn với hai ngài, Chưa thay khí tiết như hai vị này. Tạm theo hoàn cảnh, tỉnh, say, Mối sầu tạm dứt, tối ngày hát ca. Cuối năm tàn lụi cỏ hoa, Núi cao, gió mạnh nứt ra bao giờ. Phố trời đen tối mịt mờ, Trong đêm vội chẳng chịu chờ, ra đi. Áo bung, sương đặc, thấy gì, Cóng tay, cài lại, cực kỳ khó khăn. Sớm mai, qua núi Ly-San, Đỉnh non, đã dựng ngự đàn vút cao. Sương mù, khí lạnh vây bao, Hang sâu, sườn dốc, bước vào trượt trơn. Dao-Trì nghi ngút khói tuôn, Ngự-Lâm phòng vệ luôn luôn chẳng rời. Vua quan ở lại vui chơi, Nhạc như tiếng sấm, vang nơi núi đồi. Tắm dành dải mũ dài thôi, Áo sồi cắt ngắn, tiệc ngồi vào đâu. Sân rồng, lụa phát cho nhau, Gái nghèo rét mướt cúi đầu dệt ra. Cưỡng, chồng bị đánh tét da, Dệt mau, góp lại để mà cống vua. Vua ban từng giỏ...ơn chưa! Muốn người ra sức để đưa nước giầu. Bề tôi biết được ý sâu, Nhà vua có vứt bỏ đâu mà buồn... Triều đình sĩ tử sẵn luôn, Người nào có dạ, sớm hôm nghĩ nhiều. Mâm vàng cung điện mất tiêu, Mà nhà Vệ, Hoắc, có nhiều là sao! Thần tiên múa hát ồn ào, Sương mù khói tỏa, ngọc nào sinh ra. Áo chồn sưởi ấm khách xa, Sáo buồn réo rắt, tỳ bà chậm nhanh. Lạc đà móng đãi khách canh, Nước chanh tươi mát, qušt giành mùi thơm. Cửa ra, rượu thịt bỏ tuôn, Ngoài đường, chết rét bộ xương kẻ nào. Tươi, khô, gang tấc khác nhau, Trong lòng buồn bã, thuật đâu còn lời. Bắc, xe Kinh Vị đến nơi, Qua đò nhà nước, lại rời hướng đi. Hướng tây nhiều nước đổ về, Hết tầm mắt, cũng một bề núi cao. Không-Đồng, nghi nước đổ vào, Cột trời, ai húc đổ nhào nơi đâu. Trên sông, may vẫn còn cầu, Ván, đà, kẽo kẹt, chắc lâu đời rồi. Bộ hành bám víu đi thôi, Nếu không, sông rộng ai người vượt qua. Huyện kia, đã gửi vợ già, Gió sương mười miệng, cách xa năm trường. Ai không ngó lại sót thương, Mong rằng đói khát trên đường có nhau. Cửa vào, nghe khóc gào đau, Thằng con đói khát từ lâu, chết rồi. Buồn này biết mấy cho nguôi, Làng quê, ngõ hẻm nơi nơi nghẹn ngào. Làm cha đáng hổ thẹn sao! Đói ăn con chết, biết bao hận lòng... Vụ Thu, lúa đã trổ đòng, Mà sao đói kém đến trong vội vàng. Thuế tô ta miễn của làng, Không tên danh sách trong hàng chiến chinh. Thế mà cay đắng điêu linh, Dân thường, chắc chẳng yên lành được sao! Và dân thất nghiệp thế nào, Biên phòng, lính chiến ra sao, ai màng! Mối lo ngang núi Chung-Nam, Mênh mang, gom lại thấy càng khó khăn... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:04:57 bởi Anh Nguyên >
ĐỐI TUYẾT 對 雪
戰 哭 多 新 鬼
愁 吟 獨 老 翁
亂 雲 低 薄 暮
急 雪 舞 迴 風
瓢 棄 樽 無 綠
爐 存 火 似 紅
數 汌 消 息 斷
愁 坐 正 書 空
杜 甫 Chiến khốc đa tân quỷ, Sầu ngâm độc lão ông. Loạn vân đê bạc mộ, Cấp tuyết vũ hồi phong. Biều khí tôn vô lục, Lô tồn hoả tự hồng. Sổ châu tiêu tức đọan, Sầu tọa chính thư không. Đỗ-Phủ Dịch: Trước tuyết Chiến trường, quỷ mới khóc than, Ngồi buồn, ông lão ngâm tràn cung mây. Chiều tàn, mây tản mát bay, Gió về, tuyết đã rơi đầy khắp nơi. Bầu quăng, chén để không thôi, Lò kia, lửa vẫn còn hơi đỏ hồng. Mấy châu, tin tức đều không, Ngồi buồn, viết chữ bâng khuâng lên trời... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:07:00 bởi Anh Nguyên >
TỐNG VIỄN
送 遠
帶 甲 滿 天 地,
胡 為 君 遠 行?
親 朋 盡 一 哭,
鞍 馬 去 孤 城。
草 木 歲 月 晚,
關 河 霜 雪 清。
別 離 已 昨 日,
因 見 古 人 情。
杜甫
Đới giáp mãn thiên địa, Hồ vi quân viễn hành. Thân bằng tận nhất khốc, Yên mã khứ cô thành. Thảo mộc tuế nguyệt vãn, Quan hà sương tuyết thanh. Biệt ly dĩ tạc nhật, Nhân kiến cổ nhân tình. Đỗ-Phủ Dịch: Tiễn đưa người đi xa Giáp đai đầy khắp đất trời, Vì sao anh vội xa rời quê hương. Bạn bè khóc lóc sầu thương, Thành cô, yên ngựa lên đường ra đi. Cỏ cây tàn lụi còn gì, Núi, sông, sương tuyết thấy chi, trắng ngần! Hôm qua ly biệt một lần, Mới hay tình cảm cố nhân thế nào... Anh-Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2022 21:08:46 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
Kiểu: